CHƯƠNG 3 - CHIẾC HỘP PANDORA

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi thứ nhất

KHO PHÁO QUÂN SỰ LÕI KÉP

Tư Mã Khôi sờ thấy ống thép lạnh băng trong bóng tối, dựa vào xúc giác thì dường như đó là một cỗ pháo tăng. Trong đầu anh phút chốc vụt hiện lên hình ảnh dòng máu đen chảy ra ùng ục từ thất khiếu của người chết, đó đều là thảm cảnh của những chiến hữu bị quân chính phủ bắn pháo hạng nặng gây chấn động lục phủ ngũ tạng đã ngã xuống trên đất Miến Điện. Nghĩ đến chuyện này, tim anh lại như bị ai bóp nghẹt, nhưng nếu là pháo hạng nặng thì nòng pháo có vẻ hơi dài thì phải?

Tư Mã Khôi nóng lòng muốn xem rốt cuộc là thứ gì, anh lấy tay vặn chặt thân đèn bị lỏng, chùm sáng phóng vụt ra phía trước. Tư Mã Khôi bất giác khẽ thốt lên kinh hãi: “Ối Phật tổ ơi!”, bốn phía là bốn khẩu pháo tăng to tổ bố.

Lúc này, hội Hải ngọng đợi Tư Mã Khôi ở ngoài hồi lâu vẫn không thấy động tĩnh gì, liền lục tục theo chân nhau chui vào khe nứt, nhờ ánh sáng đèn cácbua, mọi người nhìn thấy vật thể nằm chắn ngang trước mắt, khiến ai nấy đều lập tức ngẩn người ra nhìn.

Thực ra, cảm giác lúc trước của Tư Mã Khôi không hề sai, đó là khẩu pháo hạng nặng họng ngoại cỡ, chỉ có điều thể tích của nó rất lớn, hình dạng cũng vô cùng đặc biệt, nhất là nòng pháo, đúng là dài khiếp người, vả lai góc độ nòng pháo gần như song song với mặt đất, trông hoàn toàn khác với những khẩu pháo dùng trên địa hình núi thường thấy. Trong không gian hạn hẹp, chật chội, nó khiến người ta cảm thấy bị đè nén đến ngộp thở.

Khẩu pháo với hình thù kì lạ này rất giống với khẩu đại bác D-20 bắn đạn trái phá 152mm do Liên Xô sản xuất mà Tư Mã Khôi và Hải ngọng từng nhìn thấy ở Việt Nam. Nó vừa có đặc tính của pháo bắn đạn trái phá và pháo bắn lựu đạn, vừa có khả năng tiến hành áp chế hỏa lực đường dài, lại vừa có khả năng trực tiếp ngắm bắn; có điều, khẩu pháo vừa phát hiện, chắc là loại D-66 của Trung Quốc nhái hàng Liên Xô, với quy cách đường kính họng pháo giống y đúc với hàng Liên Xô, thật không ngờ, nó lại được cất giấu trong kho pháo quân sự lõi kép trên ngọn núi chính của Đại Thần Nông Giá.

Tuy là sinh viên học viện quân y, nhưng Cao Tư Dương lại không phải bộ đội dã chiến, hơn nữa, ngay cả lính tráng cũng chưa hẳn đã nhận biết được tất cả các loại súng pháo, nên cô chưa bao giờ nhìn thấy khẩu đại bác bắn đạn trái phá 152mm đời D-66, thậm chí còn chưa bao giờ nghe thấy tên nó. Lúc này, cô bất giác nảy sinh đôi chút hoài nghi về lai lịch của hội Tư Mã Khôi, vì người bình thường làm sao có thể phân biệt chính xác loại hình và họng súng các khẩu pháo một cách cụ thể như vậy được?

May mà lúc trước khua môi múa mép, hội Tư Mã Khôi đã nói từng tham gia đánh du kích, Hải ngọng còn thanh minh bảo ông già nhà anh là thiếu tướng, cả gia đình ở nhà lầu trong quân khu, đi vệ sinh cũng không cần ra khỏi cửa, nên có hiểu biết tí chút về trang bị pháo binh thì cũng có gì đáng nói đâu.

Mọi người đưa mắt nhìn, phát hiện ngoài bốn khẩu pháo đó ra, xung quanh còn chất đầy hàng thùng đạn pháo, trên tường còn sơn khẩu hiệu “Xây dựng pháo binh nhân dân vững mạnh”. Quan sát kỹ kết cấu của kho pháo quân sự lỗi kép, thì thấy có vẻ như tổng thể kiến trúc của nó đều được nằm trong huyệt động ẩn giữa lòng núi, được đổ hai lớp bê tông cốt thép trong lòng động để che đậy tung tích, và lõi kép còn có hiệu quả phòng chống xung kích do bom mìn dội xuống. Ở giữa có thông đạo nối liền, hai đầu nam bắc rộng rãi, lần lượt đặt bốn khẩu pháo đại bác D-66 án ngữ bốn cửa, nên nó có thể bắn dội từ trên cao xuống, từ cửa động hai sườn nam băc, bắn thúc ra ngoài; tầm bắn ở đây lại khoáng đạt, vị trí rất kín đáo, từ góc độ chiến thuật mà nói, thì đặt đại bác ở địa điểm này là cực kì lý tưởng. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Cuối những năm 60, các nhà lãnh đạo Trung Quốc cảm nhận được sự uy hiếp của chiến tranh, nên bắt đầu tiến hành điều chỉnh chiến lược quy mô lớn, các vùng như Hồ Bắc, Hồ Nam, Vân Nam, Tứ Xuyên, Quý Châu v.v… đều được coi là khu vực chiến lược trọng điểm. Các đơn vị và bộ đội đồn trú tại cơ sở nhận nhiệm vụ thi công những công trình và tham gia những hạng mục huấn luyện mang tính đối ứng, trong đó có rất nhiều công trình quân sự chuyên môn được bảo mật nghiêm ngặt, kho pháo quân sự lõi kép này cũng nằm trong phạm trù đó. Có lẽ, công trình được triển khai từ lưng núi, còn mấy khẩu đại bác D-66 được tháo dỡ từng linh kiện vận chuyển vào đây, sau đó mới được lắp ghép lại, bởi vậy dân binh bản địa mới không hay biết trong núi còn có một nơi như thế này.

Chính vì vậy, cửa động sườn bắc và sườn nam đều bị chặn lại, khiến kho pháo quân sự lõi kép hoàn toàn bị niêm phong trong lòng núi. Trộm nghĩ, có lẽ do thời cuộc thay đổi, kết cấu của nó không hợp lý, đã dẫn đến tường kho rạn vỡ, nó mới bị bỏ hoang vào phút chót, nhưng khẩu đại bác lại không tiện di dời, nên khi ấy vẫn chưa dỡ ra vận chuyển, tạm thời để lại trong núi, đề phòng mai sau cần dùng.

Đó là cách giải thích hợp lý duy nhất mà Tư Mã Khôi có thể nghĩ ra. Có điều bây giờ lại nảy sinh một nghi vấn khó hiểu hơn, vì sao gã hái thuốc tên Lão Xà lại biết trong đây có công trình quân sự này? Nếu hắn muốn thực hiện hành vi phá hoại, phá nổ kho pháo, thì ở lòng núi sâu cô tịch bóng người này cũng không thể tạo ra hiệu quả lớn lắm, còn nếu như không phải vì nguyên nhân này, thì có lẽ nó có liên quan đến bản thân “sơn động”.

Mọi người đoán, kho pháo quân sự lõi kép cũng chỉ bị bỏ hoang mấy năm nay thôi, còn động huyệt bên ngoài lại có niên đại cổ xưa đến nỗi không thể truy tìm nguồn ngọn, mà rìa công sự lại xuất hiện nhiều vết nứt vỡ, có thể đi thông thẳng vào nơi sâu trong lòng núi. Cả hội đang định tiếp tục lần tìm manh mối, thì bỗng nhiên ngửi thấy mùi phoóc môn lan tỏa trong làn không khí âm lạnh.

Tư Mã Khôi mò theo mùi khí, ngẩng đầu lên nhìn, thì thấy ở khe nứt phía sau mấy thùng đạn có nửa thân người đang thò ra. Kẻ đó có thân hình vạm vỡ, vai rộng eo thon, gương mặt giống như loài vươn cổ bị tuyệt chủng từ thuở nào, hai con ngươi nhiều lòng trắng ít lòng đen, toàn thân lấm lem bùn đất. Hắn ta trông như xác chết mới chui từ mộ lên vậy.

Tư Mã Khôi vừa nhìn thấy khuôn mặt và thân hình gã đó, liền biết đó chính là Lão Xà hành nghề hái thuốc mà cậu dân binh vừa kể. Lúc trước, có lẽ đối phương đã vùi mình dưới lớp đất trong địa huyệt, mới che giấu đưọc mùi khí quái dị toát ra từ cơ thể, đồng thời trốn thoát thành công khỏi sự truy lùng của mọi người. Thế nhưng kẻ đó thì đã chết từ năm ngoái, vả lại người còn đang sống sờ sờ làm sao có thể tự chôn mình dưới bùn đất trong địa huyệt được? Với khứu giác nhạy cảm của Tư Mã Khôi, đối phương chỉ cần khẽ thở ra một chút, là anh sẽ lập tức phát hiện thấy, vậy mà lúc này cự li giữa hai người gần như mặt đối mặt, mà anh vẫn không cảm nhận được chút sinh khí nào tồn tại trên cơ thể gã, có điều cảm giác này lại hoàn toàn không giống với u hồn Nấm mồ xanh kia.

Những người còn lại hoàn toàn bất ngờ với sự xuất hiện đột ngột của đối phương, vả lại khi trông thấy tay Lão Xà khua khua một ngọn đèn dầu đang thắp sáng và một cuộn thuốc nổ tự chế dùng để phá núi, thì ai nấy đều giật thót mình, vì chỉ cần ngọn đèn rớt xuống đất một cái là sẽ dẫn đến hỏa hoạn cháy nổ. Đây không phài là chuyện chỉ nổ “đoàng” một cái là xong, mà là khối lượng thuốc nổ khổng lồ trong kho quân sự cũng đủ sức biến cả ngọn núi này thành bình địa trong nháy mắt, bởi vậy mọi người đều yên lặng đứng im tại chỗ, không ai dám manh động, chỉ duy cậu dân binh Hổ Tử điếc không sợ súng là hăm hăm hở hở vác súng chĩa thẳng vào đối phương.

Lão Xà khàn giọng hăm dọa: “Thằng nhãi dân binh! Mày vác súng thì vác cho chắc đi, kẻo lỡ cướp cò bắn nhầm sang chỗ khác, thì đừng mong chạy thoát khỏi chỗ này”. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Cao Tư Dương không chịu kém miếng, cô cũng giương súng lên hỏi: “Làm sao ông chạy đến được đây?” Tư Mã Khôi biết đối phương đã chuẩn bị chu đáo mới dám mò tới nơi này, liền ra hiệu bằng mắt cho Thắng Hương Lân và Hải ngọng, ý bảo: “Tùy cơ ứng biến, không được mạo hiểm hành động”.

Lúc này, Lão Xà nói với Cao Tư Dương: “Một đấu sáu, thì cũng chẳng sao! Có điều chúng ta việc gì phải đánh nhau để cả hai đều chịu tổn thất?”

Lão Xà nói, chuyện của gã thực ra cũng không có bí mật gì đáng giấu. Trước đây, dựa vào những tuyệt kỹ đầy mình, gã hành nghề tiêu lộc săn bắn ở cánh rừng nguyên sinh Đại Thần Nông Giá, và bất kể chim quý thú lạ hay linh chi ngàn năm, hà thủ ô hiếm có thế nào, chỉ cần gã ra tay là chưa bao giờ phải trở về tay không.

Nhưng từ khi gặp nạn, dung mạo bị hủy hoại, gã không cách nào tìm được mảnh da người, nên đành lột da khỉ đắp lên, rồi buộc phải bôi thuốc chống rữa nát. Từ đó, trên người gã lúc nào cũng mang theo mùi quái di. Ngày qua ngày, gã sống cuộc sống người không ra người, quỷ không ra quỷ, ai ai cũng sợ hãi tránh xa, còn bản thân gã cũng cảm thấy mình sống không bằng chết, đầu óc bất giác nảy sinh tà niệm, nên lúc nào cũng ngậm mối hận trong lòng với mọi người xung quanh. Gã định tìm cơ hội giết chết vài người, rồi làm vài chuyến hàng lớn, vượt biên trốn xuống Nam Dương(1).

[1] Nam Dương: cách nói xưa của người Trung Quốc chỉ khu vực Đông Nam Á.

Nguyên nhân của cả chuỗi sự kiện phải bắt đầu kể từ đầu những năm Dân Quốc. Khi đó, có một nhà khoa học sinh vật địa chất người Mỹ, tên là Taninth. Ông ta từng nhiều lần đến núi Thần Nông Giá để tiến hành khảo sát, và phát hiện Âm Hải Cốc là cánh rừng nguyên sinh hiếm có trong khu vực trung vĩ độ, là nơi ẩn mình của rất nhiều loài cổ sinh vật đã bị tuyệt diệt từ hàng trăm triệu năm trước. Ông ta tổ chức một đội thám hiểm săn bắn, vây bắt những loài dã thú quý hiếm trong núi cao rừng rậm, đồng thời sưu tầm lượng lớn tiêu bản thực vật và côn trùng.

Hồi trước giải phóng, sư phụ năm xưa của Lão Xà là lên giặc đất chuyên đi đào mộ đổ đấu, từng làm hướng đạo cho ông Taninth. Lão thổ tặc miền sơn cước là kẻ có tầm nhìn hạn hẹp, nhận thức nông cạn, thấy trên người ông Taninth có nhiều dây chuyền vàng, nên đã hạ độc thủ vào lúc cả đoàn thám hiểm vừa phát hiện ra địa huyệt dưới lòng đất, đang định trở về chuẩn bị tiến hành bước kế tiếp. Lão ta đã giết chết tất cả thành viên trong đoàn, chiếm đoạt tổng cộng ba sợi dây chuyền to như ba ngón tay.

Cuối cùng, sư phụ Lão Xà mắc bệnh nặng. Trước lúc lâm chung, lão kể hết cho đồ đệ nghe chuyện mình đã ra tay hạ độc thủ cả đoàn thám hiểm Taninth như thế nào và cả chuyện thi thể họ cùng các trang thiết bị vẫn đang được cất giấu trong lòng núi. Có điều, lão kể những chuyện đó không phải bởi lương tâm cảm thấy hối lỗi mà bởi lão hối hận, hối hận vì khi đó tầm nhìn quá nhỏ hẹp, cứ nghĩ bạc trắng, tiền đồng mới là tiền, vả lại lúc đó ăn cắp run tay, chẳng kịp để ý đến những thứ khác mà đào bới.

Lão sư phụ nói với đồ đệ: “Vi sư ta cả đời làm thổ tặc, lại biết tuyệt kỹ tiêu lộc hái thuốc, nhưng cuối cùng vẫn là tên nhà quê chưa bao giờ được trông thấy thế giới bên ngoài. Động huyệt dưới lòng đất mà ông Taninth tìm kiếm ở ngay dưới cánh rừng nguyên sinh Âm Hải Cốc, nơi sâu nhất có khe thông với mạch núi Âm Sơn. Trước đây, nghe các cụ nói, người chết thành ma, nếu lúc sinh thời đức hạnh bại hoại, thì sau khi chết, vong hồn người đó sẽ bị nhốt dưới núi Âm Sơn, vạn kiếp không được siêu sinh, nơi nhốt âm hồn quá nửa chính là chỗ này. Ông Taninth không tin chuyện ma quỷ. Trước khi hành sự, ông ta còn chuẩn bị rất chu toàn, từ bản đồ đến vũ khí, không thiếu một thứ gì, các thành viên trong đội thám hiểm cũng là những tay cừ khôi hạng nhất. Tiếc là, lúc đó vị sư thấy mấy sợi dây vàng, nên nhất thời nổi lòng sát sinh, không át chế được tà niệm, còn nếu đợi đến khi đội thám hiểm Taninth đào được mấy món hàng ngon dưới lòng đất lên mới ra tay giết người, rồi sau đó mang hàng đến Nam Dương tiêu thụ, thì bây giờ thử hỏi cuộc đời ta còn huy hoàng đến độ nào?”

Sư phụ nói xong thì uất ức tắt thở. Lúc đó, Lão Xà bắt đầu ghi nhớ chuyện này, nhưng mãi không tìm được cơ hội ra tay. Sau đó, gã phát hiện thấy bộ đội công trình bí mật xây dựng kho pháo quân sự lõi kép trong lòng núi, thì thấy càng khó tiếp cận hơn. Mãi đến khi gã “tiêu lộc” thất thủ, cũng không thể tiếp tục làm ăn trong lâm trường, gã liền hạ quyết tâm phải tìm mấy món hàng lớn trốn đi Nam Dương, nên lập tức bắt tay chuẩn bị. Đầu tiên, nhờ vào các mối quan hệ, gã mò mẫm được kết cấu kho pháo quân sự lõi kép, biết vỏ ngoài nhà kho đã bị nứt vỡ, gã liền đục lỗ chui vào đó từ chỗ giáp ranh với mạch nham thạch trên núi.

Ngoài ra, gã còn dò hỏi được một số tin tức từ các thanh niên trí thức trong lâm trường. Trong đám thanh niên, không ít người từng đến vùng duyên hải Quảng Đông, khi tham gia phong trào hồng vệ binh do học sinh sinh viên phát động. Nghe mấy người đó kể: “Vượt biển trốn sang Hồng Kông là phương thức thường thấy nhất, không cần lo lắng sóng to gió lớn gì, càng không sợ tàu nhanh của bộ đội biên phòng tuần tra đâm chết, anh chỉ cần cho ngư dân tí lợi, là họ dám đưa anh vượt biển thông đêm. Nếu gặp thời tiết thuận lợi, dù không biết bơi cũng cứ việc ôm gối hơi mà bồng bềnh một mạch đến Hồng Kông. Mặt biển ở đó bao la, làm gì có chuyện đen đủi đến mức đụng độ với cảnh sát tuần trên biển được? Rất nhiều gia đình con em phần tử cánh hữu, không chịu nổi sự xung kích của xã hội, đều trốn sang Hồng Kông theo con đường này, họ còn nói dự định sẽ sang bên đó tổ chức vũ trang khởi nghĩa lật đổ ách thống trị thực dân, nhưng người ra đi cũng không ít mà vẫn bặt vô âm tín, tuyệt không thấy động tĩnh gì, có lẽ họ đều lẩn trốn, lặng lẽ ngồi chờ cao trào của cách mạng thế giới”.

Lão Xà đâu dám cả tin, bảo chạy sang Hồng Kông không phải chuyện khó, sao ngư dân bản địa lại không đi?

Trong lâm trường, núi thì cao mà hoàng đế lại ở xa, những thanh niên trí thức đó không cần húy kỵ gì cả, nói toẹt tình hình thực tế cho hắn nghe: “Marx đã chỉ ra – bản chất của chủ nghĩa tư bản là người ăn thịt người, anh là ngư dân, qua bên đó anh vẫn chỉ là thằng ngư dân, ăn no vác nặng thì qua bên đó cũng vẫn là ăn no vác nặng, người không tiền không quyền sống ở đâu mà chẳng khó khăn; điểm khác biệt duy nhất chính là một số người qua bên đó, vận may cũng khởi phát hơn một chút, nhưng nhân dân bách tính phổ thông đi đâu mà chẳng phải kiếm cơm qua ngày? Bởi vậy, trừ khi không còn con đường nào khác, phần đông người ta vẫn chọn lựa cuộc sống an phận thủ thường”. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Lão Xà rốt cuộc vẫn là kẻ chưa bao giờ bước chân ra khỏi ngọn núi, nên lòng hoang mang vô kể. Gã nghe đồn lúc đêm khuya có thể thu sóng đài địch, nên định trước khi hành sự sẽ thử nghe ngóng tình hình bên đó, chẳng ngờ lại bị người ta phát hiện và báo cáo tổ chức, rồi tuy không có bằng chứng trực tiếp, nhưng vẫn chịu sự quản chế nghiêm ngặt. Thế là gã giả chết để trốn vào trong núi, mãi đến khi lâm trường số ba xảy ra hỏa hoạn, mọi người đều bị điều đi đào rãnh phòng hỏa, gã mới nhân cơ hội này lần mò đến trạm thông tin. Tên dân binh gác rừng trong đó trước đây từng chơi xấu gã, mối hận ấy gã ôm trong lòng đã lâu, nay hạ thủ không thương xót chút nào. Sau đó, gã lập tức bắt tay đào địa huyệt, nhưng một người làm công việc nặng nhọc như vậy quả thực có chút lực bất tòng tâm, thời gian không tránh khỏi bị kéo dài thêm đôi chút, rồi mắt thấy sắp thành công đến nơi mà đội thông tin đến sửa máy điện đàm lại kéo đến đứng ngay trước cửa. Gã ghé nhìn qua cửa sổ, trông thấy có người đến, nên đành tạm thời trốn trong địa huyệt, không ngờ nhóm người này đầu óc tỉnh táo, hành sự thận trọng khác thường. Thấy rằng nếu đội này còn tiếp tục lục soát, không chừng sẽ phát hiện thấy địa huyệt chôn xương cốt của đội thám hiểm Taninth bất cứ lúc nào, nên không nhịn được, gã liền thử thương lượng với đội thông tin.

Lão Xà nói rõ ràng: nếu đội thông tin không bỏ qua cho gã thì lập tức gã sẽ kích nổ đạn pháo để mọi người cùng xuống hoàng tuyền, còn nếu chịu nhắm một mắt, mở một mắt, để gã mang bản đồ của đội thám hiểm Taninth đi, còn đội thông tin lập tức rút lui theo đường cũ, thì hai bên coi như chưa ai nhìn thấy ai…

Mấy lời của Lão Xà làm cậu dân binh Hổ Tử điên ruột, cậu ta ỷ thế mình xuất thân là thợ săn, kỹ thuật bắn súng cừ khôi, hạ gục không biết bao nhiêu hổ báo, nên không đợi đối phương nói hết câu, liền bất ngờ bóp cò. Lão Xà vừa vặn đứng trong phạm vi phát nổ của khẩu súng săn, rồi chỉ nghe “đoàng” một tiếng, trong thời gian chớp giật như thế, gã làm gì có cơ hội trốn thoát. Lúc đó, Lão Xà bị đạn bay xuyên qua ngực, chiếc đèn dầu rơi chỏng chơ trên mặt thùng đạn, vỡ vụn. Mồi lửa liếm đất bùng cao đến ngang thắt lưng.

Hồi thứ hai

ĐỘI THÁM HIỂM TANINTH

Tư Mã Khôi lúc này không hiểu tại sao Lão Xà có thể cải tử hoàn sinh, đã thành thây ma vùi dưới đáy mộ trước mắt bao nhiêu người, mà giờ lại xuất hiện trong trạm thông tin giữa núi sâu, đồng thời còn có khả năng giấu mình trong bùn đất địa huyệt, hoàn toàn không cần thở. Những điều này đều cho thấy, gã không phải người  sống.

Tư Mã Khôi cũng nhận ra: Lão Xà chẳng qua chỉ là tên giặc đất cả đời sống trong núi hoang, tuy cũng nham hiểm, tàn nhẫn như sư phụ của gã, lúc sinh thời đã giết bao nhiêu mạng người, lòng dạ hẹp hòi, nhưng lại là kẻ hữu dũng vô mưu, nên hoàn toàn có thể lựa lời trấn an, rồi sau đó ra tay khống chế cũng chưa muộn.

Nhưng Tư Mã Khôi lại chưa tính đến còn có một nhân tố không xác định nữa ở ngay bên mình. Cậu dân binh Hổ Tử là người tính tình nóng vội, giống như một quả cầu lửa rực cháy, chỉ cần một câu nói không vừa tai cũng khiến cậu ta nổi giận lôi đình, hận không thể lập tức nhào tới cắn xé đối phương cho hả giận. Lúc này, cậu ta không nhịn được, đột nhiên giương súng bắn, Lão Xà đổ nhào xuống đất ngay tức thì, cái đèn dầu rơi vỡ tan tành, lửa bén theo dầu đang chảy tràn ra mặt đất, dẫn cháy tới thùng đạn, bên trong đựng toàn đạn pháo đại bác loại D-66, đường kính 152mm; tuy dầu trong đèn không nhiều lắm, nhưng chỉ cần bấy nhiêu đó thôi cũng đủ cấy mầm lửa khắp tứ phía xung quanh. Cùng lúc đó, cuốn thuốc nổ tự chế trên người Lão Xà cũng rơi xuống đất, kíp nổ vừa bắt lửa thì đã lập tức bén cháy thần tốc, phát ra âm thanh nghe “xì xì” rồi tỏa ra màn khói trắng mù mịt.

Tư Mã Khôi thấy tình hình trước mắt nguy cấp, vội lao người chạy tới, ôm cuộn thuốc nổ tự chế, lăn một vòng trên mặt đất tránh hướng lửa, rồi mau chóng dập tắt sợi dẫn nổ, nhìn lại thấy kíp nổ chỉ còn sót lại đúng nửa phân, trán anh bất giác đổ mồ hôi lạnh. Nếu nơi này xảy ra cháy nổ, thì mấy trăm quả đạn pháo sẽ san phẳng quả núi này.

Hội Hải ngọng vội vàng chạy ra các hướng khác nhau dập lửa, còn cậu dân binh Hổ Tử thì vẫn đang đỏ mắt bám riết Lão Xà, vừa nhìn ngực lão bị đạn bắn nát, cậu ta liền lấy chân giẫm mạnh lên cái xác, giọng khinh niiệt: “Có khùng mới tin mày…”, nhưng cùng lúc đó bỗng nhiên cậu ta cảm thấy cổ chân mình bị xiết chặt, như thể có gọng kìm sắt bóp thật mạnh, đau buốt tận xương tủy. Không ngờ chân cậu ta đã bị cái xác năm bẹp trên đất thò tay ra nắm. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Hổ Tử biết tay Lão Xà toàn chai vừa dày vừa cứng, lớp chai sần dày cả đốt ngón tay, đó là kết quả rèn rũa của núi sâu rừng già, nó rất đắc dụng trong việc giúp Lão Xà leo cây trèo núi hàng ngày; móng tay dài nhọn với lực xiết khỏe kinh hồn ấy, đủ sức bóc tuốt cả da hươu. Hổ Tử thấy đối phương bị súng bắn gục dưới đất mới dám đến gần, nào ngờ Lão Xà đột ngột sống dậy, cậu ta sợ tái mặt, lúc này cổ chân đã bị bóp nát, cậu dân binh đau đớn gào thét thảm thiết, rồi ngã vật xuống đất.

Đối phương không để Hổ Tử gục hẳn xuống đất đã chụm năm đầu ngón tay thành hình đầu rắn, nhắm thẳng vào tim cậu ta, xuyên mạnh vào trong. Lão ra tay vun vút như gió cuốn sương lan, động tác nhanh đến khó lòng tưởng tượng, cậu dân binh Hổ Tử thoắt chốc thấy ngực như bị búa tạ đánh trúng, mặt mũi tối sầm, tiếng gào thảm thiết do bị vặn cổ chân khi nãy, giờ vụt tắc nghẹn trong cổ họng. Lão Xà thuận thế xông lên cắn một miếng vào má cậu ta, xé cả miếng thịt to như lòng bàn tay, nhầy nhụa cả da lẫn thịt, đút vào miệng nhai rau ráu, hai mép rớt ròng ròng máu tươi.

Cả chuỗi sự việc đó xảy ra đồng thời cùng lúc Tư Mã Khôi nhào tới dập tắt ngòi nổ và những người còn lại xông lên dập lửa tứ phía xung quanh, khi mọi người phát hiện ra sự việc, thì Lão Xà đã kéo lê thân hình bê bét máu của Hổ Tử, mau chóng rút lui vào trong khe nứt trên mặt đất của kho pháo quân sự.

Mọi người thấy Lão Xà không có sinh khí của người sống, sau khi bị súng bắn, vẫn có thể hành động như không hề hấn gì, thì ai nấy đều kinh hãi, không hiểu hắn là người hay yêu ma. Chuyện đã đến nước này, cũng không còn cách nào khác, cả hội đành bạo gan xông lên cứu cậu dân binh.

Ai ngờ, cậu dân binh Hổ Tử vốn dĩ đang hôn mê thì bật tỉnh lại do cơn đau dữ dội khi bị xé má, cảm giác mặt mình nhớp nháp, trước mắt tối thui, thân sau bị ai đó không ngừng lôi kéo, cậu ta sợ hãi tột độ, nhưng hoàn toàn mất khả năng kháng cự, chỉ còn biết giơ hai tay quờ quạng loạn xạ tứ phía, chẳng ngờ lại nắm được kíp hỏa của khẩu đại bác D-66 ngay bên mình.

Mọi chuyện trên đời, khi ta càng sợ thì nó lại càng dễ xảy ra, không ngờ ổ đạn khẩu đại bác D-66 lại lắp đạn thật và lên nòng sẵn sàng. Kho pháo quân sự lõi kép dưới lòng đất này được xây dựng từ cuối những năm 60, khi đó bộ đội hoàn toàn thực hiện theo yêu cầu nhiệm vụ trực ban, hàng ngày đều phải luyện tập tháo lắp đạn thật nhiều lần, có lẽ lúc nội bộ công sự xảy ra sụt vỡ, các nhân viên rút lui quá vội vã, nên sơ xuất không kiểm tra lại lòng đại bác, dẫn đến việc khẩu đại bác luôn túc trực trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu.

Hội Tư Mã Khôi đuổi theo trong bóng tối, không ai phát hiện cậu dân binh giật kíp hỏa, bỗng nhiên một tiếng nổ long trời lở đất vang lên, khẩu đại bác ở phía sau bị cướp cò. Cũng may, đạn pháo lâu ngày nằm trong không gian âm lạnh, khó tránh khỏi ẩm ướt, nên không thể phát huy tối đa sức nổ, tuy nhiên uy lực thì vẫn vô cùng kinh khủng, trong kho pháo quân sự lõi kép gần như khép kín, âm thanh nghe ầm ầm rung chuyển, chẳng khác nào động đất, mọi người không kịp phòng bị, nên ngã vật ra đất do lực đẩy của làn sóng khí, mắt nổ đom đóm, đầu óc ong ong, tê rần.

Mọi người lảo đảo bò dậy, soi đèn quặng và đèn pin về phía trước, chỉ thấy khẩu đại bác nặng ngàn cân bị vụ nổ khi nãy xoay vần, nằm đổ rạp vào tường, phía sau nổ trống hoác, xung quanh không trông thấy bóng dáng của Lão Xà và Hổ Tử đâu cả, có lẽ lúc phát nổ, cả hai đã lăn xuống khe sâu bên dưới.

Tuy kho pháo quân sự được làm bằng bê tông cốt thép, nhưng vị trí thiết kế không hợp lý, lực dãn nở tự nhiên ở chỗ tiếp giáp với mạch nham thạch không ngừng ép vào khiến lòng kho pháo phát sinh rất nhiều vết rạn vỡ, khi nãy lại bị khẩu đại bác nặng hơn năm ngàn cân đổ vào, thân bức tường vốn đã nứt liền sụp vỡ. Hai tai Tư Mã Khôi ù đặc, nhưng vẫn nghe thấy âm thanh khác thường như thể khối bê tông cốt thép nứt vỡ, lòng thầm nghĩ: “Toi rồi! Không mau rút thì sẽ bị chôn sống trong lòng núi mất thôi”.

Ý nghĩ vừa hiện lên trong đầu Tư Mã Khôi, thì bỗng nhiên anh nghe thấy một tiếng rung chuyển ầm ầm, động tĩnh đó không khác suy đoán của anh bao nhiêu, cả khối bê tông bắt đầu sụt lún. Anh vội ra hiệu cho bốn người còn lại chui vào khe nứt cạnh khẩu đại bác trốn tạm. Một lượng lớn vôi vữa bê tông rào rào đổ xuống, trong chớp mắt, bụi tung mù mịt, lấp kín mọi khe nứt trên mặt đất.

Từ lúc Hổ Tử bắn ngã Lão Xà, gây cháy cuộn thuốc nổ, cho đến lúc cậu ta vô tình giật kíp hỏa khẩu đại bác, khiến nó cướp cò, kho pháo quân sự sụp đổ, tất cả chỉ xảy ra trong vòng vài phút ngắn ngủi. Trong khoảnh khắc đó, mọi người đã phải trải qua bao phen chết đi sống lại, khói bụi dày đặc che khuất tầm nhìn, nhưng cũng không thể dừng lại để thở, cả hội đành mò mẫm theo hai vách tường đá tiếp tục di chuyển xuống sâu hơn.

Mọi người phát hiện, phía dưới kho pháo quân sự là một không gian nằm giữa tầng nham thạch, đó chính là khe sâu trong lòng núi, càng xuống dưới lại càng khoáng đạt, trong đó trầm tích rất nhiều bùn đất, thảm rêu xanh ẩm ướt phủ một tầng dày, tạo thành bệ đất nằm nằm cheo leo giữa không trung, che lấp mọi động huyệt nằm dọc hai bên đường. Tư Mã Khôi nghe có tiếng động phát ra cách đấy không xa, liền soi đèn quặng tới đó, đúng lúc trông thấy Lão Xà đang lôi xềnh xệch cậu dân binh Hổ Tử, chưa biết sống chết thế nào, vào trong một hang động, chỉ cách chỗ mọi người đứng tầm hơn chục mét.

Cao Tư Dương nóng lòng muốn cứu người, liền giương súng bắn chỉ thiên lên trời một phát, Lão Xà không ngờ hội Tư Mã Khôi đuổi kịp nhanh đến vậy, nghe tiếng súng lòng cũng hơi hoang mang, liền vội vã nấp sang một bên, chẳng ngờ chân lại đạp trúng vỏ đất rỗng nằm giữa khe đá. Hắn và Hổ Tử cùng rơi xuống vực sâu trong lòng núi.

Cả hội lặng người, cùng nhìn xuống khe nứt, chỉ nghe tiếng gió lạnh thê thiết gầm gào, vực sâu tối thẳm không nhìn thấy đáy. Ngọn núi chính của Đại Thần Nông Giá cách mặt biển hơn hai ngàn mét. Nếu khe nứt trong lòng núi dẫn thẳng xuống tận đáy, thì dẫu có mình đồng da sắt cũng nát vụn thành đống bùn. Năm đó đội thám hiểm Taninth chọn địa điểm xuất phát ở đây, có lẽ nơi này thông với huyệt động dưới lòng đất cánh rừng nguyên sinh.

Cao Tư Dương lòng nóng như lửa đốt, lúc đó cô định tìm đường mò xuống dưới, nhưng bốn phía xung quanh tối đen như đáy nồi, nên ngay cả phương hướng còn không phân biệt nổi.

Tư Mã Khôi thấy địa thế hiểm yếu, vội cản Cao Tư Dương: “Không phải tôi tạt gáo nước lạnh đâu, nhưng cô thử nghĩ xem, người rơi xuống đó còn sống được nữa không hả?”

Hải ngọng cũng khuyên can: “Tôi thấy vậy đấy, cậu ta chắc hết cách cứu rồi…”

Thắng Hương Lân nói: “Nhưng cũng không thể trố mắt nhìn được, phải nghĩ ra cách gì xuống đó tìm kiếm chứ. Sống phải thấy người, chết phải thấy xác”. Nói xong, cô liền quay sang bàn bạc với Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh, bây giờ cửa động bên trên đã bị bịt kín bưng, không biết bao giờ lâm trường mới cắt cử người đến cứu viện?

Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh cố gắng bình tĩnh suy nghĩ. Trước mắt, cả hai phải đối mặt với thực tế vô cùng tàn khốc nhưng lại không thể né tránh, liên lạc điện đàm trong núi cho đến giờ phút này vẫn chưa thể sửa được, đợi khi lâm trường phát hiện đội thông tin bị mất tích, rồi cử người đến điều tra, cả đi lẫn về chí ít phải mất năm ngày; mà cho dù có huy động bộ đội đến cứu viện, rồi đào được đến nơi này thì cũng mất một hai tháng. Đó là cố gắng nghĩ theo chiều hướng tốt. Thời kì Cách mạng văn hóa, các ban ngành hành chính chỉ là hữu danh vô thực, và khả năng lớn nhất là họ nghĩ luôn rằng đội thông tin đã gặp nạn trong núi, nên không áp dụng bất cứ biện pháp nào nữa. Nếu ở lại đây chờ cứu viện thì cũng chẳng khác gì ngồi đợi chết, còn khả năng tự mình tìm cách đào thoát cũng gần bằng không.

Thắng Hương Lân không muốn nhìn hai thành viên sống sót của đội thông tin phải bỏ mạng ở đây, liền bàn bạc với Tư Mã Khôi xem có thể đem hai người này cùng đội anh hành động không?

Tư Mã Khôi thấy Cao Tư Dương là học viên học viện quân y, chắc chắn có thể đảm nhiệm vai trò nhân viên y tế cho đội, bản thân cô cũng là người dũng cảm, chu đáo, hành sự quyết đoán, rất đáng tin cậy. Anh chàng Nhị Học Sinh, tuy thể hình gầy guộc, nhưng lại hiểu biết kỹ thuật thông tin, chịu khó đọc nhiều sách, xét về trình độ lý luận sách vở thì vô cùng phong phú, nói không chừng có lúc phải dùng đến cậu ta. Cho hai người này đi cùng cũng không có gì phiền phức cả, chỉ ngặt nỗi, lượng lương thực và trang thiết bị mà ba người mang theo không nhiều lắm, chỉ đủ duy trì nhu cầu sinh tồn trong thời gian ngắn, nên có thể nói là, cho họ đi theo có cả mặt lợi và mặt hại.

Thế là, Tư Mã Khôi bảo Cao Tư Dương: “Cô và Nhị Học Sinh ngoài việc ở lại đây chờ cứu viện, thì còn có lựa chọn khác, chính là đi cùng đội khảo cổ bọn tôi; nhưng bọn tôi, ngoài việc tiếp tục nghĩ cách tìm kiếm Lão Xà và thi thể của Hổ Tử, còn có một nhiệm vụ quan trọng hơn. Bọn tôi phải nghĩ cách xuyên qua lòng núi, thâm nhập thế giới dưới lòng đất nằm bên dưới rừng rậm nguyên sinh Âm Hải Cốc. Có điều, tình hình cụ thể ở đó thế nào thì ngay cả bọn tôi cũng không rõ, hi vọng sống sót trở về cũng rất mong manh; bởi vậy, tôi phải nói rõ với cô, nếu lựa chọn con đường này, thì hai người hội cô buộc phải vứt bỏ hết mọi cảm xúc như nghi kỵ, sợ hãi ra khỏi đầu, mọi việc phải nhất nhất nghe theo sự chỉ huy của tôi, cố gắng đừng gây ra phiền phức gì. Chỗ tôi cái gì cũng thiếu, chỉ duy phiền phức là lúc nào cũng dư thừa”. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Cao Tư Dương hiểu rõ tình cảnh trước mắt, cô không thể hi vọng gì ở đội cứu viện, cậu dân binh Hổ Tử lại chín phần chết một phần sống, trong khi đó, cái gã Lão Xà kia thì thật khó dùng hai từ “sinh tử” để hình dung, nếu chỉ dựa vào sức lực của mình và Nhị Học Sinh thì chưa chắc đã đối phó được. Nếu phải sống mòn đến lúc bó gối chịu chết trong núi, thì chi bằng cứ mạo hiểm đi theo đội khảo cổ, nhân tiện còn có thể truy lùng tung tích của tên Lão Xà. Nghĩ vậy, Cao Tư Dương liền gật đầu đồng ý, có điều cô vẫn không thích giọng điệu lạnh lùng của Tư Mã Khôi, nghe rõ vô tình vô nghĩa, cô thầm nghĩ: “Còn chưa biết ai liên lụy đến ai đâu mà đã ráo trước!”

Nhị Học Sinh lại càng bạo gan hơn. Cậu ta sớm đã không còn ôm hi vọng gì về tiền đồ của mình, giờ cảm thấy chuyện này kích thích hơn cuộc sống lao động cực nhọc trong lâm trường nhiều, huống hồ tổ trưởng đã quyết định như vậy, thì cậu ta đâu dám ho he ý kiến gì?

Trong lúc mọi người nói chuyện, Hải ngọng đã bò vào hang động khi nãy Lão Xà bới ra, thám thính một chuyến, lát sau anh bò ra báo cáo tình hình: “Chẳng ngờ ngoài mười mấy cỗ xương khô của đội thám hiểm Taninth ra, trong ấy còn có một món hàng ngon lắm!”.

Hồi thứ ba

CHIẾC HỘP PANDORA(1)

[1] Pandora: Chiếc hộp trong thần thoại Hy Lạp, chứa đựng tất cả thói hư tật xấu và các tai họa, được đậy nắp kín. Sau này, do tính hiếu kỳ mà một người đàn bà đã mở nó ra, nên từ đó loài người đã phải chịu tất cả những điều xấu xa tệ hại.

Tư Mã Khôi thầm nghĩ, đội thám hiểm Taninth vừa mới tập kết ở địa điểm xuất phát thì đã bị sát hại, làm sao có món hàng khủng gì được chứ? Nhưng, bản đồ mà Lão Xà muốn tìm thì có lẽ vẫn còn giắt trong một thi thể nào đó. Anh liền theo Hải ngọng vào trong xem xét.

Không gian trong huyệt động rất chật chội, có khá nhiều chuột đá trốn chui lủi trong các khe hốc, thấy bóng người, chúng kinh động chạy tán loạn, trên mặt đất nằm ngả nghiêng hơn chục bộ xương khô, trên đầu còn đội mũ bấc mềm giống như kiểu mũ Pith Helmet.

Tư Mã Khôi biết vào những năm Dân quốc, các nhà thám hiểm từ khắp nơi trên thế giới như Anh, Mỹ, Nga v.v… thường lấy danh nghĩa khảo sát địa lý để đến Trung Quốc tìm kiếm cổ vật, và săn bắt các loại thú quý chim lạ ở khắp nơi, trong đó cũng có vô số kẻ đen đủi phải mất mạng nơi đất khách quê người. Trong cánh rừng nguyên sinh Thần Nông Giá ẩn giấu vô số các loài động thực vật hoang dã quý hiếm, nếu may mắn bắt được người rừng, sói đầu lừa, rắn mào gà hay thú quan tài còn sống mà đem về đất nước họ, thì danh vọng phú quý song hỉ lâm môn, huy hoàng khỏi phải bàn, mà cho dù chỉ lấy vật đã chết, chế thành tiêu bản rồi bán cho viện bảo tàng, thì cũng đủ cho họ phát tài. Chắc hội Taninth cũng là hạng người đó, chẳng ngờ lại bị tên thổ tặc dẫn đường hãm hại, bỏ mạng oan uổng trong lòng núi sâu.

Hải ngọng dốc một túi vải buồm nặng trịch đặt bên cạnh một bộ xương khô xuống, thì ra “hàng khủng” mà anh nói chính là thứ này.

Tư Mã Khôi thấy hình dạng và trọng lượng của túi vải buồm thì biết bên trong nó đựng súng máy. Anh giở ra xem thì quà nhiên là một khẩu súng được bọc bằng vải dầu, ngoài ra còn có một hộp sắt lớn đựng đầy đạn. Hai người vội vã lục soát tiếp xem còn món hàng ngoại nào không, liền hấp tấp cởi sợi dây thừng buộc chống ẩm, chỉ thấy bên trong có mấy khẩu súng, hình thù rất kì quái, báng súng nom giống như súng săn, hoặc súng trường thông thường, nhưng thân súng chỉ ngắn bằng một phần ba loại đó, phía dưới chốt an toàn còn có một vòng tròn có tay cầm hình cây kéo. Tư Mã Khôi từng bôn ba nhiều năm ở Miến Điện, đất nước được mệnh danh là “bảo tàng vũ khí mọi nhãn hiệu”, nên anh biết đây là loại súng liên thanh Winchester M-1887, bắn đạn đường kính số 12. Niên đại sản xuất loại súng này tương đối cổ, nhưng rất tiện mang theo, cấu tạo đơn giản, dễ tháo lắp, đủ khả năng thích nghi với những môi trường khắc nghiệt nhất, nó lợi dụng nguyên lý đòn bẩy để đẩy đạn lên nòng, có thể lắp đầy sáu phát đạn ghém cho súng săn nòng cỡ 12, tốc độ bắn và lực sắt thương đều rất lý tưởng. Trong túi còn có một khẩu súng săn hai nòng cỡ lớn dùng để bắn gấu, sử dụng loại đạn cỡ 8, đây là loại súng săn hạng nặng, sản xuất ở Canada, ngoài ra còn một khẩu súng ngắn Maschinen­pistole MP-38 của Đức.

Tư Mã Khôi thấy thật may mắn, đúng là trời xanh có mắt. Nếu như Lão Xà tìm thấy đống xương cốt của đội thám hiểm Taninth trước, thì bây giờ có lẽ cả hội đã trở thành những oan hồn dưới họng súng của gã rồi. Anh nhặt hai chiếc mũ bấc, đưa cho Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh đội lên đầu, bảo mọi người tự nhặt súng đạn phòng thân cho mình và nói: “Thực ra đội thám hiểm Taninth chẳng qua chỉ rặt một phường trộm cắp, chẳng khác gì bọn thổ tặc trên núi, thấy của bỏ rơi tội gì mà không nhặt đút túi, sao phải khách sáo với lũ khọm này.” Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Hải ngọng chọn khẩu súng săn gấu, đồng thời lấy thêm khẩu súng ngắn P38 dự bị phòng thân. Tư Mã Khôi, Cao Tư Dương và Thắng Hương Lân chỉ chọn ba khẩu súng liên thanh M-1887 gọn nhẹ. Nhị Học Sinh cũng định chọn khẩu liên thanh, Tư Mã Khôi thấy cậu ta cận nặng, cầm súng lại non tay, không khéo lúc bắn lại văng cả người đi cũng nên, liền bảo cậu ta tốt nhất cứ sử dụng khẩu súng săn mang ở lâm trường đến: “Súng chỉ để cậu vững dạ là chính, nồi bé thì bốc ít gạo thôi, phải biết tự lượng sức mình chứ, đừng bon chen với bọn tôi làm gì”.

Bên cạnh đống xương của đội thám hiểm của Taninth còn có mấy chiếc ba lô, đồ bên trong đa số đã hết hạn sử dụng. Tư Mã Khôi bới tìm một hồi, rồi bảo Cao Tư Dương xem có vật phẩm cấp cứu nào còn dùng được, thì cất vào túi khoác quân dụng của cô. Tư Mã Khôi tìm thấy mấy bó đuốc, đó đều là những thanh gỗ đã róc sẵn, chiều dài xấp xỉ bằng nhau, đầu mỗi thanh buộc giẻ tẩm sáp dầu cá, phía ngoài cố định bằng nắp cao su, lúc sử dụng chỉ cần bỏ nắp ra là có thể thắp sáng, thời gian cháy duy trì khá lâu, đồng thời cũng không cần lo đuốc bị ẩm ướt. Nó không chỉ phát huy công dụng chiếu sáng trong huyệt động, mà còn có thể dùng để phòng thân. Nghĩ vậy, anh liền nhặt một chiếc ba lô rách, đút hết số đuốc vào, đồng thời nhét thêm mấy hộp đạn, rồi quăng cho Nhị Học Sinh, bảo cậu ta đeo.

Thắng Hương Lân thấy Cao Tư Dương chỉ có một chiếc đèn pin, hơn nữa lại không có pin dự trữ, liền đưa cho cô ta thêm một ngọn đèn cácbua để chiếu sáng.

Cao Tư Dương cảm ơn, đón lấy, rồi quay sang sốt ruột hỏi Tư Mã Khôi: “Bây giờ đã có súng và đuốc, chúng ta có nên xuống khe lùng bắt Lão Xà luôn không?”

Tư Mã Khôi nói: “Khoan đã! Tôi thấy gã thổ tặc đó đúng là loại cương thi thành tinh, súng liên thanh chắc gì hạ gục nổi hắn”.

Cao Tư Dương nói: “Rốt cuộc anh có phải đang làm công tác khảo cổ không thế hả? Sao đầu óc lúc nào cũng chứa toàn tư tưởng mê tín dị đoan vậy? Trên đời này làm gì có xác chết biết nói tiếng người chứ?”

Tư Mã Khôi nói: “Tôi vừa mới nhớ ra, thời xưa bọn thổ tặc chuyên đào mồ quật mả có một tuyệt kỹ, gọi là công phu cương thi(2) , sau khi luyện được, chúng sẽ biến thành nửa người nửa thây, có khả năng vùi mình dưới lòng đất nhiều ngày mà không cần thở, bị chôn sống cũng có thể tự mình đội mồ bò ra, có điều, chúng chỉ được lộ diện lúc ban đêm, còn ban ngày thì phải trốn biệt. Nghe nói, môn công phu này đã thất truyền từ hàng trăm năm trước, cũng không rõ nó có thật hay giả. Tôi ngẫm thấy cái gà Lão Xà kia trên người chứa toàn yêu thuật, vả lại tính tình gã này quái đản, thủ đoạn tàn độc, bị súng đốn ngã mà vẫn tỉnh bơ như không, nói chung là rất khác thường. Nếu gã rơi xuống khe sâu mà không chết, thì chắc chắn sẽ tìm nơi nào đó ẩn nấp. Khe núi này sâu không thấy đáy, chúng ta tổng cộng chỉ có năm người, căn bản không có cơ hội tìm thấy tung tích của gã, huống hồ nếu chia nhau đi kiếm khắp lượt thì quá mạo hiểm, lỡ gặp phải tai họa lúc một mình tác chiến, chỉ sợ chẳng ai nhón tay được tí lợi nào. Có điều, quyền chủ động vẫn nằm trong tay chúng ta. Lão Xà định tìm tấm bản đồ mà đội thám hiểm để lại, rồi xuống lòng đất móc món hàng lớn và trốn ra nước ngoài, nếu không gã cũng chỉ còn duy nhất một đường chết. Chỉ cần tấm bản đồ lọt vào tay chúng ta trước, thì cũng đồng nghĩa với việc cắt đứt con đường sống của gã, lúc đó còn lo gì gã thổ tặc không tự mình chui vào lưới.”

[2] Cương thi: được biết đến như một xác chết biết đi trong văn hóa dân gian Trung Quốc, giống như ma cà rồng ở phương Tây. Theo như truyền thuyết, ban ngày cương thi nằm trong quan tài hoặc ẩn nấp tại những nơi tối tăm như hang động, đến đêm cương thi đi lại lang thang vi hai cánh tay duỗi thẳng về phía trước. Nó giết chết mọi sinh vật sống để hấp thụ khí – cái ct lõi tạo nên sự sống.

Mọi người đều cảm thấy Tư Mã Khôi phân tích có lý, vả lại trên người Lão Xà lúc nào cũng nồng nặc mùi quái dị giống như phoóc môn, đây chính là nhược điểm lớn nhất của gã, trừ phi gã vùi mình trong đất, nếu không khó mà che đậy được tung tích. Nếu đối phương chủ động tiếp cận, sẽ càng dễ bại lộ chân tướng, đến lúc đó cả hội sẽ đồng loạt nổ súng, dẫu gã có mình đồng da sắt thì cũng phải bắn gã tơi tả thành chiếu rách. Thế là, cả hội hăng hái bới lật từng xác chết, cuối, cùng cũng tìm thấy một cuốn sổ bọc da dê to bằng hai hộp thuốc lá, sắc giấy đã ố vàng, chắc lịch sử của nó cũng khá lâu đời, trong đó vẽ đầy các hình thù sinh vật, thực vật, còn có các ký hiệu mạch núi, rừng rậm.

Hội Tư Mã Khôi xem kỹ cuốn sổ. Họ không hiểu những chú thích dài loằng ngoằng bằng tiếng Anh, nhưng xem hình vẽ có thể đoán nội dung, nên cũng hiểu được một nửa. Các hình phác họa trong cuốn sổ phần lớn là các loại dã thú và thực vật, mà đội thám hiểm phát hiện trong núi sâu, trang cuối là tấm bản đồ đơn giản, còn kẹp thêm mấy tấm ảnh đen trắng không rõ nét, có lẽ chụp mấy bức bích họa trong mộ cổ.

Bích họa trong tấm ảnh chính là căn cứ quan trọng để vẽ ra tấm bản đồ. Tấm bản đồ bắt đầu tại một ngọn núi, đường vẽ xuyên qua khe núi khúc khuỷu, sâu hun hút, cách một đoạn lại đánh dấu một chấm đen, điểm tận cùng là bồn địa được hình thành bởi các mạch đất giao nhau.

Nơi đó có lẽ chính là địa huyệt dưới lòng đất mà đội thám hiểm Taninth muốn tìm. Địa hình ở đây được mô tả hoàn toàn trùng khớp với những ghi chép trên Sơn Hải Đồ, chỉ có điều nó đã bị gột rửa bớt đi màu sắc thần bí, thay vào đó là các tọa độ thám trắc ngoại vi, khiến tấm bản đồ này càng tăng thêm tính thực dụng.

Có điều, trong tấm bản đồ có một số ký hiệu rất khó lý giải, ví như hình vẽ cái hộp đầu lâu xương chéo rất lớn, tuy chỉ phác họa đơn giản, nhưng gợi cảm giác rất ma quái, khiến người xem cũng thấy bất an. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Cao Tư Dương hỏi Tư Mã Khôi: “Ký hiệu này trong bản đồ ám chỉ gì nhỉ?”

Tư Mã Khôi cũng mù tịt, nhưng cứ phán bừa: “Tám phần là quan tài đựng xác chết cổ đại chứ gì”.

Thắng Hương Lân lắc đầu: “Không giống quan tài, người phương Tây thường dùng ký hiệu này để chỉ “chiếc hộp đen”, hay còn gọi “chiếc hộp Pandora”, nó ám chỉ, hễ kẻ nào mở nắp bí mật ra, tai họa và cái chết sẽ giáng xuống đầu kẻ ấy.”

Tư Mã Khôi cảm thấy giả thiết về chiếc hộp Pandora khá hợp lý, các manh mối trong cuốn sổ tổng hợp cho thấy, dường như đội thám hiểm Taninth đã phát hiện thấy bích họa mà nước Sở cổ xưa để lại, sau khi chụp ảnh họ liền mang đi phân tích khảo chứng, rồi vẽ lại thành một

phần bản đồ, đồng thời lấy đó làm căn cứ, để đi tìm lãnh đia thần bí chưa ai trên thế giới biết đến. Dân gian truyền rằng nơi đó là núi Âm Sơn nhốt giữ ma quỷ, đồng thời cũng là kho báu mà Sở U Vương chôn giấu năm xưa, mà chí ít là đã hai ngàn năm không một ai bước chân xuống đó. Đội thám hiểm Taninth tự cho rằng, mình đã chuẩn bị mọi thứ rất chu toàn, nhưng vẫn cảm thấy chuyến đi này lành dữ khó lường, trong lòng khó tránh khỏi cảm giác sợ hãi, chiếc hộp Pandora đánh dấu trên bản đồ có lẽ chính là một hình thức đánh giá về một nguy hiểm chưa biết nào đó.

Tư Mã Khôi vốn dĩ định vượt qua Yến Tử Ô đến Âm Hải Cốc, sau đó đi từ đường hầm xuyên thẳng xuống lòng đất, tìm kiếm nhật quỹ được ghi chép trên Sơn Hải Đồ, nhưng giữa đường lại xảy ra quá nhiều tình hình đột biến, cuối cùng lại bị kìm chân trong khe núi. Anh buộc phải tạm thời điều chỉnh kế hoạch, cả hội sẽ đi theo hành trình trên bản đồ của đội thám hiểm Taninth, chưa biết chừng, nhật quỹ nằm trong chiếc hộp Pandora cũng nên.

Tư Mã Khôi cất mấy tấm ảnh và cuốn sổ vào túi chống thấm, rồi đặt cùng chỗ với cuốn sổ mang từ kính viễn vọng Lopnor về. Anh suy đoán, việc Taninth có khả năng vẽ được tấm bản đồ này, đồng thời tổ chức đội thám hiểm đến Thần Nông Giá, chắc chắn không phải một sự kiện cô lập. Có lẽ, không ít kẻ liều mạng đã tham gia cùng hội này, chỉ có điều, cuối cùng đội thám hiểm không thành công, hoặc giả trong chiếc hộp Pandora thực sự tồn tại lời nguyền, hung hiểm dọc đường không cần nghĩ cũng biết, chỉ sợ lần này hội anh lại phải lượn vòng quanh Quỷ Môn Quan một chuyến nữa rồi.

Mọi người thấy không còn gì thu hoạch nữa, mới lần mò theo khe nứt giữa tầng nham thạch chầm chậm di chuyển xuống dưới. Khe núi này sâu hút, đường đi lại bội phần hiểm trở, sương mây giăng mắc sương mây, không gian lúc chật hẹp khi khoáng đạt, tối thui, ẩm ướt, không biết nông sâu thế nào, ngay cả chỗ đặt chân xuống cũng khó tìm thấy. Phần đáy lòng núi là một khe cốc chạy theo hướng tây bắc. Hội Tư Mã Khôi đi đến nơi này đã trọn một ngày một đêm chưa được chợp mắt, mọi người tìm kiếm suốt nửa ngày ở khu vực lân cận, nhưng vẫn không thấy bóng dáng Lão Xà và thi thể Hổ Tử rơi xuống chỗ nào. Tư Mã Khôi đành bảo cả hội tạm thời tìm nơi thích hợp hạ trại, nhưng chẳng một ai ngủ yên giấc. Lát sau, Tư Mã Khôi xác định phương hướng bằng la bàn và các vị trí vạch trên bản đồ, rồi cả hội bắt đầu lên đường. Lại một ngày đằng đẵng trôi qua. Cuối cùng, mọi người tìm thấy một khe nứt hình tam giác chật hẹp ở giữa hai vách đá nơi rìa khe núi. Không gian bên trong bị dương xỉ, rêu xanh và bùn đất lấp kín, trên mặt đất có một trụ đá nứt gãy, nằm đổ rạp, nếu không có ký hiệu trên bản đồ, thì không ai chú ý tới trong lòng núi tối như đêm ba mươi lại có một con đường thế này.

Hải ngọng đi trước phạt dương xỉ mở đường, năm người còn lại nối tiếp nhau đi xuyên qua khe nứt sâu chừng mấy trăm mét, địa thế càng đi càng thấp, sau cùng mở ra một không gian vô cùng khoáng đạt. Càng đi về phía trước, khí ẩm trong không khí càng tăng mạnh, tầng lá khô mục nát trên mặt đất vùi sâu đến bắp chân, những cành mục to như thắt lưng, nhưng chỉ cần giẫm một cái là hoàn toàn vụn nát, xung quanh um tùm rậm rạp những cây đại thụ to mười mấy, hai mấy mét, chúng thẳng tắp như mũi tên, hoàn toàn khác biệt với bất kì loại cây nào trong rừng già núi sâu, nếu đo theo đường kính, ít ra cũng cao đến gần trăm mét. Bề ngoài, chúng rất giống với cây thông Noel ở phương Tây, lá cây hình giáo dài vừa to vừa rộng, thân cây bám đầy vết dương xỉ, trong phạm vi mười mét đổ xuôi xuống gốc cây, có rất ít cành nhánh và lá, chỉ thấy rất nhiều dây leo bám chằng chịt mọc mãi lên cao. Một vài cây đại thụ bị đổ rạp, cộng thêm rễ cây ngoằn ngoèo xù xì chạy trên mặt đất, nhấp nhô như gò đồi, một số cây vẫn um tùm lá, một số thì đã chết khô, trên thân cây mọc đầy rong rêu và các loại nấm, khiến tầng biểu bì hình thành tầng chất hữu cơ vừa dày vừa sâu, giẫm chân lên tựa hồ như đang bước trên tấm bọt biển vậy. thỉnh thoảng lại tỏa ra ánh sáng thứ ánh sáng xanh leo lét. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Cao Tư Dương kinh ngạc thốt lên: “Nơi sâu trong lòng núi đào đâu ra lắm cây cổ to lớn dường này nhỉ?

Nhị Học Sinh cũng mắt tròn mắt dẹt, đờ người ra nhìn, cậu ta ở trong lâm trường suốt ngày chặt gỗ, chặt không ít cây cổ thụ sống hàng trăm ngàn năm, nhưng nếu so sánh với những gốc cây cổ đại, thì đúng là không đáng nói đến. Đây mới đúng là bách cổ Thần Nông đích thực, thân cây to không thể tưởng tượng nổi, đứng trước nó, con người có cảm giác mình nhỏ bé tựa con ong cái kiến. Trong phạm vi soi sáng của đèn quặng, những gì nhìn thấy trước mắt chẳng qua cũng chỉ như là phần nổi của tảng băng trôi mà thôi.

Thắng Hương Lân lấy dao săn tách một miếng vỏ cây ra quan sát, cô suy đoán: “Hàng trăm triệu năm trước, Đại Thần Nông Giá vẫn chìm sâu dưới đáy biển, sau đó thạch quyển Trái đất nâng lên mới trở thành núi cao; bởi vậy hóa thạch cổ sinh vật chôn giấu trong lòng đất vô cùng phong phú. Từ tình hình này tôi đoán, có vẻ như quần đảo rừng rậm này từng xảy ra quá trình chìm lún, khi đó khí hậu ấm áp, nên địa mạo và hệ thực vật cũng không giống như bây giờ. Các loại cây cổ thụ thời viễn cổ, đã bị tuyệt chủng hàng trăm triệu năm trước, có mật độ rất lớn, cho dù bị vùi dưới đất lâu như vậy và đã hoàn toàn ngưng trệ quá trình sinh trưởng, nhưng trong thân cây vẫn còn tồn tại hàm lượng dưỡng chất nhất định, nhờ thế mà chúng mới không khô héo, vẫn duy trì được nguyên dạng giống như xác chết vậy”.

Lần đầu tiên, Tư Mã Khôi nghe nói cây cối mà cũng cỏ thể tồn tại ở trạng thái “xác chết”, nên đang định lại gần xem rốt cuộc thế nào, thi nghe tiếng Hải ngọng đột nhiên kêu lớn: “Ối cha mẹ ơi! Cái quái gì ở đây thế này?”.

Hồi thứ tư

HÓA THẠCH SỐNG THỜI TIỀN SỬ

Cánh rừng rậm thời tiền sử được che phủ hàng trăm triệu năm dưới lòng đất, khi ấy phần lớn hệ động vật và thực vật bị tuyệt chủng vì có hình thể quá lớn, tất cả như thể đều được phóng to hàng mấy chục lần dưới kính hiển vi vậy.

Đây là lần đầu tiên Nhị Học Sinh đến một nơi như thế này, hai mắt anh chàng tựa hồ không đủ dùng nữa, lòng bất giác vừa hưng phấn vừa căng thẳng cực độ. Nghe tiếng Hải ngọng hét lớn, cậu ta cứ nghĩ sắp xảy ra tình hình nguy hiểm nào đó, thế là lập tức giương súng tỉa một vòng quanh mình.

Tư Mã Khôi bỗng nhiên thấy Nhị Học Sinh chĩa họng súng đen ngòm về phía mình, liền vội vàng xua tay ngăn cản, rồi chỉ nghe “đoàng” một tiếng, và khói diêm tiêu bay mù mịt, viên đạn sắt đà bắn sát sạt ngay trên đỉnh mũ Pith Helmet của anh.

Mọi người thấy Tư Mã Khôi xém chút thì bị đạn lạc lấy mất mạng, nên ai nấy tim đập thình thịch. Cũng may mà tốc độ đạn bay của khẩu súng săn khá chậm, trong khi Tư Mã Khôi lại phản ứng cực kì nhanh nhạy, nếu không thì bây giờ đầu óc đã nở hoa tóe loe cả rồi.

Nhị Học Sinh thấy vậy sợ xanh mặt, anh chàng ngượng nghịu xin lỗi: “Xin lỗi! Xin lỗi! Chỗ này tối quả, cái mắt này đúng là đáng chết….”

Tư Mã Khôi đánh nhau ở Miến Điện đã quen tay, thoạt nhìn là biết Nhị Học Sinh không phải nòi cầm súng, lúc này có trách cứ cậu ta cũng vô nghĩa, nên anh chỉ nói: “May mà khi nãy không cho cậu mang khẩu liên thanh M-1887, nếu không bây giờ tôi đã xuống đất làm bạn với giun rồi. Mắt mũi kèm nhèm thì làm ơn chụp cái vòng bảo hiểm lên đầu giùm tôi, sau khi phát hiện mục tiêu, nhất định phải đếm một, hai, ba trước đã, chưa đếm đến ba thì tuyệt đối không được bóp cò, nghe chưa hả?”.

Hải ngọng trêu chọc Tư Mã Khôi: “Thôi! Thôi! Đội ngũ chúng ta toàn là quần chúng nhân dân với nhau cả ấy mà, cậu chết vào tay ai mà chẳng là chết, dù sao cũng đâu lợi người ngoài”.

Tư Mã Khôi mắng: “Tiên sư Hải ngọng! Cái mồm cậu mà không toang toác ra, thì vừa nãy ông đây cũng đâu đến nồi suýt thành ma mất đầu. Mà cậu nhìn thấy cái mẹ gì vậy?

Hải ngọng trợn mắt: “Đúng là chó nhà cắn chủ! Tớ có lòng tốt mới khuyên cậu mấy câu, thế mà cậu còn há miệng trách tớ. Tớ nhìn thấy cái gì ấy à…. tớ vừa nhìn thấy cái gáy của mình đấy, sao hả?”

Thắng Hương Lân soi đèn quặng về phía lưng Hải ngọng, nhỏ giọng nhắc nhở: “Đừng đấu võ mồm nữa! Quanh đây đúng là có thứ gì đó….”

Mọi người đổ dồn mắt về phía ánh đèn, thấy xung quanh có một phiến lá to như cái giường, gân lá lừng lững như cánh tay. Trong đám lá khô và các loại nấm kì dị đua nhau mọc trên lá, lờ mờ ẩn hiện một vật thể đen sì sì, hao hao giống người, mà dường như lại không phải, nó cũng có mắt, có mày, có cánh, phần thân dưới còn có một con cóc to kềnh càng nằm phủ phục.

Cao Tư Dương không biết vật này là thứ gì, liền hỏi: “Nó là người hay ma núi thế nhỉ?”

Nhị Học Sinh cũng kinh ngạc nói: “Chưa bao giờ thấy dị vật kì lạ như vậy xuất hiện trong rừng rậm nguyên sinh Thần Nông Giá cả”.

Hải ngọng giương súng săn, thủng thẳng bảo: “Chuyện này phải hỏi thằng Khôi, cậu ta là chuyên gia sinh vật đấy, chim thú nào mà chẳng biết, ngay cả trong côn trùng nghĩ gì cậu ta còn hiểu rõ nữa là”.

Tư Mã Khôi lại gần, phủi lớp đất bùn bên ngoài đi, phát hiện đó là một pho tượng ngọc, chất ngọc giờ đã gần giống với xương khô, vẻ lung linh bên ngoài đã không còn, đường vân cũng nhạt nhòa, có lẽ nó tồn tại trên đời chí ít cũng hơn hai ngàn năm. Anh bảo mọi người: Tôi quần quật trong đội khảo cổ suốt bao nhiêu năm, bùn đất đào dưới lưỡi xẻng đủ chất thành núi, đương nhiên phải biết vật này chứ. Nó chẳng qua là ngõa gia, tức là tượng nung ấy mà, tượng nung có nhiều loại, và cũng có thể được làm bàng ngọc, vàng, đá, đồng hoặc gỗ. Có điều, pho tượng này hình thù cổ quái quá, không thể phân biệt được nó là người hay chim thú, nhưng có thể chắc chắn lai lịch của nó tuyệt đối không bình thường. Nghe nói, nước Sở thời Xuân Thu là nơi sùng tín mấy chuyện thầy mo và ma quỷ nhất, họ cho rằng, mọi vị thần cõi âm gian đều có hình hài đầu chim mặt người, có nhiệm vụ dẫn linh hồn của người chết xuống âm gian, những vị thần này chuyên ăn não người chết. Thời cổ tương truyền, đáy Âm Hải Cốc nhốt giữ ác quỷ, bởi vậy người nước Sở mới đặt tượng ngọc xung quanh để trấn tà, không cho các âm hồn trốn thoát. Vì vậy, chúng ta phát hiện thấy tượng ngọc ở quanh đây cũng không có gì kì lạ. Càng tiến gần khu vực chiếc hộp Pandora mà đội thám hiểm Taninth đánh dấu trên bản đồ, sẽ xuất hiện càng nhiều vật này, chúng ta không cần hốt hoảng làm gì, dẫu sao nó cũng chỉ là vật chết. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Lúc này, Hải ngọng cũng đã nhìn kỹ, anh ngạc nhiên: “Ớ… Sao khi nãy tớ thấy pho tượng này… động đậy nhỉ?”

Tư Mã Khôi không tin: “Cậu định viện cớ cho khỏi bẽ mặt đấy à! Khi nãy vừa mới làm cả hội sợ hết hồn một phen, giờ còn dám báo cáo láo tình hình quân cơ nữa hả?”

Hải ngọng oan ức kêu lên: “Ối giời ơi! Ối lương tâm ơi! Cậu thử hỏi cả hội xem, Hải ngọng tớ là hạng người thế nào? Tớ nhìn thấy thứ đó động đậy thật mà…”, anh vừa nói vừa lấy súng săn chọc loạn xạ vào đám lá cây, thì thấy trong đám rêu mốc, lộ ra một loài thực vật hình dạng rất giống cây bồ kết, Hải ngọng nói: “Chắc tám phần nó là cây ăn thịt đấy!”

Nhị Học Sinh lại gần quan sát, đoạn nói: “Đây là loài thực vật hóa thạch sống, xuất hiện từ thời tiền sử, nửa dạng nấm, nửa dạng quả, chuyên sinh trưởng trên mặt đất, trong hang núi gần lâm trường cũng có, nhưng nhỏ hơn nhiều. Bóc vỏ ngoài đi là có thể ăn phần thịt quả bên trong, có quả hơi tanh mùi dầu cá, có quả ruột bên trong mềm mịn thanh ngọt, giống vị dưa chuột. Nhị Học Sinh nói xong thì vặt luôn một quả xuống nếm thử.

Hải ngọng vừa nghe nói thứ này ăn được, liền vội vàng cướp lấy nhét vào miệng, nhai ngấu nghiến, nước quả tứa ra nhoe nhoét, đã vậy còn phê bình Nhị Học Sinh: “Chú đừng nói năng lung tung, đừng quên thời kì bài trừ “tứ cựu”, vì dưa chuột dính chữ “chuột”, nên người ta đổi thành dưa leo đấy nhé. Anh mày nom bộ dạng chú ngô nghê thế kia, chắc chẳng bao giờ nghĩ tới việc chỉ vì một quả dưa bé tí teo thế này mà gây ra đấu tranh giai cấp đâu nhỉ. Từ nay về sau, chú tuyệt đối không được tự tiện điều chỉnh lại từ này đâu nhá, chúng ta nhất thời hồ đồ làm phản, giờ biết sai quay đầu vẫn chưa muộn, còn nếu ngoan cổ chống đối đến cùng, thì chỉ có con đường chết thôi, nghe chưa?”

Lúc này, Tư Mã Khôi cùng Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương bắt đầu soi đèn quặng vào bản đồ để phân biệt vị trí. Ba người suy đoán, các chấm đen trong bản đồ là tuyến đường khúc khuỷu thần bí, còn điểm họ đang đứng chính là lòng đất dưới Âm Hải Cốc. Những cây cổ thụ cổ đại cao trăm mét, phần lớn là tổ tiên các loài thực vật hóa thạch sống thời tiền sử như thủy sam, hồng đồng, thủy tùng, ngân hạnh, thông đỏ, xuyên khung, cây áo cộc v.v… Tán lá đan cài vào nhau tạo thành bức tường chắn trước huyệt động, không gian bên trong rộng lớn mênh mông, chỗ nào cũng bốc mùi ẩm mốc, lạnh lẽo, phía dưới những lớp lá mục tầng nọ che phủ tầng kia là những vũng nước tù, người nào lỡ chân thụt xuống thì đừng mong trèo lên. Trong rừng rậm Âm Hải Cốc đến nay vẫn còn ẩn nấp rất nhiều loài sinh vật cổ đại to lớn tưởng như đã tuyệt chủng; lòng đất xem chừng im lìm, nhưng mai phục không biết bao hiểm nguy, nói không chừng giữa đường lại gặp phải thứ gì đó không ngờ cũng nên. Nếu thiếu sự chỉ dẫn của tuyến đường biểu thị bằng các chấm đen trên bản đồ, thì cả hội căn bản không thể đi xuyên qua quần thể thực vật tiền sử với quy mô khiếp người thế này. Có điều, tấm bản đồ vẫn chưa qua kiểm nghiệm thực tế, bởi vậy cũng thiếu tính chính xác tuyệt đối, chỉ có thể dùng nó để tham khảo mà thôi.

Cao Tư Dương sốt ruột hỏi Tư Mã Khôi: “Sao anh chỉ mải lo xuống sâu hơn! Thế không định truy bắt Lão Xà nữa hả?”

Tư Mã Khôi nói: “Gã thổ tặc rơi xuống lòng núi, như chim lặn vào mây, mất tăm mất tích, sống không thấy người, chết không thấy xác, bây giờ biết đi đâu mà tìm? Có điều nếu đối phương còn có thể hành động, thì nhất định sẽ bám riết đội khảo cổ không buông, nên sớm muộn gì cũng lộ cái đuôi chồn ra thôi, chúng ta chỉ cần đề cao cảnh giác, tùy cơ ứng biến là được”. Tư Mã Khôi thấy đường đi gian nan, hiểm trở, càng không biết hành trình xuống lòng đất còn kéo dài bao lâu nữa mới có thể mở được chiếc hộp Pandora ra, nên trong lòng thắc thỏm bất an, anh liền gọi Hải ngọng và Nhi Học Sinh chuẩn bị khởi hành.

Nhị Học Sinh liên tiếp tìm thấy mấy trái quả mọng trong đám lá khô, nhưng đều bị Hải ngọng cướp trắng. Anh chàng không cam tâm, còn định tiếp tục tìm kiếm, bỗng nhiên nghe thấy bên cạnh có âm thanh khe khẽ, nghe như thể pho tượng ngọc đang động đậy. Nhị Học Sinh bồn chồn, đẩy gọng kính trên sống mũi, đứng dậy nhìn kỹ pho tượng ngọc.

Lúc này, Tư Mã Khôi cũng phát hiện ra động tĩnh khác thường, anh thấy Nhị Học Sinh đứng mặt đối mặt ngay trước pho tượng, lòng biết thế là tiêu rồi, nhưng chưa kịp lên tiếng nhắc nhở, thì đã thấy dưới ánh đèn quặng, cái miệng pho tượng ngọc bỗng nhiên phun ra một luồng khí đen. Nhị Học Sinh kinh hãi, hét “Á” một tiếng thất thanh, luồng khí đen chui tuột vào miệng cậu ta, nhanh như một hồn ma.

Không ai kịp nhìn rõ thứ xuất hiện trong pho tượng ngọc là thứ gì. Nhị Học Sinh sợ lịm người tại chỗ, hồi lâu vẫn chưa hoàn hồn, cảm thấy mùi ẩm mốc sực lên khó chịu, liền ho liên tiếp mấy cái.

Cao Tư Dương thấy vậy, liền kéo vội anh ta tránh xa pho tượng ngọc, rồi hỏi: “Anh không sao chứ?”

Nhị Học Sinh xua tay, biểu thị không thấy cơ thể có thay đổi gì khác thường.

Thắng Hương Lân cũng hỏi Nhị Học Sinh:  “ Hình như tôi thấy có thứ gì đó chui vào miệng anh, anh có sao không?

Nhị Học Sinh hơi hoảng: “Mọi người đừng dọa tôi nữa! Tôi không sao thật mà, chỉ bị sặc khói bụi của pho tượng ngọc kia tí thôi…”, nói chưa dứt câu thì anh ta thấy hai chân mềm nhũn, toàn thân run lạnh không thể chịu nổi, không tự chủ được ngã khuỵu xuống đất.

Tư Mã Khôi thấy sắc mặt Nhị Học Sinh càng lúc càng trắng bệch, gân xanh nổi lên cuồn cuộn, hơi thở thoi thóp, thì biết anh ta chắc chắn đã bị dị vật chui vào bụng. Khi nãy Hải ngọng phát hiện người tượng ngọc động đậy, có lẽ là do vật này, có điều nó rốt cuộc là thứ gì thì rất khó nói, nếu không mau nghĩ cách lôi nó ra, thì tính mạng Nhị Học Sinh coi như xong.

Hải ngọng hình dung lại cảnh tượng lúc đẩy đỉa Campuchia ăn thịt người ra khỏi cơ thể, nhưng dưới lòng đất Âm Hải Cốc hình như không có mãng xà, vả lại Nhị Học Sinh nói ngoẻo một cái là ngoẻo luôn, không giống với tình trạng mà mọi người gặp phải lúc tại núi Dã Nhân ở Miến Điện. Anh nói: “Tôi thấy rõ ràng có vật gì đen thùi lùi chui vào miệng cậu ta, nhớ lúc ở Đông Bắc nơi đó có một loại côn trùng, gọi là rết nhà, trông nó hơi giống rết núi nhưng nhỏ hơn, ban đêm, đợi người ngủ say là chui vào tai ăn não, có lẽ con rết trong tượng ngọc đã chui vào bụng cậu ta rồi, bây giờ phải lập tức cho cậu ta uống nước đái mèo, muốn mau lấy được nước đái mèo thì phải chà xát gừng tươi vào tai nó mới được.” Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi nói, chỗ này kiếm đâu ra mèo? Huống hồ, luồng khí đen trong tượng ngọc hình như có hình có chất hẳn hoi, mà lại có khả năng xuyên ngũ quan, thông thất khiếu, nhìn không giống con rết, nhưng trong khoảng thời gian ngắn sau khi dị vật chui vào cơ thể, mà kịp thời cấp cứu, thì may ra còn giữ được mạng sống. Anh nhíu mày nghĩ cách, đoạn chẳng nói chẳng rằng, kéo Nhị Học Sinh như kéo lê một con chó chết, đi về khu vực có địa thế tương đối trũng.

Cao Tư Dương không kịp ngăn cản, đành nhặt ba lô vải buồm của Nhị Học Sinh đánh rơi, nhanh chân đuổi theo phía sau.

Tư Mã Khôi thấy cây cổ thụ tán rợp trời trước mặt đan cài vào nhau, mấy sợi dây leo thả mình từ thân cây xuống, liền bảo Thắng Hương Lân soi đèn giúp, rồi anh và Hải ngọng lấy dây thừng treo ngược Nhị Học Sinh lên, nút chặt tất cả cảc lỗ trên người, chỉ để hở miệng.

Cao Tư Dương thấy vậy, định chạy lại cởi dây thừng: “Ba người tổ thông tin đã mất một, các anh còn định hanh hạ người ta tiếp nữa là xảy ra án mạng đấy”.

Tư Mã Khôi cản Cao Tư Dương lại, anh nói: “ Mấy năm trước, tôi bị lạc đường trong nghĩa địa, nghe thấy trong ngôi mộ cũ có động tĩnh, liền bạo gan qua đó xem thử, cô thử đoán xem tôi trông thấy thứ gì? Thì ra đó một con hồ ly đang đào huyệt trên mộ. Nó móc ra một cuốn cổ thư trong quan tài, sau đó, giở từng trang ra xem dưới ánh trăng, vừa xem nó vừa nhíu mày cười hì hì. Lúc đó, tóc tôi dựng đứng cả lên, thầm nghĩ, chẳng lẽ mình đang gặp yêu quái thật à? Nhưng thanh niên bọn ta ngủ trên lò lửa lạnh, tất cả trông cậy vào sức lửa, lửa mạnh thì gan cũng bạo, làm gì có chuyện để nó qua mặt? Thể là tôi cầm hòn đá ném con hồ ly, nó sợ chạy mất dạng, tôi nhặt cuốn sách lên, bên trong viết toàn các phương thuật kim thạch cải tử hoàn sinh, từ đó về sau tôi dùi mài tự học, rồi thành tài đấy…”

Cao Tư Dương biết Tư Mã Khôi chỉ huyên thuyên, hòng kéo dài thời gian và giữ chân mình, liền hét lớn: “Bây giờ mà anh vẫn còn lòng dạ nói linh tinh nữa à? Mau thả người xuống cho tôi!”

Lúc này, Thắng Hương Lân gỡ đèn quặng trên mũ xuống, cầm trong tay, soi vào mặt Nhị Học Sinh và quan sát kỹ động tĩnh, cô gọi mọi người: “Mau lại xem! Có thứ gì đó sắp chui ra này…”

Hội Tư Mã Khôi chăm chú nhìn, chỉ thấy anh chàng Nhị Học Sinh bị buộc chân tay, treo ngược trên cây, máu toàn thân dốc xuống đầu, gương mặt vốn trắng bệch giờ đỏ au au, ngực tức thở đành mở to miệng ra thở, có một vật không rõ hình thù thế nào đang chậm chạp thò ra từ cổ họng, trông nó đỏ au au đến khiếp người. Hải ngọng sốt ruột, vội vàng thò tay vào bắt, nhưng vì quá trơn nên nhất thời lỡ tay, vật đó bỗng nhiên chui thụt trở lại bụng.

Hồi thứ năm

THẾ GIỚI VI MÔ

Tư Mã Khôi thấy Hải ngọng trượt tay, thì thầm nghĩ hỏng to, xem ra anh chàng Nhị Học Sinh này quả thực đã hít phải dị vật vào bụng, hơn nữa nó vẫn chưa chết và tiếp tục được máu người nuôi dưỡng, còn cơ thể Nhị Học Sinh sẽ dần khô kiệt vì bị hút cạn máu. Vả lại, cậu ta cũng bị treo ngược khá lâu rồi, vật đó một khi đã thụt vào, thì chắc chắn sẽ không chịu ra nữa, trừ khi mổ bụng, rạch ruột mới mong lấy nó ra được.

Tư Mã Khôi ứng biến thần tốc, giơ tay thọc thẳng vào xương sườn Nhị Học Sinh, chỗ giữa hai sương xườn là phần da không có thịt, đồng thời cũng là khu vực nhạy cảm nhất. Nhị Học Sinh bị bịt mắt, lại treo ngược cành cây, rồi bỗng nhiên bị ngón tay chọc vào thì quả nhiên hét to một tiếng, nôn thốc thứ vừa thụt vào cổ họng ra ngoài. Lần này Hải ngọng lấy tay kẹp chặt, nhanh tay quăng vật đó xuống đất.

Tư Mã Khôi bật đèn theo bóng nó, chỉ thấy vật đó dài chừng một ngón tay, to chừng nửa đốt, thân người dẹt mỏng, hai bên có sáu cái chân ngắn, đầu các chi có giác hút, khắp người toàn máu, miệng nhả khói đen, phát ra tiếng kêu “lách tách” như tiếng cánh quạt gỗ quay, động tác vô cùng linh hoạt, luồn lách nhanh thoăn thoắt. Sau khi rơi xuống đất, nó chạy như bay, vụt một cái đã luồn vào các kẽ lá khô, rồi biến mất dạng.

Hải ngọng tưởng khi nãy đã bóp nó chết, ai dè nó vẫn còn sống, đang định lấy chân di, thì vật đó đã chuồn đi từ bao giờ. Anh thầm kinh ngạc, quay sang hỏi Tư Mã Khôi: “Con gì thế Khôi? Tắc kè hoa à?”

Tư Mã Khôi thấy không giống tắc kè hoa, vì loài này chỉ có bốn chân, thường ẩn nấp trong rừng nhiệt đới, lại không biết bay giữa không trung; còn sinh vật trong pho tượng ngọc nom hao hao giống hoàn long, một sinh vật nguyên thủy sống ở vùng đại hoang, nó có thể bay ở khoảng cách ngắn, quen sống kí sinh ở nơi ẩm ướt, âm u, con lớn nhất chỉ to bằng cái kim, nghe nói đã tuyệt chủng từ lâu, sau thời Tấn không thấy ghi chép nào liên quan đến nó nữa. Thế nhưng con khi nãy lại to bằng cả ngón tay, có lẽ là giống cổ đại, vì thế giới dưới lòng đất ở Âm Hải Cốc hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài, môi trường đặc biệt ấy vẫn hoàn toàn không thay đổi từ thời hằng cổ, nên không biết trong lòng nó còn ẩn chứa bao nhiêu loài sinh vật ít nghe hiếm gặp và đáng sợ khác nữa.

Cao Tư Dương thấy ngón nghề của Tư Mã Khôi tinh tuyệt, lòng cũng thầm thấy kinh ngạc, cô và Thắng Hương Lân chạy lại cởi dây trói, đỡ Nhị Học Sinh trên cây xuống cho mạch máu lưu thông trở lại. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi biết Nhị Học Sinh may mắn lắm mới giữ lại được tính mạng, tuy nguyên khí bị tổn thương nhưng không đến nỗi để lại hậu họa gì, cũng may dị vật khi nãy là con đực, chứ nếu là con cái, nó phát tán trứng trong máu, thì cho dù Hoa Đà, Biển Thước có tái thế cũng không thể tìm ra phương thuốc giải cứu. Anh thấy Nhị Học Sinh mềm nhũn chân tay, khẩu súng săn cũng văng đâu mất, liền nhặt một cành cây tùng khá chắc chắn, lấy dao săn vót nhọn một đầu, rồi buộc dây thừng vào, giao cho Nhị Học Sinh dò đường và phòng thân, đồng thời nhắc cậu ta phải bám sát đội hình, lần sau chưa chắc đã may mắn được như vậy.

Nhìn bản đồ, cả hội không thể biết còn cách chiếc hộp Pandora bao xa, cũng không dám dừng lại lâu trong môi trường hiểm nguy mai phục tứ bề, chỉ dám chỉnh đốn hành lý trong giây lát, rồi tiếp tục tiến về phía trước theo phương hướng được đánh dấu trên bản đồ. Nhưng đi không bao xa, thì con đường phía trước lại bị chắn ngang bởi mấy cây cổ thụ quấn quýt vào nhau, xung quanh là những chiếc rễ quái dị, trông như xúc tu của những con bạch tuộc luồn xuyên qua những gốc cây khác. Các thực vật dạng nấm với muôn hình đủ sắc tựa những chiếc ô xòe to, đan cài tầng tầng lớp lớp, chúng kéo dài triền miên từ thân cây xuống tận mặt đất, kín mít không một khe hở.

Đường kính thân cây ở Âm Hải Cốc chí ít cũng tới hai mươi mấy mét, người đi bên dưới chẳng khác nào con kiến lơ ngơ tham quan thế giới vi mô. Nếu cả hội đi vòng qua hai đầu, thì sẽ lệch khỏi tuyến đường, không biết sẽ dịch chuyển ra nơi nào, vả lại như vậy rất dễ rơi xuống hố bùn nằm dưới lớp lá mục.

Tư Mã Khôi đành lấy tay ra hiệu, bảo mọi người dừng bước, rồi lấy la bàn đối chiếu nhiều lần với bản đồ.

Lúc này, Cao Tư Dương vội vàng gỡ khẩu súng liên thanh M-1887 trên vai xuống, cảnh báo Tư Mã Khôi: “Gần đây có người… rất nhiều người là khác…”

Tư Mã Khôi không nghe thấy xung quanh có động tĩnh gì, lòng thầm nghĩ, cô nhìn thấy ma chắc? Dưới lòng đất hàng ngàn tỉ năm không nhìn thấy mặt trời, bới đâu ra nhiều người cơ chứ?

Nhị Học Sinh đang bám ngay phía sau Cao Tư Dương hỏi: “Lại phát hiện thấy tượng ngọc à? Tốt nhất là tránh xa bọn ấy ra một chút, an toàn là số một mà!”

Cao Tư Dương không trả lời, một tay cô giương súng, tay kia xách đèn quặng soi về phía măt đất bên cạnh mình, ý muốn bảo mọi người mau qua xem.

Hội Tư Mã Khôi xúm lại đằng trước, dõi mắt về phía ánh đèn Cao Tư Dương chiếu vào, quả nhiên họ thấy một dấu chân rất rõ ràng, đó là dấu chân trần để lại trên thảm rêu.

Lòng đất trong Âm Hải Cốc thấm nước nghiêm trọng, hệ thực vật ký sinh trên thân cây vô cùng dày đặc, không khí oi bức, ẩm ướt và hoàn toàn không có gió, chỗ nào cũng mù mịt sương khí, trong khi đó dưới tầng lá ẩm ướt toàn là bùn đất vừa mềm vừa trơn và gỗ mục, bất luận xảy ra chuyện gì, rừng rậm cũng mau chóng phủ lâp và che đậy mọi dấu vết, bởi vậy những dấu chân này có lẽ chỉ vừa mới lưu lại mà thôi.

Mọi người biết, phát hiện thấy dấu chân dưới lòng đất cũng không phải chuyện kì quái, vì ở đây ngoài đội khảo cổ ra thì vẫn còn sự tồn tại của Lão Xà với lai lịch bất minh như xác chết; có điều, vết chân trên thảm rêu mục không chỉ có một hai dấu, giơ cao đèn quặng chiếu sáng phạm vi rộng, sẽ phát hiện xung quanh còn nhiều dấu chân hơn. Tất cả những dấu chân đó sắp thành từng chuỗi, chuỗi thì toàn dấu chân trái, chuỗi thì toàn dấu chân phải, dấu chân nọ bám sát dấu chân kia, dường như biên độ giữa các bước chân rất nhỏ, trong khi người bình thường lúc bước đi, dấu chân để lại phải so le trái phải mới đúng. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Hải ngọng cúi đầu nhìn hai cẳng chân mình, anh thực sự ngẫm mãi không ra là rốt cuộc phải bước đi như thế nào thì mới để lại được những dấu chân như vậy.

Cao Tư Dương càng không dám lơi lỏng cảnh giác: “Chắc lâm trường không thể biết chuyện xảy ra với đội thông tin nhanh như vậy, sao đột nhiên dưới lòng đất Ầm Hải Cốc lại xuất hiện nhiều dấu chân thế được nhỉ?”

Thắng Hương Lân nói với các thành viên còn lại: “Mọi người xem!” – nói xong, cô liền thọc báng súng xuống đất, thảm rêu lưu dấu chân trên mặt đất kêu “kịch” một cái, rồi lập tức thụt xuống thành một cái lỗ, thì ra phía dưới lớp rêu là đoạn gỗ mục, không đủ sức chịu lực, điều đó chứng tỏ: nếu có người giẫm chân lên trên, thì trọng lượng của người đó sẽ khiến họ giẫm xuyên qua thân gỗ, chứ tuyệt đối không thể để lại dấu chân trên bề mặt.

Tư Mã Khôi quỳ trên mặt đất, quan sát kỹ: từ các ngón đến độ cong, lòng chân trước, lòng chân sau của dấu chân đều rất rõ rệt, nhưng cách phân bố lại quá quái dị, có lẽ chúng vốn dĩ không phải dấu chân của con người.

Mọi người nghĩ mà ớn lạnh, không ai dám thở mạnh, chỉ mong nhân lúc sự cố chưa xảy ra, mau chóng rút lui khỏi đây càng nhanh càng tốt.

Tư Mã Khôi giở tấm bản đồ của đội thám hiểm Taninth ra, tiếp tục tìm kiếm vật tham chiếu gần đó, đồng thời cầu mong có thể nhanh chóng tìm đường rời khỏi chỗ này. Có điều, bản đồ này được vẽ căn cứ theo bích họa cổ mộ thời kì Sở U Vương, trong khi hàng trăm triệu năm trước, Thần Nông Giá đã từng là đại dương, quần thể thực vật thời tiền sử ở cánh rừng rậm rạp dưới Âm Hải Cốc lại từng là quần đảo bị chìm lún. Một nơi nào đó trên đảo được ký hiệu là chiếc hộp Pandora, hội anh dự đoán, đó cũng là nơi đặt nhật quỹ, còn lịch sử cụ thể thế nào thì không thể khảo chứng được, vì bây giờ công cụ chỉ dẫn duy nhất có mỗi tấm bản đồ cổ xưa này thôi. Ngặt nỗi, môi trường dưới lòng đất phức tạp và khắc nghiệt, nếu không đi đúng tuyến đường, chỉ sợ cuối cùng sẽ bị lạc trong vực sâu chết chóc này mất, nhưng thời gian vật đổi sao dời, nấm mốc, rong rêu phát triển, đã khiến địa mạo vốn có của vùng này bị thay đổi.

Tư Mã Khôi vô cùng lo lắng, nhưng nhất thời cũng không biết phải làm thế nào, anh đành dẫn mọi người giẫm lên vòm nấm vân chi vừa to vừa mềm để trèo lên trên, giật đám dây leo và thực vật họ nho mọc loạn xạ xung quanh, cả hội cố gắng tiếp cận các địa điểm đánh dấu trên bản đồ.

Tư Mã Khôi vừa tiếp ứng cho các thành viên khác trèo lên một đoạn dây leo, bỗng nhiên anh cảm thấy từng luồng âm phong ào tới. Tư Mã Khôi bất giác rùng mình, toàn thân nổi hết da gà, lòng nghĩ thầm: không khí dưới lòng đất vừa ẩm ướt vừa oi nồng, làm gì có gió nhỉ?

Anh vừa nghĩ đã biết: có lẽ một thứ gì đó trên trời đang bay xuống tìm cách tiếp cận hội anh. Tư Mã Khôi lập tức điều chỉnh góc chiếu sáng của đèn quặng trên mũ Pith Helmet lên cao. Lòng đất tuy ẩm ướt, ngột ngạt, nhiều nơi còn có sương mù, nhưng vẫn le lói chút ánh sáng yếu ớt do tảo lục phát ra, nhờ vậy không gian cũng không đến nỗi tối đen như mực, chất lượng tia sáng cũng tạm coi là lý tưởng, phạm vi chiếu sáng của đèn quặng lên tới hơn hai mươi mét.

Tư Mã Khôi chĩa vòng sáng vào khoảng không phía sau mình, anh thấp thoáng thấy mấy phiến lá khô chao liệng. Anh thầm nghĩ, con bà nó, ma quái quá, ở đây toàn là cây cổ thụ khổng lồ, bề rộng của lá cây cũng lên tới gần một mét, luồng khí phải mạnh đến mức nào thì mới đủ sức cuốn nó lên trời? Anh phát hiện thấy tình hình bất ổn, liền nhỏ giọng cảnh báo mọi người: “Chú ý!”. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Hải ngọng cũng phát hiện ra cơn gió lạ, rồi trong khoảnh khắc anh ngước mắt nhìn lên, thì mấy phiến lá đó đã bay tới chỉ cách chỗ mọi người đứng chừng mấy mét. Hải ngọng vội giương khẩu súng bắn đạn hoa cải họng ngoại cỡ lên, tay xách nách mang, cuống quýt chĩa súng vào phiến lá khô ở gần nhất và bóp cò. Loai súng này dùng đạn cỡ 8, đạn cỡ 8 có nghĩa là viên bi sắt chế thành đạn sẽ phân tách thành tám mảnh khi đươc bắn ra, còn đạn cỡ 12 sẽ phân tách thành mười hai mảnh, cỡ đạn càng nhỏ thì lực sát thương càng lớn. Thông thường đạn cỡ 8 thuộc loại dành cho súng săn hạng nặng, lực sát thương rất ghê gớm. Nó là dòng súng do Canada sản xuất, trên báng súng còn khắc hình đầu con gấu gườm gườm, có lẽ nó được thiết kế chuyên để săn gấu khổng lồ ở dãy núi Rockey. Lúc này, chỉ nghe súng bắn “đoàng” một tiếng, phiến lá khô thoắt chốc rơi xuống, chao đảo ngay trước mặt mọi người.

Hội Tư Mã Khôi quỳ gối xuống quan sát và phát hiện thì ra đó là loài bướm lá khô, có chiều dài hơn một mét, có lẽ là một giống bướm ma, thân mình như được choàng tấm áo khoác màu trầm tối, loang lổ, giống hệt với các khúc gỗ mục ngang dọc hỗn loạn, ngay cả màu mắt cũng hoàn toàn tương đồng, cách ngụy trang này khiến nó hoàn toàn hòa lẫn với môi trường xung quanh, chỉ khi quan sát kỹ ở cự li gần, mới có thể nhìn ra đám lá khô kia hóa ra là vật thể sống. Con bướm rơi xuống đất khi nãy bị đạn số 8 xé tan thành hai mảnh, cơ thể nó chảy ra dịch màu vàng, nhưng vẫn ngoan cố chưa chịu chết hẳn, đôi cánh không ngừng vẫy đập, trên mình nó mọc chi chít những sợi lông mao còn sắc hơn cả đinh sắt, chỉ cần chạm nhẹ cũng đủ khiến con người toi mạng.

Hải ngọng lại vừa nổ súng giết thêm một con bướm ma nữa, những con còn lại đậu trên lùm nấm vân chi rậm rạp nên không nhìn thấy, nhưng luồng âm phong từ trên cao dội xuống, cho thấy đồng loại của chúng đang bay tới đây càng lúc càng nhiều.

Tư Mã Khôi bảo Cao Tư Dương tắt đèn quặng: “Người ta bảo ‘thiêu thân như bướm đâm đầu vào lửa’. Tôi đoán, lũ bướm ma này chắc lao vào đây vì ánh đèn…”

Nhị Học Sinh nhìn mà gai lạnh cả người, anh chàng hỏi Tư Mã Khôi: “Đồng chí tổ trưởng ơi! Anh bảo lũ quái vật này có tấn công người không?”

Tư Mã Khôi cũng không dám chắc, Đại Thần Nông Giá nổi tiếng là nơi có “huyệt động kì bí, sinh vật bạch tạng, kì hoa dị thảo, chim lạ thú hiếm”, nó là cánh rừng rậm nguyên sinh còn sót lại duy nhất ở dải đất 30 độ vĩ Bắc. Lớp phủ thực vật um tùm và dày đặc, giúp nó dự trữ được lượng nước rất đầy đủ, cánh rừng giống như một khoang cung cấp dưỡng khí nhiều tầng cỡ lớn, chính vì vậy, hàm lượng ô xi trong không khí rất cao, quần thể thực vật tiền sử trong hang động dưới lòng đất Âm Hải Cốc tuy đã chết thực sự, nhưng do sự ảnh hưởng của môi trường, nên chúng vẫn giữ nguyên diện mạo ban đầu giống như xác chết vậy. Điều đó khiến vô số loài nấm gỗ và nấm vân chi sinh trưởng tua tủa trong tầng chất mục nằm phủ trên bề mặt thân cây; ngoài ra, còn có một số loài sinh vật máu lạnh vẫn chưa bị tuyệt chủng, chúng trốn thoát khỏi kiếp nạn rung trời chuyển đất, rồi dần dần thích ứng với môi trường sinh tồn dưới lòng đất, đồng thời thông qua phương thức đặc biệt và thần bí nào đó, chúng vẫn duy trì được sự cân bằng yếu ớt ấy. Tư Mã Khôi nói với mọi người: “Các chủng loại thực vật cổ xưa dưới lòng đất phần lớn chưa ai từng nhìn thấy, cho dù có biết thì nó cũng chỉ là một chi hoặc một nhánh tương tự như vậy mà thôi, không thể dùng kinh nghiệm từng có để phán đoán về chúng được. Để đảm bảo an toàn, đương nhiên chúng ta thà tin là nó có, còn hơn tin là nó không có, phải cố gắng tránh tiếp xúc với nó mới được”.

Tư Mã Khôi vừa nói đến đây, thì loáng thoáng nghe thấy những con bướm ma bay liệng quanh đó đã ùa đến rất gần, không chỉ vậy, ở nơi xa còn có một âm thanh quái dị khác, dường như đó là những tiếng bước chân rầm rập và thần tốc.

Hồi thứ sáu

VÂY BẮT

Mặt Tư Mã Khôi biến sắc, tiếng bước chân rầm rập, như thể mấy ngàn mấy vạn đôi chân đang hành quân thần tốc, mà lòng đất dưới Âm Hải Cốc cơ hồ cách tuyệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, thì đương nhiên không thể đột nhiên xuất hiện nhiều người như vậy. Thứ gì có nhiều chân dường ấy được nhỉ? Chẳng lẽ là con rết khổng lồ nằm mai phục dưới lòng đất? Trong đầu Tư Mã Khôi bồng bềnh thoáng hiện lên hình ảnh một con rết mọc toàn chân người, nhưng anh liền mau chóng xua tan ý nghĩ gớm ghiếc đó, bởi vì sinh vật để lại dấu chân trên thảm rêu không phải chỉ có một con, có lẽ là một chủng loại nào đó thường xuất hiện theo hình thái bầy đàn. Nếu nhìn dấu chân để phỏng đoán, thì cơ thể sinh vật này ắt hẳn không nhỏ; không chỉ vậy, mà nó còn có khả năng di chuyển nhẹ nhàng như bay, bởi vậy mới không giẫm nát khúc gỗ mục, bây giờ nghe động tĩnh vẫn còn ở xa, nhưng kẻ sắp đến chắc chắn không mang ý đồ gì tốt đẹp. Anh đoán, chẳng bao lâu nữa chúng sẽ áp sát hội anh.

Mấy người còn lại cũng lần lượt nhận ra tiếng động lạ, lòng người nào người nấy đều trỗi dậy cảm giác ngộp thở đến khó hiểu. Hải ngọng sốt ruột, lấy báng súng hất con bướm ma nằm phơi xác trên vòm nấm vân chi xuống. Anh vừa nạp đầy đạn cho khẩu súng săn hai nòng, vừa nói với Tư Mã Khôi: “Lũ bướm chết tiệt này có gì đáng xem đâu, nhìn mà phát tởm, bọn mình mau rút thôi…”

Tư Mã Khôi thấy bụi nấm gỗ gần đó có hình dạng gần giống với nấm linh chi trên núi, chỉ có điều chúng mọc trên thân gỗ mục, từng quầng từng quầng nối liền san sát, trải dài mãi xa, cao thấp đan xen lẫn nhau, cây thấp nhất cũng chừng nửa mét, cây cao nhất có khi lên tới ba đến năm mét. Quầng nấm vân chi to dày, màu sắc sặc sỡ, đủ sức cho mấy người giẫm lên cùng lúc. Tuyến đường đánh dấu trên bản đồ có lẽ cũng nằm trong thân cây cổ đại bị thảm nấm che phủ, nhưng vị trí cụ thể thế nào thì anh cũng không rõ. Nếu từ từ tìm kiếm trong đám nấm gỗ và dây leo quấn quýt chằng chịt, thì có lẽ không thể một sớm một chiều tìm thấy ngay được, huống hồ bây giờ tình thế nguy cấp, chỉ có thể tìm tạm một hốc cây nào đó ẩn nấp trước, sau đó mới nghĩ cách hành động. Nghĩ vậy, Tư Mã Khôi liền dẫn mọi người tìm cách trốn lũ bướm ma đang không ngừng nhào xuống, cố gắng di chuyển vào những lùm nấm rậm rạp.

Độ cao giữa các cây nấm vân chi trước mặt chênh lệch rất lớn, mọi người lại đều khoác nặng trên vai, nên khó mà đi xuyên qua bụi nấm theo đường thẳng. Tư Mã Khôi đành trèo lên trước, Hải ngọng đứng dưới làm thang, đẩy từng người lên trên.

Tư Mã Khôi kéo Nhị Học Sinh lên đỉnh cây nấm, đang định cúi xuống kéo Hải ngọng lên, chẳng ngờ một con bướm ma lẳng lặng sà xuống, định đậu trên lưng Hải ngọng, mọi người ở trên cao đồng thanh hét lớn: “Cẩn thận!”

Hải ngọng cảm thấy xúc tu của con bướm ma cứ muốn xuyên thẳng vào cổ mình, xua thế nào cũng không được, nên đâu dám quay đầu, mà khổ nỗi anh lại không thể gỡ khẩu súng săn xuống. Trong lúc cấp bách, anh đành rút khẩu súng lục dự phòng P38, mở hộp trên đùi, rồi ngắm chuẩn phía sau lưng, bắn mấy phát liền, đạn như bắn vào tấm da mục vậy. Con bướm ma bị kinh động, vội vã định vẫy cánh bay, nhưng gai xúc tu dưới bụng nó lại mắc vào ba lô Hải ngọng, nên thân hình to lớn như Hải ngọng mà bị nó giật ngược ra sau, hai bên cuộn thành một đống, lăn ra rìa vành nấm.

Tư Mã Khôi thấy Hải ngọng lâm vào tình thế cấp, không kịp bò dậy rút súng, liền ngã rạp xuống theo, định ra tay hỗ trợ bạn, nhưng bỗng nhiên nghe thấy sung nổ “đoàng” một tiếng, con bướm ma sau lưng Hải ngọng bị khẩu liên thanh M1887 bắn lăn lông lốc xuống đất. Hải ngọng hết hồn, rụt cổ, vội thò tay ra sờ “gáo dừa”, may mà không bị đạn cỡ 12 xuyên thủng một lỗ.

Tư Mã Khôi không kìm được cất tiếng khen ngợi. Anh biết trong tình thế khẩn cấp và hỗn loạn như vậy mà một phát bắn trúng mục tiêu, nói thì dễ chứ làm rất khó, ngoại trừ cần có kỹ thuật bắn đỉnh cao, thần kinh phản xạ nhạy bén, thì còn cần có tố chất tâm lý cực kì vững vàng. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Từ trước đến nay, Thắng Hương Lân không giỏi bắn súng, Nhị Học Sinh càng dở tệ, vậy ai có bản lĩnh này?

Tư Mã Khôi ngoái đầu nhìn, anh thấy Cao Tư Dương đang lên nòng súng liên thanh, hai mắt chăm chăm bám riết mục tiêu, khẩu M-1887 là loại súng săn hạng nhẹ, thân hình con bướm lá khô lại quá to, để tránh Hải ngọng, phát đầu cô không bắn vào điểm yếu huyệt của con bướm, nên nó vẫn chưa đến nỗi mất mạng. Trong chớp mắt, nó lại bay vút lên, lúc này Cao Tư Dương đã thần tốc lên đạn, rồi cô bóp cò cùng lúc với hành động giương súng ngắm bắn. Bụng con bướm ma bị xuyên thủng một lỗ to, nó lăn xuống chân cây nấm.

Tư Mã Khôi, Hải ngọng và Thắng Hương Lân kinh ngạc khôn xiết, tận mắt chứng kiến Cao Tư Dương từ lúc lên nòng, giương súng, ngắm bắn đến bóp cò, hoàn toàn không hề có động tác nào thừa thãi, hoặc chậm trễ, không những vậy kỹ thuật bắn cực kì chuẩn xác. Mọi người thầm nghĩ, học viện quân y đâu phải bộ đội dã chiến, sao cô nàng lại có kỹ thuật bắn mau lẹ và chắc chắn được như vậy nhỉ?

Thắng Hương Lân chìa tay ra kéo Hải ngọng lên, Cao Tư Dương thu súng, quay sang bảo Tư Mã Khôi: “Còn không mau trèo lên, thần người ra đó làm gì? Nếu anh mà dám cả gan lừa tôi, thì phát tiếp theo tôi sẽ bắn nát cái sọ của anh đấy!”

Tư Mã Khôi trèo lên vòm nấm, nghĩ thầm: “Tôi lừa cô hồi nào?”, nghĩ xong mới nhớ ra, chuyến vào núi lần này bị ảnh hưởng bởi những chuyện đột xuất xảy ra với đội thông tin, hội anh đành thay đổi lộ trình, chui xuống lòng đất vượt Âm Hải Cốc. Lúc trước giữa đường gặp gã hái thuốc Lão Xà cải tử hoàn sinh, tiếp đến là kho pháo quân sự lõi kép sụp đổ, rồi phát hiện thấy di cốt của đội thám hiểm Taninth, đồng thời tìm thấy bản đồ đánh dấu ký hiệu chiếc hộp Pandora. Toàn bộ chuỗi sự kiện này đều là những biến cố ngoài ý muốn, sau đó Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh của đội thông tin bị mắc kẹt trong núi,

bất luận ở lại chờ cứu viện hay tự mình tìm lối ra, thì xác suất sống sót trở về vô cùng mong manh. Tư Mã Khôi ngẫm thấy có thể mang hai người này đồng hành cùng hội anh. Bởi vì khu vực gần huyệt động dưới lòng đất, nơi đánh ký hiệu chiếc hộp Pandora, có lẽ còn có một đường hầm ăn thông ra rừng rậm Thần Nông Giá, tuyến đường này tuy nguy hiểm, nhưng chỉ còn biết gắng gượng vượt qua, nói không chừng, đó cùng là một con đường sống. Có điều, Cao Tư Dương thân là quân nhân, phải chịu sự ràng buộc của kỷ luật tổ chức, nếu nói thật tuốt tuột tất cả với cô nàng, thì cô nàng chắc chắn sẽ không bao giờ chịu đồng hành cùng hội Tư Mã Khôi, bởi vậy anh đành thanh minh, mình gánh vác một sứ mạng rất đặc biệt, đó là được tổ chức trực tiếp đặc phái đến rừng rậm Thân Nông Giá tìm chiếc hộp Pandora để thực hiện một nhiệm vụ vô cùng gian nan và vinh quang. Ngay từ đầu, Cao Tư Dương đã thấy nghi ngờ chuyện này, cho nên khi nãy mới buột miệng nói ra câu ấy.

Lúc này, tiếng bước chân dồn dập và dày đặc ở phía xa đã mỗi lúc một gần. Tư Mã Khôi không còn thời gian giải thích với Cao Tư Dương, nên khi Hải ngọng vừa trèo lên, anh liền vội vàng dẫn cả đội tiến về phía trước.

Nhị Học Sinh bám gót Tư Mã Khôi, anh chàng thở không ra hơi, hổn hển nói: “Cao Tư Dưong xuất thân trong gia đình quân nhân gia thế, bố cô ây được phong hàm đại tá lúc 55 tuổi. Đừng thấy cô ấy là con gái mà coi thường, cô ấy là tay súng thiên tài đấy, thường ngày vẫn ra thao trường tập bắn súng, lúc theo đoàn bộ đội đến vùng núi này, cô ấy luôn tìm cơ hội mượn súng săn vào núi săn bắn, các thợ săn quanh lâm trường, không ai bắn giỏi bằng cô ấy đâu. Hễ nhắc đến cô ấy, là người ta lại giơ ngón tay cái ra khen ngợi đấy! Còn tôi ấy à, tôi không quen dùng súng, nhưng hai năm trước, khi tham gia khóa huấn luyện dân binh, tôi cũng từng sờ vào khẩu K-63. Anh xem, tôi còn chụp ảnh kỷ niệm đây này. Hay là anh cho tôi mượn một khẩu nhé. Tôi cũng biết tác chiến mà, không làm liên lụy đến anh đâu…”. Nói xong, anh chàng móc tấm ảnh 4×6 trong túi áo ra. Đó là lần anh chàng về thành phố thăm gia đình, anh ta đã tìm người quen mượn một bộ quân phục, tay lăm lăm nắm khẩu súng thép, chụp ảnh lưu niệm bên bờ sông. Anh chàng giữ khư khư tấm ảnh đó bên mình, như thể nó quý giá lắm.

Tư Mã Khôi không ngờ Cao Tư Dương lại có lí lịch đáng nể thế. Anh liếc mắt nhìn bức ảnh một cái, rồi giả bộ khó xử bảo Nhị Học Sinh: “Đồng chí Nhị Học Sinh! Đồng chí nghĩ đến an toàn bản thân, đương nhiên là không sai, nhưng đồng chí cũng phải nghĩ đến an toàn của cả hội nữa chứ! Tôi thấy, đồng chí cứ dùng tạm khẩu… giáo này đi. Sau khi La Đại Hải luyện thành La hán trở về, tôi sẽ bảo cậu ta truyền thụ mấy chiêu bắn súng phòng thân cho đồng chí nhé!”.

Hải ngọng hỏi Nhị Học Sinh: “Thời Tùy Đường có cả thảy mười tám vị hảo hán, chú có biết họ La xếp thứ mấy không?”

Nhị Học Sinh chưa kịp trả lời, thì nghe tiếng bước chân dồn dập đạp củi mục vang lên nghe “bục bục”, với tần suất càng lúc càng mau, gần như không có khoảng ngắt quãng, khi nãy còn thấy âm thanh cách đây chừng mấy trăm mét, thế mà loáng một cái đã bám sát gót.

Lúc này, nơi mọi người đứng chỉ còn cách mấy thân cây cổ đại bị nấm vân chi che phủ một đoạn rất gần, tầm ba đến năm bước là cùng, bỗng nhiên thấy động tĩnh không ổn, cả hội liền lập tức giương súng quay người, thì thấy một con nhện hình dáng kì dị xuất hiện trong lùm nấm vân chi. Thân nhện to như cái chậu rửa mặt, người dẹt, trên lưng có vô số cặp mắt đơn, sáu đôi chân phụ và hàm răng không ngừng chuyển động, tám cái chân ở hai bên sườn mọc dài đến khiếp người, trông không cân đối chút nào so với thân mình, phần dưới chân dường như có bàn hẳn hoi, mọc tua tủa gai ngược và nệm thịt, giúp nó có thể mặc sức treo ngược trên không. Nó bò nhanh như bay, cẳng chân và ngón chân dài nhỏ khiến nó dễ dàng chống đỡ cơ thể, tuy không đến mức đăng bình độ thủy vèo vèo như giống đỉa, nhưng cũng đủ giúp nó di chuyển thần tốc trên đầm trạch. Lúc này, nó đang giẫm lên cây nấm gỗ, dưới chân không ngừng phát ra âm thanh rất khẽ “lách cách lách cách”, nghe mà rùng mình theo.

Con nhện chân dài bò càng lúc càng nhanh. Nó bò trên lùm nấm gỗ cao thấp đan xen mà như bò trên đất bằng, lao ầm ầm đến chỗ mọi người đang đứng tựa mũi tên bay.

Hội Tư Mã Khôi hoảng hồn, hét nhau nhất loạt giương súng bắn, khẩu súng liên thanh M1887 không thực sự có khả năng bắn liên thanh như tên gọi của nó, mà mỗi khi nhả một viên đạn đều cần sử dụng lực giật lùi để kéo búa kim hỏa lại và xoay ổ đạn một nấc, rồi sau đó mới bắn phát tiếp theo, tốc độ bắn tương đương với tốc độ các loại súng thông thường khác, nên dẫu là những tay súng thiện xạ điều khiển, thì cũng vẫn xuất hiện khoảng thời gian ngắt quãng. Thế nhưng ba khẩu M 1887, cộng với khẩu súng bắn gấu hai nòng của Hải ngọng hỗ trợ lẫn nhau, thì có thể tạo thành tấm lưới lửa, lấp đầy khoảng trống nguy hiểm đó. Con nhện chân dài bị bắn tan nát trong phút chốc, nhưng cà cuống chết đến đít mà vẫn còn cay, bụng nó ngửa lên trời, mấy cái chân thi nhau quẫy đạp, càng răng vẫn không ngừng thò ra.

Thắng Hương Lân soi đèn quặng vào hình thù kì dưới chân con nhện, cô kinh hoàng, khẽ kêu lên: “Là nhện chân quỷ!”

Hải ngọng hỏi Thắng Hương Lân: “Tôi biết trong rừng rậm có một loài nhện chuyên bắt chim, món này còn cắn chết được nguyên con bò đực đấy, nhưng nhện chân quỷ là … là giống gì vậy?” Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi cũng nhớ đến từng nhìn thấy một loại nhện chân dài trên Sơn Hải Đồ, bên cạnh hình vẽ còn chú thích hai chữ “chân quỷ” bằng chữ triện cổ triều Hạ, có lẽ đó là một giống quái dị nào đó, nhưng lúc đó anh không rõ nghĩa của nó, mà cứ nghĩ đó là tên gọi cổ xưa của loài nhện. Nhìn hình vẽ thấy ngoại hình nó thân tròn mình dài, trông khá giống với loài nhện bắt chim thường xuất hiện trong rừng rậm ở Miến Điện và Việt Nam. Loài nhện bắt chim, giống như tên gọi, nó có thân hình rất to lớn, chân dài, thân ngắn, tốc độ bò nhanh tuyệt luân, có thể giăng tơ bắt chim làm thức ăn, độc tính mạnh vô cùng. Không những vậy bản tính nó lại hung hãn, hiếu chiến, nên ngay cả những con mãng xà bá đạo chốn rừng xanh cũng phải kiêng nể nó vài phần, nhìn thấy nó là vội vàng chuồn mất dạng. Loài nhện chân quỷ dưới Âm Hải Cốc có lẽ là một dị chủng của loài nhện bắt chim, có điều loài này không biêt nhả tơ, cung không hành động đơn thương độc mã, nên nghe tiếng bước chân sầm sập như nước triều dâng, thì biết chúng tụ tập thành bầy đàn để dàn trận vây bắt con mồi.

Tuy trong tay mọi người đều có súng, nhưng cũng chỉ tạm thời đối phó với một, hai con là cùng, tai nghe âm thanh giẫm lên gỗ mục lách tách lách tách ở phía xa rất dồn dập, thì biết phía sau còn không biết bao nhiêu con đang ập đến bủa vây con mồi. Hội Tư Mã Khôi đâu dám dừng bước, lập tức trèo lên lùm nấm vân chi mọc trên thân cây khô, gắng trèo càng cao càng tốt, bây giờ chạy thoát được bước nào hay bước ấy.

Đúng như Tư Mã Khôi dự đoán, hàng trăm hàng ngàn con nhện chân quỷ đang bò nhanh như cắt dưới gốc nấm gỗ và tìm cách áp sát. Chúng gặp bọn bướm lá khô rơi đậu trên mặt đất thì nhào vào dùng hai càng châm tê liệt con mồi, rồi sau đó từ từ hút hết chất dịch bên trong, cho đến khi con bướm chỉ còn cái xác mỏng dính như phiến lá khô, chúng mới chịu buông tha. Những con bướm ma bị dồn đuổi đến đây, đã sớm sức cùng lực kiệt, nên chỉ một số ít còn đủ sức giãy giụa đôi chút, còn phần lớn là hết khả năng phản kháng, để mặc cho bọn nhện tùy ý sát sinh. Điều này cũng khiến tốc độ vây bắt từ tứ phía của bọn nhện có chút giảm chậm.

Mọi người cũng nhân cơ hội này trèo lên một đài nấm tương đối cao, đó là mấy chùm nấm vân chi mọc ngang thân cây thẳng đứng. Lúc này, chỉ nghe trên dưới trái phải, chỗ nào cũng là tiếng bước chân gấp gáp như muốn đòi mạng đang áp sát đến gần. Bốn phía xung quanh đã bị nhện chân quỷ bao vây kín mít.

Tư Mã Khôi và Hải ngọng thấy không còn đường thoát, họ vừa nạp đầy ổ đạn, vừa nghiến răng ken két lầu bầu oán thán: “Hai cái chân người thì địch làm sao được với tám cái chân nhện? Biết trước thế này, lúc ra khỏi cửa đã… gắn mẹ cái động cơ sau mông cho rồi”.

Hồi thứ bảy

QUAY CUỒNG

Hội Tư Mã Khôi nghe tiếng bước chân luồn lách giẫm đạp trên đất, thì biết bọn nhện chân quỷ đã thanh toán xong lũ bướm ma. Loài sinh vật này hung hãn, máu lạnh, một khi chưa tuyệt diệt được con mồi thì chúng sẽ không bao giờ chịu bỏ cuộc. Vì sự sinh tồn của chính bản thân và duy trì số lượng bầy đàn, chúng còn tàn sát cả đồng loại. Không những vậy, chất độc trong hàm răng của chúng có thể coi là chất kịch độc, nên ngay cả những loài thú lớn như: hổ, báo, sư tử, gấu đen mà bị chúng cắt một nhát, là toàn thân sẽ lập tức tê dại. Đáng sợ hơn, sự tê dại này chỉ khiến cho da thịt tê cứng, còn hệ thần kinh trong cơ thể con vật trúng độc thì vẫn hoạt động bình thường, thậm chí còn trở nên mẫn cảm hơn bội phần, điều đó có nghĩa là, trong lúc đầu óc con mồi hoàn toàn tỉnh táo, thì nó phải chứng kiến cảnh mình bị nhện chân quỷ giết sống. Nhện chân quỷ hút hết huyết dịch của con mồi, khiến cơ thể chúng dần trở thành bộ xác khô, con mồi phải chịu dày vò, đau đớn đến cùng cực trước khi chết. Nếu rơi vào bước đường này, chắc chắn con mồi khi đó sẽ rất hối hận vì đã không kịp tự kết liễu đời mình bằng một cách dễ chịu hơn.

Cao Tư Dương nói với Tư Mã Khôi: “Bây giờ hối hận cũng ích gì, ngồi đó than ngắn thở dài chi bằng tìm cách đột phá vòng vây cho xong”.

Nhị Học Sinh nghe vậy, liền gật đầu liên tục, tỏ vẻ rất đồng ý, anh chàng còn đang định mở miệng nói gì đó, bỗng nhiên bị Tư Mã Khôi túm cổ áo đẩy mạnh khiến anh chàng ngã sấp mặt tại chỗ.

Nhị Học Sinh sợ khiếp vía, cứ ngỡ Tư Mã Khôi định đẩy mình xuống đài nấm, làm mồi nhử lũ nhện, giúp cả hội giải phá vòng vây, anh chàng run lập cập, gào lên oán trách Tư Mã Khôi: “Anh… anh đúng là đồ mất hết nhân tính!”. Đúng lúc này, một tiếng súng vang lên, một con nhện chân quỷ lẳng lặng tiến sát ngay sau lưng Nhị Học Sinh vừa bị đạn bắn trúng chân, làm nó mất trọng tâm, ngã lăn xuống gốc cây. Khi đó, anh chàng mới biết Tư Mã Khôi vừa cứu sống mình trong gang tấc, lúc định ngoi dậy và trèo lên, chẳng ngờ lại bước hụt, chân tay lấn bấn thế nào mãi không bò dậy được. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Lúc này, mấy con nhện chân quỷ còn lại đồng loạt bao vây tấn công, mọi người hét lớn, nghe tiếng chân nhện tiếp cận ở hướng nào, là lập tức chĩa súng về hướng đó nhả đạn. Tiếng súng đanh giòn, nổ liên tiếp một tràng dài.

Lũ nhện chân quỷ tuy bò trên thân cây gần như thẳng đứng, nhưng vẫn nhẹ nhàng như bay, tốc độ di chuyển không hề chầm lại. Mọi người đành soi đèn quặng, độc lập tác chiến, nhưng trong bóng tối, cả hội bắn trượt không ít đạn. Khuyết điểm dung lượng ổ đạn nhỏ của loại súng liên thanh M-1887 lúc này cũng lộ rõ. Trong giờ phút giành giật lại sự sống, mạnh ai người nấy nhả đạn không ngừng, chẳng kịp suy tính gì hơn.

Tư Mã Khôi áp sát lưng vào thân cây, nửa ngồi nửa quỳ, một tay lên đạn ngắm bắn, một tay túm lấy anh chàng Nhị Học Sinh vẫn bò chưa dậy được, kéo anh ta từ rìa nấm vào bên trong. Tư Mã Khôi vô tình chạm phải ba lô đeo sau lưng Nhị Học Sinh, anh bỗng nhiên nhớ ra ngoài hai hộp đạn cỡ 12 ra, thì trong đó còn cất rất nhiều đuốc phòng bị lúc cấp thiết.

Mấy bó đuốc đó là loại đặc chế của đội thám hiểm Taninth, phần đầu quết lớp diêm tiêu, chỉ cần chà xát mạnh là bùng cháy, nhiệt độ bốc cháy của dầu cá rất thấp, khả năng duy trì thời gian chiếu sáng khá lâu, lúc không cần thiết chỉ cần lấy nắp chế sẵn dập lửa, cất đi là lần sau có thể sử dụng tiếp.

Tư Mã Khôi vội vàng rút một cây ra, lấy chân đạp nắp cao su, rồi dùng hết sức chà xát đầu bó đuốc vào mũ bấc của Nhị Học Sinh, ánh lửa lập tức bùng lên, khu vực phía trước được soi sáng như ban ngày.

Lúc này, một vài con nhện chân quỷ đang định bò đến gần, Tư Mã Khôi huơ tay, giơ cao bó đuốc, lao mạnh vào mắt nhện. Trong ngũ hành, hỏa là vô tình nhất, cũng là thứ mà vạn vật có sự sống trên đời khiếp sợ nhất. Ngọn lửa ngùn ngụt, đỏ rực ấy, trên có thể đốt cháy cổng trời, dưới có thể thiêu cháy địa phủ, huống hồ lũ sinh vật máu lạnh dưới lòng đất chưa bao giời nhìn thấy ánh lửa này, chúng thoắt chốc co cụm thành một đám, rơi xuống gôc cây, mấy con nhện chân quỷ gần đó cũng tháo lui, lẩn vào bóng tối không có ánh lửa, chờ thời cơ hành động.

Tư Mã Khôi nhận thấy, tuy rằng đuốc đã tạm thời ngăn lũ nhện chân quỷ tiến gần, nhưng chúng vẫn ngoan cố bao vây, không chịu giải tán, dường như chỉ đợi thế lửa dần suy yếu là sẽ lần nữa ào lên tấn công. Anh nghĩ đến kết cục cả hội phải đối mặt sau khi lửa đuốc vụt tắt, thì dù cho có là hảo hán hào kiệt hay tên đồ tể giết người không chớp mắt, nhưng chỉ cần nghĩ đến cảnh tượng đó, người ta cũng bất giác lạnh gan tái mặt.

Tư Ma Khôi rút thêm thanh đuốc nữa, châm lửa, rồi đưa cho Thắng Hương Lân để đảm bảo ánh lửa đủ duy trì an toàn cho mọi người, số còn lại anh không dám sử dụng nhiều.

Thắng Hương Lân nói: “Bây giờ chúng ta đã có lửa phòng thân, nhưng cũng không thể cất lương khô chịu đói được, chúng ta phải tìm cơ hội thoát hiểm. Nếu bản đồ đội thám hiểm Taninth để lại chính xác tuyệt đối, thì có lẽ con đường bí mật dẫn đến chiếc hộp Pandora, đang nằm ngay trong cái cây cổ đại này thôi”.

Mọi người gật đầu tán thành, họ lập tức soi đèn quặng và đuốc quan sát xung quanh, tìm kiếm con đường bí mật căn cứ vào các đặc trưng đánh dấu trên bản đồ. Đường kính các cây khô dưới lòng đất đều trên hai mươi mét, cây nào cây nấy thẳng đứng như vách tường. Nấm gỗ mọc trên thân cây tạo thành một sạn đạo(1) ngoằn ngoèo, giao thoa.

Tư Mã Khôi giơ đuốc lên trước trán, phát hiện trên cao có một bóng đen, thân cây mọc đầy rêu xanh, khiến nó trông càng thâm u, khác biệt hoàn toàn với cảnh vật xung quanh, hình như đó là một vết lõm lớn, đen ngòm. Anh leo lên cây, thì thấy đó là một hang động nằm trong thân cây, bên trong sừng sững hai pho tượng ngọc đầu chim, mình người. Anh vỡ lẽ, thì ra lúc trước cả hội tìm nhầm phương hướng, con đường mà bản đồ chỉ không nằm dưới gốc cây cổ đại, mà nằm ngay trên thân cây. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

[1] Sạn đạo: đường xây bằng cầu treo hoặc ván gỗ, xếp hai bên sườn núi đá, dùng để đi qua những khu vực núi non hiểm trở.

Tư Mã Khôi kéo mấy người còn lại trèo lên hốc cây, sau đó giơ đuốc chui vào trong. Anh lấy một hộp dầu thông trong ba lô ra, đổ tất cả ngoài cửa động, rồi châm lửa đốt, hòng ngăn chặn bọn nhện chân quỷ bám theo. Khổ nỗi, môi trường trong hốc cây ẩm ướt, mục nát, dầu thông khó lòng cháy bùng lên được, nên ngọn lửa yếu ớt, mờ nhạt; có điều không gian chật hẹp, u tối và dồn nén trong hốc cây lại càng có lợi cho mọi người làm thế dựa, nên ba hồn chín vía của cả hội đang treo lơ lửng giữa tầng không, cuối cùng cũng chịu nhập trở lại xác. Nếu họ tận dụng được môi trường ẩm ướt phức tạp trong lòng đất, tìm thấy lối ra trước khi dầu thông cháy cạn, thì có lẽ sẽ chạy thoát khỏi lũ nhện chân quỷ chuyên bắt mồi thông qua cảm nhận về sự chuyển động kia.

Nhưng Nhị Học Sinh vừa đi vừa nói với Tư Mã Khôi: “Cho dù chúng ta có xuyên qua được hốc cây này, chỉ sợ cũng khó lòng giữ được mạng sống. Trước đây, tôi từng làm tiêu bản côn trùng, cũng đọc qua về học thuyêt tiến hóa của loài vật, nên khá hiểu tập tính của mấy con vật này. Khi nãy, tôi quan sát thấy xác con nhện bị súng bắn, phát hiện trên đầu bầy nhện đều có vệt trắng, thứ này có lẽ là túi vị, chức năng của nó tương đương với thiết bị cảm ứng thông tin hóa học.

Hải ngọng thấy vô lý, anh chỉ nghe trên thế giới có thông tin vật lý, chứ làm gì có thông tin hóa học? Anh giễu: “Xem thằng quỷ con nhà cậu mắt lồi như mắt ếch, trông bộ dạng ngốc nghếch thế kia, làm sao phân biệt rõ được hai khái niệm này chứ?”

Cao Tư Dương phẫn nộ, cô định chỉ trích Hải ngọng phát ngôn vô độ, nhưng cô cũng hiểu, cô mà mở miệng thì với bản lĩnh mồm mép như Hải ngọng đời nào chịu để cô yên; anh chàng này là chúa hay lải nhải mấy chuyện dưa cà mắm muối, chỉ thích công kích, chụp mũ người khác và nâng cao quan điểm. Ai dây với anh ta thì ngang dây với đỉa đói, huống hồ bây giờ là thời khắc then chốt của sống còn, cô làm gì còn lòng dạ nào đôi co nữa, thôi thì bớt gây sự với anh ta cho xong chuyện. Nghĩ vậy, cô liền giả vờ như không nghe thấy mấy lời vừa rồi, chỉ nói: “Hẵng đừng quan tâm đến chuyện nó hợp lý hay không, cứ để Nhị Học Sinh nói hết đã nào!”

Được Cao Tư Dương bật đèn xanh, Nhị Học Sinh tiếp tục giải thích với mọi người cái gọi là thông tin hóa học, thực ra là chỉ tín hiệu mùi vị, thông qua không khí để truyền dẫn, tiếp nhận, giống như sợi râu trên đầu loài kiến dùng để giao lưu với nhau vậy. Bọn nhện chân quỷ hành động theo bầy đàn, trên đầu chúng đều có túi khí, cho phép chúng thông qua mùi khí bài tiết của bản thân tiến hành liên lạc với đồng loại, đồng thời nó cũng rất mẫn cảm với những mùi khí của các loài sinh vật khác, bởi vậy chúng mới đủ khả năng thích ứng trong môi trường sinh tồn khắc nghiệt thế này. Trừ phi chúng ta có thể chạy mấy ki lô mét trong thời gian nháy mắt, nếu không thì sẽ vĩnh viễn không thể nào thoát khỏi sự truy kích của chúng. Đương nhiên, tôi nói mấy ki lô mét chỉ là suy đoán, còn phạm vi cảm ứng mùi vị thực sự của chúng có khả năng kéo dài bao xa, thì rất khó nói, đường kính có thể một hai cây số, cũng có thể còn xa hơn. Có điều, với tốc độ di chuyển như hiện nay của chúng ta, bất luận cự li của nó là bao nhiêu thì xét về mặt lý luận, chúng ta vẫn không thể cắt đuôi được lũ nhện này, đợi khi đuốc cháy hết, thì ngày tận thế của chúng ta cũng tới.

Thắng Hương Lân hỏi: “Có cách gì tiêu hủy hoặc tạo mùi giả được không?”

Nhị Học Sinh bất lực lắc đầu: “Độ cảm ứng của côn trùng nhạy cảm hơn con người gấp trăm ngàn lần, làm sao mà thoát được?”

Tư Mã Khôi vừa nhìn pho tượng ngọc dựng ở đầu hốc cây, ngẫm thấy lời của Nhị Học Sinh chắc không phải là giả, tượng ngọc mà người Sở quốc để lại dưới Âm Hải Cốc hoàn toàn tương ứng với tuyến đường được đánh dấu trên bản đồ. Pho tượng ngọc trấn ma có dạng đầu chim mình người này, ngoại trừ hàm chứa ý nghĩa thần bí khó lòng giải thích nào đó, thì trong ruột tượng khả năng còn cất giữ một loại dược thạch đặc trị, có công dụng xua đuổi bọn nhện chân quỷ, khiến chúng không phá hoại con đường bí mật này, nhưng trải qua hơn hai ngàn năm, mùi khí của dược thạch đã sớm tiêu tan, tượng ngọc cũng lưu lạc trở thành huyệt động cho lũ hoàn long trú ngụ. Chiều sâu của hốc cây chỉ tầm mấy mét, sau khi đi xuyên qua, vẫn không thể chạy thoát khỏi sự vây bắt của lũ nhện. Mạng lưới đầm trạch khó lòng vượt qua, cũng không phải là chướng ngại đối với chúng, trong khi số lượng súng đạn và đuốc mà năm người mang theo cũng chỉ có hạn, tất có lúc sẽ dùng hết. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Lúc này, Hải ngọng thấy đám lửa cháy sau lưng đang càng lúc càng yếu dần, anh liền nhắc Tư Mã Khôi mau mau di chuyển đi chỗ khác.

Thắng Hương Lân giơ đuốc soi về phía trước, cô hoảng hồn nhìn thấy ở đầu hốc cây có một bóng đen đang bò với tốc độ khiếp đảm, chỉ là do sợ ánh sáng nên nó chưa dám tiếp cận mà thôi.

Mọi người biết chỉ cần rời khỏi không gian chật chội trong hốc cây, là sẽ lập tức bị bọn nhện chân quỷ bao vây, nhưng cũng không thể hi vọng đuốc phát huy công dụng mãi được, bởi đợi khi bọn chúng đã quen với ánh lửa, thì bất cứ lúc nào cũng có khả năng nhào tới xé từng người thành mảnh vụn; vậy nên trước mắt chỉ nghĩ ra được con đường là leo lên ngọn cây cổ đại.

Tư Mã Khôi sờ trên đỉnh đầu, thấy có giọt nước rớt xuống, anh dẫn bốn người còn lại, chui ra khỏi thân cây từ khe nứt nhỏ, tiếp tục trèo lên cao. Cây cổ đại này cao gần trăm mét, tán lá chồng chất tầng tầng lớp lớp, đan cài vào nhau như tấm lưới, độ chênh lệch nhấp nhô khá rõ rệt, cành nhỏ nhất chỉ khoảng vài cen ti mét, trong khi cành to có khi phải bằng cột nhà, bề mặt phủ đầy rêu xanh và nấm gỗ, khi bước đi trên đó, có cảm giác gỗ mục dưới chân đang rung rinh chực gãy, đi một bước, trơn một bước, lúc nào cũng như sắp ngã xuống đất. Nơi cao lại có cỏ nước ngầm thấm từ đỉnh động xuống, khiến không khí càng ẩm ướt nặng nề; ánh lửa cũng trở nên yếu ớt hơn, nhìn xuống phía dưới tối om như đêm ba mươi, sương rừng kéo đến cuồn cuộn.

Tuy Tư Mã Khôi là người gan dạ, thân thủ cao cường, nhưng lúc này vẫn cảm thấy chóng hết cả mặt. Anh biết rõ, nếu trượt chân rơi xuống thì chỉ còn nước chết. Cái cây này trơn nhớp, cành lá lằng nhằng, rêu mọc dày sâu, rậm rịt, nên leo lên thậm chí còn nguy hiểm hơn cả vượt đường núi. Lúc này, hội anh lại chỉ có phương hướng đại khái, không có gì chỉ đường chính xác, không dùng dao săn phát quang thì nửa bước cũng khó tiến, nhưng điều đó lại khiến bọn nhện chân quỷ bò dọc thân cây cũng không thể tiếp cận mọi người. Tất cả lũ nhện đang treo mình vắt vẻo ở tầng tán thấp, vẫn không chịu bỏ cuộc.

Mọi người bây giờ đã ở trong tình cảnh “đói không kén ăn, hoảng không kén đường”, nên tất cả chỉ cắm đầu mạo hiểm tiến từng bước gian nan, nhưng một mặt vẫn phải đề phòng lũ nhện chân quỷ chui ra từ khe nứt bất cứ lúc nào. Bản đồ của đội thám hiểm Taninth lấy tuyến đường xuyên qua Âm Hải Cốc làm trung tâm, mà hòn đảo cổ đại này vốn nằm dưới biển Âm Dụ, từ khi địa tầng dãy Thần Nông Giá đội lên, thì hòn đảo này không còn tồn tại nữa, khi đó hệ thống biển hồ ở đây chi chít như bàn cờ, rừng rậm um tùm, là nơi cư ngụ của không biết bao loài sinh vật cổ đại. Hàng ngàn tỉ năm đã trải qua chìm nổi, địa hình của nó vẫn duy trì diện mạo ban đầu, nhưng phần lớn khu vực ngoài tuyến đường trên bản đồ, từ cổ chí kim vẫn chưa hề được thám trắc thực tế, bởi vậy không ai có thể dự tính được bước tiếp theo họ sẽ gặp phải thứ gì.

Mọi người trèo lên cao trong tâm trạng căng thẳng lo sợ, cảm giác ấy khiến thể lực cả hội bị tiêu hao rất nhanh chóng, nên chẳng bao lâu, ai nấy đều cảm thấy hai chân mềm nhũn, tê dại, dần dần không thể chống đỡ thêm được nữa. Cả hội buộc phải dừng lại nghỉ.

Tư Mã Khôi giơ cao ngọn đuốc tìm đường, thấy tán cây cổ đại này rủ xuống, cây rừng xung quanh rậm rịt ngang dọc, dây leo chằng chịt, nấm gỗ phân bố khắp rừng với đủ hình thù kì dị, ở nơi sâu giăng mắc màn sương dày nặng, âm u, phía dưới không rõ là khí mục rữa của thứ gì mà cứ xộc thẳng vào tận não. Anh ngờ rằng, chỗ này lành ít dữ nhiều, không nên mạo hiểm dừng lại, thế là, Tư Mã Khôi liền bảo mọi người cố cắn răng kiên trì đi tiếp, đợi khi tìm thấy nơi nào ổn thỏa hãy tính.

Tư Mã Khôi thấy Nhị Học Sinh đã mệt rũ cả người, đi trên cành cây mà lảo đảo như say rượu, anh liền dịch người lại gàn giúp sức.

Nhị Học Sinh đợi Tư Mã Khôi đến gần, mới hổn hà hổn hển nói: “Tôi…tôi biết… bên trong chiếc hộp Pandora đựng thứ gì rồi!”.

Hồi thứ tám

VÀNH ĐAI 30° VĨ BẮC

Tư Mã Khôi cứ nghĩ mình nghe nhầm, anh ngạc nhiên liếc mắt thầm đánh giá Nhị Học Sinh. Chiếc hộp Pandora bắt nguồn từ thần thoại Hi Lạp, đại ý ám chỉ “loài người quá hiếu kì, không kiềm chế được đã mở chiếc hộp mà các vị thần để lại, kết quả đã vô tình phóng thích vô số thứ tà ác ở bên trong”. Chính vì vậy, người phương Tây dùng nó để ẩn dụ những bí mật bị nguyền rủa, còn ký hiệu được đánh dấu trong bản đồ, thì chẳng qua chỉ là tên gọi thay thế nào đó mà đội thám hiểm Taninth đã đặt cho mục tiêu. Theo những gì Tư Mã Khôi biết thì chiếc hộp Pandora không chỉ là huyệt động nằm dưới rừng rậm nguyên sinh biển Âm Dụ, mà còn là núi Âm Sơn mà Sở U Vương nhốt giữ ma quỷ thời Xuân Thu Chiến Quốc. Các ghi chép trên Sơn Hải Đồ cho thấy, trong huyệt động dưới lòng đất này còn ẩn giấu một bí mật kinh người nào đó, tìm thấy nó cũng có nghĩa là tìm thấy lời giải đáp cuối cùng của cả chuỗi ẩn số. Bởi vậy, việc tìm kiếm chiếc hộp Pandora rất phù hợp với chuyến hành động này của hội Tư Mã Khôi, nhưng Nhị Học Sinh chẳng qua chỉ là anh chàng thanh niên trí thức bị đẩy vào lâm trường Thần Nông Giá cải tạo lao động, thì làm sao biết được thứ cất giữ bên trong chiếc hộp Pandora là gì?

Nhị Học Sinh có vẻ hơi kích động, cậu ta thở hồng hộc nói với hội Tư Mã Khôi: “Chiếc hộp Pandora nhất định có liên quan đến ẩn số 30° vĩ Bắc…”. Trước đây, cậu ta từng đọc mấy cuốn sách về địa lý ở thư viện, nên biết vành đai 30° vĩ Bắc được gọi là đường quỹ đạo thần bí nhất trên thế giới. Phạm vi chênh lệch trong vòng 5° bao quanh 30° vĩ Bắc thường xuyên xảy ra những hiện tượng quái lạ, ở đó tồn tại rất nhiều kì quan địa hình địa mạo: từ đỉnh Chomolungma – đỉnh núi cao nhất so với mặt nước biển, đến rãnh đại dương Mariana, rồi tam giác quỷ Bermuda với hố xoáy tử thần, dãy núi Thần Nông Giá, khe Hắc Trúc v.v… Vĩ độ này cũng là khu vực động đất xảy ra tập trung và liên tục nhất, là khu vực máy bay, tàu thuyền bị mất tích nhiều nhất, ngoài ra còn có rất nhiều di tích lịch sử kì bí, huyền thoại. Tất cả những chuyện lạ này chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên hay là định mệnh đến từ cõi u minh? Dường như trong vĩ độ này, thấp thoáng ẩn hiện một thế lực vô hình, nhưng vô cùng thần bí và mạnh mẽ nào đó. Trên thế giới có biết bao nhà thần học, nhà triết học, nhà khoa học, nhưng chưa một ai có thể giải đáp triệt để câu đố về 30° vĩ Bắc, tuy họ đã đưa ra vô số giả thiết nhưng giả thiết đâu phải là chân tướng hiện thực.

Tuy Nhị Học Sinh mới chỉ đi theo hội Tư Mã Khôi một thời gian, nhưng cậu ta đã cảm nhận một cách sâu sắc rằng, những gì mình gặp dọc đường sẽ là những điều kì lạ nhất trong cuộc đời. Vĩ độ thần bí như một câu đố này tuy tồn tại rất nhiều điều kì quái và được nhiều người quan tâm, nhưng khi liệt kê danh sách các địa danh thần bí trong vĩ độ, người ta không hề nêu tên huyệt động dưới lòng đất ở Thần Nông Giá, điều đó chứng tỏ, nơi này chính là tọa độ bị thất lạc trên vành đai 30° vĩ Bắc, và nhất định trong lòng nó còn chứa đựng vô số bí mật mà người đời chưa ai từng biết đến. Cậu ta cứ đinh ninh, hội Tư Mã Khôi đến Thần Nông Giá là để tìm kiếm lời giải cho loạt ẩn số 30° vĩ Bắc, và nếu quả thực là vậy, thì những người phát hiện nhất định sẽ mãi mãi lưu tên trong sử sách, rạng danh với tô tông. Nếu được như vậy thì dẫu có phải thịt nát xương tan, cậu ta cũng thấy đáng, còn hơn là phải im hơi lặng tiếng đốn gỗ cả đời trong lâm trường, Nhị Học Sinh thà chọn lựa con đường mạo hiểm, quyết cùng Tư Mã Khôi làm việc lớn, cam tâm dẫu chết cũng không quay đầu.

Thắng Hương Lân cảm thấy lời của Nhị Học Sinh cũng khá có lý. Đại Thần Nông Giá đúng là nằm ở vành đai 30° vĩ Bắc thường xảy ra nhiều sự kiện lạ lùng, ỏ đây có quá nhiều nhân tố đã biết và chưa biết, vì vậy mọi người cần chuẩn bị tốt tâm lý để đón nhận mọi việc.

Trước đây, khi Tư Mã Khôi còn ở Miến Điện, anh từng nghe vô tuyến truyền phát một dòng tin: Theo thống kê của Mỹ, trong tổng sổ tàu ngầm quân Mỹ đi xuyên qua vành đai 30° vĩ Bắc thời kì chiến tranh thế giới thứ hai, cứ năm chiếc tàu lại có hai chiếc bị mất tích do nhân tố phi chiến tranh, nguyên nhân cụ thể không ai nắm rõ, cũng không có người nào sống sót trở về để kể lại với thế giới những cảnh ngộ mà họ đã gặp phải, số liệu và tin đồn khiến người ta rùng rợn vẫn còn rất nhiều, có điều phạm vi 30° vĩ Bắc quá rộng lớn, bây giờ không thể dự đoán trước sẽ phát hiện thấy gì trong chiếc hộp Pandora. Anh bảo Nhị Học Sinh đừng đoán mò nữa, mà mau bám sát đội ngũ tiến về phía trước, bởi bây giờ cố gắng sống sót thoát khỏi đây mới là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu, chứ con người đã thổi đèn, tắt nến thì lưu danh sử sách liệu còn tác dụng gì nữa? Đang nói, bỗng nhiên anh phát hiện ở nơi sâu giữa các khe trên hàng rào cây cổ thụ bỗng lóe lên một luồng sáng trắng rất chói mắt. Đó là quầng sáng vô cùng kì dị. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi không biêt ánh sáng ấy bắt nguồn từ đâu, nhưng nó âm u, trắng bệch, không giống với ánh lửa. Anh lập tức ấn lưng Nhị Học Sinh cúi xuống thấp, đồng thời nhắc nhở hội Hải ngọng chú ý.

Mọi người thấy có biến, người nào cũng giương súng đợi địch, nhưng chưa kịp ngắm chuẩn, thì quầng sáng bập bùng bất định như ánh lửa ma trơi đó đã bay đến trước mặt. Trong vầng quang sương là một loài côn trùng có cánh nguyên thủy, trông nó hao hao giống chuồn chuồn, thân dài và mảnh, gần như trong suốt, cánh trước lớn, cánh sau nhỏ, kéo theo ba cái tua đuôi hình sợi tơ, từ đôi mắt kép trên đỉnh đầu đến phần cuối tua đuôi chỉ dài khoảng nửa gang tay, nó lặng lẽ liệng qua người hội Tư Mã Khôi.

Lúc này, xung quanh đã xuất hiện vô số vầng quang sương, nó bay qua bay lại, xuyên giữa kẽ cây, tất cả đều im lìm như những tinh linh. Cả hội chưa bao giờ nhìn thấy loài chuồn chuồn cổ đại nào to như thế, vả lại số lượng lại nhiều vô kể, mọi người đều bất giác im lặng, chăm chú ngắm nhìn, tay vẫn nắm chặt cò súng, không dám nới lỏng.

Tư Mã Khôi quan sát giây lát, rồi nói: “Đừng lo, đây chỉ là phù du rừng phát sáng nguyên thủy nhất, chúng không cần ăn uống, sớm nở tối tàn.”

Cao Tư Dương chưa hiểu, hỏi lại: “Sớm nở tối tàn… là ý gì?”

Tư Mã Khôi nói: “Trên đời vốn có ngũ trùng, lần lượt là “luy, lân, mao, vũ, côn”, “luy” là loài người, “lân” là loài cá, “mao” là loài thú, “vũ” là loài chim và “côn” nghĩa là côn trùng. Phù du là sinh vật cổ đại nhất thuộc nhóm côn trùng, từ lúc sinh ra cho đến khi chết chỉ có vài giờ đồng hồ, chúng căn bản không hề hay biết trong cõi trời đất còn có biến hóa ngày đêm, bốn mùa, cũng không cần nạp năng lượng để duy trì sự sống. Có câu: “Cá bơi vui dưới nước, chim líu lo trên trời”, mỗi sinh vật tồn tại trên đời đều có mục đích sống của riêng mình, còn không biết trong sinh mệnh ngắn ngủi của mình, phù du theo đuổi thứ gì?”

Cao Tư Dương nghe xong, lòng bỗng nhiên cảm thấy buồn bã, cô ngước mắt nhìn vầng quang sương thoắt ẩn thoát hiện trong bóng tối và buông tiếng thở dài.

Tư Mã Khôi khuyên nhủ: “Cô không cần thương thay khóc mướn cho bọn phù du làm gì. Nếu chúng ta còn muốn sống lâu hơn chúng một chút, thì phải cố gắng mau chóng vượt qua quần thể thực vật tiền sử này”. Nói xong, anh phát dây leo tìm đường.

Cao Tư Dương gọi Tư Mã Khôi: “Tôi thấy cơ thể Hương Lân gầy guộc, khí sắc cũng không tốt lắm. Nhị Học Sinh lúc trước cũng bị thương, không biết có ảnh hưởng đến phủ tạng không, lưng lại cõng thuốc súng, lửa đuốc. Anh ấy cũng đã kiên trì đi bộ trong nơi nguy hiểm này khá lâu rồi, tinh thần và thể lực cũng đến cực hạn, chỗ này tuy không thể so với đất bằng, nhưng nếu không dừng chân, tôi e sẽ xảy ra chuyện mất, huống hồ ở đây tán cây rậm rạp, nhện chân quỷ cũng không đến được, cũng khá tốt để chúng ta ẩn nấp. Anh xem có thể để cả hội dừng lại nghỉ ngơi chốc lát được không?”

Tư Mã Khôi kiên quyết: “Không được! Phù du là sinh vật chết sớm, trông thấy nó là điềm gở, trước khi trở lại tuyến đường đánh dấu trên bản đồ, không ai được phép dừng chân”.

Hải ngọng cũng cảm thấy chỗ này âm khí nặng nề, tuyệt đối không nên nấn ná lâu. Những nơi có phù du tụ tập ở Miến Điện hay Campuchia, phần lớn là ao hồ, đầm trạch; những nơi đó cũng thường xuyên xuất hiện mãng xà khổng lồ, dưới nước thậm chí còn xuất hiện cá hô, những con cá hô có khi phải nặng đến bốn năm trăm ki lô gam, nghe nói, nó có thể một hơi nuốt chửng đứa trẻ bảy tám tuổi. Nhưng dưới nước làm gì có nhiều thức ăn đến thế để phục vụ cho cái dạ dày của nó? Nó đành phải bắt vô số phù du lót dạ, bởi vậy thân hình chúng mới phát triển to lớn dường vậy, phù du rừng tuy không sống ở những khu vực có nước, nhưng thân hình lại to hơn phù du nước rất nhiều, nên cũng rất khó đoán dưới lòng đất có thứ gì chuyên ăn xác bọn chúng không.

Cao Tư Dương không tán thành với luận điệu mê tín kiểu điềm này điềm kia của Tư Mã Khôi và Hải ngọng, cô cũng biết hai người này rất ăn rơ với nhau, chuyên nghĩ ra những ý tưởng điên rồ, chỉ thích loan tin bóng gió, không đủ sức thuyết phục người khác, nhưng Cao Tư Dương lúc này đang trong tình trạng một con gà khó cất tiếng gáy, nên cô đành ấm ức tiếp tục cuộc hành trình vào rừng sâu cùng cả hội. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Lúc này đã có hàng trăm hàng ngàn con phù du, chúng bay lượn qua các kẽ cây nơi mọi người đứng, thỉnh thoảng một quầng sáng rực bỗng trở nên mờ tối, xác phù du rơi lả tả trên cành lá khô mục, rất nhanh sau đó trải thành một lớp thảm trên đất.

Tư Mã Khôi vừa trông thấy phù du đã có dự cảm không lành, anh bảo Thắng Hương Lân lấy la bàn hiệu chỉnh phương vị, giơ cao đuốc soi về phía trước tìm đường.

Cao Tư Dương nghĩ, phù du xung quanh không thể trở thành sự uy hiếp cho cả hội, cô không hiểu vì lẽ gì mà Tư Mã Khôi lại lo lắng đến thế.

Thắng Hương Lân giải thích với cô: “Khi nãy, Tư Mã Khôi và Hải ngọng nói rất đúng, phù du nguyên thủy sớm nở tối tàn, thuộc tầng thấp nhất của chuỗi sinh vật, có trời mới biết sau khi chết đi, xác chúng để lại sẽ dẫn dụ con vật nào đến ăn thịt”.

Bấy giờ Cao Tư Dương mới hiểu thì ra là vậy. Lúc này, dưới chân mọi người bỗng nhiên rung chuyển rùng rùng, lớp rêu và nấm phủ dày trên bề mặt gỗ mục vừa trơn vừa ướt. Cô đứng không vững, định nhoài người vịn một nhành dây leo để giữ thăng bằng, nào ngờ sợi dây leo đó lại mủn như mùn, bị Cao Tư Dương níu một cái là đứt luôn xuống.

Thắng Hương Lân trông thấy vậy, cuống quýt đưa tay ra cứu. Tuy tốc độ phản ứng nhanh, nhưng sức cô không đủ, kết quả không những chẳng thể kéo được Cao Tư Dương trở lại, mà bản thân cô cũng theo đà rơi xuống nơi sâu trong kẽ cây.

Tư Mã Khôi và Hải ngọng cùng hét lên thất thanh: “Chết rồi!”, cả hai cúi rạp người xuống nhìn. Nhờ ánh sáng phát ra từ bầy phù du, có thể thấy Cao Tư Dương và Thắng Hương Lân rơi trúng và làm gãy hai tầng cành khô, rồi được níu lại bởi mây sợi dây leo kết bện vào

nhau, treo lơ lửng giữa không trung cách chỗ mọi người đang đứng tầm hơn mười mét. May nhờ lớp rong rêu sâu dày, nên không ai bị bong gân, trật khớp. Hai người vã mồ hôi lạnh, tim đập thình thịch như trống trận, định giãy giụa đứng lên, leo về chỗ cũ, nhưng ngặt nỗi chân không tới đất, cật không tới trời, chỉ cần khẽ động đậy là sợi dây leo đã lắc la lắc lư, phát ra âm thanh “rắc rắc” như thể sắp đứt. Tình hình bây giờ nguy hiểm chẳng khác nào ngàn cân treo sợi tóc.

Nhị Học Sinh còn hoảng loạn hơn, thêm vào đó đường đi vừa hiểm trở vừa trơn ướt, nên cậu ta cũng không biết làm cách nào để cứu người. Cậu ta liền quăng sợi dây thừng xuống, nhưng cành lá ngang dọc chằng chịt, dây thừng bị mắc vào một cành nhánh chìa ra, trong lúc hấp tấp, cậu ta không sao giật lại được.

Tư Mã Khôi thấy vậy, liền đưa đuốc cho Nhị Học Sinh cầm, rồi bảo anh chàng và Hải ngọng đứng trên tiếp ứng, còn mình đeo súng bắn đạn hoa cải, rồi chúc đầu leo xuống thân cây thẳng đứng nhờ vào thân thủ nhanh nhẹn. Anh bóc lớp nấm gỗ cạnh người, tiếp cận sợi dây leo, ra hiệu cho Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương đừng động đậy, tránh để dây đứt, rồi ngẩng đầu huýt sáo gọi Hải ngọng mau thả dây thừng xuống.

Hải ngọng và Tư Mã Khôi là bạn nối khố lâu năm, không cần nói nhiều cũng biết đối phương cần gì, ngặt nỗi sợi dây thừng đã vướng vào các nhánh cây. Anh không dám giật bạt mạng, mà nếu cắt đôi sợi dây ra thì chiều dài lại không đủ. Hải ngọng cuống đến nỗi mồ hôi trán vã ra đầm đìa.

Tư Mã Khôi đang định giục Hải ngọng, thì từ nơi sâu trong lùm cây lại rung rung lên từng hồi. Anh cúi đầu xuống xem, cảm thấy từng sợi tóc trên đầu mình dường như đều dựng ngược cả lên, có vật thể gì đó vô cùng to lớn, màu sắc hòa cùng màu lá khô, đang thò người nhảy ra, cái đầu ba sừng vừa dẹt vừa bằng, hai mắt tròn đục, lồi hẳn ra ngoài, to như đèn pha ô tô, nhưng trắng xám, không phát sáng. Trông hình dáng nó hơi giống cóc, hai chi trước mọc giác hút, chống chân giữa đám gỗ mục, nhảy cóc từng bước, cái miệng há rộng ngoác như chậu máu không ngừng phun sương nhả khí, bất kể xác phù du rơi trên mặt đất hay những con còn sống đang bay lượn giữa không trung, thậm chí là những con nhện chân quỷ chui ra từ khe gỗ, đều nhất loạt bị cái lưỡi dài của nó cuốn cả vào bụng.

Tư Mã Khôi thấy trên lưng nó có nhựa mủ, anh phỏng đoán có lẽ đây là con thụ thiềm, tức một loại cóc khổng lồ chuyên sống trong các hốc cây, nhựa của nó là chất bài tiết của cơ thể, mang độc tố cực mạnh, có mùi hôi thối xộc tận não, tanh không thể ngửi nổi, mà chỉ những loài động vật lưỡng cư như cóc mới có. Theo thuyết tướng vật, những con cóc dài gần hai gang tay được gọi là thiềm vương, thế mà con này đâu phải chỉ hai gang tay, nó còn dài gấp mấy ấy chứ; bụi cây rậm rạp căn bản không thể cản được bước tiến của nó, còn tục truyền: “thiềm vương có nhựa, chuyên khắc chế ngũ trùng”, xem ra lời đồn này không phải là giả. Càng răng của nhện chân quỷ không chỉ mất tác dụng với cóc cây, mà ngược lại con nhện còn bị dính độc nhựa cóc lăn ra chết; thụ thiềm chỉ chờ có thế là cuốn con mồi vào trong cái bụng không đáy của nó, những con chưa chết sợ hãi, liền tháo chạy tứ tán.

Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương thấy con thụ thiềm đang nhảy trên gỗ mục về phía mình, thì nghĩ không khéo nó chẳng cần đến gần mấy sợi dây leo này, chỉ dùng cái lưỡi cuốn một cái cũng đủ khiến hai cô trôi tuột vào trong bụng. Hai cô định giương súng bắn, nhưng chỉ sợ giãy giụa sẽ làm sợi dây leo già bị đứt hoặc bị nhựa cóc phun vào người, vì nếu lỡ dính thứ mủ nhựa gớm ghiếc kia thì toàn bộ da thịt sẽ bị ăn mòn đến tận xương. Hai người trừng mắt nhìn con thụ thiềm tiến lại gần, họ không còn đường nào tránh né, đành nhắm mắt chờ chết.

Hồi thứ chín

KẺ SĂN MỒI Ở TÂM TRÁI ĐẤT

Lúc này, Tư Mã Khôi ngồi ngay ở cành cây phía trên con thụ thiềm, anh đã thấy rõ nó lợi hại thế nào, nên không dám nổ súng giải vây, chỉ giục Hải ngọng mau chóng thả dây thừng xuống.

Hải ngọng cuống cuồng trèo lên cao, định dùng dao chặt nhánh cây làm vướng sợi dây thừng, đồng thời cúi đầu nói vọng xuống: “Sắp xong rồi! Cậu cố gắng kiên trì thêm một phút nữa thôi!”

Tư Mã Khôi đỏ mắt, điên tiết hét lại: “Tiên sư Hải ngọng! Cậu đang tất bật cái chết tiệt gì thế hả? Thêm mấy giây nữa thì liệu xuống đây mà lượm xác!”

Lúc này, Nhị Học Sinh cũng ép sát người nhìn xuống, thấy tình cảnh của Cao Tư Dương và Thắng Hương Lân quá sức nguy cấp, anh chàng cùng cuống quýt như kiến bò chảo lửa, bỗng nhiên nhớ ra đa số sinh vật dưới lòng đất đều sợ lửa và ánh sáng, thế là anh chàng định bài cũ áp dụng lại, rút một thanh đuốc trong ba lô ra, ném về phía Tư Mã Khôi.

Tư Mã Khôi đưa tay ra đỡ, chà sát đầu bó đuốc vào đế giày thật mạnh, ngọn lửa bùng tên rừng rực. Anh thấy thân hình to lớn của con thụ thiềm đang bò ngay phía dưới mình, liền nắm chắc ngọn đuốc, cắm thẳng xuống.

Ai ngờ, con thiềm vương quanh năm ẩn náu dưới lòng đất, khắp thân mình nhầy nhụa toàn mủ nhựa, khí ẩm mốc nặng nề, vì vậy lửa đuốc vừa chạm phải đã tắt rụi, châm lại cũng không bén nổi nữa. Con thụ thiềm khi nãy còn đang mải nuốt phù du treo mình giữa các dây leo, có lẽ đối với nó, phù du và con người chẳng khác gì nhau, lúc này mới phát hiện, sau lưng có điều khác lạ, nó liền chầm chậm quay đầu lại nhìn Tư Mã Khôi.

Tư Mã Khôi không ngờ lửa đuốc lại bị tắt, thấy con thụ thiềm đột nhiên quay đầu lại phía mình, tim anh bất giác ớn lạnh, anh còn chưa kịp phản ứng gì thì đã thấy cái miệng đỏ lòm lòm của con cóc ngoác rộng hoang hoác. Con vật này tuy đần độn, chậm chạp, nhưng cái lưỡi quái dị đỏ au au và tanh tưởi của nó thì biến hóa khôn lường, đoạn đầu lưỡi chẻ đôi, gốc lưỡi ở ngay trước miệng, khiến tốc độ đảo ngược vào trong miệng, hay thè ra cuốn con mồi đều nhanh như chớp giật, mắt người căn bản không thể nhìn rõ nó hành động thế nào.

Tư Mã Khôi chỉ thấy vèo một cái, cơn gió tanh tưởi quét qua tai, mấy con phù du cạnh anh đều bị cuốn vào bụng con thụ thiềm. Tư Mã Khôi thấy nó lại bắt đầu há cái miệng quái dị, tim anh thót lên như bị ai bóp chặt, trước mắt chỉ còn cách gắng gượng liều mình đỡ đòn. Anh hít sâu một hơi, giở tuyệt chiêu “bọ cạp đảo đầu leo tường”, phi thân lao đi nhẹ nhàng hơn cả khỉ, nhờ thân thủ nhanh nhẹn, anh mau chóng ép sát người vòng qua các khe dây leo trên cây cao.

Tuy tốc độ thè lưỡi cuốn con mồi của thụ thiềm cực nhanh, nhưng nó lại không quay người lại được. Cú vồ hụt khi nãy khiến nó vô cùng tức giận, cổ họng phát ra tiếng “cục cục”, nó vừa há rộng miệng nhả sương khí, vừa chầm chậm quay người ra sau truy sát. Con thụ thiềm vừa động đậy thân thể một cái, cả thân cây đã rung chuyển theo.

Tư Mã Khôi cảm thấy gió độc bám riết sau lưng, lại nghe tiếng dây leo, gỗ mục rào rào đứt gãy, nhưng anh đâu dám quay đầu lại nhìn, chỉ hít mạnh một hơi, rồi liên tục di chuyển qua các cành cây khô né tránh. Khi gặp phải những vật cản như dây leo cỡ lớn, cành cây to, anh vẫn lắc người vượt qua một cách uyển chuyển, những người còn lại ở quanh đó đều hồn xiêu phách lạc, mặt mày tái mét, toát mồ hôi hột lo thay cho Tư Mã Khôi.

Chỉ duy Hải ngọng lăn lộn nhiều năm cũng Tư Mã Khôi mới biết chiêu “bọ cạp đảo đầu leo tường” là lấy hai đầu gối vả khuỷu tay làm trọng tâm, người luyện chiêu thức này chí ít phải mất mười năm khổ công, chính vì môn này rất khó học, nên trong hàng ngàn người chưa chắc đã có một người luyện được; nhưng sau khi đã luyện thành công, tuy chưa đạt đến trình độ khinh công én liệng tầng không hay chuồn chuồn chấm nước, thì chuyện vượt rào leo tường đối với họ cũng chỉ là chuyện nhỏ. Có điều địa thế chỗ này hiểm trở quá, lỡ bị rơi xuống thì đúng là lặn không sủi bọt, Hải ngọng không dám chậm trễ, nhân lúc Tư Mã Khôi nhử con thụ thiểm ra xa, anh liền giật lấy giật để sợi dây thừng mắc kẹt, rồi ném xuống cho Cao Tư Dương và Thắng Hương Lân đang treo mình lơ lửng trên dây leo và ra sức kéo hai người lên.

Lúc này, Tư Mã Khôi đã tránh được con thụ thiềm, anh vòng qua thân cây, bò sang chỗ khác. Bỗng nhiên anh thấy phía sau yên ắng kì lạ, liền ngoái đầu nhìn lại, thì thấy con thụ thiềm há miệng đảo lưỡi, nhắm thẳng vào hai nguời đang treo lơ lửng giữa không trung, tư thế như định nuốt. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Thân mình con thụ thiềm to lớn, da tựa vỏ cây khô, khẩu súng bắn đạn hoa cải seri M-1887 không thể hạ gục nổi nó, vả lại trên thân mình nó còn có nhựa độc, chỉ cần dính một tí vào người là cũng đủ tiêu đời, còn cái lưỡi dài ngoằng kia mà liếm được, thì hai người chắc chắn sẽ bị nó ăn tươi nuốt sống vào bụng, dễ dàng chẳng khác nào hút con phù du.

Khi nãy, Tư Mã Khôi đã vận hết công lực mới né tránh được con thụ thiềm. Liên tục di chuyển, trốn chạy khiến anh lúc này như súng hết đạn, nhưng khi thấy tình hình Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương nguy cấp như đang treo trên sợi chỉ mảnh, thì anh liền vận hết sức bình sinh, hai chân nhảy bật lên cây, uyển chuyển như chim ưng cất cánh bay cao, ôm chặt hai người họ, rồi mượn lực quán tính, lượn vèo về phía trước, chỉ cảm thấy một sức mạnh khủng khiếp đang ào đến từ phía sau. Thì ra, lưỡi con thụ thiềm lại tóm hụt con mồi, nó liền bị trượt về phía trước, mấy sợi dây leo không tải được sức nặng của nó, liền đứt đánh phựt, cả thân thể con thụ thiềm đổ dốc ra trước, thấy mình mất trọng tâm, nhưng muốn thối lui cũng không kịp nữa, nên chỉ nghe nó rơi “bụp” một cái xuống đất, rồi mãi hồi lâu mới nghe tiếng vọng nặng nề, âm thanh như thể bóng đái lợn bị vỡ vậy.

Tuy Hải ngọng sức khỏe trâu bò, sợi dây thừng lại vô cùng chắc chắn, nhưng kéo một lúc ba người, lại cộng thêm ba lô, súng ống, còn ba người tựa ba qua chuông đồng hồ rung lắc điên đảo giữa không trung, nên sức nặng này đâu phải chuyện nhỏ! Vì vậy, hai tay anh rách toác, rướm máu, anh nghiến chặt răng nghe “ken két”, rồi vận hết sức mạnh, may nhờ Nhị Học Sinh chạy lại giúp sức mới chật vật kéo được cả hội lên.

Tư Mã Khôi sợ cành cây khô bị gãy, anh liền thò tay túm một sợi dây leo khác buông mình gần đó, nắm chặt lấy để giữ vững trọng tâm. Lúc này, anh mới cảm thấy mồ hôi lạnh đã thấm đẫm lưng áo.

Lúc Cao Tư Dương và Thắng Hương Lân rơi xuống mấy sợi dây leo, cả hai đều bị xây xát ngoài da, Cao Tư Dương chưa kịp hoàn hồn đã bắt tay xử lý băng bó vết thương cho mọi người.

Trước đây, Nhị Học Sinh rất thích đọc tiểu thuyêt phiêu lưu mạo hiểm của nhà văn Mỹ Burroughs, khi nãy nhìn Tư Mã Khôi hành động mạo hiểm y như trong truyện, lòng anh chàng đã ngập tràn sự thán phục xen lẫn kinh ngạc, cảm thấy Tư Mã Khôi còn nhanh nhẹn hơn cả người vượn Thái Sơn.

Hải ngọng hỏi: “Sao tôi chưa bao giờ nghe thấy… ở Thái Sơn có hảo hán như vậy nhỉ?”

Tư Mã Khôi giải thích, thực ra anh ta chỉ là nhân vật trong tiểu thuyết “Thủy Hử”. Truyện có một hồi kể về tráng sĩ giỏi môn đấu vật, họ Nhậm, tên Nguyên, bình sinh khỏe mạnh vô song, thân cao hơn trượng hai, mắt xếch trợn tròn, từng lập đài đấu võ dưới chân núi Thái Sơn. Ông ta được mệnh danh là Thái Sơn Nhậm Nguyên, thế mà không ngờ có ngày lại bị Yến Thanh dùng một chưởng hạ đo ván tại chỗ, rồi bị Hắc Toàn Phong Lý Quỳ tiện tay vung luôn một búa chẻ ra làm đôi. Hắc Toàn Phong vẻ ngoài dã man thế thôi chứ đồng chí này sợ Yến Thanh một phép, trình đấu vật của Yến Thanh khiến Lý Quỳ cũng phải ngán, chứ nói gì gã Nhậm Nguyên? Đấy, chuyện chỉ vỏn vẹn có vậy, mà không ngờ mấy đồng chí này nổi danh ở Mỹ như cồn, lại còn có người chuyển thể thành sách và phong cho danh hiệu “người vượn Thái Sơn” nữa. Nhưng tí ánh sáng lập lòe ở đít đom đóm như đồng chí ấy, thì làm sao sánh được với ánh trăng vằng vặc như tớ đây, so với Hải ngọng còn tạm”.

Hải ngọng tưng tửng: “Úi xời! Khi nãy nếu không có tí sức của Hải ngọng tớ đây, thì vầng trăng vàng vặc trên trời nhà cậu đã nát bét mẹ dưới âm ti rồi”. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Nhị Học Sinh tự biết khi nãy mình lỡ miệng. Trước Cách mạng văn hóa, xem trộm tiểu thuyết Mỹ là vấn đề chính trị vô cùng nghiêm trọng, lòng anh chàng hơi hối hận, giờ nghe Tư Mã Khôi và Hải ngọng đôi co vớ vẩn, anh chàng đành ngậm tịt miệng, không ho he tham gia tiếng nào.

Lúc này, Thắng Hương Lân nhắc nhở mọi nguôi, cô nói: “Xung quanh đây vô cùng nguy hiểm, bọn nhện chân quỷ tụ tập thành bầy đàn đã đủ khiến chúng ta đau đầu, chẳng ngờ bọn chúng gặp phải thụ thiềm thì không còn tấc đất phản kháng, giãy giụa. Mấy năm trước, có đội địa chất phát hiện thấy hóa thạch của thụ thiềm vương ở Nội Mông, lúc ấy thế giới mới biết từng có một loài sinh vật đáng sợ nằm ẩn mình trong hốc cây hóa thạch dưóí lòng đất, liền đặt tên cho nó cái tên: ‘kẻ săn mồi ở tâm Trái đất’. Chúng ta đã gặp nó mà vẫn có thể sống sót rời khỏi đây, thì quả thực là vô cùng may mắn. Nhưng nơi sâu dưới lòng đất có lẽ còn tồn tại nhiều thứ đáng sợ hơn, mọi người phải đồng tâm hiệp lực, mưu cầu sinh tồn, đừng vì những chuyện nhỏ nhặt mà ngồi cãi vã với nhau nữa.”

Tư Mã Khôi biết điều Thắng Hương Lân nói là sự thực, anh liền ngậm tịt miệng, đợi Cao Tư Dương băng bó vết thương cho Nhị Học Sinh xong, là đứng dậy dò đường.

Lúc Nhị Học Sinh kéo dây thừng cùng Hải ngọng, tay cũng bị rách toạc một miếng, nhưng vết thương không quá sâu. Mắt Tư Mã Khôi rất sắc bén, anh thấy lúc Cao Tư Dương nhìn lòng bàn tay của Nhị Học Sinh thì thần sắc cô có chút hốt hoảng.

Tư Mã Khôi thấy rất kì lạ. Cao Tư Dương từng giải phẫu cả thi thể trong học viện quân y, lại rất gan dạ, nên chút vết thương ngoài da của Nhị Học Sinh thì có đáng kể gì, thế mà vì sao cô ấy lại thể hiện nét mặt sợ hãi và tuyệt vọng như vậy?

Tư Mã Khôi đứng cạnh quan sát một hồi, nhưng vẫn không phát hiện cánh tay Nhị Học Sinh có điểm gì khác thường, anh liền hỏi Cao Tư Dương xem có chuyện gì?

Nhị Học Sinh thấy Cao Tư Dương trầm ngâm không đáp, cậu ta thở dài: “Không sao đâu, tôi đã chuẩn bị tinh thần rồi… Đây là chứng Khắc Sơn”.

Lúc này, hội Tư Mã Khôi mới nhìn thấy các khớp xương trên ngón tay Nhị Học Sinh đều bị lồi ra, đúng là khác với người bình thường, liền hỏi: “Đó là chứng bệnh gì vậy?”

Cao Tư Dương quay người, nhỏ giọng bảo Tư Mã Khôi: “Trong vùng núi này có hai loại bệnh hiểm nghèo nhất, đó là chứng Khắc Sơn và bệnh hoa liễu. Bệnh này xuất hiện sớm nhất ở huyện Khắc Sơn, tỉnh Hắc Long Giang, bởi vậy người ta đặt cho nó cái tên này, về sau, bệnh này còn được phát hiện ở cả Hồ Nam, Hồ Bắc nữa. Chứng bệnh này khiến các khớp xương người ta bị sưng to, thậm chí còng lưng, hai năm sau sẽ cảm thấy tim đập đuối sức, toàn thân toát mồ hôi, nôn ra mấy ngụm nước vàng, coi như là xong. Trong đám thanh niên trí thức ở lâm trường cũng có vài người xuất hiện dấu hiệu của bệnh này, về căn bản, chứng bệnh này không có thuốc chữa, đưa tới bệnh viện cũng vô ích, sớm muộn gì cũng chết”.

Nửa năm trước, Nhị Học Sinh đã phát hiện mình mắc chứng Khắc Sơn, tuy trong lòng cũng cảm thấy tuyệt vọng cùng cực, nhưng anh vốn không ôm hi vọng gì về tiền đồ tương lai, còn điều kiện cuộc sống trong lâm trường lại gian khổ khó lòng tưởng tượng. Việc dân bản địa sống lâu đời ở đây hãnh diện nhất là hút thuốc lá cuốn. Họ ngồi trên gốc cây, vê thuốc, thư thái lấy bật lửa bật “lách cách”, loại bật lửa này hạn chế hơn cách khoan gỗ lấy lửa nhiều, nhưng người nào có thể cả ngày ngồi hút điếu thuốc tự vê, là kẻ đó coi như có số hưởng phúc. Nhị Học Sinh bi quan cho rằng, khe núi này quả thực quá sức nghèo khổ, nếu phải dìm cả cuộc đời trong cái ổ này, thì chi bằng chết sớm cũng là một cách giải thoát. Nghĩ đến đây, anh cảm thấy bình thản hơn nhiều, bởi vậy không còn sợ sệt cái chết, cũng không định sống sót trở về lâm trường, mà chỉ muốn cùng hội Tư Mã Khôi đi tìm chiếc hộp Pandora, tận mắt nhìn xem rốt cuộc phía dưới 30° vĩ Bắc ẩn giấu những bí mật gì?

Mọi người biết việc này, lòng chợt tháy nặng trĩu, nhưng lúc này tất thảy các thành viên đầu đang nằm trong vòng nguy hiểm, nên chẳng ai nói thêm câu gì.  Bọn họ chỉ có kỹ thuật và trang thiết bị cơ bản nhất, còn bắt buộc phải di chuyển nhờ vào bản đồ và la bàn, nên không được phép đi chệch khỏi tuyến đường đã định quá xa. Thế là, mọi người quyết định leo từ cây cổ đại cao trên trăm mét xuống đường. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Dưới mật đất, chỗ nào cũng lép nhép nước tù và bùn lầy, đôi lúc lại lóe lên quầng sáng yếu ớt của những con phù du bay vụt qua trước mặt. Phạm vi hòn đảo cổ bị vùi chôn dưới lòng đất hàng trăm triệu năm thực sự vô cũng rộng lớn, nó phân bố khá nhiều chủng loại thực vật cổ đại đã tuyệt chủng từ rất lâu về trước, địa hình phức tạp, biến đổi đa dạng, quẩn thể thực vật tiền sử đổ rạp xuống, che lấp rất nhiều khe núi và huyệt động. Những huyệt động ở đây phần lớn đều được hình thành do quá trình nước ngầm không ngừng xâm thực, bào mòn, địa hinh Krast(1), không gian trong huyệt động vô cùng rộng rãi, kết cấu kì dị, tầng tầng lớp lớp, động nọ lồng vào động kia, có cái uốn nếp như đường nước lượn sóng, sâu hun hút, có cái như trụ đá chống trời, thần bí kì ảo, ai lỡ chân rơi xuống đó thì đừng nghĩ đến chuyện trèo lên.

 

[1] Địa hình Krast: là hiện tượng phong hóa đặc trưng của những min núi đá vôi bị nước chảy xói mòn. Sự xói mòn không phải do cơ chế lực cơ học, mà chủ yếu là do khí cacbon điôxít (CO2) trong không khí hòa tan vào nước, cộng với các ion dương ca hyđrô (H+) tạo thành axít cacbonic ăn mòn đá vôi. Sản phẩm tự nhiên của quá trình phong hóa karst là các hang động với các nhũ đá, mãng đá, sông suối ngm…

Mọi người có liều mạng đến đâu chăng nữa, thì cũng không ai dám đi lại lung tung ở nơi sâu thăm thẳm thế này. Thắng Hương Lân lấy đuốc, soi sáng la bàn để xác định phương hướng, rồi cô dẫn mọi người xuống trước một đoạn sông ngầm nước chảy êm đềm. Nếu lấy bản đồ của đội thám hiểm Taninth làm vật tham chiếu mà suy đoán, thì chỉ cần vượt qua khu vực bị nước nhấn chìm này, là có thể trở lại tuyến đường dẫn đến chiếc hộp Pandora.

Hội Tư Mã Khôi không có phương tiện vượt sông, lại không rõ mức nước nông sâu thế nào, chỉ mắt thấy mặt nước trải rộng mênh mông, xung quanh đó cũng không có đường vòng, nên mọi người đành tự đội ba lô và súng ống đạn dược lên đầu, rồi người nọ bám sát người kia lội sông. Mọi người lội trong dòng nước ngầm lạnh buốt tận xương tủy chừng mười mét, nơi nông nhất tới đầu gối, nơi sâu nhất cũng chỉ chạm ngực.

Cả hội cố gắng vượt sông, rồi tiến vào một hang cốc sâu, mọc đầy nấm gồ và nấm vân chi. Mọi người tìm một hốc cây khô ráo để ẩn trốn, bít chặt cửa hang lại, vun đống lửa hong khô quần áo, Thắng Hương Lân lấy lương khô cho mọi người ăn xong, thì lần lượt gác trực thay cho nhau ngủ. Mọi việc diễn ra khá yên ổn. Sau khi dậy, cả hội lai tiếp tục cuộc hành trình vào nơi sâu trong hang cốc theo sự chỉ dẫn của bản đồ.

Rút kinh nghiệm lần trước, hội Tư Mã Khôi cố gắng lựa chọn tuyến đường an toàn để che giấu tung tích. Hang cốc này từng là đỉnh núi trên hòn đảo cổ đại, rồi hoạt động địa chất và mưa gió xâm thực đã khiến nó biến thành vô số hòn đá cỡ lớn, vừa độc lập vừa liên kết, phân nhánh chồng chất lên nhau, nhấp nhô đan xen .Nấm gỗ hình ống mọc ở đây còn rậm rạp hơn trong rừng, nước ngầm chảy róc rách bởi rất nhiều thác nước lớn nhỏ đổ từ trên đỉnh vách đá trong lòng núi xuống, tựa dải lụa trắng ngoằn ngoèo, trải dài vô cùng vô tận. Môi trường ẩm ướt và khép kín khiến người ta lơ mơ muốn ngủ. Sâu trong hang cốc, sương mây vờn quanh quấn quýt, nếu không có bản đồ thì chắc chắn phải chuyển hướng khi lỡ bước chân vào đó.

Mọi người cố gắng lên giây cót tinh thần, lấy dao săn mở đường. Dọc đường, Nhị Học Sinh lại hỏi Tư Mã Khôi chuyện khi nãy.

Mấy tháng trước, Tư Mã Khôi từng bị bỏng chất độc màu da cam trong rừng rậm Miến Điện, bởi vậy anh hoàn toàn hiểu được suy nghĩ của Nhị Học Sinh. Anh bảo: “Dầu sao bầu trời này là bầu trời của Xã hội chủ nghĩa, mặt đất này cũng là mặt đất của Xã hội chủ nghĩa, chết ở đâu mà chẳng giống nhau? Nếu chú em quả thật bất cần đời như thế, thì tạm thời tính thêm cho chú em nữa cũng chẳng hề gì, có điều, chú em sống được đến ngày nhìn thấy vật trong chiếc hộp Pandora hay không, bây giờ anh cũng không thể đảm bảo, tất cả còn phải chờ xem con tạo của chú em xoay vần thế nào đã.”

Cao Tư Dương chưa hề giảm sự hoài nghi về lại lịch Tư Mã Khôi, thấy anh nói năng lạnh lùng như thể coi mạng người tựa cỏ rác, cô không nhịn được liền nói: “Tư Mã Khôi! Anh đúng là kẻ máu lạnh!”

Tư Mã Khôi bỗng nhiên dừng bước, trầm giọng xuống: “Bây giờ không có thời gian để bàn luận ưu điểm của tôi đâu. Ở đây dường như có thứ gì đó…”.

Mọi người nghe vậy, đều đổ dồn mắt nhìn về phía trước, phát hiện trong lùm nấm có hai con rùa đá không đầu nằm vắt ngang, mỗi con nặng tới ngàn cân – nói nó là rùa đá, là vì thấy thể hình tương tự vậy thôi, chứ nó mất đầu nên cả hội cùng không rõ rốt cuộc đó là con vật gì. Trên lưng rùa không có bia, trần trụi, mọc đầy rêu xanh, khi phạt đám nấm mọc trước mặt, thì thấy một hố sâu hình tròn dựng đứng, chạy thẳng từ lòng núi xuống, có quy mô rộng lớn khiếp người, địa thế cũng vô cùng đặc biệt và quái dị. Duới ánh sáng yếu ớt, cả hội dùng la bàn quan sát đường kính của nó, chí ít cũng phải trăm mét trở lên, bên trong mù mịt sương khí, nên không nhìn rõ tình hình dưới đáy động, còn hình trạng xung quanh rất đỗi ngăn nắp, mỗi gian phòng đều có vô số huyệt động liên thông, giống như tổ yến bám sát nhau trên vách núi vậy, vết đục đẽo chạm khắc trên cửa động vẫn còn thấp thoáng loang lổ. Rễ cây cổ đại từ trên cao buông thõng xuống, cuốn bện lượn vòng theo địa thế, che khuất già nửa những huyệt động hoang phế kia, không khí ở đây thần bí, u linh thật khó có thể diễn đạt thành lời.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro