CHƯƠNG 1 - VÔ TRUNG SINH HỮU

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

NỘI DUNG

Thế giới lần đầu giải mã ẩn số hãi hung về vũng xoáy tử thần 300 vĩ Bắc theo một góc nhìn mới.

Khe sâu u minh ẩn dưới núi cao, bí mật huyền hoặc giấu trong biển rộng.

Biển Âm Dụ nằm ở 300 vĩ Bắc dưới lòng núi Thần Nông Giá, rốt cục che đậy sự thật kinh thiên động địa gì?

Tổ chức tà ác Nấm Mồ Xanh nâng cấp âm mưu táng tận lương tâm, điên rồ cuồng loạn, tiếp tục vấy gió tanh mưa máu.

Sa lầy nơi địa ngục sâu vạn trượng.

Kẻ nhát gan tử nạn, người nhẹ dạ thiệt thân.

Bạn đang lún chân vào vòng luân hồi sinh tử không có lối thoát.

Đối diện với vòng tròn ma quái đáng sợ, vĩnh viễn không thể hóa giải…

Hồi thứ nhất

TẤM BIA NUỐT RẮN

Tư Mã Khôi cho rằng, minh khí(1) đồng xanh khổng lồ mà đội khảo cổ phát hiện dưới lòng đất, tuy đã tồn tại cả ngàn năm nay, nhưng không hề bị ôxy hóa làm cho han gỉ, có thể trong thành phần của nó pha trộn hỗn hợp kim loại của vẫn thạch, nhìn bề ngoài thì chắc chắn là đỉnh Vũ Vương mà cổ nhân đã tạo ra ở Yên Sơn. Vì thân đỉnh có đúc Sơn Hải Đồ, nên tất cả hình họa và phù hiệu thần bí trên đó đều liên quan đến vô số thông tin quan trọng thời viễn cổ như địa lý, địa mạo, sông ngòi, đầm trạch, sa mạc, đất ngập nước và cả những thay đổi lớn lao dời non lấp bể, phân bố khoáng vật, thực vật, quá trình di cư và tuyệt diệt, biến đổi và tiến hóa của muông thú muôn loài…

[1] Minh khí: đồ bằng gốm, đồng… được làm thu nhỏ, mô phỏng theo vật thật, để thờ cúng hoặc chôn theo người chết.

Trong chín chiếc đỉnh có một chiếc đúc hình đầu trâu mặt ngựa, được xếp lớp lang theo thứ tự thời gian và độ sâu tầng đất, cổ nhân đã căn cứ vào đó để ghi lại địa hình địa mạo, các loại khoáng quặng và sinh vật cổ quái của bốn cực. Tầng sâu nhất là một hắc động giống như vực sâu không đáy, bên trong lấp ló thứ gì đó hình thù kì dị nửa ẩn nửa hiện, không rõ rốt cuộc là vật gì, vị trí và các đặc điểm của hắc động này hoàn toàn trùng khớp với miếu thần mà đội khảo cổ đang muốn tìm.

Bên cạnh mỗi bức vẽ đều được chú thích bằng chữ triện cổ rất nhỏ, Tư Mã Khôi cố gắng đọc, nhưng có lẽ đó là văn tự long ấn triều Hạ, nên anh đành bó tay bất lực, không nhận ra chữ nào. Chỉ có đỉnh Vũ Vương là cội nguồn của cổ thuật tướng vật, Tư Mã Khôi nghe đồn đã lâu, nên mới không khó phỏng đoán lai lịch của nó. Nghe nói, Sơn Hải Kinh – một cuốn cổ tịch địa lý thời Tần cũng được phỏng tác từ Sơn Hải Đồ khắc trên thân chiếc đỉnh cổ này, có điều nội dung bên trong đã bớt đi vài phần chân thực.

Thắng Hương Lân nghe Tư Mã Khôi nói hoàn toàn hợp logic, có lẽ cũng không sai lệch so với thực tế là bao, lòng cô bất giác thất kinh. Trong các lăng tẩm của các đế vương chư hầu, vật phẩm tuẫn táng quan trọng nhất chính là đỉnh đồng. Đỉnh đồng chính là quốc bảo, nên chỉ có bậc đế vương mới đủ tư cách mang cửu đỉnh tuẫn táng theo mình, bởi nó đại diện cho chín châu. Nếu ngược dòng lịch sử tìm về cội nguồn, thì đỉnh đồng đúc ở Yên Son của Vũ Vương có thể coi là cái đỉnh ông tổ, vì vậy Vũ Vương còn gọi nó là đỉnh mẫu, Sơn Hải Đồ chạm khắc trên thân đỉnh là những bí mật kinh thiên động địa. Thế nhưng ghi chép về nguồn gốc của đỉnh đồng Vũ Vương trong lịch sử hầu như rất đại khái, không rõ ràng, vậy mà không ngờ, nó lại xuất hiện trong tòa thành cổ dưới lòng đất này.

Hải ngọng nhìn mãi mà vẫn không hiểu gì, liền sốt ruột giục: “Đâu? Bản đồ đâu? Tôi thấy mấy cái đỉnh đồng to tổ bố này chẳng có tí ý nghĩa thực tế nào với đội khảo cổ bọn ta cả. Mau rời khỏi đây thôi! Đừng mất thời gian với nó nữa!”.

Tư Mã Khôi nói: “Hải ngọng nhà cậu đúng là đồ ăn no vác nặng, trước đây suốt ngày nghe giáo sư Nông địa cầu nói cái gì mà quốc bảo “Tứ dương phương tôn” (2) , “Quách quý tử Bạch bàn” (3) , kiếm Việt Vương, gương Tần đế đấy thôi, nhưng nếu đặt trước cái đỉnh bằng đồng xanh này thì mấy thứ kia chỉ là hạng tép riu đáng hàng con cháu. Đây đúng là cơ duyên ngàn đời khó gặp, đồng thời cũng là phát hiện quan trọng nhất kể từ khi chúng ta từ Đại Sa Bản tiến vào lòng đất đến nay đấy!”. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

[2] Tứ dương phương tôn: là một trong những quốc bảo đặt ở viện bảo tàng Nhân dân Bắc Kinhđó là bình đựng rượu làm bằng đồng xanh, bốn góc gắn bốn cái đầu cừu.

[3] Quách (hoặc Quắc) Quý tử Bạch bàn: được xếp vào quốc bảo hạng nhất của Trung Quốc. Đó là chậu rửa tay của Quắc Tuyên Công, còn gọi Quắc Quý tử Bạch. Trong lòng chậu có 111 chữ triện cổ ghi lại chiến công Quắc Quý tử Bạch đại thắng quân Hung Nô ở bờ bắc Lạc Hà.

Anh nói xong thì quay sang hỏi Thắng Hương Lân xem liệu cô có thể phác họa tại chỗ những họa tiết trên thân đỉnh đồng không. Những hình vẽ cổ xưa ghi lại mọi bí mật dưới lòng đất này vừa thần bí vừa phức tạp, dẫu kiếm cả một phân đội đến phác họa, e rằng cũng không thể hoàn thành trong ngày một ngày hai, huống hồ đội khảo cổ có bốn người, mà lại chỉ mình Hương Lân nắm được món kỹ thuật này, còn ba người còn lại thì có nhìn bầu cũng vẽ ra dưa, không giúp được trò gì.

Thắng Hương Lân nói: “Bích họa mới phải phác họa tại chỗ, còn những hình vẽ khắc trên đỉnh đồng chỉ cần dập thác bản trực tiếp là xong, cũng không tốn thời gian lắm”. Nói xong, cô liền lẩy thác bản trong ba lô ra, dập vào mấy cụm hình trên cái đỉnh cổ, rồi vẽ các ký hiệu chú thích vị trí.

Hội Tư Mã Khôi toàn là dân ngoại đạo, không mó tay vào được, đành đứng bên hút thuốc chờ đợi, bàn tính tiếp theo sẽ đi khảo sát địa cung trong lòng núi.

Đội trưởng Lưu Giang Hà đứng ngoài cảnh giới, anh chàng tò mò hỏi Tư Mã Khôi: “Thủ trưởng Khôi, khi nãy thủ trưởng nói cái đỉnh đồng này có ý nghĩa to lớn với đội khảo cổ chúng ta. Thế rốt cuộc nó có ý nghĩa gì vậy?”

Hải ngọng bĩu môi: “Cái ngữ đấy có từ mấy ngàn năm trước thử hỏi có nổi ý nghĩa quái gì chứ? Cậu nhiễm tư tưởng mê tín phong kiến điển hình mất rồi, định quay về con đường tăm tối đấy hả? Lẽ nào cậu còn muốn lôi đội khảo cổ đi theo vết xe đổ trên lối làm việc sai lầm của chủ nghĩa xét lại.”

Đầu Tư Mã Khôi đang rối bời, anh không tìm ra manh mối nào rõ ràng nào cả, nên cũng không còn tâm trí ngồi tán nhăng tán cuội với Hải ngọng. Anh đành nói: “Thật ra mục tiêu mà đội khảo cổ và tổ chức ngầm Nấm mồ xanh muốn tìm, giờ đây hoàn toàn giống nhau, đó chính là khu vực chưa biết nằm gần tâm Trái đất, Triệu Lão Biệt gọi nó là miếu thần, có lẽ nó là một hắc động bị sụt xuống do năng lượng tầng quyển manti tập trung với mật độ lớn. Vị trí cụ thể của hắc động và những bí mật tồn tại bên trong nó đều vượt xa khả năng lý giải của chúng ta. Manh mối xác thực duy nhất mà đội khảo cổ tìm được cho đến giờ phút này, chính là tòa thành cổ dưới lòng đất và Sơn Hải Đồ khắc trên thân chiếc đỉnh cổ Vũ Vương. Tiếc là chúng ta không thể giãi mã được những chữ triện cổ thời Hạ, chỉ dựa vào mỗi mấy hình vẽ thần bí kì quái kia thì rất khó làm rõ chân tướng của nó. Gã kỹ sư thăm dò vật lý Điền Khắc Cường của tổ chức ngầm Nấm mồ xanh, cũng chính là tên đặc vụ có biệt danh căn phòng số 86 quanh năm mai phục ở sa mạc Gobi ở Tân Cương để theo dõi sát sao mọi động tĩnh xảy ra trong kính viễn vọng Lopnor, điều này chứng tỏ dưới lòng đất chắc chắn phải tồn tại thứ gì đó, trực tiếp uy hiếp đến mục tiêu của tổ chức đó. Tôi đoán, những bí mật đó đang được giấu kín trong chiếc đỉnh đồng Vũ Vương này. Vì vậy, nếu đội khảo cổ chúng ta muốn tiếp cận với hắc động gần tâm Trái đất, thì bắt buộc phải phá giải được ẩn số ở đây. Điểm tận cùng của biển cát dưới lòng đất là tòa thành cổ được xây dựng bao quanh ngọn núi lửa, lòng núi lại chứa địa cung. Văn tự chữ triện cổ thời nhà Hạ và cái đỉnh bằng đồng xanh to lớn kia, đều là chứng nhân chứng tỏ nó từ lưu vực sông Hoàng Hà di cư xuống đây. Vào thời điểm ấy, con người còn thưa thớt, thú hoang thì nhiều vô số kể, núi lở dữ dội, biển cả dậy sóng, môi trường tự nhiên vô cùng khắc nshiệt, khắp nơi đều có người ở dưới động huyệt. Sự tồn tai của đỉnh đồng chứng tỏ, khi đó đã kết thúc thời đai hồng hoang, tòa thành hoang phế này có lẽ được hậu duệ các vương triều Hạ Thương để lại, bởi vậy, chúng ta phải tiếp tục tìm kiếm khắp địa cung, hi vọng sẽ tìm thấy phát hiện mới nào đó.”

Lúc này Thắng Hương Lân đã in thác bản xong, cô chỉnh sửa cho hoàn thiện rồi cất chúng vào ba lô, chỉ để lại một trang đưa cho Tư Mã Khôi xem, trang đó có ghi chép thông tin về cực vực. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi đón lấy, thấy mấy bức hình đều thể hiện biển sâu sóng dữ thét gào, trong đó không thiếu “cá voi thân khổng lồ, thuồng luồng dài vạn trượng”. Tương truyền, khi xưa Vũ Vương chia chín châu, thăm dò bốn cực, đo đạc tỉ mỉ hình thế của đồi núi sông suối, mới chặn được nước chảy tự do về phía đông, hướng nước đến đại dương theo một con kênh hẹp ở núi Long Môn dọc bờ Hoàng Hà, còn đại dương đó cụ thể đó là Đông Hải hay Nam Hải thì không tài liệu nào có thể khảo chứng, chỉ biết nơi dẫn nước lũ vào gọi là Vũ khư(4) . Có lẽ, “không động” nằm giữa lớp vỏ và lớp phủ Trái đất chính là Vũ khư, có điều chuyện này họ cũng không thể kiểm chứng, mà chỉ đoán mò theo cảm tính cá nhân mà thôi. Tư Mã Khôỉ biết mấy hình vẽ này rất bất thường, liền bảo Thắng Hương Lân cất cẩn thận, để sau này có lúc cần dùng đến, rồi anh giục mọi người mau chóng rời khỏi đây, quay lại khu vực ven tòa địa cung. Đối diện với cánh cửa đá của thành cổ có một cửa động giống như mộ đạo, vừa cao lại rộng rãi, nhìn sâu vào trong thấy rất âm u lạnh lẽo, khác hẳn với không khí nóng bỏng ngoài bồn địa Turpan dưới sa mạc Gobi.

[4] Vũ khư: tức là dấu cũ của Vũ Vương hay di chỉ Vũ Vương.

Đội khảo cổ bật đèn quặng gắn trước mũ bấc lên, từ từ tiến vào bên trong. Đường hầm hoàn toàn trống trải, hai bên động cũng không hề có vật gì thừa ra. Tư Mã Khôi cảm thấy không khí ở đây có vẻ không ổn, liền nhắc nhở mọi người phải thận trọng hơn nữa, không ai được mạo hiểm xông vào.

Đội trưởng Lưu Giang Hà bắt đầu lạnh gáy: “Chỗ này yên ắng quá, hình như chẳng có người sống hay sao ấy!”

Hải ngọng cười nhạt: “Nếu ở đây bỗng nhiên mọc ra một thằng cha đang nhe nhởn sống mới khiếp, chứ không có người thì đâu có gì lạ; điều kì lạ là ngay cả một xác chết cũng chẳng thấy…”

Lúc này, chùm sáng của đèn quặng trên mũ Tư Mã Khôi chiếu đến một góc tường, ở đó có một cái xác, phần đầu của xác chết đó to một cách bất thường, như thể bị trương phình lên vậy, lớn gấp đôi người bình thường, so với cái đầu thì gương mặt và cái cổ khô quắt trở nên vô cùng nhỏ bé, trông rất đỗi quái dị và đáng sợ.

Đội trưởng Lưu Giang Hà chưa kịp chuẩn bị tinh thần, nên khi nhìn thấy bộ dạng kì quái của cái xác, thì bất giác giật bắn người, lùi lại phía sau, hốt hoảng kêu lên: “Ối! Người chết!”

Dưới ánh đèn quặng, Tư Mã Khôi còn phát hiện thấy sâu bên trong còn rất nhiều thi thể khác, anh cũng thất kinh, vội vàng bịt miệng Lưu Giang Hà thì thầm: “Khép cái miệng một tí, ngộ nhỡ kinh động đến các ngài, thì chúng ta có mà ăn đủ”.

Thắng Hương Lân thấy Tư Mã Khôi dọa làm đội trưởng liên lạc sợ xanh mặt, vì đến cô nghe mà còn thấy rờn rợn, liền trách móc: “Tư Mã Khôi! Anh đừng dọa người khác nữa, được không hả?”

Tư Mã Khôi nói với Thắng Hương Lân: “Tôi có dọa đâu. Mấy năm nay tôi nhìn thấy rất nhiều người chết, nhưng chưa bao giờ thấy xác chết nào lại quái dị thế này”.

Thắng Hương Lân gật đầu bảo: “Mọi người phải thật thận trọng! Tuyệt đối không được sờ vào mấy xác chết này!”

Thế là cả đội ai nấy đều cẩn thận nhìn trước ngó sau, quan sát trang phục và trang thiết bị tùy thân của những xác chết, thì biết đây chính là đội khảo sát liên hợp Trung Xô mất tích năm 1958, chẳng ngờ lại tìm thấy họ trong tòa thành cổ này, đồng thời tất cả đều gặp nạn mà chết.

Hải ngọng chỉ tay đếm, tất cả có hai mươi hai cái xác, toàn bộ thành viên đội khảo sát đều chết ở đây, bao gồm cả bóng ma trong tấm hình. Tình trạng khi chết của đội khảo sát rất quái dị, khoảng cách giữa các xác chết không xa lắm. Gần đó có một tấm bia cũ kỹ loang lổ dựa vào tường, cao tầm đầu người, hình thù giống khuôn mặt người, nhưng chỉ có hình khối, không khắc rõ đường nét ngũ quan, chỉ có dưới chân bia là chạm trổ cái miệng lớn đen ngòm ngòm, đang há rộng ngoác nuốt một con quái xà. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi soi đèn quặng vào tấm bia “nuốt rắn” trong địa cung, bỗng thấy gai lạnh cột sống. Anh nghĩ dường như khoảnh khắc đội khảo sát chạm vào tấm bia này, thì đột nhiên họ đều gặp phải bất trắc, không một ai thoát thân. Tuy Tư Mã Khôi biết khu vực quanh đây chắc chắn đầy rẫy hiểm nguy rình rập, nhưng việc đội khảo sát mất tích năm 1958 là việc rất quan trọng, nên anh không thể qua loa cho xong chuyện, đành lấy hết can đảm tiếp tục xem xét. Anh dặn ba người còn lại, trước khi anh cho phép, không ai được tự tiện tiếp cận tấm bia nuốt rắn trong địa cung.

Mọi người lục ba lô và túi áo trên của từng thi thể và tìm thấy một số bản đồ, ảnh chụp cùng các vật phẩm khác như sổ tay công tác. Tuy xác chết đã teo quắt nhưng đường nét ngũ quan thì vẫn còn khá rõ, nên Tư Mã Khôi muốn đối chiếu từng thi thể với ảnh chụp để nhận diện họ.

Lúc này, chợt nghe phía sau có tiếng động vọng lại, gân xanh trên trán Tư Mã Khôi giật giật, anh điên tiết hét lên: “Vừa mới dặn không được tiếp cận tấm bia cổ quái kia, thế mà ngoảnh đầu đi một cái đã quên khuấy rồi à?”, nhưng khi anh quay người lại, thì thấy ba thành viên của đội khảo cổ vẫn ở cạnh bên, khiến tim anh như hẫng xuống một nhịp; anh cảm thấy từng sợi tóc của mình đang dựng đứng cả lên: “Phía sau là ai vậy?”, anh bạo gan soi đèn quặng ra sau nhìn kỹ, nhưng ngoài tấm bia đá ra thì không còn vật gì khác. Tư Mã Khôi kinh hãi thốt lên: “Chẳng lẽ cái bia cổ này sống thọ quá nên thành tinh rồi sao?”

Hồi thứ hai

CĂN NGUYÊN

Tư Mã Khôi thấy tấm bia nuốt rắn dựng dưới bức tường vẫn yên ắng im lìm, cũng không có biểu hiện gì khác thường, không biết âm thanh khi nãy phát ra từ đâu, nhưng hễ nhìn vào tấm bia đó, là anh lại lạnh toát sống lưng. Anh trấn tĩnh nhủ thầm, thấy vật quái mà không cho đó là quái, thì nó cũng sẽ tự khắc là bình thường, liền bạo gan soi đèn quặng lại gần, xem kỹ rốt cuộc thế nào.

Tấm bia nuốt rắn này loang lổ, cổ phác, hình thù kì quái. Gọi nó là tấm bia cũng chỉ là cách mà đội khảo cổ dựa vào hình dáng bên ngoài đặt ra, chứ thực tế không ai biết đó là thứ gì, bởi hình khối trên bề mặt như thể khuôn mặt người, nhưng không có đường nét rõ rệt, chỉ mỗi phần chân là chạm khắc cái miệng ma quái đang nuốt rắn, trông vô cùng quái dị và tàn bạo.

Tư Mã Khôi bỗng nhớ lại, ngày xưa có cuốn sách tên là “khu xà thư”, là sách ghi chép các loại bùa chú để thuần phục rắn. Nhiều đời trước, các trưởng môn cái bang thường giữ cuốn cổ thư này, để khi mở ra đọc là bầy rắn bất phân lớn nhỏ đều kéo đến nghe lệnh họ. Rồi mỗi kẻ ăn mày sẽ bắt một con trong số đó lột da, xả thịt nấu bát canh cho ấm dạ. Thế nhưng chiêu này chỉ được đem ra sử dụng vào những năm thực sự đói kém không kiếm nổi miếng ăn, nếu không sẽ phạm vào điều cấm kị. Liệu có phải tấm bia cổ này cũng có khả năng thu hút bầy rắn? Nhưng nhìn xung quanh địa cung này, ngoài hai mươi hai thi thể của thành viên đội khảo sát, thì không phát hiện thấy dấu tích của bất kì sinh vật nào khác.

Lúc này, Thắng Hương Lân nói với Tư Mã Khôi: “Thi thể của các thành viên đội khảo sát tuy rằng chưa mục nát hẳn, nhưng đầu đã biến dạng, gương mặt khô quắt nghiêm trọng, rất khó đối chiếu với dung mạo ban đầu trong bức ảnh, phải sử dụng kỹ thuật chuyên môn mới kiểm định được”.

Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Thi thể của toàn bộ thành viên đội khảo sát đều nằm ở đây, chứng tỏ bóng ma trong tấm ảnh chỉ là hiện tượng khúc xạ quang học ngẫu nhiên. Có lẽ lúc trước mình đa nghi quá, bây giờ đã phát hiện địa điểm đội khảo sát gặp nạn, lại tìm thấy rất nhiều bản đồ và ghi chép trên các thi thể, thu hoạch cũng không nhỏ, nên phải mau chóng rời khỏi đây thì hơn”. Rồi anh bảo mọi người thu dọn tử thi, chụp ảnh bằng máy ảnh phản quang ống kính đơn K205 làm tư liệu, sau đó nhanh chóng rút lui. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Mọi người quay ra theo đường cũ, nhưng cảm giác càng đi càng thấy bất thường. Tứ phía trong địa cung đều có đường hầm, khu vực ở giữa là chính điện – có tấm bia nuốt rắn, hai bên đường hầm đều có rất nhiều gian động, lúc vào thấy đoạn đường hầm đi từ cửa đến chỗ các tử thi khoảng chừng hai ba trăm mét, nhưng khi đi ra thì không thấy cửa động đâu cả, mà chỉ có bức tường đá lạnh lẽo, sừng sững nằm ở điểm tận cùng.

Hải ngọng hoang mang: “Bọn mình đi lạc rồi, sao lại chạy vào ngõ cụt được nhỉ?”

Thắng Hương Lân nhìn kim la bàn, nghi ngờ nói: “Phương hướng không sai, chắc không phải lạc đường đâu…”

Tư Mã Khôi nghĩ thầm: “Đúng là ghét của nào trời trao của ấy, tòa địa cung này kì quái quá, chẳng lẽ lại có hệ thống ngầm ẩn giấu bên trong, nhốt sống những người bước chân vào đây?”. Có điều, Tư Mã Khôi cũng am hiểu sự biến hóa của hệ thống bẫy ngầm, nên không quá lo sợ, anh bảo mọi người: “Cái nơi quỷ quái này thì nhằm nhò gì, chỉ hù dọa được trẻ lên ba thôi, nếu nắm được nguyên lý tương sinh tương khắc, thì dễ như trở bàn tay ấy mà”.

Nói xong, anh lên trước lần sờ vách tường, nhưng rồi anh lập tức phát hiện sự việc không hề đơn giản như mình nghĩ. Khối đá được tạo từ tro núi lửa cứng chắc, kín bưng không một kẽ hở, ít nhất cũng dày đến bảy tám centimét, bên trong đặc, không hề có thiết bị ngầm nào, cho dù sử dụng lượng lớn thuốc nổ, cũng chưa chắc phá hủy nổi nó.

Đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà lo lắng nói: “Thủ trưởng ơi! Bên dưới tòa thành cổ này chắc có ma rồi, mấy con ma trong đội khảo sát không muốn chúng ta rời khỏi đây rồi!”

Tư Mã Khôi mắng: “Này, đừng có thần hồn nát thần tính nữa. Tôi thấy chuyện này quá nửa là liên quan đến tấm bia nuốt rắn chết tiệt kia, bây giờ có mà chạy đằng trời, chúng ta đành quay về tìm tấm bia cổ quái đó thôi!”

Đội khảo cổ đang định quay đầu trở về, thì thấy một loạt tiếng động văng vẳng bên tai, dường như có vật gì đang bò đến từ nơi sâu trong đường hầm, chúng cọ sát vào vách tường, phát ra âm thanh quái dị nghe sàn sạt, dường như có rất nhiều loài sinh vật cánh cứng. Rồi tiếng động càng lúc càng gần, không những vậy, tốc độ và sức mạnh còn dữ dội như nước triều dâng, thực sự khó lòng đoán được.

Mọi người thất kinh, không biết nơi sâu trong địa cung rốt cuộc xuất hiện thứ gì, nhưng xem chừng kẻ sắp đến không phải hạng tốt đẹp, khẩu xung phong PPS chưa chắc đã cản được bước của chúng. Cả đội đành tháo lui về gian động bên cạnh, rồi hợp lực đẩy cánh cửa đá hình tròn để nó cách biệt hoàn toàn với cửa động dẫn ra đường hầm.

Tư Mã Khôi áp người vào cánh cửa đá nghe ngóng một hồi, loáng thoáng thấy âm thanh phía ngoài đường hầm dường như đều bị chặn trước cánh cửa, anh mới thở phào một tiếng, đang định quay người, thì phát hiện ba thành viên còn lại đứng sững như trời trồng, dường như họ đã nhìn thấy thứ gì không thể tưởng tượng nổi. Tư Mã Khôi thầm nghĩ, trong gian động này thì có thứ gì được chứ? Anh ngẩng đầu nhìn lên và hồn bay phách lạc, thì ra dưới chân tường trong động thất, có một người đang ngồi lặng lẽ. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Người đó vóc dáng tiều tụy, khuôn mặt đầy nếp nhăn, tóc bạc phơ, hai mắt sáng quắc như điện, lão ta đang nhìn chằm chằm hội Tư Mã Khôi, cách ăn mặc giống hệt với các thành viên đội khảo sát tử nạn dưới lòng đất.

Trong khoảnh khắc, Tư Mã Khôi có thể phân biệt người này chắc chắn không phải kẻ cầm đầu Nấm mồ xanh, bởi vì Nấm mồ xanh giống như u hồn hoặc xác ướp, cái mùi tử khí nặng nề quái dị đó khó có thể che đậy được, nhưng chẳng phải hai mươi hai xác chết của đội khảo sát đều nằm ngoài địa cung sao? Ông già tóc bạc này rốt cuộc là ai?

Lão tóc bạc nhìn chằm chằm hội Tư Mã Khôi như thể đang ngầm đánh giá, bỗng nhiên lạnh lùng mở miệng hỏi: “Các cậu… đến đây tìm ta sao?”

Tư Mã Khôi không đáp mà hỏi lại: “Lão có phải thành viên đội khảo sát kính viễn vọng Lopnor năm 1958 không?”

Lão tóc bạc “hừ” một tiếng rồi nói: “Này hậu bối! Đây là cơ mật quốc gia, ai là lãnh đạo của các cậu? Ta muốn nói chuyện trực tiếp với lãnh đạo của các cậu”.

Hội Tư Mã Khôi nhìn nhau, ai nấy đều cảm thấy trên mình người này tỏa ra một luồng khí thần bí, khó lòng miêu tả được, người này rốt cuộc là ai? Vì sao lại xuất hiện trong địa cung? Lẽ nào cả đội đang chạm trán với u hồn của một trong những thành viên đội khảo sát? Hơn nữa, trong bức ảnh hình như không có người này, chẳng lẽ hắn chính là bóng ma đó?

Tư Mã Khôi cảm thấy tình huống lúc này thật mơ hồ, anh định thăm dò hư thực, liền phân công đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà ra gác cửa, đề phòng trong động bất ngờ xảy ra biến cố, sau đó nói với lão tóc bạc: “Tôi là thủ lĩnh của đội, trước đây còn chụp ảnh cùng chủ tịch nước và bắt tay với thủ tướng rồi đấy…”

Hải ngọng chen ngang: “Chuyện này tôi có thể làm chứng. Lãnh đạo Khôi đúng là đã từng chụp ảnh chung  với chủ tịch nước, nhưng là chủ tịch nước Cộng hòa Miến Điện, còn thủ tướng mà cậu ta bắt tay là thủ tướng Lào đấy”.

Lão tóc bạc nghi ngờ hỏi: “Thế nghĩa là các cậu không biết ta là ai hả?”

Tư Mã Khôi thấy đối phương không giữ thái độ ôn hòa, nên cũng chẳng cần khách khí nói luôn: “Trông bộ dạng xui tận mạng của lão thì chắc là một chuyên gia chứ gì?”

Lão tóc bạc gật đầu nói: “Người phàm tục bình thường đều gọi ta như vậy, nghe mãi cũng quen tai!”

Thắng Hương Lân thấy Tư Mã Khôi và Hải ngọng mồm mép tép nhảy, cứ vòng vo nói đi nói lại mãi thế này, thì biết bao giờ mới có kết quả? Thế là, cô liền kể thật cho lão tóc bạc nghe toàn bộ quá tình từ khi đội khảo cổ tiến vào Đại Sa Bản, vượt địa máng và rừng rậm than đá, tìm thấy trạm thám trắc trung tâm, tiếp theo thoát khỏi sự đeo bám của căn phòng số 86, rồi đào thoát ra ngoài chiếc hộp thời gian, cuối cùng đến được thành cổ trong biển cát. Cô kể tóm tắt tất cả sự việc một lượt, mong giành được sự tin tưởng của đối phương.

Tư Mã Khôi thấy lai lịch ông già tóc bạc rất bất minh, nên sao có thể dễ dàng khai tuốt tuột toàn bộ sự thật về đội khảo cổ cho lão nghe được? Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, thấy đội khảo cổ giờ đây đã đi đến đường cùng, nên những chuyện này cũng không cần thiết phải giữ bí mật nữa, bởi vậy anh cũng không ngăn cản cô, chỉ lặng im đứng bên quan sát xem cuối cùng đối phương sẽ nói gì.

Lão tóc bạc nghe xong bán tín bán nghi, dường như lão đang tự suy đoán xem, câu chuyện Thắng Hương Lân vừa kể là thật hay giả. Trầm ngâm một hồi lâu, sau cùng, lão cũng thừa nhận mình là một trong những thành viên của đội khảo sát liên hợp Trung Xô năm 1958. Còn về việc vì sao lão lại xuất hiện ở đây và rốt cuộc, lúc đó đã xảy ra những chuyện gì, thì hầu hết đều gần với những gì Tư Mã Khôi phỏng đoán, hơn nữa mọi sự kiện đều có liên quan đến tấm bia nuốt rắn trong lòng núi.

Lão nói với hội Tư Mã Khôi:. “Tôi không dám chắc mình hiểu tất cả những chuyện liên quan đến kính viễn vọng Lopnor, tàu ngầm Liên Xô bị mất tích và bí mật của tổ chức ngầm Nấm mồ xanh, nhưng chí ít cũng biết bảy tám phần, có điều những sự kiện này đan cài vào nhau rất phức tạp, phải kể từ lúc bắt đầu, đó cũng chính là ngày trời đất thành hình.

Từ năm 1543, nhà vật lý thiên văn người Ba Lan Nicolaus Copernicus đã đưa ra một phát hiện mới đầu tiên của thuyết mặt trời là trung tâm, rồi từ đó những thảo luận về sự quay quanh của các thiên thể được quy nạp vào phạm trù khoa học. Sau đó, dần dần hình thành nên các trường phái khác nhau như: thuyết tinh vân, thuyết va chạm hành tinh… Nhưng trên thực tế, những học thuyết liên quan đến khởi nguồn của vũ trụ, cho đến tận bây giờ vẫn chỉ dừng lại ở giai đoạn giả thiết, hoàn toàn không cỏ căn cứ chứng minh.

Trong các mẫu lõi đá mà các nhà khoa học Liên Xô sưu tầm được ở kính viễn vọng Lopnor, có một loại vật chất khoáng quặng tên là Zirconi. Đó là một kim loại chuyển tiếp màu trắng xám, bóng láng, tương tự như Titan. Suy đoán theo năm tuổi đo lường từ mẫu vật này, thì không động nằm giữa lớp vỏ và lớp phủ Trái đất, ít nhất cũng tồn tại từ cách đây 4 tỉ 600 triệu năm, khi đó, vụ nổ vẫn thạch dưới lòng đất khiến vực sâu cách bề mặt Trái đất mười nghìn mét này bắt đầu xuất hiện ôxy và nước.

Trong khi đó, khoảng thời gian hơn bốn ngàn năm về trước, cũng chính là thời đại của hồng thủy, và chính trong thời điểm này, con người đã phát hiện ra không động dưới lòng đất. Huyệt động trong núi Long Môn khi Vũ Vương đào vét lưu vực sông Hoàng Hà, đã dẫn nước lũ ra đầm lớn, nó chính là Vũ khư mà sử sách vẫn ghi chép, đồng thời cũng là cực vực mà hậu thế sau này vẫn gọi. Tương truyền, mười vạn âm binh dưới lòng đất đã ra sức đào vét sông ngầm, nhờ vậy mới dẫn được nước từ núi Long Môn chảy vào Vũ khư. Mức độ chính xác về các số liệu địa lý mà cổ nhân đo đạc, cũng như độ khó và sự hùng vĩ của các công trình đó, quả thực khiến người đời nay khó lòng tưởng tượng nổi, mà chỉ có thể quy kết là được thần quỷ phù trợ. Kì thực, vì niên đại quá xa xôi, các ghi chép thực tế trong sách cổ lại vô cùng ít ỏi, nên rất nhiều phương pháp cổ xưa đã bị thất truyền”.

Tư Mã Khôi càng nghe càng hiếu kì, tuy ông già tóc bạc này nói có đầu có cuối, nhưng sao lão ta lại hiểu rõ cặn kẽ ngọn nguồn mọi chuyện như vậy nhỉ? Có thể những bí mật này vẫn còn tồn tại trong thành cổ, nhưng từ sau thời Tống thì làm gì còn ai có thể giải mã được chữ triện cổ triều Hạ nữa, vậy lão già này rốt cuộc là người sổng hay là bóng ma trong tấm ảnh hiện thân trở về?

Lúc này, chuyên gia tóc bạc lại càng làm ra vẻ bí mật, nói úp úp mở mở với mọi người: “Niên đại chữ triện cổ triều Hạ xuất hiện còn sớm hơn cả chữ giáp cốt, vì nội dung của nó quá cổ xưa và ảo diệu nên di chỉ sót lại không nhiều, hàng ngàn năm trước nó đã hoàn toàn thất truyền. Nhưng có thể nói không ngoa là thời nay chỉ mỗi mình ta hiểu được chúng, bởi vậy ta mới có thể phá giải những ẩn số kinh động trong cối đời này. Tạm thời các cậu đừng vội gạn hỏi về nguyên nhân ẩn chứa bên trong, mà trước tiên hãy nghe lão đây nói hết đã. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Trong lịch sử tồn tại truyền thuyết “Vũ Vương xiềng giao long”, tương truyền, thời nhà Hạ có con quái vật cổ, thân mình như vượn, mắt vàng răng tuyết, tên là Vô chi kì (1) . Khi Vũ Vương khơi thông sông Hoài Thủy, ông đã thu phục được nỏ, và xiềng nhốt nó trong giếng Hoài Cảnh sâu không thấy đáy. Cũng có quan điểm cho rằng Vô chi kì là con mãng xà lớn, bởi vậy mới xuất hiện truyền thuyết xiềng giao long.

[1] Vô chi kỳ: là con quái vật cổ xưa nhất xuất hiện trong truyn thuyết Trung Quốc. Nó sinh ra ở Hoa Quả Sơn, tự nhận mình là thần sông Hoài Thủy, phép thuật thần thông quảng đại. V sau Ngô Thừa Ân lấy hình mẫu con quái vật này để xây dựng hình tượng nhân vật Tôn Ngộ Không.

Trên thực tế, thời đó, bên bờ sông Hoài Thủy có một cổ quốc tôn rắn làm thần. Người dân nước này đều sống trong các hang động dưới lòng đất, không biết sử dụng lửa. Do họ nhiều lần đào đường sông, nên dẫn đến nạn lũ lụt hoành hành. Sau khi bị vương triều nhà Hạ hàng phục, họ trờ thành nô lệ và bị đẩy xuống lòng đất đào con kênh ma quỷ. Lợi dụng kết cấu hợp lý sẵn có của các quần thể huyệt động nguyên sinh trong lớp vỏ Trái đất, nhà Hạ đã tạo ra con sông ngầm ngoằn ngoèo trải dài hàng ngàn dặm. Đồng thời, họ còn chôn giấu rất nhiều đồ vật cổ để trấn sông. Đỉnh đồng Vũ Vương cũng bị thất lạc dưới lòng đất chính vào lúc đó. Sau này, một lượng lớn bùn đất trong Hoàng Hà bị chìm lún xuống sâu, lấp kín con sông ngầm dưới lòng núi Long Môn. Mãi đến ngàn năm sau, những nô lệ tộc quỷ đã chạy trốn khỏi lòng đất, thâm nhập sa mạc Tây Vực và trở thành tổ tiên của tộc người Tochari(2) – một phân nhánh nhỏ trong tộc di cư đến Miến Điện vào thời Tần Hán, sau này chính là Diệt Hỏa quốc bị mất tích một cách thần bí dưới lòng đất.

[2] Người Tochari: phiên âm Hán Việt là người Thổ Hỏa La, có tư liệu cho rằng, đó chính là tiền thân của tộc người Nguyệt Chi. Ban đầu họ định cư ở miền đông khu vực lòng chảo Tarim, ngày này thuộc Tân Cương, Cam Túc và Kỳ Liên Sơn  Trung Quốc, sau đó di cư tới Transoxiana, Bactria (Đại Hạ) và cuối cùng là miền bắc Ắn Độ, nơi họ lập ra Vương triêu Quý Sương.

Thắng Hương Lân thấy chuyên gia tóc bạc kể chuyện lịch sử cổ xưa từ hàng ngàn năm trước mà rõ ràng như thể dọc đường chỉ lòng bàn tay, thì biết tri thức của lão vượt xa người thường. Cô bất giác vừa kinh ngạc vừa thắc mắc, không lý giải được vì sao đối phương lại am tường mọi chuyện đến thế. Hải ngọng và đội trưởng Lưu Giang Hà cũng tròn mắt đứng ngẩn ra nghe.

Chỉ có Tư Mã Khôi là càng lúc càng hoài nghi, anh không muốn tiếp tục nghe chuyên gia tóc bạc huênh hoang kiến thức nữa. Trước khi làm rõ thân phận của đối phương, ai dám tin mấy lời xằng bậy của lão?

Tư Mã Khôi lôi tấm ảnh chụp đội khảo cổ ra, dưới ánh đèn quặng, anh liên tục đối chiếu lão chuyên gia tóc bạc với từng người trong ảnh. Không thấy người nào có dung mạo tương tự với lão, dẫu đối phương là vong linh đã chết từ nhiều năm trước, thì cũng tuyệt đối không phải vong linh của thành viên đội khảo sát liên hợp Trung Xô năm 1958.

Hải ngọng hậm hực nói với Tư Mã Khôi: “Cậu đúng là hạng đa nghi Tào Tháo! Có bao giờ chịu tin ai chưa hả? Trong tấm ảnh chẳng phải có một bóng ma lờ mờ không rõ mặt đấy à? Sao cậu dám chắc người thứ hai mươi hai không phải lão ta chứ?”

Tư Mã Khôi nói: “Tuy khuôn mặt của bóng ma trong tấm ảnh không rõ, nhưng tớ dám chắc thằng cha đó là người Nga, còn chuyên gia tóc bạc mà chúng ta đang gặp này, căn bản không hề xuất hiện trong tấm ảnh”.

Hồi thứ ba

TẤM ẢNH

Tuy rằng khuôn mặt của bóng ma đứng đầu tiên mé trái hàng thứ hai trong tấm ảnh có dính một vệt sáng, khiến mọi người không thể nhận diện rõ ràng, nhưng ngoài khuôn mặt ra thì mọi chi tiết khác trên cơ thể đều được chụp lại một cách rất chân thực.

Lúc này Tư Mã Khôi đã chú ý đến một chi tiết nhỏ, anh phát hiện trang phục mà hai mươi hai thành viên đội khảo sát mặc trên người không giống nhau, từ các đặc trưng trên trang phục có thể phỏng đoán, bóng ma trong bức ảnh khả năng là người Liên Xô. Bởi vậy, bất kể thân phận thực sự của bóng ma kia thế nào, thì chí ít nó cũng không phải chuyên gia tóc bạc đang trốn dưới lòng đất này.

Ba người còn lại nghe Tư Mã Khôi chỉ ra vấn đề, cũng thấy mối nghi ngờ trong lòng càng lúc càng lớn. Tuy đối phương biết rất nhiều chuyện cơ mật quan trọng, nhưng lai lịch người này rất bất minh, vậy làm sao dám tin những lời lão ta nói?

Chuyên gia tóc bạc thấy rõ tâm lý nghi kỵ của mọị người vẫn chưa giảm xuống, thì nói: “Bức ảnh đó đúng là được chụp trước khi đội khảo sát tiến xuống lòng đất, có điều, nếu như các cậu muốn biết bóng ma trong búc ảnh rốt cuộc là ai, thì buộc phải hiểu rõ bí mật hạt nhân của tổ chức Nấm mồ xanh. Tổ chức này chính thức thành lập năm 1946, kết cấu của nó giống như cái ô. Nội bộ tổ chức đặt biệt danh theo cấp bậc của các công trình kiến trúc khác nhau, chức danh cao nhất là nấm mồ, chức danh thấp nhất là căn phòng, còn kẻ cầm đầu chính là cánh tay cầm cán ô”.

Tư Mã Khôi chăm chăm suy nghĩ xem phải thoát khỏi nơi này thế nào, nên không còn tâm trạng để ý đến mấy lời hù dọa củạ lão tóc bạc, nhưng thấy đối phương bỗng nhiên nhắc đến Nấm mồ xanh, rõ ràng là lão hiểu rất rõ về tổ chức ngầm này, anh đành kiên nhẫn nghe tiếp xem rốt cuộc lão định nói gì, đồng thời ngầm quan sát và phán đoán xem thân phận thực sự của lão. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Chuyên gia tóc bạc hiển nhiên rất thấm nhuần nghệ thuật rắc thóc dụ gà. Trước tiên, lão ta dùng mấy lời để trấn an tâm lý bốn thành viên đội khảo cổ, nhưng khi mọi người đã tập trung chú ý thì lão không nhắc lại chuyện Nấm mồ xanh nữa, mà tiếp tục kể về dòng sông ngầm dưới cực vực khi nãy hãy còn nói dở. Lão kể rằng, Quỷ Nô là một trong những tổ tiên của tộc người Tochari ở Tây Vực. Trong thể hệ ngôn ngữ Ấn Âu thì Tochari có nghĩa là “huyệt động”, cũng chính bởi vậy nên tòa thành cổ bị thất lạc dưới lòng đất mới có tên là thành Tochari.

Trong thành cổ còn lưu lại khá nhiều bích họa và chữ triện cổ triều nhà Hạ, ghi lại truyền thuyết Vũ Vương thám hiểm bốn cực, đo lường đất trời. Nói theo quan điểm ngày nay thì, Vũ khư chính là không động khổng lồ được hình thành do vụ nổ vẫn thạch. Trong hố đất xung quanh nó cũng sản sinh những khe nứt sâu hun hút giống như hẻm núi. Khi đào vét huyệt động núi Long Môn, cổ nhân đã lợi dụng những khe nứt này để tạo sông ngầm, cuối cùng dẫn nước lũ từ lục địa đổ vào Vũ Khư.

Trong long triện triều Hạ còn ghi chép một sự kiện vô cùng thần bí: dưới lớp vỏ Trái đất có một hắc động sâu như vực vô đáy, nó đóng mở bất thường, không biết bên trong tồn tại vật thể gì.

Cổ nhân coi đó là điều cấm kỵ, không ai dám nhắc cũng không dám nói đến. Bởi vậy, những ghi chép mô tả về nó vô cùng ít ỏi. Dần dần, những bí mật cổ xưa này hóa thành lớp bụi trần ai của thời gian, từ mấy ngàn năm trước đã không còn ai nhắc đến nó nữa.

Thời gian vật đổi sao dời, thoáng chốc đã đến năm 1953, thời kì đầu cuộc chiến tranh lạnh, một chiếc tàu ngầm thuộc phân đội tàu ngầm độc lập số 40 của lực lượng vũ trang Liên Xô, mang biển số chiến thuật là 615 cấp Z, động cơ Diesel, mang hai trái tên lửa Sunshine xuất phát vào hải vực Thái Bình Dương, chấp hành nhiệm vụ đã định theo lệnh của cấp trên. Khi đang lặn ở độ sâu cực hạn 200 mét thì đột nhiên xảy ra tai nạn nước biển ăn mòn, từ đó con tàu mất tích.

Nhưng thực tế, sau khi mất tích, con tàu đó đã trở thành một bóng ma ngao du khắp nơi trên biển. Không quân Mỹ và đội tuần tra biển Anh, cũng đều từng nhận được tín hiệu định vị sóng ngắn của tàu Z-615 ở các địa điểm không giống nhau, nhưng nguồn tín hiệu thì đều xuất phát từ đáy biển sâu hoặc dưới lòng đất, nơi tàu thuyền căn bản không thể tới được, đồng thời con tàu liên tục di chuyển.

Các bên đều vô cùng coi trọng sự kiện này, định tranh một bước tìm thấy con tàu ma trước nhưng sau nhiều lần tiến hành thám trắc lục soát, thì kết quả vẫn không tìm thấy gì. Khi đó, có tổ chức tình báo đã cung cấp manh mối, suy đoán con tàu ngầm đã thâm nhập khu vực hắc động gần tâm Trái đất, tín hiệu liên lạc của nó không ngừng lặp đi lặp lại, xuất hiện lẫn trong bức xạ vi sóng điện từ dưới lòng đất, từ đó khúc xạ lên bề mặt Trái đất, còn thứ đang không ngừng di chuyển dưới lòng đất không phải tàu ngầm 615, mà là bản thân hắc động.

Hắc động nằm giữa lớp vỏ và lóp phủ Trái đất, cũng chính là khu vực bí ẩn bên trong Vũ khư, bởi vậy con tàu ngầm bị mất tích của hải quân Liên Xô mới xuất hiện ở cực vực bên dưới sa mạc Lopnor vào một thời điểm nhất định. Còn vì sao hắc động không ngừng di chuyển, thì đến nay vẫn chưa ai giải thích nổi.

Tổ chức cung cấp nguồn tin tình báo đó chính là Nấm mồ xanh. Tiền thân của nó là một tổ chức ngầm chuyên giao dịch các tin tình báo về buôn bán vũ khí chiến tranh và buôn lậu. Các thành viên của nó thẩm thấu đến mọi vùng miền, nhưng nội bộ từ đầu chí cuối đều duy trì phương thức liên lạc đơn tuyến, tất cả đều do kẻ cầm đầu thông qua điện đàm trực tiếp thao túng.

Vào thời kì đặc biệt đó, các phe phái quân sự trong cuộc chiến tranh lạnh không ngừng tranh chấp, và có xu hướng hâm nóng phát triển đến giai đoạn cao trào, trong đó bao gồm cả hành động thám trắc địa tâm. Liên Xô căn cứ vào tin tình báo này quyết định chuyển mục tiêu từ Kính viễn vọng địa cầu sang sa mạc Lopnor, đồng thời đạt được thỏa thuận với phía Trung Quốc là hai bên sẽ cùng nhau khai quật huyệt động nguyên sinh bị vùi sâu dưới lớp vỏ Trái đất. Thông qua phương pháp quan trắc địa ảnh viễn thám bằng điện trường, họ phát hiện dưới lòng đất có hai vật thể bằng sắt thần bí, nhưng không giống với chiếc tàu ngầm đang bị mất tích của Liên Xô. Cũng bởi vì họ đã sớm biết trước khu vực sâu mười nghìn mét dưới lớp vỏ Trái đất từng là di chỉ Vũ khư, nên năm 1958, hai phía Trung Xô đã tổ chức thành lập một phân đội khảo sát liên hợp, trong đó bao gồm các chuyên gia địa chất, khảo cổ và quan sát viên quân sự. Phân đội này thâm nhập cực vực, tiến hành các cuộc thám trắc thực địa. Mấy ngày trước khi chính thức xuất phát, cả đội cùng nhau chụp một bức ảnh tập thể, đó chính là bức ảnh xuất hiện bóng ma mà các cậu phát hiện được.

Thành viên có khuôn mặt không thể nhận diện trong bức ảnh là một tùy viên quân sự làm việc trong cục tình báo KGB(1) của Liên Xô. Sau khi bức ảnh được chụp và đem rửa, viên sĩ quan đó bỗng vô cớ lăn ra chết, kết quả khám nghiệm tử thi được liệt vào phạm trù cơ mật, tình hình cụ thể chỉ phía Liên Xô mới biết rõ.

[1] KGB: Viết tắt của ủy ban An ninh Nhà nước (tiếng Nga)

Khi đó, Nấm mồ xanh đã dần dần thoát khỏi sự kìm hãm của thế lực chiến tranh lạnh. Mục tiêu chủ yếu của tổ chức này là bằng mọi giá phải tìm bằng được bí mật ẩn giấu trong hắc động. Kế hoạch kính viễn vọng Lopnor của Liên Xô chẳng qua cũng chỉ là một trong những nguồn lực có hiệu quả mà tổ chức muốn lợi dụng. Khoảng năm 1958, các bên bắt đầu phát hiện ra chân tướng sự việc, nên quyết định loại bỏ kế hoạch kính viễn vọng Lopnor ra khỏi chiến dịch. Nước ta cũng nhiều lần tiến hành các phong trào chống phản động và truy bắt không ít phần tử mai phục, nhưng tổ chức Nấm mồ xanh lại không thuộc về bất kì thế lực nào, còn nội bộ được duy trì theo phương thức liên lạc đơn tuyến, nên các thành viên không hề quen biết nhau, bởi vậy, nếu không tóm được tên đầu sỏ thì rất khó diệt trừ nó tận gốc.

Chính vì thế, có người hoài nghi rằng, viên sĩ quan cục tình báo KGB đã bị phần tử mai phục của tổ chức này hãm hại, còn bóng ma xuất hiện trong bức ảnh cũng không phải chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Nếu nói theo quan điểm mê tín thì có lẽ, anh ta đã bị ma nhập, hoặc còn do nguyên nhân nào khác. Chỉ có điều, máy ảnh rốt cuộc đã chụp được thứ gì, thì chúng ta không thể đưa ra kết luận khẳng định chắc chắn, bởi thiếu chứng cứ xác thực.

Vì viên sĩ quan cục tình báo KGB bất ngờ tử vong, nên đội khảo sát bị khuyết mất một vị trí, lão tóc bạc nhận được mệnh lệnh đột xuất, cùng đoàn thâm nhập kính viễn vọng Lopnor. Nào ngờ, cả đội bị bọn trùng cát tấn công giữa đường, đường dây điện thoại thạch từ bị cắt đứt, máy phát sóng ngắn cũng xảy ra sự cố, từ đó, mất liên lạc với hậu phương, đội khảo sát không thể phân biệt được phương hướng giữa biển cát dưới lòng đất. Vì phải tránh sương đen, nên cả đội đành dựa vào biểu đồ thám trắc lực va chạm, lần theo vẫn thạch sắt chỉ đường, mò mẫm đến tòa thành cổ này, đợi đội cứu hộ đến giúp. Vậy mà có ai ngờ, địa cung trong tòa thành hoang phế tối tăm và im lìm như cõi chết này lại là huyệt ma khiến tất cả sinh mệnh lâm vào con đường một đi không trở lại.

Tư Mã Khôi nghe hồi lâu, thấy tất cả đều khớp với những gì anh và đội khảo cổ đã trải qua, cảm thấy lời của lão già này không phải là giả. Hội của anh từ trước đến nay luôn căm ghét đến tận xương tủy với những tổ chức gián điệp. Nguyên nhân chủ yếu là vì những năm 50, 60 đúng là có vô số bọn đặc vụ mai phục .Thời kì này, dân gian xuất hiện rất nhiều tin đồn, mà tin đồn nào cũng sống động như thật, như chuyện: có một cậu bé chừng năm sáu tuổi sống cùng ông nội. Trước khi đi ngủ, cậu bé no bụng đói con mắt, ăn thêm hai miếng dưa hấu nữa, nên nửa đêm mới phải bò dậy vì mót tè. Vừa mở mắt, cậu bé đã thấy ông nội đang lén lén lút lút bày một bộ máy điện đàm, thì ra ông nội của cậu là đặc vụ. Thấy sự việc bị bại lộ, lão ta liền nhẫn tâm dùng tay bóp cổ đứa cháu cho đến chết Ngoài ra, còn có tin đồn, bom nguyên tử do đế quốc Mỹ chế tạo đều lấy nguyên liệu luyện từ các cơ quan trong cơ thể người, nam thì bị cắt tinh hoàn, nữ thì bị cắt tử cung, nếu nhà ai có người bị mất tích thì chắc chắn là bị đặc vụ quân địch bắt đi làm nguyên liệu hạt nhân. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tuy bây giờ, mọi người đều biết tất cả những chuyện này chỉ là những tin đồn nhảm nhí, nhưng sức ảnh hưởng lan truyền ngầm của nó đối với lớp người thời các anh đúng là không nhỏ. Chỉ cần nhắc đến tổ chức đặc vụ là lập tức nghĩ ngay đến mối quan hệ đối địch nước lửa không đội trời chung. Tư Mã Khôi cho rằng, tổ chức Nấm mồ xanh không giống các tổ chắc đặc vụ ngầm bình thường khác. Mục tiêu của tổ chức bí mật này là vọng đồ thám trắc bí mật trong hắc động gần tâm Trái đất, nhưng trong đó có thể tồn tại thứ kinh động hãi hùng đến mức nào? Chẳng lẽ bọn họ muốn lật đổ chính quyền, âm mưu lấy ba trái núi đè bẹp đầu não giai cấp vô sản, khiến bách tính phải chịu cảnh lầm than thêm lần nữa, gây ra tội lỗi lần nữa? Hay là muốn học tập gương Tần đế, Hán Vũ, phá giải ẩn số trường sinh bất tử, thoát khỏi kiếp luân hồi? Nghĩ kỹ lại, Tư Mã Khôi thấy tất cả khả năng này đều không thể tồn tại. Ngoài ra, tuy rằng bóng ma trong tấm ảnh đã chết, nhưng đội khảo sát vẫn biên chế hai mươi hai thành viên, mà toàn bộ thi thể đều đang nằm dưới lòng đất. Vậy lão tóc bạc này rốt cuộc là ai? Vì sao lão ta lại hiểu hết các bí mật trong Vũ khư? Vì sao lão lại nói thành cổ Tochari là huyệt ma? Đội khảo sát đã gặp phải thứ đáng sợ gì trong địa cung? Lẽ nào người này… là một vong hồn trốn trong chiếc hộp thời gian?

Tư Mã Khôi nghĩ, bất kể kẻ anh đang gặp là người hay ma, thì cũng phải làm rõ trắng đen mới được, lúc này có quá nhiều điểm khả nghi phải dò cho ra chân tướng thế là anh liền hỏi đối phương: “Tuy trong Vũ khư có một số bức bích họa khắc trên đá, nhưng đa số là chữ triện cổ triều Hạ, trông lúc nhúc như nòng nọc, lão thông suốt những sự việc đã xảy ra từ hàng ngàn năm trước như vậy chắc không phải là xem tranh đoán ý đấy chứ? Nếu lão không giải thích rõ nguyên nhân thì làm sao khiến người khác tin phục được”.

Lão tóc bạc liếc xéo Tư Mã Khôi một cái, đoạn nói: “Long ấn triều Hạ xuất hiện còn sớm hơn cả chữ giáp cốt, nội dung lại vô cùng thần bí ảo diệu, một ngàn năm trở lại đây không còn ai giải được nó. Đó là vì người đời ngu muội tối tăm, bởi ngay từ lúc đầu đã đi nhầm phương hướng. Nếu cậu chỉ tìm cách nhận biết từng chữ một, thì đến cả ngàn năm sau cũng chẳng nhận ra được nửa chữ. Nhưng cậu thấy đấy, giờ đây chữ giáp cốt không còn là bí mật nữa, chỉ cần tìm tấm bia đồng thời khắc cả chữ giáp cốt thời Ân Thương và long ấn Triều Hạ, rồi đối chiếu hai loại văn tự đó với nhau, thì chuyện giải mã chữ triện cổ triều Hạ há chẳng phải dễ dàng như trở bàn tay sao?”

Hội Tư Mã Khôi và La Đại Hải căn bản không hiểu gì cả, nhưng nghe ra thì cũng không phải là không có lý.

Hương Lân thì biết đúng là có tồn tại phương pháp đối sánh giao thoa này. Một vài năm trước, một đội khảo cổ của Pháp từng lợi dụng phương pháp ấy để giải mã thành công lượng lớn các phù hiệu thần bí khắc trên các ngôi mộ cổ ở Ai Cập, trong đó có cuốn sách rất nổi tiếng, mang tên “Tử thư Ai Cập”.

Tư Mã Khôi thấy Thắng Hương Lân gật đầu biểu thị xác nhận câu trả lời, thì biết rõ không có gì phải nghi ngờ về điểm này, dù anh vẫn còn vô số ẩn số muốn tìm lời giải; nhưng lời phải nói từ từ từng câu, đòn phải đánh từ từ từng roi, cần biết cân nhắc nặng nhẹ, khoan nhặt, thế là anh liền hỏi chuyên gia tóc bạc xem có biết thân phận thực sự của Nấm mồ xanh hay không, đồng thời bí mật mà tổ chức ngầm này muốn tìm rốt cuộc là gì?

Chuyên gia tóc bạc nói: việc này rất khó dùng một đôi câu mà giải thích rõ ràng được. Theo phần ghi chép về các vị vua nổi tiếng trong kinh thánh, thì vua Solomon từng đi sâu nghiên cứu tinh hoa bộ môn thần bí học, đã cảnh báo hậu thế rằng: không được khai quật kho báu chôn giấu dưới lòng đất, bởi trong vực sâu có “kẻ địch cổ đại” đang ẩn mình ngủ đông.

Hồi thứ tư

HUYỆT MÀ

Hội Tư Mã Khôi đều không hiểu ý của lão tóc bạc, những ghi chép thần bí trong “Thánh kinh liệt vương ký” sao có thể liên quan đến hắc động nằm gần tâm Trái đất được? Và kẻ địch cổ đại thực ra là thứ gì?

Lão tóc bạc giải thích: kẻ địch cổ đại là chỉ những thứ nào đó tồn tại trong hắc động dưới lòng đất, còn khởi nguồn nền văn minh của các cổ quốc không giống nhau, mỗi nền văn minh đều tồn tại tính độc lập và giới hạn nhất định, vì vậy nhận thức về nó cũng không tương đồng. Ấn Độ cổ gọi nó là núi Sumeru(l) , là con mắt khổng lồ có thể nhìn xuyên thấu đầu cuối thời gian, còn vương triều Babylon thì cho rằng đó là “cây sáng thế”. Những truyền thuyết cổ xưa này có thể chứng thực từ một mặt rằng: vị trí và thời gian vực sâu xuất hiện đều không thể xác định.

[1] Núi Sumeru: là một ngọn núi tưởng tượng. Theo tư duy v vũ trụ quan của Phật giáo, núi Sumeru hơn một triệu km, là nơi ở của các đấng thần linh tối cao, là trục đứng của toàn vũ trụ, là trung tâm của thế giới.

Ngay từ thời vương triều Hạ Thương cai trị, vì có bia Vũ Vương chìm sâu trấn quỷ dữ, nên cổ nhân mới coi hắc động là miếu thần. Bia Vũ Vương mà hậu thế còn lưu giữ, đều được đúc căn cứ vào các họa tiết khắc trên thân minh khí đồng xanh từ thời Ân Thương, Tây Chu. Trên tấm bia cũng dùng long triện triều Hạ ghi chép một đoạn thế này, đại ý là: “Dẫu có là thánh hiền tiên nhân thì cũng không thể phá giải được cửa ấy”. Nhưng từ cổ chí kim, đếm không xuể biết bao người có ý đồ dòm ngó bí mật trong miếu thần, mà mục tiêu của tổ chức ngầm Nấm mồ xanh cũng chính là nó.

Cuối cùng, Tư Mã Khôi cũng hiểu ra ít manh mối, thì ra tấm bia Vũ Vương đích thực đã bị ném xuống đáy vực sâu, nhưng đoạn ghi chép khắc trên tấm bia có nghĩa là gì? Tuy chuyên gia tóc bạc đã cố gắng diễn giải những ngôn từ cổ xưa, ảo diệu, bằng lối nói thông dụng nhất, nhưng anh vẫn cảm thấy rất khó lý giải, không biết bên trong còn tiềm tàng những bí ẩn gì nữa.

Thắng Hương Lân bảo Tư Mã Khôi: “Hình như ý muốn nói từ thời hằng cổ đến nay, tuy có rất nhiều kẻ trí tuệ hơn người, tinh tường mọi điều, nhưng vẫn không ai có thể vén được tấm màn bí mật trong miếu thần”.

Tư Mã Khôi càng rầu rĩ thắc mắc: “Vì sao lại thế?”

Chuyên gia tóc bạc nói: “Bởi vì ai cũng muốn hỏi, nhưng nguyên nhân chính là đáp án. Tôi không tìm thấy ghi chép rõ ràng về điều này trong thành cổ Tochari. Khi Vũ Vương thám hiểm khắp bốn cực, ông đã từng cho đẩy một phiến đá rất lớn xuống đáy cực vực, để bịt kín lối vào. Hậu thế gọi vật này là bia Vũ Vương, nghe nói hai mặt tấm bia khổng lồ đều khắc cổ văn, mặt chính là long ấn triều Hạ, mặt đối diện khắc chìm loại chữ triện bí ẩn, nội dung bên trong rốt cuộc ghi chép điều gì, thì hậu thế không ai biết được. Chiếc tàu ngầm Z-615 của hải quân Liên Xô cũng bị mất tích ở khu vực gần hắc động, nếu các cậu có thể nghĩ cách tìm thấy tàn tích của nó, thì cũng có nghĩa sẽ tìm thấy lối vào”.

Tư Mã Khôi biết mạch nước phun – mà cả đội gặp trong biển cát lúc trước, đại khái cũng bắt nguồn từ tầng sâu trong quyển manti, bởi vậy khi ấy ở khu vực đó mới thu nhận được tín hiệu sóng ngắn của Z-615. Anh từng nghe giáo sư Nông địa cầu nói, phía dưới quyển manti có khả năng là biển lớn cuộn trào dữ dội và tối đen như mực, mọi sinh vật chỉ cần lại gần là sẽ bị thiêu cháy thành tro bụi. Có lẽ, vực sâu giống như hắc động ấy cũng theo đó mà bập bềnh chuyển động, bởi vậy vị trí nó xuất hiện mới khó lòng xác định. Người cổ xưa dường như đã nắm được quy luật chuyển động của nó, còn sóng điện u hồn bị giam cầm trong mật thất thành cổ Nhện Vàng, thì chính là phương vị tọa độ của hắc động. Đáng tiếc là nó đã bị Nấm mồ xanh cướp trước một bước, giờ đây đội khảo cổ làm sao tìm thấy con đường tăm tối đó?”

Lão tóc bạc nghe Tư Mã Khôi thuật lại cảnh ngộ họ gặp phải lúc ở thành Nhện Vàng, lão cũng hoàn toàn tán đồng với phỏng đoán của anh, có điều, bản ghi chép liên quan đến thông đạo đó không phải bản ghi chép sớm nhất. Trong núi Tochari còn tồn tại một bản nguyên thủy hơn, nhưng chỉ có thể giải mã được nó với điều kiện là phải giải mã được long triện triều Hạ, giờ đây những nội dung này đều được viết trong cuổn sổ của lão. Nói đoạn, lão tóc bạc móc ra một cuốn sổ giấu trong áo, giao cho Tư Mã Khôi rồi nói: “Nếu ai trong số các cậu có thể sống sót rời khỏi nơi này, thì có thể dùng cuốn sổ của ta, đi tìm thông đạo dẫn đến vực sâu gần tâm Trái đất”. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi giơ tay ra đón lấy, anh đưa mắt liếc qua một cái, thấy bên trong toàn là cách giải mã chữ triện cổ triều Hạ, anh liền nhét cuốn sổ giải mã vào trong ba lô đeo sau lưng, cảm thấy lai lịch của lão tóc bạc quá sức thần bí và quái dị, vượt xa phạm trù nhận thức của đội khảo cổ, anh không kìm được buột miệng hỏi: “Rốt cuộc lão là ai?”

Chuyên gia tóc bạc bắt đầu thấy hơi bực mình- “Ta đã bảo rồi! Ta chính là một trong những thành viên của đội khảo sát”.

Mọi người trong lòng đều sinh nghi: “Người của đội khảo sát đều đã chết hết, hai mươi hai cỗ tử thi đều nằm ngoài kia, không ai may mắn sống sót, trừ khi kẻ đang gặp là cô hồn dạ quỷ, bằng không sao có thể hiện diện ở đây?”

Ánh mắt lão tóc bạc sắc lẻm, lão sớm nhận ra sự nghi ngờ của mọi người, liền hạ thấp giọng nói: “Thực ra các cậu không cần gạn hỏi mãi về thân phận của ta làm gì, điều các cậu nên hỏi là, ta bây giờ… rốt cuộc là thứ gì?” Mọi người nghe lão nói đều cảm thấy quái dị đến cực độ, câu hỏi của lão khiến người ta rùng mình ớn lạnh: “Cái gì mà gọi là rốt cuộc là thứ gì?”

Tư Mã Khôi vốn đã biết rõ, từ cổ chí kim, mệnh số thành bại ngoại trừ thiên thời, địa lợi, nhân hòa ra, còn có một nhân tố then chốt là “thần trợ”, cũng chính là “vận may”. Đội khảo cổ có thể gặp được chuyên gia tóc bạc nắm giữ rất nhiều bí mật ở địa cung trong thành cổ nơi sâu cùng của biển cát này, đồng thời có được cuốn giải mã chữ triện cổ triều Hạ từ lão, tuy cái giá phải trả vô cùng nặng nề, nhưng cuối cùng cùng tìm thấy manh mối về con đường dẫn đến tâm Trái đất.

Căn cứ vào những thông tin mà chuyên gia tóc bạc tiết lộ, hội Tư Mã Khôi không khó suy đoán nguyên nhân và kết quả của cả chuỗi sự kiện. Ngay từ những năm 50, tổ chức Nấm mồ xanh đã cung cấp tin tình báo cho phía Liên Xô, đồng thời thâm nhập vào bên trong kính viễn vọng Lopnor. Điều đó chứng minh, ngay từ đầu, Nấm mồ xanh đã có cơ hội cởi nút các ẩn số, nhưng tổ chức ngầm này cũng nhận thức được rằng, di tích chôn giấu trong Vũ khư, phần lớn đều là long triện triều Hạ không thể giải mã, cho dù tìm thấy đáp án thì cũng không ai hiểu nội dung đáp án nói gì. Đồng thời, cũng vì hành tung của tên nội gián mai phục bị bại lộ, nên bọn chúng đành từ bỏ hoàn toàn kế hoạch kính viễn vọng Lopnor và chuyển mục tiêu hành động sang hẻm núi Dã Nhân ở Bắc Miến, lấy trộm sóng điện u linh trong thành cổ Nhện Vàng. Giờ đây, đội khảo cổ cũng nắm được bí mật của thông đạo. Đúng là trời không tuyệt đường người, vận may đã đến, muốn xua cũng không đi, còn như mệnh đã không gặp thời, thì có cầu cũng chẳng được. Nhưng nguồn cội của bí mật này lại không khỏi khiến người ta nảy sinh hoài nghi.

Bởi vì cho đến bây giờ, mọi người vẫn không thể xác định thân phận của chuyên gia tóc bạc, trong thành cổ lại tồn tại rất nhiều hiện tượng quái dị khiến người ta khó lòng lý giải. Lúc đầu, cả hội còn hoài nghi mình bị rơi vào một chiếc hộp thời gian khác, nên mới gặp được người lẽ ra không thể xuất hiện ở đây. Nhưng tất cả các hiện tượng đều chứng tỏ không phải vậy, cho nên họ thực sự chưa nghĩ ra lão tóc bạc này rốt cuộc là người hay ma, hay là một thứ nào khác không tồn tại trong cõi đời? Hiện giờ không ai có thể trả lời được.

Chuyên gia tóc bạc thấy vậy, liền nói: “Vẫn còn rất nhiều chuyện nữa chưa kịp kể hết cho các cậu nghe, nhưng bây giờ tình thế gấp gáp, các cậu phải mau chóng rời khỏi nơi đây, nếu có người mang được cuốn sổ giải mã này ra ngoài, thì tôi cũng có thể an lòng nhắm mắt”.

Thắng Hương Lân hỏi: “Ông không định đi cùng bọn tôi sao?”

Khuôn mặt của chuyên gia tóc bạc co rút từng hồi: “Ta đã chết từ năm 1958, thì còn có thể cùng các cô cậu trốn đi đâu được nữa?” Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Mọi người nghe mà mặt mày biến sắc, Hải ngọng không kìm được, đứng bên lầm bầm giục Tư Mã Khôi: “Lão đồng chí này nói chí phải đấy, chúng ta không được phụ sự hi sinh của đồng chí ấy, rút được thì mau rút thôi!” Tư Mã Khôi giơ tay bảo mọi người đừng hoảng loạn. Anh ngẫm nghĩ, nếu không làm rõ nguyên nhân khiến đội khảo cổ bị nhốt trong địa cung, e rằng không ai thoát ra khỏi đây được. Có điều, chẳng lẽ trên đời này có ma thật sao? Tư Mã Khôi gặp không ít sự lạ, nhưng chưa bao giờ thực sự nhìn thấy ma. Anh từng nghe các cụ già kể lại, con người sau khi chết đi sẽ trở thành ma với âm hồn không tiêu tán, trừ phi âm hồn nhập tràng đi lại như người thường, nếu không dưới ánh đèn, ma sẽ không có bóng. Nhưng ở đây tường đá đen thui, anh có soi đèn quặng, cũng không thể nhìn rõ đối phương có bóng hay không, thật khó lòng phân biệt lão là người hay ma.

Chuyên gia tóc bạc thấy Tư Mã Khôi chiếu đèn quặng vào mình thì giơ tay che làn ánh sáng, bảo: “Các cậu không cần sợ ta, thật ra thứ đáng sợ đích thực là tấm bia nuốt rắn nằm trong địa cung cơ…”

Tim Tư Mã Khôi lại hẫng một nhịp, quả nhiên có liên quan đến tấm bia nuốt rắn. Tấm bia cổ đó có hình khối giống như khuôn mặt người, nhưng không có mắt mũi, chỉ có một cái miệng rộng ngoác đang nuốt con quái xà, dường như nó biểu trưng cho một ám thị nào đó, không biết bản thân nó có điểm gì đáng sợ?

Hải ngọng đoán mò: “Tôi thấy tấm bia đó phả ra một luồng khí rất tà mị, chắc tòa địa cung trong thành cổ này ẩn nấp quái xà, tấm bia nuốt rắn có khi ám thị chuyện này đấy…”

Tư Mã Khôi biết, thời cổ đại, rắn tượng trưng cho sinh vật thần bí nguyên thủy. Chính bởi vậy, Hán Cao Tổ đã giơ gươm chém đầu rắn để bình thiên hạ, tổ tiên người Tochari cũng tôn rắn làm thần, bởi vậy dẫu cho con rắn khổng lồ xuất hiện dưới lòng đất, thì cũng không phải điều quái lạ, nhưng phải là loại quái xà nào thì mới có hình thù giống tấm bia cổ?

Chuyên gia tóc bạc lắc đầu: “Tấm bia nuốt rắn không phải quái xà hay bất kì loài sinh vật nào. Vả lai người Tochari thờ rắn là thần, họ không bao giờ dựng tấm bia nuốt rắn đâu”.

Tư Mã Khôi thấy gian thạch thất trong địa cung vừa hẹp lại vừa thấp, anh đoán phía trong chắc phân thành kết cấu lồng ghép, có lẽ trong bốn vách tường ngầm giấu cửa đá hoặc mật đạo nào đó. Anh liền phân công đội trưởng Lưu Giang Hà xem xét cẩn thận tứ phía xung quanh. Lúc này, nghe chuyên gia tóc bạc nói tấm bia cổ không phải quái xà, anh liền hỏi: “Tấm bia nuốt rắn đã không phải quái xà, thì vì sao lão lại chết ở đây? Chẳng lẽ bây giờ lão là… vong hồn đã chết từ nhiều năm trước thật à?”

Chuyên gia tóc bạc không trả lời, chỉ nói: “Căn cứ theo phán đoán của ta, tấm bia nuốt rắn muốn ám thị không gian thứ sáu, không gian giống như huyệt ma này chỉ có lối vào, không có lối ra”.

Tư Mã Khôi chợt nhớ tới khái niệm có chút liên hệ với cụm từ “không gian thứ sáu” mà chuyên gia tóc bạc vừa nhắc đến. Trong quân sự và địa lý ứng dụng, thông thường người ta chia không gian thành năm khu vực: lục địa là không gian thứ nhất, đại dương là không gian thứ hai, không trung là không gian thứ ba, vũ trụ là không gian thứ tư, không gian cách lớp vỏ Trái đất 300 mét trở xuống là không gian thứ năm. Vì địa hình khu vực phức tạp, cộng thêm bị vật chất cản trở, độ khống chế của góc phát hiện rađa vô cùng có hạn, nên đối với rađa, không gian thứ năm luôn là cực địa và điểm mù chưa hề bị công phá.

Tuy biết có năm không gian, nhưng Tư Mã Khôi không biết còn có không gian thứ sáu. Thắng Hương Lân cũng chưa bao giờ nghe về điều này, thậm chí cô còn không thể hình dung nổi. Chẳng lẽ, toàn bộ thành viên của đội khảo sát năm 1958 đều bị huyệt ma nuốt chửng?

Tư Mã Khôi đang định hỏi tiếp, thì phát hiện chuyên gia tóc bạc không có phản ứng gì nữa. Anh mon men lại gần vách tường nhìn kỹ, thì chỉ thấy ở đó là một cỗ thi thể khô quắt và cứng ngắc, xem bộ dạng thì có vẻ đã chết từ nhiều năm trước, nên tuy anh đã chuẩn bị tinh thần, nhưng vẫn thấy hoảng hồn, tim đâp liên hồi: “Chẳng lẽ đúng là âm hồn nhập tràng thật?” Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Thắng Hương Lân trống ngực gõ thình thịch, cô cố thu can đảm tiến lên trước xem xét tử thi của chuyên gia tóc bạc. Đội trưởng Lưu Giang Hà thấy vậy cuống quýt can ngăn: “Cô đừng lại gần, nó là ma đấy!”. Thắng Hương Lân xua tay ra hiệu không sao. Sau khi xem xét kỹ xác chết, cô quay đầu hỏi Tư Mã Khôi: “Sao trong thành cổ lại có những 23 xác chết nhỉ? Còn không gian thứ sáu có nghĩa là gì?”

Hải ngọng trải qua chuyện vừa rồi, anh cũng cảm thấy toàn thân trên dưới nổi hết da gà, nên quay người nói với Thắng Hương Lân: “Cô em đừng lẩn thẩn nữa, cô hồn dạ quỷ là hay dẫn đường cho người sống đi vào cõi chết lắm! Bất kể nó nói gì cũng tuyệt đối không được tin, chúng ta phải mau chóng tìm đường rời khỏi nơi quỷ quái này mới được”.

Tư Mã Khôi thầm cảm thấy việc này vô cùng bí ẩn, đội khảo cổ giờ đây bị nhốt trong địa cung, buộc phải nghĩ cách làm rõ xem u hồn mà mình vừa gặp phải rốt cuộc là thứ gì, và cả chân tướng của tấm bia nuốt rắn cùng nguyên do đội khảo sát gặp nạn năm 1958 nữa, nếu không thì đừng ai mơ còn sống mà thoát ra khỏi đây. Anh không lý giải được thế nào gọi là không gian thứ sáu, có lẽ, quá nửa đó chỉ là phán đoán chủ quan của lão chuyên gia tóc bạc đưa ra dựa vào cảnh ngộ mà bản thân gặp phải, chứ chưa chắc đã là sự thật. Có điều, nếu liên hệ những lời của đối phương với hình thù kì dị của tấm bia nuốt rắn, thì Tư Mã Khôi dường như lại tìm thấy chút manh mối.

Lúc này, Hải ngọng phát hiện một vách tường có kết cấu tương đối lỏng lẻo, xung quanh xuất hiện các vết rạn, có lẽ là tường ngầm. Anh áp người vào tường nghe ngóng, cảm thấy phía ngoài không có hiện tượng gì lạ thường, liền vẫy tay gọi Tư Mã Khôi và đội trưởng Lưu Giang Hà lại giúp một tay.

Tư Mã Khôi cũng nóng lòng muốn tìm lối ra, liền không nghĩ ngợi nhiều, lập tức cùng hai người hiệp lực đẩy bức tường. Thấy phía sau bức tường đúng là có một mật đạo. Anh soi đèn quặng vàơ trong, thấy nó im lìm, sâu hút và lặng ngắt không có bất kì động tĩnh nào, phán đoán theo vị trí thì có lẽ nó nối thông với một gian động thất khác.

Hải ngọng ngó vào trong nhìn một lát, đoạn lắc đầu bảo Tư Mã Khôi: “Xem ra mạng lưới địa đạo ở đây nối liền thành một dải hay sao ấy!”.

Tư Mã Khôi gật đầu: “Kết cấu nơi đây rất phức tạp, phải cẩn thận không là lạc đường như chơi đấy…”, nói đoạn, anh quay đầu nhìn ra sau, thấy Thắng Hương Lân vẫn mải quan sát cỗ tử thi dưới chân tường, liền giục: “Âm hồn nhập tràng, người sống không nên lại gần, chúng ta phải mau chóng rời khỏi nơi này”.

Thắng Hương Lân nhìn thi thể của chuyên gia tóc bạc, tuy giống như một xác ướp đã tồn tại nhiều năm, nhưng quần áo trên người vẫn không hề bị mục nát, thì cảm thấy quái dị. Lại nghe Tư Mã Khôi bảo vậy, cô liền đuổi theo nói: “Các anh có cảm thấy điểm nào khả nghi không?”

Hải ngọng nói: “Tôi thấy nơi quỷ qụái này chỗ nào mà chẳng khả nghi. Chúng ta phải nghĩ cách gì thoát ra khỏi đây trước đã, vả lại mọi chuyện chỉ dựa vào suy đoán thì ăn thua gì, phải đi thực địa, mắt thấy tai nghe mới tin được…”

Càng về sau mọi người càng cảm thấy hoang mang, họ lần theo vách tường định tiến về phía trước. Lúc này, cả nhóm chợt nghe tử thi sau lưng bỗng phát ra tràng âm thanh quái dị. Tư Mã Khôi hít ngược một hơi lạnh, ấn đèn quặng trên đỉnh đầu xuống soi cho rõ, chùm sáng dừng lại chỗ khuôn mặt chuyên gia tóc bạc, khuôn mặt của xác chết không biết từ lúc nào đã quay về phía mọi người, cái miệng há rộng, đen ngòm hướng về phía đội khảo cổ, trong cổ họng vang lên những tiếng “cục cục! cục cục!”.

Hồi thứ năm

TRÙNG ĐỘNG

Đột nhiên mọi người nghe thấy tiếng động phát ra dưới lòng đất tối thui, thì ai nấy đều cảm thấy rùng rợn, chỉ muốn co cẳng chạy thật nhanh nhưng lòng bàn chân dường như bị dính nhựa đường, không nhấc nổi nửa bước.

Lúc này, họ thấy phần đầu của thi thể bỗng nhiên nở to ra, mấy chục con cua móng ngựa ăn xác chết chen chúc chui ra từ thất khiếu của tử thi. Con lớn nhất to bằng lòng bàn tay, mình ngả màu xanh thẫm, phần đầu giống như con cua móng ngựa(1) thời kỷ Devon, thân chúng mọc toàn lông gai sắc nhọn, phần đuôi có một đốt cứng hình cột sống. Chúng bò với tốc độ cực nhanh, phát ra âm thanh nghe “chít chít sàn sạt” rất chói tai.

[1] Cua móng ngựa: một loài động vật giáp xác, lớp vỏ giáp phần đầu và ngực có hình hơi giống móng ngựa, lớp vỏ giáp phần bụng có hình lục giác, đuôi giống như cấy kiếm, sống ở những vùng biển nông.

Tư Mã Khôi soi đèn quặng, mắt nhìn rõ sư tình, và anh đã hiểu ra nguyên nhân. Thì ra đội khảo sát thâm nhập kính viễn vọng Lopnor năm 1958, đều bị bọn cua móng  ngựa này chui vào trong cơ thể, chúng ký sinh một thời gian rồi dần dần tiềm dưỡng thành hình. Môn tà thuật quái dị này cũng được ghi chép trong các sách cổ, hậu thế rất ít người biết đến, chỉ có kẻ không muốn ai nhòm ngó bí mật dưới lòng đất như Nấm mồ xanh, thì mới giở thủ đoạn tàn độc như vậy.

Có điều, hai mươi hai cỗ thi thể phát hiện trong địa cung lúc trước, đều đã bị loài cua móng ngựa này ăn hết não tủy, còn chuyên gia tóc bạc mà đội khảo cổ gặp khi nãy hiển nhiên chỉ vừa bị hút kiệt và trở thành cái xác rỗng không. Chuyện này thì không biết phải giải thích thế nào? Liệu có liên quan đến tấm bia nuốt rắn không? Tư Mã Khôi mới nghĩ đến đây đã cảm thấy như đang đứng giữa biển sương mênh mông, đầu óc mơ hồ, hoang mang.

Lúc này, đội trưởng Lưu Giang Hà nhìn những con bọ chui ra từ thi thể người chết sắp bò gần đến mình, mà chỉ có khẩu súng trường bán tự động trong tay thì cũng khó để tiêu diệt được chúng, anh chàng khiếp sợ đến nỗi hồn vía chu du tận ngoài biển khơi, cuống cuồng giơ chân ra sức giẫm. Một con bị anh chàng giẫm chết, tiếng “bép” nổ rất nhẹ bên tai, bụng nó vọt ra thứ dịch dinh dính màu vàng xanh, mùi hôi thối nhức mũi xộc lên tận não, rồi ngay sau đó anh chàng cũng thét một tiếng thảm thiết, và quỳ gục xuống đất; chỗ dính chất dịch của cua móng ngựa ở đáy giày không ngờ mục thành lỗ lớn, trong chớp mắt nó đã xuyên thủng cả da thịt, vào tận xương tủy, đồng thời không ngừng khuếch tán và đâm sâu, không hề có biểu hiện dừng lại hoặc chí ít là giảm chậm tốc độ. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Thắng Hương Lân thấy đội trưởng Lưu Giang Hà gặp tình thế nguy cấp, liền vội vàng lao lên đỡ anh chàng rút lui vào góc tường. Cô soi đèn pin quan sát vết thương dưới lòng bàn chân Lưu Giang Hà, phát hiện trong cơ thể của móng ngựa chứa chất axít ăn mòn rất mạnh, chất này đậm đặc đến nỗi có thể ăn mòn cả sắt thép, nên chỉ cần dính một chút, nó sẽ khiến da thịt mục nát, máu quanh vết thương cũng theo đó biến thành axít nồng độ cao, thúc đẩy quá trình ăn mòn không ngừng gia tăng. Dính phải thứ này, đúng là vô phương cứu chữa, vì chỉ khi nào tất cả đều nhũn nát thành một đống mủ thì nó mới dừng lại. Tuy Thắng Hương Lân thuộc dạng cứng rắn, nhưng nhìn cảnh tượng thê thảm của đội trưởng Lưu Giang Hà lành ít dữ nhiều, cô cũng bất giác thấy lạnh thấu tận tim gan.

Tư Mã Khôi và Hải ngọng nhìn thấy tình hình này, cũng không dám sử dụng súng xung phong PPS, mà hai người rút nến tín hiệu cán dài, rồi đốt cháy từng con bọ ăn xác đang bò đến gần. Trong cơ thể cua móng ngựa đã chết, lại bò ra lúc nhúc những con nhộng con chưa kịp biến thành bọ, có điều số lượng bọn chúng cũng có hạn, còn hội Tư Mã Khôi lại nhanh tay nhanh mắt, nên tạm thời vẫn cầm cự được với chúng.

Hải ngọng chỉ sợ xác chết của chuyên gia tóc bạc vẫn còn bọ ăn xác chết, liền vứt nến tín hiệu chưa cháy hết vào thi thể lão. Mùi tử khí mịt mù lan tỏa trong làn khói lửa, hôi thối không thể ngửi nổi.

Tư Mã Khôi bảo Hải ngọng tiếp tục chú ý động tĩnh xung quanh, sau đó quay người xem xét vết thương của Lưu Giang Hà. Anh chàng đội trưởng nghiến chặt răng cố nén cơn đau thấu tim, mặt mũi tái xanh, trán lấm tấm những giọt mồ hôi to bằng hạt đỗ tương, gan bàn chân và cả đế giày bị hoại tử thành một cái lỗ lớn, nhưng không hề thấy máu từ trong chảy ra, mà chỉ có chất dịch màu vàng xanh không ngừng tuôn trào, tình hình càng lúc càng chuyển biến xấu, nếu cứ thế này, thì chỉ vài phút nữa, cả cẳng chân cũng chẳng còn.

Hải ngọng cũng quan tâm ngoái đầu lại nhìn, nhỏ giọng nhắc nhở Tư Mã Khôi: “Vết thương này chẳng khác gì bị rắn năm bước trong rừng rậm Miến Điện cắn, chỉ cần nhân lúc axít vẫn chưa ăn mòn các bộ phận trên cơ thể, thì phải nghiến răng cắt phăng cái cẳng chân đi, thế còn tốt hơn mất cả tính mạng. Bị thương ở cánh tay hoặc cẳng chân cũng là may phúc rồi, nếu phải cắt đầu hay cắt bụng thì đúng là hết thuốc chữa, nếu cậu còn không mau ra tay giúp chú em, thì e sẽ muộn mất”.

Thắng Hương Lân vội ngăn lại: “Không được! Ở đây chưa đủ điều kiện phẫu thuật, nếu không có biện pháp cầm máu, thì cắt các chi cũng đồng nghĩa với việc trực tiếp kết liễu sinh mạng!”

Tư Mã Khôi quan sát mọi việc rất nhanh, anh thấy vết thương bị trùng ăn xác hoại mục, không khác gì bị trúng chất độc của rắn trong rừng rậm. Anh giữ chặt bắp chân đội trưởng Lưu Giang Hà rồi dặn: “Chú mày gắng chịu tí nhé…”, lòng tự biết tình thế cấp bách, không được phép chậm trễ, nên cùng lúc nói chuyện, anh đã gí mạnh ngọn nến tín hiệu đang cháy dở vào cái lỗ dưới gan bàn chân của Lưu Giang Hà. Ngọn nến đốt cháy hết phần thịt thối rữa từ trong ra ngoài, vết bỏng đã cản được quá trình rữa nát và cầm máu hiệu quả, sau đó anh bôi thuốc và băng bó vết thương lại.

Hội Tư Mã Khôi tất bật một hồi, rồi cuối cùng cũng tạm thời giữ được mạng sống cho anh chàng đội trưởng, nhưng từ đầu chí cuối không nghe thấy cậu ta kêu đau hay giãy giụa gì. Thật không ngờ cậu chàng này lại cứng gan đến thế, đang định khen ngợi đôi câu, thì ngẩng đầu lên mới phát hiện đội trưởng Lưu Giang Hà đã bất tỉnh nhân sự từ bao giờ. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi thò tay thử xem hơi thở trên mũi và bắt mạch tay, mới biết anh chàng chỉ vì đau quá nên thần kinh trung ương đột ngột rơi vào trạng thái hôn mê, nên đặt anh chàng nằm thẳng ra đất, để duy trì hơi thở thông suốt.

Mọi người đều hiểu rõ, dẫu cơ thể khỏe mạnh, cũng còn chưa chắc đã thoát khỏi vực sâu cách bề mặt Trái đất những mười nghìn mét này, huống hồ gan bàn chân lại bị đốt thủng một lỗ to như thế, chắc cậu đội trưởng khó có thể sống sót trở về.

Đang lúc lo lắng, thì nghe sau bức tường ngầm dường như có bọn bọ ăn xác đang bò. Tư Mã Khôi chĩa nến tín hiệu về phía trước, chỉ thấy trong đường hầm xuất hiện một dải đen nghịt như bóng đêm từ những tầng địa ngục, đó là dòng chảy bọ ăn xác chui từ kẽ đá vào, số lượng nhiều đến khủng khiếp. Ba người thầm kêu khổ, nhìn thoáng qua đã biết không thể ngăn cản được chúng, liền cuống cuồng đẩy bức tường ngầm khép lại, kéo đội trưởng Lưu Giang Hà cùng lui trở về thạch thất.

Tuy tạm thời an toàn nhưng môi trường tối tăm dươi lòng đất thực sự khiến người ta cảm thấy tuyệt vọng đến cùng cực. Tư Mã Khôi cố gắng định thần, kể lại cho hai người đồng hành nghe chuyện anh vừa mới ngẫm ra. Đội khảo sát năm 1958 đều bị bọ ăn xác trong chính cơ thể mình cắn chết, nhưng vì sao lão tóc bạc trong mật thất lại không chết cùng một chỗ với các thành viên còn lại? Vong hồn lúc trước mà cả hội chạm trán, liệu có phải là âm hồn nhập tràng thật không?

Thắng Hương Lân trầm tư giây lát, rồi nói với Tư Mã Khôi: “Bí mật lớn nhất trong tòa thành cổ này có lẽ cũng vẫn là thời gian, hay nói chính xác hơn thì đó là linh hồn của thời gian”.

Tư Mã Khôi trố mắt hỏi Thắng Hương Lân: “Thời gian đâu phải vật sống, làm sao có hồn phách được chứ?”

Thắng Hương Lân đáp: “Tôi cảm giác ở đây tồn tại một thời gian khác, nó không giống với tọa độ thời gian mà chúng ta từng biết”.

Hải ngọng nghe mà đầu óc mụ mị cả, anh hỏi: “Thế theo cô, lão già tóc bạc mà chúng ta gặp khi nãy, rốt cuộc là người hay ma?”

Thắng Hương Lân nhìn lại cái xác dưới chân tường, nói: “Đội khảo sát khoa học năm 1958, có lẽ cuối cùng đã có 23 thành viên thâm nhập kính viễn vọng Lopnor, vị chuyên gia ấy rốt cuộc vẫn chưa nói cho chúng ta biết số người thực tế, không loại trừ khả năng tin tình báo chúng ta nắm được ban đầu có sai sót”.

Tư Mã Khôỉ nói; “Đó cũng là một khả năng, nhưng  nơi này cách bề mặt Trái đất những mười nghìn mét, dưới vực sâu không hề có ánh sáng, thì mọi màu sắc đều trở nên vô nghĩa, tất cả sinh vật đều bị bạch tạng. Điều đó đủ chứng tỏ, bọ ăn xác trong cơ thể các tử thi đều được đem từ mặt đất xuống, vì vậy nguyên nhân cái chết đội khảo cổ chắc là bị Nấm mồ xanh cấy ấu trùng bọ xác chết vào trong não từ trước, mãi đến khi họ xuống đến thành cổ Tochari thì mới thiệt mạng. Vị chuyên gia tóc bạc do gia nhập đội khảo sát sau cùng, nên phần tử mai phục của tổ chức ngầm dẫu muốn hại ông ấy, chắc chắn cũng chỉ sau khi biết ông ấy gia nhập đội khảo cổ mới có thể ra tay. Chính vị vậy, tuy rằng trong cơ thể lão tóc bạc có bọ ăn xác, nhưng lão lại không chết cùng thời điểm với các thành viên khác của đội khảo sát. Suy đoán theo lẽ thường, thì nguyên nhân và kết quả của cả chuỗi sự kiện này đều rất rõ ràng, điều kì lạ duy nhất là lão tóc bạc ấy… vì sao mãi đến khi nãy mới đột nhiên lăn ra chết? Khoảng thời gian từ năm 1958 đến năm 1974 rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?

Thắng Hương Lân nói: “Điều quái lạ chính là ở điểm này, Tôi cảm thấy khoảng thời gian này trong thành cổ dường như không hề tồn tại…”

Tư Mã Khôi và Hải Ngọng càng lúc càng không thể tưởng tượng nổi, nếu nghĩ như vậy, thì năm 1958, hai mươi hai thành viên đội khảo sát chết trước tấm bia nuốt rắn, cho đến năm 1974 chuyên gia tóc bạc gặp gỡ đội khảo cổ, quãng thời gian kẹp giữa hai sự kiện này là một khoảng hoàn toàn trắng trơn.

Trắng trơn có nghĩa là không có gì, ngay cả thời gian cũng không tồn tại. Có điều, nếu ngẫm kỹ trước sau, thì chỉ như vậy mới giải thích thông suốt được sự việc năm 1958. Hai mươi hai thành viên đội khảo sát tử nạn cùng lúc, riêng mình chuyên gia tóc bạc là không chết ngay tại chỗ, mà ẩn mình vào gian mật thất này để trốn lũ bọ ăn xác. Lúc đó, chắc ông ấy đã phát hiện ra trùng xác chết trong cơ thể đang dần dần thành hình, tự biết mạng sống của mình chỉ có thể kéo dài trong khoảnh khắc. Đúng lúc ấy, thời gian ở tòa thành cổ lại đột nhiên biến mất, mãi mười mấy năm sau, khi hội Tư Mã Khôi tìm thấy tấm bia nuốt rắn, thì thời gian ở đây mới bắt đầu trôi chảy trở lại.

Ba người không thể tưởng tượng ra nguyên nhân cụ thể của tình hình này, hay chí ít, thuyết suy đoán chiếc hộp của Tesla cũng không nhắc đến loại tình huống này có thể xảy ra. Mọi người đành suy đoán rằng: mọi việc đều liên quan đến tấm bia nuốt rắn cổ quái, kì dị kia, hoặc có thể trong địa cung của tòa thành này còn tồn tại một thứ gì đó mà mắt thường không nhìn thấy được. Nếu không thể trốn thoát khỏi huyệt ma này, thì thời gian của chính đội khảo cổ cũng sẽ biến mất, điều đó có nghĩa là gì?

Thắng Hương Lân suy đoán: “Sự thật khi ấy sẽ vĩnh viễn dừng lại giữa hư vô, tọa độ thời gian bình thường sẽ gia tăng tốc độ, đưa chúng ta càng lúc càng xa quỹ đạo thời gian theo hình xoắn ốc, và chúng ta vĩnh viễn không thể quay trở lại được nữa…” Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Hải ngọng há hốc miệng kinh hãi: “Ối giời ơi! Thế thì toi rồi! Hậu quả đúng là vượt ngoài sức tưởng tượng, mà nói gì đến vượt ngoài sức tưởng tượng, thế này đúng là làm gì còn hậu quả nữa chứ!”

Tư Mã Khôi nói: “Bây giờ còn để ý đến hậu quả mẹ gì nữa, chúng ta buộc phải làm rõ vì sao lại xảy ra hiện tượng kì quái này, có nghĩa là phải nghĩ cách tìm lời giải cho ẩn số trên tấm bia nuốt rắn, bằng không, thì cả hội hết đường sống”.

Ba người đang thầm thì bàn bạc, bỗng nghe thấy một tiếng động phát ra dưới đám đá vụn. Lúc này người nào người nấy như con chim sợ cành cong, tuy động tĩnh đó rất nhỏ, nhưng cũng đủ khiến cho thần kinh của họ lập tức căng thẳng. Cả ba khẩu súng xung phong PPS và ba chùm sáng của đèn quặng gắn trên mũ bấc Pith Helmet đều đồng thời chĩa về phía phát ra âm thanh.

Họ thấy dưới mặt đất xuất hiện một hố lõm, thì ra con bọ ăn xác bị đội trưởng Lưu Giang Hà giẫm chết khi nãy đã tiết ra chất axít cực mạnh từ trong cơ thể. Không ngờ, nó có thể đục thủng cả gạch đá, chỗ nứt giữa các phiến đá trên mặt đất đã bắt đầu lỏng lẻo, nếu phải chịu thêm lực tác dụng từ bên ngoài, thì nó chắc chắn sẽ sụp xuống.

Hải ngọng bấm đèn quặng soi vào đáy khe nứt, phát hiện phía dưới dường như còn có không gian khác, liền đề nghị cả hội nên xuống đó tìm lối thoát. Tuy không ai biết tình hình trong đó thế nào, nhưng bó gối chịu nhốt trong thạch thất, đợi thần chết đến rước thì cũng không phải là cách hay.

Tư Mã Khôi cũng có ý đó, sự uy hiếp đáng sợ nhất trong địa cung không phải bọ ăn xác, mà là ẩn số về thời gian bỗng dưng biến mất, vả lại nói không chừng, lại phát hiện thấy thứ gì mới bên dưới kia cũng nên.

Hai người nghĩ là làm ngay, họ dùng báng súng chọc rộng phần mặt đất đang bị sụt xuống, có điều gạch đá cứng quá, hì hục một hồi, mồ hôi vã ra như tắm, họ mới nậy được một cái hố đủ để một người chui vào.

Tư Mã Khôi thấy đáy cũng không sâu lắm, nên định nhảy xuống trước thám thính, anh bảo Hải ngọng cõng Lưu Giang Hà đang bị thương trên lưng, còn Thắng Hương Lân đi sau chốt chặn đường.

Nhưng đúng lúc này, Thắng Hương Lân lại nghĩ đến  một số chuyện, cô vội nói với hai người: “Vẫn chưa rời khỏi đây được! Các anh thử nghĩ kỹ lại toàn bộ quá trình gặp nạn của đội khảo sát vào năm 1958 xem…”

Không đợi Thắng Hương Lân nói hết câu, Tư Khôi đã sực tỉnh. Vị chuyên gia tóc bạc kia không chết ngay tại chỗ, mà trốn trong gian thạch thất này, sau đỏ thời gian bỗng dưng biến mất một cách khó hiểu. Trước đó, dường như ông ta cũng đã phát hiện ra bí mật nào đó của tấm bia nuốt rắn ở khu vực quanh mình, cũng có nghĩa là chìa khóa then chốt mở cánh cửa ẩn số của tấm bia nuốt rắn chỉ ở trong này mà thôi.

Tư Mã Khôi nghĩ đến đây, thì bảo Hải ngọng thả Lưu Giang Hà xuống trước đã, rồi lục soát cẩn thận khắp gian thạch thất.

Hải ngọng đang rất sốt ruột, anh nói với Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân: “Tôi nghĩ gì thì nói đấy nhé! Liệu các cậu có hơi võ đoán chủ quan không thế, làm sao xác định được sau năm 1958, khi đội khảo sát gặp nạn, thì thời gian đã bị biến mất, biết đâu chúng ta bây giờ cũng không phải ở năm 1974 thì sao? Tóm lại, nơi này tắt lửa tối đèn, vĩnh viễn không thể phân biệt được ngày đêm, lại không có điện đàm không dây để nghe đài, chỉ có quỷ mới biêt bây giờ là ngày nào tháng nào”.

Lý giải về thời gian của Thắng Hương Lân đã chịu ảnh hưởng của giáo sư Nông địa cầu rất sâu sắc, mà quan điểm của giáo sư lại bắt nguồn từ học thuyết giả tưởng chiếc hộp thời gian của Tesla. Ông ta cho rằng: thời gian là sự vận động tuyến tính, những gì đã xảy ra thì đã xảy ra, vĩnh viễn không thể trở về quá khứ, mọi sự kiện xảy ra trong khoảng thời gian đã trôi chảy, đều không thể phục hồi lại. Như vậy thì mọi hiện tượng ở đây chứng tỏ, tòa thành cổ này không phải chiếc hộp, bởi vậy họ tuyệt đối không thể gặp được những kẻ may mắn sống sót từ năm 1958. Lúc này chỉ có thể nghĩ đến sự giải thích duy nhất, đó chính là: trước khi chuyên gia tóc bạc chết, thời gian trong địa cung này đã biến mất mười mấy năm.

Hải ngọng vẫn ù ù cạc cạc, anh tiếp tục gạn hỏi: “Thời gian biến mất rốt cuộc là ý gì?”

Thắng Hương Lân đành giải thích đơn giản: cơ thể vị chuyên gia khảo sát bị bọn bọ ăn xác sống ký sinh, đây chính là nguyên nhân dẫn đến cái chết của ông ta. Theo lý mà nói, thì ông ta phải chết từ năm 1958, đây chính là kết quả của sự việc, nhưng kết quả này lẽ ra đã phải xảy ra từ năm 1958 mới đúng, thế mà mãi hơn chục năm sau nó mới phát sinh. Bởi vậy, chúng ta chỉ có thể đưa ra dự đoán bước đầu là, thời gian tồn tại giữa nguyên nhân và kết quả đã bị biến mất.

Tư Mã Khôi biết Hải ngọng đầu óc bã đậu, nói vói cậu ta chuyện này thì khác gì đàn gảy tai trâu, nên anh mặc kệ, chỉ lo lục soát tứ phía xung quanh, nhưng bốn bức tường dựng đứng, anh không phát hiện thấy thứ gì đặc biệt, có điều dưới chân tường phía sau thi thể của chuyên gia tóc bạc có một hình tròn cực kì quái dị và thần bí, bên trong vẽ một hình người cao lớn, trên đầu mọc một cái sừng thịt, mày rậm râu xồm, hình thù rất lạ lùng, hai tay ông ta dang ngang, trước mặt ông ta là những thường dân chỉ cao bằng một nửa ông ta.

Tư Mã Khôi thầm kinh ngạc, anh vẫy Thắng Hương Lân và Hải ngọng lại: “Các cậu mau đến đây mà xem, không biết thứ khắc trên bức tường này là người hay yêu quái nhỉ?”

Hồi thứ sáu

CÁI XÁC TRONG TƯỜNG

Hai người nghe Tư Mã Khôi gọi, liền chạy tới, vừa ngó một cái đã sững cả người. Phần chân bức tường là đá nham thạch màu xám, hình khắc trên đá không biết được sơn phết loại sắc liệu gì, mà trải qua hàng ngàn năm tuế nguyệt, bề mặt đã mọc rong rêu, hình vẽ khắc trên vách đã không còn rõ nữa, nhưng cũng vì thế mà trông nó càng quái dị và thần bí hơn.

Tư Mã Khôi soi đèn vào hình người có vóc dáng cao lớn, tuy nét vẽ đơn giản, cổ xưa nhưng vẫn có thể nhận ra trên đỉnh đầu ông ta có hai vật nhọn.

Hải ngọng kinh ngạc hỏi: “Dưới vòm trời này làm gì có người nào lại mọc sừng trên đầu được chứ?”

Tư Mã Khôi cũng cảm thấy rất thần bí khó đoán. Trước đây, anh từng nghe giáo sư Nông địa cầu kể, trong một di tích lịch sử mà đội khảo cổ tìm thấy ở sa mạc Tân Cương, phát hiện rất nhiều bích họa thần bí, mà ngay cả ông cũng không thể giải thích nội dung của nó. Một trong những bức đó mô tả cảnh tượng tiếp xúc giữa một thị tộc cổ xưa với vật thể lạ, dường như đến từ hành tinh khác. Ông cho rằng, hình khắc trong thành cổ Tochari có lễ là một sinh vật ngoài hành tinh nào đó.

Hải ngọng hỏi Tư Mã Khôi: “Liệu thứ… giống như cậu nói, có thật không?”

Tư Mã Khôi đáp: “Thì tớ đã gặp bao giờ đâu, nhưng chưa gặp không có nghĩa là không có. Năm đó, Tô Đông Pha đi ngang qua chùa Kim Sơn vào lúc đêm khuya thanh vắng, “đồng chí” ấy đã tận mắt chứng kiến cảnh tượng đáng phải hãi hùng tâm can, mà ngay cả phần tử tri thức có học vấn uyên bác như đồng chí ấy cũng không thể giải thích hiện tượng mình nhìn thấy lúc đó rốt cuộc là gì, nên chỉ đành ghi lại bằng mấy câu thơ:

“Trăng lửa lơ lửng giữa lòng sông.

Chim muông kinh hãi dáo dác trông,

Về nhà bần thần lòng tự hỏi:

Người ma chẳng phải, vật hư không?”

Hải ngọng xưa nay chẳng biết Tô Đông Pha là đồng chí nào, liền bán tín bán nghỉ hỏi: “Sao tớ chưa nghe thấy chuyện này bao giờ nhỉ? Giáo sư Tô công tác ở đơn vị nào hả?” Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Thắng Hương Lân chăm chú quan sát kỹ vách tường đá, rồi lấy một thác bản trên Sơn Hải Đồ ra đối chiếu, nghe thấy Tư Mã Khôi và Hải ngọng luận đàm những việc chẳng đâu vào đâu, liền nói: “Hình thù khắc họa trên tường đích thị là người thượng cổ, chứ không phải sinh vật ngoài hành tinh nào đâu. Tương truyền, thị tộc Thần Nông trên đầu đều có sừng thịt, nội dung bức khắc họa có lẽ liên quan đến truyền thuyết này”.

Hải ngọng nói: “Cô em đừng có lòe bọn tôi! Thời cổ hình như cũng làm gì có ai mọc sừng trên đầu. Nó là người hay là dã thú thế hả?”

Tư Mã Khôi từng nghe kể về chuyện này. Tương truyền, người thượng cổ có dung mạo rất giống thú hoang, Phục Hi và Nữ Oa đều là các vị thần đầu người mình rắn, thị tộc Thần Nông có sừng, còn Xi Vưu là con gấu, có bốn mắt, sáu tay, đầu đồng, trán sắt. Tuy hình hài của họ giống như chim thú, nhưng đều là những bậc đại nhân đại đức, tính tình vô cùng thuần hậu; còn con người ngày nay, tuy dung mạo là người, nhưng một số lại lòng lang dạ sói, thâm hiểm khó lường. Có điều, những chuyện này chỉ là truyền thuyết, người thượng cổ không thể mọc sừng trên đầu thật được, vì rốt cuộc điều đó không phù hợp với quy luật của học thuyết tiến hóa sinh vật.

Thắng Hương Lân nói: “Có lẽ điều này đại khái giống với tín ngưỡng tô tem thời thượng cổ, bây giờ cũng không cần truy tìm gốc gác ngọn nguồn. Tôi thấy, nội dung khắc họa trên vách tường khả năng là một loại biểu trưng của thời gian và địa lý, ghi chép ẩn số về con đường dẫn xuống hắc động gần tâm Trái đất, những nội dung này đều được khắc trên chiếc đỉnh đồng Vũ Vương”.

Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ, giờ đã có bản giải mã và thác bản Sơn Hải Đồ trong tay, muốn tìm ra con đường đó cũng không phải chuyện khó, mà chuyện nước sôi lửa bỏng trước mắt là, làm sao thoát khỏi mê cung không lối ra này, những việc còn lại sau này nói cũng chưa muộn. Anh liền bảo Thắng Hương Lân mau chóng sao chép lại, rồi tiếp tục quan sát những hình khắc trên tường ở gần đó. Lát sau, anh lại phát hiện một hình vẽ rất giống hình cái túi, bên trong là các động thất tầng tầng lớp lớp, to nhỏ không giống nhau, ngang dọc thông nhau, bên mép trái lộ ra một vết mẻ, dường như chính là lối vào mà đội khảo cổ thâm nhập địa cung khi trước, lúc này nhìn tổng thể, trông nó có vài phần giống với tấm bia nuốt rắn chỉ có miệng còn không có mắt mũi.

Có lẽ là chuyên gia tóc bạc mà ba người từng biết đã phát hiện thấy bí mật nào đó ở trong này, nghĩ vậy anh liền ngó vào xem.

Thắng Hương Lân đang giải mã các chữ triện cổ khắc trên vách tường theo bản giải mã, nhưng chuyện này đâu phải chốc lát có thể hoàn thành được. Thay sắc mặt Tư Mã Khôi lúc trắng bợt, lúc tái xanh, dường như đã nhìn ra manh mối gì đó, cô liền hỏi: “Anh phát hiện thấy gì à?

Tư Mã Khôi nói: “Chỉ e chúng ta phải chuẩn bị tính đến nước xấu nhất rồi. Ở đây đúng là không có lối ra đâu…”

Hải ngọng nói: “Sao cậu cũng nói lời nhụt chí thế hả? Núi Dã nhân hung hiểm như vậy mà chúng ta còn sống sót trở về được nữa là!”

Tư Mã Khôi lắc đầu: “Nếu đem so sánh với sự đáng sợ của tấm bia nuốt rắn này, thì việc trốn thoát khỏi núi Dã nhân chẳng qua là chuyện cỏn con”. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Hải ngọng nghe xong càng mù tịt, lòng hoang mang, anh ngó nghiêng nhìn hình khắc trên tường, rồi lẩm bẩm một mình: “Không có lối ra… cái bia nuốt rắn này rốt cuộc là cái ngữ gì thế?”

Tư Mã Khôi nhất thời lơ mơ, anh biết nhãn lực và kiến thức của Thắng Hương Lân còn giỏi gấp mười lần đấng tu mi nam tử, nên anh định hỏi vài chuyện để xác nhận, chẳng ngờ mép tường ngầm từ trên xuống dưới bất ngờ nứt ra một khe hở, dòng nước dịch giống như axít đậm đặc không ngừng trào ra từ bên trong, chảy trên mặt đất, phát âm thanh nghe “xèo xèo”, nó đã ăn mòn nền sàn thành hố lõm sâu tầm một đốt ngón tay.

Ba người nghe tiếng động, lập tức soi đèn quặng về phía trước quan sát, thì ra bầy cua móng ngựa bị chặn phía sau bức tường, đang điên loạn cắn xé lẫn nhau. Loài vật này đa số sống trong các cỗ tử thi nằm dưới mộ cũ, tên thường gọi là “trùng phệ kim”, nếu không tiêu diệt triệt để thì chúng có thể một sinh mười, mười sinh trăm, trăm sinh nghìn, cứ thế sinh sôi nảy nở không bao giờ ngừng nghỉ. Huyết dịch trong cơ thể chúng hàm chứa chất kịch độc, chỉ cần gặp không khí sẽ lập tức hóa thành axít đậm đặc đến sắt đá cũng không thể chịu nổi, bởi vậy chẳng bao lâu sau, bức tường đá đã bị xuyên thủng. Những con bọ ăn xác chết nhanh chân bò vào trước, khắp thân thể chúng đều đã bị axít xâm thực, rồi ruột gan phèo phổi lòi hết ra ngoài. Thế nhưng sức sống của chúng vô cùng mãnh liệt, tuy chỉ còn mỗi nửa đoạn thân nhưng chúng vẫn không ngừng giãy giụa, ngọ nguậy, còn dòng bọ ăn xác bám sát phía sau, vẫn giẫm đạp lên xác của đồng loại, ùn ùn kéo vào trong.

Tư Mã Khôi kinh hãi, vừa giơ khẩu PPS lên quét một luồng đạn, vừa cùng Hải ngọng khênh đội trưởng Lưu Giang Hà mau chóng lui về sau né tránh. Lúc này, Thắng Hương Lân liền ném nến tín hiệu xuống huyệt đá dưới lòng đất, rồi ba người cùng khênh thành viên bị thương lui vào trong động. Hải ngọng đưa tay mò cuộn thuốc nổ trong ba lô đeo sau lưng, định vứt ra để phá cửa động. Tư Mã Khôi biết uy lực của thuốc nổ rất lớn, nếu nó đánh sập cả gian thạch thất này thì cả đội còn rơi vào tình thế bất lợi hơn, nên anh vội ngăn Hải ngọng lại, rồi cùng rút lui vào đường hầm từ cánh cửa đá bên cạnh.

Bên trong địa cung chia thành nhiều tầng, kết cấu đại khái tương đồng, mỗi nơi trong động thất đều chạm khắc một lượng lớn bích họa, địa hình lại hao hao giống nhau, khiến người ta nảy sinh ảo giác trùng lặp ảnh. Ba người không dám chậm trễ, nhân lúc bọn bọ ăn xác chết vẫn chưa đuổi kịp, họ gắng hết sức hợp lực đẩy cửa đá đóng kín lại.

Tư Mã Khôi kiểm tra các khe nứt giữa các bức tường một lượt, rồi nói với Hải ngọng và Thắng Hương Lân: “Với độ dày của cánh cửa đá này, thì chí ít trong vòng mấy chục phút nữa, đường hầm này vẫn tạm coi khá là an toàn”.

Hải ngọng đối diện với thời khắc sinh tử, lại đâm ra trấn tĩnh hơn rất nhiều, anh nắm chặt cuộn thuốc nổ trong tay nói: “Cùng lắm là giật kíp chứ gì, chúng ta càng có dịp cùng nhau đi thăm các chiến hữu cũ”.

Thắng Hương Lân xem xét vết thương của đội trưởng Lưu Giang Hà, thấy anh chàng vẫn hôn mê bất tỉnh, môi khô nẻ, trán nóng rực, nhưng lại nghệch miệng cười một cách kì quái, khiến cô bất giác lo lắng, liền goi hai người lại xem sự thế thế nào.

Tư Mã Khôi cũng thấy kì lạ: “Thằng cu gà mờ này cười cái khỉ gì thế không biết?”

Hải ngọng phân tích: “Chắc cu cậu mơ thấy được ăn dưa gang ngọt lịm ở quê nhà đây mà, cũng có thể là thấy mình đang cầm nắm cơm thơm phưng phức trong tay…”. Tư Mã Khôi thấy trên mặt Lưu Giang Hà hắc khí nặng nề, anh chợt hiểu ra: “Thằng này trúng khí độc trong quan tài rồi, phải cho cậu ta uống tiết vịt trắng thì mới giữ được mạng”.

Hải ngọng than thở: “Tớ thấy sống chết có số, mỗi vật đều có tạo hóa riêng của nó, thằng ranh này là quân nhân, mình thì mặc quân phục, cu cậu phải giác ngộ tư tưởng treo sọ vào cạp quần mới được”.

Tư Mã Khôi nói: “Lính thì cũng là người chứ sao, con sâu cái kiến còn tham sống, huống hồ con người sao chẳng tiếc sinh mạng? Chỉ cần cậu ta chưa đoạn khí, chúng ta không thể bỏ cậu ta ở lại được”.

Thắng Hương Lân đồng tình với Tư Mã Khôi: “Anh nói đúng lắm! Có điều, thông đạo này bất cứ lúc nào cũng xảy ra nguy hiểm, giờ tính thế nào? Phải mau chóng quyết định ngay mới kịp”.

Tư Mã Khôi cũng biết thời gian dành cho cả hội chẳng còn là bao, liền nói phán đoán của mình với hai người bạn đồng hành: “Nếu tôi đoán không sai, thì thứ mà tấm bia nuốt rắn ám thị chính là tòa địa cung này, bản thân nó là con quái vật chỉ có lối vào mà không có lối ra, thứ không biết là vật gì nằm dưới lòng đất có tên gọi là “vô”, “vạn vật thiên hạ sinh vu hữu, hữu sinh vu vô”. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Hải ngọng chưa từng nghe thấy chuyện này bao giờ, anh không hiểu ý Tư Mã Khôi muốn nói gì: “Đừng nói cái gì mà vô vô hữu hữu nữa. Bây giờ bản thân tớ đang ở đâu tớ còn không biết nữa là”.

Tư Mã Khôi nói: “Cậu cứ quan sát kỹ xung quanh đi, có thấy quen không?”

Hải ngọng hơi rầu rĩ: “Bị nhốt sống ở nơi quỷ quái này lâu ra phết rồi, nhưng tớ chẳng thấy xung quanh đây có mẹ gì hay ho cả”. Anh nói rồi nhìn ngó khắp bốn phía thêm lần nữa, phát hiện đường hầm địa cung và cả trong các gian mật thất hai bên đường, khắp tường chỗ nào cũng khắc toàn phù chú thần bí như thể giun dế, chim chóc, rắn rùa. Cảnh tượng lạnh lẽo âm u này đúng là có vẻ quen quen. Trải nghiệm khủng khiếp đó chắc đến chết anh cũng không thể nào quên được, Hải ngọng bất giác hít ngược một hơi lạnh nói: “Thành cổ Nhện Vàng của vua Chăm Pa!”

Thắng Hương Lân đã nghe Tư Mã Khôi kể tường tận những chuyện bọn anh gặp phải trong cánh rừng rậm nguyên sinh Miến Điện, bây giờ lại nghe Hải ngọng nhắc đến, cô mới phát hiện thấy tòa địa cung này đúng là cực kì giống tòa thành Nhện Vàng trong hẻm núi Dã Nhân.

Tư Mã Khôi nói: “Không phải là thành cổ Nhện Vàng, mà là di vật kỷ Devon, là một di vật kỷ Devon khác bị chôn vùi dưới kính viễn vọng Lopnor…”. Lúc trước, khi gặp lão tóc bạc, nghe đối phương dùng từ “không gian thứ sáu” để hình dung nơi này có lối vào mà không có đường ra, Tư Mã Khôi cho rằng đó chỉ là suy đoán chủ quan của kẻ sắp chết, thậm chí ngay cả bản thân anh cũng không thể giải thích rõ ràng ý nghĩa của nó là gì, nên khó tránh khỏi nảy sinh quan điểm phiến diện, thiếu chân thực. Bởi vậy từ đầu chí cuối, anh thấy mình không thể không tin lời lão tóc bạc, nhưng cũng không thể tin hoàn toàn được.

Tư Mã Khôi cũng hiểu biết về lý luận khoa học, tuy không thể so với các thành viên đội khảo sát, nhưng anh lại thông hiểu thuật tướng vật và biết cách nhận biết báu vật, nên anh lờ mờ cảm nhận thấy điểm kì quái nhất của cả chuỗi sự kiến chính là khoảng thời gian biến mất từ năm 1958 đến năm 1974. Từ khi bắt đầu cùng đội khảo cổ bước chân vào kính viễn vọng Lopnor đến giờ, điều khiến Tư Mã Khôi cảm thấy đau đầu và khiếp sợ nhất cũng chính là thời gian.

Nhưng vì bị tình thế bức bách, nên anh đành vắt óc suy nghĩ. Tư Mã Khôi nhìn các hình vẽ thần bí khắc trên tường trong các gian mật thất, rồi chợt nghĩ đến một thứ mà cổ thuật tướng vật có nhắc đến. Tương truyền, rất lâu trước đây, có một vật không biết là vật gì, hình thù giống cái túi, không có ngũ quan thất khiếu, cuốn “Bác Vật Chí” gọi nó là “Đế giang” (1) , thần thoại gọi nó là quả trứng hỗn mang âm dương, trong bụng nó là “vô”, không có thời gian và không gian, tất cả chỉ là mớ hỗn độn, tối đen một màu. Cũng có thuyết pháp cho rằng, Bàn cổ sinh ra từ bụng nó, ông nạo vét hỗn độn để khai thiên lập địa.

[1] Đế giang: là một quái vật tưởng tượng trong thần thoại Trung Hoa cổ đại, thân hình vô cùng to lớn, không có đầu, có 6 chân và 4 cánh.

Sau này, Tư Mã Khôi có hỏi giáo sư Nông địa cầu về chuyện liên quan đến di vật kỷ Devon, thì được biết, khả năng di vật kỷ Devon thuộc hóa thạch thủy tổ của loài ốc cú vọ , trong cơ thể nó lan tỏa “thứ vật chất mịt mù”. Tư Mã Khôi đoán, thứ này quá nửa chính là “đế giang” mà cổ thuật tướng vật nhắc đến, chỉ có điều việc ấy chưa được chính miệng giáo sư xác nhận. Khi đó, anh cũng không đào sâu nghiên cứu thêm nữa, nên càng không biết “thứ vật chất mịt mù” kia rốt cuộc là gì. Bây giờ, anh cũng chỉ có thể mò mẫm theo cách lý giải cũ trong cổ thuật mà suy đoán, thứ vật chất mịt mù đó chính là “vô”, như vậy có thể lý giải đại khái chuỗi ẩn số.

Thắng Hương Lân không hiểu cổ thuật tướng vật, nhưng lại biết rất rõ vật mà Tư Mã Khôi vừa nhắc đến bởi vì câu nói “vô trung sinh hữu – thiên hạ vạn vật sinh vu hữu, hữu sinh vu vô” (2). Nguyên bản của nó xuất hiện từ hơn hai ngàn năm trước, nó là câu danh ngôn do Lão Tử – thủy tổ của đạo gia Trung Quốc đề ra, có nghĩa là: “không” sinh ra “có” – vạn vật trong thiên hạ đều được sinh ra từ “có”, mà “có” được sinh ra từ “không”. Thời cận đại, quan điểm này được các nhà vật lý thiên văn học phương Tây vô cùng sùng bái, lấy đó để giải thích cho cội nguồn của tạo vật thiên địa, bởi thực sự không thể tìm thấy mô tả nào chính xác hơn thế. Chuyện này từng một thời là chủ đề nóng hổi vào những năm 50, 60, cả thế giới xôn xao bàn luận, tranh cãi rôm rả, mọi người đều muốn truy hỏi: “Khoa học và tôn giáo, rốt cuộc thứ nào chân thực hơn?”

[2] Vô trung sinh hữu — thiên hạ vạn vật sinh vu hữu, hữu sinh vu vô: có nghĩa là, vạn vật trong trời đt đu được sinh ra từ cơ thể mẹ, mà cơ thể mẹ đó chính là vô s vật của không vật gì.

Thắng Hương Lân từng nghe kể chuyện này ở trong nước, bởi vậy cô tin rằng phán đoán của Tư Mã Khôi tương đối phù hợp với tình hình thực tế, có điều tình thế hiện giờ nguy cấp như trứng treo trước miệng rắn, chỉ cần sai sót chút xíu thôi là toàn bộ ván cờ không thể cứu vãn được nữa. Ba người quyết định mò mẫm theo các khe hở tìm kiếm trước đã, xác nhận xem trong bức tường đá liệu có cái xác của di vật kỷ Devon hay không, sau đó mới tính tiếp.

Ba người không muốn bỏ mặc anh chàng đội trưởng đang sống dở chết dở ở lại, liền khênh cậu ta đi cùng.

Vết thương ở gan bàn chân Lưu Giang Hà chạm xuống mặt đất, đau đớn đến nỗi thần trí vụt trở nên tỉnh táo, cậu ta u u mê mê không biết vì sao mình ra nông nỗi này, liền gắng gượng phều phào hỏi: “Thủ trưởng Khôi ơi! Tôi bị… sao thế này?”

Hải ngọng an ủi: “Thực ra cũng không có gì nghiêm trọng lắm đâu, chỉ có điều, từ nay về sau, cậu… không thể nghe được lời hiệu triệu vĩ đại của Đảng và nhân dân nữa thôi”.

Hồi thứ bảy

SINH VẬT KINH DỊ

Đội trưởng Lưu Giang Hà hoang mang trong lòng, nhất thời không hiểu câu này có nghĩa gì, nhưng cậu chàng có thể cảm nhận từ lời của Hải ngọng rằng tình hình không ổn, lại phát hiện là súng và ba lô bên người đều không còn, thì đoán lần này đúng là chết tiệt thật rồi, thần sắc bất giác bàng hoàng.

Tư Mã Khôi ra hiệu bảo Hải ngọng đừng nhiều lời nữa, rồi nhắc Hương Lân dùng đồng hồ thám trắc trọng từ lực, tìm kiếm hướng đi về phía đỉnh đồng Vũ Vương, ba người khênh cậu đội trưởng, dò dẫm từng bước trong đường hầm tối tăm, tiến về phía trước.

Căn cứ vào từng manh mối, mọi người suy đoán, đội khảo sát liên hợp Trung Xô năm 1958 đã bị lạc vào bụng của di vật kỷ Devon. Lúc đó ngoài chuyên gia tóc bạc, tất cả các thành viên khác đều chết trước tấm bia nuốt rắn. Rồi sau đó, thời gian đột nhiên biến mất, mãi đến khi hội Tư Mã Khôi xuống đến đáy động, mọi sự kiện mới tiếp tục diễn ra. Điều này chứng tỏ, chỉ cần người sống từ bên ngoài bước chân vào di vật kỷ Devon, thì thời gian trong địa cung sẽ trôi chảy như bình thường. Nguyên nhân có lẽ là do nó chịu tác dụng bởi điện trường sinh vật của cơ thể con người, nhưng cũng chỉ được vài tiếng sau, “vật chất mịt mù” sản sinh từ cơ thể di vật kỷ Devon lại sẽ nuốt chửng tất cả, rồi mọi vật đều vĩnh viễn dừng lại trong “vô”, nơi không hề tồn tại không gian và thời gian, trừ khi lại có sự kiện bên ngoài tham dự vào. Hơn nữa, theo những ghi chép trong cổ thuật tướng vật, bất kì sinh mệnh nào đã bị “vô” nuốt chửng, thì đều không thể rời khỏi cơ thể nó, nếu không sẽ lập tức hóa thành tro bụi trong phút chốc. Bởi vậy, dẫu cơ thể chuyên gia tóc bạc không có ấu trùng bọ ăn xác, thì cuối cùng ông cũng không thể rời khỏi nơi này.

Có điều, phần lớn những điều này chỉ là những suy đoán chủ quan của họ, tòa thành Nhện Vàng, mà hội Tư Mã Khôi phát hiện khi theo đội thám hiểm đến Miến Điện, chỉ là cái xác chứa lượng lớn từ trường nhiệt lưu giữ thông tin của di vật kỷ Devon, trong khi đó, cái xác nằm dưới đáy vực sâu trong kính viễn vọng Lopnor lần này còn tồn tại nhiều hiện tượng thần bí không thể giải thích hơn. Ngoài ra, anh cũng không rõ “thứ vật chất mịt mù” nuốt chửng thời gian rốt cuộc là thứ gì, mà chỉ cảm nhận một cách sâu sắc là hi vọng đào thoát khỏi “vô” và sống sót trở về của đội khảo cổ là vô cùng mờ mịt.

Mọi người cố gắng kiềm chế cảm giác sợ hãi và tuyệt vọng đang dâng trào. Họ men theo đường hầm sờ thấy vách tường đá nằm ở điểm tận cùng, và nghe thấy dường như trong một bức tường có âm thanh nhỏ vọng lại. Di vật kỷ Devon trong thành Nhện Vàng được cho là cái xác hóa thạch mang luồng cảm ứng từ nhiệt lưu trữ trí nhớ, nhưng vật ở dưới địa cung này dường như là một sinh vật còn sống hẳn hoi.

Mọi người vừa kinh ngạc vừa kì lạ: “Hình như nó còn sống hay sao ấy, di vật kỷ Devon…chẳng lẽ nó sống từ thời trung kì của Đại cổ Sinh đến tận ngày nay? Có điều chỉ cần có hình, có chất, nói không chừng lại có thể dùng thuốc nổ phá sập một hố được cũng nên”.

Khi trước, cả nhóm không dám dùng thuốc nổ phá vách tường, chủ yếu là vì đội khảo cổ không có ai thông thạo nghiệp vụ thuốc nổ, không dự đoán được bao nhiêu thuốc nổ sẽ phá thủng được lòng tường, càng không hiểu cách lựa chọn địa điểm phá nổ, ngộ nhỡ khiến cả khu vực dưới lòng đất sụt lở thì gay to. Nhưng lúc này, họ không còn lựa chọn nào khác, cá không chết thì lưới phải thủng. Thế là cả hội quyết liều. Họ chỉ để bốn cuộn thuốc nổ đề phòng bất trắc, số còn lại thì dùng băng dính cuốn thành khối rồi dán vào tường.

Tư Mã Khôi châm lửa vào điếu thuốc thơm của Liên Xô, rít mạnh vài hơi, rồi gí đầu thuốc lá vào kíp nổ để dẫn cháy, sau đó cả hội vội vàng trốn vào trong động thất bên cạnh đường hầm, bịt chặt hai tai, đầu thầm nhẩm đếm “Một, hai, ba…”

Một tiếng nổ long trời lở đất, chấn động đến nỗi chân tay người nào cũng tê dại, cổ họng toàn vị tanh mặn, trong đám khói bụi mịt mùng, bức tường đá bị phá hủy sụt vỡ một nửa, khắp nơi toàn đá vụn, sóng chấn động sản sinh sau vụ nổ lan tỏa trong thân tường, gạch đá rơi xuống rào rào, khu vực xung quanh vẫn không ngừng sụp xuống, chẳng biết chôn vùi bao thứ dưới lòng nó. Tư Mã Khôi thầm than: “Mẹ tiên sư! Chắc là dùng thuốc nổ quá liều rồi!” Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Mọi người tự biết, nếu không nhân thời cơ này mau chóng chạy ra ngoài, thì chỉ cần chậm trễ mấy bước nữa thôi, có thể sẽ bị chôn sống dưới lòng đất. Họ vừa mới định hành động, thì ai nấy đều cảm thấy có một vật thể khổng lồ bò ra từ kẽ nứt trong lòng bức tường. Tư Mã Khôi đứng gần cửa nhất, nhận thấy tình hình không ổn, liền lập tức giơ tay bảo mọi người dừng lại, anh nắm chắc khẩu súng xung phong PPS trong tay, thò nửa đầu ra khỏi động thất thám thính tình hình.

Nhưng bên ngoài bóng tối bủa vây, cộng thêm khói thuốc nổ và bụi đất bay mù mịt, chùm sáng đèn quặng không thể soi sáng phía xa, mọi người đành nín thở, dựa lưng vào tường, không dám cử động mạnh.

Tuy Tư Mã Khôi đã lường trước trong bức tường chắc chắn có điều kì quái, nhưng di vật kỷ Devon rốt cuộc hình dạng thế nào, thì anh lại không hề có khái niệm. Anh kết hợp những kinh nghiệm trước đây, thì chỉ biết khoảng 4 tỷ 600 triệu năm trước, khi lớp vỏ Trái đất vừa mới bắt đầu đông kết, có thứ vật chất mịt mù tàn lưu lại từ thời kì hỗn độn, bị phong tỏa dưới lòng đất, mãi đến cuối kỷ Devon, mới xuất hiện loài ốc cổ đại nào đó lấy vật chất này làm thức ăn, cho nên sau khi chúng hóa thạch, trong vỏ chúng vẫn còn chứa một luồng từ nhiệt lớn đến tận ngày nay. Từ đó, khu vực trong núi sâu đã hình thành nên một vùng điện từ trường, giống như vũng mù. Nhưng di vật kỷ Devon trong thành cổ Tochari thì dường như lại là một sinh vật sống, cả cơ thể nó ẩn trong bức tường kiên cố ở địa cung, nên ảnh hưởng sụt lở của vụ phá nổ hiển nhiên đã kinh động đến nó.

Thời khắc này kéo dài đằng đẵng tựa thiên thu, khi nghe âm thanh ngọ ngoạy bò trườn dần dần tiến sát gần, nhịp tim đập của mọi người cũng tăng nhanh dữ dội theo sự rút ngắn của khoảng cách. Bất chợt, một luồng gió tanh tưởi thổi thốc vào mũi, cả nhóm định thần nhìn kỹ thì thấy trong đám khói bụi có một con vật khổng lồ đang lù lù tiến đến, trông nó giống một cái tủ to lớn bằng thịt, trong đó chỉ có miệng mà không có mắt mũi, chân tay, trong đường hầm nhỏ hẹp, cũng không thể phân biệt rõ hình thù cụ thể của nó ra sao, khả năng chẳng khác bia nuốt rắn là bao, bộ phận bị đèn chiếu vào thấy toàn nếp nhăn, phô bày sự già nua và cổ xưa của thời đại hồng hoang, mặt đất nơi nó lết thân qua để lại thứ nước đen ngòm.

Mọi người kinh ngạc há hốc miệng, da đầu căng cứng, Tư Mã Khôi biết không thể đối đầu với nó, lại e rằng sẽ không thể xoay chuyển trong không gian chật chội của gian động thất, anh liền cùng Thắng Hương Lân xách nách đội trưởng Lưu Giang Hà, Hải ngọng đi sau yểm trợ, không quản nguy hiểm do đất đá sụt lở, thục mạng chạy trốn vào nơi sâu trong đường hầm.

Đội trưởng Lưu Giang Hà lết cái chân bị thương, ban đầu còn thấy đau đớn không thể chịu đựng nổi, về sau bước chạy càng lúc càng nhanh, nên chất độc trong huyết dịch mau chóng khuếch tán, cả cẳng chân hoàn toàn mất cảm giác, nếu không có người giúp đỡ, thì cậu ta đã nằm bất động ra đất, lúc định nói thì phát hiện ngay cả cuống lưỡi cũng đã tê dại.

Hải ngọng và Thắng Hương Lân đều phải đeo ba lô nặng trịch, nếu đội trưởng Lưu Giang Hà có thể tự vận động chút ít bằng sức lực chính mình, thì hai người còn gắng gượng kéo cậu ta tiếp tục chạy, nhưng lúc này thân thể của Lưu Giang Hà cứng đơ như cây chuối, nghiêng nghiêng ngả ngả chúi về đằng trước, khiến hai người không làm chủ được cũng ngã sõng xoài theo. Tư Mã Khôi vừa chạm đất đã lăn một vòng đứng dậy ngay, anh tiện tay vứt luôn ba lô xuống đất, dưới sự hỗ trợ của Thắng Hương Lân, anh vội cõng Lưu Giang Hà lên lưng. Chỉ chậm lại một khoảng ngắn ngủi như vậy, mà di vật kỷ Devon đã kịp bò trườn đến, cách mọi người chỉ khoảng năm mét. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Hải ngọng đỏ mắt từ lâu, trông tình hình đoán có lẽ không thoát thân nổi, anh liền giơ tay châm lửa kíp nổ cuộn thuốc nổ rồi vứt ra sau lưng. Vừa lúc đó Thắng Hương Lân quay đầu lại nhìn, cô hốt hoảng la thất thanh: “Chết rồi!”. Tư Mã Khôi nghe động cũng quay người lại nhìn, anh biết dây dẫn rất ngắn, khoảng cách lại quá gần, trong đường hầm nhỏ hẹp thế này, sức công phá của cả chùm bốn cuộn thuốc nổ đủ để tất cả mọi người tan xác thành từng mảnh vụn. Nhưng giờ đây có muốn trốn cũng không kịp, anh đành cõng đội trưởng Lưu Giang Hà nằm rạp xuống đất, thuận thế trốn sau bức tường, hai người còn lại cũng vội vàng nằm úp mặt, đợi tiếng nổ dữ dội phát ra bất cứ lúc nào.

Ai ngờ cuộn thuốc nổ rơi ngay bên cạnh cơ thể đang trườn bò của cái “tủ thịt”, nó liền nuốt chửng vào cái miệng đen ngòm ngòm, vào đúng thời khắc phát nổ, chỉ thấy bề mặt của di vật kỷ Devon bỗng nhiên phình to, nhưng ngay sau đấy liền trở về trạng thái như cũ, cũng không nghe thấy bất kì âm thanh hay chấn động nào nữa, nó vẫn lặng lẽ và tiếp tục trườn đến chỗ mọi người.

Cả hội hãi khiếp đảm thất sắc, cuộn thuốc nổ phát nổ ngay trong cơ thể di vật kỷ Devon, vậy mà nó vẫn không hề hấn gì, có lẽ là do bên trong cơ thể đang bò trườn kia đầy rẫy những “vô”.

Khái niệm về “vô” của Tư Mã Khôi tương đối mơ hồ, anh chỉ biết đó là thứ vật chất mịt mù trước khi lớp vỏ Trái đất phình to và đông đặc. Thời gian và không gian không ngừng vận động đều xuất hiện từ trong cơ thể nó.

Lúc này, di vật kỷ Devon đã tiến gần trong gang tấc, Tư Mã Khôi thất vọng thầm kêu: “Lúc trước liệu sự không chu đáo, lẽ ra không nên mạo hiểm cho thuốc nổ phá hủy bức tường, bây giờ thì đến trời cũng không cứu nổi nữa rồi!”. Giờ đây anh cũng không biết nên ứng phó thế nào, chỉ cùng hai người còn lại ra sức kéo đội trưởng Lưu Giang Hà rút lui vào nơi sâu trong đường hầm.

Thạch điện nằm ở điểm tận cùng của đường hầm vẫn chưa bị sụt vỡ, thi thể của các thành viên đội khảo sát và tấm bia nuốt rắn ở tầng trên có thể cùng gạch đá vụn nát sập xuống bất cứ lúc nào. Trong bóng tối mịt mùng, chỗ nào cũng toàn bụi đất hỗn tạp, chùm sáng của ánh đèn bấc không thể chiếu xa hơn hai mét, bốn phía xung quanh chỉ thấy âm thanh tường nhà đổ vỡ ầm ầm như thể đang trong cơn địa chấn.

Tay chân mặt mũi các thành viên đội khảo cổ đều bị vụn đá cào rách, Hải ngọng cũng vừa bị đá rơi trúng đầu, tuy đội mũ Pith Helmet nhưng anh vẫn bị thương khá nặng, máu tươi đầm đìa khắp mặt. Trong cơn hỗn loạn, mọi người hoàn toàn không thể phân biệt được phương hướng và tình hình xung quanh, nên lòng càng hoảng hốt gấp bội. Họ vừa mới rút vào trong điện thì bỗng nhiên cảm thấy gạch đá, đất cát chất cao như núi bỗng rung chuyển rào rào, mặt đất nứt ra một đường khe lớn, dường như có vật gì đó từ dưới đất đội cả tòa điện lên.

Dưới chân hội Tư Mã Khôi nghiêng ngả, tất cà không trụ vững được đều ngã ngửa ra sau, lòng tự biết không thể quay về đường hầm được nữa, may mà chân tay nhanh nhẹn, không thì đã bị vách tường hai bên đè nát cả xương lẫn thịt. Cả hội vừa tránh những mảnh gạch đá vụn rơi xuống, vừa di chuyển dần về phía cạnh tường.

Lúc này mọi người đều phát hiện, phía dưới điện cũng có di vật kỷ Devon, đúng như tiên liệu ban đầu, tòa địa cung Tochari này giống với thành cổ Nhện Vàng ở Miến Điện, toàn bộ toàn thành đều ẩn chứa xác của di vật kỷ Devon, chỉ có điều cái xác ở thành Nhện Vàng một nửa là hóa thạch, một nửa là sinh vật, nó đã ở trạng thái chết cứng, còn thứ trong địa cung Tochari lại là con quái vật còn sống hẳn hoi, thứ xuất hiện dưới lòng đất và trong đường hầm có lẽ là phần chân – bụng của nó.

Mọi người đã biết đến di vật kỷ Devon từ lúc nhìn thấy những bức khắc thần bí mà người Tochari để lại, cho đến khi nhìn thấy nó lần nữa trên Sơn Hải Đồ ở đỉnh đồng Vũ Vương, thấy nó có hình dáng hao hao sinh vật lớp chân bụng(1) và đặc biệt không có thất khiếu, nó sống kí sinh ở tầng giữa, kẹp trong bức tường ngoài của địa cung.

[1] Lớp chân bụng: là một lớp động vật thuộc ngành Thân mềm. Lớp chân bụng bao gồm tất cả các loại ốc với mọi kích cỡ từ nhỏ đến khá lớn.

Lúc trước, chuyên gia tóc bạc đã nói với đội khảo cổ, ở đây chịu ảnh hưởng của vật chất mịt mù, các hạt li ti rơi vào trạng thái lực lượng tử tác động lẫn nhau, cả tòa địa cung đều nằm trong phạm vi bán kính độ cong của thời gian và không gian, nó không còn thuộc về không gian rộng lớn, khoáng đạt mà chúng ta từng biết, mà là một không gian bất minh khác chỉ có lối vào, không có lối ra. Mọi sinh vật ở bên ngoài khi tiếp cận với nó, sẽ khiến không gian này xuất hiện một con đường vật chất bởi từ trường của chính mình, nhưng lúc từ bên trong đi ra thì thông đạo đã biến mất. Hình thù quái dị của tấm bia nuốt rắn, đại khái chính là sự mô tả trực quan nhất của người cổ đại về di vật kỷ Devon, quái xà ám thị sinh mệnh và thời gian, mọi thứ đều xuất hiện từ hư vô và đều có thể bị hư vô nuốt chửng hoàn toàn.

Hội Tư Mã khôi đương nhiên không thể lý giải sự việc ở chiều sâu thế này, nhưng họ cũng rõ mình đang nằm bên trong thân xác di vật kỷ Devon, nếu không thể chạy ra thì bí mật, mà họ đã phải trả giá bằng bao nhiêu mạng sống của các đồng chí để đổi lấy, đều vĩnh viễn vùi chôn dưới lòng đất này; có điều, mấy cuộn thuốc nổ và khẩu súng xung phong PPS họ mang theo mình chẳng đủ để bảo vệ chính bản thân, thì nói gì đến các đại sự khác. Không gian trốn chạy trong địa cung càng lúc càng thu lại, đội khảo cổ dần dần bị đẩy vào góc chết, tình hình giờ đây không giống như cá sắp chết trong lưới rách để còn giãy giụa liều mạng một phen, mà lại giống như mấy con cá vàng muốn thoát khỏi cái bể cá đã bị niêm phong kín mít.

Hồi thứ tám

THÍ NGHIỆM PHILADELPHIA

Di vật kỷ Devon giãy giụa muốn thoát ra khỏi lòng bức tường, bốn phía xung quanh đội khảo cổ toàn là đá vụn và tường đổ nát, mọi người bò lên đến đỉnh tấm bia nuốt rắn đổ nghiêng, thì hết đường.

Hải ngọng thả đội trưởng Lưu Giang Hà đang cõng trên lưng xuống, lấy tay quệt lung tung cả máu tươi và đất bụi trên mặt, thở hổn hển nói với hai người còn lại: “Bận này đúng là gặp phải ngưỡng không thể vượt qua được rồi!”

Tư Mã Khôi cũng cảm thấy tuyệt vọng cùng cực: “Nếu không dùng thuốc nổ phá tường, có lẽ còn sống lâu thêm được chút, bây giờ thì hay rồi, còn biết chạy đâu bây giờ?”

Thắng Hương Lân nhìn tấm bia nuốt rắn lần nữa, chợt kinh ngạc, vội nói với Tư Mã Khôi: “Năm 1958, thời gian của đội khảo sát không hề bị biến mất…”

Tư Mã Khôi không rõ Thắng Hương Lân đã nghĩ ra điều gì, nhưng tính mạng mọi người chỉ còn tính bằng giây, cho dù khoảng thời gian sau khi đội khảo sát tử nạn không bị biến mất đi chăng nữa, thì cũng không thể thay đổi được hoàn cảnh hiện tại của họ.

Tư duy Thắng Hương Lân rất nhanh nhạy, lúc này cô đã nhận ra: sự việc không như mọi người phỏng đoán lúc ban đầu, bởi sau khi chuyên gia tóc bạc gặp đội khảo cổ thì ông ta mới chết, bởi vậy mọi người từ đầu chí cuối đều có phán đoán sai lầm là “tiên nhập vi chủ” – nghĩa là người vào trước là chủ, kẻ vào sau là khách, cho rằng thời gian từ năm 1958 đến năm 1974 bị biến mất dưới lòng đất. Kì thực, không gian bị xác di vật kỷ Devon bao quanh, bên trong nó không hề có bất kì hiện tượng bất thường nào, mặc cho đội khảo cổ dừng lại ở địa cung bao lâu, thời gian cũng không biến mất, nếu thời gian bên cạnh chuyên gia tóc bạc đã từng biến mất, thì ông ta đã sớm bị hư vô xé nhỏ thành các hạt nguyên tử từ lâu rôi, ngay cả thi thể cũng không thể tồn tại nữa. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Điểm kì quái đích thực, có lẽ chính là cái xác di vật kỷ Devon. Năm 1943, hải quân Mỹ từng tiến hành một thí nghiệm cơ mật ở Philadelphia(1) dựa trên lý thuyết “giả thuyết về chiếc hộp thời gian” do Tesla đề ra. Hiểu một cách ngắn gọn là: lý thuyết bức xạ điện từ và trọng lực nếu được triển khai cùng với một số thiết bị đặc biệt và năng lượng cần thiết thì có thể bẻ cong ánh sáng xung quanh và làm cho vật thể trở thành vô hình. Họ đề nghị cung cấp tàu khu trục USS Eldridge cho cái gọi là “Dự án Cầu vồng”. Những bước thử nghiệm đầu tiên bắt đầu vào tháng 7 năm 1943 và đạt được thành công đáng kể. Nhân chứng nói rằng, họ chỉ còn thấy chiến hạm Eldridge như một “chú ếch màu xanh”, tuy nhiên thủy thủ đoàn lại rất phản đối vì cảm giác nôn mửa kinh hoàng chưa từng có, buộc Ban chỉ huy lực lượng Hải quân Mỹ phải ra lệnh tạm dừng. Thí nghiệm chính thức được tiến hành vào ngày 28 tháng 10 năm đó, trên vùng biển Philadelphia, bang Pennsylvania, Mỹ. Lần này, Eldridge không chỉ trở thành vô hình trước mắt nhân chứng, mà còn biến mất không dấu vết trong tầm kiểm soát của sóng ra đa. Lạ lùng hơn, ngay cùng thời điểm đó, căn cứ Hải quân Mỹ tại Norfolk, bang Virginia nằm cách xa hơn 600 kilômét báo cáo: đã nhìn thấy Eldridge ngoài khơi trong vài phút, sau đó thì mất tăm – đó cũng là lúc Eldridge lại tái xuất hiện trên biển Philadelphia. Chấn động tâm lý để lại cho các thủy thủ trên chiếm hạm Eldridge mới thật nặng nề, sau thí nghiệm, phần lớn những binh sĩ này ốm thập tử nhất sinh, không ít kẻ rơi vào trạng thái hoang tưởng hoặc tâm thần phân liệt, chưa kể một số trường hợp được ghi nhận là “mất tích không dấu vết”. Quá hoảng hốt trước các sự việc trên, quan chức Hải quân Mỹ đã ra lệnh dừng thí nghiệm ngay lập tức. Lần lượt sau đó, những thủy thủ còn may mắn sống sót bị đào thải ra khỏi quân đội. Có người nói, họ còn bị tẩy não để quên đi mọi chi tiết về cuộc thí nghiệm kinh hoàng trên biển Philadelphia năm đó.

[1] Philadelphia: một trong những thành phố lớn và cổ xưa nhất ở Mỹ.

Thí nghiệm này chứng tỏ, trong giới tự nhiên quả thật tồn tại một không gian thần bí và biệt lập, xung quanh nó là thứ vật chất mịt mù không thể xuyên qua, nó chính là “vô” mà Tư Mã Khôi nhắc đến.

Chính vì cung điện nằm trong xác di vật kỷ Devon, tương đương với hộp thời gian bị “vô” bao quanh, nên chỉ có một thông đạo duy nhất tương tự như trùng động vừa rồi mới có thể xuyên qua tọa độ thời gian tuyến tính. Đội khảo sát năm 1958 và độ khảo cổ năm 1974, đều từng đi qua trùng động để tiến vào chiếc hộp thần bí này, khiến thời gian của kẻ trước người sau giao thoa lẫn nhau.

Vào thời khắc nguy cấp này, Thắng Hương Lân không kịp giải thích dài dòng với hai người, chỉ hình dung trùng động nằm trên xác di vật kỷ Devon chính là một thông đạo tồn tại khách quan. Chỉ có điều, lòng đất đặc quánh mây từ, không gian vật lý xung quanh lại bị bẻ cong, bởi vậy nếu đội khảo cổ quay trở lại theo đường cũ, sẽ không thể tìm thấy trùng động.

Tư Mã Khôi và Hải ngọng đưa mắt nhìn nhau, hai người biết Thắng Hương Lân không bao giờ suy luận thiếu căn cứ, nếu tìm thấy trùng động phía trên cái xác di vật kỷ Devon, tức là có cơ hội chạy thoát ra ngoài; nhưng tứ bề tối đen như đêm ba mươi, chỗ nào cũng bị sụt lở, rất nhiều nơi bị gạch đá vụn lấp kín, nên mọi người chỉ còn cách cố đứng vững trên tấm bia nuốt rắn. Tình thế bây giờ vô cùng cấp bách, không chừng chẳng kéo dài nổi dăm phút nữa, làm sao đi xa được mà tìm trùng động?

Ba người không nghĩ ra kế sách gì, cũng không biết phải làm thế nào. Lúc này, họ lại nghe thấy những âm thanh “chít chít sàn sạt” từ xa đang cuốn đến gần, soi đèn xem, thì thấy bầy cua móng ngựa độc đông nghìn nghịt đang kéo bè kéo đảng từ các đường khe bị nứt vỡ sụp đổ chảy trào ra ngoài, nhanh chóng vây quanh tấm bia nuốt rắn từ bốn mặt tám hướng.

Hải ngọng không ngớt than khổ: “Sao bọn âm hồn không tan này bám dai như quần rách vướng cẳng chân thế không biết, sắp chết đến nơi rồi mà vẫn muốn ăn thịt người nữa sao?” Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi vừa nhìn chằm chằm bọn bọ ăn xác đang ào đến, vừa nói với Hải ngọng: “Trại chủ Hải ngọng đúng là nói quá chuẩn! Bọn cua móng ngựa này tuy là sinh vật sinh sôi trong xác chết ở hầm mộ núi sâu, nhưng bọn nó có tư duy ý thức đàng hoàng đấy, có điều cùng một lúc chỉ nghĩ được một việc thôi, khi nãy tường đá sụp vỡ làm bọn nó kinh động, chỉ lo tìm đường thoát thân, bây giờ gặp người sống thì quên phéng mất chuyện phải tháo chạy, nên ý thức bọn nó bây giờ chỉ chăm chăm muốn gặm và hút não với nội tạng của con người. Nếu cậu giẫm cho nó tan xác, thì nó không nghĩ ra nổi chuyện gì nữa đâu”.

Hải ngọng không biết Tư Mã Khôi nói thật hay giả, nhưng cứ nghĩ đến cảnh tượng thảm thương của các thành viên đội khảo sát, thì anh bủn rủn hết cả người, bị bọn ăn xác này chui từ thất khiếu vào lục phủ ngũ tạng, rồi luồn cả vào óc tủy, chi bằng bây giờ mình tự kết liễu cuộc đời, chết cho nó thống khoái vậy. Thế là anh liền quay sang bảo Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân: “Cuối cùng ngày hôm nay, Hải ngọng tớ cũng cách mạng triệt để rồi. Chào các cậu! Tớ đi gặp Diêm Vương trước nhé, xuống dưới đó tớ sẽ chiếm chỗ hộ các cậu …”

Tư Mã Khôi và Hải ngọng đều thuộc hạng bản lĩnh mồm mép cao siêu. Trước kia, khi quân cộng sản Miến Điện bị nhốt trong rừng rậm nguyên sinh, lương hết đạn kiệt, rơi vào đường cùng, những thành viên còn lại bất cứ lúc nào cũng có thể bị quân chính phủ tóm cổ, hoàn cảnh gian nan, hiểm ác đến cực điểm như vậy, mà anh chàng vẫn tiếc không nỡ cho đầu ăn đạn, nên Tư Mã Khôi cho rằng Hải ngọng chỉ nói đùa.

Nào ngờ, đúng lúc đó bên tai vang lên tiếng súng nghe “pằng!” một cái, tiếng súng quá đột ngột khiến Tư Mã Khôi phút chốc đổ mồ hôi lạnh khắp người, anh cuống cuồng quay đầu lại nhìn, thì ra người nổ súng không phải Hải ngọng, mà là đội trưởng Lưu Giang Hà đang nằm vật trên tấm bia. Tình trạng vết thương của cậu ta rất nặng, nửa thân dưới đã hoàn toàn tê liệt cứng đờ, nhưng não thì vẫn lờ mờ còn chút ý thức, cậu ta biết rõ mình coi như hết đường sống, vì không muốn bản thân liên lụy đến ba người còn lại, nên nhân lúc cánh tay trái vẫn còn tri giác, đội trưởng liền với lấy khẩu súng lục K54 đặt cạnh ba lô Thắng Hương Lân tự ra tay kết liễu đời mình. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Từ khi mọi người bước vào tòa thành cổ dưới lòng đất, mọi khẩu súng đều trong trạng thái lên quy lát sẵn sàng, bất cứ lúc nào cũng có thể ngắm bắn, khi nãy mọi người mải chú ý tình hình xung quanh, nên không phát hiện ra hành động của Lưu Giang Hà. Chỉ có điều lựa chọn quyết định sinh tử đâu phải chuyện dễ dàng, vào khoảnh khắc bóp cò, lòng Lưu Giang Hà lại trở nên yếu đuối, cùng lúc tiếng súng vang lên, cánh tay lại hơi run rẩy, nên kết quả đạn không xuyên qua não, mà lại bắn trúng má, xuyên thùng từ má bên này sang má bên kia, đến khi mọi người kịp nhận ra, thì đội trưởng đã lăn xuống chân tấm bia nuốt rắn theo quán tính.

Thắng Hương Lân cuống quýt giơ tay ra cứu, nhưng trong chớp mắt, bọn cua móng ngựa đã bò đen nghìn nghịt khắp thân thể cậu đội trưởng, Tư Mã Khôi và Hải ngọng nhìn mà lạnh thấu tận đáy tim, vội vàng kéo Thắng Hương Lân trở lên đỉnh tấm bia.

Ba người soi đèn quặng xuống, cảnh tượng phía dưới thực sự làm người ta rùng rợn khiếp đảm, đội trưởng Lưu Giang Hà khắp người đầm đìa máu tươi, lúc lăn xuống đè nát mấy con bọ, chất dịch bên trong tiếp xúc với không khí nhanh chóng biến thành axít đậm đặc, cả cơ thể một con người đang sống mà chỉ trong nháy mắt, ngay xương cốt cũng không còn, những con bọ ăn xác xung quanh vẫn cố sống cố chết bò đến ăn hôi, thì đều bị axít hóa kiếp, axít từ khe nứt trên mặt đất, thẩm thấu xuống dưới, rơi vào da thịt di vật kỷ Devon, nó tức khắc hóa thành khối nước đen.

Di vật kỷ Devon bắt đầu dần chết rục dưới sức ăn mòn của axít, lớp vỏ của nó từ trên xuống dưới nứt vỡ ra tứ phía rồi rơi xuống, hội Tư Mã Khôi thấy dưới chân sắp sụt đến nơi, đành bám vào vách tường sắp đổ, tìm đường trèo lên chỗ cao hơn, may mà đứng trong đại điện kiên cố nhất nên mới không bị gạch vỡ đá vụn đè bẹp và vùi xác phía dưới.

Lúc này, cái xác của di vật kỷ Devon chẳng còn sót lại là bao, cung điện dưới lòng đất cũng bị sụt lún mất một nửa, cả tòa điện lộ ra trong huyệt núi lửa. Hội Tư Mã Khôi không ngờ lại có kết quả này, bất kể là vô tình hay hữu ý, cơ hội tháo thân lần này đã phải đánh đổi bằng sinh mạng của đội trưởng Lưu Giang Hà, không những thế cậu ta đã chết vô cùng thảm khốc, bởi vậy không ai cảm thấy may mắn vì tai qua nạn khỏi, mà chỉ thấy dường như có tảng đá ngàn cân đang đè nặng cõi lòng, thổn thức đến độ không thở nổi.

Ba người cố gắng át chế cảm xúc bi thương, bới lật đám đất đá đổ nát chất cao như núi ở gần đó, rồi từ thông đạo trong cái xác tàn lưu của di vật kỷ Devon rời khỏi đống hoang phế của cung điện dưới lòng đất, đang định mò mẫm tìm cửa ra, thì bốn phía bỗng tối sầm lại, chùm sáng đèn quặng càng lúc càng mờ mịt, da đầu ai nấy giật lên từng hồi, cảm thấy ở nơi sâu trong bóng tối, phảng phất tồn tại một lực hút mạnh khủng khiếp, nó như muốn kéo linh hồn ra khỏi thể xác vậy.

Sắc mặt Tư Mã Khôi thay đổi đột ngột, những kẻ may mắn sống sót của đội khảo cổ vẫn chưa thoát nạn, thể xác của di vật kỷ Devon đã chết, nhưng linh hồn của nó thì vẫn tồn tại.

Thắng Hương Lân cũng ý thức thấy, tuy thể xác của di vật kỷ Devon đã bị hủy diệt nhưng “vô” trong cơ thể nó không thuộc về bất kì loại vật chất nào, nên chất ăn mòn hoàn toàn vô tác dụng với nó.

Ba người đâu ngờ đội trưởng Lưu Giang Hà chết thảm thương như vậy, mà lại không có chút ý nghĩa nào, ai nấy đều cảm thấy tiếc thay cho cậu. Lúc này, cả hội đang ở trong đáy lòng núi lửa, xung quanh toàn là sườn núi dốc đứng, vây quanh như cái thùng sắt, trừ phi mọc thêm đôi cánh, thì mới mong bay đến chỗ đoạn dây thừng thòng xuống miệng hố lúc trước. Trong khi đó, vật chất mịt mù tàn lưu của di vật kỷ Devon đã rũ bỏ được sự trói buộc của thể xác, nó không ngừng khuếch tán một cách nhanh chóng, tựa hồ một con mãng xà khổng lồ phun nhả yêu khí đang bừng tỉnh giấc trong vực sâu tăm tối.

Đầu Tư Mã Khôi ong ong, anh nhớ ra ở rìa huyệt núi lửa có cánh cửa đá, thông với tòa thành cổ quấn quanh ngọn núi. Cánh cửa khổng lồ đó đóng theo chiều từ trong ra ngoài, hai bên đều có pho tượng đồng, từ ngoài đẩy vào nó không hề nhúc nhích, giờ đây nói không chừng chỉ có chạy đến đó rồi tìm cách đẩy từ trong ra, nếu cách này ổn thỏa thì chắc đó sẽ là con đường sống, nếu không xong thì cả hội phen này đành lượn xuống Quỷ Môn Quan vậy.

Hải ngọng cũng biết cánh cửa đó kiên cố vô cùng, trọng lượng đâu chỉ ngàn cân, trải qua năm rộng tháng dài, quanh thân nó mọc đầy rong rêu, tựa hồ nó sắp bén rễ xuống đất đến nơi, mà chỉ dựa vào sức lực ba thành viên may mắn sống sót của đội khảo cổ, thì chắc chắn không thể chuyển dịch được nó. Nhưng điều ấy không quan trọng, cùng lắm thì đâm đầu vào đó “rầm” một cái là được chết thoải mái, chết sung sướng, còn tốt chán so với cái chết đau đớn đến từ từ khi cơ thể bị rữa nát ở nơi địa ngục quái quỷ kia.

Ba người lập tức chạy về hướng cửa đá dưới chân núi, Tư Mã Khôi và Hải ngọng quyết chết, miệng đồng thanh thét lớn, đang định lên trước động thủ, thì Thắng Hương Lân bỗng nhiên cản hai người lại: “Đừng qua đó! Không được đi về hướng bên ấy nữa…”

Tư Mã Khôi đâu phải không biết cân nhắc nặng nhẹ, cả tòa thành cổ trong lòng đất đều sẽ bị “vô” nuốt chửng, cho dù có chạy thoát khỏi huyệt núi lửa, e rằng cuối cùng vẫn không tránh nổi cái chết, nhưng chó cùng dứt dậu, khi chưa què chân cụt tay, lẽ nào cam tâm ngồi đây đợi chết hay sao?

Thắng Hương Lân nói: “Anh nghe tôi nói xong đã, nếu chúng ta rời khỏi huyệt núi lửa, cả ba chúng ta chắc chắn sẽ chết”.

Hải ngọng nghe mà u mê hết cả đầu, bây giờ còn chưa biết có đẩy được cánh cửa đá hay không, sao lại nói rời khỏi đây thì khó tránh khỏi cái chết?

Tư Mã Khôi thấy lòng chợt kinh động, anh bỗng nhận ra ngọn núi lửa đứng cô lập trong lòng đất này có vẻ gì không ổn lắm, nói đúng hơn, nó căn bản không phải núi lửa.

Hồi thứ chín

TẦNG THỪA ÁP

Hải ngọng cuống cả lên, lo không biết có phải Tư Mã Khôi đang nói nhảm? Ngọn núi lửa này rõ ràng trông như cái ống khói, có hình có chất hẳn hoi, đứng sừng sững trong tòa thành cổ dưới lòng đất, sao vô duyên vô cớ lại nói nó không phải núi lửa?

Tư Mã Khôi phát hiện thấy tình hình không hẳn như vậy. Nếu chỉ nhìn hình thù thì ngọn núi cao lừng lững tựa ống khói kia, đúng là từ ngoài vào trong đều giống hệt núi lửa, nhưng bên trong lại không có vật chất trầm tích chứa lưu huỳnh, chẳng lẽ núi lửa này đã tắt từ hàng trăm triệu năm trước, nên vật trầm tích đó đã sớm phân giải và biến mất? Nhưng chấn động và âm hưởng kì lạ vẫn âm ỉ truyền đến từ phía dưới chân họ, chứng tỏ rõ ràng nơi sâu trong mạch núi vẫn ẩn chứa một nguồn năng lượng khổng lồ đang sôi sục không ngừng, vì không khí không có mùi lưu huỳnh, cho nên nguồn năng lượng phía dưới chắc chắn không phải dòng dung nham. Sau khi xác di vật kỷ Devon bị hòa tan hoàn toàn, axít đậm đặc vẫn tiếp tục thẩm thấu xuống tầng đáy động huyệt. Căn cứ vào các hiện tượng xung quanh, có thể phán đoán: núi lửa bấy lâu nay chìm trong giấc ngủ đang sắp sửa phun trào, còn vì sao núi lửa này không phải núi lửa, rốt cuộc nó sẽ phun ra thứ đáng sợ gì, thì Tư Mã Khôi hoàn toàn không thể đoán được.

Trình độ lý giải cấu tạo địa chất của Thắng Hương Lân vượt xa hai người bạn đồng hành, cô biết, huyệt núi lửa không có dung nham nóng chảy, được gọi là núi lửa bùn, thường gọi là “nồi áp suất”, nó chính là sự tồn tai nguy hiểm nhất trong động huyệt dưới lòng đất, một khi đã phát nổ hoặc phóng thích năng lượng, thì hậu quả thật khôn lường. Ban đầu, đoàn chuyên gia Liên Xô phụ trách khoan đào kính viễn vọng Lopnor cũng rất khiếp đảm “cái nồi áp suất” dưới lòng đất này, nhưng họ cũng bó tay hết cách, đành cầu nguyện cho nó tiếp tục chìm trong giấc ngủ dài, vĩnh viễn đừng thức dậy.

Vì áp lực và nước ngầm xuất hiện trong không động dưới cực vực phần lớn đều tập trung và truyền dẫn xuống tầng sâu, rồi bị gia tăng áp lực và nhiệt độ ở các khe nứt của lóp vỏ và quyển manti, nên dường như mỗi giọt nước đều thẩm thấu xuống khoảng cách sâu hàng ngàn mét, thêm vào đó lại chịu sự dồn nén của trọng lực, nung luyện hàng trăm năm trong lò lửa mạnh, mới chuyển hóa thành vật chất thể khí tuần hoàn bay lên và trở thành khối mây quân tụ lưng chừng không gian của cực vực. Quá trình này diễn ra sục sôi kịch liệt, quỷ khốc thần sầu, uy lực và sức phá hoại do nó sản sinh thật khó gì sánh nổi.

Ngọn núi trong thành cổ chính là “nồi áp suất” hình thành từ hàng triệu năm trước, những nơi tương tự thế này có lẽ tồn tại rất nhiều ở nơi sâu dưới cực vực. Hiện giờ, kết cấu địa tầng lại bị phá vỡ, chấn động dưới chân mỗi lúc càng dữ dội, rõ ràng dòng nhiệt trong mạch đất bắt đầu giãn nở. Do cánh cửa đá khổng lồ phá hủy vách núi, nên tòa cổ thành phía ngoài ngọn núi chỉ trong nháy mắt nữa thôi sẽ bị bùn đá chôn vùi. Nếu đội khảo cổ không mọc thêm đôi cánh, thì chắc chắn chỉ còn nước chết.

Ba người đứng trong đường hầm trước cánh cửa đá khổng lồ, soi đèn quặng khắp bốn phía, định tìm một nơi ẩn náu tạm thời, nhưng động huyệt trong lòng núi bị vây kín chẳng khác nào cái thùng tôn, trèo lên miệng núi ở trên cao cũng chỉ có con đường chết. Lúc này, đáy động huyệt bỗng nhiên nứt vỡ sụt lở, dòng bùn đất vô cùng vô tận bắt đầu phun trào từ dưới lên, phần xác còn sót lại của di vật kỷ Devon và cả thứ vật chất mịt mù bên trong cơ thể nó, đều biến thành một hốc xoáy như động huyệt không đáy đen ngòm, rồi bị dòng bùn đất phun trào nhấn chìm ngay sau đó. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Trong lòng núi lửa, ngoại trừ lượng lớn thực vật dạng nấm ra, còn có rất nhiều loại vi sinh vật nhỏ bé đến nỗi không thể phát hiện bằng mắt thường. Chúng có thể chịu đựng nhiệt độ cao, địa nhiệt và axít cực mạnh, thậm chí ngay cả khi nhiệt độ lên cao đến 100°C, chúng vẫn có thể tồn tại như thường. Môi trường tàn khốc ở đây rất giống với điều kiện môi trường khi các sinh mệnh bắt đầu ra đời cách đây 3 tỉ 700 triệu năm; ngoài ra, những vi sinh vật này còn biến đổi theo dòng địa nhiệt, thể hiện các màu sắc khác nhau như vàng, cam, đỏ, nâu v.v… rực rỡ chói lòa như luồng cực quang, khiến cả không gian tối om trong lòng núi lửa bỗng chốc bừng sáng như ban ngày.

Hội Tư Mã Khôi nhân cơ hội này nhìn rõ mọi cảnh vật xung quanh, một cảm giác hãi hùng xâm chiếm khó nói thành lời. Cái tủ thịt kia đúng là vô cùng đáng sợ, dẫu thể xác đã chết hẳn, nhưng thứ vật chất mịt mù trong cơ thể nó vẫn có thể nuốt chửng không gian. Vậy mà, chỉ trong chớp mắt, nó đã bị dòng bùn đất ngấu nghiến nhấn chìm, không thể xác định nó sẽ bị đưa đến nơi nào, từ nay về sau dưới lòng đất lại có thêm một không gian đầy rẫy những “vô”, trong dòng chảy cuồn cuộn không bao giờ cạn kiệt của bùn đất nằm sâu dưới quyển manti. Sự tồn tại của nó hoàn toàn bị hỗn độn bỏ qua, có thể cuối cùng nó sẽ lưu lạc rồi trở thành vong hồn vĩnh viễn nằm co ro giữa dòng dung nham. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Ba người vẫn chưa kịp hồi phục sau nỗi kinh hoàng, thì dòng bùn đá đục ngầu cuồn cuộn chảy đã ào ào xô đến. Tư Mã Khôi bị bức đến bước đường cùng, nhìn quanh thấy gần đó có chín cái đỉnh đồng Vũ Vương, lòng sâu, chân cao, lại được luyện bằng vẫn thạch sắt, có thể chịu được sự thiêu đốt của nhiệt độ cao. Anh không còn tính toán gì nữa, mà gọi Hải ngọng và Thắng Hương Lân cùng tung người nhảy vào lòng đỉnh đồng, vẫn chưa kịp đứng vững, thì dòng bùn đất nóng bỏng đã chảy đến gần với sức mạnh như đổ sông dốc bể, đẩy mạnh mấy cái đỉnh bằng đồng xanh lao về phía trước, chỉ nghe bên tai vang lên “rầm” một tiếng dữ dội, cánh cửa đá khổng lồ liền bật mở.

Mọi người nghiêng ngả chao đảo trong lòng đỉnh, người nào cũng ngã dúi dụi, lục phủ ngũ tạng đảo lộn hết, thần trí u u mê mê, nhưng vẫn cố gắng bám chặt lấy tai đỉnh, chỉ sợ mình bị hất văng ra ngoài.

Khoảng hai phút trôi qua, cùng với tiếng thét gào ầm ĩ, mọi người lại nghe thấy có tiếng nổ kinh thiên động địa, sau đó hai tai ù đặc, không nghe thấy bất kì âm thanh gì nữa. Thì ra lượng lớn bùn đất phun trào lúc đầu, chỉ là vật chất trầm tích ở tầng đáy núi lửa, nhiệt độ vẫn chưa cao lắm, còn tiếng nổ vang lên sau đó là sự phun nổ của hơi nén trong “nồi áp suất”, ba người liều mạng thò đầu ra nghiêng ngó, thì thấy trên đỉnh núi lửa xuất hiện đám mây hình nấm, bụi tro trông trắng xóa, nó vọt cao đến hơn hai trăm mét, bên trong toàn là vầng quang dạng sương nóng bỏng.

Khuôn mặt mọi người bị ánh sáng quái dị phàn chiếu, trông sắc mặt ai cũng trắng toát như người chết, Lúc này luồng gió nóng thổi bỏng rát, cảnh vật ở tầm xa trở nên mờ mịt. Thắng Hương Lân biết rõ điểm lợi hại của nó, dòng nhiệt lưu có thể biến mọi sinh vật trong cõi đời này trở thành tro bụi, cô vội ra hiệu cho Tư Mã Khôi và Hải ngọng không được nhìn vào đám mây hình nấm trên đỉnh núi, tránh cho võng mạc khỏi bị đốt cháy. Ba người không dám nhìn nữa, tất cả cúi đầu, co người nằm tròn trong đỉnh đồng, mặc cho dòng bùn đá tuôn chảy sôi sục cuốn trôi bập bềnh.

Lòng đất xảy ra sự vận động dãn nở quy mô lớn, lúc đám mây hình nấm tỏa quang sương xuất hiện, cũng là lúc rất nhiều mạch nước ngầm đang sôi sục dưới lòng đất bị cuốn lên cao, giống như dòng thác treo ngược, rồi nó từ không trung dội xuống xối xả vào người vào mặt. Liên sau đó, một lượng bùn đất nhiều không kể xiết trộn lẫn vào nhau từ động huyệt phun trào ầm ầm ra ngoài. Lòng núi của “nồi áp suất” bắt đầu rạn vỡ, cả tòa thành cổ dưới lòng đất lập tức lún vào dòng chảy cuồn cuộn, rồi vô số tảng đá bị nhiệt độ cao làm tan chảy, trôi nổi nhào lộn men theo sườn núi. Lớp vỏ phía trên cực vực chịu tác động của khí áp, cũng sụt lở từng tảng lớn, ầm ầm từ trên cao rơi xuống dưới, cảnh tượng vô cùng kinh hãi.

Tư Mã Khôi trốn trong lòng đỉnh đồng, thầm nghĩ: may nhờ Thắng Hương Lân phát hiện ra sự vận động khác thường của “nồi áp suất”, nếu mọi người cứ thế liều mạng trốn ra ngoài thành cổ, thì lúc này đã bị dòng bùn đất chôn sống thành tượng người tuẫn táng rồi. Thế nhưng cái đỉnh đồng này cũng có thể bị nhấn chìm lộn xuống bất cứ lúc nào trong dòng bùn đất bỏng giãy, mà lại càng không biết nó sẽ đưa đẩy mình đến nơi nào, có điều việc đã đến cơ sự này, thì cũng đành nhắm mắt nghe theo sự định đoạt của số phận.

Đúng lúc tinh thần mọi người đang hốt hoảng bất định, thì cái đỉnh đồng đột nhiên đâm rầm một cái vào đâu đó, ba người đặt hết kì vọng vào chiếc đỉnh, lấy nó làm chỗ dung thân, nên vội đeo kính chắn gió thò người ra quan sát, chỉ thấy trong dòng nước bùn cuồn cuộn sôi sục, thò ra một cánh tay rất lớn, dường như là cánh tay của bức tượng đồng đang nắm chặt con rắn dựng ở cánh cửa đá lúc trước, có lẽ nó cũng bị dòng bùn đất cuốn trôi đến đây, rồi đâm vào đỉnh đồng khiến thân đỉnh rạn ra vài đường khá lớn.

Ba người chết lặng, nói như lời của Hải ngọng thì lúc này đúng là muốn khóc mà không tìm đâu ra điệu kèn đám ma. Cũng đúng khi ấy, một khối đá khổng lồ đen sì sì bỗng đâu hiện ra ngay trước mặt, đỉnh đồng bị dòng nước bùn nóng bỏng sôi sục đẩy về gần nó, rồi thân đỉnh từ từ chìm xuống. Tư Mã Khôi nhanh chân trèo vội lên tảng đá, rồi đưa tay xuống kéo hai người còn lại. Nhiệt độ của đá mắc ma tăng vùn vụt, tuy ba người đã đeo găng tay nhưng vẫn cảm thấy nóng bỏng không chịu nổi, hơi thở hổn hển, ngắt quãng, dòng nhiệt lưu sôi sục buộc họ phải không ngừng trèo lên chỗ cao hơn, vừa trèo vừa run; khối đá này cao không thể lường, có bảo nó là trái núi thì cũng không ngoa. Khi đội khảo cổ đến bồn địa Turpan lúc trước, nó đâu tồn tại ở đây, bây giờ tựa hồ như vừa mới đột nhiên mọc ra vậy.

Thắng Hương Lân thấy mặt đá màu đen này lỗ chỗ đầy lỗ khí, thì biết nó là đá Peridotit huyền vũ, một loại đá mắc ma hạt thô, gồm chủ yếu là các khoáng vật Olivin và Pyroxen. Trong cực vực không có loại đá này, cô đoán nó vừa bị rơi xuống khi lớp vỏ Trái đất sụp vỡ, kết cấu đá huyền vũ rất tinh tế, nhưng lại xốp giòn, dễ bị nứt vỡ sụt lún, bởi vậy không thể lưu lại đây lâu.

Ba người không màng đến cảm giác đau đớn do bị bỏng lửa, vẫn cắn răng bò lên tảng đá dốc nghiêng ba bốn mươi độ, điểm tận cùng của khối đá cao khoảng mấy trăm mét là một dải nứt gãy của phần đáy lớp vỏ Trái đất, có vô số vết nhăn gấp nếp như hàng ngàn tầng bánh; sự vận động giãn nở ở nơi sâu trong lòng đất khiến không động dưới cực vực được nâng đội lên cao với biên độ rất lớn. Những mảng đá nứt gãy phía sau lưng không ngừng sụt xuống, khiến mọi người không dám dừng chân phút nào, tiếp tục bò về phía trước theo mạch đất nứt gãy. Cả ba vừa đi vừa ngã dúi dụi, gắng di chuyển đến lòng chảo mặt đất tương đối bằng phẳng, rồi cuối cùng họ cũng không còn cảm nhận thấy dòng nhiệt lưu truyền lên từ dưới vực sâu nữa.

Ba người nằm vật ra đất, tứ chi bải hoải, không chỗ nào là không đau nhức. Tinh thần và thể lực đều vượt quá sự chịu đựng, sức cùng lực kiệt, họ không thốt được lời nào; mặc kệ những vết thương la liệt khắp người, họ nằm thở hổn hển, đầu óc trống rỗng.

Tư Mã Khôi nằm sõng soài hồi lâu, cảm thấy đầu đau như muốn vỡ tung, nhưng ý thức hỗn loạn cũng dần dần tập trung và sáng tỏ, anh nghe âm thanh chấn động của những mảng đá đang tiếp tục sụt lún vẫn ầm ĩ bên tai, trước khi bò hẳn ra khỏi vực sâu như địa ngục này, thì chưa thể nói đến hai chữ “an toàn” được.

Thắng Hương Lân cũng cho rằng, mọi người vẫn còn ở trong tầng đáy của lớp vỏ, không chừng sẽ còn xảy ra biến cố gì cũng nên, cô liền giúp Tư Mã Khôi và Hải ngọng xử lý qua loa các vết thương, rồi định đứng dậy đi tiếp.

Nhưng Hải ngọng lại nằm vật ra đất, nhắm chặt mắt, không muốn động đậy gì nữa, anh nghĩ đến hội đội trưởng Lưu Giang Hà vĩnh viễn không thể ra khỏi nơi này, lòng vô cùng buồn bã, mọi suy nghĩ đều nguội lạnh đến tận cùng, anh dứt khoát nói với hai người còn lại: “Các cậu cứ “bòm” tớ một phát cho xong, Hải ngọng tớ không thể chịu đựng sự giày vò của tội lỗi này thêm nữa đâu, huống hồ ba người còn sót lại trong đội khảo cổ chúng ta có sống trở về cũng còn mặt mũi nào mà gặp gỡ mọi người; nếu lại phải vào xưởng gạch ngói viết báo cáo, chui xuống hầm lò… hay nuôi lợn trên tàu hỏa thay cho đồng bào Hồng Kông, chi bằng chết quách ở đây cho xong, may ra còn bon chen được tí đãi ngộ liệt sĩ cách mạng…”

Thắng Hương Lân chẳng ngờ vào lúc thời khắc sinh tử thế này, Hải ngọng tự dưng lại nảy nòi ra suy nghĩ đó, cô đâu thể mặc kệ anh, liền khuyên nhủ mấy câu, nhưng đối phương có vẻ không buồn nghe.

Tư Mã Khôi biết Hải ngọng mà đã lên cơn dở hơi thì nói lý lẽ kiểu gì cũng chỉ vô dụng, liền bảo: “Tiên sư Hải ngọng! Cậu nằm đó giả chết làm cái mẹ gì, nếu bận này mà may mắn sống sót trở về được, thì ông Khôi sẽ đãi các cậu mấy món ngon trong nhà hàng tử tế”.

Hải ngọng nghe xong, không nhịn được liền mở to mắt hỏi: “Món gì… trong nhà hàng hả?”

Tư Mã Khôi nói: “Mấy năm trước, chúng ta chiến đấu ở vùng núi Miến Điện, lúc về lại phải chui vào trại gạch ngói cải tạo tư tưởng, sau đó thì theo chân đội khảo cổ hành quân đến sa mạc Lopnor, nên không biết bao lâu rồi tớ và cậu chưa được ăn một bữa cho ra hồn. Nếu bây giờ mà cậu toi mạng ở đây thì lỗ quá, tớ thấy sau khi bọn mình thoát ra khỏi chỗ này, kiểu gì cũng phải đến miếu Ngũ Tạng thắp hương một cái, rồi sau đó sẽ vào quán, vào đó đừng có gọi mấy món rau dưa lằng nhằng làm chó gì, cứ bảo bọn phục vụ mang hơn chục cân thịt bò hảo hạng lên đây cho các ông đánh chén, có bao nhiêu rượu thì mang cả ra…”

Hải ngọng nói chen vào: “Cậu quên đi! Quán ăn bây giờ quanh năm suốt tháng cũng chỉ phục vụ có mấy món thôi, còn định gọi những món cao lương mỹ vị gì nữa hả? Vả lại, cậu mà ăn nói kiểu đấy với bọn phục vụ, thì bọn nó có mà vả cho cậu rơi răng. Đầu tiên, cậu phải dạo trước câu ‘đổi đời không quên Đảng Cộng Sản, ăn thịt cảm tạ Mao Trạch Đông’, sau đó mới được đề cập đến chuyện ăn uống, riêng việc này tớ sành sỏi hơn cậu nhiều”. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tuy nói thì nói vậy, nhưng con người khi bị rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng, thì thứ họ cần nhất chính là niềm hi vọng, dẫu cho đó là cảm giác đói khát để níu kéo bản năng sinh tồn. Vậy nên đối với Hải ngọng mà nói, hi vọng thực tế duy nhất chính là được vào quán ăn đánh chén một bữa thả cửa, thế là tinh thần anh chàng hăng hái hẳn lên, ngồi bật dậy, cùng hội Tư Mã Khôi tiếp tục đi vào nơi sâu trong dải đứt gãy địa tầng.

Các số liệu thám trắc mà đoàn chuyên gia Liên Xô để lại thể hiện rõ, thành phần chủ yếu của kết cấu lớp vỏ bên dưới sa mạc Lopnor, là đá mắc ma huyền vũ, độ dày trung bình của nó chừng 8000 mét, lòng chảo mặt đất và các dải đứt gãy đoạn tầng giữa các mảng đá đan xen giao thoa lẫn nhau, nó còn phức tạp hơn cả kết cấu huyết quản của cơ thể con người. Trong môi trường hoàn toàn khép kín, nó từng bước hợp lại, rồi lại phân tách, tiến hóa trải qua quá trình suốt ba tỷ năm, dần dần hình thành diện mạo như ngày nay. Vì lòng đất xảy ra sự vận động giãn nở, nâng cao với quy mô lớn, nên mạch kết cấu của nó mới bị lộ ra ngoài.

Hội Tư Mã Khôi đều có kinh nghiệm thám hiểm hang động, di chuyển từ nơi sâu lên mặt đất dễ hơn khi xuống rất nhiều, bởi vì không phải tìm mục tiêu cụ thể, chỉ cần không xác định nhầm phương vị là ổn; thêm vào đó, chỉ cần phải tránh các khu vực sụt lở, men theo các dấu vết bị nước bào mòn trong các khe đá nứt, như vậy chắc chắn sẽ không bị lạc đường.

Ba người cẩn thận phân biệt kết cấu địa tầng ở gần đó, rồi mò mẫm tìm đường, đi dần lên trên. Cứ như vậy liên tiếp mười mấy ngày, lương thực và nước uống đã hết từ lâu, cả hội chỉ biết bắt mấy con rắn trắng trong khe đá nướng ăn, mọi gian nan vất vả không cần kể chi tiết, cuối cùng họ cũng bò lên được mặt đất từ khe nứt trong lòng chảo một con sông khô cạn. Lúc đó, trời đã tối mịt, trước mắt chỉ thấy đại dương cát mênh mông và bầu không khí ngập tràn sự hoang lương, lặng ngắt, không khác tình hình ở dưới cực vực trong lòng đất là mấy.

Chẳng bao lâu, sắc trời bắt đầu chuyển dần sang màu trắng như bụng cá, gió cuốn cát bay thành luồng, cả không gian nhuốm màu vàng kim, xung quanh nhấp nhô vô số gò đất và tháp đá, chúng đứng sừng sững và tản mát giữa trời xanh, cát vàng. Người Tây Vực cổ lập nước trong suốt quãng thời gian ba mươi sáu năm, có cả thảy bảy mươi hai tòa thành trì lớn nhỏ, hầu hết đều bị cát vàng chôn vùi, bây giờ chỉ lác đác một vài cổ quốc được phát hiện và khảo chứng lai lịch, bởi vậy đội khảo cổ không biết miền sa mạc thần bí và quái dị mà họ đang đứng rốt cuộc là nơi nào.

Mặt mày cả ba người đen nhọ nhem, thân mình lâm lem khói lửa, bùn đất, vết máu, hai mắt đỏ lòm như thế sắp bốc khói; ở dưới lòng đất không ai chú ý đến điều này, giờ ra ngoài ánh sáng mặt trời nhìn mới thấy sao người nào trông cũng giống quỷ vậy? Chẳng ai nghĩ mình còn có thể sống sót đến ngày lại được trông thấy bầu trời, nên vô số cảm xúc bất giác đan xen lẫn nhau. Thế nhưng chưa kịp nói câu gì, thì Hương Lân bỗng nhiên ngã vật ra giữa sa mạc, hai người đứng bên vội vàng đỡ cô dậy, họ thấy sắc mặt cô tái xanh, miệng thổ toàn máu đen. Tư Mã Khôi thấy lạnh cả người: “Suốt dọc đường liên tiếp xảy ra bao nhiêu biến cố hãi hùng, đúng là thập tử nhất sinh, nên tự dưng quên bẵng mất chuyện “hội chứng địa áp”. Bây giờ thì kẻ đoạt mạng đã gõ cửa tìm đến nơi rồi”.

Các thành viên đội khảo cổ tiến vào sa mac Lopnor trên cơ thể người nào cũng nổi mạch máu xanh lè vì chịu ảnh hưởng của địa áp, nếu trong tình trạng chưa được giảm áp mà quay trở về mặt đất, thì huyết quản sẽ bị nổ vỡ đẫn đến tử vong, nhưng vì sao trong ba thành viên sống sót đào thoát khỏi lòng đất, chỉ mình Thắng Hương Lân xảy ra chuyện?

Thực ra, kết cấu địa chất của đá huyền vũ nằm sâu dưới lớp vỏ Trái đất thuộc tầng thừa áp, nói cách khác, nó là một khoang giảm áp tự nhiên, điều này có liên quan đến các lỗ khí phân bố chi chít trên bề mặt đá. Thời xưa, tộc người thờ rắn Tochari đã lợi dụng mạch khoáng đá huyền vũ để rời khỏi vực sâu, nhưng đương nhiên những ẩn tình này các thành viên đội khảo cổ hoàn toàn không hề hay biết.

Tư Mã Khôi thấy Thắng Hương Lân nôn ra ngụm máu đen, cô tựa hồ bị trúng độc do không chịu được sức nóng dưới lòng đất, khí độc tích tụ ở phổi, chỉ cần nôn được ra là không có gì đáng ngại. Thế nhưng trong sa mạc không có thuốc men và điều kiện tĩnh để chăm sóc, thì chưa chắc cô đã bảo toàn được tính mạng. Tư Mã Khôi không dám chậm trễ, liền tháo tung khẩu súng xung phong PPS ra, ngay cả đạn dược cũng vùi trong cát, chỉ giữ lại la bàn để xác định phương hướng. Anh và Hải ngọng thay nhau cõng Hương Lân đi bộ trong biển cát.

Đi khoảng ba đến năm dặm, thì họ thấy bão cát bắt đầu nổi lên phía sau lưng, rồi dấu chân và ký hiệu dọc đường sắp bị dòng cát khỏa lấp. Hải ngọng hoang mang hỏi Tư Mã Khôi: “Đi đến bao lâu nữa mới đến trạm tiếp theo hả cậu?”. Tư Mã Khôi cúi đầu nhìn la bàn, trong điều kiện khắc nghiệt và gió cát vần vũ thế này, anh cũng không dám chắc kim la bàn còn tiếp tục chỉ hướng bắc nữa hay không. Nếu như ba thành viên sống sót của đội khảo cổ không thể thoát ra khỏi đây, thì họ cũng sẽ trở thành ba bộ xác khô vùi trong sa mạc; mà dẫu có thoát ra được, thì họ vẫn không thể rũ bỏ vòng tuần hoàn chết của số mệnh, bởi vì muốn giải phá vòng tròn khép kín đó, thì phải đi tìm quái nhân khắc trong bức bích họa dưới lòng đất, kẻ… mọc đôi sừng thịt trên đầu.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro