ĐỨC XÂM LẤN ĐAN MẠCH VÀ NA UY

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

KẾhoạch xâm chiếm Đan Mạch và Na Uy mang cái tên vô thưởngvô phạt là "Tập trận Weser". Nguồn gốc và việctriển khai kế hoạch này có tính độc đáo và khônggiống như những chiến dịch tấn công khác của Đức đãtừng được kể trong cuốn sách này. Đầu tiên, việcnày không phải do Hitler chủ trương như những chiến dịchquân sự khác. Mà đây là cuộc tấn công duy nhất củaĐức mà Hải quân Đức đóng vai trò quyết định. Đócũng là chiến dịch duy nhất mà Bộ Chỉ huy Tối cao Quânlực lập kế hoạch hành quân và phối hợp ba quân chủng.Thực tế là: Tư lệnh Lục quân và bộ tham mưu củaHitler không hề được tham khảo ý kiến, họ cảm thấybất mãn và Goering chỉ được biết vào phút cuối –thái độ xem thường này làm cho vị Tư lệnh Không quânnổi giận.

Hải quân Đứcđã dòm ngó phía Bắc từ lâu. Đức không có lối thôngthương trực tiếp ra đại dương, đó là thực tế địalý khiến cho các sĩ quan Đức luôn ưu tư trong Thế chiếnI. Một mạng lưới chặt chẽ của Anh gồm thuỷ lôi vàtàu tuần tiễu giăng ngang biển Bắc nhỏ hẹp – từquần đảo Shetland đến bờ biển Na Uy – nhốt giữ Hảiquân Đế quốc Đức, khiến cho tàu ngầm Đức không thểtiến ra Bắc Đại Tây Dương, đồng thời đội thươngthuyền Đức cũng không thể ra khơi. Hạm đội Đứckhông bao giờ ra được đến đại dương. Đế quốc Đứcđã bị cuộc phong toả của Hải quân Anh bóp nghẹt trongThế chiến I.

Giữa hai cuộcchiến, một số sĩ quan Hải quân Đức chỉ huy một hạmđội khiêm tốn nhận thức được tình trạng này, rồiđi đến kết luận rằng trong cuộc chiến tương lai vớiAnh, Đức phải cố lập căn cứ hải quân ở Na Uy nhằmphá vỡ sự phong toả của Anh trên biển Bắc, mở đườngcho tàu chiến và tàu ngầm của Đức thông thương ra đạidương, lật ngược thế cờ nhằm lập vành đai phong toảxung quanh nước Anh.

Vì thế chẳngcó gì ngạc nhiên khi Đô đốc Rolf Carls, nhân vật số Batrong Hải quân Đứcvà là người có tính cách cứng cỏi, luôn nhắc nhởThuỷ sư Đô đốc Raeder về tầm quan trọng của Na Uy đốivới Hải quân Đức. Raeder đã khai việc này ở Toà ánNuremberg cùng với tập hồ sơ "Tầm quan trọng của việcĐức chiếm bờ biển Na Uy". Raeder không cần chờ phảibị thúc giục lâu. Ngày 3 tháng 10, vào lúc kết thúcchiến dịch Ba Lan, ông gửi 1 bản câu hỏi mật cho BộTư lệnh Hải quân để nhận ý kiến về khả năng chiếm"các căn cứ ở Na Uy dưới sức ép kết hợp của Ngavà Đức." Ribbentrop được tham khảo về quan điểm củaNga và trả lời rằng "có thể trông mong sự hỗ trợsâu rộng" từ nguồn ấy. Raeder nói với nhân viên củaông rằng phải thông báo cho Hitler càng sớm càng tốt về"những khả năng".

Ngày 10 tháng 10năm 1939 (cùng ngày Hitler ban hành Chỉ thị số 8 để đánhHà Lan và Bỉ), Raeder trình kế hoạch của Hải quân choHitler. Và rồi vì bận tâm với kế hoạch đánh phía Tây,Hitler đã quên bẵng Na Uy. Nhưng 2 tháng sau, vấn đề nàyđã quay trở lại – vì 3 lý do.

Một lý do làthời tiết. Đức phụ thuộc nhiều vào quặng sắt củaThuỵ Điển – khoảng – 11 triệu tấn trong số 15 triệutấn tiêu thụ hằng năm. Trong mùa hè, quặng sắt nàyđược vận chuyển ngang qua biển Baltic mà không có vấnđề gì, vì tàu lớn của Hải quân Anh không thể vàobiển Baltic được. Trong mùa đông, vì Biển Baltic đóngbăng, quặng sắt phải được chở bằng xe lửa đếncảng Narvik của Na Uy rồi được đưa xuống tàu chở đếnĐức. Hầu như suốt cuộc hành trình, tàu chở quặng củaĐức đi trong hải phận của Na Uy và do đó tránh đượctàu và máy bay của Anh bắn phá.

Vì thế, nhưHitler lúc đầu vạch rõ cho Hải quân biết, một nướcNa Uy giữ trung lập đã mang lại rất nhiều lợi ích choĐức vì đã tạo ra một tuyến cung cấp mà Anh không thểcan thiệp.

Ở Anh,Churchill, lúc này là Bộ trưởng Hải quân, lập tức cũngnhận ra điều ấy và xin phép Nội các cho rải thuỷ lôitrong hải phận của Na Uy để ngăn chặn tuyến vậnchuyển quặng sắt cho Đức. Nhưng Chamberlain và Halifaxkhông muốn xâm phạm tính trung lập của Na Uy nên bỏ quaý định này.

Việc Nga tấncông Phần Lan khiến cho tình hình ở Bắc Âu thay đổi ởcả 2 phía Đồng minh phương Tây và Đức. Anh và Pháp tổchức một lực lượng viễn chinh để giúp người PhầnLan lúc ấy đang cầm cự Nga một cách dũng cảm. Nhưngmuốn đi đến Phần Lan, đoàn quân này phải đi qua Na Uyvà Thuỵ Điển. Họ sẽ để lại một số quân trên 2nước này cho việc liên lạc, đồng thời có thể cắtđứt tuyến đường cung cấp quặng sắt cho Đức. Hơnnữa, các nước Đồng minh phương Tây lại kẹp bên sườncủa Đức về phía Bắc. Thuỷ sư Đô đốc Raeder cho thấycó tầm nhìn xa khi nhắc nhở Hitler về sự đe doạ này.

Vị Tư lệnhHải quân Đức rồi sẽ tìm ra một Đồng minh quý giácho mưu đồ của mình: Thiếu tá Vidkun Quisling, cái tênchẳng bao lâu nữa sẽ đồng nghĩa với từ phản quốc.

VIDKUNQUISLING NỔI LÊN


Quislingtốt nghiệp thủ khoa Học viện Quân sự Na Uy và đượccử làm tuỳ viên quân sự tại Petrograd ở tuổi chưa đến30. Sau khi Bolshevik chiếm chính quyền, Quisling lưu lại Ngamột thời gian để làm công việc cứu trợ. Lúc đầu,ông vừa thân Anh vừa thân Bolshevik, nhưng dần dà có thêmấn tượng với những thành công của Cộng sản Nga.

Trở về Na Uy,ông tham gia chính trị, biểu lộ ý hướng thân Cộng sản,làm Bộ trưởng Quốc phòng trong thời gian từ năm 1931đến năm 1933, thành lập một Đảng Phát xít nhưng khôngthành công. Bị thất cử vào Nghị viện, ông quay sang ĐứcQuốc xã và tiếp xúc với Alfred Rosenberg.

Vào tháng 6 năm1939, khi bầu trời châu Âu đang u ám vì những đám mâyđen đe doạ chiến tranh, Quisling cảnh báo cho Rosenberg vềnhững hiểm hoạ nếu Anh kiểm soát Na Uy và những lợiích cho Đức nếu chiếm được Na Uy. Rosenberg gửi bảnghi nhớ về việc này cho Hitler, Goering và Ribbentrop, nhưngcả 3 nhân vật đầu não của Đức có vẻ như không đểý đến, không ai ở Đức để ý đến "triết gia chínhthức" của Đảng. Rosenberg còn thu xếp cho 25 binh sĩS.A. của Quisling được đào tạo trong 2 tuần ở Đức.

Thuỷ sư Đôđốc Raeder khai trước Toà án Nuremberg rằng trong nhữngtháng đầu của cuộc chiến, ông không có quan hệ gì vớiRosenberg mà chỉ biết sơ qua, cũng chưa từng nghe nói đếnQuisling. Nhưng ngay sau khi Nga tấn công Phần Lan, Raeder bắtđầu nhận được những báo cáo của Tuỳ viên Hải quânở Na Uy, Đại tá Richard Schreiber, cho biết Đồng minh sắpđổ bộ lên Na Uy. Ông báo cáo việc này cho Hitler và đềnghị thẳng thừng: "Điều quan trọng là phải chiếmđược Na Uy."

Ít lâu sau,Rosenberg giới thiệu Quisling đến gặp Raeder, cho biếtQuisling có một kế hoạch đảo chính giống như cách Đứcsáp nhập Áo. Theo ghi chép của Raeder, Quisling nói về việcAnh định đổ bộ lên Na Uy, đồng thời đề xuất đặtnhững căn cứ dưới quyền sử dụng của Quân đội Đức.

Theo Rosenberg,Quisling tin chắc cuộc đảo chính sẽ được những thànhphần Quân đội – mà ông có mối quan hệ – ủng hộ.Riêng nhà Vua sẽ chấp nhận chuyện đã rồi.

Quisling thậmchí còn ước lượng số quân Đức cần thiết cho cuộcđảo chính trùng khớp với ước lượng của Đức.

Để chặn bướctiến của Anh, Quisling đề nghị đặt "những căn cứcho Quân đội Đức sử dụng. Dọc theo cả bờ biển,nhân sự ở những vị trí quan trọng (xe lửa, bưu điện,viễn thông) đã bị mua chuộc cho mục đích này. Cần cónhững hội nghị nhằm thảo luận hành động phối hợp,việc chuyển quân đến Oslo, v.v.."

Raeder có ấntượng mạnh với điều này và đã báo cáo với Hitlercùng Keitel và Jodl, nêu rõ Quisling "có mối quan hệ tốtvới những sĩ quan trong Quân đội Na Uy". Bản báo cáocủa Raeder ở trong số tài liệu tịch thu được. Mọingười đều đồng ý không thể chấp nhận việc Anhchiếm Na Uy, nhưng Raeder đột nhiên tỏ ra thận trọng,cho biết nếu Đức chiếm Na Uy trước thì "sẽ khiếncho Anh có biện pháp phản ứng... và trong thời gian này,Hải quân Đức vẫn chưa sẵn sàng để đối phó vớihọ". Thay vào đó, Raeder đề nghị Bộ Chỉ huy Tối caoQuân lực cho phép "lập kế hoạch cùng với Quisling đểchiếm hoặc bằng phương pháp thân thiện – ví dụ nhưNa Uy kêu gọi Quân đội Đức đến, hoặc bằng vũ lực".

Hitler bảo mìnhchưa sẵn sàng đi xa đến thế, mà muốn nói chuyện trướcvới Quisling nhằm "tạo ấn tượng về ông ta."

Ngày kế, 14tháng 12, Raeder đích thân đưa Quisling đến gặp Hitler.Xem chừng Hitler có ấn tượng tốt,nên ngay sau buổi tiếp kiến ông đã ra lệnh cho Bộ Chỉhuy Tối cao Quân lực hội ý với Quisling để soạn thảokế hoạch, gọi là "Nghiên cứu về miền Bắc". Halderđược nghe rằng kế hoạch này cũng bao gồm cả ĐanMạch.

Trong lúc này,tin xấu về chiếc Graf Spee khiến cho Hitler thậntrọng hơn, nói với Quisling rằng Đức chỉ mong Na Uy giữtrung lập, nhưng nếu Anh chuẩn bị chiếm Na Uy thì Đứcphải chiếm trước. Ông cung cấp ngân khoản cho Quislingđể tổ chức tuyên truyền chống lại Anh và củng cốphong trào thân Đức ở Na Uy.

Thế nhưng trongnội bộ Hải quân Đức lại xảy ra bất đồng ý kiến.Phòng Hành quân của Bộ Tư lệnh Hải quân không tin Anhsẽ chiếm Na Uy và nghĩ nếu đúng là như thế thì việcĐức chiếm Na Uy là hành động nguy hiểm. Vì vậy họkết luận rằng "giải pháp tốt nhất là giữ nguyênhiện trạng", đồng thời nhấn mạnh rằng như thế sẽcho phép sử dụng lãnh hải của Na Uy để việc chuyênchở quặng sắt được "an toàn tuyệt đối."

Hitler đềukhông hài lòng với cả thái độ do dự của Hải quân vàkết quả của "Nghiên cứu về phía Bắc" mà Bộ Chỉhuy Tối cao Quân lực trình cho ông vào giữa tháng Giêng.Ông ra lệnh nghiên cứu thêm phương án "miền Bắc"dưới sự giám sát trực tiếp của ông ta và Keitel nhậntrách nhiệm cho những bước chuẩn bị. Một nhóm nhỏgồm một đại diện từ mỗi quân chủng được thànhlập ở Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực sẽ thực hiệnviệc này.

Thế rồi mộtsự cố xảy ra khiến cho Hitler chẳng còn ngần ngại gìtrong kế hoạch xâm chiếm Na Uy nữa.

Chiếc tàu tiếptế Altmark phục vụ chiếc Graf Spee cố đi quavòng phong toả của Anh, nhưng khi đi trên lãnh hải Na Uyđể về Đức thì bị máy bay trinh sát của Anh phát hiện.Chính phủ Anh biết chiếc tàu này đang chở 300 thuỷ thủcủa các tàu Anh đã bị chiếc Graf Spee đánh đắm.Hải quân Na Uy kiểm tra một cách sơ sài chiếc Altmark,không tìm thấy tù binh Anh và thấy tàu không được trangbị vũ khí, nên cho phép tiếp tục lên đường về Đức.Nhưng Churchill đích thân ra lệnh cho tàu Anh tiến đếnlãnh hải Na Uy để giải thoát tù binh Anh. Trong đêm 16tháng 2, sau một vài xô xát đã xảy ra khiến cho bốnthuỷ thủ Đức bị giết, Anh giải thoát được 299 thuỷthủ Anh đang bị giam trong những kho chứa hàng và trong 1bồn dầu rỗng để tránh bị Na Uy phát hiện.

Chính phủ Na Uymạnh mẽ lên tiếng phản đối Anh xâm phạm lãnh hải NaUy, nhưng Churchill trả lời trước Nghị viện rằng chínhNa Uy vi phạm công pháp quốc tế vì cho phép Đức chở tùbinh Anh về nhà tù Đức.

Đối vớiHitler, đó là giọt nước làm tràn ly. Ông tin rằng Na Uykhông chống đối một cách nghiêm túc việc Anh biểudương lực lượng trong lãnh hải Na Uy. Ngày 19 tháng 2,ông thúc đẩy việc hoàn tất kế hoạch đánh Na Uy. Jodlnhắc ông ta rằng cần bổ nhiệm ngay tư lệnh chiến dịchvà ban tham mưu để phục vụ cho mục đích này.

Keitel đề cửTướng Nikolaus von Falkenhorst, trước đây tham chiến ởPhần Lan vào cuối Thế chiến I và hiện đang chỉ huy mộtquân đoàn ở phía Tây. Vì đã bỏ sót chuyện nhỏ là tưlệnh cho cuộc phiêu lưu miền bắc, Hitler lập tức chotriệu Falkenhorst đến tuy chưa từng biết đến ông này.

Trước Toà ánNuremberg, Falkenhorst kể lại ngày làm việc đầu tiên vớiHitler là ngày 21 tháng 2 cũng với những chi tiết buồncười. Falkenhorst chưa hề biết gì đến "Nghiên cứu vềphía Bắc", chưa từng gặp Hitler và khi diện kiếnHitler thật rồi thì ông cũng không hề tỏ ra sợ hãi nhưthái độ thường thấy ở các tướng lĩnh khác. Ông kể:

Tôi được mời ngồi, Rồitôi phải tường thuật với Lãnh tụ về những cuộchành quân ở Phần Lan năm 1918... Ông ấy nói: "Ngồixuống kể cho tôi nghe nó như thế nào" và thế là tôikể.

Rồi chúng tôi đứng lên vàông ấy dẫn tôi đến một chiếc bàn phủ đầy bản đồ.Ông ấy nói: "Chính phủ Đế chế được tin Anh địnhđổ bộ lên Na Uy."

Falkenhorstcó cảm tưởng là sự cố tàu Altmark khiến cho Lãnh tụnhất quyết "thi hành kế hoạch ngay bây giờ". Và vịtướng cảm thấy kinh ngạc khi được bổ nhiệm tại chỗchức tư lệnh chiến dịch. Hitler cho biết sẽ điều 5 sưđoàn cho ông chỉ huy để chiếm lấy các cảng biển củaNa Uy.

Lúc giữa trưa,Hitler ra lệnh ông trở lại vào lúc 5 giờ chiều đểtrình bày kế hoạch tiến chiếm Na Uy. Falkenhorst giảithích ở Toà án Nuremberg:

"Tôi đi ra và mua 1 cuốnsách hướng dẫn du lịch Baedeker để tìm hiểu Na Uy lànhư thế nào. Tôi không biết gì hết... Rồi tôi vềphòng khách sạn, làm việc trên sách hướng dẫn du lịchnày. Lúc 5 giờ chiều, tôi trở lại để báo cáo vớiLãnh tụ."

Nhưta có thể mường tượng ra, kế hoạch của Falkenhorst –ông không hề nhìn thấy kế hoạch do Bộ Chỉ huy Tốicao Quân lực soạn thảo – là rất sơ sài, nhưng có vẻđược lòng Hitler. Mỗi sư đoàn sẽ được lệnh chiếm1 cảng chính: Oslo, Stavanger, Bergen, Trondheim và Narvik.Falkenhorst nói: "Không có việc gì khác để làm, bởi vìđó là 5 cảng lớn." Sau khi được lệnh phải giữ bímật và được thúc giục "phải nhanh lên", Falkenhorstđược mời ra ngoài để tiếp tục làm việc.

Brauchitsch vàHalder không hề được biết đến những chuyện này vìđang bận bịu chuẩn bị cuộc tấn công ở phía Tây, chođến ngày 26 tháng 2, Falkenhorst đi đến gặp Tham mưutrưởng Lục quân Halder để xin thêm ít quân, đặc biệtlà những đơn vị quân sơn cước. Halder không chịu hợptác chặt chẽ, mà còn tỏ ra tức tối và hỏi thêm chitiết chuyện gì đang xảy ra và cần những gì. Halder ghilại:

"Không hề có một tiếngnào trao đổi về chuyện này giữa Hitler và Brauchitsch.Việc này phải được ghi lại cho lịch sử của cuộcchiến!"

Tuynhiên, trong sự khinh miệt đối với giới tướng lĩnhthủ cựu và nhất là đối với Tham mưu trưởng Lụcquân, Hitler không muốn chậm trễ. Ngày 29 tháng 2, ôngphấn khích chấp nhận kế hoạch của Falkenhorst, kể cảviệc ông này xin 2 sư đoàn quân sơn cước và còn tuyênbố sẽ cho thêm quân. Ông muốn "1 lực lượng mạnh ởCopenhagen". Đan Mạch chính thức được thêm vào danhsách những nạn nhân của Hitler. Không quân dòm ngó cácsân bay ở đây để làm bàn đạp tấn công Anh.

Ngày hôm sau, 1tháng 3, Hitler ban hành chỉ thị có mật mã là "Tậptrận Weser".

TỐI MẬT

Tình hình ở vùng Scandinaviacần có những bước chuẩn bị để chiếm đóng Na Uy vàĐan Mạch. Chiến dịch này sẽ ngăn Anh xâm lấnScandinavia và vùng Baltic. Hơn nữa, nguồn quặng sắt củata tại Thuỵ Điển sẽ được đảm bảo và Hải quâncùng Không quân của ta sẽ có thêm tuyến xuất phát rộnghơn để chống lại Anh.

Xét qua sức mạnh quân sựvà chính trị của ta so với các quốc gia vùng Scandinavia,lực lượng sử dụng trong cuộc "Tập trận Weser" sẽphải càng nhỏ càng tốt. Sự yếu kém về số lượng sẽđược bù đắp qua hành động dũng cảm và cách tiếnhành bất ngờ.

Trên nguyên tắc, ta sẽ cốlàm cho chiến dịch có vẻ như là việc chiếm đóng ônhoà, mục đích là bảo vệ tính trung lập của cácquốc gia vùng Scandinavia. Các Chính phủ sẽ nhận đượcnhững yêu cầu của ta lúc bắt đầu việc chiếm đóng.Nếu cần, Hải quân và Không quân sẽ biểu dương lựclượng để tỏ thái độ. Nếu vẫn chưa đủ, sẽ phảidẹp bỏ sự kháng cự, đồng thời sử dụng mọi phươngtiện quân sự để nghiền nát... Phải đánh qua biên giớiĐan Mạch và đổ bộ lên Na Uy cùng một lúc...

Điều quan trọng là phảitạo bất ngờ đối với các quốc gia Scandinavia và cácđối thủ Đồng Minh... Chỉ sau khi ra khơi, binh sĩ mớiđược cho biết về những mục tiêu thật sự..."

Đêmấy, ngày 1 tháng 3, một cơn "giận dữ" nổi lên ởBộ Tư lệnh Lục quân vì Hitler đòi điều quân cho chiếndịch phía Bắc. Ngày kế, Goering điên tiết với Keitel vàđến than phiền với Hitler. Vị Thống chế to béo giậndữ vì từ lâu đã không được biết bí mật của chiếndịch và vì Không quân được đặt dưới sự chỉ huycủa Falkenhorst. Hitler cho triệu tư lệnh 3 quân chủng đếnPhủ Thủ tướng ngày 5 tháng 3 để dàn hoà, nhưng Goeringvẫn còn bất mãn vì không được tham khảo trước.

Lãnh tụ xoa dịuông bằng vài nhượng bộ nhỏ, rồi cho tiếp tục lênphương án. Ngay vào ngày 21 tháng 2, Halder ghi nhật ký cảmtưởng rằng cuộc tấn công Đan Mạch và Na Uy sẽ chỉbắt đầu sau khi Đức xâm chiếm và "đạt đến thànhquả nào đó." Bản thân Hitler cũng băn khoăn về việcphải khởi động chiến dịch nào trước, nên ngày 26tháng 2 ông đặt câu hỏi với Jodl. Câu trả lời củaJodl là giữ 2 chiến dịch cách xa nhau và Hitler đồng ý"nếu có thể được".

Ngày 3 tháng 3,Hitler quyết định Tập trận Weser sẽ đi trước "Phươngán Màu Vàng" (mật mã cho cuộc tấn công qua phía Tây)và bảo Jodl "một cách rất nghiêm khắc" về "sựcần thiết của việc hành động tức thời và mạnh mẽở Na Uy." Vào lúc này, Quân đội Phần Lan can trườngnhưng thua thiệt về hoả lực và binh sĩ đang đối mặtvới thảm hoạ trong cuộc tấn công tổng lực của Nga,lại có báo cáo đáng tin cậy rằng chiến đoàn viễnchinh Anh-Pháp từ các căn cứ ở Scotland chuẩn bị đổbộ lên Na Uy rồi từ đây tiến bằng đường bộ quaThuỵ Điển để đến cứu nguy cho Phần Lan.

Sự đe doạ nàylà lý do chính khiến cho Hitler muốn tiến quân gấp.

Ngày 7 tháng 3,Tướng Ironside, Tổng Tham mưu trưởng Anh, thông báo choThống chế Mannerheimrằng một lực lượng viễn chinh Đồng minh gồm 57.000người sẵn sàng đến giúp Phần Lan và sư đoàn đầutiên gồm 15.000 quân có thể đến Phần Lan vào cuốitháng Ba, nếu Na Uy và Thuỵ Điển cho phép họ đi qua.Thật ra, Mannerheim đã được biết vào năm ngày trước,tức ngày 2 tháng 3, cả Na Uy và Thuỵ Điển đều đã mộtlần nữa từ chối yêu cầu của Anh-Pháp đi qua lãnh thổcủa họ. Nhưng điều này không ngăn cản được Thủtướng Daladier ngày 8 tháng 3 trách cứ Phần Lan đã khôngchính thức yêu cầu quân Đồng Minh, lại còn doạ sẽđiều lực lượng Đồng Minh, dù Na Uy và Thuỵ Điểnphản đối. Nhưng Mannerheim không mắc lừa nên sau khi đềnghị Chính phủ của mình tìm kiếm hoà bình trong khi Quânđội Phần Lan còn nguyên vẹn và chưa bị đánh bại, ôngchấp nhận gửi một phái đoàn đàm phán hoà bình điMoscow vào ngày 8 tháng 3. Có vẻ như vị Tổng Tư lệnhPhần Lan không tin quân Pháp sẽ hăng hái chiến đấu trênđất Phần Lan như trên quê hương họ. (Xem The Memoirsof Marshal Mannerheim.)

Người ta chỉcó thể hoang mang về tình trạng sẽ lẫn lộn ra sao nếuliên quân Anh-Pháp đến được Phần Lan và chiến đấuchống Nga. Không tới 1 năm sau, Đức sẽ chiến đấuchống Nga và trong trường hợp này, các đối thủ củaĐức ở phía Tây sẽ trở thành Đồng minh của họ ởphía Đông!

Ngày 12 tháng 3,cuộc chiến Nga-Phần Lan kết thúc vì Phần Lan chấp nhậnnhững yêu sách ngặt nghèo của Nga cho hoà bình. Việc nàylàm cho Đức vui mừng vì Đức đỡ mang tiếng ủng hộNga chống lại Phần Lan và cũng chấm dứt – tuy chỉ làtạm thời – những bước tiến của Nga ra vùng Baltic.Nhưng Hitler lại lâm vào cảnh bối rối vì "động lực"để xâm chiếm Na Uy và Đan Mạch trở nên "khó khăn".Ngày 12 tháng 3, ông nhận xét: "Hoà bình giữa Phần Lanvà Nga khiến cho cả Anh quốc và ta mất đi lý do chínhtrị để chiếm Na Uy."

Đúng thật làvào thời điểm đó Hitler thấy khó mà tìm ra lý do biệnminh cho chiến dịch. Ngày 13 tháng 3, viên tướng Jodl trungthành ghi lại rằng Lãnh tụ "vẫn đang tìm kiếm sựbiện minh nào đó." Ngày kế: "Lãnh tụ vẫn chưa quyếtđịnh làm thế nào biện minh cho "Tập trận Weser." Tệhơn nữa, Thuỷ sư Đô đốc Raeder bắt đầu co vòi rụtcổ. Ông cảm thấy "nghi ngờ liệu chiến tranh phòngchống ở Na Uy có còn quan trọng hay không".

Hitler do dự mộtthời gian. Thế rồi có 2 vấn đề xảy ra: (1) làm thếnào đối phó với Sumner Welles, Thứ trưởng Ngoại giaocủa Hoa Kỳ, thừa lệnh Tổng thống Roosevelt đã đếnBerlin ngày 1 tháng 3 để mong chấm dứt chiến tranh ởphía Tây trước khi diễn ra cuộc tàn sát, và (2) làm thếnào để xoa dịu ông bạn Đồng minh Mussolini đang bị bỏbê, chưa được trả lời cho lá thư ngày 3 tháng 1. NgườiĐức tin rằng Sumner Welles đến Berlin là để tách Ý rakhỏi Phe Trục đang lung lay, đồng thời thuyết phục Ýkhông nên tham chiến bên cạnh Đức. Một số báo cáo từRome gửi về Berlin đề nghị đã đến lúc phải làm gìđó nhằm giữ vị Duce đang hờn dỗi đứng yên trong hàngngũ.

HITLERGẶP SUMNER WELLESVÀ MUSSOLINI


Cũngnhư Goering và Ribbentrop, Hitler hiểu biết rất kém về HoaKỳ. Tài liệu của Bộ Ngoại giao Đức tịch thu đượcđã cho thấy rõ ràng về đầu óc của vị Lãnh tụ vàolúc này. Ngày 12 tháng 3, Hitler có buổi trao đổi dài vớiColin Ross, một "chuyên gia" của Đức về Hoa Kỳ, vừamới trở về từ chuyến đi diễn giảng ở Mỹ. Theo ghichép tốc ký của Tiến sĩ Schmidt, khi Ross nhận xét về"xu hướng đế quốc" lan tràn ở Hoa Kỳ, Hitler hỏiliệu xu hướng đế quốc này có khiến cho Hoa Kỳ hammuốn sáp nhập Canada giống như Đức đã sáp nhập Áohay không.

Phải nhìn nhậnrằng các cố vấn của Hitler về Hoa Kỳ không mấy hữudụng để soi sáng vấn đề cho ông. Khi Hitler hỏi tạisao Mỹ chống Đức đến thế, Ross trả lời:

"... Thêm một yếu tố nữađể Mỹ thù ghét Đức... đó là vì sức mạnh ghê gớmcủa người Do Thái, họ chỉ đạo một cuộc đấu tranhvới độ tinh khôn thật sự đáng ngạc nhiên và tài tổchức chống lại bất kỳ thứ gì thuộc Đức và Quốcxã...

Rồi Colin Ross cho biết Tổngthống Roosevelt là kẻ thù của Lãnh tụ vì lý do ganh tỵthuần tuý cá nhân và tham vọng về quyền lực... Ông talên cầm quyền cùng năm với Lãnh tụ mà phải chứngkiến Lãnh tụ thực hiện những kế hoạch vĩ đại trongkhi ông ta không đạt được mục đích... Ông ta cũng cónhững ý niệm về chế độ độc tài mà theo vài phươngdiện rất giống ý niệm của Quốc xã. Chính vì thấyLãnh tụ đã đạt được mục đích trong khi mình chưabằng nên Roosevelt càng mang thêm tham vọng muốn bước lênsân khấu của lịch sử thế giới như là người tranhgiành ảnh hưởng với Lãnh tụ."

Saukhi Colin Ross ra về, Lãnh tụ khen ngợi Ross là người rấtthông minh và chắc chắn là có nhiều tư tưởng tiến bộ.

Dù chính sáchcủa các nhà lãnh đạo Quốc xã – giống như nhữngngười tiền nhiệm vào năm 1914 – là giữ Hoa Kỳ đứngngoài cuộc chiến, nhưng họ vẫn không nghiêm túc xem nướcMỹ là một cường quốc quân sự. Tuỳ viên Quân sự tạiĐại sứ quán Đức ở Mỹ, Tướng Friedrich von Boetticher,khuyên Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực không nên lo lắng vềkhả năng của lực lượng viễn chinh Mỹ tại châu Âu.Sau đó, ông này còn báo cáo về Berlin rằng việc vũtrang của Mỹ là quá yếu kém "cho một chính sách chiếntranh gây hấn" và rằng trái ngược với Bộ Ngoạigiao, Quân đội Mỹ vẫn thông cảm với Đức và vớiviệc Đức tiến hành chiến tranh. Tuy nhiên, vào ngày 1tháng 12, dù đánh giá thấp sức mạnh quân sự của Mỹ,nhưng ông vẫn cảnh báo Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lựcrằng "Hoa Kỳ sẽ tham chiến nếu họ nghĩ Tây Bán cầubị đe doạ."

Riêng Đại biệnlâm thời Hans Thomsen của Đức ở Washington thì đang cốgắng cung cấp thông tin về nước Mỹ cho vị Ngoạitrưởng Đức dốt nát. Lúc chiến dịch Ba Lan sắp kếtthúc, ông cảnh báo với chính quyền Đức rằng "phầnlớn người dân Mỹ có cảm tình với kẻ thù của ta vàMỹ tin rằng Đức có lỗi trong chiến tranh". Ông cũngvạch ra những hệ luỵ nghiêm trọng nếu Đức có hànhvi phá hoại ở Mỹ và khuyên không nên tiến hành sự pháhoại "với bất cứ cách thức nào".

Có vẻ nhưchính quyền Đức không xem lời khuyên này là chính đáng,vì ngày 25 tháng 1 năm 1940, Thomsen gửi 1 bức điện vềBerlin:

"Tôi được biết mộtngười Mỹ gốc Đức, von Hausberger, cùng một công dânĐức đã bị cáo giác khi đang trù định hành động pháhoại chống công nghiệp vũ khí Mỹ dưới sự chỉ đạocủa Cục Quân báo Đức. Von Hausberger đã bị gán tộichứa kíp nổ trong nhà ông ấy."

Thomsenkhuyên Đức nên kiềm chế, cho rằng nếu làm theo cáchtrù định thì chắc chắn sẽ đẩy Mỹ vào cuộc chiếnvà đứng vào hàng ngũ kẻ thù của Đức.

Hơn nữa, ôngcòn bổ sung "theo mọi phương diện thì cả hai ngườiđều không đủ năng lực làm nhiệm vụ cho Quân báo."

Weizsaecker trảlời rằng chính Giám đốc Quân báo Canaris đã trấn anông rằng cả 2 người mà Thomsen nói đến không phải làđặc vụ của Quân báo. Nhưng không có cơ quan tình báogiỏi nào lại xác nhận những chuyện như thế. Tài liệukhác của Bộ Ngoại giao cho biết vào ngày 21 tháng 1 mộtđặc vụ Quân báo rời Buenos Aires với lệnh báo cáo choFritz von Hausberger, ở Weehawken, bang New Jersey, về những"chỉ thị trong chuyên môn của chúng ta." Vào thángMười hai, một đặc vụ khác được điều đi từ cùngnơi đến New York nhằm thu thập thông tin về các nhà máychế tạo máy bay và các chuyến vận chuyển vũ khí choĐồng Minh. Còn chính Thomsen, vào ngày 20 tháng 2, đã báotin cho Nam tước Konstantin von Maydell, người Đức gốcBaltic có quốc tịch Estonia, để nhờ nói với Đại sứquán Đức ở Washington rằng anh ta đang làm nhiệm vụ pháhoại cho Quân báo.

Từ tháng 11 năm1938, khi Roosevelt triệu hồi Đại sứ Mỹ tại Đức vềnước để phản đối việc Quốc xã ngược đãi ngườiDo Thái, thì cả 2 quốc gia đều không có đại sứ củabên kia. Nền ngoại thương giữa 2 nước trước đây giảmđến mức nhỏ giọt, chủ yếu do việc cấm vận củaMỹ, bây giờ chấm dứt hẳn vì sự phong toả của Anh.Ngày 4 tháng 11 năm 1939, Thượng viện và Hạ viện biểuquyết bãi bỏ việc cấm vận vũ khí, vì thế mở đườngcho Hoa Kỳ cung cấp vũ khí cho các Đồng minh phương Tây.Trong bối cảnh quan hệ giữa 2 nước đang trở nên tồitệ nhanh chóng, Sumner đi đến Berlin vào ngày 1 tháng 3 năm1940.

Ngày hôm trước,29 tháng 2, Hitler có một động thái khác thường khi banhành "Chỉ thị về cách Trao đổi với ông SumnerWelles", yêu cầu phía Đức nên "dè dặt" và "chophép ông Welles được phát biểu càng nhiều càng tốt".Rồi chỉ thị đề ra 5 điểm hướng dẫn cách thức traođổi với Đặc sứ Mỹ: Chủ yếu phải lập luận rằngĐức chưa tuyên chiến với Anh và Pháp nhưng Anh và Phápđã tuyên chiến với Đức, rằng Lãnh tụ đã đề nghịhoà bình vào tháng Mười nhưng bị khước từ, rằng Đứcchấp nhận sự thách thức, rằng mục đích chiến tranhcủa Anh và Pháp là "tiêu diệt nước Đức" và rằngvì thế Đức không có chọn lựa nào ngoài việc tiếptục chiến tranh. Hitler kết luận:

"Cố tránh thảo luậnnhững vấn đề chính trị cụ thể, như vấn đề tươnglai của quốc gia Ba Lan. Nếu ông ấy nêu những câu hỏivề chuyện đó, thì nên đáp là chính tôi sẽ quyết địnhnhững vấn đề như thế. Hiển nhiên là không nên thảoluận gì về vấn đề Áo và Xứ Bảo hộ Bohemia vàMoravia...

Phải tránh mọi phát biểucó thể được diễn giải... theo ý nghĩa Đức quan tâmđến việc thảo luận khả năng hoà bình. Thay vào đó,tôi yêu cầu nên tìm cách cho ông Welles tin rằng Đứcnhất định chấm dứt cuộc chiến này trong chiến thắng."

Khôngchỉ Ribbentrop và Goering mà cả bản thân Hitler cũng đềutuân thủ chỉ thị một cách nghiêm ngặt khi họ tiếpkiến Welles lần lượt vào những ngày 1, 3 và 2 tháng 3.Mỗi người đều cho Welles nghe đầy tai về những lờixuyên tạc lịch sử một cách lố bịch nhất, trong đónhững sự kiện bị bóp méo một cách lạ lùng và ngôntừ đơn giản nhất đều mất hết ý nghĩa. Goering tuyênbố với Welles:

"Trước Thượng Đế vàthế giới, tôi, Thống chế, có thể nói rằng Đức khôngmuốn có chiến tranh. Đức bị áp đặt đi vào chiếntranh... Nhưng Đức phải làm gì khi những nước khác muốntiêu diệt Đức?"

1ngày sau khi ban hành chỉ thị "Tập trận Weser", Hitlertiếp kiến Welles và cho rằng mục đích chiến tranh củaĐồng minh là "tiêu diệt" nhưng mục đích của Đứclà "hoà bình". Ông giảng cho vị khách nghe những gìmình đã làm để duy trì hoà bình với Anh và Pháp.

"Một thời gian ngắn saukhi chiến tranh bùng nổ, vị Đại sứ Anh đã ngồi đúngvào nơi Sumner Welles đang ngồi và Lãnh tụ đã trao cho ôngấy đề nghị to tát nhất trong đời ông."

Mọiđề nghị của ông đều bị Anh khước từ và bây giờAnh đang ra sức tiêu diệt Đức. Vì thế Hitler tin rằng"phải chiến đấu cho đến khi cuộc xung đột đến hồikết thúc... Không có giải pháp gì khác hơn là cuộctranh đấu sống còn."

Không lạ gì màWelles thổ lộ với Weizsaecker và lặp lại với Goeringrằng nếu Đức quyết tâm đi đến một chiến thắngquân sự chống phương Tây, thì chuyến đi của ông đếnchâu Âu "là vô nghĩa lý... và ông ấy chẳng còn gì đểnói thêm".

Vào lúc này, ởBerlin cũng có 1 người Mỹ khác muốn làm trung gian hoàbình: James D. Mooney, một Phó Tổng giám đốc của công tyGeneral Motors. Tuy nhiên, Hans Dieckhott – Đại sứ đượctriệu hồi từ Mỹ – cho biết Mooney "khá ba hoa" và"tôi không tin sáng kiến của Mooney có giá trị gì".

Dù khẳng địnhvới phía Đức rằng những gì ông nghe từ các chínhkhách châu Âu chỉ được báo cáo cho Roosevelt, nhưngWelles nghĩ tốt hơn là nên kín đáo cho Hitler và Goeringbiết rằng ông đã có "buổi hội đàm kéo dài, xâydựng và hữu ích" với Mussolini và rằng ông này nghĩ"vẫn còn có khả năng mang lại một nền hoà bình vữngchắc và lâu dài ở châu Âu". Nếu đó là ý nghĩ củanhà độc tài Ý, thì đã đến lúc Đức nên nhận ra mọithứ để chấn chỉnh ý nghĩ của mình. Phía Đức vẫnnghĩ là nên có hoà bình, nhưng chỉ sau khi Đức chiếnthắng vang dội ở phía Tây.

Việc Hitler chưatrả lời lá thư của Mussolini được gửi đến vào ngày3 tháng 1 khiến cho Duce càng thêm bất mãn. Ngoại thươnggiữa Ý và Anh-Pháp đang được cải thiện, kể cả việctrao đổi khí tài chiến tranh. Việc này khiến cho Đứcliên tục phản đối Ý vì cho rằng vô hình trung Ý đanggiúp đỡ Đồng minh phương Tây. Weizsaecker e rằng nếuthư của Mussolini bị tiếp tục "phớt lờ" thìMussolini sẽ có "quyền tự do hành động" và Đức sẽmất ông ta và nước Ý vĩnh viễn.

Thế rồi,Hitler có được cơ hội. Anh quốc thông báo sẽ cắtđường vận chuyển than đá của Đức qua đường biểntừ Rotterdam của Hà Lan đến Ý. Việc này ảnh hưởngtrầm trọng cho công nghiệp của Ý, khiến cho Mussolini nổigiận với Anh, tỏ ra thân thiết trở lại với Đức đểmong Đức giúp đỡ chuyển đường sắt. Lợi dụng cơhội này, ngày 8 tháng 3, Hitler gửi một bức thư dài choMussolini và 2 ngày sau Ribbentrop đích thân mang đến Rome.

Thư không xinlỗi về việc phúc đáp muộn, nhưng dùng ngôn từ thânmật và đi vào chi tiết về tư tưởng và chính sách củaHitler trong hầu như mọi đề tài. Thư giải thích tạisao Quốc xã liên minh với Liên Xô, bỏ rơi Phần Lan vàkhông chịu rút quân khỏi Ba Lan.

"Rút quân từ Ba Lan về sẽkhông tạo sự ổn định mà sẽ gây ra rối loạn. VàGiáo hội sẽ không còn có thể thực hiện được nhiệmvụ tôn vinh Chúa, các linh mục thì sẽ bị chặt đầu..."

VềSumner Welles, Hitler cho biết, chuyến viếng thăm ấy đãkhông đạt được kết quả nào. Ông vẫn nhất quyếttấn công phương Tây.

Rồi Hitler cốlôi kéo Mussolini vào vòng chiến:

"Tôi tin chắc rằng kếtquả của cuộc chiến này cũng quyết định tương lai củanước Ý... Một ngày nào đấy, anh sẽ đối mặt vớicùng những địch thủ đang chiến đấu chống Đức ngàyhôm nay... Tôi cũng nhận ra vận mệnh của 2 quốc giachúng ta, 2 dân tộc chúng ta, 2 cuộc Cách mạng của chúngta và 2 chế độ của chúng ta liên quan với nhau một cáchmật thiết...

Và cuối cùng, tôi cam đoanvới anh là dù có bất cứ chuyện gì, tôi tin rằng sớmhay muộn định mệnh sẽ khiến cho 2 chúng ta chiến đấubên nhau. Do đó, anh cũng không thể thoát khỏi cuộc xungđột vũ trang này, cho dù tình hình hôm nay có những diễnbiến lẻ tẻ. Và hơn lúc nào hết, vị trí của anh sẽlà ở bên cạnh tôi, cũng như vị trí của tôi sẽ ởbên cạnh anh."

Mussolinicảm thấy hả lòng hả dạ bởi bức thư và lập tứccam đoan với Ribbentrop rằng ông đồng ý là vị trí củamình ở bên cạnh Hitler "trên tuyến hoả lực". VịNgoại trưởng Quốc xã bắt lấy ngay cơ hội mà tângMussolini lên cao hơn nữa, nói Lãnh tụ đã "thông cảmmột cách sâu sắc việc Anh phong toả đường hàng hảivận chuyển than đá từ Đức". Ý cần bao nhiêu than đá?Mussolini đáp từ 500.000 đến 700.000 tấn mỗi tháng.Ribbentrop trả lời một cách xuôi rót rằng Đức sẵnsàng cung ứng 1 triệu tấn mỗi tháng và sẽ điều đủtoa tàu để chở phần lớn số than này.

Có 2 buổi hộiđàm kéo dài trong hai ngày 11 và 12 tháng 3 với sự hiệndiện của Ciano và biên bản của Tiến sĩ Schmidt cho thấyRibbentrop trở nên huênh hoang cao độ. Tuy có những đềtài quan trọng hơn cần thảo luận, nhưng Ribbentrop vẫnđưa ra những thư từ ngoại giao của Ba Lan cho thấy "tộilỗi chiến tranh kinh khủng của Hoa Kỳ".

"Ngoại trưởng giải thíchrằng những tài liệu này đặc biệt chỉ ra vai trò mờám của các Đại sứ Mỹ Bullitt [tại Paris], Kennedy[tại London] và Drexel [tại Warsaw]... Họ nằm trong guồngmáy của bọn tài phiệt Do Thái, thông qua Morgan vàRockefeller, gây ảnh hưởng đến cả Roosevelt."

Trongnhiều tiếng đồng hồ, vị Ngoại trưởng Quốc xã tựcao tự đại tiếp tục kể lể, để lộ ra sự thiếuhiểu biết về những sự vụ thế giới, nêu rõ vậnmệnh chung của 2 quốc gia Phát xít và khẳng định Hitlerchẳng bao lâu nữa sẽ tấn công phương Tây, "hạ gụcquân Pháp chỉ trong mùa hè" và đẩy quân Anh ra khỏilục địa châu Âu "trước mùa thu". Phần lớn thờigian Mussolini lắng nghe, chỉ thỉnh thoảng chêm vào vàicâu châm biếm mà Ribbentrop không để ý đến. Chẳng hạn,khi Ribbentrop vênh váo tuyên bố rằng "Stalin đã từ bỏý nghĩ về cuộc Cách mạng toàn cầu", Mussolini trảđũa: "Ông thật sự tin như thế hay sao?" Khi Ribbentropgiải thích rằng "Tất cả binh sĩ Đức đều tin vàochiến thắng trong năm nay", Mussolini chen vào: "Đó làmột nhận xét vô cùng thú vị."

Tối hôm ấy,Ciano ghi vào nhật ký:

"Sau buổi hội đàm, khichỉ còn 2 chúng tôi, Mussolini nói ông không tin Đức sẽtiến công hay đạt chiến thắng toàn diện."

Mussolinihứa sẽ đưa ra quan điểm của mình vào ngày hôm sau,khiến cho Ribbentrop tỏ ra lo lắng và không rõ vị Duceđang nghĩ gì.

Thực ra,Ribbentrop không cần quá lo lắng. Vì ngay ngày hôm sau,Mussolini đã trở thành một người hoàn toàn khác hẳn.Như Schmidt ghi lại, đột nhiên Mussolini "quay sang hoàntoàn ủng hộ chiến tranh". Mussolini nói vấn đề khôngphải là Ý tham chiến hay không, mà là tham chiến khi nào.Vấn đề thời điểm là "cực kỳ tế nhị, vì ông ấykhông muốn can dự khi chưa sẵn sàng về mọi mặt, nhằmtránh làm gánh nặng cho Đức".

"Trong bất kỳ trường hợpnào, vào lúc này ông ấy phải nói ra một cách rõ ràngrằng Ý không có đủ tiềm lực tài chính để chịu đựngmột cuộc chiến dài hơi. Ông ấy không thể chi trả hàngtỉ đồng lira mỗi ngày, như Anh và Pháp đang làm."

Ribbentropcố thúc ép Mussolini cho biết thời điểm cụ thể Ý sẽtham chiến, nhưng Mussolini vẫn không muốn cam kết rõràng. Mussolini bảo: "Thời điểm sẽ đến khi có sựphân định rõ ràng mối quan hệ giữa Ý và Anh-Pháp, tứclà khi Ý cắt đứt với 2 nước này." Ông thêm rằng"khiêu khích" cho sự đổ vỡ như thế là dễ dàng. Dùcố công thêm, nhưng Ribbentrop vẫn không thể nắm đượcthời điểm cụ thể. Hiển nhiên là Hitler phải đíchthân can dự để tìm hiểu. Vì thế, Ribbentrop đề xuất2 nhà lãnh đạo sẽ gặp nhau sau ngày 19 tháng 3 vàMussolini đồng ý. Riêng Ribbentrop không hề đả động đếnviệc Hitler định lấn chiếm Đan Mạch và Na Uy. Đức vẫnnghĩ có những bí mật không nên tiết lộ cho Đồng minh,dù đang lúc thuyết phục Đồng minh này sát cánh vớimình.

Khi Sumner Wellestrở lại yết kiến Mussolini lần nữa vào ngày 16 tháng3, ông thấy Mussolini là con người hoàn toàn khác hẳn lúcđầu và ông tự hỏi liệu trong 2 tuần qua có phảiRibbentrop đã dẫn dụ Mussolini tham chiến hay không.

Welles đã khôngphải băn khoăn quá lâu.

Ngay sau khiRibbentrop rời khỏi Rome, nhà độc tài Ý đang bứt rứtlại sa vào ý nghĩ khác. Ciano ghi vào nhật ký:

Duce rằng mình đã đi quáxa khi tỏ ý sẽ tham chiến chống lại Đồng minh. Bâygiờ, ông lại muốn khuyên Hitler nên từ bỏ ý địnhtiến công...

NhưngCiano thì hiểu rõ Mussolini hơn: "Điều không thể phủnhận là Duce đã bị Hitler thu hút..." và Hitler có sứcthuyết phục mạnh hơn so với Ribbentrop.

Ngay sau khi trởvề Berlin, Ribbentrop gọi điện cho Ciano yêu cầu 2 nhàlãnh đạo gặp nhau sớm hơn vào ngày 13 tháng 3. Mussolininổi nóng:

"Mấy người Đức thậtlà quá quắt. Họ không cho người ta thời gian để thởhoặc để suy nghĩ vấn đề một cách kỹ càng."

Nhưngđồng thời ông cũng tỏ ý chấp nhận. Ciano ghi vào nhậtký:

"Duce tỏ ra căng thẳng.Cho đến lúc này, ông vẫn sống trong ảo tưởng rằng sẽkhông xảy ra cuộc chiến lớn. Ông cảm thấy khó nghĩ,và như lời ông, sẽ là một sự bẽ mặt nếu cuộcchiến sắp xảy ra mà ông lại đứng ngoài."

Ngày18 tháng 3 năm 1940, Hitler và Mussolini gặp nhau trên toa xeriêng của Mussolini ở một nhà ga nhỏ tại đèo Brennerdưới chân dãy núi phủ tuyết Alps. Ciano ghi vào nhật ký:

"Buổi hội đàm gần nhưlà độc thoại... Hitler phát biểu trong hầu hết thờigian... Mussolini chú ý lắng nghe với vẻ tôn trọng. Ôngnói ít và xác nhận ý định cùng hành động với Hitler.Nhưng ông chỉ dành quyết định này trong một thời điểmthích hợp."

Mussolininói mình nhận thức được rằng một khi đã có quyếtđịnh thì "không thể giữ trung lập cho đến lúc cuộcchiến kết thúc". Hợp tác với Anh và Pháp là điều"không thể tưởng tượng nổi. Chúng tôi căm ghét họ.Vì thế điều không tránh khỏi là Ý sẽ tham chiến."Hitler dành ra hơn 1 tiếng đồng hồ cố thuyết phụcMussolini về việc này, nếu Ý không muốn bị cho ra rìathành 1 cường quốc hạng hai. Nhưng sau khi trả lời câuhỏi chính cho Hitler được hài lòng, lập tức Mussolinibắt đầu rào đón:

"Tuy nhiên, vấn nạn lớnnhất là thời điểm ... Chúng tôi phải có đủ điềukiện cho việc tham chiến. Nước Ý cần phải ở trongtình trạng "được chuẩn bị đầy đủ"... Tiềm lựctài chính không cho phép Ý theo đuổi một cuộc chiến kéodài...

Ônghỏi Lãnh tụ liệu có mối hiểm nguy nào không nếu trìhoãn cuộc tiến công. Mussolini tin rằng không có hiểmnguy nào... lúc ấy ông sẽ hoàn tất những công tác chuẩnbị về mặt quân sự trong vòng 3 đến 4 tháng và sẽkhông rơi vào tình thế đáng xấu hổ khi thấy đồng chícủa mình đang chiến đấu, còn mình thì chỉ biểu dươnglực lượng... Ông muốn đóng góp được nhiều hơn nhưngvào lúc này chưa thể làm được."

Hitler cho biếtkhông có ý định trì hoãn cuộc tấn công ở phía Tây.Nhưng ông có "vài ý tưởng về mặt lý thuyết" nhằmgiúp Mussolini giải quyết khó khăn trong việc tấn công ởvùng đồi núi miền Nam nước Pháp, vì như thế "sẽphải đổ nhiều máu". Ông đề nghị Ý cung ứng mộtlực lượng hùng hậu để cùng tấn công dọc biên giớiThuỵ Sĩ. Cuộc chiến sẽ được quyết định trên đấtPháp. Hitler cho biết sau khi đè bẹp quân thù ở miền Bắcnước Pháp, thời điểm sẽ đến để cho Ý tham chiếnmột cách tích cực. Một khi Pháp bị đánh bại, Ý cóthể làm chủ Địa Trung Hải và Anh sẽ phải chấp nhậnhoà bình.

Mussolini nhanhchóng nhận ra viễn cảnh huy hoàng mà Ý được hưởnglợi sau khi Đức đã chiến đấu gian khổ.

Duce trả lờirằng một khi Đức tiến công thắng lợi, ông sẽ thamchiến ngay... ông sẽ không để mất thời giờ... khi Đồngminh bị lung lay vì cuộc tiến công của Đức thì chỉcần 1 mũi tiến công thứ hai là đủ để khuất phụchọ.

Mặt khác,Mussolini cho biết nếu Đức chậm đi đến thắng lợi,ông sẽ phải chờ đợi.

Hitler dườngnhư không phiền lòng vì chuyện mặc cả thô thiển vàhèn nhát này. Nếu Ciano có nhận xét rằng Mussolini bịHitler thu hút, thì có thể nói sự thu hút này xảy ra 2chiều. Dù đã bị một số thủ hạ thân tín phản bộivà đã sát hại vài người trong bọn họ – như Roehm vàStrasser – Hitler vẫn tỏ ra trung thành với Mussolini mộtcách kỳ lạ và bất thường.

Dù sao chăngnữa, Ý đã long trọng cam kết tham chiến, tuy những ngườixung quanh Hitler – đặc biệt là các tướng lĩnh – nghĩviệc này không có giá trị nhiều cho Đức. Bây giờ,Hitler đã có thể hướng tâm tư vào những cuộc thôntính. Ông không hề tiết lộ gì cho người bạn và cũnglà Đồng minh ở Bắc Âu của mình về cuộc thôn tínhtrước mắt.

NHÓMÂM MƯU LẠI NẢN LÒNG


Mộtlần nữa, những người âm mưu chống Hitler lại thuyếtphục các tướng lĩnh nên lật đổ Lãnh tụ – lần nàylà để ngăn chặn cuộc tiến công lên phía Bắc mà họđã nghe phong thanh. Họ muốn Anh đảm bảo sẽ dàn hoà vàcho phép chế độ chống Quốc xã được giữ lại phầnlớn lãnh thổ do Hitler mới chiếm được.

Dựa trên cươnglĩnh này, Hassell vô cùng dũng cảm đi đến Thuỵ Sĩ đểhội ý với một người Anh mà ông ghi vào nhật ký là"ông X" nhưng thật ra mang tên là J. Lonsdale Bryans. Ôngnày nằm trong giới ngoại giao ở Rome, tự nhận mình cóvai trò trung gian theo cách thiếu chuyên nghiệp kiểuDahlerus. Ông có mối dây liên hệ với Chính phủ Anh vàHassell có ấn tượng tốt khi gặp ông. Nhưng sau sự cốvới Thiếu tá Stevens và Đại uý Best, khi họ tìm cáchbắt liên lạc với nhóm âm mưu, phía Anh tỏ ra ngờ vựccả âm mưu chống Hitler. Khi Bryans dò hỏi Hassell để nắmthêm thông tin đáng tin cậy thì ông này lại kín kẽ.Hassell trả lời: "Tôi không thể nói ra tên những ngườiủng hộ mình."

Rồi Hassell phácthảo quan điểm của "cánh đối lập": phải lật đổHitler "trước khi có động thái quân sự lớn lao", đây"hoàn toàn là chuyện nội bộ của Đức" nên phải có"tuyên bố với giới có thẩm quyền ở Anh" về việcđối xử với chế độ chống Quốc xã ở Berlin...Hassell và nhóm âm mưu của ông muốn được đảm bảorằng nếu họ loại được Hitler, nước Đức sẽ đượcđối xử một cách rộng lượng hơn so với khi ngườiĐức loại Hoàng đế Wilhelm II.

Rồi Hassell traocho Bryans một bản ghi nhớ đầy thuyết phục với nhữngý niệm cao quý về tương lai của thế giới "dựa trênnhững nguyên tắc của đạo đức Cơ Đốc, công lý vàluật pháp, an sinh xã hội, tự do tư tưởng. Điều kiệnchính cho hoà bình của Hassell là nước Đức mới phảiđược giữ lại hầu hết lãnh thổ do Hitler chiếm được:Áo, Sudetenland, đường biên giới năm 1914 với Ba Lan, cũnglà đường biên giới với Liên Xô bởi vì lúc ấy chưacó Ba Lan.

Bryans đồng ýrằng cần có hành động nhanh chóng và hứa sẽ trình bảnghi nhớ của Hassell cho Lord Halifax. Hassell trở về Berlinđể tường thuật lại với những người trong nhóm âmmưu. Dù vẫn hy vọng vào "Ông X" của Hassell, trong lúcnày họ đang quan tâm nhiều hơn đến cái gọi là "Báocáo X" của một người trong nhóm, Tiến sĩ Hans vonDohnanyi tại Cục Quân báo. Dựa trên sự liên hệ vớiToà thánh Vatican, báo cáo này cho biết Giáo hoàng sẵnsàng can thiệp với Anh về những điều khoản hoà bìnhthuận lợi cho chính phủ mới của nước Đức chốngQuốc xã và về "vấn đề dàn xếp ở phía Đông cólợi cho Đức".

Nhóm âm mưu xemBáo cáo X là quan trọng. Tướng Thomas trình cho Brauchitschxem báo cáo này nhằm tác động tới vị Tư lệnh Lụcquân khuyên Hitler không nên đánh phía Tây. NhưngBrauchitsch không thích hành động như thế mà còn doạ sẽbắt giữ Thomas nếu ông này đưa vấn đề ra bàn lầnnữa, mà ông cho biết đây "rõ ràng là tội phản quốc".

Rồi Thomas lạitrình Báo cáo X cho Halder với hy vọng ông này sẽ theo đấymà hành động, nhưng chỉ hoài công. Như vị Tham mưutrưởng Lục quân đã bảo Goerdeler – người cũng đãcầu xin ông chủ trì – vào lúc này ông không thể phábỏ lời tuyên thệ là người lính của Lãnh tụ. Ôngbiện luận rằng Anh và Pháp đã tuyên chiến với Đứcvà nền hoà bình dựa trên sự dung hoà là điều khôngtưởng.

Goerdeler ghi vàonhật ký:

"Halder bắt đầu than thởkhi nói về trách nhiệm của mình, tạo ra ấn tượnggiống như một kẻ yếu đuối với tinh thần rệu rã."

Thếnhưng ấn tượng ấy là không đáng tin. Khi xem qua nhậtký của Halder vào tuần lễ đầu của tháng 4 năm 1940,tác giả có cảm tưởng rằng vị Tham mưu trưởng cótinh thần phấn chấn trong khi đang hội ý với các tưlệnh chiến trường, đồng thời kiểm tra lần cuối cùngnhững kế hoạch cho cuộc hành quân lớn lao nhất và táobạo nhất trong lịch sử của Đức. Trong nhật ký củaông không có bất kỳ ý tưởng nào chống đối chế độhay bứt rứt lương tâm. Dù ông có mối nghi ngại đốivới việc tấn công Đan Mạch và Na Uy, nhưng đây chỉ làthuần tuý dựa trên lý do quân sự. Không hề có chữ nàobày tỏ nỗi băn khoăn về đạo lý đối với hành độnggây hấn của Quốc xã nhằm chống lại bốn quốc giatrung lập nhỏ mà Đức đã long trọng cam kết đảm bảođường biên giới, trong khi ông lại đóng vai trò chủđạo lập kế hoạch hành quân chống lại hai trong số 4quốc gia ấy.

Thế là, đóchính là sự chấm dứt cho những nỗ lực cuối cùng củanhững "người Đức tốt bụng" muốn lật đổ Hitlertrước khi quá muộn. Đây là cơ hội cuối cùng mà họcó thể đạt nền hoà bình trong sự rộng lượng củanước ngoài. Như Brauchitsch và Halder đã tỏ rõ, các tướnglĩnh không quan tâm đến nền hoà bình dựa trên đàmphán. Giống như Lãnh tụ, lúc này họ đang nghĩ đến nềnhoà bình do họ áp đặt sau khi Đức chiến thắng.

ĐỨCXÂM CHIẾM ĐAN MẠCHVÀ NA UY


Nhiềutác giả xem kế hoạch của Hitler nhằm xâm chiếm ĐanMạch và Na Uy là một trong những bí mật được giữ kínnhất trong Thế chiến II. Nhưng đối với tôi, dường như2 nước Bắc Âu và ngay cả Anh cũng đã bị bất ngờ,không phải vì không được báo trước, mà vì đã khôngtin vào lời cảnh báo.

10 ngày trướccuộc tiến công, Đại tá Oster ở Cục Quân báo cảnh báocho người bạn của ông, Đại tá J. G. Sas, Tuỳ viên Quânsự Hà Lan tại Berlin, về kế hoạch "Tập trận Weser"và Sas lập tức thông báo cho Đại tá Kjölsen, Tuỳ viênHải quân của Đan Mạch. Nhưng Chính phủ Đan Mạch vốntự mãn lại không tin tuỳ viên hải quân của họ. KhiCông sứ Đan Mạch tại Đức phái Kjölsen trở về ĐanMạch vào ngày 4 tháng 4 để đích thân cảnh báo chínhquyền, thì lời nói của ông này đã không được xem xétnghiêm túc. Ngay cả vào đêm 8 tháng 4, 1 ngày trước cuộctiến công, khi có tin 1 tàu vận tải của Đức chở đầybinh sĩ đang phóng ngư lôi ở vùng bờ biển Na Uy – ngayphía Bắc Đan Mạch và một số người dân Đan Mạch cònchính mắt nhìn thấy một hạm đội lớn của Đức đangtiến lên phía Bắc giữa những hòn đảo của họ, thìVua Đan Mạch vẫn mỉm cười trong bữa ăn tối mà chorằng quốc gia ông không bị hiểm nguy gì cả.

1 sĩ quan cậnvệ có mặt sau này cho biết: "Ông ấy thật sự khôngtin." Và sĩ quan này còn kể rằng sau bữa ăn, nhà Vua điđến Nhà hát Hoàng gia trong tâm trạng "tự tin và hạnhphúc".

Ngay từ tháng 3năm 1940, Chính phủ Na Uy đã nhận được tin cảnh báo từphái bộ ngoại giao của họ tại Berlin và từ phía ThuỵĐiển về việc Đức tập kết tàu hải quân và binh sĩở biển Bắc và các cảng biển Baltic. Ngày 5 tháng 4, cóthêm tin tình báo đích xác từ Berlin về việc Đức sẽđổ bộ lên vùng bờ biển miền Nam Na Uy. Nhưng Chính phủNa Uy vốn tự mãn vẫn không chịu tin, thậm chí là khôngcó động thái gì ngay cả khi nhiều sự kiện kế tiếpxảy ra.

Ngày 7 tháng 4,vài tàu chiến lớn của Đức bị phát hiện đangđi dọc bờ biển Na Uy, đồng thời có tin báo máy bay Anhoanh kích 1 hạm đội Đức ở Skagerrak. Ngày 8 tháng 4, Hảiquân Anh thông báo với phái bộ ngoại giao Na Uy tạiLondon rằng đã phát hiện một lực lượng hải quân hùngmạnh của Đức đang tiến đến Narvik và báo chí Na Uyloan tin có binh sĩ Đức được cứu từ chiếc tàu bịtrúng ngư lôi của 1 tàu ngầm Ba Lan.

Ngay cả vàonhững ngày này, Chính phủ Na Uy vẫn không thấy cầnthiết có những động thái như huy động quân đội, tăngcường phòng thủ ở bến cảng, phong toả đường băngcủa sân bay, hoặc quan trọng nhất, thả thuỷ lôi ở lốira vào thủ đô và các thành phố chính. Nếu có nhữngđộng thái này, thì đáng lẽ lịch sử đã xoay qua hướngkhác.

Tin tức đángbáo động bắt đầu truyền đến London. Ngày 3 tháng 4,Nội các Chiến tranh Anh thảo luận tin tình báo mới nhấtcho biết Đức đang huy động những lực lượng quân sựđáng kể ở các cảng miền Bắc với mục đích tiếnlên Bắc Âu. Nhưng các tin tức này vẫn không được xemxét một cách nghiêm túc.

Hai ngày sau, 5tháng 4, khi có tin đợt đầu tiên của hạm đội Đứcđã ra khơi, Thủ tướng Chamberlain tuyên bố trong một bàidiễn văn rằng Hitler bị nhỡ chuyến đò vì đã khôngtấn công phía Tây khi Anh và Pháp chưa sẵn sàng – câunói mà ông sẽ nhanh chóng hối tiếc về sau.

Theo Churchill,vào lúc này Chính phủ Anh nghĩ rằng Đức đóng quân ởbiển Baltic và các cảng miền Bắc chỉ là để phảncông trong trường hợp Anh thả thuỷ lôi ở các cảng NaUy nhằm ngăn chặn tuyến vận chuyển quặng sắt từNarvik.

Sự thật làAnh cũng nghĩ đến khả năng đó. Sau 7 tháng thất vọng,cuối cùng Churchill, Bộ trưởng Hải quân, được Nộicác Chiến tranh và Hội đồng Chiến tranh Tối cao Đồngminh chấp thuận cho thả thuỷ lôi ngoài khơi các cảng NaUy. Vì lẽ có nhiều khả năng Đức sẽ có phản ứngmạnh vì tuyến vận chuyển huyết mạch của quặng sắtbị cắt đứt, một lực lượng nhỏ của Anh-Pháp đượcđiều đến Narvik và từ đây sẽ tiến về phía biêngiới Thuỵ Điển. Đây là "Kế hoạch R-4".

Thế là trongtuần lễ đầu của tháng 4 năm 1940, các lực lượng Đứcvà Anh-Pháp cùng tiến về 1 điểm đến.

Chiều ngày 2tháng 4, sau khi thảo luận với Goering, Raeder và tư lệnhchiến dịch Falkenhorst, Hitler chính thức ra chỉ thị làcuộc "Tập trận Weser" sẽ bắt đầu lúc 5 giờ 15sáng ngày 9 tháng 4. Cùng lúc, ông ra chỉ thị khác "phảingăn chặn bằng bất cứ cách nào việc đào thoát củacác vua Đan Mạch và Na Uy trong thời gian chiếm đóng".

Cùng ngày này,Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực báo tin cho Bộ Ngoại giao.Một chỉ thị dài được gửi đến Ribbentrop, ra lệnhcho ông này chuẩn bị những động thái ngoại giao nhằmdẫn dụ Đan Mạch và Na Uy đầu hàng mà không chống cựngay khi lực lượng Đức vừa đến, đồng thời nguỵtạo ra sự biện minh nào đấy cho cuộc xâm lấn mớinhất của Hitler.

Nhưng không chỉBộ Ngoại giao mới xảo trá, mà Hải quân Đức cũng thế.Trước khi những chiếc tàu đầu tiên ra khơi ngày 3 tháng4, Hải quân đã ra lệnh cho tàu của họ giả dạng làmtàu của Anh – ngay cả nếu cần thiết thì kéo cờ củaAnh lên! Hải quân Đức đã ban hành lệnh tối mật chỉra những cách thức nguỵ tạo, như chiếu sáng cờ chiếncủa Anh, sử dụng tiếng Anh trong tín hiệu Morse, cách đốiđáp khi được hỏi han hoặc bị thách thức, gán tên chomỗi tàu của Đức theo tên một tàu của Hải quân Anh:chiếc Koelm trở thành HMS Cairo, chiếc Koenigsberg trở thànhHMS Calcutta, v.v..

Tại Toà ánNuremberg, Thuỷ sư Đô đốc Raeder biện minh những chiếnthuật ấy là "hợp pháp mà theo phương diện pháp lýthì người ta không có quyền phản đối."

Thế là, vàolúc 5 giờ 20 sáng (4 giờ 20 Đan Mạch) ngày 9 tháng 4 năm1940, đại diện ngoại giao Đức ở Copenhagen và Oslo, saukhi được đánh thức đúng 20 phút trước (Ribbentrop đãấn định chính xác các thời điểm), trình cho các Chínhphủ Đan Mạch và Na Uy tối hậu thư của Đức đòi hỏiphải chấp nhận lập tức và không được kháng cự, "sựbảo vệ của Đế chế." Tối hậu thư có lẽ là tàiliệu trơ tráo nhất mà Hitler và Ribbentrop soạn ra, vốnlà 2 bậc thầy về trò trơ tráo và hiện đã quá nhiềukinh nghiệm trong trò lừa lọc ngoại giao.

Sau lời tuyênbố rằng Đế chế đến hỗ trợ Đan Mạch và Na Uy nhằmbảo vệ cho họ chống lại việc chiếm đóng của Anh vàPháp, tối hậu thư tiếp đề cập:

"Vì thế, quân Đức đặtchân lên đất Na Uy không phải với tư cách kẻ thù. Quânđội Đức không có ý định sử dụng căn cứ do binh sĩĐức chiếm đóng làm bàn đạp để hành quân chống Anh,nếu không bị bắt buộc phải làm điều này... Trái lại,những cuộc hành quân của Đức chỉ nhằm bảo vệ miềnBắc chống lại mưu đồ của các lực lượng Anh-Phápchiếm đóng các căn cứ của Na Uy...

... Trên tinh thần của mốiquan hệ tốt đẹp giữa Đức và Na Uy cho đến giờ,Chính phủ Đức tuyên bố với Chính phủ Hoàng gia Na Uyrằng bây giờ và trong tương lai Đức không có ý địnhxâm phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và nền độc lập chínhtrị của Vương quốc Na Uy...

Vì thế, Chính phủ Đế chếmong mỏi Chính phủ Na Uy và nhân dân Na Uy sẽ... khôngkháng cự. Bất kỳ sự kháng cự nào sẽ bị dập tắtbằng mọi cách có thể được... và vì thế sẽ chỉmang lại đổ máu vô ích."

ĐanMạch chấp nhận mọi yêu sách của Đức nhưng vẫn đưara lời phản đối, còn Na Uy cho biết sẽ không chịukhuất phục.

Con người kiêungạo Ribbentrop nổi cơn thịnh nộ. Tác giả ít khi thấyvị Ngoại trưởng Quốc xã trong tình trạng mất tự chủnhư thế. Lúc 10 giờ 55 phút sáng, ông gửi điện cho Côngsứ Đức tại Na Uy: "Một lần nữa phải khuyên Chínhphủ ở đấy rằng sự chống cự của Na Uy là hoàn toànvô nghĩa."

Vào lúc này, vịCông sứ vô phúc không thể làm được gì. Vua, Chính phủvà đại biểu Nghị viện Na Uy đã rời thủ đô và điđến vùng rừng núi miền Bắc. Dù không có hy vọng, họvẫn nhất quyết chống lại. Sự kháng cự đã nổ ra ởvài nơi.

Đan Mạch ởvào tình thế tuyệt vọng hơn. Đất nước chủ yếu lànông dân này không có khả năng kháng cự. Diện tích quánhỏ, địa hình quá bằng phẳng và phần lớn rộng mởcho xe thiết giáp của Đức. Không có núi non cho nhà Vuavà Chính phủ ẩn náu như ở Na Uy và cũng không thểtrông mong Anh đến cứu.

Tướng W. WPryor, Tổng Tham mưu trưởng, là người duy nhất van nàinên chống cự, nhưng Thủ tướng Thorvald Stauning, Ngoạitrưởng Edvard Munch và nhà Vua đều bác bỏ, đồng thờicòn từ chối lời khẩn cầu ban lệnh động binh củaông.

Ngay cả sau mộtcuộc điều tra, tác giả vẫn không hiểu tại sao, Hảiquân Đan Mạch lại không hề bắn một phát súng từ tàuchiến hoặc từ những pháo đài gần bờ biển của mình,ngay cả khi tàu Đức chở binh sĩ đi trước mặt họ.

Lục quân thamgia vài cuộc đọ súng trên đồng bằng, Cảnh vệ Hoànggia bắn vài phát súng quanh hoàng cung ở thủ đô và cóvài người bị thương. Vào lúc người Đan Mạch đã dùngxong bữa điểm tâm thịnh soạn, mọi chuyện đều xongxuôi. Theo lời khuyên của Chính phủ và phó mặc sựchống đối của Tướng Pryor, nhà Vua đầu hàng và ralệnh chấm dứt mọi hành động chống cự.

Tài liệu củaĐức tịch thu được cho thấy kế hoạch chiếm Đan Mạchbằng sự bất ngờ và lừa dối được thực hiện mộtcách công phu. Tướng Kurt Himer, Tham mưu trưởng lực lượngđặc nhiệm cho Đan Mạch, mặc thường phục đi đếnCopenhagen bằng tàu hoả ngày 7 tháng 4 để trinh sát thủđô và thu xếp bến đỗ thích hợp cho tàu chở binh sĩ,dẫn theo một chiếc xe tải để chuyên chở hàng hậu cầncùng máy truyền tin. Chỉ cần một tiểu đoàn để chiếmlấy một thủ đô rộng lớn và tiểu đoàn trưởng trongthường phục cũng có mặt ở Copenhagen vài ngày trướcđể thăm dò địa hình.

Vì thế, khônglạ gì mà kế hoạch của vị tướng và thiếu tá tiểuđoàn trưởng được thực hiện một cách suôn sẻ. Chiếctàu chở binh sĩ đến Copenhagen ngay trước bình minh, đingang qua những khẩu pháo của pháo đài trấn giữ bếncảng và của những tàu tuần tiễu Đan Mạch mà không bịthách thức gì, rồi hạ neo ngay giữa trung tâm thành phố,chỉ cách Bộ Tư lệnh Quân đội Đan Mạch và hoàng cungcủa nhà Vua một quãng ngắn. Cả 2 nơi đều bị tiểuđoàn quân Đức chiếm giữ mà không có sự kháng cự nàođáng kể.

Trong hoàng cung,nhà Vua đang hội ý với các bộ trưởng – những ngườiđều đang muốn đầu hàng. Chỉ có Tướng Pryor van nàinên chiến đấu. Ông yêu cầu ít nhất nhà Vua nên đi đếnmột doanh trại quân đội gần nhất để tránh bị bắt.Nhưng nhà Vua đồng ý với các bộ trưởng của ông. Ônghỏi binh sĩ đã chống cự được lâu chưa và Pryor trảlời rằng chưa lâu. Tổng cộng phía Đan Mạch có 13 ngườitử trận và 23 người bị thương. Phía Đức có khoảng20 thương vong.

Tướng Himer cảmthấy bồn chồn vì tình hình dằng dai. Theo lời ông kểlại, ông gọi điện về tổng hành dinh để yêu cầuhành quân phối hợp từ Hamburg – phía Đan Mạch đãkhông nghĩ đến việc cắt đường điện thoại đến Đức– và yêu cầu vài máy bay oanh tạc bay đến Copenhagen đểuy hiếp. Cuộc điện đàm diễn ra qua mật mã và Khôngquân hiểu rằng Himer thật sự yêu cầu thả bom, nên họđáp sẽ thực hiện ngay – một sự hiểu lầm rốt cuộcđược khắc phục đúng lúc. Himer kể rằng khi máy bayoanh tạc gầm rú trên thủ đô Đan Mạch, họ nhận ra ĐanMạch đã chấp thuận yêu sách của Đức.

Có vài khó khănđể tìm ra phương tiện truyền lệnh đầu hàng củaChính phủ cho binh sĩ Đan Mạch vì các đài phát thanh chưahoạt động vào giờ này vì còn quá sớm. Việc này đãđược giải quyết bằng cách dùng máy truyền tin mà tiểuđoàn Đức mang theo và lúc đó Tướng Himer đã cho chiếcxe tải chở lên hoàng cung.

Lúc 2 giờchiều, Tướng Himer cùng Công sứ Đức Cecil von Renthe-Finkđến gặp Vua Đan Mạch, người bây giờ không còn làquân vương nữa nhưng lại không nhận ra điều này. Himerđể lại bản ghi chép buổi hội kiến trong thư khố mậtcủa Quân đội Đức.

"Vị Vua 72 tuổi trông cóvẻ như tâm tư mòn mỏi, dù ông vẫn giữ vẻ bề ngoàiđúng mực và duy trì thái độ tự trọng tuyệt đốisuốt buổi hội kiến. Người ông run rẩy. Ông tuyên bốông và Chính phủ sẽ làm đủ mọi cách có thể để duytrì hoà bình và trật tự trên đất nước để tránh mọisự va chạm giữa Quân đội Đức và đất nước ông.

Tướng Himer đáp rằng cánhân ông rất tiếc phải đến gặp nhà Vua trong hoàn cảnhnày, nhưng ông chỉ làm nhiệm vụ của một chiến binh...Chúng tôi đến với tư cách như những người bạn, v.v..Khi nhà Vua hỏi liệu ông có thể giữ lại đội cảnh vệđược không, Tướng Himer trả lời... rằng chắc chắnLãnh tụ sẽ cho phép...

Nhà vua có vẻ nhẹ nhõmnhiều khi nghe như thế. Trong buổi hội kiến... càng lúcnhà Vua càng thoải mái hơn và khi kết thúc nói với tướngHimer: "Đại tướng, có thể tôi với tư cách một cựuchiến binh, nói với ông điều này được không? Như làchiến binh nói với chiến binh? Những người Đức cácông đã làm thêm được một việc khó tin! Người ta phảicông nhận đó là một việc xuất chúng!""

Tronggần 4 năm, cho đến khi cục diện chiến tranh xoay chiều,Vua Đan Mạch và thần dân của ông – dân tộc hiền hoà,có văn hoá và có tính vui vẻ xuề xoà – gây rất ítrắc rối cho người Đức. Đan Mạch trở thành một "nướcbảo hộ khuôn mẫu". Ban đầu, Đức cho quân vương,chính quyền, toà án, ngay cả Nghị viện và báo chí đượchưởng nhiều quyền tự do một cách đáng ngạc nhiên.Ngay cả 7.000 người Do Thái cũng không bị ngược đãitrong thời gian đầu.

Dần dà, chậmhơn phần lớn những dân tộc khác bị thôn tính, ngườiĐan Mạch rốt cuộc nhận ra rằng không thể tiếp tụchợp tác với những kẻ chuyên chế càng ngày càng thêmtàn bạo nếu họ muốn giữ phần nào lòng tự trọng vàdanh dự. Họ cũng bắt đầu thấy rằng rốt cuộc Đứckhông thể thắng trong cuộc chiến và rằng đất nướcĐan Mạch nhỏ bé không bị kết án là chư hầu của Đứcnhư họ e ngại lúc đầu. Khi ấy, sự kháng cự mới bắtđầu.

NAUY CHỐNG CỰ


NaUy chống cự ngay từ đầu, tuy không phải là ở khắpnơi.

Tại Narvik –bến cảng và cũng là điểm cuối của tuyến đường sắtchở quặng sắt từ Thuỵ Điển – Đại tá Konrad Sundlo,chỉ huy quân sự trong vùng, người trung thành cuồng tínvới Quisling, đầu hàng quân Đức mà không nổ một phátsúng nào.

Nhưng những sĩquan chỉ huy hải quân địa phương thì thuộc diện khác.Khi 10 chiếc tàu khu trục của Đức tiến vào cửa vịnhhẹp, chiếc Eidsvold, 1 trong 2 tàu bọc sắt của Na Uy, bắn1 phát súng cảnh cáo và ra hiệu cho các tàu khu trục khaidanh tính. Chuẩn Đô đốc tư lệnh hạm đội khu trụcFritz Bonte trả lời bằng cách phái 1 sĩ quan đi trên 1chiếc xuồng đến tàu Na Uy để đòi phía Na Uy đầuhàng. Tiếp theo là màn xảo trá kiểu Đức, dù Hải quânĐức sau này biện hộ với lý lẽ rằng trong chiến tranhthì không có lề luật gì cả. Khi người sĩ quan trênchiếc xuồng ra hiệu cho vị Chuẩn Đô Đốc là phía NaUy sẽ kháng cự, Bonte kiên nhẫn chờ cho đến khi chiếcxuồng đi ra khỏi rồi nhanh chóng bắn ngư lôi khiếnchiếc Eidsvold nổ tung. Chiếc tàu bọc sắt thứ hai nổsúng nhưng cũng nhanh chóng bị bắn hạ. 300 thuỷ thủ NaUy tử thương – tức là hầu như toàn bộ thuỷ thủđoàn của 2 tàu bọc sắt.

Đến 8 giờsáng, Narvik nằm trong tay quân Đức, sau khi 10 tàu khu trụcĐức len lỏi qua hạm đội hùng hậu của Anh đến tấncông. Thiếu tướng Eduard Dietl chỉ cần có 2 tiểu đoànquân Quốc xã là đủ để chiếm được Narvik. Ông sẽtiếp tục chứng tỏ là một tư lệnh chiến trường tháovát và can đảm.

Trondheim, nằm ởnửa dưới ven bờ biển miền Tây Na Uy, cũng bị Đứcchiếm một cách dễ dàng. Những pháo đội của bến cảngkhông bắn được phát nào khi chiếc tuần dương hạngnặng Hipper dẫn đầu 4 chiếc tàu khu trục đi đến rồithả binh sĩ lên bờ mà không gặp trở ngại gì. Vài pháođài cầm cự được ít tiếng đồng hồ và sân bay ởVaemes gần đấy chống trả được vài ngày, nhưng nhữngkháng cự này không ảnh hưởng đến việc chiếm đóng 1cảng thích hợp cho tàu hải quân lớn nhất cũng như chotàu ngầm và điểm cuối của tuyến đường xe lửa đitừ Thuỵ Điển, qua đó Đức nhận được nguyên liệutrong trường hợp Anh phong toả đường hàng hải.

Bergen, cảng vàthành phố cảng thứ hai của Na Uy, nằm cách Trondheim gần500 km về phía Nam và nối với thủ đô Oslo bằng đườngsắt, đã chống cự một cách yếu ớt. Ổ pháo trấn giữcảng biển gây hư hại nặng cho chiếc tàu tuần dươngKoenigsberg và 1 tàu tiếp tế, những binh sĩ từ những tàukhác đổ bộ một cách an toàn và chiếm giữ thành phốtrước giờ trưa. Chính ở Bergen đã có những hoạt độngquân sự đầu tiên của Anh đến hỗ trợ cho người NaUy đang kinh hoàng. Vào buổi xế chiều, khoảng 15 máy baytiêm kích Anh đánh chìm chiếc Koenigsberg– là tàu chiến đầu tiên thuộc cỡ này bị đắm vìkhông kích. Bên ngoài vùng cảng, một hạm đội Anh hùngmạnh gồm 4 tàu tuần dương và 7 tàu khu trục đã có thểtiêu diệt lực lượng hải quân nhỏ bé của Đức. Hạmđội này đang chuẩn bị tiến vào cảng thì nhận lệnhphải bãi bỏ cuộc tấn công vì e sợ rủi ro do thuỷ lôivà không kích – một quyết định mà Churchill về sau hốitiếc dù ông đã thuận theo. Đây là dấu hiệu đầu tiêncủa sự thận trọng và hành động nửa vời sẽ khiếncho Anh phải trả giá đắt trong những ngày kế tiếp.

Quân dù củaĐức chiếm được sân bay Sola trên bờ biển tây nam saukhi tiêu diệt những ổ súng máy của Na Uy vì Na Uy khôngcó cao xạ phòng không. Đây là sân bay lớn nhất của NaUy và có tầm quan trọng chiến lược đặc biệt cho Khôngquân Đức, bởi vì từ đây máy bay oanh tạc có thể bayđến ném bom hạm đội Anh dọc bờ biển Na Uy và nhữngcăn cứ hải quân chính của Anh trên miền Bắc nướcAnh. Việc chiếm giữ sân bay này tạo cho Đức ưu thếtrên bầu trời ở Na Uy và khiến Anh không thể đổ quânlên cứu Na Uy được nữa.

Kristiansand venbờ biển phía Nam chống cự khá mãnh liệt, những khẩuđội 2 lần đẩy lui 1 hạm đội Đức do tàu tuần dươnghạng nhẹ Karlsruhe dẫn đầu. Nhưng Không quân Đức nhanhchóng phá huỷ pháo đài và chiếm được bến cảng vàolúc xế trưa.

Thế là, vàolúc xế trưa, 5 thành phố cảng chính của Na Uy và 1 căncứ không quân lớn dọc bờ biển phía Tây và Nam trảidài hơn 2.400 km đã rơi vào tay quân Đức. Mỗi nơi đềubị chiếm bởi một nhúm quân và một phân đội tàu kémxa lực lượng Hải quân Anh. Những yếu tố táo bạo, lừalọc và bất ngờ đã giúp mang đến cho Hitler một chiếnthắng vang dội với tổn thất nhẹ.

Nhưng tại thủđô Oslo – chiến lợi phẩm quan trọng nhất, lực lượngquân sự và sách lược ngoại giao lại lâm vào khó khănkhông lường trước.

Trong đêm 8 rạngsáng 9 tháng 4, một nhóm nhân viên ngoại giao Đức do Tuỳviên Hải quân Đại tá Schreiber dẫn đầu và Công sứTiến sĩ Bräuer thỉnh thoảng góp mặt, đứng ở bếncảng để tiếp đón quân Đức. Một tuỳ viên hải quâncấp dưới lái một thuyền máy chạy lên xuống đểchuẩn bị hướng dẫn hạm đội. 2 tàu chủ chốt tronghạm đội sẽ là tàu thiết giáp bỏ túi Luetzow(tên cũ là Deutschland bởi vì Hitler không muốn mất 1chiếc tàu mang tên như thế)và chiếc tuần dương hạng nặng 10.000 tấn mới tinhBluecher, kỳ hạm của hạm đội.

Thế nhưng nhómngười Đức đã phí công chờ đợi. Các tàu lớn khôngbao giờ đến. Ở lối vào của vịnh hẹp Oslo dài 80 km,tàu thả thuỷ lôi Olav Trygverson của Na Uy đánh đắm mộttàu phóng lôi và làm hư hại tàu tuần dương hạng nhẹEmden của Đức. Sau khi cho đổ bộ một lực lượng nhỏđể trấn áp những ổ pháo trên bờ, hạm đội Đứctiếp tục tiến vào.

Khi đến cáchOslo gần 25 km, nơi chiều rộng vịnh thu hẹp chỉ còn 24km, họ lại gặp thêm vấn đề. Nơi đây có pháo đài cũOskarsborg với binh sĩ có tinh thần cảnh giác mà hạm độiĐức không ngờ tới. Ngay trước rạng đông, các khẩuđại bác Krupp 280 li đặt trên pháo đài bắn chìm chiếcBluecher khiến 1.600 người trên tàu tử thương – kể cảmột số quan chức Mật vụ và hành chính (cùng mọi giấytờ) để chuẩn bị bắt giữ nhà Vua cùng Chính phủ vàđảm nhận việc điều hành thủ đô. Chiếc Luetzow cũngbị hư hại nhưng còn hoạt động được. Chuẩn Đô đốctư lệnh hạm đội Oskar Kummetz và tướng Erwin Engelbrecht,Tư lệnh Sư đoàn 163 Bộ binh, đi trên chiếc Bluecher lộiđược vào bờ nhưng bị phía Na Uy bắt làm tù binh. Nhữngtàu còn lại của Đức rút ra ngoài, chịu thất bạitrong việc chiếm Oslo ngày hôm ấy.

Thật ra, chínhmột lực lượng nhảy dù Đức được thả xuống sânbay đã lập công khi chiếm được Oslo. Lúc 9 giờ 30 sáng,hoàng gia, Chính phủ và Nghị viện đáp tàu hoả điHamar, cách Oslo 130 km về hướng Bắc. 20 xe tải chở vàngcủa Ngân hàng Nhà nước Na Uy và thêm 3 xe chở tài liệumật của Bộ Ngoại giao cũng lên đường cùng một lúc.Vì thế, hành động quả cảm của pháo đài Oskarsborg đãgiúp ngăn cản mưu đồ của Hitler nhằm nắm giữ nhàVua, Chính phủ và vàng của Na Uy.

Nhưng Oslo lạirơi vào tình trạng hoang mang tột độ. Vài đội quân NaUy hiện diện, nhưng họ không được tổ chức cho việcphòng thủ. Tệ hại nhất là không ai làm gì để phongtoả sân bay Fornebu, bằng cách dễ dàng như cho vài chiếcô tô cũ đậu trên các đường băng và các đồng ruộngtrống xung quanh. Đêm trước, Tuỳ viên Không quân tạiOslo, Đại uý Schiller, đã túc trực ở sân bay để đóntiếp quân nhảy dù, dự kiến sẽ đến sau khi hạm độiđến được Oslo. Khi hạm đội không đến được, pháibộ ngoại giao Đức vội báo cáo tình hình về Berlin.

Đức có phảnứng ngay lập tức: Điều quân dù và bộ binh không vậnđến sân bay Fornebu. Lúc giữa trưa, họ tập kết được5 đại đội. Vì đội quân này chỉ được trang bị nhẹ,nên đáng lẽ ra họ có thể dễ dàng bị tiêu diệt bởisố quân Na Uy đang hiện hữu ở Oslo. Nhưng vì những lýdo không bao giờ được làm rõ và vì tình trạng hoangmang ở Oslo, nên binh sĩ Na Uy không được tập kết vớinhau, càng không được chỉ huy điều động, đội quânnhỏ bé của Đức chỉ việc diễu hành vào thành phốtheo sau 1 ban quân nhạc tập tàng. Thế là thành phố cuốicùng của Na Uy cũng thất thủ. Nhưng Đức vẫn chưa chiếmđược toàn bộ Na Uy.

Vào buổi chiều9 tháng 4, Nghị viện Na Uy nhóm họp ở Hamar và chỉ có 5trong số 200 đại biểu vắng mặt, nhưng hoãn đến 7 giờ30 tối vì có tin quân Đức đang tiến đến gần Elverum,hướng về phía biên giới Thuỵ Điển. Bị Ribbentrop thúcgiục, Tiến sĩ Bräuer đòi được hội kiến lập tứcvới Vua Na Uy. Thủ tướng Na Uy chấp thuận với điềukiện là quân Đức phải rút về khoảng cách an toàn.Nhưng Bräuer không chấp nhận.

Trong khi mọiviệc đang dằng dai như thế thì có thêm một màn lừalọc của Quốc xã. Tuỳ viên Không quân Schiller dẫn 2 đạiđội dù của Đức từ sân bay Fornebu đi đến Hamar vớimục đích bắt giữ vị Vua và Chính phủ cứng đầu. Cóvẻ như đây chỉ là trò đùa nghịch, vì quân Na Uy khônghề nổ 1 phát súng nào ở Oslo, nên Schiller nghĩ Hamar sẽkhông chống cự gì cả. Cũng thế, 2 đại đội Đứcngồi trên những chiếc xe buýt mà họ chiếm được ởOslo và nghĩ rằng họ đang đi ngắm cảnh.

Nhưng họ khôngngờ đến 1 sĩ quan quân đội Na Uy lại có hành độngkhông giống những người khác. Đại tá Ruge, Tổng thanhtra Bộ binh, muốn tổ chức việc bảo vệ Chính phủ đanglẩn tránh, nên ra lệnh đặt chốt chặn gần Hamar vớihai tiểu đoàn bộ binh mà ông vội vã gom góp được. Cácxe buýt chở quân Đức bị chặn lại và trong cuộc đọsúng tiếp theo Schiller bị tử thương. Sau khi chịu thêmthiệt hại, toán quân Đức rút về Oslo.

Ngày hôm sau,Tiến sĩ Bräuer từ Oslo một mình đi trên chính con đườngấy để đến gặp nhà Vua. Là một nhà ngoại giao chuyênnghiệp thuộc thế hệ cũ, vị Công sứ Đức không thíchthú với vai trò của mình, ông đi chỉ vì Ribbentrop luônthúc hối ông phải thuyết phục Vua và Chính phủ Na Uyđầu hàng. Nhiệm vụ của ông càng thêm phức tạp vìmột số sự kiện chính trị diễn ra ở Oslo. Đêm trước,Quisling lên đài phát thanh tuyên bố mình đứng đầu mộtChính phủ mới và ra lệnh ngừng ngay mọi hành vi khángcự quân Đức. Tuy Bräuer không nhận ra lúc ấy – vàBerlin cũng không bao giờ hiểu được – rằng hành độnglừa dối này đã khiến cho nỗ lực cuối cùng của Đứcnhằm thuyết phục Na Uy đầu hàng đều thất bại. Điềunghịch lý là, dù chỉ là vết nhơ tức thời cho dân tộcNa Uy, nhưng hành động của Quisling lại khiến cho nhữngngười Na Uy đang hoang mang đoàn kết lại để sau này tổchức cuộc kháng chiến dũng mãnh và anh hùng.

Lúc 3 giờ chiềungày 10 tháng 4, trong 1 ngôi trường ở thị trấn Elverum,Tiến sĩ Bräuer yết kiến Vua Haakon VII, quân vương đầutiên của riêng Na Uy trong năm thế kỷ.Từ cuộc trao đổi khi tôi được yết kiến quân vươngvà từ báo cáo mật của Tiến sĩ Bräuer (nằm trong sốtài liệu của Bộ Ngoại giao Đức tịch thu được), cóthể kể lại diễn tiến của vụ việc như sau.

Sau nhiều lưỡnglự, nhà Vua đồng ý tiếp kiến Công sứ Đức với sựhiện diện của Ngoại trưởng Tiến sĩ Halvdan Koht. KhiBräuer yêu cầu được hội kiến trước với một mìnhnhà Vua, ông nhận lời với sự đồng thuận của Koht.

Công sứ Đứctheo chỉ thị vừa tâng bốc vừa đe doạ nhà Vua. Đứcmong muốn duy trì vương triều. Đức chỉ mong Haakon làmgiống như người anh trai, tức là Vua Đan Mạch, đã làmtrước đó (đầu hàng và tiếp tục trị vì). Chống lạiQuân đội Đức là việc điên rồ, chỉ mang đến sựtàn sát người Na Uy một cách vô ích. Đức yêu cầu nhàVua chấp thuận Chính phủ của Quisling và trở về Oslo.Vua Haakon VII – người sắc sảo, thiên về dân chủ vàcó tính kiên quyết – cố gắng giải thích với Công sứĐức rằng tại Na Uy, vua không được quyền ra quyếtđịnh chính trị, đó là trách nhiệm của Chính phủ màbây giờ ông phải tham khảo ý kiến. Rồi Koht tham giabuổi hội kiến và 2 bên đồng ý là Chính phủ Na Uy sẽtrả lời bằng điện thoại cho Bräuer khi ông này trênđường về Oslo.

Tuy không thểra quyết định chính trị nhưng chắc chắn có thể tạoảnh hưởng trong việc này, đối với Haakon thì chỉ có1 câu trả lời duy nhất cho người Đức. Lui về mộtquán trọ khiêm tốn trong ngôi làng Nybergsund gần Elverum –phòng hờ khi Bräuer ra về quân Đức bất ngờ tiến côngvà bắt giữ ông – ông cho triệu các thành viên củaChính phủ đến và nói với họ:

"... Về phần tôi, tôikhông thể chấp nhận những đòi hỏi của Đức. Làm nhưthế là đi ngược lại với nghĩa vụ của tôi trên cươngvị là Vua của Na Uy từ khi tôi đi đến đất nước này35 năm trước... Tôi không muốn quyết định của Chínhphủ bị ảnh hưởng dựa trên lời phát biểu này. Nhưng...tôi không thể chỉ định Quisling làm Thủ tướng, ngườimà tôi cũng như nhân dân ta không hề biết đến ... vàcác đại biểu Nghị viện cũng không tín nhiệm gì cả.

Vì thế, nếu Chính phủquyết định chấp nhận những đòi hỏi của Đức – vàtôi hoàn toàn thấu hiểu những lý do trong việc này khixét qua những mối hiểm nguy chiến tranh sắp đến, màtrong đó nhiều thanh niên Na Uy sẽ phải hy sinh mạng sống– nếu như thế, thoái vị là con đường cuối cùng chotôi."

Dùcó vài thành viên nao núng, Chính phủ lại không tỏ rakém can đảm hơn nhà Vua và nhanh chóng đứng sau lưng ông.Koht gọi điện cho Bräuer thông báo quyết định của NaUy. Berlin được Bräuer báo cáo lập tức.

"Nhà Vua sẽ không bổnhiệm Chính phủ do Quisling cầm đầu và Chính phủ nhấttrí khuyến cáo quyết định này. Đáp lại câu hỏi cụthể của tôi, Ngoại trưởng Koht trả lời: "Sẽ khángcự cho đến cùng.""

Tốihôm ấy, từ một đài phát thanh nhỏ và yếu, phươngtiện duy nhất thông tin ra thế giới bên ngoài, Chính phủNa Uy loan báo quyết định không chấp nhận những đòihỏi của Đức và kêu gọi toàn dân – chỉ có 3 triệungười – chống lại quân xâm lược. Nhà Vua chính thứcủng hộ lời kêu gọi.

Nhưng quân xâmlược Quốc xã không muốn tin rằng Na Uy quyết tâm thậtsự như lời nói. Họ còn cố thuyết phục thêm nhà Vua 2lần. Sáng ngày 11 tháng 4, một đặc sứ của Quisling đếnthúc giục nhà Vua trở lại thủ đô. Ông cam kết Quislingsẽ phục vụ nhà Vua một cách trung thành. Ông bị từchối với sự im lặng khinh miệt.

Vào buổi chiều,Bräuer gửi tin khẩn xin gặp nhà Vua lần nữa để thảoluận "vài đề xuất". Ribbentrop đã chỉ thị cho ôngnói với nhà Vua rằng ông "muốn cho nhân dân Na Uy mộtcơ hội cuối cùng cho thoả hiệp hợp lý". Ribbentrop cònbí mật chỉ thị cho Bräuer dàn xếp buổi diện kiến "ởmột điểm giữa Oslo và nơi nhà Vua cư ngụ" và thôngbáo cho Tướng Falkenhorst về vị trí của điểm này. Nếunhà Vua đi đến đây, thì đáng lẽ binh sĩ củaFalkenhorst đã bắt được ông. Nhưng lần này, sau khi hộiý với nhà Vua, Tiến sĩ Koht trả lời rằng nếu Công sứĐức có "vài đề xuất" thì nên trao cho Ngoại trưởngNa Uy.

Phản ứng củaQuốc xã đối với 1 đất nước nhỏ và không có ai trợgiúp là đúng theo bản chất của Quốc xã. Đức đãkhông bắt được nhà Vua và Chính phủ Na Uy, cũng khôngthuyết phục được họ đầu hàng. Giờ thì hiển nhiênlà Đức muốn giết họ. Ngày 11 tháng 4, máy bay Đức thảbom xuống làng Nybergsund và bắn súng liên thanh xuốngnhững ai đang cố chạy thoát khỏi ngọn lửa. Đức nghĩnhư vậy là đã giết được nhà Vua và các thành viêncủa Chính phủ Na Uy.

Ngôi làng bịphá huỷ, nhưng nhà Vua và Chính phủ Na Uy thoát được.Khi nghe máy bay đến, họ rút vào một khu rừng kế cận.Đứng trong lớp tuyết cao đến đầu gối, họ nhìn nhữngngôi nhà chòi khiêm tốn bị cháy rụi. Rồi họ di chuyểnqua vùng Thung lũng Gudbrands hoang dã đến Andalsnes trên bờbiển miền Tây Bắc, cách Trondheim 160 km về hướng TâyNam.

CUỘCCHIẾN GIÀNH NA UY


Xavề hướng Bắc tại Narvik, Hải quân Anh đã có phản ứngsắc bén đối với sự chiếm đóng đáng kinh ngạc củaĐức. Như Churchill nói, phía Anh đã bị Đức "qua mặthoàn toàn". Bây giờ, nằm ngoài tầm bay của Không quânĐức, Anh tổ chức phản công. Sáng ngày 10 tháng 4, 24tiếng đồng hồ sau khi Đức chiếm được Narvik và cholực lượng dưới quyền Dietl đổ bộ, 5 tàu khu trụcAnh tiến vào cảng, đánh đắm 2 trong số 5 tàu khu trụcĐức lúc ấy đang đậu ở bến cảng, làm hư hại 3chiếc còn lại, đồng thời bắn chìm tất cả tàu hàngcủa Đức chỉ trừ 1 chiếc. Phó đô đốc Bonte của Đứctử trận.

Nhưng khi hạmđội Anh rút ra ngoài, 5 tàu khu trục Đức có đại pháoto hơn bên Anh chặn đánh, bắn chìm 1 tàu khu trục Anh,khiến một tàu khác phải mắc cạn gần bờ và Đại táWarburton-Lee của Anh trên tàu này tử trận, ngoài ra cònlàm hư hại chiếc thứ ba. 3 tàu Anh thoát ra ngoài biểnkhơi và sau đó đánh chìm 1 tàu hàng lớn của Đức chởđầy đạn dược.

Giữa trưa ngày13 tháng 4, tàu thiết giáp Warspite của Anh dẫn một phânđội tàu khu trục trở lại Narvik và bắn chìm tất cảtàu Đức còn lại. Phó Đô đốc Tư lệnh hạm đội AnhW. J. Whitworth điện về yêu cầu gửi lực lượng tiếnchiếm ngay Narvik vì cho rằng bộ binh Đức đang rối loạn– sự thật là Thiếu tướng Dietl đang rút quân lênnhững triền đồi. Không may cho phía Đồng Minh, Trungtướng P. J. Mackesy, Tư lệnh lực lượng bộ binh củaAnh, là người quá cẩn trọng. Khi dẫn 3 tiểu đoàn bộbinh đến vào ngày hôm sau, ông quyết định không liềulĩnh đổ quân lên Narvik mà lên Harstad, cách đó gần 60km về hướng Bắc, lúc ấy còn nằm trong tay của Na Uy.Đây là một lỗi lầm đắt giá.

Xét theo sựkiện là Anh đã chuẩn bị 1 lực lượng viễn chinh nhỏcho Na Uy, không thể hiểu tại sao họ chậm chạp đếnthế trong việc điều quân. Xế trưa ngày 8 tháng 4, khinhận được tin hạm đội Đức đang tiến lên Na Uy, vớilý do là cần đến tất cả tàu cho cuộc hành quân củamình, Hải quân Anh vội vã đưa lên bờ những binh sĩ đãsẵn sàng để đi chiếm đóng Stavanger, Bergen, Trondheim vàNarvik. Vào lúc binh sĩ được đưa xuống tàu lại, thìnhững thành phố cảng trên đã nằm trong tay của Đức.Và vào lúc họ tiến đến vùng trung tâm Na Uy, số phậncủa họ – cũng như của các tàu chiến Anh yểm trợ chohọ – là do Không quân Đức định đoạt.

Ngày 20 tháng 4,một lữ đoàn Anh được 3 tiểu đoàn Pháp tăng viện đổbộ lên Namsos, 1 cảng nhỏ cách Trondheim 130 km về hướngĐông Bắc và 1 lữ đoàn khác của Anh đổ bộ lênAndalsnes, cách Trondheim 160 km về hướng Tây Nam. Nhưng vìthiếu pháo, súng phòng không và sự yểm trợ của khôngquân, căn cứ lại bị máy bay Đức bắn phá ngày đêm,cả 2 lực lượng không thể đe doạ Trondheim được.

Lực lượng Anhrút khỏi Andalsnes vào các đêm 30 tháng 4 và 1 tháng 5, cònliên quân Anh-Pháp rút khỏi Namsos vào ngày 2 tháng 5 – cả2 cảng này đều đã bị Không quân Đức bắn phá dữdội. Lữ đoàn ở Andalsnes phải huỷ bỏ cuộc tấn cônglên hướng Bắc mà rút về hướng Đông Nam để hợp lựcvới quân Na Uy dưới quyền Đại tá Ruge năng nổ tiếnlên từ Oslo.

Tại Lillehammer,phía Bắc Hamar, trận chạm súng đầu tiên trong cuộcchiến giữa Anh và Đức xảy ra ngày 21 tháng 4, nhưngkhông cân sức. Chiếc tàu Anh chở pháo bị bắn chìm, nênquân Anh chỉ có súng trường và súng liên thanh chống lạipháo và xe thiết giáp hạng nhẹ của Đức. Tệ hơn nữa,bộ binh Anh thiếu sự yểm trợ của không quân, nên bịmáy bay Đức từ những sân bay của Na Uy gần đấy oanhkích liên tục. Lillehammer thất thủ sau trận đánh kéodài 24 tiếng đồng hồ, quân Anh và Na Uy bắt đầu rútlui 220 km đến Andalsnes, thỉnh thoảng dừng chân để đánhvề phía sau nhằm làm chậm bước tiến của quân Đức.

Đêm 29 tháng 4,Vua Na Uy và Chính phủ đi trên tàu tuần dương Anh Glasgowđến Tromso, phía Bắc Narvik, để thiết lập thủ đô tạmthời.

Vào lúc này,miền Nam Na Uy đã rơi hẳn vào tay Đức, nhưng miền Bắcvẫn còn trụ vững. Ngày 28 tháng 5, một lực lượng Đồngminh gồm 25.000 quân đánh bật quân Đức ra khỏi Narvik.Có vẻ như chắc chắn Đức sẽ mất nguồn quặng sắtvà không thể chiếm hoàn toàn Na Uy. Nhưng vào lúc này,quân Đức với lực lượng mạnh đã đánh qua mặt trậnphía Tây và mọi đơn vị Đồng minh đều được huy độngđể bịt lỗ hổng này. Narvik bị bỏ rơi, lực lượngĐồng minh được vội vã đưa lên tàu rút đi.

Tướng Dietl ẩnnáu từ khu rừng núi gần biên giới Thuỵ Điển trởxuống chiếm lại thành phố cảng vào ngày 8 tháng 6. 4ngày sau, ông chấp nhận sự đầu hàng của Đại tá Rugedũng cảm cùng binh sĩ Na Uy giờ đang hoang mang và bất mãnvì cảm thấy bị Anh bỏ rơi. Dietl được thăng hàm Trungtướng và nhận Huân chương Chữ thập Hiệp sĩ của Chữthập Sắt.

Ngày 7 tháng 6,Vua Haakon và Chính phủ Na Uy được đưa lên chiếc tàutuần dương Devonshire đến London và sống ở đây 5 nămtrong cảnh lưu vong cay đắng.

Quisling khônggiữ ghế Thủ tướng được lâu. Chỉ sau 6 ngày tựphong là Thủ tướng, ngày 15 tháng 4, Đức loại ông ra vàbổ nhiệm một Hội đồng Hành chính gồm 6 công dân NaUy có tiếng tăm, trong số này có Giám mục Eivind Berggravđứng đầu Giáo hội Phúc Âm ở Na Uy và Paal Berg, Chánhán Toà án Tối cao. Ngày 24 tháng 4, Hitler bổ nhiệm JosefTerboven, 1 xứ uỷ của Quốc xã, làm uỷ viên Đế chếtại Na Uy, chính là người thật sự điều hành Na Uy. Năm1942, Đức tái bổ nhiệm Quisling làm Thủ tướng Na Uy,nhưng ông này bị dân chúng oán ghét thậm tệ.

Cuối cuộcchiến, Quisling bị xử tử hình, Terboven tự tử, cònTướng Falkenhorst bị án tử hình vì tội giao tù binh Đồngminh cho S.S. xử tử, nhưng được giảm thành án chungthân.

Mặc dù đạtđược thành công kỳ diệu, nhưng Lãnh tụ vẫn phảitrải qua những giờ khắc khủng hoảng thần kinh. Nhậtký của Jodl ghi đầy chi tiết về thái độ hoảng loạncủa Hitler trong thời gian này. Ngày 17 tháng 4, ông trảiqua những thời khắc hoảng loạn khi được tin lực lượngHải quân Đức ở Narvik bị quét sạch và kế tiếp bộbinh Đức tại Narvik bị đẩy lùi. Ông đòi dùng Khôngquân để di tản binh sĩ của Tướng Dietl – một nhiệmvụ bất khả thi. Ngày 13 tháng 4, do Hitler thúc giục vìsự kháng cự của Na Uy, Tướng von Falkenhorst ra lệnh bắtlàm tù binh 20 nhân vật nổi danh ở Oslo, kể cả Giám mụcBerggrav và Paal Berg, những người mà theo lời Công sứBräuer, "sẽ bị xử bắn trong trường hợp tiếp tụckháng cự hoặc có hành động phá hoại." Lại thêm nỗisợ hãi vì thất bại trong công tác ngoại giao, Bräuerđược triệu hồi...

Các buổi họptại Phủ Thủ tướng tại Berlin ngày 19 tháng 4 trở nêngay gắt, tư lệnh 3 quân chủng đổ lỗi cho nhau, đếnnỗi ngay cả kẻ xu nịnh Keitel cũng bỏ ra khỏi phònghọp. Lãnh tụ càng tỏ ra lo lắng thêm.

Chỉ bắt đầutừ ngày 24 tháng 4, tin chiến sự đưa về mới càng ngàycàng tốt hơn. Đến ngày 26, Hitler trở nên phấn khởiđến nỗi vào lúc 3 giờ 30 phút sáng, sau một đêm làmviệc với các nhà tham mưu quân sự, ông bảo đang dựđịnh bắt đầu Phương án Màu Vàng trong khoảng thờigian từ mùng 1 đến mùng 7 tháng 5. "Màu Vàng" là mãsố cho chiến dịch đánh về phía Tây qua Hà Lan và Bỉ.Ngày 1 tháng 5, ông ra lệnh các bước chuẩn bị phảixong xuôi hạn chót là ngày 5 tháng 5.

Các chỉ huyquân sự – Goering, Brauchitsch, Halder, Keitel, Jodl, Raeder vànhững người còn lại – qua chiến dịch Na Uy, lần đầutiên biết được làm thế nào mà vị Lãnh tụ điêncuồng của họ có thể suy sụp tinh thần chỉ vì mộtbất lợi nhỏ nhất. Đó là điểm yếu sẽ càng trầmtrọng hơn về sau, khi cuộc chiến xoay chiều và rốt cuộcđiểm yếu này sẽ góp phần quan trọng cho sự sụp đổcủa Đế chế Thứ Ba.

Tuy thế, cuộctấn công thần tốc Đan Mạch và Na Uy là một chiếnthắng quan trọng cho Hitler và là thất bại não nề choAnh. Chiến thắng giúp đảm bảo tuyến vận chuyển quặngsắt trong mùa đông, tạo thêm sự bảo vệ cho Đức ởngõ ra vào biển Baltic, cho phép Hải quân Đức tiến ravùng Bắc Đại Tây Dương, cung cấp những cảng biển vôcùng thuận lợi cho cuộc chiến trên biển với Anh, đồngthời cũng tạo điều kiện cho Không quân Đức sử dụngnhững sân bay để rút ngắn quãng đường được vàitrăm kilomet đến Anh quốc.

Và có lẽ yếutố quan trọng nhất là uy tín quân sự của Đế chế ThứBa được nâng cao rõ rệt tương ứng với sự đi xuốngvề uy tín của Đồng minh phương Tây. Đức Quốc xãdường như là bách chiến bách thắng. Áo, Tiệp Khắc, BaLan và bây giờ Đan Mạch cùng Na Uy dễ dàng bị khuấtphục. Hai Đồng minh chủ chốt của phương Tây xem chừngkhông giúp ích được gì nhiều.

Đối với nhữngquốc gia trung lập còn lại, cuộc thôn tính mới nhấtcủa Hitler là một bài học đáng sợ. Hiển nhiên là nềntrung lập không còn có thể bảo vệ những quốc gia dânchủ bé nhỏ cố sống sót trong thế giới do chế độchuyên chế ngự trị. Phần Lan vừa nhận ra điều này vàbây giờ đến lượt Na Uy cùng Đan Mạch. Họ chỉ nên tựtrách mình vì đã quá mù quáng từ chối sự giúp đỡcủa các chính quyền thân thiện khi tình hình còn ổnđịnh.

Ngày 11 tháng 4,Churchill phát biểu trước Viện Dân biểu:

"Tôi hy vọng những quốcgia khác nếu ngày mai, hoặc 1 tuần sau, hoặc 1 tháng sau,là nạn nhân của một mưu đồ tinh vi nhằm tiêu diệt vàđưa họ vào cảnh nô lệ, thì họ hãy suy ngẫm về điềunày."

Hiểnnhiên Churchill đang nghĩ đến Hà Lan và Bỉ, nhưng ngay cả2 quốc gia này, dù có thời gian 1 tháng, vẫn không chịusuy ngẫm.

Thuỵ Điển bịkẹt giữa một bên là Liên Xô đang hiện diện ở PhầnLan và miền Baltic, còn bên kia là Đức đang chiếm đóngĐan Mạch và Na Uy, nên thấy không có cách nào khác hơnlà giữ vững nền trung lập và chống trả đến cùng nếubị tấn công. Họ đã xoa dịu Liên Xô bằng cách khôngcho phép quân Đồng minh quá cảnh sang Phần Lan và bây giờcòn phải chịu thêm áp lực khi phải xoa dịu cả Đức.Thuỵ Điển đã gửi 1 lượng lớn vũ khí cho Phần Lan,họ từ chối bán cho Na Uy cả vũ khí lẫn xăng dầu. Suốttháng Tư, Đức đòi Thuỵ Điển cho phép quân Đức quácảnh để đến Narvik để tăng viện cho Dietl. Thuỵ Điểntừ chối, nhưng cho phép một chuyến tàu chở nhân viênvà thiết bị y tế đi qua.

Cho đến ngày19 tháng 6, vì sợ Đức tấn công trực diện, Thuỵ Điểncho phép Đức chuyển quân và vũ khí trên đường sắtcủa Thuỵ Điển đến Na Uy, với điều kiện là số binhsĩ đi 2 chiều phải cân bằng để quân số Đức ở NaUy không được tăng cường.

Đây cũng là sựtrợ giúp đáng kể, vì điều đó đã giúp Đức tránhđược rủi ro khi chuyển quân và vũ khí trên đườngbiển khi bị Hải quân Anh khống chế. Trong 6 tháng đầusau thoả thuận ấy, khoảng 140.000 quân Đức ở Na Uy đượchoán chuyển và lực lượng Đức mạnh lên nhờ có thêmsự tiếp tế. Sau này, ngay trước khi Đức tấn công LiênXô, Thuỵ Điển đã cho phép cả một sư đoàn Đức, đượctrang bị đầy đủ, từ Na Uy quá cảnh ở Thuỵ Điểnqua Phần Lan để chuẩn bị đánh Liên Xô. Thuỵ Điển đãnhượng bộ Đức, điều mà họ từ chối Đồng minh mộtnăm trước.

Cũng có nhữngbài học quân sự khác từ việc Hitler thôn tính Na Uy vàĐan Mạch. Quan trọng nhất là việc làm chủ bầu trờikhi có sân bay gần chiến trường. Quan trọng không kém làyếu tố táo bạo và giàu sáng kiến. Hải quân Đức vàKhông quân Đức có cả 2 yếu tố này và Dietl đã chothấy sự tháo vát của Lục quân Đức, trong khi nhữnglực lượng của Đồng minh đều kém cỏi.

Thiệt hại củađôi bên ở Na Uy đều nhẹ. Đức bị thương vong và mấttích tổng cộng 5.296 người, ba nước Na Uy, Anh và Phápcộng lại không đến 5.000 người. Anh mất 1 tàu sân bay,1 tàu tuần dương và 7 tàu khu trục, còn Ba Lan và Phápmỗi nước mất 1 tàu khu trục. Thiệt hại của Hải quânĐức nặng hơn: mất 10 trong số 20 tàu khu trục thamchiến, 3 trong số 8 tàu tuần dương, 2 tàu tuần dươngthiết giáp Scharnhorst và Gneisenau, còn chiếc tàu thiếtgiáp bỏ túi Luetzow bị hư hỏng nặng đến nỗi phảingừng hoạt động trong nhiều tháng. Vậy nên Hitler khôngcó hạm đội nào đáng kể trong mùa hè sắp tới. Khithời gian tấn công Anh đến gần, điều này là một yếutố bất lợi không gì bù đắp được.

Tuy nhiên, vàođầu tháng 5 năm 1940, yếu tố bất lợi về Hải quânkhông còn làm Lãnh tụ bận tâm khi ông làm việc với cáctướng lĩnh đang hăm hở – vì bây giờ họ đã hếtnghi ngại – để có những bước chuẩn bị cuối cùngcho một cuộc thôn tính lớn nhất.


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro