Chương 71 - 95

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 71

Sư huynh nhà mình sắp thành tiên rồi

Trong vườn nhà Vương Trăn, hai sư huynh đệ ngồi chơi trong ngôi đình ven hồ. Làn nước đêm thấp thoáng bóng trăng, gió lướt trên mặt hồ lăn tăn gợn sóng.

Đường Thận để hộp điểm tâm lên bàn, Vương Trăn vẫy tay ra hiệu cho cậu, bảo: "Ngồi đi."

Đường Thận ngồi xuống băng ghế đá.

Xưa nay quân tử yêu văn thơ, mỹ nhân thạo cầm kì thi họa; song nói vậy không có nghĩa người quân tử thì không am hiểu cầm kì thi họa. Thời đại này có vô số tài tử vừa có tài vừa có nghệ, trong đó, tài tử lừng danh nhất đang yên vị ngay trước mặt Đường Thận đây. So đánh cờ, thư pháp, vẽ tranh, Đường Thận còn có thể nhại theo đôi chút, gọi là trông hồ lô vẽ gáo, bắt chước văn nhân, chứ riêng khoản chơi đàn thì cậu dốt đặc cán mai.

Về quá khứ năm năm nay, phần lớn thời gian cậu dồn cả vào việc học hành thi cử, còn đâu thì giờ mà học đánh đàn?

Thế nên, Đường Thận chỉ ngồi cạnh xem Vương Trăn lên dây đàn. Chỉnh âm xong, Vương Trăn hỏi: "Tiểu sư đệ muốn nghe khúc nào?"

Đường Thận buột miệng: "Cao sơn lưu thủy."

Cái này không trách Đường Thận tai trâu được, bởi khúc Cao sơn lưu thủy quá nổi tiếng ở thời hiện đại, đi vào cả thành ngữ ca dao. Đường Thận không nghe cổ cầm bao giờ, chỉ gọi tên được mỗi khúc nhạc này là đúng rồi.

Không hiểu sao câu trả lời ấy lại khiến Vương Trăn bật cười. Chàng thở dài: "Cao sơn lưu thủy được chia làm hai khúc, một là Cao sơn, hai là Lưu thủy."

Đường Thận: "Ủa, thế cơ ạ? Thế sư huynh có đàn được cả hai khúc ấy không?"

"Cầm phổ của khúc Cao sơn lưu thủy đã bị thất truyền từ thời Thái tổ do chiến loạn. Bản được lưu giữ hiện giờ chỉ là tàn phổ thôi."

Sau đó Vương Trăn cũng không hỏi lại Đường Thận nữa mà đàn khúc Quảng Lăng tán.

Đường Thận dụi mũi, biết sư huynh đã rõ mình là đồ văn hóa lùn nên mới không thèm hỏi nữa kẻo cậu lại xấu hổ. Câu nghe khúc Quảng Lăng cũng chẳng hiểu gì mấy, chỉ thấy giai điệu cảm động ra phết. Là người hiện đại, Đường Thận hay nghe những bài hát thịnh hành thay vì nhạc cổ cầm trang nhã. Nói tóm lại, môn nghệ thuật này nằm ngoài tầm thưởng thức của cậu.

Nhưng khi ngắm phong thái chơi đàn của Vương Trăn dưới ánh trăng, Đường Thận dần dần ngộ ra đôi điều.

"Có lẽ khi lắng nghe âm nhạc, thứ mình thưởng thức không chỉ là khúc nhạc mà còn là người chơi đàn nữa." Đường Thận kết luận thầm trong lòng.

Vẻ phong nhã, khoáng đạt của sư huynh nhà mình đã đạt đến tầm cao mới rồi!

Nếu bây giờ có một trận gió thổi quá, cậu nghĩ Vương Tử Phong có thể cưỡi gió vút bay, mọc cánh thành tiên luôn ấy chứ!

Gảy xong khúc Quảng Lăng, Vương Trăn sai thư đồng cất cổ cầm đi. Sư huynh đệ cùng nhau nhâm nhi ấm trà, thưởng thức đêm trăng. Vương Trăn hỏi: "Sao hôm nay tiểu sư đệ nổi hứng sang chơi phủ Thượng thư thế?"

Đường Thận nghĩ thầm, huynh lại chẳng biết quá còn gì. Huống hồ ngay từ lúc đến đây ta đã nói rằng mình nhận được quà của huynh, tức đã biết huynh đưa lọ tinh dầu thủy tinh cho hoàng đế và xin cho ta danh hiệu hoàng thương rồi. Anh chàng Vương Tử Phong này là chúa vòng vo tam quốc! Lắm lúc nói một câu là xong cả chuyện mà anh ta không nói đâu, cứ thích bắt người khác phải trình bày củ tỉ âm ti cho mình nghe mới chịu.

Những điều ấy Đường Thận chỉ có thể than thở trong lòng chứ nào dám nói ra miệng. Cậu tỏ thái độ kính ngưỡng với Vương Trăn: "Hôm nay thánh thượng đã vời đệ vào điện Thùy Củng và cho xem bình lưu ly."

Vương Trăn thở dài: "Hôm đó cũng tình cờ bị thánh thượng bắt gặp thôi. Bệ hạ thích quá nên ta đành phải tặng người. Tiểu sư đệ, đệ không trách ta đấy chứ?"

Đường Thận: "..."

Cái đuôi bự đã lòi ra rồi mà con sói này còn ỡm à ỡm ờ!

Đường Thận lập tức đáp: "Đương nhiên là không rồi, đệ cảm ơn sư huynh còn chưa đủ nữa là. Thánh thượng ra lệnh cho đệ thay hết cửa sổ điện Thùy Củng bằng ngọc lưu ly trong suốt. Từ giờ việc cung cấp ngọc lưu ly hoàn toàn thuộc về Đường gia."

Vương Trăn cười, tự châm trà cho bản thân rồi hất cằm hỏi Đường Thận, Đường Thận đẩy chén của mình sang.

Đường Thận: "Có điều đệ cứ băn khoăn mãi... rốt cuộc sư huynh đã làm thế nào vậy?"

"Tiểu sư đệ quên ta là ai rồi sao?"

Đường Thận ngạc nhiên: "Dạ, sư huynh?"

Vương Trăn thưởng thức trà, khoan thai nói: "Ta là Thượng thư bộ Hộ đó, tiểu sư đệ ơi."

Đường Thận bấy giờ mới bừng tỉnh.

Việc sắp đặt cho Đường gia lọt vào mắt xanh của hoàng đế rồi trở thành hoàng thương không hề dễ dàng đối với người khác. Còn đối với Vương Trăn thì việc này hoàn toàn thuộc thẩm quyền của chàng, chàng thực hiện nó là điều chẳng ai có thể dị nghị. Song Vương Trăn nói nhẹ nhàng thế thôi, với cái thói đa nghi của Triệu Phụ, muốn vận động cho thủy tinh của Đường gia thành hoàng thương, ắt hẳn chàng đã phải vận dụng nhiều thủ đoạn tinh vi mà Đường Thận không tưởng tượng nổi.

Hai tháng dày công mưu kế làm sao lấp nổi chỉ bằng một câu "Thượng thư bộ Hộ"?

Nhưng dù Đường Thận có gặng hỏi thì Vương Trăn cũng không nói hơn đâu.

Đường Thận suy tư một hồi thì cũng hiểu ý của Vương Trăn. Cậu tặng cho chàng lọ tinh dầu lưu ly, chàng lại đáp lễ cậu nhiều như thế, vốn sẵn lòng cảm kích, cậu nhất định sẽ càng biết ơn Vương Trăn hơn. Hoàng đế chú trọng việc thị uy kết hợp ban ơn, quyền thần đương nhiên cũng vậy. Thủ đoạn quan trường của Vương Tử Phong quá tinh tế, không hổ là người mà Lương Tụng phải khen là dễ làm quan và có tài làm quan nhất trên đời.

Nhưng dù Đường Thận hiểu rõ điều ấy đi chăng nữa, cậu vẫn hàm ơn Vương Trăn vô cùng.

Thu phục lòng người chẳng qua chỉ là một mục đích của Vương Trăn. Đường Thận có thể nhận ra rằng Vương Trăn tử tế với mình thật. Nếu chỉ để mua chuộc lòng thành của một viên quan tứ phẩm, Vương Trăn việc gì phải làm nhiều thế? Chàng vắt óc bày mưu, phần nhiều là bởi chàng thực lòng xem mình là sư đệ.

Đường Thận nói: "Bình Hoàng Kim Lũ đã vào tay bệ hạ rồi, e là không lấy lại được. Đệ làm cho sư huynh một bình khác nhé, được không?"

Đôi mắt Vương Trăn ngậm cười, chàng chỉ chờ câu này của Đường Thận thôi: "Được."

Hai người tán gẫu một hồi thì trời cũng đã tối, ngày mai còn phải lên triều. Người hầu đi vào đình dọn điểm tâm và trà nước trên bàn.

Vương Trăn: "Tuy trễ hai tháng, nhưng tiểu sư đệ có thích món quà Tết này của ta không?"

Ơ kìa? Giờ không vờ vĩnh nữa à?

Đường Thận chả biết Vương Trăn giở tiếp bài gì, cậu nghĩ một lát, quyết định nói thật lòng: "Thích ạ!"

Vương Trăn cười tươi: "Thích là tốt."

Ngoài dự kiến của Vương Trăn, Đường Thận không về ngay. Cậu theo Vương Trăn vào thư phòng, nói: "Bút lực của sư huynh hùng tráng mạnh mẽ, hạ bút là như phượng múa rồng bay. Tuy đệ học theo nét chữ của sư huynh, nhưng còn xa mới đuổi kịp. Đệ muốn xin sư huynh ba chữ đại tự."

Vương Trăn nhướng mày: "Ba chữ gì?"

"Bách Bảo Các."

Vương Trăn liếc Đường Thận đầy thâm thúy, rồi chàng rút cây bút lông sói, chấm mực, múa bút viết ba chữ "Bách Bảo Các".

Đường Thận ngắm nghía, viết đẹp quá đi thôi. Chờ mực khô, cậu nhanh nhẹn xin bức thư pháp.

Gần về, Đường Thận rút một hộp gấm nhỏ rất đẹp ra từ trong tay áo, nhét vào tay Vương Trăn. Vương Trăn ngạc nhiên, Đường Thận nói: "Tặng sư huynh chút quà mọn nè."

Vương Trăn mỉm cười: "Tiểu sư đệ suốt ngày quà cáp mà cứ chối là không hối lộ, buộc ta đáp lễ hoài. Xem ra đêm nay ta lại phải trằn trọc thao thức, động não xem nên tặng sư đệ cái gì rồi."

"Sư huynh vừa tặng quà cho đệ đấy thôi."

"Hả?"

Đường Thận phe phẩy cuộn thư pháp trên tay, nói: "Mai lên triều rồi mình gặp nhau nhé, sư huynh không phải tiễn đâu."

Dõi mắt nhìn theo bóng lưng Đường Thận xa dần, chờ cậu đi khuất hẳn, Vương Trăn mới trở lại phủ Thượng thư. Chàng thay quần áo, rửa mặt sạch sẽ rồi ngồi xuống án thư, mở hộp gấm Đường Thận nhét vào tay mình hồi nãy. Hộp mở ra, Vương Trăn giật mình ngỡ ngàng hồi lâu. Chàng thở dài: "Mình còn tưởng là ngọc bội hay túi hương, hóa ra là khế ước."

Cứ thế, khế ước cổ phần của của Bách Bảo Các bị Vương Tử Phong để nguyên trên bàn, đến tận trước lúc lên giường chàng mới cất nó vào hốc bí mật ở trong phòng ngủ.

Ở phủ Thám hoa, Đường Thận đã về nhà, nhưng chẳng tài nào ngủ được.

Cậu nằm thao thức mãi trên giường, trở mình qua lại.

Hôm nay cậu tặng Vương Trăn một món quá lớn: Cổ phần của Bách Bảo Các!

Người khác có thể không rõ khoản cổ phần này đại diện cho cái gì, ngay cả Vương Trăn có khi cũng không biết số cổ phần ấy trị giá bao nhiêu tiền, nhưng Đường Thận cho đi thật đơn giản. Cậu không hề tiếc số tiền ấy, bởi thứ nhất, tặng cổ phần Bách Bảo Các cho Vương Trăn là cách cậu thể hiện lòng biết ơn của cậu với chàng. Cậu biết Vương Tử Phong ưu ái mình hết mực, song vì không có cách nào báo đáp nên cậu đành tặng chàng cổ phần. Thứ hai, ở Thịnh Kinh, Vương Trăn là người quyền cao chức trọng, là Thượng thư bộ Hộ chuyên quản lí thương nghiệp. Có được sự hậu thuẫn của chàng, Bách Bảo Các nhất định sẽ đánh đâu thắng đó, không gì cản nổi.

Nhưng thực ra, điều khiến Đường Thận thao thức mãi lại là dáng vẻ của Vương Tử Phong khi gảy đàn tối nay.

Trăng sáng trong ngần, áo xanh mão ngọc.

Ví bằng tất cả mọi người trên đời đều khen Vương Tử Phong là người đàn ông xuất sắc, diện mạo xuất chúng, khí chất phi phàm, Đường Thận nhất định sẽ tán thành hai tay hai chân: sư huynh nhà cậu sắp thành tiên đến nơi rồi, những kẻ phàm phu tục tử khác làm sao sánh nổi? Nhưng dường như tối nay Vương Tử Phong đã đạt đến cảnh giới mới.

"Chơi đàn đúng là vũ khí làm màu tối thượng, sau này mình có nên đi học đàn không nhỉ?"

Đường Thận nghĩ ngợi một hồi, bèn phủi ngay ý định viển vông ấy đi.

Tài đàn của Vương Tử Phong được ví như nhạc tiên, cậu mà rớ vào đàn khéo lại thành bật bông ấy chứ, thôi thôi hãy quên đi cho lành.

Nghĩ vẩn nghĩ vơ gần nửa canh giờ, Đường Thận mới ngủ được.

Đầu tháng ba, trên phố lớn Chính Dương Môn, có một người bí ẩn mua liên tiếp ba cửa hàng liền kề nhau, đóng cửa sửa sang.

Thịnh Kinh là trung tâm chính trị, văn hóa và kinh tế của Đại Tống, sự phồn hoa của phố lớn Chính Dương vượt quá sức tưởng tượng của người bình thường. Mặc dù vậy, kể cả trên phố lớn Chính Dương Môn thì cũng hiếm khi người ta thấy nhà nào mua đứt ba cửa hàng liên tiếp để gộp làm một tiệm.

"Mặt tiền lớn thế, chả biết bán cái gì nhỉ?"

Nhân viên một tửu lầu chênh chếch ở phía đối diện nghĩ thầm: "Có khi định mở phường nhuộm vải cũng nên?"

Quản lí bó tay: "Ai lại đi mở phường nhuộm ở đường Chính Dương Môn hả cái thằng này? Ở đây tấc đất tấc vàng, người ta có bị lừa sút vào đầu cũng không mở xưởng ở đây!"

Tay nhân viên cười hềnh hệch: "Quản lí, vậy ngài bảo người ta định bán gì đây? Mua đứt mặt tiền cả ba cửa hàng, tóm lại họ làm gì mà kinh thế?"

Quản lí nói: "Làm gì thì cũng chẳng can hệ đến nhà ta. Khu Chính Dương Môn này bao nhiêu là tửu lầu, ngay cả lầu Thiên Lý cũng chẳng dám mở quán to thế. Chắc họ không làm tửu lầu đâu, kệ xác bọn họ."

Người dân Thịnh Kinh đi ngang qua phố lớn Chính Dương Môn đều thấy cảnh ba cửa hàng đang sửa sang tu bổ. Quản lí và nhân viên tửu lầu sinh lòng hiếu kỳ thì những người đi đường đương nhiên cũng thế. Nhưng mãi nửa tháng mà không thấy cửa hàng ba gian đó có động tĩnh gì.

Đến mùng hai tháng tư, có người thấy quản lý Lục của lầu Tế Hà đi vào khu nhà ấy.

"Ô, chẳng phải quản lý Lục của lầu Tế Hà đó sao? Lẽ nào, ông ta sắp mở tửu lầu bán bát hà cung trên phố lớn Chính Dương Môn?"

"Làm sao mà được. Sau khi lầu Tế Hà xuất hiện đã có mấy nhà khác ăn theo, kinh doanh tửu lầu chuyên bát hà cung. Tuy hương vị không ngon như lầu Tế Hà, cung cách phục vụ của tiểu nhị cũng kém xa, nhưng ở Thịnh Kinh chẳng thiếu tửu lầu bán bát hà cung. Quản lí Lục hơi đâu mà mở một tửu lầu to đùng ngã ngửa thế!"

"Vậy rốt cuộc ông ta định làm gì?"

Rốt cuộc Lầu Tế Hà định làm gì đây?

Hay nói đúng hơn, rốt cuộc Đường Thận sẽ đi nước cờ nào?

Vương Trăn cầm khế ước cổ phần Bách Bảo Các trong tay mà lòng tràn trề hưng phấn, chính chàng cũng thấy tò mò đến lạ.

Chú thích

Ăn tấm trả giặt là một câu thành ngữ Việt nhé, nghĩa là ăn ít trả nhiều. Còn bật bông là cách chê người đánh đàn dở, có cả trong tiếng Trung và tiếng Việt, các bạn học đàn chắc biết cách ví von này :)

Chương 72

Bách Bảo Các

Năm Khai Bình thứ hai mươi chín, ngày mười sáu tháng tư, xung khắc với người tuổi ngựa, làm việc phải tránh hướng Nam.

Hợp cho việc cưới gả, lễ bái, khai trương, nhận tài sản, kỵ nhập trạch, đẵn cây làm xà nhà.

Sáng sớm hôm đó, khi mặt trời vừa ló rạng, trên phố lớn Chính Dương Môn đã tưng bừng náo nhiệt lắm rồi. Khắp cả Thịnh Kinh, thậm chí khắp cả Đại Tống, nơi nhộn nhịp nhất chắc chắn vẫn là phố lớn Chính Dương Môn. Lúc này, có bốn đội múa lân trong trang phục sặc sỡ đang nhảy múa giữa phố. Con đường đáng lẽ đủ rộng cho mười chiếc xe ngựa chạy song song nay tắc nghẽn vì dân chúng tụ tập lại hóng vui.Tiếng trống chiêng rộn ràng, tiếng kèn bầu1 inh ỏi, tiếng vỗ tay reo hò vang lừng trên phố.

Càng lúc càng có nhiều người dân bị thu hút bởi màn múa lân rình rang này. Lắm người còn tưởng hôm nay là lễ tết nên mới tưng bừng thế.

Từ mười ngày trước đã có tin đồn lầu Tế Hà sắp khai trương cửa hàng mới trên phố lớn Chính Dương.

Có lầu Tế Hà mở đường, những tửu lầu chuyên bát hà cung ở Thịnh Kinh mọc lên như nấm. Tuy vậy, lầu Tế Hà vẫn là nơi được yêu thích nhất, ngày nào cũng đông khách và có người xếp hàng trong khu chờ.

Đến tửu lầu còn phải đợi ăn đúng là điều không tưởng. Kể cả tửu lầu số một Thịnh Kinh là lầu Thiên Lý cũng chẳng bói ra thực khách nào chịu chờ nửa canh giờ chỉ để xơi bữa cơm. Điểm khác biệt của lầu Tế Hà ấy là khách khứa đều được nhân viên xếp chỗ cho ngồi uống nước, nghe kể chuyện trong lúc chờ đợi. Cứ thế, rất nhiều khách hàng đến lầu Tế Hà không chỉ vì ăn bát hà cung mà còn vì nghe truyện nữa.

Các tửu lầu khác thấy vậy cũng nhái theo, nhưng học lỏm theo kiểu thuyền đua thì lái cũng đua có bao giờ hay được? Mọi người đều chê truyện ở những tửu lầu khác nghe không đã bằng truyện ở lầu Tế Hà. Dần dà, địa vị của lầu Tế Hà trong lòng bách tính Thịnh Kinh càng thêm vững chắc.

Khách đến lầu Tế Hà ăn uống, nghe kể chuyện, đương nhiên cũng được các tiểu nhị phục vụ trong sảnh chờ thông báo rằng lầu Tế Hà sắp khai trương một cửa hàng mới ở Thịnh Kinh.

Có người ưa hóng chuyện hỏi: "Lại mở quán bát hà cung à?"

Tiểu nhị úp úp mở mở: "Không phải đâu ạ. Nhưng cụ thể bán cái gì, đến lúc ấy quý khách sẽ biết. Mười sáu tháng tư này khai trương, quý khách nhớ qua ủng hộ nhé!"

Cứ thế một đồn mười, mười đồn trăm, phải đến nửa thành Thịnh Kinh đã biết ngày mười sáu tháng tư sẽ có cửa hàng mới mở trên phố lớn Chính Dương Môn.

Trong lúc xem múa lân, một thư sinh già nói: "Tôi thấy ông chủ của lầu Tế Hà cũng giỏi giang thật, năm ngoái vừa mở tửu lầu, năm nay đã khai trương cửa hàng mới, còn làm to thế này nữa. Tôi sống ở Thịnh Kinh từ tấm bé, chưa bao giờ thấy cửa hàng nào to đến vậy. Không hiểu họ bán gì mà cần mặt tiền lớn thế nhỉ?"

"Tôi cũng chẳng biết. Ban đầu tôi thấy biểu diễn vui mắt thì đứng lại xem, giờ nghe ông nói vậy, tôi lại muốn họ kết thúc cho nhanh để còn xem lầu Tế Hà định bán gì!"

Bình thường khi khai trương, các cửa hàng hay mời đội múa lân đến để thu hút khách hàng. Đằng này đến nhà Đường Thận, người dân càng lúc càng không thiết xem biểu diễn nữa vì sốt ruột ngóng coi cửa hàng bán gì!

Chờ dài cổ buổi diễn nửa canh giờ mới hết thúc. Trong lúc chờ đợi, mọi người thấy quản lí Lục của lầu Tế Hà và một cô gái trẻ bảnh bao trong bộ trang phục nam giới bước ra từ giữa đội múa lân. Hai con lân oai vệ lúc lắc cái đầu, như hai vị thần gác cửa hộ vệ hai bên.

Quản lí Lục và cô gái trẻ liếc nhau, cùng kéo vải phủ trên bảng hiệu.

Bách Bảo Các!

Giờ Ngọ ba khắc, trong một cửa hàng ở đầu Tây phố Chính Dương Môn, quản lý tiệm vừa ngáp ruồi vừa uể oải gảy bàn tính, xử lí sổ sách từ ngày hôm qua.

Bỗng nhiên, có người hớt hải xộc thẳng vào tiệm, thở hồng hộc: "Ông chủ ơi nguy rồi, nguy lắm rồi! Cái cửa hàng lầu Tế Hà mới mở trên phố Chính Dương Môn sắp cạnh tranh với nhà mình đấy!"

"Ôn con, chỉ giỏi liên tha liên thiên. Lầu Tế Hà bán bát hà cung, kinh doanh hàng ăn, họ có cạnh tranh thì cũng cạnh tranh với tửu lầu khác chứ ảnh hưởng gì đến tiệm tạp hóa nhà mình!"

Cu cậu nhân viên la lên: "Kìa ông chủ, con có bảo lầu Tế Hà khai trương tửu lầu mới đâu? Họ khai trương cửa hàng tạp hóa cơ!"

"Hả?" Đang ỉu xìu như bánh đa ngâm nước, quản lí tiệm bỗng nhảy dựng lên, mắt trố lồi, miệng há hốc.

Hai khắc sau, quản lý Lưu mặt hầm hầm như hung thần ác sát, dắt cậu nhân viên đi phăm phăm đến tận cửa Bách Bảo Các.

Quản lý Lưu tên đầy đủ là Lưu Kỳ. Ngày xưa ông nội ông ta mở tiệp tạp hóa rồi truyền lại cho con cháu, sau bao năm tháng đã vững chân trên phố lớn Chính Dương Môn, đến đời Lưu Kỳ đã là ba đời rồi. Quản lí Lưu chưa bao giờ có ý định mở rộng tiệm tạp hóa nhà mình, vì kinh doanh một tiệm thôi cũng đủ ăn đủ mặc. Tiệm tạp hóa nhà họ Lưu tuy nói là bán tạp hóa, nhưng sản phẩm chủ yếu vẫn là hồi quế, ngũ cốc, lương thực, thỉnh thoảng sẽ bán thêm một số đồ gia dụng bằng sắt.

Quản lí Lưu đứng dưới biển hiệu của Bách Bảo Các, đọc đi đọc lại cái tên ấy ba lần. Đoạn ông ta bặm môi, nói: "Đi, chúng ta vào ngắm nghía một lượt."

Hai chủ tớ bước vào Bách Bảo Các, cùng đứng sững ra như trời trồng.

Quản lí Lưu choáng váng, thằng cu nhân viên cũng há hốc mồm.

Không biết bao lâu sau, quản lí Lưu mới lắp bắp: "Mày, mày bảo đây là tiệm tạp hóa à?"

Cậu nhân viên đáp: "Con cũng chỉ nghe người ta nói thế thôi. Ông chủ ơi, chỗ này mà là tạp hóa ấy ạ? Sao trên đời lại có tiệm tạp hóa lớn thế này chứ!"

Chỉ thấy trong cửa hàng rộng thênh thang là vô số những giá trưng bày đều tăm tắp, có đến hàng trăm vị khách dạo quanh, mỗi người xách một cái làn, chọn lựa những món đồ trên giá, ưng món nào thì bỏ món ấy vào làn.

Một giọng nói kéo quản lí Lưu ra khỏi sự choáng váng: "Quý khách đang tìm làn ạ? Bách Bảo Các mới khai trương, chắc là quý khách vẫn chưa quen. Xin cho phép tôi hướng dẫn, quý khách hãy cầm theo chiếc làn này, thích gì trong cửa hàng thì cứ chọn. Sau khi lựa chọn xong, quý khách có thể ra thanh toán." Nhân viên Bách Bảo Các chờ một lát, lại hỏi: "Thế quý khách có cần làn không?"

Quản lí Lưu quay ra, thấy nhân viên này trông hết sức nghiêm chỉnh, cười tươi như hoa, nhìn mặt thôi đã thấy lòng vui vẻ.

Đã tới đây thì dĩ nhiên không phải để đập phá cửa hàng của người ta rồi, phải quan sát đối thủ chứ.

Quản lí Lưu nói: "Cho ta cái làn."

"Có ngay đây!"

Đưa làn cho nhân viên nhà mình xách, quản lí Lưu bắt đầu dạo quanh những gian hàng của Bách Bảo Các.

Cửa hàng Bách Bảo Các có hai tầng, mỗi tầng trải rộng ba gian nhà. Ngoài ra đằng sau còn thông với một hậu viện, không gian rất lớn, người qua kẻ lại đông kín mít, không thấy điểm dừng.

Hàng hóa ở đây được bày bán rất quy củ, vì không gian có hạn nên giữa mỗi giá để hàng chỉ đủ rộng cho ba người đi qua. Trên kệ hàng có một số thẻ tên, đề "Dụng cụ làm nông", "Son phấn", "Ngũ cốc, lương thực", v.v.. Giả sử cần mua ngũ cốc, người mua có thể đi vào dãy "Ngũ cốc, lương thực", trong ấy sẽ bày bán đủ các loại đậu đỏ, đậu đen, gạo kê, cao lương... cứ cái gì anh nghĩ ra được thì trên kệ đều bày đủ.

Quản lí Lưu xem hàng hóa mà hoa cả mắt, những người dân Thịnh Kinh đi cạnh ông cũng trầm trồ không ngớt.

Tâm trạng quản lí Lưu có phần nặng nề, ông cẩn thận quan sát kĩ từng gian hàng một, loanh quanh cũng mất nửa canh giờ.

"Đi, chúng ta lên lầu hai xem sao."

Cậu nhân viên đuổi theo quản lí Lưu, lên tầng hai.

Vừa lên đến tầng hai, số người đột nhiên giảm mạnh.

Quản lí Lưu nhìn quanh quất một hồi thì phát hiện hàng hóa trên tầng hai đắt hơn hẳn tầng một. Ví dụ như trước đây chỉ có Họa Đường Thu bán xà phòng thơm thì nay ở đây cũng có. Tầng một cũng bán quần áo, vải vóc, nhưng trên tầng hai thì toàn tơ lụa thượng hạng. Hơn nữa, cách bài trí trên tầng hai cũng đẹp đẽ, thanh tịnh và thoáng đãng hơn so với tầng một, nơi chủ yếu bán những vật dụng thường ngày trong cuộc sống.

Quản lí Lưu im lặng bước vào, trầm ngâm quan sát từng món hàng trên giá.

Bỗng nhiên, có một món hàng khiến ông ta sững người, không dám tin vào mắt mình nữa.

Lát sau, có một nhân viên mặc đồng phục chạy tới, đon đả: "Chào quý khách, quý khách cần tìm gì thế ạ? Xin ngài cứ nói với tiểu nhân nhé, tiểu nhân sẽ đi tìm giúp ngài."

Quản lí Lưu tròn mắt, hỏi: "Trên giá này là Hoàng Kim Lũ chỉ bán ở Họa Đường Thu đấy à?"

Nhân viên đáp: "Quý khách thật tinh tường, chính là Hoàng Kim Lũ ạ."

Quản lí Lưu: "Sao các cậu dùng nhiều ngọc lưu ly để đựng Hoàng Kim Lũ thế này, ông chủ các cậu mất trí rồi hay sao?"

Người nhân viên ngớ ra, không biết phải trả lời thế nào. Đúng lúc ấy thì quản lí Lục đi lên, ra hiệu cho người ấy lui đi, để ông tiếp vị khách này. Quản lí Lục nhìn ngắm quản lí Lưu một hồi cũng không nhận ra ông ta là ai, bèn cười bảo: "Quý khách, tôi là quản lí của Bách Bảo Các đây. Nhân viên vừa rồi tiếp đãi chưa chu đáo, xin quý khách lượng thứ. Quý khách cần gì, để tôi lấy giúp ngài được không?"

Cứ mỗi hai giá để hàng của Bách Bảo Các lại có hai nhân viên áo đỏ đứng trực hai đầu. Thứ nhất, họ có nhiệm vụ giám thị, đề phòng kẻ gian trộm cắp; thứ hai, nếu khách hàng cần gì, họ có thể chạy đến để giúp đỡ kịp thời.

Đây là một trong mười quy chuẩn mà Đường Thận dặn dò quản lí Lục trước khi mở Bách Bảo Các.

Mặt quản lí Lưu đỏ gay, dường như ông vẫn không thể tin những gì mình đang thấy. Ông xem xét Hoàng Kim Lũ thật kĩ càng. Cuối cùng, ông đành phải chấp nhận sự thật là tất cả những bình Hoàng Kim Lũ xiu xíu ở đây đều được làm từ lưu ly hết. Lúc này quản lí Lục mới thôi giận dữ.

"Đúng là Bách Bảo Các tiền nhiều như lông trâu, quản lí Lục ạ. Ngần này bình lưu ly chỉ để đựng Hoàng Kim Lũ... tại hạ chưa từng thấy bao giờ, hôm nay coi như được mở mang tầm mắt."

Quy mô của Bách Bảo Các đã ở cái tầm mà một tiệm tạp hóa nho nhỏ như nhà ông không thể nào cạnh tranh nổi.

Quản lí Lục nhận thấy có gì đó không đúng. Ông tế nhị hỏi: "Hẳn là quý khách chưa biết, đây đúng là ngọc lưu ly, nhưng ngọc này do Bách Bảo Các chúng tôi độc quyền sản xuất. Sắp tới Bách Bảo Các sẽ giới thiệu rất nhiều sản phẩm bằng ngọc lưu ly, nếu quý khách thích, xin mời đến xem hàng bất cứ lúc nào. À, trong cửa hàng chúng tôi còn một sản phẩm bằng ngọc lưu ly khác, quý khách có muốn xem không?"

Quản lí Lưu đã hết giận rồi, ông gật đầu, đi theo quản lí Lục đến một gian hàng ở ngay cạnh khu trung tâm của tầng hai.

Khu vực này đang thu hút sự chú ý của rất nhiều khách, phần lớn là các quý phu nhân, tiểu thơ trong thành Thịnh Kinh. Chỉ thấy các cô các chị ai nấy đều rạng rỡ mặt mày, bên cạnh họ là nha hoàn nói chuyện thay mặt chủ.

"Bách Bảo Các còn nhiều gương trong kho không?"

Nhân viên: "Xin quý khách yên tâm, chúng tôi còn rất nhiều gương."

Một phu nhân giàu có rỉ tai nha hoàn đôi câu, nha hoàn bèn nói: "Nhà họ La khu Tây đặt mua hai mươi chiếc gương."

"Phủ Thị lang lấy mười lăm chiếc."

"Phủ Định Quốc Công đặt ba mươi chiếc!"

Quản lí Lục nghe khách đặt hàng tới tấp thì cười tít mắt. Ông quay ra bảo quản lí Lưu: "Quý khách có muốn mua một chiếc gương không?"

Trong cửa hàng rộng rãi thoáng đãng, quản lí Lưu sững sờ, không tài nào rời mắt khỏi chiếc gương phẳng lì đẹp đẽ đang được vô số người vây quanh. Bộ mặt đờ đẫn của ông được phản chiếu nguyên vẹn trên mặt kính phẳng phiu, từ chiếc mũ vải xanh, đến tấm áo khoác đen, thậm chí là từng nếp nhăn khóe mắt, đều hiện lên cực kì sắc nét.

Bách Bảo Các...

Cái tên mới xứng đáng làm sao.

Buôn bán thế này có khác nào triệt đường sống của người khác!!!

Chú thích

[1] Vốn kèn sorna (xô-na) xuất xứ từ Ba Tư và du nhập sang nhiều nước. Ở Việt Nam thì tên phổ biến là kèn bầu, ngoài ra còn có nhiều tên gọi và biến thể khác trên thế giới. Tên tiếng Trung của nó là tỏa nột (suǒ·nà), phát âm hơi giống xô-na.

Chương 73

Cáo già Vương Tử Phong

Gảy gảy bàn tính một hồi, chẳng mấy chốc là ra số tiền.

"Tổng cộng một quan ba đồng, quý khách, nếu sợ tiểu nhân tính sai, mời quý khách ra quầy phía sau kiểm tra lại. Nếu tính sai, thừa thiếu bao nhiêu, chúng tôi xin bồi thường gấp đôi."

Nghe xong, người thư sinh già ngạc nhiên: "Có lợi thế cơ à?"

Chuyện tốt như vậy sao có thể trì hoãn, người thư sinh già bèn cầm những thứ mình mua ra đằng sau khu quầy dài để kiểm tra giá tiền. Nhân viên ở dãy bàn dài đưa cho ông xem bảng giá hàng hóa, người thư sinh già tính toán một hồi, ngợi khen: "Tính toán chính xác thật, sao lại không tính nhầm cho mình đi chứ nhỉ?"

Người nhân viên cười: "Quý khách, mời quý khách xem thử lựa chọn này. Hôm nay Bách Bảo Các mới khai trương, nếu trở thành khách hàng thân thiết của chúng tôi sẽ có chiết khấu đấy."

"Khách hàng thân thiết? Khách hàng thân thiết là sao?"

Nhân viên bèn giới thiệu cho ông.

Trong ba ngày đầu khai trương, mỗi khách hàng chỉ cần trả nửa quan tiền là có thể trở thành khách hàng thân thiết của Bách Bảo Các trong nửa năm. Khi mua sắm ở cửa hàng, khách hàng thân thiết có thể được chiết khấu rất nhiều mặt hàng. Ngày lễ tết, khách hàng thân thiết còn được tặng những món quà nhỏ nữa. Các khách hàng đến quầy dài để kiểm tra bảng giá đều được nhân viên đề xuất đóng tiền để trở thành khách hàng thân thiết.

Người thư sinh già còn hơi do dự, chợt thấy tay đồ tể bên cạnh mình vừa mua một suất khách hàng thân thiết. Ông ta bèn nói: "Được, tôi cũng mua một suất!"

Ngày đầu tiên Bách Bảo Các khai trương, người dân Thịnh Kinh quả nhiên được mở rộng tầm mắt.

Thì ra tạp hóa còn có thể được kinh doanh như vậy!

Ồ không, cửa hàng này đâu phải tiệm tạp hoá! Trong thiên hạ làm gì có tiệm tạp hóa nào bán đủ thứ trên đời?

Khách hàng mua sắm ở Bách Bảo Các khi ra về còn ngợi ca cửa hàng hết lời với những người khác.

"Anh không thấy đâu, trong đấy người đông nghìn nghịt, chật như nêm cối. Bách Bảo Các cứ như một thế giới khổng lồ ấy, cái gì cũng có! Bánh ngọt nổi tiếng từ Cô Tô, áo lông người Liêu ưa thích, trời Nam bể Bắc có tuốt. Anh cứ đến thử mà coi, nhất định sẽ hoa cả mắt, không bước nổi luôn! Lầu Tế Hà lợi hại quá đi mất!"

"Có kì diệu thật như anh nói không?"

"Anh đến nơi chẳng phải là biết ngay sao?"

"Đến thì đến!"

Càng ngày càng có nhiều người tràn vào Bách Bảo Các.

Ban đầu Đường Thận nhờ quản lí Lục thuê hơn tám mươi nhân viên, quản lí Lục còn nghĩ thế là hơi nhiều. Nhưng riêng ngày hôm nay thôi, đừng nói là tám mươi người, quản lí Lục đang nghĩ đáng lí ra phải thuê hẳn một trăm người mới đúng!

Thịnh Kinh là đô thành của Đại Tống, là đầu mối quan trọng trên tuyến đường Bắc Nam. Xuôi về phương Nam thì có Đại Vận Hà, nối thẳng đến Tiền Đường; ngược lên phương Bắc, trước đây từng kém thuận tiện, nhưng từ ngày có ba tuyến quan đạo mới xây dựng, giao thông đã không còn là vấn đề.

Đại Vận Hà được hoàng đế triều đại trước đây xây dựng, đã có mấy trăm năm lịch sử, còn ba tuyến quan đạo được Triệu Phụ ra lệnh xây dựng vào năm ngoái. Bề ngoài Triệu Phụ muốn tăng cường hoạt động mậu dịch giữa Đại Tống và nước Liêu, nhưng mục đích thực sự của ông ta là chuẩn bị trước để phòng ngừa tình huống chiến tranh nổ ra giữa hai bên. Rất nhiều người nhận thấy đường lên phương Bắc đã trở nên thuận lợi hơn rất nhiều, nhưng họ không chú ý rằng, nhờ có cả quan đạo phía Bắc và Đại Vận Hà phía Nam, thành Thịnh Kinh nằm giữa hai tuyến đường này đã trở thành một thánh địa buôn bán!

Việc vận tải trở nên đơn giản hơn không chỉ thu hút thêm nhiều người nước ngoài mà còn mở đường cho sự hình thành của những trung tâm thương mại và siêu thị rất phổ biến ở thời hiện đại.

Đêm xuống, Bách Bảo Các đóng cửa. Quản lí Lục nói chuyện với các nhân viên xong thì đi vào khu nhà đằng sau cửa hàng.

Trông quản lí Lục hết sức phấn khởi, cười toe toét, chỉ thiếu điều khắc chữ "Hỉ" lên trán mà thôi. Ông ta thấy Đường Thận đến thì hành lễ trước tiên. Quản lí Lục lạy dài: "Cao tay, quả nhiên là cao tay! Tiểu đông gia, đúng như lời cậu nói, việc buôn bán của Bách Bảo Các chúng ta khác hẳn các cửa tiệm thông thường. Những cửa hàng khác bao giờ cũng đông nhất vào lúc khai trương, còn chúng ta thì càng bán càng đông khách. Tám mươi nhân viên không hề đủ, ngày mai tôi phải đến nha hành thuê thêm hai mươi người nữa!"

Đường Thận vừa mới tan làm từ hoàng cung về nhà. Tuy cậu không tận mắt chứng kiến sự rầm rộ trong ngày khai trương của Bách Bảo Các, nhưng từ khuôn mặt rạng ngời của quản lí Lục, kế toán Lâm và Đường Hoàng thì cậu có thể tưởng tượng ra được. Cậu hỏi: "Tình hình hôm nay thế nào?"

Quản lí Lục bèn báo cáo thu chi.

"...Trừ đi các khoản chi, chỉ trong một ngày kinh doanh hôm nay, Bách Bảo Các đã thu về một nghìn sáu mươi hai lạng!"

Một nghìn sáu mươi hai lạng bạc, con số này không bao gồm chi phí và những phí tổn khác, tức là lợi nhuận ròng. Con số khổng lồ ấy khiến Đường Thận ngỡ ngàng mất một lúc. Cậu thầm cảm khái: "Dân Thịnh Kinh quả nhiên giàu có gấp mấy lần dân chúng Kim Lăng và Cô Tô!"

Đường Thận nói: "Chuẩn bị kĩ càng nhé, ngày mai sợ còn đông khách hơn."

Quản lí Lục hồ hởi: "Xin cậu cứ yên tâm!"

Những ngày đầu khai trương sẽ là những ngày đắt hàng nhất của Bách Bảo Các. Nhưng Bách Bảo Các dù sao cũng chỉ là một siêu thị. Thịnh Kinh có hơn hai trăm vạn nhân khẩu, không thể có chuyện hơn hai trăm vạn người này đều mua sắm ở Bách Bảo Các. Những thứ đồ họ mua cũng chẳng dùng hết ngay được. Chính vì thế, sau mấy hôm nữa, việc buôn bán sẽ hạ nhiệt dần. Nhưng kể cả thế, Đường Thận dự tính rằng, tiền lời tối thiểu hằng ngày phải đạt năm trăm lạng.

Bách Bảo Các, đúng ra phải gọi là Tụ Bảo Bồn1 mới đúng.

[1] Chậu thu châu báu

Quản lí Lục nói: "Tối hôm qua, tôi đã kiểm tra đối chiếu lại sổ sách, sẽ gửi đến tận nhà cậu. Tiểu đông gia, cậu xem kĩ nhé, có thể có sai sót đấy ạ."

Đường Thận: "Không cần thế đâu."

Quản lí Lục sửng sốt, ngơ ngác nhìn Đường Thận: "Ý cậu là..."

Đường Thận thấy vẻ mặt kinh ngạc của Đường Hoàng và kế toán Lâm thì cười: "Từ khi khai trương lầu Tế Hà đến giờ, mọi người đều đã quá quen với công việc rồi. Ta dù sao cũng là quan, mà mỗi ngày, quan tứ phẩm còn phải dự buổi triều sáng sớm; ta không có nhiều thời gian để quản lí cửa hàng của Đường gia nữa. Quản lí Lục, từ hồi chúng ta quen biết ở phủ Cô Tô, chú bắt đầu làm quản lí lầu Tế Hà Cô Tô, tính đến nay cũng được bốn năm rồi."

Quản lí Lục chợt hiểu ý Đường Thận, trong lòng ông vui mừng rối rít, nhưng ông cố nén sự sung sướng lại, điềm tĩnh nói: "Tiểu đông gia, được làm việc cho cậu là phúc ba đời của tiểu nhân. Bốn năm trước tiểu nhân không tài nào tưởng tượng ra nổi, Lục mỗ này đã gặp vận may đổi đời."

"Chúng ta còn xa lạ gì nhau nữa, đừng nói những lời khách sáo thế. Kể từ hôm nay, quản lí Lục, chú là Đại chưởng quỹ của nhà họ Đường tôi. Từ giờ cứ mỗi bảy ngày, chú hãy đem sổ sách đến Đường phủ, giao cho Đường Hoàng."

Không ngờ lại nghe thấy tên mình, Đường Hoàng kinh ngạc nhìn Đường Thận: "Anh?"

Đường Thận nhướng mày: "Chẳng phải em chỉ mong vậy sao? Hằng đêm em lén lút đốt nến tính toán sổ sách, em nghĩ giấu được anh thật đấy à?"

"Kìa anh!"

"Sau này, cứ đến cuối năm thì tổng kết sổ sách nộp lên cho anh xem, nhớ chưa?"

"Vâng!"

Hiện giờ, Đường gia có tổng cộng bốn sản nghiệp lớn.

Xà phòng, xà phòng thơm và Hoàng Kim Lũ hợp tác với người ngoài, lầu Tế Hà chuyên bán bát hà cung, bách hóa phiên bản "nhái" thời cổ đại Bách Bảo Các, cuối cùng là Hậu cần Đường thị, hoạt động xuyên suốt từ Nam lên Bắc, cung cấp hàng hóa cho Bách Bảo Các, do Diêu Tam quản lí!

Rời khỏi Bách Bảo Các, Đường Thận ngẩng đầu lên nhìn bầu trời đêm bao la vời vợi.

Trong đêm tối, bầu trời lốm đốm những vì sao, chan chứa ánh trăng.

Đường Thận bỗng giật mình nhận ra, con đường làm quan rộng thênh thang trước mặt cậu được trải thảm đỏ nhờ công lao của rất nhiều người. Cậu thành công là nhờ có Đường Hoàng làm động lực, có quản lí Lục chỉ bảo dẫn dắt; sự nghiệp kinh doanh của Đường gia rồi đây sẽ phát triển như thế nào, không chỉ dựa vào một mình cậu, mà phần nhiều phải dựa vào nỗ lực của từng cá nhân, dốc sức vì Đường gia sau này.

Nhưng chuyện tương lai, mai sau hẵng bàn đến.

Về đến nhà, Đường Thận rửa mặt xong, đang định nghỉ ngơi thì bỗng nhớ ra một việc. Cậu vội vàng sang phòng Đường Hoàng. Sau khi gõ cửa vào phòng, Đường Thận ngạc nhiên: "Em vẫn đang kiểm tra sổ sách à?"

Đường Hoàng: "Em chưa đối chiếu xong thu chi hôm nay."

Đường Thận cầm một cuốn sổ kế toán lên, tuy rằng cậu có khả năng đọc đến đâu nhớ đến đấy, chỉ chốc lát đã nhớ hết những gì ghi trong sổ, nhưng cậu vẫn thấy váng cả đầu. Đường Thận nói: "Em có thấy việc này rất khô khan và nhàm chán không?"

"Đâu ra, đây là việc kiếm tiền đấy anh, quá thú vị luôn ý chứ!"

Đường Thận: "..."

Đúng là mỗi người một chí hướng. Từ nhỏ đến lớn, Đường Hoàng có trổ mã, thay da đổi thịt, thì niềm đam mê tiền bạc thuở xưa của con bé vẫn không mảy may suy suyển.

Đường Thận: "Cái anh dặn mấy hôm trước, em đã đặt in ở thư cục chưa?"

Đường Hoàng ngẩn người, nghĩ một lát mới hiểu Đường Thận đang nói gì: "Anh à, cứ yên tâm, chuyện ấy đã có em theo dõi sát sao rồi, chuẩn không cần chỉnh."

Tính nhắc em gái mình thêm mấy câu, nhưng thấy dáng vẻ hăng hái của Đường Hoàng, Đường Thận đột nhiên nhận ra rằng em gái mình đã trưởng thành thật rồi. Vậy nên, người làm anh trai là cậu không cần thiết phải lo lắng từng li từng tí nữa, mà nên học cách tin tưởng người khác, dần dần buông tay.

"Đi ngủ sớm đi nhé!"

"Vâng ạ."

Sáng hôm sau, trên điện Sùng Chính.

Trời còn chưa sáng, các quan đã có mặt ở điện Sùng Chính chờ lên triều.

Đường Thận là quan tứ phẩm, chỉ có thể đợi ở bên hữu của điện Sùng Chính. Trong điện xếp đầy ghế, nhưng vì có quá nhiều quan tứ phẩm nên nhiều người không có ghế ngồi, đành phải đứng chờ. Đương nhiên họ không hề hay biết, chỉ cách một bức tường thôi, trong chính điện, các quan lớn nhất phẩm của Đại Tống đang ngồi ghế bành làm từ gỗ sưa, ung dung thưởng thức trà ngon.

Trà được phục vụ trên bàn là trà Long Tỉnh Minh Tiền loại cao cấp nhất, được vận chuyển từ Giang Nam đến trong năm nay.

Triệu Phụ quan tâm chu đáo đến các quyền thần trong triều, không hề bỏ sót một ai.

Vương Trăn nhấc chung trà, dùng nắp khơi lên hương trà ấm áp thơm nồng, nhẹ nhàng nhấp thử một ngụm. Ngồi cách chàng không xa là Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng. Ông ta cười khe khẽ, xích lại gần, hỏi Vương Trăn: "Vương đại nhân, hôm qua phố lớn Chính Dương Môn có cửa hàng mới khai trương đấy, cậu đã biết chưa?"

Vương Trăn ngước mắt, ném cho ông ta một ánh mắt hững hờ, mỉm cười: "Không ngờ Mạnh đại nhân là Thượng thư bộ Lễ nhưng quan tâm đến chuyện cửa hàng cửa hiệu ở Thịnh Kinh hơn cả Thượng thư bộ Hộ là ta. Mạnh đại nhân hết lòng vì nước nhà, chẳng vì chức Thượng thư bộ Lễ mà thôi đau đáu chuyện tài chính thuế khóa, đúng là tấm gương sáng cho đời khiến người ta kính nể."

Mạnh Lãng: "..."

Quyền thần trong triều đều là những ông hoàng màn ảnh mặt dày mày dạn, nhưng kĩ năng diễn xuất của các minh tinh màn bạc cũng xếp hạng cao thấp khác nhau.

Mạnh Lãng tự biết độ dày da mặt của mình thua xa con cáo già Vương Tử Phong, bèn nói thẳng: "Hôm qua lúc ngồi kiệu về phủ, ta có đi ngang qua một cửa hàng mới mở, thấy trên bảng hiệu đề ba chữ. Ba chữ ấy phải nói là phong thần tuấn tú, thanh cốt hạo nhiên. Chữ đẹp nhường ấy trên đời này hiếm lắm, đâu thể bỏ qua được chứ? Thế là ta mới xuống kiệu ngắm nghía cho thỏa. Vương đại nhân, cậu đoán xem ta phát hiện điều gì nào?"

Vương Trăn: "Ồ, có gì hay thế?"

"Đấy đúng là thư pháp của Vương đại nhân mới tài chứ lị!"

Vương Trăn cảm động rưng rưng: "Ôi, ta không hề biết hoá ra Mạnh đại nhân quan tâm tới ta đến vậy. Chỉ với ba chữ, ông có thể nhận ra ngay bút tích của ta ư?"

Mạnh Lãng: "...Vương Tử Phong, ta chỉ đùa cậu một câu thôi mà, sao cậu nhạt thế!"

Vương Trăn đặt chung trà xuống, tự dưng đứng dậy, chỉnh lại quan bào: "Đến lúc lên triều rồi."

Một khắc sau, thái giám chuyên trách đi vào đại điện, hô: "Chư vị tướng công, đã đến giờ vào triều."

Mạnh Lãng: "..."

Cái tên Vương Tử Phong này, rõ là nhạt phéo nhạt phèo!

Bãi triều, Đường Thận đi theo hàng ngũ các quan rời khỏi hoàng cung. Tự nhiên, cậu nghe loáng thoáng có tiếng người gọi tên mình. Cậu ngơ ngác ngoái lại, liền thấy Vương Trăn đứng cách đó không xa, lưng thẳng tắp, dáng khoan thai. Chàng cười với cậu: "Cảnh Tắc, đi cùng nhau nhé."

Bên cạnh chàng là một ông cụ tóc bạc phơ, mặt nhiều nếp nhăn, mặc quan bào đỏ thẫm, trông cứ ngỡ ông tiên lạc xuống trần – chính là Vương đại nhân. Đường Thận thấy thế thì vừa bất ngờ vừa mừng rỡ. Cậu ngây ra mất một lúc rồi mới chạy tới. Đến khi suy nghĩ bắt kịp đôi chân thì Đường Thận phát hiện mình đã đang sóng vai Vương Trăn trên đường đến điện Cần Chính rồi.

Vương Trăn dịu dàng hỏi: "Bách Bảo Các là gì thế?"

Đường Thận kinh ngạc: "Sư huynh chưa đến luôn ạ?"

"Nào đã. Hai hôm nay công việc chất đống, không dứt ra nổi."

Đường Thận vốn định giải thích, nhưng lúc mở miệng lại thấy rõ phiền hà. Cậu nghĩ một lát bèn bảo: "Không bằng hôm nay tan làm, đệ dẫn sư huynh đến đó ngó thử, sư huynh sẽ hiểu ngay thôi."

Vương Trăn tế nhị liếc Đường Thận: "Thế thì cứ theo ý đệ."

Lời tác giả:

Mạnh đại nhân bốn mươi ba tuổi: Khá khen cho con cáo già Vương Tử Phong!

Chương 74

Giao tử*

(*) Tên gọi của tiền giấy xuất hiện vào đời Tống. "Giao" trong giao dịch, trao đổi.

Tan làm, Đường Thận đợi ở điện Cần Chính một lúc, sau đó thì lên xe ngựa của Vương Trăn, hai người cùng xuất cung.

Thời cổ đại, quan lại cũng có khái niệm tăng ca và không tăng ca. Giống như thời hiện đại, các cấp lãnh đạo chả mấy khi phải tăng ca, Vương Trăn hiếm lắm mới có hôm phải làm việc thêm giờ. Nhưng Trung Thư xá nhân dạng như Đường Thận, đâu phải cứ hết việc là được tan làm, còn phải để ý xem cấp trên đã về chưa nữa.

Lãnh đạo còn ngồi đó, anh có dám về không?

May mà cấp trên của Đường Thận, Hữu thừa Từ Bí – Từ tướng công – là người cao tuổi, rất ít khi ở lại nha môn quá giờ, nên Đường Thận cũng thường xuyên thoát kiếp tăng ca.

Hai người xuất cung xong không đến Bách Bảo Các ngay mà ai về phủ nấy trước để thay quan bào.

Khi Vương Trăn đến phủ Thám hoa thì Đường Thận đã thay xong quần áo ra đường. Thấy kiệu của Vương Trăn, cậu hơi ngạc nhiên. Lên kiệu, Đường Thận thắc mắc: "Sư huynh, mình đang đi xe ngựa cơ mà, sao lại đổi thành kiệu thế này?"

Vương Trăn mặc bào gấm trắng tinh, phong thần tuấn nhã, tay cầm chiếc quạt. Chiếc quạt đang được gấp gọn lại, chàng gõ nhè nhẹ vào lòng bàn tay, khiến viên đá tiết gà màu đỏ thẫm treo dưới đuôi quạt khẽ đung đưa.

"Từ đây đến phố lớn Chính Dương Môn khá gần mà. Tiểu sư đệ, đệ không muốn đi kiệu à?"

Đường Thận: "Không phải đâu ạ."

Thực ra là vì xe ngựa rộng hơn, hai người đàn ông ngồi rất thoải mái. Giờ đi kiệu thì chật hơn chút, khiến cậu và Vương Trăn cứ phải ngồi sát vào nhau. Đường Thận thầm than thở một hồi, chợt ánh mắt cậu bị thu hút bởi cây quạt trên tay Vương Trăn.

Vương Trăn thấy cậu để ý thì hỏi: "Muốn xem thử không?"

"Có ạ."

Vương Trăn đưa quạt cho Đường Thận, Đường Thận chẳng buồn xòe nó ra mà chỉ nâng viên bảo thạch màu đỏ móc dưới chuôi quạt lên.

"Màu sắc như tiết gà, sáng bóng tựa ngọc quý. Chất ngọc trong, láng mượt, có thể xếp vào loại dương chi đống1." Đường Thận ngẩng lên hỏi: "Sư huynh, đây có phải đá tiết gà Xương Hóa2 không?"

[1] Loại trong mờ và có màu trắng, cực kì quý trong các loại ĐTG [2] Xương Hóa (Chiết Giang) – một trong hai địa điểm khai thác duy nhất của ĐTG.

Vương Trăn bật cười.

Chàng thở dài nhè nhẹ, lấy lại cây quạt: "Đúng là đá tiết gà Xương Hóa."

Đường Thận cười rất tự tin.

Về thời cổ đại đã được năm năm, từ khi Đường Thận bắt đầu kinh doanh, cậu bắt buộc phải tiếp xúc với một số loại đồ cổ quý báu và bảo thạch. Hồi trước, Đường Thận còn lâu mới nhận ra đá tiết gà nữa là đá tiết gà Xương Hóa! Nhưng gần đây do Bách Bảo Các đang có kế hoạch bày bán thêm các sản phẩm đá quý, Đường Thận bèn đọc thêm nhiều tạp thư để học hỏi chút đỉnh. Hôm nay vừa khéo được ứng dụng kiến thức, cậu khá là tự đắc.

"Soạt" một tiếng, Vương Trăn xòe chiếc quạt trắng muốt ra, buồn bã nói: "Ta cứ tưởng, tiểu sư đệ xin quạt vì muốn xem tranh vẽ và chữ viết trên mặt quạt cơ."

"Ơ?" Đường Thận sửng sốt, quay sang nhìn chiếc quạt.

Trên mặt quạt trắng vẽ một bức tranh người đẹp thả mồi cho cá ăn, bên cạnh đề một dòng chữ.

"Trạm gửi hoa mai, cá đưa bức lụa, xây nỗi hận chất chồng vô số3." Đường Thận đọc chữ trên mặt quạt.

Đóa hoa mai gửi tình nồng. Mẩu thư nho nhỏ ta lồng tương tư.

Đây còn là một bức mỹ nhân ôm nỗi khuê oán đang cho cá ăn nữa!

Gửi hoa mai: nhung nhớ người phương xa; thư trong bụng cá: chỉ việc gửi thư từ.

Đường Thận suy tính nhanh như chớp, khen lấy khen để: "Tranh và chữ của sư huynh, quả nhiên đã đạt tới đỉnh cao."

Lạc khoản trên hàng chữ và bức họa kia đều là Vương Tử Phong.

Khóe môi Vương Trăn nhếch lên, chàng không nói thêm gì nữa.

Chẳng mấy chốc hai người đã đến Bách Bảo Các.

Có đủ mọi loại khách hàng ở Bách Bảo Các, phu nhân nhà quan, bình dân bách tính, bất kì đối tượng nào cũng có thể được tìm thấy ở tiệm. Thế nhưng khi Vương Trăn và Đường Thận bước vào cửa thì khá nhiều người phải ngoái nhìn họ vài lần. Đường Thận chỉ nghĩ rằng họ chú ý đến Vương Trăn, cậu khen nửa thật, nửa tâng bốc: "Dù mặc thường phục thì khí chất của sư huynh vẫn khác xa mọi người."

Vương Trăn liếc xéo cậu: "Đệ tưởng họ chỉ nhìn mình ta đấy ư?"

Đường Thận ngẩn ra.

Vương Trăn tủm tỉm cười, đổi trọng tâm câu chuyện: "Giờ mình đã vào cửa hàng, xong làm thế nào nữa?"

Nhân viên trong cửa hàng đương nhiên nhận ra Đường Thận, có nhân viên định đến chào hỏi và hướng dẫn hai người, nhưng Đường Thận lắc đầu ngay, ý bảo cậu sẽ đích thân tiếp đãi vị khách này. Đường Thận nói: "Huynh lấy một cái làn, thấy thứ gì mình thích mua thì để vào đó, cuối cùng ra cửa còn lại để tính tiền là được."

Vương Trăn xách một cái làn lên, động tác rất khoan thai, thoải mái.

Ấy thế mà Đường Thận lại nhướng mày. Vương Tử Phong quý phái cao sang xách cái làn đi chợ, trông thế nào cũng không vừa mắt cậu. Đường Thận bèn lấy cái làn Vương Trăn đang cầm: "Sư huynh đến đây là khách, để đệ xách làn cho." Quả nhiên, vừa thoát khỏi cái làn đi chợ là Vương Trăn bay bổng tiên khí ngay.

Rất chuẩn.

Lòng riêng của Đường Thận sao giấu nổi Vương Trăn? Vương Trăn thầm nhủ, người đâu mà đáng yêu thế chứ lị, nhưng chàng không nhiều lời, chỉ nói: "Vậy mình đi thôi."

Hai người liền dạo chơi trong Bách Bảo Các.

Tầng một của Bách Bảo Các phần lớn là các vật dụng sinh hoạt, vì thế khách mua hàng đều là dân thường trong thành Thịnh Kinh. Thấy Vương Trăn và Đường Thận vai kề vai, mọi người đều vô thức nhìn về phía họ. Đường Thận không biết, người dân không chỉ nhìn Vương Trăn mà còn chú ý đến cả cậu nữa.

Làm quan ba năm, sự tích lũy trải nghiệm đã hun đúc nên uy thế của một vị quan ở Đường Thận.

Bên cạnh đó, tuy Đường Thận không để ý, nhưng ngày qua ngày bầu bạn với Vương Tử Phong, con người cậu đã dần dần thay đổi dưới ảnh hưởng của sư huynh. Giờ mỗi hành động của Đường Thận đều có phong phạm của công tử quyền thế. Tuy khí chất của cậu không xuất phát trên cơ sở được rèn giũa từ bé, nhưng thế cũng đủ để khác xa người thường rồi.

Người ta hay nói gần mực thì đen, gần đèn thì rạng. Hay lêu lổng đầu đường xó chợ thì dễ nhiễm thói lưu manh. Chăm đọc sách luyện chữ, sẽ rèn nên khí phách của người quân tử.

Vương Trăn hôm nay cực kì kiên nhẫn, chàng đi dạo hết tầng một xong mới lên tầng hai.

Hai người lên tầng hai, ngắm nghía từng gian hàng rồi mới đến gian bán gương. Hai ngày hôm trước lúc Bách Bảo Các mới khai trương, có rất nhiều khách hàng có nhu cầu mua gương, kéo đến chật kín cửa hàng. Hôm nay thì thoáng đãng hơn hẳn vì những người muốn mua gương đã mua hết cả rồi, còn những ai không mua nổi cũng không đến xem nữa.

Hiếm lắm mới có dịp Vương Trăn phải tỏ ra ngạc nhiên. Chàng ngắm nghía một hồi, nhận xét: "Rõ nét hơn gương bạc nhiều đấy."

Đường Thận cười toe.

Gương thời cổ đại chia làm hai loại là gương đồng và gương bạc.

Với người dân bình thường, có một chiếc gương đồng đã là khá tốt rồi. Thường thì họ không đủ tiền mua gương đồng chất lượng cao, nên hình ảnh trong gương khá mờ mịt. Gương đồng loại tốt nhất có thể soi rõ được gương mặt người soi. Riêng gương bạc thì chỉ các nhà giàu sang mới đủ điều kiện sắm. Để chế tạo ra một chiếc gương bạc rất đắt đỏ, mức độ tinh xảo vượt trội, hình ảnh cũng rất sắc nét, không mấy chênh lệch so với gương thủy tinh. Nhưng dù gì đi chăng nữa thì gương bạc vẫn không đạt được độ trong như gương thủy tinh và không rẻ bằng. Chính vì thế, khi gương thủy tinh vừa xuất hiện ở Bách Bảo Các, nữ giới quyền quý ở Thịnh Kinh đã tức tốc mua thật nhiều cho nhà mình.

Đường Thận nói: "Cái này khó chế tạo nhất vì nó là ngọc lưu ly. Sau này, Bách Bảo Các sẽ sản xuất ra những loại gương đơn giản hơn để dưới tầng một, sao cho bình dân cũng có thể mua được.

Đến lúc hai người chuẩn bị ra về, Đường Thận nháy mắt với nhân viên một cái, nhân viên của cậu lập tức bê một tấm gương cao bằng người thật đến.

Chiếc gương phản chiếu sắc nét hình ảnh của Đường Thận và Vương Trăn. Vương Trăn ngỡ ngàng nhìn cậu. Đường Thận cười: "Tấm gương này là để tặng sư huynh đây. Sư huynh cũng biết, thánh thượng ra lệnh cho Đường gia của đệ thay hết cửa sổ điện Thùy Củng thành lưu ly. Công nhân xưởng làm đi làm lại bao nhiêu lần mới cho ra lò được tấm ngọc lưu ly vừa to vừa rộng cỡ này. Sau khi làm ra loại lưu ly ấy, đệ lại chế tạo thành ba chiếc gương lớn.

Nói đến đây, Đường Thận "e hèm" hai tiếng: "Một chiếc dâng lên Thánh Thượng, hai chiếc còn lại tặng sư huynh và biếu tiên sinh. Hai chiếc gương này được chế tạo lần đầu nên còn khá thô sơ, và cũng do đệ thiết kế lần đầu nên kiểu dáng hoa văn chưa được đẹp lắm."

Vương Trăn lặng thinh. Giây lát sau, chàng cười khẽ: "Tấm gương này tuyệt lắm."

Đường Thận nghĩ thầm: Vậy lần tặng quà này của mình xem như trót lọt ha?

Buổi đi siêu thị hôm nay, cả khách lẫn chủ đều tràn trề niềm vui.

Chẳng biết từ bao giờ, Đường Thận đã hình thành thói quen tặng quà cho Vương Trăn. Ban đầu thì chỉ nhằm mục đích vuốt mông ngựa tranh thủ tình cảm, nhưng dần dà, mỗi khi thấy Vương Trăn sung sướng vì món quà mình tặng, tâm hồn Đường Thận cũng phơi phới theo.

Vương Tử Phong tử tế với cậu lắm, nên cậu rất muốn đền đáp chàng. Tặng quà chính là một cách tốt.

Đêm đó, Đường Thận nằm mơ đẹp ơi là đẹp, đến khi tỉnh mộng lại quên mất tiêu, chỉ nhớ giấc mơ ấy êm đềm khôn tả.

Cuối tháng tư, Đường gia xuất xưởng hơn mười tấm thủy tinh lớn, chuyển vào hoàng cung để thay cửa sổ cho điện Thùy Củng.

Triệu Phụ vốn chỉ nhờ Đường Thận thay cửa sổ lấy lệ, cốt là để có lý do ban thưởng cho cậu qua việc cất nhắc Đường gia lên thành hoàng thương. Ai ngờ sau khi thay cửa sổ kính xong, Triệu Phụ thích quá, vung bút rồng viết luôn một bức hoành mới treo trong nội điện của điện Thùy Củng.

『Tiên ly động thiên』!

Tất cả cửa sổ đều làm từ ngọc lưu ly, kể cả trên thiên đình nơi thần tiên ơ đi chăng nữa cũng chỉ tráng lệ đến thế là cùng!

Triệu Phụ cực kì đẹp lòng, ban thưởng cho Đường Thận không biết bao nhiêu thứ, đồng thời giao thêm một nhiệm vụ: "Cảnh Tắc, hoàng cung của trẫm còn điện Tử Thần, điện Đại Khánh,... khanh hãy đổi hết thành cửa sổ lưu ly đi!"

Đường Thận kêu rầm rĩ trong lòng nhưng ngoài mặt phải nói: "Thần quá đỗi vinh hạnh, quyết không phụ sự giao phó của bệ hạ!"

Thủy tinh cỡ lớn cực kì khó chế tạo, xưởng Đường gia lại phải tăng giờ làm.

Hoạt động của Bách Bảo Các dần dần đi vào ổn định, Đường Thận cũng từ từ chuyển giao việc làm ăn cho Đường Hoàng và quản lí Lục.

Hạ tuần tháng năm, Đường Thận đang thẩm duyệt tấu chương trong điện Cần Chính. Cậu mở một bản tấu từ ngoại tỉnh gửi đến. Càng đọc, Đường Thận càng bị thu hút bởi nội dung của bản tấu. Đọc đến hết, cậu lại đọc thêm một lần nữa từ đầu.

Suy tư hồi lâu, Đường Thận quyết định cầm bản tấu ấy đến phòng Từ Bí.

Đường Thận thi lễ trước rồi mới thưa: "Từ tướng công, hạ quan Đường Thận xin bẩm báo. Hôm nay hạ quan bắt gặp bản tấu này, thiết nghĩ nên trình lên đại nhân trước rồi mới tóm tắt."

Từ Bí đặt cuốn sách đang cầm xuống: "Ồ? Tấu chương gì thế, đưa đây ta xem."

Đường Thận cung kính dâng cuốn sổ lên cho ông.

Từ Bí giở ra đọc, đọc xong, ông cười: "Không ngờ xứ Thục có chuyện lí thú đến vậy. Dùng giấy làm tiền tệ, đúng là một ý tưởng hay đấy. Đất Thục đường xá khúc khuỷu, giao thông khó khăn, từ xưa đến nay ít khi liên lạc với bên ngoài, chẳng khác nào một vương quốc nhỏ với quyền tự trị." Từ Bí dừng một lát rồi mới nói tiếp: "Câu ấy chỉ nói giữa hai chúng ta, và chỉ trong căn phòng này thôi nhé."

Đường Thận hơi hoảng, nói ngay: "Vâng."

Từ Bí: "Việc lưu hành tiền giấy mà phát sinh ở địa phương khác thì có vẻ kì lạ, nhưng ở vùng Thục thì hết sức bình thường. Bản tấu này cũng thú vị đấy, cứ để ở chỗ ta đi, hôm nay ta sẽ tự tay trình lên thánh thượng. Cho ngươi lui."

"Dạ."

Đường Thận ra khỏi chỗ Từ Bí mà lòng đầy bối rối, không thể bình tĩnh được.

Tiền giấy xuất hiện ở đất Thục thuộc Đại Tống vào thời khắc này không hề giống với "Giao tử" trong trí nhớ của Đường Thận, nó còn không có tên. Nhưng Đường Thận biết, việc tiền giấy thay thế tiền đồng, tiền bạc là xu thế tất yếu của lịch sử. Nếu có thể thúc đẩy sự thay đổi nay thì nhất định sẽ làm nên nghiệp lớn, thậm chí là mở ra một thời kì mới cho sự phồn vinh của nền kinh tế Đại Tống!

Dựa theo lịch sử thế giới cậu từng học ở thời hiện đại, việc mở rộng giao tử ra phạm vi toàn quốc không thể xảy ra chỉ trong ngày một ngày hai. Ít nhất là bất khả thi dưới thời Triệu Phụ. Thậm chí đến khi Đường Thận qua đời chuyện ấy cũng chưa chắc đã hoàn thành.

Làm sao để tăng tốc quá trình phổ biến tiền giấy trên phạm vi toàn quốc đây?

Nhờ Từ Bí ư?

Từ tướng công tuy từng có hùng tài vĩ lược, nhưng những năm gần đây ông đã lui về tuyến hai, trước giờ không tranh với đời, hiếm khi phát biểu ý kiến trên triều đình. Giờ ông chỉ quan tâm đến việc làm sao cho công việc chỉn chu, không sai sót, chứ không còn tham vọng đột phá nữa. Nếu thương lượng chuyện này với ông, ông sẽ chẳng mấy quan tâm.

Đường Thận nghĩ Tần nghĩ Sở một hồi, cậu không về khu nhà làm việc của quan tứ phẩm ngay mà đi sang chỗ làm chung của Thượng thư bộ Hộ và Thượng thư bộ Lễ.

Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng đang dặn dò cấp dưới để chuẩn bị cho nghi thức thờ cúng cuối tháng này. Bỗng dưng thấy Đường Thận đến, ông ta liền nhướng mày.

Đường Thận gõ cửa trước, Vương Trăn thấy cậu cũng hết sức ngạc nhiên.

Vương Trăn: "Vào đi."

Đường Thận bước đến trước bàn Vương Trăn, hành lễ: "Hạ quan Đường Thận có việc xin thưa. Hạ quan chợt nhớ tối hôm qua quên chưa nói cho Thượng thư đại nhân một chuyện, không biết hiện giờ Thượng thư đại nhân có thể bớt chút thời gian không ạ?"

Mạnh Thượng thư cố ý cười ra tiếng: "Ta thấy quan phục của ngươi hình như là Trung thư xá nhân tứ phẩm chứ có phải quan bộ Hộ đâu. Sao ngươi lại có việc cần tìm Thượng thư bộ Hộ thế hả?

Lời tác giả:

Mạnh đại nhân: Vương Tử Phong ba ngày nay chưa oán giận ta, ba ngày rồi đấy! Khó chịu quá đi mất thôi! Để xem ta trêu người tình bé bỏng của hắn thế nào nhé!

Chú thích

Nếu bạn nào từng đọc Toái Ngọc Đầu Châu thì chắc đã biết đến Kê Huyết Thạch – Đá Tiết Gà, một loại đá quý rất được săn đón trong văn hóa Trung Quốc, đặc biệt là để điêu khắc và chế tạo ấn. Thành phần chu sa trong đá tạo nên màu đỏ; sự phân bố của chu sa sẽ tạo nên các vân đá khác nhau. Đá càng đỏ và màu đỏ càng tập trung thì càng quý. Chỉ có hai địa điểm trên thế giới khai thác loại đá này là Xương Hóa (Chiết Giang) và Hữu kỳ Baarin (Nội Mông). Đá xuất xứ từ khu vực khai thác nào nào gọi tên theo khu vực ấy.

Đá Tiết Gà được phân ra làm 4 loại chính là đống, mềm (nhuyễn), cứng (cương), rắn (ngạnh) với độ cứng tăng dần. Độ cứng càng lớn tức là đá càng ít bị xây xước hơn nhé, chứ không phải dùng loại này đập vỡ được loại kia đâu :D Loại "đống" có độ trong, bóng như sáp, và được phân chia tiếp theo màu sắc đi kèm với màu đỏ. Ví dụ như Ngưu Giác Đống (màu xám như sừng trâu), Điền Hoàng Đống (màu vàng như đất), hay Dương Chi Đống (màu trắng mỡ dê).

Một cặp ấn làm từ Dương chi đống Xương Hóa Kê Huyết Thạch – Ảnh:

Trích trong bài từ Đạp Sa Hành của Tần Quán thời Bắc Tống, . Câu gửi hoa mai nhắc đến chuyện Lục Khải thời Nam Bắc triều nhờ sứ giả gửi hoa mai từ Giang Nam cho bạn thân là Phạm Diệp ở tận Lũng Đầu (Cam Túc), viết thành bài thơ Tặng Phạm Diệp. Việt Nam mình có chuyện vua Quang Trung gửi hoa đào cho công chúa Lê Ngọc Hân giống vậy ha. Về thư trong bụng cá thì hồi xưa có chuyện được gửi cá, nấu lên mổ ra mới thấy có thư trong bụng. Thư từ ngày xưa dễ hỏng, nên người ta cũng làm những cái hộp hình con cá để bảo quản thư.

nỗi oán khuê phòng của người phụ nữ có chồng đi lính phương xa.

Tứ Xuyên. Dễ thủ khó công, đường vào hiểm trở nên chiến tranh thường ít lan tới đây. Là nơi tị nạn của nhiều dân chúng/văn sĩ vào thời loạn.

Chương 75

Không liên quan đến đệ

Đứng giữa phòng, Đường Thận hết nhìn Vương Trăn – người đang rất điềm tĩnh – rồi lại nhìn Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng – người đang hóng chuyện vui. Cậu bỗng thấy đau hết cả đầu.

Ngài Mạnh đại nhân Thượng thư bộ Lễ này có hiền lành gì cho cam?

Hồi Đường Thận thi Đình, Mạnh đại nhân chính là quan chủ khảo. Tuy trên danh nghĩa, chủ khảo của các tiến sĩ là hoàng đế, nhưng nói một cách miễn cưỡng thì Mạnh Lãng cũng tính là "ân sư" của Đường Thận. Thế mà lúc nào vị Mạnh đại nhân này cũng khoái trêu cậu. Hôm Đường Thận chân ướt chân ráo tới điện Cần Chính, khi ấy mới là Khởi Cư lang, Mạnh Thượng thư trêu tới bến, tha lôi cậu đi khắp Lục bộ cho tất cả mọi người biết mặt!

Là quan tứ phẩm tép riu, Đường đại nhân chẳng thể dây vào ông ta, nhưng không có nghĩa là Vương Trăn phải chịu bó tay.

Vương Trăn đặt chung trà xuống, chén sứ men xanh đụng vào bàn gỗ nghe "cạch" một tiếng. Chàng bảo Đường Thận: "Trung Thư xá nhân không liên quan gì nhiều đến bộ Hộ, nhưng Trung Thư xá nhân có nhiệm vụ thay Thiên tử quan sát thiên hạ. Hôm nay Đường đại nhân tới tìm ta, đương nhiên là vì hạ quan có lỗi lầm, chưa dốc cạn tâm huyết, quên mình vì nước."

Đường Thận sửng sốt.

Chàng nói câu đó xong, ở bàn đối diện, cả Mạnh Lãng và viên quan ngũ phẩm bộ Lễ đều há hốc mỏ.

Vương Tử Phong vừa nói cái gì thế?

Mạnh Lãng phản ứng rất nhanh, ông ta thầm nghĩ: Thay thiên tử quan sát thiên hạ cái nỗi gì? Chẳng phải là giúp hoàng đế chỉnh lý tấu chương, tóm tắt hết mấy quyển tấu ba hoa chích chòe, dài dòng nhảm nhí thành một vài câu đơn giản ư? Thế mà đã gọi là thay thiên tử quan sát thiên hạ, thì quan lớn như bọn họ chẳng hóa đang thay thiên tử cai quản thiên hạ à?

Ông ta chưa nghĩ xong, Vương Trăn đã nói tiếp rồi. Chàng chỉ vào Mạnh Lãng trước mặt mình, hỏi Đường Thận: "Đường đại nhân, ngươi có biết vị quan lớn này là ai không?"

Đường Thận hoang mang lắm, nhưng đành giả bộ như không có chuyện gì, thi lễ rồi nói: "Ngài ấy chính là Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng – Mạnh đại nhân."

Vương Trăn: "Mạnh đại nhân tâm tư cao thượng, ngày ngày chuyên cần. Từ lúc trời còn chưa sáng, cả điện Cần Chính tối om om, phòng Mạnh đại nhân đã sáng đèn rồi; đến khi mặt trời lặn, khắp Lục bộ chỉ còn riêng nha môn bộ Lễ là chong đèn hằng đêm! Mạnh đại nhân là vị quan mẫu mực hết lòng vì dân, là quan thanh liêm ngàn năm có một. Trung Thư xá nhân thay thiên tử quan sát thiên hạ, đã bao giờ thấy tấm lòng tận tụy của vị quan lớn nhị phẩm này chưa? Đã thấy được bầu nhiệt huyết cháy bỏng của Mạnh Thượng thư chưa?"

Đường Thận: "..." Oắt đờ hợi?

Mạnh Lãng cũng bối rối không kém: "???"

Khoan khoan cái nào, Vương Tử Phong đang khen mình ư?

Mạnh Thượng thư cố ý đứng dậy nhòm ra ngoài cửa sổ: Trời có đi vắng đâu mà nhỉ1?

Vương Trăn đứng lên bảo Đường Thận: "Một viên quan mẫn cán, đức độ như thế cần phải được nêu gương cho bá quan noi theo, phải được dân chúng biết đến, phải được bệ hạ ghi nhớ. Đường đại nhân, sau khi thay bệ hạ quan sát bộ Lễ lo toan việc nước hai hôm nay, ngươi cần báo cáo lên bệ hạ, để bệ hạ phát thêm nến, tặng thêm đèn cho các quan trong bộ. Quan viên bộ Lễ không quản ngày đêm, miệt mài công tác, là tấm gương sáng cho chúng ta!" Nghe xong, Đường Thận và Mạnh Lãng càng thần thộn hơn. Vương Trăn kêu Đường Thận: "Đi thôi."

Đường Thận đi theo Vương Trăn ra khỏi phòng, tìm chỗ yên ắng, kín đáo để nói chuyện, chừa lại Mạnh Lãng và viên quan ngũ phẩm bộ Lễ chưng hửng nhìn nhau.

Mãi lâu sau, Mạnh Lãng mới đột nhiên ngộ ra: "Đồ khốn Vương Tử Phong, từ bao giờ bộ Lễ chúng ta không quản ngày đêm, ở lại nha môn làm việc đến tối vẫn chưa về hả!?"

Mạnh Lãng như người câm nuốt phải trái đắng, không biết xả vào đâu cho vơi tức.

Đầu tiên Vương Trăn cố tình vơ đũa cả nắm, khen các quan bộ Lễ là điển hình cho các quan khác noi theo, lẽ nào Mạnh Lãng lại bảo điêu toa, bộ Lễ chúng ông làm gì có lắm người mẫn cán như thế? Khen xong, Vương Trăn đế thêm một câu, nhắc Đường Thận phải bẩm báo việc này lên hoàng đế, để bệ hạ biết các quan bộ Lễ ngày ngày hăng say tăng ca, hết lòng phụng sự bệ hạ thế nào.

Bẩm xong thì tăng ca giả phải biến thành tăng ca thật chứ còn gì? Dù trước đây có rảnh rỗi mấy thì bây giờ cũng phải cố mà bôi việc ra!

Bình thường Vương Tử Phong mà bẫy ai thì chỉ bẫy đúng người ấy thôi. Hôm nay, Mạnh Lãng lại lôi cả bộ Lễ chết chùm.

Viên quan ngũ phẩm đứng ngay cạnh mặt mũi u oán, ức lắm mà không dám ho he.

Mạnh Thượng thư nghiến răng nghiến lợi: "Tên Vương Tử Phong nghĩ mình phải sợ nó thật à?"

Quan ngũ phẩm nói: "Thượng thư đại nhân, Vương đại nhân dù sao cũng là Thượng thư bộ Hộ, bộ Hộ, bộ Hộ đấy..." vị quan nhỏ phải nhấn mạnh đến ba lần, "Ngài tội gì phải làm khổ mình thế."

Mạnh Lãng: "..."

Bộ Hộ à, bộ Hộ thì quản lí tiền bạc lương bổng chứ còn gì!

Mạnh Lãng nghĩ bụng sao mình dại thế không biết, quyết định từ rày không bao giờ dây vào Vương Tử Phong nữa.

Hành động của Mạnh Lãng ở thời hiện đại có thể mô tả trọn vẹn bằng một từ, ấy là "khẩu nghiệp2". Chỉ tiếc Mạnh đại nhân bây giờ chưa biết cụm từ thâm nho đấy, chỉ đành dùng từ "hối hận sâu sắc" để mô tả tâm trạng hiện giờ của mình.

Đường Thận theo Vương Trăn lòng vòng mấy lượt trong điện Cần Chính mới đến một gian phòng vắng vẻ yên tĩnh.

Đường Thận hơi ngạc nhiên, cậu không biết đây là đâu cả.

Vương Trăn nói: "Đây là nơi làm việc của Hữu tướng Vương Thuyên – Vương tướng công. Hôm nay Vương tướng công không có ở đây, tiểu sư đệ có chuyện gì cứ nói thoải mái."

Thì ra là chỗ của nhị thúc tổ Vương Trăn!

Đường Thận đi thẳng vào vấn đề luôn, kể về bản tấu mà cậu đọc được hôm nay. Cậu không giấu giếm gì cả, nói hết chân tơ kẽ tóc cho Vương Trăn nghe. Vương Trăn càng nghe, cặp lông mày càng nhíu lại. Các quan lại khác trong phút chốc ngắn ngủi khó mà phát hiện ra điểm lạ kì ở bản tấu từ đất Thục, nhưng Vương Trăn là Thượng thư bộ Hộ đã năm năm nay, rất nhạy cảm với tiền bạc. Khi nghe "lấy giấy thay tiền", Vương Trăn đã tính được mấy đối sách trong lòng rồi.

Đường Thận suy nghĩ một chút, bèn nói lên ý kiến của mình. Bây giờ chỉ có cậu và Vương Trăn ở đây, cậu không gọi Thượng thư đại nhân nữa mà gọi thẳng là sư huynh.

"Sư huynh, vấn nạn khan hiếm tiền tệ ở Đại Tống chúng ta không phải chuyện ngày một ngày hai. Tuy đệ không phải quan bộ Hộ, nhưng vấn đề thiếu tiền đã xảy ra từ thời tiên đế. Cứ mỗi đợt cải cách thuế khóa, kèm theo hoạt động buôn bán với nước ngoài, chúng ta lại gặp khó khăn trong việc tính toán thuế thương mại. Vả lại, trữ lượng đồng và bạc của Đại Tống đều khan hiếm. Dưới triều Khai Bình hiện nay, sức nước ngày càng hùng mạnh, vấn đề thiếu tiền càng nghiêm trọng hơn. Đệ nghĩ, 'Tiền giấy' có thể phải lời giải cho bài toán thiếu tiền của Đại Tống!"

Đôi mắt Vương Trăn bừng sáng như hai ngọn đuốc. Hai huynh đệ nhìn nhau trong giây lát, Vương Trăn bèn nói: "Ý của tiểu sư đệ, ta đã hiểu. Cái khó là chuyện này nếu bỏ đấy thì nó chẳng có gì to tát, nhưng một khi đụng vào thì phạm vi ảnh hưởng là rất rộng. Nếu rút dây động rừng, hậu quả ra sao, khó mà tiên liệu được trong nay mai."

Đường Thận đâu phải không biết.

Đừng nói là trong thời đại này, dù giữa thời hiện đại đi chăng nữa, kể cả khi nhà nước nắm quyền phát hành tiền tệ, cũng có khối nước trên thế giới phải phá sản!Tiền giấy thay thế tiền đồng, bạc, vàng, chính là xu hướng tất yếu không thể ngăn cản được của lịch sử, nhưng nó cũng là một con dao hai lưỡi. Làm thế nào để đưa nó vào hoạt động là cả một lĩnh vực rộng lớn, Đường Thận chẳng biết mò mẫm từ đâu; rồi làm thế nào để sử dụng nó một cách đúng đắn lại càng khó khăn hơn, mà Đường Thận thì mít đặc!

Nhưng nếu tiền giấy kiểu gì cũng xuất hiện, thì việc xuất hiện sớm hơn một chút rất có lợi đối với thời đại này, nhất là với kinh tế Đại Tống!

Đường Thận có vô vàn suy nghĩ trong lòng nhưng không thể nói ra.

Sau một hồi, cậu dành cho Vương Trăn ánh mắt cháy bỏng, nói lên một câu từ đáy lóng mình: "Đệ tín nhiệm sư huynh."

Vương Trăn có chút ngẩn ngơ, gương mặt tuấn nhã của chàng thoáng vẻ ngạc nhiên. Đoạn, chàng dịu dàng cười: "Ừ."

Hai người không nói thêm nữa, tự rời khỏi gian nhà.

Đường Thận không hề nói lấy lệ khi cậu bảo mình tín nhiệm Vương Trăn, cậu thực sự muốn giao phó toàn bộ việc này cho chàng. Bất luận Vương Trăn định bỏ qua hay thúc đẩy nó đều không liên quan đến Đường Thận. Cậu vốn không am hiểu lĩnh vực này, chuyển giao cho Vương Trăn mới là lựa chọn đúng đắn nhất.

Đầu giờ chiều, Từ Bí cầm mấy quyển tấu chương, vào cung yết kiến Triệu Phụ.

Buổi tối lúc gần tan làm, Đường Thận vừa mới xếp gọn đồ đạc xong, ra đến cửa thì thấy có bóng người mặc quan bào hồng sẫm bước thoăn thoắt vào cổng điện Cần Chính. Hai người đều hết sức ngạc nhiên khi chạm mặt nhau.

Cả hai cùng nhìn nhau, Đường Thận cung kính hành lễ trước: "Tô đại nhân."

Tô Ôn Duẫn nhếch môi cười: "Đường đại nhân." Anh ta quan sát tỉ mỉ một hồi, đôi mắt đào hoa ánh lên tia cười cợt: "Đi đâu thế, tan làm rồi à?"

"Vâng." Tuy không muốn nói chuyện với Tô Ôn Duẫn, nhưng anh ta cứ đứng chình ình ra đó thì Đường Thận cũng đành phải lịch sự hỏi thăm: "Tô đại nhân mới từ Thứ Châu về đấy ạ?"

Sau vụ cầu sông Kinh Hà, Tô Ôn Duẫn đã được Triệu Phụ đề bạt làm Hữu thị lang bộ Công để thế vào chỗ của Tạ Thành. Năm ngoái, Tô Ôn Duẫn phải đi Thứ Châu để đôn đốc cho xong việc xây dựng quan đạo, chẳng mấy khi xuất hiện trên triều đình. Hôm nay anh ta đã trở về, lẽ nào quan đạo Thứ Châu sắp hoàn thành rồi?

Tô Ôn Duẫn không trả lời, chỉ nhận xét: "Đường đại nhân dạo này béo ra phết nhỉ."

Đường Thận vô thức thốt lên: "Ơ?"

"Các cụ có câu lòng thanh thản, người mỡ màng3, ta thấy, nửa năm nay Đường đại nhân hẳn là tươi vui lắm." Tô Ôn Duẫn cười khoe hàm răng trắng bóng, trông cứ như con sói nhe nanh.

Đường Thận ngơ ngơ ngác ngác, cáo từ ra về.

"Tô Ôn Duẫn dốt thành ngữ tục ngữ à? Lòng thanh thản, người mỡ màng... Anh ta thi đỗ tiến sĩ thế quái nào vậy?"

Đường Thận nào hay, trong mắt Vương Trăn, cậu béo đến mấy cũng là gầy giơ xương, còn trong mắt Tô Ôn Duẫn, Đường Thận tròn trịa đến phát ghét. Vì sao lại béo ấy à? Vì chỉ trong vòng hai năm, cậu đã nhảy phắt từ thất phẩm lên tứ phẩm, còn là Trung Thư xá nhân tứ phẩm, cận thần ngay dưới mắt Thiên tử! Thăng tiến với tốc độ điên rồ như thế thì ai mà chẳng sướng rơn?

Từ thất phẩm lên ngũ phẩm không khó, nhưng từ ngũ phẩm lên tứ phẩm gian nan vô cùng. Đường Thận được thăng đến tứ phẩm chẳng phải nhờ ăn theo Tô Ôn Duẫn sao?

Thế mà giờ Đường Thận được ở Thịnh Kinh ăn trắng mặc trơn, ngày ngày hưởng phúc, còn anh ta phải đi mài mặt tận Thứ Châu, dãi nắng dầm mưa.

Tô đại nhân rất chi là cáu kỉnh!

Nhưng dù Tô đại nhân có oán giận thế nào đi nữa thì cũng chẳng ảnh hưởng gì đến Đường Thận cả.

Hôm sau trong buổi triều, Triệu Phụ giả bộ vô tình nhắc đến chuyện "dùng giấy làm tiền" ở Thục. Vị hoàng đế một lòng tu tiên chỉ lấy việc đó ra bông đùa thôi, bảo rằng nghe quan nào đó nói vậy, dường như ông ta chẳng hề coi là chuyện to tát. Thế mà quan nào quan nấy nghe xong đều ngấm ngầm suy tính riêng.

Trung tuần tháng sáu, mặt trời hầm hập như lỏ luyện kim đan lửng lơ giữa bầu trời.

Mỗi gian làm việc trong điện Cần Chính đều được cấp chậu băng để làm mát cho các quan, nhưng phòng làm việc của quan tứ phẩm đông quá, có chậu băng cũng không đỡ được là bao. Đường Thận nóng đến nỗi mồ hôi mồ kê đầy đầu, nhưng cậu vẫn mặc quan phục nghiêm chỉnh, không dám cởi bớt nút áo nào.

Đường Thận đang xem dở tấu chương thì có một sai nha vào phòng, gửi một phong thư đến tận tay cậu.

Các quan khác chẳng buồn để ý. Đường Thận ngẩn người, bóc thư ra. Đọc dòng chữ trên thư, ánh mắt cậu run lên, lặng lẽ nhét phong thư vào trong tay áo. Lúc tan làm, Đường Thận cố tình nán lại trong phòng một lúc, đến khi thấy Vương Trăn bước ra khỏi chỗ làm từ đằng xa.

Vương Trăn liếc sang cũng thấy Đường Thận.

Đường Thận muốn gọi chàng, nhưng Vương Trăn làm bộ không thấy, ánh mắt vụt lướt qua, chàng đi thẳng về phía trước, cứ như thể không hề phát hiện ra cậu.

Đường Thận mím môi, chờ Vương Trăn đi về rồi, cậu mới rời nha môn.

Đêm đến, Đường Thận sang phủ Thượng thư, quản gia mời cậu vào cửa. Đợi khoảng một chung trà thì Vương Trăn về nhà.

Đường Thận đi ra đón chàng ngay: "Sư huynh."

Vương Trăn thấy cậu, giọng chàng ấm áp pha chút bất lực: "Đã nói với đệ là không dính dáng gì đến đệ rồi kia mà. Tiểu sư đệ thông tuệ hơn người, ắt là hiểu ý ta, sao còn đến đây làm gì?"

Không sai, hôm nay Vương Trăn cố ý sai người đưa thư tới cho cậu bảy chữ –

"Mọi chuyện, không liên quan đến đệ."

Chú thích

Thương mại tăng thì nhu cầu tiền tệ tăng, dẫn đến nhu cầu khai thác quặng là rất lớn, trong khi kim loại không chỉ cần cho tiền mà còn cần cho vũ khí nữa. Tranh chấp biên giới phía Bắc trong lịch sử Việt – Trung thời xưa cũng nhiều lần xoay quanh việc vùng núi nước mình giàu khoáng sản quá :)))) Ngoài ra dùng tiền gì thì cũng gặp vấn đề với in tiền giả gây nên lạm phát. Trong Thế Chiến II Phát xít Đức từng tuồn tiền giả và Anh để phá nền kinh tế Anh.

[1] Gốc là "đổ mưa đỏ", thành ngữ Đài Loan chỉ việc lạ, tương tự câu "hôm nay trời đi vắng" của Việt Nam mình.

[2] Gốc là "chủy tiện". Chỉ người độc mồm, nói năng tiêu cực, gây khó chịu cho người khác nhưng không bao giờ chịu lắng nghe. Mình thấy hai từ "độc mồm" và "thối mồm" trong tiếng Việt là sát nghĩa nhất, nhưng xét ngữ cảnh là Mạnh Lãng đang phải chịu hậu quả từ sự vạ miệng của mình, thì "khẩu nghiệp" lại là từ hiện đại và hợp hoàn cảnh hơn.

[3] Câu lòng thanh thản, người mỡ màng này chính là câu "tâm khoan thể bàn/bạng" có hai cách phát âm mà Đường Thận trêu Vương Tiêu hồi ở Ninh Châu đấy.

Chương 76

Mưa rồi?

Không gian vắng vẻ, trong phủ thượng thư chỉ nghe tiếng ve kêu râm ran và tiếng chim chóc líu lo.

Đâu phải Đường Thận không hiểu chỗ khó xử của Vương Trăn?

Cậu rút từ trong tay áo ra lá thư Vương Trăn gửi chiều ngay, đọc lại một lần nữa. Đoạn, Đường Thận đến bên án thư, đưa lá thư vào ngọn nến. Ngọn lửa liếm lên giấy, chẳng mấy chốc lá thư đã hóa tro tàn.

Đường Thận nói: "Ý của sư huynh, đương nhiên đệ hiểu. Nhưng hiểu là một chuyện, đến đây là chuyện khác. Đệ không gạt sư huynh, có hai vấn đề khiến đệ băn khoăn mãi. Thứ nhất, đệ rất tò mò về những chuyện sẽ phát sinh trong thời gian tới, đệ muốn biết sư huynh định xử lí như thế nào. Thứ hai..." Đường Thận ngập ngừng giây lát: "Thứ hai là đệ lo cho sư huynh."

Vương Trăn nhìn Đường Thận bằng ánh mắt hết sức điềm tĩnh. Lát sau, chàng mới nói: "Đệ hiếu kì cũng là chuyện thường tình thôi. Nhưng Cảnh Tắc này, chớ nghe, chớ hỏi mới là kim chỉ nam cho đệ trong chốn quan trường, xét địa vị hiện giờ của đệ. Còn lo lắng của đệ thì..."

Vương Trăn chỉ mỉm cười rồi bỏ lửng câu.

Đường Thận không hiểu nổi ý chàng.

Sao Vương Tử Phong kì vậy, đang nói dở lại thôi?

Với quan hệ của sư huynh đệ hai người hôm nay, những gì Đường Thận vừa nói hoàn toàn thật lòng, không có một chữ nào giả dối. Bản chất Đường Thận không phải người tâm cơ xảo trá, nghi bóng sợ gió. Quen biết Vương Tử Phong ba năm nay, bầu bạn với chàng ba năm nay, dù cậu có là cục đá thì cũng phải nóng lên. Đường Thận thực sự đặt rất nhiều niềm tin vào sư huynh mình.

Huống hồ bây giờ cậu đã bước một chân vào Vương đảng. Thành tựu của cậu hôm nay có công lao không hề nhỏ của Vương Tử Phong. Vương Tử Phong muốn hại cậu thì khác nào tự chặt một tay, cái được chẳng bù cái mất.

Người khôn ngoan như Vương Tử Phong lẽ nào lại hành động như thế?

Đường Thận suy nghĩ một lát, nói: "Lời khuyên của sư huynh không hề sai. Đệ cũng biết, tuy bây giờ đệ là Trung Thư xá nhân tứ phẩm, nhưng chẳng qua cũng chỉ là chức nhỏ thôi. Có điều, câu 'chớ hỏi, chớ nghe' sư huynh từng dặn đệ cách đây một năm. Hồi ấy đệ đã làm theo lời huynh, nhưng bệ hạ đâu có để yên cho đệ không hỏi, không nghe? Đệ bị phái đến Thứ Châu, rồi mới có những chuyện sau này."

"Chuyện đệ phải đi Thứ Châu, kì thực cũng do ta mà nên."

Đường Thận sửng sốt: "Do sư huynh ư?"

Vương Trăn nói: "Bệ hạ của chúng ta cực kì giỏi trong việc thao túng cán cân quyền lực." Đây là lần đầu tiên Vương Trăn thảo luận với cậu về vấn đề này trong triều đình, Đường Thận lập tức tập trung tư tưởng, nghiêm túc lắng nghe chàng phân tích, "Có một số việc thuộc về bề nổi, tất cả các quan đều biết, đệ tự khắc cũng biết. Một số việc khác, đệ có thể đã đoán được rồi. Năm ngoái, ta, Tô Ôn Duẫn và Tống Tuần, chia nhau lên phía Bắc cốt là để điều tra vụ án tham ô trong nạn tuyết miền Nam cách đây bốn năm."

Đường Thận: "Chuyện ấy đệ đã đoán được."

Vương Trăn: "Thế đệ biết những gì về con người Tô Ôn Duẫn?"

Đường Thận sửng sốt, cậu tỉ mỉ nhớ lại từng thứ: "Tô đại nhân trước kia là Thiếu khanh Đại lý tự, hàm tứ phẩm. Khi đệ làm Khởi Cư lang thì thường xuyên thấy anh ta vào đài Đăng Tiên, rất được bệ hạ sủng ái. Giờ anh ta là Hữu thị lang bộ Công, hàm tam phẩm, tiền đồ vô lượng."

"So sánh với đệ thì sao?" Vương Trăn dí dỏm nói.

Đường Thận nghẹn lời, lúng túng hồi lâu mới nói: "Sư huynh đừng chế giễu đệ."

Vương Trăn ngưng cười, thong thả nói: "Ấy là đạo cân bằng của thánh thượng chúng ta đó."

Đường Thận ngây người.

"Tô Ôn Duẫn rất may mắn khi tìm được ngay kẻ chủ mưu. Không có gì bất ngờ cả, ngay khi anh ta về kinh chắc chắn sẽ được triều đình trọng thưởng và còn được thăng chức. Sự thật đúng là thế, anh ta trở thành Hữu thị lang hàng tam phẩm. Có thể dự đoán được kết quả này, thực chất là vì trước khi nó xảy ra, bệ hạ đã phái đệ đi Thứ Châu. Mà tiểu sư đệ à, đệ phải đi vì đệ là người của ta."

Bộ não của Đường Thận lại bị thách thức: Đệ là người của ta? Cái câu này nghe cứ là lạ thế nào ý nhỉ? Nhưng sư huynh nói đúng, trong mắt Triệu Phụ, Tô Ôn Duẫn, thậm chí là toàn thể các quan, cậu coi như nửa Vương đảng rồi còn gì.

Thấy Đường Thận không phủ nhận, Vương Trăn lẳng lặng liếc cậu một cái rồi giải thích tiếp: "Đệ công cán ở Thứ Châu, không có công lao cũng có khổ lao. Dù đệ không tịch thu được sổ thu chi, đến khi về kinh, bệ hạ chắc chắn vẫn ban thưởng cho đệ." Nói đến đây, Vương Trăn trở nên trầm tư. Bỗng chàng bảo: "Cảnh Tắc, nếu mọi chuyện theo đúng dự đoán, trong vòng ba năm tới, ta không thể nào lên chức được."

Đường Thận cả kinh: "Ý sư huynh là sao?"

"Trong Vương đảng, trên có nhị thúc là quan nhất phẩm, Hữu tướng triều ta, thân với Tả tướng Kỷ Ông Tập. Ta là quan nhị phẩm, nắm quyền quản lí cả một bộ, chịu ơn dày của bệ hạ. Chính vì thế, muốn chế ngự phe phái Tô Ôn Duẫn, bệ hạ không thể nâng đỡ ta hay nhị thúc nữa mà chỉ có thể sử dụng những người còn lại thuộc Vương đảng. Ở Thịnh Kinh khi đó, chỉ có mình đệ là người phù hợp nhất mà thôi."

Đêm nay, được nghe chàng giảng giải, Đường Thận quả nhiên được mở rộng tầm mắt.

Suốt một năm qua, cậu chưa từng nghĩ tới Triệu Phụ phái mình đi Thứ Châu hóa ra là để dùng cậu khắc chế Tô Ôn Duẫn, khiến Tô Ôn Duẫn không thể đắc thế hoàn toàn!

Vương Trăn: "Tô Ôn Duẫn vốn là người nhà họ Tô – danh môn hàng đầu vùng Bắc Trực Lệ. Thời Thái Tổ, Tô gia lập không biết bao nhiêu công trạng hiển hách, gần trăm năm qua vẫn sản sinh vô số nhân tài. Bệ hạ dùng ta để chế ngự Tô Ôn Duẫn, rồi lại dùng Tô Ôn Duẫn chế ngự ta. Dù cả hai chúng ta biết rõ mười mươi ý đồ của bệ hạ, cũng chẳng có cách nào phá vỡ cục diện ấy."

Sống ở đời, điều đáng sợ nhất không phải là không biết mình bị lợi dụng, mà là biết nhưng không thể tránh nổi.

Triệu Phụ là hoàng đế, cho nên cách sắp đặt của ông ta buộc những tay quái kiệt trên đời như Vương Trăn hay Tô Ôn Duẫn phải bất lực, chấp nhận tình thế. Tuy nhiên, tình thế ấy không hề bất lợi cho họ; bằng không với tuổi tác của cả hai, họ không thể nào leo lên vị trí hiện tại nhanh chóng như thế được.

Nói cách khác, Triệu Phụ đang lợi dụng họ, nhưng chắc gì họ không lợi dụng Triệu Phụ trước?

Mặc dù vậy, Đường Thận nhanh chóng nhận ra điểm thiếu sót: "Sư huynh xuất thân Lang Gia Vương thị, Tô Ôn Duẫn xuất thân Bắc Trực Lệ Tô gia. Hai người đều là phe danh môn, thế phe hàn môn thì sao?"

Với tính tình đa nghi của Triệu Phụ, còn lâu mới có chuyện ông ta hoàn toàn đặt niềm tin vào giới quý tộc; chắc chắn, phải có phe phái hàn môn để khắc chế phe phái danh môn.

Trong triều hiện nay có bốn vị tướng công, trong đó Hữu tướng Vương Thuyên và Hữu thừa Từ Bí đều là dòng dõi thế gia, còn Tả tướng Kỷ Ông Tập và Tả thừa Trần Lăng Hải xuất thân nghèo khó, đây là bằng chứng cho thấy Triệu Phụ dùng họ để kiềm hãm lẫn nhau: nếu không làm sao có sự đối xứng hoàn hảo đến vậy? Khác nào anh một miếng tôi một miếng1?

Vương Trăn dửng dưng: "Có Lý Cảnh Đức đấy còn gì."

Đường Thận ngẩn ra, nhất thời cậu không nhớ ra người ấy là ai cả.

Trong lúc đó, Vương Trăn đã nói tiếp: "Chuyện sử dụng giấy để làm tiền tệ khác hẳn với những sự vụ khác. Nếu xảy ra tranh đấu thì trên triều đình phong ba bão táp lắm đấy, nhưng chỉ giới hạn trong nhóm quan tam phẩm trở lên mà thôi. Vì thế, tiểu sư đệ à... việc này không liên quan đến đệ."

Hôm nay là một ngày hiếm hoi mà Đường Thận rời khỏi phủ Thượng thư nhưng Vương Trăn không ra tiễn.

Ngoái đầu nhìn cổng phủ khóa chặt, Đường Thận cảm thấy nao nao khó tả.

"Lần này, Vương Tử Phong muốn tạm thời đường ai nấy đi, không liên lụy gì đến nhau thật rồi."

Việc phát hành tiền giấy ảnh hưởng quá sâu rộng, thậm chí cả Vương Trăn cũng không dám đảm bảo mình sẽ an toàn thoát nạn. Chàng không muốn kéo thêm Đường Thận vào, thậm chí Đường Thận biết, điều Vương Tử Phong bỏ ngỏ chính là: dù Đường Thận có tham gia vào cũng vô ích, có khi còn nguy hiểm đến bản thân.

Đường Thận vốn không am hiểu về chính sách và tiền tệ. Cậu mới mười tám tuổi, dù đã vào quan trường ba năm, nhưng cậu cần thêm thời gian để trở nên cứng cáp.

Đường Thận thở dài, nghĩ thầm: "Nếu đang là thời bình, nếu có thể chọn lựa, ước gì mình được làm việc ở bộ Công, mở đường xây cầu cho đất nước!" Song ấy là cậu nói thế thôi. Bây giờ đang là thời bình đấy, nhưng giữa thời bình thế này, cậu cũng có được làm theo ý thích của mình, trở thành một kĩ sư chỉ cần quan tâm đến vấn đề kĩ thuật đâu?

Vương Trăn không biết, dù chàng gần như xua đuổi Đường Thận, Đường Thận không hề có ý định rút chân hoàn toàn khỏi vụ việc này. Cậu âm thầm dự tính sẽ bí mật theo dõi diễn biến.

Chỉ còn mấy hôm nữa là Tô Ôn Duẫn lại phải về Thứ Châu, tiếp tục đôn đốc tiến độ đường xá.

Trước khi đi, anh ta cố ý chờ Đường Thận trên con đường dẫn vào điện Cần Chính trong cung. Tô đại nhân trong bộ quan bào đỏ thẫm, phơi nắng phơi gió nửa năm trời mà da dẻ vẫn trắng bóc, tuấn tú rạng ngời. Anh ta thấy Đường Thận thì mỉm cười: "Đường đại nhân, khéo ghê cơ chứ lại! Sao tự dưng gặp nhau ở đây thế này?"

Tránh voi chẳng xấu mặt nào, sao không cho người ta tránh hả? Đường Thận cung kính hành lễ: "Xin kính chào Công bộ Hữu thị lang đại nhân."

Tô Ôn Duẫn nheo mắt nhìn Đường Thận. Bỗng dưng anh ta nở nụ cười, chỉ lên trời hỏi: "Đường đại nhân, ngươi trông mặt trời chói lọi thế kia, liệu ngày mai có mưa không nhỉ?"

Đường Thận thầm nghĩ: Anh đã bảo nắng chói chang, sao còn hỏi mai có mưa không?

Ngoài miệng thì cậu nói: "Hạ quan chẳng biết."

"Ta lại nghĩ, Thịnh Kinh sắp có trận mưa to rồi đấy. Đường đại nhân phải chuẩn bị sẵn ô dù đấy nhé, kẻo mưa ướt hết cả người. Mắc mưa thì không sợ lắm, chỉ sợ bị cảm, ốm nặng thì toi. Đến lúc ta xong việc ở Thứ Châu, về đây lại thấy vắng bóng Đường đại nhân thì tiếc lắm."

Đường Thận: "..."

Anh dám trù ẻo ai chết sớm hả?

Lần này Đường Thận không thèm trả lời anh ta nữa, đằng nào thì Tô Ôn Duẫn cũng chướng mắt cậu, để ý làm gì cho mệt người, có phải lần đầu tiên làm mích lòng nhau đâu.Vả lại, cậu là người của Vương đảng đấy! Tô Ôn Duẫn có giỏi thì sút Vương Tử Phong lên bàn thờ ăn gà luộc trước đi rồi hẵng lôi cậu ra hành hạ.

Tô Ôn Duẫn cũng không trêu cậu nữa, ngài Hữu thị lang bộ Công cười khẩy rồi quay gót bỏ đi. Hôm sau thì anh ta rời kinh đến Thứ Châu luôn.

Hôm Tô Ôn Duẫn đi, trời vẫn nắng gắt, không có mưa to như anh ta nói.

Cho đến ngày mười bốn tháng sáu, năm Khai Bình thứ hai mươi chín.

Trong buổi chầu, Hữu tướng Vương Thuyên bước lên tâu: "Từ năm Khai Bình thứ mười chín đến nay, các tỉnh Nam Trực Lệ và Hồ Tây đều gặp khó khăn trong quá trình thu thuế. Thần có hai mươi ba kiến nghị cải cách thuế ruộng đất, xin được trình lên bệ hạ."

Mắt Triệu Phụ sáng ngời, ông ta giả bộ ngạc nhiên lắm, nói: "Ồ, trẫm tò mò đấy."

Đại thái giám Quý Phúc nghe thấy thế bèn đi xuống, cầm tấu chương của Vương Thuyên, dâng hai tay lên cho hoàng đế. Triệu Phụ mở sổ tấu ra, ánh mắt lướt đi trên trang giấy. Điện Tử Thần lặng ngắt như tờ, chỉ nghe tiếng Triệu Phụ giở tấu chương.

Tả tướng Kỷ Ông Tập nhìn xuống sàn, chẳng biết ông đang nghĩ gì.

Tả thừa Trần Lăng Hải nghi hoặc nhìn Vương Thuyên và Kỷ Ông Tập, im lặng không lên tiếng.

Hữu thừa Từ Bí điềm nhiên như không. Vị nguyên lão ba đời vua bình thản giơ cao hốt ngọc, nhìn về phía chân Triệu Phụ, không khác gì so với mọi khi, cứ như thể Vương Thuyên mới dâng tấu chương vấn an Triệu Phụ vậy.

Triệu Phụ đọc xong, thái độ hết sức bình thản. Ông ta đặt sổ lên chiếc khay mà Quý Phúc đang bưng: "Việc này để sau hẵng bàn."

Vương Thuyên: "Vâng."

Không lâu sau, hết buổi triều, các quan lũ lượt ra khỏi cung.

Riêng Tả tướng Kỷ Ông Tập và Hữu tướng Vương Thuyên được hoàng đế triệu đến điện Thùy Củng, không biết định bàn bạc những gì.

Đường Thận đi trong hàng ngũ các quan tứ phẩm, nhìn hai vị quyền thần đi xa, ánh mắt cậu phẳng lặng như gương nhưng trong lòng đang ì ầm sóng cuộn. Nếu bây giờ cậu còn là Khởi Cư lang, hôm nay là phiên trực của cậu, thì cậu đã có thể biết Triệu Phụ mật đàm những gì với hai vị tướng công trong điện Thùy Củng!

Nhưng cậu đã không còn ở vị trí đó!

Trong lúc các quan rời khỏi cung, chợt Hữu thị lang bộ Hộ Tần Tự giơ tay hứng, ngạc nhiên thốt lên: "Ơ, sao tự dưng đổ mưa thế này?"

Lời tác giả:

Tiểu Đường lang: Muốn bắt nạt ta hả? Có giỏi thì đạp lên mặt Vương Tử Phong mà oánh ta đi? Đánh đi, có gan thì nhào vô!

Anh Vương hàng xóm: ...(bắt đầu luyện chữ, trên giấy viết kín bốn chữ – chiều lắm sinh kiêu!)

Chú thích

[1] Gốc là "bàn bàn tọa phân quả quả" – tên một bài hát cho thiếu nhi, các bạn thiếu nhi ngồi vào chỗ xong chia mỗi đứa một quả táo

Chương 77

Ty Độ Chi

Nhớ ra hôm nay cuối tuần, post thêm chap nữa đọc cho vui nhà vui cửa rồi trong tuần lại tích trữ

Hè đến, mưa rào sầm sập đến rồi lại hối hả đi.

Sang tháng sáu, thời tiết càng ngày càng khô nóng. Có lẽ năm ngoái ông trời đã làm mưa hết cả phần năm nay, nên mùa hè năm nay nóng bức khủng khiếp. Trong điện Cần Chính, các quan tứ phẩm mồ hôi mồ kê nhễ nhại. Mỗi tội họ đang ở trong cung, là quan thuộc điện Cần Chính, bắt buộc phải giữ gìn hình ảnh. Dẫu cả người có đầm đìa mồ hôi, các quan cũng không thể cởi phanh quần áo ra cho đỡ nóng, chỉ đành ráng sức chịu đựng.

Đường Thận đọc xong một quyển tấu, suy nghĩ mãi, rồi mới dùng mực xanh lá viết hai hàng chữ nhỏ xuống mép sổ.

Đặt quyển tấu vào chồng tấu chương đã xem xong, Đường Thận lấy quyển khác ra xem. Cậu quệt mồ hôi trên trán, chăm chú đọc.

"Các đại nhân, ăn canh đậu xanh thôi ạ."

Qua giờ trưa, mười mấy sai nha bê những vò canh đậu xanh vào phòng.

Các quan thở phào nhẹ nhõm, bắt đầu ăn canh đậu xanh. Tuy gọi là canh đậu xanh nhưng món này chẳng có tí nước cốt nào, thậm chí còn hơi đắng. Song nắng nóng thế này, có bát canh đậu xanh giải nhiệt là mãn nguyện lắm rồi.

Húp canh đậu xanh xong, Đường Thận tiếp tục làm việc, bỗng có một sai nha cầm khay đến, đặt một tập tấu chương lên bàn cậu.

Sai nha thưa: "Đường đại nhân, theo lệnh của Từ tướng công, từ hôm nay ngài sẽ tập trung xem quân báo Tây Bắc ạ."

Đường Thận ngừng tay, ngẩng lên đáp: "Xin tuân lệnh Từ tướng công."

Đến giờ tan làm buổi tối, Từ Bí gọi Đường Thận qua, hỏi: "Hôm nay đọc quân báo Tây Bắc thấy thế nào?"

Đường Thận cúi đầu, cung kính thưa: "Trước đây hạ quan chủ yếu đọc tấu chương quan lại các nơi gửi về kinh, hôm nay mới làm quen với quân báo Tây Bắc nên chưa quen được ngay ạ. Mong tướng công yên tâm, ngày mai hạ quan nhất định sẽ xử lí ổn thỏa."

Từ Bí cười: "Đường đại nhân từng đi Thứ châu, tận mắt thấy quan đạo Thứ Châu, hẳn ngươi đã biết, xây ba quan đạo không chỉ nhằm mục đích tăng cường buôn bán mà còn để dự phòng cho chiến tranh. Ta nói thế ngươi đừng bất ngờ nhé, chuyện này mọi người ai cũng có phỏng đoán, lẽ dĩ nhiên ta biết ngươi không ngoại lệ. Song, các quan triều ta đều đoán ra, chẳng lẽ người Liêu lại không đoán được? Đầu năm nay, người Liêu đã vi phạm lệnh cấm, một kẻ tự nhận là sơn phỉ nước Liêu đã nhân lúc tối trời, lẻn vào thành U Châu gây án mạng. Trước tình hình Tây Bắc phức tạp như vậy, quân tình Tây Bắc càng quan trọng hơn. Ngươi phải nghiền ngẫm cẩn thận."

Đường Thận bình tĩnh nhìn xuống, thưa: "Vâng."

Rời khỏi điện Cần Chính, Đường Thận nhớ lại quân báo Tây Bắc mình vừa đọc hôm nay.

Từ Bí nói không sai, tình hình Tây Bắc năm vừa qua đã trở nên hết sức căng thẳng. Không chỉ ở U Châu mà suốt một dọc biên giới về Đông đến tận Thứ Châu đều xuất hiện tình trạng người Liêu vi phạm lệnh cấm.

Các quan địa phương khi viết tấu trình báo, phần lớn chỉ báo cáo những chuyện lớn ở địa phương. Thậm chí, nhiều quan muốn lấy lòng hoàng đế, viết hẳn một tấu chương gửi vạn dặm đường chỉ để tâng bốc nịnh nọt.

"Nhưng nếu từ giờ mình chỉ đọc quân báo Tây Bắc thì làm sao mà nắm được tình hình ở địa phương nữa?"

Đường Thận có chút tư lự.

Không hẳn là tất cả tấu chương địa phương đều được gửi về chỗ cậu. Nhưng hiện giờ cậu hoàn toàn không được tiếp xúc với bất cứ thông tin gì.

Hành vi của Từ Bí khiến Đường Thận hết sức nghi ngờ, nhưng hiện giờ cậu cũng không tìm được đầu mối gì cả.

Mấy hôm sau, thượng tuần tháng sáu, bản tấu Hữu tướng Vương Thuyên dâng lên hoàng đế đã có kết quả.

Buổi triều trên điện Tử Thần ngày hai mươi chín tháng sáu.

Vương Thuyên bước lên khỏi hàng, tâu: "Từ thời tiên đế, quan hệ Đại Tống và Liêu luôn hết sức căng thẳng, chiến tranh liên miên, nhu cầu lương bổng nuôi quân là rất lớn, khiến quốc khố xưa kia trống rỗng trong thời gian dài. Nhưng từ năm Khai Bình thứ mười, Đại Tống ta kí hòa ước với Liêu đến nay đã được mười chín năm, hai nước đều gìn giữ hòa bình, không xâm phạm nhau. Xưa kia, dân chúng phải chịu sưu cao thuế nặng cũng vì chiến loạn. Ngày nay thiên hạ thái bình, đã đến lúc phải có sự thay đổi."

Ông vừa nói xong, có người đã lên tiếng phản bác: "Vương đại nhân nói thế không ổn đâu. Tuy rằng Đại Tống và Liêu mười chín năm nay yên ổn hòa bình, nhưng chưa năm nào người Liêu thôi dòm ngó chúng ta. Người Liêu lòng muông dạ thú, ai mà chẳng biết! Nếu tùy tiện cắt bớt chi phí cho quân đội, đến lúc có biến, ai sẽ gánh hậu quả đây?"

Người phản đối chính là một tướng quân bậc tam phẩm, đứng trong hàng ngũ tướng võ.

Phần lớn võ quan Đại Tống tản ra trấn thủ biên cương và quản lí quân đội từng khu vực. Quan võ ở Thịnh Kinh chủ yếu là những người lớn tuổi, song chính vì thế mà họ chưa bao giờ kiềng nể uy thế của các quyền thần, ngay cả một Tham tướng2 tam phẩm cũng dám thách thức Vương Thuyên.

[2] Chức quan võ thống lĩnh quân trấn thủ biên giới.

Vương Thuyên không hề tức giận, ông chỉ hừ một tiếng: "Triệu tướng quân, ta có nói là sẽ cắt giảm lương bổng cho quân tướng đâu?"

Triệu tướng quân: "Ủa, vậy ý ông là gì?"

Vương Thuyên mặc kệ ông ta, cúi mình hành lễ với Triệu Phụ, tâu rằng: "Thần xin bệ hạ ban bố hai mươi ba điều sửa đổi thuế ruộng đất của thần!"

Triệu Phụ quan sát Vương Thuyên và các bề tôi của mình bằng ánh mắt cực kì sâu xa. Sau một lúc, ông ta mới phất tay: "Tuyên."

Đại thái giám Quý Phúc lập tức bước lên, giở một quyển tấu ra, dõng dạc đọc lên.

Hai mươi ba điều sửa đổi thuế ruộng đất!

Mười mấy ngày trước, Hữu tướng Vương Thuyên đã nhắc đến vấn đề này trong buổi chầu, nhưng đến tận hôm nay, các quan mới biết được hai mươi ba điều ấy là gì!

Cải cách của Vương Thuyên sẽ thay đổi từ thuế ruộng đất địa phương, bắt đầu từ các cấp thấp nhất và đánh dần lên các địa chủ quý tộc. Ông thẳng tay cắt gọt những mắt xích trung gian rườm rà trong quy trình thu thuế, gần như thu trực tiếp thuế từ địa phương về trung ương, rồi cuối cùng triều đình trung ương sẽ phân chia đồng bộ về các địa phương.

Sau khi Quý Phúc đọc bản sửa đổi thuế ruộng xong, cả triều đình đều choáng ngợp.

Trong quá khứ, thuế địa phương về cơ bản đều được thu về trung ương, rồi trung ương lại phân phát xuống các cấp địa phương. Nhưng chưa có ai thiết kế lại quy trình đấy triệt để và cẩn thận đến mức này!

Nếu quả thật đề xuất này được thực thi, nguồn thu từ thuế của đất nước sẽ sụt giảm, nhưng dân chúng sẽ giàu có hơn. Một khi dân chúng giàu có hơn, quốc khố sẽ lại sung túc trở lại. Vấn đề nằm ở chỗ, đề xuất cải cách thuế này đòi hỏi hiệu suất thu thuế rất cao. Các tỉnh, phủ gần Thịnh Kinh hoàn toàn đáp ứng được, nhưng các địa phương xa kinh thành thì phải làm sao?

Lúc bấy giờ, Tả tướng Kỷ Ông Tập mới bước lên khỏi hàng ngũ: "Hai mươi ba đề xuất sửa đổi thuế ruộng có ưu có khuyết, có thể thực hiện được. Muôn tâu bệ hạ, xin bệ hạ thiết lập lại ty Độ Chi4 để chỉ đạo việc thực thi cải cách ạ!

[4] Ty Độ Chi dưới thời Tống là cơ quan phụ trách quản lí thuế ruộng đất.

Sau khi ông tâu trình, các quan trong điện Tử Thần ồ cả lên.

Mọi người đều ngước nhìn Kỷ Ông Tập đứng đầu bách quan.

Tả tướng Kỷ Ông Tập chính là một nhân vật truyền kỳ.

Kỷ Ông Tập, tự Trùng Minh, là tiến sĩ từ thời tiên đế. Tả tướng thời trẻ khá lận đận, bị tiên đế phái đến Hình châu làm huyện lệnh một huyện khỉ ho cò gáy nào đó suốt sáu năm. Về sau có một năm bộ Công lập công to trong việc sửa trị Hoàng Hà, huyện nơi Tả tướng quản lí thời ấy vừa hay nằm trên tuyến đường quy hoạch công trình của bộ Công. Tả tướng gặp may, nhờ thành tích xuất sắc của bộ Công mà thăng lên ba cấp, trở thành phủ doãn cả một phủ.

Từ khi lên làm phủ doãn, truyền kỳ về Kỷ Ông Tập mới chính thức bắt đầu.

Hình Châu nằm trên dòng chảy sông Hoàng Hà và con sông chảy xuyên qua cả phủ này. Kỷ Ông Tập rất có tài trong việc trị thủy, dưới thời ông, đoạn sông Hoàng Hà ở khu vực Hình Châu chưa bao giờ xảy ra ngập lụt. Dân chúng được yên ổn, cả vùng nghiễm nhiên trở thành một miền đào nguyên. Hình Châu ngày một phồn vinh, sau năm năm, tiên đế cũng phát hiện ra rằng Kỷ Ông Tập khá có tài, bèn điều ông về Thịnh Kinh.

Khi về tới Thịnh Kinh, Kỷ Ông Tập đã bốn mươi tuổi. Năm sau, quân Liêu tấn công, ông đi theo toàn quân lên Tây Bắc đánh giặc.

Cả tiên đế và thủ lĩnh ba quân khi ấy là Từ đại nguyên soái đều không ngờ rằng một thư sinh bốn mươi tuổi lại có tài đánh bại quân Liêu! Tả tướng không có thần binh diệu kế, cũng không làm nên chiến dịch lấy ít thắng nhiều đi vào lịch sử, nhưng ông áp dụng chiến lược đóng vững đánh chắc, dàn đều sức quân để nghênh địch, kiên trì bào mòn dần lực lượng của quân Liêu, lấy ba mươi vạn quân Tống đánh bại năm mươi vạn quân Liêu.

Kể từ ấy, Tả tướng xuất thân hàn môn trở thành tâm phúc của tiên đế.

Tới khi Triệu Phụ lên ngôi, Kỷ Ông Tập cũng nhiều lần lập công. Năm Khai Bình thứ hai mươi mốt, Triệu Phụ phong ông làm Tả tướng, thống lĩnh toàn thể quan lại.

Việc Kỷ Ông Tập đề xuất thiết lập lại ty Độ Chi khiến tất cả các quan đều khiếp sợ, thậm chí có người còn lén nhòm ngó Vương Thuyên và Thượng thư bộ Hộ Vương Trăn đứng sau ông không xa.

Ty Độ Chi là cơ quan tài chính bị chính vua Thái Tổ loại bỏ.

Triều đại trước đây cũng có Lục bộ, trong đó có bộ Hộ, nhưng quyền quản lí tài chính toàn quốc không tập trung riêng ở bộ Hộ mà nằm trong tay Tam ty gồm: ty bộ Hộ, ty Diêm thiết, và ty Độ Chi. Bộ Hộ thuộc sự quản lí của ty bộ Hộ, và Tam ty nằm hết dưới quyền Tể tướng. Như vậy, quá nửa quyền lực triều đình rơi vào tay Tể tướng!

Thái Tổ loại bỏ cơ chế Tam ty, nâng cao địa vị Lục bộ, cốt là để làm suy yếu quyền lực của Tể tướng.

Bây giờ Kỷ Ông Tập đột nhiên đề xuất lập lại ty Độ Chi, các quan làm sao mà không hoảng hốt cho được?

Trái lại, phản ứng của Triệu Phụ khá đặc biệt. Ông ta thong thả hỏi Kỷ Ông Tập: "Lí do nào khiến Kỷ tướng đề xuất vậy?"

Kỷ Ông Tập: "Nếu thực thi hai mươi ba cải cách thuế ruộng thì khó khăn lớn nhất nằm ở phương thức cải cách hết sức đặc biệt, đi theo hướng từ dưới lên trên. Từ cổ chí kim, tất cả mọi cải cách đều được thực hiện từ cao xuống thấp, từ số ít đến số nhiều, như thế mới tiện cho việc quản lí. Ngược lại, hai mươi ba cải cách thuế ruộng ưu tiên thay đổi từ cấp hộ dân cực kì đông đúc. Với tính chất ấy, làm thế nào để điều phối việc thu tiền thật chuẩn xác, làm thế nào để xác định được thành quả cải cách thuế, chính là vấn đề quan trọng nhất!

Một người bất ngờ lên tiếng: "Tả tướng muốn mở lại ty Độ Chi, hay mở lại cả Tam ty?"

Người ấy chẳng phải ai khác mà chính là Tả thừa Trần Lăng Hải – cùng phe hàn môn với Kỷ Ông Tập!

Kỷ Ông Tập nhìn ông ta, từ từ phân tích.

Trên triều đình, mọi người bắt đầu tranh luận xôn xao.

Đường Thận là quan tứ phẩm thấp bé nhẹ cân, cuộc tranh luận này không có cửa cho cậu chen vào. Cậu lặng lẽ đứng ở khu vực dưới cùng trong bách quan, chỉ có thể nhìn loáng thoáng lưng bốn vị tướng công và Vương Trăn từ đằng xa, đến cả mặt Triệu Phụ cậu còn không thấy rõ.

Kỷ Ông Tập muốn xây dựng lại ty Độ Chi, Trần Lăng Hải phản đối, Vương Thuyên cũng phản đối.

Hiện giờ Thượng thư bộ Hộ là Vương Trăn, cháu ruột Vương Thuyên. Thiết lập lại ty Độ Chi tức là Kỷ Ông Tập đang muốn tước bớt quyền lực của Vương Trăn, Vương Thuyên đồng ý mới là lạ.

Trên triều, các quan tranh cãi ầm ĩ.

Đường Thận nghe mãi mới phát hiện ra nãy giờ sư huynh mình không nói gì cả. Cậu vô thức rướn cổ lên nhìn Vương Trăn. Vương Trăn vẫn giơ cao hốt ngọc, đứng thẳng tắp giữa toàn thể các quan. Đến khi phe Tả tướng và các quan khác cãi nhau quá gay gắt, Triệu Phụ mới hừ một tiếng. Tức thì, các quan im bặt.

Ánh mắt Triệu Phụ lướt qua quần thần rồi dừng lại ở Vương Trăn. Ông ta cười: "Tử Phong có ý kiến gì không?"

Vương Trăn tiến lên một bước: "Thần cho rằng, ý của tả tướng có thể thực hiện được."

Chàng vừa dứt lời, Tả thị lang bộ Hộ là Từ Lệnh Hậu và Hữu thị lang Tần Tự đều không tin nổi vào tai mình.

Triệu Phụ bật cười: "Trẫm cũng thấy ý kiến đó khả thi. Trẫm tuyên bố, kể từ hôm nay, ty Độ Chi sẽ được thiết lập lại!"

Năm Khai Bình thứ hai mươi chín, ngày hai chín tháng sáu, Tả tướng Kỷ Ông Tập mở lại ty Độ Chi.

Mùng một tháng bảy, Hữu tướng Vương Thuyên thi thành hai mươi ba điều cải cách thuế ruộng. Các tỉnh, phủ trong khu vực Bắc Trực Lệ và Nam Trực Lệ là những nơi đầu tiên tiến hành cải cách.

Ty Độ Chi được mở lại, rất cần bổ sung nhân lực mới.

Nhiều người Đường Thận quen đã được triệu tập về ty Độ Chi, ví dụ như Trạng Nguyên Diêu Thiện – đỗ cùng khóa với Đường Thận, hay bạn thân ở Quốc Tử Giám của Đường Thận là Mai Thắng Trạch.

Chú thích

Món này là Lục đậu thang tức đậu xanh nguyên vỏ nấu với nước đến khi nhừ hạt đậu thì thêm chút đường. Còn chè đậu xanh là Lục đậu sa (lục tàu xá).

Đoạn này có thể hơi khó hiểu nhưng các chương sau tác giả sẽ giải thích cụ thể hơn. Giả sử dùng tiền đồng thu thuế mà có đến 5 loại thuế thì trước hết phải thu ở làng, làng tổng kết xong lại nộp lên huyện, rồi huyện lên tỉnh, v...v... vận chuyển tiền đồng rất tốn thời gian, công sức. Khan hiếm tiền kim loại càng khiến việc thu thuế diễn ra chậm hơn. Nếu chuyển giấy (kiểu ngân phiếu chẳng hạn) và giảm bớt loại thuế cho dân, thì nhanh và bảo đảm hơn nhiều (bọn cướp có cướp giấy ghi tổng thuế của một tỉnh thì cũng không tiêu được), nhưng cần phải giám sát chặt để chắc chắn là các địa phương không gian lận.

Đoạn này tác giả viết là Nguyên Tu nhưng về sau lại viết là Trùng Minh. Xét thấy số lần dùng Trùng Minh nhiều hơn nên mình sẽ để là Trùng Minh. Bao giờ nhờ check được bản xuất bản hoặc có raw xuất bản thì sửa lại sau. Mạc đến cuối còn não cá vàng đến mức viết Đường Thận thành Bảng Nhãn cơ.

Chương 78

Phú khế*

Phú là thuế ruộng đất

Diêu Thiện vốn là Khởi Cư lang ngũ phẩm, sau khi được điều sang ty Độ Chi thì trở thành Trung Tán đại phu ngũ phẩm. Ngoài mặt phẩm cấp không tăng, nhưng mọi người đều biết đây là thử thách của Triệu Phụ dành cho Diêu Thiện. Bao giờ Diêu Thiện lập công ở ty Độ Chi, anh ta sẽ lập tức thăng tiến, tiền đồ vô lượng.

Mai Thắng Trạch cũng chuyển từ U Châu về ty Độ Chi làm Trung Tán đại phu. Cả hai đều là Trung Tán đại phu, nhưng Mai Thắng Trạch là quan dưới quyền Diêu Thiện, Diêu Thiện là thượng cấp trực tiếp của Mai Thắng Trạch.

Mai Thắng Trạch vừa về kinh, Đường Thận liền rủ anh đến lầu Tế Hà gặp mặt ngay. Diêu Thiện cũng ghé thăm cùng.

Ba tiến sĩ cùng khóa hân hoan thưởng thức bát hà cung, uống rượu sake ở lầu Tế Hà.

Được ba tuần rượu, Đường Thận nói: "Ty Độ Chi là nha môn từ triều đại trước, chưa bao giờ hoạt động dưới triều đại chúng ta. Bây giờ lập lại, cũng chưa rõ chức năng thế nào. Diêu huynh, Thắng Trạch huynh, mấy hôm vừa rồi hai huynh đã báo danh ở nha môn ty Độ Chi, thế hiện giờ hai người lĩnh nhiệm vụ gì?

Chuyện này không phải thông tin cơ mật. Ty Độ Chi không thuộc hoàng thành và không phải tổ chức đặc nhiệm thân tín của hoàng đế. Các quan trong ty không cần phải e ngại khi chia sẻ với người khác về công việc của mình. Diêu Thiện và Mai Thắng Trạch không nói, Đường Thận cũng có cách tìm hiểu, chỉ phiền phức hơn thôi.

Diêu Thiện chẳng vòng vo, anh ta làm hớp rượu rồi nói: "Tạm thời chưa có việc gì hết. Cảnh Tắc này, anh là anh ngưỡng mộ cậu lắm đấy! Cậu mới thăng lên làm Khởi Cư lang một thời gian đã trở thành Trung Thư xá nhân rồi. Hôm nay xem ra, Trạng nguyên như anh còn không bằng cậu! Mặc dù vậy, trọng trách của ty Độ Chi rất vĩ đại, ích nước lợi dân." Nói đến đấy, hai mắt Diêu Thiện tỏa sáng, trông anh khí phách như thể đang nói về một nghĩa cử hết sức cao cả, "Ta chỉ có thể nói rằng, ấy là một việc vô cùng tốt đẹp, nhưng cũng đầy thách thức."

Mai Thắng Trạch nghe Diêu Thiện nói thế thì cười: "Xem ra Diêu huynh biết nhiều hơn ta rồi. Còn ta thì cứ như xẩm sờ gậy, cái gì cũng chẳng hay. Diêu huynh dù sao cũng là Khởi Cư lang, cận kề bên thánh thượng, biết thêm chút tin tức cũng dễ hiểu."

Đường Thận nói: "Uống rượu nào, chúc hai vị huynh trưởng bay xa vạn dặm!"

"Cạn chén!"

Ba người cùng đánh chén say sưa.

Đường Thận đặt chén rượu xuống, trong lòng đã có suy tính riêng.

Dựa trên những gì Diêu Thiện tiết lộ, cậu có thể phỏng đoán được phần nào nhiệm vụ của ty Độ Chi.

Công việc của ty Độ Chi nhất định có liên quan đến tiền giấy!

Diêu Thiện là Khởi Cư lang, tuy hôm Triệu Phụ truyền Kỷ Ông Tập và Vương Thuyên đến điện Thùy Củng không phải phiên trực của anh ta, nhưng vấn đề chuyển đổi sang tiền giấy không thể nào chỉ thương lượng một buổi là xong. Triệu Phụ nhất định sẽ bàn bạc chuyện này vài lần với các đại thân trong triều. Vì thế, việc Diêu Thiện nghe ngóng được cũng chẳng có gì vô lí.

Nói tóm lại, với tình hình Đại Tống hiện giờ, sự xuất hiện của tiền giấy có phải là một bước ngoặt lí tưởng không?

Chắc chắn đó là một bước phát triển trọng đại.

Đường Thận thở dài: Quả nhiên, rất có thể Vương Thuyên đã lên kế hoạch cải tổ chế độ thuế khóa của Đại Tống thông qua hai mươi ba điều sửa đổi thuế ruộng bấy lâu nay. Nhưng hiện tại, ông muốn mượn cải cách ấy để phổ biến tiền giấy hơn.

Chỉ tiếc cậu không biết họ sẽ làm gì thôi.

Mai Thắng Trạch: "Lại nói, dù Diêu huynh không tiết lộ, ta cũng biết, việc mà ty Độ Chi làm cực kì quan trọng. Cảnh Tắc có biết hôm qua ta thấy ai ở nha môn ty Độ Chi không?"

Đường Thận: "Ai thế?"

Mai Thắng Trạch: "Tham tri Chính sự Môn Hạ tỉnh, Triệu Tĩnh – Triệu đại nhân!"

Đường Thận và Diêu Thiện đều choáng váng.

Diêu Thiện lập tức đặt chén rượu xuống: "Triệu Tham tri đến ty Độ Chi ư? Thế chẳng phải, ty Độ Chi sẽ do ông ấy dẫn dắt à?"

"Nếu không thì làm sao ta gặp Triệu Tham tri ở ty Độ Chi được?"

Diêu Thiện cảm khái: "Quả nhiên là việc trọng đại!"

Triệu Tĩnh là Trạng Nguyên năm Khai Bình thứ ba. Năm nay ông đã bốn mươi bảy tuổi.

Xét về phẩm cấp thì Triệu Tĩnh giống Vương Trăn, đều là quan lớn, nhưng quyền lực của Môn Hạ tỉnh hơi lép vế so với Trung Thư tỉnh. Vương Trăn là Thượng thư bộ Hộ, kiêm nhiệm chức vụ ở cả Thượng Thư tỉnh và Trung Thư tỉnh, về mặt thực quyền thì vị thế của chàng nhỉnh hơn Triệu Tĩnh. Nhưng nếu Triệu Tĩnh trở thành Ty Không của ty Độ Chi thì cũng tương đương với việc san sẻ một phần quyền lực của Vương Trăn. Bước tiến này sẽ đưa Triệu Tham tri lên nắm quyền lớn trong triều.

Bên cạnh đó, Triệu Tĩnh còn một thân phận nữa. Ông ta là môn sinh tâm đắc của Tả tướng Kỷ Ông Tập và cũng là một phần tử trung kiên của phe Tả Tướng.

Tả tướng dốc lòng đề xướng tái thiết ty Độ Chi, việc ông cất nhắc Triệu Tĩnh làm Ty Không là quá hợp tình hợp lý.

Trong lúc Diêu Thiện và Mai Thắng Trạch bận thảo luận tình hình ty Độ Chi, Đường Thận nhíu mày, lòng đầy suy tư.

Những chuyện lớn trên triều đình, đâu có phần của hàng tứ phẩm, ngũ phẩm ruồi muỗi bọn họ.

Vài ngày sau, Triệu Phụ bổ nhiệm Tham tri Chính sự Môn Hạ tỉnh Triệu Tĩnh làm Ty Không ty Độ Chi. Cùng lúc đó, chính thức tiến hành áp dụng chế độ thuế ruộng mới ở Bắc Trực Lệ và Nam Trực Lệ. Phía bộ Hộ, Hữu thị lang Tần Tự được điều sang ty Độ Chi, kiêm nhiệm chức Chính phụng Đại phu, giúp bộ Hộ và ty Độ Chi phối hợp với nhau.

Tháng tám, Diêu Thiện và Mai Thắng Trạch bị phái đến Nam Trực Lệ để giám sát quan phủ thực thi hai mươi ba điều cải tổ.

Rằm tháng tám, Triệu Phụ tu tiên trong đài Đăng Tiên xong thì ra ngoài cửa cung. Ông ta ngẩng đầu nhìn vầng trăng tròn vành vạnh trên trời, đột nhiên cảm thấy cơ thể già yếu bấy nay của mình như được thổi một luồng sinh khí mạnh mẽ. Ông ta dừng bước, nói với Quý Phúc ở bên: "Đã bao lâu rồi trẫm chưa làm nên đại sự thế này nhỉ?"

Đại sự?

Đại sự gì cơ?

Quý Phúc đần mặt, lão chẳng tài nào hiểu nổi hoàng đế đang nói gì!

Nhưng dù gì lão cùng là thân tín của Triệu Phụ suốt bao năm nay, Quý Phúc lựa lời mà nói: "Quan gia ngày ngày vất vả lo việc nước, thức khuya dậy sớm, mới có Đại Tống hùng mạnh như ngày hôm nay ạ!"

Triệu Phụ lặng thinh, lắc đầu.

Quý Phúc biết mình bắt trượt ý đồ của Triệu Phụ rồi, nhưng lão còn cách nào khác đây, không nói sai đã là tốt lắm rồi.

Triệu Phụ thở dài: "Nếu có Tử Phong ở đây thì hắn đã hiểu trẫm đang nói gì rồi. Hoặc Phỉ Nhiên, hắn cũng sẽ hiểu!" Không nhắc đến mấy tướng công trong triều là vì Triệu Phụ lười nhắc tên bọn họ. Mấy con cáo già ấy, ai chẳng có chủ kiến riêng, Triệu Phụ không ưa cho lắm, nhưng rất nể trọng họ.

Khi ra khỏi đài Đăng Tiên, Triệu Phụ bỗng nghĩ: "Nếu Cảnh Tắc ở đây, có khi nào cậu ta cũng hiểu ý trẫm?"

Suy nghĩ một lát, Triệu Phụ cười: "Chí ít cậu ta biết dỗ thế nào cho trẫm vui lòng!"

Trong giây lát ấy, bỗng dưng Triệu Phụ nảy sinh ước muốn triệu Đường Thận về. Đường Thận bây giờ là Trung Thư xá nhân tứ phẩm, cậu không phạm tội gì, Triệu Phụ chẳng có lí do gì giáng cậu xuống thành Khởi Cư lang ngũ phẩm để đưa cậu về bên mình cả. Nhưng trên đời chỉ có chuyện hoàng đế muốn làm chứ chẳng có chuyện hoàng đế không làm được. Huống hồ, Triệu Phụ không phải ông vua bù nhìn mặc người ta xoay ngang xoay dọc. Ông ta mà đã muốn lôi Đường Thận về thật, thì chẳng cần Đường Thận mắc lỗi, dù cậu lập công to, Triệu Phụ cũng có cách thuyên chuyển cậu về chỗ mình.

Nhưng ý định ấy chỉ thoáng qua trong đầu Triệu Phụ như một cái chớp mắt rồi bị gạt đi ngay.

Không cần thiết. Ở vị trí hiện giờ, Đường Cảnh Tắc mới càng phát huy tác dụng của cậu ta.

Mà lúc này, vị đại nhân họ Đường giỏi dỗ dành và phỉnh nịnh hoàng đế hiện đang ngồi nhà xơi bánh trung thu thời cổ đại, vừa ngắm trăng vừa suy tư về hướng đi gần đây trên triều đình. Cậu nào có biết, suýt chút nữa mình đã bị Triệu Phụ giáng một cấp, bắt về cung làm Khởi Cư lang!

Nhưng Đường đại nhân càng nghĩ càng bí. Cậu có còn là Khởi Cư lang được cận kề hoàng đế nữa đâu, giờ cậu chỉ là Trung Thư xá nhân dưới quyền Từ Bí thôi!

Từ Bí chỉ cho cậu xử lí tấu chương gửi đến từ Tây Bắc, còn tấu chương từ Bắc Trực Lệ và Nam Trực Lệ không hề đến tay cậu. Cậu có muốn biết chuyện gì đang xảy ra trên triều đình cũng không có cách.

Cậu còn một cách là đi hỏi Vương Trăn, nhưng dạo này Vương Tử Phong bận không thấy mặt mũi tăm hơi đâu. Buổi tối hai hôm trước, Đường Thận có đến phủ Thượng thư tặng bánh trung thu. Cậu đợi mãi đến khuya vẫn không thấy Vương Trăn về nhà, đành gửi lại bánh rồi cáo từ.

Nếu không biết Đại Tống có lệnh giới nghiêm và cấm các quan qua đêm với kĩ nữ, khéo Đường Thận đã ngờ rằng sư huynh mình đang thậm thụt chuyện gì!

Đường Thận đắm mình trong ánh trăng, thầm nghĩ: "Hai tháng trước, hoàng đế triệu kiến Kỷ Ông Tập và Vương Thuyên cùng lúc, chắc hẳn đã quyết tâm giao phó cho họ việc sử dụng giấy làm tiền tệ. Kỷ Ông Tập lập lại ty Độ Chi, mượn cớ thúc đẩy tiền giấy, nhưng thực chất là muốn phân quyền, nhân việc này làm suy yếu bộ Hộ."

Nghĩ đến đây, Đường Thận lại càng tư lự.

... Mọi chuyện có thật thế không?

Việc đưa ty Độ Chi trở lại liệu có phải mưu kế Triệu Phụ đã sắp sẵn?

Quan điểm của Triệu Phụ với việc chuyển đổi sang tiền giấy là như thế nào?

Hồi lâu sau, Đường Thận ngửa mặt lên trời thở dài.

Cậu chỉ là một sinh viên bách khoa thôi, tại sao bắt cậu suy nghĩ những chuyện này chứ!

Không nghĩ ra, Đường Thận liền vứt đấy.

Hết tháng tám, sang tháng chín, cải cách thuế ruộng ở Bắc Trực Lệ và Nam Trực Lệ bắt đầu thu về hiệu quả đáng kể.

Việc giảm bớt những loại thuế chồng chéo, ngặt nghèo khiến dân chúng có khoảng trống để thở, cũng khiến tổng thu ngân sách của hai địa phương giảm thiểu đôi chút. Nhưng dựa theo hai mươi ba điều sửa đổi về thuế ruộng, ty Độ Chi phối hợp chặt chẽ với bộ Hộ, giám sát nghiêm ngặt nha môn phủ doãn hai khu vực Bắc Trực Lệ và Nam Trực Lệ, cắt giảm các khâu trung gian trong quá trình thu thuế. Cuối cùng, tiền thuế thu về Thịnh Kinh không hề giảm mà còn dôi ra so với năm ngoái.

Tuy con số ấy là rất nhỏ, không đáng kể, nhưng lên triều, Hữu tướng Vương Thuyên đã nói luôn: "Bắc Trực Lệ và Nam Trực Lệ giáp với Thịnh Kinh, cải cách thuế ruộng ở hai khu vực này mới chỉ cho thấy thành quả ban đầu. Nếu muốn thấy hiệu quả rõ rệt, cần phải mở rộng cải cách này ra những địa phương xa hơn, đến Ninh Châu ở phía Đông Bắc và Kim Lăng, Cô Tô ở vùng Giang Nam."

Vương Thuyên nói xong, Triệu Phụ bảo ngay: "Sang năm, hãy thi hành cải cách thuế ruộng ở Giang Nam. Vương tướng, ông có làm hộ trẫm được không?"

Vương Thuyên vái dài: "Thần quyết không nhục mệnh."

Giữa hàng ngũ quan văn, chợt có một vị quan trung niên với chòm râu rất đẹp tiến lên thưa: "Thần – Tham tri chính sự Triệu Tĩnh, có việc khởi tấu ạ."

Triệu Phụ: "Nói đi."

"Trong quá trình làm việc trực tiếp với cải cách lần này, thần vui mừng khôn xiết khi thấy cải cách thuế được thực thi vô cùng thuận lợi ở hai vùng Bắc Trực Lệ và Nam Trực Lệ. Nhưng cũng theo quan sát thực tế của mình, thần phát hiện, để tăng tốc độ và hiệu quả cải cách thuế ở những khu vực gần Thịnh Kinh thì không khó, nhưng nếu mở rộng ra toàn quốc, đưa cải cách đến miền Giang Nam thì nan giải hơn nhiều. Thần đã soạn một bản tấu ở đây, xin được trình lên để bệ hạ duyệt."

Đại thái giám Quý Phúc bước xuống thềm điện, lấy cuốn sổ nhỏ trong tay Triệu Tĩnh.

Triệu Phụ mở sổ tấu ra đọc. Ánh mắt ông ta dao động đôi chút, được một lúc lâu, ông tỏ ra hết sức ngạc nhiên và hiếu kì. Ông ta hỏi Triệu Tĩnh: "Triệu khanh hãy nói cho trẫm biết, 'phú khế' là như thế nào?"

Năm Khai Bình thứ hai mươi chín, mùng bốn tháng chín, Triệu Phụ cho phép Tham Tri chính sự Triệu Tĩnh tiến hành cải cách phú khế ở khu vực Bắc Trực Lệ và Nam Trực Lệ.

"Phú khế", tức là khế ước thuế ruộng.

Hai mươi ba cải cách thuế ruộng của Vương Thuyên tập trung cắt giảm lãng phí trong khâu quản lí ở các mắt xích trung gian của quá trình thu thuế. Dựa vào đó, Triệu Tĩnh đề xuất "phú khế." "Phú khế" chỉ đơn giản là những tờ giấy mỏng có dấu và chữ kí của các quan ở cấp thấp nhất. Những tờ giấy này sẽ được dùng để trình báo thuế lên các cấp cao hơn. Quan lại ở từng cấp đều kí tên, đóng dấu, đến khi thu về Thịnh Kinh, Trung Thư tỉnh sẽ biết thuế ruộng ở các địa phương trong quý này là bao nhiêu.

Dựa trên con số đó, bộ phận Trung Thư tỉnh tại điện Cần Chính sẽ họp và quyết định cách phân phối lượng thuế này. Sau khi có quyết sách, địa phương sẽ giữ lại một phần thuế được phân cho và nộp phần còn lại lên các cấp trên để chuyển về Thịnh Kinh.

Làm như thế sẽ giảm bớt được rất nhiều sức người và tiền của trong quá trình vận chuyển thuế.

Lúc này, một số vị quan nhạy bén đã đánh hơi được sự bất thường ở cái tờ "phú khế" nho nhỏ này.

"Phú khế chẳng phải là lấy giấy thay tiền đó sao?"

Chương sau: Anh em chúng nó bênh nhau, thầy dỗi!

Lời tác giả:

Có người bảo anh Vương bị xén bớt quyền lực, khổ thân quá ~

Tui chỉ biết nói rằng, dù thế nào đi chăng nữa, mọi người đều phải tin vào anh Vương ~ anh Vương của chúng ta tuy còn trẻ nhưng tác giả mẹ ruột ban cho ảnh bàn tay vàng, ảnh không đời nào bị các cụ quẩy lão thành cho vào tròng đâu!

Anh Vương hàng xóm: Ồ? Không bị quẩy già cho vào tròng, thế có bị quẩy bé bỏng cho vào tròng không?

Quẩy bé bỏng Cảnh Tắc: Hứ? Bị ta cho vào tròng, huynh không hài lòng ư?

Anh Vương hàng xóm: Còn tùy "cho vào tròng" kiểu gì đã. (cười)

*quẩy là từ lóng chỉ người khôn khéo, vì quẩy thì mỡ, trơn.

Chương 79

Phó khảo thi Hội

Tháng Giêng năm Khai Bình thứ ba mươi.

Vừa sang năm mới nhưng các quan Thịnh Kinh không có lấy một ngày nghỉ hẳn hoi. Năm nay khác năm ngoái, ty Độ Chi vừa mở lại, thuế ruộng đất đang được cải cách, thành ra các quan kinh thành bận rối rít tít mù. Tết năm ngoái bộ Lại cho nghỉ đến hơn hai mươi ngày, năm nay rút ngắn lại chỉ còn chưa đến mười ngày thôi.

Đường Thận cũng không về được Cô Tô.

Mùng hai tháng Giêng, Đường Thận mang mấy hòm quà Tết đến Phó phủ. Phó Vị đang dở tay tưới hoa.

Cả thành Thịnh Kinh, quan lại từ ngũ phẩm trở lên đều đang bận đến ốm cả xác, làm thâu đêm suốt sáng không xong việc. Chỉ mình Phó Hi Như mới đủ rảnh rỗi để mà tưới hoa giờ này!

Đường Thận bước đến chỗ Phó Vị: "Con chào tiên sinh."

Phó Vị chẳng buồn quay đầu lại, vừa rẩy nước lên hoa vừa bảo cậu: "Năm nay đến sớm ghê ha! Cảnh Tắc à, buổi trưa đừng về, ở lại mà ăn cơm. Sư huynh con cũng đến đấy."

Đường Thận gật đầu.

Vương Trăn còn bận hơn cả Đường Thận.

Tết này Đường Thận chí ít còn được nghỉ mười ngày. Vương Trăn quyền cao chức trọng, là Thượng thư bộ Hộ; cả ty Độ Chi lẫn việc cải cách thuế ruộng đều có quan hệ mật thiết với chàng. Chính vì vậy, chàng chẳng ngơi ra được phút nào. Đến trưa, Vương Trăn mới đến, tuy muộn nhưng rất ung dung. Chàng chúc Phó Vị năm mới an khang.

Ba thầy trò ăn cơm trong phòng. Phó Vị chỉ Vương Trăn, bảo Đường Thận: "Con trông sư huynh con này, mới có hai mươi tám cái xuân xanh thôi mà cư xử như một lão già. Nó vẫn ôm mộng phấn đấu lên làm Thừa tướng trước tuổi ba mươi đấy, nghĩ mình sống thọ lắm đây mà, xài hao bớt vài năm cũng không đáng kể."

Vương Trăn thong thả gắp một con tôm, làm như chẳng nghe thấy Phó Vị nói gì cả.

Đường Thận nhẹ nhàng liếc chàng, bảo: "Sư huynh bận việc triều đình, sao tiên sinh lại nói huynh ấy thế."

Phó Vị mắt tròn mắt dẹt, hết nhìn Đường Thận rồi lại nhìn Vương Trăn: "Ô hay, sao giờ ta mới phát hiện, hôm nay sư huynh đệ hai đứa bây hùa nhau bắt nạt thầy luôn? Này Vương Tử Phong, con dụ dỗ tiểu sư đệ con từ hồi nào, để bây giờ nó bênh con chằm chặp thế hả?!"

Đường Thận nghĩ thầm: Từ hồi con đến Thịnh Kinh, bài vở toàn Vương Tử Phong dạy, làm quan thì Vương Tử Phong dìu dắt. Thậm chí đi thi, Vương Tử Phong còn đến tận cổng trường thi đón con về. Con đứng về phe sư huynh thì đã làm sao?

Vương Trăn để đũa xuống, thản nhiên nói: "Trong lòng tiểu sư đệ có con, tiên sinh ghen tị làm cái gì."

Đường Thận: "...?" Câu này cứ là lạ thế nào ý nhỉ.

Phó Vị sửng sốt, ông ngó Vương Trăn lom lom, hừ một tiếng: "Học trò đủ lông đủ cánh, chẳng thiết chi đến thầy."

Đường Thận phải dỗ mãi Phó Vị mới xuôi.

Cơm nước xong, Vương Trăn về nha môn bộ Hộ làm việc tiếp. Đường Thận ở lại chơi, ăn bữa chiều nữa rồi mới về nhà.

Trước khi đi, Phó Vị do dự chốc lát rồi mới dặn dò cậu trò nhỏ: "Cảnh Tắc này, đừng có cái gì cũng tin sư huynh con đấy nhé."

Đây không phải lần đầu tiên Đường Thận nghe câu này. Bốn năm trước, Lương Tụng đã dặn y như thế trong thư. Hôm nay Phó Vị nhắc lại, Đường Thận thầm cảnh giác, vâng dạ ngay: "Học trò nhớ rồi ạ." Đến khi ra khỏi Phó phủ, Đường Thận mới thở dài: "Các thầy đều dặn mình không được tin tưởng tuyệt đối vào Vương Tử Phong, nhưng lúc nào nên tin huynh ấy, lúc nào không nên tin huynh ấy, sao các thầy không nói cho con biết chứ!"

Mùng bảy tháng Giêng, chưa đến tết Nguyên Tiêu, Đường Thận đã trở lại điện Cần Chính làm việc.

Hôm sau, Từ Bí gọi cậu sang phòng. Từ Bí ngồi trên ghế Thái sư, nhàn nhã uống trà. Thấy Đường Thận đến, ông cười hiền từ: "Ta nhớ, Đường đại nhân là Thám hoa năm Khai Bình thứ hai mươi bảy nhỉ."

Đường Thận đáp: "Bẩm đại nhân, đúng là hạ quan đỗ Thám hoa cách đây ba năm ạ."

"Chớp mắt đã ba năm rồi, lại đến kỳ thi mùa xuân." Từ Bí cảm khái, "Hôm nay gọi ngươi đến là để giao việc đây. Tháng sau thi Hội, Chu Đại học sĩ của viện Hàn Lâm đã chọn ngươi làm Phó khảo."

Đường Thận hốt hoảng: "Đại nhân?"

Từ Bí cười: "Ngươi đừng ngạc nhiên quá. Thi Hội khác với thi Hương. Cứ ba năm một lần đến kì thi Hội, cử nhân toàn cõi Thần châu Cửu địa đều đổ về Thịnh Kinh thi, có đến hơn vạn người. Chủ khảo thi Hội chỉ có một – là đương kim thiên tử. Các ngươi đều là Phó khảo thôi, tính ra phải đến hơn mười người. Viện Hàn Lâm không sức đâu mà gồng gánh hết, khoa thi trước cũng phải điều thêm quan viên từ các nha môn khác sang."

Đường Thận sinh lòng hoài nghi, nhưng cậu không biểu hiện ra ngoài, chỉ tỏ ra xúc động rưng rưng: "Hạ quan nhất định sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ!"

Từ Bí cười: "Vậy cứ thế nhé."

Không lâu sau khi Đường Thận ra về, một người đàn ông trung niên tầm ba mươi tuổi, để râu, bước vào gian nhà. Người ấy tướng mạo sáng sủa, rắn rỏi, kiên nghị. Đến trước mặt Từ Bí, anh ta cung kính vái chào: "Bái kiến tiên sinh."

Từ Bí ra hiệu cho anh ta: "Ngồi đi."

Dư Triều Sinh khom người kính cẩn, lùi về ngồi ở chiếc ghế bên cạnh. Xong xuôi, anh ta mới ngẩng lên nhìn thầy mình.

Từ Bí nói: "Hiến Chi, năm nay con vừa hồi kinh. Theo cảm nhận của con, tình hình ở kinh hiện tại thế nào?"

Dư Triều Sinh trình bày rất tỉ mỉ: "Học trò về kinh đã hơn một tháng, hôm nay mới làm việc ở bộ Lại xong, quả thực con thấy rất khác so với hồi sáu năm trước. Xa xôi chưa bàn đến, ngay gần đây có chuyện ty Độ Chi thực hiện cải cách thuế ruộng, các quan trong triều cộng tác, phối hợp với nhau rất sôi nổi, khiến học trò kính phục xiết bao." Đoạn anh ta chuyển chủ đề, "Kỷ đảng tuy mỏng nhân lực, nhưng mạnh vì có Kỷ tướng ra sức chèo chống, một mình ngài ấy đã nắm bao nhiêu quyền bính rồi. Vương đảng nhân tài nhiều như măng mọc, hệt như Vương Tử Phong, không thể khinh thường. Mỗi tội, học trò trộm nghĩ, trong việc ty Độ Chi, Kỷ tướng đã hơi nóng vội. Có Vương Tử Phong, Đường Cảnh Tắc, hai năm gần đây Vương đảng lên như diều gặp gió, Kỷ tướng chưa suy nghĩ kỹ càng đã mở lại ty Độ Chi, nếu có tai họa ập đến, e là không xong ạ."

Từ Bí nhấp một ngụm trà: "Lúc con mới vào có thấy Đường Cảnh Tắc không?"

"Con có thấy Đường đại nhân từ xa, nhưng cậu ta không thấy con."

"Chu Cẩn đã điều cậu ta đi làm Phó khảo kì thi Hội tháng hai năm nay đấy."

Dư Triều Sinh giật mình: "Tiên sinh?!"

"Hiển nhiên ấy chẳng phải chủ định của Chu Cẩn, mà do Phó Vị giật dây sau lưng. Phó Vị để học trò mình có mặt ở kì thi Hội, tức là ông ta đang âm mưu thực hiện điều gì đó, hay nói đúng hơn là, sẽ có vấn đề phát sinh trong thời điểm thi Hội diễn ra." Từ Bí thở dài: "Con cũng tham gia làm Phó khảo thi Hội lần này đi. Nếu Chu Cẩn đã mượn danh nghĩa của ta để điều nhiệm Đường Cảnh Tắc, thì điều một người hay hai người cũng thế. Con hãy đi cùng cậu ta đến trường thi Hội."

"Vâng."

Kì thi Hội năm Khai Bình thứ ba mươi lấy Thượng thư bộ Lại Thẩm Vận làm chủ khảo, Chu Đại học sĩ viện Hàn Lâm phụ trợ. Đêm trước kì thi Hội, hơn mười viên quan tiến vào trường thi Thịnh Kinh, trèo lên lầu Minh Viễn. Đứng trên lầu Minh Viễn cao chót vót, tầm nhìn bao quát hết xung quanh, Đường Thận thấy hơn một vạn cử nhân chen chúc ngoài trường thi Thịnh Kinh chờ đến giờ nhập trường.

Canh giờ đã điểm, sai nha mở rộng cửa cho thí sinh vào trường. Lớp lớp thí sinh tràn vào qua cửa, chính thức bước vào trường thi.

Trong các giám khảo thi Hội năm nay, Đường Thận là người trẻ tuổi nhất. Nhìn các học trò bên dưới khiến cảm xúc trào dâng trong lòng cậu. Nhưng cậu chưa bồi hồi được bao lâu đã thấy một bóng người lướt qua khóe mắt. Đường Thận bước tới chào hỏi: "Hóa ra là Dư đại nhân."

Dư Triều Sinh trong bộ quan phục quay lại, chắp tay thi lễ với Đường Thận trước mặt mình: "Đường đại nhân."

Đường Thận cười: "Nghe nói Dư đại nhân vừa được thuyên chuyển từ Qua Châu1 về Thịnh Kinh tháng trước, không biết đại nhân thích nghi với thời tiết khô hanh, rét mướt ở miền Bắc thế nào? Hạ quan là Trung Thư xá nhân dưới quyền Từ tướng công, đã từng nghe Từ tướng công nhắc đến Dư đại nhân. Trăm nghe không bằng một thấy. Vừa gặp gỡ, hạ quan đã biết Dư đại nhân là người phi phàm."

[1] Thuộc vùng Cam Túc, thời tiết khắc nghiệt

Đường Thận tán tụng lên tận mây xanh, Dư Triều Sinh đương nhiên cũng có qua có lại: "Ta cũng từng nghe tiên sinh kể về Đường đại nhân..."

Hai người tâng bốc nhau xong rồi lại tách ra.

Đường Thận thu nét cười, nhíu mày.

Dư Triều Sinh là học trò cưng của Từ Bí, cũng là Bảng Nhãn năm Khai Bình thứ mười tám. Nếu chỉ giới thiệu như vậy e là chưa đủ để làm nổi bật thân phận của người này. Phải bổ sung rằng, Trạng nguyên năm Khai Bình thứ mười tám họ Vương, tên Trăn, tự Tử Phong. Chỉ cần nói thế, các quan Thịnh Kinh sẽ nhớ ngay anh ta là ai.

Năm Khai Bình thứ mười tám, Vương Trăn kiệt xuất hơn người, được Triệu Phụ đích thân ban tặng bốn chữ "Trạng Nguyên vô song." Một mình chàng dư sức đè bẹp ba trăm tiến sĩ vinh hiển của khoa thi năm ấy. Tài năng của Dư Triều Sinh hoàn toàn có thể giúp anh ta đoạt ngôi Trạng Nguyên ở một kì thi khác, nhưng éo le thay, anh ta lại thi cùng khoa với Vương Tử Phong, nên đành phải chịu kiếp hẩm hiu kém nổi bật.

Sau khi đỗ Bảng Nhãn được vài năm, Dư Triều Sinh được điều đi nơi khác nhậm chức, đến cuối năm ngoái Triệu Phụ mới gọi anh ta về kinh.

Hiện giờ Dư Triều Sinh làm quan ở bộ Lại, giữ chức Hữu thị lang, bậc tam phẩm.

Chủ khảo năm nay là Thượng thư bộ Lại Thẩm Vận, nên việc Dư Triều Sinh được phân làm Phó khảo nhiều khả năng do Thẩm Vận chỉ định. Song Đường Thận nghĩ: Có khi nào đây là ý đồ của Từ Bí không?

Dư Triều Sinh vừa mới đến bộ Lại, rõ mười mươi là người phe Từ Bí. Trong khi đó, Thẩm Vận thiên về Trần đảng hơn vì ông ta là đồng môn thân thiết của Tả thừa Trần Lăng Hải. Việc ông ta đề bạt một người thuộc phe Từ Bí, trao cơ hội cho Dư Triều Sinh là hoàn toàn không cần thiết.

Như vậy, tại sao Từ Bí lại đưa học trò của mình đến kì thi Hội?

Đường Thận nắm chặt tay, ra sức động não.

Cậu vốn không quen biết gì với Chu Đại học sĩ – Chu Cẩn. Chu Đại học sĩ không tự dưng chỉ định cậu làm Phó khảo, chuyện này ắt có bàn tay của Thừa chỉ viện Hàn Lâm Phó Vị, tức thầy mình. Nhưng Phó Vị lâu nay tránh xa triều chính, an phận với vai trò cán bộ lão thành về hưu. Mặc dù ông hoàn toàn có thể đề bạt học trò của mình làm Phó khảo thi Hội bất chấp Đường Thận mới làm quan được ba năm, nhưng Đường Thận biết, Phó Vị không phải người như thế.

Thế nên...

Chỉ có thể là ý đồ của Vương Tử Phong!

Chính Vương Tử Phong mới là người cố tình sắp xếp cho cậu tham gia vào kì thi Hội, để cậu không thể nhận bất cứ nhiệm vụ nào trên triều đình trong tháng hai năm Khai Bình thứ ba mươi!

Sư huynh ơi sư huynh, rốt cuộc Vương đảng đang âm mưu gì đây?

Đường Thận ngước mắt nhìn vòm trời đen óng, chợt nghĩ, e rằng trận mưa rào mà Tô Ôn Duẫn từng nhắc đến sắp ập tới rồi.

Nhưng bây giờ cậu đã vào trường thi, dù trận mưa này có to đến mấy thì tán ô "Thi Hội" che trên đầu sẽ giữ cho cậu an toàn khỏi gió táp mưa sa.

Đang suy nghĩ mông lung, đột nhiên, Đường Thận để ý có mấy cử nhân buộc khăn vải đen trên đầu bước vào trường thi, đi loanh quanh tìm phòng thi của mình rồi chui vào. Đường Thận lấy làm lạ, chăm chú quan sát những người ấy. Sai nha theo hầu cậu rất nhạy bén, thấy vậy thì giải thích ngay: "Đại nhân, những người đó là quy chính nhân đấy ạ."

Đường Thận: "Quy chính nhân ư?"

"Chính thế ạ. Năm Khai Bình thứ mười, Đại Tống thu hồi được đất đai U Châu bao gồm mười mấy quận huyện từng bị người Liêu chiếm đóng ròng rã bốn mươi năm. Người Tống sống ở những châu phủ đấy đã có mấy chục năm làm người Liêu, nên bị gọi là 'quy chính nhân'. Thánh thượng có lệnh, quy chính nhân lên kinh thành ứng thi, phải buộc khăn đen trên đầu để phân biệt."

Sai nha chỉ giải thích đến đó, Đường Thận cũng lần ra được ba chữ "quy chính nhân" trong trí nhớ của mình.

Hồi làm việc ở viện Hàn Lâm, Đường Thận đã đọc rất nhiều sách vở, cũng biết về những người gọi là "quy chính nhân" này. Sai nha chỉ nhắc tới việc hoàng đế ra lệnh cho họ buộc khăn đen để phân biệt thân phận, nhưng không nhắc đến việc quy chính nhân vĩnh viễn không được đỗ tiến sĩ trong hai giáp đầu, tức Đồng tiến sĩ xuất thân là thứ hạng cao nhất mà họ có thể đạt được. Điều này đồng nghĩa với việc quy chính nhân vĩnh viễn không có cơ hội trở thành đại quan tam phẩm trở lên trong triều đình!

Tuy thế, không có gì là tuyệt đối cả. Đường Thận biết một đại quan nhị phẩm trong triều là quy chính nhân. Chỉ có điều, người ấy giành được chức quan nhị phẩm nhờ nếm mật nằm gai trên sa trường, vào sinh ra tử giữa núi thây biển máu, chứ không thăng tiến thông qua con đường khoa cử.

Quy chính nhân...

Chưa đến tảng sáng, các cử nhân đã vào hết phòng thi trong trường thi Thịnh Kinh, bắt đầu nghỉ ngơi, chuẩn bị cho cuộc thi.

Cùng lúc đó, con đường quan đạo lầy lội từ Giang Nam đến phủ Quảng Lăng in hằn dấu móng ngựa. Chú ngựa khỏe mải miết vượt núi băng rừng, phi như bay về Thịnh Kinh.

Hôm sau, khi buổi triều còn chưa bắt đầu, Triệu Phụ hẵng còn hơi lim dim trong lúc cung nữ, thái giám hầu hạ ông ta mặc triều phục.

Quý Phúc hớt hải vào cung Phúc Ninh, tâu: "Bẩm quan gia, Giang Nam gửi tấu khẩn."

Triệu Phụ mở mắt: "Đưa đây trẫm xem."

Quý Phúc dâng sổ lên bằng hai tay.

Hồi lâu sau, Triệu Phụ tức tối hừ một tiếng, quăng phắt quyển tấu đi. Không may, quyển sổ cứng nện thẳng vào một thái giám trẻ làm trán anh ta túa máu. Người thái giám đau quá, chỉ kịp kêu "ối" rồi gục xuống ngay, không gượng dậy nổi. Quý Phúc vội vàng nháy mắt, ra lệnh cho lũ còn lại lôi ngay cái kẻ vô tích sự ấy đi cho khuất mắt.

Đầu tiên Triệu Phụ giận điên người, rồi ông ta dần dần tỉnh táo lại.

Gương mặt già nua của đấng thiên tử trở nên bình thản đến khó hiểu, không thể đoán được tâm trạng ông ta.

Mãi sau, ông ta mới chìa tay, Quý Phúc nhanh nhẹn chạy đến đỡ.

Triệu Phụ: "Lên triều."

Quý Phúc: "Vâng."

Bên trường thi Hội, đã sang ngày thi thứ hai. Các khảo quan trên lầu Minh Viễn chia thành nhóm, lần lượt xuống khỏi lầu đi nghỉ ngơi. Trong hoàng thành, trên điện Tử Thần, hoàng cung Đại Tống, Triệu Phụ cười lạnh buốt: "Cuối năm ngoái, phú khế và tổng số thuế phủ Quảng Lăng nộp lên không khớp với nhau, thế mà các bề tôi giỏi giang của trẫm tuyệt nhiên không hé một lời cho trẫm biết. Quần thần của trẫm mẫn cán thật! Các quan Đại Tống thanh liêm quá! Kỷ Ông Tập, Vương Thuyên, các ngươi giải thích thế nào đây?"

"Bốp!"

Một quyển tấu chương bị ném thẳng xuống đất, lăn xuống thềm. Khéo thay, nó dừng ngay bên chân Thượng thư bộ Hộ Vương Trăn, y hệt tình huống cách đây hai năm.

Nhưng hôm nay, hoàng đế không khiển trách chàng mà mắng thẳng mặt hai vị Thừa tướng đứng đầu triều đình.

Kỷ Ông Tập và Vương Thuyên cùng nhau bước lên khỏi hàng, chắp tay cúi mình.

Triệu Phụ quát ầm lên: "Nhìn đi! Nhìn cho trẫm xem quyển tấu ấy viết gì!"

Vương Trăn cúi xuống nhặt quyển tấu lên, đưa cho Tả tướng Kỷ Ông Tập. Kỷ Ông Tập xem bản tấu, biến sắc, lại chuyển sang cho Hữu tướng Vương Thuyên.

Triệu Phụ: "Vương Tử Phong, đọc to lên cho trẫm!"

Trong điện Tử Thần, một số quan viên trộm ngó bóng lưng thẳng tắp đẹp ngời ngời của chàng, rỏ một giọt nước mắt đồng cảm với số phận không dưng phải vạ của Vương đại nhân. Vương đại nhân điềm nhiên nhận quyển tấu được chuyển lại cho mình, thong thả đọc nội dung bản tấu lên: "Năm Khai Bình thứ ba mươi, huyện thừa Tần Hào của huyện Giang Đô, phủ Quảng Lăng, chịu trách nhiệm giám sát việc thu thuế ruộng sửa đổi ở huyện nhà. Mùng bốn tháng Giêng, phát hiện thi thể của Tần Hào ở khu vực ngoại ô, dư cốt bị sài lang gặm rỉa, chết không toàn thây..."

Các quan trong triều ồ lên khiếp vía.

Kỷ tướng và Vương tướng đều hiểu ý đồ của bản tấu, cả hai kinh hãi ngước nhìn hoàng đế.

Hoàng đế lạnh lùng: "Đọc tiếp đi!"

Vương Trăn tạm ngừng một lát rồi mới đọc nốt.

Sau khi chàng đọc hết bản tấu, Vương Trăn cúi rạp mình, dâng sổ lên cao quá đầu. Quý Phúc bước xuống dưới thềm, thu quyển tấu lại.

Triệu Phụ nhìn chúng bề tôi, giọng ông ta bình thản như phút lặng thầm trước giờ bão nổi: "Hai vị ái khanh, có ai giải thích hộ trẫm, tại sao sự việc xảy ra từ một tháng trước mà bây giờ mới đến tai trẫm không?"

Lời tác giả:

Trước tui đã nói trong nhóm WeChat với các độc giả rằng truyện này của chúng ta có bốn nam thần ~

Anh Vương và bé Đường chắc chắn xí hai suất. Tô Ôn Duẫn xí một suất.

Thế nên, F4 Đại Tống chỉ còn một người thôi á, người ấy đã lên sân khấu từ tám mươi đời bảy mươi kiếp rồi á ~ các đồng chí đoán xem là ai nè ~

PS: Tui quẫy lightstick hò fanchant cổ vũ cho anh Vương hàng xóm! Anh Vương debut làm Center quốc dân luôn anh ơi!

Manh: Center Vương 360 độ không góc chết, đến tấm lưng anh cũng đẹp trai rạng rỡ :"> Tác giả đã đặt phục bút về thành viên cuối của F4 từ hồi Đường Thận mới làm quan đấy, đến chap này là hint nhiều lắm rồi, các bạn có nhận ra không?

Chương 80

Lang Gia Vương thị xa xỉ phung phí

Năm Khai Bình thứ ba mươi, ngày mười một tháng hai, hoàng đế Đại Tống Triệu Phụ nổi trận lôi đình ngay giữa lúc thiết triều, thẳng thừng cách chức Hữu thị lang bộ Hộ Tần Tự và Môn Hạ Tham tri Chính sự Triệu Tĩnh. Việc đồng thời bãi nhiệm, cấm túc hai viên quan chịu trách nhiệm chính trong ty Độ Chi khiến cơ quan này như rắn mất đầu.

Trên triều đình, Triệu Phụ gay gắt phê bình Tả tướng Kỷ Ông Tập và Hữu tướng Vương Thuyên. Trong hai viên quan bị cách chức, một người thuộc Vương đảng, người kia là nòng cốt Kỷ đảng. Vụ việc này đã táng một cú trời giáng vào nhuệ khí của cả hai phe.

Hôm sau, Triệu Phụ cho gọi các tâm phúc của mình vào điện Thùy Củng.

Mấy viên quan đại thần đứng lắng nghe hoàng đế.

Triệu Phụ than: "Trẫm cứ tưởng rằng mở lại ty Độ Chi là ý kiến hay và hữu ích. Nhưng giờ trẫm mới biết, ty Độ Chi của trẫm mục từ rễ mục ra. Mệnh quan triều đình chết oan uổng, phơi thây nơi đồng không mông quạnh, không ai nói hộ một câu, tất cả trơ mắt nhìn thi thể kẻ ấy bị sói hoang cấu xé! Kẻ ấy vốn là huyện thừa, sau làm quan cho ty Độ Chi rồi bỏ mình vì ty Độ Chi, giờ liệu có ai giải thích được cho trẫm nguyên nhân kẻ ấy chết không?"

Điện Thùy Củng im phăng phắc.

Phủ Quảng Lăng ở Giang Nam tương đương với Dương Châu ở thời hiện đại bây giờ. Huyện thừa một huyện ở Dương Châu qua đời, về lí thuyết thì cái chết của một viên quan thất phẩm địa phương nhỏ nhoi chẳng thể nào gây xôn xao đến vậy. Nhưng chức nhỏ đến mấy thì cũng là mệnh quan triều đình, có liên hệ mật thiết với ty Độ Chi đang đứng ngay tâm bão.

Chính vì vậy, sự phẫn nộ của Triệu Phụ trở nên hoàn toàn chính đáng. Muốn trở thành minh quân, ông ta nhất định không thể dễ dàng bỏ qua những chuyện cộm mắt chướng tai như thế.

Thượng thư bộ Hình Cảnh Thiếu Vân tâu: "Nên phái người đến Giang Nam điều tra rõ chân tướng, cởi mối lo cho thánh thượng và trả lại trong sạch cho người đã khuất."

Triệu Phụ: "Phái ai?"

Cảnh Thiếu Vân suy nghĩ chốc lát, đọc tên mấy người liền. Ông ta đề xuất chọn Tả thị lang bộ Hình và một số người bên Đại Lý tự. Sắp xếp đội ngũ như vậy là rất hợp lí, vừa giúp cả bộ Hình và Đại Lý tự theo dõi và điều tra vụ án, vừa tiện bề giám sát lẫn nhau.

Tả tướng Kỷ Ông Tập tiến lên tâu: "Việc này liên quan đến ty Độ Chi, xin bệ hạ cắt cử thêm một viên quan bộ Hộ."

Vương Thuyên liếc Kỷ Ông Tập, lặng thinh không nói gì.

Bấy giờ, Thượng thư bộ Hộ Vương Trăn mới lên tiếng: "Kim bộ lang trung Lưu Tư Cực thuộc bộ Hộ rất phù hợp với vị trí này ạ."

Như vậy, đoàn Khâm sai Giang Nam đã được lựa chọn xong.

Mấy hôm sau, các quan trong đoàn đều nhận được lệnh, bắt đầu thu xếp đi Giang Nam điều tra. Triệu Phụ đứng trên tầng cao của đài Đăng Tiên, quan sát toàn bộ khung cảnh kinh thành. Đêm xuống, gió trên lầu cao rất mạnh, Đại thái giám Quý Phúc cẩn thận khoác một tấm áo choàng lông chồn lên cho Triệu Phụ.

"Quan gia, đừng để bị lạnh."

Triệu Phụ dõi mắt về nơi xa xăm trong hoàng thành đen sẫm, nhíu mày: "Ngươi có cảm thấy thiêu thiếu gì không?"

Quý Phúc nhìn thành Thịnh Kinh dưới ánh trăng bàng bạc, thận trọng hỏi: "Ý quan gia là thiếu gì ạ?"

"Nhóm Khâm sai đến phủ Quảng Lăng, cộng thêm Lưu Tư Cực. Trẫm cảm thấy phải bổ sung thêm một người nữa mới thỏa đáng." Triệu Phụ trầm ngâm giây lát, chợt thốt lên: "Đường Cảnh Tắc đâu rồi ý nhỉ?"

Quý Phúc rủa thầm trong lòng, Triệu Phụ làm hoàng đế cũng quá quắt lắm rồi đấy. Trông thành Thịnh Kinh tối đen như mực mà nghĩ chuyện cách đây cả vạn dặm đường! Làm sao lão biết Triệu Phụ đang nói về đoàn Khâm sai Giang Nam? Lão cứ tưởng ông ta hỏi thiếu là hỏi thành Thịnh Kinh thiếu cái gì cơ! Người ta hay nói gần vua như gần cọp, nhưng để lão già Quý Phúc xui tận mạng này nói cho mà nghe, gần vua phải ví như gần Diêm Vương mới đúng!

Quý Phúc cười cầu tài: "Nếu bệ hạ nhớ Đường đại nhân, vậy ngày mai triệu Đường đại nhân đến điện Thùy Củng chẳng phải là được sao?"

Triệu Phụ gật đầu.

Hôm sau, Triệu Phụ phái người đến điện Cần Chính gọi Đường Thận thật, nhưng thái giám trở về lại trình với ông ta rằng: "Bẩm thánh thượng, Đường đại nhân đang ở trường thi Thịnh Kinh làm Phó khảo khoa thi Hội năm nay ạ."

Triệu Phụ sửng sốt.

Hồi lâu sau, ông ta mới bảo Quý Phúc: "Đường Cảnh Tắc đỗ Thám Hoa mới có ba năm thôi mà? Sao bây giờ đã được làm Phó khảo?"

Triệu Phụ phái người đi nghe ngóng, mới biết chuyện Từ Bí phái Đường Thận đến trường thi Hội. Nhưng sắp xếp kiểu này làm sao qua mắt được hoàng đế? Ông ta lại cho người thám thính thực hư, liền biết Đại học sĩ viện Hàn Lâm Chu Cẩn mới là người điều chuyển Đường Thận.

"Lão già Chu Cẩn ấy hơi đâu mà đi quản chuyện vụn vặt như thế. Hẳn là chủ ý của Phó Hi Như đây mà. Cái lão Phó Hi Như gan thật, học trò mới làm quan ba năm mà lão đã nôn nóng đề bạt cậu ta gánh vác trọng trách bực này ư?" Ngoài miệng nói vậy nhưng Triệu Phụ chỉ cười.

Phó Vị cả ngày phởn phơ cùng chim chóc hoa lá, có bao giờ quan tâm đến sự đời, thế mà tự dưng bây giờ ông ta lại đi cửa sau hộ học trò để Đường Thận lên ghế Phó khảo thi Hội, tiện thể "đánh bóng tên tuổi". Hành động như vậy đâm lại khiến Triệu Phụ yên tâm hẳn ra.

"Thì ra Phó Vị cũng có lòng riêng!"

Đường Thận đang ở trường thi Thịnh Kinh không thể đi đâu được, Triệu Phụ đành phải bỏ ý định điều cậu xuống Giang Nam.

Đường Thận đứng trên lầu Minh Viễn, nào hay suýt tí nữa mình lại bị lẳng vào núi đao biển lửa.

Mười chín tháng Hai, ba trường thi Hội chính thức khép lại.

Các cử nhân đã rồng rắn kéo nhau ra khỏi trường thi nhưng các quan vẫn chưa bắt đầu chấm bài. Trong ba ngày đầu tiên, mấy nghìn tú tài sao chép bài thi, dán tên rồi đưa đến nhà chấm thi để Đường Thận và các quan khác bắt đầu đọc quyển. Hai tháng sau, họ mới hoàn tất việc đánh giá hơn một vạn quyển thi.

Sau khi Thượng thư bộ Lại Thẩm Vận chốt xong danh sách ba người đứng đầu, các khảo quan mới hết trách nhiệm.

Chỉ khi ấy, họ mới chính thức được chứng kiến trận bão càn quét cả thành Thịnh Kinh.

Phái đoàn Khâm sai Giang Nam đã khởi hành từ lâu, một số quan viên trong ty Độ Chi cũng bị hoàng đế cách chức, tạm thời giam lỏng tại nhà chờ xét xử. Nghe tin này, vừa về nhà, Đường Thận liền chạy sang phủ Thượng thư, gặp được Vương Trăn.

Lúc Đường Thận tới, Vương Trăn đang ăn tối.

Thấy cậu, Vương Trăn ra lệnh: "Lấy thêm bộ bát đũa đi."

Quản gia: "Vâng."

Đường Thận ngồi xuống.

Kỳ thực Đường Thận chưa ăn uống gì, nhưng bây giờ trong lòng cậu có biết bao băn khoăn, còn tha thiết gì cơm nước. Cậu nhìn mâm cơm đề huề mà chẳng buồn động đũa.

Vương Trăn thấy thế chỉ cười khẽ, dịu dàng bảo: "Không ăn tức là không vừa ý món nào rồi. Người đâu, bảo đầu bếp làm thêm cua viên hầm, đậu lụa nấu nước cốt gà, và đậu phụ Văn Tư." Chàng hỏi Đường Thận, "Tiểu sư đệ hài lòng hơn chưa?"

Đường Thận sững người.

Cua viên hầm, đậu lụa nấu nước cốt gà, đậu phụ Văn Tư...

Cả ba đều là đặc sản Quảng Lăng!

Hầy, quả nhiên Vương Tử Phong biết trước tại sao mình đến đây rồi!

Đường Thận tiu nghỉu, cầm đũa lên ăn ù cho xong. No bụng, hai huynh đệ rửa tay bằng nước trà rồi mới sang thư phòng.

Vương Trăn vén tay áo pha trà, bảo: "Tiểu sư đệ muốn nói gì, cứ nói thẳng đi."

Đường Thận lấy lại bình tĩnh, hỏi: "Việc ở Quảng Lăng, sư huynh có biết trước không?"

Ngay câu hỏi đầu tiên đã khiến Vương Tử Phong bật cười. Chàng nhìn Đường Thận bằng vẻ hơi tổn thương: "Ở trong lòng tiểu sư đệ, ta là hạng người không từ thủ đoạn để đạt được mục đích à?"

Đường Thận ngớ người, vội vàng giải thích: "Sư huynh hiểu lầm rồi, đệ đâu có bảo rằng cái chết của huyện thừa huyện Giang Đô có liên quan đến sư huynh. Đệ muốn hỏi sư huynh biết chuyện ấy từ bao giờ kia mà."

Vương Trăn biết thừa là Đường Thận chẳng nghi ngờ mình đâu, nhưng ánh mắt ân cần, lo lắng của cậu khiến khóe môi chàng cứ nhếch lên. Vương Trăn đáp: "Ngày hai chín tháng trước."

Hai mươi chín tháng Giêng!

Thế tức là, chỉ nửa tháng sau cái chết của huyện thừa Giang Đô phủ Quảng Lăng chết vào thượng tuần tháng Giêng, Vương Trăn đã biết tin. Còn hoàng đế thì phải mất một tháng mới nhận được tin này.

Quả nhiên, tất cả đều nằm trong kế hoạch của Vương đảng!

Biết được đáp án, rất nhiều mối hoài nghi của Đường Thận cuối cùng cũng có lời giải. Cậu nói: "Ban đầu, đệ đã đoán được rằng Vương tướng công đề xuất hai mươi ba cải cách là để làm vỏ bọc cho việc thúc đẩy phát hành tiền giấy, âm thầm 'lấy giấy thay tiền'. Song Tả tướng nhất định sẽ không để cho Vương tướng công tự tung tự tác, nên mới mở lại ty Độ Chi để tham gia vào."

Vương Trăn rót một chén trà, khoan thai nhấp một ngụm, dịu dàng nhìn Đường Thận: "Tiếp đi."

"Tả tướng muốn chen chân, Vương tướng đương nhiên không đồng ý. Nhưng Tả tướng dù sao cũng là đại thần trên triều, chuyện động trời như thế rất khó để gạt ông ấy ra. Vì vậy, năm ngoái, sư huynh tán thành với kiến nghị của Tả tướng trên triều đình, chấp thuận mở lại ty Độ Chi và chia quyền của bộ Hộ. Nếu làm việc dè chừng, cố tình giấu bài thì lúc tranh luận trên triều thì dễ bị bắt thóp; còn không nhịn được mà táy máy sớm thì dễ để lộ sơ hở. Tả tướng khôi phục ty Độ Chi, quả thật đã hạn chế quyền lực của bộ Hộ, nhưng mũi dao đã lộ ra, tất sẽ bị người ta nắm được cán."

Ánh mắt Vương Trăn quấn quýt lấy Đường Thận mãi, nhìn lâu đến nỗi Đường Thận phát sợ.

"Sư huynh cứ nhìn đệ thế làm chi?"

Vương Trăn: "Ty Độ Chi mở lại đã nửa năm nay. Tiểu sư đệ vẫn luôn canh cánh trong lòng đấy à?"

Đường Thận: "Vâng."

"Vì sao đệ quan tâm nhiều thế?"

Đường Thận nghĩ rồi mới đáp: "Dù sao đệ cũng thuộc phe Vương đảng, đứng cùng chiến tuyến với sư huynh. Chuyện lớn như vậy đệ đâu thể làm ngơ được? Huống hồ, từ hè năm ngoái, khi đệ kể chuyện tiền giấy xuất hiện ở Thục cho sư huynh, đệ đã luôn tin chắc rằng sư huynh sẽ không gác vấn đề này lại. Nhất định, huynh sẽ có ý tưởng. Nhất định, huynh sẽ hành động."

Từng câu từng chữ của cậu đầy ắp niềm tin, thậm chí còn bao hàm cả lòng kính phục và ngưỡng mộ mà chính bản thân Đường Thận cũng chưa phát hiện ra.

Đường Thận không bao giờ tiếc lời khi ca ngợi Vương Trăn cả.

Những điều cậu khen chàng không phải xun xoe bợ đỡ, nịnh suông bằng nước bọt. Từ đáy lòng cậu, Đường Thận tin rằng Vương Trăn thực sự tài giỏi như thế.

Vương Tử Phong nghe mà lịm cả tim, nụ cười càng rạng rỡ.

Đường Thận chia sẻ với Vương Trăn hết những suy đoán của mình trong thời ra vừa qua, Vương Trăn chỉ ngầm khẳng định một số điều. Tuy chưa giải mã được hết mưu kế của Vương đảng, nhưng Đường Thận cảm thấy mình sắp sửa vén màn mây mù để chạm đến chân tướng rồi.

Nhưng nói một thôi một hồi, Vương Trăn vẫn không hề đả động đến dữ kiện quan trọng nhất.

Đường Thận hỏi: "Rốt cuộc...ai đã giết chết huyện thừa kia?"

Vương Trăn mở hộp đựng trà, lấy ngón tay khều ra một ít. Chàng chia lá trà ra làm ba đụn nhỏ, đụn thứ nhất nhiều lá trà nhất, nhưng được trải rộng ra nên khá bằng phẳng. Đụn thứ hai ít lá trà hơn nhưng được vun vào nên cao hơn đụn thứ nhất. Riêng đụn thứ ba ít lá trà nhất, nhưng được vun chặt lại nên cao hơn hẳn hai đụn kia.

Vương Trăn chỉ vào ba đụn lá trà, hỏi: "Lấy lá trà biểu tượng cho con người, lấy độ cao biểu tượng cho của cải họ sở hữu. Tiểu sư đệ, minh họa thế này được chưa?"

Đường Thận hiểu ngay ý Vương Trăn, cậu gật đầu.

"Từ thời các bậc tiên đế, Đại Tống đã phải đối mặt với tình trạng khan hiếm tiền tệ. Thiếu đồng, bạc, vàng, tức là thiếu nguyên liệu để đúc tiền. Đất đai Đại Tống rộng bao la, tài nguyên dồi dào. Đáng lẽ kể cả khi buôn bán hiện giờ cực kì phát triển, đòi hỏi lượng tiền tệ khổng lồ, chúng ta cũng không thiếu tài nguyên khoáng sản để đúc tiền. Ấy thế mà chẳng những thiếu thốn, chúng ta còn khan hiếm tiền trầm trọng. Tiểu sư đệ đã bao giờ suy nghĩ về nguyên nhân của tình trạng này chưa?

Đường Thận biết thế nào được!

"Vì sao thế ạ?"

"Chính là vì, những đối tượng này cất giấu quá nhiều tài sản!" Vương Trăn chọc thẳng vào đụn lá trà thứ ba, khiến lá trà rơi lả tả xuống đất.

Vương Trăn: "Lấy Lang Gia Vương thị làm ví dụ, đó là một dòng họ khổng lồ và hùng mạnh, truyền thừa trăm năm, của cải không để đâu cho hết. Suốt trăm năm qua, Vương thị cất giấu vô số tiền của. Giấu nhưng không dùng đến, hậu quả là tiền sẽ trở nên đắt đỏ hơn vì khan hiếm. Đây là một trong những nguyên nhân gây nên nạn thiếu hụt tiền. Theo luật của Đại Tống, cứ một nghìn đồng tương ứng với một quan, một quan tiền đổi được một lạng bạc, mười lạng bạc đổi được một lạng vàng. Nhưng đó chỉ là luật thôi, đệ cầm một vạn đồng đi đổi một lạng vàng, còn lâu mới đổi được. Chí ít phải thêm một nghìn đồng nữa mới có người đồng ý đổi! Vàng là quý nhất, bạc đứng thứ hai, sau rốt là đồng. Lang Gia Vương thị từ trăm năm trước đã có một tòa nhà cất giấu báu vật, trong đó tích trữ bao nhiêu vàng, chỉ riêng gia chủ mỗi đời mới biết được!"

Bấy giờ Đường Thận mới ngộ ra.

Dựa theo quy đình thì cứ một nghìn đồng tiền ứng với một lạng bạc. Nhưng đó chỉ là quy định mà thôi. Người ta có bạc nhưng không muốn đổi với anh, thách anh đổi được!

Vàng là có giá trị nhất nên khó bị phá giá; bạc đứng thứ nhì.

Những dòng họ thâm căn cố đế, quyền thế giàu sang đã tích trữ quá nhiều tiền bạc trong khi không dùng đến, khiến giá trị của số tiền ấy càng lúc càng leo thang!

Vương Trăn chuyển chủ đề, ánh mắt chàng nhìn đụn lá trà thứ ba tung tóe trên mặt bàn lạnh như băng: "Cái chết của huyện thừa Giang Đô do kẻ nào gây ra, ta cũng không biết. Nhưng ắt hẳn là ông ta chết vào tay nhóm người kia. Dùng giấy làm tiền tệ đồng nghĩa với việc tước đoạt quyền lợi của bọn họ. Sự thay đổi đấy đem lại bao nhiêu ích lợi cho Đại Tống thì bất lợi cho họ gấp vạn lần."

"Vậy, tiểu sư đệ, hôm nay đệ đã biết ông ta chết vì lí do gì chưa?"

Từ xưa tới nay, cải cách luôn luôn là sự đấu tranh giữa các giai cấp.

Trong bụng Đường Thận đã tường tận. Cậu thở dài: "Có sư huynh giải tỏa nghi vấn, đệ hiểu rồi."

Vương Trăn mỉm cười: "Chỉ cần manh nha ý định thay tiền bằng giấy, việc nảy sinh mâu thuẫn nan giải như vậy là không tránh khỏi. Nếu Tả tướng tình nguyện hồi sinh ty Độ Chi, bằng lòng xung phong đi đầu, thì mình cứ thuận theo ngài ấy thôi. Tả tướng là người dám xả thân vì nghĩa lớn, cao thượng vô tư, sẵn sàng đương đầu với những thế gia đại tộc giàu nứt đố đổ vách, xa xỉ phung phí. Tấm gương của ngài ấy khiến chúng ta cảm phục vô cùng, trộm nghĩ bản thân chẳng bằng một góc!"

Đường Thận tí nữa thì phì cười vì câu đùa của Vương Tử Phong, nhưng cậu chợt nhận ra một điều.

Gượm đã nào, huynh là công tử chi trưởng của Lang Gia Vương thị hẳn hoi, thế mà lại cầm đầu phong trào chống đối thế gia, còn lấy Lang Gia Vương thị ra làm ví dụ...Thế có ổn thật không đấy?!

Chú thích

Đậu lụa nấu nước cốt gà mình chém từ tên gốc là "kê trấp chử kiền ti". Đậu phụ khô được thái sợi rồi nấu với nước cốt gà, tôm.

Đậu phụ Văn Tư: Một dạng súp đậu phụ, nguyên liệu là đậu phụ non thái sợi, nấu với nước cốt gà, rau, trứng thái chỉ v...v...

Thịt cua đầu sư tử (cua viên hầm)

Đậu hũ Văn Tư

Đậu lụa nấu nước cốt gà

Trong raw có đôi chút thiếu thống nhất về cách gọi tiền tệ. Có hai đơn vị tương đương với nhau là "điếu" và "quan", thì "điếu" (mà mình edit là "xâu tiền" trong những chương đầu) phổ biến hơn trong thời Minh, Thanh. Còn từ thời Tống trở về trước thì "quan" là đơn vị phổ biến hơn. Cả hai đều tương ứng với 1000 văn (đồng). Trong chương 2 tác giả ngầm quy đổi là 2 điếu = 320 văn, rồi đến đoạn Bách Bảo Các thì tác giả sử dụng đơn vị "quan", và sang chương này lại quay về dùng "điếu" rồi quy đổi 1 điếu = 1000 văn. Để thống nhất thì mình sẽ sửa đơn vị trong chương này thành "quan" cho sát với thời Tống (cũng là thời kì xuất hiện giao tử – tiền giấy mà chắc hẳn tác giả đã dựa theo để viết truyện).

Chương 81

Nghĩa cả

Ánh mắt Đường Thận cứ lồ lộ như thế, làm sao mà Vương Trăn không đọc ra. Tiểu sư đệ nhà chàng chỉ thiếu điều viết luôn lên trán câu: Sư huynh tự phản bội bản thân mình thế có sao không? Vương Trăn phì cười, thản nhiên bảo: "Lang Gia Vương thị luôn luôn biết cách thích nghi với thời cuộc. Giữa hai tộc Vương, Tạ, đã bao giờ tiểu sư đệ tự hỏi, vì sao họ Tạ cứ dần dần suy bại trong khi họ Vương vẫn sừng sững như mặt trời ban trưa?"

Đường Thận trầm tư một lát, bỗng thở dài: "Nước chảy không tù, trụ cửa không mọt."

Ánh mắt Vương Trăn nhìn cậu càng lấp lánh hơn.

Đường Thận tạm biệt Vương Trăn, rời khỏi phủ Thượng thư.

Nước chảy không tù, trụ cửa không mọt...vì chúng không ngừng chuyển động!

Vương Tử Phong lấy Lang Gia Vương thị làm ví dụ, nhưng chàng chỉ nói rằng dòng họ Vương là đại biểu cho thế gia đại tộc, chứ không hề nói rằng Lang Gia Vương thị là hung thủ giết người. Họ Vương đã hình thành và lớn mạnh mấy trăm năm nay, tiếng tăm lẫy lừng, là đại tộc hàng đầu khắp bờ cõi Hoa Hạ. Từ xa xưa khi chế độ khoa cử chưa ra đời, khoảng cách giữa các tầng lớp trong xã hội gần như không thể lay chuyển. Mãi về sau, khi chế độ khoa cử thịnh hành, quyền lợi của các thế gia mới từ từ bị bao mòn. Giữa cảnh suy bại của không biết bao nhiêu dòng họ lẫy lừng một thời, Vương thị vẫn vững vàng đến nay.

Được như vậy là vì họ Vương luôn tự thay đổi để thích nghi với thế giới mới!

Nếu như đặt con em thế gia khác vào hoàn cảnh này, một khi họ biết cải cách "thay tiền bằng giấy" sẽ gây thiệt hại to lớn đến lợi ích của gia tộc mình, họ sẽ làm gì đây? Họ sẽ nhất quyết bưng bít, bài xích cho bằng được. Song cả Vương Trăn lẫn Hữu tướng Vương Thuyên đều ra sức thúc đẩy cải cách này.

Dòng dõi Lang Gia không chỉ làm quan vì thế gia, mà làm quan vì thế đạo.

Đường Thận nghĩ: "Thế lực quý tộc ở phủ Quảng Lăng kém xa phủ Kim Lăng, nhưng chuyện huyện thừa bỏ mạng chỉ xảy ra ở Quảng Lăng mà không xảy ra ở Kim Lăng...đã thể hiện rõ thái độ của Vương gia rồi!"

Trung tuần tháng hai, đoàn Khâm sai sứ đã đến phủ Quảng Lăng để điều tra án ty Độ Chi.

Cuối tháng ba, Hữu thị lang bộ Hình Tào Hội Tầm viết tấu, sai người hỏa tốc gửi về Thịnh Kinh. Triệu Phụ xem tấu xong giận sôi gan, ra lệnh cho Thượng thư bộ Hộ Vương Trăn và Thượng thư bộ Hình Cảnh Thiếu Vân đến ngay phủ Quảng Lăng để đôn đốc việc điều tra vụ án. Chạng vạng hôm ấy, hai ngài Thượng thư nhị phẩm dẫn theo thân tín, tức tốc di chuyển đển Quảng Lăng.

Trong điện Cần Chính, không khí vẫn bình thường như mọi ngày, nhưng cải cách thuế ruộng đã dần dần chững lại.

Hai mươi ba cải cách thuế ruộng tượng trưng cho một ý tưởng, một tư tưởng, và ty Độ Chi là công cụ sắc bén để thực thi nó. Hiện tại ty Độ Chi đã bị hoàng đế bãi miễn, Triệu Tĩnh và Tần Tự đếu bị cấm túc tại gia chờ xét xử. Ty Độ Chi không có người phụ trách, cải cách thuế ruộng cũng đình trệ theo.

Ai cũng biết cải cách thuế ruộng cực kì có lợi, không hề có vấn đề gì, nhưng không ai có cách biến những cải cách ấy thành hiện thực cả.

Tháng tư, tại U Châu, quân Liêu vi phạm hiệp ước, xung đột với quân Tống.

Chinh Tây nguyên soái Lý Cảnh Đức đánh quân địch thua tan tác. Chỉ trong ba ngày, tin chiến thắng đã được cấp báo về Thịnh Kinh. Hoàng đế hết sức đẹp lòng, liên tục khen "Hay" ba lần liền, quyết định khao thưởng toàn quân. Mấy ngày sau, báo cáo quân tình chi tiết mới được gửi về điện Cần Chính. Đường Thận giở quyển báo cáo dày cui, đọc hồi lâu, bỗng nảy ra một ý.

Hai ngày sau, Đường Thận biên một cuốn sổ con, lén lút gửi ra ngoài.

Chẳng mấy chốc, trong giờ phát cơm canh, một sai nha tuồn cho Đường Thận mẩu giấy. Đường Thận đọc xong thì lặng lẽ giấu vào trong tay áo, chờ đến lúc không có ai thì kín đáo đốt đi. Chiều tối khi xong việc, Đường Thận xuất cung. Cậu không về nhà mình ở hướng Đông mà đi tới phố lớn Chính Dương Môn.

Trên phố lớn Chính Dương Môn, hàng quán san sát, tấp nập người ngợm.

Đường Thận vào thẳng lầu Tế Hà. Đây là sản nghiệp của Đường gia, cậu chỉ cần lặng lẽ vào từ cửa hông là có người che dấu cho cậu. Đường Thận lên nhã gian trên tầng hai, vừa vào cửa là thi lễ ngay: "Hạ quan Đường Thận kính chào Vương tướng công."

Trong gian phòng rộng rãi thoáng đãng, Hữu tướng Vương Thuyên đang ngồi ngay ghế thượng tọa.

Vương Thuyên hơn năm mươi tuổi, hai bên tóc mai điểm bạc. Ông nuôi râu rất dài, dáng người gầy guộc, trông rất có hình tượng của quan văn thanh liêm. Hai ông cháu Vương Thuyên và Vương Trăn không giống nhau, nhưng cử chỉ của cả hai đều có phong phạm thế gia khó mà bắt chước. Vương Thuyên ngồi ngay ngắn, thấy Đường Thận cung kính với mình thì cười bảo: "Người trong nhà với nhau cả, lại đây nào."

"Vâng."

Đây là lần đầu tiên Đường Thận chính thức tiếp xúc với Hữu tướng.

Trên triều đình có rất nhiều phe phái, phe nào cũng có đối thủ riêng, nhưng tất cả đều được liên kết với nhau bằng những sợi dây vô hình. Đường Thận được coi là nửa Vương đảng vì cậu với Vương Trăn là một cánh, nhưng chung quy cậu không về phe Hữu tướng.

Vương Thuyên và Vương Trăn là ông chú – cháu ruột, nhưng mỗi người bọn họ lại theo đuổi đường lối riêng.

Trên cả Vương đảng, Vương Trăn thiên về hoàng đảng hơn. Chàng chỉ trung thành và dốc sức phụng sự hoàng đế; chàng là tâm phúc của Triệu Phụ.

Vì Vương Trăn thuộc hoàng đảng mà Đường Thận lại theo chàng, nên cậu cũng được quy vào nhóm hoàng đảng. Dĩ nhiên, bè cánh này rất chi là phức tạp. Điển hình như Tô Ôn Duẫn thuộc hoàng đảng, nhưng xưa nay Tô Ôn Duẫn và Vương Tử Phong luôn kình nhau, thành ra Tô Ôn Duẫn cũng không vừa mắt với Đường Thận.

Đạo làm vua của Triệu Phụ – mượn sức quan lại chế ngự lẫn nhau – vừa phức tạp lại vừa thâm thúy. Ông ta dành ba mươi năm để xây dựng cục diện chính trị trên triều đình như hiện nay, nhìn qua thì tưởng đơn giản, nhưng nghiền ngẫm kĩ càng mới giật mình ớn lạnh.

Trên bàn ăn trong nhã gian đã bày một nồi bát hà cung nóng hổi, nhưng Vương Thuyên dường như không định động đũa.

Hai người ngồi với nhau, Vương Thuyên hỏi: "Vì sao lại đưa cuốn sổ ấy cho ta?"

Đường Thận im lặng giây lát rồi mới thưa: "Sư huynh không ở đây, ngoài Vương tướng công, tôi không nghĩ ra ai khác để gửi gắm."

Vương Thuyên cười: "Lòng tin ngươi dành cho Tử Phong đúng là không gì sánh được."

Đường Thận lặng thinh, bụng bảo dạ: Tôi tín nhiệm Vương Tử Phong thật, nhưng tôi không tín nhiệm ông. Chẳng qua phải quyền biến, nên mới chọn ông để trao sổ mà thôi.

Theo như lời Vương Tử Phong nói, trong khi họ Tạ trượt dốc từ lâu, họ Vương vẫn không hề suy suyển. Cậu tin tưởng dòng dõi Vương thị, nên mới gửi quyển tấu cho Vương Thuyên.

Vương Thuyên bình tĩnh nhìn Đường Thận, cứ như thể đang chờ xem có đóa hoa nào bừng nở trên gương mặt cậu không. Hồi lâu, vị quyền thần ấy mới cười thành tiếng: "Ta từng nghe Phó Hi Như kể, lão mang tiếng là thầy ngươi mà chưa dạy được ngươi buổi nào hết, toàn giao phó cho Tử Phong. Hôm nay xem ra, trò vượt cả thầy rồi."

Đường Thận nghe thế thì đâm sợ sệt: "Vương tướng công quá khen."

Tự dưng được khen giỏi hơn Vương Tử Phong, Đường Thận có chút chột dạ. Sư huynh nhà cậu tính tình cổ quái, đến giờ Đường Thận vẫn chưa hiểu rõ tâm tính Vương Tử Phong. Chẳng may chuyện Vương Thuyên khen Đường Thận giỏi hơn chàng đến tai Vương Tử Phong, chàng nổi cơn ghen tức thì biết thanh minh thế nào.

Vương Thuyên tươi cười: "Hôm nay đến đây thôi nhé."

Nói rồi, ông đứng dậy ra về.

Bát hà cung trên bàn vẫn nguyên si. Chờ khi Vương Thuyên đi rồi, Đường Thận mới thở phào nhẹ nhõm, gọi quản lí Lục và Đường Hoàng vào ăn lẩu chung.

Đường Hoàng thấy cả bàn thức ăn còn đó thì sửng sốt: "Thịt thà rau củ tươi roi rói, tay bọn em chọn lựa, sao các anh chẳng ăn miếng nào thế? Ngon lắm mà!"

Đường Thận trêu: "Trong bụng em chỉ có ăn thôi."

Đường Hoàng bĩu môi, cây ngay không sợ chết đứng: "Dân dĩ thực vi thiên."

Đường Thận khen: "Dân dĩ thực vi thiên? Câu này hay đấy."

Bậc vua chúa phải biết coi dân như trời, mà nhân dân thì lấy cái ăn làm trọng.

Đường Hoàng nào biết, người mới ngồi trong căn phòng này chính là Hữu tướng đương thời – Vương Thuyên! Cô bé nào biết chuyện mới được thảo luận trong căn phòng này sẽ ảnh hưởng đến miếng ăn của không biết bao nhiêu dân chúng!

Vương Thuyên làm việc như thế nào, Đường Thận không hề biết.

Năm Khai Bình thứ ba mươi, Tây Bắc đại thắng, nhuệ khí của người Liêu bị tổn hại nghiêm trọng. Triệu Phụ hân hoan khôn xiết, khao thưởng ba quân. Tả thị lang bộ Hộ Từ Lệnh Hậu can gián rằng cách khao thưởng thông thường rất kém hiệu quả do thường xuyên bị thất thoát trong quá trình vận chuyển đường xa. Hiện giờ Thượng thư bộ Hộ Vương Trăn không có mặt ở Thịnh Kinh, Hữu thị lang Tần Tự bị giam lỏng, Từ Lệnh Hậu liền chủ động đề xuất thiết lập ty Ngân Dẫn ở Tây Bắc, chuyên phụ trách vấn đề lương thưởng cho quân binh.

Triệu Phụ ưng thuận.

Đến tháng năm, nhóm Vương Trăn hồi kinh. Vụ án ty Độ Chi ở phủ Quảng Lăng chính thức khép lại, Đại Lý tự bắt giữ một số quan lại, bộ Hình cũng bắt được một số người.

Triệu Phụ lòng đau như cắt: "Các ngươi tưởng Thái tổ hủy bỏ Tam Ty chỉ để tước bớt quyền lực Thừa tướng thật sao?"

Khai Bình hoàng đế xưa nay vốn là người thích ám chỉ, ông ta chưa bao giờ nói trắng ra như thế cả. Hôm nay ông ta phải nói đến mức này, các quyền thần trong điện Thùy Củng chỉ biết đồng loạt vái dài. Nếu quan viên Đại Tống không phải quỳ trước hoàng đế, thì chắc chắn bọn họ đã quỳ rạp xuống hết rồi.

Triệu Phụ thở dài: "Các khanh không hiểu dụng tâm lương khổ của Thái tổ rồi!"

Tháng năm, Triệu Phụ bãi bỏ ty Độ Chi. Một cơ quan được tái thiết chưa đầy một năm đã chết yểu như vậy.

Môn Hạ Tham tri Chính sự Triệu Tĩnh giám sát kém hiệu quả, bị biếm đến Hồ Tây làm phủ doãn Tần Châu, hàm tứ phẩm. Hữu thị lang bộ Hộ Tần Tự bị biếm đến Liễu Châu làm Tiết độ sứ. Nhận thánh chỉ xong, cũng coi như không còn cơ hội diện thánh thêm lần nữa.

Triệu Tĩnh và Tần Tự nhận thánh chỉ, chỉ biết ngửa mặt nhìn trời, lòng hoang mang.

Hôm sau, Triệu Tĩnh đến phủ Tả tướng bái kiến thầy.

Tả tướng Kỷ Ông Tập xuất thân hàn môn, tuy giờ ông là Tả tướng quyền cao chức trọng, nhưng không vì thế mà mất chất thanh liêm. Ông khoản đãi học trò cưng của mình chỉ bằng những món ăn mà Tả tướng phu nhân đích thân nấu nướng, bữa cơm toàn rau dại, tổng cộng hai món mặn hai món chay.

Triệu Tĩnh thấy Tả tướng, nước mắt lưng tròng, quỳ phục xuống: "Học trò có lỗi với tiên sinh!"

Kỷ Ông Tập đỡ lấy Triệu Tĩnh trước khi hai đầu gối người học trò kịp chạm đất. Ông nói: "Bá An đâu có lỗi với vi sư, lại đây ăn cơm đã, đừng khóc lóc sướt mướt thế. Tuy cơm canh hôm nay chỉ có rau dại, nhưng con đến Tần Châu rồi, khéo chẳng có nổi rau dại mà ăn ấy chứ."

Tần Châu là xứ hoang vu, chó ăn đá gà ăn sỏi. Triệu Tĩnh đi chuyến này, không biết bao giờ mới được về.

Triệu Tĩnh làm sao nuốt trôi cơm nữa, nghẹn ngào thưa: "Học trò làm việc không nên thân, còn liên lụy đến tiên sinh, khiến tiên sinh bị bệ hạ trách cứ trên triều đình."

Kỷ Ông Tập cười: "Không phải lỗi tại con, do ta tính toán sai lầm. Ta cứ tưởng rằng Vương Thuyên thúc đẩy việc sửa đổi thuế ruộng là vì lợi ích của thế gia đại tộc phía ông ta, nên mới ra tay cản trở, cương quyết mở lại ty Độ Chi. Giờ một năm đã qua, ngoảnh đầu nhìn lại, ta mới nhận ra mình đã coi thường Vương Đức Chiêm rồi. Ta hẹp hòi quá, trong chuyện này, ta không rộng lượng bằng ông ấy!"

Triệu Tĩnh không hiểu nổi: "Tiên sinh?"

"Việc Vương Thuyên muốn làm, những tháng gần đây, ta cũng vỡ vạc ra đôi chút. Nếu ông ta thành công thật thì quả là một công trình lớn lao hữu ích. Giờ ông ta xây dựng ty Ngân Dẫn ở Tây Bắc, về cơ bản ta hiểu ý ông ta, nhưng chẳng còn năng lực để nhúng tay vào nữa."

Triệu Tĩnh áy náy: "Lỗi tại học trò làm hỏng việc."

Kỷ Ông Tập: "Tái ông mất ngựa, biết là họa hay là phúc đâu con?"

Triệu Tĩnh ngơ ngác không hiểu.

Kỷ Ông Tập ăn rau, trỏ đũa về phía Bắc. Đó là hướng hoàng cung Đại Tống. "Con nghĩ xem, bây giờ đồ đệ ruột của lão phu bị biếm đến Tần Châu, phe cánh Tả tướng tổn thất. Hoàng đế liệu đã yên tâm chưa?"

Triệu Tĩnh suy nghĩ hồi lâu, lật lại hết những chuyện tai nghe mắt thấy suốt trong năm vừa qua.

Nghĩ xong, Triệu Tĩnh lạnh toát cả người, bầu nhiệt huyết trong lồng ngực vỡ òa. Là học trò tâm đắc của Kỷ Ông Tập, Triệu Tĩnh đương nhiên không dốt nát. Giờ phút này, ông ta đã thực sự thông suốt mọi chuyện rồi.

Triệu Tĩnh đứng dậy chắp tay vái: "Đại nghĩa của tiên sinh, học trò đã thấm thía!"

Kỷ Ông Tập thản nhiên cười: "Ăn cơm đi!"

Manh: Không hiểu sao tui chợt nghĩ, sư huynh ưa mặc áo trắng, dáng vẻ lại như thần tiên, còn là sư phụ Đường Thận, chẳng phải là Tiểu Long Nữ (Nam) đấy ư? Thế mà Đường Thận dám gọi sư huynh là "Bố" thay vì "Thần tiên ca ca".

Chương 82

Tan cuộc

Phủ Tả tướng mộc mạc hơn hẳn so với các phủ Thừa tướng khác.

Thầy trò hai người ăn cơm xong, lau sạch tay bằng khăn ẩm rồi đến thư phòng của Kỷ Ông Tập.

Vừa mới mở cửa, hương giấy mực cũ kĩ đã phả vào mặt. Kỷ Ông Tập vào trong thư phòng, lấy mấy cuốn sách đưa cho Triệu Tĩnh. Triệu Tĩnh cung kính nhận bằng cả hai tay.

Kỷ Ông Tập: "Đường đi Tần Châu gian nan, núi non trùng điệp, không biết bao giờ mới gặp lại nhau. Con ở đàng ấy ráng đọc nhiều, sau này có dịp hồi kinh thì thuật lại cho vi sư nghe."

Triệu Tĩnh: "Học trò xin vâng."

Tặng sách xong, thầy trò hai người cáo biệt.

Triệu Tĩnh cúi rạp mình, chắp tay giơ cao: "Học trò mong còn được gặp lại tiên sinh ở Thịnh Kinh."

Kỷ Ông Tập cười: "Đi đi con."

Triệu Tĩnh quay gót ra đi, đầu không ngoảnh lại. Đầu giờ chiều, một cỗ xe ngựa gọn nhẹ chở theo mấy hòm sách rời khỏi Thịnh Kinh. Đến chạng vạng, từ cổng phủ Hữu thị lang bộ Hộ cũng có mấy cỗ xe ngựa chở theo hành lí chạy ra khỏi thành. Xe ngựa rời thành được khoảng mười dặm thì đến đình Thập Lý. Tần Tự vén rèm lên, hai mắt sáng ngời, ra lệnh cho xà ích thắng xe lại.

Xe ngựa dừng bánh, Tần Tự trong bộ thường phục nhanh nhẹn bước tới đình Thập Lý, hành lễ: "Tội quan Tần Tự xin được diện kiến Thượng thư đại nhân."

Bốn bề cuồn cuộn cát vàng, trên con đường cổ xưa dài tít tắp là một ngôi đình bé nhỏ đơn sơ. Trong đình, Vương Trăn ngồi chờ Tần Tự đã lâu.

Vương Trăn ngắm nghía Tần Tự một hồi, giọng chàng điềm đạm: "Tần đại nhân gầy đi nhiều quá."

Tần Tự khổ tâm lắm chứ.

Từ hồi xảy ra án mạng ở phủ Quảng Lăng đầu năm nay, anh ta bị hoàng đế giam lỏng tại nhà gần nửa năm, có khỏe mấy cũng gầy mòn thành cái xác ve. Tần Tự áy náy: "Tội quan thẹn với Thượng thư đại nhân, làm hỏng cả việc ở ty Độ Chi lẫn bộ Hộ."

Vương Trăn tỏ ra ngạc nhiên: "Ngươi có sai gì đâu nhỉ?"

"Đại nhân?"

"Trước những ngày nắng đẹp, bao giờ cũng có mây đen che khuất mặt trời và mưa rào xối xả. Đến lúc trời quang mây tạnh, vầng thái dương sẽ còn rạng rỡ hơn cả trước cơn mưa. Chẳng lẽ Tần đại nhân không thấy vậy ư?"

Tần Tự rối bời, cuối cùng anh ta đành thở dài: "Vâng."

Vương Trăn chỉ cười chứ không nói nữa.

Vương Thuyên muốn mượn hai mươi ba điều cải cách thuế ruộng làm vỏ bọc ngụy trang để tránh tai mắt thế gia đại tộc, âm thầm phát triển tiền giấy. Tiếc rằng đường lối này đã trở thành ngõ cụt. Những người đi trên con đường ấy, dù Triệu Tĩnh hay Tần Tự thì đều bị liên lụy, biếm trích đến đất khách quê người.

Nhiệm vụ của ty Độ Chi nếu thắng lợi sẽ mang lại vô vàn lợi ích cho dân chúng, Tần Tự biết chứ. Nhưng đằng sau mỗi công trình lớn luôn ẩn chứa vô vàn rủi ro. Tần Tự biết mình làm việc cho Vương Thuyên và cho Vương Trăn; chỉ tiếc rằng trong cuộc chiến giữa hai đảng phái, cả anh ta lẫn Triệu Tĩnh đều bại trận, hai hổ cắn nhau con thương còn què. Dẫu vậy, Tần Tự vẫn ôm hi vọng. Khi tới đình Thập Lý để tiễn khách ngoài thành, anh ta đã ngó ra ngoài với nhiều mong đợi.

Quả nhiên, Tần Tự thấy được Vương Trăn!

Tần Tự im lặng, anh ta đợi một lời giao hẹn từ Vương Trăn.

Tất nhiên, Vương Trăn không khiến anh ta thất vọng.

"Nghe nói Vu Đức thích ăn điểm tâm của Thái Kỳ trai nhất. Thái Kỳ trai chỉ kinh doanh ở Thịnh Kinh chứ không có chi nhánh ở đâu khác. Nếu không được ăn thêm một lần nữa, chẳng phải sẽ nuối tiếc đến tận cuối đời sao?"

Hai mắt Tần Tự bừng sáng: "Đại nhân..."

Vương Trăn cười: "Thích thì cứ ăn nhiều lên nhé."

Phía tây, vầng mặt trời từ từ lặn xuống. Đằng đông, mảnh trăng sáng dần dần ngoi lên.

Vương Trăn và người hầu đứng trong đình Thập Lý, dõi theo ba cỗ xe ngựa đưa Tần Vu Đức rời khỏi Thịnh Kinh. Tần Tự ngồi trong xe, trên tay là điểm tâm Thái Kỳ trai Vương Trăn đưa cho. Anh ta mở hộp ra ăn một miếng. Tần phu nhân lấy làm lạ: "Phu quân xưa nay có chuộng những của ngọt này bao giờ đâu?"

Tần Tự cười lớn: "Phu nhân nhầm rồi đấy. Từ nay về sau, Tần Vu Đức ta sẽ thích đồ ngọt!"

Hai đảng tranh chấp, có được có mất, nhưng ty Độ Chi sau cuộc chiến này coi như chấm hết.

Triệu Phụ đã từng trách cứ các đại thần trên điện Thùy Củng, chất vấn rằng họ thực sự cho rằng Thái Tổ bãi bỏ Tam Ty chỉ để làm suy yếu quyền Tể tướng, củng cố hoàng quyền sao? Các quan lớn trong điện im phăng phắc, không ai trả lời ông ta. Lúc đó, ngoài hoàng đế và các đại quan nhất phẩm, nhị phẩm ra thì chỉ còn một Khởi Cư lang và một Khởi Cư xá nhân trong điện.

Tiếc rằng hai người này trời sinh ngu độn, tuy có lòng trung thành, nhưng trước những chuyện thế này thì chỉ biết nhắm mắt bịt tai, không dám nghe cũng chẳng dám nghĩ.

Câu hỏi này sau đấy bị Vương Trăn coi như truyện tiếu lâm, kể lại cho Đường Thận nghe chơi.

Đường Thận nghe xong, tí nữa thì cười phá lên.

Thái Tổ ấy à?

Thái Tổ là một tay mãng phu chính hiệu kia mà!

Một tướng quân thô lỗ giành lấy giang sơn từ chiến trường máu lửa!

Còn lí do nào khác để Thái Tổ loại trừ Tam Ty ngoài mục đích hạn chế quyền lực thừa tướng? Chẳng nhẽ ông ta vẽ ra nổi cái gì cao siêu lắt léo hơn?

Triệu Phụ mượn uy Thái Tổ để chặn miệng bốn vị tướng công, miễn cho họ nhì nhằng đòi tái thiết Tam Ty thêm lần nữa. Sau vụ ty Độ Chi, cả Kỷ đảng lẫn Vương đảng đều tổn thất, riêng Triệu Phụ làm Lã Vọng buông câu, ung dung quan sát bề tôi tranh giành đấu đá.

Nhưng có thật là chỉ mình hoàng đế được lợi chăng?

Triệu Tĩnh bị cách chức, Kỷ Ông Tập mất đi cánh tay đắc lực nhất trong triều của mình, Triệu Phụ càng yên tâm hơn về phe Tả tướng.

Tần Tự bị cách chức, Vương Trăn mất đi một thuộc hạ giỏi giang, Triệu Phụ đôn một người thuộc phe Tả thừa Trần Lăng Hải lên ghế Hữu thị lang bộ Hộ. Song ngoài chuyện đó ra, Vương Trăn hoàn toàn không sứt mẻ chút nào. Trái lại, Triệu Phụ còn giao phó ty Ngân Dẫn cho chàng toàn quyền quyết định, tin dùng hơn cả trước.

Ty Ngân Dẫn mới được thiết lập ở Tây Bắc, chủ yếu quản lí lương thực và tiền lương cho quân sĩ.

Hồi tháng tư, Đường Thận lén gửi sổ con cho Vương Thuyên, chỉ sau mấy ngày, Vương Thuyên đã viết một bản tấu dâng lên hoàng đế. Lúc ấy, Triệu Phụ đang tràn trề thất vọng với ý tưởng "lấy giấy làm tiền", bực bội không vui mãi.

Triệu Phụ đã ngoài sáu mươi, suốt ba mươi năm trị vị, ông ta đã lập nên nhiều công trạng vẻ vang. Tỷ như năm Khai Bình thứ mười, Triệu Phụ tuyên chiến với nước Liêu, kết thúc bằng một hòa ước giữa hai nước. Tỷ như năm Khai Bình thứ mười bảy, Triệu Phụ cho người sửa trị Hoàng Hà, giảm thiểu đáng kể nguy cơ lũ lụt. Mới hơn thì cách đây hai năm, Triệu Phụ ra lệnh xây dựng ba tuyến quan đạo kết nối miền Bắc, một công trình mà đến trăm năm sau vẫn có sức ảnh hưởng to lớn.

Làm một minh quân, Triệu Phụ nghĩ, mình đã xứng đáng lưu danh thiên cổ rồi.

Nhưng nếu hoàn thành được việc "thay tiền bằng giấy", ông ta càng có cơ hội trở thành vị đế vương hiển hách nhất trong hàng nghìn năm lịch sử.

Vương Thuyên vẽ ra cho ông ta một viễn cảnh phi thường, nói rằng có thể lấy cải cách thuế ruộng làm bình phong để phổ biến tiền giấy. Kết quả thì sao? Cả Kỷ Ông Tập lẫn Vương Thuyên, hai tể tướng đầu triều hợp sức mà sự vẫn đổ bể! Hôm nay Vương Thuyên lại bảo ông ta rằng tâu hoàng thượng, nếu chúng ta không mượn đường cải cách thuế ruộng được, thì chúng ta mượn nẻo tiền lương quân đội Tây Bắc. Lấy tình hình chiến sự Tây Bắc làm vỏ bọc, âm thầm tiến hành công cuộc "dùng giấy thay tiền"!

Triệu Phụ tuy bán tín bán nghi, nhưng ông ta vẫn cho phép.

Ty Ngân Dẫn, ngoài mặt là cơ quan quản lí tiền lương cho ba quân, nhưng sau khi ba lối quan đạo được xây xong, Ty Ngân Dẫn Tây Bắc sẽ tự động trở thành một ngân hàng như thời hiện đại! Ty Ngân Dẫn sẽ là nơi các quan võ tập trung toàn bộ những thứ triều đình phát xuống. Nếu muốn sử dụng, bắt buộc phải có văn tự làm bằng chứng. Nhưng dần dà, ty Ngân Dẫn sẽ phát hành các loại "tiền giấy". Quân sĩ sẽ không nhất thiết phải đi đổi tiền và vật phẩm về nữa; trong phạm vi các châu Tây Bắc, họ có thể giao dịch trực tiếp bằng văn tự, ty Ngân Dẫn "chỉ nhận giấy, không nhận người"!

Đây là kế che mắt mà Đường Thận hiến cho Vương Thuyên.

Tây Bắc là nơi Đại Tống tiếp giáp với nước Liêu, quanh năm chiến loạn không ngừng nghỉ. Đây là nơi mà bàn tay của thế gia đại tộc không thể vươn tới, nên nó là thí điểm lí tưởng cho chính sách phổ biến tiền giấy. Sau khi thử nghiệm thành công và hoàn thiện kĩ lưỡng khâu chuẩn bị ban đầu, việc nhân rộng mô hình ra toàn quốc sẽ vừa đơn giản mà lại vừa hiệu quả. Khi ấy, giới quý tộc sẽ rơi vào thế bị động, muốn trở tay cũng không kịp nữa rồi.

Hiềm nỗi, công việc này vô cùng vất vả, không thể thành công trong một sớm một chiều. Chính vì thế, Triệu Phụ mới giao trọng trách cho thanh niên trai tráng Vương Trăn thay vì Vương Thuyên.

Trên triều đình, đến tận khi ty Ngân Dẫn chính thức vận hành, quần thần dẫu ôm một bụng ngờ vực cũng không hiểu nổi rốt cuộc cơ quan này đang làm cái gì.

Kỷ Ông Tập ngầm ưng thuận, để mặc cho ty Ngân Dẫn hoạt động.

Giữa mùa hè như thiêu như đốt, Đường Thận soát tấu chương xong thì trình lên Từ Bí. Từ Bí kiểm tra xong xuôi, Đường Thận đang định về chỗ mình làm thì Từ Bí lại cười bảo: "Đường đại nhân, hiện giờ triều đình nhiều việc, tấu chương ngươi phải xem sẽ tăng lên so với trước đấy."

Đường Thận dừng bước, quay lại thưa: "Hạ quan tuân mệnh."

Đến khi Đường Thận trở về phòng mình, quả nhiên sai nha khiêng một hòm tấu chương đặt lên bàn cậu. Đường Thận mở ra đọc, không chỉ có báo cáo quân sự Tây Bắc, cả tấu chương từ các vùng miền mà Từ Bí không cho cậu tiếp cận hồi năm ngoái giờ cũng trở về rồi. Đường Thận trầm tư nhìn đống tấu chương, nhắm mắt ngẫm nghĩ xem rốt cuộc hơn một năm vừa qua Từ Bí đã làm những gì.

Nghĩ xong cậu chỉ thấy tức cười.

Từ Bí chẳng làm gì cả!

Kỷ đảng bị biếm trích, Vương đảng chỗ được chỗ mất. Phe Trần Lăng Hải có một người thế chân Tần Tự, trở thành Hữu thị lang bộ Hộ. Còn Từ Bí, ông ta chẳng làm gì cả, cũng chẳng thiệt gì cả! Ông ta vẫn cứ là người vô hình trong mắt hoàng đế, một Hữu thừa có mà như không, một quyền thần không hề mang lại bất cứ mối uy hiếp nào cả.

Trong lúc đó, Hữu thị lang bộ Lại Dư Triều Sinh bước vào gian phòng của Từ Bí, vái chào: "Học trò bái kiến tiên sinh."

Từ Bí cười hiền từ với anh ta: "Hiến Chi, con và Đường Cảnh Tắc tài thật đấy. Cứ lúc cậu ta vừa đi là con xuất hiện."

Dư Triều Sinh ngạc nhiên: "Đường đại nhân vừa tới đây ạ?"

Từ Bí nói: "Ngồi đi."

Thầy trò hai người ngồi đối diện nhau, trao đổi đôi chút về học vấn rồi chuyển sang chuyện gia đình của Dư Triều Sinh. Dư Triều Sinh về Thịnh Kinh đã được nửa năm. Mấy hôm trước, vợ anh ta sinh em bé. Hôm nay Dư Triều Sinh đến đây cốt là để xin thầy đặt tên cho con mình.

Từ Bí nói: "Con thành thân hơn mười năm, cuối cùng cũng có đứa con nối dõi, cởi nỗi băn khoăn bấy lâu nay của vi sư. Chắc con cũng biết, hai năm trước vi sư còn suýt tưởng con giống Vương Tử Phong, cùng phường đoạn tụ."

Dư Triều Sinh hốt hoảng: "Vương đại nhân mà mê Long Dương ấy ạ? Làm sao tiên sinh biết được?"

Từ Bí hỏi ngược lại: "Nếu không chuộng Long Dương, thì cớ sao y đã hai mươi tám tuổi mà vẫn chăn đơn gối chiếc? Hiến Chi ơi là Hiến Chi, việc bé tẻo teo ấy con cứ ngẫm một tí là nó lộ ra ngay. Mà ắt hẳn hoàng đế của chúng ta đã biết việc này rồi. Bằng không, luật lệ Đại Tống ta không cấm Phò mã làm quan, một hôn phu xuất sắc nhường ấy, đáng lí phải được Thánh thượng ban hôn với công chúa, kết mối thân tình từ lâu rồi."

Dư Triều Sinh ngượng ngùng: "Học trò có mắt như mù."

"Thánh thượng tin sủng y như thế, khó có chuyện ngài không biết nguyên nhân y mãi bơ vơ lẻ bóng, không vợ không con lắm." Từ Bí im lặng một lát mới nói tiếp: "Thôi kệ y. Con đầu lòng của con, phải đặt tên thật hay mới được. 'Phạt kha như hà? Phỉ phủ bất khắc,' đặt là Dư Kha có được không?"

"Tạ ơn tiên sinh ban tên."

Kha là cán rìu, có thể được ví von với lễ nghĩa hoặc người quân tử mẫu mực.

Hai thầy trò lại hàn huyên thêm một lúc, Từ Bí nhấp ngụm trà, ý nhị nói: "Năm ngoái Vương Thuyên dâng tấu xin thực thi hai mươi ba điều cải cách thuế ruộng, lão phu lập tức thay đổi công việc của Đường Cảnh Tắc, chỉ cho cậu ta đọc tấu sớ từ Tây Bắc chứ không cho đụng đến các vấn đề địa phương. Ai dè năm nay, Vương Thuyên lại đề xuất lập ty Ngân Dẫn ở chính vùng Tây Bắc. Ty Ngân Dẫn, Tây Bắc... Cậu Đường Cảnh Tắc này cũng hay ho ra phết."

Năm Khai Bình thứ ba mươi, ngày hai mươi ba tháng bảy. Miền Tây Bắc, ba mươi dặm ngoài thành Yến Châu.

Đêm hè Tây Bắc cháy bỏng như rượu Thiêu Đao tử, không khí khô ran, những trận gió ào ạt không mang đến sự dịu mát mà phả từng luồng hơi oi nồng lên mặt. Hơn ba mươi tướng sĩ trẻ tuổi trong trang phục đi đêm núp sau một gò núi nhỏ, lẳng lặng quan sát phía trước.

Ở giữa đội ngũ là một tướng quân với gương mặt sáng láng điển trai, nước da ngăm đen và thân hình cao lớn. Cặp mắt sáng quắc của hắn ghim chặt vào con đường nhỏ gập ghềnh dưới chân gò núi. Ánh trăng rọi vào đôi mắt đầy nhiệt thành, hừng hừng như có lửa.

"Cà rộp... cà rộp..."

Có tiếng ngựa xe vọng lại từ đằng xa.

Chừng một khắc sau, một toán người Liêu thoạt trông như một đội lái buôn băng ngang gò núi nhỏ. Toán người đó đi tới giữa hai tảng đá đồ sộ; bất thình lình, tay lái buôn đầu đoàn sa vào hố bẫy, cả đoàn ngựa thồ hoảng loạn, rối tung cả lên.

"Mai phục, có mai phục!" Toán người Liêu hét ầm lên, nói liên thoắng bằng ngôn ngữ của họ.

Trên gò núi, một mũi thương Nhạn Linh vừa tuốt khỏi vỏ ngay tức thì, ánh thương sáng lóa như tuyết. Lý Cảnh Đức gầm lên: "Quân Phi Long ở đâu!"

Trong đêm trăng, ba mươi tướng sĩ dạ ran váng trời: "Ở đây!"

"Xông pha theo bản tướng quân!"

"Rõ!"

Quân Liêu ngụy trang thành lái buôn nghe tiếng reo hò rung trời chuyển đất thì sợ vãi linh hồn, vội nhìn lên gò núi. Té ra địch chỉ có mấy chục mống người! Chỉ mấy chục người mà khí thế cứ như thiên quân vạn mã. Binh tướng nước Liêu tức tối chửi ầm lên, rút phắt khảm đao từ xe ngựa ra, xông vào trận chiến.

Dưới ánh trăng vằng vặc, binh khí cắm vào thịt da, máu đào tung tóe.

Chòm tua trắng dưới mũi thương Nhạn Linh đỏ ngầu.

Sau trận chém giết, quân Tống bắt giữ được mấy tướng sĩ Liêu làm tù binh, tịch thu toàn bộ lương thảo, tiền bạc cho quân đội mà đoàn xe thồ theo.

Một người Liêu bị áp tải đến trước mặt Lý Cảnh Đức: "Thưa tướng quân, chỉ huy của toán quân Liêu đã chết, kẻ này hình như có chức quan cao nhất trong đám tù binh. Y không phải lính Liêu mà là quan văn. Ban nãy, toán quân kia đang hộ tống y thì bị quân ta tóm gọn."

Lý Cảnh Đức chùi máu trên mặt bằng tay áo: "Phải quan lớn không?"

Viên quan người Liêu thế mà biết nói tiếng Tống, chửi toáng lên: "Thằng súc sinh Lý Cảnh Đức! Chỉ nay mai thôi, quân Liêu tao sẽ đánh rốc tới thành U Châu, chặt đầu mày bêu trước cổng thành!"

Chớp mắt, mũi thương bạc cắm phập vào ngực tên quan Liêu. Y ngỡ ngàng, chết rồi mà vẫn không hiểu tại sao có kẻ dám giết tù binh, nhất là một tù binh đáng lẽ sẽ hữu dụng như mình.

"Mẹ cha nhà mày. Thấy bố mày im im, mày tưởng bố không biết cáu hả?"

Lính Tống cũng đến bó tay với chủ tướng: "Kìa tướng quân!"

"Rút thôi, khuân hết đống chiến lợi phẩm này về, trình lên Đại nguyên soái đòi khao thưởng."

Nếu không nhầm thì đình Thập Lý (mười dặm ngoài) nơi để tiễn người nào đi xa lần cuối.

Chú thích

Tớ tra tự điển thì thấy: 粮 (lương) – lương thực, 饷 (hướng) – tiền lương của quân sĩ/chi cho quân đội, 俸 (bổng) – tiền lương của quan lại. Từ những từ này mà chúng ta có các từ Hán – Việt như lương hướng (giờ đã ít dùng rồi), hay lương bổng (vẫn còn phổ biến) :) Riêng từ 军饷 (quân hướng) MTH dùng khá nhiều thì nó bao gồm cả tiền lương và lương thực, Hán Việt tự điển cũng giải nghĩa là lương thực dùng trong quân đội, nên tớ sẽ chuyển ngữ linh hoạt thành tiền lương/quân lương theo ngữ cảnh.

Trích bài thơ Đẽo rìu 1 – Kinh Thi. Bản dịch Nguyễn Văn Thọ:

Cán rìu phải đẽo làm sao?

Không rìu đẽo cán, cán nào đẽo xong.

Nhạn Linh thương là loại thương có hai cánh móc ngược. Khi bổ xuống hoặc bổ ngang, hai móc này sẽ gây sát thương cho đối thủ. Hình dáng mũi thương như một con ngỗng trời đang bay nên có tên là Nhạn Linh (lông ngỗng trời).

Khảm đao là loại đao dùng để chặt, phạt, vừa được dùng trong canh tác vừa được phát triển thành vũ khí.

Chương 83

Chinh Tây nguyên soái Lý Cảnh Đức

Năm Khai Bình thứ ba mươi, tháng chín, hai lối quan đạo dẫn đến U Châu và Thứ Châu đã hoàn thành.

Thượng thư bộ Công Viên Mục và Hữu thị lang Tô Ôn Duẫn hồi kinh, báo cáo lên Thánh thượng. Hoàng đế vui mừng khôn xiết, thưởng lớn cho quần thần. Thật sự thì đường đi Thứ Châu có thể xây xong từ lâu rồi, nhưng sau vụ sập cầu sông Kinh Hà thì không ai có gan bớt xén nữa. Tất cả đều cố gắng làm chu đáo nhất có thể, thành ra đến tận bây giờ mới xong.

Tô Ôn Duẫn về kinh, một mình đảm đương hai chức Hữu thị lang bộ Công và Thiếu khanh Đại lý tự, tiếng tăm nổi như cồn, trở thành nhân vật có sức nóng hàng đầu Thịnh Kinh.

Tô gia ở Bắc Trực Lệ là dòng tộc thịnh vượng nhất nhì Đại Tống, nhưng con cháu Tô gia chủ yếu theo nghiệp võ, đằng quan văn chỉ có Tô Ôn Duẫn đang giữ chức cao nhất.

Tô Ôn Duẫn về kinh là phải đến điện Cần Chính làm việc.

Đường Thận không thể tránh được việc giáp mặt đối phương đôi ba bận. Mỗi tội Tô đại nhân là quý nhân hay quên, thì giờ đâu mà chú ý đến Đường Thận. Hai người không đối đầu nhau lần nào nữa, nên Đường Thận rất chi là vui sướng thảnh thơi.

Thiếu khanh Đại lý tự là người phụ trách xử lí quan viên có tội trên cả nước, chẳng ai dại làm mích lòng Tô Ôn Duẫn cả.

Trên triều đình, Vương Trăn phụ trách ty Ngân Dẫn, quyền hành không hề nhỏ. Nước nổi thuyền lên, Đường Thận là sư đệ của Vương Trăn nên càng được Triệu Phụ coi trọng. Dù vậy, Đường Thận chung quy vẫn là Trung Thư xá nhân dưới quyền Từ Bí.

Hôm ấy, có Thái giám đến điện Cần Chính truyền lời rằng sắp đến ngày mừng thọ hoàng đế, Thái hậu dặn dò bộ Lễ phải chuẩn bị "Tiết Vạn Thọ" năm nay thật chu đáo.

Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng nhận dụ lệnh, cả triều đình lại bận bù đầu.

Là Trung Thư xá nhân, Đường Thận theo lệnh Từ Bí, bắt tay vào rà soát tấu chương chúc thọ và lễ lạt các địa phương dâng lên. Quà mừng thọ của hoàng đế đâu thể giống quà sinh nhật của thường dân. Dù anh có làm quan ở đâu, phẩm cấp lớn nhỏ ra sao, cũng phải dâng quà mừng thọ tuốt. Chưa kể, lễ vật dâng vua phải chú trọng ba chữ "tinh", "trân", "kỳ". Riêng việc tìm một món quà "tinh túy" đã khiến các quan phải vò đầu bứt tóc rồi, nữa là "quý" và "hiếm".

Thế là tự dưng, Đường Thận phải tiếp nhận hàng núi tấu chương. Tấu chúc thọ của bá quan thì văn vẻ bay bướm, còn quà cáp thì khỏi nói, món nào món nấy đều xa xỉ vô cùng.

Tả thừa Trần Lăng Hải cũng phụ trách "Tiết Vạn Thọ" năm nay. Đường Thận không tránh được việc tiếp xúc với ông.

Trần Lăng Hải gọi Đường Thận vào gian làm việc của mình, hỏi: "Tình hình quà mừng của quan viên các chốn thế nào rồi?"

Đường Thận bèn giả ngơ hộ các quan: "Bẩm Trần tướng công, các miền Hồ Tây, Giang Nam, Nam Bắc Trực Lệ, Tây Bắc đều đã dâng tấu và quà mừng. Những địa phương khác cũng đã gửi tấu chúc mừng, hiềm nỗi đường xá xa xôi, quà mừng thọ của nhiều địa phương vẫn còn đang trên đường vận chuyển, tạm thời chưa tới ạ."

"Tiết Vạn Thọ năm nào cũng tổ chức. Mọi năm ra sao, bản quan còn lạ gì nữa."

Ngụ ý: Quan lại những miền thâm sơn cùng cốc có thể tặng cái gì, chớ mất công lấp liếm, mọi người đều biết tuốt đấy.

Đường Thận nghe thế thì cười gượng: "Hạ quan vẫn đang đôn đốc kiểm tra ạ."

Trần Lăng Hải: "Thực ra cũng không cần gay gắt quá. Bệ hạ hằng ngày thức khuya dậy sớm, cần mẫn lo việc nước việc dân. Quyết định của bệ hạ có ảnh hưởng trên toàn bờ cõi, nhưng bao giờ cũng có những địa phương chưa kịp hay tin. Quà mừng thọ chỉ cần nhập kho là được. Bệ hạ biết các quan địa phương gian lao vất vả, chưa bao giờ khiển trách nặng nề cả."

Nghe xong, Đường Thận lập tức hành lễ: "Hạ quan đội ơn tướng công chỉ điểm."

Trần Lăng Hải nở nụ cười, vuốt chòm râu: "Năm nay là lần đầu ngươi tham gia chuẩn bị Tiết Vạn Thọ, chắc chắn còn nhiều bỡ ngỡ, hướng dẫn một câu cũng không hại gì. Vả lại, lão phu với thầy ngươi là chốn bạn cũ. Thời tiên đế, ta và Phó Hi Như đều thuộc tứ nho thiên hạ. Nay hồi tưởng lại, những năm tháng ấy vẫn còn rõ như in."

Đường Thận cung kính thưa: "Gia sư cũng từng kể cho hạ quan nghe về Trần tướng công. Tiên sinh nói rằng Trần tướng công am hiểu nhất là vẽ hoa cỏ và chim chóc. Giữa muôn hoa khoe sắc, một chú vàng anh lấp ló giữa bụi hoa, sinh động y như thật, khiến ai ai cũng phải trầm trồ."

Sau khi rời khỏi phòng Trần Lăng Hải, Đường Thận trở về chỗ mình làm. Trong đầu cậu bộn bề suy nghĩ nhưng mặt mũi thản nhiên như không. Cậu tiếp tục rà soát danh sách quà tặng các địa phương gửi về.

Hơn ba mươi năm về trước, có bốn vị đại nho đức cao vọng trọng, được cả nước tôn xưng là "tứ nho thiên hạ". Bốn người ấy theo thứ tự là Chung Thái Sinh, Lương Bác Văn, Phó Hi Như và Trần Duy Chỉ.

Trần Lăng Hải, tự Duy Chỉ, lấy từ bài Huyền Điểu trong Kinh Thi.

Bang kỳ thiên lý, duy dân sở chỉ, triệu vực bỉ tứ hải1.

(TQP dịch: Kinh kỳ ngàn dặm rộng thay, là nơi bách tính tụ vầy ở chung, mà lĩnh vực xa cùng bốn biển)

Trong bốn người, Chung Thái Sinh thành danh nhờ học vấn đồ sộ khiến ai ai cũng choáng ngợp, được cả thiên hạ kính ngưỡng; Lương Bác Văn có kiến thức uyên thâm, từng được ngợi ca là tủ sách sống của Đại Tống. Phó Hi Như có sở trường thư pháp, Trần Duy Chỉ thạo nhất vẽ tranh. Thời bấy giờ, bốn người này là nhóm quyền thần ưu tú nhất triều đình. Chỉ tiếc Chung Thái Sinh và Lương Bác Văn thuộc đảng Tùng Thanh, sau khi ép vua nhường ngôi thất bại thì bị Triệu Phụ chán ghét. Thế nên hơn mười năm qua, chỉ có Phó Hi Như và Trần Lăng Hải bảo toàn được bản thân.

Đường Thận khá để mắt đến Trần Lăng Hải, chủ yếu là vì trước đây khi soạn di vật của Lương Tụng, Từ Tuệ phát hiện một bức mật thư Trần Lăng Hải gửi cho ông. Trong thư, Trần Lăng Hải khuyên bạn thân đừng cố gắng cứu Chung Nguy ra khỏi thiên lao nữa, vì hoàng đế sẽ không bao giờ thả Chung Nguy. Việc hoàng đế đã không muốn, dù Lương Tụng có viết bao nhiêu bản tấu, cậy nhờ bao nhiêu mối quan hệ đi chăng nữa, cũng không thể thực hiện được.

Sau khi đảng Tùng Thanh bị Triệu Phụ triệt hạ, trong giới quyền thần ở Thịnh Kinh, chỉ còn Phó Vị và Trần Lăng Hải chịu giang tay giúp Lương Tụng.

Đường Thận thở dài.

Quân tử có việc nên làm, có việc không nên làm.

Chẳng lẽ Lương Tụng không hiểu ư?

Biết rõ không thể mà vẫn quả quyết thực hiện, là bởi đối với họ, việc ấy không chỉ là đức tin mà còn là chính đạo nữa!

Tháng mười, viện Hàn Lâm bắt đầu soạn lại Tống Thần sử, Phó Vị hết sức hào hứng với công trình này, ngày nào cũng đến viện Hàn Lâm, dần dần trở nên bận bịu hơn. Chẳng mấy chốc là đến mùng sáu, Đường Thận đi tay không vào phủ Thượng thư.

Quản gia nhà Vương Trăn thấy Đường Thận không mang quà cáp gì thì lấy làm lạ, ngó nghiêng sau lưng cậu.

Quản gia hỏi: "Đường tiểu công tử đến một mình ạ?" Chẳng thấy xe ngựa đi theo!

Ở phủ Vương Trăn, quản gia và người hầu xưa nay không gọi chủ là "đại nhân" mà gọi là "công tử".

Đường Thận cười bất đắc dĩ: "Không có xe ngựa đâu."

Quản gia im thít, dẫn Đường Thận vào phủ.

Vương Trăn thấy Đường Thận chẳng đem theo cái gì, cũng nhíu mày, ngó ra sau lưng cậu.

Đường Thận đằng hắng: "Sư huynh đừng có nhìn nữa, hôm nay đệ không mang theo quà tặng đâu."

Vương Trăn gọi quản gia: "Mang hoàng lịch năm nay đến đây."

Quản gia lấy ngay một quyển hoàng lịch cho Vương Trăn. Vương Trăn giở lịch một hồi, chỉ vào hàng chữ "mùng sáu tháng mười", hỏi Đường Thận: "Chẳng lẽ ta nhớ nhầm nhỉ? Tiểu sư đệ, mùng sáu tháng mười không phải sinh nhật ta à?"

Đường Thận: "... Đúng là sinh nhật sư huynh."

Vương Trăn: "Thế thì hoàng lịch này sai rồi. Mùng một Tết hàng năm, Khâm Thiên giám đều tính toán kĩ càng rồi mới công bố hoàng lịch năm ấy cho cả thiên hạ. Ai biết đâu Lý đại nhân Khâm Thiên giám lại tính nhầm kiểu này. Ngày mai lên triều gặp ông ta, kiểu gì ta cũng phải phê bình ông ấy mới được."

Đường Thận: "..."

Vương Tử Phong, cái tài nói bóng gió chỉ để mắng khéo người ta chưa tặng quà cho huynh ghê gớm quá rồi đấy!

Quản gia cầm hoàng lịch lui khỏi phòng, Đường Thận cũng giận lẫy. Cậu quen Vương Tử Phong đã bốn năm nay, vuốt mòn cả mông cọp rồi, còn bài nịnh nào mà chưa hót cho nhau nghe đâu. Đường Thận hứ một tiếng: "Ai bảo ta chưa chuẩn bị quà cho sư huynh?"

Vương Tử Phong cười tươi như hoa: "Thế để ở đâu rồi?"

Đường Thận: "Lấy giấy bút đi, ta vẽ chân dung cho sư huynh!"

Mười sáu tuổi đỗ Thám hoa, về mặt học vấn Đường Thận cực kì tự tin là mình dư sức đỗ tiến sĩ. Riêng khoản cầm kì thi họa, Đường Thận để mọc rêu lên mốc bấy lâu nay, nói trắng ra là không có gì để thể hiện cả. Biết Đường Thận muốn vẽ tranh, Vương Trăn cười tít mắt, lập tức sai thư đồng sắp sẵn giấy mực, chờ xem Đường Thận vẽ chân dung mình thế nào.

Mài mực rồi chấm bút, Đường Thận nhìn Vương Trăn, bắt đầu họa lên giấy.

Ban đầu Đường Thận đánh liều mới quyết định vẽ tranh ngay tại chỗ. Nhưng càng đi bút, cậu càng nhập tâm hơn.

Sau nửa canh giờ, Đường Thận nhấc nét bút cuối cùng. Vương Trăn bước tới, ngắm nghía một lúc rồi liếc nhìn cậu: "Lén luyện bao lâu hả?"

Đường Thận ngượng nghịu: "Sư huynh phát hiện ra rồi à? Thực sự đệ chẳng biết tặng gì cho huynh vào sinh nhật năm nay cả. Nghĩ mãi nghĩ hoài mới ra ý tưởng vẽ chân dung sư huynh đó. Đệ không giỏi vẽ, mỗi ngày đi làm về đều phải tưởng tượng ra dáng vẻ sư huynh rồi vẽ hai bức, luyện nửa tháng... mới được như hôm nay."

Vương Trăn cảm động thực sự, môi chàng mấp máy, hiếm hoi lắm mới có lúc lời lẽ trôi tuột đi đâu mất tiêu.

Đường Thận: "Mỗi tội sang năm đệ thực sự không nghĩ ra mình có thể tặng sư huynh quà gì nữa. Nếu đến lúc ấy không được, sư huynh đừng trách đệ nha."

Niềm sung sướng ngập tràn cõi lòng, Vương Trăn dịu dàng bảo: "Sao ta lại trách đệ được?"

Đường Thận nghĩ thầm: Huynh không trách ta thì tốt, ta cứ phải rào trước từ năm nay, huynh nhớ lời mình nói hôm nay đấy.

Hai người ăn tối với nhau, Vương Trăn bảo: "Kỹ thuật vẽ của đệ có chút thiếu sót, tối nay ở lại đi, ta chỉ điểm cho đệ."

Đường Thận than thầm trong lòng: "Kìa sư huynh, ba năm trước ta đỗ Thám hoa rồi kia mà, có còn là đệ tử của huynh đâu!"

"Ai bảo đệ là đệ tử của ta?" Vương Trăn thản nhiên, "Đệ là sư đệ của ta cơ mà."

Đường Thận: "..."

Người khác thì chong đèn tâm sự thâu đêm, cùng khêu ngọn nến sáng ngời song Tây2. Đến lượt Đường Thận thì thành Vương Tử Phong dạy cậu vẽ!

Vương Trăn vẽ giỏi thì có can hệ gì đến Đường Thận chứ! Đường Thận hoàn toàn không thể cảm thụ được sự diệu kì trong hội họa cổ đại. Cậu vẽ được chân dung Vương Trăn đã là nhờ bí mật luyện tập nửa tháng trời. Vương Trăn dạy giỏi đến mấy thì Đường Thận cũng thấy như bị tra tấn. Cuối cùng cậu đành giở bài vờ buồn ngủ: "Sư huynh ơi đệ muốn đi ngủ."

Vương Trăn phì cười.

Đường Thận nhân cơ hội đấy chạy biến sang phòng cho khách, đóng cửa ngủ tít thò lò.

Vào lễ mừng thọ của Triệu Phụ, cả nước hân hoan ăn mừng, đại xá thiên hạ.

Nhưng chỉ được vài hôm, tin cấp báo từ Tây Bắc vượt tám trăm dặm truyền về, chiến tranh đã nổ ra, người Liêu tấn công thành U Châu, giằng co ròng rã mấy ngày trời.

Bá quan triều đình bàng hoàng sửng sốt.

Trên ngai rồng, Triệu Phụ chậm rãi nheo mắt. Các quan lần lượt bước lên, mắng chửi người Liêu không tuân thủ hòa ước, thỉnh cầu hoàng đế ra quân đánh Liêu. Triệu Phụ giận ngút trời: "Người Liêu láo xược quá thể! Làm sao mà trẫm dung túng được!"

Vì thế, nhà Tống xuất quân, hai nước đánh nhau to.

Cuộc chiến này kéo dài tròn một tháng.

Tác dụng của quan đạo U Châu được bộc lộ triệt để.

Về tiềm lực quân sự, xưa nay Đại Tống vẫn thua Liêu. Hai mươi năm trước, để buộc nhà Liêu kí hòa ước, quân dân Đại Tống đã phải hi sinh đến hòn tên mũi đạn cuối cùng, xả thân giữ nước mới có thể giành chiến thắng trong gang tấc. Trái lại, về mặt kinh tế, Đại Tống bỏ xa cả năm nước Liêu! Có quan đạo U Châu, tốc độ vận lương được tăng chóng mặt, quân Tống dù yếu thế trên mặt trận cũng có thể cầm cự lâu dài.

Quân Liêu công thành U Châu, tưởng là ngon ăn, chỉ nội trong mười ngày là hạ được thành. Nào ngờ đánh suốt cả một tháng trời, quân Tống không thắng, nhưng người Liêu cũng bị cầm chân ở U Châu.

Chiến tranh là cái lò hóa vàng khổng lồ. Nhà Liêu đã bao giờ có ý định thôn tính cả Đại Tống đâu. Mục đích của họ là dùng sức mạnh quân sự để dồn ép Đại Tống phải cống tiền, cắt đất. Hiện giờ, thấy đánh mãi mà không hạ được U Châu, vua Liêu bèn vờ như rộng lượng, ra lệnh ngừng công thành, tạm thu quân về đóng ở cách thành U Châu năm mươi dặm, phái sứ giả đến Thịnh Kinh, đàm phán hòa bình với vua Tống.

Tin tức truyền đến Thịnh Kinh, quần thần tranh luận ầm ĩ.

Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng tâu: "Người Liêu lòng muông dạ thú, nhất định chúng lại muốn đòi tiền bạc đây!"

Thượng thư bộ Lại Thẩm Vận không tán thành: "Chắc gì. Nghe nói vua Liêu có ý định hòa thân đấy."

Tin tức này có khác nào đòn sấm sét giáng xuống điện Tử Thần đâu. Chẳng những các quan chết trân, mà hoàng thân quốc thích không có mặt ở đây cũng ngã ngửa.

Hòa thân ư?

Vua Liêu ba mươi tư tuổi, đương độ tráng niên, về lí thì là một tấm chồng tuyệt hảo. Khốn nạn thay, Liêu đế xưa nay nổi tiếng là hung tàn! Trừ Tiêu Hoàng hậu ở ngôi chính cung, hậu cung vua Liêu hàng năm có đến mười mấy phi tần bị đức vua dày vò đến nỗi bỏ mạng. Gả công chúa sang Liêu có khác nào gửi vào chỗ chết? Còn bị ngược đãi đến chết nữa!

Nhưng không gì hãi hùng bằng việc Triệu Phụ chẳng có công chúa nào đến tuổi cập kê mà chưa lấy chồng hết cả!

Không có công chúa thì gả ai bây giờ?

Hàng đầu xin mời con gái vương tôn, hàng hai xin nhường con nhà quan lại.

Tin dữ ập đến, cả thành Thịnh Kinh nước mắt sụt sùi. Ai mà muốn cục vàng cục bạc nhà mình bị đày ải nơi đất khách quê người chứ?

Chuyện này vốn chẳng can hệ gì đến Đường Thận, nhưng các đại thần trong điện Cần Chính mà có con đến tuổi cập kê thì suốt mấy hôm nay chỉ thở vắn than dài, âu sầu thiểu não. Cứ một người thở than là mười người phụ họa, không khí càng thêm ai oán não nề.

Đường Thận phải mang sổ tấu đến phòng Thượng thư bộ Công có việc, vừa đi ra thì gặp Tô Ôn Duẫn.

Hai người đứng ngoài phòng, nghe tiếng Viên Mục thở dài vọng ra.

Viên Mục không có con gái đến tuổi cưới giả, nhưng cháu gái ruột của ông thì vừa khéo!

Tô Ôn Duẫn cười nhạt: "Đoàn sứ giả nước Liêu còn chưa đến nơi, triều đình đã loạn cào cào rồi. Giờ mà họ đến thật thì chẳng biết thành cái gì nữa."

Đường Thận làm thinh, chỉ thi lễ rồi toan ra về.

Đúng lúc ấy có một người lính mặc quân phục đi thoăn thoắt vào phòng Kỷ Ông Tập. Đường Thận và Tô Ôn Duẫn cùng liếc nhau. Đường Thận thấy áo giáp của người lính đó hơi lạ, trên tay áo có một dấu hiệu màu vàng.

Đường Thận thắc mắc: "Sao chưa bao giờ thấy binh sĩ mặc giáp ấy nhỉ?"

Tô Ôn Duẫn phì cười, giễu cợt cậu: "Lính Tây Bắc đấy, quân Phi Long."

Đường Thận giật mình.

Quân Phi Long ư?

Liếc Tô Ôn Duẫn một cái, Đường Thận không nói gì thêm, quay gót ra về ngay.

Đến chiều tối tan làm, Đường Thận cuối cùng cũng biết cậu binh sĩ quân Phi Long kia vượt muôn trùng xa xôi từ Tây Bắc về Thịnh Kinh có việc gì. Nói ra thì cũng quá trùng hợp. Trong lúc các quan triều đình đang sốt xình xịch xem liệu đoàn sứ Liêu có định rước công chúa về hòa thân với vua Liêu hay không, thì phu nhân của Chinh Tây nguyên soái Lý Cảnh Đức, người đang trực tiếp chống Liêu ở U Châu, vừa qua đời cách đây ba hôm vì bệnh tật, chỉ để lại đứa con thơ bốn tuổi.

Lý Cảnh Đức chinh chiến trên tiền tuyến, vợ con đều ở lại Thịnh Kinh. Hiện giờ hai bên đình chiến, sứ Liêu vào kinh, Lý Cảnh Đức tranh thủ về chịu tang vợ, mà cũng nhân cơ hội canh chừng nhất cử nhất động của người Liêu ở kinh thành.

Lúc này, Đường Thận mới sực nhớ ra hồi mình làm Khởi Cư lang, đã được nghe người ta nhắc đến ba tâm phúc trong triều đình được Triệu Phụ tin yêu nhất.

Ba người ấy chính là Thượng thư bộ Hộ Vương Trăn, Thiếu khanh Đại lý tự Tô Ôn Duẫn, và Chinh Tây nguyên soái Lý Cảnh Đức!

Thì ra, Lý Cảnh Đức đã thành thân từ lâu, còn có con luôn rồi.

Nhưng Lý tướng quân ba mươi hai tuổi, có vợ con là chuyện quá bình thường.

Nghĩ đến đây, Đường Thận bỗng dưng ngây người, chẳng hiểu sao lại nhớ tới một chuyện...

Ủa, Vương Tử Phong đã hai mươi tám rồi, sao vẫn chưa thành thân nhỉ?

Chú thích

[1] Chu Hy giảng rằng bài Huyền điểu nói về sự kiện dời đô của vua Thành Thang. 3 câu trên mô tả kinh đô, nơi dân chúng ở chỉ rộng ngàn dặm mà cảnh vật thì rộng xa bốn biển. (Kinh Thi – Tạ Quang Phát dịch – NXB Đà Nẵng)

[2] Bỉnh chúc dạ đàm và cộng tiễn Tây song đều chỉ tâm sự thâu đêm. "tiễn" trong câu thứ 2 chỉ hành động cắt bớt tim đèn cho nến sáng hơn, không bị khói. Câu này thuộc bài thơ Dạ vũ ký bắc của Lý Thương Ẩn thời Đường.

Chương 84

Gài bẫy tiểu sư đệ của ngươi!

Nhà có cô em gái khuê nữ nên Đường Thận tìm hiểu kĩ chuyện cưới xin của nam nữ thời đại này.

Khai Bình hoàng đế Triệu Phụ có lệnh: "Nam giới từ mười sáu tuổi, nữ giới mười bốn tuổi trở lên được phép bàn chuyện hôn nhân." Tức là con trai mười sáu tuổi và con gái mười bốn tuổi là có thể đính hôn với nhau, thậm chí là dựng vợ gả chồng ngay. Mặc dù thế, trai gái thời này không nhất thiết cứ mười sáu tuổi, mười bốn tuổi là bắt buộc phải kết hôn.

Từ trước đến giờ, Đường Thận vẫn nghĩ rằng em gái mình nên chờ đến năm mười tám tuổi.

Kỳ thực ở thời cổ đại, những cô gái mười tám tuổi mới lập gia đình không hề ít.

Mười tám tuổi chưa bị coi là quá lứa lỡ thì, nhưng phần lớn những cô gái ấy đều là đính hôn từ hai năm trước, chỉ chờ đến mười tám tuổi rồi cưới thôi.

Đàn ông con trai càng thoải mái hơn, vì nam giới hai mươi tuổi mới làm lễ đội mũ, nên đâu đâu cũng có những chàng trai hai mươi tuổi chưa lập gia đình.

Nhưng dù thế nào đi chăng nữa, Vương Trăn đã hai mươi tám tuổi rồi, hai tám tuổi còn chưa thành thân...

Bình thường ở bên Vương Trăn, Đường Thận chẳng bao giờ nghĩ sư huynh mình lớn tuổi cả, bởi Vương Trăn chẳng những phong nhã tuấn tú mà còn lỗi lạc hơn người. Vả lại, cậu là người hiện đại, ở thời của cậu, tuổi hai tám vẫn còn trẻ trung, hào hoa lắm. Nhưng bây giờ nghĩ lại mới thấy, con các quan bằng tuổi Vương Trăn đều đã bốn, năm tuổi rồi. Thế mà Vương Trăn chẳng có đến một cô vợ là sao nhỉ?!

Đường Thận vắt óc suy nghĩ, bỗng hốt hoảng: "Thôi chết, hay là sư huynh không 'chào cờ' được?"

Chết dở, có khi thế thật chứ đùa!

Đường Thận lắc đầu quầy quậy, ra sức tống khứ cái ý tưởng kinh hoàng ấy đi.

Cứ suy nghĩ lăng nhăng thế này, rồi mất mạng có ngày!

Nếu Vương Trăn phát hiện ra Đường Thận nghĩ mình không "chào cờ" được trong khi sinh lý chàng bình thường, thì chẳng những tình huynh đệ sứt mẻ mà không khéo trở bạn thành thù ấy chứ! Còn nếu Vương Trăn không "chào cờ" được mà bị Đường Thận phát hiện ra thì...

Càng chết!

Đường Thận sợ vãi linh hồn, vội vàng nhẩm thầm ba lần "Vương Tử Phong có cưới vợ hay không, không liên quan gì đến mình" để ép bản thân quên phứt vụ này đi, mới bằng lòng bỏ qua.

Đầu tháng Chạp, đoàn sứ giả nước Liêu đến Thịnh Kinh, nghỉ tại dịch quán chuyên tiếp đón sứ thần ngoại bang.

Hôm đó, trên triều đình, các quan thảo luận dông dài mãi về vấn đề tiếp đãi sứ Liêu thế nào. Có thể dự buổi chầu trên điện Tử Thần, thấp nhất cũng là quan tứ phẩm. Thế mà hôm nay, các đại quan tam phẩm trở lên tuyệt nhiên không nói một lời, chỉ có các quan tứ phẩm sôi nổi kiến nghị, đề xuất việc chọn người đón tiếp.

Chủ khách Lang trung bộ Lễ giơ hốt ngọc, tiến lên tâu: "Sứ Liêu đến kinh thành là việc hệ trọng trong quan hệ hai nước. Tuy hiện giờ quân Liêu đóng cách thành U Châu năm mươi dặm như hổ đói rình mồi, nhưng Đại Tống là tấm gương nghi lễ cho muôn vàn nước khác noi theo, không thể sơ suất trong khâu tiếp đón được. Thần xin bệ hạ lựa chọn người ngay trong hôm nay, đặng khoản đãi sứ Liêu cho chu đáo ạ."

Tiếp đó, một quan văn khác cũng tâu: "Tôn đại nhân nói rất đúng. Thần cũng cho rằng, chúng ta cần khẩn trương tổ chức đón tiếp đoàn sứ giả nước Liêu. Theo thần được biết, lần này đoàn sứ giả gồm ba mươi hai người, trong đó có tam hoàng tử Gia Luật Hàm, và có cả Hán Nhi Ty1 Gia Luật Cần đồng hành. Nếu dựa theo quy cách bang giao giữa hai nước, Đại Tống ta cũng phải cử một hoàng tử ra tiếp đón."

[1] Chức quan phụ trách các vấn đề liên quan đến người Hán trong triều đình Liêu, có hiểu biết về người Hán.

Vị quan này vừa nói xong, các quan khác đã nhao nhao tiến cử.

Cuối cùng, Triệu Phụ cũng quyết định: "Nếu vậy, trẫm giao việc này cho Mạnh khanh. Còn hoàng tử đại diện thì," Triệu Phụ cân nhắc một lát, hờ hững nói: "Để Triệu Thượng làm."

Thượng thư bộ lễ Mạnh Lãng tiến lên thưa: "Thần lĩnh mệnh."

Hôm đó, Mạnh Lãng đã tập hợp xong đoàn sứ giả tiếp đãi sứ Liêu.

Việc Thượng thư bộ Lễ chủ trì đón tiếp sứ thần ngoại quốc rất phù hợp với quy củ từ xưa đến nay. Sau khi Mạnh Lãng nhận lệnh, nha môn các bộ đều cử người sang phụ giúp. Xui xẻo thay, Đường Thận được sai nha thông báo rằng mình cũng dính vào vụ này. Cậu thở dài, hỏi thăm sơ sơ thì phát hiện hóa ra trong đoàn sứ thần cũng có một gương mặt quen thuộc – chính là học trò tâm đắc của Từ Bí – Dư Triều Sinh!

Trong đoàn sứ giả, Mạnh Lãng là người có chức vụ và phẩm hàm cao nhất – nhị phẩm Thượng thư. Ngay dưới ông ta là Dư Triều Sinh – tam phẩm Hữu thị lang bộ Lại.

Mạnh Lãng lại gọi Đường Thận vào phòng, cố tình nói ngay trước mặt Vương Trăn: "Tuy sáng nay sứ Liêu đã đến dịch quán, nhưng chúng ta không cần tiếp đãi họ ngay ngày mai. Người Liêu tính tình nóng nảy, kiêu căng phách lối, hầu như toàn những kẻ võ biền cục cằn. Tam hoàng tử Gia Luật Hàm được phong danh hiệu Thạch Cung tướng quân, tiếng tăm lẫy lừng. Ở trường săn, y từng dùng cây nỏ2 nặng năm mươi thạch3, bắn chết một con hươu sao. Tuy nhiên, tùy tùng của y – Hán Nhi Ty Gia Luật Cần – là một kẻ cực kì lợi hại, ngươi không được khinh thường."

[2] Thạch cung là cây nỏ.

Nghe thế, Đường Thận đã có dự cảm chẳng lành.

Quả nhiên, Mạnh Lãng nói: "Trong những ngày tới, Đường đại nhân sẽ phụ trách tiếp đón sứ đoàn."

Đường Thận: "..."

Vương Trăn đang đọc tấu, nghe xong câu ấy, môi chàng nhếch lên, nhưng chàng không nói gì cả.

Mạnh Lãng cố tình liếc Vương Trăn một cái rồi mới bảo Đường Thận tiếp: "Đại Tống dĩ nhiên phải tiếp đãi sứ Liêu trọng thể, nhưng chúng ta cũng không thể lép vế được. Thờ ơ với họ vài ngày là cách để thể hiện rằng Đại Tống ta không sợ khai chiến; như thế, chúng ta có thể làm nhụt nhuệ khí của bọn họ. Cũng vì lí do đó, quan viên tam phẩm trở lên không thể ra mặt đón rước sứ Liêu được. Đường đại nhân chính là hiền tài của nước ta. Ba năm trước, đích thân lão phu đã duyệt bài thi Đình của ngươi."

Đường Thận chắp tay vái: "Ơn chỉ điểm của Mạnh tướng công, hạ quan xin khắc ghi trọn đời."

Mạnh Lãng cười: "Ân huệ gì đâu. Xét văn chương của ngươi hồi ấy, ta biết ngay, việc này chỉ có ngươi làm được, mà cũng chỉ có thể giao cho ngươi thôi. Đường đại nhân, lão phu trông cậy cả vào ngươi đấy!"

Đường Thận khổ lắm mà chỉ có thể thưa: "Hạ quan lĩnh mệnh."

Lúc ra về, Đường Thận liếc về phía Vương Trăn theo bản năng.

Vương Trăn mặc quan bào nhị phẩm đỏ thẫm, bên eo thắt miếng ngọc trắng ngần tuyệt đẹp. Không cần ngẩng đầu, Vương Trăn cũng biết Đường Thận còn đang ở trong phòng. Thế là chàng vừa giở tấu chương vừa nói: "Xem ra Mạnh đại nhân lại nhàn quá rồi nhỉ."

Mạnh Lãng cười: "Sao Vương đại nhân lại nói thế?"

"Chi bằng tối nay, ngài ghé nhà ta thưởng thức rượu đi nhỉ? Rượu ngon từ Phi Châu4 gửi đến, ắt là hợp với sở thích của Mạnh đại nhân lắm."

[4] Huyện ở Giang Tô

Mạnh Lãng nghĩ thầm, tiểu sư đệ ngươi bị ta gài bẫy ngay trước mặt mà ngươi còn mời ta uống rượu ư? Nghe đã thấy mùi Hồng Môn yến rồi, đây không đi!

"Tối nay ta có việc mất rồi, không thể làm phiền quý phủ được."

Vương Trăn cũng chỉ nói thế thôi. Đường Thận ra đến cửa lại liếc chàng một cái nữa. Cậu biết, Vương Trăn không mời Mạnh Lãng mà đang rủ mình. Vì thế, tối hôm ấy, Đường Thận ghé sang nhà chàng. Quản gia phủ Thượng thư đã đợi cậu sẵn.

Quản gia dẫn Đường Thận vào đình viện. Gió lạnh vi vu, Vương Tử Phong khoác áo đại sưởng dày dặn, ngồi giữa sân nhóm bếp đun rượu uống!

Đường Thận phì cười: "Sư huynh, ngoài trời lạnh thế này, sao huynh lại đi đun rượu?"

Vương Trăn: "Thì chẳng bảo tối nay mời khách xơi rượu đấy còn gì?"

Đường Thận nghĩ thầm: Chẳng phải huynh chỉ khách sáo thế thôi à!

Vương Trăn đã làm nóng một bình rượu, chàng rót cho Đường Thận một chén. Độ cồn của rượu thời cổ đại không cao lắm, Đường Thận uống thấy tay chân ấm áp hẳn, cả người khoan khoái, đúng là hết sức thỏa thuê.

Vương Trăn: "Ngon không?"

Đường Thận khen: "Phi Châu xưa nay vẫn nổi tiếng với rượu ngon. Rượu Phi Châu quả nhiên bất phàm."

Vương Trăn: "Rượu Kim Lăng đấy."

"... Hồi sáng sư huynh bảo là rượu Phi Châu kia mà?"

Vương Trăn: "Bịp Mạnh Lãng thôi."

Đường Thận: "..."

Đúng là Vương Tử Phong mà nói thì cái dấu chấm câu cũng không tin được!

Uống rượu xong, hai người vào nhà. Vương Trăn hỏi: "Việc hôm nay, tiểu sư đệ nghĩ Mạnh Lãng cố tình giao cho đệ là để trả thù ta phải không?

Đường Thận: "Đương nhiên là không rồi. Mạnh đại nhân đâu phải người hành động theo cảm tính. Mặc dù thỉnh thoảng ông ấy cũng làm những chuyện chẳng ra đâu, nhiều lần trêu chọc đệ," nói đến đây, Đường Thận bổng ngẩn ra. Cậu chợt phát hiện, cái lão Mạnh Lãng đúng là kẻ chuyên hành động theo cảm tính! Húng hắng ho một cái, Đường Thận nói tiếp: "Nhưng Mạnh đại nhân chọn đệ, là có nguyên nhân khác."

"Ồ?"

"Thứ nhất, ngài ấy phân tích rất chính xác. Vừa muốn cầm chân sứ Liêu, vừa muốn ra oai phủ đầu họ, vị sứ giả tiếp đón ít nhất phải là quan tứ phẩm, mà cao nhất cũng chỉ có thể là quan tứ phẩm thôi. Hàm tứ phẩm không đủ cao để đứng ra đàm phán, khiến việc của người Liêu bị trì hoãn; nhưng lại đủ cao để khiến họ không thể bắt bẻ chúng ta tiếp đãi qua loa. Tuy vậy, trong đội sứ giả, quan tứ phẩm không phải chỉ có mỗi mình đệ. Đệ nghĩ, Mạnh đại nhân chọn đệ, là muốn mượn sức sư huynh nữa."

Quản gia chuyển bếp rượu vào trong nhà, Vương Trăn lại rót thêm cho Đường Thận.

Đường Thận nhìn tầng bọt trắng bồng bềnh trên mặt chén rượu. Hồi lâu, cậu mới hỏi Vương Trăn: "Nếu đệ gặp khó khăn, không tự giải quyết được, sư huynh sẽ giúp đệ chứ?"

Vương Trăn không trả lời ngay mà hỏi ngược lại Đường Thận: "Tiểu sư đệ nghĩ sao?"

Đường Thận lặng lẽ ngẩng lên, nghiêm túc nhìn Vương Trăn: "Nhất định."

Vương Trăn cười dịu dàng: "Vậy cứ y lời đệ."

Đem việc này giao cho Đường Thận, chẳng khác nào giao cho Vương Tử Phong!

Mạnh Lãng không sai sử Vương Trăn được, nhưng nếu có thể mượn cớ này để bắt Vương Trăn làm việc cho mình, ông ta chẳng dại gì mà không tận dụng.

Đường Thận thở dài: "Mạnh đại nhân đúng là ranh ma."

Vương Trăn nâng chén, nhấp ngụm rượu rồi cười khẽ, không đáp lời Đường Thận.

Mạnh Lãng ranh ma ấy à?

Trong cả sáu Thượng thư, Vương Tử Phong chàng mới là kẻ ranh ma nhất.

Vương Trăn thầm cảm thán: Tiểu sư đệ thiên vị mình ghê chưa kìa! Mạnh đại nhân hiền lành, chất phác đến nỗi mỗi lần chơi khăm ông ta mình đều thấy lương tâm bứt rứt. Thế mà tiểu sư đệ lại nghĩ ông ta xấu tính. Ôi, đúng là thiên vị không để đâu cho hết mà.

Mạnh Lãng dày công tính toán hòng bắt Vương Tử Phong phải giúp mình một tay. Nào ngờ, hôm sau, Đường Thận vừa đến điện Cần Chính, chưa kịp nghĩ xem phải tiếp sứ thần nước Liêu như thế nào, đã thấy bóng ai thập thà thập thò, rình rập ngoài phòng làm việc của các quan tứ phẩm. Trong lòng Đường Thận gióng hồi chuông cảnh giác, cậu thấy kẻ đó mặc quần áo thái giám, nhưng dáng hắn cao to vạm vỡ, râu ria xồm xoàm, làm sao mà là thái giám được? Chẳng nhẽ là thích khách?

Đường Thận lẳng lặng lùi ra đằng sau, chuẩn bị đi hô hoán thị vệ bắt giữ hắn lại. Dè đâu, đúng lúc đó hắn ta quay đầu ra sau, nhìn thấy cậu. Gã đàn ông đấy nhìn tới nhìn lui, lẩm bẩm: "Mười chín tuổi, tướng mạo tuấn tú, mặc quan phục tứ phẩm..." Bỗng nhiên, mắt hắn ta sáng ngời, "Đúng ngươi rồi!"

Thoắt cái, hắn ta nhảy bổ đến, túm được Đường Thận.

Đường Thận hoảng hốt la toáng lên, nhưng mới ớ được một tiếng thì gã râu quai nón đã bịt mồm cậu. Tuy hắn ta to cao lực lưỡng như hộ pháp, nhưng Đường Thận cũng chẳng phải đứa nít con. Thế mà cậu bị hắn ta kiềm chặt không giãy đi đâu được, đành phải chấp nhận bị cắp ra chỗ khác.

Gã râu quai nón xách Đường Thận ra một chỗ, bịt kín miệng cậu. Ngó bốn bề không có ai chú ý đến họ, hắn ta mới thở phào nhẹ nhõm. Thấy Đường Thận cứ trừng trừng nhìn mình, hắn ta cũng bó tay: "Phải Đường Thận – Đường đại nhân không nè?"

Đường Thận cảnh giác, không dám trả lời.

"Kìa, sao ngươi phải dè chừng ta thế?"

Đường Thận: "..."

Lén la lén lút như thích khách, không cảnh giác với ngươi thì cảnh giác với ai?

Gã râu quai nói bèn nói: "Ta là Lý Cảnh Đức đây, chắc ngươi phải biết ta rồi nhỉ."

Chú thích

[3] Thạch là đơn vị đo thể tích cổ. Theo hệ quy đổi mình tìm được thì 50 thạch là cỡ 3 tạ nên mình khá chắc tác giả không có ý đấy LOL Thôi thì chúng ta cứ phiên phiến cho qua.

Chương 85

Múa đao chém mãnh hổ, tay không kìm sói dữ

Đường Thận giật mình, suy ngẫm. Đây là hoàng cung hẳn hoi chứ nào phải chốn tầm thường. Có thể lẩn lách được tai mắt lính canh một cách tài tình để vào tận điện Cần Chính trong cung, dám cá tay râu quai nón này là Lý Cảnh Đức thật.

Đường Thận nhẹ nhàng gật đầu.

"Ta thả tay ra đây, ngươi đừng hét nhé, ta bí mật đến đây đấy."

Đường Thận gật đầu.

Anh chàng râu xồm buông tay, Đường Thận lập tức lùi bước, vái chào: "Hạ quan Đường Thận xin kính chào Lý đại tướng quân."

Lý Cảnh Đức ngạc nhiên lắm: "Ngươi tin thật luôn à?"

Đường Thận: "Với võ nghệ của tướng quân, muốn chế ngự ta dễ như trở bàn tay, việc gì phải phí công lừa gạt."

Lý Cảnh Đức gãi mũi: "Chuyện là thế này. Theo tin tức ta nghe được, Mạnh Lãng đã giao việc tiếp đón sứ Liêu cho ngươi, đúng không?"

Đường Thận lặng lẽ quan sát Lý Cảnh Đức. Lý đại tướng quân râu ria xồm xoàm, tuy mày kiếm, mắt sáng, trông rất bảnh bao, nhưng đừng mơ thấy được nét mặt của gã sau bộ râu um tùm ấy. Đường Thận nói: "Chính thế."

Lý Cảnh Đức: "Mục đích hồi kinh của bản tướng quân là theo dõi sứ Liêu. Kể từ hôm nay, ta sẽ đóng giả một viên quan lục phẩm, làm tùy tùng cho Đường đại nhân, ổn không?"

Đường Thận: "..."

Đường Thận chưa kịp trả lời, đã có tiếng cười nhạo báng cất lên từ sau lưng. Hai người cùng ngó ra sau nhìn. Trên hành lang uốn quanh, Tô Ôn Duẫn đang dựa lưng vào góc tường, điềm nhiên lắng nghe cuộc trò chuyện. Anh ta nói bằng giọng điệu biếng nhác: "Lý tướng quân định trà trộn vào đội quan văn sứ giả để thám thính người Liêu ấy à? Thứ cho hạ quan nói thẳng, mặt mũi ngài thế kia thì đóng giả sao đặng."

Lý Cảnh Đức khinh bỉ hừ một tiếng: "Tưởng ai, hóa ra là Tô đại nhân. Sao, mặt mũi bản tướng quân thì ảnh hưởng gì đến việc đóng giả? Lẽ nào, quan văn Đại Tống ta toàn hạng giẻ cùi tốt mã?"

Trong vườn hoa điện Cần Chính, Tô Ôn Duẫn sầm mặt, anh ta nheo mắt, nhìn chằm chằm Lý Cảnh Đức đầy đe dọa.

Lý tướng quân chẳng thèm đếm xỉa đến Tô Ôn Duẫn, hàm râu bờm xờm như thể thách thức gió táp mưa sa, người đời dòm ngó.

Hồi lâu sau, Tô Ôn Duẫn nhếch mép cười khẩy. Anh ta nói: "Hạ quan nào có ý ấy. Chẳng qua người Liêu biết rất rõ về Lý tướng quân. Diện mạo ngài oai phong như thần, nếu trà trộn vào đoàn tiếp sứ, e rằng họ sẽ phát hiện ra ngay. Đến lúc ấy, chẳng hoá Đường đại nhân của chúng ta không dưng phải chịu vạ lây à?

Đường Thận liếc xéo Tô Ôn Duẫn: Ai là "Đường đại nhân của các anh" cơ?

Lý Cảnh Đức không phản bác được thật.

Tô Ôn Duẫn nói rất có lý. Lý Cảnh Đức là Chinh Tây nguyên soái do hoàng đế ngự phong, quanh năm trấn thủ Tây Bắc, giao chiến với quân Liêu. Tiếng tăm của hắn trong quân đội nước Liêu có lẽ cũng vang dội như Tả tướng Kỷ Ông Tập ở triều đình Đại Tống. Nếu trong đoàn sứ Liêu đến Thịnh Kinh lần này không ai biết Lý Cảnh Đức thì không hề gì. Nhưng giả sử có người từng gặp hắn ta, thì riêng cái bộ râu xồm xoàm không lẫn vào đâu được kia là đủ để hắn lộ tẩy.

Đường Thận cũng khuyên: "Lý tướng quân về kinh chuyến này phải hành động kín để do thám mục đích của sứ thần nước Liêu. Nếu bị họ phát giác thì lợi bất cập hại."

Lý Cảnh Đức bối rối mất một lúc, rồi bỗng nghiến răng, hạ quyết tâm: "Thế thì chỉ cần khiến chúng không nhận ra là được chứ gì?"

Đường Thận ngạc nhiên nhìn hắn. Tô Ôn Duẫn cũng sửng sốt, nhưng dường như anh ta hiểu ra điều gì, nụ cười mập mờ thoáng qua trên gương mặt.

Đường Thận nghe lời Lý Cảnh Đức, chờ hắn ta ở khu vườn trong điện Cần Chính. Sau nửa canh giờ, một người đàn ông cao lớn mặc đồng phục thái giám bước tới từ đằng xa. Hắn ta vừa đi vừa vuốt cái cằm nhẵn thín của mình, đôi mày kiếm sắc lẻm nhíu chặt vào nhau, con ruồi bay qua khéo cũng bị xiên chết.

Dĩ nhiên Tô Ôn Duẫn chẳng rảnh rang mà ở lại đợi, đã mất dạng từ lâu rồi. Vì thế, người được phen hết hồn vì tướng mạo của Lý tướng quân chỉ còn mỗi Đường Thận mà thôi.

Biết thừa người đàn ông này chính là gã râu xồm ban nãy, nhưng Đường Thận vẫn sững người.

Giọng Lý Cảnh Đức ồm ồm: "Trông thế này được chưa?"

Đường Thận: "...Chắc là được ạ."

Cạo râu xong, Lý tướng quân lột xác hoàn toàn khỏi hình tượng gai góc xù xì ban nãy!

Hắn sở hữu làn da trắng trẻo, ngũ quan sắc nét và rắn rỏi. Gương mặt hắn có nét kiên nghị và khoáng đạt của người Liêu chứ không giống người Hán hoàn toàn. Đôi mày bén ngọt như hai thanh kiếm, cặp mắt sáng ngời đầy sức sống. Đường Thận được kể rằng Lý Cảnh Đức đã ba mươi hai tuổi, nhưng diện mạo của người đang bước tới gần nào có giống người ba mươi hai tuổi. Nom hắn ta hệt như một viên tướng trẻ tầm tuổi hăm ba, mặt mày sáng láng như hòn ngọc báu!

Giờ thì chẳng cần quan tâm xem trong đoàn sứ Liêu ở dịch quán có ai biết hắn không, khéo tướng sĩ người Liêu từng so gươm với Lý Cảnh Đức trên sa trường cũng không thể nhận ra hắn dù đứng ngay trước mặt.

Tạm biệt bộ râu thân thương, Lý Cảnh Đức dường như chưa quen lắm, trông hắn khá là khó chịu. Hắn nói: "Đã vậy, ngày mai bản tướng quân đi cùng Đường đại nhân đến gặp các sứ thần nước Liêu nhé?

Lý Cảnh Đức là tướng quân nhị phẩm, Đường Thận chỉ là quan văn tứ phẩm, nào dám chối từ. Cậu đành hành lễ: "Hạ quan lĩnh mệnh."

Sáng sớm hôm sau, kết thúc buổi chầu, Đường Thận trở lại điện Cần Chính. Quả nhiên, Lý Cảnh Đức đã thay y phục của quan lục phẩm, chờ cậu ngoài vườn từ sớm.

Đường Thận nghĩ thầm, không biết hắn lấy đâu ra sẵn áo quần thế nhỉ?

Mạnh Lãng giao nhiệm vụ cho Đường Thận thì tất nhiên sẽ không để cậu một mình đương đầu với ba mươi sứ thần nước Liêu. Đường Thận làm xong phần việc hôm nay của bản thân rồi dẫn các quan sang dịch quán. Cậu chưa ra khỏi điện Cần Chính, mới đi lên hành lang, đã bắt gặp Vương Trăn đang bước đến từ hướng ngược lại.

Vương Trăn cũng vừa mới trở về sau buổi triều, hẵng còn cầm hốt ngọc và mặc triều phục. Thấy Đường Thận, chàng dừng bước. Bỗng nhiên, ánh mắt Vương Trăn lia tới Lý Cảnh Đức đứng sau lưng Đường Thận.

Lý tướng quân thấy Vương Trăn thì rủa thầm, khẽ khàng lỉnh ra đằng sau những quan viên khác để ẩn núp.

Ánh mắt Vương Trăn chỉ đậu lại trong giây lát rồi dời đi ngay. Chàng cúi nhìn Đường Thận, cười bảo: "Đường đại nhân đi gặp sứ Liêu đấy à?"

Đường Thận nói: "Bẩm Vương tướng công, đúng là hạ quan đang trên đường ạ."

Vương Trăn ân cần hỏi: "Đã đủ người hỗ trợ chưa?"

Nghe chàng hỏi thế, Đường Thận biết ngay Vương Tử Phong đã phát hiện ra Lý Cảnh Đức rồi. Cậu nhủ thầm trong bụng: Lý Cảnh Đức đã thay đổi nhiều thế, sao Vương Tử Phong vẫn nhận ra được nhỉ? Đường Thận nghiêm chỉnh đáp: "Đủ rồi ạ, cảm ơn đại nhân đã quan tâm."

Vương Trăn: "Ta cũng nghĩ là đủ rồi. Nếu thiếu thì cứ làm như mấy cô gái giặt lụa ấy, vò mạnh thêm mấy cái là được ngay."

Mọi người nghe chàng nói mà chẳng hiểu mô tê gì. Thế mà mắt Đường Thận sáng ngời, ngẩng lên nhìn Vương Trăn.

Khi ánh nhìn của họ giao nhau, Đường Thận hiểu ý Vương Trăn liền: Mạnh Lãng muốn mượn đệ để bóc lột ta, tiểu sư đệ nhìn xem, giờ đã có một người hết sức phù hợp để bóc lột rồi kìa. Lý tướng quân đã tự dâng mình đến cửa, không vắt bằng kiệt thì rõ phí của giời.

Bẫy người ngoài chứ ai lại bẫy người nhà.

Đường Thận sướng rơn: "Hạ quan hiểu rồi."

Lý Cảnh Đức lẩn trong đám quan viên, thộn mặt: Ngươi hiểu ấy hả? Hiểu cái gì kia chứ? Vương Tử Phong nói tiếng gì chứ có phải tiếng người đâu mà có ý nghĩa?

Mọi người rời khỏi điện Cần Chính, đến dịch quán.

Đường Thận bảo các quan ở dịch quán vào thông báo. Đợi ngót nửa canh giờ, quan lục phẩm trong đoàn tiếp sứ mới quay trở lại. Người ấy tỏ ra hết sức bất bình: "Đại nhân, hạ quan vào thông báo rằng sứ giả Đại Tống đã tới. Nhưng sứ Liêu đáp rằng, tam hoàng tử của họ vẫn chưa tỉnh ngủ. Chờ bao giờ hoàng tử tỉnh mới ra tiếp ngài."

Người ấy vừa dứt câu, tiếng xì xào giữa các quan đã rộ lên.

Hôm nay Đường Thận đến dịch quán tiếp đãi sứ Liêu, không chỉ trên danh nghĩa bản thân mà còn thay mặt hoàng đế Đại Tống. Dù Gia Luật Hàm có là Tam hoàng tử nước Liêu, cũng không thể thất lễ như vậy được!

Lý Cảnh Đức nghe thế thì nóng máu lắm. Trái lại, Đường Thận cực kì bình tĩnh. Cậu vỗ về các quan tùy tùng: "Chư vị đại nhân, nước Đại Tống của chúng ta yên bình thư thái, khí hậu rất lành với con người. Người nước ngoài đến Đại Tống đều phải trầm trồ trước vẻ muôn màu của đô thành Thịnh Kinh; cái gì không thấy được ở nước Liêu thì Thịnh Kinh đều có; ở nước Liêu ngủ không ngon giấc, đến Thịnh Kinh liền an giấc ngay. Tam điện hạ hiếm khi có dịp được ngủ ngon, mặt trời cao ba sào vẫn chưa dậy nổi, sao chúng ta có thể quấy rầy giấc mộng lành của ngài ấy chứ?"

Một sứ giả người Liêu đứng gần đó nghe thấy thế thì sầm mặt, quày quả vào nhà.

Lại thêm một lúc lâu, sứ Liêu ra khỏi nhà, gọi đám Đường Thận vào.

Đường Thận vừa bước chân vào phòng, chưa kịp quan sát kĩ bài trí bên trong, đã nghe tiếng châm chọc: "Bản điện hạ cứ tưởng là ai, hóa ra là một tên oắt Tống. Gia Luật đại nhân, ông làm Hán Nhi ty, ở Nam Xu Mật viện thường tiếp xúc với người Hán, đã bao giờ gặp quan Tống nào còm nhom thế này chưa?"

Giữa chính đường là một thanh niên tóc tết bím nhỏ, thái độ kênh kiệu. Gã ngồi bệ vệ trên ghế thượng tọa nhìn xuống bọn Đường Thận bằng nửa con mắt, tay trỏ thẳng vào Đường Thận – người đứng chính giữa nhóm quan.

Đứng cạnh Tam hoàng tử Gia Luật Hàm là một người đàn ông trung niên với gương mặt quằm quặm. Ông ta nhìn Đường Thận bằng ánh mắt âm u, nói: "Bẩm điện hạ, thần làm sao mà biết một viên quan tứ phẩm nhỏ nhoi được."

Gia Luật Hàm sẵng giọng: "Tứ phẩm hử? Có phải cái loại mà ở Đại Liêu chẳng đáng xách giày cho bản điện hạ không?"

Đường Thận bỗng bật cười. Gia Luật Hàm quay ra nhìn cậu.

Cậu chắp tay cúi mình, nói: "Điện hạ không biết đấy thôi, chẳng những phong tục tập quán Đại Tống chúng ta không giống với nước Liêu các ngài, mà đạo làm quan cũng khác. Nhưng nếu nói chi li thì cũng không đến nỗi vênh nhau quá. Tỷ như đại nhân Hán Nhi Ty Gia Luật Cần đây, ở Đại Tống chúng ta, ngài ấy cũng là quan lớn. Vì thế, ngài ấy có thể đại diện Liêu đế, theo điện hạ đến Đại Tống triều kiến hoàng đế Đại Tống của chúng ta. Mà quan tứ phẩm xách giày cho ngài ở nước Liêu, thật ra cũng không khác mấy ở Đại Tống. Hạ quan đúng là một viên quan tứ phẩm thấp bé nhẹ cân, thế nên chỉ có thể bị phái tới đây để tiếp đón ngài."

Gia Luật Hàm trợn trừng mắt. Song khi gã hẵng còn chưa tức giận, Đường Thận đã lập tức đế thêm một câu: "Và xách giày cho ngài nữa."

Lửa giận của Gia Luật Hàm chưa kịp nổi đã lụi, gã cảm thấy hơi mù mờ. Gia Luật Hàm không quá giỏi tiếng Hán; việc giao tiếp bình thường không làm khó gã, nhưng cách nói thâm thúy sắc sảo thế này khiến gã khó lòng nắm bắt ngay được. Tên quan người Tống này có ý gì đây? Rốt cuộc nó muốn hạ bệ mình, hay muốn xách dép cho mình thật?

Gia Luật Hàm nháy mắt ra hiệu cho Gia Luật Cần, hỏi ông ta xem nên ứng xử thế nào tiếp.

Gia Luật Cần thở dài, ông ta thừa biết Tam hoàng tử là người uy vũ mạnh bạo; sức vóc thì có mà đầu óc thì không. Vốn vua Liêu muốn phái Nhị hoàng tử túc trí đa mưu đi sứ Tống; ngờ đâu, chẳng biết mẫu phi của Gia Luật Hàm thỏ thẻ bên gối đức vua những gì, mà cuối cùng Gia Luật Hàm mới là người được cử đi.

Gia Luật Cần lãnh đạm nhìn Đường Thận: "Đoàn sứ giả Đại Liêu chúng ta đã đến Thịnh Kinh, vì sao bề tôi nước Tống không đến đón rước?"

Một viên quan Tống đáp: "Gia Luật đại nhân nói vậy sai rồi. Hôm nay chúng ta đã có mặt ở đây rồi đấy thôi?

Phía sau Gia Luật Cần, một viên quan Liêu sẵng giọng: "Tam hoàng tử nước Đại Liêu viếng thăm, hạng quan trói gà không chặt như các ngươi mà cũng xứng tiếp đón sao?"

Người ấy vừa dứt lời, bỗng dưng Đường Thận hỏi: "Trói gà không chặt ấy à?"

Viên quan người Liêu lấy làm lạ, không hiểu tại sao Đường Thận lại vặn hỏi cách diễn đạt của mình. Hắn suy nghĩ một chút, nói: "Lính tráng Đại Liêu là chiến tướng miền thảo nguyên. So tài cưỡi ngựa, săn bắn, quan Đại Tống các ngươi làm sao sánh nổi. Chẳng nhẽ không đúng?"

Đường Thận cười: "Thì ra là thế. Vị đại nhân này nói 'trói gà không chặt' không phải để chê bai quan viên Đại Tống chúng ta, mà chẳng qua chỉ để nhận xét rằng Đại Tống không giỏi cưỡi ngựa, bắn cung như nước Liêu đúng không nào?"

Viên quan người Liêu chỉ muốn đáp rằng, ta đang chửi cả nước Đại Tống ngươi kém cỏi đấy. Nhưng suy nghĩ ấy làm sao mà nói huỵch toẹt ra được, hắn bèn bảo: "Phải."

Gia Luật Cần nhíu mày, dường như ông ta đã đánh hơi ra sự bất thường đâu đây.

Đường Thận khẽ "ồ" một tiếng, nhích người sang bên, để lộ ra người đàn ông cao lớn đằng sau mình: "Ai bảo quan nước Tống ta trói gà không chặt? Chuyện cỏn con như cưỡi ngựa, săn thú, Đại Tống chỉ cần điểm bừa một tiểu quan lục phẩm là dư sức múa đao chém mãnh hổ, tay không kìm sói dữ. Lý đại nhân, ta nói có đúng không?"

Lý Cảnh Đức nghĩ thầm: Vừa chém mãnh hổ vừa kìm sói dữ ư? Ngươi cũng giỏi khoe khoang giùm ta gớm!

Nhưng khoe thế cũng chẳng sai.

Không ngờ Đường Thận biết nhìn người như thế, Lý Cảnh Đức bỗng có hảo cảm với cậu hơn hẳn. Hắn nói chắc nịch: "Đương nhiên là đúng rồi!"

Không hiểu sao mấy bữa nay tui bị lên một cơn lười bất tận...không gõ nốt nổi chap tiếp theo ặc ặc.

Chú thích

Update 11/8/21: Gốc: 小白脸 (tiểu bạch kiểm/liễm). Cụm từ này có nhiều mức nghĩa, nặng thì chỉ hạng trai bao "núp váy đàn bà", nhẹ thì loại đẹp mã nhưng vô dụng (tương tự câu "giẻ cùi tốt mã" trong tiếng Việt), hoặc chỉ đơn giản là đàn ông có vẻ ngoài trắng trẻo thanh tú, không có nghĩa chê. để đọc thêm về thành ngữ "Giẻ cùi tốt mã". Các đoạn Lý Cảnh Đức chửi Tô Ôn Duẫn là "tiểu bạch kiểm" mình sẽ dùng linh hoạt thành ngữ này hoặc rút gọn lại thành "giẻ cùi" vì mọi người hiểu nghĩa rồi nhé.

Gợi tả vẻ mặt, cái nhìn lạnh lùng, thâm hiểm đáng gờm.

Chương 86

Nhi lang Đại Tống

Trong thời kì chưa có vũ khí "nóng" như hiện giờ, mãnh hổ sài lang là những hiểm họa ghê gớm đối với con người. Trước những loài mãnh thú này, con người quá đỗi bé nhỏ và yếu ớt. Một cú vả của loài hổ nhanh và mạnh gấp ba bốn lần con người. Chuyện người thường "đả hổ" phần lớn là hư cấu trong tiểu thuyết chứ hiếm khi có thật.

Thế mà Đường Thận vừa nói dứt câu, Lý Cảnh Đức đã nhận ngay. Tam hoàng tử Gia Luật Hàm cười phá lên, chẳng buồn để vào tai. Gã bảo: "Người Tống các ngươi đều ưa khoác lác vậy sao? Nam nhi dũng mãnh nhất Đại Liêu ta cũng không dám đối đầu với Ông ba mươi1. Tài khua môi múa mép của người Tống thật cao cường, bản hoàng tử không kham nổi!"

Đường Thận định đáp trả, nhưng Lý Cảnh Đức lạ gì ý mỉa mai của gã, bèn tiến lên nói: "Đó là vì người Liêu các ngươi làm gì có hảo hán!"

Lông mày Gia Luật Hàm xếch ngược lên: "Một viên quan Tống nhãi nhép mà cũng dám lên mặt ư?"

Hán Nhi Ty Gia Luật Cần nhíu mày không vui.

Gia Luật Hàm vung tay lên, ra lệnh cho thị vệ đắc lực nhất dưới trướng mình cho Lý Cảnh Đức nếm mùi. "Trực Cổ Lỗ, ngươi hãy dạy cho tên người Tống phách lối này một bài học đi."

"Vâng!"

Tiếng dạ vừa cất lên, một người đàn ông to khỏe dữ dằn bước ra từ sau lưng Gia Luật Hàm, nghênh ngang đi tới trước mặt Lý Cảnh Đức. Lý Cảnh Đức cười khoái chí: "Chờ ngươi nãy giờ." Hai người chỉ liếc nhau đúng một cái rồi quát lên. Thị vệ người Liêu giậm mạnh chân xuống làm mặt đất rung chuyển, hai tay túm chặt đai lưng Lý Cảnh Đức.

Tóm được Lý Cảnh Đức rồi, Trực Cổ Lỗ tính dồn khí xuống hòng nhấc bổng Lý Cảnh Đức lên. Dè đâu, anh ta gồng hai chân mà Lý Cảnh Đức vẫn sừng sững như trời trồng. Đôi chân hắn như rễ tùng bám đất, vững vàng không lay chuyển nổi.

Trực Cổ Lỗ nghĩ bụng hỏng rồi, gay go to, tên này có võ đây.

Lý Cảnh Đức cười sảng khoái: "Đến lượt ta!"

Lý Cảnh Đức không hề dùng miếng võ của người Tống, mà bắt chước luôn chiêu của Trực Cổ Lỗ, túm lấy đai lưng anh ta. Mắt hắn trợn tròn, Lý Cảnh Đức gầm lớn, hai bắp tay cuồn cuộn gân lên, gồng cơ eo, thình lình xốc mạnh một cái, nhấc bổng được Trực Cổ Lỗ lên ngay.

Trực Cổ Lỗ chửi ngay một câu bằng tiếng Liêu, Đường Thận không hiểu, nhưng Lý Cảnh Đức với kinh nghiệm chiến đấu với quân Liêu thì rõ quá. Hắn biến sắc, ném huỵch Trực Cổ Lỗ xuống đất. Trực Cổ Lỗ bật dậy đấm Lý Cảnh Đức, Lý Cảnh Đức lách người né, gạt chân phải. Cả hai xông vào đánh nhau.

Trong sân của dịch quán, hai người quần nhau túi bụi.

Lý Cảnh Đức đấm một quả vào bụng Trực Cổ Lỗ. Trực Cổ Lỗ loạng choạng lùi mấy bước, ngã bệt xuống đất. Cổ anh ta ứ lên, mở miệng là ộc ra một búng máu. Tam hoàng tử Gia Luật Hàm thấy thế thì tức lồng lộn. Gã đứng phắt dậy, dùng tiếng Liêu mắng nhiếc Trực Cổ Lỗ là đồ ăn hại không được tích sự gì, rồi toan phái một thuộc hạ khác ra tiếp chiến.

Gia Luật Cần vội vàng can bằng tiếng Liêu: "Điện hạ, chớ nổi giận với lũ quan người Tống này làm chi. Viên quan lục phẩm này nhìn là biết không phải quan văn thật, nhất định là quan võ. Lần này chúng ta đi sứ Tống, đâu dẫn theo đại tướng thực thụ nào trong quân ngũ."

Gia Luật Hàm gắt: "Thế nó đánh người của bản điện hạ, cứ mặc kệ thế sao?"

Gia Luật Cần: "Điện hạ, đừng để trúng gian kế của bọn người Tống. Chúng ta cần gặp vua Tống, cần gì phải đánh lộn với lũ quan nhãi nhép này."

Gia Luật Hàm tức tối đến nỗi đỏ lừ hai mắt. Đã thế, Lý Cảnh Đức lại còn đứng giữa sân đình diễu võ dương oai, hất hàm nhìn gã. Nhất thời, Gia Luật Hàm không kiềm được lửa giận, nói: "Gia Luật Cần đại nhân nói người Liêu chúng ta đến Tống làm sứ giả, không dẫn theo dũng sĩ thực thụ nào của nước Liêu, nhưng ông sai rồi. Ở đây, bản điện hạ mới chính là dũng sĩ đệ nhất, là Thạch Cung tướng quân được phụ vương đích thân ban tên!"

Gia Luật Cần chửi toáng lên trong lòng: Sao lại có kẻ dốt nát như mi cơ chứ!

Song ngoài miệng ông ta lại nói: "Thân phận của điện hạ như vậy, quan người Tống lấy đâu ra tư cách tỷ thí với ngài!"

Gia Luật Hàm: "Ông đừng dài dòng nữa."

Gia Luật Cần làm sao mà để gã đánh nhau với Lý Cảnh Đức thật được. Ông đang muốn can ngăn tiếp, đã thấy một viên quan người Liêu rậm râu khác đi từ hậu viện ra. Người đàn ông rậm râu kia gặp Gia Luật Cần thì hừ một tiếng khinh rẻ, chỉ liếc ông ta một cái chứ chẳng buồn nhìn thêm.

Ông quan râu rậm vừa xuất hiện, bầu không khí trong dịch quán thay đổi ngay lập tức.

Sứ giả nước Liêu càng thêm vênh vang hống hách. Rõ ràng hồi nãy mặt mũi họ còn đen thui sau khi Lý Cảnh Đức hung hãn hạ đo ván thị vệ phe Liêu. Thế mà nhác thấy viên quan râu rậm, đoàn sứ Liêu bỗng phấn khởi hẳn lên.

Viên quan người Liêu với bộ râu rậm bước đến trước mặt Gia Luật Hàm, nói với gã bằng tiếng Liêu: "Điện hạ, Gia Luật Cần nói không sai. Tên người Tống này là cái thá gì để ngài phải bước xuống đấu võ với y."

Gia Luật Hàm: "Thế nhưng..."

"Điện hạ."

Gia Luật Hàm nghiến răng: "Xin nghe Thái Bảo đại nhân."

Sứ thần nước Liêu ngầm thương lượng với nhau xong, viên quan rậm râu quay người lại nhìn Lý Cảnh Đức mãi một lúc lâu mới chuyển sang Đường Thận: "Ngươi là quan Tống phụ trách tiếp đón chúng ta đó hả?"

Đường Thận cảnh giác ngay, cậu bước lên phía trước, khiêm nhường thi lễ: "Hạ quan Đường Thận. Xin hỏi các hạ có phải Vương tử Thái bảo – Gia Luật Ẩn đại nhân không ạ?"

Gia Luật Ẩn hừ một tiếng thay cho lời thừa nhận.

Đường Thận nói: "Chư vị sứ thần nước Liêu mới tới Đại Tống ta, hạ quan tất nhiên phải tiếp đón chu đáo. Hôm qua các vị mới đến, hôm nay hẵng còn bận chỉnh lí hành trang. Đường dài mệt nhọc, hạ quan không dám làm phiền. Hôm nay đến đây là để hỏi han chư vị sứ thần. Qua ngày mai, hạ quan sẽ dẫn chư vị dạo chơi một vòng thành Thịnh Kinh, ngắm nhìn phong cảnh Đại Tống."

Gia Luật Ẩn cười: "Nếu muốn ngắm, sau này thiếu gì lúc."

Rất nhiều người nghe câu này không hiểu, nhưng Đường Thận lại biến sắc, Lý Cảnh Đức cũng hệt như vậy. Chẳng trách được, nếu Gia Luật Ẩn nói câu khác, có khi Lý Cảnh Đức sẽ không hiểu, nhưng riêng câu này thì Lý Cảnh Đức đã nghe người Liêu nói quá nhiều lần ở chiến trường Tây Bắc rồi.

Chờ kỵ binh nước Liêu ta san bằng lãnh thổ nước Tống, xua quân đến Thịnh Kinh, chúng ta sẽ thỏa sức ngắm nghía hết cảnh sắc non sông Đại Tống các ngươi!

Người Liêu coi thành Thịnh Kinh cứ như khu vườn sau nhà, quả thật không coi ai ra gì!

Lý Cảnh Đức siết chặt nắm đấm. Đường Thận mỉm cười với Gia Luật Ẩn, giọng điệu chẳng kiêu mà cũng không hèn: "Người Tống chúng ta có câu ngạn ngữ, 'chiếc lá che mắt, chẳng thấy Thái sơn.' Gia Luật Ẩn đại nhân không tự tay lấy chiếc lá ra, làm sao mà thấy được Thái sơn nguy nga, làm sao mà thấy vẻ phồn vinh thịnh vượng của non sông Đại Tống."

Gia Luật Ẩn chỉ hừ một tiếng chứ chẳng để ý tới Đường Thận nữa.

Đoàn sứ giả nước Tống cùng nhau rời khỏi dịch quán. Lúc ra về, có mấy quan người Liêu định khiêu khích nhóm Đường Thận, song bị Lý Cảnh Đức trợn mắt một cái, cả lũ rụt hết cổ lại, không dám càn rỡ.

Ngoài tam hoàng tử Gia Luật Hàm ra, Trực Cổ Lỗ là lực sĩ cường tráng nhất trong số người Liêu ở đây. Nhưng đấu với Lý Cảnh Đức, anh ta không đỡ nổi một chiêu. Tráng sĩ người Tống này nếu sang nước Liêu, chưa biết chừng được vua Liêu phong làm đệ nhất dũng sĩ ấy chứ.

Ngày đầu tiên người Liêu tới kinh thành, Đường Thận mượn tay Lý Cảnh Đức đánh phủ đầu cho bọn họ rụt hết cả nhuệ khí lại, phải tạm im ắng một thời gian.

Sau khi họ ra về, Gia Luật Ẩn lườm nguýt Gia Luật Cần: "Hán Nhi Ty đại nhân, liệu mà lo làm đúng bổn phận. Tam hoàng tử là người ông có quyền sai phái hay sao? Ngài ấy muốn làm gì, ông cản được à?"

Đôi mắt âm u của Gia Luật Cần hướng xuống đất, phục tùng: "Tôi đã biết, đa tạ Thái bảo đại nhân nhắc nhở."

Gia Luật Ẩn không buồn nhìn ông ta thêm cái nào, dẫn Gia Luật Hàm đi luôn.

Khi chỉ còn hai người bọn họ, Gia Luật Ẩn sầm mặt, bảo Gia Luật Hàm: "Tam hoàng tử, lần này ta đến nước Tống với mục đích gì, kẻ khác không biết, chứ ngài rõ mồn một rồi kia mà? Trước khi đi, Thái sư đại nhân đã ra lệnh cho chúng ta điều tra kĩ càng xem tại sao người Tống có thể cầm cự ở U Châu lâu đến vậy, vật tư quân nhu từ đâu tới! Có thật là liên quan đến việc xây quan đạo cách đây hai năm không, hay còn bí mật khác."

Gia Luật Hàm phân bua: "Thái bảo đại nhân, nam nhi nước Liêu chúng ta há có thể ngậm mối nhục này?"

"Thế việc Thái sư đại nhân giao phó thì mặc kệ ư?"

Nhắc tới "Thái sư đại nhân", Gia Luật Hàm im thin thít. Gã cúi đầu, lí nhí: "Xin nghe Thái bảo đại nhân."

Đường Thận xong việc thì không về nhà luôn mà đi sang bộ Lễ.

Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng bữa nay không làm việc ở điện Cần Chính mà ở nha môn bộ Lễ. Đường Thận gặp Mạnh Lãng, bèn kể hết chuyện trong ngày, nhưng giấu thân phận Lý Cảnh Đức, chỉ nói rằng mình dẫn theo một thị vệ người Tống, đánh bại người Liêu.

Mạnh Lãng nghe xong bèn bảo: "Gia Luật Ẩn là Vương tử Thái bảo, tức quan phương Bắc. Triều đình người Liêu chia hai phe Bắc Nam, quan phương Bắc nắm các chức vụ then chốt trong triều đình, quan phương Nam phụ trách giao thiệp với người Hán. Cứ như lời ngươi nói, xem ra những gì người ta đồn đại về Gia Luật Ẩn không hề sai, y coi thường quan miền Nam, coi thường Gia Luật Cần. Nhưng từ xưa đến nay, Nam Bắc viện của nước họ luôn mâu thuẫn với nhau." Dừng một chút, Mạnh Lãng cười nói: "Đường đại nhân đúng là rường cột nước nhà, lần nào người Liêu đến Đại Tống cũng diễu võ dương oai, hống hách ngạo ngược. Khéo hôm nay là lần đầu tiên chúng phải chịu lép vế."

Đường Thận chắp tay: "Mạnh tướng công quá khen, hạ quan không dám nhận."

"Có gì mà không dám nhận. Chỉ e hôm nay người ta nhắc đến Đường đại nhân còn có thể nói là sư đệ của Vương đại nhân, chứ sang ngày mai, nhắc đến Vương đại nhân, họ phải kể là sư huynh của Đường đại nhân ấy chứ." Mạnh Lãng khen hết nấc, nhưng lại khiến Đường Thận thoải mái lắm, nghĩ bụng, liệu sau này có lúc nào Vương Tử Phong phải tâng bốc mình thế không nhỉ? Nhưng ông ta cũng chỉ mớm cho cậu một miếng ngọt thôi, rồi vụt ngay một roi: "Ngay mai, việc đón rước lại giao cho Đường đại nhân tiếp nhé."

Quả nhiên, trên đời đã bao giờ có nịnh suông.

Mạnh Lãng lợi dụng Đường Thận, cứ chắc mẩm rằng Đường Thận chỉ có thể mượn tay Vương Tử Phong để hoàn thành việc ông ta giao thôi. Nhưng ông ta đâu biết, Đường Thận ra khỏi bộ Lễ là đến điện Cần Chính, thi lễ với Lý Cảnh Đức đang ngoạm dưa giữa sân: "Lý tướng quân thần dũng cái thế, hạ quan hết sức khâm phục. Hôm nay nếu không có tướng quân, người Tống chúng ta đã phải chịu nhục trước người Liêu rồi."

Lý Cảnh Đức quăng vỏ dưa, phủi tay: "Lũ người Liêu đấy rặt phường mãng phu, chỉ được cái sức vóc, việc gì phải sợ chúng."

Đường Thận nghĩ thầm, ngươi có khá hơn bọn họ là bao.

"Ngày mai, tướng quân còn đến nữa không?"

"Đương nhiên phải đến rồi, sao lại không chứ!"

Đường Thận nín cười, vái dài: "Hạ quan đợi tướng quân ở điện Cần Chính."

Tuy có Lý Cảnh Đức xông pha chắn trước, chuyện gì xảy ra cũng có thể nhường nguyên soái nhị phẩm đỡ cho, nhưng Đường Thận cũng không được diễm phúc phủi tay, ngồi mát ăn bát vàng. Về đến nhà, cậu bèn mưu tính xem ngày mai nên đối phó với người Liêu thế nào. Đúng lúc đó, Đường Hoàng gõ cửa vào phòng.

Đường Hoàng cầm theo cuốn sổ kế toán, đưa cho Đường Thận, đây là sổ ghi thu chi quý này của Đường gia.

Đường Hoàng nói: "Anh, sau khi phát hành tờ rơi như anh nói, Bách Bảo Các nhà ta đắt khách nhất thành rồi! Sao anh nghĩ ra ý hay thế, hôm nay quản lí Lục cứ tấm tắc với em."

Đường Hoàng giả giọng quản lí Lục, lên mặt cụ non: "Nếu tiểu đông gia không ra làm quan mà chuyên tâm buôn bán, sản nghiệp Đường gia ta đã trải khắp Đại Tống từ lâu rồi!"

[1] Gia Luật Hàm dùng cụm "điếu tinh bạch ngạch" là cách gọi loài hổ dựa theo đặc điểm của loài này. Điếu tinh tức là mắt xếch, còn bạch ngạch là vì vùng trán ngay trên mắt hổ thường là mảng lông trắng.

Còn cách gọi Ông ba mươi của Việt Nam mình có nhiều lí giải. Một trong số đó là sự tích Mộc tinh hóa thân thành hổ uy hiếp loài người. Loài người phải cúng nó vào ngày 30 tháng Chạp để nó không quấy phá ^^ Dưới ảnh là Machali, cô hổ nổi tiếng dũng mãnh của vườn quốc gia Ranthambore, Ấn Độ. Nhờ những chiến tích và sự "ăn ảnh" của mình, Machali đã thu hút được lượng khách du lịch đông đảo, giúp vườn quốc gia có thêm nguồn tài chính cho công tác bảo tồn. Thật đáng buồn là ở Việt Nam đã gần như không còn hổ hoang dã nữa.

Chương 87

Ngươi đúng là người tử tế

Đường Hoàng: "Thư cục đã quá quen với nhà mình, in mấy tờ giấy chẳng tốn bao tiền. Lúc đầu mình chỉ phát được ở lầu Tế Hà, xong sau đó quản lí Lục vận động bên phủ Cảnh Vương để đưa tờ rơi của mình vào lầu Thiên Lý. Bây giờ, trên phố lớn Chính Dương môn, rất nhiều cửa hàng đều có tờ rơi của mình."

Đường Thận suy nghĩ một lát, nói: "Tờ rơi hôm nay thế nào, em mang sang cho anh xem thử."

Đường Hoàng lập tức quay về phòng, mang về cho Đường Thận một tờ giấy nền vàng trông khá thô mộc.

Đường Thận ngắm kĩ rồi mỉm cười.

Cậu không ngờ Đường Hoàng có thể làm tờ rơi quảng cáo cho siêu thị tốt đến vậy!

Đúng đó, đây chính là tờ rơi cho siêu thị.

Đường Thận giao toàn quyền quản lí Bách Bảo Các cho quản lí Lục và Đường Hoàng, kèm theo một nhiệm vụ là liên hệ với thư cục, cứ cách ba ngày lại in một số tờ rơi cho siêu thị, phát đến các cửa hàng lớn trong thành Thịnh Kinh.

Việc này nói thì dễ nhưng làm thì hơi khó.

Trước hết, các khách hàng ghé thăm Bách Bảo Các, khi vào cửa sẽ được nhân viên đưa cho một chiếc làn, trong làn cho để tờ rơi của ngày hôm nay. Trên tờ rơi sẽ ghi những sản phẩm được chiết khấu trong ngày và giá cả cụ thể. Đây là phần dễ nhất. Nhưng không chỉ phát trong Bách Bảo Các, tờ rơi còn cần được phát ra ngoài để mời chào thêm khách hàng nữa.

Lầu Tế Hà là sản nghiệp của Đường gia, phát tờ rơi trong lầu Tế Hà chẳng có gì là khó. Nhưng đến các cửa hàng khác thì sao? Ai lại đồng ý cho mình phát tờ rơi miễn phí?

Đường Hoàng và quản lí Lục vắt óc suy nghĩ, cuối cùng, Đường Hoàng mới nảy ra sáng kiến.

Sau khi thấy tờ rơi quảng cáo ở một cửa hàng và quyết định đến Bách Bảo Các mua sắm, khách hàng chỉ cần cầm theo tờ rơi đó, đồng thời viết tên cửa hàng lên góc trên tờ rơi, là có thể nhận thêm chiết khấu. Bên cạnh đó, đến cuối tháng, Bách Bảo Các sẽ dựa theo tên cửa hàng và số lượng khách hàng được giới thiệu đến để trả cho chủ cửa hàng một khoản tiền.

Số tiền trả cho riêng một khách thì không nhiều, nhưng tích tiểu thành đại.

Ví dụ như, một khách hàng thấy tờ rơi của Bách Bảo Các ở tiệm bánh bao Trương Ký, sau đó đến Bách Bảo Các mua hàng rồi chìa tờ rơi có tên tiệm Trương Ký ra lúc thanh toán ở Bách Bảo Các. Bách Bảo Các sẽ thu tờ rơi rồi chiết khấu thêm cho vị khách mua hàng.

Giả sử mỗi khách hàng lấy tờ rơi ở tiệm bánh bao mua năm mươi đồng tiền hàng ở Bách Bảo Các, Bách Bảo Các sẽ trả cho tiệm bánh bao một đồng. Nếu có một trăm người đến thì tiệm bánh bao được trả một trăm đồng.

Quan trọng hơn, tiệm bánh bao không mất xu nào cả mà vẫn có thêm thu nhập.

Tiệm bánh bao Trương Ký chỉ cần nhận tờ rơi của Bách Bảo Các rồi để trong tiệm, chẳng cần bỏ ra bất cứ chi phí nào lại được người ta trả tiền cho, tội gì không làm?

Còn các khách hàng thông qua tờ rơi của Bách Bảo Các mà biết rằng có thể được chiết khấu thêm, cũng sẽ thích đến Bách Bảo Các mua sắm hơn.

Đương nhiên, kể cả khi khách hàng không lấy tờ rơi ở cửa tiệm khác nhưng đến mua sắm ở Bách Bảo Các, vẫn có thể sử dụng tờ rơi được phát ở cổng vào để nhận thêm chiết khấu.

Đường Thận biết chuyện Đường Hoàng có sáng kiến như vậy, cậu bèn gọi em gái mình đến để hỏi xem cô bé đã nghĩ ra thế nào.

Đường Thận: "Vì sao chúng ta lại biếu không cho các cửa hàng một khoản tiền như thế?"

Đường Hoàng: "Không có lợi ích, bọn họ tội gì phải cho phép Bách Bảo Các nhà mình phát tờ rơi trong cửa hàng nhà họ?"

Đường Thận: "Vậy em có nghĩ đến chuyện nhà mình sẽ bị lỗ không?"

Đường Hoàng ngạc nhiên: "Lỗ ư? Anh này, sao anh lại nghĩ thế? Thứ nhất, nếu khách hàng không thấy tờ rơi, không đến Bách Bảo Các mua sắm, chúng ta sẽ chẳng kiếm được xu nào cả. Thứ hai, giá cả các mặt hàng và con số chiết khấu nhà mình đã tính toán cẩn thận rồi, cộng hết các chi phí đội lên rồi mới cho ra giá đó." Cô nhóc cười ngọt như mía lùi, "Em có phải đồ đần đâu, lẽ nào, anh trai em mới là đồ đần kia chứ?"

Đường Thận đương nhiên là biết mục đích của Đường Hoàng, cũng biết em gái mình tính toán thế nào. Nhưng cậu vẫn giả vờ nghiêm mặt nói: "Như vậy đó hả? Thế em đã nghĩ đến chuyện, sẽ có những khách hàng và cửa hàng bắt tay với nhau chưa? Khách hàng sẽ móc nối với các cửa hàng khác Bách Bảo Các, cầm tờ rơi của hàng đó đến nhà mình mua sắm. Sau khi mua xong, Bách Bảo Các chúng ta trả tiền hoa hồng cho cửa hàng kia, cửa hàng lại chia đôi với khách. Hai bên hợp tác, kiếm chác từ nhà mình?"

"Vậy thì đã làm sao?" Đường Hoàng nói, "Em chỉ biết, khách hàng đó đến Bách Bảo Các của mình để mua hàng. Em còn biết, dù họ có tính toán riêng với nhau thế nào, thì Bách Bảo Các nhà ta vẫn phải chi bằng đấy tiền. Tại sao phải quan tâm đến việc các cửa hàng khác cạnh tranh tiền hoa hồng từ tờ rơi của chúng ta thế nào chứ? Chỉ cần một khách hàng không có ý định mua sắm ở Bách Bảo Các bỗng trở thành khách hàng của Bách Bảo Các, là chúng ta có lợi nhuận rồi."

Đường Thận lặng yên nhìn em gái mình, khiến Đường Hoàng cũng thấy dựng tóc gáy.

"Anh nè, anh nhìn cái gì vậy."

"Nhìn xem sau này em sẽ cưới ai."

"Anh biết xem cả tướng số nữa à?"

"Không phải xem tướng số đâu, anh đang ngẫm xem nếu không ai thèm cưới em thật, thì anh phải tốn bao nhiêu tiền mới nuôi nổi em."

"..."

Có sáng kiến của Đường Hoàng, việc buôn bán của Bách Bảo Các càng phát triển hơn. Rất nhiều khách hàng định mua sắm ở những tiệm tạp hóa xung quanh, thấy tờ rơi của Bách Bảo Các, biết rằng cầm đến sẽ được giảm giá thêm, bèn nô nức sang phố lớn Chính Dương môn để mua sắm.

Chỉ trong hai tháng, mỗi con ngõ trong thành Thịnh Kinh đều có ít nhất hai cửa hàng có phát tờ rơi của Bách Bảo Các.

Lúc này, trong ánh nến leo lắt, Đường Thận nhìn tờ rơi trên tay, mắt khẽ nheo.

Hôm sau, trong dịch quán.

Một thị vệ người Liêu thay ca lúc sáng sớm thì bắt gặp một quan sai trong dịch quán cầm tập giấy đi từ cổng vào, đặt trong phòng gác cổng, rút một tờ ra, dựa lưng vào tường, chăm chú đọc.

Thị vệ nước Liêu tò mò lắm, nhưng anh ta không biết tiếng Tống. Tay thị vệ nghênh ngang đi đến, huơ huơ trường đao dắt bên eo, chỉ trỏ vào tờ giấy quan sai đang cầm.

Đoàn sứ giả nước Liêu ai nấy mắt cao hơn đầu, hoành hành ngang ngược trong dịch quán. Quan sai thấy động tác của tên thị vệ, nào dám bất tuân, vội vàng đưa tờ rơi Bách Bảo Các cho tên thị vệ. Tên thị vệ cầm đến tờ rơi, lại càng đau đầu hơn: Hắn đâu có đọc được chữ Tống!

Thị vệ bèn đem tờ rơi của Bách Bảo Các vào nhà tìm một quan văn nước Liêu. Viên quan văn đó lại đi tìm Gia Luật Cần.

Đến trưa, Gia Luật Cần dẫn theo mấy thị vệ, lẳng lặng đến Bách Bảo Các. Ông ta ăn mặc như người Tống, sau khi vào trong Bách Bảo Các rồi thì hoa cả mắt, kinh hãi không thôi. Không nán lại, Gia Luật Cần trở về dịch quán ngay. Sau khi ngẫm nghĩ một hồi, ông bèn đến gặp tam hoàng tử Gia Luật Hàm, nói: "Tam điện hạ, người Tống hiện giờ, khác xa so với tưởng tượng của chúng ta."

Gia Luật Hàm mới ngủ dậy, nghe thế thì hỏi: "Hán Nhi Ty đại nhân, ông nói thế nghĩa là sao?"

Gia Luật Cần cúi mình hành lễ, thưa: "Tuy thần là quan phương Nam, nhưng thần xin nói thật với điện hạ, việc quan hệ giữa hai nước Liêu Tống, xưa nay vẫn do các quan phương Nam đảm trách. Vốn hoàng đế bệ hạ không muốn phái Thái bảo đại nhân, nhưng lúc đi lại có cả Thái bảo đại nhân, thần trộm đoán, Thái bảo đại nhân và tam điện hạ đến đây là để nghe ngóng tình hình, thăm dò thực hư nước Tống ra sao."

Gia Luật Hàm sững sờ, gã không ngờ Gia Luật Cần lại có thể đoán không sai một li như thế.

Gia Luật Cần trông sắc mặt của tam điện hạ là biết mình đoán đúng rồi. Gia Luật Cần thở dài, nếu lần này đi sứ Tống là những hoàng tử khác, ông ta đâu đến nỗi tốn lắm nước bọt thế này? Gia Luật Cần bèn nói tiếp: "Thần không biết điện hạ và Thái bảo đại nhân muốn tìm hiểu cụ thể điều gì, nhưng thần cho rằng, vua Tống không triệu kiến chúng ta ngay ngày đầu tiên, thật ra chưa chắc đã là chuyện xấu. Bọn họ đang chờ đợi, nhưng trong lúc họ đợi chờ, chúng ta cũng có thể thăm dò thành Thịnh Kinh!"

Gia Luật Hàm nhớ đến chuyện Gia Luật Ẩn nói hôm qua, bèn bảo: "Nhưng hôm qua, Thái bảo đại nhân vừa mới nói rằng, sau này chúng ta thích nhìn ngắm Thịnh Kinh nước Tống bọn chúng thế nào thì tha hồ làm thế ấy mà."

Gia Luật Cần nghĩ bụng: Ngu xuẩn! Nếu đánh chiếm nước Tống dễ đến thế, cớ gì hơn trăm năm qua, nước Liêu chưa thôn tính nước Tống chứ?

Rõ ràng là bởi đánh chiếm Tống xong, Đại Liêu sẽ tổn thất nặng nề, tạo cơ hội cho các nước thù địch lân cận tấn công.

Nếu đã vậy, thà rằng cứ thỉnh thoảng dọa dẫm nước Tống một phen, chẳng tốn binh tốt nào mà vẫn chiếm được tiền tài của người Tống, chưa biết chừng, Tống còn phải cắt đất cầu hòa.

Đó là kế hoạch của nước Liêu.

Họ lặn lội đường xa làm sứ giả đến Đại Tống, không phải vì đột nhiên gặp trở ngại ở U Châu, mà phần nhiều là để thương thảo với vua Tống, bắt người Tống phải cống nộp tiền bạc để họ lui binh.

Gia Luật Cần nói: "Hôm nay thần đã đến phố lớn Chính Dương Môn, nơi tấp nập nhất kinh thành nước Tống. Quả nhiên, cửa hàng cửa hiệu san sát, người đổ về như lũ, còn phồn vinh hơn cả Trung Kinh Đại Định phủ1 của nước ta. Xin Tam điện hạ và Thái bảo đại nhân hãy bàn kĩ chuyện này, thần cho rằng, đây cũng là một cách để chúng ta thăm dò thực lực nước Tống, một lối tắt để biết xem hiện tại họ giàu có nhường nào."

[1] Một trong những trung tâm chính trị lớn của nhà Liêu, có thời điểm phát triển vượt cả thủ đô Thượng Kinh. Xem thêm chú thích

Buổi chiều, Đường Thận vừa dẫn các quan đến dịch quán thì thấy Gia Luật Hàm đã chễm chệ trên ghế thượng tọa, cao ngạo nói rằng: "Hôm nay Tống đế vẫn chưa triệu kiến chúng ta, là cớ gì?"

Đường Thận liếc nhìn Gia Luật Hàm, Gia Luật Cần và Gia Luật Ẩn một lượt rồi cung kính cúi mình hành lễ: "Tam hoàng tử điện hạ đến Đại Tống ta, các sứ thần xin được đón tiếp điện hạ. Hạ quan là đặc sứ do Lễ bộ Thượng thư Mạnh đại nhân phái đến, phụ trách khoản đãi các sứ thần đại nhân. Hôm nay, hạ quan đã thiết yến bày rượu ở lầu Thiên Lý để mời điện hạ và các vị đại nhân đây đón gió tẩy trần. Điện hạ chưa biết, lầu Thiên Lý chính là..."

Giọng điệu của Đường Thận hết sức từ tốn và đúng mực, kiên trì giải thích cho đoàn sứ Liêu.

Sau khi trình bày xong, Đường Thận ngẩng lên nhìn Gia Luật Hàm: "Không biết ý Tam hoàng tử thế nào ạ?"

Gia Luật Hàm đăm chiêu một lát, hai người trao đổi thêm vài câu, gã mới nói: "Cũng không phải không được."

Hôm đó, Đường Thận thuận lợi dẫn đoàn sứ Liêu đến lầu Thiên Lý thành Thịnh Kinh, thết tiệc khoản đãi.

Hôm sau, Đường Thận lại nghĩ ra bài mới, cậu dẫn bọn Gia Luật Hàm ra ngoại ô cưỡi ngựa, rồi leo lên nóc tòa lầu cao ngất mà Vương Trăn xây riêng cho Triệu Phụ ở phía Bắc thành – lầu Hư Cực. Người bình thường thì không thể lên lầu nhưng Triệu Phụ đặc cách cho Đường Thận dẫn người Liêu lên, khiến họ phải đứng trên cao mà chiêm ngưỡng Đại Tống bao la và huy hoàng giữa thời thịnh thế.

Mấy hôm sau, Đường Thận trước rước sau đưa, chăm sóc đoàn sứ giả tận tình chu đáo.

Nhưng Lý Cảnh Đức thì không thể chịu nổi.

Về điện Cần Chính, hắn lột mũ quan văn xuống, than: "Hầy, mệt hơn cả đánh trận! Trước đây ta không biết các ngươi làm quan văn khổ đến thế. Tên Gia Luật Hàm kia không coi ai ra gì, hễ thấy mặt hắn là ta chỉ muốn dần cho một trận, tống cổ về Liêu. Đường đại nhân, mấy hôm nay ngươi vất vả quá."

Đường Thận nghiêm chỉnh đáp: "Lý tướng quân quá lời rồi, hạ quan là mệnh quan triều đình, ăn lộc vua ban, dốc sức phụng sự, sao có thể nói là khổ được, chỉ là thực thi bổn phận thôi."

Lý Cảnh Đức nhìn cậu, nói: "Ngươi khác xa Vương Tử Phong và Tô Phỉ Nhiên đấy."

Đường Thận cười: "Ta chỉ là một tiểu quan tứ phẩm, đương nhiên không thể sánh với với sư huynh và Tô đại nhân rồi."

Lý Cảnh Đức than: "Hai tay đó có tử tế gì cho cam. Chẳng cứ ngươi là sư đệ Vương Tử Phong, trước mặt hắn ta cũng dám nói vậy."

Đường Thận nghĩ thầm: Vậy ngươi nói thẳng mặt sư huynh xem!

Lý Cảnh Đức đội nón quan văn lên, khẽ khàng biến khỏi điện Cần Chính.

Trời vừa tối, Đường Thận đã sang phủ Thượng thư bán đứng Lý Cảnh Đức.

Dù thế nào đi chăng nữa, Lý tướng quân cũng không nghĩ rằng Đường đại nhân mà chính hắn phải ngợi ca là "khác xa bọn họ", thoắt cái đã đem cuộc nói chuyện giữa hai người bọn họ kể củ tỉ âm ti cho Vương Trăn.

Vương Trăn chậm rãi thở dài: "Lý tướng quân hiểu lầm ta rồi."

Đường Thận rất muốn nói rằng, đệ nghĩ hắn không hiểu lầm đâu, Lý tướng quân tuy hơi hiền lành chất phác, nhưng người ta đâu có ngốc.

Vương Trăn: "Tiểu sư đệ, Lý tướng quân có vẻ rất thích đệ nhỉ?"

Đường Thận: "...Có thể do đệ biết cách ăn nói chăng?" Mấy hôm nay ngoài việc tiếp đãi người Liêu ra, Đường Thận cũng hay nịnh Lý Cảnh Đức. Hoàng đế cực kì ưu ái Lý Cảnh Đức, thế nên kiểu gì cậu cũng phải nịnh hắn cho bằng được. Cậu đã đắc tội với Tô Ôn Duẫn rồi, không thể làm mích lòng thêm một người nữa. Giờ đang có cơ hội, cậu phải tranh thủ mà lôi kéo Lý Cảnh Đức, phòng khi Tô Ôn Duẫn muốn ngáng chân còn có người giang tay giúp đỡ.

Hai sư huynh đệ uống xong chén trà nóng, Vương Trăn nói: "Ngày mai là đệ sẽ được nhàn một chút rồi."

Đường Thận sửng sốt, ngẩng lên nhìn chàng: "Sư huynh?"

Vương Trăn mỉm cười: "Không thể để Mạnh đại nhân rỗi dài mãi được, ông ta ăn lộc vua ban thì phải dốc sức vì vua, những việc này đều thuộc bổn phận của ông ấy. Nếu không làm, lại bị ngôn quan2 tố cáo rằng làm quan mà chẳng nên quan, ngồi mát ăn bát vàng thì không ổn. Tiểu sư đệ thấy thế nào?"

[2] Các quan có nhiệm vụ can gián, phê bình

Đường Thận tròn mắt: "Sư huynh, huynh..."

Vương Trăn rót nước sôi vào trà cho Đường Thận: "Bích Loa Xuân Cô Tô năm nay đấy, trước giờ tiểu sư đệ vẫn thích, uống thêm đi."

Đường Thận: "..."

Té ra chẳng cần cậu "mách lẻo", Vương Tử Phong đã biết tất tần tật nhưng chuyện xảy ra trong điện Cần Chính hôm nay!

Ăn lộc vua ban, vì vua phụng sự, chuyện thuộc bổn phận...

Toàn là những điều cậu nói với Lý Cảnh Đức chiều nay đây mà!

Đường Thận bỗng thấy mừng quá, may mà lúc cậu băn khoăn "Vương Tử Phong không chào cờ được" đã không tâm sự với bất cứ ai, cũng không lỡ miệng nói bậy bạ. Chẳng may bị Vương Trăn phát hiện thì không thể hình dung nổi chuyện gì sẽ xảy ra!

[1] Nhà Liêu có lãnh thổ rộng lớn chia làm 5 đạo, trung tâm của 5 đạo này là các kinh, lấy tên kinh đặt cho cả đạo. Mỗi đạo lại có thể chế chính trị riêng để quản lý các dân tộc khác nhau, hoặc các vùng đất đánh chiếm được. Trung Kinh trong truyện nhắc đến được đề tên là Dading trên bản đồ phía dưới. Một đặc điểm của nhà Liêu là sự đa sắc tộc (do lãnh thổ trải dài và quá trình thôn tính các nước/dân tộc lân cận của người Khiết Đan). Người Hán chiếm số lượng lớn nhất nhưng sống tập trung ở phía Nam trong khi người Khiết Đan thì chủ yếu ở phương Bắc, hình thành thế Bắc triều – Nam triều như trong truyện nhắc đến. Văn hóa của hai dân tộc vừa có tính độc lập, vừa ảnh hưởng lẫn nhau. Nhà Liêu có nền kinh tế nông nghiệp/du mục rất phát triển, có chữ viết riêng và văn hóa đặc sắc riêng. Sự hùng mạnh của nhà Liêu và Tây Hạ là một trong những nguyên nhân nhà Tống phát động chiến tranh với Đại Việt nhân lúc vua Lý Nhân Tông còn nhỏ, thái hậu Ỷ Lan nhiếp chính; nhưng đắng lòng cho Tống là Đại Việt dưới thời Lý cũng mạnh và giàu vl :)

Chương 88

Vương Tử Phong... chào cờ được không?

Rốt cuộc Vương Tử Phong có "chào cờ" được hay không, Đường Thận đương nhiên không thể biết được.

Sứ thần nước Liêu chờ năm ngày, hoàng đế mới mở tiệc ở lầu Thăng Bình để chiêu đãi sứ giả. Đường Thận là quan tiếp đón, đương nhiên cũng dự tiệc theo.

Trong lầu Thăng Bình đương rộn ràng ca múa, lả lướt tay tiên1.

Không phải vương tôn, quan viên nào cũng được dự yến mừng sứ giả nước Liêu ở lầu Thăng Bình. Trong buổi tiệc này chỉ xuất hiện các vương gia được hoàng đế sủng ái hơn cả, một số quan lớn, cộng thêm các quan phụ trách tiếp xúc với sứ thần, dẫn đầu bởi Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng. Đường Thận ngồi tít ở phía cuối trong nhóm quan lại. Từ góc xa, cậu thấy Triệu Phụ trong bộ long bào đang uống rượu, trò chuyện với Tam hoàng tử nước Liêu Gia Luật Hàm.

Đây là lần đầu Gia Luật Hàm đến Thịnh Kinh và cũng là lần đầu gã được gặp Triệu Phụ. Gã cứ tưởng hoàng đế Đại Tống cũng giống với phụ vương gã, uy nghiêm hà khắc, không ai dám nhìn thẳng, nói sai một câu cũng có thể bị lôi ra chém đầu. Ngờ đâu, thái độ của Triệu Phụ hết sức vồn vã, dường như có ý lấy lòng, khiến Gia Luật Hàm phổng cả mũi.

Phải lắm! Nước Đại Liêu của họ binh hùng tướng mạnh, đánh đâu thắng đó, không gì cản nổi. Trước mặt người Liêu, người Tống dĩ nhiên phải nịnh nọt, a dua. Hoàng đế Đại Tống đã là gì? Thiết kỵ nước Liêu mà xuôi Nam, chẳng cần đến một tháng cũng thừa sức tắm máu thành Thịnh Kinh.

Trong lòng Gia Luật Hàm tự phụ là thế, nhưng gã không ngu đến mức cuồng ngôn. Gã bảo Triệu Phụ: "Đa tạ sự quan tâm của hoàng đế bệ hạ, ta ở dịch quán rất thoải mái, hiềm nỗi mãi mới được gặp bệ hạ, kể cũng lạ. Sáng nay, bản điện hạ còn nghĩ, có nhẽ nào hoàng đế Đại Tống không bằng lòng gặp chúng ta chăng?"

Triệu Phụ kinh ngạc: "Sao Tam hoàng tử lại hiểu lầm thế." Nói rồi, ông ta quay ra chất vấn: "Mạnh đại nhân, trẫm ra lệnh cho khanh tiếp đón sứ giả nước Liêu từ sớm, cớ làm sao khanh lại để sứ giả hiểu lầm thế này?"

Mạnh Lãng than thầm trong bụng, lập tức đứng dậy, liếc mắt về phía Đường Thận.

Đường Thận ngồi tuốt đằng sau chứ không được ở gần Vương Trăn – người được xếp ngồi đối diện Mạnh Lãng. Hiện giờ, Vương đại nhân đang không nhìn lên, chỉ thong thả ung dung thưởng thức các món ăn, còn cái người ngồi lù lù cạnh Đường Thận là Đại nguyên soái nhị phẩm trắng trẻo đẹp trai kia. Lúc này, ngài nguyên soái đương trợn trừng trừng cặp mắt to như chuông đồng, hung tợn nhìn chòng chọc Mạnh Lãng.

Ánh mắt hắn đang nói: Những việc xương xẩu nhất lão đã quẳng tuốt cho ông đây gánh rồi, giờ sao, vẫn tính đùn đẩy trách nhiệm tiếp hử?

Mạnh Lãng kêu trời không thấu kêu đất chẳng hay, khổ sở lắm mà chịu chết không nói được.

Làm sao ông ta đoán nổi mọi chuyện sẽ thành ra thế này? Mình sai Đường Thận đi làm việc kia mà, Lý Cảnh Đức nhảy vào làm gì cơ chứ!

Vương Tử Phong là kiểu người mật miệng gươm lòng. Nếu hôm nay ông ta tâu với Triệu Phụ rằng mình giao việc cho Đường Thận nhưng Đường Thận làm hỏng, Vương Tử Phong sẽ không vội vã trả thù ngay. Sự trả thù của y sẽ kéo dài dai dẳng như mưa phùn mỗi dịp gió mùa về, lúc nhặt lúc khoan ròng rã cả tháng.

Nhưng Lý Cảnh Đức thì hoàn toàn khác.

Lý Cảnh Đức mà đã rắp tâm trả thù, chỉ e Mạnh Lãng vừa bước chân ra khỏi lầu Thăng Bình đã bị Lý tướng quân hốt ngay vào bao tải, lôi đến xó xỉnh nào đó trong cung dần cho một trận!

Mạnh Lãng rên rỉ trong lòng, tâu với Triệu Phụ: "Thần kém cỏi, không làm tròn chức trách."

Triệu Phụ giả vờ nghiêm giọng: "Thiếu chu đáo với khách quý của trẫm, phạt ngươi một tháng bổng lộc."

Mạnh Lãng: "Thần lĩnh mệnh."

Gia Luật Hàm cố tình bắt bẻ, cốt là để thấy hoàng đế Đại Tống trừng phạt bề tôi vì sứ giả nước Liêu. Còn chuyện ai là người phải chịu trận thì gã chẳng cần biết. Đây là việc mà trước khi đến lầu Thăng Bình, Hán Nhi Ty Gia Luật Cần đã dặn dò kĩ lưỡng: Phải đánh phủ đầu quan Tống hòng bẻ gẫy uy thế của họ, sau này đàm phán mới không thiệt cho bên ta.

Mạnh Lãng bị phạt xong, Gia Luật Cần mới vờ vĩnh can: "Hoàng đế bệ hạ, chỉ là chuyện nhỏ thôi, đâu cần làm vậy."

Triệu Phụ mỉm cười hòa ái, nét mặt hiền hậu nhân từ: "Sứ thần Đại Liêu là khách quý của trẫm, không thể sơ suất được."

Gia Luật Hàm nghe thế thì sướng rơn, gã vừa vuốt ria mép vừa cười khoái trá. Sau lưng gã, Gia Luật Cần và Gia Luật Ẩn nhìn Triệu Phụ bằng ánh mắt khinh miệt. Chuyện Triệu Phụ say mê tu tiên, cả ngày chỉ tâm niệm xem làm cách nào mới đắc đạo không phải bí mật trong giới quan chức nước Liêu. Hôm nay xem ra, hoàng đế Đại Tống đúng là một tên hôn quân tầm thường, không đáng nhắc đến.

Buổi yến ở lầu Thăng Bình kết thúc, song phương chuyện trò hết sức thân tình, ai nấy đều phấn khởi.

Sau khi Triệu Phụ rời khỏi lầu Thăng Bình, các quan Đại Tống chờ sứ giả nước Liêu đi hết rồi mới ra về.

Đường Thận và Lý Cảnh Đức đi cùng với nhau; Lý Cảnh Đức vẫn đang đóng giả quan tùy tùng của Đường Thận. Vừa ra khỏi lầu Thăng Bình, hai người bị một thái giám ngăn lại. Thái giám ấy cúi mình thi lễ: "Nô tỳ xin được diện kiến Lý tướng quân, Đường đại nhân. Bẩm tướng quân, thánh thượng cho đòi ngài đến đài Đăng Tiên, mời tướng quân đi theo tôi."

Lý Cảnh Đức dụi mũi, nói với Đường Thận: "Ta đi đã nhé."

Đường Thận: "Lý tướng quân đi thong thả."

Lý Cảnh Đức theo thái giám đến đài Đăng Tiên.

Hôm sau, Đường Thận không còn gặp Lý Cảnh Đức ở điện Cần Chính nữa. Mạnh Lãng dẫn đầu các quan, đích thân thương thảo với sứ Liêu. Hai bên không chọn điện Cần Chính hay bất cứ nơi nào trong cung, mà chọn nha môn bộ Lễ để đàm phán. Bao nhiêu phép tắc trang trọng khi trước, đến lúc này đều thành lời suông nước lã cả. Người Liêu vừa xuất hiện đã yêu sách ngay: "Trong cuộc chiến tại thành U Châu lần này, quân Liêu ta phải chịu tổn thất vô cùng nghiêm trọng. Các ông định bồi thường thế nào đây?"

Đòn ngậm máu phun người này mới trắng trợn làm sao!

Đường Thận dù sao cũng còn trẻ, chỉ có ba năm kinh nghiệm làm quan, da mặt hẵng còn mỏng lắm. Cậu nghe sứ Liêu nói thế thì sôi mật sôi gan.

Mạnh Lãng với Dư Triều Sinh lại khác. Hai người họ kẻ tung người hứng, vừa đấm vừa xoa.

Dư Triều Sinh chất vấn: "Gia Luật đại nhân nói vậy là có ý gì? Hai nước Tống – Liêu kí hòa ước từ hai mươi năm trước, đôi bên thống nhất không khai chiến, không giao tranh, chung sống hòa bình. Hòa ước do chính tiên đế nước Liêu các ông kí, lẽ nào Liêu Thành Tông băng hà, hòa ước cũng hết hiệu lực sao? Lần này quân Liêu các ông tấn công thành U Châu trước, cớ gì các ông lại đổ lỗi cho Đại Tống? Đại Tống chúng ta còn chưa tính sổ chuyện ấy với các ông đâu!"

Gia Luật Cần cười hằn học: "Các ngươi cũng có gan nhắc đến tiên đế nước Đại Liêu ta ư? Tiên đế nhân từ nên mới kí hòa ước với Đại Tống các ngươi. Ấy vậy mà suốt hai mươi năm qua, Đại Tống đã làm những gì? Hai tháng trước, một viên quan Đại Liêu vô duyên vô cớ chết trên đất Tống, các ngươi lấy gì để giải thích đây?"

Dư Triều Sinh toan nổi giận, Mạnh Lãng đã xen vào dập lửa ngay: "Dư đại nhân, không thể nói vậy được. Hoàng đế nước Liêu cử sứ giả tới nước ta, ngay cả tam hoàng tử điện hạ cũng đích thân thăm viếng, ấy là thật lòng muốn đàm phán với chúng ta..."

Tròn hai ngày, đôi bên vẫn tranh cãi dằng dai về việc ai mới phải chịu trách nhiệm cho chiến dịch U Châu lần này.

Phải sang đến ngày thứ ba, nước Liêu mới đồng ý nhượng bộ. Đương nhiên, họ không nhượng bộ vì quá cắn rứt lương tâm khi trơ tráo đổ vấy trách nhiệm về phía Đại Tống, mà vì quân Tống nhân lúc đêm khuya đã bí mật tập kích doanh trại quân Liêu ở Tây Bắc, thắng lợi áp đảo. Bấy giờ người Liêu mới chợt phát hiện rằng nước Tống ở phương Nam có lẽ không yếu như bọn họ tưởng. Hai mươi năm trước, cũng chính đất nước này đã từng đánh bại bọn họ.

Với chức vị của Đường Thận hiện giờ, cậu chưa thể tham dự vào quá trình đàm phán. Song để nước Liêu phải nhận một phần lỗi, họ vừa phải tốn ba ngày trời, vừa phải hi sinh máu xương binh lính Đại Tống.

Đường Thận đứng trong phòng, nghe Mạnh Lãng và Dư Triều Sinh nói về con số thương vong.

Những con số chỉ là ngôn từ lạnh lẽo, nhưng đằng sau những con số không biết nói ấy là biết bao sinh mạng phải lụi tàn.

Đại Tống sung túc hơn Đại Liêu, chi phí đổ vào quân sự cũng nhiều hơn Đại Liêu. Nhưng binh sĩ Đại Tống không mạnh bằng binh sĩ nước Liêu được trui rèn quanh năm trên chiến trường thảo nguyên. Nước Tống giàu có, song chiến tranh không chỉ đơn thuần là cuộc so găng về tiền bạc. Chiến tranh là cuộc đọ sức của thực lực quân sự.

Đường Thận lắng nghe từng câu nói, lẳng lặng, bình tĩnh quan sát động tác và biểu cảm của bọn Gia Luật Hàm từ xa.

Đến chiều, một quan sai gọi Đường Thận ra khỏi phòng. Cậu đi xuống hậu viện nha môn bộ Lễ, liền thấy Chinh Tây nguyên soái Lý Cảnh Đức chờ sẵn trong sân.

Đường Thận lập tức bước đến hành lễ: "Hạ quan Đường Thận bái kiến Lý tướng quân."

Lý Cảnh Đức nói: "Đường đại nhân, sao giờ này mà ngươi còn đa lễ với ta thế! Bản tướng quân đến là để cảm ơn ngươi. Thời gian vừa qua bắt ngươi dẫn ta theo, cuối cùng lại thành ra liên lụy đến ngươi. Ngày mai ta phải về Tây Bắc rồi, hôm nay không tới cảm ơn thì hết cơ hội mất."

Đường Thận kinh ngạc: "Lý tướng quân phải về Tây Bắc rồi ư?"

"Đúng thế. Ngoài thành U Châu, quân Liêu chưa thôi rình rập, ta không thể không trở về."

Lý Cảnh Đức sớm muộn gì cũng phải quay lại Tây Bắc, nhưng Đường Thận không ngờ ngày ấy đến nhanh như vậy. Cậu hơi ngạc nhiên, đêm hôm đó Triệu Phụ gọi Lý Cảnh Đức vào đài Đăng Tiên nói chuyện, ngặt nỗi cậu không thể hỏi đó là chuyện gì. Đường Thận bèn nói: "Hạ quan chúc Lý tướng quân thuận buồm xuôi gió."

Lý Cảnh Đức khoát tay: "Ha ha, xin cảm ơn. Được rồi, ta nghe đồn Đường đại nhân giàu lắm đúng không nhỉ?"

Đường Thận bỗng cảnh giác, không biết hắn ta tự dưng nói thế với ý đồ gì.

"Ngươi đừng lo, bản tướng quân chỉ hỏi chơi thôi. Giàu thế chứ giàu nữa cũng chả vượt nổi Vương Tử Phong!" Lý Cảnh Đức bĩu môi, "Dù y có là sư huynh ngươi đi chăng nữa, ta cũng chẳng ngại nói thẳng mặt y. Nhà Vương Tử Phong giàu nứt đố đổ vách, y còn làm Thượng thư bộ Hộ, cả ngày lo kiếm tiền cho triều đình. Cứ hễ chiến tranh, ông đây vừa phải xin y tiền, vừa phải lựa theo sắc mặt y. Y là cái giống gì ấy chứ chẳng phải giống người!"

Đường Thận chỉ tủm tỉm cười, bụng bảo dạ: Để tối nay ta nhắn nhủ sư huynh giùm Lý tướng quân nhé.

Lý Cảnh Đức: "Nhưng ông đây cũng có bản lĩnh của riêng mình chứ bộ. Ta biết đánh giặc, sống nửa đời người cũng chỉ biết đánh giặc thôi. Binh sĩ Đại Tống chúng ta quả thực không bằng quân Liêu, nhưng ta cam đoan chỉ mười, hai mươi năm nữa, thiết kỵ nước ta sẽ không thua kém bọn họ! Hiềm nỗi mười năm vừa qua, mỗi trận đánh lại tiêu tốn của bọn ta cơ man tiền của. Trận đánh úp doanh trại vừa rồi còn tốn kém gấp mấy lần. Việc kiếm tiền, xin trông cậy cả vào các ngươi!"

Trong nắng vàng rực rỡ, nụ cười của Lý tướng quân sáng láng vô cùng.

Đường Thận ngắm nhìn vị tướng quân trẻ hồi lâu mới nói: "Lý tướng quân, có chuyện này hạ quan hết sức tò mò..."

"Ngươi cứ nói."

"Hôm ấy Thánh thượng triệu ngài đến đài Đăng Tiên, phải chăng là do hạ quan chưa làm tròn bổn phận, dẫn tướng quân đến dịch quán tiếp sứ Liêu, gây liên lụy đến tướng quân?"

Vẻ mặt Lý Cảnh Đức bỗng trở nên hết sức khó tả.

Đường Thận: "Tướng quân?"

"Chắc là bị Thánh thượng mắng cho một trận tối tăm mặt mày chứ gì." Tiếng ai du dương trầm bổng cất lên từ phía sau hai người.

Đường Thận lập tức ngoái nhìn. Dưới dàn hoa tường vi thắm đỏ, Vương Trăn khoác trên mình bộ quan bào đỏ thẫm, tay chàng cầm cây quạt, khóe môi cong hững hờ, cười mà cứ như không, lướt ánh nhìn về phía Lý Cảnh Đức.

Lý Cảnh Đức: "..."

Đường Thận nhoẻn cười.

Ha, xem ra chưa cần mình chuyển lời, sư huynh đã biết.

Manh: Đã bận thì chớ mạng còn hỏng....

Chú thích

[1] Gốc: tiên duệ phiêu phiêu. Dịch nghĩa là tay áo tiên bồng bềnh. Ý tả chuyển động duyên dáng, lả lướt.

Chương 89

Ỷ chiều sinh kiêu

"Ai bảo Thánh thượng mắng ta tối mặt tối mũi? Vương Tử Phong, bộ ngươi núp trên xà nhà nghe lén hay sao?" Lý tướng quân ban đầu cũng ngượng chín mặt, nhưng hắn ta nhanh chóng lấy lại bình tĩnh, lí sự ngay: "Chả nhẽ ngươi cứ nói thế nào thì sự thật là thế ấy? Thánh thượng triệu ta đến để thưởng công đại thắng quân Liêu, ngươi thì biết cái gì!"

Vương Trăn bước đến, liếc mắt trao đổi với Đường Thận.

Đường Thận: Sư huynh, hắn vừa mới nói xấu huynh đấy, đệ không trả lời hắn, đệ không liên quan.

Vương Trăn cười tủm tỉm, Đường Thận không hiểu ý chàng, nhưng cậu nghĩ mình không làm gì sai, lại thân với Vương Tử Phong đến thế, chắc chàng chẳng giận dỗi mình đâu.

Vương Trăn thủng thẳng hỏi: "Lý tướng quân nói Thánh thượng ban thưởng cho tướng quân, thế phần thưởng ấy đâu?"

Lý Cảnh Đức: "..."

Đúng là không bói ra nổi kẻ nào tử tế trong lũ quan văn tầm xàm bọn mi!

Lý Cảnh Đức hùng hổ khoát tay, sải bước đi vun vút: "Thôi đi đây, nói chuyện nhạt thếch!"

Bóng lưng phóng khoáng của Lý Cảnh Đức khuất dần trong khu vườn điện Cần Chính. Chẳng hiểu sao, Đường Thận thấy hắn hớt hải cứ như chạy nạn. Đối đầu với các quan văn khác, Lý Cảnh Đức sẵn sàng móc mỉa không thương tiếc. Ngay như Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng cùng hàm nhị phẩm, hắn cũng có gan nửa đêm chụp bao tải, tẩn ông ta một trận nhớ đời. Ấy thế mà đụng phải Vương Tử Phong thì đố hắn dám. Lương bổng của quân đội đang nằm cả trong tay bộ Hộ kia kìa! Xưa nay đâu phải Lý tướng quân chưa bao giờ chống đối Vương Tử Phong? Khốn nỗi, những lần ngang tàng ấy chẳng đem lại kết quả tốt đẹp gì cho cam!

Kẻ thức thời là trang tuấn kiệt, Lý tướng quân là anh hùng kiệt xuất của thời đại này, càng phải biết thời biết thế hơn người khác.

Thật ra, Vương Trăn chỉ đi ngang qua chốn này thôi chứ không hề chủ tâm theo dõi Đường Thận hay Lý Cảnh Đức. Ai biết đâu, đương băng qua vườn thì tự dưng nghe tên mình được nhắc đến, chàng mới dừng bước nghe thêm mấy câu.

Vương Trăn bình thản nhìn Đường Thận: "Phía Mạnh đại nhân thế nào rồi?"

Ấy là chàng hỏi thăm tình hình tranh luận giữa Mạnh Lãng và đoàn sứ giả nước Liêu. Đường Thận đáp: "Mạnh tướng công và Dư thị lang phối hợp nhịp nhàng, có thể nói là khá thuận lợi."

Vương Trăn: "Năm nay rồi cũng khép lại êm thấm thôi."

Đường Thận ngầm hiểu: "Ý của sư huynh là..."

Vương Trăn mỉm cười: "Tối nay, tiểu sư đệ ghé phủ Thượng thư uống rượu nhé?"

Mạnh Lãng chủ trì việc đàm phán với sứ Liêu, Đường Thận bỗng hết phận sự. Ngày ngày rỗi rãi, cậu cũng định bụng ghé thăm Vương Trăn để thắt chặt tình cảm. Vừa nghe chàng nói thế, Đường Thận đáp liền: "Vâng, lại xin quấy quả sư huynh."

Đã vào tháng Chạp. Ở Thịnh Kinh, ngoảnh đi ngoảnh lại trời đã sập tối. Các quan tan làm đều phải thắp đèn lồng.

Đường Thận về nhà thay thường phục rồi mới đến phủ Thượng thư. Đầu bếp phủ Thượng thư đã chuẩn bị một mâm cơm kiểu Giang Nam. Kỳ thực, kiếp trước, ẩm thực Giang Nam với khẩu vị thanh đạm không phải gu của cậu. Thế mà sang kiếp này, cứ mỗi lần thăm nhà Vương Trăn là Đường Thận đành phải làm thực khách bất đắc dĩ. Không chỉ có vậy, đầu bếp phủ Thượng thư là đầu bếp được Lang Gia Vương thị tuyển chọn kĩ càng trước khi gửi đến, tay nghề có một không hai. Thành thử theo Vương Trăn lâu ngày, dần dà khẩu vị của Đường Thận cũng thanh đạm hơn.

Sư huynh nhà mình có những thú vui phong nhã gì sau bữa cơm, Đường Thận cũng nắm rõ như lòng bàn tay.

Hoạt động vui chơi giải trí của người thời xưa thật ra không nghèo nàn như người hiện đại vẫn lầm tưởng, song cũng không lấy làm nhiều nhặn. Đêm xuống, thắp nến hay đốt đèn đều tốn kém nên phần lớn người dân sẽ đi ngủ. Ai không ngủ thì có thể tiêu khiển bằng những trò như cờ đá ngựa1, hoặc chơi bài diệp tử hí2. Cao nhã hơn thì có cầm, kỳ, thư, họa, gì cũng sẵn.

[1] Đả mã – trò chơi gần giống như cờ cá ngựa. [2] Trò chơi thẻ bài cổ, trên thẻ vẽ hình của các anh hùng Lương Sơn Bạc và có số điểm khác nhau.

Vương Trăn tinh thông đủ mấy nghề cầm kỳ thư họa. Là "nửa" học trò của chàng, Đường Thận cũng "học đòi văn vẻ", võ vẽ mỗi thứ mỗi tí.

Hai người vào thư phòng, trong phòng bày một ván cờ họ bắt đầu từ nửa tháng trước.

Đường Thận nhác thấy bàn cờ đã ong cả đầu, vội xin tha: "Sư huynh, đệ thua rồi."

Vương Trăn ngạc nhiên: "Đã đi hết cờ đâu, sao tiểu sư đệ chóng đầu hàng thế?"

"Con mắt tinh tường của sư huynh cố nhiên phải thấy cuộc cờ này đệ đã bại. Chúng ta bày ván khác thì hơn."

Vương Trăn than thở: "Tiểu sư đệ coi thường bản thân quá đấy." Nói đoạn, chàng thu cờ, "Thế thì chơi ván khác vậy."

Đường Thận nghĩ thầm: Huynh nhất định phải thấy ta thua liểng xiểng mới vừa lòng ư?

Đâu ra cái thú vui xấu xa thế không biết!

Trước giờ Đường Thận đánh cờ với Vương Trăn đều theo lối cờ địch thủ, tức là hình thức chơi giữa hai người có trình độ ngang nhau, không nhường quân nào hết. Chẳng hiểu sao hôm nay Đường Thận lại đề nghị: "Sư huynh, đệ muốn chơi cờ nhiêu tử, huynh nhường đệ năm quân nha?"

Cờ nhiêu tử là hình thức mà người chơi kém hơn được cầm quân đen đi trước. Đã thế, Đường Thận còn đòi Vương Trăn phải nhường mình những năm quân.

Vương Trăn lấy làm lạ: "Tiểu sư đệ chọn cờ nhiêu tử để làm chi?"

Đường Thận: "... Tài đánh cờ của đệ đâu bằng sư huynh. Trước giờ chúng ta nên chơi cờ nhiêu tử mới đúng."

Vương Trăn: "Ta chẳng thấy thế."

Đường Thận: "..."

"Đệ thấy thế, sư huynh, nhường đệ năm quân đi mà."

Vương Trăn bình tĩnh mỉm cười: "Ta tôn trọng tiểu sư đệ, ta nghĩ đệ nên chơi theo lối cờ địch thủ."

Đường Thận nghĩ bụng, huynh có thể chuyển sự nghiêm túc ấy sang những lĩnh vực khác được không? Ví dụ như kéo ta thăng quan tiến chức chẳng hạn, còn chuyện cờ quạt thì phiên phiến thôi. Nhưng ai lại nói thế kia chứ? Một câu của Vương Tử Phong nhẹ tựa lông hồng, mà trong đầu Đường Thận phải nghĩ lòng vòng mấy ngả.

Vương Tử Phong bảo chàng tôn trọng mình, cho rằng về tài cờ họ ngang hàng với nhau, nên chơi cờ địch thủ.

Chàng không chỉ nói chuyện cờ, mà còn đang ám chỉ cái khác.

Phải đáp lại thế nào đây?

Mất một lúc, Đường Thận tuổi mười chín mới trả lời sư huynh: "Ta nhỏ hơn sư huynh chín tuổi, còn chưa làm lễ đội mũ, sư huynh nhường ta một chút thì mất gì đâu?" Giọng cậu còn pha chút nũng nịu, song Đường Thận chẳng nói ngoa. Giờ cậu mới mười chín, phải chờ sang tháng sau, qua năm mới, cậu mới tròn hai mươi. Thế nên, hiện tại, Đường Thận vẫn đang là trẻ vị thành niên ở thời đại này.

Vương Trăn lớn hơn cậu những chín tuổi, ở thời đại này có thể coi là chênh nhau một thế hệ rồi. Là bậc cha chú, chàng cưng yêu chiều chuộng con cháu mình cũng là chuyện thường tình.

Vương Trăn phì cười, nhìn Đường Thận bằng ánh mắt hết sức kinh ngạc. Mãi sau, chàng mới chầm chậm thở dài, buồn bã nói: "Cảnh Tắc, đệ rõ thật là..." Vương Trăn bỏ lửng câu nói.

Đường Thận tò mò: "Là gì ạ?"

Vương Trăn cầm hộp cờ trắng: "Được rồi, thế thì đánh cờ nhiêu tử."

Đường Thận: "???" Đang nói dở kia mà?

Vương Trăn không chịu tiết lộ, Đường Thận chẳng thể cạy miệng chàng bắt nói ra. Nhưng coi thái độ Vương Trăn, Đường Thận nghĩ bụng chắc chàng không định nói gì xấu.

Vương Trăn cho Đường Thận đi trước năm quân, hạ cờ theo phép nhiêu tử. Phải như thế, Đường Thận mới có sức cạnh tranh với Vương Trăn.

Đường Thận có thắng lợi sớm trước tiên, bắt được ba mắt5 của Vương Trăn. Nhưng ngay lập tức, Vương Trăn cắt thành công ba mạch cờ của Đường Thận, liên tục trên nước.

[5] Một hoặc một nhóm các điểm giao trên bàn cờ được bao quanh bởi các quân cờ. Mất mắt thì dễ bị bắt quân hơn (bất lợi). "Trên nước" là thuật ngữ trong chơi cờ, ý là có lợi thế.

Cuộc cờ tựa nhân sinh.

Rất lâu về trước, trong ván cờ chính thức đầu tiên của Đường Thận, Lương Tụng đã nói với cậu như thế.

Bản tính thật của một người có thể được bộc lộ thông qua một ván cờ. Tỷ như Lương Tụng, phong cách của ông khi chơi cờ thiên về ổn định, vững vàng hơn là xông xáo, một lối chơi nghiêm chỉnh. Còn như Phó Vị, khi Đường Thận đánh với ông, nước cờ của Phó Vị thoắt biến thoắt hóa khôn lường. Đánh được nửa ván thì ông chẳng buồn chơi nữa, đứng dậy đi cho chim ăn vì một lẽ rất đơn giản: "Cảnh Tắc ơi là Cảnh Tắc, con chơi cờ dở khiếp!"

Riêng với Vương Trăn, Đường Thận không thể đoán được bất cứ điều gì về con người chàng dựa vào cách chơi cờ.

Vương Trăn khi thì vững vàng tựa núi Thái, lúc thì mạo hiểm được ăn cả, ngã về không. Chàng như con mãnh hổ nằm phục bên bờ nước, thường ngày duỗi người lim rim. Mặt hồ xanh thẳm êm đềm giống hệt cốt cách cao nhã ung dung của chàng vậy. Thình lình gió giật mây sa, chúa sơn lâm choàng tỉnh giấc nồng, cất tiếng gầm rền vang rừng núi, ngàn chim muông nháo nhác tan bầy.

Giữa lúc địch thủ hẵng còn hoảng hốt, chàng điềm nhiên bắt một cụm cờ đen, dịu dàng cười với Đường Thận: "Tiểu sư đệ ơi."

Một lát sau, Đường Thận mới hoàn hồn, phát hiện mình lại thua ván nữa.

"Tài cờ của sư huynh bỏ xa đệ quá." Câu này vừa là nịnh, vừa là lời thán phục thật lòng.

"Tiểu sư đệ còn chưa làm lễ đội mũ mà. Chín năm nữa, khéo ta lại thua đệ ấy chứ."

Đường Thận: "..."

Đâu ra! Sao huynh lại để bụng chuyện đấy hả Vương Tử Phong?

Không thể lờ vụ này đi được, Đường Thận nhạy bén phát hiện Vương Trăn rất chi là quan tâm đến vấn đề này. Cậu bèn vỗ về: "Sư huynh à, đệ đâu có chê huynh già."

"Hở?"

"Sư huynh vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa." Đường Thận thổ lộ tâm can, "Trong lòng đệ, khắp cả triều đình Đại Tống, giữa toàn thể các quan, có thể nói, sư huynh chính là người phi thường nhất!"

Hai mươi tám tuổi đã là quyền thần của cả một quốc gia, có đặt vào bối cảnh hiện đại cũng thừa tiêu chuẩn thanh niên ưu tú.

Thật ra, Đường Thận đã từng nghĩ thế này.

Đường Hoàng mười lăm tuổi, tức là đủ tuổi để bàn chuyện hôn nhân. Nếu tạm bỏ qua sở thích cá nhân của Đường Hoàng, để Đường Thận chọn, liệu ai mới xứng là chàng rể hiền giỏi giang nhất Đại Tống đây?

Chỉ tính riêng trong quan trường, người ấy không thể là Tô Ôn Duẫn tuổi hai nhăm phơi phới, mà phải là Vương Trăn tuổi hai tám cơ!

Ví bằng được lấy Vương Trăn làm chồng, tháng ngày sau xem như thuận buồm xuôi gió, trọn đời chẳng vướng sầu ưu.

Mình mà chẳng phải con trai thì cũng động lòng đấy.

Biểu cảm của Đường Thận được thu gọn trong đôi mắt tĩnh tại của Vương Trăn. Ánh nhìn của cậu mới chân thành làm sao, trong veo như ánh mắt trẻ thơ vậy. Vương Trăn cười khẽ, bày thêm ván nữa.

"Chơi tiếp nào."

Đường Thận yên lặng đánh cờ cùng sư huynh.

"Nhân sinh như cuộc cờ." Tiếng nói thanh nhã cất lên, Đường Thận ngây dại, ngước mắt nhìn Vương Trăn. Vương Tử Phong cầm quân trắng, vừa đặt quân, vừa hướng ánh nhìn xuống bàn cờ, nói: "Cuộc cờ, cũng giống như cuộc đời, như thế thái muôn màu, như quan trường chìm nổi. Tiểu sư đệ, đệ đọc sử Liêu có suy ngẫm gì không?"

Đường Thận ngồi ngay ngắn, đáp: "Người Liêu dựng nước trên lưng ngựa, toàn dân ai ai cũng là lính, ngựa khỏe quân hay. Cứ theo lời Lý tướng quân, mười năm, hai mươi năm sau, Đại Tống ta cũng có thể xây dựng một đội thiết kỵ dũng mãnh như vậy. Song ngay lúc này đây, nước Liêu đã sở hữu đội quân kiên gan và quả cảm đó rồi. Mặc dù thế, do thể chế đặc thù, triều đình bọn họ không được như nước Tống chúng ta."

"Khác thế nào?"

"Quan miền Nam và quan miền Bắc có mâu thuẫn quá sâu sắc, khó mà hòa giải được."

Vương Trăn đặt một quân cờ, diệt được ba mắt khí của Đường Thận6. Chàng bắt quân, nói: "Thế này mà cứ đòi đánh cờ nhiêu tử. Rõ ràng tiểu sư đệ đang tiến bộ dần mà."

Đường Thận ngẫm nghĩ, sư huynh đang khen mình chăng?

Vương Trăn không để cậu nghĩ ngợi lâu, nói: "Quan miền Nam giống như đệ, cầm quân đen đi cờ nhiêu tử. Quan miền Bắc giống như ta, chiếm hơn nửa giang sơn nước Liêu, hùng dũng oai nghiêm, thanh thế sừng sững."

Đường Thận giật mình: "Sư huynh đã biết từ sớm rồi ư?"

Vương Trăn: "Không phải ngẫu nhiên ty Ngân dẫn được thành lập."

Đường Thận hoảng hồn: "Ngoài chuyện 'đổi giấy thành tiền', ty Ngân dẫn còn ngầm điều tra tình hình chính trị nước Liêu?"

Vương Trăn như thể vừa nghe điều gì lạ lùng lắm: "Tiểu sư đệ hãy thận trọng lời lẽ, ta chưa bao giờ nói thế cả."

Đường Thận trật tự ngay.

"Đại hoàng tử và Nhị hoàng tử nước Liêu giống như đệ, xuất thân thấp kém, vì thân thế mà tình cảnh không thuận nên phải cầm quân đen hạ cờ nhiêu tử. Tam hoàng tử Gia Luật Hàm ví như ta, xuất thân cao quý, được phe Vương tử Thái sư và nhiều quan nước Liêu hết lòng phù trợ, nhưng bản tính dốt nát không biết tính toán, cầm quân trắng hạ sau."

Đường Thận: "..."

Đường Thận: "Sư huynh, huynh vừa nói rằng ty Ngân dẫn không thăm dò việc chính trị nước Liêu."

Vương Trăn: "Ta có nói vậy à?"

Đường Thận quả quyết: "Huynh có nói."

Vương Trăn nhìn Đường Thận, khẽ nhíu mày.

Trước đây, Đường Thận nhất định sẽ đổi giọng ngay, giả vờ như mình lỡ lời. Nhưng lúc này đây, Đường Thận nhìn Vương Trăn không chớp mắt, cứng đầu không chịu khuất phục "cường quyền".

Trong chốc lát, Vương Trăn bỗng mỉm cười. Chàng lấy ngón tay gõ yêu lên trán Đường Thận một cái, chẳng câu nệ gì, bảo: "Đệ đúng là ỷ chiều sinh kiêu!"

Trường tui bị cyberattack, mạng hỏng rồi chập chờn như cánh bướm gần 2 tuần nay mà công việc thì một đống, mệt sml :) edit đến chương 91 rồi mà không beta được vì không có mạng TvT sẽ nhả từ từ nốt trong tuần này hoặc tuần sau.

Chú thích

– nhiêu, có thể hiểu là khoan dung; là con/ non trẻ. Trong địch thủ kỳ thì người cầm quân trắng đi trước, còn nhiêu tử kỳ thì người cao thủ cầm quân trắng đi sau.

Người Trung Quốc quan niệm cứ sang một năm là tăng thêm một tuổi, nên hay có cách nói "năm nay X tuổi", hoặc "năm nay bao nhiêu tuổi".

Câu này mình không chắc. 截杀唐慎的三目气. Khí là điểm trống có thể nối quân xung quanh một quân cờ hay một nhóm cờ. Bạn nào thạo cờ vây xin hãy giải thích giúp

Chương 90

Ngươi nói xem, sao đệ ấy cứ trêu đùa với trái tim ta mãi thế?

Tim Đường Thận rớt mất một nhịp, cậu ngơ ngác đưa tay lên xoa trán.

Vương Trăn bảo cậu ỷ chiều sinh kiêu... Lẽ nào, cậu vượt quá khuôn phép thật ư?

Nhưng Vương Tử Phong trông vui vẻ thế kia cơ mà, chẳng mảy may tức giận.

"... Sư huynh."

"Ơi?"

Đường Thận thấy lồng ngực mình chật ních những cảm xúc khó mà gọi tên, không biết phải nói sao. Nên phủ nhận rằng mình không hề ỷ được chiều mà kiêu ngạo, hay nên nhận lỗi rằng mình lỡ lời, sau này sẽ không nói thế nữa? Song mấy chữ ỷ chiều sinh kiêu khiến lời nói của cậu cứ nghẹn lại. Im lặng hồi lâu, Đường Thận mới hỏi: "Sư huynh, hình như... đến lượt đệ rồi nhỉ?"

Cậu thiếu niên khôi ngô non trẻ chăm chú nhìn chàng bằng đôi mắt sáng ngời.

Vương Trăn làm thinh một lúc lâu mới đáp: "Ừ."

Đường Thận thở phào nhẹ nhõm.

Hai người lại tiếp tục đánh cờ.

Vương Trăn không nhắc đến chuyện triều đình nước Liêu nữa, nhưng chàng chỉ cần điểm qua mấy nét ấy thôi là đủ khiến Đường Thận nhận ra sóng ngầm dữ dội trong quan trường nước Liêu. Quan trường của họ cũng máu lửa, sục sôi như tác phong quân đội của họ vậy. Trước hết, phải kể đến sự phân hóa giữa quan miền Bắc và quan miền Nam trong hệ thống quan lại nước Liêu.

Tập đoàn quan miền Bắc chiếm số đông, hầu hết thuộc dòng dõi quý tộc và các bộ tộc lớn, nắm quyền chủ chốt trong triều đình. Quan miền Nam phụ trách mọi hoạt động liên lạc giao lưu với người Tống, tuy nhân số ít hơn, nhưng cũng là thế lực đáng gờm. Bên cạnh đó, Đường Thận còn được tiếp xúc với Tam hoàng tử nước Liêu là Gia Luật Hàm.

Gia Luật Hàm hữu dũng vô mưu; nghe ý Vương Trăn, mối quan hệ giữa Gia Luật Hàm và Đại hoàng tử, Nhị hoàng tử nước Liêu cũng cạnh tranh gay gắt như cờ trắng với cờ đen.

Xưa nay, sự tranh giành quyền lực giữa các hoàng tử là chuyện bất khả kháng. Ngay cả chuyện đấu đá, kèn cựa nhau giữa các phe phái quyền thần trong triều đình cũng quá đỗi bình thường. Tuy vậy, đến bây giờ Đường Thận mới ý thức được rằng Đại Tống cũng có rất nhiều hoàng tử, Đại Tống cũng có rất nhiều quyền thần và vô số đảng phái, nhưng Đại Tống có Khai Bình hoàng đế Triệu Phụ.

Hiện giờ, Nhị hoàng tử Triệu Thượng được giao nhiệm vụ tiếp đoàn sứ Liêu. Triệu Thượng không hề lóng ngóng, anh ta biết dưỡng sức nuôi quân chờ cơ hội nên đã nhiều lần thắng thế trong quá trình đàm phán với sứ Liêu. Tuy nhiên, trên Triệu Thượng còn có Đại hoàng tử Triệu Kính cũng rất tài danh, nghe đồn từng được Chu Đại học sĩ của viện Hàn Lâm tán thưởng vì tài viết chữ đẹp.

Ngoài ra, trên triều đình, phe thế gia và phe hàn môn, lớp quyền thần gạo cội và những gương mặt trẻ được tin dùng, đều là những quân cờ đen trắng đối chọi lẫn nhau.

Nhưng cả bàn cờ ấy nằm gọn trong lòng bàn tay Triệu Phụ.

Dẫu Triệu Phụ tạo nên bố cục ấy vì lí do gì đi chăng nữa, thì thành quả cũng là một nước Đại Tống không bị chia rẽ sâu sắc trong nội bộ.

Đường Thận ôm tâm trạng phức tạp, thầm than một tiếng, cúi đầu đặt cờ.

Đường Thận nói: "Mâu thuẫn trên triều đình và trong cung đình nước Liêu cũng giống như mưa mùa hạn cho Đại Tống vậy. Nếu có thể lợi dụng được thì ắt thành diệu kế." Quay lại đề tài ban đầu, đây chính là điều Đường Thận đã nghĩ đến.

Vương Trăn đi thêm một nước nữa, bấy giờ mới làm như vừa nghe thấy những gì Đường Thận nói. Chàng tỏ ra hơi ngạc nhiên, hỏi Đường Thận: "Chẳng phải ta và tiểu sư đệ đang chơi cờ ư? Sao bỗng dưng nhắc đến chuyện nước Liêu thế? Tiểu sư đệ quả là hết lòng vì nước, không lúc nào thôi đau đáu việc dân; rời nha môn, ngồi vào bàn cờ, lòng vẫn trăn trở chuyện sứ Liêu. Hiền tài như đệ, chẳng nên bị mai một lãng phí thế này."

Đường Thận nghĩ bụng, ta đường đường là Trung thư xá nhân tứ phẩm, quan điện Cần Chính, về quê thăm họ hàng, phủ doãn Cô Tô còn phải khom lưng cúi đầu, huynh lại bảo ta bị mai một là sao!

"Chung quy cũng vì hơi nhỏ tuổi." Vương Trăn lại nói.

Đương nhiên, Đường Thận có ngại chi chuyện thăng quan tiến chức nhanh nhanh chóng chóng, tuyệt nhất là sang năm vào điện Cần Chính làm tể tướng luôn. Tuy nhiên, nếu có thể ẵm được chức vụ của Tô Ôn Duẫn, trở thành Thiếu khanh Đại lý tự, cậu cũng chẳng thèm quan tâm có thăng tiến nữa không.

Thiếu khanh Đại lý tự tuy chỉ là chức quan tứ phẩm, nhưng được quyền xử lí quan có tội khắp cả nước.

Nếu cậu được làm Thiếu khanh Đại lý tự thì muốn điều tra chuyện gì cũng dễ dàng nhanh gọn. Đây cũng là ý đồ ban đầu của Đường Thận khi tiếp cận Tô Ôn Duẫn, tiếc rằng bởi vụ việc Thứ Châu ngáng đường mà Tô Ôn Duẫn có thành kiến lớn với Đường Thận. E là cậu với anh ta khó mà giao hảo nổi với nhau.

Đường Thận bất lực lắc đầu, tiếp tục đánh cờ. Kết quả không có gì đáng ngạc nhiên hết, Vương Trăn thắng đậm.

Đường Thận khoác áo lông cáo, từ biệt Vương Trăn, chuẩn bị về nhà.

Vương Trăn khuyên: "Chẳng thà lần sau tiểu sư đệ để hẳn một bộ triều phục ở nhà ta ấy, đỡ mất công cứ phải về nhà mỗi bận."

Mùa đông giá buốt thấu xương, mỗi lần sang đây Đường Thận đều phải đội gió đội rét về phủ, quả đúng là bất tiện. Nếu để triều phục ở nhà Vương Trăn, sau này Đường Thận có thể ngủ luôn ở phủ Thượng thư, không nhất thiết phải về để thay quần áo trước khi vào triều nữa. Cậu suy nghĩ một chốc, đáp: "Lần tới qua đây đệ sẽ mang theo triều phục, gửi lại chỗ sư huynh."

Vương Trăn cầm đèn lồng, tiễn Đường Thận ra cửa.

Đường Thận nhìn chiếc đèn lại nhớ cái lần Vương Tử Phong nói "Có đốt đèn lồng cũng không tìm được chàng trai nào tốt như ta đâu", liền bật cười. Cùng lúc ấy, Vương Trăn cũng cất tiếng nói: "Năm nay tiểu sư đệ mới mười chín tuổi đã là quan tứ phẩm. Trong vòng hai năm tới, nếu không lập công lớn, tuyệt đối không thể tấn thăng."

Đường Thận làm sao không rõ chuyện ấy kia chứ. Cậu đáp: "Sư huynh chớ hiểu lầm, đệ không phải người hám danh lợi."

"Thật ra, ta có thể chỉ cho tiểu sư đệ cách này, đảm bảo hoạn lộ thênh thang, thậm chí được thăng đến nhị phẩm chỉ trong năm năm cũng không phải không thể."

Đường Thận tròn mắt: "Sư huynh?" Còn có cách đấy kia à?

Vương Trăn giơ đèn lồng, cười: "Phương pháp đơn giản lắm, tiểu sư đệ và ta cát bào đoạn nghĩa, mỗi người một ngả, từ rày về sau không dính líu gì đến nhau nữa."

Đường Thận: "..."

Nghe thì như đang trêu cậu đấy, nhưng Đường Thận ngẫm nghĩ kĩ mới thấy rùng cả mình.

Điều Vương Trăn nói, có mấy khi là đùa cợt?

Đường Thận rất được lòng hoàng đế, làm quan ba năm đã được vào điện Cần Chính đảm nhiệm chức Trung thư xá nhân tứ phẩm. Cậu với Vương Trăn khăng khít keo sơn, tương lai đầy triển vọng, mười năm sau hoàn toàn có thể trở thành quan nhị phẩm. Song nếu cậu muốn thâu tóm quyền lực một cách nhanh chóng chỉ nội trong năm năm, thì không có con đường nào nhanh hơn là đoạn giao trở mặt với Vương Trăn.

Nếu Đường Thận trở thành kẻ thù của Vương Trăn trong khi cậu không hợp với Tô Ôn Duẫn, cậu sẽ lập tức trở thành quân cờ hoàn hảo để khống chế cả hai người này từ góc nhìn của Triệu Phụ. Chính nguyên nhân ấy sẽ khiến Triệu Phụ ra sức trọng dụng, nâng đỡ cậu để cậu đủ sức làm đối trọng với cả Vương Trăn và Tô Ôn Duẫn.

Nhưng...

Đường Thận nói: "Sư huynh nói thế, có nghĩ đệ sẽ đau lòng chăng? Mỗi người đều có tương lai của riêng bản thân, vì thế mà có câu 'làm hết sức mình, mới hay thiên mệnh2.' Chưa một lần nào đệ có ý nghĩ phân biệt giữa đệ và huynh. Sư huynh là sư huynh của đệ kia mà. Như ban nãy đệ nói đấy thôi, Tử Phong sư huynh, đệ không phải người hám danh lợi."

[2] Con người có sức mạnh thay đổi số phận. Thay vì tin rằng mọi sự được sắp đặt sẵn thì phải cố gắng hết sức. Kết quả đạt được chính là vận mệnh do mình tạo ra.

Cậu nói ngần ấy lời chung quy cũng chỉ vì một ý: Ta không muốn lợi dụng huynh.

Ban đầu quả đúng là Đường Thận có ý đồ mượn sức Vương Tử Phong để trèo cao, nhưng cho đến ngày hôm nay, cậu không chỉ đem lòng kính nể và tôn trọng vô bờ bến với sư huynh, mà còn coi chàng như ngọn hải đăng soi đường dẫn lối.

Lương Tụng là ân sư vỡ lòng của cậu, còn Vương Trăn là người thầy trên cả quãng đường đời về sau.

Đong đếm làm sao nổi những điều Vương Trăn đã dạy cậu kia chứ? Trước biển cả quan trường cuồn cuộn mênh mông, chàng là người dẫn cậu rẽ sóng bước vào. Đến giờ, Đường Thận bỗng nhận ra, có những thói quen đã đâm chồi bám rễ trong tâm thức cậu, tỷ như thói quen ngưỡng mộ Vương Trăn, tỷ như thói quen có một người vừa là thầy giáo, vừa là sư huynh đứng sau lưng mình. Cậu tin tưởng Vương Trăn vô điều kiện, thậm chí cậu dám trao cả tính mạng mình cho chàng.

Giữa lúc nước sôi lửa bỏng trong cái đêm ở trạm dịch Thứ Châu ngày ấy, ngay từ giây phút Vương Trăn đẩy cánh cửa phòng chứa củi cứu sống Đường Thận...

Thì người sư huynh này, đối với cậu, đã không còn là tảng đá lót đường để cậu thăng tiến, mà hoàn toàn trở thành người chí hữu3 độc nhất trong cả kiếp này.

[3] Bạn thân thiết. Nhớ lại đối thoại giữa ĐT và VT

Đường Thận chắp tay: "Những gì cần nói đã nói hết. Sư huynh, đệ cáo từ."

Vương Trăn ngây người.

Đường Thận kéo áo khoác cho thật kín người, leo lên xe ngựa. Xà ích đánh xe về phủ Thám Hoa.

Sau lưng cậu, Vương Trăn giơ đèn lồng dõi nhìn theo. Ánh mắt chàng miên man, chất chứa muôn vàn tâm sự.

Một lúc sau, quản gia bước đến nhắc: "Công tử, ban đêm gió lớn, nên vào nhà sớm thôi."

Vương Trăn: "Ngươi nói xem, sao đệ ấy cứ trêu đùa với trái tim ta mãi thế?

Quản gia không biết nên nói gì, ông ta cũng nghe thấy cuộc đối thoại vừa rồi giữa Vương Trăn và Đường Thận. Ông theo Vương Trăn từ khi chàng còn tấm bé. Đường Thận nghe Vương Trăn nói câu kia thì tưởng Vương Trăn trêu chọc mình, còn có ý thăm dò lòng mình nữa, song quản gia lại biết, Vương Trăn không nói thế để dò xét xem Đường Thận có ôm lòng riêng không. Cái Vương Tử Phong muốn thử thăm dò là vị trí của mình ở trong lòng sư đệ.

Công tử nhà mình nghiêm túc và thận trọng từng li từng tí thế, khiến quản gia ngẫm mà thương.

Cúi đầu, quản gia nói khẽ: "Công tử, đến lúc về rồi."

Vương Trăn thở dài thườn thượt, tiếng chàng lạc đi trong cơn gió dữ đêm đông giá buốt, cuốn theo nỗi ưu tư, phiền muộn trĩu nặng cõi lòng.

Nhưng Vương Trăn không phải chờ lâu, hai hôm sau, Đường Thận đã thắp đèn lồng sang phủ Thượng thư.

Vương Trăn nhìn cậu, Đường Thận tay cầm đèn, miệng ấp úng: "Sư huynh là trang nam nhi tốt đến mức đốt đèn cũng không tìm được, huynh đừng giận đệ nha."

Vương Trăn chậm rãi nhoẻn cười: "Ta giận đệ hồi nào?"

Đường Thận: "Huynh không giận ư?"

Vương Trăn: "Lại đây chơi cờ với ta."

Đường Thận: "..."

Thế mà bảo không giận?

Không giận mà còn đòi đánh cờ để hành cậu!

Thực ra Vương Trăn đang xếp dở bàn cờ thì Đường Thận đến nên chàng mới rủ chơi chung. Tài trí cách mấy chàng cũng chẳng nghĩ ra rằng tiểu sư đệ chỉ vì chuyện ấy mà ấm ức trong lòng. Hai người chơi mấy cuộc liền, Vương Trăn hỏi: "Mang triều phục đến chưa?"

Đường Thận sửng sốt: "Quên rồi."

"Vậy lần sau đem sang nhé."

"Vâng."

Chơi cờ xong, Đường Thận đằng hắng, nói rõ lí do mình sang đây: "Sư huynh phụ trách ty Ngân dẫn, chẳng hay hiện giờ công việc của ty Ngân dẫn đến đâu rồi?"

Vương Trăn ngước mắt liếc Đường Thận: "Sao tự dưng tiểu sư đệ lại hỏi chuyện ty Ngân dẫn?'

Do dự một lúc, Đường Thận quyết định giãi bày hết những suy nghĩ gần đây của mình: "Lúc trước, Lý tướng quân có đề cập chuyện nuôi quân với đệ. Sư huynh, người Liêu luôn nhòm ngó Đại Tống ta, đối sách nào cũng như uống rượu độc giải khát, trị ngọn mà không trị gốc. Đại Tống ta phải kiêng dè nước Liêu, chẳng qua là vì lực lượng thiết kị thần tốc dũng mãnh của nước họ. Hai hôm trước, sư huynh đã nói với đệ về mâu thuẫn nội bộ của nước Liêu, đệ thiết nghĩ, mọi sự tranh đấu trên đời, đều quy về hai chữ 'đổi quân'4 mà thôi..."

[4] Chiến thuật trong cờ tướng

Mười ngày sau, hai nước Tống Liêu đàm phán thành công hiệp ước. Mỗi bên nhường một bước trong trận chiến thành U Châu năm Khai Bình thứ ba mươi.

Người Liêu đòi hỏi tiền bạc, người Tống không từ chối. Điều người Tống muốn là nước Liêu phải thả con tin, cũng như cho phép Đại Tống mua một bầy Hãn Huyết bảo mã từ nước Liêu.

[5] Giống ngựa quý Akhal-Teke có nguồn gốc Turkmenistan, tương truyền giống này đổ mồ hôi (hãn) đỏ như máu (huyết). Rất khỏe, nhanh và dẻo dai. Bấm số để xem ảnh.

Bảo mã đắt nhưng không ai bán, ngàn vàng khó mua.

Nhưng mọi chuyện không dừng ở đấy, Hán Nhi ty Gia Luật Cần của đoàn sứ Liêu còn đưa ra một yêu cầu khiến các quan nước Tống phải hãi hùng.

Gia Luật Cần nói: "Bấy lâu nay Đại Liêu vẫn nghe danh nước Tống là miền đất mĩ nhân, người đẹp nước Tống u nhàn hiền dịu. Chuyến này đến đây, bản sứ thần cũng được giao trọng trách rước công chúa Đại Tống về thành hôn với hoàng đế Đại Liêu."

Buổi triều sớm hôm sau, cả triều đình Đại Tống xôn xao ầm ĩ cả lên.

Triệu Phụ ngồi trên ngai vàng, nói: "Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu. Nữ nhi Đại Tống ta nết na thùy mị, không ngờ tiếng thơm vang đến tận đế đô nước Liêu. Thật đáng tiếc, trẫm không có công chúa nào vừa tuổi cả. Chư vị ái khanh, các khanh nghĩ nên làm thế nào đây?"

Đường Thận biết, thật ra Triệu Phụ không quan tâm con gái mình có cưới vua Liêu hay không. Ông ta chỉ nói tiếc ngoài miệng thôi chứ trong lòng không hề có cảm giác gì hết. Trái lại, trong triều đình Đại Tống, có rất nhiều người lo cho con gái mình.

Nhất thời, các vương tôn quý tộc, văn võ bá quan trong triều đình đều cảm thấy bất an.

Một hôm, vào ngày nghỉ cuối tuần, Đường Thận đến lầu Tế Hà thì gặp một vị khách không ngờ tới.

Đường Thận bước qua hành lễ: "Hạ quan Đường Thận bái kiến Cảnh Vương Thế tử. Ngọn gió nào đưa Thế tử tới đây thế này?"

Chàng trai ấy chính là Cảnh Vương Thế tử Triệu Quỳnh.

Triệu Quỳnh nâng ly rượu, cười ái ngại: "Mượn rượu giải sầu... sầu càng sầu! Cảnh Tắc à, vua Liêu đòi rước công chúa Đại Tống về làm dâu, chắc ngươi biết rồi chứ nhỉ."

Đường Thận ngồi xuống: "Tôi cũng nằm trong số các quan phụ trách tiếp đón sứ Liêu mà."

Triệu Quỳnh than thở: "Thánh thượng không có công chúa đúng tuổi lấy chồng, đương nhiên phải chọn con gái nhà khác thế vào. Trong số ấy, con gái các gia đình hoàng tộc như chúng ta sẽ bị chấm đầu tiên. Nếu trong hoàng gia không có ai thích hợp, hoặc Thánh thượng không muốn thiệt thòi cho con cháu hoàng gia, bấy giờ mới chọn đến các nhà đại thần, chấm cô nào thì phong cô đấy làm công chúa rồi gả sang Liêu."

Chọn con gái nhà đại thần là vì họ chẳng phải ruột rà máu mủ với mình, bắt bừa một cô gánh kiếp hẩm hiu là chuyện quá đỗi phổ biến. Mặc dù thế, Triệu Phụ không phải vị vua giàu tình cảm. Dẫu là con đẻ, ông ta còn sẵn sàng gả đi nữa là cháu gái.

Triệu Quỳnh bấy giờ mới giãi bày: "Tiểu muội nhà ta năm nay vừa tròn mười bảy, cả nhà nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa. Vốn muốn giữ con bé ở nhà thêm vài năm, nên giờ vẫn chưa hứa hôn cho ai cả!"

Hết bị gọi là bố lại bị friendzone, thương anh. Yêu đơn phương nó buồn thế đấy!

Chú thích

Cát bào đoạn nghĩa: Ám chỉ việc cắt đứt tình nghĩa bạn bè. "Cát" cũng có nghĩa là "cắt".

Hình như chưa chú thích. Thời xưa cứ 10 ngày tính làm một tuần, một tháng có thượng tuần, trung tuần, hạ tuần là vì thế. Ngày nghỉ tắm gội – nghỉ cuối tuần của các quan cũng là mười ngày một hôm.

[5] Giống ngựa này có nhiều màu lông, nhưng nổi tiếng nhất là màu qua (vàng). Xem để đọc thêm về các sắc lông ngựa cũng như về chiến mã thời xưa.

Akhal-Teke lông màu qua ánh hoàng kim

Chương 91

Đệ không muốn thành thân

Đường Thận mới chỉ gặp Triệu Quỳnh vài lần, nhưng cậu biết Triệu Quỳnh không phải người dễ để lộ cảm xúc. Đường Thận mở lầu Tế Hà, mở Bách Bảo Các ở Thịnh Kinh, nhưng lại giao xà phòng, Hoàng Kim Lũ cho người khác kinh doanh hộ. Mà người hợp tác với cậu chính là Thế tử Cảnh Vương – Triệu Quỳnh.

Đường Thận còn nhớ như in lần đầu gặp anh ta ở phủ Cảnh Vương. Triệu Thế tử chủ trì yến Hội Nguyên, mở tiệc khoản đãi tài tử trong thiên hạ, xử lí đâu ra đó. Nhưng hôm nay trông Triệu Quỳnh mặt ủ mày chau, như biến thành con người khác hẳn.

Hiển nhiên, Triệu Quỳnh vô cùng yêu thương em gái mình.

Đường Thận nói: "Thế tử, thật sự không còn cách nào sao?"

Triệu Quỳnh thở dài: "Bọn ta là hoàng thân quốc thích, danh tiếng vẻ vang, xuất thân tôn quý, nhưng Đại Tống ta chẳng so được với triều đại xưa, hoàng thân quốc thích không được can dự triều chính, chúng ta chỉ là quý tộc trên danh nghĩa mà thôi. Cảnh Tắc cũng biết đấy, vua Liêu muốn hòa thân với Đại Tống, cưới công chúa Đại Tống làm phi, ấy là chuyện quá đơn giản, chẳng khó khăn gì. Thánh thượng đã đồng ý rồi thì không thể nuốt lời. Chúng ta làm gì có đường lui chứ."

Đường Thận suy nghĩ một chút, khuyên: "Hẳn nhà Thế tử cũng biết, nữ nhi các nhà quyền quý không muốn bị chọn vào hậu cung, thường hay giả vờ ngã bệnh."

Triệu Quỳnh: "Ấy cũng là một kế, nhưng cùng quẫn lắm mới phải viện đến thôi. Kỳ thực, nhà ta định...tìm gấp một lang quân cho tiểu muội."

Đường Thận nghe mà toát mồ hôi, bỗng có dự cảm không lành. Cậu dò hỏi: "Ý Thế tử là..."

Triệu Quỳnh cười khổ: "Em gái ta từ bé đã ham mê đọc sách, cầm kỳ thư họa gì cũng tinh thông, nữ công thêu thùa chẳng hề chểnh mảng. Tính nó lại hiền thục, nhu mì, bẽn lẽn. Vốn song thân muốn giữ em ta ở nhà, chờ đến sang năm cho nó tự chọn một mối ưng ý chứ không tùy tiện gả đi. Hôm nay, cơ sự ra nông nỗi này..." Triệu Quỳnh im lặng chốc lát, đoạn chắp tay: "Đường đại nhân, nghe nói ngươi vẫn chưa đính hôn."

Đường Thận nheo mắt, lại đau đầu rồi đây.

"Nếu Cảnh Tắc bằng lòng, ta sẵn sàng làm mai, thu xếp mối duyên lành này cho ngươi và em ta."

Đường Thận trợn tròn mắt, chẳng biết phải đáp sao. Triệu Quỳnh thì cứ nhìn cậu tha thiết, mà não Đường Thận thì đặc quánh như tương, ngây ngây ngẩn ngẩn, nghĩ ngay đến Vương Trăn đầu tiên. Trong vô thức, cậu đã coi Vương Trăn là bùa hộ mệnh của mình, thiếu điều thốt lên với Triệu Quỳnh: "Việc này mình tôi không quyết được, phải hỏi ý kiến sư huynh tôi đã."

Phúc tổ bảy mươi đời, Đường Thận không buột miệng.

Đường Thận: "...Thế tử, tôi chưa có ý định thành gia."

Triệu Quỳnh cuống lên hỏi: "Ngươi ngại em gái ta không đủ xinh đẹp ư?"

Đường Thận dở khóc dở cười: "Đương nhiên không phải thế. Thế tử, tôi quả thật chưa có ý định hứa hôn với ai hết!"

Triệu Quỳnh hỏi thêm mấy lần, Đường Thận vẫn cương quyết chối từ. Triệu Quỳnh thở dài thườn thượt, rầu rĩ bội phần. "Chẳng giấu Cảnh Tắc, thật ra chuyện đính ước gấp cho tiểu muội cũng không phải ý hay. Kế ấy cố nhiên bảo vệ được tiểu muội, để nó không bị gả đi Liêu, nhưng tất sẽ khiến Thánh thượng chú ý, rồi chướng mắt phủ Cảnh Vương chúng ta. Chẳng cùng đường, ai lại tính nước ấy!"

Đường Thận rót trà cho Triệu Quỳnh.

Triệu Quỳnh lại nói: "Cảnh Tắc cũng không phải người duy được chấm đâu, nhưng chỉ có ngươi là lựa chọn tốt nhất. Ngươi với ta là chỗ quen thân, ba năm trước đã kết giao, gặp gỡ. Nếu nói rằng ngươi và em gái ta có ý với nhau từ sớm nhưng hai nhà chưa chính thức hứa hôn, vẫn có thể giấu giếm được Thánh thượng, chí ít là tránh cho Thánh thượng giận cá chém...phủ Cảnh Vương. Hơn nữa, ta hoàn toàn tin tưởng vào nhân phẩm, tài năng lẫn tướng mạo của ngươi. Ngươi là rể hiền, gả em gái cho ngươi, ta cực kì an tâm."

Đường Thận: "Tạ ơn Thế tử khen tặng, hạ quan hổ thẹn."

Biết Đường Thận không thành em rể của mình được, Triệu Quỳnh cũng thả lỏng hơn. Thế tử mượn khổ mua vui: "Cảnh Tắc chớ khiêm tốn làm gì. Ở thành Thịnh Kinh này, ngươi đang là miếng bánh thơm phưng phức kia mà. Lẽ nào ngươi không biết rằng mấy năm gần đây mình đã lọt vào mắt xanh của vô số nhà vương tôn quý tộc, quyền thần quan lớn ư? Ối nhà muốn gả con cho ngươi đấy!"

"Ơ?"

"Hà hà hà, ngươi cứ chờ xem. Không chỉ riêng nhà ta đâu, từ từ rồi nhiều nhà khác sẽ đến gõ cửa phủ Đường Thám hoa!"

Triệu Quỳnh mới dứt lời, xế chiều hôm đó, Đường Thận về nhà đã thấy có một người nô bộc chờ ngoài cổng phủ Thám hoa.

Người nô bộc thấy Đường Thận liền vội vàng chạy tới, dâng thiếp mời: "Cho hỏi có phải Đường Thận – Đường đại nhân đấy không ạ? Đại nhân nhà ta có lời mời Đường đại nhân ghé phủ."

Đường Thận mở thiếp ra đọc.

"..."

Thượng thư bộ Công Viên Mục đích thân viết thiệp mời!

Ở kinh đô, không phải nhà nào có con gái đúng tuổi cũng có bệnh thì vái tứ phương, cố tìm cho con một mối tốt. Nhưng số nhà có con gái chưa chồng mà như ngồi trên đống lửa thì đông không kể xiết. Chính Đường Thận cũng chẳng hề hay biết, bấy lâu nay tiếng thơm rể hiền hạng nhất của cậu đã vang lừng cả cõi Thịnh Kinh. Tuy xuất thân bần hàn, nhưng cậu đã là quan tứ phẩm ngay từ khi tuổi đời còn trẻ, được vua tin yêu, và vô cùng khôi ngô tuấn tú nữa. Người con gái làm vợ cậu sẽ vừa không phải e sợ nhà chồng, vừa được sánh duyên với lang quân lý tưởng. Còn gì đáng mừng hơn một cuộc hôn nhân vẹn cả đôi đường!

Giờ có chuyện hòa thân Tống – Liêu thúc giục, các nhà quyền quý bấy nay vẫn lưỡng lự đều ráo riết hành động ngay.

Đường Thận chịu làm sao thấu, ngay hôm sau gói ghém hành lí, trốn biệt sang phủ Thượng thư.

Vương Trăn hỏi: "Tiểu sư đệ đến có việc gì?" Chàng nhìn cậu ôm đồm túi lớn túi nhỏ thì cười: "Mang nhiều quà tặng ta thế cơ à?"

Đường Thận: "Khụ...đây toàn là hành lý của đệ thôi. Sư huynh ơi, đệ muốn sang đây ở mấy ngày, có lẽ phải quấy rầy huynh rồi."

"Sao tự dưng lại muốn ở nhà ta?"

"Sư huynh, đệ nhớ huynh." Đường Thận đáp như thật.

Vương Trăn cười thành tiếng: "Nhận được mấy cái thiếp mời?"

Đường Thận tròn mắt: "Huynh biết cả rồi ư?"

Vương Trăn: "Ta với Viên đại nhân Thượng thư bộ Công chỉ là đồng liêu bình thường, nhưng ta nghe nói, Viên đại nhân cưng yêu cô cháu nội hết mực. Khéo sao, cháu gái ông ta vừa đến tuổi cập kê, chưa đính ước với ai cả. Ta và Viên đại nhân không thân, từ sau vụ việc U Châu thì ít khi liên lạc riêng với nhau. Song vì chuyện này, hôm qua ông ấy đã đích thân đến tận cửa, bày tỏ nguyện vọng nhờ ta làm mối cho đệ với cháu gái ruột của ông ấy."

Đường Thận khiếp đảm: "Kìa sư huynh, huynh không làm mai hộ đệ đấy chứ? Lẽ nào đệ vừa trốn khỏi hang hùm đã rơi vào miệng sói?"

Vương Trăn: "Ta đã từng nghe danh cháu gái Viên đại nhân. Tài nữ nức tiếng kinh thành đấy! Giỏi giang, xinh xắn hơn cả tiểu quận chúa phủ Cảnh Vương."

Đường Thận nuốt nước bọt.

"Đến con gái Hữu thị lang bộ Lễ cũng chẳng mĩ miều bằng cháu gái Viên đại nhân đâu."

Tay Đường Thận run bần bật.

"Còn đích nữ của Định Quốc công, tuy cũng là trang tuyệt sắc, nhưng so tài năng, học vấn thì cũng bị cháu gái rượu của Viên đại nhân vượt mặt."

Đường Thận: "Thế là sư huynh biết hết rồi còn gì!" Ai đến làm mai với cậu mấy hôm nay, sư huynh đều biết tuốt!

Vương Trăn cười giòn tan, vờ như vô ý nói với Đường Thận: "Nếu chọn trong số mấy cô ấy thì thiên kim nhà Viên đại nhân đích thị là nàng dâu hoàn hảo. Tiểu sư đệ thấy sao?"

Đường Thận: "Đệ không muốn thành thân."

"Ồ?"

Đường Thận cười gượng: "Sư huynh, đừng trêu đệ nữa mà. Đệ mới mười chín thôi, nào đã đến tuổi lấy vợ! Tuy bằng tuổi đệ đầy người đã thành gia lập nghiệp từ sớm, nhưng đệ chưa làm nên sự nghiệp gì, tâm trí đâu mà tơ tưởng chuyện tư tình nhi nữ? Sư huynh cũng mãi chưa lấy vợ, lẽ nào sư huynh không hiểu đệ ư?"

Mãi một lúc lâu mà Đường Thận không nhận được câu trả lời của Vương Trăn. Cậu tò mò ngó sư huynh, chỉ thấy rèm mi Vương Trăn khẽ rủ, đôi mắt trong trẻo nhìn cậu một cách thản nhiên. Chàng nhẹ giọng hỏi: "Đệ muốn ta hiểu đệ thế nào?"

Đường Thận thấy cổ mình nghèn nghẹn.

Vương Trăn thở dài. Chàng đang vẽ dở, lúc này bèn gác bút, hỏi Đường Thận tiếp: "Vì sao đệ không muốn thành thân?"

Đường Thận nghiêm túc trả lời: "Đệ còn quá trẻ."

Vương Trăn nhướng một bên mày: "Lí do thật."

Đường Thận nghĩ bụng, ta đang nói thật mà, sao huynh không chịu tin! Vương Tử Phong này, không ngờ huynh cũng có lúc tính sai câu trả lời đấy.

Đường Thận vốn là người hiện đại, đã thế còn độc thân từ trong trứng, sinh viên tiến sĩ hai mươi mấy tuổi mà chưa một mảnh tình vắt vai. Thực lòng mà nói, cậu không muốn thành thân ở tuổi mười chín. Từ góc nhìn của cậu, thanh niên mười chín tuổi chỉ mới lên đại học thôi, hẵng còn trẻ dại, chừng ấy tuổi thì cưới xin nỗi gì! Cậu dự định sẽ bắt chước Vương Trăn, hoặc chí ít là như Tô Ôn Duẫn, trước năm hai mươi lăm tuổi sẽ không cân nhắc bất cứ ai.

Trong lòng nghĩ thế, nhưng Đường Thận không thể lí luận kiểu đấy với Vương Trăn. Cậu nghĩ mãi mà chẳng ra đáp án nào khả thi. Bỗng Đường Thận nảy ra một ý, hỏi ngược lại: "Vì sao đến giờ sư huynh vẫn chưa thành hôn?"

"Ta đâu có bảo ta chưa hứa hôn với ai?"

Đường Thận sững sờ: "Ơ?"

Trời đất! Vương Tử Phong đã hứa hôn rồi ư?

Thấy Đường Thận trợn tròn hai mắt, Vương Trăn mỉm cười: "Đương nhiên, ta cũng chưa bảo là có."

Đường Thận: "..."

Huynh mà không phải Vương Tử Phong, thì sớm muộn gì cũng bị người ta đánh chết.

Vương Trăn: "Chỉ chưa gặp được người phù hợp thôi."

Câu trả lời này thoạt tiên nghe như đáp cho có lệ; song Đường Thận ngẫm nghĩ một chút lại thấy, có lẽ Vương Trăn đang nói thật. Trong ba tội bất hiếu, không có con là tội nặng nhất. Nhưng làm quan đến địa vị của Vương Trăn, người có thể xì xào chỉ trỏ chàng, trừ người nhà ra thì chỉ có hoàng đế mà thôi.

Triệu Phụ đã không quản, hiển nhiên, với uy vọng của Vương Trăn ở Lang Gia Vương thị, cũng chẳng ai trong họ dám chỉ tay năm ngón chuyện cưới xin của chàng cả. Thế nên, rất có khả năng, tình huống của chàng đúng như những gì chàng nói. Chàng chưa gặp được người phù hợp, chưa gặp được cô gái kia. Vì lẽ đó, tới giờ chàng vẫn ở vậy.

Vương Tử Phong không lập gia đình vì chàng không tìm được người có thể nắm tay mình đến cuối đời.

Đường Thận thầm nhủ: Nhưng trên đời này, ai mới có tư cách bạc đầu giai lão cùng Vương Tử Phong đây?

Nhất thời, cậu không tài nào hình dung nổi, cô gái ấy phải là tiên nữ phương nào mới có thể lọt vào mắt xanh của chàng, mới có tư cách sánh vai cùng Vương Trăn.

Đường Thận hết sức thông cảm: "Đệ hiểu." Cậu đã biết vì sao Vương Trăn độc thân đến tận bây giờ.

Vương Trăn: "Đệ không hiểu."

Đường Thận lắc đầu: "Không, sư huynh, đệ hiểu." Đệ hiểu, huynh không thành thân, là bởi không ai xứng với huynh hết.

Vương Trăn lặng yên nhìn Đường Thận. Hồi lâu sau, chàng mỉm cười, không phủ nhận nữa.

Hai người không nhắc lại chuyện đó.

Vương Trăn: "Đệ định đối đáp với họ thế nào?"

Đường Thận đau đầu lắm: "Chuyện đó đệ cũng chịu. Sư huynh biết đấy, những người gửi thiếp mời cho đệ hay thậm chí là tự mình thăm viếng, nếu không phải hoàng thân quốc thích thì cũng là đại thần quyền cao chức trọng hơn xa đệ. Ai đệ cũng không dám đắc tội, nên mới phải viện tới hạ sách này, nương náu ở chỗ sư huynh."

"Không muốn lôi thôi với họ phải không?"

Đường Thận nói như đinh đóng cột: "Không muốn."

"Soạt" một tiếng, Vương Trăn xòe quạt trắng: "Thế thì khỏi bàn nữa thôi."

Hôm sau, thế mà không còn ai tới làm mai cho Đường Thận nữa thật.

Đường Thận trốn ở phủ Thượng thư, dĩ nhiên sẽ không có ai đến tận nơi để mai mối. Nhưng ngoài lúc ở phủ, cậu còn phải làm việc ở điện Cần Chính. Ấy thế mà mấy vị đại nhân hôm trước còn quấn quít lấy cậu, hôm nay đã lặn mất tăm hơi, không ai sốt sắng khuyên nhủ cậu nữa.

Đường Thận hết hồn, theo dõi nửa ngày, cậu bèn đưa ra kết luận...

"Sư huynh nhà mình quả là thâm tàng bất lộ!"

Vương Tử Phong xem ra còn đáng sợ hơn cả những gì cậu tưởng tượng.

Tiểu thư các nhà khác Đường Thận không quản được, nhưng cậu với Thế tử Cảnh vương Triệu Quỳnh vốn là chỗ thân tình, dù sao đôi bên đã hợp tác hết sức ăn ý trong chuyện kinh doanh xà phòng. Cho nên, sau khi về phủ Thượng thư từ chỗ làm, Đường Thận nghĩ ngợi một hồi, bèn thương thảo kế sách với Vương Trăn. Đêm xuống, cậu viết một phong thư, ngầm sai người gửi tới phủ Cảnh vương.

Năm lần bảy lượt thăm dò lòng sư đệ. Nếu chẳng yêu thương và trân trọng hết mực, có lí nào Vương Tử Phong lại cẩn thận đến nhường ấy? Đường Thận không vô tâm, chỉ là trong mắt cậu sư huynh làm gì cũng có cái lí của mình, còn cậu thì chưa từng trải nghiệm "tình yêu" để mà biết gọi tên cảm xúc ấy. Âu cũng vì Vương Tử Phong là người quá kín đáo và tinh tế. Chàng luôn biết đâu là giới hạn, dù là lúc chơi cờ, vẽ tranh, hay nắm tay, khoác áo, chàng luôn giữ kín tình ý của mình để mối quan hệ của hai người là trong sáng. Ngờ đâu, chàng càng ân cần bao nhiêu thì Đường Thận càng yêu mến chàng và đáp lại nhiều bấy nhiêu. Giữ nhiều tâm sự trong lòng thế có mệt chăng, Vương Tử Phong?

Chương 92

Hoàng đảng

Phủ Cảnh Vương. Mấy nay, hôm nào Cảnh Vương phi cũng rửa mặt bằng nước mắt, còn Tiêu Dao Vương gia Triệu Ngao mặt ủ mày chau, thở vắn than dài.

Thế tử Triệu Quỳnh như ngồi trên đống lửa. Đúng lúc ấy, người hầu mới bẩm rằng Đường Thận có gửi một phong thơ. Cảnh Vương phi hỏi: "Có nhẽ nào, Đường Thận có ý với Uyển nhi nhà mình, muốn đính hôn với Uyển nhi chẳng?"

Triệu Quỳnh bóc thư, anh ta "Ồ" lên một tiếng, rồi đưa cho Lục vương gia Triệu Ngao: "Phụ vương, người đọc mà xem."

Triệu Ngao xem thư xong cũng sững người.

Cảnh Vương gọi con trai vào thư phòng, hai cha con bàn bạc suốt một canh giờ, Cảnh Vương mới rời phủ tiến cung.

Đến khuya, tiểu thái giám trong cung đến truyền lời rằng hoàng đế giữ Cảnh Vương ngủ lại.

Nghe thế, Triệu Quỳnh thở phào nhẹ nhõm. Anh ta nói với Cảnh Vương phi: "Muội muội không phải làm dâu nước Liêu rồi."

Hôm sau, Cảnh Vương về phủ, gọi Triệu Quỳnh vào thư phòng, lấy một cuốn sách từ trên giá xuống. Ông giở sách, rút bao thư kẹp trong trang sách ra. Triệu Ngao nhìn phong thư bằng ánh mắt phức tạp, cảm thán: "Ta và hoàng huynh biết nhau từ thuở ấu thơ, lớn lên bên nhau, nhưng năm mươi năm rồi mà ta vẫn không thể nhìn thấu tâm tư hoàng huynh. Quỳnh nhi, các quan trên triều đình tuy không chảy chung dòng máu hoàng tộc, nhưng giỏi đoán thánh ý hơn cha con ta không biết bao nhiêu lần!"

Nhìn phong thư, Triệu Quỳnh cũng xúc động.

Dạo gần đây, vì chuyện hòa thân mà phủ Cảnh Vương cứ như đưa đám, ai nấy khóc than. Triệu Quỳnh không nghĩ rằng Đường Thận lại gửi cho anh ta phong thư này. Trong thư, Đường Thận vạch ra ba hướng đi cho nhà họ.

"Chuyện hòa thân giữa Tống – Liêu như tên đã lên dây, không thể không bắn. Lòng thương em của Thế tử, trời đất cũng phải động lòng. Vì không thể giúp Thế tử tháo gỡ mối ưu phiền này, mấy hôm nay, không lúc nào Cảnh Tắc thôi trăn trở. Nay xin dốc chút tài hèn sức mọn, có đôi lời nhắn nhủ Thế tử như sau. Nếu muốn giữ gìn cho lệnh muội, Cảnh Tắc xin hiến ba kế."

"Kế thứ nhất, đau yếu bệnh tật, khó lòng sang Tây."

"Gió mây trên trời khó đoán, họa phúc đời người khó lường. Chuyện hòa thân là đại sự của hai nước, há phải chuyện chơi? Nếu quận chúa đau yếu trong người, tất nhiên không thể hòa thân. Song kế sách này có hai cái dở. Một là khiến Thánh thượng nghi kị, hai là hại đến danh tiếng của quận chúa."

"Kế thứ hai, trời se duyên lành, đã có hôn phối."

"Nếu dùng kế này, chỗ khó thứ nhất là phải kén được rể hiền; chỗ khó thứ hai là phải che dấu sao cho Thánh thượng không sinh nghi. Ngoài ra, kế này có thể làm lỡ dở chuyện chung thân đại sự của quận chúa."

"Kế thứ ba, lấy tiến làm lùi, lấy công làm thủ."

"Cảnh Vương là anh em ruột thịt của bệ hạ, nghĩa nặng tình sâu. Trời đông rét mướt, Cảnh Vương thường bầu bạn với bệ hạ, san sẻ đỡ đần. Anh em như thể tay chân, bệ hạ ắt không quên tình ấy. Nếu Cảnh Vương cầu kiến bệ hạ, chủ động xin gả ấu nữ rồi để bệ hạ thấy vương gia không nỡ, may ra có thể cứu vãn tình thế."

"Mong Thế tử sớm được toại lòng, cầu được ước thấy."

Hai kế đầu tiên không phải phủ Cảnh Vương chưa từng nghĩ đến, nhưng y như Đường Thận phân tích, làm theo hai kế ấy chẳng những khiến Triệu Phụ sinh nghi mà còn khiến quận chúa lỡ làng hôn nhân. Mà kế thứ ba đích thị là được ăn cả, ngã về không. Nếu Triệu Ngao chủ động gả con gái, Triệu Phụ chấp thuận ngay, thì Triệu Ngao mất cả chì lẫn chài.

Ngặt nỗi cả thành Thịnh Kinh chỉ có tiểu quận chúa phủ Cảnh Vương là nữ quý tộc phù hợp với yêu cầu nhất. Thậm chí hôm qua Triệu Ngao còn nghe phong thanh, Triệu Phụ đã có ý định gả con gái rượu của Cảnh Vương sang nước Liêu rồi. Đến nước này, chỉ đập nồi dìm thuyền mới có cơ may thắng lợi, không thành công thì thành nhân. Vì vậy, Triệu Ngạo bèn tiến cung, chủ động cầu kiến Triệu Phụ, xin cho con gái hòa thân với vua Liêu.

Trong điện Thùy Củng, Triệu Phụ nghe Cảnh Vương nói thế thì giật mình.

Hoàng đế Đại Tống cầm bút son, ngạc nhiên hết sức, lo lắng hỏi Triệu Ngao: "Sao bỗng dưng hoàng đệ lại nảy ra ý đấy?"

Triệu Ngao tâu: "Thần đệ là vương gia Đại Tống, có lí nào lại không góp sức vì Đại Tống? Dầu hoàng huynh không nói, thần đệ cũng biết không còn ai thích hợp hơn Uyển nhi. Dân chúng Thịnh Kinh gọi thần đệ là 'Tiêu dao Vương gia', hai chữ 'Tiêu Dao' ấy chẳng phải là mỉa mai thần đệ quá đỗi bất tài ư? Hiện giờ, vua Liêu đòi cưới công chúa Đại Tống, thần đệ giá nào cũng không thể nhắm mắt làm ngơ."

Giọng Triệu Ngao hết sức khẩn khoản, nhưng bàn tay ông run rẩy, đến cả chòm râu cũng lẩy bẩy theo câu từ. Triệu Ngao cố nén nỗi xót xa không đành lòng, song chẳng thể giấu nổi đôi mắt Triệu Phụ. Ánh mắt Triệu Phụ nhìn Triệu Ngao sâu thăm thẳm. Hồi lâu, ông ta mới hỏi: "Hoàng đệ, những lời đệ nói có thật lòng không?"

Triệu Ngao run bắn: "Có ạ."

Triệu Phụ than: "Từ bao giờ giữa huynh đệ chúng ta phải nói năng trang nghiêm đến thế!"

Vì thế, Triệu Phụ bèn giữ Triệu Ngao ngủ lại hoàng cung, hai anh em gối kề gối, tâm sự miên man, ôn lại biết bao chuyện từ thuở thơ ấu. Đế vương vui lắm, nhắc đến chuyện xưa, ông ta như được trở về thời thanh xuân. Sau ba mươi năm trị vì với trái tim máu lạnh, Triệu Phụ nhìn người anh em ruột thịt của mình, lòng trắc ẩn bỗng dậy lên.

Triệu Phụ vỗ về bàn tay Cảnh Vương, nói: "Hoàng đệ chớ lo, trẫm đã có cách."

Triệu Ngao bấy giờ mới thở phào nhẹ nhõm.

Quả nhiên, mấy hôm sau, người được Triệu Phụ chọn làm dâu nước Liêu là quận chúa của cố Cửu vương gia. Từ khi Cửu vương gia qua đời, vương phủ không có ai dẫn dắt, Triệu Phụ cũng không ngó ngàng gì đến, thế là thành một chi hoàng tộc sa sút. Triệu Phụ kết nạp quận chúa vào hoàng thất, phong làm công chúa, rồi gả sang Liêu.

Vương phủ Cửu vương gia khóc than dậy trời dậy đất đến cỡ nào, người ngoài chẳng thể phán xét. Trái lại, các nhà khác trong thành Thịnh Kinh thì hân hoan ra mặt.

Gần đến năm mới, sứ thần Đại Liêu lục tục trở về nước.

Ngày hai mốt tháng Chạp, Đường Thận mặc triều phục, khoác áo choàng lông cáo ra đường. Cậu giơ tay, hứng lấy một bông hoa tuyết.

Vòm trời ảm đạm một màu xám ngắt, những bông tuyết nhẹ tênh mềm xốp rơi xuống đất, lặng lẽ trải thảm bạc trên mặt đường. Đường Thận quấn áo khoác kín mít đi bộ vào cung. Dự buổi chầu xong, cậu trở về điện Cần Chính, trước hết là đọc mấy bản tấu, rồi mới đệ trình lên. Được tầm một canh giờ thì Triệu Phụ gọi cậu vào điện Thùy Củng.

Đường Thận chỉnh trang quan phục, đội tuyết lớn đến điện Thùy Củng.

Vì không được mặc áo khoác đi diện kiến hoàng đế, nên cả quãng đường, Đường Thận rét đến nỗi tím bầm môi. May mà đến điện Thùy Củng, khi tiểu thái giám vén rèm cửa dày sụ lên cho cậu vào thì hơi ấm ùa ra.

Triệu Phụ ôm lò sưởi nhỏ, ngồi trên giường La Hán xơi hạch đào. Thái giám nhỏ đập vỡ vỏ hạch đào bằng một cây búa nhỏ, cẩn thận tách phần hạt ra, hoàng đế thỉnh thoảng lại ăn chút một.

Thấy Đường Thận đến, Triệu Phụ ngó cậu một hồi, bảo Quý Phúc: "Cảnh Tắc rét cóng luôn kìa, hôm nay càng lúc càng lạnh."

Quý Phúc là người nhạy bén, lão hiểu Triệu Phụ quan tâm đến Đường Thận nên mới nói vậy. Quý Phúc mau mắn thưa: "Vừa rồi nô tỳ có ra ngoài một lúc. Quan gia không biết đó thôi, tuyết lớn mịt mùng, tai nô tỳ cứng đờ hết cả. Quan gia có cho phép nô tỳ lấy lò sưởi cho Đường đại nhân không ạ?"

Triệu Phụ không đáp mà phất tay: "Ban tọa."

Hai tiểu thái giám kê một chiếc ghế cạnh chậu than, Đường Thận thi lễ rồi mới ngồi xuống: "Tạ ơn bệ hạ."

Triệu Phụ không nói chuyện, vẫn thủng thẳng ăn hạch đào. Một lát sau, ông ta mới bảo: "Cảnh Tắc, có việc gì khiến ngươi muốn gặp trẫm đây? Bản tấu ngươi viết có ý hay, mỗi tội tuổi ngươi còn nhỏ quá!"

Đường Thận giật mình thon thót, nào dám ngồi thêm, vội vàng đứng lên cúi mình hành lễ. "Cách đây một tháng, thần có cơ hội tiếp xúc rất nhiều với các sứ giả nước Liêu trong quá trình tiếp đón họ. Là quan viên Đại Tống, thần dân Đại Tống, một tháng ấy khiến thần ăn không ngon, ngủ không yên. Càng tiếp xúc với sứ Liêu, thần càng thêm choáng váng khiếp đảm."

"Cách..." Thái giám trẻ đập vỡ vỏ một quả hạch đào, tiếng nứt vỡ âm vang trong điện Thùy Củng.

Triệu Phụ ngẩng đầu, nói: "Nhắc tới chuyện này, hình như từ lúc Lý Cảnh Đức hồi kinh, hắn vẫn đi cùng ngươi đúng không?"

Đường Thận suy nghĩ một chút: "Lòng Lý tướng quân gắn liền với miền Tây Bắc. Tướng quân lo sứ Liêu vào kinh có âm mưu khác, nên mới cùng thần gặp sứ Liêu."

Triệu Phụ cười mắng: "Có chuyện gì xảy ra nổi kia chứ? Để đứa mãng phu như hắn đi giao thiệp với sứ giả mà ngươi cũng nghĩ ra được thì tài!"

"Thần có tội."

"Chỉ cho phép một lần này thôi đấy." Triệu Phụ nói, "Quan hệ Tống – Liêu thân thiết hòa hợp, công chúa cũng gần sang đến nước Liêu rồi. Cảnh Tắc à, ngươi đừng nghĩ ngợi quá làm gì."

Đường Thận nhủ thầm: Tống – Liêu thân thiết hòa hợp ấy à? Chẳng biết ai là người làm bộ giả lả, vờ lẩm cẩm vô dụng trong buổi yến ở lầu Thăng Bình đặng chiều lòng sứ giả, rồi đến khi tan cuộc thì gọi Lý Cảnh Đức vào đài Đăng Tiên mắng như tát nước. Nếu Vương Trăn không nhắc chuyện này, Đường Thận còn không biết hôm ấy Triệu Phụ đã khiển trách Lý Cảnh Đức xử lí người Liêu thiếu chu toàn, khiến Triệu Phụ mất hết thể diện trước sứ giả!

Đại Tống không đánh lại Đại Liêu; Đại Liêu tạm thời không muốn hao phí sức nước vào việc thôn tính Đại Tống.

Đây là tình thế hiện tại.

Vậy mà lúc này Triệu Phụ lại nói "Tống Liêu hòa hợp với nhau"?

Đúng là sĩ diện chỉ tổ hại thân!

Song Đường Thận không thể vạch trần chuyện ấy, bèn nương theo ý hoàng đế để khuyên: "Bệ hạ dạy phải, thần hiểu. Có điều, mép giường há để người dưng ngủ kềnh? Bệ hạ, phòng bệnh hơn chữa bệnh. Thần xin cả gan khuyên, tuyệt đối không được khinh thường người Liêu."

Triệu Phụ tỏ vẻ trầm tư, thở dài nói: "Thôi thì, Cảnh Tắc lo cũng không phải vô căn cứ."

Trong điện Thùy Củng, Quý Phúc phất cây phất trần, khôn khéo đứng nép sang bên. Khởi Cư lang và Khởi Cư xá nhân múa bút hăng say, ghi chép cuộc gặp gỡ giữa Đường Thận và hoàng đế.

Đường Thận chắp tay vái, cung kính thưa: "Thần cho rằng, đối mặt với nước Liêu, chúng ta không thể vờ như không thấy được. Trước khi trở lại U Châu, Lý tướng quân có nói với thần rằng, nếu cho tướng quân mười năm, ngài ấy có thể xây dựng được một lực lượng không thua kém gì thiết kỵ nước Liêu."

Bàn tay bốc hạch đào của Triệu Phụ sững lại. Mắt sáng lấp lánh, ông ta ngẩng lên nhìn Đường Thận, nôn nóng hỏi: "Lý Cảnh Đức nói thế ư?"

Đường Thận gật đầu, nói như đinh đóng cột: "Vâng, Lý tướng quân đã nói vậy."

Nơi ngàn dặm xa xôi, Chinh Tây nguyên soái Lý Cảnh Đức đang luyện quân dở trong thành U Châu, bỗng hắt xì hơi một cái. "Thằng người Liêu chết đâm nào đang mưu hại ông thế nhỉ?"

Trong điện Thùy Củng, Đường Thận nói tiếp: "Tuy vậy, việc luyện quân không thể diễn ra chỉ trong một sớm một chiều, cũng không thể làm một lần xong ngay. Để rèn giũa quân đội chẳng những cần thời gian mà cần cả tiền bạc. Ty Ngân Dẫn ở Tây Bắc có nhiệm vụ hết sức then chốt. Thần cho rằng, nếu ty Ngân Dẫn và quân Phi Long phối hợp với nhau, chung sức đồng lòng, nhất định có thể tạo nên một đội kỵ binh hùng dũng không thua kém gì đội quân nước Liêu."

Nghe vậy, nét mặt Triệu Phụ giãn hẳn ra, vui vẻ nhẹ nhõm. Chợt, ông ta sực nhớ ra điều gì, vẻ mừng rỡ trong ánh mắt nhạt đi đôi chút. Ông ta nhẹ giọng hỏi Đường Thận: "Tử Phong nói với ngươi thế à?"

Đường Thận ngẩn người, cẩn thận đáp: "Vương đại nhân có thảo luận chuyện này với thần."

Điện Thùy Củng lặng im trong chốc lát. Triệu Phụ thở dài: "Sư huynh đệ các ngươi đúng là đồng tâm hiệp lực, cống hiến vì trẫm."

Đường Thận cúi đầu, không nói câu nào.

Triệu Phụ lại nói: "Chuyện ty Ngân Dẫn và những điều ngươi trình bày trong bản tấu, trẫm đã đọc rồi. Những việc này đều thuộc bổn phận của Vương Tử Phong chứ không can hệ gì đến ngươi. Nhưng Cảnh Tắc này, trong tấu chương của ngươi có đề cập đến chuyện kia...Thực ra trẫm vẫn chưa hiểu lắm. Ý tưởng của ngươi là gì?"

Đường Thận ngẩng đầu lên tâu: "Thần cho rằng, ty Ngân Dẫn không nên chỉ giới hạn ở việc quân sự. Nếu dùng ty Ngân Dẫn như vậy thì không phát huy hết được hiệu quả." Cậu không hề nhắc rằng mục đích trên hết của Triệu Phụ khi thiết lập ty Ngân Dẫn là để thúc đẩy công cuộc chuyển đổi tiền tệ trên cả nước thông qua ty Ngân Dẫn sau nhiều năm nữa, vì chuyện này Đường Thận không được phép biết. Thế là cậu nói: "Ty Ngân Dẫn cũng có thể xâm nhập vào nội bộ nước Liêu, thăm dò tình hình địch!"

Triệu Phụ lặng yên nhìn Đường Thận, Đường Thận bị săm soi đến mức trống ngực đổ liên hồi.

Đường Thận là Trung Thư xá nhân, chức quan này không có chức trách cụ thể như Thượng thư Lục bộ hay Đại nguyên soái. Quan thuộc Trung Thư tỉnh phần lớn đều giống Đường Thận, chức vụ của bọn họ chỉ là bề ngoài, còn nhiệm vụ chính của họ là phụng sự hoàng đế, san sẻ lo toan với hoàng đế.

Hôm nay, việc Đường Thận trực tiếp xin yết kiến Triệu Phụ mà không thông qua Từ Bí không thể coi là vượt quyền, nhưng cũng đồng nghĩa với việc cậu không coi mình là thành viên của Từ đảng.

Đường Thận là người của Hoàng đảng, chỉ trung thành với hoàng đế mà thôi.

Hai năm qua, Từ Bí không bao giờ lôi kéo Đường Thận về phe mình, ông tin tưởng cậu thực sự. Đổi lại, Đường Thận cũng tin tưởng ông.

Thình lình Triệu Phụ cười phá lên: "Trẫm không ngờ, chuyện này ngươi và Phỉ Nhiên chẳng mưu mà hợp!"

Đường Thận giật thót.

...Phỉ Nhiên?

Tô Ôn Duẫn?!

Chú thích

Nguyên văn là 卧榻之侧岂容他人鼾睡: Không thể để người ta ngủ ngáy bên mép giường mình được. Trong ngữ cảnh truyện, Đường Thận muốn nói không thể để người Liêu tự tung tự tác ngay sát bên nước Tống được.

Chương 93

Lễ đội mũ

Mùa đông tháng Chạp lạnh thấu xương, thành Thịnh Kinh trắng phau màu tuyết. Cả hoàng cung chìm trong trận tuyết lớn trắng toát mù mịt đất trời.

Hữu thị lang bộ Công kiêm Đại lý tự Thiếu khanh Tô Ôn Duẫn trong bộ quan bào đỏ thẫm đang tiến vào hoàng cung. Dưới làn mưa tuyết liên miên bất tận, Tô Ôn Duẫn bước tới điện Thùy Củng. Anh ta không được vào điện yết kiến ngay mà phải chờ thái giám vào thông báo. Xong xuôi, Tô Ôn Duẫn mới được đặt chân vào điện Thùy Củng. Trước tiên, Tô Ôn Duẫn hành lễ với Triệu Phụ. Lúc ngẩng đầu lên, ánh nhìn của anh ta đột nhiên khựng lại ở Đường Thận – người đang đứng giữa điện Thùy Củng.

Hai người chạm mắt, Đường Thận lia mắt đi, nét mặt bình thản.

Triệu Phụ vẫn ngồi trên giường La Hán, ấp tay lên lò sưởi nhỏ, nói: "Phỉ Nhiên cũng đến rồi, tuyết đầy trên mũ quan kìa."

"Thần – Tô Ôn Duẫn xin diện kiến Thánh thượng."

Triệu Phụ cười: "Ngồi đi."

Tiểu thái giám lập tức bê ghế sang. Đường Thận và Tô Ôn Duẫn cùng nhau ngồi xuống.

Triệu Phụ nói: "Ngươi hãy đọc kĩ bản tấu của Cảnh Tắc." Đại thái giám Quý Phúc lập tức đưa quyển tấu của Đường Thận cho Tô Ôn Duẫn.

Tô Ôn Duẫn mở bản tấu ra xem. Càng đọc, nét mặt anh ta càng khó hiểu. Cuối cùng, anh ta kìm nén mong muốn được hỏi chuyện Đường Thận để tâu với Triệu Phụ: "Bẩm bệ hạ, xem ra thần và Đường đại nhân không mưu mà hợp."

Hình như tâm trạng của Triệu Phụ rất tốt, ông ta cười ha hả: "Đúng thế. Hôm nay lúc ta đọc bản tấu xong cũng ngạc nhiên như vậy. Hôm qua ngươi vừa dâng tấu, hôm nay Cảnh Tắc cũng dâng theo."

Nghe thế, Đường Thận liền biết hôm qua Tô Ôn Duẫn đã đề xuất gì với Triệu Phụ.

Tô Ôn Duẫn tâu với Triệu Phụ rằng, cần cài mật thám vào nước Liêu!

Đường Thận không biết Tô Ôn Duẫn định lợi dụng con đường nào để cài mật thám vào nước Liêu. Nhưng về lí thuyết, anh ta sẽ không nghĩ đến ty Ngân Dẫn. Ty Ngân Dẫn thuộc quyền quản lí của Vương Trăn, Tô Ôn Duẫn và Vương Trăn xưa nay không hợp nhau, chỗ có người này thì không có người kia. Nếu Vương Trăn không lén tiết lộ cho Đường Thận chuyện ty Ngân Dẫn, cậu chắc chắn đã không nảy ra ý tưởng mượn ty Ngân Dẫn để dò xét tình hình nước Liêu.

Đang nói chuyện dở thì có thái giám bê một tô canh bồ câu nấu với nấm Tùng Nhung lên, thưa rằng có vị nương nương trong hậu cung tự tay nấu dâng hoàng đế. Triệu Phụ ngồi nghiêng mình, nhẹ nhàng húp canh. Mí mắt ông ta rủ xuống, thần thái bình thản, tựa như mọi ông lão tuổi sáu mươi trên đời. Sau hai hớp canh, Triệu Phụ nói: "Canh bồ câu hôm nay chẳng còn ngon như ngày xưa."

Quý Phúc cười xòa: "Tài nấu nướng của Thục phi nương nương có thể nói là đứng đầu hậu cung, có lẽ hôm nay thời tiết lạnh quá, thái giám dâng canh bồ câu đến điện Thùy Củng thì đã nguội bớt nhiều, khiến quan gia thấy canh kém ngon so với thuở xưa."

Triệu Phụ nói: "Trẫm không cho là vậy. Trẫm nghĩ, nếu nấm Tùng Nhung này có thể tươi ngọt hơn, thịt bồ câu có thể mềm non hơn, hai yếu tố trung hòa, bổ trợ cho nhau, thì dù tuyết lớn gấp mấy đi chăng nữa, canh vẫn sẽ ngon."

Quý Phúc hết sức căng thẳng, lão biết Triệu Phụ đang mượn chuyện nọ để nói chuyện kia, nhưng rõ ràng Triệu Phụ không hề nói với lão. Ánh mắt có phần hoang mang của Quý Phúc liếc về phía Tô Ôn Duẫn và Đường Thận. Nếu không nói với lão, thì chỉ có thể là nói với hai vị đại nhân này thôi.

Đường Thận và Tô Ôn Duẫn cũng đều có suy tính trong lòng cả.

Không lâu sau, Đường Thận rời khỏi điện Thùy Củng trước, Tô Ôn Duẫn lưu lại.

Bước ra ngoài điện Thùy Củng, Đường Thận xòe ô. Hoa tuyết khẽ đậu trên tán ô, tiếng rơi nhẹ đến nỗi chẳng thể nhận ra được. Đường Thận lên đường về điện Cần Chính, lúc gần đến cổng điện, cậu dừng bước, khóe miệng bỗng nhếch lên.

Triệu Phụ muốn cậu và Tô Ôn Duẫn liên thủ thực hiện nhiệm vụ này, chưa chắc đã là chuyện xấu.

Từ vụ việc hai năm trước đến nay, đây là cơ hội hiếm hoi để cậu tiếp xúc với Tô Ôn Duẫn. Nếu có thể tận dụng dịp này, cạy được chút tin tức từ miệng họ Tô, thì chuyến này coi như không uổng.

Chiều hôm ấy, Triệu Phụ hạ chỉ, ra lệnh cho Đường Thận khởi hành đi Tây Bắc vào tháng hai, sau dịp đầu xuân năm mới. Cậu có nhiệm vụ chỉ huy và giám sát tình hình xây dựng ti Ngân Dẫn, thay mặt Thiên tử tuần tra.

Thái giám ty Lễ cầm thánh chỉ vào gian nhà Đường Thận làm việc, tuyên đọc ý chỉ của đức vua. Đường Thận lĩnh chỉ xong thì tin tức đã truyền ngay đến chỗ Từ Bí. Từ Bí đang thong thả nghiên cứu một cuốn sách cổ. Nghe tin ấy, ông gật đầu, kèm theo chút suy tư, nhưng không có phản ứng gì khác.

Trước khi ngày làm việc kết thúc, chuyện này cũng truyền đến gian làm việc của các Tướng công còn lại.

Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng nghe tin mà sửng sốt. Quay ra nhìn người đồng nghiệp cùng phòng của mình – Thượng thư bộ Hộ Vương Trăn, Mạnh đại nhân đảo mắt, hỏi: "Vương đại nhân, bản quan nghe phong thanh là Hữu thị lang bộ Công Tô Ôn Duẫn – Tô đại nhân – hôm nay cũng nhận được chiếu thư, lệnh rằng năm sau lên Tây Bắc giám sát quân tình?"

Vương Trăn đang ngắm nghía một viên ngọc trắng trong veo tuyệt đẹp, dường như chàng quá nhập tâm vào việc thưởng thức mà không nghe thấy những gì Mạnh Lãng nói.

Mạnh đại nhân rủa thầm "Viên ngọc báu kia là của đút của biếu từ phương nào không biết, liệu hồn chớ để ông bắt thóp mi", đoạn ông ta gập ngón tay gõ bàn một cái, hỏi tiếp: "Ta nhớ ty Ngân Dẫn do Vương đại nhân quản lí cũng ở ngay U Châu mà nhỉ? Đường đại nhân đến U Châu, Tô đại nhân cũng đến U Châu, chẳng lẽ Tô đại nhân và Đường đại nhân đi U Châu cùng nhau à?"

Bấy giờ Vương Trăn mới thôi ngắm viên ngọc đẹp, chàng ngẩng lên nhìn Mạnh Lãng, mỉm cười.

Vương Trăn: "Hình như ta chưa nghe chuyện Tô Thị lang cũng đi?

Mạnh Lãng: "Hôm nay vừa nhận thánh chỉ đấy."

Vương Trăn: "Mạnh đại nhân là Thượng thư bộ Lễ mà thân với các quan bộ Công thật."

Mạnh Lãng: "Hả?"

"Ngay cả Trung thư Xá nhân dưới quyền Từ tướng công, đại nhân cũng hết lòng quan tâm."

"...?"

"Vừa rồi nói đến ty Ngân Dẫn, Mạnh đại nhân cũng nắm rõ như lòng bàn tay..."

"Khoan khoan, Vương Tử Phong kia, từ bao giờ ta nắm rõ ty Ngân Dẫn như lòng bàn tay? Ngươi chớ có ngậm máu phun người."

Mạnh Lãng không đời nào muốn dính líu đến ty Ngân Dẫn. Mỗi viên quan trong triều đều ôm một suy đoán riêng về ty Ngân Dẫn, Mạnh Lãng cũng không ngoại lệ. Tuy ông ta không biết Triệu Phụ thiết lập cơ quan này với mục đích gì, nhưng chắc chắn là có mục đích trọng đại. Chuyện hay chẳng tới phần mình, chuyện dở thì ông ta không muốn dây. Thượng thư bộ Lễ Mạnh đại nhân xưa nay không ưa rớ tay vào phiền toái bao giờ.

Vương Trăn cất viên ngọc quý đi rồi đứng dậy. Chỉ giây lát sau, ngoài cửa vang tiếng quan sai gióng cồng báo hiệu giờ giấc.

Đã đến giờ ra về.

Vương Trăn nghiêm túc nhìn Mạnh Lãng, rạp người vái chào, xúc động than: "Mạnh đại nhân chỉ được giữ chức Thượng thư bộ Lễ, ấy là có tài mà chẳng được phát huy."

Mạnh đại nhân ngây người, đến khi Vương đại nhân đi mất hút, ông ta mới phản ứng lại.

"Gượm đã, Vương Tử Phong đang khen mình đấy ư? Sao cứ thấy là lạ thế nào ấy nhỉ?"

Hạ tuần tháng chạp, năm mới cận kề, các quan đều được nghỉ.

Năm nay Đường Thận không về Tô Châu vì cậu vừa nhận thánh chỉ đi Tây Bắc đầu xuân năm sau. Hôm giao thừa, cả nhà ăn bữa cơm tất niên ở lầu Tế Hà. Mấy tháng trước, Đường phu nhân đã lặn lội từ Cô Tô lên Thịnh Kinh để búi tóc cài trâm cho Đường Hoàng.

Đường Hoàng tròn mười lăm tuổi, đã là một cô gái trưởng thành, có thể gả chồng, lập gia đình.

Về lý thuyết thì Đường Hoàng nên về Cô Tô làm lễ, nhưng Đường phu nhân lại đích thân đến đây, khiến Đường Thận có chút áy náy.

Đường phu nhân cười: "Biết các con bận mà. Bá mẫu sống quá nửa đời đã bao giờ được đặt chân đến Thịnh Kinh? Dịp này ta lên đây, cũng tiện chiêm ngưỡng phong cảnh ngoài phủ Cô Tô." Dẫu Đường phu nhân có là tiểu thư nhà quyền quý, cả đời bà vẫn chỉ quanh quẩn chốn Cô Tô.

Qua thời khắc giao thừa, Đường Hoàng mời Đường Thận ly rượu: "Đến lượt anh trai em đội mũ rồi."

Diêu Tam cũng nói: "Sinh nhật của tiểu đông gia là tháng ba, vốn nên tổ chức lễ đội mũ ở Thịnh Kinh, nhưng đầu tháng hai cậu phải đi U Châu rồi, e rằng buổi tiệc sinh nhật sẽ không cử hành được."

Đường Thận nói: "Chờ tôi về rồi tổ chức cũng không sao."

Không chỉ riêng Diêu Tam để tâm chuyện Đường Thận sẽ phải làm lễ đội mũ ở thành U Châu. Trong dịp năm mới, Đường Thận đến Phó phủ chúc Tết, Phó Vị cũng ý thức được vấn đề này. Gần đây Phó Vị tập trung biên soạn sách vở ở viện Hàn Lâm, người ốm đi nhiều, nhưng tinh thần quắc thước, thần thái sáng láng. Ông cau mày, vuốt râu: "Cũng dở nhỉ."

Đường Thận cười: "Tiên sinh chớ lo chi, chừng nào học trò công cán ở U Châu xong, về đây làm lễ cũng không muộn. Đến lúc ấy con còn phải mời tiên sinh làm đại tân, giúp con cử hành lễ đội mũ."

"Chuyện ấy thì đương nhiên rồi."

Con trai hai mươi tuổi đội mũ, con gái mười lăm tuổi cài trâm.

Lễ đội mũ cần phải có một người chủ trì gọi là đại tân, một người phụ giúp gọi là tán tân. Ở các nhà khác, đại tân là vị trí thường dành cho cha ruột của người được đội mũ, còn thầy của người ấy sẽ được mời làm tán tân. Nhưng phụ thân của Đường Thận mất sớm vì bệnh tật, cậu chỉ có thể nhờ Phó Vị chủ trì lễ đội mũ, mà tán tân thì...

Đường Thận nói: "Con muốn mời Tử Phong sư huynh làm tán tân ạ."

Phó Vị đáp: "Tán tân nên là thầy tốt, bạn hiền, là ân nhân, trưởng bối của con. Để Tử Phong làm cũng là hợp lẽ. Nhưng việc này con phải bàn với nó. Làm tán tân không phải chuyện nhỏ, ấy là đại sự cả đời của con và cũng là đại sự cả đời của nó. Nếu nó không muốn, vi sư cũng không có cách nào."

"Vâng."

Chúc mừng năm mới Phó Vị xong, Đường Thận cũng không đến tìm Vương Trăn ngay, vì năm nay Vương Trăn về phủ Kim Lăng đón năm mới.

Từ Phó phủ về đến nhà, Đường Thận bỗng cảm thấy hơi cô đơn quạnh quẽ, như là thiếu vắng một điều gì đó. Ngẫm nghĩ kĩ, cậu không khỏi bật cười: "Mấy năm vừa qua mình toàn đón Tết cùng sư huynh mà!"

Quả đúng thế. Những năm Đường Thận không về Cô Tô thì Vương Trăn cũng ở lại Thịnh Kinh. Lần duy nhất cậu về Cô Tô thì Vương Trăn cũng ăn Tết ở Kim Lăng. Nhờ đó, hai người mới gặp nhau ở nhà họ Vương, Đường Thận với Vương Trăn còn chung chăn sẻ gối, gác chân lên nhau mà ngủ.

Năm nay tự dưng lại không có Vương Tử Phong ở bên, Đường Thận thấy chỗ nào cũng bứt rứt.

Mười ngày trôi qua, Vương Trăn từ Kim Lăng về kinh thành. Vừa hay tin, ngay hôm sau Đường Thận đã sắm nắm quà cáp sang thăm hỏi, chúc Tết Vương Trăn.

Vương Trăn sai quản gia nhận quà Tết, lại lấy quà mình mang từ Kim Lăng lên cho Đường Thận. Thư đồng của Đường Thận nhận quà thay chủ.

Vương Trăn hỏi: "Nghe tiên sinh bảo, tiểu sư đệ muốn mời ta làm tán tân trong lễ đội mũ phải không?"

Đường Thận "Ồ" lên trong lòng, có lẽ nào? Nghe giọng Vương Tử Phong, phải chăng chàng bằng lòng làm tán tân cho cậu?

Đường Thận nói: "Vâng, năm nay đệ đã hai mươi, sắp đến lúc đội mũ rồi. Phụ mẫu mất sớm, nên đệ muốn mời tiên sinh và sư huynh cử hành lễ cho đệ."

Vương Trăn nhấp một ngụm trà, nói: "Ngồi đi."

Đường Thận chỉnh vạt áo, ngồi xuống.

Vương Trăn không trả lời ngay câu hỏi của cậu, mà chỉ nói: "Ta nhớ sinh nhật tiểu sư đệ là mùng bảy tháng ba."

"Dạ."

"Nhưng tháng hai là đệ đi U Châu công tác rồi đúng không?"

"Vâng, chuyện ấy bất khả kháng, nên đệ dự tính bao giờ công tác ở U Châu xong sẽ làm lễ."

Vương Trăn gạt nắp chén trà bằng một tay. Hồi lâu, chàng mới nói: "Cũng chưa hẳn là phải thế."

"Ấy?" Đường Thận kinh ngạc ngẩng đầu nhìn Vương Trăn.

Nửa tháng sau, Triệu Phụ bỗng hạ chỉ, lệnh cho Đường Thận cuối tháng ba mới phải đi U Châu. Đường Thận thoạt tiên không hiểu nguyên do, nhưng cậu sực nhớ đến những gì Vương Trăn nói thì không nhịn được cười.

"Rốt cuộc, sư huynh nhà mình bỏ bùa gì mà hoàng đế nghe lời huynh ấy thế chứ nhỉ? Lạm quyền để mưu việc riêng mà cũng để yên cơ à?"

Chú thích

Tân ở đây có nghĩa là khách.

Chương 94

Tư vô tà

Rốt cuộc Vương Tử Phong đã làm gì, Đường Thận nghĩ mãi mà không đoán ra được trọng điểm.

Đương nhiên cậu không biết, lần này Vương Tử Phong chưa hề làm gì cả, nghi ngờ thế là oan cho chàng lắm.

Vương Trăn chỉ gợi chuyện về ty Ngân Dẫn trong một dịp chàng và hoàng đế đàm luận với nhau. Khéo thay, vua tôi cùng nói tới việc Đường Thận phải đi đốc tra ty Ngân Dẫn. Không chỉ thế, chính Triệu Phụ lại là người dẫn dắt vào đề tài này. Vốn ty Ngân Dẫn do Vương Trăn phụ trách, Đường Thận được giao việc giám sát, Triệu Phụ tiện thể nhắc một câu, thế là hai người chuyển sang bàn về Đường Thận.

Vì vậy, Vương Trăn phất tay áo thở dài, nối vào cái đề tài ấy một cách hết sức trơn tru: "Hai tháng nữa là sinh nhật Đường đại nhân đấy ạ. Nhân nói đến, thần lại nhớ vào lễ đội mũ chín năm về trước, thần được bệ hạ ban thưởng một thỏi mực ngọc Thanh Đô, ánh ngời như ngọc, hương mực nồng nàn. Năm ngoái, thần lấy từ trong kho ra để lau chùi, vẫn còn nguyên như mới."

Triệu Phụ cũng như sực tỉnh: "Năm nay đến lễ đội mũ của Đường Thận đó ư?"

Vương Trăn thưa: "Vâng."

Triệu Phụ ngẩn ngơ: "Trẫm quên đấy. Hóa ra Cảnh Tắc mới hai mươi. Thế mà trẫm cứ nghĩ cậu ta không nhỏ tuổi hơn Phỉ Nhiên là bao."

Nhờ cuộc nói chuyện này mà sau đó Triệu Phụ đã ban chiếu chỉ, cho phép Đường Thận ở lại Thịnh Kinh cử hành lễ đội mũ.

Đầu đuôi sự việc đều được Khởi Cư lang chép lại trong Khởi Cư chú của Triệu Phụ, nhưng Đường Thận không được biết.

Đường Thận lĩnh chỉ, bản thân cậu chưa hết ngỡ ngàng, lễ đội mũ đã được mọi người xúm vào chuẩn bị.

Biết Đường Thận được ở lại Thịnh Kinh để làm lễ, Diêu Tam và Phụng Bút lập tức bận rối rít cả lên. Đầu tiên là phải đến Khâm Thiên Giám, xin các quan bốc giùm quẻ bói, chọn tháng tốt ngày lành.

Nhà thường dân làm gì có vinh hạnh được Khâm Thiên Giám bốc quẻ, chỉ có thể nhờ thầy phong thủy bình thường, hoặc nhờ thầy bói tính ngày tốt cho mình thôi. Riêng các quan trong triều thì có thể nhờ Khâm Thiên Giám tính giúp con cháu nhà mình ngày thích hợp nhất cho lễ đội mũ.

Đường Thận là quan tứ phẩm, cậu muốn cử hành lễ, các quan Khâm Thiên Giám đương nhiên hết sức nhiệt tình.

Có người đồn Giám chính Khâm Thiên Giám Lý Tiêu Nhân nghe tin ấy, còn cố ý dặn dò thuộc hạ: "Lễ đội mũ của Đường đại nhân được Thánh thượng ban thưởng, không thể qua loa. Các ngươi phải làm cẩn thận cho ta, cấm được sơ sẩy."

Đường Thận được Triệu Phụ trọng dụng, chưa đến tuổi hai mươi đã được cử đi U Châu giám sát tình hình xây dựng ty Ngân Dẫn. Sau này, chẳng biết cậu còn vươn xa đến đâu. Hơn nữa, chỗ dựa của Đường Thận không hề thua kém ai cả. Tuy xuất thân bần hàn, nhưng sư môn của cậu sừng sững như núi, thế lực nguy nga. Lý Tiêu Nhân coi trọng Đường Thận đến thế, có tới bảy phần là vì nể mặt Phó Vị và Vương Trăn.

Quan Khâm Thiên Giám đích thân tính ngày lành cho Đường Thận, vừa khéo, ngày mồng sáu tháng ba năm nay là ngày đẹp, cách sinh nhật hai mươi tuổi của Đường Thận đúng một ngày.

Chọn ngày xong thì phải mở tiệc chiêu đãi tân khách, chuẩn bị trang phục cho lễ đội mũ và các đồ dùng trong nghi lễ.

Đường Thận giao chuyện này cho Diêu Tam và Phụng Bút lo rồi đi đến phủ Thượng thư.

"Xin sư huynh hãy làm tán tân ở lễ đội mũ của đệ, tán quan giúp đệ."

Vương Trăn nói: "Đệ cũng biết đấy, hai vị trí đại tân và tán tân, nếu không phải do bậc bề trên đức cao vọng trọng đảm nhiệm, thì cũng phải chọn người không có khiếm khuyết gì."

Đường Thận lấy làm lạ: "Sư huynh mà cũng có chỗ thiếu sót ư?"

Thế này là sao? Thần tiên như Vương Tử Phong thì có khuyết điểm gì kia chứ? Đẹp trai quá à? Hay nhiều tiền quá đây? Chức vị quá cao? Hay quá được hoàng đế tin cậy?

Vương Trăn tự chỉ vào mình, thản nhiên nói: "Sư huynh của đệ đến nay vẫn chưa yên bề gia thất."

Đường Thận: "..."

Bấy giờ Đường Thận mới nhớ ra rằng Vương Trăn chưa cưới vợ!

Sang năm nay, Vương Trăn đã hai mươi chín. Tuy ở thời hiện đại, nam giới hai chín tuổi độc thân không hiếm, nhưng tuổi ấy chẳng còn sớm sủa gì nữa, cũng đến lúc nên tìm kiếm đối tượng kết hôn rồi. Đường Thận nói: "Tiêu chuẩn của sư huynh rất cao, đệ biết mà."

"Đệ biết cơ à?"

"Biết chứ. Người bình thường đâu có xứng với sư huynh. Ba tháng trước, sư huynh có kể cho đệ nghe về mấy cô gái đến tuổi lấy chồng ở kinh thành, bàn một hồi thì hình như kết luận tiểu thư nhà Thượng thư bộ Công – Viên đại nhân là tuyệt nhất. Nhưng sau đó đệ lại nghe được một chuyện, làm đệ nghĩ cô ấy cũng chưa hẳn là đẹp đôi với sư huynh."

Chuyện Đường Thận nghe nói được là cháu gái Viên đại nhân vốn đam mê chơi bài diệp tử. Thế là cậu bèn tưởng tượng, sau bữa tối, sư huynh nhà mình đứng giữa đình viện, bỗng nổi hứng vẽ tranh. Màn đêm se lạnh như nước mát, quả là thời điểm thích hợp để ngắm sao Khiên Ngưu, sao Chức Nữ. Vương Tử Phong khoác bộ y phục trắng, như chàng tiên không gợn bụi trần, bất cứ lúc nào cũng có thể vút bay. Tự dưng giữa lúc ấy, tiểu thư nhà họ Viên lại hô hào một lũ người, rủ rê nhau về phòng đánh bài diệp tử.

Đường Thận lắc đầu quầy quậy, xua ngay khung cảnh ấy đi.

Cô nàng này làm sao mà xứng đôi với sư huynh tiên khí bay bổng của cậu được!

Lúc ấy, Đường Thận nào có nghĩ rằng, ngoài vẽ tranh với thư pháp ra, sư huynh nhà cậu còn biết giết nghịch đảng, biết trừ phản tặc nữa cơ. Tiểu thư nhà họ Viên chỉ thích chơi bài diệp tử để tiêu khiển chút đỉnh, còn Vương Tử Phong nhà cậu lấy mạng người ta kia kìa!

Chung quy vẫn là không hợp.

Còn về phần ai mới xứng đôi với sư huynh, Đường Thận nghĩ mãi không ra, nhưng cậu quả quyết rằng người ấy không thể nào là tiểu thư nhà họ Viên được.

Vương Trăn không nén nổi nụ cười: "Đệ cũng biết, chuyện này mà đến tai Viên Thượng thư thì kiểu gì cũng có một hồi gió tanh mưa máu chứ hả?

Đường Thận nhẹ nhàng nói: "Sư huynh chưa thành thân, nhưng sư huynh là quý nhân của đệ. Đệ muốn mời sư huynh làm tán tân."

"Được."

Có lời hứa hẹn của Vương Tử Phong, Đường Thận liền bớt một nỗi bận lòng.

Sau khi về tới nhà, cậu suy nghĩ lại những gì mình nói với Vương Tử Phong hôm nay. Đường Thận gọi Diêu đại nương đến hỏi thăm. Nghe bà nói xong, Đường Thận nhíu mày.

Cách người cổ đại kết hôn rất khác với người hiện đại.

Vương Trăn năm nay tuy đã hai mươi chín tuổi, nhưng ngoại hình vẫn trẻ trung tuấn mỹ, hơn nữa chàng nắm quyền cao chức trọng, vừa giàu sang vừa nổi tiếng. Con gái trong thành Thịnh Kinh muốn làm vợ chàng phải xếp hàng dài dằng dặc. Nếu Vương Trăn thực sự muốn cưới cháu gái Thượng thư bộ Công Viên Mục, dầu quan hệ giữa Vương Trăn với Viên Mục không thân, đạo bất đồng bất tương vi mưu, Viên Mục cũng nhất định không từ chối.

Nhưng cứ thế này mãi, khéo cả đời sư huynh phải độc thân cũng nên.

Đường Thận nghĩ thầm: "Thế thì đã sao, cùng lắm thì đã có mình chăm sóc, lo chuyện ma chay cho huynh ấy lúc về già." Cậu chẳng buồn nghĩ mình chỉ kém Vương Trăn có chín tuổi, đến lúc ấy chả biết ai dưỡng lão cho ai. Song ý tưởng đấy vừa bật ra trong đầu, Đường Thận bỗng nhớ cái năm mới đỗ Thám hoa, trong vườn hoa Phó phủ, cậu vừa thấy Vương Trăn đã vô thức gọi "Ba".

"..."

Thế là cậu thành con trai Vương Tử Phong rồi còn gì!

Quên đi quên đi, không thể ôm đồm việc dưỡng lão ma chay cho Vương Tử Phong được!

Lễ đội mũ nghe thì có vẻ phức tạp nhưng kì thực khá đơn giản. Cha mẹ Đường Thận mất sớm, nhà chẳng còn ai là người lớn, cũng không phải thế gia đại tộc để có nhiều quy củ. Bởi thế, trình tự lễ đội mũ của cậu khá giản lược.

Sáng sớm mùng sáu tháng ba, Đường Thận rửa mặt chải đầu, thay y phục, đi tới miếu thờ tổ tiên trong nhà Phó Vị.

Phủ Thám hoa không có chỗ thích hợp để cử hành nghi lễ, nên Đường Thận phải mượn Phó phủ để làm lễ đội mũ.

Hôm tổ chức lễ đội mũ, các quan thân với Đường Thận đều có mặt để mừng cho cậu. Vì Đường Thận là quan lớn tứ phẩm, cả Khâm Thiên Giám lẫn bộ Lễ đều cử quan đến dự. Tổng cộng có bảy, tám vị quan kinh thành mặc quan bào, chia nhau đứng thành hai hàng dọc theo con đường lát đá xanh trước tông miếu trong Phó phủ.

Cuối con đường lát đá xanh bóng loáng là Phó Vị. Đường Thận liếc mắt sang bên, cạnh Phó Vị chính là Vương Trăn.

Trong tông miếu, khói trắng lững lờ cuộn lên từ đỉnh hương đồng thau.

Đường Thận mặc bộ lễ phục Huyền Đoan dày và nặng, mái tóc dài của cậu được búi gọn trên đỉnh đầu. Cậu bước đến trước mặt Phó Vị, đặt tay trái lên trên tay phải dưới ống tay áo rộng, quỳ xuống tấm đệm mềm. Phó Vị cúi đầu nhìn Đường Thận đã trưởng thành hôm nay, lòng bùi ngùi xúc động. Những cảm xúc ấy nén lại thành tiếng thở dài thật dài, xen lẫn niềm vui và nỗi hoài niệm người đã khuất.

Đường Thận cúi người xuống, Phó Vị giơ tay lên, Vương Trăn bưng chiếc khay gỗ tiến lên một bước. Ông nhấc chiếc mũ truy bố làm từ vải gai đen, nhẹ nhàng đội lên búi tóc của Đường Thận.

Giọng Phó Vị trầm bổng du dương: "Ta có người học trò là Đường Thận, nay đội mũ vải thâm cho trò ấy. Khổng Tử nói, quân vương sai sử bề tôi, bề tôi phụng sự quân vương, như thế nào mới tốt?"

Đường Thận chắp hai tay làm lễ, cao giọng đáp: "Quân vương sai sử bề tôi phải dùng lễ, bề tôi phụng sự quân vương phải trung thành."

Phó Vị: "Tốt lắm."

Như thế, chiếc mũ thứ nhất đã được đội lên, đồng nghĩa với việc Đường Thận có thể tham chính, dốc sức vì đất nước.

Tiếp theo, Đường Thận thay lễ phục Bì Biền màu trắng, bước tới trước mặt Phó Vị lần thứ hai. Cậu lại đặt tay trái lên trên tay phải, quỳ xuống chiếc đệm mềm. Từ trên chiếc khay gỗ mà Vương Trăn bưng, Phó Vị nâng chiếc mũ Bì Biền làm từ da hươu trắng, đội cho Đường Thận.

[3] Bì Biền: mũ dành cho quan võ

Ý nghĩa của chiếc mũ thứ hai là Đường Thận có thể tòng quân bảo vệ nước nhà.

Cuối cùng, Đường Thận khoác lên mình lễ phục Tước Biền đỏ thắm. Phó Vị đội lên đầu cậu chiếc mũ hai màu đen – đỏ, làm từ vải tơ sống.

[4] Tước Biền: mũ cho quan văn

Chiếc mũ thứ ba mang ý nghĩa Đường Thận đã trưởng thành, từ giờ trở đi, cậu được phép tham gia lễ nghi, thờ cúng.

Ba chiếc mũ đã được đội đủ, Đường Thận đứng dậy. Phó Vị cười với cậu: "Theo lệ thường, bây giờ là lúc vi sư chọn chữ và tặng cho con tên tự. Nhưng con khác với người bình thường, mười sáu tuổi đã đỗ Thám hoa, hai mươi tuổi làm quan tứ phẩm. Tên tự con đã có rồi, cái tên ấy là Cảnh Tắc. Hôm nay, vi sư không có gì để tặng con, nên viết mấy chữ này làm quà."

Phó Vị nói xong, Ôn Thư đồng tử đứng hầu kế bên bèn lấy một cuộn thư pháp đã được bồi, từ từ giở ra.

[5] Sau khi vẽ tranh, hoặc viết thư pháp, người ta sẽ dán chồng lên một vài lớp giấy hoặc lụa bằng loại hồ chuyên dụng để giúp tác phẩm bền lâu, đẹp lâu

Trên nền giấy Tuyên trắng như tuyết là ba con chữ đại tự rồng bay phượng múa, bút pháp tuyệt vời.

"Khổng Tử nói: Kinh Thi có ba trăm bài, nếu tóm gọi lại thì có thể gọi là: Tư vô tà6. "

[6] Không có suy nghĩ xấu xa, lệch lạc.

Phó Vị tặng Đường Thận ba chữ, "tư vô tà"!

Đường Thận trào dâng xúc động, cậu nhận bức thư pháp bằng cả hai tay: "Học trò xin khắc ghi lời tiên sinh dạy bảo."

Phó Vị vuốt râu, nhẹ nhàng cười.

Như vậy, lễ đội mũ của Đường Thận đến đây là kết thúc.

Lễ nghi đã hoàn thành, nhưng Đường Thận còn phải mở tiệc chiêu đãi tân khách. Người nhà họ Đường đều ở Cô Tô, chỉ có mình Đường Vân lặn lội đường xá đến Thịnh Kinh để dự lễ. Vì thế, khách khứa dự tiệc hôm nay không quá đông, chủ yếu là các quan ở Thịnh Kinh.

Đường Thận tất bật trước sau, các quan thi nhau chúc mừng cậu trưởng thành, cậu cũng phải mời rượu lại, cảm ơn mọi người đã tặng quà mừng.

Phó Vị và Vương Trăn mặc lễ phục, ngồi ở vị trí chủ trì.

Trời tối dần, đèn đã rạng. Phó Vị cầm đũa, chẳng câu nệ mà chỉ vào Đường Thận – người đang đi tới đi lui như con thoi. Ông nói: "Tử Phong ơi, sư đệ của con hôm nay đã trưởng thành thật rồi. Chớp mắt một cái, năm năm đã trôi qua. Năm năm rồi đấy."

Vương Trăn chỉ nhấm nháp chút rượu chứ không uống nhiều. Người chàng không ám mùi rượu gay mũi mà thơm lừng vị trái cây. Chàng nhìn theo hướng Phó Vị trỏ đũa, ngắm Đường Thận trong bộ lễ phục Tước Biền màu đỏ sẫm, lần đầu búi hết mái tóc dài lên, vài sợi tóc đen còn sót lơ thơ rủ trên vầng trán. Đôi mắt cậu sáng ngời, lễ phục sẫm mầu càng tôn lên ánh mắt long lanh tựa hai vì sao đêm.

Ánh sáng trong đôi mắt Vương Trăn như bị hút cạn, chàng nhếch môi, cúi đầu uống rượu.

Phó Vị hỏi: "Con thấy sư đệ con thế nào?"

Chén rượu bên môi Vương Trăn khựng lại.

Phó Vị nâng li, nét mặt hết sức thỏa mãn, sung sướng uống cạn.

Ông cảm khái: "Quả đúng là tư vô tà!"

Tư vô tà.

Một tấm lòng trong sáng vô ngần, không chứa chấp cặn đục, không thấy điều tà ác.

Chúc mừng Tiểu Đường lang trưởng thành.

Chương này edit có tham khảo chương "Lễ đội mũ" trong của Phạm Đình Hổ, bản dịch Nguyễn Hữu Tiến, "" của dịch giả Huỳnh Chương Hưng và , tác giả Nguyễn Đình. Mời các bạn đọc thêm nếu quan tâm. Minh họa xem phía dưới.

Minh họa

Lễ phục Huyền Đoan. Các loại mũ và lễ phục đề cập trong bài được sử dụng rộng cho cả giới quý tộc, vua chúa. Chữ 弁 theo mình tìm hiểu thì vừa có phiên âm là "biện" vừa có phiên âm là "biền". Mình chọn "Biền" theo cách phiên âm của tác giả Trần Quang Đức (Ngàn năm áo mũ)

Huyền Đoan

Truy bố quan

Bì Biền (trái) – Tước Biền (phải)


Chương 95

Đệ nghĩ, sư huynh ắt phải là người phong thần tuấn lãng

Bữa tiệc đương dang dở thì có người từ hoàng cung đến. Triệu Phụ ban cho Đường Thận một cây bút lông sói.

Nam giới cổ đại làm lễ trưởng thành vào năm hai mươi tuổi. Số người có thể đỗ đạt công danh ở trước tuổi hai mươi là rất hiếm. Còn những người chưa đội mũ mà đã đỗ tiến sĩ, lại chiếm được lòng tin yêu của hoàng đế thì càng hiếm hoi hơn. Mỗi khi có quan viên cử hành lễ đội mũ, Triệu Phụ đều ban thưởng, nhưng không phần thưởng nào giống với phần thưởng nào.

Trong ba mươi mốt năm kể từ khi Triệu Phụ lên ngôi, đã có sáu vị quan được hưởng vinh dự ấy. Có ba người trong số ấy trở thành quyền thần được hoàng đế trọng dụng ngay, còn ba người kia chức vụ thấp, đều bị phân công đến vùng khác ngoài kinh thành.

Được Triệu Phụ ban thưởng, Đường Thận nhận chiếc bút bằng hai tay rồi ra lệnh Phụng Bút lì xì cho thái giám chịu trách nhiệm tặng quà.

Thái giám thoạt tiên còn lịch sự từ chối, nhưng rồi cũng mau chóng nhận tiền mừng. Kẻ ấy cười tươi rói: "Nô tỳ xin chúc mừng Đường đại nhân. Đường đại nhân tuổi trẻ tài cao, tiền đồ vô lượng."

Đến khi trăng lơ lửng ngang trời, Đường Thận mới đích thân tiễn từng vị quan đến chung vui rời tiệc.

Khi tiễn Phó Vị và Vương Trăn, Đường Thận nói: "Tối mai, con mở tiệc tại nhà, tiên sinh và sư huynh phải sang đấy nhé."

Dĩ nhiên cả hai người đều nhận lời.

Năm Khai Bình thứ ba mươi mốt, mùng bảy tháng Ba. Hôm nay mới chính thức là sinh nhật Đường Thận.

Vì trung tuần tháng Ba Đường Thận phải lên đường đến U Châu để đốc tra việc xây dựng ty Ngân Dẫn, nên cậu không cần đến điện Cần Chính trong mấy ngày đầu tháng này. Thay vào đó, cậu được phép ở nhà để tập trung sửa soạn cho chuyến đi. Buổi trưa, Đường Thận bày tiệc rượu ở lầu Tế Hà chiêu đãi bè bạn. Những người tham gia cũng không phải tai to mặt lớn gì, chỉ có Diêu Thiện là người giữ chức cao nhất.

Diêu Thiện và Đường Thận là tiến sĩ cùng khoa. Cách đây bốn năm, Diêu Thiện đỗ Trạng Nguyên, cùng vào cung làm quan Khởi Cư với Đường Thận. Hai năm trước, Tả tướng Kỷ Ông Tập chủ trương xây dựng lại ty Độ Chi dưới sự giúp sức của quan Tham tri Chính sự Triệu Tĩnh và Hữu thị lang bộ Hộ Tần Tự. Lúc đó, ty Độ Chi là điểm đến vàng cho các quan trong triều. Diêu Thiện được lòng đế vương, đã chuyển từ vị trí Khởi Cư lang ngũ phẩm sang ty Độ Chi làm việc.

Khi đó, Diêu Thiện hoàn toàn không nghĩ rằng rồi đây, ty Độ Chi sẽ phải đối mặt với kết cục như vậy. Anh ta và Mai Thắng Trạch, bạn đồng môn thân thiết của Đường Thận, cùng nhau làm quan ở ty Độ Chi. Nào ngờ chưa đầy một năm, ty Độ Chi vấp phải biến cố lớn, bị hoàng đế loại bỏ thẳng thừng. Triệu Tĩnh và Tần Tự đều bị cách chức, các quan thấp cổ bé họng như họ cũng lâm vào cảnh khốn đốn.

Năm ngoái, Mai Thắng Trạch bị biếm đến Quý Nam làm huyện lệnh, tạm thời không gặp được Đường Thận.

Diệu Thiện thì đỡ hơn, dù sao anh ta cũng có hai năm làm Khởi Cư lang bên Triệu Phụ. Triệu Phụ khiển trách anh ta rất nặng nề, nhưng không hề cách chức mà còn cho anh ta làm Thông nghị Đại phu, hàm tứ phẩm. Cuối cùng, anh ta và Đường Thận vẫn cùng phẩm cấp với nhau, nhưng xét thực quyền và độ tin sủng của hoàng đế thì Diêu Thiện kém xa Đường Thận.

Song với Diêu Thiện, thế đã là thỏa mãn lắm rồi.

Sống ở đời, có mười chuyện thì đến tám, chín chuyện không theo ý mình. Được ở lại kinh thành đã là điều đáng mừng với anh ta.

Trong bữa tiệc, Diêu Thiện uống rượu, dặn dò Đường Thận: "Cảnh Tắc, lần này đệ đến U Châu, tuyệt đối không được chủ quan. Ty Ngân Dẫn có thể coi là hậu thân của ty Độ Chi, nước sâu lắm đấy. Tuy ta không biết có bí mật sâu xa gì ẩn sau ty Ngân Dẫn, nhưng thành U Châu là chốt giao giữa hai nước Tống – Liêu, vàng thau lẫn lộn. Ty Ngân Dẫn đặt ở đó để quản lí lương bổng của tướng sĩ, chỉ nghĩ thôi cũng thấy hiểm nguy trùng trùng rồi. Đệ phải hết sức cẩn thận."

Đường Thận cảm động, nói: "Đạ tạ Vấn Cơ huynh đã quan tâm, lần này đi U Châu, ta nhất định sẽ thận trọng."

Diêu Thiện bỗng thấy hâm mộ đến xanh cả mắt.

"Hầy, đúng là thua xa, thua xa quá thể. Cảnh Tắc, bao giờ đệ hồi kinh, kiểu gì cũng phải mời ta uống vài chén cho vơi cái nỗi chua chát này đi. Đệ có ngửi thấy thùng giấm trong bụng ta không? Ta ghen tị với đệ quá đi mất!"

Đường Thận cười ha hả: "Nhất trí!"

Buổi trưa khoản đãi thân bằng hảo hữu, đến tối, Đường Thận mở tiệc tại nhà, mời riêng Vương Trăn và Phó Vị.

Thầy trò ba người chén tạc chén thù, tiệc tùng say sưa. Phó Vị hắng giọng, hớn hở khoe khoang một bức họa ông mới vẽ hôm nay. Ông khen bức họa mình vẽ sinh động cực kì, giống y như thật.

Đường Thận lúc đầu tưởng thật. Cậu nghĩ bụng, tiên sinh nhà mình tuy được xưng là Điêu Trùng Trai Chủ, thư pháp thuộc hàng đỉnh cao của Đại Tống, song khoản vẽ vời thì khá xoàng; thế mà hôm nay ông lại vẽ nên kiệt tác? Đến khi cậu ngoảnh sang nhìn Vương Trăn, bắt gặp ánh mắt chàng nhìn lại...

Đôi mắt thấu sự đời của Vương Trăn lộ rõ ý cười, chàng chẳng nói chẳng rằng, chỉ lẳng lặng cúi đầu ăn, ngồi nghe Phó Vị ba hoa.

Bấy giờ Đường Thận mới phát hiện ra, mình và tiên sinh rất giống nhau ở cái tài nịnh hót thành thần. Điểm khác biệt duy nhất nằm ở chỗ, Đường Thận tâng bốc người khác, còn Phó Vị thì tâng bốc chính bản thân ông!

Xì, thế thì hẳn bức tranh ấy chẳng đẹp chút nào rồi, hoàn toàn khớp với trình độ của tiên sinh xưa nay.

Ăn tiệc xong, do Phó phủ cách nhà Đường Thận hơi xa nên Phó Vị đi về trước. Vương Trăn nán lại thêm.

Diêu đại nương dọn dẹp bàn ăn, Đường Thận và Vương Trăn đi vào trong đình viện.

Phủ Thám Hoa không rộng lắm, chỉ có ba tiến thôi, chái nhà phía Đông1 kéo dài hết dọc bên phải của tòa phủ. Vườn hoa trong phủ nằm ở phía Tây Bắc, trong vườn có một ao nhỏ, bao quanh là rừng trúc. Hiện giờ là tháng ba, đúng dịp đầu xuân, gió đêm mơn man trên mặt, chẳng hề lạnh mà mát lịm đến tim gan.

[1] Đông sương. Thường là nơi ở của trưởng nam trong gia đình. Chủ nhà ở gian phía Bắc.

Đường Thận thả bước quanh bờ ao, nói: "Sư huynh chọn tòa nhà này làm phủ Thám Hoa cho đệ, nhưng hình như đây là lần đầu sư huynh vào tham quan phải không?"

Vương Trăn: "Nếu tính việc đi hết mọi chỗ trong phủ, thì đây đúng là lần đầu tiên."

"Đệ thích rừng trúc này lắm." Đường Thận dừng chân bên khóm trúc, ngoảnh đầu lại nhìn Vương Trăn, "Cây trúc là quân tử trong rừng xanh, mỗi độ xuân về không ngào ngạt hương hoa, trồng cạnh thư phòng quả là đẹp đẽ và thanh tịnh không gì bằng."

Hai người nhanh chóng bước vào thư phòng của Đường Thận.

Đây không phải lần đầu Vương Trăn đến phủ Thám Hoa, nhưng đây là lần đầu chàng đặt chân vào thư phòng của Đường Thận.

Đường Thận xuống bếp lấy trà nước cho Vương Trăn, trước khi đi cậu bảo: "Sư huynh cứ ngắm nghía tùy thích nhé. Sách trong nhà đệ không nhiều như ở nhà sư huynh, nhưng cũng phong phú lắm."

Một lúc sau, Đường Thận bưng khay trà về. Vừa vào cửa, cậu đã thấy Vương Trăn đứng ở góc giá sách, xem xét mấy quyển tạp thư về nghệ thuật trà. Đường Thận giật mình thon thót, nhưng cậu nhanh chóng lấy lại bình tĩnh, không để lộ sự bất thường. Cậu đặt khay trà lên bàn, cười nói: "Sư huynh khát nước chưa? Uống trà nhé? Trà Bích Loa Xuân anh họ đệ đem từ Cô Tô lên đấy."

Vương Trăn cất sách, nhận chén trà nhấp một ngụm.

"Sư huynh đang xem dở tạp thư về trà nghệ à?"

Vương Trăn liếc nhìn cuốn sách vừa cất về giá, khóe môi khẽ nhếch: "Ừ, đúng là tiểu sư đệ có mấy cuốn sách mà nhà ta không có. Đệ có thể cho ta mượn về đọc được không?"

"Tất nhiên rồi." Nói đoạn, Đường Thận chủ động lấy giúp mấy quyển sách về trà cho Vương Trăn. Động tác lấy sách của cậu khiến mấy cuốn xếp kế bên ngả xuống, khéo léo che đi chỗ hổng lộ ra vì thiếu sách. Đường Thận lặng lẽ chỉnh lại chỗ sách đó, đảm bảo cái hốc được che kín, rồi mới cười với Vương Trăn: "Sư huynh muốn đọc gì nữa không?"

Vương Trăn tựa như không phát hiện ra hành động mờ ám của Đường Thận, chàng nói: "Vừa nãy hình như còn thấy một quyển tiểu thuyết chí quái từ triều đại trước."

Đường Thận ngạc nhiên: "Sư huynh cũng thích đọc tiểu thuyết chí quái à?"

Vương Trăn hỏi ngược lại: "Chẳng phải tiểu sư đệ cũng thích nên mới giữ một quyển sao?"

Đường Thận: "Đệ ngẫu nhiên bắt gặp, thấy tên truyện khá thú vị nên mới mua về đọc thử."

"Thì ta cũng thế mà."

Đường Thận tự biết so tài ăn nói, mười cậu cộng lại cũng không thắng nổi Vương Tử Phong. Cậu xếp sách ngụy trang xong bèn ngồi lên giường với chàng, hai huynh đệ ôn chuyện quá khứ.

Hôm nay là lần đầu Đường Thận kể chuyện hồi mười ba tuổi được xem bức tranh Phó Vị vẽ, Vương Trăn vịnh thơ.

Vương Trăn hết sức ngạc nhiên: "Có chuyện đấy kia à?"

Đường Thận thấy sư huynh bất ngờ thì mở cờ trong bụng. Khiến Vương Tử Phong giật mình nào phải chuyện chơi? Cậu hãnh diện nói: "Vâng. Hồi đó đệ còn chưa biết Điêu Trùng Trai Chủ là tiên sinh, nhưng ngay lúc thấy chữ viết tay của sư huynh, đệ liền thuộc luôn cái tên Vương Tử Phong. Nhắc đến mới nhớ, hồi xưa đệ còn nghĩ mãi xem tên của sư huynh có nghĩa gì cơ."

Tử Phong là tự của Vương Trăn, còn Trăn là tên của chàng.

Theo lẽ thường, tự của người xưa bao giờ cũng có hàm nghĩa riêng, mang theo niềm hi vọng trưởng bối gửi gắm cho Vương Trăn, và sẽ có liên quan đến tên của chàng.

Ví dụ như Khổng Tử có tên là Khâu, tự là Trọng Ni. Trọng có nghĩa là thứ hai; Khổng Tử là con thứ hai trong nhà, nên tự của ông là Trọng Ni. Lại ví như Khuất Nguyên có tự là Bình. "Nguyên" là tên gọi của vùng đất "bằng phẳng"; tức là tên và tự có liên quan đến nhau.

Tự của Vương Trăn là Tử Phong, hồi Đường Thận mười ba tuổi đã vụng trộm nghĩ rằng, "Tử" là mỹ từ3 thôi chứ không có ý nghĩa sâu xa, tự thật của Vương Trăn là chữ "Phong" kia.

[3] "Tử" chỉ đàn ông con trai

Phong, vừa có nghĩa là tươi tốt, vừa có nghĩa là dồi dào, vừa có nghĩa là đẹp đẽ.

Nhẽ nào cái anh chàng Vương Tử Phong này đẹp trai lạ thường, nên mới có tên tự là "Phong"?

Thực tế chứng minh, sau này khi gặp Vương Trăn lần đầu, Đường Thận quả thực đã bị diện mạo của sư huynh nhà mình hớp hồn. Nhưng Đường Thận luôn cảm thấy đó chưa phải là lời giải thích đúng.

Vương Trăn cố tình tỏ ra huyền bí: "Thế đệ đoán là gì nào?"

Đường Thận lại nịnh theo bản năng: "Đệ nghĩ, sư huynh ắt phải là người phong thần tuấn lãng lắm, nên mới được đặt tự là 'Tử Phong'."

Vương Trăn: "Đoán vậy cũng đúng."

Đường Thận: "..."

Ngài thiếu khiêm tốn quá đi mất thôi ạ.

"Hồi trước tiểu sư đệ có nói, đệ đoán được rằng chữ 'Trăn' trong tên ta – Vương Trăn, được lấy từ bài thơ 'Trăn Vị' trong Kinh Thi. Sông Trăn, sông Vị là hai nguồn nước dồi dào. Năm ta ra đời, cha ta một mình làm quan ở Giải Châu – nơi có con sông Trăn cắt qua. Năm ấy, nước sông Trăn đầy ăm ắp nhưng không gây ngập lụt nên hai bên bờ được vụ mùa bội thu. Cha ta có công cai quản Giải Châu, được Thánh thượng ban thưởng. Ta chào đời vào đúng thời điểm ấy. Ở Giải Châu, nhận được thư nhà từ Lang Gia Vương thị, cha ta bèn đặt luôn chữ 'Trăn' làm tên cho ta."

Vương Trăn ngâm thơ: "Dòng sông Vị với sông Trăn, thuỷ triều vào khoảng mùa xuân dẫy đầy. Cũng vì thế, khi ta làm lễ đội mũ trưởng thành thì được đặt tự là 'Phong', với ước nguyện dòng sông Trăn năm nào cũng dồi dào, vạn dặm được ấm no."

Ai cũng thích nghe kể chuyện, Vương Trăn kể chuyện còn hay ơi là hay, Đường Thận nghe chàng kể hết mà vẫn thòm thèm.

Đường Thận: "Không ngờ tên và tự của sư huynh có nguồn gốc sâu xa như thế."

Vương Trăn: "Ta còn nhớ, tiểu sư đệ từng đọc bài thơ 'Trăn Vị' cho ta nữa cơ."

Nghe thế, Đường Thận thấy có gì đó sai sai.

Thế nào gọi là ta đọc 'Trăn Vị' cho huynh nghe?

'Trăn Vị' là bài thơ tình nổi tiếng trong Kinh Thi, là lời thổ lộ tình yêu trai gái dành cho nhau. Đọc bài thơ này cho ai tức là tỏ tình với người ấy! Bốn năm trước, đúng là cậu từng đọc bài thơ này cho Vương Tử Phong nghe, nhưng cậu chỉ đọc vì nó có liên quan đến tên Vương Trăn, chứ đâu có ý định bày tỏ tình cảm!

Nhưng Vương Trăn nói thế cũng không sai chỗ nào.

Đường Thận ngắc ngứ: "... Đúng là đệ từng đọc bài thơ ấy cho sư huynh."

"Hôm ấy là sinh nhật ta, tiểu sư đệ còn tặng ta một miếng ngọc bội, một chiếc túi hương."

Đường Thận ngẩng đầu: "Vâng?"

Ánh nến ve vuốt gương mặt đẹp tuyệt trần của Vương Tử Phong, cặp mắt chàng sáng và trong trẻo như tuyết lạnh trên non cao. Rồi bỗng chốc, tuyết chợt tan, để lại nét cười điềm nhiên chứa chan nơi đáy mắt. Những ngón tay của Vương Trăn khẽ chuyển động. Một thoáng ấy, Đường Thận thấy thứ gì lóa lên, cậu chăm chú nhìn theo tay phải Vương Trăn.

Trong ánh nến lung linh, chàng Vương nhẹ nhàng nâng tay, sợi dây tua rua trượt xuống từ những ngón tay thon đẹp đẽ, phía cuối sợi dây móc vào một miếng ngọc quý trắng tinh khôi, sáng long lanh.

Một miếng ngọc đẹp đến sững sờ. Ngay cả ánh nến lờ mờ cũng không tài nào che lấp vẻ nhẵn mịn, mướt mát đầy tinh tế của nó. Miếng ngọc nhẹ nhàng đong đưa, mặt ngọc óng ánh theo từng chuyển động. Được chiêm ngưỡng nhiều ngọc ngà đá quý là thế, Đường Thận vẫn phải ngây dại trước báu vật này. Theo bản năng, cái bàn tính trong bụng cậu lại bắt đầu gẩy...

Miếng ngọc này đáng giá hàng đống vàng ấy chứ!

Trong đêm xuân, giọng Vương Trăn trầm ấm dịu dàng: "Một món quà mừng sinh nhật hai mươi tuổi của em, tiểu sư đệ."

Tui thích đoạn đứng bên rừng trúc ngoảnh lại nói chuyện với sư huynh lắm. Lãng mạn.

Một miếng ngọc bội được đấu giá sương sương 6.2 tỷ VNĐ

Chú thích

Tọa tháp; gần giống với chiếc sập của người Việt. Bên Đại Việt Cổ Phong dùng từ "tháp" để phân biệt với các loại giường ngồi của Việt Nam, song trong văn thơ và từ điển thì từ này thường được dịch là "giường" nên mình dùng "giường" :)

Gốc là "phong phái" – lấy chữ Phong làm tự cho Tử Phong.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#dammy