Chương 51 - 60

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 51

Thắp đèn lồng cũng không kiếm được người đàn ông tốt như ta đâu

Không lâu sau, nhà bếp đã làm xong mâm cơm thịnh soạn. Cá cháy chiên, măng om thịt hun khói, và canh dưa cải đều là những món Giang Nam quen thuộc với Đường Thận.

Đường Thận vốn không muốn ở lại ăn cơm, nhưng Vương Trăn đã lên tiếng thì cậu cũng không tiện từ chối.

Cầm đũa lên, Đường Thận nhìn những món ăn đơn giản nhưng rất tươi ngon trên bàn mà chẳng có khẩu vị. Cậu ôm bát, lòng rối như tơ vò mà không cách nào biểu lộ. Giây lát sau, Đường Thận mới nén tâm trạng rối bời, bình tĩnh khắp một miếng thịt hun khói vào bát. Cậu và miếng cơm mà miệng nhạt thếch.

Cứ ăn uống như vậy một hồi, giọng nói êm ái của Vương Trăn chợt vang lên: "Tiểu sư đệ này, huynh chưa bao giờ thấy đệ nói chuyện trong lúc ăn cơm nhỉ."

Đường Thận sửng sốt, ngẩng lên nhìn Vương Trăn: "Tử Phong sư huynh?"

Vương Trăn chẳng ăn được mấy gắp, cơm trong bát và thức ăn trên bàn gần như nguyên si. Chàng gác đũa, không đợi Đường Thận trả lời đã tự nói trước: "Ở chỗ tiên sinh đệ không giống vậy, đệ vẫn hay nói chuyện với tiên sinh trong lúc ăn cơm."

Đường Thận trầm ngâm: "Tại đệ theo quan điểm của sư huynh, quân tử ăn không nói, ngủ không nói ấy chứ."

Vương Trăn mỉm cười: "Đệ coi, đệ hiểu lầm ta đấy ư, ta nói vậy bao giờ nào? Được rồi, nghe nói đệ mới được thăng lên làm Khởi Cư xá nhân."

"Vâng ạ, được thăng chức từ tháng trước."

"Có trải nghiệm gì thú vị không?"

Hai huynh đệ dần dà cuốn vào cuộc hàn huyên.

Sang tháng mười một, thời tiết lạnh dần. Khi Đường Thận đến gặp Vương Trăn trời đã sẩm tối, chờ Vương Trăn về nhà, hai người ăn cơm thì đã qua giờ Tuất. Hai sư huynh đệ cơm nước xong, thuyết phục kiểu gì Đường Thận cũng không nán lại nữa. Vương Trăn thì muốn giữ cậu ở qua đêm: "Trời tối rồi, tiểu sư đệ nghỉ lại phủ Thượng thư có phải hơn không?"

Đường Thận nghiêm túc trả lời: "Đa tạ ý tốt của sư huynh, nhưng mai có phiên trực của đệ rồi. Phủ Thám hoa rất gần đây, đệ về nhà cũng nhanh thôi ạ."

Vương Trăn dở khóc dở cười: "Thì ra nhà gần cũng thành cái cớ."

Đường Thận không nghe rõ, hỏi: "Sư huynh bảo gì cơ ạ?"

"Không có gì."

Vương Trăn tự tiễn Đường Thận ra tận cửa. Đường Thận nói: "Sư huynh xin dừng bước, đệ về đây ạ."

Vương Trăn lại nói: "Tiểu sư đệ vẫn chưa trả lời ta, rốt cuộc hôm nay đệ giận cái gì."

Đầu Đường Thận nhói một cái.

Sao huynh vẫn còn nhớ chuyện này thế!

Màn đêm đen tuyền, chỉ có một vầng trăng rằm tỏa sáng lung linh khắp bầu trời quang. Quản gia xách đèn lồng đứng cách một quãng, Đường Thận và Vương Trăn đứng đối diện nhau, nhưng trời tối quá, dù chỉ cách nhau trong gang tấc, Đường Thận cũng không thấy rõ gương mặt Vương Trăn, chỉ thấy đôi mắt vương ý cười của sư huynh.

Anh chàng Vương Tử Phong này, miệng thì hỏi những câu đến là oái oăm mà bề ngoài lại khiến người ta không thể bắt bẻ.

Đường Thận biết trả lời sao bây giờ.

Cậu nghĩ Tần nghĩ Sở, quyết định lại ỷ vào cái tuổi mười sáu của mình, lấy cái giận hờn của trẻ con để mà đối đáp. Đường Thận nói: "Đệ giận sư huynh trêu đệ đấy. Đệ có lòng tặng đặc sản Cô Tô cho huynh, còn chờ huynh bao nhiêu lâu trong phủ, nào ngờ sư huynh về nhà thấy đệ ngủ quên, đã không đánh thức thì thôi còn trêu đùa đệ."

Vương Trăn: "Thì ra là thế."

"Chính thế đấy ạ."

"Tiểu sư đệ, đệ nghĩ ta là người như thế nào?"

Đường Thận sửng sốt. Nhìn nụ cười trên môi Vương Trăn, cậu không tài nào bật ra câu trả lời được.

Vương Trăn bảo quản gia về trước rồi lấy chiếc đèn lồng trên tay quản gia. Chàng chỉ vào đèn lồng, bảo với Đường Thận: "Đệ thấy ta có giống cái đèn lồng này không?"

Đường Thận hoang mang. Liên quan gì đến đèn lồng ở đây?

Đường Thận không rõ dụng ý của Vương Trăn, nhưng đầu óc sư huynh cậu đã bao giờ vận hành theo lối thường?

Đoán Vương Trăn đang thăm dò mình, Đường Thận không dám trả lời tùy tiện. Thôi thì ba mươi sáu kế, "nịnh" là thượng sách. Cậu nói: "Sư huynh và chiếc đèn này giống nhau ở chỗ đều sáng ngời thanh cao. Đệ tới Thịnh Kinh hai năm nay, không có lúc nào sư huynh không chiếu cố. Xuất phát điểm của đệ là một tú tài nhỏ nhoi, giờ nhìn lại quả là vật đổi sao dời. Sư huynh chính là người soi sáng con đường đệ đi." Càng nói, Đường Thận càng lồng vào nhiều cảm xúc chân thành hơn. Quả thực, Vương Trăn chính là người quan tâm và săn sóc cậu nhiều nhất kể từ khi cậu tới Thịnh Kinh, Vương Trăn đối với cậu thực sự quá tử tế.

Ấy thế mà Vương Trăn chỉ lắc đầu: "Hóa ra tiểu sư đệ nghĩ về ta như vậy."

Đường Thận: "... Sư huynh giơ đèn lồng là có ý gì ạ?"

Vương Trăn đung đưa chiếc đèn, cười nói: "Lẽ nào tiểu sư đệ không cảm thấy, thắp đèn lồng cũng không kiếm được người đàn ông tốt như ta sao?"

Đường Thận: "..."

Vương Tử Phong à, từ bao giờ huynh biết pha trò mà mặt tỉnh bơ thế!

Vương Trăn cũng không để bụng, chàng nâng đèn lên ngang mặt mình: "Chiếc đèn này soi được mặt ta thì không soi đến chân ta. Soi thấy chân ta thì không chiếu tới mặt ta. Tiểu sư đệ, đệ xách ngọn đèn lồng nhỏ xíu thế này đến gặp ta thì làm sao mà tìm được ta chứ?"

Đường Thận nhận ra lớp lang trong lời nói của Vương Trăn, nhưng bảo cậu phản ứng ngay thì khó quá. Trong lúc ấy, Vương Trăn đã dúi đèn lồng vào tay Đường Thận, cười nói: "Nhưng dù thấy mặt hay thấy chân, tiểu sư đệ à, người đệ thấy vẫn là ta đó. Mà ta, là sư huynh của đệ. Về đi, ta không tiễn."

Đường Thận kinh ngạc nhìn Vương Trăn.

Về tới nhà, Đường Thận đặt ngọn đèn lồng Vương Trăn đưa cho mình lên bàn đọc sách, lẳng lặng ngắm nó.

"Huynh ấy bảo mình không nhìn ra con người thật của huynh ấy, không biết con người thật của huynh ấy là thế nào. Nhưng trên đời, có mấy người biết con người thật của Vương Tử Phong chứ. Huynh ấy cũng chẳng cho mình cơ hội nữa..."

Thư phòng yên ắng hồi lâu.

"... Huynh là sư huynh của ta ư?"

Đôi mắt Đường Thận bừng sáng rồi lại ủ ê.

"Rốt cuộc ta nên đối đãi với huynh thế nào đây, Vương Tử Phong!"

Vương Trăn nói rằng chàng là sư huynh của Đường Thận với ngụ ý rằng, Đường Thận không cần phải đề phòng, dè chừng chàng như vậy. Đường Thận hiểu thế nhưng không thể làm theo được. Chí ít hiện giờ, cậu vẫn không dám tin tưởng Vương Trăn hoàn toàn, không dám tùy tiện trước mặt chàng.

Đường Thận nhìn chiếc đèn lồng, thở than: "Người như huynh ấy à, đừng nói là đốt đèn lồng, đến bật đèn pin cũng không tìm được ai giống vậy..."

Sau đó Đường Thận cũng không đến tìm Vương Trăn nữa. Ba ngày sau là ngày nghỉ của Đường Thận. Từ sáng tinh mơ, cậu đã thay bộ quần áo vải thô giản dị, đóng giả người hầu, lên xe ngựa cùng Diêu Tam và quản lí Lục. Đến khi sáng rõ mặt người thì chiếc xe ngựa bí mật rời khỏi Thịnh Kinh, thẳng tiến về phương Bắc.

Trấn Lạc Hà, nơi tiếp giáp giữa Đại Tống và nước Liêu.

Đường Thận vẫn cảm thấy quan hệ giữa Đại Tống và nước Liêu ở thế giờ này rất kì dị. Về một mặt, hai nước đã từng chiến tranh nảy lửa, một mất một còn, kết cục của cuộc can qua là thiệt hại thảm khốc cho cả hai phe, không phe nào ăn được phe nào cả. Mặt khác, từ sau khi kí hòa ước, hai nước ngoài mặt thì hòa bình hợp tác, nhưng bên nào cũng nung nấu tham vọng riêng.

Vùng biên giới Tây Bắc thỉnh thoảng sẽ có nạn giặc cỏ cướp bóc thôn làng. Trong quá trình làm Khởi Cư xá nhân, Đường Thận đã từng nghe quan viên báo cáo việc này. Khi ấy, vị quan đó đã cười khẩy: "Bệ hạ minh giám. Giặc cỏ ư? Giặc cỏ ở chỗ nào chứ! Chẳng quân Liêu ngụy trang thì gì!"

Đại Tống đương nhiên không chịu lép vế.

Hôm nay mi đóng vai giặc cỏ, thì ngày mai ta giả làm cướp ngựa, ăn miếng trả miếng bằng được thì thôi.

Dù thế, người Tống thiếu ngựa thiếu dê, người Liêu thiếu vải vóc lương thực. Vì hai nước vẫn phải buôn bán qua lại với nhau, những cuộc chém giết giữa hai bên tập trung chủ yếu ở khu vực Tây Bắc, cửa ngõ duy nhất ở mạn Bắc Thịnh Kinh mở ra cho lái buôn hai nước trao đổi hàng hóa.

Trấn Lạc Hà nằm ở biên giới giữa hai nước, là thị trấn mậu dịch lớn nhất vùng Bắc Trực Lệ.

Đến trấn Lạc Hà, Đường Thận không ngồi xe ngựa nữa mà ngồi lên đằng trước cùng xà ích, vừa đi vừa quan sát khung cảnh thị trấn này.

Trấn Lạc Hà không khác gì với các thị trấn nhỏ lân cận cả. Thị trấn này thuộc về Đại Tống nên nhà cửa, công trình đều thiên về lối kiến trúc Tống, nhưng một nửa dâu cư nơi đây là người Tống, nửa còn lại là người Liêu. Đặc điểm của người Liêu là đa dạng kiểu tóc. Một số người bện tóc thành nhiều bím nhỏ giống như mốt tóc bện thừng thường thấy sau này. Choáng hơn, một số người cạo trọc hết tóc trên đỉnh đầu, chỉ để một viền tròn xung quanh, giống như bệnh hói "Địa Trung Hải" mà người hiện đại vô cùng ngán.1

Da đầu Đường Thận ớn lạnh, cậu không nhịn được, sờ lên tóc mình.

Cấy tóc thì nghe rồi, chứ chủ động làm mình hói thì chưa thấy bao giờ cả.

Rất dễ nhận biết người Liêu ở trấn Lạc Hà, bởi dù họ mặc trang phục gì thì những kiểu tóc kì lạ của họ đều rất khác so với kiểu tóc của người Tống.

Diêu Tam rất quen thuộc với trấn Lạc Hà. Ba người nghỉ lại trong một nhà trọ trong thị trấn. Buổi chiều, ba người đến một cửa hàng bán vải.

Vừa vào cửa, quản lí tiệm đang tính tiền sau quầy đã nhận ra Diêu Tam, bèn bước lại chào: "Ồ, quản lí Diêu đấy à, đã đi Thịnh Kinh về rồi đấy ư?"

Quản lí Lục sửng sốt, nhìn Diêu Tam bằng ánh mắt khó hiểu: Chú thành quản lí từ khi nào thế?"

Diêu Tam nháy mắt với anh ta: Ngài hiểu rồi chứ.

Quản lí Lục: ... Tui hông có hiểu.

Đường Thận đóng vai người hầu, đứng sau lưng cả hai. Diêu Tam từ một tiếng: "Chớ nhiều lời, việc bàn lần trước, khi hồi kinh, ta đã bàn bạc với ông chủ xong rồi. Ông chủ của các ngươi đâu rồi, đây là ông chủ của bọn ta đây!" Nói rồi, anh chỉ thẳng vào quản lí Lục.

Quản lí Lục sửng sốt, mỉm cười rất chuyên nghiệp.

... Vở diễn này sao chú không đưa kịch bản trước cho anh vậy!

Chú thích

[1] Mảng hói lớn giữa đầu thì hay bị gọi là "Địa Trung Hải", chắc vì nó là vùng biển bị bao quanh bởi hai đại lục :>

Tóc bện thừng – Dreadlock

Một kiểu tóc của người Liêu (Khiết Đan) xưa


Chương 52

Hẳn là tiểu sư đệ nhớ ta thật rồi

Cửa hàng vải này được quản lí bởi người Tống, nhưng chủ sở hữu lại là người Liêu.

Tuy nước Tống và nước Liêu thường xuyên giao dịch với nhau, nhưng trấn Lạc Hà vẫn thuộc về nước Tống, thành ra số cửa hàng của người Liêu ở trung tâm thị trấn khá ít ỏi, cửa hàng của người Tống thì chiếm phần đông. Cửa hàng này là một ngoại lệ.

Nghe Diêu Tam nói xong, quản lí đó liền đóng tiệm, dẫn họ đi vào gian phòng phía sau. Ông ta gõ cửa trước, hỏi ý kiến người trong phòng rồi mới ra cửa nói: "Các vị vào đi."

Ba người Đường Thận theo ông ta vào.

Vào phòng rồi, trước mặt họ là một bức bình phong Thiên Sơn, tranh trang trí vẽ vào thời này nên không có giá trị mấy, nhưng phong cách mang hơi hướng của họa tiên Lưu Tử Ngang triều trước. Hai bên tường treo một vài bức tranh sơn thủy vẽ bằng mực tàu. Chỉ có số ít là có niên đại từ triều trước, còn đâu chủ yếu là vẽ trong thời kì hiện tại. Tuy tranh đẹp, nhưng họa sĩ không có tiếng tăm thì có bán cũng không được mấy đồng.

Trong phòng cũng đốt hương để thể hiện khí phái văn nhã của người đọc sách, nhưng kiểu gì cũng có cảm giác chỉ được cái mẽ ngoài.1

Đường Thận đã từng vào thư phòng của Vương Trăn, lấy ngưỡng ấy mà so sánh với ở đây thì đâu phải chỉ khác nhau một trời một vực, phải gọi là trưởng giả học làm sang mới đúng.

"Mi là ông chủ của thằng nhãi họ Diêu này à?" Một giọng nói thô lỗ phát lên từ sau tấm bình phong. Ngay sau đó, một gã đàn ông trung niên bước ra. Gã cạo trọc giữa đầu, mặc áo lông của người Liêu. Dò xét từ đầu đến chân quản lí Lục xong, gã ta nói: "Trông đặc sệt kiểu Tống nhỉ." Giọng điệu gã ta pha lẫn sự khinh bỉ và hợm hĩnh.

Quản lý Lục hơi biến sắc, cười nói: "Bỉ nhân họ Lục."

Gã đàn ông nước Liêu: "Gia Luật Cứu."

Quản lý Lục mỉm cười: "Thì ra là Gia Luật đại nhân."

Cả nhóm không ai quan tâm đến họ của Gia Luật Cứu cho lắm.

Nước Liêu khác nước Tống ở chỗ, cả nước chỉ có hai họ là Gia Luật và Tiêu. Dân chúng nước Liêu không có họ, chỉ có quý tộc và tầng lớp trung đẳng mới có họ. Diêu Tam đã tiết lộ cho quản lý Lục, Gia Luật Cứu đúng là có nửa dòng máu quý tộc; gã ta là người Liêu ở quận Liễu Thành, mẹ là con nhà quyền quý. Mặc dù vậy, đến đời Gia Luật Cứu thì chỉ còn sót lại chút hư danh của quý tộc thôi.

Gia Luật Cứu là thương nhân, chủ yếu buôn bán ngựa, cũng là một phú thương ở quận Liễu Thành.

Nhưng trong vụ làm ăn này phía Đường Thận không cần mua ngựa mà cần mua dê bò.

Quản lý Lục nói: "Gia Luật đại nhân, lúc trước Diêu Tam đã nói, ta cần mua dê bò chứ không cần mua ngựa." Người Tống bình thường vẫn có thể mua ngựa, nhưng không thể mua nhiều. "Bò là của hiếm ở Đại Tống, nhưng ta biết, ở chỗ các ông có nguồn cung rất dồi dào."

Gia Luật Cứu: "Rất dồi dào ư? Mi chớ nói lung tung, bò ở chỗ chúng ta cũng rất đắt."

Quản lý Lục nheo mắt, cười: "Đừng hiểu lầm thế chứ, chuyến này ta chủ yếu muốn mua dê."

Gia Luật Cứu cười cười, phất tay gọi quản lí cửa hàng vải. Quản lí người Tống lập tức đến gần, báo một con số.

Quản lý Lục biến sắc, Diêu Tam phản ứng ngay: "Bảy ngày trước ngươi nói với ta giá khác cơ mà!"

Gia Luật Cứu cười khà khà: "Bảy ngày trước là bảy ngày trước, bảy ngày sau là bảy ngày sau. Lẽ nào người Tống tụi mi tưởng bán buôn không tăng giá bao giờ à?"

Diêu Tam muốn nổi quạu, quản lý Lục ngăn lại.

Sau lưng họ, Đường Thận trong vai người hầu ngẩng lên nhìn Gia Luật Cứu. Gia Luật Cứu chỉ liếc cậu một cái rồi thôi, không thèm để vào mắt.

Quản lý Lục liếc Đường Thận: "Chuyện này chúng ta phải về bàn bạc đã."

Ba người nhanh chóng rời khỏi cửa hàng vải.

Trở về quán trọ, Diêu Tam không nuốt trôi nổi cục tức này: "Gã người Liêu này lật lọng như chảo chớp! Bọn chúng buôn bán ở trấn Lạc Hà xưa nay đều thế, coi người Tống không ra cái đinh gì! Nếu không phải Đại Tống thiếu thốn nhiều thứ, phải mua từ nước Liêu, tôi chẳng thèm giao du với bọn chúng."

Nước Liêu và nước Đại Tống khác nhau, tính cách và lối sống của người Liêu rất cởi mở, không bám vào một khuôn mẫu, họ là những con người gan lì và ương ngạnh, không quá cầu kì về lề thói sinh hoạt. Người Tống quen kiểu nhã nhặn, dù cũng kèn cựa, đấu đá ngầm với nhau trong buôn bán, nhưng lúc nào cũng chừa mặt mũi cho nhau. Người Liêu thì khác, những thứ họ mua từ Tống thường là những mặt hàng xa xỉ, họ chẳng quan tâm đến giá cả vì người mua thường là quý tộc, hoặc mua để bán lại cho quý tộc.

Người Liêu giàu có vô cùng. Một trong những yếu tố quan trọng ấy là những giống ngựa tốt nhất chỉ sống trên thảo nguyên của nước Liêu, người Tống phải mua từ bên họ.

Quản lý Lục nói với Đường Thận: "Tiểu đông gia, chúng ta không cần thiết phải mua gia súc từ chỗ Gia Luật Cứu. Thịt dê bò tươi mà lầu Tế Hà cần, không phải chỉ Gia Luật Cứu mới bán được. Nhiều người Liêu khác ở trấn Lạc Hà cũng bán được cho chúng ta."

Đường Thận trầm tư, gõ ngón tay lên mặt bàn: "Vấn đề là chỉ Gia Luật Cứu mới có con đường vận chuyển hàng đến thẳng Thịnh Kinh trong ngày."

Quản lý Lục và Diêu Tam liếc nhau, không phản bác được.

Những thương lái người Liêu khác cũng bán thịt dê thịt bò, nhưng không ai đảm bảo được rằng có thể vận chuyển hàng đến Thịnh Kinh trong ngày. Ưu thế của Gia Luật Cứu nằm ở chỗ gã ta có tuyến đường riêng. Thịnh Kinh không phải phủ Cô Tô, không có Hậu cần Đường thị, nếu mua thực phẩm từ người khác, Đường Thận phải tốn công sức vận chuyển thực phẩm về địa điểm kinh doanh, mà chưa chắc đã đến ngay trong ngày được.

Diêu Tam: "Nhưng Gia Luật Cứu khinh người quá thể! Cái giá hôm nay gã đưa ra cao hơn bảy ngày trước đến một phần mười!"

Đường Thận cân nhắc một hồi, nói: "Chúng ta cứ mua hàng của họ đi, giá cả cũng thuận theo họ. Nhưng quản lý Lục, ngày mai chú hãy nói với Gia Luật Cứu rằng, chúng ta chấp nhận mức giá của họ, thậm chí đồng ý trả giá cao hơn."

Diêu Tam sửng sốt: "Tiểu đông gia, cậu định...?"

Đường Thận mỉm cười nói: "Mình sẽ chơi chiêu 'mỗi mùa một giá'. Lầu Tế Hà kinh doanh ở phủ Cô Tô hai năm nay, mọi người hẳn đã nhận ra, đến hè, lượng khách đến ăn ở lầu Tế Hà giảm đi rất nhiều phải không?"

Quản lý Lục: "Thời tiết nóng bức, ăn bát hà cung cũng nóng nên sẽ ít người ăn."

"Đúng. Thịnh Kinh cũng giống thế thôi. Mùa hè ở Thịnh Kinh không mát hơn ở Cô Tô bao nhiêu cả. Vì thế, mùa đông chúng ta cần nhiều thịt dê, bò hơn, còn mùa hè thì cần ít hơn. Cái chính là, Gia Luật Cứu không biết điều đấy. Chính vì vậy, ngày mai khi chúng ta đến đó, quản lý Lục sẽ nói với Gia Luật Cứu rằng, chúng ta chấp nhận giá đấy, nhưng phải có bù trừ. Mùa đông thời tiết giá lạnh vô cùng, thịt dê bò không hỏng nhanh được nên yêu cầu với tốc độ vận chuyển hàng sẽ giảm đi, phía mình đương nhiên không muốn mua đắt, với mức giá thấp hơn một chút so với mức giá ông ta đề ra, bên mình sẽ chấp nhận."

Diêu Tam vẫn chưa hiểu ra làm sao, quản lý Lục đã sáng bừng hai mắt. Ông ta nói: "Tôi hiểu rồi. Sau đó, tôi sẽ bảo gã rằng, mùa hè thời tiết nóng bức, giá thành vận chuyển thịt dê, bò tăng cao, chúng ta đồng ý trả giá cao hơn. Cứ thế mua qua bán lại, bề ngoài tưởng là bù trừ lẫn nhau, nhưng trên thực tế chúng ta tiết kiệm được khối tiền ấy chứ!"

Song quản lý Lục chỉ phấn chấn được một lát, rồi buồn bã ngay: "Nhưng tiểu đông gia ơi, chúng ta chỉ có thể gạt được một năm thôi, đến năm sau, nhất định Gia Luật Cứu sẽ phát hiện ra chỗ bất thường."

Đường Thận hỏi ngược lại: "Sau một năm, chẳng lẽ lầu Tế Hà còn không đứng vững nổi ở Thịnh Kinh sao?"

Quản lý Lục: "Ồ, ý cậu là..."

Đường Thận thong thả nói: "Sau một năm, lẽ nào ta còn phải phụ thuộc vào người khác để vận chuyển hàng hóa, để họ đè đầu cưỡi cổ mình? Chẳng lẽ chúng ta không thể có tuyến đường vận hàng riêng của mình ư?"

"Cậu nói chí phải!"

Ngày kế, quản lý Lục đến gặp Gia Luật Cứu, đem những lời Đường Thận dạy mình nói lại với gã ta.

Gia Luật Cứu nghĩ một hồi, thấy không vấn đề gì, nhưng gã lại chìa một ngón tay: "Giá hôm nay là ngần này."

Đường Thận nhíu mày, quản lý Lục nhẩm tính chênh lệch tiêu thụ thịt dê giữa mùa đông và mùa hè của lầu Tế Hà ở phủ Cô Tô. Vẫn có lãi! Ông ta giả vờ giận dữ nhưng bất lực, nói: "Được, chốt."

Trên đường trở về Thịnh Kinh, quản lý Lục tính toán sổ sách, Diêu Tam thì vẫn ghim thái độ vênh váo ngạo mạn của Gia Luật Cứu.

Quản lý Lục nói: "Gã bị chúng ta chơi một vố, giờ mình là phe được lợi, chú tức tối làm gì. Coi như trả đũa cho sự vô lễ của gã là được rồi." Nói rồi bảo Đường Thận: "Tiểu đông gia, theo tính toán dự trù của tôi, dựa trên nhu cầu tiêu thụ từng mùa của lầu Tế Hà ở Cô Tô, lần này chúng ta tiết kiệm được ít nhất ba nghìn lượng bạc!"

Đường Thận: "Còn hơn nữa đấy."

"Dạ?"

"Ta tin rằng mức độ ưa chuộng của người dân Thịnh Kinh đối với bát hà cung, nhất là bát hà cung thịt dê, nhất định sẽ vượt xa mức độ yêu thích của người dân Cô Tô."

Quản lý Lục vui mừng khôn xiết, song ông lại thắc mắc: "Tiểu đông gia, tôi thấy suốt dọc đường trông cậu có vẻ không được vui lắm." Lẽ nào bọn họ lỗ ở đâu sao?

Đường Thận nhìn ông ta, rồi vén rèm xe lên. Ngoài cửa sổ, ở tít phương xa, thấp thoáng bóng dáng thảo nguyên mênh mông xanh tận chân trời.

"Người Liêu, chung quy vẫn là một mối họa ngầm."

Việc trao đổi hàng hóa luôn chú trọng bình đẳng giữa hai bên. Họ buôn bán với Gia Luật Cứu, Gia Luật Cứu kiếm được tiền, nhưng gã ta tìm đủ mọi cách làm khó dễ họ. Gã không sợ Đường Thận đổi ý một phần là vì ở cả trấn Lạc Hà chỉ có mình gã là nuốt trôi được vụ làm ăn này. Tuy nhiên thái độ phách lối của gã thực ra xuất phát từ việc hiệp ước hòa bình bắt nguồn từ mười bảy năm trước giữa hai nước Tống – Liêu, được kí kết dựa trên chiến thắng thảm thương của người Tống!

Mười bảy năm trước, hai nước đình chiến, ký kết hiệp ước tưởng chừng như bình đẳng. Song Đại Tống thắng với cái giá quá đau lòng, tổn thất không biết bao nhiêu là binh mã.

Một tên lái buôn quý tộc nửa mùa người Liêu đã coi khinh người Tống như thế, khỏi cần nói trên triều đình, vua quan nước Liêu nhìn dân Tống bằng ánh mắt gì.

Triều Tống ở thế giới này đỡ hơn triều Tống mà Đường Thận biết, nhưng cũng chỉ đỡ hơn mà thôi.

Người khôn không đứng dưới bờ tường sắp đổ.

Hơn cả người Liêu, người Tống vô cùng sợ chiến tranh nổ ra.

Đường Thận thở dài, những vấn đề này còn xa vời tầm tay cậu lắm.

Ngày hôm sau khi Đường Thận trở về Thịnh Kinh, đến phiên cậu và Diêu Thiện lĩnh nhiệm vụ ghi chép.

Sau buổi triều ở điện Tử Thần, Hoàng đế đi đến điện Thùy Củng để xử lí chính sự. Diêu thiện và Đường Thận mỗi người ngồi một bên. Đến buổi trưa, Đường Thận thay ca với Khởi Cư xá nhân khác, chạng vạng tối thì cậu trở về, rón rén đi vào điện Thùy Củng. Cậu vừa ngẩng đầu thì chợt phát hiện ra dáng hình quen thuộc đứng giữa điện.

Đường Thận sững lại, rồi vội cúi đầu đi về chỗ ngồi của mình, nhấc bút viết.

Triệu Phụ nhìn bản tấu trên tay, nét mặt không rõ là vui hay buồn, trên đôi môi mỏng chỉ có một nụ cười nhạt. Ông ta thở dài một hơi, Đại thái giám Quý Phúc đứng hầu ngay bên cạnh hiểu ý ngay, tiến tới đỡ lấy bản tấu, thay bằng một chén trà sâm.

Vừa chạm tay vào chén, sắc mặt Triệu Phụ thoắt đổi, hất chén trà văng xuống đất.

Choang, chén sứ vỡ tan tành trên mặt đất.

Quý Phúc hốt hoảng quỳ xuống đất. Đường Thận và Diêu Thiện cũng phải đứng lên, cúi mình trước vua. Vương Trăn đứng giữa điện cũng phải cúi đầu, chắp tay làm lễ. Trên ngôi cao, Triệu Phụ vẩy nhẹ tay, giọng điệu giận dữ: "Tại sao để trà nóng thế hả?"

Quý Phúc sửng sốt, đôi mắt láo liên, lão nói: "Nô tài biết tội, nô tài biết tội rồi."

Triệu Phụ mắng: "Có mỗi cái việc đấy thôi mà cũng không làm được, hôm nay về liệu mà ngẫm nghĩ lại cho kĩ. Tử Phong, ngươi cảm thấy nên xử lý tiện tỳ này thế nào?"

Tử Phong?

Đường Thận quá đỗi ngạc nhiên trước sự thân thiết của Triệu Phụ với Vương Trăn.

Bấy giờ, giọng nói thanh nhã của Vương Trăn mới vang lên: "Trà nóng thì nên biết nó nóng chừng nào trước khi cầm lên để mà thổi cho nguội. Bệ hạ gần đây long thể khiếm an, hẳn là Quý công công lo lắng cho bệ hạ quá nên mới chẳng may sơ suất thôi."

"Trà nóng thì phải thổi nguội." Triệu Phụ cười: "Nhưng trà này nóng quá, trẫm thì chẳng nhẫn nại được, thà đổ hết luôn đi cho rồi."

Vương Trăn nhẹ nhàng cười: "Bệ hạ nói đúng quá."

Không lâu sau, Vương Trăn rời khỏi điện Thùy Củng. Đường Thận và Diêu Thiện ngồi trong điện ghi lại những gì Triệu Phụ và Vương Tử Phong vừa nói với nhau.

Đến tối, hoàng đế về hậu cung, hai người cùng nhau rời khỏi hoàng cung.

Diêu Thiện cảm thán: "Chén trà ấy nóng thật ư?"

Đường Thận nhìn anh ta, nói: "Bệ hạ bảo là nóng."

Diêu Thiện hiểu ý: "Ừ, ừ. Nóng thật."

Hai người ra đến ngoài cung thì nói lời từ biệt.

Về nhà, Đường Thận nhìn chén trà đã được Phụng Bút pha sẵn cho mình, rơi vào suy tư.

Quý Phúc là ai? Lão ta là người theo hầu Triệu Phụ từ nhỏ đến lớn, hầu hạ hơn năm mươi năm nay. Một bề tôi được lòng vua như lão, có lí nào lại dâng nhầm trà quá nóng cho Triệu Phụ?

Mỗi một câu Triệu Phụ và Vương Tử Phong nói hôm nay đều có ý nghĩa sâu xa khác!

"Chưa một lần đọc Khởi Cư chú nhưng tuyệt nhiên không để tâm đến việc sửa đổi. Sở dĩ ông dám làm thế là vì căn bản ông không cần xem ghi chép. Một khi ông đã muốn làm việc gì, ông sẽ không để bất cứ kẻ không phận sự nào phát hiện. Đế vương là đấy chứ là đâu... Nhưng ngỗng trời bay qua còn để lại dấu vết, bất cứ chuyện gì cũng lưu lại manh mối thôi."

Đường Thận lập tức lấy một quyển vở từ trong ngăn mật sau giá sách ra, lật xem.

Lần này cậu chỉ đọc lại đoạn Triệu Phụ cho đòi Tô Ôn Duẫn đến gặp, rồi tỉ mỉ nghiên cứu lại một số chi tiết mình từng không để ý.

Những người khác chắc không có cách nào phỏng đoán quân tâm, giải mã ý đồ của Triệu Phụ. Nhưng riêng Vương Trăn và người đồng nghiệp Tô Ôn Duẫn cực kì được sủng tín chắc chắn là có bản lĩnh ấy.

Hôm sau là ngày nghỉ của Đường Thận, cậu đọc suốt đêm đến tận khi nến cháy hết cây.

Ngày kế tiếp, Đường Thận giao toàn quyền phụ trách lầu Tế Hà chi nhánh Thịnh Kinh cho quản lí Lục, còn mình thì sang phủ Thượng Thư.

Buổi tối, Vương Trăn từ nha môn về, thấy Đường Thận thì việc đầu tiên là nhìn quanh quất rồi cười: "Hôm nay tiểu sư đệ không tới để tặng quà cho ta à?"

Mỗi lần Đường Thận đến phủ Thượng thư đều mang theo món này món nọ.

Bị chàng hỏi thế, Đường Thận hơi ngơ ngẩn. Hôm nay quả thật cậu không có ý định mang gì sang.

Vương Trăn khẽ gật đầu: "Nếu không đến tặng quà, hẳn là nhớ ta thật rồi."

Đường Thận: "..."

Vương Trăn: "Có việc cần nhờ ư?"

Đường Thận đang định mở lời thì chợt nhớ đến câu "Ta là sư huynh của đệ" Vương Trăn nói ngày hôm ấy. Bất giác, áp lực phải dè dặt cẩn thận trong từng hành động liền vơi bớt đi. Cậu không hề chú ý rằng, cách nói chuyện của mình cũng trở nên thoải mái và gần gũi hơn nhiều: "Cớ gì mà mỗi lần đệ tới đây chỉ được tặng quà cho sư huynh hoặc nhờ vả?"

Điệu bộ của cậu làm Vương Trăn sửng sốt lắm, chàng chớp mắt, cười xòa: "Thế có việc gì nào?"

Đường Thận húng hắng, nói: "Ở phủ Cô Tô, sư đệ có chút sản nghiệp riêng... Khụ khụ, Tử Phong sư huynh có biết không ạ?"

Triều đình không cấm quan lại buôn bán, chuyện Đường Thận kinh doanh xà phòng và Hoàng Kim Lũ đương nhiên Vương Trăn biết. Câu "Yên lung hàn thủy nguyệt lung sa" ở Kim Lăng còn do tay chàng tự viết nữa mà.

"Có, thế thì sao?"

Đường Thận: "Mấy hôm nữa, đệ sẽ mở một tửu lầu chuyên bán bát hà cung ở Thịnh Kinh, tên là lầu Tế Hà ạ."

Vương Trăn nhướng một bên mày: "Chỉ bán bát hà cung ư?"

"Vâng, chỉ bán bát hà cung ạ."

"Hai chữ 'Tế Hà' là hai chữ nào?"

"Là 'tế hà' trong câu 'tu giáo nguyệt hộ tiêm tiêm ngọc, tế phủng hà thương diễm diễm kim'. Tử Phong sư huynh chưa đến Cô Tô, ở Kim Lăng thì không có lầu Tế Hà, nên mấy hôm nữa đệ muốn mời sư huynh và tiên sinh đến lầu Tế Hà cùng thưởng thức. Ăn bát hà cung vào mùa đông là việc thần tiên sung sướng nhất trên đời!"

Chú thích

[1] Gốc: Hổ giấy. Cụm từ chỉ sự vật/sự việc trông bề ngoài thì ghê gớm nhưng bên trong chẳng có gì.

Chương 53

Thần giao cách cảm

Mùng bốn tháng Chạp, năm Khai Bình thứ hai mươi bảy.

Hai bên con phố lớn Chính Dương Môn, hàng quán, lầu gác rực rỡ muôn màu. Nếu đi dọc theo con phố về phía Tây đến lúc bắt đầu thấy Đại Vận Hà thấp thoáng đằng xa, tửu lầu đệ nhất Thịnh Kinh – lầu Thiên Lý cao bốn tầng, sẽ hiện ra trong tầm mắt. Cách lầu Thiên Lý nửa dặm về phía Bắc là một tửu lầu hai tầng.

Tửu lầu này có tên là Triêu Huy, lấy từ câu "Triêu huy tịch âm, khí tượng vạn thiên." Tiếc là vận số của tửu lầu ấy cũng như cái tên, không khác gì ánh ban mai, bóng hoàng hôn cả. Lầu Triêu Huy cách đây mấy chục năm còn có tiếng tăm ở Thịnh Kinh, giờ đã xuống dốc rồi.

Hai tháng trước lầu Triêu Huy bị người ta mua lại. Hôm nay, giữa ngày đông giá rét, có một đội múa lân đang gióng trống khua chiêng vang lừng trước lầu.

Phố lớn Chính Dương Môn trải dài từ phía Đông sang phía Tây Thịnh Kinh, là con đường quy tụ nhiều hoạt động buôn bán nhất, tấp nập vô cùng. Đội múa lân linh đình nhanh chóng thu hút được sự chú ý của một nhóm người dân. Thình lình, một người đàn ông trung niên mặc áo bào biểu diễn màu sắc rực rỡ bước ra từ sau đội múa lân. Tay ông ta cầm một cái hũ sành lớn, gõ nhẹ một cái, có chú thỏ trắng nhảy từ hũ ra.

"Hay quá!"

Dân chúng vây xem hoan hô cổ vũ.

Đường Thận và quản lý Lục đứng quan sát cách đó một quãng.

Quản lý Lục dở khóc dở cười: "Tiểu đông gia, sao cậu có thể nghĩ ra nhiều trò hay vậy nhỉ. Tửu lầu nhà khác khai trương giỏi lắm là mời một đội múa lân. Cậu mời cả ảo thuật gia, rồi xiếc khỉ với đoàn xiếc nữa."

Đường Thận hỏi ngược lại: "Chú thấy dân chúng có hào hứng không?"

Không chờ quản lý Lục trả lời, Đường Hoàng đã nói leo: "Hào hứng lắm, em cũng thấy mới mẻ!"

Quản lý Lục bất đắc dĩ: "Chúng tôi thuê tốn bao nhiêu là tiền, không mới mẻ thế nào được!"

Chờ đội múa lân và các nhà ảo thuật trình diễn xong, Đường Thận đứng nguyên tại chỗ, nói với Diêu Tam và quản lý Lục: "Hai người đi cắt băng nhé."

Quản lý Lục chần chờ: "Tiểu đông gia, sao cậu không đi?"

Thực ra Đường Thận có thể đích thân cắt băng, lộ mặt là ông chủ lầu vì triều đại này không có định kiến với quan lại buôn bán làm ăn. Nhưng cậu nghĩ một hồi thì bảo: "Ta phải đi đón tiên sinh và sư huynh. Đường Hoàng, em cũng đi đi."

Đường Hoàng mừng gỡ gật đầu lia lịa, đi theo quản lý Lục và Diêu Tam đến trước tửu lầu. Ba người lấy băng lụa màu đỏ và những quả cầu vải nhiều màu từ "miệng" con sư tử trong đội múa lân, cùng nhau cắt băng khánh thành. Đường Hoàng đích thân giật nhẹ tấm vải đỏ phủ trên bảng hiệu, tấm vải rơi xuống, ba con chữ thanh thoát đẹp đẽ hiện ra..

『Tế Hà Lâu』

Dân chúng Thịnh Kinh vây quanh xôn xao và ngạc nhiên lắm khi phát hiện chủ nhân của lầu Tế Hà là một cô gái xinh xắn. Đội múa lân và ảo thuật hồi nãy đã lôi kéo rất nhiều khách khứa đến, giờ các vị khách đều đi cả vào lầu Tế Hà. Lầu Tế Hà khác với lầu Thiên Lý có bốn tầng, nó chỉ có hai tầng thôi, nên sức chứa có hạn hơn nhiều.

Nghe nói quán đã kín chỗ, nhiều khách ăn định ra về, nhưng tiểu nhị đã rào đón ngay: "Quý khách có muốn chờ thêm một lát ở quán trà không ạ?"

Một thư sinh trẻ tuổi ngạc nhiên: "Quán trà ư?"

Tiểu nhị: "Vâng, mời quý khách đi theo tôi."

Bước vào quán trà, những vị khách này mới hiểu được dụng ý.

Nào là đoàn kể chuyện, nào là trà nước bánh trái, tất cả mọi thứ đã được chuẩn bị chu toàn. Người dân Thịnh Kinh chưa bao giờ thấy tửu lầu nào chịu chơi như thế, khách chưa vào ăn đều được dâng trà, mời bánh ngọt, còn cho nghe kể chuyện miễn phí.

Thư sinh không tin nổi vào mắt nhìn: "Sao trên đời lại có chuyện tốt bực này? Trà nước, bánh trái, hẳn là sẽ tính tiền hết phải không?"

Tiểu nhị: "Sao có chuyện đó được ạ! Xin quý khách cứ yên tâm chờ đợi."

Không trả tiền mà lại được ăn uống, nghe kể chuyện, ai mà chẳng vui. Chỉ một lúc, quán trà của lầu Tế Hà cũng đã kín khách.

Đường Thận nhanh chóng đón được Phó Vị, cậu tự mình đỡ thầy lên nhã gian trên tầng hai.

Nồi được nhóm lên, hai thầy trò gọi một vài món. Đến khi thịt dê, bò, rau dưa trái cây được bưng lên đủ, Vương Trăn rốt cuộc cũng tới.

Vương Trăn vẫn còn mặc quan bào, vừa vào cửa đã cười: "Con đến trễ ạ."

Phó Vị bình thường không đến viện Hàn Lâm, chỉ lo trồng hoa nuôi chim cảnh, rảnh không để đâu cho hết. Nghe cậu trò lớn nói vậy, ông bèn bảo với đứa trò nhỏ: "Cảnh Tắc này, con coi sư huynh con mà xem, nó bắt vi sư đợi nửa canh giờ, nói mỗi một câu "con đến trễ" mà đòi vi sư xí xóa hử?"

Đường Thận nghĩ thầm, từ lúc thầy vào lầu Tế Hà đến giờ còn chưa được nổi hai mươi phút mà thầy. Nhưng khi nói thì cậu lại bảo: "Sư huynh bận rộn việc công nên mới đến muộn ạ."

Vương Trăn ngồi vào chỗ, gạt tay áo tự châm trà cho mình, nhẹ nhàng hỏi: "Nửa canh giờ ấy ạ?" Ánh mắt chàng ung dung lướt về phía Phó Vị.

Phó Vị chột dạ, hắng giọng: "Đúng, tận nửa canh giờ đấy. Tử Phong, con tính đền nửa canh giờ cho vi sư và sư đệ con thế nào đây?"

Vương Trăn: "Thế bữa hôm nay con mời nhé?"

Đường Thận vội vàng xua đi: "Sư huynh, hôm nay đệ mời huynh và tiên sinh, sao để huynh trả tiền được."

Phó Vị thì cản Đường Thận: "Ôi chao, thằng bé này chẳng biết gì cả. Sư huynh con làm chức gì, con quên rồi sao?"

Đường Thận sửng sốt: "Thượng thư bộ Hộ?"

Phó Vị cười phá lên, trỏ đũa về phía Vương Trăn: "Thiên hạ này nếu có ông quan nào giàu nhất, thì chính là sư huynh con đó!"

Lượng thông tin trong câu nói này là quá tải với Đường Thận, cậu nghĩ mà hốt hoảng, nhưng không dám nói gì.

Đồ ăn thức uống đã lên cả rồi nhưng nước lẩu chưa sôi. Phó Vị uống nhiều trà nên ra ngoài giải quyết. Trong nhã gian chỉ còn lại Đường Thận và Vương Trăn.

"Đệ chớ nghe tiên sinh nói linh tinh đấy."

Đường Thận ngẩng đầu, Vương Trăn đang nhấc nắp chung trà, nhẹ nhàng gạt vụn lá trà lơ thơ trên bề mặt.

Vương Trăn: "Tiểu sư đệ có sản nghiệp riêng ở phủ Cô Tô..."

Đường Thận: "Ý sư huynh là?" Tự dưng nói chuyện này làm chi?"

Vương Trăn mỉm cười: "Ở phủ Kim Lăng, sư huynh cũng có sản nghiệp."

Đường Thận: "..."

Huynh đang giải thích rằng của cải của huynh được tích cóp hợp pháp chứ không phải tham ô hối lộ mà có đấy hả?

Không lâu sau, Phó Vị quay về, nước lẩu trong nồi đồng đã sôi xình xịch. Phó Vị gắp một miếng thịt dê siêu mỏng, từ tốn thả vào nồi, nhúng nhúng mấy cái, thịt dê đổi màu ngay. Gắp miếng thịt vừa trần ra chấm vào tương trong đĩa, ông đưa vào miệng. "Tươi ngon mềm ngọt, đúng là kì diệu! Người xưa ăn bát hà cung chỉ dùng thịt thỏ, không ngờ ăn với thịt dê lại ngon gấp bội phần!"

Đường Thận cười: "Tiên sinh nếm thử thịt bò trần đi ạ." Nói rồi, cậu gắp thịt bỏ thả vào bát của Phó Vị.

Phó Vị nheo mắt hỏi: "Thịt bò, mua của người Liêu đấy phỏng?"

Đường Thận tằng hắng hai tiếng.

Vương Trăn nhúng thịt bò rồi lại nhúng thịt dê. Chàng để ý thấy Đường Thận cứ mải miết hầu Phó Vị ăn, còn mình thì bị cho ra rìa. Thượng thư đại nhân lẩm bẩm tự giễu: "Mình lại thành người lẻ loi." Vừa nói dứt lời, Đường Thận đã gắp thịt dê vào bát của Vương Trăn.

Vương Trăn ngẩn người, ngước nhìn cậu.

Đường Thận cười ngoan ngoãn: "Đệ gắp bằng đũa chung đấy, sư huynh yên tâm." Rất sạch, không dính nước bọt của người ta đâu.

Khóe môi Vương Trăn nhếch lên.

Ba thầy trò thưởng thức nồi bát hà cung nóng hổi hấp dẫn. Buổi chiều Vương Trăn vẫn phải đến nha môn nên chàng về trước. Đường Thận và Phó Vị ăn uống thêm nửa canh giờ nữa. Phó Vị vô cùng thỏa mãn, lại sang quán trà nghe kể chuyện thêm nửa canh giờ rồi mới về.

Đến tối, Diêu Thiện, Vương Tiêu, Mai Thắng Trạch... các đồng liêu và bạn thân của Đường Thận ở trường Quốc Tử Giám cũng đến lầu Tế Hà.

Mai Thắng Trạch ăn một miếng thịt dê xong thì xúc động quá, xuất khẩu thành thơ ngay: "Khói sương ôm vệt ráng chiều, tan trên đầu lưỡi bao nhiêu sững sờ."

Đến khi các tiến sĩ cùng trường đi rồi, Đường Thận gọi quản lý Lục tới: "Chú đã biết ngày mai phải tuyên truyền, quảng cáo thế nào cho lầu Tế Hà chúng ta chưa?"

Quản lý Lục ngạc nhiên: "Quảng cáo là gì thế ạ?"

Đường Thận chưa kịp đáp, Đường Hoàng đã lanh chanh: "Cái này cháu biết, quảng cáo tức là thông báo rộng rãi cho người ta biết, anh cháu từng giải thích cho cháu rồi."

Đường Thận cười mắng: "Ừ em thì biết, sao chưa về nhà, còn nấn ná ở đây làm gì?"

Đường Hoàng: "Ngày đầu tiên khai trương lầu Tế Hà, em phải chờ đóng cửa rồi mới về. Anh cũng đã về đâu."

Đường Thận kệ con bé, lại nói chuyện với quản lý Lục.

Quản lý Lục suy tư mãi, nói: "Thịnh Kinh chỉ có nhà mình bán bát hà cung, hình thức rập khuôn như bên phủ Cô Tô, hiển nhiên người dân Thịnh Kinh rất thích thú."

Đường Thận nhắc nhở: "Không chỉ thế, thị trường Thịnh Kinh còn rộng lớn hơn Cô Tô!"

Quản lý Lục đang muốn nói gì đó, nhưng Đường Hoàng sau một hồi trầm ngâm bỗng cho sáng kiến: "Phường mặc khách tao nhân, hay về đây tụ hội."

Đường Thận và quản lý Lục cùng nhau quay ra nhìn cô nhóc mới mười ba tuổi kia.

Đường Hoàng bị cả hai nhìn chằm chằm thì hoảng sợ, dè dặt nói: "Em chỉ muốn nhắc đến cái tên cũ của lầu này là Triêu Huy thôi. Kế toán Lâm từng dạy em bài này, ánh ban mai, bóng hoàng hôn, muôn vàn kiểu khí tượng... Phường mặc khách tao nhân, hay về đây tụ hội1. Hôm nay, Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa đều đã đến ăn ở lầu Tế Hà nhà ta, ấy chẳng phải là mặc khách tao nhân sao. Kìa, em nói sai à?"

Quản lý Lục bừng tỉnh: "Tôi đã hiểu rồi, tiểu đông gia, việc ngày mai cứ để tôi."

Đường Thận gật đầu, thấy Đường Hoàng đang liếc mình thì bất đắc dĩ nói: "Về nhà!"

Hai anh em dắt nhau về nhà.

Hôm sau, không biết tin đồn từ đâu truyền ra, nói rằng phố Tây Chính Dương Môn có lầu Tế Hà mới mở, là nơi văn nhân Thịnh Kinh thích tụ tập nhất. Chẳng bao lâu, giờ văn thơ đều thích đến lầu Tế Hà. Những bình dân muốn ké chút khí chất văn nhân thi sĩ cũng chuộng lầu Tế Hà theo.

Quản lý Lục nhờ người viết lại thơ do tiến sĩ đương triều Mai Thắng Trạch sáng tác làm lưu niệm, trang trọng treo chính giữa tửu lầu. Vì thế, Đường Thận bèn tặng Mai Thắng Trạch một bầu rượu để tạ ơn.

Mùa đông lạnh giá ùa về, lầu Tế Hà càng ngày càng tấp nập, tên tuổi nổi như cồn ở Thịnh Kinh.

Tháng Chạp dần dần trôi đi, năm mới lại đến.

Hôm nay đến phiên Diêu Thiện và Đường Thận công tác.

Hai người đã làm công việc này được hai tháng, giờ đã rất thành thạo việc ghi chép cuộc sống hàng ngày của hoàng đế. Ở gần bên thiên tử, hai người thỉnh thoảng cũng được Triệu Phụ chú ý.

Thời điểm chính giữa mùa đông là lúc rét đậm, tuyết bay trắng trời. Triệu Phụ xử lí chính vụ ở điện Thùy Củng, hậu cung báo tin có bà phi bị ốm, Triệu Phụ bèn về hậu cung để thăm. Đường Thận và Diêu Thiện lẳng lặng đi theo rồi gác ở ngoài cửa cung. Một canh giờ sau, Triệu Phụ mới đi ra.

Quý Phúc rạp người, cẩn thận giương ô che tuyết cho Triệu Phụ.

Triệu Phụ ra đến cửa cung thì thấy tuyết bám đầy trên đầu Đường Thận và Diêu Thiện. Triệu Phụ sửng sốt: "Các ngươi vẫn chờ ở đây ư?"

Đường Thận và Diêu Thiện dạ ran.

Triệu Phụ trỏ tóc Đường Thận mà đùa với Quý Phúc: "Ngươi xem, Diêu khanh thì thôi, bốn mươi tuổi chẳng còn là trẻ, phải có tóc bạc từ sớm rồi. Nhưng Đường khanh tóc còn đen nhánh, thế mà hôm nay lại thành ông cụ già lụ khụ." Ngoài miệng nói vậy, nhưng Triệu Phụ ra lệnh ngay cho hai thái giám khác che ô cho Diêu Thiện và Đường Thận.

Đường Thận ngẩng lên, lén nhìn Triệu Phụ.

Trở về điện Thùy Củng, Triệu Phụ cho Đường Thận và Diêu Thiện đi thay quần áo.

Đợi đến khi hai người về, Triệu Phụ đang phê dở bản tấu liền thong thả gác bút son. Ông ta ngồi trên ngai vua, ngẩng đầu lên nói bằng một giọng nhẹ nhàng, từ tốn và rất đỗi nhã nhặn: "Vấn Cơ, ngươi hầu bên trẫm đã bao lâu rồi?"

Vấn Cơ là tự của Diêu Thiện. Được Triệu Phụ bất chợt gọi tên, Diêu Thiện vừa mừng vừa sợ, lập tức đứng lên tâu: "Thần đảm nhiệm chức Khởi Cư lang đã được hai tháng."

Triệu Phụ dường như giờ mới nhớ ra: "Phải, đã hai tháng rồi. Cảnh Tắc nhậm chức cùng lúc với Vấn Cơ, vậy cũng là hai tháng nhỉ?"

Đường Thận cũng đứng lên, chắp tay cúi đầu: "Vâng ạ."

Triệu Phụ cười nói: "Vấn Cơ là người Thịnh Kinh, tuyết lớn nhường này đã thấy rồi. Cảnh Tắc hình như là người Giang Nam đúng không?"

Đến ngón tay Đường Thận cũng thấy căng thẳng, cậu giữ bình tĩnh, đáp: "Thần là người Cô Tô ạ."

"Cô Tô có tuyết lớn thế này không?"

Đường Thận đáp: "Năm ngoái thì rất ít. Thần chỉ thấy trận tuyết to thế này vào mấy năm trước, hồi miền Nam gặp nạn tuyết lớn thôi."

Nghe thế, nét mặt Triệu Phụ thoáng lên vẻ hồi tưởng: "Nạn tuyết lớn miền Nam mấy năm trước... Ồ, là năm ấy. Khi đó Cảnh Tắc còn nhỏ nhỉ?"

"Năm ấy thần mười ba tuổi ạ."

Triệu Phụ hỏi Đường Thận thêm vài câu rồi thôi, chuyển sang hỏi về trải nghiệm của Diêu Thiện hồi ở biên cương, những điều anh ta mắt thấy tai nghe trên chiến trường. Diêu Thiện hai mươi năm trước đã vứt bút tòng quân, xông pha sa trường. Triệu Phụ quan tâm đặc biệt đến Diêu Thiện, cũng là vì trong số tiến sĩ rất hiếm có tướng võ như anh ta.

Hôm nay, Đường Thận và Diêu Thiện về nhà, chưa được một lúc đã có thái giám tặng quà đến phủ Trạng Nguyên và phủ Thám Hoa.

Triệu Phụ tặng cho mỗi người một tấm áo khoác lông, kèm theo vô số món điểm tâm của hoàng đế trong cung đình. Đường Thận và Diêu Tam đã đến trấn Lạc Hà, tiếp xúc với người Liêu, đặc biệt là Diêu Tam còn quen thuộc với rất nhiều thương lái người Liêu nữa. Nước Liêu xưa nay thừa mứa áo choàng lông chồn; Diêu Tam vuốt tấm lông áo Triệu Phụ ban thưởng, xuýt xoa: "Tiểu đông gia, màu lông mướt quá, chiếc áo thể này là hàng thượng hạng, ở nước Liêu cũng là của hiếm đấy!"

Đường Thận lặng lẽ vuốt ve tấm áo choàng lông, cậu nhắm mắt lại, nhẹ nhàng thở dài.

Cất áo choàng vào rương quần áo, Đường Thận tiến vào thư phòng, mài mực. Trong thư phòng, ánh nến chập chờn, Đường Thận nghĩ hồi lâu, chấm một ít mực, mở sổ nhỏ, tập trung viết chữ. Hôm sau, cậu nộp cuốn sổ này lên. Ba ngày sau, khi Lý Thư và Đường Thận cùng nhau công tác, Triệu Phụ gọi riêng Đường Thận ở lại.

Lý Thư kinh ngạc liếc nhìn Đường Thận, hành lễ rồi lui ra.

Đường Thận theo chỉ dẫn của Quý Phúc, tiến vào đài Đăng Tiên.

Đài Đăng Tiên được xây cất ở giữa chín mươi chín giá nến. Những giá nến này được xếp thành ba tầng, chia ra bốn mặt, lấy Triệu Phụ làm trung tâm. Trước mặt Triệu Phụ là một loạt giá nến bằng đồng thau. Mỗi giá nến thắp chín ngọn đèn trường minh. Triệu Phụ mặc đạo bào màu trắng, ngồi ở chính giữa. Trên đầu ông ta không đội long quan mà chỉ cài một cây trâm giản tiện. Vài sợi tóc trắng không búi hết rơi lòa xòa trên vai, trông ông ta hoàn toàn không giống một hoàng đế nắm cả thiên hạ trong lòng bàn tay, mà như một đạo sĩ siêu nhiên đã thoát khỏi cõi trần.

Lý Thư nói, ngoài các tể tướng trong Trung Thư tỉnh, chỉ có Chinh Tây nguyên soái Lý Cảnh Đức, Thượng thư bộ Hộ Vương Tử Phong và Thiếu khanh Đại lý tự Tô Ôn Duẫn là được vào đài Đăng Tiên. Đường Thận nghĩ thầm, không biết ông ta nói vậy tức là những người này thường xuyên được vào đây, hay mới chỉ vào một lần.

Nhưng tóm lại, hôm nay đến lượt Đường Thận được tiến vào.

Triệu Phụ ngồi giữa đài tu luyện được bao quanh bởi những ngọn nến, tĩnh tại như một vị tiên, dường như hơi thở cũng tan biến theo.

Một hồi lâu sau, ông ta mới nhẹ nhàng thở ra một hơi, mở mắt, nói với Đường Thận: "Cảnh Tắc, hôm nay ngươi quan sát trẫm, đã thấy những gì?"

Gần vua như gần hổ, câu hỏi của ông ta khiến cả Quý Phúc cũng phải choáng váng.

Thời gian tu tiên là quãng thời gian Triệu Phụ trở nên lạ lùng nhất, tính tình kì quặc, cực kì khó nắm bắt. Có lúc thì cười sang sảng, có lúc lại giận tím tái mặt mày. Đài Đăng Tiên này đã là nơi bỏ mình của mấy tên thái giám và cả mấy tên đạo đồng. Triệu Phụ bên ngoài có thể đóng vai một vị vua sáng suốt, nhưng mỗi khi vào đài Đăng Tiên, ông ta sẽ không coi mình là hoàng đế nữa, mà tự nghĩ bản thân là một vị tiên.

Quý Phúc không biết phải trả lời thế nào, Đường Thận cũng không tài nào hiểu nổi.

Nhưng cậu chỉ hơi luống cuống thôi rồi tỉnh táo lại ngay. Bản lĩnh đọc một lần là nhớ lại được phen trổ tài, các loại kinh, điển nổi tiếng của Đạo gia như Chu Dịch, Trang tử đến Đạo Đức kinh, Hoài Nam Tử lướt qua vùn vụt trong đầu cậu. Đường Thận vái dài, cất tiếng nói thanh thoát: "Bậc đức cao coi thường tục đức, vì thế nên có đức. Người đức thấp nệ vào tục đức, vì thế nên không có đức. Thần quan sát bệ hạ, có khác nào chiêm ngưỡng điều đã vượt lên khỏi trần thế, nhìn thấy mà cứ như chưa nhìn thấy, chưa nhìn thấy mà ngỡ như đã thấy."

Triệu Phụ cười ha hả.

Quý Phúc không biết chữ, không hiểu ý Đường Thận, nhưng thấy Triệu Phụ vui vẻ đến thế, lão ta thầm nhủ: Không ngờ Đường đại nhân còn khéo nịnh hơn cả mình! Hôm nay vinh hạnh được gặp bậc thầy trong nghề rồi.

Triệu Phụ nói: "Ngươi lui xuống trước đi."

Quý Phúc có chút kinh ngạc, lão hành lễ rồi thưa: "Vâng."

Cổng lớn đóng kín lại, đài Đăng Tiên chỉ còn lại hai đạo đồng trẻ canh đèn trường minh, Triệu Phụ và Đường Thận.

Triệu Phụ ngồi xếp bằng, hỏi Đường Thận: "Cảnh Tắc à, ngươi đã đến nước Liêu chưa?"

Đường Thận lập tức thi lễ, thưa: "Thần chưa từng đến nước Liêu."

"Ồ, vậy ngươi viết bản tấu ấy là có ý gì?"

Đường Thận giải thích: "Thần chưa từng đến nước Liêu nhưng thần đã tới trấn Lạc Hà. Bệ hạ có lẽ chưa biết, trấn Lạc Hà là một trấn nhỏ ở biên giới Đại Tống và Liêu, nằm ở hướng Đông Bắc của lãnh thổ Đại Tống. Các thành, trấn ở Tây Bắc Đại Tống chúng ta thường xảy ra xung đột với Liêu, còn ở hướng Đông thì buôn bán, qua lại khá nhiều."

Triệu Phụ gật đầu.

Đường Thận thưa tiếp: "Thần và gia nhân từng đến trấn Lạc Hà, gặp một vài thương nhân người Liêu, dọc đường cũng tiếp xúc với một số người Liêu. Người Tống chúng ta rất hiền lành, nhưng thái độ của người Liêu với chúng ta thì vô cùng kẻ cả, trịch thượng, ăn nói hành xử thô tục, cử chỉ thiếu tôn trọng, không thèm coi người Tống chúng ta ra gì! Thần thấy một lái buôn người Liêu nhỏ nhoi mà đã thế, vậy cái nhìn của triều đình nước Liêu với nước Tống chúng ta ra sao, không còn gì để bàn cãi. Vì thế, vi thần bất tài, tha thiết mong bệ hạ minh giám, người Liêu là phường sài lang mãnh thú, không thể coi thường!"

Ánh mắt Triệu Phụ lướt qua Đường Thận rồi dừng lại ở chín ngọn đèn trường minh sau lưng cậu.

Đường Thận một mực cúi đầu, không dám lên tiếng, ngay cả hít thở cũng phải thật sẽ sàng.

Triệu Phụ nói: "Trẫm biết rồi. Ngươi lui đi."

Đường Thận vừa hành lễ vừa đi giật lùi về phía sau. Chờ đến khi ra khỏi cửa cung của đài Đăng Tiên, cậu mới thẳng lưng tên. Trước hết là hành lễ với Đại thái giám Quý Phúc trông giữ ngoài cửa. Quý Phúc ra chiều kinh sợ vì sự ưu ái ấy: "Đường đại nhân coi trọng chúng tôi quá." Miệng nói thế nhưng mặt lão tỉnh bơ, coi rằng ấy là lẽ đương nhiên.

Đường Thận rời khỏi đài Đăng Tiên, xuất cung, về nhà.

Hôm sau, một viên quan từ bộ Lại đến nha môn Trung Thư tỉnh tìm Đường Thận vào lúc cậu đang đọc Khởi Cư chú từ thời tiên đế. Vị quan bộ Lại ấy lấy thánh chỉ ra, toàn bộ Khởi Cư lang và Khởi Cư xá nhân trong phòng quỳ xuống đất. Ông ta dõng dạc tuyên đọc: "Các khanh, trẫm vâng mệnh trời cao, Trung Thư tỉnh Khởi Cư xá nhân Đường Thận văn nhã khiêm đạt, giữ vững phép tắc kỉ cương triều đình, trong đời sống càng bội phần trung thực. Nay thăng làm Khởi Cư lang ngũ phẩm, nhậm chức ngay trong ngày hôm nay, khâm thử. Tháng Giêng, năm Khai Bình thứ hai mươi tám."

Cùng lúc đó, viên quan bộ Lại lấy một thánh chỉ khác ra: "Các khanh, trẫm vâng mệnh trời cao, Trung Thư tỉnh Khởi Cư lang Trương Tư kính mẫn cung thân, từ thiện đạt nhã. Nay thăng làm Ngu bộ lang trung bộ Công, hàm tứ phẩm, nhậm chức ngay hôm nay, khâm thử. Tháng Giêng, năm Khai Bình thứ hai mươi tám."

Tất cả mọi người vô cùng kinh hãi, Đường Thận và Trương Tư lĩnh thánh chỉ.

Chờ viên quan ấy đi rồi, mọi người xúm lại chúc mừng Trương Tư và Đường Thận thăng chức. Trương Tư cười ngại ngùng: "Đa tạ chư vị đồng liêu."

Được cất nhắc từ ngũ phẩm Khởi Cư lang lên tứ phẩm Lang trung bộ Công tưởng chừng như là sự thăng tiến; song thực chất, được thăng chức kiểu này đồng nghĩa với việc rời xa trụ cột hoàng quyền, từ giờ không thể thường xuyên thấy vua nữa! Con đường cho Khởi Cư lang và Khởi Cư xá nhân thường có hai nhánh, một là từ Khởi Cư lang thăng lên thành quan Trung Thư, ví dụ như Trung Thư xá nhân, vẫn có thể diện thánh thường xuyên. Nhánh còn lại là bị tách khỏi trung tâm hoàng quyền một cách triệt để.

Trương Tư có thể không chỉ dừng lại ở chức Lang trung tứ phẩm, nhưng muốn quay lại Trung Thư tỉnh chỉ e là rất khó khăn. Giờ gã bị thuyên chuyển từ Trung thư tỉnh sang Thượng thư tỉnh, trong tương lai, trừ khi phấn đấu lên thành Thượng thư một bộ, còn đâu coi như hết đường quay về Trung thư tỉnh đầy quyền uy.

Mọi người lại quay sang chúc mừng Đường Thận.

Đường Thận vẫn chưa hết ngạc nhiên, cậu chắp tay: "Đa tạ chư vị đồng liêu."

Trương Tư nhìn về phía Đường Thận bằng ánh mắt ghen tị và ước ao.

Việc bổ nhiệm, điều động hai viên quan tứ phẩm ngũ phẩm chỉ như gợn nước trên triều đình, chẳng gây ra nổi sóng gió gì cả. Nhưng năm Khai Bình thứ hai mươi tám, ngay sau dịp lễ năm mới, hoàng đế Triệu Phụ tuyên thánh chỉ, ra lệnh xây dựng một tuyến quan đạo và một kênh đào từ Thịnh Kinh lên phía Bắc!

Mệnh lệnh này khiến quần thần trên triều phải sửng sốt.

Tả thị lang bộ Hộ – Từ Lệnh Hậu bước lên một bước, tâu: "Bệ hạ, từ năm Khai Bình thứ mười, hai nước Tống Liêu kí hòa ước đến nay đã là mười tám năm. Trong mười tám năm vừa qua, thiên tai không ngừng xảy đến. Xa xôi không nói đến, gần thì ba năm trước vừa có nạn tuyết lớn ở miền Nam, năm ngoái thì tỉnh Hà Nam hạn hán nghiêm trọng. Quốc khố eo hẹp, việc xây dựng quan đạo và kênh đào, kính mong bệ hạ cân nhắc lại!"

Hữu thị lang bộ Công – Tạ Thành phất tay áo, thưa: "Hai nước đình chiến đã mười tám năm, từ cổ chí kim, thiên tai đã khi nào ngưng nghỉ. Nếu không có nhân họa, chỉ có thiên tai, vì cớ gì quốc khố mãi chẳng đầy? Ý của Từ thị lang là, trong quá trình bệ hạ tại vị, thiên tai nhiều hơn so với trước sao?"

Vương Trăn vốn lắng nghe với tâm thế bình thản, nhưng riêng câu này của Hữu thị lang bộ Công lại khiến chàng liếc ông ta một cái.

Từ Lệnh mặt đỏ phừng phừng: "Thần tuyệt đối không dám có ý đấy ạ! Quan đạo có thể không tính, nhưng từ xưa đến nay, mỗi lần xây dựng kênh đào đều tốn kém rất nhiều tiền của. Mong bệ hạ lùi kì hạn lại, công trình này không thể hoàn thành trong một sớm một chiều được ạ!"

Tạ Thành tiếp tục tâu: "Thần cho rằng, từ triều đại trước, Đại Vận Hà bắt nguồn từ Thịnh Kinh ở phương Bắc, xuôi nam về Tiền Đường, nối liền phía Nam nước ta. Giờ xây thêm một kênh đào nữa dọc lên phương Bắc thì từ nay về sau, Nam Bắc sẽ được nối liền thông suốt, tạo phúc cho ngàn đời sau!"

Nhất thời, các đại thần đều nêu ý kiến của mình.

Triệu Phụ ngồi trên ngai rồng, chờ các đại thần ồn ào tranh luận xong xuôi đến hết hơi, ông ta mới nhìn Thượng thư bộ Công – Viên Mục, hỏi: "Ý Viên khanh thế nào?"

Viên Mục tiến lên một bước, hành lễ thưa: "Lợi ích của công trình này sẽ tồn tại mãi về sau. Thần cho rằng như thế quá tốt."

Triệu Phụ lại hỏi Vương Trăn: "Còn Tử Phong thì sao?"

Vương Trăn bước ra khỏi hàng ngũ quan lại, hành lễ nói: "Khi xưa Dương đế nối liền phương Nam, mang lại ích lợi cho hàng trăm thế hệ. Ngày nay bệ hạ nối liền phương Bắc, gắn kết hai miền Bắc Nam, đương nhiên là đại sự thiên cổ. Nhưng Dương đế xây được kênh đào thông suốt miền Nam, vốn phải dựa vào hệ thống sông nước phương Nam dày đặc, nguồn nước mưa dồi dào. Phương Bắc Đại Tống ta sông ngòi thưa thớt, hạn hán liên miên. Thần cho rằng việc xây kênh đào nên hoãn lại. Chi bằng thay vì xây kênh đào, chúng ta xây ba tuyến quan đạo, thông về ba hướng Đông, Tây, chính Bắc."

Các quan bộ Hộ lập tức ủng hộ: "Thần tán thành."

Viên Mục nhìn Vương Trăn – chàng đã lại hướng ánh mắt xuống sàn điện – nghĩ bụng nhà ngươi nói thì nghe có vẻ kín kẽ đấy, nhưng chẳng phải chỉ muốn tiết kiệm tiền thôi hay sao. Trong lòng thì rủa thầm Vương Tử Phong, nhưng bản thân Viên Mục cũng biết việc xây kênh đào lên phía Bắc tốn kém vô cùng. Vì vậy ông ta cũng nói: "Thần tán đồng ạ."

Triệu Phụ bảo: "Thế thì cứ y lời Tử Phong nói, bãi triều."

Bãi triều xong, trên đường trong cung, Viên Mục ngăn Vương Trăn lại. Vương đại nhân mỉm cười, Viên đại nhân thì cạn lời: "Không xây kênh đào được thật à?"

Vương Trăn: "Nếu bộ Hộ cấp tiền được, thì bộ Công các ông có xây nổi không?"

Viên Mục á khẩu.

Bộ Công của ông ta đúng là không xây nổi Đại Vận Hà lên miền Bắc.

Lúc này, Đại thái giám Quý Phúc đi tới. Lão ta vái chào, rồi nói với Vương Trăn: "Vương đại nhân, bệ hạ triệu kiến."

Vương Trăn theo Quý Phúc đến điện Thùy Củng.

Thấy chàng, Triệu Phụ có vẻ vui, cười nói: "Tử Phong đã sớm biết rồi phỏng?

Vương Trăn quan sát xung quanh, hôm nay Khởi Cư lang là Lý Thư, Khởi Cư xá nhân là Quách Tuệ. Hai người này đều là tâm phúc của Triệu Phụ. Mỗi khi Triệu Phụ triệu Vương Trăn đến để nói một số chuyện bí mật, hai người này đều tỏ vẻ như không nhìn thấy, cũng không chép lại vào Khởi Cư chú.

Vương Trăn không hiểu gì, thưa: "Thần không hiểu ý bệ hạ."

Có lẽ Triệu Phụ đang rất hưng phấn. Ông ta rời ngự tọa, đi vòng quanh nhìn Vương Trăn một hồi mới nói: "Hóa ra ngươi không biết thật! Thế thì sư huynh đệ hai người các ngươi có thần giao cách cảm rồi."

Chú thích

[1] Trích bài ký Nhạc Dương Lâu của Phạm Trọng Yêm (đã chú thích ở những chương trước).

Trích Đạo Đức Kinh chương 38. Bản dịch của Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ.

Trung thư tỉnh và Môn hạ tỉnh là hai cơ quan quyền lực hơn cả vì chúng lần lượt phụ trách soạn thảo các chính sách và thẩm định chính sách trong triều đình. Chức Trung Thư xá nhân là chức chịu trách nhiệm soạn thảo chiếu lệnh. Trong triều đình Việt Nam chúng ta cũng có Tam sảnh tương đương với Tam tỉnh, gồm sảnh Thượng thư, sảnh Trung thư và sảnh Môn hạ.

Chương 54

Minh tu sạn đạo*

Tiêu đề lấy từ kế "minh tu sạn đạo, ám độ Trần Thương" của tướng Hàn Tín thời Hán; giống kế giương Đông kích Tây: ngoài mặt sửa lối mòn cho quân địch lơ là, nhưng thực tế thì đi vòng đường tắt đánh úp

Vương Trăn suy nghĩ thoáng qua, cân nhắc từ đầu đến cuối những việc vừa xảy ra.

Hôm nay lâm triều, đột nhiên Triệu Phụ tuyên bố ý định mở đường và kênh đào. Tính khả thi của ý tưởng này thực sự không hề cao vì xây dựng kênh đào tốn kém vô cùng. Nhất là đào kênh về hướng Bắc thì xưa nay chưa có bao giờ, e là dốc cạn quốc khố cũng không làm nổi.

Triệu Phụ không phải hôn quân, trái lại, suốt hai mươi tám năm trị vì của ông ta, cục diện chính trị và thế lực các quyền thần trong triều được cân đối cực kì ổn định. Ban đầu rõ ràng Triệu Phụ không định đào kênh, ông ta muốn mở ba tuyến đường vận chuyển ở miền Bắc. Để làm được như vậy, trước hết ông ta đưa ra một quyết sách gần như phi lý, khiến quần thần phản bác, sau đó giả vờ nhượng bộ, đồng ý với phương án đơn giản hơn là xây dựng ba con đường.

Điều này không chỉ Vương Trăn mà các tể tướng trên triều hôm nay đều nắm trong lòng bàn tay. Vì thế mọi người cùng nhau hợp sức giúp Triệu Phụ diễn kịch, lôi kéo sự đồng thuận cho chính sách mở đường.

Mỗi tội Vương Trăn không ngờ, đằng sau việc này còn có bóng dáng của tiểu sư đệ nhà mình.

Sau khi rời khỏi điện Thùy Củng, Vương Trăn đánh tiếng để trao đổi với Quý Phúc, chàng hỏi thăm một chút là biết được chuyện năm ngoái Đường Thận từng dâng một cuốn sổ tấu lên. Liên hệ với việc Đường Thận đột nhiên được thăng lên thành ngũ phẩm Khởi Cư lang, Vương Trăn tháo miếng bạch ngọc và chiếc túi hương bên hông xuống, cầm trên tay ngắm nghía.

"Cảnh Tắc ơi là Cảnh Tắc ơi, đệ giỏi mang đến cho ta những bất ngờ đáng vui mừng lắm đấy!"

Triều đình muốn làm đường, lại còn là ba tuyến đường huyết mạch dẫn lên phía Bắc, thoắt cái đã tạo công ăn việc làm cho bá quan văn võ toàn triều.

Bộ Hộ thì lo chu cấp tiền bạc, bộ Lại thì chịu trách nhiệm điều phối nhân sự, bộ Binh phụ trách đảm bảo an toàn trên đường. Riêng bộ Công là bận rộn nhất. Cơ quan phụ trách việc tu bổ đường sá ở bộ Công chính là Ngu bộ, lo từ chuyện ao hồ đồi núi đến thuyền bè may mặc... Hoàng đế ban chiếu thư, các quan trong ban đều bị điều hết đi công tác trên cả ba tuyến đường. Do cùng lúc phải xây dựng đến ba con đường, nhân lực của Ngu bộ không đáp ứng được, phải bổ sung thêm một lô nhân tài từ bên Thủy bộ và viện Văn Tư sang.

Mai Thắng Trạch vốn là quan ở Thủy bộ, cuối năm ngoái đã ốm xác vì dự án trùng tu hồ Thái Dịch của ban này. Chưa kịp hoàn hồn, anh ta đã bị túm sang Ngu bộ.

Mười chín tháng Giêng, Mai Thắng Trạch chuẩn bị rời Thịnh Kinh, đi U Châu công cán.

"Chuyến này đi không biết bao giờ mới có ngày về, sớm nhất cũng phải sang năm!" Trong lầu Tế Hà, Mai Thắng Trạch đứng dậy nâng chén, buồn bã nói với các bạn học Quốc Tử Giám khi xưa. "Ai cũng bảo ta may mắn, tuy không đỗ đệ nhất giáp, nhưng sau kì thi quan lại thì được giữ lại ở Thịnh Kinh, không bị điều ra ngoài. Nhưng các bạn ơi, ta còn không bằng những người được điều đi nữa kia!"

Mai Thắng Trạch phải đi, các bạn học ở Quốc Tử Giám hẹn nhau ở lầu Tế Hà tiễn anh.

Lưu Phóng cũng được ở lại Thịnh Kinh, làm quan kinh thành ở bộ Hộ. Anh ta nâng ly: "Thắng Trạch huynh nói gì thế, việc làm đường lần này là cơ hội làm ăn lớn đấy."

Mai Thắng Trạch sầu não: "Cơ hội lớn nào đến lượt quan lục phẩm nhãi nhép như ta?"

Mọi người đành gắp thức ăn và châm rượu cho Mai Thắng Trạch liên tùng tục. Mai Thắng Trạch đau lòng quá, tu rượu như nước lã, chẳng mấy chốc đã say bí tỉ. Đường Thận sai quản lý Lục đưa anh ta vào nghỉ trong một nhã gian trống suốt buổi chiều. Đến tối, Mai Thắng Trạch tỉnh dậy, đầu váng mắt hoa, các bạn học Quốc Tử Giám đều đã ra về cả, chỉ còn lại Đường Thận ngồi với mình.

Ở Quốc Tử Giám, Mai Thắng Trạch thân với Đường Thận nhất. Giờ chỉ còn hai người, anh không ngần ngại mà trút hết nỗi lòng với Đường Thận: "Cảnh Tắc ơi, đệ nói xem huynh đã tạo nghiệp gì chứ! Người bình thường thì được quan kinh thành, tiền đồ như gấm. Còn huynh, mới chân ướt chân ráo đã phải vào bộ Công, sửa xong cái ao lại bị người ta bắt đi làm đường. Uổng cho mười năm học tập gian khổ, nếu biết cơ sự thế này, huynh còn đọc sách Nho làm gì, thà đọc sách xây dựng còn hơn!"

Đường Thận rót cho anh ta một chén trà giải rượu: "Không đến nỗi bi đát như huynh nói đâu."

Mai Thắng Trạch: "Không bi đát như huynh nói á? Quả thực, việc thông đường về phía Bắc chắc chắn là công trình lớn nhất năm nay. Từ quy mô điều động thợ thuyền đến các kế hoạch dự trù, đều rất nghiêm chỉnh và bài bản."

Đụng tới công trình to thế này, dù không tham ô, các quan nhúng tay vào đều vợt được miếng ngon.

"Nhưng thế thì có liên quan gì đến ta chứ!" Mai Thắng Trạch ngửa mặt lên trời than: "Rốt cuộc tại sao thánh thượng tự dưng muốn làm đường? Thằng trời đánh nào hiến kế cho bệ hạ vậy? Nó hót mỗi một câu mà đám quan tiểu tốt như chúng ta phải bán mặt cho đất bán lưng cho trời đằng đẵng cả năm!"

Đường Thận cũng lên án kịch liệt: "Dám đề xuất xây đường, cái ngữ ấy đúng là vô nhân tính!" Cậu nói hùng hồn như thể ôm mối thù chung.

Tiễn Mai Thắng Trạch, Đường Thận bất ngờ nhận được một tấm thiệp mời.

Thiệp này là của Trương Tư – người trước đây còn là Khởi Cư lang ngũ phẩm. Khởi Cư lang vốn có ba người, khi Đường Thận thăng chức, Trương Tư đã được điều sang làm chức Lang trung Ngu bộ, hàm tứ phẩm. Ban đầu Trương Tư tưởng vụ bổ nhiệm này là giáng chức trá hình, cay đắng khổ sở biết bao lâu. Đến khi triều đình tuyên bố làm ba tuyến đường, gã một bước lên tiên ngay tắp lự.

Mai Thắng Trạch là lục phẩm tép riu, chuyện cầu đường anh chỉ có thể được chia phần bèo bọt chứ chẳng được dự phần chính. Song Trương Tư thì khác, nên gã được thể huênh hoang vô cùng, mở tiệc chiêu đãi đồng liêu rầm rộ trước khi đi U Châu.

Trong tiệc rượu, Trương Tư chủ động mời Đường Thận một chén, Đường Thận cung kính đáp lễ.

Trương Tư nói: "Thì ra bệ hạ mưu tính sâu xa như vậy, trước đây ta hạn hẹp quá, còn đố kị với cậu nữa. Cảnh Tắc, ta thật lòng xin lỗi."

Đường Thận: "Chúc Trương đại nhân thuận buồm xuôi gió."

Nếu việc mở đường thành công tốt đẹp, Trương Tư chẳng những kiếm được một khoản kếch xù cho riêng mình, mà có khi còn được thăng quan tiến chức.

Trương Tư đi rồi, không ngờ người tiếp theo lên đường lại là Vương Tiêu.

Năm Khai Bình thứ hai mươi bảy, Trạng Nguyên Diêu Thiện, Thám Hoa Đường Thận đều vào Trung Thư tỉnh, trở thành Khởi Cư lang ngũ phẩm. Riêng Bảng Nhãn Vương Tiêu thì như bị Triệu Phụ quên mất, dậm chân mãi ở chức Hàn Lâm viện Biên tu thất phẩm suốt cả năm. Hôm nay, triều định muốn mở đường, anh ta mới bất ngờ được giao trách nhiệm mới, thăng làm Viên ngoại Ngu bộ ngũ phẩm, lập tức sửa soạn đến Ninh Châu làm đường ngay.

Quả nhiên tẩm ngầm tầm ngẩm mà đấm chết voi.

Quá nửa tiến sĩ khoa bọn họ đã rời khỏi Thịnh Kinh, còn non nửa hội họp với nhau ở lầu Thiên Lý.

Đường Thận và Diêu Thiện đã sáu tháng không gặp Vương Tiêu, hôm nay tái ngộ, cả ba người đều xúc động vô cùng.

Vương Tiêu như già thêm năm tuổi, rõ ràng chưa đến tuổi băm mà tóc mai đã điểm bạc. Anh nâng chén mới Đường Thận và Diêu Thiện, ba người không nhiều lời, chỉ uống rượu. Đến nửa đêm, Vương Tiêu phấn chấn ra về. Ba ngày sau, anh ta đóng gói hành lí, chuẩn bị khởi hành về phía Bắc đến Ninh Châu. Trước khi đi, bỗng có một người khách đến thăm.

Vương Tiêu đích thân đón tận cổng, người ấy là quản gia phủ Thượng thư bộ Hộ.

Vương Tiêu mời quản gia của Vương Trăn vào nhà, quản gia đưa một phong thư cho Vương Tiêu, nói: "Thượng thư đại nhân công vụ bề bộn, không thể đích thân đến tiễn. Ngài viết phong thư này dặn tôi trao cho anh. Khi nào Vương công tử đến Ninh Châu, nếu gặp việc cấp bách, cứ đem thư này đến chỗ Công bộ Tả thị lang đại nhân là được."

Ở Thịnh Kinh hai năm, Vương Tiêu đã sớm hết hi vọng với người bà con xa là Vương Trăn rồi, hôm nay cầm lá thư, bất giác ứa hai hàng lệ.

"Đa tạ Thượng thư đại nhân!"

Mười năm đằng đẵng mài kinh sử, đế đô mấy bận nhạt tình người.

Hôm nay, anh lên đường tới phương Bắc, khởi đầu một trang mới trong cuộc đời mình.

Triều đình muốn mở ba con đường lớn, lần lượt nối về U Châu, Thứ Châu và Ninh Châu. Ba châu này đều giáp với nước Liêu ở ba hướng Tây Bắc, chính Bắc và Đông Bắc. Thực tế mà nói, kế hoạch xây dựng cả ba tuyến đường chỉ là để tung hỏa mù. Mục tiêu quan trọng của Đại Tống chính là làm đường thông đến châu U.

Công tác làm đường ở U Châu do Thượng thư bộ Công Viên Mục đích thân giám sát.

U Châu là chốt phòng ngự quân Liêu trọng yếu của Đại Tống, việc kiến tạo một con đường đâm thẳng đến U Châu không chỉ giúp thông tin kịp thời về việc quân tình mà còn giúp đẩy nhanh tốc độ vận lương cho tiền tuyến một khi chiến tranh nổ ra.

Ninh Châu nằm ở khu vực Đông Bắc bộ của Đại Tống, trấn Lạc Hà thuộc về khu vực phía Bắc Ninh Châu.

Con đường đến Ninh Châu là dễ làm nhất vì khoảng cách ngắn nhất. Chỉ cần có con đường này thì dù lầu Tế Hà không tự mở lối đi cho mình được, cứ chờ đến cuối năm là có thể vận chuyển thịt dê, bò bằng tuyến quan đạo này, đỡ phải nhún nhường trước gã thương nhân người Liêu Gia Luật Cứu kia.

Biết chuyện triều đình làm đường, Diêu Tam và quản lý Lục mừng quýnh.

Ba tháng sau, Diêu Tam định một mình đến trấn Lạc Hà để nghe ngóng tình hình làm đường. Đường Hoàng ở Thịnh Kinh nửa năm nay đã chán lắm rồi, nằng nặc đòi Diêu Tạm phải dắt đi theo. Diêu Tam không thuyết phục nổi, đành dẫn theo Đường Hoàng lên phương Bắc.

Tháng tư, hai người trở về từ trấn Lạc Hà.

Diêu Tam nói: "Tiểu đông gia, quan đạo ở Ninh Châu xây nhanh lắm! Tuyến đường này cũng không có núi sông cách trở gì cả, phần lớn là bình nguyên. Tính đến hôm nay, tôi quan sát thấy đã xây được một phần sáu rồi. Dự kiến đến cuối năm nhất định sẽ hoàn thành!"

Đường Thận làm Khởi Cư lang, trong lúc ghi chép về hoàng đế cũng nghe được nhiều tin tức phương xa được các quan bên bộ Công báo về, tiến độ công trình không khác với những gì Diêu Tam quan sát lắm. Đường đi U Châu là khó xây nhất, xong đến Thứ Châu, rồi cuối cùng là Ninh Châu.

Đường Hoàng: "Thực ra Đại Tống vẫn có đường lên phía Bắc, nhưng ba con đường mới này thì khác. Ba tuyến đường này chạy thẳng lên miền Bắc, không có đường rẽ đường cắt, hơn nữa chiều rộng mặt đường rất lớn, ở những khu vực mưa nhiều còn rải đá vụn để lót đường."

Đường Thận giờ mới nhìn sang Đường Hoàng.

Cậu đến thế giới này đã được bốn năm, Đường Hoàng cũng từ một cô nhóc chín tuổi trở thành cô gái mười ba tuổi hôm nay.

Con gái nhà khác thích ở khuê phòng, thêu hoa cỏ, Đường Hoàng thì từ khi đến Thịnh Kinh suốt ngày đến lầu Tế Hà.

Lần này Đường Hoàng muốn đến trấn Lạc Hà, ban đầu Đường Thận định ngăn cản, nhưng thấy ánh mắt kiên định và gương mặt khác hẳn với những khuê nữ được nuông chiều, thì cậu không ngăn cản nữa.

Dân thường không được sở hữu bản đồ quốc gia, Đường Hoàng bèn trải giấy Tuyên, phác thảo lại tuyến đường theo trí nhớ của mình trong hành trình lên phía Bắc. Cô bé nói: "Người Liêu qua lại buôn bán với người Tống chủ yếu ở châu Ninh. Đường ở châu Ninh chậm nhất là đến cuối năm nay sẽ hoàn thành. Sau đó, trừ trường hợp thời tiết quá khắc nghiệt ra, chỉ cần một ngày là hàng hóa từ Ninh Châu có thể vận chuyển thẳng đến Thịnh Kinh. Giờ hãy xét đến phía Nam..."

Bàn tay cô bé dẻo dai, linh hoạt chứ không hề yếu ớt, lia bút vẽ một nét dài ngoằn ngoèo: "Về phía Nam Thịnh Kinh có Đại Vận Hà. Thuyền chở khách bình thường chỉ cần đi nửa tháng là có thể đi từ Thịnh Kinh đến Tiền Đường. Nhưng đấy là là đi với tốc độ chậm, đi cẩn thận, nếu cần gấp, đi nhanh thì chỉ tối đa năm ngày là có thể từ miền Nam lên miền Bắc.

Đường Thận nhìn em gái mình, nghiêm túc hỏi: "Thế nên?"

Tự nhiên bị hỏi, Đường Hoàng ngơ ra, miệng há hốc, lại biến thành một cô nhóc tuổi mười ba.

Nghĩ ngợi hồi lâu, cô bé mới ấp úng: "Anh à, chẳng qua em thấy điều kiện vận tải tốt quá, có thể kinh doanh gì đó... Chẳng phải anh bảo, ưu thế lớn nhất của lầu Tế Hà và Trân Bảo Các nhà chúng ta ở phủ Cô Tô không phải là xà phòng, mà là Hậu cần Đường thị sao?"

Đường Thận chăm chú nhìn Đường Hoàng hồi lâu mới cười: "Em nói đúng, điều kiện tốt như vậy, không tận dụng thì phí của giời!"

Chương 55

Trêu chọc

Đầu tháng năm, Khai Bình hoàng đế Triệu Phụ bị bệnh đầu phong1, phải nằm một chỗ dưỡng bệnh.

[1] Một chứng đau đầu mãn tính

Triệu Phụ bị chứng đầu phong đã lâu, khoảng mười mấy năm trước còn bị một cơn rất nặng, đến nỗi sau khi tỉnh lại thì nhất quyết truy tìm bí quyết trường sinh bất lão. Hằng năm Triệu Phụ đều bị đầu phong một lần, giờ có lẽ do tuổi tác lớn, lần này bệnh vô cùng nghiêm trọng. Triệu Phụ hoãn lên triều, giao hết việc cho Trung Thư Tỉnh, còn mình thì tĩnh dưỡng ở điện Phúc Ninh.

Là Khởi Cư lang, Đường Thận không vì thế mà được nghỉ.

Mỗi ngày, các Khởi Cư lang và Khởi Cư xá nhân phải canh gác ngoài điện Phúc Ninh. Họ không có gì để ghi cả, chỉ đứng đó gác thôi. Đến chạng vạng thì về Trung Thư tỉnh báo cáo với các thừa tướng. Đường Thận mỗi lần báo cáo thì chủ yếu nói xem hôm nay có chuyện gì lớn không. Tỷ như bệnh tình Triệu Phụ có chuyển biến xấu không, Triệu Phụ có dặn dò gì các thừa tướng không; ngày mai Triệu Phụ có tính toán gì không, tiếp tục hoãn lên triều hay định làm gì khác.

Điện Cần Chính là nơi các tướng công trong Trung Thư tỉnh làm việc mỗi khi vào cung.

Hàng ngày các sự vụ lớn nhỏ trong triều đều được đưa đến điện Cần Chính trước, các quan trong Trung Thư tỉnh thẩm tra xong, viết kiến nghị vào rồi dâng lên Triệu Phụ. Triệu Phụ xem xong thì phê vào đấy rồi đưa về điện Cần Chính. Nếu các tướng công không có ý kiến gì thì bản tấu được trả về. Nếu các tướng công có ý kiến khác thì lại đệ sổ lên cho Triệu Phụ duyệt lại.

Đường Thận đi đến điện Cần Chính, bước quá một cánh cổng che rèm hoa. Qua cổng là thấy một cánh cửa khảm bốn đóa hoa mai.

Đi qua cánh cửa đó, Đường Thận được một viên Tiểu lại dẫn đến gian phòng của Tả thừa – Trần tướng công.

"Hạ quan Đường Thận, xin được diện kiến Trần tướng công."

Trần Lăng Hải đang xem một quyển tấu, nghe thấy tiếng nói thì ngẩng lên. Tiểu lại hành lễ với ông rồi rời khỏi phòng. Một tay cầm bản tấu, Trần Lăng Hải quan sát Đường Thận bằng ánh mắt đầy hứng thú. Ông ta cười: "Đường đại nhân đến rồi."

Đường Thận chắp tay: "Thần đến báo cáo công việc ạ."

Tiếp đó, Đường Thận bẩm báo những chuyện trong ngày ở điện Phúc Ninh. Kỳ thực cũng không có việc gì cả, Triệu Phụ nằm trong điện Phúc Ninh một ngày một đêm, không gặp quan nào, cũng không ra khỏi cung đi lại. Gần đến chạng vạng ông ta mới bảo Đường Thận dặn Trung Thư tỉnh tiếp tục quản lí triều chính, sau đó uống thuốc Thái y sắc cho, mơ màng ngủ thiếp đi.

Trần Lăng Hải nghe báo cáo xong, nói: "Đường đại nhân vất vả rồi."

Đường Thận lấy làm lạ, rõ ràng đây là lần đầu cậu gặp Trần Lăng Hải, tại sao ông ta lại thân thiết với cậu đến thế?

Trung Thư tỉnh có bốn vị thừa tướng, lần lượt là Tả tướng, Hữu tướng, Tả thừa và Hữu thừa. Hai vị Tướng xếp hàng trên, là Tể tướng trong triều; hai vị Thừa có nhiệm vụ hỗ trợ, là Phó tướng của triều đình. Trần Lăng Hải là một trong hai Phó tướng. Bốn người này mới đích thực là các tướng công của Đại Tống. Ngoài ra, Lục bộ Thượng thư trong Trung Thư tỉnh cũng tạm được gọi một cách kính trọng là "Tướng công". Vương Trăn và các Thượng thư khác chính là kiểu "Tướng công giả" như vậy.

Đường Thận than thầm trong lòng, nói: "Hạ quan chỉ làm đúng bổn phận thôi ạ."

Báo cáo xong, Đường Thận vái chào Trần Lăng Hải, chuẩn bị rời cung. Cậu vừa ra khỏi phòng của Trần Lăng Hải thì đụng độ một người đàn ông trung niên với chòm râu nhỏ, mặc quan bào nhị phẩm, tiến tới từ phía đối diện trên hành lang chạm trổ hoa. Nhìn thấy Đường Thận, ông ta tỏ vẻ hết sức kinh ngạc. Trần đại nhân lúc ấy cũng đi ra, vui vẻ chào: "Mạnh đại nhân."

Vị này đúng là Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng.

Mạnh Lãng thấy Đường Thận thì ánh mắt soi mói chòng chọc còn ngang nhiên hơn cả Trần tướng công. Ông ta quan sát từ đầu đến chân Đường Thận một hồi. Trước đây, chính ông ta là người đọc tên Đường Thận ở buổi thi Đình, tuyên bố cậu là Thám hoa khoa thi năm Khai Bình thứ hai mươi bảy. Thế mà giờ ông ta lại giả vờ như không hề quen biết, cố ý hắng giọng hỏi: "Trần đại nhân, ai đây ý nhỉ, sao ta chưa thấy ở điện Cần Chính lần nào thế?"

Trần tướng công nói: "Đây là Khởi Cư lang Đường Thận – Đường đại nhân."

Mạnh Thượng thư cố tình diễn: "Ồ, thì ra là Đường đại nhân. Đường đại nhân đến đây có việc chi?"

Đường Thận: "..."

"Bẩm Mạnh đại nhân, long thể của bệ hạ không được khỏe, hạ quan đến đây báo cáo tình hình."

Mạnh Thượng thư dài giọng: "Đến Trung Thư tỉnh báo cáo mà chỉ báo cáo với mỗi mình Trần đại nhân ư? Thế còn bọn ta thì sao?"

Đường Thận: "..."

Mạnh Thượng thư: "Đường đại nhân không thể bên trọng bên khinh thế được, chúng ta đều quan tâm đến long thể bệ hạ. Chi bằng, trước hết ngươi hãy báo cáo với ta đi, báo cáo xong, ta lại dẫn ngươi đến gặp Chung đại nhân, Từ đại nhân... báo cáo hết một lượt cho đủ."

Đường Thận: "..."

Ô cái lão này bị dở hơi à?

Đường Thận tưởng Mạnh Lãng cố ý gây khó dễ cho mình.

Nhưng Mạnh Thượng thư bừng bừng phấn khởi dắt Đường Thận đi hết chỗ nọ đến chỗ kia. Đầu tiên là tìm gặp Tả tướng – Kỷ đại nhân, Kỷ đại nhân đi vắng. Xong ông ta lại dắt cậu sang gặp Vương đại nhân, khéo chưa, Vương đại nhân cũng vắng mặt. Thế là bốn vị tướng công – đại quan nhất phẩm quyền quý nhất triều đình, đã vắng mất hai vị rồi. May quá, Hữu thừa – Từ đại nhân thì có trong phòng. Từ đại nhân là một ông cụ tóc hoa râm, tươi cười hiền hậu. Ông nghe Đường Thận là ai xong, bèn nheo mắt cười, chăm chú nhìn cậu rồi nói: "Còn Thượng thư Lục bộ nữa thì sao? Nhớ để bộ Hộ chốt sổ nhé."

Mạnh Thượng thư mỉm cười: "Vâng."

Thượng thư Lục bộ là quan nhị phẩm, không có gian làm việc riêng như bốn vị tướng công. Họ chia nhau hai người một phòng. Mạnh Thượng thư rất quái chiêu, đầu tiên là dẫn Đường Thận đến bộ Lại, bộ Công, bộ Hình, bộ Binh, rồi cuối cùng mới quành về phòng làm việc chung của bộ Hộ và bộ Lễ.

Mạnh Thượng thư đẩy cửa vào phòng, Vương Trăn ngẩng lên. Thấy Đường Thận sau lưng Mạnh Lãng, Vương đại nhân liền nhíu mày.

Mạnh Thượng thư giới thiệu: "Vương đại nhân, quan viên trong cung đến bẩm báo tình hình này."

Vương Trăn đứng dậy, bước tới trước mặt Đường Thận, mỉm cười gọi: "Tiểu sư đệ."

Mạnh Thượng thư hoảng hốt: "Hóa ra Vương đại nhân và Đường đại nhân là sư huynh đệ sao? À ừ nhỉ, tự dưng ta lại quên béng mất có chết không cơ chứ."

Đường Thận: "..."

Tôi thấy da mặt ông xứng với áo bào quan lớn nhị phẩm lắm đấy!

Vương đại nhân thản nhiên nói: "Nếu đến báo cáo công tác thì báo cáo đi."

Đường Thận cung kính nhắc lại tình hình của Triệu Phụ. Đường Thận nói chuyện thong thả từ tốn, không hèn mọn hay cao ngạo, không nóng nảy hay kiêu căng. Tuy thái độ khiêm nhường là vậy, nhưng trong bụng là vô số lời chửi thầm không thể lộ ra.

Vương Trăn nghe xong liền nói: "Bệ hạ long thể bất an, bá quan chúng ta không thể san sẻ mối lo giúp bệ hạ, quả là thất trách. Mạnh đại nhân, nghe nói triều Chu có một nghi lễ cổ là xây đài trong cung, tụng kinh cho bệ hạ trong chín ngày, thông qua đó mà cầu phúc cho Thiên tử, xin trời phù hộ Thiên tử vạn phúc. Lễ này khi xưa vốn do Đại tư tế cử hành, ngày nay e là chỉ Mạnh đại nhân mới xứng với nhiệm vụ này thôi. Ngày mai ta sẽ viết ngay bản tấu, xin bệ hạ ân chuẩn cho Mạnh đại nhân cầu phúc vì Thiên tử. Việc cao cả như vậy vi thần lúc nào cũng mong được thực hiện. Tiếc là ta chưa từng chấp chưởng bộ Lễ, đành phải nhường vận may này cho Mạnh đại nhân rồi."

Mạnh Lãng sửng sốt: "Sao ta chưa từng nghe nói đến Chu lễ này?"

Vương Trăn tỉnh bơ: "Có mà, trong sách Nhĩ Nhã2 ấy."

[2] Một cuốn từ điển thời cổ đại của Trung Quốc

Mạnh Lãng: "Thật à?"

Vương Trăn: "Thật mà."

Mạnh Lãng: "..."

Mạnh Lãng: "Ta chợt nhớ ra nhà có chút việc, cáo từ trước, không quấy rầy Vương đại nhân và Đường đại nhân tán gẫu."

Mạnh thượng thư quày quả ra về, Đường Thận đó giờ chưa thấy quyền thần nào lật mặt nhanh như lật bánh tráng thế.

Vương Trăn dọn mấy món đồ, bảo: "Chúng ta cũng về thôi."

Đường Thận không phản ứng kịp, ngơ ngác nhìn chàng.

Vương Trăn mỉm cười, đưa tay vén một sợi tóc mướt mồ hôi vương trên trán Đường Thận, nói: "Sắp khóa cổng cung rồi, hôm nay ta không có phiên trực trong cung. Chẳng nhẽ, tiểu sư đệ muốn ở lại điện Cần Chính ư?"

Đường Thận: "..."

"Về về về ạ." Cậu muốn về từ tám mươi đời bảy mươi kiếp trước rồi!

Ngồi trong xe ngựa của quan Thượng thư, Đường Thận lại được dịp đi chùa xe Vương Trăn. Xe ngựa lọc cọc lăn bánh rời khỏi hoàng cung.

Vương Trăn giải thích: "Điện Cần Chính không bận bịu tối ngày như các đệ nghĩ đâu. Tháng trước thì điện Cần Chính bận việc làm đường lên phía Bắc, sang tháng năm thì việc đã bớt đi rồi. Trong sáu bộ ấy à, rảnh nhất là bộ Lễ. Lúc trước đệ không sang đây, cứ mỗi khi đệ phụ trách viết ý chỉ của Thánh Thượng vào sổ truyền đến điện Cần Chính, Mạnh đại nhân mà thấy là lại cố tình cầm đến cho ta xem."

Đường Thận: "Ủa, vì sao thế ạ?"

Vương Trăn nhìn Đường Thận, ánh mắt hóm hỉnh: "Không hiểu à?"

Đường Thận suy nghĩ một chút: "Vì đệ là sư đệ của huynh?"

"Bởi vì chữ chúng ta na ná nhau." Vương Trăn than thở: "Đệ đi thi cách đây cả năm rồi. Mạnh đại nhân đúng là rỗi hơi, cứ ghim mãi! Bình thường đệ không đến điện Cần Chính thì thôi, hôm nay đệ đến, ông ta càng cố tình muốn trêu đệ. Thật ra cũng chẳng phải bông đùa đệ đâu, ông ta muốn chọc ta ấy mà, mỗi tội lại liên lụy đến đệ."

Nói vậy cũng giống như khẳng định rằng, một năm trước, Đường Thận có thể đỗ Thám hoa được là nhờ Vương Trăn không tiếc sức hỗ trợ phía sau.

Đường Thận lặng lẽ nói: "Đa tạ Tử Phong sư huynh."

Vương Trăn nhìn cậu một lát, hỏi: "Ăn tối chưa?"

"Chưa ạ."

"Thế sang phủ Thượng thư cùng ăn nhé."

Xơi một bữa cơm Giang Nam ngon lành ở phủ Thượng thư xong, Đường Thận về nhà. Cậu nhẩm đếm lại ngày trực trong cung của mình, về cơ bản là cứ ba ngày phải đến điện Cần Chính một buổi!

Hầy, phiền ghê!

Đường Thận đã chuẩn bị sẵn tinh thần những lần tới đến điện Cần Chính báo cáo sẽ bị Mạnh Thượng thư và các quan lớn khác hóng hớt trêu chọc. Nào ngờ ba ngày sau, đến phiên cậu vào cung trực, Đường Thận nghe Lý Thư nói rằng, Thượng thư bộ Lễ – Mạnh đại nhân đã lên đàn trời tụng kinh cầu phước cho Triệu Phụ rồi!

Lý Thư: "Nghe đồn là Vương tướng công bảo, xưa kia có nghi lễ thời Chu như vầy. Ban đầu Mạnh tướng công chẳng thèm để ý, chỉ coi là Vương tướng công bịa ra thôi. Ai ngờ hôm sau vương tướng công cầm một quyển sách cổ đến thật, chỉ thẳng vào cho Mạnh tướng công xem. Mạnh tướng công trố mắt, không bàn cãi gì nữa, xế chiều hôm ấy lên thẳng đàn trời tụng kinh luôn."

Đường Thận: "...Ra vậy."

Vương Trăn nói làm sao mà sai được.

Ba năm trước, Lương Tụng từng bảo Đường Thận rằng đời thầy đã gặp một người đọc đến đâu nhớ đến đấy, người ấy chính là Vương Trăn.

Không có Mạnh đại nhân lượn ra lượn vào, Đường Thận đến điện Cần Chính báo cáo tình hình, giỏi lắm thì bị các quan lớn nhìn ngó thêm một tí, chứ không ai cố tình mượn cậu để chọc ghẹo Vương Trăn.

Sau nửa tháng, sức khỏe của Triệu Phụ có khởi sắc.

Một buổi chiều nọ, Đường Thận và Khởi Cư xá nhân đang trông ngoài điện Phúc Ninh thì thấy một người trẻ tuổi mặc quan bào đỏ thẫm từ xa đi tới. Thiếu khanh Đại lý tự được hoàng đế triệu đến điện Phúc Ninh, vua tôi trò chuyện gần nửa canh giờ.

Tô Ôn Duẫn còn ở bên trong, Đại thái giám Quý Phúc đã ra ngoài, nói: "Đường đại nhân, quan gia cho đòi ngài vào ạ."

Đường Thận lập tức tiến vào điện.

Triệu Phụ nằm trên giường, hai má gầy sọp, khí sắc hư nhược. Thấy Đường Thận vào, ông ta nói: "Cảnh Tắc, trước kia ngươi làm việc ở viện Hàn Lâm cũng lâu, coi như quen thuộc với viện Hàn Lâm. Phỉ Nhiên muốn tìm một quyển sách cho trẫm ở viện, ngươi dẫn hắn đi, được không?"

Tim Đường Thận hẫng một nhịp, cậu hành lễ, nói: "Thần lĩnh mệnh."

Triệu Phụ mỉm cười: "Phỉ Nhiên, ngươi đi theo cậu ta đi."

Đường Thận ngẩng lên, tình cờ chạm mắt với Tô Ôn Duẫn.

Có gì đó nháng lên trong đôi mắt rực rỡ như nắng ban mai của anh ta, anh ta cũng đang nhìn Đường Thận. Nghe Triệu Phụ dặn dò xong, Tô Ôn Duẫn nhếch môi, tủm tỉm nói: "Vâng."

Chương 56

Đúng là sư huynh của đệ

Đường Thận và Tô Ôn Duẫn ra khỏi cung, đi đến viện Hàn Lâm ở hướng Đông.

Gần sang tháng sáu, thời tiết oi bức. Hai người xuất cung vào buổi chiều – thời điểm nóng nhất trong ngày. Các điện phía trước trong hoàng cung trồng rất ít cây, không có gì che chắn ánh nắng thiêu đốt rọi thẳng xuống. Đường Thận ra đến ngoài cung thì cả người đã đẫm mồ hôi. Cậu lẳng lặng bước đi, chợt có tiếng nói êm ái cất lên bên cạnh: "Đường đại nhân không nóng sao?"

Đường Thận dừng bước, quay sang đáp lời Tô Ôn Duẫn: "Tô đại nhân nóng à?"

"Hơi hơi."

"Chúng ta đi chậm lại một chút vậy."

Nói thì nói là xuất cung, nhưng thực ra họ vẫn đi ở trong khu vực hoàng thành, chỉ là di chuyển đến các nha môn thôi. Khu vực này không có mấy dân chúng, chủ yếu là các quan kinh thành trực thuộc các bộ đi qua đi lại. Đường Thận là quan Khởi Cư lang ngũ phẩm, Tô Ôn Duẫn thì mặc quan bào tứ phẩm. Các quan kinh thành thấy họ đều phải dừng lại vái chào rồi mới được đi.

Tô Ôn Duẫn cười vui vẻ: "Nghe tên tuổi Đường đại nhân đã lâu, hôm nay được gặp gỡ, đúng là trăm nghe không bằng một thấy."

Đường Thận nhìn anh ta, gương mặt tuấn tú của Tô Ôn Duẫn tràn ngập nét vui cười chứ không có ý gì đặc biệt cả. Đây là cơ hội hiếm có được tiếp xúc với Tô Ôn Duẫn, trong đầu Đường Thận đầy rẫy tính toán. Cậu cũng cười đáp lại: "Kỳ thực hạ quan khá là sợ hãi."

Tô Ôn Duẫn: "Tại sao thế?"

Đường Thận: "Tô đại nhân là Thiếu khanh Đại lý tự, quản lí tất cả những mệnh quan phạm tội trên đời. Được Tô đại nhân nhớ mặt nhớ tên... Hạ quan không sợ thế nào cho được."

Tô Ôn Duẫn ngạc nhiên chớp mắt một cái, rồi anh ta liền nở nụ cười. Tướng mạo chàng trai này có chút nữ tính, cười lên lại càng long lanh rạng rỡ.

"Đường đại nhân đúng là người thú vị."

Nói chuyện gì cũng cần biết điểm dừng ở đâu. Đường Thận mỉm cười thật thà, không đáp lại.

Tô Ôn Duẫn: "Từ trước tới giờ những lần nghe danh Đường đại nhân hầu như đều gắn liền với Phó đại nhân và Vương đại nhân. Hình như Đường đại nhân là người Cô Tô nhỉ?"

"Đúng thế."

"Cô Tô là đất lành đấy, nhân tài lớp lớp mọc lên, trong triều có nhiều quan lại xuất thân từ Cô Tô lắm. Xa xôi không nói, gần đây có Phủ doãn Cô Tô là Thám hoa năm Khai Bình thứ sáu cũng là người Cô Tô. Còn người tiền nhiệm Lương Tụng – Lương đại nhân, thì đích thực là bậc Đại Nho trong thời đại này."

Đường Thận căng thẳng vô cùng, cậu gật đầu: "Thì ra là thế."

Tô Ôn Duẫn mỉm cười nhìn Đường Thận: "Phải."

Hai người không nói nữa.

Đến viện Hàn Lâm, Đường Thận nói rõ mục đích của cả hai, quan viên viện Hàn Lâm bèn mời họ vào ngay.

Hôm nay Hàn Lâm học sĩ trực Tàng thư các là người Đường Thận không quen, Đường Thận dẫn người ấy tới, nói với Tô Ôn Duẫn: "Tô đại nhân, ngài đã đến Hàn Lâm viện rồi, tiếp theo đã có Tiếu đại nhân dẫn ngài tìm sách. Hạ quan còn công việc dang dở, xin phép hồi cung trước."

Tô Ôn Duẫn nói: "Thánh thượng đã dặn Đường đại nhân giúp ta thì Đường đại nhân chớ lo lắng. Chi bằng ở lại tìm sách cùng nhau đi?"

Đường Thận hết nước từ chối, đành theo Tô Ôn Duẫn và Tiếu Kế vào Tàng thư các.

Viện Hàn Lâm chuyên sưu tầm và lưu trữ mọi loại sách vở trên đời. Ngoài Khởi Cư chú của Hoàng đế được cất giữ ở khu vực đặc biệt, các thư tịch khác đều phải có bản sao ở viện Hàn Lâm. Ngay cả sử quan soạn sách sử cũng thường để bản gốc ở viện Hàn Lâm để viện này bảo quản thay.

Tô Ôn Duẫn muốn tìm sách từ ba năm trước.

Những loại sách anh ta cần tìm vô cùng đa dạng, có sách thiên văn, địa lý, còn có cả ghi chép về việc điều động quan viên các địa phương trong vào năm ấy. Tiếu học sĩ thấy Tô Ôn Duẫn muốn tìm tài liệu về việc điều động quan lại thì đề cao cảnh giác, đoán rằng tên sát tinh này lại toan tính gì rồi. Ông ta vội vàng nói: "Tài liệu về việc điều động quan viên đều do bộ Lại quản lý, viện Hàn Lâm cũng không có ghi chép hoàn chỉnh, bản sao cũng còn thiếu sót. Nếu Tô đại nhân cần, chi bằng đến bộ Lại hỏi xem?"

Tô Ôn Duẫn nói: "Không cần đâu, Thánh thượng chỉ muốn xem lại chuyện năm ấy thôi, bản không hoàn chỉnh cũng không phải ngại."

Tô Ôn Duẫn lấy mười mấy cuốn sách liền, hoàn toàn vượt khỏi phạm vi "một cuốn sách" mà Triệu Phụ nói, song chẳng ai dám vạch điều ấy ra cả. Tiếu Kế gọi một quan thất phẩm tới, sai kẻ đó bê hộ đống sách đến nha môn Đại lý tự cho Tô Ôn Duẫn.

Đến lúc này thì Đường Thận ra về được rồi. Tô Ôn Duẫn không cản Đường Thận nữa, anh ta kiếm được một tuyển tập thơ của văn nhân Trừ Châu, thích thú mở ra đọc.

Đường Thận rời khỏi viện Hàn Lâm, cậu ngẩng đầu nhìn mặt trời dần dần ngả về Tây. Một cơn gió lạnh thổi qua, cậu bỗng giật thót, cả người toát mồ hôi.

Tô Ôn Duẫn tìm rất nhiều sách từ ba năm trước.

Tô Ôn Duẫn... tìm sách liên quan đến phủ Cô Tô năm ấy!

Đường Thận đứng trước cổng viện Hàn Lâm mà lòng lạnh toát, họng khô khốc. Cậu mấp máy môi nhưng không nói nên lời.

Đến tối, Đường Thận cầm một bầu rượu sang phủ Thượng thư.

Vương Trăn đang vẽ tranh trong thư phòng, Đường Thận đến nơi bèn lấy thỏi mực, mài mực cho chàng theo thói quen.

Việc này Đường Thận đã làm đi làm làm không biết bao nhiêu lần rồi, mài mực rất thuần thục, Vương Trăn chỉ ngước nhìn cậu một cái chứ không nói gì. Sư huynh sư đệ một người vẽ tranh, một người mài mực. Trong thư phòng, tiếng nến nổ tí tách. Vương Trăn ngừng bút, bức tranh mặc cúc1 đã họa xong. Chàng nói với Đường Thận: "Tiểu sư đệ đề thơ lên bức họa này nhé?"

[1] Loại cúc quý màu đỏ tím

Đường Thận sửng sốt: "Đệ ư?"

Vương Trăn cười: "Ừ, lại đây."

Cây bút được đặt vào tay Đường Thận. Cậu nhìn bức họa mặc cúc của Vương Trăn, suy ngẫm một lát, rồi viết một câu thơ xuống góc trái của bức tranh.

"Giậu đông hái đoá cúc nhà; Nam sơn thanh thản cho ta ngóng về2." Vương Trăn ngâm thơ rồi bảo: "Viết tên của đệ vào."

Đường Thận viết ba chữ "Đường Cảnh Tắc" xuống góc trái câu thơ. Cây bút được truyền sang tay Vương Trăn, chàng viết ba chữ "Vương Tử Phong" bên cạnh tên cậu, rồi lấy con dấu, in lạc khoản lên.

Bức tranh mặc cúc đến đó là hoàn chỉnh.

Vương Trăn thấy Đường Thận mang cả rượu đến, hỏi: "Hôm nay đệ tới muộn quá. Tiểu sư đệ, ta đã ăn tối rồi, còn đệ chắc chưa ăn đâu nhỉ?"

Đường Thận: "Đệ ăn rồi ạ."

Vương Trăn nghe thế, ánh mắt nhìn cậu pha lẫn chút ngạc nhiên.

"Vậy để bầu rượu này lại, lần sau hẵng uống."

Vương Trăn không hỏi hôm nay Đường Thận tới có việc gì, dường như chàng đã ngầm thừa nhận cái đáp án "Tiểu sư đệ nhớ ta" rồi. Vương Trăn vẽ xong bức tranh mặc cúc thì để Đường Thận mài mực cho mình viết thư pháp tiếp. Dưới ánh nến, diện mạo ngời sáng của Vương Tử Phong toát lên khí chất của một vị tiên giáng trần. Chàng tập trung viết chữ, ngòi bút múa lượn như có linh tính của nó, còn người cầm bút thì đã vượt lên khỏi cõi nhân gian.

Đường Thận ngắm Vương Trăn đến mức xuất thần. Dần dần, cõi lòng của cậu cũng trở nên tĩnh tại.

Viết xong một bức thư pháp, Vương Trăn nói: "Tiểu sư đệ ngắm ta đến ngẩn ngơ, có thấy được gì không nào?"

Đường Thận: "Thấy ánh nến rọi sáng sư huynh."

Nghe vậy, Vương Trăn ngẩng lên nhìn cậu.

Đường Thận: "Giờ phút này đây, sư huynh được ánh nến soi tỏ, đệ nhìn thấy huynh trọn vẹn rồi. Huynh đúng là sư huynh của đệ."

Hai người nhìn vào mắt nhau, Vương Trăn nở nụ cười: "Chẳng phải ta vẫn luôn là sư huynh của đệ sao?"

Đường Thận thỏa mãn rời khỏi phủ Thượng thư.

Vương Tử Phong sẽ bảo vệ cậu.

... Dù có bị Tô Ôn Duẫn, Triệu Phụ có phát hiện ra thật đi chăng nữa, Vương Tử Phong nhất định sẽ bảo vệ cậu!

Kết luận của Đường Thận hoàn toàn xuất phát từ niềm tin của cậu với Vương Trăn chứ chẳng có nguyên nhân nào khác cả. Thậm chí, cậu còn chưa nghĩ xem nếu Triệu Phụ muốn xử lí cậu thật, Vương Trăn sẽ cứu cậu từ tay hoàng đế thế nào.

Nhưng mấy ngày tiếp theo, diễn biến của mọi chuyện dường như chứng minh rằng Đường Thận nằm mơ bắt con tưởng bở rồi!

Sang tháng sáu, Triệu Phụ khỏe hẳn, các buổi triều lại được khôi phục như thường. Mùng ba tháng sáu, có viên quan miền Nam vào kinh yết kiến, dẫn theo một con hươu trắng như tuyết, khiến cả triều đình phải sửng sốt. Triệu Phụ vừa mới khỏe lại, thấy con hươu ấy thì ngạc nhiên lắm. Ông ta xuống khỏi ngai vàng, đi đến vuốt sừng con hươu trắng.

"Đây... đây là hươu trắng thật ư?"

Viên quan địa phương hành lễ, giọng nói dạt dào xúc động: "Bẩm bệ hạ, tháng trước một người dân làng ở địa phương thần trông coi đã tìm được con hươu này trong rừng. Người xưa có câu, chỉ khi đất nước có bậc quân vương hiền minh, hươu trắng mới xuất hiện! Thần không dám chậm trễ, giục ngựa bất kể ngày đêm, dâng hươu thần lên bệ hạ. Tâu bệ hạ, đây chính là điềm lành ạ!"

Quần thần trên triều cũng hô theo: "Bệ hạ ban phúc muôn dân, trời giáng điềm lành!"

Nhận hươu trắng xong, Triệu Phụ vô cùng mừng rỡ. Khí sắc hơi nhợt nhạt chỉ sau một đêm đã tươi tỉnh hẳn. Hễ vui thì ông ta ban thưởng vô tội vạ cho người hầu kẻ hạ xung quanh. Phi tần hậu cung được thưởng đã đành, lũ thái giám hầu hạ cũng được hưởng lây vô số. Ngay cả Đường Thận và hai Khởi Cư xá nhân khác cũng được ban thưởng.

Tan buổi triều, Triệu Phụ tự mình đến vườn nuôi thú ngắm con hươu, còn nói với Đường Thận rằng: "Cảnh Tắc này, ngươi trông con hươu này mà xem, ngay cả lông mi nó cũng trắng."

Thái độ của Triệu Phụ với Đường Thận hoàn toàn không có gì thay đổi.

Tô Ôn Duẫn cũng không gặp lại Đường Thận nữa.

Xem ra, việc Triệu Phụ sai sử Tô Ôn Duẫn hoàn toàn không có liên quan gì đến Đường Thận, cậu cả nghĩ rồi.

Thở phào nhẹ nhõm, Đường Thận mới suy nghĩ ngược lại. Kỳ thực, quan hệ của cậu và Lương Tụng dù có đưa ra ánh sáng cũng không nguy hiểm gì. Thứ nhất Lương Tụng chỉ là thầy dạy vỡ lòng cho cậu, giờ thầy giáo của cậu đã là Phó Vị rồi. Dù Triệu Phụ biết cậu là học trò Lương Tụng đi chăng nữa, thì tình huống xấu nhất là ông ta sẽ xa lánh và thôi trọng dụng cậu. Trừ khi Triệu Phụ nhỏ nhen và đa nghi đến mức không thể tưởng tượng nổi, còn đâu ông ta sẽ không làm khó dễ Đường Thận.

Huống hồ, Lương Tụng vừa từ trần, Đường Thận đã đi một mạch lên Thịnh Kinh xin làm học trò Phó Vị, quả thực chẳng khác nào xăm luôn lên trán câu "Tôi muốn phủi sạch quan hệ với Lương Tụng".

Nếu Triệu Phụ có Thiên Nhãn thì may ra ông ta sẽ liên hệ được mục đích vào kinh làm quan của Đường Thận với nhóm người Lương Tụng.

Việc này khiến Đường Thận nơm nớp lo âu suốt nửa tháng, hôm nay nghĩ lại, thu hoạch lớn nhất ấy là cậu và Vương Trăn đã xích lại gần nhau thêm một chút. Đường Thận lần đầu tiên có suy nghĩ không giấu giếm gì nữa mà thành thật nói hết mọi chuyện cho Vương Trăn.

Tháng bảy, Đường Thận nhân ngày hưu mộc, xin nghỉ thêm mấy buổi để đi Ninh Châu.

||

Tôi thích cái đoạn "Chẳng phải ta vẫn luôn là sư huynh của đệ sao?" lắm. Núi đao biển lửa cũng có sư huynh che chở cho em <3

Chú thích

*Nếu bạn nào không hiểu thì Đường Thận nói thấy rõ sư huynh rồi là nhắc lại vụ lần trước sư huynh bảo Đường Thận cầm đèn lồng đi tìm sư huynh thì chỉ thấy đầu hoặc chân thôi chứ không thấy cả người.

** Hưu mộc lần trước mình đã chú thích là ngày nghỉ cuối tuần của quan lại. 10 ngày tính làm một tuần, vị chi các quan được nghỉ ba ngày mỗi tháng.

[2] Thơ Ẩm tửu kỳ 5 – Đào Tiềm (thời Tấn). Bản dịch Trần Trọng Dương.

Mặc cúc – Ảnh:

Chương 57

Chớ nghe, chớ hỏi

Đây là lần thứ hai Đường Thận lên miền Bắc, đích đến vẫn là Ninh Châu.

Lần này Đường Hoàng ở nhà, Diêu Tam đi cùng với Đường Thận. Dọc đường, Diêu Tam đánh xe ngựa phía trước, Đường Thận ngồi trong toa xe, chốc chốc lại vén rèm lên quan sát cảnh vật bên ngoài.

Từ Thịnh Kinh xuất phát, chiếc xe lăn bánh bon bon trên con đường quan đạo rộng thênh thang. Đường xây men theo bờ ruộng để không hại đến hoa màu ở các vùng nông thôn. Ngu bộ mở rộng nền đường hết sức có thể, phạt hết cỏ dại, san bớt gò núi, xây nên con đường cái bằng phẳng thuận tiện này. Đi được ba canh giờ thì hết phần đường được hoàn thiện. Ở cuối con đường, thợ thuyền khom lưng xúc đất, mải miết làm đường.

Đường Thận và Diêu Tam đi vào đường vòng cũ. Vốn dĩ hai người đã đi được hai phần ba lộ trình rồi, khúc đường vòng này chỉ kéo dài khoảng một phần ba quãng đường thôi, nhưng đi mất bốn canh giờ mới đến Ninh Châu.

Thành Ninh Châu thăm nay sung túc hơn hẳn năm ngoái.

Đường Thận và Diêu Tam đặt phòng tại một quán trọ. Sớm ngày hôm sau, Diêu Tam ra đường hỏi thăm chỗ ở của Viên ngoại Ngu bộ Vương Tiêu, quan ngũ phẩm ở bộ Công. Nghe ngóng xong, đến buổi chiều, Đường Thận cầm một hộp đặc sản Thịnh Kinh và một hộp trà Bích Loa Xuân Cô Tô đến thăm nhà Vương Tiêu.

Vương Tiêu đi vắng, thê tử của anh tiếp đãi Đường Thận.

Đến sẩm tối thì Vương Tiêu từ nha môn về. Gặp Đường Thận, anh ta mừng rỡ khôn xiết: "Cảnh Tắc, sao ngươi lại đến đây?"

Đường Thận đứng dậy bước tới: "Đại Nhạc huynh, lâu lắm mới gặp, gần đây khỏe không?"

"Ta khỏe lắm. Nhưng mà ngươi trả lời ta đã, sao lại đến thành Ninh Châu." Vương Tiêu bảo phu nhân nhà mình: "Mình xuống bếp nấu hộ tôi mấy món với. Cảnh Tắc cũng là người Giang Nam, cậu ấy hợp tay nghề của mình đấy."

Vương phu nhân cười duyên dáng, đi xuống bếp.

Đến đêm, Đường Thận và Vương Tiêu cạn ly chuyện trò say sưa.

Tháng bảy là tháng nóng nhất, giờ mà ở Thịnh Kinh thì trong cung đã lấy băng ra giải nhiệt rồi. Nhưng ở Ninh Châu là cực Bắc của Đại Tống, thời tiết tuy nóng bức, chỉ cần một trận gió thổi qua là xua tan ngay, mát mẻ vô cùng.

Dùng cơm xong, Vương phu nhân cắt mấy miếng dưa hấu tráng miệng.

Vương Tiêu đắc ý nói: "Cảnh Tắc chưa thấy quả này đúng không? Quả này ở Thịnh Kinh là của hiếm đấy, chỉ dùng để tiến vua thôi. Tên nó là dưa hấu, đặc sản miền Tây Vực. Người Liêu thường buôn bán với Tây Vực, ta đến Ninh Châu mới được mở mang tầm mắt. Loại quả này tuy đắt nhưng không đến nỗi không mua được, thương lái người Liêu vẫn bán. Ngươi nếm thử đi, mát lắm, ăn đỡ nóng."

Đường Thận đương nhiên biết dưa hấu thế nào, nhưng từ khi về thời cổ đại, đây là lần đầu tiên được ăn dưa hấu. Đường Thận không khách khí, nhón miếng dưa ăn thử. Dưa nhiều nước mặc dù không ngọt lắm. Đến thế giới này lâu quá, Đường Thận sắp quên mất chuyện kiếp trước, cũng không còn nhớ kĩ được giống dưa hấu thời hiện đại sau bao năm cải tạo đã trở nên ngon ngọt như thế nào. Hôm nay được ăn miếng dưa hấu rất đỗi bình thường thôi cậu đã cảm thấy mỹ mãn vô cùng rồi.

Đường Thận không hề khách sáo, khen: "Sướng miệng thật!"

Vương Tiêu: "Ha ha ha ha, ăn thêm mấy miếng nữa đi."

Ăn dưa hấu xong, hai người uống trà mát ở trong sân.

Vương Tiêu bày tỏ: "Ta đến Ninh Châu ba tháng nay, ngươi là người quen cũ duy nhất ta gặp đấy. Ninh Châu được cái tốt, chỉ tiếc là người quen chẳng có lấy một ai."

Đường Thận: "Hôm nay gặp Đại Nhạc huynh, ta liền nghĩ đến một câu thành ngữ."

"Ồ, thành ngữ gì thế."

Đường Thận cười: "Tâm khoan thể bạng1."

Vương Trăn ngớ người ra: "Tâm khoan thể bạng cái khỉ gì, tâm khoan thể bàn chứ! Đường Cảnh Tắc ngươi ghê gớm nhỉ, chúng ta là tiến sĩ cùng khoa, mấy tháng không gặp nhau, ta hết lòng chiêu đãi ngươi, thế mà ngươi dám chê ta béo. Ta béo chỗ nào?"

[1] 胖 cùng chữ này đọc "bàn" (pán) thì là thảnh thơi (lòng thư thái thì người thảnh thơi), đọc là "bạng" (pàng) thì là béo.

Đường Thận nhún vai: "Béo lên hay không, trong lòng Đại Nhạc huynh chẳng lẽ không rõ sao?"

"Ha ha ha ha." Hai người nhìn nhau cười phá lên.

Ở Thịnh Kinh, Vương Tiêu suốt ngày giam mình ở viện Hàn Lâm nước trong leo lẻo2. Đám tiến sĩ cùng khoa hết đứa này đến đứa nọ thăng quan tiến chức, mình thì lầm lũi khổ sở ở viện Hàn Lâm, làm sao mà không phẫn uất cho được? Vương Tiêu ngày ngày buồn bực u sầu, người ngợm gầy guộc héo hon. Ngược lại, Ninh Châu nơi anh ta chuyển đến là chốn trời cao hoàng đế xa. Ở cái miền này, mấy ai đè đầu cưỡi cổ nổi quan chức bộ Công? Chưa kể, anh ta còn được thăng quan. Gặp chuyện đáng mừng thế, tinh thần sảng khoái, thân thể đương nhiên cũng béo tốt khỏe mạnh lên.

[2] Gốc: thanh thủy nha môn – thành ngữ chỉ cơ quan nghèo túng, chẳng có lợi lộc gì.

Đường Thận kể khái quát tình hình Thịnh Kinh mấy tháng nay. Vương Trăn bèn hỏi thẳng: "Cảnh Tắc, hôm nay cậu đến tìm ta có việc gì?"

Đường Thận chắp tay thưa: "Không gạt Đại Nhạc huynh, quả thật ta có việc muốn nhờ. Đại Nhạc huynh cũng biết, họ Đường nhà ta ở phủ Cô Tô làm buôn bán, cũng có cơ ngơi nho nhỏ. Lầu Tế Hà ở Thịnh Kinh là sản nghiệp nhà ta, năm ngoái lúc mới khai trương Đại Nhạc huynh đã đến rồi đấy. Lầu Tế Hà chỉ chuyên bát hà cung, mà thịt dê thịt bò bán ra đều mua từ thương lái người Liêu cả."

Vương Trăn đảo mắt, đã hiểu ý Đường Thận rồi. Nhưng anh ta vẫn hỏi kĩ: "Cảnh Tắc, vậy ngươi định làm gì?"

Đường Thận nói nghiêm túc: "Đại Nhạc huynh, xin hỏi quan đạo từ Ninh Châu đến Thịnh Kinh có thể thông đường trong năm nay không? Ta đến Ninh Châu đã thấy một phần đường mới được hoàn thành rồi, chẳng hay phần còn lại sẽ dẫn đến những đâu? Nếu lấy tiểu thương làm ví dụ, thì di chuyển hai chiều giữa Thịnh Kinh và Ninh Châu, ước chừng tốn bao nhiêu thời gian?"

Vương Tiêu thở phào nhẹ nhõm, cười nói: "May chỉ là chuyện cỡ này, tuy ta là Lang trung ngũ phẩm, nhưng việc lớn hơn thì ta không giúp ngươi nổi."

Đoạn, Vương Tiêu bèn nói cho Đường Thận biết con đường mới sẽ đi qua những thành và thị trấn nào.

Đến Ninh Châu ba ngày thì Đường Thận và Diêu Tam sang trấn Lạc Hà để móc nối với những thương lái người Liêu mới. Sau khoảng nửa năm, Gia Luật Cứu đã sinh lòng ngờ vực với lầu Tế Hà. Vào đông, nhu cầu thịt dê, bò của lầu Tế Hà là cực kì lớn, mỗi ngày đều phải vận chuyển đến vài xe. Nhưng sang mùa hè, nhu cầu thịt lập tức sụt giảm rất nhiều.

Quản lí người Tống của Gia Luật Cứu có hỏi thăm Diêu Tam mấy bận, Diêu Tam lấp liếm hết. Nhưng đến mùa đông tiếp theo, chuyện này không thể bưng bít thêm được nữa.

Hai người mua mấy người làm công thông qua nha hành.

Trên đường trở về Thịnh Kinh, Đường Thận cố ý đi vòng qua những huyện mà Vương Tiêu nhắc đến, nghiên cứu trước địa hình.

Đến khi hai người về Thịnh Kinh đã là một tuần sau.

Nghỉ ngơi một tối, hôm sau đến phiên Đường Thận làm việc. Mới qua giờ Sửu, Đường Thận đã mặc quan phục đi vào hoàng cung. Trong lúc bá quan đợi hoàng đế vào triều, Đường Thận hỏi thăm hai Khởi Cư xá nhân khác trong Trung Thư tỉnh về những việc phát sinh gần đây. Trao đổi một hồi thì tới chuyện chỉ lệnh vừa được ban hành trên triều ngày hôm qua. Đường Thận kinh ngạc: "Tuần Tra sứ?"

Một Khởi Cư xá nhân nói: "Đúng. Đường đại nhân mới về hôm nay nên không biết, hôm qua Thượng thư bộ Công Viên Mục – Viên đại nhân đích thân hồi kinh, bẩm báo tình hình thi công ba tuyến đường. Thánh thượng hết sức đẹp lòng, bèn phong cho ba người làm quan Tuần Tra sứ, ra lệnh cho họ lần lượt đến U Châu, Thứ Châu và Ninh Châu trong vòng ba ngày, rà soát tình hình xây dựng quan đạo. Ba người này là Thượng thư bộ Hộ Vương đại nhân, Thiếu khanh Đại lý tự Tô đại nhân, cùng với Tống đại nhân của Ngự Sử đài.

Vương Trăn, Tô Ôn Duẫn, Tống Tuần.

Hai người trước không cần bài cãi, cả hai đều là sủng thần bậc nhất của Triệu Phụ rồi. Tống Tuần là quan Ngự Sử ở Ngự Sử đài, tuổi lớn hơn hai người kia một chút, nhưng là tâm phúc của Triệu Phụ đã lâu, từng nhiều lần mật đàm trong điện Thùy Củng với Triệu Phụ.

Hoàng đế phái người tuần tra tình hình làm đường, cả ba đều là thân tín của ông ta, xem chừng không có vấn đề gì cả.

Đường Thận có chút ngạc nhiên, nhưng cậu chỉ giữ trong bụng chứ không thể hiện ra.

Tan triều, Triệu Phụ cho đòi Vương Trăn, Tô Ôn Duẫn và Tống Tuần vào điện Thùy Củng, hỏi thăm tình hình chuẩn bị lên phía Bắc trong hai ngày tới của ba người bọn họ. Ba vị Tuần Tra sứ răm rắp trả lời, Triệu Phụ bèn ban cho mỗi người một chiếu chỉ, chính thức phong chức Tuần Tra sứ cho cả ba.

Sau buổi trưa, Đường Thận phụng mệnh Triệu Phụ, mang tấu chương về nha môn Trung Thư tỉnh.

Buổi chiều Triệu Phụ muốn ngủ trưa, Đường Thận có thể vắng mặt một lúc mà không có gì đáng ngại. Cậu trả tấu chương xong, nghĩ một hồi, lại đến gian làm việc chung của Thượng thư bộ Hộ và Thượng thư bộ Lễ. Lấy hết dũng khí gõ cửa thì ôi chao, trong phòng chỉ có hai viên quan thất phẩm đang trực.

Đường Thận có phần lúng túng: "Vương đại nhân và Mạnh đại nhân không ở đây à?"

"Mạnh đại nhân đến Ngự Sử đài, Vương đại nhân hôm nay không làm việc ở Trung Thư tỉnh mà làm việc ở bộ Hộ. Đường đại nhân muốn gặp Vương đại nhân ạ? Nếu có việc gấp, hạ quan có thể đến bộ Hộ báo tin giúp."

"Không cần đâu!"

Đường Thận ngượng chín mặt, vội vã ra về.

Chiều tà, Triệu Phụ tu tiên xong, Đường Thận và hai Khởi Cư xá nhân rời khỏi hoàng cung.

Mới ra đến cổng cung, một người nom như xà ích chạy ra đón cậu. Người ấy nói với Đường Thận rằng: "Đường đại nhân, mời qua đây."

Đường Thận và hai người Khởi Cư xá nhân nghìn theo hướng chỉ của xà ích, liền thấy một cỗ kiệu rộng màu đỏ thẫm đỗ ngay cạnh cổng phụ hoàng cung, không biết đã chờ từ bao giờ. Quan viên Đại Tống phải từ nhị phẩm trở lên mới được dùng kiệu vải điều.

Xà ích nói: "Thượng thư đại nhân chờ ngài đã lâu."

Đường Thận nhớ chiều hôm nay mình sang tìm Vương Trăn mà công cốc, cậu ho nhẹ hai tiếng rồi đi tới.

Vén màn kiệu lên, Vương Trăn đang cầm một cuốn sách, ngồi trong kiệu nhàn nhã đọc.

Đường Thận đứng ngoài kiệu gọi: "Tử Phong sư huynh."

Vương Trăn để sách xuống, nhìn sắc trời bên ngoài, nói: "Trăng đà lên đến lưng chừng, tinh vân sà xuống giữa tầng thinh không. Tiểu sư đệ giờ này mới rời cung, đúng là tận tụy hết lòng, xứng đáng là rường cột quốc gia." Đường Thận chẳng hiểu sao Vương Trăn lại nói một tràng vô thưởng vô phạt như thế, song chàng đã nhích sang một bên, cười bảo: "Nào rường cột nước nhà, lên đây đi."

"Rường cột nước nhà" định lí sự, mà mở miệng ra lại cảm thấy Vương Tử Phong không nói kháy mình thì thôi, trả lời chi cho mất công. Cậu suy nghĩ chốc lát, rồi cũng chui vào kiệu.

Vương Trăn nói: "Về phủ Thượng thư."

Kiệu được nâng lên, đi về hướng phủ Thượng thư.

Phủ Thượng thư và phủ Thám Hoa ở trên cùng một đường, nhưng trên lộ trình thì kiệu sẽ đến phủ Thám Hoa trước, qua hai con hẻm nữa mới đến phủ Thượng thư.

Cỗ kiệu lúc lắc trên đường. Vương Trăn hỏi: "Chiều nay tiểu sư đệ đến điện Cần Chính tìm ta à?"

Đường Thận: "..."

Vương Tử Phong, huynh phải nuôi đến một trăm tai mắt trong cung đúng không hả?

Đường Thận: "Hai vị đại nhân đệ gặp buổi chiều nói cho sư huynh rồi ạ?"

Vương Trăn ngạc nhiên: "Đệ còn gặp người khác à, gặp ai thế?"

Đường Thận: "..."

Huynh chắc chắn là có nuôi tai mắt thật rồi!

Đường Thận: "Cũng không có việc gì đâu, chẳng qua hôm nay Thánh thượng sai đệ trả tấu chương về điện Cần Chính, đệ tiện đường định ngó sư huynh một cái. Tiếc là sư huynh vắng mặt nên đệ về thôi."

Vương Trăn cười: "Trước đây mỗi lần đến điện Cần Chính, chẳng thấy tiểu sư đệ tiện đường sang ngó ta nhỉ?"

Đường Thận không đáp.

Vương Trăn cười tủm tỉm, dài giọng: "Tiểu sư đệ?"

"Đúng là có việc thật."

Nụ cười trên mặt Vương Trăn vụt tắt, có thể thấy sự ngạc nhiên trong ánh mắt chàng, dường như chàng không lường trước được Đường Thận sẽ thẳng thắn thế này. Vương Trăn yên lặng nhìn Đường Thận. Đường Thận hít sâu một hơi, dứt khoát đi thẳng vào vấn đề: "Đệ mới về Thịnh Kinh liền nghe chuyện sư huynh sắp đến U Châu. Sư huynh thân là Thượng thư bộ Hộ, về lý mà nói việc tuần tra không đến phiên huynh phải lo, bộ Hộ còn rất nhiều việc cần sư huynh lo toan. Vì thế, đệ có chút ngỡ ngàng, vả lại đệ nghĩ sư huynh sắp rời kinh thành, nên muốn đến gặp huynh một lát."

Vương Trăn nhíu mày, không trả lời.

Đường Thận nhận thấy có gì đó bất ổn, bèn gọi chàng: "Sư huynh?'

Lúc này, kiệu đến trước phủ Thám hoa. Phu kiệu dừng lại, hỏi: "Đại nhân, có dừng ở đây không ạ?"

Đường Thận vén rèm kiệu, thấy đã đến nhà mình. Vương Trăn lặng thinh, Đường Thận cũng không biết phải nói gì. Nếu giữ thái độ trước đây của cậu với Vương Trăn, cậu sẽ không nói trực tiếp như vậy. Cậu cứ tưởng với tình sư huynh đệ thân thiết giữa mình và Vương Trăn, cậu có thể tin tưởng Vương Trăn, chí ít là tin một nửa. Nhưng hôm nay xem ra cậu chỉ có thể nghe theo lời Lương tiên sinh, vĩnh viễn ôm tâm lý đề phòng Vương Tử Phong.

Đường Thận nói: "Sư huynh, đến nhà đệ rồi, đệ xuống trước ạ." Nói rồi, Đường Thận định xuống kiệu.

Cậu vừa mới đứng dậy, chưa xốc màn kiệu lên, Vương Trăn đã nắm cổ tay cậu kéo lại.

Đường Thận ngạc nhiên quay đầu lại, chỉ thấy nét mặt Vương Tử Phong hết sức bình tĩnh, ánh mắt nhìn cậu thẳm sâu mà phẳng lặng. Chàng cất tiếng nói nhẹ nhàng: "Tiểu sư đệ, ta sắp phải xa Thịnh Kinh một thời gian. Có bốn chữ này, hy vọng đệ nhớ kĩ lấy."

"Chớ nghe, chớ hỏi."

Chương 58

Mưa lớn ở sông Kinh Hà

Cuối tháng bảy, ba vị Tuần Tra sứ lần lượt rời Thịnh Kinh.

U Châu là tiền tuyến giao tranh giữa Tống và Liêu, nhưng sau hòa ước mười tám năm trước, hai nước không tổ chức chiến dịch chính thức nào ở khu vực này nữa, chỉ có xung đột rải rác, nhỏ lẻ ở U Châu thôi. Nơi Vương Trăn đến là U Châu, vốn nguy hiểm hơn nơi Tô Ôn Duẫn và Tống Tuân được phân công; song khi Đường Thận tiễn chàng, chàng chẳng nói gì mà chỉ cười bảo: "Tiễn người ngàn dặm cuối cùng vẫn phải từ biệt, tiểu sư đệ, đừng tiễn nữa."

Xe ngựa lộc cộc lăn bánh rời khỏi cổng thành. Vương Trăn và các quan lại, binh lính hộ tống dần dần khuất bóng ở chân trời.

Cuộc sống lại trôi qua từng ngày.

Chẳng mấy chốc đã gần đến giữa tháng Tám – tết Trung Thu đoàn viên, ba vị Tuần Tra sứ cũng sắp hồi kinh rồi. Chiều hôm ấy đến phiên Đường Thận trực, Triệu Phụ đang thiền trong thiên điện1 của điện Thùy Củng, nghe Giám chính Khâm Thiên giám Lý Tiêu Nhân giảng đạo. Bỗng nhiên, một thái giám trẻ quýnh quáng đi vào trong điện, ghé tai Đại thái giám Quý Phúc thì thầm mấy câu.

[1] Thiên điện là gian nhỏ hơn, nằm mé bên chính điện.

Tức thì, Quý Phúc biến sắc.

Lúc Triệu Phụ tu tiên tuyệt đối không cho phép ai quấy rầy, nhưng lúc nghe giảng đạo thì không nghiêm đến thế, tuy Triệu Phụ vẫn nổi giận nếu bị cắt ngang.

Song Quý Phúc không quản nhiều đến thế, lão ta khom người hành lễ, nói: "Bẩm quan gia, Ngu bộ Lang trung bộ Công – Cao Duy, xin cầu kiến ạ."

Triệu Phụ chậm rãi mở mắt, lạnh nhạt lườm Quý Phúc. Quý Phúc sợ run cả người, cúi gằm mặt xuống sàn.

Triệu Phụ: "Cho vào."

Quý Phúc hô lên the thé: "Cho Ngu bộ Lang trung Cao Duy vào yết kiến!"

Không lâu sau, một người đàn ông trung niên tầm bốn mươi tuổi, mặc quan bào màu đỏ, tiến vào điện.

Triệu Phụ quay về chính điện, Đường Thận và Khởi Cư xá nhân ngồi hai bên, chuẩn bị ghi chép.

Lang trung là chức quan ngũ phẩm. Vương Tiêu – tiến sĩ cùng khóa với Đường Thận cũng là Ngu bộ Lang trung giống ông Cao đại nhân này. Chức Lang trung ở bộ Công phải có đến hơn mười người; trong mấy lần đến điện Cần Chính, Đường Thận mới gặp ông Cao đại nhân này một lần trong, ngoài ra chưa gặp nhau lúc nào khác.

Lúc này, mặt mũi Cao Duy tái nhợt, trán lấm tấm mồ hôi. Ông ta vừa thấy Triệu Phụ thì quỳ phịch xuống.

Đại Tống gần như đã loại bỏ lễ quỳ rồi. Cao Duy quỳ một cái, Đường Thận thót tim, Triệu Phụ cũng nheo mắt. Cao Duy cố gắng nói cho rành rọt, nhưng cả người ông ta cứ run cầm cập nên giọng cũng run rẩy theo. Còn những điều ông ta tâu trình, thì không khác gì sấm đánh ngang tai, nện từng tiếng lên sàn gạch dát vàng: "Thần bái kiến thánh thượng. Thần từ Thứ Châu về đây. Nửa năm trước thần lĩnh chỉ đi Thứ châu xây quan đạo. Từ khi vào hè, miền Bắc liên tục mưa xối xả. Chiều hôm qua, trời mưa như thác đổ. Cơn mưa ấy đã... cuốn trôi một cây cầu trên quan đạo."

Đường Thận nhấc bút lên chuẩn bị ghi, nghe thế liền ngẩng phắt đầu, sững sờ nhìn Cao Duy.

Hồi lâu, Triệu Phụ chậm rãi nói: "Một cây cầu à?"

Cao Duy cúi gằm mặt: "Tâu bệ hạ, là cầu bắc qua sông Kinh Hà2 ạ."

[2] Sông Kinh Hà thuộc tỉnh Sơn Đông

Triệu Phụ: "Có thương vong không?"

Cao Duy im thin thít mấy giây, tiếng nói lí nhí dần: "Số người chết, hiện vẫn chưa thống kế được hết..."

"Khốn kiếp!"

"Chát..."

Triệu Phụ vớ một quyển tấu trên bàn ném trúng đầu Cao Duy. Trán Cao Duy giàn giụa máu. Ông ta không dám kêu đau, khấu đầu lạy: "Thần biết tội!"

Ngày mùng chín tháng tám năm Khai Bình thứ hai mươi tám, mưa lớn ở sông Kinh Hà, cuốn sập cây cầu đang xây dở. Gần một trăm người thiệt mạng vì cơn lũ, gây nên nỗi kinh hoàng cho cả triều đình và nhân dân.

Miền Bắc ít sông ngòi, sông Kinh Hà là con sông dài nhất mạn Bắc đại Tống. Con sông này khởi nguồn từ Hứa Châu, chảy vào Thứ Châu và Cảnh Châu, là nguồn nước chính cho ba châu miền Bắc đấy. Để làm đường từ Thịnh Kinh đến Thứ Châu không thể không đi qua sông Kinh Hà. Với Đường Thận thì sông Kinh Hà nhỏ hơn sông Trường Giang rất nhiều. Ở thời hiện đại, xây một cây cầu bắc qua sông Kinh Hà không phải hề khó khăn. Nhưng trong thời đại này, đây là một công trình lớn.

Đường đến Thứ Châu khó thi công hơn đường đến Ninh Châu, chính là vì phải xây cây cầu bắc ngang sông ấy.

Nhưng không ai lường trước cầu sẽ sập ngay khi mới xây một nửa!

Cả triều đình khiếp hãi, hoàng đế nổi giận đùng đùng.

Dưới cơn thịnh nộ của thiên tử, thây chất đầy đồng, máu tuôn vạn dặm.

Hôm sau lên triều, Triệu Phụ không thèm kiềm chế, nhẫn nại như mọi ngày nữa, quát ầm cả lên.

"Gạo tốt Thanh Khoa của triều đình là để nuôi lũ ăn tàn phá hại chúng bay đúng không? Hôm trước trẫm vừa nghe Thứ Châu báo tin, tình hình rất tốt, tất cả đều thuận lợi. Hôm nay quân bay lại bảo trẫm, cầu sập rồi, tai nạn rồi. Quân bay làm ăn như vậy đó hả, mở đường cho trẫm như thế đấy hả?"

Cả triều đình im thin thít, không ai dám mở miệng.

Kỳ thực các quan ở đây ai cũng thấy oan uổng. Việc làm đường chủ yếu do bộ Công phụ trách, các bộ Lại, bộ Binh và quan địa phương đều chỉ có nhiệm vụ hỗ trợ. Nếu cầu sập thì trách nhiệm lớn nhất vẫn thuộc về bộ Công; lỗi ở quan viên bộ Công sơ sót trong khâu thiết kế cầu, không tính đến tình huống mùa hè năm nay sẽ có mưa lớn. Mà giả dụ năm nay cầu không sập, sau này nhất định sẽ sập. Khốn nạn thay cho đám quan lại này, cầu lại sập ngay lúc đang xây dựng, đè chết mấy chục người và khiến hàng chục người khác chết đuối. Giả sử như về sau cầu mới bị sập, chỉ thiệt mạng vài người, hoặc không ai thiệt mạng, có khi Triệu Phụ sẽ không giận dữ đến vậy.

Song kỳ thực, Triệu Phụ không tức vì vụ tai nạn làm chết gần một trăm người thợ và mấy quan viên. Các quan lớn đang ngắm sàn điện Tử Thần ở đây đều biết, Triệu Phụ tức vì mất thể diện, ông ta cảm thấy quan lại dưới quyền không ra sức cống hiến vì mình.

Đấy mới là cái gai trong lòng ông ta.

Triệu Phụ xả giận xong, Trung Thư Tả Thừa Trần Lăng Hải – Trần tướng công tiến lên một bước, nói: "Việc ở Kinh Hà vô cùng cấp bách. Thần đề nghị, bệ hạ phái thêm một Giám sát Sứ đến điều tra rõ."

Triệu Phụ hỏi: "Trần khanh tiến cử ai?"

Trần Lăng Hải nói: "Theo ý thần, Kỷ đại nhân Kỷ Tri của Ngự Sử đài là người đảm đương nổi việc này."

Trong buổi triều, các tướng công của Trung Thư tỉnh chốt danh sách đoàn giám sát, ngày kia sẽ cắt cử đến Thứ Châu. Hôm nay không phải phiên trực của Đường Thận; hôm qua cậu đã được chứng kiến cơn thịnh nộ của Triệu Phụ ở điện Thùy Củng rồi, nghe nói hôm nay lên triều Triệu Phụ lại nổi bão một lần nữa, cậu cũng không lấy làm lạ. Bất ngờ thay, buổi chiều, một thái giám đến nha môn Trung Thư tỉnh mời Đường Thận tiến cung, nói rằng Triệu Phụ triệu kiến cậu.

Đường Thận vô cùng ngạc nhiên, lập tức đi theo thái giám ấy vào cung.

Thường vào giờ này Triệu Phụ đang làm việc trong điện Thùy Củng, thế mà hôm nay thái giám lại dẫn Đường Thận sang đài Đăng Tiên. Thái giám không được vào, Đường Thận chờ bên ngoài một lúc thì có Quý Phúc ra dẫn cậu vào trong.

Đài Đăng Tiên là nơi Triệu Phụ xây dựng riêng cho việc tu tiên của mình. Đây là cung điện cao ba tầng duy nhất trong hoàng cung. Thường ngày Triệu Phụ đều tu hành trong đại điện ở tầng một, nhưng hôm nay, Quý Phúc dẫn Đường Thận lên tận tầng ba. Đường Thận lên đến nơi thì thấy Triệu Phụ đang dựa vào lan can ngắm nhìn toàn cảnh hoàng cung.

Đường Thận: "Thần – Đường Thận, tham kiến bệ hạ."

Triệu Phụ không quay lại, ông ta nhìn đình đài lầu các trong cung, chỉ về một nơi phía xa, hỏi: "Cảnh Tắc có biết, kia là đâu không?"

Đường Thận nhìn theo hướng ông ta chỉ. Ấy là một tòa cung điện chóp vàng lợp ngói lưu ly, to lớn như các cung điện khác. Đường Thận chỉ được đi một số chỗ trong cung, nên căn bản cậu không thể biết cung đấy là cung nào.

Cậu thành thật đáp: "Thần không biết ạ."

"Đó là điện Bạch Lộc, do trẫm tự tay đề tên, dùng làm nơi nuôi con hươu trắng kia."

Đường Thận cúi đầu nhìn xuống đất, không nói câu nào. Câu làm Khởi Cư xá nhân, rồi thăng lên Khởi Cư lang đã được một năm, tuy chẳng dám nhận là đoán được hết ý vua, nhưng cậu biết lúc này Triệu Phụ không cần câu trả lời của cậu.

Quả nhiên, Triệu Phụ nói tiếp: "Trời ban điềm lành, phù hộ Đại Tống, đấy là câu lũ ăn hại ấy nói cách đây hai tháng. Hôm nay, cái phước lành trời ban chúng cho trẫm xem mới vĩ đại chừng nào! Cảnh Tắc, ngươi có bằng lòng đến Thứ Châu thay trẫm một chuyến không?"

Đường Thận sững sờ, vô vàn suy nghĩ bùng nổ trong nháy mắt, cậu không tài nào đoán nổi Triệu Phụ có ý gì. Ngoài mặt, Đường Thận cung kính hành lễ, nói: "Thần không dám3. Thần là Khởi Cư lang, nhiệm vụ của thần là chép lại những gì bệ hạ làm hàng ngày."

"Cảnh Tắc không muốn ư?"

Ngón tay Đường Thận run lên, mạch ý tưởng ào lên như cơn lũ, hàng trăm câu trả lời vút qua trong tâm trí cậu. Cuối cùng, Đường Thận ngẩng đầu, nhìn Triệu Phụ bằng ánh mắt đầy âu lo và hãi sợ, nhưng nói bằng một giọng kiên định vô cùng: "Thần nguyện san sẻ gánh lo vì bệ hạ!"

Ánh nhìn của Triệu Phụ đầy bao dung và ấm áp, ông ta mỉm cười: "Ngày mai, Cảnh Tắc hãy khởi hành cùng bọn Kỷ Tri. "

Đường Thận siết ngón tay, nói: "Thần tuân mệnh."

Đường Thận rời khỏi đài Đăng Tiên, bước chân thoăn thoắt, nét mặt lo âu. Sau khi cậu đi, Triệu Phụ đứng trên tầng ba tòa lầu ngắm nhìn hoàng cung với gương mặt lạnh nhạt, dáng vẻ tươi cười hòa nhã khi nói chuyện với Đường Thận lúc nãy đã biến mất.

Đường trở lại nha môn, đau đầu suy nghĩ, vẫn không thể giải mã được ý đồ của Triệu Phụ.

Nhóm của Kỷ Tri gồm toàn quan lại do các tướng công Trung Thư tỉnh chỉ định đi làm Giám sát Sứ ở Thứ Châu trong buổi triều hôm nay. Triệu Phụ chẳng những bổ sung cậu vào đoàn Giám sát Sứ, còn yêu cầu cậu cứ ba hôm lại viết mật báo gửi về kinh, tường thuật những việc xảy ra ở Thứ Châu.

"... Ông ta muốn mình làm tai mắt cho ông ta." Đường Thận kết luận.

Đường Thận không biết tại sao Triệu Phụ lại giao trách nhiệm này cho cậu.

Nếu cần người mật báo về từ Thứ Châu, Triệu Phụ nên chọn một tâm phúc mà ông ta tín nhiệm. Trùng hợp thay, sự lựa chọn tốt nhất của ông ta, đáng lẽ phải là Thiếu khanh Đại lý tự Tô Ôn Duẫn, người được phái đi Thứ Châu làm Tuần Tra sứ đến nay vẫn chưa về. Nhưng Triệu Phụ lại cho gọi Đường Thận mà không hề nói một chữ nào về Tô Ôn Duẫn cả.

Triệu Phụ và Tô Ôn Duẫn mâu thuẫn với nhau ư?

Triệu Phụ không tin cậy Tô Ôn Duẫn?

Lần này Triệu Phụ sai cậu đi Thứ Châu là để điều tra vụ việc sông Kinh Hà hay để điều tra Tô Ôn Duẫn?

Trước mắt Đường Thận là một tòa thành bị che phủ bởi sương mù dày đặc, cậu không lùi bước nổi, bị Triệu Phụ đẩy vào trong.

Hồi lâu, Đường Thận thở hắt ra.

"Chớ nghe, chớ hỏi... Vương Tử Phong, lẽ nào huynh đã dự đoán được tình huống ngày hôm nay?" Suy luận một hồi, Đường Thận lại thấy giả thuyết ấy thật vô lí, cậu cười giễu bản thân. Dù Vương Tử Phong thần cơ diệu toán đến mấy cũng không thể nào tính được sau nửa tháng có trận mưa lớn cuốn sập cầu sông Kinh Hà.

Vương Trăn đang ở tận châu U, chưa về kinh. Đường Thận dẫu muốn tìm chàng để hỏi cũng không có cách nào.

Nhưng Vương Trăn đã dặn: Chớ nghe, chớ hỏi.

"Việc đi Thứ Châu không cứu vãn nổi, mình cũng không tự chọn con đường này. Nhưng khi đến nơi thì đành... chớ nghe, chớ hỏi vậy."

Hôm sau, Giám sát Ngự sử Kỷ Tri dẫn đầu một nhóm quan, rời kinh thành lên phía Bắc, nhằm hướng Thứ Châu.

Trên đường, họ không đi ngang qua khu vực cầu sông Kinh Hà bị cuốn trôi mà đi đường vòng cũ dẫn thẳng đến Thứ Châu. Tới trước thành, phủ doãn, quan đồng phán, quan lại các cấp ở Thứ Châu, cùng toàn bộ các quan chịu trách nhiệm làm đường thuộc bộ Công, bộ Lại, bộ Binh đều ra cổng thành tiếp đón.

Đứng đầu các quan là Tả thị lang bộ Công Tạ Thành và Tả thị lang bộ Hộ Từ Lệnh Hâu. Bên cạnh họ, Thiếu khanh Đại lý tự, Tuần Tra sứ Thứ Châu Tô Ôn Duẫn mặc quan bào đỏ thẫm cũng đứng đó. Tô Ôn Duẫn nhìn lướt qua toàn độ Giám sát Sứ, chợt phát hiện Đường Thận đứng lẫn trong đám ấy, làn thu thủy sóng sánh lóe lên một tia sáng rất mảnh, rồi lại lướt đi.

Trước thành Thứ Châu, Tạ Thành và Từ Lệnh Hậu bước lên một bước, hô: "Hạ quan Tạ Thành / Từ Lệnh Hậu, xin được ra mắt Giám sát Sứ đại nhân."

Gõ "làn thu thủy" xong cứ ngồi cười vì nó cứ sên sến làm sao. Làn thu thủy nét xuân sơn. Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh ~

[3] Chỗ này Đường Thận dùng từ "惶恐" có nghĩa là sợ hãi hoặc hổ thẹn, hoặc dùng để tỏ ý nhún nhường. Mình dùng "không dám" cho thoát ý.

Chương 59

Quan trường

Tạ Thành và Từ Lệnh Hậu là quan Thị lang tam phẩm. Kỷ Tri là Giám sát Ngự sử của Ngự Sử đài, có chức trách giám sát tất cả các quan lại, giữ gìn khuôn phép triều đình. Nghe danh oai phong là thế, nhưng chức quan này chỉ xếp vào hàng lục phẩm, còn thấp hơn Đường Thận một cấp. Tuy vậy, ở thành Thứ Châu không ai dám coi thường Kỷ Tri hết.

Ông ta là Giám sát Sứ do hoàng đế bổ nhiệm, trước khi vụ việc cầu sông Kinh Hà được giải quyết xong xuôi, tánh mạng gia quyến toàn thể các quan trong thành Thứ Châu đều nằm trong tay ông ta cả.

Đoàn Giám sát Sứ vào thành Thứ Châu xong thì đến thẳng nha môn phủ doãn.

Kỷ Tri là một người đàn ông tầm tuổi trung niên, tương mạo nghiêm nghị, cứng rắn và lạnh lùng. Các quan trong Ngự Sử đài tuy phẩm cấp thấp nhưng trong triều đình không phải sợ ai cả, bởi cơ quan này chịu sự quản lí trực tiếp của hoàng đế và chỉ nghe lệnh của hoàng đế mà thôi. Ngoài đức vua ra, không ai được quyền sai sử họ.

Vào nha môn phủ doãn, Kỷ Tri ngồi luôn vào ghế chủ tọa, không cần phải nhường ai.

Ông ta nhìn một lượt xung quanh, nói bằng thứ giọng lạnh ngắt: "Các vị đại nhân, hạ quan phụng chỉ Thánh thượng đến Thứ Châu, hẳn chư vị cũng biết mục đích chuyến đi này là gì. Mưa to ở Kinh Hà làm sập cầu, gây tử thương cho gần một trăm thợ khéo và quan viên, Thánh thượng long nhan đại nộ. Việc này tuyệt đối không thể xử lí qua loa lấy lệ. Mấy ngày tới, xin các vị đại nhân hãy phối hợp để chúng ta xử lí công việc cho trôi chảy."

Mọi người đáp: "Vâng."

Kỷ Tri nhanh chóng chia đoàn Giám sát Sứ ra thành hai nhóm. Một nhóm ở lại thành Thứ Châu, còn nhóm kia đi theo ông ta đến sông Kinh Hà, khảo sát hiện trường. Đường Thận bị phân vào nhóm ở lại thành.

Chết gần một trăm người, thiên tai chỉ góp một phần, yếu tố con người không thể nào coi nhẹ.

Sự cố vừa xảy ra, quan phụ trách xây dựng cầu sông Kinh Hà lập tức bị tống giam. Những người thợ có liên quan đến vụ việc đều bị hạ ngục. Hữu thị lang bộ Công – Tạ Thành dẫn đoàn Giám sát Sứ vào nhà lao Thứ Châu để chọn một số quan lại và thợ thuyền lên nha môn thẩm vấn.

Trong ngày hôm ấy, các quan viên và thợ thủ công được chọn ra từ đại lao đều bị xét hỏi hết ở nha môn.

Đường Thận đi theo đoàn Giám sát Sứ đến nhà giam, thấy các quan viên bị lột sạch mũ mão, quan bào cũng lấm bùn. Họ gầy gò và ốm yếu đến thảm hại, song mỗi buồng giam chỉ nhốt ba đến bốn người, trông tinh thần các quan vẫn không đến nỗi tệ. Trái lại, các thợ thủ công bị đối xử tàn tệ, người ta đã nhồi nhét hơn hai mươi người thợ vào một nhà giam vừa hôi hám vừa bẩn thỉu. Giữa mùa hè oi bức, có người thợ bị lôi tới nha môn mà mặt cứ dại ra, không trả lời nổi câu hỏi.

Quan với dân phạm tội, chẳng bao giờ trông mong được đối xử ngang hàng.

Đường Thận ngồi trong nha môn, bỗng cảm thấy xót xa khôn tả.

Ánh nhìn của cậu từ từ hướng về trung tâm của đại sảnh, tia thẳng vào Hữu thị lang Tạ Thành ngồi ngay dưới ghế chủ tọa.

Trong số các quan có tội, chức to nhất phải kể đến Tạ Thành! Thế mà gã ta vẫn chưa hề bị tống giam, còn được ngồi đây tiếp đón đoàn Giám sát Sứ, thẩm vấn phạm quan.

Đúng là quan trường!

Đường Thận ngồi một góc im ắng, thỉnh thoảng ghi biên bản. Cuối ngày, cậu soạn lại tổng thể những việc xảy ra trong trận mưa to ở sông Kinh Hà.

Đầu tháng tư, các quan và thợ thủ công di chuyển đến Thứ Châu, chuẩn bị mở đường. Hạ tuần tháng tư, họ đến khu vực sông Kinh Hà, bắt đầu xây dựng cây cầu. Do cây cầu này là hạng mục khó thi công nhất, nên Tạ Thành chuẩn bị mất nửa năm, dự định xây cầu trước, sau đó lấy cây cầu này làm trung tâm để mở đường về hai hướng Bắc, Nam.

Khó làm trước dễ làm sau, phương án của Tạ Thành không sai, nhưng không ai lường trước được việc cầu sẽ bị sập trong trận mưa to cả.

Nguyên nhân chính của sự kiện lần này là thiên tai.

Miền Bắc ít khi có mưa to, nhưng không may, năm nay là năm mưa lớn. Sông ngòi phương Bắc thưa thớt, chỉ có sông Kinh Hà là con sông to nhất, dòng chảy xiết nhất, thì họ thi công ở đúng sông Kinh Hà. Hai yếu tố thiên nhiên hợp lại với nhau, cầu vừa xây được một nửa, nước sông dâng cao, mưa tuôn xối xả, thế là cầu sập.

Sau ngày làm việc đầu tiên, đoàn Giám sát Sứ đã lý giải được phần lớn vụ việc.

Kỷ Tri rời Thứ Châu, giao nhiệm vụ chỉ huy đoàn Giám sát Sứ cho Thủy bộ Lang trung họ Quách ở bộ Công. Ông này là quan ngũ phẩm, nhưng vì đang đảm nhiệm chức Giám sát Sứ nên Tạ Thành và Từ Lệnh Hậu đều coi ông ta là thượng cấp, vô cùng tôn kính.

Quách Lang trung thẩm vẩn xong các quan viên và thợ thủ công thì bảo: "Hôm nay đến đây thôi, ngày mai thẩm vấn tiếp."

Các quan thưa: "Dạ."

Đoàn Giám sát Sứ đến trạm dịch Thứ Châu trọ lại.

Hôm nay là ngày đầu tiên Đường Thận đến Thứ Châu, lệnh của hoàng đế là cứ ba ngày cậu phải viết một bức thư gửi về, nhưng không nói bức thư đầu tiên phải chờ ba ngày sau mới viết. Đường Thận ngồi trong phòng, nhắm mắt suy tư, hồi tưởng lại hết một lượt những việc mình nhìn thấy, nghe thấy ở nha môn Thứ Châu ngày hôm nay, đoạn lấy giấy bút ra viết thư.

"Kính tâu đức Chí Thượng, thần khó nén kinh hãi, nếu có gì sai sót, tội đáng muôn chết.

Rằm tháng Tám vừa qua, thần và đoàn Giám sát Sứ đến Thứ Châu. Các quan trong thành đều ra cổng đón chào... "

Viết hết những điều tai nghe mắt thấy hôm nay là hết một tờ giấy. Đường Thận thổi khô mực rồi bỏ thư vào bao, cẩn thận dán kín. Đến chỗ quan sở tại ở trạm dịch, Đường Thận lấy lệnh bài ra, nói: "Gửi phong thư này đến Thịnh Kinh, ra roi thúc ngựa."

Quan phụ trách truyền tin giữa hai đầu thấy lệnh bài này thì hết hồn, nhận thư rồi nói ngay: "Dạ."

Người đưa thư nhanh chóng nhận thư, cưỡi khoái mã, rời khỏi Thứ Châu.

Cùng lúc đó, ở trạm dịch U Châu.

Thượng thư bộ Công Viên Mục ngồi trong một căn phòng sạch sẽ trang nhã, nhấc ấm trà bằng sứ Thanh Hoa, tự châm một chén. Ông ta cẩn thận nhấp một ngụm thưởng thức, xuýt xoa: "Giáo kia treo một cờ này1, vị đi tươi mát vị về ngọt thơm, trà ngon! Đúng là Bích Loa Xuân hái trước tiết Thanh Minh. Quả nhiên, ở chốn khỉ ho cò gáy U Châu, chỉ có đến phòng Vương đại nhân mới có thể uống trà ngon bực này. Tiếc là ngày mai ngài phải đi rồi. Vương đại nhân, để lại ít lá trà được không?"

[1] Chỉ búp trà non mới mọc một lá, tức là loại cực phẩm.

Vương Trăn thổi nhẹ làm mặt trà gợn sóng, phong thái rất mực ung dung, lời nói lại khiến người ta lộn ruột: "Mơ hão."

Viên Mục chẳng khách sáo, rót tiếp một chén.

Ngoài trời mưa tầm tã, tiếng mưa xối trên khung cửa sổ nghe rì rào rì rào. Trong phòng, Viên Mục nói: "Năm nay cũng kì lạ thật. Mưa to thế này ở miền Bắc hiếm lắm, xui thay trúng năm nay thì mưa lớn, đúng là ông trời trêu ngươi. Nếu không có trận mưa cỡ này, cầu sông Kinh Hà có lẽ không sập được."

Vương Trăn: "Viên đại nhân cũng tinh thông thiên văn, khí tượng quá nhỉ?"

Viên Mục: "Gọi là biết võ vẽ thôi chứ có thạo lắm đâu."

Hai người ngồi đối diện nhau. Được một lát, Viên Mục nói: "Đáng lẽ trước Trung thu là ngài được về rồi đấy. Tiếc là xảy ra việc này nên phải kéo dài đến tận hôm nay."

"Cuối tháng Viên đại nhân mới về Thịnh Kinh à?"

"Đương nhiên. Lúc ấy về kinh rồi, ta có đến phủ Thượng thư bộ Hộ xin Vương đại nhân một chén Bích Loa Xuân, ngài phải cho ta đấy nhé."

Vương Trăn mỉm cười không đáp.

Viên Mục đứng lên, đi ra đóng cửa sổ cho mưa khỏi hắt vào nhà. Lúc chuẩn bị đóng cửa, tự dưng ông ta lại ngẩng lên bầu trời đen kịt vần vũ, lặng ngắm hồi lâu, đoạn nói: "Hoàng thượng phái ngài tới U Châu để điều tra gì đấy?"

Vương Trăn không buồn ngẩng lên, chỉ chăm chú thắp nến trong phòng, bình tĩnh đáp: "Chẳng phải Viên đại nhân đã đoán được từ sớm rồi hay sao?"

Viên Mục đóng cửa sổ lại, quay ra nhìn Vương Trăn, cười: "Ta đoán thì đúng thật, nhưng người phải tiếc là Vương đại nhân chứ. Đi cả một chuyến mà đến nhầm chỗ, rõ uổng công! Nói vậy chứ trên đời này dù là ta, ngài, hay thánh thượng đi chăng nữa cũng không thể tiên đoán miền Bắc đổ mưa dữ dội đến thế, sập cả cầu sông Kinh Hà. Thằng ôn kia đúng là người mang mệnh trời, chuyện ngon ăn nào cũng đến lượt nó xơi! Ta là ta ghen tị lắm đấy!"

Vương Trăn hết sức ngạc nhiên: "Viên đại nhân mà lại ghen tức với một quan tứ phẩm nhỏ nhoi à?"

Viên Mục nói sâu xa: "Nhỏ nhoi ư? Chỉ e ta về đến Thịnh Kinh, người ta đã thành đại thần tam phẩm từ tám mươi đời, có khi ngang cấp với hai chúng ta luôn ấy chứ!"

Trong phòng hoàn toàn yên tĩnh, không ai nói nữa.

Viên Mục uống nốt một chén trà rồi đứng dậy đi về. Bỗng Vương Trăn nói: "Hộp Bích Loa Xuân này xin Viên đại nhân hãy cầm theo."

Viên Mục quay lại, ngạc nhiên nhìn chàng.

Vương Trăn cười nói: "Vốn là mang đến cho ngài đấy."

Viên Mục nhìn Vương Trăn hồi lâu, cười gượng gạo: "Người ta hay bảo bữa cơm đầy thịt là bữa cuối của tử tù, sao ta cứ nghĩ, Vương đại nhân tặng ta hộp Bích Loa Xuân cực phẩm này là để tiễn ta đi nốt chặng đường cuối nhỉ?"

"Sao Viên đại nhân lại nghĩ thế?" Vương Trăn tỏ vẻ kinh ngạc.

Viên Mục đối mặt với chàng một hồi cũng thấy dở khóc dở cười: "Vương Tử Phong, đừng nói thêm gì nữa, hẹn tháng sau tái ngộ ở Thịnh Kinh!"

Cầm hộp Bích Loa Xuân rời khỏi trạm dịch, Viên Mục trở lại nha môn U Châu. Vừa về tới nơi ông ta đã liệng luôn hộp trà xuống đáy rương, hậm hực: "Thôi thì khuất mắt đi cho khỏi phiền lòng này. Cái tay Vương Tử Phong đáng ghét này, đến giờ rồi còn không chịu nói thật. Rõ rành rành nó biết chuyện chẳng can hệ gì đến ta, thế mà cứ câm như hến! Thảo nào ở điện Cần Chính, cứ thấy nó là mình lại ngứa cả mắt!"

Đến khi ăn tối xong, Viên Mục nằm trên giường nghĩ Tần nghĩ Sở, lại bò dậy lục hộp Bích Loa Xuân ra.

"Không thể để Vương Tử Phong hời thế được, của này là của báu mà."

Vương Tử Phong là cái đồ bụng một bồ dao găm, nhưng hộp Bích Loa Xuân này vô tội biết bao, sao nỡ lãng phí chứ?

Về phần mình, Đường Thận yên tâm gửi thư mà không lo bị đọc trộm. Lệnh bài này Triệu Phụ cấp riêng cho cậu, nếu thư của cậu bị lộ, thì tính mạng người đưa thư mới là điều đáng lo hơn.

Về đêm, Đường Thận đang định ngủ, quan viên phụ trách trạm dịch lại đến gõ cửa, bảo có khách tới thăm.

Đường Thận lấy làm lạ. Cậu vừa mặc xong quần áo thì một chàng trai trong bộ áo gấm đen bước vào phòng. Đường Thận đơ ra mất một lúc mới định thần bước tới: "Chào Tô đại nhân. Đêm khuya Tô đại nhân ghé thăm, chẳng hay có việc gì?"

Vị khách ấy chính là Tô Ôn Duẫn.

Đường Thận từ trước đến nay chưa thấy Tô Ôn Duẫn mặc quần áo màu đen bao giờ, thực tế ra đây cũng là lần đầu tiên cậu thấy Tô Ôn Duẫn mặc thường phục thay vì quan bào. Không thể không nói, nếu Vương Tử Phong là chàng tiên giáng thế ở tít trên cao, thanh nhã xuất trần đến nỗi ai thấy cũng phải nghiêng mình, thì Tô Ôn Duẫn như con dao găm bén ngọt, lưỡi dao giấu trong vỏ không chỉ sắc bén mà còn đầy nọc độc. Anh ta ưa nhìn thật đấy, nhưng cũng cực kì đáng gờm, khiến người khác khó lòng sinh hảo cảm.

Tô Ôn Duẫn đi thẳng vào vấn đề luôn: "Hôm nay Đường đại nhân quan sát những người trong đại lao Thứ Châu, có cảm tưởng gì không?"

Đường Thận thăm dò: "Ý của Tô đại nhân là...?"

Tô Ôn Duẫn nở nụ cười: "Ngươi nghĩ, chỉ là thiên tai thôi à?"

Đường Thận lẳng lặng chưa đáp vội. Trong ánh nến, gương mặt Tô Ôn Duẫn mỹ miều vô cùng.

Tháng bảy, Triệu Phụ phái ba người tâm phúc chia nhau đi U Châu, Thứ Châu và Ninh Châu.

Tháng tám, cầu sông Kinh Hà bị lũ cuốn trôi, Thánh thượng nổi trận lôi đình. Đoàn Giám sát Sứ được cử đến Thứ Châu, Triệu Phụ vô duyên vô cớ lại ghé thêm Đường Thận vào.

Hóa ra...mọi chuyện chính là vậy!

Đường Thận tự dưng bật cười. Mọi việc trước mắt cậu trở nên sáng tỏ, nhưng trong lòng cậu rối rắm lung bung, vừa thấy khó xử lại vừa thấy hài hước.

Đang yên đang lành lại cười, Đường Thận không trả lời ngay câu hỏi của Tô Ôn Duẫn. Song Tô Ôn Duẫn tạm thời chưa phát hiện phản ứng bất thường của cậu. Ánh nến leo lét, Đường Thận cứ lặng lẽ cười, Tô Ôn Duẫn có chút ngạc nhiên, tự dưng lại quên mình định nói gì.

Đường Thận nhớ đến hôm ấy trong kiệu, Vương Tử Phong đã kéo tay cậu lại, dặn dò.

Chớ nghe, chớ hỏi.

...Không nghe, không hỏi, đúng là cách người khôn giữ mình.

Bây giờ cũng chỉ còn cách làm người khôn giữ mình thôi.

Đường Thận làm bộ băn khoăn, nghĩ tới nghĩ lui một hồi mới đáp: "Hạ quan...Thật sự không hiểu ý Tô đại nhân ạ!"

Chương 60

Nhân họa

Trời tối om om, trong trạm dịch, chỉ nghe thấy tiếng gió thổi ào ạt và tiếng mưa rả rích.

Tô Ôn Duẫn lựa lúc tối trời đến gặp Đường Thận, mặc đồ đen, rõ ràng là muốn giữ bí mật. Bỗng nhiên, ngoài phòng có tiếng sứ bể; Tô Ôn Duẫn giật mình, lẳng lặng đi đến cửa sổ, khẽ đẩy cửa sổ hở ra một khe nhỏ xíu. Thì ra ở tòa đối diện có một viên quan hậu đậu làm đổ mâm bát xuống sàn.

Đóng cửa lại, Tô Ôn Duẫn đi về giữa phòng, hỏi Đường Thận: "Đường đại nhân có nghĩ đây là thiên tai thật không?"

Đường Thận ngạc nhiên hết sức. Cậu suy tư chốc lát rồi nghiêm túc đáp: "Thật lòng mà nói, nếu chỉ là thiên tai, Thánh thượng sẽ không phái hẳn một đoàn Giám sát Sứ đến Thứ Châu. Mục đích đến Thứ Châu của chúng ta chính là điều tra xem ngoài yếu tố thiên tai ra, có sai phạm của con người không. Có điều, hạ quan chưa rõ, rốt cuộc Tô đại nhân... có dụng ý gì khi sang đây tối nay?"

"Khởi Cư lang phụ trách ghi chép việc hàng ngày của hoàng đế, bình thường sẽ chẳng bao giờ rời cung."

Đường Thận im như thóc, không hé răng nửa lời.

Tô Ôn Duẫn bình thản nhìn cậu, cười nói: "Vì thế, Đường đại nhân đến Thứ Châu... với mục đích gì đây nhỉ?"

Đường Thận không có cách nào trả lời câu này cả.

Chẳng những Triệu Phụ không nói cho cậu biết ý đồ của ông ta khi phái cậu đi Thứ Châu, kể cả ông ta có ngầm dặn dò đi chăng nữa, cậu cũng chẳng thể nói trắng ra cho Tô Ôn Duẫn được.

Sự im lặng của Đường Thận là quá đủ cho một câu trả lời đối với Tô Ôn Duẫn.

Tô Ôn Duẫn cười nhạt: "Chẳng lẽ Thánh thượng cũng nghi ngờ ta ư?"

Đường Thận lập tức nói: "Hạ quan không hiểu Tô đại nhân đang nói gì."

Tô Ôn Duẫn nghiêm nghị nhìn Đường Thận, rồi thình lình anh ta phẩy tay áo bỏ đi, chỉ ném lại một câu nói khiến từng viên gạch trong phòng khách trạm dịch cũng phải rùng mình: "Đường Thận, lần này cầu sông Kinh Hà sập không chỉ do thiên tai, mà tội phần nhiều là do nhân họa! Dù ngươi tin hay không, việc này cũng không liên can gì đến ta. Nhưng ta cũng muốn điều tra rõ chân tướng giống như ngươi thôi."

"Tô đại nhân..."

Tô Ôn Duẫn đã đi xa rồi.

Đường Thận móc tấm lệnh bài bằng bạc trong ngực áo ra, nheo mắt, rồi nhét nó trở lại.

Bốn ngày sau, Giám sát sứ Kỷ Tri dẫn theo các quan trở về Thứ Châu. Ông ta đến nha môn phủ doãn Thứ Châu, tất cả các quan đều đến trình diện. Kỷ Tri nhìn lướt qua toàn thể rồi nói: "Chư vị đại nhân, hạ quan chỉ là một Giám sát Ngự sử lục phẩm, phẩm cấp có thế coi là thấp nhất so với các vị ở đây. Nhưng hạ quan cũng xin nói rằng, trước khi đến nơi này, kẻ hèn này đã được bệ hạ bổ nhiệm làm Giám sát Sứ Thứ Châu. Nếu có chỗ nào mạo phạm, mong các vị đại nhân bỏ quá cho, chớ để bụng."

Các quan Ngự sử ở Ngự sử đài xưa nay có bao giờ để ai vào mắt? Quan to quan nhỏ đối với họ như nhau cả, nhưng hiếm khi họ cố tình nói thẳng ra như vậy.

Tự dưng bây giờ Kỷ Tri nói thế, các quan trong phòng xôn xao cả lên, ngay đến Đường Thận cũng phải ngước nhìn ông ta.

Kỷ Tri nói tiếp: "Vậy coi như các vị đại nhân đã ngầm tán thành rồi nhé. Mang thứ ấy lên đây." Giọng Kỷ Tri trầm xuống; hai sai nha khiêng một sọt trúc vào phòng. Sọt trúc ấy to cỡ cái vò đựng nước, trông rất bình thường, không có gì lạ. Trong sọt đựng mấy tảng đá bị vỡ có kích thước lớn.

Các quan đều không rõ sự thể ra sao, châu đầu thì thào với nhau về ý đồ của Kỷ Tri.

Câu nói tiếp theo của Kỷ Tri như một lời cảnh cáo, khiến nha môn Thứ Châu im phăng phắc: "Đây chính là đầu sỏ gây nên thảm họa sập cầu sông Kinh Hà!"

Sông Kinh Hà là con sông to với dòng chảy xiết nhất vùng Bắc Đại Tống. Tuy vậy, ở miền đất thưa thớt sông ngòi thì sông Kinh Hà chỉ là thằng chột làm vua xứ mù. Xây một cây cầu bắc ngang sông khá gian nan đấy, nhưng không đến nỗi bất khả thi; thợ thủ công của Đại Tống hoàn toàn có thể thực hiện được.

Thời tiết mùa hè năm nay khó đoán, miền Bắc mưa nhiều, dẫn đến nước sông dâng cao và dữ dội bất thường, mưa lớn ồ ạt cuốn sập cây cầu xây dang dở. Mặc dù vậy, Triệu Phụ nghi ngờ rằng thiên tai không phải là nguyên nhân duy nhất. Bên cạnh đó, các quan ở triều đình xa xôi cũng hết sức hoài nghi, lẽ nào chỉ một trận mưa lớn mà cướp nổi sinh mạng của gần một trăm con người?

Kỷ Tri đến Thứ Châu chính là để giải đáp những mối nghi hoặc ấy. Không phụ sự kì vọng của mọi người, ông ta đã tìm được những tảng đá lớn này trong xác cầu tan hoang, đổ nát.

Kỷ Tri bước tới bên giỏ trúc, chỉ vào những tảng đá mà nói: "Tạ đại nhân là Hữu thị lang bộ Công, hẳn ngài biết những tảng đá này là gì. Chính thế, đây là đá để dựng móng cầu. Cầu sông Kinh Hà xây theo hướng từ Nam lên Bắc, dài hơn năm trăm mười hai trượng. Năm ngoái, dòng chảy của sông Kinh Hà không quá xiết, nên khi xây cầu, bộ Công đã tính chiều sâu vào khoảng mười trượng. Ta nói có đúng không?"

Trông Tạ Thành có vẻ chột dạ, hiển nhiên gã ta biết Kỷ Tri sắp nhắc đến cái gì.

Kỷ Tri: "Tạ đại nhân, ngài xem thử xem những tảng đá xây cầu này có dài đủ mười trượng không?"

Tạ Thành quay phắt lại, tức tối quát: "Kẻ nào phụ trách xây móng cầu hả? Lôi quan phụ trách xây móng cầu và toàn bộ thợ có liên quan lên đây!"

Vừa dứt lệnh, sai nha khẩn trương rời nha môn, đến đại lao Thứ Châu áp tải phạm nhân. Một khắc sau, chỉ có hai sai nha cuống cuồng chạy về; một tên quỳ phịch xuống đất, mặt cắt không còn hột máu: "Đại nhân thứ tội, đại nhân thứ tội! Năm ngày trước, khi đoàn Giám sát Sứ đến Thứ Châu đã giải một số quan viên và thợ thủ công lên công đường tra hỏi. Sau đó, có vài viên quan và thợ sợ tội nên đã tự sát rồi ạ!"

Tất cả sửng sốt.

Tô Ôn Duẫn sấn tới: "Sợ tội tự sát?"

Sai nha vừa quỳ vừa tâu: "Dạ. Vì chỉ có ba viên quan và mười mấy người thợ tự sát thôi nên tiểu nhân... tiểu nhân mới không bẩm báo ạ."

"Huỵch!"

Tô Ôn Duẫn đạp tên sai nha văng ra ba mét.

Sai nha nôn ra máu mà không dám nằm đó, sợ vãi ra quần, lồm cồm chạy về khấu đầu lia lịa: "Tiểu nhân biết lỗi rồi, tiểu nhân biết lỗi rồi ạ. Tiểu nhân xin chỉ thị của quan Phủ doãn đại nhân, Phủ doãn đại nhân bảo không phải chuyện lớn nên tiểu nhân mới không bẩm báo."

Tô Ôn Duẫn quay phắt về phía Phủ doãn Thứ Châu: "Trương đại nhân, có chuyện này thật không?"

Tô Ôn Duẫn là Thiếu khanh Đại lý tự hàm tứ phẩm, chẳng những cùng cấp với phủ doãn Thứ Châu mà còn giám sát việc tù đày tất tật các quan trong triều. Phủ doãn Thứ Châu bị hỏi một câu mà lạnh toát cả người, y vội vàng thưa: "Quả có việc ấy ạ, nhưng bẩm Giám sát Sứ đại nhân, bẩm Tô đại nhân, khi hạ quan kiểm tra thì mấy kẻ đó đều tuyệt thực mà chết chứ không phải bị ai mưu hại! Sau tai nạn ở Kinh Hà, số quan lại, thợ thuyền bị giam trong tù đông vô kể, hạ quan không tài nào để mắt xuể. Mãi đến khi họ tuyệt thực chết tôi mới biết chuyện."

Kỷ Tri: "Khiêng thi thể lên đây."

Sau nửa canh giờ, sai nha đã di chuyển thi thể của ba viên quan và mười hai người thợ từ nghĩa trang về đến nha môn.

Bây giờ đã là tháng tám rồi, nhiệt độ ngoài trời rất cao, trong số những người này có người đã chết được ba hôm, có người thì một, hai hôm, nhưng dù thế nào thì tất cả xác chết đều bốc mùi cực kì tanh tưởi. Có viên quan quen sống nhung lụa, chưa gì đã nôn thốc nôn tháo. Đường Thận cũng thấy lợm giọng, nhưng Kỷ Tri, Tạ Thành và Tô Ôn Duẫn đều bắt tay vào kiểm tra thi thể ngay, nên cậu đành nghiến răng mà xông tới.

Kỷ Tri và Tô Ôn Duẫn đã kiểm tra xong. Kỷ Tri nói: "Đúng là chết vì tuyệt thực. Trong số này có mấy người phụ trách dựng móng cầu?"

Tạ Thành đáp: "Kẻ này, và mấy kẻ này."

Gã chỉ vào một viên quan và bốn người thợ.

Những quan lại và thợ thủ công phụ trách móng cầu dĩ nhiên không chỉ có năm người; nhưng trùng hợp thay, lúc cầu bị sập, toàn bộ những người còn lại đều đang ở công trường xây dựng. Họ bị lũ cuốn trôi hết, chết không toàn thây.

Kỷ Tri vấp phải vấn đề nan giải, không biết tính sao nữa.

Sau khi cho khiêng chỗ thi thể ấy đi, Kỷ Tri bèn tập hợp cả đoàn Giám sát Sứ lại để họp kín.

Kỷ Tri: "Chư vị đồng liêu, trong thành Thứ Châu này, chúng ta chỉ có thể tin tưởng vào nhau mà thôi. Chỉ có các vị ngồi đây mới là những người thực sự không dính dáng gì đến vụ sập cầu sông Kinh Hà. Ban đầu hạ quan cho rằng vụ tai nạn này xảy ra bởi cả yếu tố thiên tai lẫn sai phạm của con người, nhưng xét tình hình này, xem ra nước thành Thứ Châu sâu hơn so với chúng ta tưởng. Các vị ạ, chúng ta đơn độc dấn thân vào chốn địa ngục rồi."

Một viên quan nói: "Không thể có chuyện trùng hợp như thế. Tuyệt thực bỏ mình, sợ tội tự sát, chết sạch không còn một ai!"

"Chắc chắn vụ này có bẫy."

"Nhưng kể cả biết là bị qua mặt, chúng ta có thể làm thế nào chứ? Giờ họ đã chết không đối chứng rồi."

Kỷ Tri: "Hiện giờ có hai việc như sau. Trước tiên, ta sẽ trình báo lại chuyện phát sinh ở thành Thứ Châu về Thịnh Kinh, xin bệ hạ định đoạt. Đồng thời, chúng ta sẽ tiếp tục ngầm điều tra. Ý các vị ra sao?"

"Tất cả xin nghe theo Kỷ đại nhân."

Màn đêm buông xuống, Kỷ Tri viết một bản tấu, phái người giục ngựa suốt đêm gửi về Thịnh Kinh.

Hôm sau, Kỷ Tri triệu tập toàn bộ các Giám sát Sứ trong đoàn. Khi bọn họ chuẩn bị vào họp, Kỷ Tri chợt dừng bước, nhìn sang Đường Thận: "Đường đại nhân cũng theo vào đây."

Đường Thận sửng sốt, vội cất bước đi theo các quan Giám sát Sứ vào phòng.

Đường Thận vừa mới vào tới nơi, Kỷ Tri đã bắt đầu nói, giọng trĩu nặng ưu phiền: "Các vị đại nhân, toàn bộ quan lại và thợ thủ công trực tiếp tham gia vào việc xây dựng móng cầu đã tử vong, chết không đối chứng, đây là sự thật không thể xoay chuyển. Nhưng ta vừa nhận được tin rằng ngoài những người đó ra, còn có tám vị đại nhân khác có cơ hội tiếp xúc với việc thu mua đá xây cầu và công đoạn xây móng. "

"Là tám vị nào vậy?"

Kỷ Tri không mở miệng, một Giám sát Sứ khác nói thay ông ta: "Tám người này toàn bộ đều là quan lớn, thấp nhất cũng là ngũ phẩm. Những người này theo thứ tự là Kim bộ Lang trung Tằng Phỉ thuộc bộ Hộ, Ti huân Lang trung Nhạc Tử Quang thuộc bộ Lại,... Lang trung bộ Công Cao Duy, người mới về Thịnh Kinh báo tin cách đây nửa tháng. Ngoài ra còn có Phủ doãn Thứ Châu Trương Phong – Trương đại nhân, Thiếu khanh Đại lý tự Tô Ôn Duẫn – Tô đại nhân, Hữu Thị lang bộ Công Tạ Thành – Tạ đại nhân, cùng với Tả thị lang bộ Hộ Từ Lệnh Hậu – Từ đại nhân!" 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#dammy