CHƯƠNG 2. Thí nghiệm tự nhiên về lịch sử

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Trên quần đảo Chatham, cách New Zealand 500 dặm (khoảng 800 km, ND) về phía Đông, dân tộc Moriori từng sống nhiều thế kỷ trong độc lập nhưng rồi lại gặp kết cục tàn khốc vào tháng Mười hai năm 1835. Vào ngày 19 tháng Mười một năm đó, một con tàu chở 500 người Maori mang theo súng ống, gậy gộc và rìu đổ bộ lên quần đảo, sau đó vào ngày 5 tháng Mười hai lại thêm một tàu nữa chở 400 người Maori đến. Những nhóm người Maori bắt đầu đi khắp các làng mạc của người Moriori, tuyên bố rằng từ nay người Moriori là nô lệ của họ, ai phản đối là họ giết. Giá như người Moriori lúc đó tiến hành một cuộc kháng chiến quy mô thì hẳn đã có thể đánh bại người Maori bởi người Moriori đông gấp đôi. Tuy nhiên, người Moriori có truyền thống giải quyết các cuộc tranh chấp bằng cách hòa bình. Tại một cuộc họp cộng đồng, họ quyết định không đánh lại người Maori mà đề xuất hòa bình, hữu nghị và phân chia tài nguyên.

Nhưng người Moriori chưa kịp đưa ra đề xuất đó thì người Maori đã tấn công đại quy mô. Chỉ trong mấy ngày sau họ đã giết hàng trăm người Moriori, đem nhiều xác chết của người Moriori ra nấu nướng rồi ăn thịt, bắt tất cả những người khác làm nô lệ và chỉ vài năm sau đã tùy ý giết chết hầu hết số người đó. Một người Moriori sống sót kể lại: "Người Maori bắt đầu giết chúng tôi như giết cừu... Chúng tôi sợ chết khiếp, trốn trong bờ trong bụi, nấp trong hố dưới đất, bất cứ ở đâu để tránh kẻ thù. Nhưng vô ích; họ tìm ra và giết hết chúng tôi, không phân biệt đàn ông đàn bà, già trẻ lớn bé". Một người chinh phục Maori giải thích: "Chúng tôi nắm quyền sở hữu theo phong tục của chúng tôi, chúng tôi bắt hết người. Không ai thoát cả. Một vài người bỏ chạy, những kẻ đó chúng tôi giết, những người khác chúng tôi cũng giết - thì đã sao? Đó là theo phong tục của chúng tôi mà".

Hậu quả tàn khốc của sự đụng độ này giữa người Moriori với người Maori lẽ ra có thể dễ dàng tiên đoán được. Người Moriori là một nhóm người săn bắt hái lượm nhỏ sống cô lập, chỉ có công nghệ và các vũ khí thô sơ nhất, hoàn toàn không có kinh nghiệm chiến tranh, lại thiếu người lãnh đạo hay tổ chức mạnh. Những người Maori xâm lược (từ đảo Bắc New Zealand) đến từ một vùng đông dân cư gồm những người làm nông thường xuyên dính vào những cuộc chiến tranh khốc liệt, có công nghệ và vũ khí tiên tiến hơn, hoạt động dưới quyền một nhóm lãnh đạo mạnh. Dĩ nhiên, khi hai nhóm này rốt cuộc cũng tiếp xúc với nhau thì chính người Maori tàn sát người Moriori chứ không phải là ngược lại.

Bi kịch của người Moriori giống như nhiều tấn bi kịch khác đã diễn ra ở cả thế giới hiện đại lẫn thế giới cổ xưa, khi những dân tộc đông người và được trang bị tốt đối đầu với những dân tộc ít người và trang bị kém. Tuy nhiên, cuộc xung đột giữa người Maori và người Moriori soi sáng cho chúng ta một cách đáng buồn rằng cả hai nhóm này đã tách ra từ một nguồn chung trước đó chưa đầy một ngàn năm. Cả hai đều là dân Polynesia. Người Maori hiện đại là hậu duệ của các nông dân Polynesia từng di cư sang New Zealand vào khoảng năm 1000. Chẳng bao lâu sau đó, một nhóm người Maori này đến lượt mình lại di cư sang quần đảo Chatham và trở thành người Moriori. Trong các thế kỷ sau khi hai nhóm tách nhau ra, họ tiến hóa theo hai hướng trái ngược nhau, người Maori ở Đảo Bắc phát triển công nghệ và tổ chức chính trị phức tạp hơn, người Moriori thì ít phức tạp hơn. Người Moriori trở lại sống bằng săn bắt hái lượm, còn người Maori Đảo Bắc chuyển sang làm nông nghiệp triệt để hơn.

Những lộ trình tiến hóa trái ngược nhau này đã quyết định hệ quả khi hai nhóm này rốt cuộc đối đầu nhau. Nếu ta có thể hiểu những nguyên nhân dẫn tới sự phát triển khác biệt nhau của hai nhóm xã hội hải đảo này, ấy là ta đã có một mẫu hình để thấu hiểu câu hỏi lớn hơn là những hướng phát triển khác nhau trên các lục địa khác nhau.

Lịch sử Moriori và Maori là một thí nghiệm nhanh trên quy mô nhỏ nhằm kiểm chứng xem môi trường có ảnh hưởng thế nào lên xã hội loài người. Trước khi đọc cả một cuốn sách khảo cứu những tác động của môi trường trên quy mô thật lớn - chẳng hạn như tác động lên các xã hội loài người trong vòng 13.000 năm trở lại đây - hẳn bạn cần có sự đảm bảo - từ các thí nghiệm nhỏ hơn - rằng những tác động đó là thực sự quan trọng. Nếu bạn là nhà khoa học phòng thí nghiệm chuyên nghiên cứu chuột, bạn hẳn sẽ tiến hành một thí nghiệm như vậy bằng cách lấy một đàn chuột, chia số chuột tổ tiên này ra thành nhiều chuồng mỗi chuồng có một môi trường khác nhau, đến khi chuột đã sinh sôi được nhiều thế hệ thì bạn quay lại xem điều gì đã xảy ra. Dĩ nhiên, những thí nghiệm có chủ đích này không thể thực hiện đối với các xã hội loài người. Thay vào đó, nhà khoa học phải tìm những "thí nghiệm tự nhiên" mà ở đó một điều gì tương tự cũng đã xảy ra với con người trong quá khứ.

Một thí nghiệm như vậy đã diễn ra trong quá trình con người di cư sang Polynesia. Rải rác khắp Thái Bình Dương bên ngoài New Guinea và Melanesia là hàng ngàn hòn đảo khác nhau rất nhiều về diện tích, mức độ cô lập, độ cao, khí hậu, tính năng sản, tài nguyên địa chất và tài nguyên sinh học (Hình 2.1). Trong hầu hết lịch sử loài người, các hòn đảo này nằm ngoài tầm với của kỹ thuật hàng hải. Vào khoảng 1.200 năm tr.CN một nhóm người làm nông, đánh cá và đi biển từ quần đảo Bismarck về phía Bắc New Guinea cuối cùng cũng tới được một vài đảo trong số này. Trong vài thế kỷ sau, hậu duệ của họ đã định cư ở hầu như bất cứ rẻo đất nào có thể sống được ở Thái Bình Dương. Quá trình này hầu như hoàn tất vào năm 500, vài ba hòn đảo cuối cùng cũng có người định cư từ sau năm 1000.

Như vậy, chỉ trong một khoảng thời gian không dài, những môi trường hải đảo hết sức đa dạng đã được chiếm lĩnh bởi những người định cư mà tất cả đều phát nguyên từ cùng một nhóm người thủy tổ. Thủy tổ tất cả những người Polynesia ngày nay đều có cùng một nền văn hóa, ngôn ngữ và công nghệ như nhau, cùng một số cây trồng và vật nuôi như nhau. Từ đó, lịch sử Polynesia là một thí nghiệm tự nhiên cho phép ta nghiên cứu sự thích nghi của con người mà không vướng phải những khó khăn thường gặp khiến ta nản lòng khi nghiên cứu những làn sóng di dân khác nhau hòng thấu hiểu sự thích nghi của con người ở các nơi khác trên thế giới.

Trong phạm vi thí nghiệm cỡ trung này, số phận của người Moriori là một thí nghiệm nhỏ hơn. Mô tả cho thấy các môi trường khác nhau ở quần đảo Chatham và New Zealand đã nhào nặn nên những người Moriori và Maori khác nhau đến thế nào là việc không khó. Tuy những người gốc gác Maori đầu tiên di cư sang Chatham có thể vẫn làm nghề nông, song vì các cây trồng nhiệt đới Maori không thể mọc ở khí hậu lạnh của vùng Chatham cho nên những người định cư này chẳng có cách nào khác ngoài trở lại sống bằng săn bắt hái lượm. Bởi là người săn bắt hái lượm nên họ không sản xuất ra lương thực thặng dư đủ để tái phân phối hay dự trữ, họ không thể nuôi ăn những thợ thủ công, quân đội, quan lại và tù trưởng chuyên làm việc của mình mà không săn bắt. Con mồi của họ là hải cẩu, sò ốc, chim biển làm tổ và cá, những loài có thể bắt bằng tay hay bằng gậy và không cần phải có công nghệ tinh xảo. Ngoài ra, Chatham gồm những hòn đảo tương đối nhỏ và cách xa nhau, chỉ có thể nuôi sống một nhóm người săn bắt hái lượm với nhân khẩu không quá hai ngàn. Không còn hòn đảo nào khác để đến định cư, người Moriori đành phải ở lại quần đảo Chatham và học cách sống hòa thuận với nhau. Họ làm được điều đó bằng cách từ bỏ chiến tranh, và họ giảm thiểu những xung đột tiềm tàng do dân số quá đông bằng cách thiến một số bé trai. Kết quả là người Moriori trở thành một nhóm người nhỏ không ưa chiến tranh, có công nghệ và vũ khí thô sơ, không có người lãnh đạo hoặc cơ cấu tổ chức mạnh.

Hình 2.1: Các đảo Polynesia.

(Các vùng/đảo có tên trong ngoặc đơn thì không phải là Polynesia).

Ngược lại, phần phía bắc (ấm hơn) của New Zealand, nhóm đảo lớn nhất ở Polynesia, thì thích hợp với nghề nông của người Polynesia. Những người Maori nào ở lại New Zealand thì sinh sôi nảy nở dần cho đến khi đạt tới dân số hơn 100.000 người. Họ phát triển thành những nhóm dân cư đông đúc thường xuyên đánh nhau ác liệt với các nhóm láng giềng. Với chỗ lương thực thặng dư có thể trồng và dự trữ được, họ có thể nuôi ăn các thợ thủ công, tù trưởng và binh lính làm việc bán thời gian. Họ cần có và đã phát triển được nhiều công cụ để thu hoạch mùa màng, chiến đấu và làm nghệ thuật. Họ dựng lên những công trình tế lễ tinh vi và nhiều pháo đài sừng sững.

Như vậy, các xã hội Moriori và Maori đã phát triển từ cùng một xã hội tổ tiên nhưng theo hai hướng rất khác nhau. Hai xã hội phát sinh từ đó không còn biết đến sự tồn tại của nhau và không hề tiếp xúc lại với nhau trong suốt nhiều thế kỷ, có thể tới 500 năm. Cuối cùng, một con tàu săn hải cẩu của Úc ghé thăm quần đảo Chatham trên đường đến New Zealand đã mang về New Zealand thông tin về những hòn đảo nơi "biển ê hề, cơ man nào là cá; ao hồ lèn chặt những lươn là lươn; lại có lắm quả dâu karaka... Dân cư rất đông, nhưng họ không biết đánh nhau, không có vũ khí". Tin ấy là quá đủ để xui 900 người Maori dong thuyền đến quần đảo Chatham. Hệ quả này cho thấy rõ môi trường có thể ảnh hưởng thế nào đến nền kinh tế, công nghệ, tổ chức chính trị và kỹ năng chiến đấu của con người trong một thời gian ngắn.

Như tôi đã nhắc ở trên, sự đụng độ Maori-Moriori là một thí nghiệm nhỏ bên trong một thí nghiệm cỡ trung. Ta có thể học được gì từ các dân Polynesia về ảnh hưởng của môi trường lên xã hội loài người? Những khác biệt nào giữa các xã hội khác nhau trên những đảo Polynesia khác nhau cần phải được chúng ta lý giải đến nơi đến chốn?

Polynesia, về tổng thể, bao gồm một loạt điều kiện môi trường đa dạng hơn nhiều so với New Zealand và quần đảo Chatham mặc dù Chatham là một thái cực (cực đơn giản) của tổ chức xã hội Polynesia. Về loại hình phương thức tồn tại, người Polynesia bao gồm từ dân săn bắt hái lượm ở quần đảo Chatham, những người trồng trọt chuyên chặt rừng đốt rẫy, cho đến những nông dân sản xuất lương thực thâm canh sống ở một trong những quần thể dân cư dày đặc nhất so với bất cứ xã hội loài người nào khác. Những người sản xuất lương thực Polynesia nuôi thâm canh lợn, chó hoặc gà. Họ tổ chức lực lượng lao động để xây dựng các hệ thống tưới tiêu lớn phục vụ nông nghiệp và xây những hồ lớn để nuôi cá. Cơ sở kinh tế của các xã hội Polynesia bao gồm những hộ gia đình ít nhiều tự cấp tự túc, nhưng ở một số đảo cũng có cả những hội thợ thủ công bán chuyên nghiệp cha truyền con nối. Về tổ chức xã hội, các xã hội Polynesia bao gồm từ những xã hội làng xã tương đối bình đẳng cho đến một số xã hội thuộc loại nhiều đẳng cấp nhất trên thế giới, với nhiều dòng dõi cha truyền con nối theo thứ bậc, có đẳng cấp tù trưởng và lớp thường dân, ai ở giai cấp nào thì chỉ lấy vợ lấy chồng trong giai cấp đó. Về tổ chức chính trị, các đảo Polynesia bao gồm từ các vùng bị chia cắt thành những đơn vị làng hoặc bộ lạc độc lập cho tới những đế quốc sơ khai trải rộng trên nhiều đảo, có quân đội thường trực đi xâm chiếm các hòn đảo khác và tiến hành chiến tranh chinh phạt. Cuối cùng, về văn hóa vật thể, Polynesia bao gồm từ những xã hội chỉ biết sản xuất dụng cụ cá nhân cho đến các xã hội xây dựng được những công trình kỳ vĩ bằng đá. Làm sao lý giải được sự đa dạng đến nhường này?

Góp phần vào những khác biệt đó giữa các xã hội Polynesia là ít nhất sáu tập biến tố môi trường giữa các hòn đảo Polynesia: khí hậu đảo, loại hình địa chất, tài nguyên biển, diện tích, độ cắt xẻ địa hình, mức độ cô lập. Ta hãy xét chuỗi nhân tố này trước khi xét hậu quả cụ thể của chúng đối với các xã hội Polynesia.

Khí hậu Polynesia thay đổi từ khí hậu nhiệt đới hay cận nhiệt đới ấm áp trên hầu hết các đảo nằm gần xích đạo, cho đến khí hậu ôn hòa ở hầu hết các đảo New Zealand, và khí hậu cận Nam cực lạnh trên quần đảo Chatham và phần phía nam của Đảo Nam thuộc New Zealand. Đảo Lớn của Hawaii, mặc dù nằm ngay trong vùng hạ chí tuyến, có những ngọn núi đủ cao để có môi trường sống cho các loài ở vùng núi, thỉnh thoảng còn có cả tuyết rơi. Lượng mưa thay đổi từ cao nhất thế giới (tại Fjorland thuộc New Zealand và đầm lầy Alakai trên đảo Kauai thuộc Hawaii) cho đến chỉ bằng một phần mười như vậy ở những đảo khô đến mức khó lòng trồng trọt gì được.

Loại hình địa chất của các đảo bao gồm đảo san hô, đảo đá vôi nổi, đảo núi lửa, mảnh lục địa, và hỗn hợp giữa các loại trên. Ở một cực, vô số hòn đảo nhỏ, như các đảo ở quần đảo Tuamotu, là những đảo san hô phẳng, thấp, chỉ cao hơn mực nước biển chút ít. Những đảo san hô khác như Henderson và Rennell thì lại được nâng lên cao hơn mực nước biển rất xa để thành những đảo đá vôi nổi. Cả hai loại đảo san hô này đều khó định cư đối với con người bởi chúng gồm toàn đá vôi chứ không có loại đá nào khác, chỉ có lớp đất cực mỏng và không có nước ngọt thường xuyên. Ở cực đối lập, hòn đảo Polynesia lớn nhất, New Zealand, là một vùng đất cổ, đa dạng về địa chất, một mảnh của lục địa Gondwana, có nhiều tài nguyên khoáng sản trong đó có sắt, than, vàng và ngọc bích có thể khai thác thương mại. Hầu hết các đảo Polynesia lớn khác là những núi lửa trồi lên khỏi mặt biển, chưa bao giờ là một phần lục địa và có thể bao gồm hoặc không bao gồm những khu vực đá vôi. Tuy thiếu sự phong phú về địa chất của New Zealand, các đảo núi lửa đại dương ít nhất cũng khá hơn các đảo san hô (theo quan điểm Polynesia) ở chỗ chúng có nhiều loại đá núi lửa đa dạng trong đó có những loại rất thích hợp để làm công cụ đá.

Bản thân các đảo núi lửa cũng rất khác nhau. Một số nhô cao hơn nên có mưa trên núi vì vậy các đảo này có thời tiết phân biệt rõ rệt, có lớp đất sâu và dòng chảy thường xuyên. Đó là trường hợp các đảo Society, Samoa, Marquesas và đặc biệt Hawaii, quần đảo Polynesia có những ngọn núi cao nhất. Trong số các hòn đảo thấp hơn, Tonga và (ở mức độ thấp hơn) đảo Phục Sinh cũng có lớp đất màu mỡ vì có tro núi lửa rơi xuống nhưng lại thiếu những dòng chảy lớn như ở Hawaii.

Về tài nguyên biển, hầu hết các đảo Polynesia đều được nước nông và đá ngầm bao quanh, nhiều đảo lại vây quanh những đầm phá. Những môi trường này đầy ắp cá tôm, sò ốc. Tuy nhiên, bờ biển lắm đá của đảo Phục Sinh, Pitcairn và quần đảo Marquesas, cũng như đáy biển dốc và xung quanh không có rạn san hô khiến cho các đảo này cung cấp ít hải sản hơn nhiều.

Diện tích cũng là một biến tố hiển nhiên khác. Từ 100 ha như Anuta, hòn đảo Polynesia nhỏ nhất có người thường trú, cho tới 103.000 dặm vuông của tiểu lục địa New Zealand. Địa hình có thể sinh sống được của một số đảo, đặc biệt là Marquesas, bị những dãy núi chia cắt thành các thung lũng dốc, trong khi những đảo khác như Tonga và Phục Sinh lại có địa hình hơi mấp mô không gây trở ngại gì cho việc đi lại và giao tiếp.

Biến tố môi trường cuối cùng cần xét là mức độ cô lập. Đảo Phục Sinh và quần đảo Chatham nhỏ bé và xa các đảo khác đến nỗi khi đã có con người đặt chân tới rồi, các xã hội hình thành từ đó phát triển một cách hoàn toàn cách biệt với phần còn lại của thế giới. New Zealand, Hawaii và Marquesas cũng rất xa, nhưng ít nhất thì Hawaii và Marquesas rõ ràng đã có vài sự giao tiếp với các quần đảo khác sau khi có người đặt chân đến đầu tiên, và cả ba đều bao gồm nhiều đảo đủ gần nhau để những người sống trên các đảo khác nhau của cùng một quần đảo có thể thường xuyên giao tiếp với nhau. Hầu hết các đảo Polynesia khác đều ít nhiều có giao tiếp với các đảo khác. Đặc biệt, quần đảo Tonga nằm gần các quần đảo Fiji, Samoa và Wallis đủ để cho phép người ta đi lại thường xuyên giữa các quần đảo này và rốt cuộc đã cho phép người Tonga tiến hành chinh phục Fiji.

Sau khi lướt qua những môi trường khác nhau của Polynesia, giờ ta hãy xem các biến tố đó ảnh hưởng thế nào đến các xã hội Polynesia. Phương tiện sinh tồn là một khía cạnh thuận lợi để chúng ta khảo sát đầu tiên, bởi đến lượt mình nó ảnh hưởng đến các khía cạnh khác.

Phương tiện sinh tồn của người Polynesia bao gồm nhiều kết hợp khác nhau giữa đánh cá, hái lượm quả dại, bắt tôm cua sò ốc, săn các loài chim sống trên mặt đất và chim biển đang giao phối, và sản xuất lương thực. Hầu hết các đảo Polynesia ban đầu là nơi sinh sống của những loài chim lớn không biết bay từng tiến hóa trong hoàn cảnh không hề bị bất cứ loài nào săn để ăn thịt, mà ví dụ nhiều người biết nhất là loài moa New Zealand và ngỗng không biết bay của Hawaii. Tuy các loài chim này từng là nguồn lương thực quan trọng cho những người đến định cư đầu tiên, nhất là trên Đảo Nam của New Zealand, song hầu hết chẳng bao lâu sau đều tuyệt chủng trên tất cả các đảo vì chúng quá dễ săn. Chim biển giao phối cũng nhanh chóng sụt giảm về số lượng nhưng vẫn là nguồn thực phẩm quan trọng trên một vài đảo. Tài nguyên biển là quan trọng trên hầu hết các đảo nhưng ở đảo Phục Sinh, Pitcairn và Marquesas thì lại không quan trọng lắm bởi dân cư các đảo này sống bằng lương thực tự sản xuất là chính.

Người Polynesia xa xưa mang theo ba loài vật đã thuần hóa (lợn, gà và chó) đến những nơi định cư mới và không thuần hóa thêm bất cứ loài vật nào khác ở Polynesia. Nhiều đảo vẫn giữ tất cả ba loài đó, song những đảo Polynesia cô lập hơn thì không còn giữ một trong ba loài ấy hay còn nhiều hơn vậy, hoặc vì gia súc chở trên xuồng không sống được đến cuối cuộc hành trình dài trên biển hoặc vì gia súc một khi đã chết thì không thể đưa gia súc từ ngoài vào thay thế được. Chẳng hạn, New Zealand bị cô lập nên rốt cuộc chỉ còn mỗi loài chó; đảo Phục Sinh và Tikopia chỉ còn lại mỗi gà. Vì không thể tiếp cận các rạn san hô hay những vùng nước nông giàu hải sản còn những loài chim sống trên cạn thì nhanh chóng tuyệt chủng, dân đảo Phục Sinh đành chuyển sang xây chuồng gà để thâm canh nuôi gia cầm.

Tuy nhiên, ba loài vật đã thuần hóa đó giỏi lắm cũng chỉ đủ ăn dăm ngày ba bữa. Sản xuất lương thực của người Polynesia phụ thuộc chủ yếu vào cây trồng, nhưng ở các vĩ độ cận Nam cực thì không thể trồng trọt được bởi tất cả các loại cây trồng Polynesia đều là cây vùng nhiệt đới, được thuần hóa ở nơi khác rồi mới được di dân mang đến Polynesia. Vì vậy những người định cư ở Chatham và vùng phía nam giá lạnh của Đảo Nam New Zealand buộc phải từ bỏ di sản trồng trọt của tổ tiên tự hàng ngàn năm trước để lại trở thành dân săn bắt hái lượm.

Dân cư trên các đảo Polynesia còn lại thì có làm nông nghiệp dựa trên các loại cây trồng đất khô (nhất là khoai sọ, khoai mỡ, khoai lang), cây trồng tưới nước (chủ yếu khoai sọ) và cây trồng có thân (như quả sa-kê, chuối và dừa). Năng suất và tầm quan trọng tương đối của các loại cây trồng này thay đổi đáng kể từ đảo này sang đảo khác tùy theo môi trường. Mật độ dân cư của người là thấp nhất trên đảo Henderson, Rennell và các đảo san hô do đất cằn và ít nước ngọt. Mật độ cũng thấp ở New Zealand có khí hậu ôn hòa bởi nơi đây quá lạnh so với một số loại cây trồng Polynesia. Người Polynesia trên các đảo này và một số đảo khác làm nông nghiệp theo lối không thâm canh mà là du canh, đốt rừng làm rẫy.

Những đảo khác có đất màu mỡ nhưng lại không đủ cao để có những dòng chảy lớn thường xuyên, do đó cũng không thể có kênh mương. Cư dân các đảo này làm nông nghiệp thâm canh trên đất khô nên cần phải đầu tư nhiều sức lực để đắp nền, phủ bổi, xoay vòng cây, giảm thiểu hoặc loại trừ hẳn những thời kỳ bỏ hóa đất và chăm sóc các đồn điền. Nông nghiệp đất khô trở nên đặc biệt có năng suất cao ở đảo Phục Sinh, đảo Anuta bé tí và đảo Tonga phẳng, thấp, nơi người Polynesia dành hầu hết diện tích đất để trồng lương thực.

Ngành nông nghiệp có năng suất cao nhất ở Polynesia là trồng khoai sọ ở các cánh đồng có tưới tiêu. Trong số các hòn đảo nhiệt đới đông dân nhất, lựa chọn này bị loại trừ đối với Tonga do đảo này có độ cao thấp nên thiếu sông ngòi. Nông nghiệp tưới tiêu đạt tới đỉnh cao ở các đảo cực tây Hawaii gồm Kauai, Oahu và Molokai vốn đủ rộng và ẩm ướt để có không chỉ những dòng chảy lớn thường xuyên mà cả dân số đông để có thể xây dựng các công trình. Những người lao dịch Hawaii đã xây dựng các hệ thống tưới tiêu tinh vi cho các cánh đồng khoai sọ cho năng suất đến 24 tấn một hécta, năng suất cây trồng cao nhất trên toàn Polynesia. Năng suất này đến lượt mình lại cho phép thâm canh nuôi lợn. Hawaii cũng là nơi duy nhất ở Polynesia sử dụng lao động quy mô lớn cho nghề thủy sản, xây những ao cá lớn để nuôi cá măng và cá đối.

Do hệ quả việc phương tiện sinh tồn có liên quan đến biến tố môi trường, nên mật độ dân cư (đo bằng đơn vị số đầu người trên dặm vuông đất có thể trồng trọt) thay đổi khá nhiều trên toàn Polynesia. Mật độ thấp nhất là những người săn bắt hái lượm ở quần đảo Chatham (chỉ 5 người trên một dặm vuông) và Đảo Nam của New Zealand cũng như những người làm nông trên phần còn lại của New Zealand (28 người trên một dặm vuông). Ngược lại, nhiều hòn đảo có nền nông nghiệp thâm canh đạt mật độ dân số tới 210-250 người trên một dặm vuông, ở Hawaii lên tới 300. Cực cao nhất là 1.100 người trên một dặm vuông ở hòn đảo đất cao Anuta nơi cư dân đã biến hầu như toàn bộ hòn đảo thành đất thâm canh nông nghiệp cho nên chỉ vỏn vẹn một hécta mà lèn chặt tới 160 người, trở thành một trong những quần thể dân cư có mật độ cao nhất thế giới. Mật độ dân cư của Anuta vượt cả mật độ của Hà Lan hiện nay và thậm chí ngang ngửa với Bangladesh.

Quy mô dân số là tích số của mật độ dân cư (số người trên dặm vuông) và diện tích (dặm vuông). Diện tích ở đây không phải là diện tích một hòn đảo mà là diện tích của một đơn vị chính trị, vốn có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn một hòn đảo. Một mặt, những hòn đảo gần nhau có thể được kết hợp thành một đơn vị chính trị duy nhất. Mặt khác, những hòn đảo duy nhất với địa hình cắt xẻ được chia thành nhiều đơn vị chính trị độc lập. Vì vậy, diện tích một đơn vị chính trị thay đổi không chỉ theo diện tích một hòn đảo mà cả theo mức độ chia cắt và tách biệt của hòn đảo đó.

Với những hòn đảo nhỏ tách biệt mà không có những rào cản lớn đối với sự giao tiếp trong nội bộ đảo thì toàn bộ đảo là một đơn vị chính trị duy nhất, như trong trường hợp Anuta với vỏn vẹn 160 người. Nhiều đảo lớn hơn chẳng bao giờ thống nhất được về mặt chính trị, hoặc vì dân cư bao gồm nhiều bộ lạc khác nhau, mỗi bộ lạc chỉ gồm vài chục người săn bắt hái lượm (như quần đảo Chatham và phía nam Đảo Nam của New Zealand) hoặc gồm những người làm nông sống rải rác cách xa nhau (phần còn lại của New Zealand) hoặc những nông dân cư trú với mật độ cao song ở vùng địa hình lởm chởm gây trở ngại cho việc thống nhất về chính trị. Chẳng hạn, dân cư ở những thung lũng sườn dốc kề cận nhau ở Marquesas chỉ giao tiếp với nhau chủ yếu bằng đường biển; mỗi thung lũng là một thực thể chính trị độc lập gồm dăm ngàn cư dân, và hầu hết các đảo lớn của quần đảo Marquesa vẫn chia cắt thành nhiều thực thể như vậy.

Địa hình các đảo Tonga, Samoa, Society và các đảo Hawaii thì lại cho phép thống nhất chính trị trong nội bộ các đảo, cho ra những đơn vị chính trị gồm 10.000 người hay nhiều hơn (trên 30.000 đối với các đảo lớn của Hawaii). Khoảng cách giữa các đảo của quần đảo Tonga cũng như khoảng cách giữa Tonga với các quần đảo láng giềng là đủ gần để rốt cuộc người ta có thể thiết lập một đế quốc đa đảo bao gồm 40.000 người. Vậy là, các đơn vị chính trị ở Polynesia thay đổi về quy mô từ dăm chục người đến bốn vạn người.

Dân số của một đơn vị chính trị tương tác với mật độ dân số có ảnh hưởng đến công nghệ và tổ chức kinh tế, xã hội và chính trị của người Polynesia. Nói chung, dân số càng đông và mật độ càng cao thì công nghệ và tổ chức càng phức tạp và chuyên biệt, vì những nguyên nhân mà chúng ta sẽ xét chi tiết ở các chương sau. Nói ngắn gọn, khi mật độ dân cư cao thì chỉ một phần dân chúng trở thành nông dân, nhưng họ được huy động để dành hết công sức làm nông nghiệp thâm canh, nhờ đó có lương thực thặng dư đặng nuôi sống những người không sản xuất. Những người không trực tiếp sản xuất mà chuyên huy động nông dân là các tù trưởng, tăng lữ, quan lại và binh lính. Các đơn vị chính trị lớn nhất có thể tập hợp lực lượng lao động lớn để xây dựng các hệ thống tưới tiêu và ao cá, những việc này lại càng giúp tăng cường sản xuất lương thực. Những diễn biến này đặc biệt thấy rõ tại Tonga, Samoa và đảo Society, tất cả đều màu mỡ, mật độ dân số cao và diện tích tương đối rộng theo chuẩn của Polynesia. Những xu hướng này đạt tới đỉnh cao trên quần đảo Hawaii bao gồm những hòn đảo Polynesia rộng nhất ở vùng nhiệt đới, nơi mật độ dân số cao và diện tích đất rộng nên các tù trưởng có thể huy động những lực lượng lao động rất lớn khi cần.

Những biến đổi khác nhau trong các xã hội Polynesia gắn liền với sự khác nhau về mật độ dân số và quy mô dân số là như sau: Nền kinh tế đơn giản nhất là nền kinh tế trên những đảo có mật độ dân số thấp (như săn bắt hái lượm trên đảo Chatham), quy mô dân số thấp (các đảo san hô nhỏ) hay cả mật độ thấp lẫn quy mô dân số thấp. Ở các xã hội này mỗi gia đình tự làm lấy những gì mình cần; ít có hoặc không có sự chuyên môn hóa trong kinh tế. Sự chuyên môn hóa tăng lên ở các đảo lớn hơn, dân cư đông hơn, đạt đỉnh cao ở Samoa, các đảo Society, đặc biệt là ở Tonga và Hawaii. Hai hòn đảo vừa nhắc sau cùng này có những thợ thuyền bán chuyên nghiệp cha truyền con nối trong đó có những thợ đóng xuồng, hoa tiêu, thợ xây đá, thợ bắn chim và thợ xăm mình.

Tính phức tạp xã hội cũng thay đổi theo cách tương tự. Lại nữa, quần đảo Chatham và các đảo san hô có những xã hội đơn giản nhất, bình đẳng nhất. Tuy các đảo này vẫn duy trì truyền thống nguyên thủy của người Polynesia là có tù trưởng, song các tù trưởng của họ ít có hoặc không hề có những dấu hiệu phân biệt thấy rõ, sống trong những túp lều giống như của thường dân, và cũng tự trồng trọt hay săn bắt lương thực cho chính mình như mọi người. Sự phân biệt xã hội và quyền lực của tù trưởng tăng lên ở các đảo có mật độ cao và đơn vị chính trị lớn, đặc biệt là ở Tonga và Society.

Tính phức tạp xã hội cũng lại đạt đỉnh cao ở quần đảo Hawaii, nơi những người là hậu duệ của tù trưởng được chia thành tám dòng dõi theo thứ bậc. Thành viên các dòng dõi tù trưởng này không kết hôn với thường dân mà chỉ kết hôn với nhau, đôi khi thậm chí với cả anh chị em ruột, anh chị em cùng mẹ hoặc cùng cha. Thường dân phải cúi rạp mình trước mặt các tù trưởng quyền cao chức trọng. Mọi thành viên của dòng dõi tù trưởng, quan lại và một số thợ thủ công được miễn làm công việc sản xuất lương thực.

Cơ cấu chính trị cũng theo đúng xu hướng đó. Trên quần đảo Chatham và các đảo san hô, tù trưởng chẳng có nhiều quyền để ra lệnh, các quyết định đều đạt được thông qua thảo luận chung, và quyền sở hữu đất đai nằm trong tay cộng đồng với tư cách toàn thể chứ không phải trong tay tù trưởng. Những đơn vị chính trị lớn hơn, mật độ dân số cao hơn thì tập trung nhiều quyền lực hơn vào tay tù trưởng. Tính phức tạp về chính trị là cao nhất ở Tonga và Hawaii nơi quyền lực của tù trưởng cha truyền con nối cũng gần như của vua chúa ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới, đất đai là do tù trưởng cai quản chứ không phải thường dân. Dùng các quan lại được bổ nhiệm làm trung gian, tù trưởng tiến hành trưng thu lương thực của thường dân và trưng dụng họ làm việc ở các công trình xây dựng. Hình thức các công trình này khác nhau tùy đảo: các hệ thống tưới tiêu và ao cá ở Hawaii, các trung tâm nhảy múa và lễ hội ở Marquesas, mộ tù trưởng ở Tonga, đền đài ở Hawaii, đảo Society và đảo Phục Sinh.

Vào thời điểm người châu Âu đặt chân đến Polynesia ở thế kỷ XVIII, tù trưởng quốc hay nhà nước Tonga đã trở thành một đế quốc liên quần đảo. Vì bản thân quần đảo Tonga khá san sát nhau và gồm một số đảo có địa hình không chia cắt, nên mỗi đảo đều được thống nhất dưới quyền một tù trưởng duy nhất; sau đó các tù trưởng cha truyền con nối trên hòn đảo lớn nhất của Tonga (Tongatapu) thống nhất toàn bộ quần đảo, cuối cùng họ chinh phục cả những đảo khác bên ngoài quần đảo mà hòn xa nhất cách những 500 dặm (800 km, ND). Họ thường xuyên buôn bán đường dài với Fiji và Samoa, thiết lập những điểm định cư của người Tonga ở Fiji và bắt đầu tấn công, xâm chiếm từng phần của Fiji. Việc chinh phục và cai quản cái đế quốc hải đảo sơ khai này thực hiện được nhờ những hạm đội gồm các chiếc xuồng lớn mỗi chiếc chứa được tới 150 người.

Cũng như Tonga, Hawaii đã trở thành một thực thể chính trị bao gồm vài hòn đảo đông dân, song là một thực thể chính trị chỉ gói gọn trong một quần đảo duy nhất bởi vị trí cực kỳ cách biệt của nó. Tại thời điểm người châu Âu "phát hiện" ra Hawaii vào năm 1778, sự thống nhất chính trị đã diễn ra trong từng hòn đảo Hawaii và đã manh nha có vài sự hợp nhất chính trị giữa nhiều hòn đảo. Bốn đảo rộng nhất - Đảo Lớn (Hawaii theo nghĩa hẹp), Maui, Oahu và Kauai - vẫn độc lập, nắm quyền kiểm soát (hoặc dùng mánh khóe để tranh nhau quyền kiểm soát) các đảo nhỏ hơn (Lanai, Molokai, Kahoolawe và Niihau). Sau khi người châu Âu đến, Vua Kamehameha Đệ Nhất của Đảo Lớn nhanh chóng tiến hành hợp nhất các đảo lớn bằng cách mua súng và tàu thuyền của người châu Âu để xâm chiếm và chinh phục đầu tiên là Maui, sau đó Oahu. Rồi Kamehameha đã chuẩn bị xâm lăng hòn đảo Hawaii cuối cùng còn độc lập là Kauai, nhưng cuối cùng tù trưởngđảo này đạt được một giải pháp với nhà vua thông qua đàm phán, đến đây cuộc thống nhất quần đảo đã hoàn tất.

Loại biến tố còn lại giữa các xã hội Polynesia mà chúng ta cần xét là các công cụ và những phương diện khác của văn hóa vật thể. Việc mỗi nơi có những loại nguyên liệu thô khác nhau có tác động rõ rệt đến nền văn hóa vật thể. Ở một thái cực là Đảo Henderson, một rạn san hô nổi lên trên mặt biển và không có loại đá nào khác ngoài đá vôi. Cư dân trên đảo chỉ còn biết chế tác ra những chiếc rìu lưỡi vòm bằng vỏ trai. Ở thái cực đối lập là người Maori trên tiểu lục địa New Zealand, có trong tay một loạt nhiều loại nguyên liệu thô và trở nên đặc biệt đáng chú ý ở cách họ sử dụng ngọc bích. Giữa hai thái cực đó là các đảo núi lửa đại dương của Polynesia, vốn thiếu đá granit, đá lửa và các loại đá lục địa khác nhưng ít nhất cũng có đá núi lửa, người Polynesia chế tác đá này thành những chiếc rìu đá được mài hay đánh bóng dùng để phát quang đất làm ruộng.

Về các loại vật dụng chế tác, dân quần đảo Chatham chẳng cần gì lắm ngoài những chiếc dùi cui và gậy cầm tay để giết hải cẩu, chim và tôm hùm. Cư dân hầu hết các đảo khác thì tạo ra rất nhiều vật dụng khác nhau, gồm lưỡi câu, rìu, đồ trang sức và nhiều vật khác nữa. Trên các đảo san hô, cũng như ở Chatham, các vật dụng này nhỏ, tương đối đơn giản, ai làm ra thì của người ấy, còn kiến trúc thì chẳng có gì hơn là những túp lều đơn sơ. Các hòn đảo lớn và đông dân thì có những thợ thủ công chuyên nghiệp làm ra nhiều thứ vật phẩm gây uy thế dành riêng cho tù trưởng, chẳng hạn những áo choàng không tay bằng lông chim dành cho các tù trưởng Hawaii được làm từ hàng ngàn cái lông chim.

Những sản phẩm lớn nhất của Polynesia là các công trình đồ sộ bằng đá trên một số đảo - những bức tượng đá lừng danh trên Đảo Phục Sinh, mộ các tù trưởng Tonga, các đàn tế lễ ở quần đảo Marquesas, các đền đài ở Hawaii và các đảo Society. Nền kiến trúc hoành tráng này của Polynesia rõ ràng là tiến hóa theo cùng một hướng như các kim tự tháp của Ai Cập, Lưỡng Hà, Mexico và Peru. Hiển nhiên, các công trình của Polynesia không có quy mô bằng các kim tự tháp kia, nhưng điều đó chỉ phản ánh thực tế là các pharaông Ai Cập có thể huy động nhân lực từ một dân số đông hơn nhiều so với tù trưởng của bất cứ hòn đảo Polynesia nào. Song, dù có vậy đi nữa, cư dân đảo Phục Sinh vẫn đã xây được những bức tượng nặng tới 30 tấn, đó chẳng phải là việc dễ đối với vỏn vẹn 7.000 con người không có trong tay nguồn lực nào khác ngoài cơ bắp của chính mình.

Như vậy, các xã hội đảo Polynesia khác nhau rất nhiều ở tính chuyên môn hóa trong kinh tế, độ phức tạp xã hội, tổ chức chính trị và sản phẩm vật thể, những điều này có liên quan đến những khác biệt về quy mô và mật độ dân số, rồi đến lượt mình dân số lại liên quan đến diện tích, độ cắt xẻ, độ cô lập của từng đảo, cũng như cơ hội sinh tồn và cơ hội phát triển nền sản xuất lương thực trên từng đảo. Tất cả những khác biệt đó giữa các xã hội Polynesia đã phát triển - chỉ trong một thời gian tương đối ngắn và tại một phần khiêm tốn của bề mặt Trái đất - như những biến thái liên quan đến môi trường trên cùng một xã hội tổ tiên duy nhất. Các chủng loại khác biệt văn hóa này trong phạm vi Polynesia, về bản chất, cũng chính là các chủng loại đã phát sinh ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới.

Dĩ nhiên, dãy biến thái trên toàn thế giới là lớn hơn nhiều so với trong phạm vi Polynesia. Vào cùng thời gian khi cư dân các lục địa chỉ bao gồm những người vẫn dựa vào công cụ đá, Nam Mỹ cũng sinh ra những xã hội chuyên dùng kim loại quý, còn người Âu-Á và người châu Phi thì tiến tới dùng sắt. Những sự phát triển đó không thể xảy ra được ở Polynesia bởi không một đảo Polynesia nào trừ New Zealand có quặng kim loại đáng kể. Tại Âu-Á đã hình thành những đế quốc hẳn hoi từ khi chưa có ai di cư đến Polynesia; Nam Mỹ và Trung Mỹ thì phát triển thành đế quốc muộn hơn, trong khi Polynesia chỉ sinh ra được hai đế quốc sơ khai trong đó có một (Hawaii) chỉ hình thành sau khi người châu Âu đến. Âu-Á và Trung Mỹ đã phát triển chữ viết của riêng mình, còn tại Polynesia thì chữ viết đã không nảy sinh, có lẽ chỉ ngoại trừ Đảo Phục Sinh song ngay cả thứ chữ viết bí ẩn của đảo này cũng chỉ ra đời sau khi dân đảo tiếp xúc với người châu Âu lần đầu tiên.

Vậy nghĩa là, Polynesia cho ta thấy một lát cắt nhỏ - chứ không phải toàn bộ bức tranh - về tính đa dạng của xã hội loài người. Điều này âu chẳng có gì lạ, bởi Polynesia chỉ là một lát cắt nhỏ của tính đa dạng địa lý của thế giới. Ngoài ra, bởi Polynesia chỉ có người đến định cư rất muộn trong lịch sử loài người, nên ngay cả những xã hội Polynesia cổ nhất cũng chỉ có vỏn vẹn 3.200 năm để phát triển, trái ngược với ít nhất 13.000 năm đối với các xã hội ở ngay cả lục địa có người ở muộn nhất (châu Mỹ). Giá như có được thêm vài ngàn năm nữa thì chắc hẳn Tonga và Hawaii đã đạt tới cấp độ những đế quốc phát triển đầy đủ, đánh lẫn nhau để giành quyền kiểm soát Thái Bình Dương, tự sáng tạo ra chữ viết dùng để cai quản các đế quốc đó, trong khi người Maori ở New Zealand hẳn đã có thể bổ sung công cụ bằng đồng và sắt vào danh mục các vật phẩm bằng ngọc bích và những chất liệu khác của mình.

Nói ngắn gọn, Polynesia cho ta một ví dụ đầy thuyết phục về sự đa dạng liên quan đến môi trường của các xã hội loài người đang trong quá trình tiến triển. Nhưng ta cũng chỉ học được rằng chuyện đó có thể xảy ra bởi vì nó đã xảy ra rồi, ở Polynesia. Liệu điều đó có xảy ra trên các lục địa khác không? Nếu có, thì những khác biệt môi trường nào là nguyên nhân cho tính đa dạng trên các lục địa, và những hệ quả của chúng là gì?


Những sự hoán đổi dân số lớn nhất trong thời cận đại là việc người châu Âu di cư sang Tân Thế giới, và kết quả của nó là hầu hết các nhóm người châu Mỹ bản địa (người Anh-điêng châu Mỹ) bị chinh phục, suy giảm dân số hoặc biến mất hoàn toàn. Như tôi đã giải thích ở Chương 1, Tân Thế giới có người đến định cư đầu tiên vào khoảng 11.000 năm tr.CN hoặc trước đó theo ngả Alaska, eo Bering và Siberia. Các xã hội phức tạp làm nghề nông đã dần dần nảy sinh ở châu Mỹ xa dần xuống phía Nam dọc theo con đường xâm nhập đó, phát triển trong sự cách ly hoàn toàn với các xã hội phức tạp đang nảy sinh ở Cựu Thế giới. Sau khi con người từ châu Á di cư sang châu Mỹ lần đầu tiên, những tiếp xúc duy nhất có thể chứng minh được giữa Tân Thế giới và châu Á chỉ diễn ra giữa những người săn bắt hái lượm sống hai bên bờ eo Bering, cộng với một chuyến du hành xuyên đại dương mang khoai tây từ Nam Mỹ đến Polynesia mà ta có thể luận ra.

Về những tiếp xúc giữa các dân tộc của Tân Thế giới với châu Âu, những tiếp xúc sớm duy nhất là của người Na Uy khi họ chiếm cứ Greenland với số lượng rất nhỏ từ năm 986 đến khoảng năm 1.500. Song những cuộc viếng thăm của người Na Uy không có tác động thấy rõ nào đến các xã hội châu Mỹ bản địa. Thay vào đó, vì những mục đích thực dụng, cuộc đụng độ giữa các xã hội tiên tiến của Cựu Thế giới với các xã hội Tân Thế giới diễn ra đột ngột vào năm 1492 khi Christopher Columbus "phát hiện" ra các đảo Caribê nơi có đông người châu Mỹ bản địa sinh sống.

Khoảnh khắc kịch tính nhất trong quan hệ giữa người châu Âu và người châu Mỹ bản địa từ đó về sau là cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa hoàng đế Atahualpa của đế quốc Inca với nhà chinh phục Francisco Pizarro người Tây Ban Nha trên thành phố cao nguyên Cajamarca ở Peru vào ngày 16 tháng Mười hai năm 1532. Atahualpa là vị chúa tể tuyệt đối của nhà nước lớn nhất và tiên tiến nhất ở Tân Thế giới, trong khi Pizarro là đại diện cho hoàng đế Charles V của đế quốc La Mã Thần thánh (còn được gọi là Vua Charles Đệ nhất của Tây Ban Nha), chúa tể của nhà nước hùng mạnh nhất ở châu Âu. Pizarro, dẫn đầu một toán quân ô hợp gồm 168 binh sĩ Tây Ban Nha, đang ở trên một vùng đất xa lạ, hoàn toàn chẳng biết gì về cư dân bản địa, hoàn toàn không thể liên lạc với những người Tây Ban Nha gần nhất (cách 1.600 km ở phía Bắc Panama) và quá xa đến nỗi khó lòng được kịp thời tiếp viện. Atahualpa đang ở giữa đế quốc của chính mình với hàng triệu thần dân, vây quanh sát nách là đạo quân gồm 80.000 chiến binh vừa ca khúc khải hoàn sau một cuộc chiến với những người Anh-điêng khác. Thế nhưng Pizarro đã bắt sống Atahualpa trong vòng vài phút sau khi hai người nhìn thấy nhau lần đầu tiên. Pizarro tiếp tục giam giữ tù nhân trong tám tháng, đòi một khoản tiền chuộc lớn nhất trong lịch sử để đổi lấy lời hứa trả tự do cho nhà vua. Sau khi nhận được tiền chuộc - một số vàng đủ để chất đầy một căn phòng dài 22 bộ (gần 7 m), rộng 17 bộ (hơn 5 m) và cao trên 8 bộ (khoảng 2,5 m), Pizarro nuốt lời hứa và hành quyết Atahualpa.

Sự kiện bắt sống Atahualpa có ý nghĩa quyết định với việc người châu Âu chinh phục toàn bộ Đế quốc Inca. Mặc dù vũ khí ưu việt của Tây Ban Nha hẳn cũng có thể bảo đảm cho người Tây Ban Nha sớm muộn gì cũng thắng, song việc bắt sống nhà vua khiến cho cuộc chinh phục diễn ra nhanh chóng hơn và hết sức dễ dàng. Atahualpa được người Inca sùng bái như thần mặt trời và có uy quyền tuyệt đối với thần dân, họ tuân theo mệnh lệnh của nhà vua ngay cả khi ngài đang bị giam cầm. Mấy tháng trước khi nhà vua chết là đủ để Pizarro cử những nhóm thám hiểm đến những vùng khác của Đế quốc Inca mà không ai dám cản cũng như cử người đến Panama xin tiếp viện. Đến khi giao tranh giữa người Tây Ban Nha với người Inca rốt cuộc cũng xảy ra sau khi Atahualpa bị hành quyết thì lực lượng của người Tây Ban Nha đã đáng sợ hơn nhiều.

Như vậy, sự kiện bắt giữ Atahualpa đáng chú ý với chúng ta ở chỗ nó đánh dấu thời điểm quyết định trong cuộc đụng độ lớn nhất trong lịch sử hiện đại. Nhưng sự kiện này còn đáng chú ý theo nghĩa khái quát hơn, bởi các nhân tố dẫn đến việc Pizarro bắt giữ Atahualpa, về thực chất, cũng chính là các nhân tố quyết định kết cục của nhiều đụng độ tương tự giữa những kẻ thực dân với các dân tộc bản địa ở bất cứ đâu trong thế giới hiện đại. Do đó, việc bắt giữ Atahualpa cho ta một cửa sổ rộng để nhìn vào lịch sử thế giới.

Những gì diễn ra ngày hôm đó tại Cajamarca được nhiều người biết đến bởi được nhiều người Tây Ban Nha đã trực tiếp tham gia ghi lại. Để có chút cảm nhận về những sự kiện đó, ta hãy cùng sống lại thời điểm ấy bằng cách đan dệt vào nhau trích đoạn tường thuật của những người tai nghe mắt thấy - sáu chiến hữu của Pizarro trong đó có hai người anh em của ông là Hernando và Pedro.

"Sự khôn ngoan, tính can trường, kỷ luật quân đội, lòng cúc cung tận tụy, những chuyến hải hành đầy ắp hiểm nguy, và những trận chiến của người Tây Ban Nha - những bề tôi của Hoàng đế bất khả chiến bại của Đế quốc La Mã thần thánh, Đức Vua và Chúa tể hiển nhiên của chúng ta - sẽ mang niềm vui cho người ngoan đạo và nỗi kinh hoàng cho những phường vô đạo. Vì lý do này, vì vinh quang của Chúa Trời, và để phụng sự Đức Giáo hoàng của chúng ta, thần thật vui sướng được viết bản tường trình này gửi lên Hoàng thượng, sao cho mọi người biết đến những gì liên quanđang diễn ra ở chốn này. Bản tường thuật này là vì vinh quang của Chúa Trời bởi họ đã chinh phục được và mang về cho Tín Ngưỡng Kitô thần thánh của chúng ta cơ man nào là những kẻ ngoại đạo nhờ sự dẫn dắt thiêng liêng của Người. Đó là vì vinh quang của Hoàng đế chúng ta bởi nhờ quyền năng vĩ đại và hồng phúc của Ngài mà những sự kiện như vậy đã diễn ra dưới thời cai trị của chính Ngài. Việc này sẽ mang lại niềm vui cho những người ngoan đạo rằng họ đã chiến thắng những cuộc giao tranh thế kia, đã khám phá và chinh phục được những vùng đất thế kia, đã mang về cho Đức Vua và cho chính mình những bạc vàng châu báu thế kia, đã gieo rắc nỗi khiếp sợ đến ngần ấy ở những quân ngoại đạo và đã khiến toàn nhân loại phải đem lòng bái phục.

Bởi đã có bao giờ, dẫu thời xưa hay ngày nay, một số người ít ỏi đến thế đã thắng được số đông đến thế, vượt qua ngần ấy xứ sở, băng qua ngần ấy biển khơi, ruổi qua ngần ấy quãng đường, đạt được những kỳ tích lớn lao đến thế hầu chinh phục cái ta chưa từng thấy và chưa từng biết? Những người Tây Ban Nha của chúng ta, tuy chỉ là số ít, chưa lúc nào có quá 200 hay 300 người cùng một lúc, đôi khi chỉ có vỏn vẹn 100 người hay còn ít hơn nữa, ngay trong thời đại chúng ta đã chinh phục nhiều lãnh thổ hơn bất cứ thời nào từ trước đến nay hoặc nhiều hơn lãnh thổ mà tất cả các ông hoàng ngoan đạo và ngoại đạo từng sở hữu. Giờ thần sẽ chỉ viết về những gì đã xảy ra trong cuộc chinh phạt, và sẽ không viết nhiều để tránh dông dài.

Thống đốc Pizarro muốn có thông tin tình báo từ một số người Anh-điêng ở Cajamarca đến, thế là ngài ra lệnh tra tấn chúng. Chúng thú nhận rằng nghe nói Atahualpa đang đợi Thống chế ở Cajamarca. Thế là Thống chế hạ lệnh tiến quân. Khi đến cổng thành Cajamarca, chúng tôi thấy trại của Atahualpa cách chừng một lý, nơi chân núi. Trại của người Anh-điêng trông như một thành phố thật đẹp. Họ có nhiều lều đến nỗi tất cả chúng tôi cứ ngẩn ra nhìn. Cho tới lúc đó chúng tôi chưa hề thấy một cái gì như vậy ở vùng Đông Ấn. Nó khiến tất cả người Tây Ban Nha chúng tôi kinh sợ và bối rối. Nhưng chúng tôi không thể để lộ mình đang sợ hãi hoặc quay lưng rút lui, bởi nếu người Anh-điêng nhận thấy dù chỉ một mảy may yếu đuối nào ở chúng tôi thì ngay cả những người Anh-điêng mà chúng tôi mang theo làm người hướng dẫn cũng có thể sẽ giết chúng tôi. Vì thế chúng tôi cố tỏ ra tươi tỉnh phấn chấn, và sau khi cẩn thận quan sát thành phố cùng những chiếc lều, chúng tôi đi xuống thung lũng để vào thành Cajamarca.

Chúng tôi bàn với nhau hồi lâu xem cần phải làm gì. Tất cả chúng tôi đều đầy sợ hãi bởi chúng tôi ít người quá mà lại đã thâm nhập quá sâu vào một vùng đất nơi chúng tôi không hy vọng gì được tiếp viện. Tất cả chúng tôi đến gặp Thống chế để bàn xem sẽ hành động ra sao vào ngày hôm sau. Đêm hôm ấy chẳng mấy ai trong chúng tôi chợp mắt, chúng tôi cứ ngắm mãi quảng trường Cajamarca, nhìn những đống lửa ngoài trời của quân Anh-điêng. Nhìn cảnh tượng ấy mà khiếp sợ. Hầu hết các đống lửa đều ở trên sườn đồi, gần nhau đến nỗi trông như bầu trời chi chít những sao. Đêm hôm đó không hề có sự phân biệt giữa kẻ quyền uy với người hèn mọn hay giữa binh lính chân đất và kỵ sĩ. Tất cả đều làm nghĩa vụ canh gác, vũ khí lăm lăm trong tay. Hernando Pizarro, em trai của Thống chế, dự đoán số binh sĩ Anh-điêng vào khoảng 40.000 người, nhưng ấy là ông nói dối để khích lệ chúng tôi, chứ thật ra có đến hơn 80.000 người Anh-điêng.

Sáng hôm sau một điệp sứ của Atahualpa đến, Thống chế liền bảo y: 'Về bảo chúa của ngươi hãy đến khi nào và bằng cách nào tùy ngài muốn, và dù ngài đến bằng cách nào đi nữa ta cũng sẽchào đón ngài như người bạn và người anh em. Ta mong ngài đến sớm bởi ta rất muốn gặp ngài. Ngài sẽ không bị hại gì cũng không phải chịu lời xúc phạm nào đâu'.

Thống chế cho ém quân quanh quảng trường ở Cajamarca, chia kỵ binh thành hai nhóm, một nhóm ngài giao cho em trai Hernando Pizarro chỉ huy, nhóm kia ngài giao cho Hernando de Soto. Cũng vậy ngài chia bộ binh ra, bản thân ngài nắm một nhóm, nhóm kia ngài giao cho em trai là Juan Pizarro. Đồng thời ngài ra lệnh cho Pedro de Candia đem hai, ba lính bộ binh mang kèn lên một pháo đài nhỏ trong quảng trường, chốt tại đó với một ít hỏa lực. Khi tất cả người Anh-điêng có Atahualpa đi cùng đã bước vào quảng trường, Thống chế sẽ ra hiệu cho Candia và người của ông ta, sau đó họ sẽ bắt đầu nổ súng, kèn sẽ vang lên, nghe tiếng kèn, kỵ binh sẽ tràn ra từ khoảnh sân rộng nơi họ đang ẩn nấp sẵn sàng xung trận.

Đến trưa Atahualpa bắt đầu ra lệnh cho người của mình xếp thẳng hàng rồi tiến lại gần. Chẳng mấy chốc chúng tôi thấy toàn bộ đồng bằng đã tràn ngập người Anh-điêng, chốc chốc lại dừng để đợi những người Anh-điêng khác nữa vẫn đang rời trại mà tiến tới đằng sau họ. Họ cứ kéo đến hết tốp này đến tốp khác mãi tới chiều. Những tốp đầu tiên đã tiến sát gần trại chúng tôi mà những toán khác vẫn tiếp tục từ trại của người Anh-điêng túa ra. Đi đằng trước Atahualpa là 2.000 người Anh-điêng vừa đi vừa dẹp đường, theo sau họ là các chiến binh, một nửa đi đều bước trên cánh đồng bên trái ông ta, nửa kia thì bên phải ông ta.

Đi đầu là một phân đội Anh-điêng mặc quần áo nhiều màu giống như bàn cờ. Họ vừa tiến tới vừa nhặt hết các cọng rơm trên mặt đất và quét sạch đường. Sau đó là ba phân đội ăn mặc khác nhau vừa đi vừa múa hát. Rồi đến một số người mặc áo giáp, mang những chiếc đĩa kim loại lớn, đội mũ miện bằng vàng và bạc. Lượng đồ trang sức bằng vàng và bạc họ mang trên người nhiều đến nỗi ánh mặt trời lấp lánh trên đó nhìn thật vô cùng ngoạn mục. Chính giữa họ nổi bật lên hình dáng của Atahualpa trong một chiếc kiệu thật đẹp, đầu các đòn khiêng cáng đều bịt bạc. Tám mươi vị quý tộc khiêng ngài trên vai, tất cả đều mặc sắc phục màu xanh dương sặc sỡ. Bản thân Atahualpa ăn mặc cực kỳ diêm dúa, đầu đội vương miện, cổ đeo vòng gồm những viên ngọc lục bảo lớn. Ông ta ngự trên một chiếc ghế nhỏ, với một chiếc đệm lót đẹp đẽ hình cái yên đặt trên kiệu. Xung quanh kiệu cắm những chiếc lông két nhiều màu sắc, lại trang hoàng những chiếc đĩa bằng vàng và bạc.

Đằng sau Atahualpa là hai kiệu khác và hai chiếc võng trong đó là một vài vị thủ lĩnh cấp cao, sau đó là mấy toán quân Anh-điêng đội mũ miện bằng vàng và bạc. Các toán người Anh-điêng này bắt đầu bước vào quảng trường trong giai điệu những bài hát nghe thật hay, cứ vậy họ chiếm lĩnh từng ngóc ngách quảng trường. Trong khi đó những người Tây Ban Nha chúng tôi thảy đều nấp trong sân chờ đợi sẵn sàng, dạ phập phồng sợ hãi. Nhiều người đái trong quần mà không biết chỉ vì khiếp đảm. Khi đến chính giữa quảng trường, Atahualpa vẫn ngồi trong kiệu trên cao, trong khi binh lính tiếp tục dấn bước đằng sau ông ta.

Thống chế Pizarro lúc này bèn cử Đức cha Vicente De Valverde đến nói chuyện với Atahualpa và yêu cầu Atahualpa, nhân danh Chúa Trời và Đức Vua Tây Ban Nha mà dâng mình cho luật pháp của Chúa Jesus Christ và phụng sự Chúa Thượng, Đức Vua Tây Ban Nha. Một tay cầm thánh giá, tay kia cầm quyển Kinh Thánh, Đức Cha bước giữa những hàng quân Anh-điêng mà tiến về phía Atahualpa rồi nói với ông ta: "Ta là Thầy cả của Chúa trời, ta dạy những người Cơ đốc những điều về Chúa, và cũng bằng cách đó ta đến để dạy ngài. Cái ta dạy là những gì Chúa đã nói trong quyển sách này. Vì vậy, nhân danh Chúa và những người Cơ đốc, ta khẩn cầu ngài hãy là bạn của họ, bởi đó là ý Chúa và việc đó sẽ mang điều tốt lành cho chính ngài".

Atahualpa yêu cầu được xem cuốn sách, thế là Đức Cha đưa sách lại gần ông ta. Atahualpa không biết cách mở sách ra, nên Đức Cha liền chìa tay ra để mở, nhưng Atahualpa lại nổi cơn thịnh nộ mà đấm vào tay Cha không muốn sách được mở ra. Đoạn tự ông ta mở sách, thế rồi, hoàn toàn không sửng sốt trước những con chữ và trang giấy, ông ta quẳng sách ra xa năm sáu bước chân mà đỏ mặt tía tai.

Đức Cha quay về phía Pizarro mà thét: "Đến đây! Những người Công giáo, hãy đến đây! Hãy đến mà tấn công bọn kẻ thù chó má này, kẻ đã dám cự tuyệt những gì của Chúa! Tên bạo quân này đã ném cuốn sách luật thiêng của ta xuống đất! Các con không thấy chuyện gì vừa xảy ra sao? Tại sao vẫn cứ lịch thiệp và xun xoe quỵ lụy quân chó má kiêu căng quá đỗi này khi các đồng bằng đầy nghẹt người Anh-điêng? Hãy tiến ra trừng trị nó đi, ta sẽ tha tội cho các con".

Thế là Thống chế ra hiệu cho Candia, ông này liền nổ súng. Đồng thời tiếng kèn vang lên, và những toán quân Tây Ban Nha mang giáp trụ, cả kỵ binh lẫn bộ binh, liền từ chỗ nấp lao ra xông thẳng vào đám người Anh-điêng không vũ khí đang đứng nghẹt quảng trường, miệng thét vang khẩu hiệu chiến đấu của Tây Ban Nha "Santiago!" Chúng tôi đã gắn lục lạc trên ngựa để làm người Anh-điêng khiếp sợ. Tiếng súng nổ đùng đoàng, kèn vang inh ỏi và tiếng lục lạc lanh canh của ngựa khiến cho người Anh-điêng cuống cuồng hoảng loạn. Những người Tây Ban Nha đâm bổ vào chúng, xả chúng thành từng mảnh. Người Anh-điêng khiếp hãi đến mức chúng nháo nhào trèo lên nhau thành đống và đè nhau chết ngạt. Bởi chúng không có vũ khí nên những người Cơ đốc có thể tấn công chúng mà không hề nguy hiểm. Kỵ binh quật chúng xuống, giết và đả thương chúng, truy đuổi chúng. Bộ binh đột kích những kẻ còn lại một cách hoàn hảo đến mức chỉ trong một thời gian ngắn hầu hết bọn chúng đã làm mồi cho lưỡi kiếm.

Đích thân Thống chế cầm kiếm và dao găm cùng những người Tây Ban Nha ở bên ngài xông thẳng vào đám Anh-điêng dày đặc, và bằng sự dũng cảm vô song ngài đến được chỗ kiệu của Atahualpa. Chẳng mảy may sợ hãi, ngài túm lấy tay trái Atahualpa mà thét "Santiago!" nhưng không lôi được Atahualpa ra khỏi kiệu bởi nó được giữ trên cao quá. Mặc dù chúng tôi đã giết chết những người Anh-điêng khiêng kiệu song những người khác lập tức xáp vào thế chỗ mà không ngừng giữ kiệu trên cao, cứ thế chúng tôi phải mất một hồi lâu để trấn áp và giết người Anh-điêng. Cuối cùng, bảy tám kỵ binh Tây Ban Nha thúc ngựa lồng lên húc vào một bên chiếc kiệu; cố hết sức bình sinh cuối cùng họ cũng lật được kiệu sang một bên. Thế là Atahualpa bị bắt, và Thống chế đưa Atahualpa về chỗ trú của ngài. Những người Anh-điêng khiêng kiệu và những người hộ tống nhà vua chẳng lúc nào bỏ rơi ông ta: tất cả đều đã chết quanh ông ta.

Bọn Anh-điêng còn lại trên quảng trường cuống cuồng hoảng loạn, sợ chết khiếp khi nghe súng nổ và nhìn thấy những con ngựa - chúng chưa thấy cái gì như vậy bao giờ - chúng cố tháo chạy khỏi quảng trường bằng cách đạp đổ một khúc tường rồi túa ra chỗ đồng bằng bên ngoài. Kỵ binh của chúng ta nhảy phóc qua bức tường đổ, rầm rập phi ra chỗ đồng bằng, miệng thét: "Đuổi theo những tên ăn mặc diêm dúa kia! Đừng để đứa nào thoát! Xiên giáo vào chúng đi!" Tất cả binh lính Anh-điêng khác mà Atahualpa đã mang đến đang ở cách Cajamarca một dặm sẵn sàng giáp chiến, nhưng không tên nào nhúc nhích, suốt thời gian đó chẳng một tên Anh-điêng nào giương vũ khí lên chống lại người Tây Ban Nha. Khi các toán quân Anh-điêng đang ở trên đồng bằng bên ngoài thành phố trông thấy những đám Anh-điêng khác vừa tháo chạy vừa kêu thét, hầu hết chúng cũng kinh hồn táng đởm mà tháo chạy. Đó là một cảnh tượng kinh khủng, bởi toàn bộ thung lũng rộng từ 15 đến 20 dặm hoàn toàn kín nghịt người Anh-điêng. Đêm đã xuống, kỵ binh chúng tôi vẫn đang xiên giáo vào bọn Anh-điêng trên những cánh đồng thì bỗng nghe tiếng kèn gọi chúng tôi tập kết về trại.

"Giá như đêm chưa xuống thì chắc chẳng còn bao nhiêu tên trong số hơn 40.000 binh lính Anh-điêng còn sống sót. Sáu, bảy ngàn tên Anh-điêng nằm chết, rất nhiều tên khác bị chặt tay hoặc những vết thương khác. Bản thân Atahualpa thừa nhận chúng tôi đã giết 7.000 người của ông ta trong trận chiến đó. Kẻ bị giết trên một trong những chiếc kiệu là ngài Chincha, một mệnh quan của ông ta, người mà ông ta rất sủng ái. Tất cả những người Anh-điêng khênh kiệu của Atahualpa hóa ra đều là những tù trưởng và ủy viên hội đồng cao cấp. Họ đều bị giết sạch, cũng như những người Anh-điêng được khênh trên các kiệu và võng. Vị chúa vùng Cajamarca cũng bị giết cùng nhiều người nữa, nhưng số người bị giết quá lớn không đếm xuể, bởi tất cả những ai tháp tùng Atahualpa đều là những quý tộc và chúa công lớn. Thật kỳ diệu khi thấy một thủ lĩnh hùng mạnh như vậy bị bắt một cách chớp nhoáng đến thế, khi ông ta đi cùng một đội quân hùng hậu nhường kia. Thật ra thì không phải nhờ sức chúng tôi mà làm được điều này bởi chúng tôi quá ít người. Ấy là nhờ ân sủng lớn lao của Đức Chúa Trời.

Áo của Atahualpa bị rách khi người Tây Ban Nha lôi ông ta ra khỏi kiệu. Thống chế ra lệnh mang áo quần đến cho ông ta, và khi Atahualpa đã mặc quần áo rồi, Thống chế ra lệnh Atahualpa ngồi cạnh ngài rồi xoa dịu cơn cuồng nộ và phẫn khích của ông ta khi thấy mình đang từ ngôi vị cao vời rơi phịch xuống nhanh đến vậy. Thống chế bảo Atahualpa: "Ngài có bị đánh bại và bắt làm tù binh thì cũng đừng coi là mình bị xúc phạm, bởi vì với những người Kitô đã đến đây cùng tôi, dù số lượng ít ỏi là vậy nhưng tôi đã chinh phục những vương quốc còn lớn hơn vương quốc của ngài, đánh bại những vì vua chúa còn hùng mạnh hơn ngài rồi đặt lên đó quyền thống trị của vị Hoàng đế mà tôi là một thần dân, ấy là Đức Vua của Tây Ban Nha và của toàn thế giới. Chúng tôi đến đây chinh phạt mảnh đất này là theo lệnh của Đức Vua, sao cho tất cả đều biết đến Chúa Trời và Tín Ngưỡng Kitô Thần thánh của Người; và bởi sứ mệnh tốt lành của chúng tôi, Chúa Trời, Đấng tạo ra trời đất và mọi vật trong trời đất, cho phép việc này xảy ra, để ngài được biết đến Người mà thoát khoải cái cuộc sống thú vật và ác quỷ mà ngài vẫn sống lâu nay. Chính vì lẽ đó mà chúng tôi, dù ít ỏi đến vậy, đã khuất phục được một xứ sở rộng lớn nhường ấy. Khi ngài đã thấy lâu nay mình sống trong lầm lạc thế nào, ngài sẽ hiểu rằng khi đến đất nước ngài theo lệnh của Hoàng Thượng, Vua của Tây Ban Nha, ấy là chúng tôi làm điều tốt lành cho ngài. Hoàng Thượng chúng tôi cho phép rằng lòng kiêu hãnh của ngài sẽ bị hạ thấp và không người Anh-điêng nào có thể xâm phạm đến một người Cơ đốc."

Giờ chúng ta hãy lần ngược lại chuỗi quan hệ nhân quả trong cuộc đụng độ khác thường này, bắt đầu từ những sự kiện trực tiếp nhất. Khi Pizarro và Atahualpa gặp nhau ở Cajamarca, tại sao Pizarro lại bắt sống Atahualpa và giết nhiều kẻ tùy tùng của Atahualpa đến vậy chứ không phải lực lượng đông hơn gấp bội của Atahualpa bắt sống và giết Pizarro? Xét cho cùng, Pizarro chỉ có vỏn vẹn 62 lính cưỡi ngựa, cùng khoảng 106 lính bộ, trong khi Atahualpa thống lĩnh một đội quân khoảng 80.000 người. Còn về những sự kiện xảy ra trước các sự kiện đó, làm thế nào Atahualpa lại đến Cajamarca kia chứ? Làm thế nào Pizarro lại có mặt ở đó để bắt sống Atahualpa, chứ không phải Atahualpa đến Tây Ban Nha để bắt sống Vua Charles Đệ nhất? Tại sao Atahualpa cứ thế đi thẳng vào cái bẫy của người Tây Ban Nha, cái bẫy mà do chúng ta là kẻ hậu sinh nên chúng ta mới thấy là lộ liễu đến vậy? Liệu có phải các nhân tố đã tác động đến cuộc gặp gỡ giữa Atahualpa với Pizarro cũng đóng một vai trò lớn hơn trong những cuộc gặp gỡ giữa các dân tộc Cựu Thế giới với các dân tộc Tân Thế giới và giữa những dân tộc khác hay không?

Tại sao Pizarro bắt sống được Atahualpa? Ưu thế quân sự của Pizarro nằm ở các lưỡi gươm bằng thép và những vũ khí khác, áo giáp thép, súng ống và ngựa của người Tây Ban Nha. Đối với những vũ khí đó thì quân đội của Atahualpa, vốn không có con vật nào để cưỡi đặng xông vào trận chiến, chỉ có thể đương đầu bằng những chiếc dùi cui, gậy và rìu tay bằng đá, đồng hay gỗ, cộng thêm ná và áo giáp bằng vải chần. Sự bất cân xứng về trang thiết bị đó có tầm quan trọng quyết định trong vô số những cuộc đối đầu khác giữa người châu Âu với người châu Mỹ bản địa và những dân tộc khác.

Những người châu Mỹ bản địa duy nhất đã kháng cự được sự chinh phục của người châu Âu trong suốt nhiều thế kỷ là các bộ lạc đã giảm bớt được sự chênh lệch về quân sự bằng cách xoay xở sao cho có được ngựa và súng rồi học cách làm chủ chúng. Đối với người Mỹ da trắng bình thường, từ "người Anh-điêng" gợi lên hình ảnh một người Anh-điêng vùng đồng bằng cưỡi ngựa khoác súng trường, giống như các chiến binh Sioux từng xóa sổ tiểu đoàn quân đội Mỹ của Tướng George Custer trong trận đánh lừng danh tại Little Big Horn vào năm 1876. Chúng ta dễ dàng quên mất rằng xưa kia người châu Mỹ bản địa vốn không hề biết đến ngựa và súng trường. Hai thứ này được người châu Âu mang tới và đã làm biến đổi xã hội những bộ lạc Anh-điêng nào cóđược chúng. Nhờ làm chủ được ngựa và súng trường mà những người Anh-điêng vùng đồng bằng (Plains Indians) ở Bắc Mỹ, người Anh-điêng Araucania ở nam Chile và người Anh-điêng vùng Pampas ở Argentina đã có thể kháng cự lại người da trắng xâm lăng trong một thời gian dài hơn bất cứ người châu Mỹ bản địa nào khác, họ chỉ chịu khuất phục khi chính phủ da trắng tiến hành những chiến dịch quân sự quy mô lớn vào các thập niên 1870 và 1880.

Ngày nay chúng ta khó lòng hiểu nổi vì sao dù có sự chênh lệch quá lớn về quân số nhưng rốt cuộc thiết bị quân sự của người Tây Ban Nha vẫn thắng. Tại trận Cajamarca được tường thuật lại trên đây, 168 người Tây Ban Nha đã nghiền nát một đội quân châu Mỹ bản địa đông hơn tới 500 lần, giết hàng ngàn người bản địa trong khi phía Tây Ban Nha không hề mất lấy một người. Rồi lại bao nhiêu lần nữa, các tường thuật về những trận đánh về sau của Pizarro với người Inca, rồi việc Cortés chinh phục người Aztec, cùng những chiến dịch đầu tiên khác của người châu Âu đánh người châu Mỹ bản địa càng minh họa thêm những cuộc đối đầu mà ở đó một dúm vài chục người châu Âu cưỡi ngựa đánh cho tan tác và giết sạch hàng ngàn người Anh-điêng. Trong cuộc hành quân của Pizarro từ Cajamarca đến thành phố Cuzco của nước Inca sau khi Atahualpa chết đã diễn ra bốn trận đánh như vậy: tại Jauja, Vilcashuaman, Vilcaconga và Cuzco. Trong mỗi trận trong bốn trận này, vỏn vẹn 80, 30, 110 và 40 người Tây Ban Nha đã đương đầu với hàng ngàn, hàng vạn người Anh-điêng.

Những chiến thắng đó của người Tây Ban Nha không thể lý giải chỉ là do sự giúp đỡ của các đồng minh châu Mỹ bản địa, do cú sốc tâm lý khi lần đầu tiên nhìn thấy vũ khí và ngựa của người Tây Ban Nha, hay là do (như người ta thường nói) người Inca lầm tưởng những người Tây Ban Nha kia là thần Viracocha của họ trở về. Những chiến thắng đầu tiên của Pizarro và Cortés đúng là có sự tham gia của các đồng minh người bản địa. Tuy nhiên, nhiều người trong số đó hẳn sẽ không trở thành đồng minh nếu họ không "tâm phục khẩu phục" trước việc người Tây Ban Nha đã thắng những trận tưng bừng trước đó mà chẳng cần ai giúp đỡ, nếu họ không hiểu rằng kháng cự là vô ích và tốt nhất nên đứng về phía những kẻ mà trước sau cũng thắng. Ngựa, vũ khí bằng thép và súng ống quả đúng là những thứ mà người Inca ở Cajamarca chưa từng thấy bao giờ, song ở những trận đánh sau trận Cajamarca, người Inca đã kháng cự quyết liệt sau khi họ đã nhìn thấy vũ khí và ngựa của người Tây Ban Nha. Trong vòng sáu năm kể từ cuộc chinh phục đầu tiên, người Inca đã dấy lên hai cuộc khởi nghĩa ác liệt, quy mô lớn và được chuẩn bị kỹ càng hòng chống lại người Tây Ban Nha. Các nỗ lực đó đều thất bại bởi ưu thế vượt trội của vũ khí Tây Ban Nha.

Cho đến năm 1700, súng đã thay gươm làm vũ khí chính khiến người châu Âu có ưu thế so với người châu Mỹ bản địa và các dân tộc bản địa khác. Chẳng hạn, vào năm 1808, một lính thủy Anh tên là Charlie Savage có súng trường và mang mục đích rõ ràng đã đến quần đảo Fiji. Tay Savage (cái tên thật là thích hợp) này đã hành động hoàn toàn đơn thương độc mã hầu đảo lộn cán cân quyền lực ở Fiji. Trong số nhiều kỳ tích của ông ta, có lần ông ta chèo xuồng ngược sông đến một làng của người Fiji, dừng lại cách hàng rào làng chưa quá một tầm súng lục rồi cứ thế xả súng vào đám dân làng chẳng có gì bảo vệ. Nạn nhân của ông ta nhiều đến nỗi đám dân làng còn sống sót chất những cái xác lên thành đống làm chỗ nấp, dòng sông sau làng thì đỏ ngầu màu máu. Những ví dụ như vậy về sức mạnh của súng ống khi đối đầu với các dân tộc bản địa không có súng có thể nhân lên vô cùng tận.

Tuy nhiên, vào thời điểm người Tây Ban Nha chinh phục người Inca, súng chỉ đóng vai trò thứ yếu. Súng vào thời đó (gọi là súng hỏa mai) khó nạp đạn và khó bắn, mà Pizarro cũng chỉ có hơn mười khẩu mà thôi. Quả là những khi người Tây Ban Nha bắn thì chúng cũng có gây tác động tâm lý lớn. Song có tầm quan trọng hơn nhiều là những lưỡi gươm, mũi giáo và dao găm bằng thép của người Tây Ban Nha, những vũ khí mạnh mẽ sắc nhọn có thể giết chết những người Anh-điêng mặc áo giáp mỏng manh. Ngược lại, những chiếc dùi cui đầu tù của người Anh-điêng tuy có thểđánh và làm người Tây Ban Nha bị thương nhưng lại hiếm khi giết được họ. Áo giáp bằng thép hoặc mảnh kim loại ghép và trên hết là mũ trụ bằng thép của người Tây Ban Nha thường bảo vệ họ một cách hữu hiệu trước những cú đánh bằng dùi cui, trong khi áo giáp bằng vải chần của người Anh-điêng chẳng bảo vệ được gì trước những vũ khí bằng thép.

Tường thuật của những người chứng kiến luôn nhắc tới ưu thế to lớn của người Tây Ban Nha nhờ cưỡi ngựa. Các kỵ sĩ có thể dễ dàng vượt trước đám lính Anh-điêng chạy bộ trước khi đám này kịp báo tin cho những toán quân Anh-điêng đi sau họ, cũng như có thể truy đuổi và giết chết những người Anh-điêng chạy bộ. Cơn sốc khi nhìn thấy những cú phi của lũ ngựa, tính cơ động của chúng, tốc độ tấn công chớp nhoáng nhờ có chúng, lại thêm nhờ cưỡi trên ngựa mà các kỵ sĩ được có thể chiến đấu từ tầm cao an toàn, tất cả những điều đó khiến cho binh sĩ chạy bộ của đối phương gần như vô vọng khi ra ngoài đồng trống. Hiệu quả của ngựa không phải chỉ gói gọn trong nỗi kinh hoàng mà chúng gây ra cho quân đối phương khi mới gặp lần đầu. Đến thời điểm xảy ra cuộc khởi nghĩa lớn của người Inca vào năm 1536, người Inca đã học được cách tự vệ trước kỵ binh Tây Ban Nha, bằng cách phục kích và tiêu diệt kỵ sĩ Tây Ban Nha ở cự ly gần. Nhưng người Inca, cũng như mọi binh sĩ chạy bộ khác, không bao giờ đánh bại nổi kỵ binh khi ra ngoài đồng trống. Khi Quizo Yupanqui, vị tướng giỏi nhất của Manco, hoàng đế Inca, kẻ nối ngôi Atahualpa, bao vây quân Tây Ban Nha ở Lima vào năm 1536 và cố chiếm thành phố, hai toán kỵ binh Tây Ban Nha đã tấn công một lực lượng Inca đông hơn gấp nhiều lần trên đất bằng, giết chết Quizo và tất cả ban tham mưu của ông ta ngay trong cuộc đột kích đầu tiên, sau đó đánh cho quân Anh-điêng tan tác. Một toán kỵ binh tương tự gồm 26 người đã đánh tan những đạo quân tinh nhuệ nhất của bản thân hoàng đế Manco khi ông này đang bao vây người Tây Ban Nha ở Cuzco.

Việc loài ngựa làm thay đổi hình thái của chiến tranh đã khởi đầu từ sự thuần hóa ngựa vào khoảng 4.000 năm tr.CN ở vùng thảo nguyên phía bắc Biển Đen. Ngựa cho phép những ai sở hữu chúng vượt những khoảng cách xa hơn nhiều so với đi bộ, tấn công bất ngờ, và chạy thoát trước khi tập hợp được lực lượng phòng ngự mạnh. Như vậy, vai trò của chúng ở Cajamarca là tiêu biểu cho một vũ khí quân sự mạnh mẽ và hữu hiệu trong suốt 6.000 năm cho đến tận đầu thế kỷ XX, một vũ khí mà rốt cuộc đã được áp dụng trên mọi châu lục. Mãi đến Thế chiến Thứ nhất, vị thế thống trị của kỵ binh trong chiến tranh cuối cùng mới chấm dứt. Đã xét tới những lợi thế của người Tây Ban Nha có được nhờ ngựa, vũ khí bằng thép và áo giáp khi chống lại những binh lính chạy bộ trong tay không có một tấc kim loại thì chẳng còn lạ gì việc người Tây Ban Nha cứ đều đều thắng hết trận này đến trận khác trước đối phương đông gấp nhiều lần.

Tại sao Atahualpa lại đến Cajamarca? Atahualpa và quân đội ông ta đến Cajamarca bởi họ vừa chiến thắng những trận đánh có ý nghĩa quyết định trong một cuộc nội chiến khiến cho người Inca bị chia rẽ và dễ bị tổn thương. Pizarro nhanh chóng nhận ra được những sự chia rẽ đó và lợi dụng chúng. Nguyên nhân dẫn tới nội chiến là một trận dịch đậu mùa lan tràn khắp cả vương quốc giữa những người Anh-điêng Nam Mỹ sau khi người Tây Ban Nha đến định cư ở Panama và Colombia, giết chết hoàng đế Inca Huayna Capac và hầu hết triều đình của nhà vua vào khoảng năm 1526, sau đó thì lại giết chết luôn người được chỉ định kế vị nhà vua là Ninan Cuyuchi. Những cái chết này dẫn tới một cuộc tranh đoạt ngôi báu giữa Atahualpa và người anh cùng cha là Huascar. Giá như không có trận dịch thì người Tây Ban Nha đã phải đối đầu với một đế quốc thống nhất.

Sự có mặt của Atahualpa ở Cajamarca làm nổi bật một trong những nhân tố chủ chốt trong lịch sử thế giới: những căn bệnh từ các dân tộc đi xâm lược vốn đã mang kháng thể đáng kể lây nhiễm sang các dân tộc không có kháng thể. Bệnh đậu mùa, bệnh sởi, cúm, sốt phát ban, dịch hạch và những căn bệnh truyền nhiễm khác ở châu Âu đã đóng vai trò quyết định trong các cuộc chinh phục của người châu Âu, bằng cách giết hại nhiều dân tộc trên các châu lục khác. Chẳng hạn, một trận dịch đậu mùa đã tàn hại người Aztec sau khi cuộc tấn công đầu tiên của người Tây Ban Nha vào năm 1520 thất bại, giết chết Cuitláhuac, vị hoàng đế Aztec vừa kế ngôi Montezuma. Khắp nơi ở châu Mỹ, các bệnh dịch do người châu Âu mang tới đã lan tràn từ bộ lạc này sang bộ lạc khác từ lâu trước khi bản thân người châu Âu đến, giết chết khoảng 95% dân số người châu Mỹ bản địa tiền Colombo. Những xã hội bản địa đông dân và có tổ chức cao nhất ở châu Mỹ, các tù trưởng quốc vùng Mississippi, đã biến mất theo cách đó trong khoảng từ năm 1492 đến cuối thế kỷ XVII, ngay cả trước khi bản thân người châu Âu đến định cư lần đầu tiên ở lưu vực sông Mississippi. Một trận dịch đậu mùa vào năm 1713 đã là bước duy nhất và lớn nhất để người di cư châu Âu tiêu diệt sạch dân tộc San bản địa ở Nam Phi. Chẳng bao lâu sau khi người Anh định cư ở Sydney vào năm 1788 đã bắt đầu trận dịch đầu tiên làm chết hầu hết người châu Úc bản địa. Một ví dụ có bằng chứng rõ ràng từ các đảo Thái Bình Dương là trận dịch đã quét qua Fiji vào năm 1806 do một vài thủy thủ châu Âu bị đắm tàu Argo mà dạt lên bờ. Những trận dịch tương tự cũng xảy ra trong lịch sử Tonga, Hawaii và các đảo Thái Bình Dương khác.

Tuy nhiên, tôi không có ý nói rằng vai trò của bệnh dịch trong lịch sử chỉ là lót đường cho sự bành trướng của người châu Âu. Sốt rét, sốt hoàng nhiệt và những bệnh khác của châu Phi nhiệt đới, Ấn Độ, Đông Nam Á và New Guinea là những trở ngại quan trọng nhất đối với người châu Âu khi thực dân hóa những vùng nhiệt đới này.

Làm cách nào Pizarro đến được Cajamarca? Tại sao không phải là Atahualpa tìm cách chinh phục Tây Ban Nha? Pizarro đến được Cajamarca là nhờ công nghệ hàng hải của châu Âu, vốn đã chế tạo được những con tàu đưa ông ta vượt Đại Tây Dương từ Tây Ban Nha đến Panama, sau đó từ Panama đến Peru trên Thái Bình Dương. Vì thiếu công nghệ đó, Atahualpa đã không thể vượt biển mà bành trướng được ra ngoài Nam Mỹ.

Ngoài bản thân những con tàu, sự hiện diện của Pizarro còn phụ thuộc vào tổ chức chính trị tập trung hóa vốn đã cho phép Tây Ban Nha có tiền để đầu tư, đóng tàu, thuê nhân công và trang bị cho những con tàu đó. Đế quốc Inca cũng có tổ chức chính trị tập trung hóa, nhưng điều này hóa ra lại gây bất lợi cho họ vì Pizarro đã lợi dụng đúng quy trình lãnh đạo tập trung đó bằng cách bắt sống Atahualpa. Bởi vì bộ máy cai trị của Inca bị đồng hóa mạnh mẽ với vị quân vương tuyệt đối được coi là thần thánh đó, cho nên sau khi Atahualpa chết thì nó cũng tan rã. Công nghệ hàng hải cộng thêm tổ chức chính trị cũng có tầm quan trọng cốt tử đối với việc người châu Âu chinh phục các lục địa khác cũng như việc bành trướng của nhiều dân tộc khác.

Một sự kiện có liên quan đã đưa người Tây Ban Nha đến Peru, ấy là sự hiện diện của chữ viết. Tây Ban Nha có chữ viết còn đế quốc Inca thì không. Nhờ có chữ viết mà thông tin có thể được truyền bá rộng hơn nhiều, chính xác hơn nhiều và chi tiết hơn nhiều so với truyền miệng. Thông tin đó quay trở về Tây Ban Nha sau những chuyến du hành của Colombo và từ cuộc chinh phục Mexico của Cortés, đã khiến người Tây Ban Nha đổ xô sang Tân Thế giới. Các thư từ và sách vở mang lại động cơ cho việc này và đồng thời cho những chỉ dẫn cặn kẽ cần thiết về hàng hải. Bản báo cáo đầu tiên được ấn hành về những kỳ tích của Pizarro, của bạn đồng hành ông ta là Thuyền trưởng Cristóbal de Mena, được in tại Seville vào tháng Tư năm 1534, chỉ sáu tháng sau khi Atahualpa bị hành quyết. Nó trở thành sách bán chạy nhất, được nhanh chóng dịch ra các thứ tiếng châu Âu khác và khiến lại thêm một dòng người di cư Tây Ban Nha nữa đổ sang nhằm củng cố quyền kiểm soát của Pizarro đối với Peru.

Tại sao Atahualpa đi thẳng vào bẫy? Ngày nay nhìn lại, ta thấy thật lạ lùng rằng Atahualpa đã bước thẳng vào cái bẫy rất ư lộ liễu của Pizarro ở Cajamarca. Bản thân những người Tây Ban Nha đã bắt cóc ông ta cũng ngạc nhiên không kém khi thấy mình thành công như vậy. Những hệ quả của chữ viết thật là rõ ràng trong cách lý giải tối hậu.

Cách lý giải trực tiếp nhất là Atahualpa có rất ít thông tin về người Tây Ban Nha, sức mạnh quân sự và ý định của họ. Ông ta có được chút thông tin ít ỏi đó nhờ truyền miệng, chủ yếu từ một đặc sứ đã đến thăm lực lượng của Pizarro trong vòng hai ngày khi lực lượng này đang trên đường từ bờ biển tiến vào nội địa. Viên đặc sứ này đã thấy những người Tây Ban Nha giữa lúc họđang nhếch nhác lôi thôi nhất, thành thử ông ta bảo Atahualpa rằng họ không phải là những chiến binh, nên chỉ cần 200 người Anh-điêng là có thể trói gô họ lại dễ dàng. Thật dễ hiểu rằng Atahualpa đã không bao giờ nghĩ đến chuyện người Tây Ban Nha rất đáng sợ và họ sẽ tấn công ông ta mà chẳng buồn khiêu khích.

Ở Tân Thế giới, chỉ một số người thuộc lớp tinh hoa ở một số dân tộc tại Mexico ngày nay và những vùng lân cận xa về phía bắc đế quốc Inca mới có khả năng viết. Mặc dù việc người Tây Ban Nha chinh phục Panama - chỉ cách biên giới phía bắc của Inca vỏn vẹn 600 dặm - đã khởi đầu vào năm 1510, nhưng mãi đến khi Pizarro lần đầu tiên đặt chân lên bờ biển Peru vào năm 1527 người Inca vẫn hoàn toàn chẳng biết tí gì ngay cả về chính sự tồn tại của người Tây Ban Nha. Atahualpa hoàn toàn chẳng biết gì về việc người Tây Ban Nha đã chinh phục được những xã hội hùng mạnh và đông dân nhất ở vùng Trung Mỹ.

Đối với chúng ta ngày nay, cũng lạ lùng như cách hành xử của Atahualpa dẫn đến việc ông ta bị bắt cóc là cách hành xử của ông ta sau khi bị bắt. Ông ta đồng ý nộp khoản chuộc lừng danh kia bởi tin tưởng một cách ngây thơ rằng một khi đã được tiền chuộc người Tây Ban Nha sẽ thả ông ta ra rồi bỏ đi. Ông ta chẳng thể nào hiểu nổi rằng người của Pizarro chỉ là mũi nhọn đầu tiên của một lực lượng đang rắp tâm chinh phục lâu dài chứ nào phải là một cuộc tấn công nhỏ lẻ.

Atahualpa không phải là người duy nhất mắc phải những tính toán sai lầm chết người đó. Ngay cả sau khi Pizarro đã bị bắt, em của Francisco Pizarro là Hernando Pizarro đã lừa được vị thống soái của Atahualpa là Chalcuchima, kẻ đang cầm đầu một đạo quân lớn, để ông này tự nộp mình cho người Tây Ban Nha. Tính toán sai lầm của Chalcuchima đánh dấu một bước ngoặt trong sự sụp đổ của cuộc kháng chiến Inca, một sự kiện hầu như cũng hệ trọng như bản thân việc Atahualpa bị bắt. Hoàng đế Aztec Montezuma đã tính nhầm còn tai hại hơn khi xem Cortés là một vị thần tái giáng trần và cho phép Cortés cùng đội quân bé tí của ông ta được vào kinh đô Tenochtitlán của Aztec. Hậu quả là Cortés bắt sống Montezuma, sau đó tiến lên chinh phục Tenochtitlán và toàn bộ đế quốc Aztec.

Ở mức độ thường tình, những tính toán sai lầm của Atahualpa, Chalcuchima, Montezuma và vô số các nhà lãnh đạo châu Mỹ bản địa khác bị người châu Âu lừa phỉnh đều là bởi không một cư dân nào của Tân Thế giới thời đó từng đến Cựu Thế giới nên dĩ nhiên họ không thể có thông tin cụ thể nào về người Tây Ban Nha. Nhưng dù vậy đi nữa, chúng ta vẫn khó lòng tránh khỏi đi đến kết luận rằng "lẽ ra" Atahualpa nên đa nghi hơn, giá như xã hội của ông ta đã trải nghiệm nhiều loại hành vi của con người hơn. Pizarro khi đến Cajamarca cũng hoàn toàn chẳng có thông tin gì về người Inca ngoại trừ những gì ông ta biết được bằng cách tra hỏi những thần dân Inca mà ông ta gặp vào năm 1527 và 1531. Tuy nhiên, dù bản thân Pizarro là kẻ mù chữ, dẫu sao ông ta vẫn thuộc về một xã hội có chữ viết. Từ sách vở, người Tây Ban Nha đã biết về nhiều nền văn minh đương thời cách xa châu Âu và về hàng mấy ngàn năm lịch sử châu Âu. Pizarro rõ ràng đã giăng bẫy bắt Atahualpa theo đúng khuôn mẫu học được từ Cortés.

Nói ngắn gọn, chữ viết đã giúp người Tây Ban Nha được thừa hưởng một nền tri thức rộng lớn về hành vi con người và lịch sử loài người. Ngược lại, Atahualpa không chỉ chẳng có chút khái niệm nào về bản thân người Tây Ban Nha, cũng chưa hề có kinh nghiệm cá nhân về những kẻ xâm lược đến từ bên kia biển, mà thậm chí ông ta còn chưa hề nghe nói (hay đọc được) về những mối đe dọa tương tự đối với bất cứ ai, ở bất cứ đâu, vào bất cứ lúc nào trước kia trong lịch sử. Cái kinh nghiệm bao la đó đã khích lệ Pizarro giăng bẫy và xui khiến Atahualpa bước vào bẫy đó.

Như vậy, việc Pizarro bắt sống Atahualpa minh họa cho chuỗi nhân tố trực tiếp dẫn đến việc người châu Âu thực dân hóa Tân Thế giới thay vì người châu Mỹ bản địa thực dân hóa châu Âu. Những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thành công của Pizarro là kỹ thuật quân sự dựa trên súng ống, vũ khí bằng thép và ngựa, những bệnh truyền nhiễm xuất xứ từ Âu-Á, kỹ thuật hàng hải của châu Âu, tổ chức chính trị tập trung hóa của các nước châu Âu, và chữ viết. Nhan đề cuốn sách này sẽ đóng vai trò tóm lược các nhân tố trực tiếp này, vốn cũng là những nhân tố cho phép người châu Âu hiện đại chinh phục các dân tộc khác trên những châu lục khác. Từ lâu trước khi có người nghĩ đến chuyện chế ra súng và thép, những nhân tố khác cũng trong nhóm nhân tố này đã dẫn đến sự bành trướng của một số dân tộc không phải châu Âu, như ta sẽ thấy trong các chương sau.

Nhưng chúng ta vẫn đang bỏ ngỏ câu hỏi cơ bản, ấy là tại sao tất cả những ưu thế trực tiếp này đều nằm ở châu Âu chứ không phải ở Tân Thế giới. Tại sao không phải người Inca phát minh ra súng và vũ khí bằng thép, cưỡi những con vật cũng đáng sợ như ngựa, mang những mầm bệnh mà người châu Âu không có kháng thể, đóng những con tàu có khả năng vượt đại dương, có tổ chức chính trị tiên tiến, và có khả năng dựa vào kinh nghiệm của hàng ngàn năm lịch sử thành văn? Đó không còn là những câu hỏi về chuỗi nhân quả trực tiếp mà chương này đề cập đến; các câu hỏi về nguyên nhân tối hậu sẽ chiếm trọn hai phần tiếp theo của cuốn sách này.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro