CHƯƠNG 2 - NÚI THẦN NÔNG GIÁ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi thứ nhất

CHUYẾN TÀU ĐƯỜNG DÀI

Ba kẻ may mắn sống sót của đội khảo cổ đi bộ trong sa mạc ròng rã suốt một ngày đường, cuối cùng cũng gặp được đoàn văn công Ô Lan Mục Kì(1). Sau khi hỏi thăm, mới biết nơi này là rìa đông bắc sa mạc Kumtag, cách núi Bạch Sơn không còn bao xa. Khu vực nằm giữa sa mạc và núi Bạch Sơn là vùng thảo nguyên hoang vu, vắng bóng người, phần lớn dân du mục trong đội sản xuất ở đồng cỏ gần đó đều là người Mông cổ.

[1] Ô Lan Mục Kì: tiếng Mông cổ có nghĩa là “mầm non màu đỏ”, ý để chỉ đội công tác văn hóa mặc sắc phục màu đỏ. Đó là đội văn công lưu động được thành lập năm 1957, hoạt động sôi ni khắp khu vực thảo nguyên Mông cổ.

Hải ngọng hơi ngỡ ngàng. Anh không ngờ vừa từ lòng đất chui lên, đã đến thảo nguyên bao la của Nội Mông. Quãng đường này ngoằn ngoèo nhấp nhô, hành trình đâu chỉ vài dặm, nếu không sao có thể gọi là Ô Lan Mục Kì?

Tư Mã Khôi thì biết phía tây Tân Cương kéo dài đến tận bồn địa Tarim, phía đông kéo dài đến ven sa mạc Kumtag, chỗ nào có thảo nguyên, nơi ấy sẽ là vùng đất cư trú của dân tộc Mông cổ. Năm đó, sau khi thoát khỏi ách thống trị của sa hoàng Nga, lực lượng Torghut từ Liên Xô cũ ở lưu vực sông Volga trở về Trung Quốc, hoàng đế Càn Long triều Thanh ban bố ngự chỉ, lệnh chia khu vực này thành bốn lộ: đông, tây, nam, bắc, tất thảy mười kì, dân du mục định cư ở bồn địa Yourdusi, núi Ưng Sa, núi Bạch Sơn v.v… bởi vậy hầu hết dân du mục ở phía tây nam Tân Cương đều là người Mông cổ; còn đoàn ô Lan Mục Kì qua đường là đội văn công lưu động tuyên truyền ở giữa những khu vực này. Bây giờ gặp được họ, coi như đội khảo cổ đã lượm được cái mạng từ tay thần chết.

Tư Mã Khôi không dám nói rằng ba người họ là đội khảo cổ vừa mới rời khỏi kính viễn vọng Lopnor, mà chỉ nói là phân đội trắc họa, được cử đến sa mạc để chấp hành nhiệm vụ thám trắc. Thẻ công tác mà Thắng Hương Lân mang theo trên người, tạm thời giúp cả hội chứng minh được mình đúng là nhân viên đội trắc họa. Họ nói dối rằng, sau khi máy điện đàm bị hỏng, cả đội lại gặp bão cát nên lạc đường, mọi người đã đi bộ trong sa mạc suốt mười mấy ngày trời.

Đoàn văn công Ô Lan Mục Kì thấy Tư Mã Khôi có vẻ nói thật lòng, lại trông thấy một thành viên bị thương cần cấp cứu gấp, nên mọi người không ai hoài nghi gì cả, lập tức dắt ngựa đến rồi dẫn ba người vào nông trường cỏ gần đó, nhờ dân du mục bản địa chăm sóc.

Trong vòng mấy chục dặm vuông quanh đây, chỉ có hai túp lều của người Mông cổ. Người dân Mông cổ từ xưa đã nổi tiếng thuần hậu, biết hội Tư Mã Khôi là phân đội trắc họa gặp nạn, họ liền nhiệt tình giúp đỡ.

Tư Mã Khôi thấy tình hình sức khỏe của Thắng Hương Lân dần diễn biến theo chiều hướng ổn định, anh liền mượn dân du mục bộ trang phục chỉnh tề, thay quần áo xong liền vào huyện thành cách đó chừng trăm dặm, đánh một bức điện báo cho lão Lưu Hoại Thủy ở tận Bắc Kinh, bảo lão mau chóng đến Tân Cương tiếp ứng, đồng thời dặn dò lão tuyệt đối không được huênh hoang chuyện này với bất kì ai, sau này hội anh nhất định không quên ơn lão.

Bố của Thắng Hương Lân, là giáo sư Thắng Thiên Viễn, từng là ân nhân cứu mạng của lão Lưu Hoại Thủy, nên sau khi nhận được tin, lão vội vã thu xếp chạy đến tiếp ứng, rồi chuẩn bị đưa cả hội đến gần địa phận Cam Túc, đáp chuyến xe lửa đường dài trở về Bắc Kinh.

Tư Mã Khôi muốn mang chiếc đồng hồ vàng của Pháp, mà cả hội tìm thấy trước cửa Hắc Môn ở Lâu Lan, tặng cho những người dân du mục Mông cổ để thể hiện lòng cảm ơn, nào ngờ họ một mực chối từ, anh đành lặng lẽ đặt vào trong tay nải của họ lúc sắp rời đi. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Thời kì ở khu Hắc Ốc, ăn cơm đường sắt trường kì, Tư Mã Khôi vô cùng thông thuộc chế độ của bộ phận đường sắt, ngẫm thấy vết thương trên mình mọi người vẫn chưa lành hẳn, chắc không chịu được nỗi khổ rung lắc suốt chặng đường dài, mà nếu còn phải ngồi ghế cứng hay phải đứng nữa, thì chuyến tàu về này chắc nuốt không trôi. Thế là anh lấy thư giới thiệu và thẻ công tác của giáo sư Tống Tuyển Nông ra, sửa trộm tí chút, rồi mang ra nhà ga mua liền bốn tấm vé nằm giường mềm.

Lão Lưu Hoại Thủy trố mắt ngạc nhiên, phải biết toa giường nằm đâu phải chỉ cần giơ đầu ra là tùy tiện ngồi được, người thường dẫu có tiền cũng không mua nổi ấy chứ, theo quy định chỉ có cán bộ cấp cao từ bậc 13 trở lên mới đủ tư cách đi toa giường mềm, mà giá vé cũng cao gấp đôi so với toa giường cứng. Trước đây, lão Lưu Hoại Thủy thường đáp tàu hỏa đi lại đây đó, nhưng chưa bao giờ biết toa giường mềm trông ra sao, bây giờ được vào, thấy đúng là khác xa một trờỉ một vực, ngay cả rèm cửa sổ cũng thêu hoa tinh tế, tấm thảm trắng tinh, không bám một hạt bụi, suất ăn riêng biệt cũng ngon hơn rất nhiềum cảm giác đúng là mở rộng tầm mắt.

Lão Lưu Hoại Thủy vốn đầy bụng chuyện muốn hỏi, ngặt nỗi lúc ở khu du mục lại không dám mở miệng, nên khi cánh cửa toa tàu vừa mới khép, lão đã lân la tìm cơ hội. Nhân lúc Hải ngọng chạy sang toa ăn, lão đột nhiên giơ ngón tay cái lên nịnh Tư Mã Khôi: “Quả không hổ danh là Bát Lão Gia, nếu là người khác thì chưa chắc đã trở về nổi”. Lão dạo đầu bằng một màn nịnh hót, nói: “Cái món “bọ cạp đảo đầu leo tường’ thời xưa còn gọi là ‘Bích Long công’. Khi Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dần còn tại vị, trong thành Biện Lương(2) có vị quan quân lừng danh, hành tung xuất quỷ nhập thần, võ công cao cường. Ông ta đặc biệt rất giỏi các món khinh công như phi đảm tẩu bích(3), chân đeo ủng da, bất kể tường cao hào sâu thế nào, cũng chao người vượt qua, nhẹ nhàng như én lượn.

[2] Biện Lương: là tên gọi cũ của thành phố Khai Phong, thuộc tỉnh Hà Nam.

[3] Phi đảm tẩu bích: có nghĩa là vượt rào trèo tường.

Một đêm, khi Thái tổ đang quan sát khí tượng trong cung, bỗng nhiên ngài trông thấy vật gì tựa cánh chim liệng khẽ vào cung. Sang ngày hôm sau, chiếc gối khảm vàng của công chúa Đan Dương bỗng dưng không cánh mà bay. Thái Tổ tra hỏi, mới biết trong đội quân của thành Biện Lương có một dị nhân, chui ngách vượt tường dễ dàng như trở bàn tay, còn có thể men theo trụ phật trong đại điện bò lên tận đỉnh mái nhà, lầu các có độ cao trăm thước chẳng khó khăn gì với hắn. Tất cả bảo vật trong nội phủ bị mất cắp, chắc chắn là do người này lấy trộm. Khổ nỗi, từ trước đến giờ không tìm được chứng cớ xác thực nên không có cách gì trị tội tên đạo tặc. Hoàng đế Thái Tổ nghe tấu, cảm thấy kinh ngạc khôn xiết, liền truyền thánh chỉ, lệnh cho người này tuyệt đối không được lưu lại trong kinh thành, phải điều hắn xung quân đến vùng biên ải. Nào ngờ, đội cấm quân chưa kịp đến vây bắt, thì không biết người đó đã sớm biến mất tăm mất dạng từ bao giờ”.

Lão Lưu Hoại Thủy còn tung hô Tư Mã Khôi không chỉ học được chân truyền công phu “tháo ủng ngược Bích Long”, mà còn thông hiểu cổ thuật tướng vật, không những gốc gác tốt, mà đảm khí thao lược cũng phi phàm, khí dũng đều hơn người, xem tướng mạng lại thuộc mệnh thổ, có khi là chuyển thế đầu thai của Bạch ngũ gia Cẩm mao thử Bạch Ngọc Đường thời Bắc Tống cũng nên, sau này tiền đồ còn rộng mở, có thể an bang trị quốc nữa. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi hiểu ra ý đồ của lão Lưu Hoại Thủy, liền chặn màn nịnh hót đang chảy thao thao bất tuyệt, anh đi thẳng vào tình hình thực tế, kể lại chuyện đội khảo cổ tiến vào sa mạc Lopnor lần này, chẳng ngờ vẫn còn giữ được mạng sống trở về, không những không chết mà còn phải xoay vần đến cùng với tổ chức Nấm mồ xanh. Bởi vậy, ba thành viên sống sót buộc phải mai danh ấn tính, mọi hành động sau này đều phải tiến hành một cách bí mật, tuyệt đối không được hé lộ bất kì tin tức nào, nếu không sẽ không thể đảm bảo an toàn. Bởi vậy, phải coi như tất cả thành viên của đội khảo cổ đều đã chết mất xác dưới lòng đất.

Lão Lưu Hoại Thủy sớm thấy Tư Mã Khôi sẽ dự tính làm vậy, nên cũng không bất ngờ. Chỉ có điều đáng lo là hiện giờ Thắng Hương Lân đã mắc chứng trúng độc âm hàn nhiệt, máu tụ trong phổi khó tiêu tan sạch, thường xuyên thổ huyết, liên tục sốt cao không hạ nhiệt.

Lão Lưu Hoại Thủy vẫn tưởng nhớ đến ân đức của giáo sư Thắng Thiên Viễn, dựa vào năng lực quan hệ xã hội hiện tại của lão, nếu muốn sắp xếp cho Thắng Hương Lân trốn vào đâu đó ở Bắc Kinh để trị bệnh thì không thành vấn đề. Lão còn có thể mời một số bác sĩ thân quen đến nhà chữa trị cho cô, nhưng không biết hai người Tư Mã Khôi và Hải ngọng sau này dự tính thế nào?

Đối với Tư Mã Khôi, mạng sống của anh vốn dĩ chỉ là may mắn giữ lại được, nên định chỉ cần lo liệu đâu vào đấy cho Thắng Hương Lân là trong lòng anh không còn điều gì vướng bận nữa. Đội khảo cổ đã tìm thấy thác bản Sơn Hải Đồ dưới lòng đất, và cả cuốn sổ ghi cách giải mã chữ triện cổ triều Hạ của chuyên gia tóc bạc. Tiếp sau đây đương nhiên là phải lần theo manh mối nàv để đi tìm con đường nối xuống tâm Trái đât. Có điều, làm bất kể việc gì cũng cần có sự nâng đỡ đầy đủ về mặt kinh phí. Ban đầu, Tư Mã Khôi và Hải ngọng nổi tiếng nhờ vụ bán áo da ngựa Xích Long, kiếm được bộn tiền, nhưng phần lớn số đó đã gửi về quê nhà Tuyệt cho ông nội Tô Lão Nghĩa của cô, phần còn lại thì vừa vặn đủ để mua mấy tấm vé tàu giường mềm. Lúc này, họ đúng là sạch bách không còn một xu, ngay cả nửa cắc cũng không, nên chẳng những không thể trả được món tiền mà anh hứa cho lão Lưu Hoại Thủy lúc gọi điện báo, mà bây giờ còn định mượn lão một món làm kinh phí hành động nữa kia.

Lão Lưu Hoại Thủy thoáng nghe đến chuyện vay tiền đã ra sức lắc đầu, vừa nói vừa nhăn nhó mặt mày: “Tôi làm sai dịch cho đội khảo cổ thì kiếm được bao nhiêu tiền chứ? Bát gia đừng thấy tôi thường ngày buôn bán tí chút trống bỏi mà nghĩ rằng tôi giàu, mấy năm nay toàn là nhập hàng, có bán ra được món nào đâu, tiền nằm hết vào hàng họ cả rồi. Hơn nữa, cậu xem tôi đã từng này tuổi, không thể không ghém chút bạc lẻ trong người để dành mua quan tài được”.

Tư Mã Khôi biết loại người như lão Lưu Hoại Thủy là loại giắt tiền vào tận xương sườn, lúc muốn lấy ra phải dùng kìm kéo mạnh, đòi tiền còn khó hơn đòi mạng lão. Thế là anh ngọt nhạt: “Lưu sư phụ à! Bác làm gì mà sợ rúm lại thế! Bác cứ để tôi nói hết nhời cái đã, hai gia đình chúng ta giao tình bao nhiêu đời nay, tôi nỡ lòng nào lấy không tiền của bác được?”

Hai con mắt lão đảo nhanh một vòng: “Chẳng lẽ trong tay Bát lão gia vẫn còn món hàng gia bảo nào ư?” Tư Mã Khôi nói: “Hàng họ thì chẳng có gì cả, dẫu tôi có muốn giở trò lôi ra đôi ba món hàng giả, cũng đâu qua nổi pháp nhãn của bác. Có điều, chuyến đi Lopnor lần này, tôi cũng mang về vài bức thác bản, bác cứ xem qua đi! Xem nó trị giá mấy đồng bạc….”

Có gì trên đời mà lão Lưu Hoại Thủy chưa từng xem qua. Lão nghĩ, mấy thể loại như thác bản hay bản mẫu thì có giá trị gì chứ, nên tỏ hết sức thờ ơ. Nhưng khi Tư Mã Khôi rút ra tập thác bản, vừa nhìn vào, hai con ngươi của lão Lưu Hoại Thủy liền bám riết lấy mặt giấy, không thể rời đi chỗ khác được nữa: “Đây là… Sơn Hải Đồ trên đỉnh Vũ Vương mà!”

Tư Mã Khôi gật đầu nói: “Lưu sư phụ! Mắt bác độc thật đấy! Đúng là người am hiểu hàng họ! Thế bác thử định giá xem vật này thế nào?”

Lưu Hoại Thủy ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Nếu nói về giá trị của nó thì đúng là vô giá. Xa xưa, khi hỗn độn còn hợp nhất, chưa phân trong đục, từ lúc Bàn Cô khai thiên lập địa, khí trong bay lên thành trời, khí đục chìm xuống thành đất, thiên địa lại hợp nhất, thai nghén và sinh thành ra vạn vật, sau đó trời xanh rách lìa, huyền thiết tan chảy, mới có sự tích Nữ Oa vá trời, Vũ Vương trị thủy đúc chín đỉnh đồng chia thành chín châu. Có thể nói, chín chiếc đỉnh đồng này đều là bảo vật vô giá, chỉ cần xuất thế là sẽ gây chấn động cả thiên hạ. Có điều, đại đỉnh đồng xanh không phải vật phàm tục, người thường đâu dám thu nạp vào nhà, bởi vì pháp luật nhà nước sẽ không dung tha. Huống hồ người bình thường, cho dù bản mệnh gia đình có cứng đến đâu chăng nữa, e rằng cũng không đủ sức trấn giữ được loại báu vật này trong nhà. Ngoài ra, tấm bản đồ sông núi trên đỉnh đồng của lão gia lại là thác bản chỉ cần lưu truyền ra ngoài là lập tức bị tùy ý sao chép không thể trở thành bản độc nhất được. Bởi vậy, rốt cuộc vẫn không thể coi nó là bảo vật được. Theo tôi, mấy tấm thác bản này, cùng lắm chỉ đáng giá một đồng mà thôi”. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi bừng bừng lửa giận: “Vào mồm mấy tên buôn bán trống bỏi bọn lão, thì khắp gầm trời này làm gì có thứ gì tốt. Cho dù tôi có mang cây Phong Hỏa ở Hán cung đến, thì chắc nó cũng không đắt hơn gánh than đá là bao. Thứ mấy ngàn năm chưa từng xuất hiện trong thiên hạ, mà lão chỉ trả có một đồng thôi á? Một đồng thì làm được cái chó gì? Tôi thà trừ đi năm hào, cho nốt năm hào, tặng không lão chẳng phải còn tốt hơn sao?”

Lưu Hoại Thủy hoan hỉ ra mặt, vội hỏi: “Thế thì tốt quá, lão gia nói thật không vậy?”

Tư Mã Khôi đốp lại: “Thật cái con khỉ! Tôi vốn không muốn nhượng lại cho lão. Tôi phải giữ nó lại, sau này còn có việc lớn cần dùng, bây giờ mang ra cho lão xem, cốt chỉ để lão hiểu – dưới lòng đất không chỉ có than quặng, mà còn chôn vùi vô số kì châu bảo vật vô cùng hiếm có khó tìm. Nếu lão có thể giải quyết vấn đề kinh phí giúp anh em tụi tôi, thì bận này đi kiểu gì, tôi cũng mang hàng độc về cho lão”.

Lưu Hoại Thủy động lòng. Lão cũng biết, phần lớn cổ vật đều bị chôn giấu dưới lòng đất, không phải trong mộ thì cũng ở trong hang động, nếu đi xuống càng sâu thì có càng nhiều báu vật chưa ai biết đến. Việc này không phải là giả. Chỉ có điều, lão lo hội Tư Mã Khôi không tha nổi mạng trở về, như vậy chẳng phải lão tự tay quẳng tiền của mình đi hay sao. Sự xung đột tư tưởng đã diễn ra kịch liệt, rồi cuối cùng, tâm lý đầu cơ vẫn chiếm thế thượng phong, vậy là lão Lưu Hoại Thủy nghiến răng, đồng ý với điều kiện mà Tư Mã Khôi đưa ra. Hai người lập tức thỏa thuận ngay trong toa xe lửa, còn thề bồi trang trọng trước huy hiệu Mao chủ tịch.

Lão Lưu Hoại Thủy kính cẩn cài lại chiếc huy hiệu, rồi nói: “Đây đúng là chân mệnh thiên tử, chúng ta không được giả dối nửa câu trước mặt Người, càng không được thay lòng đổi dạ đâu đấy!”. Sau đó, lão quay sang dặn dò Tư Mã Khôi: “Thời buổi bây giờ không thể so sánh với ngày xưa được, loại hàng họ kiểu đỉnh đồng xanh quả thực rất dễ gây sự chú ý, còn đồ sứ thì dễ vỡ, mang vác trên đường đã không tiện, đem về cũng không dễ giấu. Hàng tốt nhất chính là ngọc cổ, người xưa nói: ‘Ngọc bất trác bất thành khí’, nhưng đồ ngọc dưới lòng đất không phải cứ có niên đại càng xa thì càng có giá trị đâu, mà lão gia cần phải biết phân biệt kỹ mới được. Tôi có phương pháp bí truyền đây. Phàm là ngọc tốt, đều phải rắn chắc, sờ vào thấy nhẵn và ấm, cầm lên thấy đầm tay và mịn màng. Ngọc nhập thổ càng lâu thì tính chất sẽ dần dần bị thay đổi. Nếu lão gia nom thấy thân ngọc lỗ chỗ, kết cấu lỏng lẻo, thì niên đại nhập thổ của nó đại khái đã 500 năm. Nếu niên đại một ngàn năm, chất ngọc sẽ trở nên giống thạch cao, hai ngàn năm sẽ giống như xương, ba ngàn năm thì nát như bùn đá, niên đại mà lâu hơn thì không còn xuất hiện trên đời, bởi vì nó đã sớm tan thành bùn đất từ lâu rồi. Ngọc xuất hiện từ thời tam đại Hạ Thương Chu, chất lượng tuy đã mủn nát, nhưng vẫn còn giữ lại đặc tính của ngọc. Nếu là ngọc già thời Ngụy Tấn, Nam Bắc Triều, thì chất lượng vẫn chưa biến đổi, nhưng đặc tính của ngọc cũng không còn chắc chắn nữa; đôi khi xuất hiện những đồ ngọc mềm cứng lẫn lộn, thì đó chính là cổ vật trong Nam Cương, nếu ai tìm thấy một vật cổ ngàn năm có hình thù giống như khúc xương khô, đỏ au như máu…”

Lưu Hoại Thủy đang thao thao bất tuyệt thì bỗng nhiên nhớ ra mình vẫn chưa biết chuyến này Tư Mã Khôi định đến nơi nào, cũng chẳng hay nơi đó có ngọc cổ hay không.

Tư Mã Khôi đứng bên cạnh, nghe tai nọ lọt tai kia, anh cũng đang định hỏi Lưu Hoại Thủy vài chuyện, liền chỉ tay vào một vật vẽ trên thác bản Sơn Hải Đồ: “Lưu sư phụ! Lão là thổ tặc có thâm niên trong hội hối tử, chắc hẳn phải mắt thấy tai nghe vô số cổ vật, không biết lão có nhận ra vật này rốt cuộc là thứ gì không?”

Lưu Hoại Thủy đeo kính lão, nhìn chằm chằm vào tấm thác bản, rồi ngạc nhiên thốt lên: “Cổ vật phác họa trong Sơn Hải Đồ, hình như là một cỗ máy, một cỗ máy… rất to”.

Hồi thứ hai

LÃNH ĐỊA THẦN BÍ

Tư Mã Khôi biết vật thể kì lạ phác họa trên Sơn Hải Đồ có từ thời Thần Nông, và nếu nó là một “cỗ máy” thì chí ít cũng phải có lịch sử cả mấy ngàn năm. Anh thấy việc này quả là không thể lý giải bằng lý lẽ thường, liền thỉnh giáo Lưu Hoại Thủy: “Ông bác nói rõ ra xem nào. Tôi muốn nghe cụ thể sự tình”.

Lưu Hoại Thủy mím môi rồi nói: “Theo như tôi biết, vật đó quả thực có thật, nhưng niên đại cổ xưa quá, đừng nói một gã đánh trống con như tôi, mà ngay cả bây giờ, ông chủ Viễn dẫu tái thế thì cũng chưa chắc giải thích rõ ràng được. Tôi dốc hết kiến thức về hàng họ ra cũng chẳng sao, nhưng chuyện này thì chỉ là nghe người khác kể lại, không dám bảo đảm nó là thật hay giả, bởi thế, tôi nói thì lão gia cũng chỉ nghe để đấy thôi nhé!”

Tư Mã Khôi gật đầu đồng ý, cuốn sổ giải mã trong tay phần đầu ghi bản dịch chữ cồ triều Hạ, hơn nửa sau vẫn còn để trắng, anh liền tiện tay lấy bút ra ghi chép tỉ mỉ những điểm quan trọng mà Lưu Hoại Thủy kể lại.

Thì ra, tập thác bản Sơn Hải Đồ mà đội khảo cổ mang về từ lòng đất chỉ là 1/9 tấm bản đồ. Những hình vẽ thần bí này ghi chép các loại địa hình địa mạo bên dưới tầng địa biểu và lượng lớn các loại sinh vật cổ đại. Ở khu vực tiệm cận điểm tận cùng, các bức vẽ mô tả một người khổng lồ mọc sừng thịt trên đầu, phía trước bày một vật thể thần bí hình tròn như cái đĩa, nó chia ra thành nhiều tầng, trông vừa giống vừa không giống tòa tháp, nhưng rất cổ quái kì dị, vì khắp thân mình nó khắc toàn những hoa văn phức tạp và thần bí, cũng không biết là kim loại hay đất đá, tứ phía có dị thú quấn quanh, phía trên là một con quái xà nuốt núi đang quây tròn mấy vòng.

Lúc hội Tư Mã Khôi ở trong thành cổ dưới lòng đất cũng nhìn thấy bức bích họa tương tự như vậy. Căn cứ vào bản giải mã chữ triện cổ triều Hạ, họ biết được, hình người mọc sừng trên đầu chính là thị tộc Thần Nông thời thượng cổ, còn vật thể hình cầu có tên là “nhật quỹ”(1), nó là chìa khóa then chốt thông xuống vực sâu ở tâm Trái đất.

[1] Nhật quỹ: là một loại đồng hồ mặt trời được dùng từ thời xa xưa, một trong những dụng cụ đo thời gian cổ xưa nhất của nhân loại.

Những lời Lưu Hoại Thủy vừa nói về cơ bản khá đồng nhất với những manh mối Tư Mã Khôi đang nắm trong tay, nhưng cũng có nhiều điểm anh chưa hề biết Lưu Hoại Thủy kể rất tường tận. Lão nói, những chuyện như “Toại Nhân tạo lửa, Hữu Sào dựng nhà, Nữ Oa vá trời, Phục Hy kết lưới, Thương Hiệt tạo chữ” đều là những sự tích về các bậc đại thánh đại đức thời thượng cổ, nếu không có họ thì đến tận ngày nay chúng ta vẫn còn ăn lông ở lỗ, ngủ vắt vẻo trên cây nữa kìa, phần đông những người thượng cổ này đều có thân hình rất cao lớn, tính tình vô cùng thuần phác, vì họ sống ở thời kì nguyên thủy xa xưa nên hình hài đều giống thú. Hậu thế đời sau đã tô tem hóa những bậc cổ thánh tiên hiền này. Bởi vậy, nói đến Thần Nông thị, “Thuật dị ký” đã mô tả họ là đầu mọc sừng, bụng trong suốt như thủy tinh, có thể nhìn xuyên thấu cả gan ruột, bất kể họ ăn gì, đều có thể đứng ngoài trông rõ mồn một, vì thế họ mới có khả năng nếm thử bách thảo và phân biệt ngũ cốc. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Có điều, lão Lưu Hoại Thủy cũng cho rằng, vị Thần Nông phác họa trên Sơn Hải Đồ có lẽ chỉ là một tọa độ địa lý nào đó, đại khái ám thị một tòa núi lớn nằm dưới lòng đất. Nghe nói, nơi cao nhất của một ngọn núi già là Thần Nông Giá. Đó là ngọn núi cheo leo hiểm trở, cây rừng rậm rạp, từ xưa đến nay đều vắng bóng người lai vãng, vùng này nằm ở cực đông của mạch núi Đại Ba kéo dài .Tương truyền, thị tộc Thần Nông đã gá gỗ thành giá đỡ làm nhà nên nơi này mới có tên Thần Nông Giá. Năm 1970, nước ta hợp nhất ba vùng là huyện Phòng, huyện Hưng và Ba Đông thành huyện Thần Nông Giá, cái tên này trước đây là tên núi, sau này lấy thành tên huyện.

Tư Mã Khôi nghe đến đây, cảm thấy có đôi chỗ vẫn lơ mơ, anh thắc mắc: “Chỉ thông qua mấy hình vẽ trong thác bản, thì làm sao có thể dễ dàng xác định, nó chính là một tọa độ địa lý?”

Lưu Hoại Thủy nói: “Sơn Hải Đồ ghi chép rõ ràng thế còn gì, có điều muốn hiểu tỉ mỉ địa hình địa thế của vùng này, thì trước hết phải xác định được thứ ngoằn ngoèo uốn lượn kia rốt quộc là thứ gì trước đã.”

Tư Mã Khôi ngạc nhiên hỏi: “Hình như nó là con mãng xà khổng lồ ẩn mình dưới lòng đất, không những vậy thân hình nó còn to lớn dị thường, có thể nuốt trọn cả một trái núi. Nhưng nó thì có liên quan gì đến địa hình địa thế ở đây?”

Lưu Hoại Thủy nói: “Làm gì có con quái xà nuốt núi nào chứ. Lão gia thử nhìn kỹ lại đi, xem nó còn giống thứ gì khác không?”

Tư Mã Khôi ngắm đi ngắm lại tấm thác bản, nếu nói nó là quái xà dưới lòng đất thì cũng chỉ là hình thù đại khái thôi, chứ không thể phân biệt nổi đâu là đầu, là đuôi. Nhãn lực của anh rốt cuộc vẫn không thể nhận ra đây là vật thể gì.

Lưu Hoại Thủy nói: “Thực ra nó là đường hầm trong lòng núi, tầng nham thạch phía trong xám ngoét, giống hệt khúc ruột lòi ra từ cỗ tử thi, bảo nó giống con mãng xà cũng chẳng saỉ. Nó chính là động huyệt quanh co do thiên nhiên tạo hóa nằm trong núi sâu, cổ nhân gọi nó là Thi Tràng động, tức là hang động ruột người chết. Hình núi phía bên trên cũng rất đặc biệt, hóa thạch chôn giấu trong địa tầng nhiều vô kể, loại địa hình địa thế này cực kì hiếm gặp, chỉ trong rừng rậm nguyên sinh Thần Nông Giá mới có thôi. Nghe cắc cụ thời xưa kể lại, Thi Tràng động sâu không thấy đáy, điểm tận cùng chắc là thông với núi Âm Sơn, nơi giam hãm linh hồn con người.”

Tư Mã Khôi nói: “Nó chẳng phải chính là sơn động hình rắn uốn lượn trùng điệp kia sao? Chẳng lẽ còn sâu hơn cả kính viễn vọng Lopnor nữa à? Theo ghi chép trong sách cổ, vực sâu nhất trên Trái đất chính là vực Cửu Tuyền. Nếu tôi nhớ không nhầm, Trang Tử từng nói ‘Viên ngọc đáng giá ngàn vàng chắc hẳn được đặt dưới hàm con hắc long nằm ẩn mình dưới đáy vực sâu Cửu Tuyền’. Điều này chứng tỏ, mọi bảo vật đích thực đều năm ở nơi sâu nhất dưới lòng đất, bởi vậy địa động càng sâu càng tốt”.

Lưu Hoại Thủy gật đồng tán đồng: “Chuyến này các lão gia đi mà thành công, thì đúng là còn gì bằng, món hàng khủng của tôi coi như cũng có hi vọng gặt hái được. Nhưng lời của Trang Tử còn ám chỉ rõ nơi đó vô cùng hung hiểm. Lão gia đừng quên cổ nhân từng nói ‘dẫu có nến Thiện Chúc, cũng không soi tỏ vực sâu Cửu Tuyền”, đủ thấy dưới lòng đất có những vật tuyệt đối không được nhìn vào, cũng tuyệt đối không được phép tìm hiểu. Tôi chỉ mong Bát lão gia ngàn vạn lần đừng một đi không trở về mới hay”.

Tư Mã Khôi nghe lão nói mà trong lòng cũng thấy rờn rợn, vực sâu Cửu Tuyền mà cổ nhân dự báo, có lẽ cũng chính là nơi mà Nấm mồ xanh muốn tìm. Anh quay sang hỏi Lưu Hoại Thủy: “Vị trí cụ thể của động Thi Tràng toàn là đường núi cheo leo hiểm trở, biển rừng rậm rạp bao phủ, rất nhiều sườn núi chênh vênh dựng đứng, nếu chỉ dựa vào sức của hai người thì làm sao tìm thấy lối vào của đường hầm? Ngoài ra, cỗ máy mấy ngàn năm kia rốt cuộc là vật gì? Có chắc nó nằm ở nơi sâu nhất trong đường hầm không?”

Vì món hàng hời mà Tư Mã Khôi hứa, khiến lão Lưu Hoại Thủy đương nhiên chấp nhận mà moi hết gan ruột ra nói cả cho anh biết. Lão bảo: “Chúng ta phải nói từng chuyện một, trước tiên kể về cái gọi là ‘cỗ máy’ hay bảo nó là ‘thiết bị’ thì cũng được. Trừ mấy từ đó ra tôi cũng thực sự không thể tìm ra từ nào thích hợp hơn để hình dung về nó, cổ thư gọi nó là “nhật quỹ” – là vật dùng để đo lường đất trời, nó có khả năng tự vận hành. Thời Xuân Thu Chiến Quốc, nó nằm ở nơi sâu trong đường hầm dưới núi Thần Nông Giá. Trên các bức bích họa và ống trúc trong mấy mộ táng Sở Quốc cổ, bị khai quật ” mấy năm gần đây, cũng có những ghi chép liên quan đến vật này, nhưng nội dung rất li kì, thần bí, người đời nay phần lớn không thể lý giải được. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Vì vùng đất này trước đây từng là biên giới của nước Sở thời xưa, nơi đó các thầy mo rất được trọng dụng. Thời Xuân Thu Chiến Quốc, hơn sáu mươi vạn quân Tần ào ào kéo xuống phía nam diệt Sở, nhưng chẳng ngờ họ lại không hề tìm thấy kho báu vật hay đồng xanh trong cung của Sở Vương. Nghe nói, năm đó tất cả của cải đều được Sở U Vương chôn giấu ở động Thi Tràng, nơi đó lảng vảng toàn bọn ma bay, người sống không ai dám bén mảng đến gần. Hơn hai ngàn năm sau đó, núi cao trở thành vực sâu, biển rộng trở thành cát dày, địa hình địa mạo phát sinh biến đổi to lớn. Ngày nay, vị trí cụ thể của con đường hầm trong núi sâu chắc sẽ rất khó tìm, ngoài ra, địa danh động Thi Tràng có từ thời Xuân Thu Chiến Quốc, sau này trong bản đồ của huyện hay địa phương đều không sử dụng tên này nữa. Nó sớm trở thành một lãnh địa thần bí không còn ai biết đến, bởi vậy chỉ cần trên đời này quả thực tồn tại vật đó, thì chắc chắn nó vẫn còn ở trong Thần Nông Giá”.

Tư Mã Khôi nghe lão Lưu Hoại Thủy kể một hồi vẫn không thể tưởng tượng nổi, nhật quỹ rốt cuộc là thứ gì, chắc năm dài tháng rộng, nên những truyền thuyết cổ xưa cũng đã mất đị nội dung ý nghĩa thực sự. Xem ra, chỉ có tận mắt nhìn thấy, tận tay sờ vào, phải tự mình tìm ra nó trong núi sâu, thì mới có cơ hội giải được câu đố này. Căn cứ theo những ghi chép bằng chữ triện cổ, mà tộc người thờ rắn để lại trong mật thất dưới lòng đất, dường như “nhật quỹ” chính là con đường thông tới vực sâu. Đây cũng là manh mối duy nhất mà Tư Mã Khôi có trong tay, nên bất kể kết quả thế nào, anh cũng quyết tâm phải xuống đó thăm dò một chuyến.

Thế là, đợi sau khi Hải ngọng quay về, mọi người liền tiếp tục thì thầm họp bàn bí mật trong tòa xe. Từ trước tới giờ, Tư Mã Khôi nổi tiếng là người liều mạng, lại có bản lĩnh, anh dự định sửa trộm thư giới thiệu rồi cùng Hải ngọng mạo danh là thành viên đội khảo cổ, trực tiếp tiến vào núi sâu, thăm dò bí mật. Vả lại, giờ đây hội anh cần cố gắng mai danh ẩn tính, càng ít người biết càng tốt, vì dao súng dễ tránh, ám tiễn khó phòng, lúc này không thể xác định trong nước còn phần tử mai phục của Nấm mồ xanh hay không, ngộ nhỡ để lọt phong thanh thì khó đảm bảo sau khi vào núi không xảy ra sự cố bất ngờ.

Lưu Hoại Thủy không tán thành, lão chỉ hi vọng hội Tư Mã Khôi có thể sống sót trở về, và mang theo mấy món hàng độc có giá trị, nên đương nhiên phải sắp xếp mọi việc thật ổn thỏa mới được. Đại Thần Nông Giá nằm ở rốn núi phía tây tỉnh Hồ Bắc, là vùng sơn cước trùng điệp núi cao rừng rậm, rừng nguyên sinh bao phủ quanh năm không thấy ánh mặt trời, tình hình trong đường hầm dưới lòng đất càng không biết thế nào. Tuy hội Tít Mã Khôi đều có chút bản lĩnh, nhưng chỉ có hai ngươi vào đó thì có vẻ cũng hơi đơn thương độc mã, e rằng khó thành đại sự; nên chí ít cũng phải trở về Bắc Kinh tính kế lâu dài cái đã, tốt nhất là phải đi tìm mấy vị kì nhân dị sĩ tương trợ mới được.

Tư Mã Khôi cũng cảm nhận sâu sắc rằng, lực lượng hiện tại quả thực vô cùng có hạn, nhưng áp lực về thời gian căn bản không cho phép anh trì hoãn thêm nữa. Giờ đây có điều kiện cũng đi, mà không có điều kiện thì cũng phải tạo ra điều kiện mà đi. Vả lại, Tư Mã Khôi cũng không muốn để những người không liên quan bị cuốn vào chuyện này, số người chết trong hai chuyến đi trước đã quá nhiều rồi.

Trước lúc lên tàu, Thắng Hương Lân còn đang truyền nước, cơ thể vẫn còn rất yếu ớt, nhưng từ đầu chí cuối cô đều lắng tai nghe hội Tư Mã Khôi bàn bạc kế hoạch tiến vào núi Đại Thần Nông Giá. Thắng Hương Lân gắng gượng ngồi dậy, nhỏ giọng nói với Tư Mã Khôi: “Bây giờ tôi đã khỏe rồi. Các anh vào núi tìm nhật quỹ chuyến này là một chuyện vô cùng trọng đại, tôi cũng phải tham gia. Vả lại, trong nhóm mà thiếu thành viên hiểu về kết cấu địa chất, thì khó khăn và nguy hiểm phải đối mặt khi thám hiểm hang động còn gia tăng gấp bội. Chúng ta đi cùng nhau ít ra còn có thể tiếp ứng cho nhau, bất kể gặp phải tình huống gì cũng có thể bàn bạc tìm cách ứng phó. Anh cứ yên tâm, tôi tuyệt đối không gây phiền phức gì cho anh đâu”. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi và Hải ngọng đều hiểu rõ tính Thắng Hương Lân, nhìn bề ngoài có vẻ nhu mì ôn hòa, nhưng thực ra cô là người rất cá tính, những chuyện cô đã nhận định là đúng, thì không bao giờ chịu nghe người khác khuyên bảo, cho dù anh không đồng ý thì cô cũng tự mình bám theo, huống hồ để cô ở lại một mình thì đúng là cũng khó mà yên tâm được.

Lão Lưu Hoại Thủy thực lòng không muốn để Thắng Hương Lân phải mạo hiểm chuyến này, nhưng lời của lão lại càng vô ích, khuyên nhủ mãi không có kết quả, Cuối cùng, lão đành rút ra mấy trăm tiền mặt dùng để mua hàng và tem phiếu của hơn một tạ gạo, tất cả giao cho Tư Mã Khôi, dặn dò anh nhất định phải tìm cách chăm sóc cho Thắng Hương Lân thật chu đáo, còn “hàng độc” để sau nói cũng không muộn, chuyến này đi chỉ cần sống sót trở về là may rồi.

Hội Tư Mã Khôi tính toán kế hoạch xong đâu đấy thì sắc trời đã nhá nhem tối, đang định nằm xuống nghỉ ngơi thì Thắng Hương Lân nói với Tư Mã Khôi: “Trước khi tàu về đến thành phố, nhân viên nhà ga chắc chắn sẽ đến toa giường mềm để kiểm tra, cả bốn người chúng ta cộng gộp lại cũng không bằng một cán bộ cấp 13, đến lúc đó chỉ sợ không che giấu được thân phận nữa. Hơn nữa, ga Bắc Kinh người đông, tai mắt nhiều, nếu xét đến yếu tố an toàn và bảo mật, thì tốt nhất chúng ta nên xuống xe giữa đường, trực tiếp đi xuống Nam luôn””.

Ai ngờ Hải ngọng lại kịch liệt phản đối, anh chàng lớn giọng trình bày một tràng cao kiến. Mở màn là nhắc đến chuyện tàu hỏa, vì Hải ngọng thực sự dành quá nhiều tình cảm cho nó. Anh bỗng nhớ lại năm xưa, khi hội anh cùng anh Hạ Thiết Đông nam tiến xuống Miến Điện, khi ấy mọi người làm gì có tiền mua vé, giữa đường khó khăn lắm mới lẻn vào được một toa xe lửa. Chuyến tàu đó đừng hỏi là đã bò chậm đến mức nào, vì cứ đi một đoạn lại dừng một đoạn, chạy ì à ì ạch, đến độ sắp làm con người ta rã hết xương cốt; còn người trên tàu vừa đông lại vừa chen chúc, đến ngay cả chỗ để đặt chân xuống cũng không có, cộng thêm thời tiết oi bức, vợ kêu con khóc, nhộn nhạo cả lên, chỗ nào cũng toàn tiếng gào hét, bầu không khí đặc quánh một mùi quái lạ khiến người ta ngộp thở, cái sự đày đọa đó thật đúng là, tổ cha nó, không thể chịu nổi. Thông thường, những chuyến tàu quá tải như vậy, đa số nhân viên nhà ga đều rất lười soát vé, vì dẫu họ có muốn tận tụy với công việc thì cũng đành bất lực, bởi vì không thể chen chân vào nổi. Có điều, chuyến tàu hôm đó vừa vặn lại do tổ nhân viên Hồng Kì phụ trách. Liên đội này liên tục mấy năm liền được vinh dự bình bầu là tập thể tiên tiến, tất cả thành viên đều là nữ, người nào cũng trẻ măng, những cô em này như được tiêm thêm tiết vịt, nên tinh thần hừng hực nhiệt tình, chẳng sợ bẩn thỉu, lộn xộn gì cả, họ chen chúc qua những khe nhỏ giữa đám đông để soát vé. Không những vậy, họ còn giúp hành khách chuyển hành lý và mang cả nước uống cho khách, thật đúng là tấm gương sáng lóa cho người khác soi mình vào. Khổ một nỗi, hội Hải ngọng lúc đó lại chỉ sợ bị kiểm tra, rồi tống cổ xuống tàu, nhưng may nhờ anh Thiết Đông đa mưu túc trí, không biết kiếm đâu được một tờ báo rách, mặc kệ mọi người xung quanh có muốn nghe hay không, anh cứ chủ động học tập theo tinh thần của đồng chí Lôi Phong, thực hiện nghĩa vụ đọc báo cho tất 1 khách trên toa cùng nghe, để tuyên truyền tư tưởng, đường cách mạng của Mao Trạch Đông. Khi ấy anh Thiết Đông làm bộ như rất nhập tâm, giọng đọc sang sảng, có khi còn ngang ngửa với trình độ của mấy anh phát thanh viên trên đài truyền thanh Trung ương ấy chứ. Mấy cô em soát vé thấy cảnh đó thì vô cùng cảm động, thấy câu thanh niên kia sao mà vừa cao to đẹp trai, tư tưởng lại giác ngộ, ngồi trên tàu mà còn tự giác đọc báo cho quần chúng nghe, tuyên truyền tình thế tốt đẹp trước mắt của cách mạng; người có tư tưởng giác ngộ đến mức ấy thì làm gì có chuyện đi tàu còn trốn vé? Thế là, các cô bỏ qua hội anh, không cần soát vé nữa, mọi người cũng nhờ vậy mới thoát nạn, nhưng lòng vẫn vỗ cùng tự ti, mãi đến tận bây giờ cái bóng đen năm ấy vẫn còn lẩn khuất đâu đó trong tâm tưởng. Thế rồi mọi người trốn khỏi Miến Điện trở về tổ quốc, Hải ngọng lại cùng Tư Mã Khôi lên tàu làm công việc khổ sai, và tất cả ký ức liên quan đến tàu còn lưu lại trong đầu, chẳng cái nào khiến anh muốn nhớ lại, nên bây giờ dẫu nằm mơ, anh cũng không ngờ lại có ngày mình hưởng diễm phúc đi toa giường mềm và sang toa ăn đánh chén một bữa đàng hoàng như thế, bon chen đến được tận bước này, coi như cả đời Hải ngọng cũng không sống uổng. Thế mà bây giờ, đít còn chưa ngồi ấm chỗ, nỡ nào lại bắt anh phải xuống tàu giữa chừng cơ chứ? Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Hải ngọng vừa nói đến đây, lão Lưu Hoại Thủy đột nhiên đứng bật dậy: “Nghe cậu nhắc đến tàu hỏa, tôi chợt nhớ ra một chuyện quan trọng”.

Hải ngọng còn đang hậm hực, bị Lưu Hoại Thủy cắt lời, liền thể hiện luôn thái độ bất mãn: “Trí nhớ của lão kiểu gì vậy ! Tôi không nói lão cũng chẳng nhớ ra, sao hễ tôi nói một cái là lão đã nhớ ra luôn thế hả? Tôi thấy Lưu sư phụ hình như hơi mắc chứng lẩn thẩn của người già thì phải, cứ đà này thì đúng là cách giai đoạn đánh trống thổi kèn chẳng mấy hồi nữa đâu, nhân lúc đầu óc còn minh mẫn, lão mau về mua hai trái bi sắt, để lúc rảnh rang nắm trong tay mà xoa đi xoa lại….”

Tư Mã Khôi liếc xéo Hải ngọng một cái, ra hiệu bảo anh lát nữa hãy nói, sau đó quay sang hỏi Lưu Hoại Thủy: “Chuyện ông bác định nói, là chuyện tốt hay chuyện xấu vậy?”

Hồi thứ ba

CHUYỆN QUÁI DỊ TRONG LÂM TRƯỜNG

Ý của Tư Mã Khôi là: “Chuyện tốt thì lão hãy nói, còn như chuyện xấu thì xin miễn, tôi nghe xong lại thêm đau đầu”.

Lão Lưu Hoại Thủy cũng không chắc lắm: “Luận theo lẽ thường thì đó là chuyện tốt. Nói sao nhỉ? Tôi vừa nghe Hải lão gia nhắc đến tàu hỏa, liền nhớ ra mình có đứa cháu con bà chị ruột, nó họ Bạch, trước đây là bộ đội công trình. Hồi xưa từng tham gia chiến tranh Triều Tiên, còn đội bom Mỹ, sửa cầu trên sông Áp Lục nữa đấy, sau này trở thành bộ đội chuyên nghiệp, được phân công quản lý ngành đường sắt địa phương, vì biểu hiện xuất sắc trong thời kì cách mạng văn hóa, nên được bổ nhiệm làm lãnh đạo ủy ban cách mạng huyện. Khu vực nó quản lý vừa vặn lại chính là thị trấn Thương Bách, huyện Thần Nông Giá. Tôi có thể viết phong thư bảo nó nghĩ cách quan tâm đến các lão gia một chút; có điều… có điều phần tử bất hảo như tôi, chỉ e bây giờ nó không thèm nhận người cậu ruột này nữa”.

Tư Mã Khôi thấy chuyện này có còn hơn không, được thì quá tốt mà không được cũng chẳng sao. Thế là, anh liền tìm giấy bút đưa cho Lưu Hoại Thủy, bảo lão mau viết thư, rồi kẹp vào cuốn sổ giải mã mang theo bên mình. Đêm hôm đó, mọi người nghỉ ngơi trên chuyến tàu đường dài. Ngày hôm sau, cả hội từ giã lão Lưu Hoại Thủy, giữa đường chuyển tàu vào nam.

Thần Nông Giá nằm ở rốn núi phía Tây tỉnh Hồ Bắc, vùng thâm sơn này giao thông vô cùng lạc hậu, nên căn bản không hề có đường sắt. Đến huyện Phòng, hội Tư Mã Khôi đành xuống tàu, rồi dừng chân nghỉ ngơi ở huyện suốt mấy ngày liền, thứ nhất là dành thời gian cho Hương Lân điều dưỡng cơ thể, phục hồi nguyên khí, thứ hai là cần phải chuẩn bị một vài thứ trước khi tiến vào núi.

Lúc trước, Tư Mã Khôi sợ giữa đường có người kiểm tra, nên đã đem tất cả mấy khẩu súng xung phong Liên Xô, mang về từ kính viễn vọng Lopnor, vùi xuống sa mạc, bây giờ trên người chỉ sót lại ba con dao săn, mũ Pith Helmet, mặt nạ phòng độc hình mang cá, kính chắn gió, thảm chắn cát; ngoài ra thì cũng chỉ có mấy vật phẩm như: la bàn, diêm chống ẩm, máy ảnh, ống nhòm, nến tín hiệu, thuốc đuổi côn trùng, thiết bị lọc, băng dính, bình nước quân dụng, hòm cứu thương. Khi ấy, mệnh sắp đoạn mà vẫn tiếc không nỡ vứt đi, bây giờ đúng là phải dùng đến chúng thật.

Huyện lị thiếu thốn đủ các loại vật tư nhưng đèn cácbua thì không thiếu, đến nỗi tối muộn rồi mà người dân vẫn thắp đèn sáng trưng. Vả lại địa phương cũng có khá nhiều mỏ quặng, nên các thiết bị chiếu sáng như đèn quặng được bổ sung đầy đủ. Để đề phòng gặp mưa trong núi, Tư Mã Khôi liền làm theo cách dân dã của đội du kích Miến Điện, lấy áo mưa tự chế thành túi chống nước rồi trùm lên ba lô. Ngoài ra, anh còn chuẩn bị một đống lương khô và thuốc lá thơm. Tư Mã Khôi ra cửa hàng bách hóa mua mấy đôi ủng và dây thừng dài, đồng thời tìm một bác thợ rèn đánh cho mấy cái móc câu nối vào dây thừng. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Thứ duy nhất không kiếm được là vũ khí, đạn dược. Hội Tư Mã Khôi vẫn chưa biết tình hình trong núi ra sao, không có súng ống thì làm sao lòng đảm và dũng khí vững vàng lên được, có điều vấn đề này lại chẳng có cách nào giải quyết, đành đến đâu hay đến đó vậy.

Trước lúc xuất phát, Tư Mã Khôi dẫn Hải ngọng và Thắng Hương Lân vào phòng tắm nước nóng. Đây là nhà tắm duy nhất trong huyện thành, còn gọi là hồ tắm Đông Phong, lấy tên từ nghĩa câu thơ “Đông phong áp đảo tây phong”. Tiệm này có từ mấy chục năm trước, lúc đó người phương Bắc đến lâm trường lao động tương đối nhiều, nên họ mới cho xây nhà tắm.

Hồ tắm Đông Phong được xây dựng rất sơ sài, cũ kỹ, lâu ngày không được sửa chữa, quy mô lại khá nhỏ, bên trong đốt cái nồi hơi nho nhỏ, cả bên nam và bên nữ cộng gộp lại, diện tích cũng chỉ đủ cho mười mấy người tắm là đã chật ních. Hồi ấy, những mục như kì cọ, ấn huyệt bàn chân trong nhà tắm, bị quy kết là loại hình phục vụ chỉ dành cho các đối tượng chuyên chính văn hóa, nên tất cả đều nhất loạt bị hủy bỏ. Nhân viên chuyên kì cọ ngày trước, bây giờ chuyển nghề thành nhân viên chuyên đốt nồi hơi, bất kể có khách hay không, bác ta đều được nhận tiền lương hàng tháng, kĩ năng xoa bóp bấm huyệt cũng sớm bị bỏ phí bao năm rồi.

Tư Mã Khôi và Hải ngọng không biết bên Thắng Hương Lân tắm ra sao. Tóm lại, hai người bọn họ huyên thuyên suốt hồi lâu, tâm sự cả đống chuyện, rồi hút mất nửa bao thuốc, sau đó mới gọi sư phụ xoa bóp bấm huyệt ra để cọ lưng giúp.

Hải ngọng tự nhận mình là thành viên đội khảo cổ, quay sang giải thích với sư phụ bấm huyệt: “Bọn con tắm táp thế này hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu công tác cách mạng đấy chứ. Vì một chuyến đi dã ngoại chỉ ít cũng phải hút một hơi dăm bữa nửa tháng, gặp lúc điều kiện sinh hoạt gian khổ, không khéo còn chẳng rửa được mặt cơ, bởi vậy, tụi con phải làm vệ sinh cá nhân thật sạch sẽ trước khi lên đường”. Rồi anh dặn đi dặn lại vị sư phụ cọ lưng: “Bố cứ kì thật mạnh tay vào! Cọ cho bay luôn hai lớp da mới đã, tắm rửa sạch sẽ xong, bọn con lại phải nhảy vào biển lửa liền. Lần tắm sau… con mẹ nó, còn không biết phải đợi đến bao giờ!”. Vị sư phụ thấy thân thể hai người chi chít vết dao đâm súng bắn, thì không khỏi cảm thấy vừa kì lạ vừa ngạc nhiên, tuy nghi hoặc nhưng không dám hỏi nhiều, chỉ mong hai gã này tắm táp cho thoải mái rồi mau mau cuốn xéo.

Ba người đi ra khỏi hồ tắm Đông Phong, thấy cả người nhẹ bẫng, cảm giác dường như được thay da đổi thịt. Mọi người sang vệ đường đi nhờ chuyến xe ngựa thồ gỗ. Thần Nông Giá là ngọn núi cao 3000 mét, so với mặt nước biển, hình thế nguy nga, cây rừng rậm rạp, vùng này được mệnh danh là nóc nhà Trung Hoa; con đường dẫn vào núi vô cùng gập ghềnh, rung lắc, khiến người ta liu diu muốn ngủ, nhưng vừa nhìn vào trong núi, hội Tư Mã Khôi đều trơ mắt ra.

Trước khi đến đây, nghe nói độ che phủ của rừng rậm ở núi Thần Nông Giá rất cao, rừng nguyên sinh che khuất bầu trời, nhấp nhô trải dài theo địa hình núi, những gì nhìn thấy ven đường cũng chỉ toàn núi non hùng vĩ, khe suối chảy róc rách, nhưng cũng có khá nhiều núi trọc, khu vực có cây rừng phần đa là rừng tái sinh, khắp núi rừng đâu đâu cùng thấy những gốc gỗ tròn, rõ ràng ở đây hàng năm đều bị chặt phá với quy mô lớn, địa hình địa mạo bị ảnh hưởng nghiêm trọng, lòng núi dần trở nên rời rạc, vụn vỡ.

Tư Mã Khôi thấy cảnh tượng vậy liền muốn hỏi dò tình hình trong núi. Anh lân la gợi chuyện bác phu xe: “Đồng chí cựu binh này! Tôi thấy cỗ xe của bác nom cũng lớn ra trò đấy nhỉ!”

Người đánh xe trạc ngoại ngũ tuần, thời kì chiến tranh giải phóng từng là anh nuôi trong một đơn vị bộ đội nào đó, thời bình thì phục viên và an cư lạc nghiệp ở đây, con người trông có vẻ rất đỗi thuần phác, nhưng thực ra lại là một tay tán chuyện bẩm sinh, chỉ cần mở mồm ra là không khóa lại được. Bác ta nói cỗ xe này thì làm được trò trống gì. Nhớ năm đó, bộ đội giải phóng Hồ Nam, Hồ Bắc, Quảng Đông, Quảng Tây, tụi tôi toàn đội mũ lông, dắt hàng loạt gia súc cỡ lớn đến kéo pháo, chẳng phải loài ngựa Đại Dương của Nhật Bản thì cũng là họ la cỡ bự của khọm Mỹ .Bọn chúng đều được tuyển chọn từ vùng Đông Bắc đem xuống, thức ăn cho chúng thì ngon khỏi chê, mà sức kéo cũng miễn bàn luôn, đâu giống con súc sinh này, mới kéo vài khúc gỗ mà đã thở hồng hộc. Bây giờ phần lớn lâm trường đều đã đình công, nếu không thì làm gì đến lượt đời nó được hưởng phúc nhàn thế kia? Mấy năm trước, cuộc cách mạng gang thép bùng nổ, bao nhieu cây rừng bị đốn chặt, lâm trường nọ mọc san sát lâm trường kia, gỗ chở nườm nượp không ngớt. Cũng trong mấy năm đó, không biết bao nhiêu rừng rậm nguyên sinh hóa thành núi trọc, bây giờ cây rừng trên núi toàn là loại cây tái sinh thưa lớt tha lớt thớt. Có điều, cũng may nhờ phúc chuyện này nên vùng núi mới được tu sửa đường xá, nếu không thì ngay cả chuyện ra khỏi cửa cũng không dám nghĩ đến, nên ai đến được huyện lị thì đúng là oai khỏi phải bàn, coi như là được mở mắt nhìn thế giới rộng lớn, để lúc trở về tha hồ khoác lác suốt mấy năm, còn đến được tỉnh thành coi như một lần xuất ngoại, và nếu ai mà sang được tỉnh khác, thì chắc người đó cả đời không trở về quê hương bản quán nữa, bởi ở đây có rất nhiều người từ nhỏ đến lớn chưa bao giờ rời khỏi miền sơn cước này.

Tình hình có chút ngoài dự tính, Tư Mã Khôi không ngờ quy mô khai thác gỗ lại rộng lớn chừng ấy, anh hỏi bác bộ đội già: “Thế bây giờ quả núi lớn này bị đốn sạch hết rồi sao?”

Ông bác cựu binh nói: “Tít sâu trong cánh rừng Thần Nông Giá vẫn còn rất nhiều nơi không thể chặt gỗ, vì có đốn đổ cây cũng không vận chuyển ra ngoài được. Đi qua eo núi dưới chân ngọn núi chính Thần Nông Giá, khu vực phía tây bắc toàn là khe sâu vách đá cheo leo, ở đó mới đích thực là rừng sâu núi thẳm, khó tìm thấy dấu chân người. Nơi đấy có rất nhiều cây bách cổ không biết sống mấy ngàn mấy vạn năm, thân cây to hơn chục người ôm không xuể. Trong đó thường xuất hiện nhiều loài chim quý hiếm và loài thú kì dị, như là khỉ lông vàng, thú một sừng, sói đầu lừa, rắn mào gà, còn có gấu trắng, báo, bạch xạ hương… Cậu có giơ hết cả mười đầu ngón tay lẫn mười đầu ngón chân cũng không đếm đủ đếm đâu”. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi nghe nói nơi này vẫn còn được bảo tồn trạng thái nguyên thủy trong núi sâu, nên lòng cũng yên tâm hơn rất nhiều. Anh tiếp tục dò hỏi: “Trong rừng già có an toàn không bác?”

Ông bác cựu binh lắc đầu: “Ối trời! Nguy hiểm lắm! Ngần ấy năm, tôi sống trong rừng rậm cũng đâu phải là ít, nhưng cũng chỉ vào trong đó một lần duy nhất hồi tiễu phỉ thôi. Để tôi kể cho các cậu nghe, tương truyền trong núi Thần Nông Giá có người rừng đấy, nhiều người già sống trong rừng từng nhìn thấy dấu chân của người rừng, nhưng chưa ai tận mắt nhìn thấy bóng dáng người rừng thật, chỗ chúng tôi có nơi gọi là Yến Tử Ô, đó chính là nơi người rừng thường lảng vảng. Địa hình ở eo núi này thực sự vô cùng hiểm yếu, nhìn xuống cũng đủ khiến người ta rụng cả tim ra ngoài, chỗ hẹp nhất của vách đá cheo leo phía trước núi chỉ vừa cho một con én bay qua, trong khi phía sau núi lại là vực sâu dựng đứng, đúng là một nguời gác cửa, ngàn người không dám bước vào, thần quỷ trông thấy cũng phát ớn. Nhưng nếu cậu muốn lên đỉnh núi thì chỉ có mỗi con đường eo núi ấy mới leo lên được thôi. Năm đó, quân giải phóng dồn hàng ngàn tên thổ phỉ phải rút lên núi, bọn chúng chuẩn bị trước rất nhiều nước và lương thực, đủ để duy trì suốt mấy năm, chúng còn rêu rao sẽ tử thủ ở Yến Tử Ô, và khiến tất cả quân cộng sản muốn tấn công lên núi phải phơi thây giữa đồng hoang. Từ các triều đại cổ xưa trong lịch sử, hễ thổ phỉ bị quan binh truy bắt, chúng đều rút vào núi sâu, tử thủ ở eo núi vì người dưới chân núi không làm gì được, nên chúng mới ngang nhiên ngông cuồng như vậy”.

Tư Mã Khôi và Hải ngọng nghe đến chuyện này thì vô cùng phấn khích, dẫu biết rõ quân giải phóng đã sớm tiêu diệt hết bọn thổ phỉ từ lâu; nhưng, xem ra độ khó của chuyến diệt phỉ này dường như còn ghê gớm hơn cả vụ “mưu chiếm Hoa Sơn” của đảng Cộng sản năm 1949, phải dùng chiến thuật cao siêu thế nào mới có thể công phá được địa hình hiểm yếu đó?

Ông bác cựu binh nói: lũ thổ phỉ chăng qua chỉ là đám ô hợp, tưởng ràng lúc ấy hãy còn ở triều đại Thanh chắc, tụi tôi chỉ sợ bọn thổ phỉ tản ra, hợp thành nhóm dăm ba người lẩn trốn vào rừng già núi sâu thì không dễ đối phó, nhưng nếu cứ túm tụm cả toán quân ở đầu núi thì chẳng phải tự mình đào hố chôn mình sao? Lũ phỉ tưởng bọn tôi không có mưu lược gì đối phó được với bọn chúng chắc? Binh đoàn bốn đã đánh xuống tận thành Cẩm Châu và Thiên Tân, thì lũ thổ phỉ này nhằm nhò gì. Lựu đạn 105 do Mỹ sản xuất, của pháo binh chúng ta đâu phải hạng tôm tép tầm thường, rồi ngay cả hiệu lệnh cũng không buồn hô, liền trực tiếp đặt luôn súng lên ngọn núi đối diện mà khai hỏa. Trái pháo làm ngọn núi rung chuyển, xác đạn rơi vào đám người, tên nào tên nấy đầu óc nở hoa tùm lum, rồi chưa đầy hai phút sau, đã thấy cờ trắng đầu hàng giương phất phơ trên đỉnh núi. Lúc bộ đội tụi tôi lên trên đó lùng quét tàn quân phỉ, mấy chiến sĩ trong đội đã gặp phải người rừng ở ngay bờ vực sâu phía sau núi.

Do hai bên gặp nhau quá bất ngờ, nên hai bên đều sợ hết hồn. Tên người rừng đó cao to lực lưỡng, có khi phải cao gấp rưỡi người thường, lông đen rậm kín toàn thân, cũng không rõ mặt mũi thế nào, trông nó giống vượn hơn là giống người. Nó giơ tay tóm một chiến sĩ, trực tiếp vứt luôn xuống vực, chiến sĩ còn lại chưa kịp nổ súng đã quần thảo thành một đống với tên người rừng, rồi cả hai cùng lăn lông lốc xuống vực. Sau này, trinh sát quân ta men theo đường vòng xuống dưới lục soát, nhưng tìm kiếm suốt một ngày trời, vẫn không thấy thi thể ở đâu, có lẽ đi bị dã thú trong núi tha vào rừng ăn thịt mất rồi.

Có người phỏng đoán, tình hình lúc đó quá đột ngột nên mọi người hoa mắt nhìn chẳng rõ, chứ không chừng thứ họ gặp bên bờ vực là gấu cũng nên; thế nhưng cái ngữ ấy chân tay vụng về, thì làm sao mà trèo lên tận bờ vực cao thế này. Có người lại cho rằng, sau khi thi thể bị rớt xuống, cổ của nạn nhân bị mắc vào cành cây, chim rừng lại nhiều vô kể, nên chẳng cần tốn bao nhiêu thời gian chúng sẽ rỉa sạch cái xác thành bộ xương khung. Tóm lại, người ta đưa ra rất nhiều cách giải thích, nhưng cho đến tận bây giờ, đó là lần bọn người rừng tiến sát núi Thần Nông Giá nhất, đáng tiếc là bọn chúng sống không bắt được người, chết không tìm thấy xác.

Ông bác cựu binh nói đến đây thì hỏi Tư Mã Khôi: “Các cậu định khảo… khảo cái cổ của ai vậy? Định lên đỉnh núi để làm gì? Chẳng lẽ định tóm cổ người rừng đấy phỏng?”

Tư Mã Khôi chỉ sợ lộ chân tướng, vội vàng dùng mấy từ sách vở giải thích cho qua mắt: “Định nghĩa về khảo cổ rộng lớn lắm ông bác ạ! Chỉ 1% quá khứ của nhân loại được ghi chép thành tư liệu, số còn lại vẫn là những ẩn số chưa có lời giải; phải vén bức màn bí mật đó lên, chính là bài toán mà công tác khảo cổ cần nghiên cứu. Có điều, anh em bọn tôi đi Thần Nông Giá chuyến này không phải để tìm di tích lịch sử, mà để sưu tầm các tiêu bản hóa thạch nằm bên dưới địa tầng. Có phải hóa thạch trong cánh rừng rậm nguyên sinh đó nhiều lắm đúng không, ông bác?”

Ông bác cựu binh gật đầu: “Tất nhiên là nhiều vô kể, chỉ cần nghe cậu nói là tôi biết ngay cậu là người trong ngành. Mấy năm trước, cũng có một phần tử trí thức đến lâm trường tìm tiêu bản, nói với chúng tôi ngọn núi này là cái gì mà… mà… bản ghi nhớ của thời đại hồng hoang viễn cổ, hình như là mấy từ đấy. Nhưng bản ghi nhớ chẳng phải là văn tự ư? Sao nó lại có thể là một ngọn núi được nhỉ?”

Ông bác cựu binh nói đến đây thì không gạn hỏi thêm nữa, mà bảo hội Tư Mã Khôi, dưới ngọn núi Long Cốt nằm sau đỉnh Thần Nông có rất nhiều động huyệt, bên trong có các loại hóa thạch, hình dạng kì dị cổ quái, người bản địa gọi chung tất cả những thứ đó là long cốt, nhưng cũng có một nơi khác tụ tập chi chít hóa thạch, tên gọi Âm Hà Cốc, mà lối vào là một khe sâu, đi mãi xuống dưới có rất nhiều ác thú, còn có độc trùng, độc thảo nữa. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Trước giải phóng, nghe nói nơi này xuất hiện cả người rừng, ngay những người hái thuốc cũng không dám mạo hiểm thò mặt xuống. Năm 1963, lâm trường chúng tôi ầm ĩ mãi vì một vụ án mạng:

Khi ấy, công việc ở lâm trường rất cực nhọc, điều kiện chỗ chúng tôi lại thấp kém, ngoài bộ đội chuyên ngành thì còn lại toàn công nhân đốn gỗ ngoại tỉnh đến. Cái hay ở đây là, chỉ cần anh chịu đến thì sẽ có cơm cho anh ăn, không ai tra xét lý lịch tổ tông tám đời nhà anh cả, bởi vậy thành phần công nhân đốn gỗ khá phức tạp, ngay cả phạm nhân hết hạn tù được phóng thích cũng có. Ở lâm trường thỉnh thoảng cũng có khi được nghỉ ngơi, những lúc đó một số công nhân thường vào núi hái nấm bẫy thỏ để cải thiện bữa ăn.

Bận ấy, bốn anh công nhân đốn gỗ vòng qua Yến Tử Ồ, trực tiếp tiến vào vùng lân cận Âm Hà Cốc, thấy ở khe đất dưới đáy vực sâu có sương đen bay mù mịt. Trong bốn công nhân, có một người biệt danh là ‘Khỉ Già’, gã này hiểu chút ít các phương thuật mê tín thời xã hội cũ, biết nhìn thế núi, đoán khí trời. Gã lim dim hai mắt một hồi, rồi phán: khí đen kia là bảo khí, dưới chân núi chắc chắn có bảo vật.

Ba người còn lại không tin. Nơi này núi cao rừng thẳm, từ xưa đến nay đều vắng bóng người, nếu có bảo vật thật thì chắc cũng chỉ là hà thủ ô ngàn năm mọc trên vách núi, chứ trong hốc núi thì có nổi thứ gì? Tốt nhất đừng có làm kinh động đến bọn mãnh thú, bọn nó mà ra thì tan xác!

Gã Khỉ Già nói: “Các cậu thì hiểu quái gì! Đừng nghĩ ngọc chủ yếu có nguồn gốc từ Côn Luân, Hòa Điền, Miên Điện… chứ miếng ngọc bích họ Hòa, có giá trị bằng mấy tòa thành, tìm thấy thời Xuân Thu Chiến Quốc, đích thị xuất thân từ Âm Hà Cốc ở Thần Nông Giá chúng ta đấy. Chỉ riêng chuyện này cũng đủ cho các cậu thấy nơi này đáng giá thế nào rồi chứ?”

Nhưng ba người còn lại đều là hạng phàm phu tục tử, mù văn hóa, họ làm sao biết mảnh ngọc bích họ Hòa là thứ gì, món đồ chơi này làm bằng vàng hay bằng bạc.

Khỉ Già chỉ nói: “Tóm lại, chiêu này của tôi chắc chắn không lầm đâu, dưới kia khẳng định là có thứ gì đó rất ghê gớm, ai muốn hưởng vinh hoa phú quý thì theo tôi, bất kể tìm thấy thứ gì, chúng ta cứ chia đều theo đầu người”.

Khi đó, có một gã tên Nhị Lãn Tử, nổi tiếng liều mạng, đồng ý đi cùng hắn. Hai người họ thắt dây thừng ngang lưng, để đồng bọn đứng bên ngoài rồi thòng dây xuống. Hai người mang theo khẩu súng bắn chim, đốt đuốc dầu cây tùng vào hang động. Kết quả, bọn họ đã xảy ra một chuyện quái lạ mà mãi đến tận bây giờ vẫn không thể giải thích.

Hồi thứ tư

TRAO ĐỔI

Hai người đứng bên ngoài chờ đợi mãi không thấy động tĩnh gì, hét gọi cũng không nghe hồi đáp, giật dây thừng cũng yên ắng bất động. Bọn họ cho rằng đã xảy ra chuyện xấu, đang định nghĩ cách quay về báo cáo với đơn vị, thì đúng lúc này Khỉ Già trèo lên. Hắn bảo tìm thấy một vật rất quý nhưng vì nặng quá, hai người vần mãi không xong, nên nhờ những người còn lại xuống giúp sức, bây giờ Nhị Lãn Tử vẫn ở dưới đó canh chừng. Hai người kia nghe nói vậy thì động lòng, cũng không nghĩ ngợi gì nữa, chỉ hỏi một câu: “Trong động có an toàn không?”

Khỉ Già nói: “Nó là cái hố có đáy khá chắc chắn, chẳng thấy bóng dáng con vật nào cả”. Hai người kia thấy tiền thì nổi máu tham, lập tức bạo gan cùng đi với hắn. Xuống dưới đó chẳng bao lâu, thì lão Khỉ Già lấy súng bắn chim đốn ngã một tên, tên còn lại sợ đực mặt ra, chưa kịp hiểu ra chuyện gì, đã bị một dao đâm trúng tim.

Thì ra, gã Khỉ Già là dân ngoại tỉnh, sớm biết trong núi Thần Nông Giá chôn giấu minh khí đồng xanh, chỉ cần tìm thấy một món rồi trốn ra nước ngoài, thì cũng đổi được khoản tiền kếch xù. Khổ nỗi, hắn lại không thông đường thuộc lối, cộng thêm cánh rừng rậm nguyên sinh này đâu phải dễ chơi. Thế là, trước tiên hắn trà trộn vào lâm trường làm lụng một thời gian, rồi rủ hội Nhị Lãn Tử, những người dân bản địa đã thạo địa hình, dẫn hắn vào núi. Sau khi tìm thấy vật cần tìm, hắn lập tức ra tay giải quyết nhanh gọn ba gã đen đủi, tiếp theo đó vượt núi định trốn về phía nam, chẳng ngờ giữa đường thì bị tóm cổ. Lúc ấy, hắn mới khai ra chuyện này. Nhưng, khi công an vào núi tìm kiếm thi thể người bị hại, thì nước mưa đã xói lở sườn núi, lấp kín cửa động, bởi vậy không tìm được xác.

Nếu cứ vậy mà khép lại vụ án thì chẳng có gì đáng bàn. Điều đáng bàn là, địa điểm bắt được gã Khỉ Già trên tàu hỏa. Khi đó, có hai nhân viên nhà tàu đến soát vé, thấy hành tung tên Khỉ Già lén la lén lút, trông rất khả nghi, vì hai mắt cứ láo liên, tay lại ôm khư khư một bọc rất to, nên hai anh liền lại gần hỏi hắn mấy câu, đồng thời yêu cầu cho kiểm tra hành lý.

Khỉ Già có tật giật mình, lập cà lập cập mở bao hành lý ra. Nào ngờ, hắn đột nhiên ném vụt thứ bên trong ra ngoài cửa sổ. Lúc ấy, đoàn tàu đang băng qua cầu, dưới chân cầu là dòng sông nước chảy cuồn cuộn, có vẻ rất xiết. Vật bị ném xuống có mà tìm đàng trời. Hắn nhất thời hoảng hốt, đã tiêu hủy chứng cứ, nhưng nhân viên soát vé và các hành khách xung quanh thì thấy rõ mồn một, vật Khỉ Giả ném đi là xác một đứa bé, chứ nào phải minh khí đồng xanh gì, hai thứ ấy khác nhau một trời một vực, dẫu có cận thị cũng đâu thể nhìn lầm được chứ?

Có điều, mặc cho cảnh sát liên tục thẩm vấn, Khi Già chỉ nhận mình đã sát hại ba mạng, còn chuyện kia thì khăng khăng không chịu nói thật, một mực bảo mọi người trên tàu nhìn lầm. Khi đó, cả nước đang dấy lên phong trào trấn áp, thanh trừ phản động, nên trong tình hình đó, bất kể Khỉ Già phạm phải điều luật gì, thì tội ác của hắn cũng không thể dung tha. Hắn mau chóng bị áp giải ra pháp trường xử bắn; còn chuyện Khỉ Già rốt cuộc đã tìm thấy thứ gì trong núi, có lẽ chỉ một mình hắn mới biết rõ mà thôi.

Ông bác cựu binh nói với hội Tư Mã Khôi: “Các đồng chí trong cục cảnh sát đã vào núi tìm chứng cớ, bốn năm đồng chí đội mũ bằng, tá túc ở lâm trường tụi tôi; tôi toàn nấu cơm cho các đồng chí ấy ăn. Lúc ăn cơm, nghe các đồng chí ấy kể rất nhiều tình hình, nên tôi mới biết tường tận từng chi tiết như vậy. Tôi cũng biết gã Khỉ Già đó, hắn đáo để lắm, cũng lên bắc xuống nam suốt, biết rất nhiều chuyện trên trời dưới bể, đáng tiếc là cái bụng hắn xấu quá, có bản lĩnh nhưng không đi con đường chính đạo, cuối cùng phải đền bằng chính mạng sống của mình”.

Tư Mã Khôi và Hải ngọng nghe xong, đều cảm thấy chuyện này quá là tà mị. Nếu vật gã Khỉ Già ném xuống sông từ toa tàu hỏa là xác đứa trẻ, thì vì sao hắn lại không thừa nhận? Hắn đã mang trọng tội sát hại ba mạng người, thì cho dù giữa đường có hại chết thêm một đứa trẻ, hoặc là lén vận chuyển thi thể của đồng nam đồng nữ xuống phía nam, thì chung quy cũng vẫn mắc tội chết, hà cớ gì còn không chịu nói thật cơ chứ? Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi nghe nói, trước đây có một cuốn du ký, kể về một nhà thám hiểm người Ý, tên là Marco Polo. Thời Nguyên, Marco Polo theo đoàn thương nhân bộ hành vạn dặm đến Trung Quốc, ông từng diện kiến Hốt Tất Liệt. Sau khi trở về quê hương, ông đã tập hợp tất cả những chuyện kì lạ mắt thấy và tai nghe dọc đường và ghi chép lại trong cuốn du ký, những chuyện trong đó đã gây chấn động rất lớn. Nhưng, trước lúc lâm chung, Marco Polo đã nói: những điều mình viết lại chỉ là một nửa những gì mình tận mắt nhìn thấy, còn một nửa còn lại ông thà để nó mục ruỗng trong bụng chứ không muốn để bất kì ai biết; bởi cho dù có nói ra thì cũng không ai dám tin. Chẳng lẽ gã Khỉ Già bị xử tử kia, cũng phát hiện thấy thứ gì đó trong núi sâu, thứ mà… không một người nào dám tin?

Ông bác cựu binh thấy thần sắc Tư Mã Khôi hiện rõ vẻ bất an, liền nói: “Tuy bây giờ nhắc lại vẫn khiến người ta rùng mình, nhưng chuyện này rốt cuộc cũng đã trôi qua bao năm rồi, bây giờ chỉ là tào lao ngồi kể lại thôi, ai còn quan tâm ngọn nguồn gốc rễ của nó nữa chứ; vả lại chuyện quái dị trong lâm trường nhiều vô kể, sau này có thời gian tôi sẽ từ từ kể cho các cậu nghe…”, nói đến đây, ông bác hỏi Tư Mã Khôi: “Cô gái ngồi cạnh cậu, nom khí sắc có vẻ không được tốt lắm nhỉ!”

Lúc này, trời đã chuyển giữa thu, không khí trong núi lành lạnh. Cơ thể Thắng Hương Lân yếu ớt, cô che cuộn chăn len lên ngực, tựa người cạnh ba lô, mê man chìm sâu vào giấc ngủ, gương mặt trắng bệch như không còn sắc máu; cũng không rõ cô mơ thấy gì mà khi ngủ vẫn còn nhíu chặt hai mày, tình hình sức khỏe của cô trông có vẻ rất tệ.

Tư Mã Khôi thở dài đáp: “Không nhắc đến thì thôi, cứ nhắc đến là tôi lại rầu hết cả ruột. Cách đây không lâu, cô ấy bị trúng khí độc hàn nhiệt trong sa mạc, thỉnh thoảng lại thổ huyết đen, tìm thầy thuốc chữa trị mấy bận rồi, nhưng đến nay vẫn chưa thấy biến chuyển gì, nên đã bảo đừng đi theo tụi tôi vào núi, mà cô ấy cứ nhất quyết không nghe. Thực ra, cô nàng chẳng qua cũng chỉ đọc nhiều sách tí chút, mới biết Trái đất hình tròn và người tiến hóa từ vượn thôi, chưa đâu vào đâu đã không còn biết trời cao đất dày gì cả”.

Ông bác cựu binh rất nhiệt tình, quay lại bảo Tư Mã Khôi: “Đây là chứng trúng độc âm hàn nhiệt đó mà. Năm ấy, khi bộ đội vào núi tiễu phỉ, cả ngày chui luồn khắp hang hốc, khe cốc, những nơi đó đều rất ẩm thấp, âm khí nặng nề, có những khi dăm bữa nửa tháng không nhìn thấy ánh mặt trời, không khí quanh năm ứ đọng không lưu thông, lại liên tục phải truy quét bọn phỉ trong núi sâu, hành quân gấp gáp, khiến phổi muốn nổ tung, dễ khiến độc hỏa âm ỉ lặn vào tim. Chứng bệnh này như giả vờ vậy, cơ thể lúc nóng lúc lạnh, nôn ra toàn máu đen, thể lực người nào kém một chút là mất mạng như chơi. Đồng chí chỉ huy trong đội tụi tôi cũng chết vì nó đấy”.

Tư Mã Khôi nghe ông bác cựu binh kể, thấy rất giống với tình trạng của Thắng Hương Lân. Theo cách nói của lang trung, chứng bệnh này “ngoài nóng, trong lạnh”. Anh và Hải ngọng đã sớm quen với khí hậu ẩm ướt trong rừng rậm, nên đủ khả năng miễn cưỡng ứng phó với môi trường khắc nghiệt cực độ đó, còn Thắng Hương Lân, tuy cô cũng thường xuyên theo phân đội trắc họa ra ngoài thực địa công tác, nhưng điều kiện vẫn tốt hơn nơi này rất nhiều; vả lại trong quá trình mò mẫm dưới đáy vưc sâu, áp lực và sự giày vò mà tinh thần phải chịu đựng cũng tàn khốc chẳng khác nào điều kiện môi trường, mà cô có thể chống đỡ đến tận thời điểm này thì cũng khó khăn và đáng quý lắm rồi.

Ông bác cựu binh nói: “Năm đó, vì không hợp khí hậu, cộng thêm nhiệm vụ tác chiến cấp bách, nên quân số trong đội bị giảm đáng kể, số người chết trong núi cũng không ít, may nhờ lang trung bản địa đưa cho phương thuốc dân gian, tình hình mới có chuyển biến. Giữa rừng hoang núi sâu này có bốn vật quý là: giang biên nhất uyển thủy, đầu đỉnh nhất khỏa châu, văn vương nhất căn bút, thất diệp nhất chi hoa”.

Tư Mã Khôi không biết đó là những vật gì, liền vội hỏi. Thì ra, rừng rậm nguyên sinh Thần Nông Giá mọc rất nhiều dược thảo quý hiếm, thậm chí nước suối cũng có tính dược, mỗi khi tiếng sấm xuân nổi lên, hãy múc một bát nước suối dưới chân núi, nó có công dụng chữa trị chấn thương xương cốt, phong thấp. Một giọt sương trên đỉnh đầu có thể trị chứng đau đầu, cán bút Văn Vương có thể trị chứng nóng ngoài, còn bông hoa bảy lá có công liệu vô cùng kì diệu, thậm chí có thể nói là “khắc tinh của nọi chứng bệnh lạ khó trị”.

Thứ gọi là “Thất diệp nhất chi hoa”, là một loại thực vật giống như cái tên của nó. Đặc trưng của loài cây này là có bảy chiếc lá, nâng một đóa hoàng liên, có thể bắt gặp nó ở bất kì đâu trong núi, có khả năng chữa trị tận gốc các chứng bệnh như trúng độc âm hàn nhiệt. Nghe nói, loài cây này là di vật lão tồ Thần Nông để lại cho hậu thế, những người nghèo không có tiền bốc thuốc, sống trong vùng núi có thể dùng nó cứu mạng.

Ồng bác cựu binh còn nhiệt tình đi vòng một đoạn đường, tự mình xuống khe núi đào hai củ thảo dược, nghiền vụn nhào cùng nước suối, rồi gọi Thắng Hương Lân dậy, bảo cô mau uống, đoạn hỉ hả bảo: “Mệnh cô còn lớn đấy, trước đây chỗ này đâu đâu cũng toàn cây thuốc, nhưng bây giờ phần lớn rừng rậm đã bị chặt phá. Hôm nay đào được hai củ coi như trời thương người hiền rồi, bằng không các cô cậu phải vào tận trong rừng rậm nguyên sinh phía sau Yến Tử Ô mới tìm được cơ”.

Giữa đường, ông bác cựu binh phải đến lâm trường số bảy, trong khi ba người hội Tư Mã Khôi lại muốn đến thị trấn Thương Bách, nên hai bên đành chia tay. Tư Mã Khôi thấy Thắng Hương Lân sau khi uống thảo dược, sắc mặt trông có vẻ hồng hào thấy rõ, bởi vậy anh rất cảm kích ông bác cựu binh đầy nhiệt tình, anh liền lấy tem phiếu toàn quốc, loại để mua 5 yến gạo ra để biểu thị lòng cảm ơn.

Thời ấy, tem phiếu toàn quốc hoàn toàn có thể thay thế món tiền lớn, bất kể đi công tác hay đi thăm người thân, đến đâu cũng sử dụng được, nếu không có thứ này, ra ngoài nửa bước cũng thấy khó khăn, giá trị của nó còn đắt đỏ hơn nhiều so với tem phiếu địa phương, nhưng ông bác cựu binh kiên quyết không nhận, bác nói: “Lâm trường chỗ tụi tôi có lương, có gạo, không thiếu ăn cũng không thiếu uống, một tháng tiền lương trừ đầu trừ đuôi đi, vẫn đủ mua hai tút thuốc lá kinh tế, lấy chỗ tem phiếu này của các cậu làm chi? Vả lại, đem tem phiếu toàn quốc loại 5 yến ra để đổi lấy hai củ thảo dược thì nghe có vẻ cũng hơi nhiều đấy nhỉ. Nếu như các cậu thực sự có lòng muốn cảm tạ tôi, thì để lại cho tôi thứ khác nhé!”

Thứ đáng giá nhất trên người Tư Mã Khôi chính là tem phiếu toàn quốc, còn những thứ khác toàn là vật dụng cần thiết để vào núi. Anh cũng không biết ông bác cựu binh thực ra muốn lấy thứ gì.

Trên ngực Tư Mã Khôi có gắn “quân tinh”, đó là hàng xịn nhất trong các loại hàng xịn, là một “huy hiệu sao Mao chủ tịch”, được bộ chính trị cục giải phóng quân thiết kế và cấp phát. Nó chỉ nhỉnh hơn ngón tay cái một chút, cùng một bộ với huy chương “vì nhân dân phục vụ” vẫn thường thấy, viền vàng nền đỏ trông rất bắt mắt, do chỉ phát ra với số lượng vô cùng ít ỏi, nên kỹ thuật khá tinh xảo, bởi vậy trông cực kì đặc biệt, người bình thường còn chưa bao giờ nhìn thấy ấy chứ.

Lai lịch chiếc huy hiệu này của Tư Mã Khôi còn đặc biệt hơn. Thời kì đầu đại Cách mạng Văn hóa, anh cùng hội anh Thiết Đông đến Diên An tham quan quê hương cách mạng. Trên đường trở về, đột nhiên tuyết trắng rơi ngập trời như lông ngỗng, mọi người dõi mắt ra xa, chỉ thấy bầu trời mặt đất trắng xóa một màu tinh khiết, bất giác nổi hứng đồng thanh đọc to mấy câu thơ của Mao chủ tịch: “Phong cảnh phương bắc, ngàn dặm băng đóng, vạn dặm tuyết bay….”, đến câu cuối: “Đã qua hết cả, bao đời anh hùng, ngắm sao sớm ngời”, thì tên nào tên nấy xúc động đến mức những giọt nước mắt nóng hổi cứ ầng ậng khóe mắt như muốn tuôn trào, và họ không kìm được đã hô vang ba lần “Muôn năm! Muôn năm! Muôn năm!”, lúc đó đứa nào cũng cứ ngỡ mình đang trở thành “nhân vật hào kiệt thời nay” của Đường Tông, Tống Tổ cơ đấy. Kết quả là, Tư Mã Khôi vì hơi đắc thắng quá, mà đã vô ý ngã lăn xuống sườn núi, chiếc áo khoác anh lén lấy trộm của bố bị rách một miếng to. Khi ấy, anh Thiết Đông thấy Tư Mã Khôi đau suýt khóc đến nơi, liền gỡ huy hiệu trên áo mình xuống, đeo trước ngực cho cậu, và bầu không gian phủ trắng tuyết lại càng tôn lên vẻ lấp lánh của ánh sao vàng, ai thấy cũng không khỏi ngưỡng mộ.

Cũng chính vì ý nghĩa đặc biệt này, nên Tư Mã Khôi còn quý trọng nó hơn cả tính mạng mình. Lúc thường anh không nỡ mang ra đeo. Sau đó, lúc đi Miến Điện, anh gửi nó ở nhà Hạ cần, mãi khi được thả ra khỏi xưởng gạch ngói mới lấy về; nên cái này gọi là “nhìn vật lại nhớ đến người, vì hễ nhìn chiếc huy hiệu, anh lại nghĩ đến những chiến hữu đã chết thảm ở mảnh đất Miến Điện năm xưa. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi rất tiếc khi đem tặng nó cho người khác. Thực ra ông bác cựu binh cũng chưa chắc đã biết giá trị của chiếc huy hiệu, chỉ là thấy nó lạ mới thích mà thôi, nhưng người ta đã giúp đỡ, anh cũng không tiện chối từ, nên chẳng nói chẳng rằng, gỡ nó xuống đưa cho ông bác cựu binh.

Ông bác cựu binh có được chiếc huy hiệu thì vui mừng hớn hở ra mặt. Ông cáo biệt hội Tư Mã Khôi rồi vội vã đánh xe vào đường núi, bóng dáng dần xa khuất.

Thắng Hương Lân thấy Tư Mã Khôi rất coi trọng chiếc huy hiệu, lòng vô cùng cảm động, cô nói với anh: “Hôm nay rất cảm ơn anh, sau này tôi nhất định sẽ tìm một chiếc giống hệt như vậy trả cho anh”.

Hải ngọng biết rõ nội tình, anh bảo Thắng Hương Lân: “Em gái ! Em không biết đấy thôi, đừng thấy cả nước có bao nhiêu chiếc huy hiệu Mao chủ tịch to nhỏ khác nhau, nhưng tất cả chúng cộng gộp lại cũng không đổi được chiếc huy hiệu hình sao kia của thằng Khôi đâu”. Nói xong, anh quay người hỏi Tư Mã Khôi: “Hồi xưa tớ xin cậu mấy lần liền, mà tiểu tử nhà cậu còn không nỡ cho tớ đeo mấy phút, sao hôm nay đột nhiên lại trở nên hào phóng thế hả?”

Tư Mã Khôi vờ bình thản: “Vật rốt cuộc cũng chỉ là vật! Đâu đáng để mình phải bận tâm!”. Đoạn anh vác ba lô lên lưng, đứng dậy khởi hành, miệng thì bảo vậy nhưng lòng lại ngẫm nghĩ: “Nếu sau này tìm được vật gì quý hiếm, mình sẽ tìm cách đến lâm trường, để đổi lại chiếc huy hiệu vừa cho ông bác kia.”

Anh vì mải suy nghĩ miên man, mà không biết là cả hội vừa đi được một đoạn đường núi khá dài. Thị trấn Thương Bách đã ở ngay trước mắt, nhưng đi vào trong thị trấn, cả hội mới phát hiện nơi đó trống hoác, không có một bóng người, ngay cả tiếng gà gáy chó sủa cũng không thấy, chỉ có âm thanh vi vu của những làn sóng cây tùng bách nhấp nhô trong núi sâu văng vẳng truyền lại. Trong sắc trời chập choạng, âm thanh đó chẳng khác nào tiếng ma hờn quỷ khóc, nghe rất ma mị.

<strong style="font-size: 16px; text-align: center;">                                                        Hồi thứ năm<br style="font-size: 16px; text-align: center;" /><strong style="font-size: 16px; text-align: center;">                                                        THÁP CANH

Thị trấn Thương Bách là địa phận xung yếu của Thần Nông Giá, tuy quy mô của nó nhỏ hơn các thôn xóm bình thường khác, nhưng đó là con đường bắt buộc phải đi qua nếu muốn tiến vào núi, vì bốn phía núi cao bao vây trùng điệp, tùng bách mọc um tùm rậm rạp. Từ đây đi tiếp vào Yến Tử Ô, chỗ nào cũng toàn vách cao vực sâu nguy hiểm, bị rừng rậm nguyên sinh che phủ, con đường ở đây không còn là “đường” theo nghĩa thông thường nữa.

Hội ba người Tư Mã Khôi vào núi thăm dò bí mật chuyến này, cố gắng không tiếp xúc với người ngoài, tránh để bại lộ hành tung, gây ra những phiền toái không đáng có. Thế nhưng nếu không có người bản địa dẫn đường và bản đồ chi tiết, thì muốn vào rừng rậm nguyên sinh quanh năm không nhìn thấy ánh mặt trời này cũng đâu phải chuyện dễ, bởi vậy, trước tiên cả hội phải vào thị trấn để thăm đoàn trưởng Bạch.

Đoàn trưởng Bạch là cháu ruột của lão Lưu Hoại Thủy, trước đây từng là đoàn trưởng binh đoàn đường sắt, xét theo cấp bậc hành chính mà nói, thì chức ấy cũng tương đương với cán bộ đoàn thể cấp huyện. Trước Cách mạng Văn hóa, ông phục viên rồi chuyển đến địa phương này công tác, bây giờ là thành phần cốt cán của ủy ban cách mạng huyện, nên chỉ cần ông ấy chịu ra tay giúp đỡ thì khó khăn của ba người lập tức được giải quyết. Nào ngờ, hội Tư Mã Khôi đến nơi thì cả thị trấn vắng tanh không một bóng người, nhà nào cũng cửa đóng then cài.

Tư Mã Khôi và Hải ngọng đều giàu kinh nghiệm trinh sát hành quân. Hai người quan sát tình hình xung quanh một hồi, thấy mặt đất hãy còn đám tro tàn, nhưng bếp lò thì đã nguội lạnh từ lâu, mọi đồ đạc có giá trị trong nhà đều được chuyển đi sạch bách. Xem ra, toàn bộ người dân sống trong thị trấn này đã di dời đến nơi nào đó vào mấy ngày trước, còn nguyên nhân vì sao thì hội anh không đoán ra được.

Lúc này sắc trời đã dần tối, ba người đành trèo tường vào một nhà dân, ôm bó củi nhóm lửa, đun siêu nước nóng, nhuộm nhoạm ăn lót dạ vài miếng lương khô, rồi chuẩn bị ngả lưng cho lại sức.

Màn đêm buông xuống, nhiệt độ hạ rất nhanh, toàn thị trấn vùng thâm sơn chưa được mắc điện, nên chỗ nào cũng tối mò mò, mỗi lần gió núi quét qua, lại văng vẳng vọng đến âm thanh não nùng thê lương, như tiếng rên rỉ của rặng tùng bách phía ngoài thị trấn. Hội Tư Mã Khôi vì từng trải qua vô số trải nghiệm hãi hùng, nên cũng để ý đến mấy chuyện vặt vãnh ấy. Anh thấy Thắng Hương Lân sau khi uống thuốc, khí sắc chuyển biến rất tốt, nên cũng yên tâm hơn. Ba người ngồi quanh lò lửa, vừa sưởi ấm, vừa nói chuyện.

Lúc trước, Hải ngọng đã dự tính đâu vào đấy, anh còn cho rằng, nếu tìm được vị lãnh đạo địa phương, thì hội anh chí ít cũng kiếm được bữa cơm ngon canh ngọt, làm gì có chuyện không thết đãi mình nổi mấy món “canh gà hầm nấm, nham nhĩ(1) xào thịt quay, dưa cải muối om đậu phụ”, chẳng ngờ lại bị ăn quả hụt, bây giờ đành ngồi gặm lương khô, nên trong lòng thấy chán nản khỏi phải bàn. Nhưng nghĩ cũng lạ, không hiểu người dân trong thị trấn đi đâu hết?

Cả hội bàn luận ba câu sáu điều, rồi cùng cho rằng bớt một việc còn hơn thêm một việc, nên không cần thiết phải quan tâm xem thị trấn trong núi xảy ra chuyện gì, ngày mai vẫn tiến hành mọi việc theo đúng kế hoạch, tiến thẳng vào núi. Thế là, mọi người chuyển sang bàn bạc mục tiêu chuyến đi lần này.

[1] Nham nhĩ: một loài thực vật mọc ra từ các khe đá, hình thức gần giống mộc nhĩ, thường được dùng làm thức ăn.

Thông qua các manh mối phát hiện dưới kính viễn vọng Lopnor, đặc biệt là cuốn sổ giải mã chữ triện cổ triều Hạ, Tư Mã Khôi biết được có một nền văn minh cổ đại đã bị thất lạc ngoài sử sách. Nó khởi nguồn từ bộ tộc Quỷ Nô bị Vũ Vương nhốt dưới lòng đất, rồi hậu thế của họ phân nhánh và sinh sống ở nhiều nơi, trong đó có người Tochari ở Tây Vực và nước Diệt Hỏa ở Miến Điện v.v… Đặc điểm chung của họ là đều nhuốm màu sắc thần bí cô lập đậm nét, và có thể gọi chung tất cả hậu duệ của tộc Quỷ Nô là bộ tộc Bái Xà, tức tộc người thờ rắn.

Người Bái Xà đã mang tất cả truyền thuyết li kì và thần bí của dân tộc mình, chạm khắc lên bức tường đá của gian mật thất dưới lòng đất. Theo sự lý giải của hội Tư Mã Khôi, những truyền thuyết đó có lẽ chính là bia Vũ Vương chìm xuống vực sâu dưới lòng đất, vĩnh viễn không còn lộ diện trước nhân thế, nhưng tộc người Bái Xà lại vẫn còn vọng tưởng tìm thấy nó. Buồn thay, thiên số thì cao mà địa số thì sâu, vực thẳm mù mịt, nên người thường không có cách nào đặt chân đến đó.

Căn cứ theo những ghi chép mà tộc người Bái Xà để lại, muốn đến được chỗ đặt tấm bia Vũ Vương dưới vực sâu, trước tiên bắt buộc phải tìm thấy vật thể có tên là “nhật quỹ”. Vật thể lai lịch bất minh và quái dị này, khả năng xuất hiện từ thời Thần Nông. Thông qua sự khảo chứng chuyến đi lần trước của hội Tư Mã Khôi, thì người cuối cùng tận mắt nhìn thấy nó có lẽ chính là Sở U Vương thời Xuân Thu Chiến Quốc. Hơn hai ngàn năm từ đó về sau, ẩn số còn cổ xưa hơn cả niên đại cổ xưa, vẫn ngủ sâu trong Thần Nông Giá. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Hải ngọng nghe Tư Mã Khôi nói đến những chuyện này thì láu táu phỏng đoán: “Lẽ nào gã Nấm mồ xanh bảy phần giống quỷ, ba phần cũng không giống người kia, là người Bái Xà cổ đại?”

Tư Mã Khôi lắc đầu phủ định: “Nấm mồ xanh không có khả năng nhận biết chữ triện cổ triều Hạ, vì vậy hắn có vẻ không phải người Bái Xà bị diệt vong hàng ngàn năm về trước. Giờ đây, khuôn mặt và thân phận thực sự của u hồn đó vẫn để lửng không lời giải, nhưng dẫu có là ma quỷ, thì hắn cũng phải có một lai lịch nhất định chứ”.

Ba người đều cảm thấy chuyện này vô cùng kì quái, nhưng vì phục thù và chuộc lỗi, nên họ đành đặt mạng sống ra ngoài vòng sinh tử, tiếp tục đi tìm lời giải. Họ đã chuẩn bị sẵn tâm lý để ứng phó với mọi biến cố. Đêm hôm đó, hội Tư Mã Khôi tá túc trong thị trấn Thương Bách. Ngày hôm sau, trời còn chưa sáng, Tư Mã Khôi đã dậy, đi lòng vòng quan sát những ngôi nhà xung quanh, anh không tìm thấy súng săn, liền tiện tay lấy một ít muối và dầu cây tùng, sau đó để lại hai đồng chèn dưới bệ đèn.

Cuối cùng, anh và hai người bạn đồng hành thu xếp hành lý chỉnh tề, quấn vải vào bắp chân rồi tiến vào núi sâu. Tuy không có người dẫn đường, nhưng anh vẫn nắm được phương hướng đại khái, trước tiên phải vượt đỉnh Thần Nông Giá cao nhất so với mực nước biển, sau đó băng qua Yến Tử Ô, rồi tiến vào rừng rậm nguyên sinh; còn làm thế nào tìm thấy đường hầm trong Âm Hà Cốc, thì phải đợi vào núi trinh sát tỉ mỉ mới biết được.

Núi non ở Thần Nông Giá uy nghi, hiểm trở. Những dãy núi trải dài ngút tầm mắt, trông đồ sộ, nhấp nhô, trùng trùng điệp điệp nhiều tầng. Trong rừng mọc đầy lãnh sam, trúc gai và hoa đỗ quyên dại. Lúc này, tiết trời đang lúc giữa thu, cả cánh rừng nhuộm đỏ sắc hoa và xác lá khô, không những vậy, còn có vô số thác nước, dường như mỗi một sơn cốc đều có dòng suối nước trong vắt, xanh thẳm, tuôn chảy róc rách. Đi qua thị trấn Thương Bách chính là cánh rừng nguyên sinh không bóng người, càng vào sâu, rừng rậm càng um tùm, thần bí, khe núi hun hút, đỉnh núi xanh thẫm, trùng độc rắn độc và các loài dã thú thường xuyên lai vãng.

Ở Miến Điện, Tư Mã Khôi vẫn thường phải chui rúc trong các khu rừng rậm nhiệt đới, nhưng anh chưa bao giờ đi vào rừng rậm nguyên sinh giống như Thần Nông Giá. Anh chỉ biết đỉnh Thần Nông cách mặt biển 3000 mét, là ngọn núi chính cao nhất trong quần thể núi Đại Ba. Nhưng đến khi bước chân vào, anh mới phát hiện, các ngọn núi xung quanh đều sàn sàn giống nhau, địa thế nhấp nhô đan xen, không thể phân biệt rõ ngọn núi nào là đỉnh Thần Nông. Ngoài ra, cả dải rừng già núi thẳm này toàn là đỉnh núi cao chót vót và vực sâu chằng chịt, nhiều nơi không có đường đi, nên rõ ràng đã ngắm chuẩn hướng mà không qua nổi, đành đi đường vòng mất cả ngày trời, cuối cùng vẫn loanh quanh một chỗ.

Ba người phải dựa vào kinh nghiệm trước đây, mò mẫm theo hướng chạy nhấp nhô trải dài của ngọn núi, không ngừng đi sâu vào trong. Họ xuyên rừng suốt hai ngày, cũng không rõ đã phải quanh qua bao khúc đường vòng, thì mới thấy ở nơi sâu trong rừng cây có một ngọn núi hình dáng trông như đỉnh mái nhà, mà nhìn bao quát tứ phía xung quanh, thì dường như những ngọn núi khác đều không cao bằng nó. Mọi người đoán, có lẽ đây chính là đỉnh núi chính của Thần Nông Giá, mà cho dù có không phải, thì cũng có thể trèo lên đỉnh để bao quát địa hình. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Ngặt nỗi, trong rừng rậm không có đường, tứ phía toàn là rừng cây rậm rì rịt, dưới khe núi thấp hơn cả mực nước biển là rừng lãnh sam, còn ở trên cao là rừng trúc gai nguyên sinh đan cài mau rít. Những cây trúc cao to lực lưỡng, trên các đốt còn mọc đầy gai nhọn, đến khỉ vượn cũng phải bó tay không thể leo lên nổi. Các loại thực vật mọc xen lấn nhau, phân tầng theo độ cao, kết bện thành một tấm lưới khổng lồ, mảnh nọ tiếp nối mảnh kia, dường như không có khe hở nào cho phép con người đi xuyên qua. Những cây bách mọc không cao lắm, có thể bám vào cành mà leo lên, còn lúc thực sự không có đường nào để đi, thì chỉ có cách bới những lùm cây hoặc bụi cỏ ở chỗ thấp mà trèo qua, nên hệ thống định vị bằng các giác quan vốn có của cơ thể con người rất dễ bị nhiễu loạn, khiến cả hội buộc phải liên tục dựa vào la bàn để định vị phương hướng, điều đó khiến tốc độ giảm đi rất nhiều.

Cứ như vậy, cả hội cũng đi được một đoạn đường rừng. Trong bụi cỏ trước mắt, đột nhiên có mấy con chim trĩ bay ra tán loạn, chúng kéo cái đuôi dài lê thê nhảy bật lên độ cao tầm ngang người. Tư Mã Khôi và Hải ngọng biết: ngữ này chạy thì cực nhanh, nếu rơi xuống bụi cây rậm rạp thì có mà trời bắt được, nhưng bay thì dở tệ, trông lóng nga lóng ngóng như quạ vào chuồng lợn. Hai người nhanh tay nhanh mắt, ngắm chuẩn thời cơ con trĩ từ lưng chừng trời rơi xuống là lao đến vồ mỗi người một con, ném xuống bờ suối vặt lông sạch sẽ, rồi bảo Thắng Hương Lân nhóm một đống lửa, xuyên cành cây qua thân nó rồi cho chim lên nướng.

Hôi Tư Mã Khôi biết làm như vây là rất dễ dẫn dụ bọn dã thú trong núi sâu chui ra, nhưng thực sự không thể ngăn được sự mê hoặc của món hương vị núi rừng này, vả lại trên người đã có nến tín hiệu, nên cho dù có gặp hổ báo hay người rừng khó đối phó nhất, thì cũng nắm chắc khả năng xua chúng rút lui.

Hải ngọng càng không đợi được, anh chàng nhìn con trĩ mà hai mắt mòng mọng muốn chảy dầu, mặc kệ bị bỏng tay, anh chàng xé luôn một miếng cả da lẫn thịt, đút vội vào mồm, kết quả lưỡi bỏng, không nhịn được định kêu ré lên.

Tư Mã Khôi vẫn luôn giữ tinh thần cảnh giác rất cao độ, anh phát hiện ở nơi sâu trong rừng rậm đang có động tĩnh lạ khẽ truyền đến từng hồi, nên liền lập tức giơ tay bịt miệng Hải ngọng, không cho anh chàng kịp bật ra tiếng thét. Cùng lúc đó, Thắng Hương Lân vun đất dập tắt đống lửa trên đất.

Hải ngọng cũng nghe thấy phía sau lùm cây có tiếng chân giẫm lá lạo xạo, dường như là con dã thú nào đó ngửi thấy mùi thơm liền tìm đến. Anh vội vàng túm vạt áo, nhét nửa con trĩ đã chín vào, rồi lập tức rút con dao săn ở thát lưng ra. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Lúc này, phía sau những cây lãnh sam cao to, bỗng nhiên có hai con chó săn lưng đen tai nhọn mõm dài, thân hình to lớn, thần thái lầm lì, tinh nhuệ, lao vụt ra. Chúng không sủa tiếng nào, chúi đầu hất mõm, mắt gườm gườm nhìn hội Tư Mã Khôi.

Tư Mã Khôi biết đây là loài chó săn được huấn luyện, liền đứng im tại chỗ, đưa mắt ra dấu với hai người còn lại. Ba người đều không dám manh động.

Liền sau đó, có ba người chạy nhanh từ sau lùm cây ra, trong đó có một cậu thiếu niên chừng mười lăm, mười sáu tuổi, da đen ánh đỏ, tướng mạo dữ tợn, tay lăm lăm khẩu súng săn, thắt lưng giắt con dao đốn củi và hồ lô thuốc. Có lẽ, cậu ta là thợ săn trong núi. Phía sau cậu ta là một cô gái trẻ mặc quân phục, xem chừng cũng chỉ ngoài đôi mươi là cùng, mắt to tròn, đen láy, trông rất có thần, lưng đeo hành lý và bình nước quân dụng, cạnh eo giắt bao vũ khí, trông gọn gàng, chỉnh tề. Đi sau cùng là một thanh niên gầy yếu, giống bộ dạng thanh niên trí thức thường thấy trong lâm trường, sống mũi gá cặp kính cận dày cộp như đít chai bia, quần áo giặt đến bạc phếch, nhằng nhịt bao nhiêu chỗ vá, cậu ta cũng cầm súng săn, sau lưng đeo một chiếc máy bộ đàm không dây đời cũ, khi nãy chạy gấp quá, bây giờ mệt đến nỗi hai tay chống đầu gối thở hổn hà hổn hển.

Cậu thiếu niên nhìn dáng dấp giống thợ săn nhíu cặp lông mày nhỏ, giọng nói rất kích động. Cậu ta giận giữ thầm đánh giá hội ba người Tư Mã Khôi một hồi, rồi quay đầu nói với cô gái mặc quân phục: “Chị! Chính bọn họ đốt lửa đấy!”

Tư Mã Khôi đưa mắt ra hiệu bảo Hải ngọng nhẹ nhàng thu dao săn lại, sau đó vội vàng giải thích với đối phương: “Xin đừng hiểu lầm! Bọn tôi chỉ là người qua đường, thấy khói trong rừng bốc lên, liền vội vã đến đây dập lửa…”

Cô gái mặc quân phục nhìn miệng Hải ngọng vần còn nhét miếng thịt, thì biết ngay nội tình. Cô hỏi thẳng Tư Mã Khôi: “Các anh ở đơn vị nào? Có biết đốt lửa trong rừng nguy hiểm lắm không hả?”

Tư Mã Khôi đã chuẩn bị sẵn một màn khua môi múa mép để ứng phó. Anh tự nhận mình là người của đội khảo cổ, định đến rừng rậm nguyên sinh ở núi Đại Thần Nông Giá để tìm hóa thạch sinh vật cổ. Đồng thời, anh còn giơ thẻ công tác và hai phong thư giới thiệu ra, chứng minh mình có quen biết lãnh đạo ủy ban cách mạng huyện.
Cậu thiếu niên thợ săn vẫn không thèm đếm xỉa, còn cô gái mặc quân phục thì xem qua giấy tờ của Tư Mã Khôi, vì không phát hiện thấy điểm khả nghi nên cũng không tiếp tục truy cứu chuyện đốt lửa nữa. Cô nói: “Đây là địa phận núi trước của Thần Nông Giá, Âm Hà Cốc còn gọi là Âm Hải Cốc, nằm ở phía Tây Bắc của ngọn núi chính. Nghe nói, trong rừng sâu thường xuất hiện bọn sói đầu lừa, nó có thân hình chỉ nhỉnh hơn con lừa một chút, đầu cũng rất giống lừa, nhưng lại có bốn bộ móng vuốt sắc nhọn như loài sói, đuôi to dài, vừa có thể chạy lại vừa có thể bay, bản tính hung hãn, tàn nhẫn, những lúc không kiếm được thức ăn, chúng sát hại cả súc vật và thậm chí ăn thịt người. Các anh không mang súng săn phòng thân, lại muốn vượt qua Yến Tử Ô đi tìm hóa thạch ở rừng rậm nguyên sinh, thì đúng là quá sức nguy hiểm.

Tư Mã Khôi liên tục gật đầu cho là phải. Anh cũng hơi hiếu kì với lai lịch của hội cô gái mặc quân phục, không biết đối phương đang chấp hành nhiệm vụ gì, mà có cả thợ săn và thanh niên tri thức lâm trường bản địa đồng hành, không chừng lại đang hành động quân sự cơ mật cũng nên. Thế là anh liền tiến lại dò hỏi, mới biết nhóm đặc biệt này có nhiệm vụ đến tháp canh ở sườn bắc của đỉnh thần Nông Giá. Tháp canh đó cao tầm 40 mét, bên trên lắp đặt trạm thông tin và quan sát cứu hỏa, đứng ở nơi cao dõi mắt nhìn ra tứ phía, rừng cây cả vạn dặm đều thu vào tầm mắt. Đó là trạm cao nhất của cả dãy Thần Nông Giá này, nơi đó cách Yến Tử Ô phía sau núi không còn bao xa, có thể tiện đường dẫn hội Tư Mã Khôi đi cùng.

Tư Mã Khôi nằm mơ cũng chẳng ngờ, đang lúc buồn ngủ lại gặp chiếu manh, anh liền bước tới hỏi cô gái mặc quân phục: “Vì sao thị trấn dưới chân núi vắng tanh không một bóng người thế hả cô?”

Hồi thứ sáu

NGÔI NHÀ MA TRONG NÚI SÂU

Cô gái mặc quân phục biết rõ lai lịch hội Tư Mã Khôi, thì đồng ý dẫn hội anh đến tháp canh. Cô bảo: “Chúng tôi phải đến trạm nghỉ trước khi trời tối, nên không thể nấn ná lâu giữa đường, có gì muốn nói thì vừa đi vừa nói”. Thế là, mọi người khởi hành đến trạm quan sát tháp canh ở Đại Thần Nông Giá, hai con chó săn đi trước dẫn đường.

Cô gái mặc quân phục nói với Tư Mã Khôi, Thần Nông núi cao rừng thẳm, từ cổ chí kim tuy người ít thú nhiều, nhưng thành phần người sống ở đây lại vô cùng phức tạp, vì bản thân Thần Nông Giá là vùng đất tiếp giáp giữa ba tỉnh năm huyện, ở đây người Thiểm Tây, người Hồ Bắc, người Tứ Xuyên đều có cả, chủ yếu mưu sinh bằng nghề săn bắn, hái thuốc và buôn lậu sản vật núi rừng. Sau giải phóng, các lâm trường đua nhau mọc lên như nấm, hàng loạt bộ đội chuyển ngành đều chọn nơi đây để an cư lạc nghiệp, ngoài ra còn tuyển dụng rất nhiều công nhân đốn gỗ từ các tỉnh khác đến và cả thanh niên trí thức từ thành thị xuống lâm khu cải tạo tư tưởng nữa.

Thành phần tạp nham nên cũng dễ xảy ra chuyện, cách đây không lâu, có bốn thanh niên trí thức gác đêm ở lâm trường, vừa mới đặt lưng, bỗng nghe một tiếng sấm từ giữa không trung giáng xuống, khiến thoắt chốc bốn người đều giật mình tỉnh giấc, chỉ thấy có quả cầu lửa từ kẽ hở trên mái nhà luồn vào trong, thoáng cái đã biến mất. Dường như lằn sét khi nãy vừa đánh trúng mái nhà vậy, rồi liền sau đó tiếng sấm nổ như tiếng bom, tiếng nọ nối tiếp tiếng kia, âm thanh dội xuống gần mái, sét nhằng nhịt bủa vây ngôi nhà. Bốn người sợ xanh mặt, tất cả đều chui xuống gầm giường, không ai dám chạy ra ngoài.

Gặp phải tình huống này, trong lòng khó mà không nghĩ đến những chuyện xấu, nhất là những chuyện ma quỷ, nên có người nói: “Trong bốn người chúng ta, chắc chắn có kẻ đã làm chuyện bại hoại, chỉ sợ ông trời không cho chúng ta qua nổi đêm nay đâu, hảo hán dám làm dám chịu, hãy khẳng khái mà tự mình đi ra ngoài chịu sét đánh, đừng khiến những anh em khác phải chịu liên lụy theo”.

Lúc đó, một cậu bỗng òa lên khóc, cậu ta nói: “Nhà tôi chỉ có mình tôi là con độc đinh, mẹ già lại đang bệnh nặng, quanh năm lúc nào cũng cần người ở bên chăm sóc, bởi vậy tôi mới giấu mọi người mang tặng cho bí thư chi đoàn hai tút thuốc lá Mẫu Đơn và mấy gói hạt sô cô la do xưởng thực phẩm Nghĩa Lợi sản xuất, để đồng chí ấy viết cho tôi tờ chỉ thị được trở về thành phố, tranh suất của người lẽ ra phải được xét duyệt về thành phố chuyến này”.

Có người mở đầu, ba người còn lại cũng lần lượt kể ra chuyện xấu của mình, rốt cuộc con người nào có ai hoàn hảo, nào có ai thực sự không làm chuyện áy náy lương tâm? Nhưng cuối cùng, bọn họ vẫn không thể phán đoán ra được người nào mới là kẻ đáng bị trời đánh, thế là cả hội quyết định từng người chạy ra ngoài, khi người cuối cùng vừa bước chân chạy khỏi, thì ngôi nhà bị sét đánh trúng, góc nhà sụp một vạt lớn, gạch ngói cháy đen thui, trên xà nhà có một con mãng xà to như cái chày cán bột đang nằm treo mình vắt vẻo, toàn thân nó trông ánh lên những vằn đỏ. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Trước đây, các thanh niên trí thức đến lâm trường đều nghe kể truyền thuyết về yêu vật tránh sét, lúc này họ mới hiểu thì ra mình đang gặp chuyện gì. Cả hội liền vội vàng vác xà beng đến gần chặt tới tấp vào mình con mãng xà. Nào ngờ, sau khi nó bị chặt ra thành nhiều khúc, thì lại giống như con giun, khúc nào cũng có tri giác, còn có thể tự mình bò đi, rồi lại tụ hợp thành một thể. Bọn họ đành dùng lửa để thiêu, không ngờ gây cháy rừng, lửa gặp gió, càng cháy càng đượm, gần như cả lâm trường số ba đều bị thiêu hủy.

Trong bốn thanh niên thì có hai người bị lửa thiêu chết tại chỗ, hai người còn lại bị nhốt vào đồn thẩm vấn, nhưng không ai tin chuyện họ kể. Mọi người đều cho ràng họ bịa chuyện để chối đẩy trách nhiệm, bởi vậy hai người kia nhanh chóng bị chuyển lên cấp có thẩm quyền cao hơn, còn cụ thể họ bị ngồi tù hay xử bắn thì cô cũng không rõ.

Tư Mã Khôi biết, ở chốn rừng sâu núi thẳm, có một loài gọi là ngàn cước xà, hay còn có tên khác là toái xà, hợp lại là rắn mà tách ra thì biến thành giun, người chưa bao giờ nhìn thấy sẽ không thể tự tưởng tượng ra để bịa đặt được. Xem ra, câu chuyện mấy thanh niên trí thức kia nói, có lẽ phần lớn là sự thật, nhưng gây cháy rừng là tội rất nặng, dẫu là lý do gì thì cũng không thể chối bỏ trách nhiệm được. Nghĩ lại mới thấy bộ dạng tức giận của tay thợ săn thiếu niên khi nãy đúng là không phải vô duyên vô cớ. Trong rừng rậm, đâu đâu cũng toàn cành khô lá mục, mầm lửa chỉ cần bén lên là không thể nào dập tắp. Người ta đời đời kiếp kiếp kiếm ăn nhờ núi rừng, nên đương nhiên họ rất coi trọng việc phòng cháy chữa cháy.

Cô gái mặc quân phục lại kể tiếp tình hình trong núi, sau khi lâm trường số ba xảy ra hỏa hoạn, ngọn lửa lan đến thị trấn Thương Bách, người già, trẻ con và phụ nữ trong thị trấn đều được di dời tạm thời sang nơi khác, còn lại toàn bộ dân binh và công nhân lâm trường thì bị huy động vào núi dập lửa.

Cô gái mặc quân phục tên là Cao Tư Dương, người Nam Kinh, hiện giờ là học viên trường quân y quân khu Vũ Hán. Học viện này liên tục triển khai các hoạt động bộ đội chi viện địa phương, ở vùng núi Thần Nông Giá trong suốt nhiều năm, mục đích của hoạt động này là ngoài việc đẩy mạnh công tác huấn luyện quân quản, thì còn thâm nhập vào những khu vực mà giao thông bị tắc nghẽn nghiêm trọng để chữa bệnh, tặng thuốc cho người dân miền sơn cước.

Tháp canh trên Đại Thần Nông Giá được lắp đặt máy điện đàm, có thể tiến hành liên lạc điện đàm không dây đơn giản, chuyên dùng để thông báo tình hình cháy rừng ở khu này; quanh năm ở đây đều có người gác trực, nhưng từ sau khi lâm trường số ba xảy ra hỏa hoạn, thì tháp canh đó hoàn toàn bị mất liên lạc với thế giới bên ngoài.

Thượng cấp phát lệnh, địa phương phải sử dụng toàn bộ lực lượng đào rãnh phòng lửa, lúc này thực sự không kiếm đâu ra được người rỗi việc, vả lại chiếc bộ đàm không dây trên tháp canh là kiểu đời cũ, thường xuyên hỏng hóc, dăm bữa nửa tháng lại dở chứng, nên cũng không được mọi người coi trọng lắm.

Khi ấy, đúng lúc ở lâm trường có một thanh niên trí thức, biệt danh là “kính cận”, trước khi bị đẩy lên vùng núi anh ta từng được học chuyên ngành trắc lượng thông tin. Anh ta học hành rất chăm chỉ, nên cũng biết được chút kỹ thuật sửa chữa máy bộ đàm, nhưng khi chưa kịp tốt nghiệp thì vì vấn đề thành phần gia đình, nên bị điều đến vùng núi này đốn gỗ, người trong lâm trường quen gọi “kính cận” là “nhị học sinh”. “Nhị học sinh” là tiếng địa phương ở vùng núi này, chỉ những người học thấp hơn sinh viên đại học một cấp, tuy không thể hiện rõ ý coi thường, nhưng ít nhiều vẫn mang hơi hướng chế giễu và động chạm.

Lãnh đạo quản lý ở lâm trường thấy Kính cận thân hình yếu ớt, lẻo khẻo, lúc đào rãnh cứu hỏa trông rũ rượi ra như con chó sắp chết, thì phân công cho anh ta việc vác máy bộ đàm đi theo cậu dân binh Hổ Tử lên núi, đến tháp canh tiến hành sửa chữa hoặc thay thế thiết bị liên lạc. Lâm trường còn tính đến mức nhân viên gác trực có khả năng bị nhiễm bệnh, hoặc bị thương, mới khiến liên lạc bị ngắt quãng giữa chừng. Thế là, lâm trường liền nhờ Cao Tư Dương ở phân đội Hán Vũ đi cùng, để lúc đó có thể thực hiện những biện pháp cấp cứu kịp thời.

Cao Tư Dương đã từng vào núi Thần Nông Giá nhiều lần, nên rất thông thuộc môi trường bản địa. Cô là người có kinh nghiệm và năng lực hoàn thành nhiệm vụ độc lập, nên được mọi người bầu làm đội trưởng lâm thời của tiểu đội. Hai con chó săn giữa đường đột nhiên đánh hơi thấy người sống, xem phương hướng thì rõ ràng hội người này bị lạc đường trong rừng rậm. Tiểu đội lao đi đuổi theo dấu vết, cuối cùng phát hiện ra hội Tư Mã Khôi đang sử dụng lửa, liền vội vàng chạy đến ngăn cản.

Cao Tư Dương nghe người dân bản địa kể, điểm đáng sợ nhất ở Thần Nông Giá chính là cánh rừng rậm nguyên sinh trong Âm Hải Cốc, vì cho dù có mang theo súng săn và chó săn, thì cũng rất ít người dám mạo hiểm thâm nhập vào trong, bởi vậy cô mới khuyên Tư Mã Khôi phải suy nghĩ thận trọng, chí ít cũng phải trang bị súng săn và đi cùng người dẫn đường giàu kinh nghiệm mới được.

Tư Mã Khôi biết rõ ý tốt của Cao Tư Dương, nhưng anh không thể thấy khó mà lui, đành nói: “Thực ra, bọn tôi dã chuẩn bị tư tưởng lên hỏa tuyến rồi. Trước khi lâm trận, anh em tôi còn viết sẵn di chúc và đơn xin gia nhập Đảng, nếu lỡ một đi không trở lại thì mong các đồng chí hãy trích lương tháng sau của tôi ra, thay tôi đóng khoản đảng phí đầu tiên và cũng là cuối cùng. Cô có biết vì sao lại là lương tháng sau không? Bởi vì lương tháng này tôi đã tiêu hết nhẵn rồi”. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Cao Tư Dương thầm lắc đầu, cô cảm thấy loại người như Tư Mã Khôi đai khái thuộc kiểu “chủ nghĩa lạc quan mù quáng” điển hình, trừ phi vấp phải đinh, nếu không còn khuya mới biết quay đầu.

Tư Mã Khôi hỏi rõ ngọn nguồn, anh thầm tính xem làm cách nào mượn được khẩu súng săn của Hổ Tử để phòng thân. Mọi nguy hiểm trong rừng sâu núi thẳm chủ yếu bắt nguồn từ dã thú, bất kể là sói đầu lừa hay người rừng, cũng đều có nhược điểm sợ lửa; súng săn tuy hơi lạc hậu, tính năng cũng không đáng tin cậy, nhưng nói gì thì nó cũng là thằng cha biết nhả khói, hiệu quả tâm lý mạnh hơn hiệu quả sát thương nhiều. Nghĩ vậy, anh liền nhỏ giọng rỉ tai Hải ngọng mấy câu, bảo cậu ta trên đường cố kiếm cơ hội bắt chuyện với Hổ Tử, tránh lúc cần lại không mở nổi miệng.

Tuy cái miệng của Hải ngọng không được sạch sẽ lắm, nhưng lại lợi hại hơn cả ngàn quân vạn mã. Anh lên trước vỗ vai Hổ Tử: “Này, người anh em! Anh em mình thương lượng với nhau tí nhá. Đợi đến lúc tụi mình vào rừng rậm nguyên sinh Âm Hải, chú em cho anh mượn súng săn sử dụng mấy ngày, sau này có cơ hội, anh đây sẽ dẫn chú mày đi đây đó mở rộng tầm mắt. ông già nhà anh làm thiếu tướng, anh ở nhà lầu, đi “giải quyết nỗi buồn” cũng chẳng bao giờ cần ra khỏi phòng…”

Hổ Tử là đứa con chính hiệu của núi rừng, tuy lớn từng này nhưng chưa bao giờ ra đến huyện thành, nên đầu óc rất đỗi đơn giản, nói dễ nghe hơn thì cậu ta là người yêu ghét phân minh, còn nói khó nghe hơn một chút thì cậu ta là hạng ruột để ngoài da ngốc nghếch. Cậu ta vốn dĩ đã vô cùng khó chịu với hành vi đốt lửa trong khu vực rừng của hội Tư Mã Khôi, cho rằng đối phó với loại người này, không cần giải thích dài dòng, chỉ cần tóm cổ đem về là xong. Tư tưởng của cậu ta cũng ấu trĩ như loài vịt mở mắt thấy ai, người đó sẽ là mẹ, cậu ta ban đầu đã nhận định thế nào, thì sau này mãi mãi trung thành với nhận định ấy. Chính vì thế, Hổ Tử vừa nghe Hải ngọng nói mấy câu, đã cảm thấy anh bốc phét, trong lòng càng thêm tức giận: “Trên đời này làm gì có ai ‘giải quyết nỗi buồn’ ngay trong nhà, nhà của anh đúng là còn không bằng cái ổ chó”.

Hải ngọng cho rằng, mình là người từng tham gia cách mạng thế giới, là người từng trải, đi nhiều hiểu rộng, còn Hổ Tử chỉ là cậu dân binh quê mùa ở miền núi, tầm nhìn hạn hẹp, tư tưởng giác ngộ của hai người căn bản không cùng một tầng lớp, lời nói cũng không tâm đầu ý hợp, càng nghe càng không thể chịu được, nên thà không ai thèm để ý đến ai cho xong.

Nhóm người chia ra thành hai tổ, men theo con đường vượt núi, đến lúc xế chiều ngày thứ hai, cả hội mới đến được ngọn núi chính là Đại Thần Nông Giá. Trên núi, tùng trúc che khuất bầu trời, biển cây rừng mênh mông, cản trở gió và ánh sáng nguyên thủy của thế giới bên ngoài xâm nhập vào. Một tòa tháp canh đứng sừng sững trong rừng rậm ở sườn bắc, phía dưới chân tháp có gian nhà gỗ. Đó chính là trạm thông tin cứu hỏa được lắp đặt máy bộ đàm không dây. Ngoại trừ những ngày đại hàn, tuyết lớn phong tỏa núi, còn bình thường ở đây lúc nào cũng có một nhân viên bảo vệ rừng gác trực.

Trách nhiệm của nhân viên bảo vệ rừng cũng vô cùng quan trọng, ngày xưa đều do một thợ săn cao tuổi đảm nhiệm, đồng thời người này còn phải phụ trách cả công tác tuần núi. Sau này trạm điện đàm không dây được thiết lập, mới sửa đổi quy định, nông trường cắt cử dân binh lần lượt thực hiện nhiệm vụ. Vì giao thông trong núi sâu bị tắc nghẽn, vả lại dân binh đã qua khóa huấn luyện thông tin đơn giản cũng chẳng có mấy người, nên thông thường phải vài tháng mới thay ca một lần, điều kiện công tác và sinh hoạt ở đây còn gian khổ hơn vùng ven rừng nhiều.

Lúc mọi người đến trước cửa trạm thông tin, ở nơi sâu trong rừng rậm vẫn vọng lại tiếng gió ào ào như những đợt sóng. Phía bên trong gian nhà gỗ tối thui, không có ánh đèn, con chó săn dường như đánh hơi thấy mùi nguy hiểm, nó đột nhiên chĩa mồm về phía trạm thông tin sủa vang mấy tiếng, dường như muốn cảnh cáo chủ nhân không nên đến gần.

Cậu dân binh Hổ Tử nổi tiếng liều mạng từ nhỏ, cậu ta không buồn nghĩ ngợi, xông thẳng lên đẩy cửa, nhưng phát hiện cánh cửa đã bị khóa từ bên trong.

Để phòng dã thú, tránh gió và giữ ấm, toàn bộ vật liệu xây dựng trạm thông tin đều sử dụng gỗ lãnh sam có đường kính thân cây dày nửa mét, tuy là kết cấu bằng chất liệu gỗ nhưng vô cùng kiên cố, hơn nữa phía trước chỉ có một rãnh cửa, cửa sổ đóng ván gỗ, nếu bên trong không có người thì tuyệt đối không thể khóa cửa ở bên trong.

Hổ Tử lớn tiếng cất giọng gọi tên của nhân viên gác trực, cậu ta lại dùng hết sức gõ vào cửa thật mạnh, nhưng cửa trạm thông tin vẫn đóng chặt, im ỉm lặng ngắt.

Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Không chừng người gác rừng đột tử trong trạm rồi cùng nên, vì thế điện đàm mới đứt liên lạc như vậy”. Anh lập tức ghé sát mặt qua khe cửa sổ nhòm vào, lấy đèn pin soi, định nhìn xem tình hình trong phòng.

Bên trong căn nhà gỗ tối om, đèn pin cũng chỉ soi được trong vòng bán kính một mét, phạm vi nhìn thấy vô cùng hạn chế. Tư Mã Khôi vừa tiến sát cửa sổ, bỗng nhiên nhìn thấy trong phòng có một gương mặt quái quỷ toàn lông đen, hai con mắt đỏ lòm lòm chứa đầy tà khí, hắn cũng đang đứng trong cửa sổ lén dòm ra ngoài. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi giật thót tim, vội vàng nhảy bật ra sau, nhưng khi anh định thần nhìn lại, thì khuôn mặt đó đã biến mất.

Hải ngọng thấy thần sắc Tư Mã Khôi quái lạ, liền xông đến trạm thông tin ngó nghiêng mấy cái, bên trong tối mù mù, không có thứ gì, anh hỏi Tư Mã Khôi: “Cậu vừa trông thấy gì thế? Có người bên trong không?”

Từ khi Tư Mã Khôi đến núi Thần Nông Giá tới nay, anh từng nghe không ít truyền thuyết bí ẩn có liên quan đến người rừng. Thông thường, người ta cho rằng người rừng là những dân phu trốn vào núi sâu tránh nạn vào thời Tần Thủy Hoàng bắt xây Trường Thành; thế nhưng ngay từ thời kì Xuân Thu Chiến Quốc, Khuất Nguyên người nước Sở đã từng làm bài từ, mô tả người rừng trong núi Thần Nông Giá sống động như thật, và có lẽ đó chính là ghi chép sớm nhất về người rừng. Thời cận đại, những câu chuyện tận mắt nhìn thấy người rừng càng nhiều vô kể, họ đều mô tả đó là loài sinh vật cao lớn, giống vượn cổ, thường lảng vảng trong rừng rậm nguyên sinh Âm Hải, và chí ít cũng phải vượt qua Yến Tử Ô mới có cơ hội gặp được, còn ở ngọn núi chính Thần Nông Giá này thì chưa thể có dấu tích của chúng.

Tư Mã Khôi hoài nghi thứ mình nhìn thấy khi này có khả năng là người rừng, nên anh nhắc nhở mọi người cần tăng cường cảnh giác, người gác rừng có lẽ đã gặp phải điều bất trắc, chúng ta cần phá cửa vào xem rốt cuộc chuyện gì xảy ra.

Cao Tư Dương gật đầu đồng ý. Tuy cô biết trong cánh rừng rậm nguyên sinh cách biệt với thế giới bên ngoài này, bất kể chuyện bất ngờ nào cũng có thể xảy ra, nhưng bây giờ hội cô người nhiều thế mạnh, lại có chó săn và hai khẩu súng săn, nên dẫu có đột nhiên gặp phải dã thú nào cũng không đến nỗi mất mạng.

Mọi người xem xét và đánh giá trạm thông tin, thấy cả kết cấu kiến trúc rất kiên cố, ống khói trên mái nhà lại hẹp, nên không thể chui vào được. Tư Mã Khôi dùng sức đẩy cánh cửa gỗ hé ra một khe hẹp, rồi lấy dao chặt đứt khóa.

Cậu dân binh Hổ Tử xách súng định xông vào, nhưng Tư Mã Khôi dầy dạn kinh nghiệm đã kịp nhìn tình hình và cảm thấy có điều gì đó rất bất thường, nên không muốn cậu dân binh quê mùa này hành động hồ đồ thì có thể xảy ra án mạng, thế là anh liền giơ tay túm ngược cậu ta trở lại, sau đó cầm đèn pin thò người vào trong nhìn. Trạm thông tin dường như để hoang khá lâu, bốn bức tường lạnh lẽo, thảm nệm vẫn trải trên giường, súng săn cán dài, tù và đựng thuốc súng vẫn treo ở mép tường, rõ ràng chưa hề bị ai động đến, nhưng người gác rừng sống không thấy người, chết không thấy xác. Nếu trạm thông tin không có người, thì căn nhà gỗ khép kín này làm sao có thể bị khóa bên trong? Còn thứ mà anh vừa nhìn thấy khi nhòm qua khe cửa sổ khi nãy, thì rốt cuộc là thứ gì? Tư Mã Khôi còn lờ mờ cảm thấy trong không gian chật hẹp của căn phòng phảng phất một mùi quái dị, khiến người ta rủn lạnh hết chân tóc, nhưng anh lại không tìm thấy mùi đó phát ra từ vật gì.

Gió núi ùa vào căn nhà gỗ khiến cái mùi quái lạ kia nhanh chóng tan đi, mũi người không còn ngửi thấy gì nữa. Có điều, các thành viên phía sau Tư Mã Khôi cũng đã kịp phát hiện thấy mùi quái dị đó.

Cao Tư Dương đột nhiên nói: “Đây hình như là… mùi xác chết!”

Hải ngọng nói: “Người chết tôi thấy nhiều rồi, nhưng đâu có mùi gì đặc biệt. Cô tìm một giành cá mặn phơi nắng vài giờ đồng hồ, may ra còn giống mùi người chết, vì đó là mùi hôi thối rữa nát. Nó khác hoàn toàn với mùi trong căn phòng này”.

Tư Mã khôi cũng cảm thấy không giống với mùi tỏa ra từ tử thi, nhưng không rõ vì sao Cao Tư Dương lại hình dung như vậy?

Thắng Hương Lân phán đoán: “Có lẽ là mùi khí hóa học nào đó, rất giống với mùi dung dịch dùng để phòng chống hoại mục”.

Thực ra, bình thường, làm gì có ai phải thường xuyên tiếp xúc với tử thi rữa nát, những tử thi mà Cao Tư Dương trước đây từng nhìn thấy trong học viện quân y, đều được ngâm trong bồn xi măng chứa đầy dung dị phoóc môn, chuyên dùng cho sinh viên tiến thành luyện tập giải phẫu, bởi vậy cô hình thành phản xạ điều kiện chỉ cần ngửi thấy mùi này, tín hiệu đầu tiên xuất hiện trong óc chính là “người chết”.

Nếu hình dung một cách chính xác hơn, thì mùi khí kích thích mũi mạnh mẽ xuất hiện trong trạm thông tin khi nãy, gần giống với mùi foman đêhít sản sinh lúc lan tỏa trong không khí, dung dịch foman đêhít chính là dung dịch phoóc môn thường sử dụng để chế tác tiêu bản tử thi.

Tư Mã Khôi kể lại tình hình khi nãy anh trông thấy qua khe cửa sổ cho những người còn lại nghe, nếu không phải do anh bị hoa mắt, thì nhất định trong trạm thông tin có thứ gì đó đang lẩn trốn, vả lại nó chắc chắn là vật sống và không rõ vì sao lại xuất hiện mùi khí tiêu bản tử thi.

Hội Hải ngọng nghe xong chuyện cũng chỉ đề cao cảnh giác hơn một chút, chứ không hề cảm thấy sợ, còn mọi người lại định chuẩn bị xông vào bên trong lục soát.

Duy chỉ có anh thanh niên trí thức Nhị Học Sinh và cậu dân binh Hổ Tử, ở lâm trường bản địa, là đồng thời lộ nét mặt khiếp sợ. Bọn họ khẳng định chắc chắn với Tư Mã Khôi: “Anh vừa trông thấy ma rồi!”

Hồi thứ bảy

GàHÁI THUỐC

Đại Thần Nông Giá đất hoang rừng sâu, ngập tràn những truyền thuyết li kì kinh dị, nghe nhiều khiến người ta cũng không khỏi ớn lạnh tim gan, nên thông thường không ai dám kể truyện ma trong rừng thẳm núi sâu. Cao Tư Dương là học viên học viện quân y, những người không dũng cảm không dám học y, cô lại là người duy nhất mặc quân phục, bởi vậy cô không tin những lời lẽ của chủ nghĩa duy tâm: “Tối lửa tắt đèn thế kia, không chừng nhìn lầm cũng nên, trạm thông tin làm sao có ma được?”

Thắng Hương Lân cũng hỏi cậu dân binh và Nhị Học Sinh: “Tôi từng đọc một cuốn tư liệu, trong đó nói thời cô, người ta gọi người rừng là ma núi. Ma mà các cậu nói, có phải chỉ người rừng không?”

Tư Mã Khôi vừa nhìn phản ứng của hai người, thì biết chuyện này hẳn có nguyên nhân gì sâu sa bên trong. Tổ tiên nhiều đời nhà cậu dân binh Hổ Tử đều là thợ săn ở Thần Nông Giá, chưa bao giờ rời khỏi cánh rừng này; anh chàng kính cận Nhị Học Sinh biết sửa máy bộ đàm,  cũng ở lâm trường cải tạo mấy năm rồi, nên có thể coi là người lai bản xứ, có lẽ bọn họ biết chuyện gì đó mà người ngoài không biết, nhưng bất luận khuôn mặt khi nãy anh vừa nhìn là ma núi hay người rừng, thì chắc chắn hắn không thể nghiễm nhiên đào thoát ngay trước mắt mọi người được. Thế là, anh liền hỏi Nhị Học Sinh xem đầu đuôi câu chuyện thế nào, vì sao lại nhận định rằng trong căn nhà gỗ có ma?

Nhị Học Sinh được hỏi, thì đem kể tuốt tuột những gì mình biết cho mọi người nghe. Từ năm 1968, cậu ta đã đến lâm trường cải tạo tư tưởng. Lúc thường, ngoại trừ sách ra, thì cậu ta cũng không có sở thích gì khác. Vùng đất nằm ở rốn núi phía tây tỉnh Hồ Bắc này cheo leo hiểm trở, tịnh không bóng người, điều kiện vô cùng gian khổ, lạc hậu. Nhị Học Sinh nhớ lúc mới đến, thứ quý giá nhất trong lâm trường chính là chiếc đài phát thanh hiệu Xuân Phong, nút tắt mở còn bị hỏng, sau đó Nhị Học Sinh sửa được chiếc đài, vì chuyện này mà lâm trường đã mở hội, tổ chức vô cùng long trọng, trải vải đỏ phủ mặt bàn, rồi đặt chiếc đài lên đó, thậm chí phía sau còn treo tranh chân dung Mao chủ tịch và phó thống soái Lâm. Rất nhiều dân bản xứ và công nhân lâm trường gần đó nghe tin đều kéo nhau đến xem, ai cũng muốn tận mắt chứng kiến chiếc hộp màu đen biết nói. Lúc đó, tín hiệu phát sóng của chiếc radio rất tệ, mở ra chỉ thấy toàn tiếng rè, ngay cả âm thanh của nữ phát thanh viên cũng nghe không rõ, nhưng mọi người vô cùng vui mừng, nức nở khen ngợi tay nghề của Nhị Học Sinh, thật không ngờ trong đài còn có cô em nào đó, họ còn bàn bạc nhau tìm cách kéo cô ấy ra ngoài xem mặt mũi thế nào.

Nhị Học Sinh chưa bao giờ được ai xem trọng như thế, nên lòng cảm thấy rất vinh dự. Trong lúc còn đang phấn khởi, bỗng nhiên cậu ta ngửi thấy một mùi rất khác thường tỏa ra từ đám đông, giống hệt mùi trên các tiêu bản tử thi.

Nhớ lúc ở phòng sinh học của trường, Nhị Học Sinh từng nhìn thấy tiêu bản của thú rừng, nó cũng có mùi dung dịch hóa học nhức mũi y như vậy, cậu ta đứng dậy nghiêng ngó xung quanh, phát hiện hàng người phía sau có một kẻ đang thò cổ vào xem. Hắn choàng một miếng vải rách trên mặt, cố ý che gương mặt, chỉ lộ hai con ngươi lòng đen thì ít mà lòng trắng thì nhiều, trên người hắn toát ra mùi phoóc môn nồng nặc. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Lúc đó, đám đông nhốn nháo, Nhị Học Sinh thấy lạ, lòng sinh nghi, nhưng cũng không dám tiếp tục tìm hiểu. Ngày hôm sau, cậu ta hỏi thăm mấy công nhân lão thành trong lâm trường, mới biết tường tận. Thì ra, gã đó họ Dư, trước đây hành nghề hái thuốc, còn tên là gì thì không ai biết, người dân bản xứ quen gọi gã là Lão Xà. Gã khoảng 40 tuổi, vóc dáng bẩm sinh vai hùm lưng sói, vào núi săn bắn chưa bao giờ phải ra về tay không, không chỉ vậy hắn còn biết tuyệt kỹ “tiêu lộc”, tức là bắt chước tiếng hươu kêu.

Những kẻ hái thuốc trong rừng sâu núi thẳm đa số đều biết phân biệt vật tính của dược thảo, có khả năng trèo vách cheo leo dựng đứng hay vực sâu nguy hiểm, nhưng đó chỉ là những kỹ nghệ mạt đẳng nhất, vì muốn tìm thấy dược thảo quý hiếm, ngoại trừ liều mạng ra còn phải gặp vận may nữa. Không chỉ vậy, người hái thuốc siêu đẳng phải sở hữu những bí thuật độc môn, mà “tiêu lộc” chỉ là một bản lĩnh đặc biệt đã bị thất truyền trong số đó.

Rừng rậm nguyên sinh ở Âm Hải Cốc, từ xưa đã là nơi đàn hươu kéo đến cư ngụ. Nhu cầu giao phối của con hươu đực đầu đàn vô cùng mạnh mẽ, mỗi tiết cuối xuân đầu hạ, trong một ngày nó phải giao phối với hàng trăm con hươu cái, cuối cùng tinh lực cạn kiệt, nó gục xuống, nằm vật ra đất, dài cổ huýt gọi đồng loại, âm thanh này giống như tín hiệu cầu cứu. Khi hươu cái trong núi sâu nghe thấy tiếng gọi, chúng sẽ lập tức ngậm linh chi đến ứng cứu, những loại linh chi ngàn năm ngay cả người hái thuốc không tìm thấy, thì bầy hươu cũng tìm thấy, con hươu đầu đàn nuốt linh chi xong, chẳng bao lâu sau nó đã khôi phục thể lực, chạy nhảy băng băng như lúc đầu.

Người giả tiếng hươu phải đội cặp sừng hươu, mình mặc áo da hươu để ngụy trang, rồi nấp trong rừng rậm nguyên sinh bắt chước tiếng hú, dẫn dụ hươu cái ngậm linh chi đến, rồi dùng gậy đánh chết hươu cái, xẻ thịt lột da, lấy linh chi trong miệng nó. Có điều, muốn học được âm thanh này phải có thiên phú, trong vạn người chưa chắc đã có một người bắt chước thành công.

Năm 60, Lão Xà vào núi tiêu lộc, khi vừa cầm cây gậy sắt định đập nát sọ con hươu cái, thì chẳng ngờ con hươu đực đầu đàn, thân mình to hơn cả con bò, từ đằng sau đột nhiên xông ra, nó có cặp sừng nhọn như đinh, chẽ ngang dọc, vô cùng rắn chắc, các con mãnh thú trong núi gặp nó cũng phải nể nang vài phần, Lão Xà bị tấn công bất ngờ, không kịp phản ứng, nên bụng đã bị đâm một lỗ thủng lớn. Nhờ kinh nghiệm, gã biết lúc này cần chạy thục mạng ngay vào rừng rậm, vì nghe nói sừng hươu sợ nhất những nơi um tùm rậm rạp, nếu lỡ bị dây leo vướng vào thì chúng không thể động đậy gì nữa, lúc đó số phận chúng sẽ do con người tùy ý định đoạt. Thế nhưng vì chạy trốn quá gấp, không kịp phân biệt phương hướng, nên Lão Xà giẫm vào một thân cây cổ nằm đổ giữa đường, vỏ cây mục nát, bên trong có vô số loài nấm độc sinh sôi nảy nở, gã ngã dúi xuống, mặt dính đầy chất dịch nhầy nhớt nháp. Để tránh bị độc tính thâm nhập vào não, gã nén nhịn đau dùng dao lột hết da mặt, nên cuối cùng cũng giữ được tính mạng. Lão Xà rất tinh thông đặc tính dược thảo và các phương thuốc dân gian, nên khi trở về gã đi giết chết một con khỉ lông vàng, lấy da thú đắp lên mặt, nhưng không rõ dùng loại thuốc gì, mà cái da mặt xồm xoàm lông lá đã dần dần trở thành màu đen. Cũng từ đó, cơ thể gã lúc nào cũng nồng nặc mùi khí quái lạ, xua đuổi kiểu gì vẫn không hết, và cũng từ bấy giờ trở đi, gã không bao giờ vào rừng “tiêu lộc” nữa.

Hội Tư Mã Khôi nghe Nhị Học sinh tóm tắt câu chuyện, đều không khỏi kinh ngạc, chẳng ngờ trên đời này còn có người sói thật; không biết lúc tự mình rạch da mặt cảm giác sẽ thế nào?

Từ đặc trưng ngoại hình và mùi khí, Tư Mã Khôi phán đoán, khuôn mặt quái dị mà anh vừa nhìn thấy qua khe cửa sổ khi nãy, chính là gã hái thuốc tiêu lộc trong núi sâu, mà dân địa phương thường gọi bằng cái tên Lão Xà. Không rõ gã lén la lén lút ẩn nấp trong trạm thông tin vì mục đích gì, chỉ sợ gã đang che giấu bí mật xấu xa và đáng sợ nào đó, nhưng không gian trong nhà gỗ rất chật hẹp một người còn sống sờ sờ như thế thì trốn vào đâu được chứ?

Nhị Học Sinh nói với Tư Mã Khôi: “Kẻ anh nhìn thấy không phải người sống, mà là người đã chết từ lâu rồi”.

Cậu dân binh Hổ Tử chứng thực chuyện Nhị Học Sinh vừa kể hoàn toàn có thực. Cuối những năm 60, bộ đội tiến hành các hoạt động trong vùng núi Thần Nông Giá, suốt thời gian đó, lâm trường thực thi chế độ quân quản, biên chế và huấn luyện dân binh dần dần chính quy hóa. Bộ đội còn cung cấp các thiết bị điện đàm không dây, chi viện cho địa phương xây dựng trạm thông tin phòng cháy rừng, tháp canh cũng được xây dựng vào thời điểm đó; còn căn nhà gỗ kia thì có từ thời trước giải phóng, khi ấy có người mật báo Lão Xà ăn trộm đài truyền thanh trong lâm trường, đêm nào cũng nghe lén đài địch vào lúc canh khuya, không những vậy, còn thường xuyên lảng vảng quanh trạm thông tin, đào bới lung tung, dường như muốn tìm kiếm vật gì. Thế nhưng vì thiếu chứng cứ xác thực, nên lâm trường chỉ bắt gã về thẩm tra mấy lần, cuối cùng vẫn không có kết luận gì.

Năm ngoái, Lão Xà theo mấy người dân sơn cước vào Yến Tử Ô, thòng dây thừng dài trèo giữa hai vách cheo leo để hái thuốc, chẳng ngờ bị một bầy khỉ lông vàng gặm đứt dây thừng, làm gã bị ngã thẳng cổ xuống vực sâu. Những người hái thuốc kia đều nói, dã thú chết bởi tay Lão Xà thực sự quá nhiều, vả lại thủ đoạn của gã lại vô cùng tàn độc, thường ngày thích ăn óc khỉ, bắt được rắn liền lột da lấy mật nuốt chửng vào bụng ngay trong khoảnh khắc con rắn vẫn còn sống; tấm lông thú dán trên mặt gã cũng là của một con khỉ già. Loài khỉ lông vàng trong núi đặc biệt thù dai, chuyện khỉ tấn công người từng xảy ra nhiều năm trước đây, giờ nhìn thấy gã, bọn chúng hận đỏ mắt, nhân cơ hội gã chưa kịp phòng bị liền xông lên báo thù. Có thể thấy, sinh vật trong rừng sâu núi thẳm đều có sự linh thiêng nhất định, không nên tùy tiện sát hại chúng. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Sau này, dân binh vớt được thi thể của gã trong đầm nước dưới vực sâu, rồi chôn cất xác gã qua loa dưới một nấm mồ nông gần lâm trường. Chuyện này rất nhiều người đã tận mắt chứng kiến, bây giờ hài cốt có lẽ đã mục nát cả rồi, đương nhiên không thể xuất hiện trong trạm thông tin được.

Trước đó, Tư Mã Khôi hoàn toàn không biết nội tình, nghe cậu dân binh và Nhị Học Sinh kể xong, anh ngẫm nghĩ, gã Lão Xà này không giống những người hái thuốc bình thường, người đã chết thì không thể nào bò ra khỏi mộ mà sống lại được, nhưng khuôn mặt mà anh trông thấy lúc trước và cả mùi khí cổ quái vẫn còn vương vất trong căn phòng thì, thực ra là chuyện gì? Vì sao những chuyện quái lạ này không xảy ra sớm hơn hay muộn hơn, mà lại xảy ra vào đúng thời khắc này?

Tư Mã Khôi quyết định phải tìm hiểu chuyện này đến cùng, anh thủng thẳng nói: “Ông đây bình sinh giết người như giết kiến gió, giờ còn sợ ma chắc? Đợi ông lục soát kỹ chỗ này, rồi…”, mới nói đến đây thì Hương Lân nhè nhẹ giật lưng áo anh một cái. Tư Mã Khôi biết mình lỡ lời, vội ngậm miệng lại.

Cao Tư Dương cảnh giác trừng mắt hỏi Tư Mã Khôi: “Anh vừa nói gì vậy?”

Tư Mã Khôi lấp liếm ngay: “À! Tôi sợ gặp phải thứ không sạch sẽ, nên nói vài câu lên gân cho thêm vững dạ ấy mà”.

Hải ngọng cũng nói đỡ: “Ấy! Chuyện này để tôi làm chứng. Cậu ta nhìn người ta giết gà mà bắp chân còn bị chuột rút, thì làm gì có gan giết người?”

Cao Tư Dương nghe Tư Mã Khôi tự nhận mình vừa bốc phét, thì không tra hỏi gì thêm nữa. Cô cũng không nghĩ trạm thông tin trong núi sâu có ma, nhưng người gác rừng vô duyên vô cớ mất tích, rất có khả năng đã gặp phải sự cố gì rồi. Đây đâu phải chuyện nhỏ, có điều bây giờ ngoài trời đã tối mịt, không thể vào tháp canh phát tín hiệu cấp cứu được nữa. Cô là quân nhân duy nhất trong đội, đương nhiên phải đứng ra quyết định. Cao Tư Dương bảo Nhị Học Sinh điều chỉnh máy điện đàm, cố gắng liên lạc với lâm trường một cách nhanh nhất, sau đó ra lệnh cho cậu dân binh Hổ Tử dắt chó săn đến trợ giúp lục soát.

Lai lịch của Nhị Học Sinh có vấn đề nên không được mọi người tôn trọng lắm, cậu ta đã quen bị người ta sai vặt chạy chỗ này chỗ kia. Cỗ máy điện đàm không dây mà cậu ta vác trên lưng, vốn dĩ cũng không thường xuyên hoạt động, lại chỉ được dùng để thay thế linh kiện, nên giờ không sử dụng được. Sau khi phân công, cậu ta lập tức bắt tay tất bật sửa chữa một hồi.

Cậu dân binh Hổ Tử tuy liều, nhưng chung quy vẫn là dân quê chưa bao giờ bước ra khỏi lũy tre làng, nên không tránh khỏi tâm lý mê tín. Vùng núi phía tây tỉnh Hồ Bắc có phong tục, điều tối kỵ nhất là không để ma nhìn thấy chó đen, nếu không người chết sẽ sống dậy. Chính vì vậy mà cậu ta kiên quyết không đồng ý cho chó săn vào trong phòng. Cao Tư Dương thấy không thuyết phục nổi cậu ta, liền để cậu ta tạm thời đứng gác bên ngoài, những người còn lại bật đèn pin, vào trong lục soát kỹ từng ngóc ngách trong trạm thông tin.

Tư Mã Khôi đi đầu. Anh tinh mắt phát hiện tấm ván lát nền nhà dường như có dấu tích bị xô đẩy, dường như không còn ở đúng vị trí cũ, nên thầm nghĩ: “Chẳng lẽ dưới sàn có đường ngầm?”, rồi lập tức gọi Hải ngọng đến giúp một tay nạy tấm ván lên. Trước mắt, quả nhiên lộ ra một cái hầm hình vuông, sâu như cái giếng, mùi ẩm mốc phả ra từ bên trong, vị trí cửa hầm cũng không được che đậy kín kẽ lắm, nếu không bị ván sàn che phủ, thì chỉ cần bước chân vào trong nhà là lập tức nhìn thấy. Xem ra, có lẽ nó là hầm chứa thức ăn. Dân binh gác rừng gác một ca dài cả một, hai tháng, nơi đây lại rất cao so với mực nước biển, nên gặp lúc thời tiết nóng bức thì ở đây cũng hơi nóng một chút, bởi vậy rất cần loại hầm này để dự trữ lương thực và rau cỏ. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Lòng hầm đất rất rộng rãi, nhưng độ sâu thẳng đứng chỉ khoảng hai ba mét, bên trong bốc mùi ẩm mốc, lanh lẽo; khi chiếu đèn pin ra góc phía xa, thấy có một thi hài không còn nguyên vẹn da thịt, dường như bị dã thú gặm mất, xương sườn trước lồng ngực lòi cả ra ngoài, thi thể đã bắt đầu biến sắc, nếu không phải không khí dưới hầm đất âm lạnh, thì có lẽ nó đã sớm mục ruỗng, rữa nát từ lâu. Ngoại trừ cỗ tử thi đó ra, thì không còn tồn tại bất kì sinh vật nào khác trong gian nhà gỗ kín mít và lòng hầm đất ẩm mốc này.

Hồi thứ tám

HẦM ĐẤT

Lòng hầm đất trong trạm thông tin có mùi tanh của đất ẩm thấp, nó lấn át hoàn toàn các mùi khác. Tư Mã Khôi chưa thể phân biệt mùi phoóc môn có bay lẫn trong không khí hay không? Nhưng gương mặt của thi thể kia vẫn còn khá hoàn chỉnh, nó không giống với khuôn mặt Lão Xà mà anh vừa nhìn thấy qua khe cửa sổ lúc trước, có lẽ tử thi đó chính là người gác rừng xấu số.

Mọi người soi đèn pin, trông thấy thảm cảnh của người gác rừng, ai nấy đều bất giác nhíu mày, chốt cài bên trong cánh cửa sổ vẫn đóng chặt, cũng không còn lối ra nào khác, chính bởi vậy mới dẫn đến cái chết của người gác rừng, còn thứ đã gặm xác tử thi, có lẽ hãy còn lẩn trốn trong hầm đất.

Cao Tư Dương cảm nhận được tính nghiêm trọng của sự việc, bên mình lại không có vũ khí, cô liền lấy khẩu súng săn mà Nhị Học Sinh mang từ lâm trường đến, định xuống hầm đất xem xét tình hình.

Tư Mã Khôi sợ cô lỡ xảy ra chuyện, liền ra hiệu bảo Thắng Hương Lân và Hải ngọng ở lại chỗ cũ tiếp ứng, còn mình đội mũ Pith Helmet, bật đèn quặng trên đầu bám theo cô.

Cao Tư Dương thấy Tư Mã Khôi đi sau, thì cảm thấy vững dạ hơn nhiều. Hai người lần lượt kiểm tra khắp nơi trong hầm đất dưới ánh sáng của đèn pin và đèn quặng.

Tư Mã Khôi phát hiện dấu răng lưu trên thi thể người gác rừng rất lớn, không giống như bị chuột bọ gặm nhấm, mà giống như bị con vượn có thân hình rất to vừa cắn vừa rứt. Lòng anh chợt dấy lên một dự cảm không lành: “Nghe nói, cương thi thành tinh trong núi sâu không chỉ hút não tủy, ăn nội tạng của con người, mà còn có thể tàng hình, xuất hiện bất thình lình ở khắp nơi. Lẽ nào, cái xác Lão Xà đã nhập thổ từ bao năm nay.. giờ lại đội mồ sống dậy?”

Tư Mã Khôi cảm thấy gã hái thuốc tên Lão Xà đã chết kia, lúc còn sống nhất định có rất nhiều bí mật che giấu mọi người, nói không chừng, hắn đúng là âm hồn không thể siêu thoát, biến thành cương thi chuyên lảng vảng khắp nơi vào ban đêm cũng nên. Vả lại, nếu căn cứ vào mọi dấu vết để lại hiện trường, thì lúc này hắn vẫn chưa rời khỏi gian nhà gỗ. Có điều, nghĩa địa ở gần lâm trường cơ mà, sao hắn lại xuất hiện ở ngọn núi chính Đại Thần Nông Giá cô tịch bóng người này?

Tư Mã Khôi nhớ lại lúc nghe Nhị Học Sinh kể chuyện, Lão Xà đó bị người ta nghi ngờ có liên hệ với tổ chức đặc vụ, thường nghe trộm đài địch vào đêm khuya, lại còn lén lút lẻn đến đào bới gì đó ở gần khu vực trạm thông tin, như thể muốn tìm kiếm thứ gì đó. Trạm thông tin chẳng qua chỉ là gian nhà gỗ có người gác rừng trực, ngoại trừ cái máy bộ đàm bị hỏng và tòa tháp canh cao hơn bốn chục mét ra, thì còn có thứ gì đặc biệt khác? Cho dù gã có muốn đào mồ quật mả, trộm bảo vật thì cũng không nên ra tay ở đỉnh núi cao hơn hai ngàn mét so với mặt nước biển này chứ.

Lúc này, Cao Tư Dương đang lục soát ở rìa hầm đất, cô phát hiện thấy có một cái giành(1) buộc dây thừng, bên trong đựng đầy đất, đẩy cái giành sang một bên, chỗ chân tường lộ ra một cửa động hơi dốc xuống dưới, bên trong tối thui, trông có vẻ sâu hút. Cô ngạc nhiên nói với Tư Mã Khôi: “Anh xem này, phía dưới có địa đạo!”.

[1] Giành: đồ đựng đan khít bằng tre nứa, đáy phng, thành cao.

Tư Mã Khôi đi tới xem, phát hiện không khí trong động không lưu thông, liền đứng dậy bảo Hải ngọng thả đèn quặng xuống, sau đó cúi lưng, luồn người chui xuống. Địa huyệt này vừa chật chội lại vừa khúc khuỷu, độ sâu thẳng đứng ước chừng chưa tới mười mét, điểm tận cùng bị đào là một hố đất, khắp nơi còn vương vãi rất nhiều đất vụn cùng một cái xẻng sắt cán ngắn, dường như chủ nhân của nó vẫn chưa đào đến đích.

Địa huyệt chỉ đến đó, vì không khí không lưu thông, nên ánh sáng đèn quặng trở nên xanh lè và leo lét. Tư Mã Khôi lục soát tứ phía một lượt, nhưng không phát hiện thấy gì. Anh và Cao Tư Dương liền quyết định rút lui khỏi địa đạo, trèo lên chỗ hầm đất, rồi kể lại tường tận mọi chuyện cho những người còn lại cùng nghe: “Xem tình hình thì có lẽ ai đó muốn đào bới vật gì trong hầm đất, cũng bởi vậy nên người gác rừng mới bị sát hại, cái giành kia chính là công cụ vận chuyển đất”.

Cao Tư Dương thấy Nhị Học Sinh vẫn chưa sửa máy điện đàm xong, cô sốt ruột hỏi: “Hay là bọn đặc vụ địch tiến hành hoạt động phá hoại? Nhưng trạm thông tin nằm ở sườn bắc ngọn núi chính của Đại Thần Nông Giá, xung quanh hoang vắng, um tùm rừng rậm, không hiểu ở đây chôn thứ gì chứ? Không hiểu kẻ đào địa huyệt kia trốn ở đâu được nhỉ?” Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi nói: “Điều kì lạ chính là điểm này, ngoại trừ mấy người chúng ta ra, tôi cảm thấy trong trạm thông tin và dưới hầm đất, vẫn còn có thêm hơi thở của người khác nữa. Lúc mới phát hiện ra địa huyệt, tôi từng hoài nghi, tên giặc đất âm mưu quật mả tìm bảo vật, nhưng đỉnh núi cao cách mặt biển xa thế này thì có lẽ không tồn tại mộ cổ, có muốn từ đây đào sâu vào tận lòng núi thì sức người không thể làm nổi, nếu động huyệt sâu quá, trước tiên sẽ không giải quyết được vấn đề cung cấp dưỡng khí, ngoài ra tôi đã quan sát kỹ lớp đất ở bề mặt địa đạo, tất cả là đất tự nhiên, chưa hề bị đào bới bao giờ”.

Thắng Hương Lân nghe Tư Mã Khôi nói xong, cô lấy sổ vẽ hình đỉnh núi, đại diện cho ngọn núi chính của Đại Thần Nông Giá, trên đỉnh núi là tháp canh, sườn bắc là trạm thông tin. Bên dưới trạm thông tin cô còn vẽ hai nét đứt với góc độ hẹp, rồi giải thích: “Kết cấu địa chất trong đỉnh núi chủ yếu là tầng đá nham thạch, ở giữa tầng nham thạch nhất định tồn tại dải đứt gãy. Trong hầm đất dưới trạm thông tin toàn là đất, còn có thể đào một địa huyệt sâu mấy chục mét, điều đó chứng tỏ chỗ này vừa vặn giáp ranh với tầng nham thạch, sâu nhất cũng không thể quá trăm mét, nếu đào tiếp xuống dưới sẽ là nham thạch rắn chắc. Giả dụ khu vực tiếp giáp tầng nham thạch tồn tại một vật thể nào đó, thì có lẽ nó cách điểm tận cùng của địa đạo cũng không xa lắm đâu, bởi vậy hắn ta mới đào một cái hố lớn ở dưới đó”.

Cao Tư Dương thấy hội Tư Mã Khôi đều lập luận rất xác đáng và hiệu quả, lòng thầm nghĩ: may mà gặp được đội khảo cổ đi tìm hóa thạch, bằng không chỉ dựa vào ba người tổ thông tin, gặp phải tình huống này thì thật không biết xử lý thế nào. Xem ra máy điện đàm ở trạm thông tin tạm thời không thể sửa được, còn ngồi đợi lâm trường cắt cử viện binh đến, thì chí ít cũng mất hai ngày, mà thời gian càng kéo dài thì càng dễ đêm dài lắm mộng. Cô ngẫm nghĩ giây lát, rồi quyết định nhờ đội khảo cổ tiếp tục trợ giúp, đào địa huyệt thông đêm, thăm dò bí mật dưới trạm thông tin, đồng thời nghĩ cách lùng tìm tông tích của kẻ địch.

Đây là lần đầu tiên Nhị Học Sinh và cậu dân binh Hổ Tử gặp phải tình huống này, trong lòng hai người không tránh khỏi cảm giác hồi hộp và phấn khích, thấy sắp có cơ hội lập công đến nơi, họ liền lẩm bẩm mấy câu: “Hạ quyết tâm, không sợ hi sinh…”

Tư Mã Khôi cảm thấy chuyện này rất có khả năng liên quan đến Nấm mồ xanh, nên đương nhiên anh không thể khoanh tay đứng nhìn, nhưng anh cũng hiểu rõ: nhóm Cao Tư Dương rất thiếu kinh nghiệm tiếp ứng và chuẩn bị tư tưởng cần thiết, bởi vậy anh buộc lòng phải nói trước với bọn họ: “Bất kể cuối cùng tìm thấy cái gì trong địa huyệt, thì tôi chắc chắn nó là thứ vô cùng nguy hiểm và đáng sợ, vì thế mọi người phải lên dây cót tinh thần gấp đôi bình thường, nếu không chỉ cần lơ là một chút sẽ xảy ra chuyện lớn đấy”.

Cậu dân binh Hổ Tử đinh ninh Tư Mã Khôi là trùm sò của đội khảo cổ, nên cậu ta khăng khăng không chịu tin lời anh, lại còn vặn vẹo: “Cái động này vẫn chưa đào tới đáy, anh cũng chẳng phải thần thánh gì, sao biết trong đó nhất định có thứ nguy hiểm?”

Tư Mã Khôi nói: “Dân binh quê mùa nhà cậu chẳng hiểu gì về khoa học cả, thời đại nào rồi mà còn thần với chả thánh. Tôi bảo có nguy hiểm thì chắc chắn sẽ có nguy hiểm, vì đó là định luật Murphy”.

Cậu dân binh Hổ Tử tức giận phừng phừng nói: “Có khùng mới tin lời anh, chẳng lẽ mớ thùng phuy cũng là khoa học sao?”

Nhị Học Sinh giải thích với cậu ta: “Không phải mớ thùng phuy, mà là Murphy, đó là một định luật về sự hỗn độn, cơ bản được chia làm ba phần. Quỹ đạo phát triển và vận hành của sự vật là đa nguyên hóa, tồn tại vô số loại tính khả năng, bất kể anh có tiên liệu mọi việc chu đáo đến mức nào, nhưng đến khi nó xảy ra thì luôn xuất hiện những tình huống bất ngờ ngoài dự tính, điều này gọi là kế hoạch không theo kịp sự biến hóa, đó là câu tóm tắt hay nhất về định luật thứ nhất. Định luật thứ hai là “sợ cái gì, sẽ xảy ra cái đó”, anh càng không mong muốn nó xảy ra thì xác suất nó sẽ xảy ra càng cao. Tôi lấy ví dụ thế này, có lát bánh mì, một mặt phết bơ, nhưng lại bất cẩn lỡ tay làm nó rơi xuống tấm thảm đắt tiền, kì thực xác suất mặt phết bơ hay không phết bơ sẽ rơi xuống đất là tương đương nhau, nhưng trên thực tế, bất kể lát bánh mỳ rơi bao nhiêu lần, thì mặt phết bơ toàn bị úp xuống đất, bởi vì sự việc luôn luôn phát triển theo chiều hướng mà chúng ta không mong đợi nhất, đây cũng chính là nguyên lý Murphy – trọng lực số mệnh. Ngoài ra còn có định luật thứ ba….” Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Cậu dân binh Hổ Tử nhíu hai đầu mày, ngắt lời hỏi: “Chỉ bọn Nga ngố mới ăn bánh mỳ phết bơ và thịt bò xào giá đỗ, chẳng lẽ anh cũng từng ăn rồi à?”

Nhị Học Sinh sợ nói lỡ miệng, liền ngượng ngùng lắc đầu: “Tôi đã ăn bao giờ đâu, vừa rồi chỉ là lấy ví dụ cho cậu dễ hiểu thôi mà…”

Khi nãy, Tư Mã Khôi chỉ định đem mấy lời đao to búa lớn ra át thế, nhắc nhở mọi người không nên ôm hi vọng hão huyền, phải làm tốt công tác chuẩn bị để ứng phó với tình huống xấu nhất, nhưng nếu để anh giải thích thế nào là định luật Murphy thì có lẽ anh cũng không thể giải thích tỉ mỉ đến thế, chẳng ngờ Nhị Học Sinh cũng được đấy chứ, đúng là không uổng công chúi mũi đọc sách suốt ngày.

Cao Tư Dương nghe xong thì căn dặn Hổ Tử: “Tư Mã Khôi nói đúng đấy, em phải nghe lời anh ấy”.

Cậu dân binh Hổ Tử vẫn ương ngạnh: “Chị là chị em, em chỉ nghe lời mình chị thôi”.

Cao Tư Dương mắng: “Nói lung tung! Chẳng lẽ lời của Trung ương Đảng và Mao chủ tịch em cũng định không nghe nữa sao?”

Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Ranh con! Mới tí tuổi đầu mà cũng bày đặt tán gái cơ đấy! Thằng nhãi ranh này tính tình ngang như cành bứa(2) , hành sự lại lỗ mãng liều lĩnh, sớm muộn gì cũng tai họa giáng đầu thôi. Dù sao những gì cần nói thì mình đều nói cả rồi; nói là việc của mình, còn nghe hay không là việc của cậu ta, cậu ta tự đi mà lo liệu lấy.”

[2] Cây bứa: một loại cây to cùng họ với măng cụt, cành mọc xoè ngang, quả màu vàng, quanh hạt có cùi ngọt ăn được.

Hải ngọng châm chọc: “Này, người anh em Hổ Tử! Cậu chỉ nghe mỗi lời chị gái thôi à? Thế có định nghe lời anh rể không đấy?”

Cậu dân binh Hổ Tử đỏ tía tai mặt mũi, chỉ hận không thể nhào vô vật nhau với Hải ngọng một trận.

Thắng Hương Lân thấy vậy liền nhắc nhở mọi người còn phải đào địa huyệt. Hiện giờ, hai hội đang cùng chung một con thuyền, đừng vì những chuyện nhỏ nhặt dưa hành mắm muối mà đấu khẩu với nhau nữa.

Lúc ấy đã hơn mười giờ khuya, mọi người ăn chút lót dạ, rồi xuống hầm đất bọc thi thể người gác rừng lại, tạm thời đặt trên tấm ván, sau đó Hải ngọng đội đèn quặng chui xuống đào hố. Tư Mã Khôi tận dụng chiếc giành còn lại để đựng đất, đẩy về địa đạo, rồi ba người Thắng Hương Lân, Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh dùng dây thừng kéo lên, cuối cùng cậu dân binh Hổ Tử đứng ngoài trạm thông tin phụ trách xúc đất.

Vì người đông nên dưỡng khí tiêu hao rất nhanh, cả hội lại không chuẩn bị thiết bị cung cấp dưỡng khí, nên đào một lúc lại phải trèo lên trên để thở. Thế nhưng dây chuyền lao động vẫn tiến triển rất nhanh, nên chưa đầy hai tiếng sau, cái hố ở tận cùng địa huyệt đã được nới rộng mấy mét vuông, tiếp tục đào xuống sâu hơn đã là tầng nham thạch, xẻng sắt không thể đào được nữa.

Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Sao chưa tìm thấy thứ gì mà đã tới tầng nham thạch vậy nhỉ?” Anh lấy tay sờ tầng đá lộ ra bên dưới lớp đất. Ngoại trừ cảm giác kiên cố và lành lạnh ra, thì anh còn có cảm giác kết cấu của nó đều tăm tắp, không giống được hình thành do tự nhiên, lần ngang bên mép, ngón tay anh chạm phải mấy cây đinh sắt.

Tư Mã Khôi và Hải ngọng càng nhìn càng cảm thấy kinh ngạc, hai người xem xét tỉ mỉ cả nửa tiếng đồng hồ dưới ánh đèn cácbua, trong đầu liên tiếp hiện ra mấy dấu hỏi lớn, vật ở tận cùng địa huyệt thật ngoài sức tưởng tượng, xem ra định luật thứ nhất của Murphy đã phát huy tác dụng.

Hồi thứ chín

THÁM HIỂM HANG ĐỘNG

Dưỡng khí tại nơi sâu trong địa huyệt rất loãng, ánh đèn cácbua còn yếu ớt hơn cả ánh lửa ma trơi trong huyệt mộ, Tư Mã Khôi sờ thấy mấy cây đinh thò ra, mỗi cây to như ngón tay người lớn, chúng rất kiên cố, tựa hồ đã bám rễ trong tầng nham thạch vậy, soi đèn lại gần, thì thấy nó đen sì sì, không có độ bóng.

Tư Mã Khôi và Hải ngọng nhìn chăm chú hồi lâu, cảm thấy vật này rất quen mắt, có lẽ nó không phải là đinh, mà là đầu thép, còn tầng nham thạch bằng phẳng đào được dưới địa huyệt, là phần mái của kiến trúc đổ bê tông cốt thép, do mép tường chịu tác dụng của lực giãn nở nên bị rạn nứt, khiến cốt thép bên trong lòi cả ra ngoài, có điều ở một nơi như đỉnh núi Thần Nông Giá thì làm sao lại có một “căn phòng” như vậy được?

“Căn phòng” kiên cố và quái dị kia vừa vặn nằm ngay trong khe nứt chỗ đường giáp ranh của tầng nham thạch, cách đỉnh núi cao hơn hai ngàn mét so với mặt nước biển này cả mấy chục mét sâu, trên mặt đất lại hoàn toàn không có dấu vết đào bới đất cát, mà thậm chí ngay cả dân binh địa phương cũng không hề hay biết sự tồn tại của nó; thế nhưng công trình kiến trúc bê tông cốt thép này chắc chắn cũng chỉ mới được xây dựng mấy chục năm gần đây là cùng.

Hải ngọng nói: “Trước đây, vùng Hồ Bắc, Hồ Nam đều là địa bàn chiếm cứ của thổ phỉ, hay đây là sào huyệt mà bọn chúng để lại?”

Tư Mã Khôi lắc đầu bảo: “Thổ phỉ chỉ tận dụng hang động thiên nhiên có sẵn trong núi để lẩn trốn thôi, đội quân ô hợp như bọn chúng thì làm sao đủ sức tạo ra công trình kiên cố thế này?”

Hải ngọng lại nói: “Nhắc đến công trình, tớ mới nhớ ra, công trình này chắc chắn là hầm phòng không đấy. Mấy năm đó, đất nước chẳng đề ra khẩu hiệu: “Đào hầm, tích lũy lương thực, không xưng bá đạo, chuẩn bị cho chiến tranh, chuẩn bị chống hoang hóa, vì nhân dân phục vụ” là gì. Lúc đó, bộ đội công trình địa phương đào không biết bao nhiêu hầm lớn nhỏ, nghe nói tổng số khối lượng đất đá đào lên còn nhiều gấp mấy lần Vạn Lý Trường Thành cơ đấy”.

Tư Mã Khôi vẫn cảm thấy không giống một căn hầm trú ẩn. Đại Thần Nông Giá dân cư thưa thớt, đi sâu tiếp vào trong đã là cánh rừng rậm nguyên sinh Âm Hải Cốc, mà trên núi lại có bao nhiêu hang động thiên nhiên kì dị khác nhau, thì đâu cần thiết phải đào hầm trú ẩn phòng không; huống hồ, có lý nào lại xây hầm phòng không ở nơi này, bởi chẳng lẽ hàng ngày mỗi khi còi báo động vang lên, người ta lại rủ nhau chạy hai ngày đường núi đến đây lánh nạn? Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Hải ngọng lầm bầm: “Thế thì con bà nó quái lạ thật! Thôi, bọn mình cứ chui xuống nhìn xem bên trong nó là cái gì vậy”.

Tư Mã Khôi thấy chỗ nứt vỡ trên khối bê tông cốt thép, có một lỗ hổng khá lớn, phần bê tông bên trên trống hoác, đủ cho một người chui lọt. Không khí trong khe nứt âm lạnh, khiến hiệu quả chiếu sáng của đèn cácbua được phục hồi, chứng tỏ không gian bên trong rất sâu. Anh ngăn không cho Hải ngọng vội vàng chui vào trước, mà đề xuất họ nên quay về để chuẩn bị chu đáo mọi biện pháp an toàn.

Hai người kẻ trước người sau chui ra khỏi địa huyệt, rồi kể lại cho bốn thành viên còn lại tình hình vừa mới phát hiện: dưới lòng đất có khối tường kết cấu bê tông cốt thép, bên trong có lẽ rất sâu, nó không giống với công sự đa dụng thường dùng trong thời kì chiến tranh và hòa bình, nên chẳng rõ được sử dụng để làm gì?

Tư Mã Khôi dự định, đội khảo cổ hội anh sẽ chui xuống dưới, để đội thông tin ở bên trên tiếp ứng, vì tình hình vẫn chưa rõ thế nào, nên phải mang cả ba lô và đèn quặng xuống theo.

Cao Tư Dương biết rất rõ trách nhiệm của bản thân, cô đề nghị được đi cùng hội Tư Mã Khôi, cậu dân binh Hổ Tử cũng háo hức muốn lập công, đương nhiên không cam tâm ở lại, Nhị Học Sinh thấy gian nhà gỗ trong núi sâu tối lửa tắt đèn, mà bản thân anh ta đâu có gan ở lại canh cỗ tử thi, thế là cũng vội vàng nài nỉ xin được tham gia hành động cùng cả nhóm.

Tư Mã Khôi không thể từ khách trở thành chủ để chỉ huy đội thông tin, huống hồ ba người bọn họ cũng không chịu nghe lời anh, vả lại nghĩ đến việc trong địa huyệt và gian nhà gỗ có khả năng vẫn còn tên “cương thi vô hình” đang ẩn nấp, đối phương chưa kịp đào đến điểm tận cùng thì vội vã trốn biệt, tuy anh không phát hiện thấy xung quanh có hơi thở người sống, nhưng cũng không dám lơ là. Nếu để hội Cao Tư Dương đi cùng, ngộ nhỡ xảy ra chuyện gì, thì hội anh chí ít cũng có thể ứng cứu, bởi vậy anh không ngăn cản nữa.

Chẳng ngờ cậu dân binh Hổ Tử bỗng đột nhiên hấp tấp vác súng chui tọt vào địa huyệt, Tư Mã Khôi thấy vậy không nhịn được mắng: “Tiên sư cái thằng quê mùa! Đúng là đồ ngựa non háu đá!”

Tuy Tư Mã Khôi bừng lửa giận, nhưng anh vẫn lo lỡ cậu dân binh xảy ra chuyện gì, đành vội vã vác ba lô bám sát theo sau, những người còn lại cũng lần lượt chui xuống địa huyệt, mò mẫm đến chỗ có lỗ thủng ở cuối địa huyệt, rồi cùng chui vào bên trong.

Tư Mã Khôi đuổi theo Hổ Tử, tóm lấy tay cậu ta, gằn giọng: “Tiểu tử nhà cậu chán sống hay sao mà vội chạy đi đầu thai thế hả?”

Cậu dân binh giằng ra khỏi tay Tư Mã Khôi, cố chấp đáp: “Tôi chỉ muốn xem cái ‘mớ thùng phuy’ khoa học nhà anh có chính xác hay không, nhưng bên trong tối thui, có thấy cóc khô gì đâu? Nguy hiểm ở chỗ nào chứ?”

Tư Mã Khôi điên tiết: “Mớ thùng phuy cái mẹ gì, là Murphy…”, vừa nói anh vừa soi đèn quặng vào trong, phát hiện phía trên là một tấm trần bê tông cốt thép, dưới nó là một tấm sàn dày nặng y như vậy, chúng nằm song song, tạo thành một tầng lửng, cao tầm mét rưỡi. Ánh sáng đèn quặng có thể chiếu xa gần hai mươi mét, trong phạm vi này, anh thấy không gian trống hoác, không có bất cứ thứ gì, khác một trời một vực dự đoán ban đầu của anh. Tư Mã Khôi thầm cảm thấy kì quái, nửa câu sau anh không nói tiếp nữa.

Lúc này, bốn người còn lại cũng xách đèn quặng chui vào, thấy phía dưới lại là khối tường bê tông cốt thép nữa, quái dị y như tấm trước.

Thắng Hương Lân nói: “Chỗ này sâu hút, rộng rãi, nhưng chiều cao lại chỉ có mét rưỡi, chắc không phải phần chính của căn phòng, hay nó có hai tầng mái? Có điều, chiều ngang của chỗ này rộng quá, kết cấu của nó không giống với một căn phòng hay pháo đài bình thường”.

Tư Mã Khôi nhớ lại lúc ở Miến Điện, anh từng nhìn thấy kho máy bay không quân Hoàng gia Anh, cái nhà kho đó cũng có kết cấu bê tông cốt thép, phần đỉnh hình mái vòm, nhưng kho máy bay cũng không có tường ngoài hai lớp thế này.

Lúc này, Nhị Học Sinh quả quyết nói với mọi người, đây không đơn thuần là tường hai lớp, mà là kết cấu lõi kép, giống như bình giữ nhiệt có hai lõi vậy, nó có hiệu quả phòng ngự, chống xung kích rất tuyệt vời. Vì thế, đây có lẽ là một tòa công sự nhân tạo, mấy năm phòng chiến tranh chống đói, các đơn vị và bộ đội đều có nhiệm vụ “ba phòng”, không được đào quá nhiều hầm hào phòng không; thế nhưng loại kết cấu đặc biệt này tương đối hiếm gặp, có lẽ chỉ có bộ đội mới đủ khả năng tạo ra, chỉ có điều vì sao nó lại được đào ở ngọn núi cao cách mặt biển chừng này nhỉ?

Đây là lần đầu hội Tư Mã Khôi nghe thấy cụm từ “kết cấu lõi kép”, chẳng ngờ một Nhị Học Sinh không hề nổi trội ở lâm trường, lúc lao động cực nhọc thì rệu rã như con chó chết, mà lại biết nhiều thứ đến vậy.

Tư Mã Khôi hỏi cậu ta: “Tuy cậu là thanh niên tri thức từ thành thị đây lên vùng núi này cải tạo tư tưởng, nhưng nghe nói cậu chưa bao giờ nhập ngũ thì sao có thể hiểu rõ về các thiết bị quân sự như lòng bàn tay thế hả?”

Thì ra, thành phần gia đình Nhị Học Sinh không tốt, trước giải phóng là nhà tư bản ở Thượng Hải, đến đời cậu ta thì bất kể đi học hay vào xưởng làm công nhân đều rất khó khăn, chứ đừng nói đến chuyện tòng quân. Người anh họ khá khẩm nhất trong gia tộc cậu ta, từng tham gia binh đoàn kiến thiết và sản xuất, đến vùng hoang hóa phía Bắc làm việc, như thế đã cảm thấy vinh dự lắm rồi. Tham gia binh đoàn tuy rất gian khổ, nhưng lại được phân phát vũ khí, còn được mặc quân phục, nên những người xuất thân có vấn đề vốn dĩ đều không được phép tham gia. Anh họ Nhị Học Sinh phải nhờ không ít mối quan hệ mới được phân vào binh đoàn, quân phục cũng không có, nhưng quả thực cũng được phát súng phát đạn như những người khác. Do mối quan hệ Trung Xô ngày một xấu đi, nên năm 1969, hai bên đã xảy ra xung đột vũ trang kịch liệt trên đảo Chân Bảo, sông Ussuri, sau đó xung đột tiếp tục diễn tiến dữ dội, phía Liên Xô bày trận, hàng triệu lính dàn trải khắp biên giới tuyến sông, Trung Quốc rơi vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu khẩn cấp một cách toàn diện. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Đơn vị nông cụ của binh đoàn sản xuất kiến thiết, mà anh họ Nhị Học Sinn đóng quân, cách tuyến biên giới rất gần, họ có thể cảm nhận một cách chân thực đám mây đen chiến tranh đang vần vũ trên đầu. Một buổi tối, sau khi anh ta vừa huấn luyện xong và trở về nhà đi ngủ, chăn chiếu vẫn còn chưa kịp ấm, thì bỗng nhiên nghe thấy tiếng còi báo động, sau đó điện đài thông báo phía Liên Xô đã xuất binh, thành phố Tề Tề Cáp Nhĩ bên dòng sông Mẫu Đơn bị ném bom dữ dội.

Nghe thấy tin ấy, ai cũng thấy vô cùng kích động, tinh thần bi tráng tột độ, họ đoán định rằng: “Bọn râu xồm toàn là bộ đội cơ giới hóa, lúc này không chừng đoàn xe tăng của chúng đã đánh đến tận Thẩm Dương rồi cũng nên, chúng ta lại bị cô lập phía sau lưng địch, chỉ có thể rút lui vào núi đánh du kích”. Thế là, không quản băng rơi tuyết phủ kín trời kín đất, toàn bộ lực lượng vũ trang đã chạy thục mạng lên núi.

Đơn vị nông cụ vượt núi suốt đêm, người nào người nấy kiệt sức mệt lả, nhưng vừa đến nơi thì nhận được thông báo rằng đó chỉ là buổi diễn tập. Anh họ Nhị Học Sinh chỉ buông lời lầu bầu mấy câu: sao nỡ đày ải nhau thế! Chẳng ngờ lại bị người ta tóm tại trận và bắt kiểm điểm, may mà tiểu đoàn trưởng thương tình, không tiếp tục làm to chuyện, nhưng cuối cùng anh họ của Nhị Học Sinh cũng bị khai trừ khỏi binh đoàn và bị đuổi về quê nhà. Sau khi trở về, anh ta kể cho Nhị Học Sinh tình hình tiến hành công tác “ba phòng”, trong đó có cả chuyện nhà kho hạng nặng kết cấu lõi kép, có thể ngăn chặn bom phá pháo dội. Đương nhiên, những chuyện đó cũng chẳng phải bí mật quân sự gì, bởi vì trong sổ tay huấn luyện dân binh cũng có hình vẽ, chỉ có điều, rất ít người chịu đọc kỹ mà thôi.

Hội Tư Mã Khôi cũng đều trải qua thời kì đặc biệt ấy, nên nghe những lời Nhị Học Sinh vừa nói cũng thấy đúng là khá có lý. Xem ra kho ngầm lõi kép này có lẽ được xây dựng trong những năm phòng chiến tranh chống đói, do bộ đội công trình đơn vị nào đó bí mật xây dựng trong núi sâu, nhưng vị trí của nó vẫn rất đặc biệt, không thể nghĩ ra công dụng cụ thể của nó, càng không thể đoán được bên trong rốt cuộc chứa đựng thứ gì. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Cao Tư Dương nhắc nhở mọi người: “Chúng ta chưa được phép, không thể tùy tiện xem trộm thứ bên trong đâu!”.

Thắng Hương Lân phỏng đoán, cái nhà kho này có vẻ đã bị bỏ hoang nhiều năm, tuy nó tận dụng hang động tự nhiên ở chỗ tiếp giáp mạch nham thạch để xây dựng nên, nhưng kết cấu tự thân của nó lại tồn tại khiếm khuyêt lớn, cho dù được đúc bằng bê tông cốt thép kiên cố, thì vẫn không thể địch lại được lực giãn nở sản sinh do các khe đá trong lòng núi gây nên, bởi vậy phần ngoài mới xuất hiện vết nứt vỡ, có lẽ bên trong chỉ là cái ruột rỗng mà thôi.

Nhưng vì sao tên Lão Xà đội mồ sống dậy kia lại nhắm cái nhà kho ngầm bị bỏ hoang dưới lòng đất này nhỉ? Vì sao hắn lại biến mất trong gian nhà gỗ giữa núi sâu bị khóa kín? Chẳng lẽ, dưới lòng đất thực sự cất giấu vật gì quan trọng sao? Tất cả những chuyện này là hoạt động phá hoại của kẻ địch, hay còn có liên quan đến những bí mật cổ xưa nào đó đang chìm lắng dưới biển Âm Dụ?

Mọi người nóng lòng muốn làm rõ sự việc, sau khi bàn bạc vài câu xong, họ lại tiếp tục soi đèn quặng và đèn pin, mò mẫm về hướng vết nứt kéo dài trên mặt đất, di chuyển từng bước giữa tầng lửng thấp lè tè.

Tư Mã Khôi quay người, khẽ nói với Hải ngọng và Thắng Hương Lân rằng, thành viên đội thông tin không có kinh nghiệm ứng biến, lại chỉ lắp ghép tạm thời, thiếu năng lực hợp sức cần phải có, nếu đột nhiên xảy ra sự cố, chắc chắn đội hình của họ sẽ tan vỡ, bởi vậy mọi người cần để mắt đến bọn họ nhiều hơn, tuyệt đối không được phân tán đội ngũ, chỉ cầu mong sao chuyện này mau chóng kết thúc, đừng xảy ra sai lầm gì trong quá trình hành sự mới được; đến lúc đó hai đội sẽ chia tay, ai đi đường nấy, chúng ta sẽ tiến vào rừng rậm nguyên sinh Đại Thần Nông Giá như dự kiến ban đầu.

Tư Mã Khôi vừa nói vừa bất giác nhớ đến định luật Murphy – bất kể kế hoạch chuẩn bị chu đáo đến đâu, thì khi tiến hành, chắc chắn vẫn xuất hiện những sai lầm và nhân tố bất ngờ; cuối cùng, kế hoạch có thành công hay không, còn phải xem độ nghiêm trọng của sai lầm có ảnh hưởng quyết định đến kết quả hay không, cái này gọi là “người tính không bằng trời tính”.

Tư Mã Khôi càng ngẫm càng cảm thấy thế sự khó lường, cho dù tính toán vẹn toàn hết cả, nhưng đến lúc sự việc xảy ra, chưa chắc đã được như ý muốn, nên bây giờ thì chỉ có thể đi đến đâu hay đến đó. Thế là anh lấy lại tinh thần, bám sát theo sau đội thông tin, nghe ngóng sát sao mọi động tĩnh xung quanh.

Mọi người mò mẫm một hồi, cuối cùng cũng tìm thấy khe nứt ở tầng đáy, Tư Mã Khôi ném hòn đá xuống dưới thám thính, nghe tiếng đá rơi thì biết phía dưới cũng không sâu lắm, anh liền bảo mọi người đừng vội manh động, rồi tung người nhảy xuống trước, nhưng đèn quặng do sử dụng lâu ngày, lại thêm khi nãy bị chấn động và rung lắc nên tiếp xúc kém, nó đột ngột vụt tắt. Trước mắt chỉ còn màn đêm đen quánh, ngoại trừ hơi thở và tiếng tim đập của chính mình, thì xung quanh yên ắng đến độ một chiếc kim rơi cũng có thể nghe thấy.

Tư Mã Khôi đang kiểm tra đầu đèn lỏng chặt thế nào để vặn lại cho sáng, nhưng vừa giơ tay thì anh sờ thấy một ống thép lớn lạnh tanh, nặng trịch nằm chắn ngang ngay trước mặt, không rõ đó là vật thể gì. Anh vươn rộng cánh tay ra hai đầu sờ thử, nhưng vẫn không sờ thấy điểm tận cùng. Xúc giác lan tỏa từ bàn tay đã khiến tim Tư Mã Khôi đập liên hồi: “Đúng là sợ cái gì thì gặp mẹ cái nấy rồi còn gì!”.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro