CHƯƠNG 4 - BIỂN ÂM DỤ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi thứ nhất

CHIẾC HỘP MA

Mọi người đối chiếu bản đồ một hồi, suy đoán, chỗ này chính là chiếc hộp Pandora, nhưng tình hình bên trong thì vẫn chưa ai hình dung được, phải vào trong quan sát mới biết rõ.

Tư Mã Khôi bảo mọi người tạm thời nghỉ ngơi chốc lát, sau đó anh nói với Cao Tư Dương: “Từ khu vực gần cây cổ đại trèo ngược lên trên, có lẽ sẽ tìm thấy một đường hầm thông với mặt đất, nếu trong đó chưa xảy ra sụt lở, thì cô và Nhị Học Sinh có lẽ vẫn còn cơ hội trở về.”

Nhị Học Sinh nguây nguẩy lắc đầu, thể hiện ý chí kiên quyết theo chân hội Tư Mã Khôi đi đến cùng, chỉ có điều trong tay cậu có mỗi cây gậy gỗ, nên cậu ta cảm thấy không vững dạ lắm.

Hải ngọng khen Nhị Học Sinh: “Chú mày trông lẻo khoẻo vậy mà có chất ra phết, nói cho chú biết, theo anh đảm bảo không thiệt đâu mà sợ. Mà chú cũng đừng coi thường cái gậy gỗ này, trước giải phóng, ở Quan Đông có hội hiệp khách sơn cước, nói trắng ra đó là bọn chuyên đào nhân sâm trên núi. Hội này thường xuyên chui và những nơi rừng sâu núi thẳm, không nhìn thấy ánh sáng mặt trời, bọn chúng thà không có cuốc xẻng, chứ trong tay kiểu gì cũng phải nắm chắc một cây gậy gỗ. Bọn chúng gọi nó là ‘tố bảo côn’, bên trên tố bảo côn lại treo một đồng tiền cũ, năm tháng càng cát tường càng tốt – ví dụ như năm Khang Hy hay Càn Long lên ngôi, chỉ khi có cây ‘tố bảo côn’ trong tay, thì mọi chuyện tự khắc dữ hóa lành, nạn hóa yên ngay tức thì.”

Tư Mã Khôi không rảnh ngồi nghe Hải ngọng khua môi múa mép, anh lại bảo Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh: “Nơi được đánh dấu bởi ký hiệu chiếc hộp Pandora này, rất có thể là một huyệt động nằm rất sâu dưới lòng đất, tôi cũng không biết bên trong tiềm ẩn những hiểm nguy gì, hai người may mắn sống sót trong đội thông tin bọn cô có thể sống đến ngày hôm nay là cũng coi mạng lớn lắm rồi, nhưng mỗi người chỉ có duy nhất một mạng sống, hai người phải tính toán kỹ càng rồi hãy quyết định.”

Lòng Cao Tư Dương sớm đã dự tính trước, vị trí đường hầm thông lên mặt đất nằm ở đâu, trong lòng nó có xảy ra sụt lở hay không, tất cả cô đều không biết, nếu không có nhân viên trắc họa chuyên môn như Thắng Hương Lân, thì cho dù trong tay nắm la bàn và bản đồ, cô cũng không thể tìm thấy đường .Vả lại, dẫu có quay lên được mặt đất, thì họ cũng vẫn phải loanh quanh trong cánh rừng nguyên thủy rộng vô biên bát ngát, nơi đó chim ác thú dữ gì cũng có, ai có thể sống sót thoát ra khỏi đó được? Giờ đây, hi vọng sinh tồn duy nhất chính là cùng hành động với hội Tư Mã Khôi, chỉ cần mọi người đồng tâm hiệp lực, giúp đỡ lẫn nhau, thì cho dù có thật là sa chân xuống vực sâu vạn trượng, cũng không hẳn là không có đường về.

Tư Mã Khôi thấy Cao Tư Dương thể hiện rõ lòng quyết tâm, đã đến bước này thì không cần giấu giếm nội tình nữa. Thế là, anh liền kể rõ sự tình cho cô nghe, từ khi anh và Hải ngọng chạy đến Miến Điện tham gia phong trào cách mạng thế giới, sau khi đội du kích tan rã, hội anh chạy trốn vào khe cốc núi Dã Nhân thì gặp Nấm mồ xanh, những người bạn đồng hành xung quanh, kẻ thì tử nạn, người bị hại chết. Sau khi về nước, để vạch trần bộ mặt thật của Nấm mồ xanh, các anh lại cùng giáo sư Tống Tuyển Nông tham gia vào đội khảo cổ, tiến vào kính viễn vọng Lopnor mà người Liên Xô khoan đào năm xưa, đồng thời dưới cực vực, hội anh đã biết được một số thông tin về tổ chức ngầm liên quốc gia Nấm mồ xanh. Tổ chức này có tham vọng thâm nhập vào tâm Trái đất để tìm kiếm một bí mật khủng khiếp nào đó. Liên quan đến bí mật này, hàng ngàn năm trước đã tồn tại vô số giả thuyết khác nhau, có thuyết nói nó là miếu thần, có thuyết nói nó là hắc động, lại có thuyết nói nó là một kẻ địch thời cổ đại. Nó giống như căn nguyên gây ra mọi tai nạn và sự khủng bố. Bất luận ý đồ của Nấm mồ xanh là gì, nhưng suy xét tận gốc rễ thì mọi tai họa này đều do hội Tư Mã Khôi gây nên, mạng sống của hội anh sớm đã bám riết lấy những ẩn số này, ý nghĩa duy nhất để hội anh tiếp tục sinh tồn, chính là đi tìm đáp án cuối cùng. Lúc này, chiếc hộp Pandora nối liền với những ẩn số đang ở ngay trước mặt, nhưng đây chỉ là sự khởi đầu, bởi con đường phía trước còn đầy rẫy bí ẩn và chết chóc.

Tư Mã Khôi kể vắn tắt toàn bộ ngọn nguồn câu chuyện cho hội Cao Tư Dương nghe, nhưng những nội tình có liên quan đến sóng điện u linh trong mật thất thành cổ, tàu ngầm hải quân Liên Xô bị mất tích, chiếc hộp thời gian trong cực vực và Triệu Lão Biệt với hành tung bí ẩn v.v… thì anh không hề nhắc đến nửa chữ, vì dù sao đi nữa những chuyện này quá sức li kì, cổ quái, sự việc lại liên quan tới nó lại nghiêm trọng, nên anh không muốn dễ dàng để lộ cho người ngoài biết.

Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh không ngờ sự việc này lại liên lụy sâu sắc như vậy, đối phương có ý giấu giếm thì cũng hợp tình hợp lý, nhưng Cao Tư Dương vẫn không dám cả tin, Nấm mồ xanh và chiếc hộp Pandora thì có liên quan gì đến nhau chứ?

Tư Mã Khôi biết việc này không nên quanh co giấu giếm thêm nữa, liền kể cho cô nghe câu chuyện bắt đầu từ trận lũ lụt lịch sử vào thời Hạ, Vũ Vương đào kênh dẫn nước lũ trong lục địa ra Vũ Khư, rồi ném tảng đá mà tộc người Bái Xà coi như thần vật xuống vực sâu nơi tâm Trái đất, hậu thế gọi vật này là bia Vũ Vương.

Người Bái Xà vọng tưởng sẽ đào được tấm bia đá đó, để thoát khỏi số mệnh nô dịch, bị vương triều nhà Hạ sai khiến, bởi vậy trong Vũ Khư mới tồn tại một lượng lớn những ghi chép thần bí và quái dị. Sau khi đội khảo cổ giải mã được long ấn triều Hạ, họ biết được trong động huyệt nơi núi sâu tồn tại một vật gọi là nhật quỹ, vật đó xuất hiện từ thời thị tộc Thần Nông gá gỗ làm ổ. Tìm thấy nó, họ mới tiến xuống được vực sâu, vì họ biết nhật quỹ có khả năng nằm trong động huyệt dưới biển Âm Dụ. Người Sở thời Xuân Thu Chiến Quốc rất sùng tín chuyện cúng bái, ma quỷ, họ cho rằng, huyệt động thông với mạch đất, dưới lòng đất là núi Bội Âm, chuyên giam giữ ma quỷ. Chuỗi huyệt động trùng điệp có tường bao quanh này, có lẽ đều được chạm khắc từ thời kì Sở U Vương cai trị. Những chuyện u minh kia tuy rằng khó phân biệt thực hư, nhưng chỉ cần lựa chọn đi vào chiếc hộp Pandora, thì dẫu cho không có âm hồn ác quỷ, cũng chắc chắn sẽ gặp nhiều hiểm nguy khó lường, điểm cuối của sinh mệnh là cái chết, nhưng con đường này lại chưa chắc đã có điểm tận cùng. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Cao Tư Dương không hiểu những chuyện như bia Vũ Vương lắm, lúc này không cần hỏi cũng biết Tư Mã Khôi sẽ tự mình hành động, cô trầm ngâm giây lát, rồi vẫn quyết định theo mọi người thâm nhập lòng đất. Cao Tư Dương bảo Tư Mã Khôi: “Bây giờ tôi không còn đường quay về, huống hồ mạng sống của tôi cũng do anh cứu, vì vậy bất luận con đường phía trước chông gai thế nào, tôi cũng nguyện giúp anh một tay, mong rằng tất cả những gì anh vừa nói đều là sự thật”.

Mọi người thấy Cao Tư Dương đồng ý đi cùng, thì đều cảm thấy vô cùng phấn chấn. Tư Mã Khôi lập tức bắt tay bố trí mọi việc, dặn dò các thành viên phải tự kiểm tra súng ống đạn dược, những thành viên được phân phát súng liên thanh M-1887 lúc trước mang sáu phát đạn cỡ 12, dọc đường đã sử dụng mất một nửa. Anh liền lấy đạn dược phòng bị trong ba lô của Nhị Học Sinh ra bổ sung. Khẩu súng săn gấu của Hải ngọng nòng lớn nhưng tốc độ bắn lại chậm, lượng đạn tiêu hao ít, bốn loạt đạn cỡ 8 anh mang theo vẫn còn đủ dùng, có điều, đuốc chỉ còn hai phần ba. Tư Mã Khôi cảm thấy lượng dự trữ tiêu hao quá nhanh, liền bảo Nhị Học Sinh phụ trách gom những thanh đuốc đã cháy hết lại, nếu dọc đường phát hiện vật chất dễ cháy, thì có thể tái sử dụng, đồng thời đưa cho Nhị Học Sinh con dao săn của Thắng Hương Lân để phòng thân.

Thắng Hương Lân kiểm tra trang thiết bị vật tư một lượt, cô có vẻ lo lắng nói với Tư Mã Khôi: “Pin đèn quặng vẫn còn đủ dùng, vả lại thời gian chiếu sáng của đèn quặng lâu hơn đuốc, không những vậy, còn có thể đo được chất lượng không khí. Tôi dự đoán, số cácbua còn lại đủ duy trì chiếu sáng trong hai mươi ngày, chăn giữ ấm chỉ có ba chiếc, nếu thay phiên nhau sử dụng thì vẫn có thể tạm thời đối phó được, những chuyện này đều không thành vấn đề, vấn đề ở chỗ lượng lương thực chúng ta mang đi có hạn, chỉ đủ duy trì mấy ngày nữa thôi”.

Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ rồi nói: “Chuyện này không sao, lúc cần thiết có thể hái nấm vân chi ăn tạm cũng được. Phiền phức lớn nhất bây giờ là đi đến chỗ này, thì không sử dụng bản đồ tiếp được nữa…”, nói đoạn, anh bám lấy sợi rễ cây có đường kính tới nửa mét, nhoài người ngó vào trong, bỗng nhiên anh nghe thấy dưới lòng đất vọng lên một âm thanh quái lạ, như thể tiếng rồng gầm gào.

Tư Mã Khôi nghe thấy vậy, toàn thân bỗng nổi da gà, những người còn lại còn đang bận chỉnh đốn súng đạn, khi nghe thấy tiếng ma hờn quỷ khóc, ai nấy ớn lạnh hết cả người.

Hải ngọng hít ngược một hơi lạnh: “Tớ thấy tình hình này…. tám phần là ác ma bị giam cầm dưới núi Bội Âm rồi!”

Tư Mã Khôi muốn nghe rõ hơn, nhưng cả không gian lại chìm vào im lặng vô biên. Anh bất giác nói: “Sao tôi cảm thấy giống tiếng mèo đêm thế nhỉ?”

Hải ngọng nói: “Nghe nói tiếng mèo kêu đêm và tiếng quỷ khóc giống nhau lắm! Có điều dưới lòng đất thì khả năng cỏ quỷ vượt xa khả năng có mèo nhiều, huống hồ nghe thấy tiếng mèo kêu đêm cũng không phải điềm báo tốt lành gì. Nó đang ẩn nấp trong bóng tối để đêm lông mày của con người, đếm xong thì âm hồn sẽ nhào đến đòi mạng…”

Tư Mã Khôi nói: “Cậu không dọa mọi người thì ngứa miệng à? Từ giờ trở đi, chúng ta phải kiên trì tuân theo một nguyên tắc, bất kể gặp phải sự việc quái dị nào, cũng tuyệt đối không được lấy cái mình đã biết để luận bàn thứ mình chưa biết, mọi việc phải mắt thấy tay sờ thực tế mới được”. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Thắng Hương Lân nói: “Lịch sử của huyệt động dưới lòng đất này đâu chỉ mấy vạn năm, ngay từ thời mạch núi Thần Nông Giá vẫn chưa đội từ lòng đại dương dậy nó đã tồn tại dưới hòn đảo cổ rồi. Khi ấy, đừng nói đến ma quỷ, ngay cả con người còn chưa có nữa là, bởi vậy truyền thuyết nhốt giữ ma quỷ trong núi Âm Sơn chỉ là tin đồn nhảm, có điều, những sinh vật không rõ nguồn gốc dưới lòng đất nhiều vô kể, hay là chúng ta cứ đốt lửa châm đuốc đi cho an toàn?”

Mọi người nghe xong đều gật đầu tán thành. Hải ngọng nói lái đi cho khỏi tẽn tò, anh bảo: “Nửa đời Hải ngọng tôi đã đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng của toàn nhân loại, điều tôi theo đuổi toàn là chân lý, chuyện tôi đàm luận cũng đều là chủ nghĩa, chết còn không sợ, thì sợ gì ma?”. Nói xong, anh đưa tay nhấp ít nước bọt, quệt lên lông mày, sau đó khoác súng săn lên vai, bật đèn quặng, đi trước dẫn đường.

Tư Mã Khôi thấy vậy, liền bảo Nhị Học Sinh châm đuốc, đứng ở vị trí an toàn nhất phía giữa đội. Huyệt động này vốn dĩ là hang đá trong núi, đường kính khoảng hơn trăm mét, thế chạy hiểm trở, gần như dốc đứng, lỗ huyệt chi chít, trông giống như vách tường ngoài của đấu trường La Mã cổ. Không những vậy, rễ của những loài thực vật tiền sử vừa dài lại vừa to, đoạn nhỏ nhất cũng phải bằng một vòng ôm, chúng thò ra từ các kẽ đá, dính thành một thể với vách tường động, quấn quanh lùm nấm gỗ mọc gân đó, tạo thành một mạng lưới trải dài miên man.

Mọi người giẫm lên những rễ cây mọc xiên, chậm chạp tiến từng bước vào bên trong. Tư Mã Khôi đi qua cửa động, dùng dao phát bớt đám nấm vân chi che chắn trước mặt, thò người vào trong quan sát. Mấy hang động này không sâu lắm, nhưng dưới lòng đất không có gió, không khí trong động cũng khó lưu thông, bởi vậy mấy bức bích họa cổ màu sắc loang lổ khắc trên vách, tuy vẫn còn có thể nhận diện một cách mờ nhạt, nhưng đa số đều thiếu mắt thiếu mũi, què chân cụt tay, không còn hình hài nguyên vẹn. Trong động, xương trắng chất chồng, không rõ đó là xương người hay xương thú.

Có một bức bích họa khắc trong lỗ huyệt đá vẫn còn bảo tồn được khá toàn diện, nó mô tả cảnh tượng ác quỷ xé thịt người ăn trong sương mù dày đặc, nạn nhân nửa thân dưới vẫn còn nguyên thân máu thịt, nhưng nửa thân trên đa bị gặm trơ xương, màu sắc bức tranh tươi rói, trông y như thật.

Tư Mã Khôi biết mấy bức tranh thời Chiến Quốc này đều lưu giữ rất nhiều thông tin quý giá, nhưng nội dung khủng khiếp, tàn nhẫn, máu me be bét trong bức tranh lại thực sự khiến người ta gai lanh sống lưng. Anh nghi hoặc trong lòng, bất giác nhìn thêm lát nữa, chợt phát hiện trong bưc tranh vẽ một chiếc hộp rất lớn, nắp hộp hé mở, bên trong lộ ra một bộ hài cốt, bốn phía quanh thân hộp chạm khắc hoa văn rồng phục, há miệng nhe răng. Tim Tư Mã Khôi đập thình thịch, đây liệu có phải là chiếc hộp Pandora không?

Những người còn lại cũng dừng chân xem xét bức tranh. Chiếc hộp Pandora là truyền thuyết phương Tây, ngầm ẩn dụ nguy hiểm gây ra do lòng hiếu kì của con người, có lẽ trên đời căn bản không hề tồn tại vật thực, càng không thể xuất hiện trong huyệt động dưới lòng đất được. Lúc trước, mọi người còn cho rằng đội thám hiểm Taninth đánh dấu ký hiệu này trên bản đồ, chỉ là lấy chiếc hộp Pandora làm cái tên thay thế cho hành động, nhưng không ngờ rằng, trong bức tranh của cổ quốc Sở từ hơn hai ngàn năm trước, lại thực sự tồn tại một chiếc hộp thần bí thế này.

Hồi thứ hai

ĐẦU LÂU

Mọi người vô cùng kinh ngạc, ngặt nỗi âm khí trong huyệt động mạnh quá, khiến ánh sáng đèn cácbua cứ lập lòe ánh sáng xanh yếu ớt. Cả hội đành đứng ngoài cửa động thò đầu vào trong ngó nghiêng.

Mấy bức bích họa cổ sặc sỡ tiếp xúc đột ngột với không khí lưu thông bên ngoài, nên màu sắc tươi tắn bắt đầu trở nên mờ nhạt, nhưng may mà vẫn giữ được những đường nét, hình khối cơ bản, nên hội Tư Mã Khôi vẫn có thể nhận dạng được những nét chủ yếu của nội dung bên trong.

Nội dung bích họa tương tự với một câu chuyện. Bên cạnh chiếc hộp khắc họa hình một người, mình khoác áo bào đai ngọc, phía sau lưng rồng bay phượng múa, rõ ràng là tư thế của bậc đế vương. Phía đối diện ông ta là một người khác, đầu đeo mặt nạ ba mắt. Hai người dường như đang thì thầm mật ngữ ngay trước bộ hài cốt trong chiếc hộp. Phía trên họ chính là cảnh tượng rùng rợn: ác ma ăn thịt người.

Cao Tư Dương hỏi Tư Mã Khôi: “Anh có hiểu nội dung bích họa nói gì không?”

Tư Mã Khôi tự nhận mình là thành viên đội khảo cổ, nhưng thực chất kiến thức về lịch sử của anh chỉ dừng lại ở trình độ vỡ lòng, thấy nội dung bích họa li kì, âm u, anh cũng không biết nội dung chính xác của nó là gì, liền phịa đại ra một câu chuyện để lấp liếm với Cao Tư Dương: “Tôi nghĩ, chắc tay Sở Vương này đang đàm luận chuyện cõi u minh với đại thần của lão ta, xem làm cách nào để mình trường sinh bất tử. Có điều, nhân thế tan nhanh như mây khói, tuy lão ta xuất thân là bậc vương hầu cao quý, nhưng cuối cùng cũng khó tránh khỏi bánh xe của số mệnh mà hóa thành đống xương trắng.”

Hải ngọng cũng thêm lời cho xôm chuyện: “Chắc chú Sở này lo sau khi chết đi xuống âm ti, sẽ bị ác ma ăn tươi nuốt sống đây mà”.

Nhị Học Sinh thắc mắc: “Sao trên mặt vị đại thần lại đeo mặt nạ? Còn bộ hài cốt trong chiếc hộp là hài cốt của ai thế nhỉ?”

Tư Mã Khôi và Hải ngọng đều im thin thít như bị bịt miệng, không biết phải trả lời thế nào, bức bích họa có từ thời cổ xưa, cách đây những hơn hai ngàn năm, ai mà biết được trong đầu con người cổ đại khi đó nghĩ cái quái quỷ gì.

Thắng Hương Lân nói: “Sở U Vương cuồng tín Vu thuật, ông ta thường mang theo một vị chủ tế thông thiên đeo mặt nạ đồng xanh bên mình. Vì vậy, nhân vật mặc áo bào đai ngọc kia có lẽ là Sở U Vương, nhưng câu chuyện khắc vẽ trên bích họa thì tôi chưa từng thấy ghi chép trong sử sách. Với những gì chúng ta đã biết, đã nhìn, thì không thể suy đoán ra nổi nội dung của nó đâu”.

Tư Mã Khôi cũng hiểu đôi chút về sự tích Sở U Vương. Nghe nói năm đó, Vũ Vương thảo phạt, chiến công hiển hách lừng lẫy bốn cõi trời đất, lập ra cơ nghiệp hơn tám trăm năm của nhà Chu. Khi đó, xã hội vẫn chưa có khái niệm chế độ trung ương tập quyền, mà chia đất phong hầu cho mỗi nước nhỏ tự cai quản, cả thảy phong 72 nước, trong đó có Sở quốc. Chế độ này truyền đến thời Xuân Thu Chiến Quốc thì các chư hầu chia rẽ, nước Sở là vùng lãnh địa rộng trên năm ngàn lý(1), bái huyền điêu làm thần, thế lực vô cùng hùng hậu, còn thời điểm Sở U Vương chấp chính đã là thời kì cuối, bởi chẳng mấy năm sau khi ông ta chết đi thì nước Sở bị Đại Tần tiêu diệt. Mộ phần của U Vương bị bọn quân phiệt cấu kết với lũ người Tây khai quật, hủy hoại vào những năm Dân quốc, một lượng lớn cổ vật lưu truyền vào dân gian. Khả năng đội thám hiểm Taninth cũng từng tham gia phi vụ đào mồ quật mả này, bởi vậy họ mới phát hiện ra huyệt động dưới khe Âm Hải thông qua các bức bích họa trong mộ U Vương. Nhưng còn việc chiếc hộp đựng bộ hài cốt kia xuất hiện khá nhiều lần trong bích họa của Sở quốc, thì rất không bình thường, nhưng nhất thời, hội Tư Mã Khôi cũng không phát hiện ra manh mối gì, đành quan sát thêm các huyệt động còn lại.

[1] Lý: Đơn vị độ dài thi xưa của Trung Hoa, bằng khoảng 0,5 km.

Bích họa trong động đá bị bong tróc, hủy hoại nghiêm trọng, chỉ nhận dạng được non nửa; có điều, nội dung dường như đều liên quan đến nhau, xem hai đầu mút cũng không khó đoán ra phần nội dung ở giữa, chỉ có sự kiện được ghi chép trong đó thì vô cùng quái dị, khó hiểu. Ngoài Sở U Vương ra, còn có một cô gái trẻ phong thái thướt tha, yểu điệu, rất bắt mắt. Cô gái đó eo thon, tóc búi cao, mình mặc áo tay rộng, váy dài, mấy bức bích họa khác đều vẽ thi thể và quan tài của cô ấy.

Nội dung mấy bức bích họa này rất đỗi li kì, bí ẩn. Theo Tư Mã Khôi lý giải, nó hình như ghi chép lại sự việc Sở U Vương xin bộ hài cốt đựng trong chiếc hộp một quẻ bói, và được vị vu sư đeo mặt nạ đồng xanh phán rằng, đại họa sắp giáng xuống đầu ông ta, bởi sẽ có vô số âm hồn đến đòi mạng, điều này khiến Sở U Vương khiếp sợ, cả năm không dám ra khỏi cửa.

Một ngày, có người bắt được một con bạch ngư hiếm gặp trên sông, mang đến dâng vua. U Vương nghe nói bạch ngư là do long xà biến hóa thành, ăn vào có thể trường sinh bất tử, liền lệnh cho người hầu đem nấu chín con cá, rồi bản thân ăn một nửa, nửa còn lại để phần con gái. Con gái Sở U Vương thấy nửa con cá trắng, vừa xấu hổ lại vừa tủi giận, phẫn nộ quát: “Thụ vương để cho ta con cá đã ăn mất một nửa, là hạ nhục ta. Ta còn mặt mũi nào sống trên đời nữa?”. Thế là, nàng treo cổ tự vẫn.

Sở U Vương mất con gái, trong lòng vô cùng đau khổ, táng thi thể con gái ở cổng tây ngoài thành, quan tài bằng đá khảm vàng ngọc, còn chôn theo rất nhiều kì châu dị bảo như bình bạc, yếm ngọc làm đồ bồi táng, nhưng chuyện này luôn được giữ bí mật, không truyền ra ngoài. Lão ta lại ra lệnh thả chim ưng trắng ở trong thành, mời bách tính đến chiêm ngưỡng, sau đó cho người dụ chim ưng và vô số nam thanh nữ tú cùng xuống mộ đạo công chúa, rồi đột ngột đóng cánh cửa đá ngàn cân. Tất cả mọi người bất phân thiện ác đều bị chôn vùi trong mộ. Lão ta đã dùng cách này để tuẫn táng người sống theo người chết.

Sau đó, hàng đêm Sở U Vương chỉ cần chợp mắt, là thấy những oan hồn tức tưởi tìm đến. Lão ta hoảng hốt ăn không ngon, ngủ không yên. Vu thuật cho rằng: “Người chết thì cương, cương thì huyết mạch kiệt, kiệt thì tinh lực diệt, diệt thì hình hài ruỗng, ruỗng thì hóa cát bụi. Duy chỉ âm hồn không siêu thoát mới hóa thành dị vật, ngụp lặn trong vực sâu cửu tuyền”.

Vì sao nói sau khi con người chết, âm hồn sẽ ngụp lặn dưới vực sâu cửu tuyền? Bởi vì thời xưa cho ràng, dưới đất có hoàng tuyền, đó chính là dòng nước ngầm phân bố theo tầng thứ, nơi sâu nhất phải xuyên qua chín dòng suối. Lăng mộ Tần Thủy Hoàng được xây dựng ở địa điểm rất sâu, mà căn cứ theo sử sách ghi chép thì “xuyên qua tam tuyền mới đặt quan tài”. Điều đó có nghĩa, chỗ đặt quan tài đã sâu xuyên thấu ba tầng nước ngầm dưới đất. Vực sâu cửu tuyền cũng không hẳn có chín tàng nước ngầm thực sự, mà chín chỉ là con số ám chỉ sự cực điểm, ý muốn nói nơi đó là sâu nhất, không thể sâu thêm nữa, đấy là cõi u minh mà người sống không thể đặt chân đến, chỉ có vong hồn mới tới được mà thôi. Trước đây, người ta thường nói: “Nhắm mắt xuôi tay xuống cửu tuyền”, cửu tuyền ở đây chính là vực sâu cửu tuyền. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tương truyền, phía dưới biển Âm Dụ có một huyệt động, nơi sâu nhất thông trực tiếp với mạch đất. Sở U Vương tin rằng, đó chính là vực sâu cửu tuyền, giờ đây mộng thấy điềm gở, khả năng là ác quỷ từ lòng đất ngoi lên đòi mạng. Lão ta ngẫm lại việc ngày trước, trong lòng không khỏi day dứt nỗi ân hận muộn màng, nên ra lệnh cho người mang tất cả những bảo vật quý giá nhất ném xuống lòng động để trấn tà. Nhưng chẳng bao lâu sau, vị Sở U Vương kia vẫn phải về âm ti nộp mạng.

Tư Mã Khôi nói với mọi người phân tích của mình: “Nếu lão Sở U Vương kia không quá mê tín những chuyện ma quỷ ấy, thì chưa biết chừng cũng không chóng chết đến vậy, kì thực trên đời làm gì có dị thuật tiên tri? Đó chẳng qua là sợ cái gì thì gặp cái đó, càng lo lắng thì càng dễ xảy ra chuyện, đon giản là ứng với định luật Murphy mà thôi.”

Hải ngọng nghiến răng ken két: “Lừa bao nhiêu người xuống mộ đạo, rồi chôn sống làm đồ tuẫn táng. Đúng là tàn độc và thất đức hết chỗ nói! Hải ngọng tớ chưa bao giờ gặp thằng cha nào mất nhân tính như lão ta!”

Cao Tư Dương nghi rằng, Tư Mã Khôi chỉ xuyên tạc bậy bạ hoặc thêm mắm thêm muối cho thêm phần sinh động chứ chuyện này không thể xảy ra ở ngoài đời thật, bởi cô thấy nhiều tình tiết không hợp tình hợp lý cho lắm. Sở U Vương không nỡ ăn cá một mình, mới nhường một nửa cho con gái, đây là tấm lòng thương yêu của người cha đối với con, vậy tại sao con gái lão ta lại tự sát? Trên thế giới này làm gì có người nào ngu đần, khờ dại như thế chứ?

Hải ngọng nghe Cao Tư Dương nói, cũng thấy có lý, bỗng nhiên nhớ tới người bố La Vạn Sơn từng phải ngồi tù của mình, anh bất giác thở dài: “Nếu ông già nhà tớ còn sống, thì chắc chắn sẽ đánh sạch bách cả con cá cho mà xem, may ra để phần tớ bộ xương chỏng chơ. Nhưng dẫu thế tớ vẫn thấy rất vui…”

Thắng Hương Lân lại cảm giác lời Tư Mã Khôi nói không sai, cho dù không trùng khớp toàn bộ, thì cũng không chênh với sự thật là bao. Câu chuyện vẽ trong bích họa đã xảy ra từ hơn hai ngàn năm trước, chế độ và cách nhìn nhận đánh giá sự việc của người cổ đại không giống với người hiện đại chúng ta. Thời Xuân Thu Chiến Quốc, người ta rất coi trọng phẩm giá, coi nhẹ sinh tử. Giới quý tộc làm sao chịu ăn thức ăn thừa giống như kẻ nô lệ được?

Tư Mã Khôi nói: “Đúng thật mỗi em gái là hiểu ý anh. Thời nhà Thanh cũng cách đây chỉ mấy chục năm thôi, thế mà người phụ nữ vẫn còn phải giữ đạo tam tòng tứ đức, không được ra ngoài nửa bước nữa kìa! Nhưng các cậu xem, bây giờ đại diện đa số phụ nữ cách mạng như cô Khánh(2), chị Giang(3), có bao giờ phải lo lắng vì mấy chuyện nội trợ dưa cà mắm muối vặt vãnh đâu?”

[2] Cô Khánh: hình tượng nhân vật phụ nữ hiện đại trong tiểu thuyết “Đấu trí”.

[3] Chị Giang: là tên gọi thân mật của liệt sĩ cách mạng Giang Trúc Quân.

Thắng Hương Lân thấy Tư Mã Khôi càng lúc càng xa đề, liền nói: “Thực ra, chuyện bích họa có liên qua đến Sở U Vương ăn bạch ngư, tuẫn táng người sống hay không, thì cũng không quan trọng, mà câu đố thực sự nằm ở chiếc hộp đựng hài cốt đằng kia cơ. Tôi cảm thấy bộ hài cốt này không phải hài cốt người”.

Mọi người vừa thì thầm bàn tán, vừa dò đường xuống sâu hơn, phát hiện nội dung những bức bích họa ở nhiều nơi trong huyệt động, còn sót lại đến tận ngày nay, ngắt quãng lúc có lúc không, đề cập đến nhiều sự vật như “thần linh ma quái, chim trời cá bể, hoa cỏ muông thú” v.v. .. Mỗi bức đều thể hiện trạng thái thiện ác, số lượng bích họa nhiều không đếm xuể, trong khi đó những bức bích họa có vẽ hình chiếc hộp thì lại vô cùng ít ỏi. Chiếc hộp thần bí dường như là một bảo vật của nước Sở, đồng thời cũng là đồ tế lễ vô cùng quan trọng, mà ngay cả bích họa trong địa cung mộ Sở U Vương cũng có bóng dáng của nó, nhưng lịch sử thì lại không để lại bất kì ghi chép nào. Điều này càng khiến nó trở nên quái dị, thần bí hơn. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Bên trong chiếc hộp đựng một bộ hài cốt, nếu dựng đứng dậy có lẽ cao gấp rưỡi Sở U Vương. Đúng như lời Thắng Hương Lân nói, bộ hài cốt đó nhìn thế nào cũng không giống hài cốt loài người, xương sọ và hốc mắt rất nổi bật, trên trán mọc thêm một con mắt nằm ngang. Chiếc hộp đựng hài cốt cũng không giống hình quan tài, mà dường như từ trong ra ngoài đều ẩn chứa một ý nghĩa nào đó không thể giải đáp. Nhưng nếu bảo bộ hài cốt đó không phải của loài người, thì lúc còn sống, nó là thần thánh phương nào? Vì sao hài cốt của nó lại trở thành vũ khí bí mật của nước Sở?

Trong đầu mọi người liên tiếp đặt ra vô số câu hỏi. Những nghi vấn này lại không thể tìm thấy lời đáp qua các bức bích họa, mà phong cách bích họa thời Sở vô cùng kì quái, đề tài lại thần bí, nên nhiều nội dung khiến người thời nay không thể lý giải được; có điều, chiếc hộp của Sở U Vương vẫn rất có khả năng thực sự chứa đựng vật này, không chỉ vậy, nó vẫn đang nằm ở nơi sâu trong lòng đất phía dưới biển Âm Dụ.

Nhị Học Sinh cho rằng, các chủng loại thực vật cổ đại sinh tồn trên hòn đảo này phần lớn đã chết khô, chỉ giữ nguyên diện mạo ban đầu giống như cái xác, còn các loài thực vật như nấm gỗ hay nấm vân chi, mọc ký sinh trên bề mặt sinh trưởng um tùm rậm rạp khác thường, hiện tượng này thực sự rất khó giải thích. Nhưng chẳng lẽ trong chiếc hộp kia tồn tại một thứ sức mạnh thần bí nào đó có thể duy trì sinh mệnh? Càng nghĩ, anh chàng càng phấn khích, cộng thêm mắt mũi tèm nhèm sẵn, Nhị Học Sinh đâm sầm vào một sợi dây leo treo vắt vẻo giữa không trung, khiến suýt nữa ngã lộn cổ khỏi vách đá dựng đứng. Anh chàng vội vàng tóm lấy rễ cây bên cạnh, lỡ tay đánh rơi thanh đuốc.

Nơi sâu trong địa động bao phủ sương khí dày đặc, lửa đuốc vừa rơi vào màn sương thì lập tức mất ánh sáng chỉ nghe “tõm” một tiếng, như thể bị rơi xuống nước rồi vụt tắt vậy.

Tư Mã Khôi nghe động tĩnh, phát hiện mặt nước cách chỗ mọi người đang đứng rất gần, nhiều nhất cũng chỉ mười mấy mét. Anh ngạc nhiên tự hỏi: “Phía dưới là đầm nước sao?”

Mọi người mò mẫm theo dây leo, đi xuống dưới, xuyên qua màn sương mỏng, họ tiến lại gần đáy hố. Địa thế ở đây lồi lõm, trong rãnh nước trũng đọng lại nhiều vũng tù ngấm nước từ trên cao xuống, có một pho tượng thú đeo khuyên tai vàng nằm nghiêng trong nước, thể tích rất lớn, bề mặt han rỉ và mọc đầy rêu xanh. Hai tai giống tai hổ, bị chìm dưới nước một nửa. Trên một gốc cây to nổi xù xì gần đó, vương vãi vô số những cổ vật như đao kiếm, chum đĩa v.v… còn có minh khí đồng xanh đủ các hình thù như chim muông, rồng phượng. Màn sương khí bay là là ở nơi sâu, ánh đèn quặng không thể chiếu sáng đến tận đó được.

Tư Mã Khôi tránh mặt nước, tung người đáp xuống một cái rễ cây, anh nhớ lúc trước nghe thấy ở đây phát ra âm thanh quái lạ, liền nhắc nhở Cao Tư Dương đang đi ngay phía sau phải thật thận trọng.

Cao Tư Dương gật đầu. Để tiện hành động, cô treo đèn cácbua lên cạnh ba lô, vác súng liên thanh M-1887 quan sát địa hình xung quanh, khi vừa mới quay người lại, cũng không biết đã nhìn thấy thứ gì, nhưng suýt nữa thì cô đã thốt lên thành tiếng nên vội vàng giơ tay tự bịt miệng mình lại.

Tư Mã Khôi cảm thấy sau lưng có sự lạ, liền quay đầu lại nhìn, rồi cũng thấy vô cùng kinh ngạc. Thì ra, phía sau đám dây leo khô thò ra một khuôn mặt người hình vuông, cao chừng ba bốn mét, gương mặt đó vừa hao hao giống người, lại hao hao giống thú, trang trí hoa văn quỳ long với vảy và lông vũ, nét mặt phẫn nộ, đáng sợ, chứa đầy vẻ đe dọa.

Tư Mã Khôi thấy nó hung dữ nhưng bất quá cũng chỉ là pho tượng mặt quỷ, không phải vật sống thì đâu có gì đáng sợ?

Lúc này, Cao Tư Dương mới giơ tay chỉ qua đó, thầm thì: “Anh có nhìn thấy…. cái kia không?”

Tư Mã Khôi nhìn theo hướng tay cô chỉ, nhích bên trên pho tượng ma, trong khe giữa tầng nham thạch và đám dây leo, anh thấy có một thứ trắng ởn, hình giống như đầu người, trên mặt cũng có mắt mũi tai miệng, không rõ có tứ chi hay không, nhưng dường như chỉ có mỗi cái đầu nổi bập bềnh giữa không trung.

Hồi thứ ba

ĐÈN CHIẾU U

Toàn thân Tư Mã Khôi nổi da gà, khi anh định thần nhìn lại thì không thấy nó đâu nữa. Cái đầu đột nhiên chìm vào màn sương dày đặc. Anh đuổi theo cái đầu, phạt những sợi dây leo vướng víu trước mặt, phát hiện thấy phía sau bức tường dây leo và cây cổ thụ là một đầm nước tù đen ngòm và lạnh lẽo, mặt nước phẳng lặng, trải rộng mênh mông, căn bản không tìm được chỗ đặt chân. Anh thầm nghĩ, chẳng lẽ là “phi đầu man” chăng? Năm xưa, trong rừng rậm Miến Điện, nhiều dân địa phương đã cắt thủ cấp của tù binh, rồi cắm sọ người chết lên một cọc nhọn để nó phong hóa. Nghe nói, những chiếc sọ người này thường bay đi cắn người vào ban đêm, nên ngay cả bọn thực dân Anh Pháp nghe nhắc đến nó cũng phải tái mặt, thế nhưng thời kì Sở quốc cổ vẫn chưa tồn tại truyền thuyết về phi đầu man.

Cao Tư Dương chưa xác định rõ mục tiêu thì không bao giờ tùy tiện nổ súng. Từ trước đến giờ cô không tin những chuyện ma quỷ, nhưng vật vừa xuất hiện rõ mồn một khi nãy đã khiến cô không biết giải thích thế nào.

Lúc này, ba người còn lại cũng lần lượt tụt dây trèo xuống, sau khi nghe kể, ai nấy đều kinh ngạc tột độ.

Tư Mã Khôi vẫn chưa nhìn kỹ vật đó trông thế nào, liền bảo Nhị Học Sinh châm lửa thắp sáng ngọn đuốc, đoạn quay sang dặn mọi người, nơi đây không có người, vì vậy chỉ cần phát hiện tình hình bất ổn là có thể lập tức nổ súng. Bây giờ, chúng ta đã có súng và lửa phòng thân, nếu quả thực có thứ gì không sạch sẽ, thì nó cũng phải biết điều lùi lại ba bước.

Mọi người không dám lơ là, dò dẫm từng bước xuống đáy huyệt động, nơi có pho tượng điêu khắc mặt quỷ, để soi đèn cácbua thám thính. Huyệt động này dường như là hố tế lễ, đường kính rộng cả trăm mét, độ sâu cũng tầm trên dưới trăm mét, quy mô khá rộng lớn. Có điều, màn sương mỏng trong động giăng mắc mênh mông, không khí tràn ngập cảm giác âm u, tà mị. Đáy hố vô cùng rộng rãi, dây leo quấn quýt bám chặt vách động, ven rìa toàn là vũng tù sâu hút, pho tượng điêu khắc cao lớn sừng sững nhìn xa xăm về phía đối diện, tựa như thể nó đang âm thầm lặng lẽ bảo vệ một vật gì đó trong bóng tối quánh đặc. Các đồ vật bằng vàng, ngọc hoặc đồng xanh đủ mọi hình thù vương vãi khắp nơi, dưới chân cũng có những phiến đá khắc hoa văn mây cuốn, nhưng bọn Tư Mã khôi không thể nhận dạng nó rốt cuộc là vật gì.

Nhị Học Sinh thấy hai mắt như không đủ dùng, bởi dường như sau mỗi vết tích vô cùng nhỏ bé lại đều ẩn chứa một bí mật ảo diệu vô cùng tận, anh chàng bất giác than: “Sở quốc đã diệt vong hơn hai ngàn năm, những cổ vật này đều bị ngủ quên dưới lòng đất, đúng là trách mình mau thịnh, trách người chóng suy mà….”

Hải ngọng cũng cảm khái: “Cánh tay có to khỏe đến đâu cũng chẳng thể ngăn được bánh xe lịch sử lăn về phía trước. Chú đừng ngồi đấy lo bò trắng răng nữa”. Đoạn anh quay sang hỏi Tư Mã Khôi: “Chẳng phải cậu bảo huyệt động này thông thẳng xuống mạch đất à? Sao… sao chưa gì đã thấy đến đáy thế này?”

Tư Mã Khôi nhướn mắt nhìn tứ phía, xung quanh tuy vẫn có chút ánh sáng yếu ớt phát ra từ những hợp chất hữu cơ, nhưng tầm nhìn vẫn vô cùng hạn chế, còn đèn quặng chỉ đủ soi sáng một một vạt, nếu lờ dờ dò dẫm tìm kiếm, thì không biết bao lâu mới biết rõ tình hình phải đối mặt lúc này, nhưng ngay bây giờ anh cũng không có cách gì khác, đành bảo Hải ngọng: “Chắc còn có huyệt động khác thông tới nơi sâu hơn. Chúng ta thà nghi lầm chứ không thể bỏ sót, trước tiên phải nắm rõ địa hình đã “ Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Mọi người thấy ven rìa đáy động phần lớn đã ngập trong nước tù, bởi vậy cả hội chỉ có thể giẫm lên cây, đi vào giữa. Chưa đi được mấy bước, họ đã thấy trong mặt nước trước mắt lộ ra những vật hình trụ vô cùng kì dị. Trụ đá trên nhọn, dưới to, dài ngắn, cao thấp khác nhau, nhưng mỗi trụ đều to bằng cả một vòng tay, bề mặt khắc hoa văn vảy giáp, trình độ điêu khắc vô cùng tinh tế, các trụ đá bao quanh một bệ đá, ngoài ra còn có hai con kì lân nét mặt hung ác men cột bò xuống.

Tư Mã Khôi vừa soi đèn quặng vừa nghĩ thầm: “Mấy trụ đá này hình thù rất kì quái, như thể đó là móng vuốt của một pho tượng thú khổng lồ nào đó. Pho tượng lại chìm quá nửa dưới nước, thể tích to lớn kinh người, nên phạm vi chiếu sáng của đèn quặng và lửa đuốc đứng trước nó cũng nhỏ bé chẳng khác nào ánh sáng đom đóm….”

Lúc này, trên mặt nước im lìm bỗng nhiên khuấy động một làn sóng nhẹ. Anh lập tức cúi sát đầu nhìn, chỉ thấy dưới đáy nước có một người đang ngẩng mặt nhìn anh chằm chằm. Nước ngầm dưới lòng đất trong vắt, nhưng vì nằm trong địa động không bao giờ nhìn thấy ánh sáng ban ngày nên nó trông càng u tối và sâu thẳm hơn. Tư Mã Khôi biết, cái bóng bập bềnh dưới nước chắc chắn không phải bóng mình. Anh bất giác cúi thấp người, chậm chạp tiến gần mặt nước, định bụng quan sát cho rõ hơn.

Hình dạng cái đầu càng lúc càng rõ nét hơn nó giống như một người lùn màu trắng, nhưng chỉ thấy phần đầu chứ không thấy tứ chi, trông rất giống với cái đầu mà anh thấy trôi dập dềnh sau rặng dây leo khi nãy. Cái đầu bỗng nhiên há ngoác miệng, rồi nhảy vọt từ đáy nước lên không trung, lao bổ vào mặt Tư Mã Khôi.

Tư Mã Khôi không ngờ vật dưới nước lại biết bay, anh kinh hãi thất sắc, bởi tình thế cấp bách, trong lúc vội vã không kịp nghiêng người né tránh, Tư Mã Khôi đành giương khẩu súng M-1887, cuống quýt giơ báng súng ra đỡ trước mặt, và chỉ nghe “sột” một tiếng, như thể hàm răng sắc nhọn đang liên tiếp cắn vào báng súng gỗ.

Mọi người nghe động tĩnh, mới phát hiện có một thứ màu trắng bám trên báng súng của Tư Mã Khôi. Vật thể đó hao hao giống sọ người chết, từa tựa như cá, phần đầu giống sọ của người lùn, miệng rộng mang ngắn, trong mồm có vô số răng nhỏ ngọn hoắt xếp mau rít, phần thân sau thuôn dài, mình không có vảy, da giống cá giáp(1), sau mang mọc hai cặp vây cánh giúp chúng rời khỏi mặt nước bay lên không trung. Lúc này, “con cá” đang cắn báng súng gỗ của Tư Mã Khôi, hàm răng sắc nhọn cắn ngập sâu vào trong, nó cố giơ vây giương cánh định bay, nhưng do cắn sâu quá nên chịu chết không thoát ra được. Dù vậy, sức mạnh của nó vẫn rất khủng khiếp, khẩu M-l 887 trong tay Tư Mã Khôi suýt chút nữa đã bị nó lôi xuống nước.

[1] Cá giáp (tên khoa học: Ostracodermi, nghĩa là ‘‘bọc da giáp, bọc da vỏ”, là tên gọi chung để chỉ bất kỳ nhóm cá không hàm (thời nguyên thủy, đã tuyệt chủng) với một số phần nào đó của cơ thể được che phủ bằng một lớp giáp có cấu tạo từ cht xương.

Tư Mã Khôi từng xem Sơn Hải Đồ trên đỉnh Vũ Vương, cũng thấy loài cá quái dị với hai cặp vây giống như cánh, thì đoán có lẽ nó là giống cá Lycoptera, một loài thuộc bộ cá rồng, đã tuyệt chủng từ cuối kỷ Phấn trắng, chúng chuyên ẩn mình ở những vùng nước tĩnh dưới lòng đất, có khả năng nhảy vọt khỏi mặt nước săn mồi, tập tính hung tàn khát máu. Lúc này, anh bỗng nhiên gặp phải một một con cá rồng sờ sờ ngay trước mắt, thì mới biết loài cá này hung hãn, đáng sợ đến thế. Nếu khi nãy anh không kịp thời giơ súng che chắn thì đã bị nó cắn rách một mảng thịt lớn rồi.

Tư Mã Khôi gí báng súng xuống đất, gọi Nhị Học Sinh lấy mũi giáo gỗ đâm thủng con cá rồng, rồi dùng hết sức gỡ nó ra.

Thắng Hương Lân thấy cảnh ấy, cô lập tức nảy sinh một dự cảm không lành: “Dưới đáy huyệt động này có loài cá ăn thịt người sinh sống, chứng tỏ nó không phải là vùng nước chết….”

Lời còn chưa dứt thì một loạt cá vảy rồng từ vùng nước xa đã “chiu” một cái nhảy vọt lên không trung. Lúc này, mọi người đã có sự phòng bị trước, nên Hải ngọng lập tức giương súng bóp cò, phạm vi sát thương của đạn số 8 rất lớn, con cá rồng đâm vào họng súng liền tan xác thành mảnh nhỏ ngay tức thì.

Lúc này, vô số cá rồng từ đáy nước bơi lên. Những con cá Lycoptera bị dòng nước cuốn trôi xuống đây, chúng bắt phù du làm thức ăn. Loài cá này đẻ trứng rất nhanh, không ngừng sinh sôi nảy nở thần tốc, trong khi đó số lượng phù du lại có hạn, nên tất cả sinh linh khác trong động đều đã bị chúng tiêu diệt sạch, bởi vậy lúc nào chúng cũng trong trạng thái đói khát cực độ. Giờ đây, chúng tụ tập thành bầy thành đàn bơi trên mặt nước, rồi lao bổ vào hội Tư Mã Khôi tấn công như vũ bão.

Mọi người đang đứng trên gốc cây ẩm ướt, chật chội, tứ bề trống trải, chỉ thấy bọn cá Lycoptera bay vù vù đến từ bốn phía. Sự cố xảy ra quá bất ngờ, cả hội chỉ còn biết gắng sức phòng ngự, con ở xa thì bắn, con ở gần thì chặn lại bằng báng súng.

Cao Tư Dương không hổ danh là xạ thủ bách phát bách trúng, cô liên tiếp hạ gục mấy con cá bay ăn thịt người. Cao Tư Dương đang chuẩn bị nạp thêm đạn, thì phát hiện có thứ gì đâm sầm sau lưng, trọng lượng ba lô tăng lên đột biến. Cô đổ nhào người về phía trước, suýt chút trượt chân xuống nước, quay đầu lại nhìn thì thấy hai con cá đang giằng xé ba lô của cô, thân mình chúng ngoáy loạn xạ, nhất quyết không chịu nhả ra, trong mồm chúng liên tục phát ra những hỗn âm đáng sợ.

Tư Mã Khôi phát hiện Cao Tư Dương gặp nguy cấp, anh tiện tay rút dao săn chém mạnh xuống, lập tức phanh thây hai con cá ăn thịt người thành bốn mảnh, nhưng cũng lúc này anh lại bị lộ sơ hở. Tư Mã Khôi chỉ cảm thấy cánh tay nhói một cái; tuy anh tránh né rất mau lẹ, nhưng con cá rồng thần tốc liệng bên cạnh vẫn kịp xé rách một miếng thịt, máu chảy ra không ngớt. Tư Mã Khôi đang bận giao chiến với lũ cá rồng, không còn thời gian để ý vết thương. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Máu tươi của cá Lycoptera và máu người hòa trộn vào nhau, phút chốc đã nhuốm đỏ nửa quãng mặt nước. Mọi người còn định dùng lại cách cũ, dùng lửa đuốc giải vây, ngặt nỗi không khí trong động vô cùng ẩm ướt, vả lại sinh vật sống dưới nước chưa bao giờ sợ lửa, nếu chỉ dựa vào lửa và súng thì không thể ngăn cản được thế tấn công của chúng. Đúng lúc này, Tư Mã Khôi bỗng nhiên thấy mắt mình tối sầm lại, không rõ đèn quặng gắn trên mũ Pith Helmet bị thứ gì che mất ánh sáng. Anh lấy tay lau, thấy tay mình dính một thứ dịch ẩm ướt, dấp dính, đỏ tươi như máu. Anh thầm nghĩ chắc phải có một lượng máu rất lớn rơi từ trên cao xuống đây.

Càng nghĩ Tư Mã Khôi càng kinh hãi: “Sao trên đó có nhiều máu thế nhỉ?”. Anh nghiêng người né tránh một con cá bay ăn thịt người đang nhào tới trước mặt, thuận thế ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy trong bóng tối hun hút có một vật thể khổng lồ nằm vắt ngang thân mình ở trên cao. Nó thò cái đầu hình tam giác, nom vừa giống đầu mãng xà lại vừa giống đầu kì nhông, đầu to đuôi nhỏ, mình dẹt, bốn chân thô ráp lực lưỡng. Nó sở hữu tất cả đặc điểm nổi bật của động vật bò sát, có điều Tư Mã Khôi vẫn chưa nhận ra nó thuộc nhóm nào trong nhóm thằn lằn giun, thằn lằn Eryops hay nhóm giáp đầu cá, vì tuy nó vẫn còn sống nhưng khắp người nhầy nhụa máu tươi, già nửa xương hàm và bộ răng sắc nhọn lởm chởm. Thâin hình đồ sộ của nó trông có vẻ giống với loài giáp đầu cá hơn.

Con giáp đầu cá có bộ răng cấu tạo hình mê lộ này có lẽ đã trườn qua khe đá, lớ ngớ thế nào chui ngay xuống đáy động, rồi không may bị bọn cá bay Lycoptera tấn công. May nhờ lớp da cứng như thép nguội, nên nó mới không bị ăn tươi nuốt sống thành bộ xương trắng, đồng thời còn kịp trèo lên cây cao lánh nạn. Tuy nó tạm thời thoát khỏi vòng truy đuổi, nhưng vết thương quá nặng, nên có lẽ không sống nổi mấy khắc nữa. Có điều, bọn cổ sinh vật toàn một lũ đầu óc ngu si, tứ chi phát triển. Nó đang đói đỏ mắt, lúc này lại trông thấy có người ngang qua, liền bám bốn chân vào dây leo, thò người xuống dưới. Máu tươi chảy ròng ròng từ cái đầu hình tam giác chỉ còn sót lại một nửa, xuống mũ Pith Helmet của Tư Mã Khôi, nên trong chốc lát, cả chiếc mũ đã bị nhuốm đỏ.

Tư Mã Khôi đột nhiên mặt đối mặt với con cá giáp đầu, chỗ vòng sáng ánh đèn quặng rọi đến chính là đám xương hàm nhoe nhoét máu, còn bộ răng sắc nhọn kết cấu mê lộ cách anh chưa đầy nửa mét. Trong lúc hốt hoảng, Tư Mã Khôi không kịp suy nghĩ gì, lập tức rút khẩu M-1887 trong tay ra bắn liên thanh mấy phát. Bóng tối mịt mùng bủa vây, dây leo che chắn chằng chịt, anh cũng không rõ mình bắn trúng chỗ nào trên người nó, chỉ thấy cả cơ thể khổng lồ của con giáp đầu cá lật nhào xuống đất, giãy giụa rồi chìm nhanh xuống nước. Cái đuôi to dài và đầy sức mạnh quét ngang qua gốc cây, khiến Tư Mã Khôi ngã lộn đầu xuống. Cả gốc cây to một người ôm không xuể bị nó quật đứt đôi. Bầy cá Lycoptera gần đó cũng hoảng sợ tản ra tứ phía.

Nhân cơ hội này, Hải ngọng lần sờ sợi dây thừng gắn móc câu dắt sau người, quăng lên trụ đá. Nhờ mọi người yểm trợ, anh gắng giật dây thừng, khiến gốc cây bị gãy dưới chân di chuyển dần về phía bệ đá. Mọi người vượt sông lên mặt đất. Lúc này, cả hội đã có trụ đá sừng sững làm điểm tựa, thêm vào đó, dẫu bọn cá Lycoptera biết bay, nhưng chướng ngại vật với kết cấu phức tạp xung quanh cũng khiến khả năng tấn công của chúng bi hạn chế đi rất nhiều. Bởi vậy, mọi người cũng tạm thời an toàn hơn đôi chút.

Mọi người tựa vào cột đá thở hổn hển, nghe văng vẳng bên tai tiếng giãy giụa đạp nước trong bóng tối, con cá giáp đầu dài năm, sáu mét, nặng chừng nửa tấn nhanh chóng bị bầy cá gặm thành bộ xương, chắc chẳng còn lấy nửa miếng thịt, cứ nghĩ đến cảnh tượng đó mà mặt mày ai nấy tái mét như sắp chết. Không ai dám thò đầu nhìn xuống.

Vết thương trên cánh tay Tư Mã Khôi tuy chảy máu khá nhiều nhưng chưa sâu đến tận xương, coi như số anh vẫn còn may chán. Anh để Cao Tư Dương băng bó sơ cứu, rồi sau đó có thể cử động như bình thường.

Hải ngọng nói: “Vết thương bé tí thế kia thì ăn thua gì, chẳng qua giống muỗi cắn ấy mà. Nếu khi nãy cậu rơi xuống nước thật thì bây giờ đã thành chồn quay, trụi mẹ cả lông lẫn tóc rồi!”

Thắng Hương Lân thấy Tư Mã Khôi bình an vô sự thì thở phào nhẹ nhõm. Cô vặn nắp bình nước quân dụng, rửa vết máu dính trên cổ áo và mũ Pith Helmet của Tư Mã Khôi.

Trong lúc đó, Tư Mã Khôi vẫn để ý quan sát bệ đá, anh phát hiện, bên cạnh bệ đá có một vật thể cấu tạo hình cây bằng đồng, trông có vẻ loang lổ, cũ kỹ. Trên mỗi cành lại cắm một vật trông to như cái chum lớn, trên thân chum đúc lỗ mẫu tử, trang trí họa tiết rồng phượng. Tư Mã Khôi từng nhìn thấy vật này trong bích họa, anh biết đây chính là đèn đồng chuyên dùng soi sáng dưới lòng đất, thời cổ gọi là “đèn chiếu u”. Tư Mã Khôi lập tức đứng dậy, rút nắp đồng trên lỗ mẫu tử, gí đuốc vào thử xem đèn còn phát sáng được nữa hay không.

Nghe nói, thời Xuân Thu Chiến Quốc có một loại nhiên liệu thắp sáng quanh năm không tắt, gọi là “long tùy”, loại dầu này được đổ vào đèn đồng chiếu u, loại đèn chuyên dùng cho các vương hầu xây dựng lăng tẩm dưới lòng đất, nó còn hiếm hơn cả nước mắt người cá rơi xuống đất kết thành ngọc, có điều nguồn gốc và thành phần thực sự thì từ lâu đã không còn ai biết nữa. Có lẽ, trong chiếc đèn đồng hình cây chứa loại dầu long tủy này. Lúc này, sau khi được mồi lửa, nó lập tức bốc cháy phừng phừng, ánh sáng rực rỡ khác thường, soi rõ phạm vi hơn mấy chục bước.

Khung cảnh trước mắt bỗng dưng vụt sáng, cả hội thấy mấy trụ đá ngay bên cạnh đúng là bàn tay xòe ra và hướng lên cao của con thú đá nào đó, ngọn đèn đồng hình cây, cao chừng sáu bảy mét, cũng chỉ là vật nằm trong tay nó. Thật khó tưởng tượng nổi thân mình con thú khổng lồ này to đến mức nào.

Tư Mã Khôi đứng cạnh cây đèn đồng, anh thò tay ra sờ vách đá lạnh lẽo, rồi chăm chú quan sát và phát hiện: đó chính là chiếc hộp đá chữ nhật khắc đầy những hình thù ma quái, nó như quả núi đè nặng trên thân con thú đá ôm cây đèn đồng. Quy mô của chiếc hộp to lớn dị thường. Đằng sau vẻ trầm mặc bí ẩn đủ khiến người ta kinh hồn bạt vía kia, dường như còn chứa đựng một câu hỏi lớn.

Hồi thứ tư 

QUÁI VẬT THỜI GIAN

Người xưa lợi dụng đá trầm tích dưới địa tầng, gia công đục đẽo thành chiếc hộp đá, nó hòa thành một thể với tượng linh thú. Bề mặt hộp nổi chi chít vết rạn nứt và bị rêu xanh, dây leo che phủ, khiến nó mang một màu xanh thẫm u uất. Cả hội đứng tại chỗ nên chỉ có thể quan sát một phần nhỏ của hộp từ một góc độ nhất định, vậy mà vẫn thấy ở đó toát ra vẻ thần bí đáng kinh ngạc.

Nhị Học Sinh lau lớp bụi trên cặp kính, mở to hai mắt nhìn thật kỹ. Anh chàng ngơ ngẩn lẩm bẩm: “Đây là chiếc hộp của Sở U Vương sao?”

Tư Mã Khôi cũng cảm thấy rất đỗi ngạc nhiên. Chiếc hộp đá trông có vẻ rỗng ruột, bên trong chắc dùng để chứa đồ, nhưng trên thế giới làm gì có chiếc hộp nào lại khổng lồ dường vậy? Vả lại, nó cũng không giống với quan tài đá chứa xác chết. Anh bỗng nhiên nhớ lại bức bích họa khi trước từng xem qua trong huyệt động. Trong bức bích họa cổ mà tiền nhân để lại từ hơn hai ngàn năm trước thường xuất hiện một con vật kì dị trông hao hao con rùa đầu rồng, có đầu nhưng không có mặt, tay cầm nến đứng giữa cõi hỗn độn, lưng cõng bánh xe. Nó có dáng dấp tương tự với con rùa cõng bia, có lẽ nó chính là con thú kì dị nằm bên dưới chiếc hộp đá. Chỉ có điều, anh không ngờ nó lại to lớn đến vậy.

Thắng Hương Lân nói: “Thời cổ đại có truyền thuyết ‘hàm tải’. Con quái vật bò trong cõi hỗn độn tên là ‘tài’, chiếc hộp nó cõng trên lưng là ‘hàm’.”

Hải ngọng chưa hiểu ý cô, ngẩn người hỏi: “Tải gì? Tải vải hay tải bã mía?”, Thắng Hương Lân giải thích: “Là tải trọng chứ không phải tải bã mía hay tải vải. Nó chỉ là con quái vật tồn tại trong truyền thuyết, hoặc có thể nói nó là một loài linh thú, hình dạng tương tự con rùa đầu rồng, lưng cõng thiên địa vạn vật, di chuyển từ quá khứ đến tương lai. Giải thích theo quan điểm hiện tại, thì ‘tải’ đại diện cho sự lý giải của người cổ đại về thời gian. Một ‘tải’ tương đương với một năm. Người cổ đại rất sùng tín chuyện thần quỷ, họ cho rằng, sở dĩ thời gian không ngừng trôi chảy về phía trước, và không thể quay ngược trở lại, là vì có một con quái vật cõng thiên địa càn khôn trên lưng, không ngừng bò về phía trước giữa cõi hỗn độn, chính bởi vậy, thời gian quá khứ vĩnh viễn chỉ là quá khứ.”

Nhị Học Sinh gật gù như thể vừa giác ngộ ra chân lý: “Trước đây, tôi vẫn thường nghe người ta nói cái gì mà ‘ngàn năm vạn tải’, nhưng chỉ nghe thế thì biết thế thôi, chứ chưa bao giờ ngẫm nghĩ xem câu đó có ý nghĩa gì. Thì ra, nó còn ẩn chứa một điển cố như vậy….”

Tư Mã Khôi nghĩ, quái vật “tải” không hề tồn tại trong cõi đời, đó chỉ là sản phẩm do người cổ đại tưởng tượng ra, nhưng nó tượng trưng cho sức mạnh vô hình vận hành vạn vật, còn chiếc hộp đá nó cõng trên lưng khắc đầy hình vẽ ma quái, lại được giấu kín bên dưới huyệt động thông xuống mạch đất núi Âm Sơn, bởi vậy, nó chắc chắn phải là vật vô cùng quan trọng. Có lẽ chiếc hộp của Sở U Vương cũng nằm trong này.

Cao Tư Dương hỏi Tư Mã Khôi: “Đội khảo cổ các anh muốn tìm nhật quỹ dưới lòng đất thì liên quan gì đến chiếc hộp đá âm khí mù mịt đó?”

Hiện giờ, Tư Mã Khôi vẫn chưa thể suy đoán trong hộp đá có gì, mà chỉ tạm thời nhận định: thứ bên trong ẩn giấu con đường tiếp tục thâm nhập xuống lòng đất. Tư Mã Khôi lập tức bảo Nhị Học Sinh gom hết số long tủy trong đèn, đổ vào mấy chiếc hộp trước đây đựng dầu thông để làm nhiên liệu bổ sung cho đầu đuốc, sau đó lợi dụng đám dây leo và gốc cây rậm rạp làm vật yểm trợ, cả hội dò dẫm ra rìa vách hộp ở gần đó.

Tư Mã Khôi phán đoán, chắc chắn còn nhiều cụm đèn cây khác nữa nằm rải rác dưới đáy huyệt động có điều phạm vi hành động có hạn, nên anh không thể thắp sáng tất cả các ngọn đèn. Mọi người chỉ trang bị những thiết bị cơ bản nhất như súng săn, đuốc, la bàn mà thôi nhưng trong huyệt động dưới lòng đất tàn khốc, phức tạp điều kiện khắc nghiệt, thì những vật đó lại phát huy tác dụng thực tế lớn hơn nhiều so với các máy móc tiên tiến khác. Lúc này, cả hội đã có vách tường làm điểm tựa, nên cũng không sợ lũ cá Lycoptera dưới nước đột ngột bay lên tấn công nữa. Có điều, không hiểu sao mặt nước dưới vách đá lại im ắng lạ lùng. Tư Mã Khôi đi sau cùng, lòng thấy hơi băn khoăn, bỗng nhiên một cơn gió độc thổi thốc đến từ phía sau, anh chưa kịp phản ứng gì thì nó đã áp sát ngay sau lưng, rồi trong tích tắc hai chân anh nhấc khỏi mặt đất và bất ngờ bị một sức mạnh khủng khiếp kéo lên không trung. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi biết dưới lòng đất có rất nhiều sinh vật săn mồi bị giam hãm, nên bất kể thứ anh đang phải đối đầu là gì, thì chỉ riêng sức mạnh nhấc bổng một người sống lên hẳn mặt đất, cũng đủ biết thân hình nó đồ sộ cỡ nào. May mà anh còn có ba lô che chắn, nhưng đã bị nó kéo đi thì đừng mong sống sót. Lúc này, tuy đang bị kẻ địch khống chế, nhưng anh không hề bấn loạn; khi thấy mình không thể quay người được nữa, anh liền chuyển họng súng chĩa về phía sau và bóp cò. Không rõ viên đạn có ngắm trúng mục tiêu hay không, nhưng anh chỉ nghe thấy hình như vật đang quắp ba lô của mình cất tiếng kêu the thé, âm thanh như thể tiếng rồng gầm, rõ ràng nó đã bị kinh động không nhỏ.

Tư Mã Khôi chưa kịp lên nòng lần nữa, thì đã thấy cơ thể mình bỗng nhiên chìm xuống. Thì ra anh bị rơi từ không trung xuống. Tư Mã Khôi vội vàng lấy hai tay ôm đầu, hai khuỷu tay kẹp chặt đầu gối đề phòng gãy xương khi ngã xuống đất. Đây chính là điểm khác biệt giữa người biết ngã và người không biết ngã. Sau khi chạm đất, anh thuận thế lăn mấy vòng rồi mới đứng dậy, vì vậy ngoại trừ chịu đau đớn ngoài da, anh không bị vết thương nặng nào.

Do sự việc xảy ra quá đột ngột, nên những người còn lại nghe thấy tiếng súng mới phát hiện được tình hình bất thường. Khu vực phía dưới chiếc hộp đá hoàn toàn nằm trong phạm vi chiếu sáng của đèn đồng. Cả hội chỉ nhìn thấy có một vật thể hao hao giống loài thằn lằn bay vừa xẹt qua. Con vật này dài chừng nửa mét, móng rồng, mỏ chim, cánh ngắn, đuôi dài. Nó sải cánh không một tiếng động, nháy mắt đã mất dạng trong bóng đêm.

Mọi người sợ hãi thất sắc, vội vàng kéo Tư Mã Khôi nấp vào vách hộp. Nhị Học Sinh lại châm thêm hai ngọn đuốc nữa đề phòng có biến.

Tư Mã Khôi đau đến mức phải há miệng kêu, thấy ba lô vải buồm đeo sau lưng bị đục thủng mấy chỗ, anh bất giác ớn lạnh. Tư Mã Khôi lục ba lô lấy băng dính, bịt các chỗ vừa bị rách lại.

Cao Tư Dương nói: “Con vật này xuất quỷ nhập thần, chúng ta rất khó phòng bị. Hình như nó là một con mãnh điểu thì phải?”

Nhị Học Sinh phân tích cho Cao Tư Dương nghe: “Về mặt cấu tạo sinh học mà nói thì… con vật này cánh ngắn, đuôi dài, nên nó không thể bay một cách đúng nghĩa, nên khi nãy nó chỉ trượt giữa không trung nhờ lực quán tính thúc đẩy sau khi chạy nhanh mà thôi. Móng vuốt của nó rất sắc và cứng, chắc nó có thể leo trèo giữa các vách động dựng đứng. Vì vậy, chúng ta không thể gọi nó là chim được”.

Hải ngọng phát biểu: “Tôi đoán, quá nửa là vịt tuyết núi Himalaya, nghe nói giống này có thể quắp nguyên một con bò đực bay vèo lên trời cơ đấy!”

Thắng Hương Lân nói: “Nhưng đây là rốn núi sâu phía tây Hồ Nam, cách dãy Himalaya bao xa anh có biết không? Vả lại trong huyệt động dưới lòng đất thì lấy ra sinh vật sống trong tuyết chứ?”

Tư Mã Khôi đón lấy bó đuốc từ tay Nhị Học Sinh nói: “Nhận định của Nhị Học Sinh nghe còn có vẻ đáng tin cậy. Con vật đó nửa giống rồng, nửa giống chim, có lẽ là một chi của loài chim cổ, sở dĩ nó có thể bay mà không hề phát ra tiếng động là nhờ vào khung xương rỗng. Loài này quanh năm cư ngụ dưới lòng đất, hai mắt bị thoái hóa nên không sợ ánh lửa. Khu vực gần đây không có nơi nào an toàn, nguy hiểm và những nhân tố bất ngờ có thể xuất hiện bất cứ lúc nào. Tốt nhất chúng ta nên tìm đường chui vào hộp đá rồi tiếp tục bàn bạc sau”.

Mọi người không dám chậm trễ, lập tức dò dẫm theo chân tường tiến về phía trước. Hiềm nỗi, tuy các vết nứt trên vách đá rất nhiều nhưng lại vô cùng chật hẹp, những nơi đủ rộng cho người chui lọt thì toàn là đường cụt, mãi khi mò đến chỗ ánh sáng đèn đồng không chiếu tới được, cả hội mới phát hiện được vách đá có phần lõm vào trong.

Tư Mã Khôi mừng rỡ soi đuốc vào nhìn cho rõ, chỉ thấy ở đó có một huyệt động, phần bao quanh phía ngoài là bức phù điêu nổi, trông như thể một khuôn mặt thú, cái miệng chính là cửa động rộng lớn khiếp người, nó xuyên thẳng vào vách hộp dày và nặng trịch, nhưng hướng chạy dích dắc không theo quy tắc, hơn nữa lại đen ngòm, sâu hoắm, như thể bị đầu con giao long đâm sầm vào, vỡ thành cái hang vậy. Thế nhưng không ai nhìn thấy chỗ giao long chui ra ở đâu, còn vách đá hai bên thì chạm khắc vô số hình vẽ các con thú vừa giống rồng lại vừa giống hổ, cao gấp rưỡi người thường. Dưới sự phản chiếu của ánh đèn chúng như những chiếc bóng thần bí. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã khôi bảo Hải ngọng cầm súng đi sau cùng, còn mình ném đá thăm dò. Anh thấy phía trong im phăng phắc không một tiếng động, liền bắt đầu đi vào cửa động trên hộp đá, những người còn lại cũng lục tục chui theo. Những vết tích cổ xưa giữa các vách đá không hề bị tuế nguyệt xóa nhòa, ngược lại còn là một mắt xích bị thất lạc trong lịch sử. Chỗ nào cũng nhuốm đầy màu sắc âm u, thần bí. Luồng gió âm lạnh lẽo thổi từ nơi sâu trong động đá ùa tới, khiến mọi người ớn lạnh tim gan.

Cả hội không biết huyệt động sâu đến mức nào, nên sau khi bước vào, ai nấy đều bất giác đi chậm lại. Tư Mã Khôi lấy dao xén một mảng rêu dính trên tường, anh nhận thấy trên bức tượng đá, ngoại trừ chạm hình mãnh thú, ác điểu ra, thì còn khắc rất nhiều cảnh tượng tế lễ thần quỷ của Sở U Vương, bên cạnh có chú thích bằng chữ triện cổ hình chân chim. Tuy trong tay Tư Mã Khôi có cuốn sổ giải mã chữ triện cổ triều Hạ, nhưng đối với chữ triện thời Xuân Thu Chiến Quốc thì anh hoàn toàn mù tịt, vả lại cũng không thể kiên nhẫn mày mò từng chữ. Chỉ có điều, Tư Mã Khôi thấy huyệt động này thông thẳng vào trong hộp đá mà không hề bị bất cứ vật gì che chắn, nên trong long cũng cảm thấy hơi bất ngờ. Có thể nói, cái hộp khổng lồ chở “tải” bên trên, chính là hạt nhân mọi bí mật của vu sư nước Sở, trong đó chắc hẳn phải có rất nhiều báu vật vô giá chưa hề được công bố trên thế giới, nên sao lại có thể dễ dàng để người đời ra vào như vậy được? Chẳng lẽ bên trong chiếc hộp này lại cài bẫy gì sao?

Nhị Học Sinh nhớ lại chuyện Sở U Vương tuẫn táng người sống, liền nhắc mọi người: “Liệu trong hộp đá có hệ thống ngầm gì không nhỉ? Ngộ nhỡ chạm vào nút kích hoạt, thì đá đoạn long sẽ hạ xuống, nhốt sống chúng ta ở trong này mất thôi!”

Thắng Hương Lân nói: “Nơi này bị phong bế hơn hai ngàn năm dưới biển Âm Dụ, cho dù thực sự tồn tại hệ thống kiểu như đá đoạn long, thì nó cũng mất tác dụng từ lâu rồi. Có điều, người Sở rất tin tưởng vào sức mạnh của ma quỷ. Tương truyền, khi quân Tần nam tiến tấn công nước Sở, chỉ một trận đã đánh cho quân Sở tan tác. Sở Vương lúc đó chỉ mải chạm đục rất nhiều tượng đá, vì ông ta muốn chiêu hồn các tướng sĩ đã tử trận dưới âm gian trở về chống Tần, bởi vậy so với lo sợ các cơ quan mai phục, có lẽ chúng ta nên đề phòng thứ khác còn hon”.

Nhị Học Sinh kinh ngạc hỏi: “Thứ khác…. là thứ gì vậy? Chẳng lẽ có âm hồn ngàn năm không siêu thoát thật sao?”. Nhị Học Sinh không sợ ma quỷ, vì không ai có thể xác thực chuyện ma quỷ, nhưng anh chàng rất tò mò về chuyện mà Tư Mã Khôi vừa nhắc đến. Từ cổ chí kim đã có vô số nhà khảo cổ học, địa chất học và các tổ chức nghiên cứu hiện tượng thần bí, họ đều vắt nát óc tìm cách thăm dò chân tướng ẩn giấu bên trong, nhưng dường như tất cả đều bất lực. Hết tốp thám hiểm này đến đoàn thám hiểm khác đã bị thu hút bởi những ẩn số nặng mùi chết chóc, nhưng không một ai đủ sức chạm vào bí mật của nó. Loài người là loài động vật đầy máu hiếu kì bẩm sinh, càng đối diện với những sự vật không thể giải thích, thì con người lại càng muốn làm sáng tỏ. Giờ đây, đội khảo cổ của Tư Mã Khôi, gồm hai kẻ liều mạng từng tham gia chiến tranh du kích ở Miến Điện, một cô nhân viên trắc họa địa chất, một cô sinh viên trường quấn y, thêm một anh thanh niên trí thức nữa, họ có cơ hội tiếp cận nơi mà vĩnh viễn không bao giờ đến được hay không?

Tư Mã Khôi thấy trạng thái tâm lý của Nhị Học Sinh có vẻ bất ổn, liền nói: “Đừng nghĩ nhiều thế! Chú chỉ cần nghĩ là: ‘trên vai đang gánh mỗi hai hạt vừng’ thì chẳng có gì đáng để ý nữa cả”.

Vách hộp dày đến mức khiến người ta ngỡ bên trong không tồn tại không gian. Hai bên đều có một cây trụ đá, chạm khắc hình thần linh trấn ma trừ quỷ, mình người mặt thú, nhuốm đầy màu sắc phù thủy đậm nét, còn đi vào sâu hơn thì thấy bên trong là không gian tối tăm nhưng rộng rãi.

Tư Mã Khôi lấy tay ra hiệu cho mọi người dừng lại. Anh bước lên trước giơ cao đuốc soi sáng xung quanh, thì thấy phía dưới trụ đá có mấy thi thể cổ đại đeo mặt nạ bàng đồng xanh, mũ cao áo dài đã bám đầy đất bụi. Tuy bảo đó là thi thể, nhưng thực tế chỉ còn sót lại hài cốt mà thôi, nhưng trên chiếc mặt nạ quái dị bằng đồng xanh có hai quầng mắt lõm sâu vào trong, trong khi con ngươi lại lồi hẳn ra ngoài, phần môi mỏng và khẽ hé mở, còn hằn cả vết khâu, khiến người ta có cảm giác họ có thể đột nhiên đứng dậy bất cứ lúc nào, rồi gỡ mặt nạ xuống, kể cho người sống nghe những câu chuyện khó tin bằng thứ ngôn ngữ không ai hiểu.

Hồi thứ năm

BẦU TRỜI TRONG LÒNG ĐẤT

Tư Mã Khôi thấy mấy thi thể trước mắt, hầu như đều là các vu sư của Sở quốc. Căn cứ theo tình hình mô tả trên bích họa vẽ trong động, khi Sở U Vương gieo quẻ hỏi hung cát, thì vị vu sư đeo mặt nạ đồng xanh sẽ nói cho Sở U Vương biết những chuyện xuất hiện trong ảo giác của mình, Sở U Vương sẽ lấy đó làm cơ sở để đưa ra phán quyết cuối cùng.

Thời kì Xuân Thu Chiến Quốc sùng tín quỷ thần, các vu sư không chỉ hiểu người, mà còn phải thấu hiểu ma quỷ, và chỉ họ mới có khả năng giao tiếp với những sức mạnh thần bí vô hình, bởi vậy, họ có đia vị tối cao trong xã hội. Chỉ cần một vài lời nói của họ cũng đủ ảnh hưởng đến sự hưng suy cửa cả một vương triều. Những cái xác cổ này đã xuất hiện trong hộp đá, chứng tỏ chiếc hộp của Sở U Vương chắc chắn ở trong này.

Hải ngọng lẩm bẩm một mình: “Chết thì đã chết rồi, còn bày đặt đeo mặt nạ làm chó gì, nhìn phát ớn cả người…”. Nói xong, anh định thò tay gỡ mặt nạ ra, nhưng mấy thi thể đó đã mục nát từ bao giờ, nên vừa chạm tay một cái đã tan thành cát bụi. Chiếc mặt nạ bằng đồng xanh rơi “keng” một cái xuống đất, âm thanh vang lên đột ngột khiến anh giật nảy mình, vội vàng nhảy giật lùi ra sau tránh.

Cao Tư Dương suýt chút bị anh xô phải, cô bực mình mắng: “Tay chân lóng nga lóng ngóng thế kia mà cũng tự xưng thành viên đội khảo cổ cơ đấy !”

Hải ngọng không chịu kém miếng, đáp trả: “Đội khảo cổ là cái miếu nào mà dám chứa Hải ngọng tôi hả? Sao cô không tìm hiểu trước rồi hẵng phát biểu…”

Tư Mã Khôi biết Hảì ngọng lại định khua môi múa mép thổi phồng tiểu sử bản thân, dốc hết những sự tích anh hùng vớ vẩn từ đời tám hoánh nào ra kể lể. Trước khi Hải ngọng kịp bật đài, anh phải nhanh chóng dập tắt ngay cơ hội đó, nếu không, anh chàng sẽ huyên thuyên đến tận sáng mai vẫn chưa muốn dừng, Nghĩ vậy, Tư Mã Khôi liền cắt ngang câu chuyện của hai người: “Tôi thấy gió lạnh thổi từ sâu trong hộp đá ra, tình hình trong ấy chưa xác đinh rõ thế nào. Mọi người phải chú ý hơn mới được, đừng để âm hồn ác quỷ kéo tuột đi đấy”. Nói xong, anh dò đẫm vách đá, đi sâu dần vào phía trong. Xuyên qua huyệt động giữa các vách hộp, địa thế đột nhiên trở nên rộng rãi, địa hình trên lõm dưới lún.

Phần giữa tầng nham thạch chạm khắc thành hình vòng cung, với nhiều “chữ tranh”, khắc chi chít khắp không gian trên đầu và dưới chân. “Chữ tranh” là hình thức dùng các hình vẽ liên tiếp nối với nhau để ghi chép một nội dung sự việc nào đó thay thế cho chữ viết, thường được sử dụng để giao lưu với cõi u minh, bởi văn bản soạn ra không phải để cho người sống đọc, nên người cổ đại mới viết bằng “chữ tranh” chứ không viết bằng chữ triện.

Hải ngọng khi nãy chưa nói sướng mồm, anh lững thững đi đằng sau định tìm lời quay về chủ đề khi nãy, nhưng nhìn thấy địa hình kì quái, thì liền quên khuấy mất chuyện lúc trước. Anh ngạc nhiên hỏi: “Ớ… tớ thấy bọn người Sở có vẻ rất tinh thông mấy món này nhỉ! Thiết kế hình dạng theo kiểu ngoài vuông trong tròn thế này là trò quái gì không biết?”

Tư Mã Khôi nói: “Thời xưa, người ta quan niệm trời tròn đất vuông. Chiếc hộp này trong tròn ngoài vuông, chắc muốn ám chỉ bầu trời nằm trong lòng đất, nhưng bầu trời làm sao có thể nằm trong lòng đất được chứ?”

Thắng Hương Lân giải thích: “Phần lớn chiếc hộp ‘hàm’ mà con quái vật ‘tải’ cõng trên lưng đều có hình dạng bánh xe tròn, vì trời nằm trong đất. Nhưng hình vuông nằm ngoài, hình tròn nằm trong thì đúng là hiếm gặp, có lẽ người xưa muốn ẩn dụ về thế giới dưới lòng đất thì phải”.

Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ, anh thấy phân tích của cô rất hợp lý: dưới lớp vỏ Trái đất tồn tại một noi gọi là “không động” sâu thăm thẳm và rộng vô biên, nếu so sánh với nó thì kính viễn vọng Lopnor mà đội khảo cổ từng thâm nhập, quả thực chỉ là hạt cát nhỏ bé trong biển cát bao la. Nếu dùng hình ảnh “trời” để hình dung về nó thì cũng không ngoa.

Nhị Học Sinh hỏi: “Không rõ cái hộp đá mà Sở U Vương để lại có ý nghĩa cụ thể gì nhỉ?”

Tư Mã Khôi đáp: “Chỗ này toàn là tượng điêu khắc bằng đá hoặc bích họa khắc trên vách tường, hầu hết nội dung mô tả những thông tin mà Sở U Vương muốn truyền đạt đến thần quỷ. Có điều chúng ta như thằng mù đọc chữ, chẳng hiểu nội dung nó nói gì, chi bằng thắp thêm ít đuốc nữa đi loanh quanh xem có tìm thấy gì khác không”.

Mọi người tiết kiệm pin nên châm thêm ba cây đuốc nữa, không dám thắp thêm đèn quặng. Dưới ánh lửa chập chòm lúc sáng lúc tối, cả hội tiếp tục đi về phía trước tìm kiếm. Mỗi hướng trong hộp đá đều có cửa động. Bên trong động, ngoại trừ những bức tường đá được chạm khắc, còn đặt la liệt tượng đồng, có điều vẫn không thấy chiếc hộp của Sở U Vương đâu cả. Mọi người vừa đi vừa nhìn, xuyên qua rìa vách hộp là bước vào khu vực đáy hộp với những sợi dây leo rủ xuống như rèm che, dưới chân có cây cầu đá rất rộng, họa tiết vảy rồng to như viên ngói đó, chính là chiếc đầu của thần thú “tải”.

Con quái vật thời Sở cõng càn khôn trên lưng, có hình dáng gần giống với con rùa khổng lồ với cái đầu rồng, nhưng màu sắc thần bí đậm nét hơn, hai đầu gắn trên hai cổ, nhưng không có mặt, thân mọc nhiều chi, một nửa vươn lên trời nâng cây đèn chiếu u khổng lồ, một nửa chống xuống đất để di chuyển, trên đầu phủ phục hai con mãnh hổ, miệng ngậm vòng đồng to như cổ tay, khóa chiếc hộp bằng dồng xanh, thể tích đủ chứa hai người chui vừa.

Đội khảo cổ thấy chiếc hộp thần bí quả nhiên là vật có thật, lòng bất giác hồi hộp muốn nghẹt thở, vội vàng chạy lên trước, định mở ngay ra xem bên trong có gì. Nhưng Tư Mã Khôi và Hải ngọng vừa định thò tay ra thì Thắng Hương Lân đột nhiên ngăn lại: “Không được xem thứ trong hộp! Ai xem, người đó sẽ chết”.

Hải ngọng tròn mắt hỏi: “Bên trong chắc có mấy khúc xương của người chết là cùng chứ gì? Mà cho dù chứa bom địa chấn thì cũng đâu đến nỗi vừa nhìn một cái là lăn ra chết tươi ngay được.”

Thắng Hương Lân giơ đuốc soi vào chiếc hộp: “Các anh cứ xem hình vẽ trên này sẽ biết…”

Tư Mã Khôi phát hiện, nơi này tuy địa thế khá cao nhưng khoảng không gian giữa các rễ cây xung quanh lại đen quánh, chỉ e sẽ xảy ra bất trắc, bởi vậy anh luôn luôn giữ tình thần cảnh giác cao độ. Chưa kịp nhìn rõ chiếc hộp đồng thì chợt nghe Thắng Hương Lân nói vậy, ánh lập tức đưa mắt quan sát, thấy thân hộp đồng han gỉ loang lổ, chạm khắc rất nhiều hình vẽ. Anh thoáng nhìn qua, thấy trong đó có vẽ hình ác quỷ bắt người, như thể kẻ nào dám cả gan nhìn trộm vật trong hộp, kẻ đó sẽ lập tức bị ác ma lôi xuống địa ngục, không rõ đó là lời nguyên hay chỉ định dọa tinh thần hậu thế.

Mọi người phát hiện, trên hộp đồng còn khắc hình vẽ lột da người sống, trông vô cùng tàn nhẫn và quái dị. Cả hội bất giác chau mày ghê sợ.

Nhị Học Sinh kể với mọi người: “Trước đây, ở châu Âu có một nghi thức tà giáo vô cùng cổ xưa, đó là dùng cực hình để dày vò trinh nữ. Sự tàn nhẫn của cực hình đó vượt xa sức tưởng tượng thông thường của con người. Trong tình trạng trải qua cảm giác khiếp sợ và đau đớn đến cùng cực, họ sẽ nhìn thấy những cảnh tượng mà chỉ người chết mới có thể nhìn thấy, sự giày vò tột cùng dành cho họ chính là lột da trong địa động khi họ vẫn còn sống. Sau khi lột da, cô gái đó vẫn chưa đoạn khí hẳn, miệng sẽ đứt đoạn nói ra những sự việc mà mình nhìn thấy trước mắt, chỉ có tông chủ mới đủ tư cách ghé sát tai nghe. Toàn bộ nội dung tông chủ nghe được, đều thuộc phạm trù cơ mật, tuyệt đối không để người bình thường biết. Cách thức này có vẻ khá giống với phương pháp ‘Sở U Vương hỏi ma’ mà mọi người đang chứng kiến lúc này”.

Cao Tư Dương hỏi: “Anh bảo cực hình tà giáo cổ xưa của phương Tây có điểm gì giống với vu thuật trên chiếc hộp của Sở U Vương?”

Nhị Học Sinh đoán: “Có lẽ là vì cả hai đều tiếp nhận thông tin từ… dưới vực thẳm”

Tư Mã Khôi cũng nghĩ như vậy: “Con người luôn thiếu sức sáng tạo với phương thức ra đời của chính mình, nhưng vô cùng giàu sức sáng tạo để nghĩ ra các phương thức chết. Có điều, chúng ta biết quá ít ỏi về chiếc hộp của Sở U Vương, nên tốt nhất cứ thận trọng là hơn!”. Nói xong, anh tiếp tục quan sát kỹ những hình vẽ còn lại trên hộp đồng. Tư Mã Khôi phát hiện nội dung ghi chép trên đó rối rắm, nhiều không kể xiết. Thật đúng là nhìn mà phái hãi.

Căn cứ vào các hình vẽ trên hộp, mọi người suy đoán, ngay từ những năm Sở quốc chưa ra đời, có lẽ vào thời kì Thần Nông gá gỗ làm ổ, một bầy người thượng cổ có sừng trên đầu đã vô tình phát hiện ra huyệt động này trong một lần rượt đuổi bầy hươu, nơi sâu nhất ăn sâu vào mạch núi, sau núi có vật thể hình khum tròn thần bí với phần bụng phình to. Họ phát hiện bên trong chứa bộ thi hài, nhưng thi hài này không giống vật ở nhân gian. Bọn họ cảm thấy rất kì lạ, liền lôi nó ra khỏi lòng đất, nhưng lúc định xuống thăm dò lần nữa, thì mạch núi khi trước đã mất tích, chỉ còn lại một hố vực, sâu không thấy đáy và đen thăm thẳm. Câu truyện truyền đến thời Xuân Thu Chiến Quốc, Sở U Vương xem vật này là di hài báu ở dưới Âm Sơn. Lão ta thường ra lệnh cho vu sư gieo quẻ để hỏi chuyện ma quỷ dưới cõi âm. Mãi đến khi Sở U Vương mai táng con gái, dẫn đến việc bị các oan hồn đòi mạng, lão ta mới thả chiếc hộp chứa di hài báu xuống lòng đất để trấn núi Âm Sơn. Họ tin rằng, dưới đáy động có ác ma trấn giữ, kẻ ngoại đạo nào dám mở chiếc hộp này, sẽ lập tức bị ác ma lôi xuống vực sâu, nhốt sau núi Âm Sơn, vạn kiếp không được siêu sinh.

Hội Tư Mã Khôi cảm thấy rất khó hiểu, nơi đào thấy di hài rõ ràng chính là nhật quỹ, nhưng vì sao mạch núi trong vực sâu lại đột nhiên mất tích? Nếu di hài trong hộp đồng không phải của con người, thì là của loài sinh vật nào? Hóa thạch sinh vật tiền sử trong rừng rậm nguyên sinh dưới khe Âm Hải nhiều vô số kể, nếu nó là hóa thạch xương của loài động vật nào đó, thì trừ khi nó quá đặc biệt, không thể tìm thấy cái thứ hai nên đời, còn không thì làm sao người thượng cổ lại xem trọng nó đến mức ấy? Ngoài ra, sau khi mở chiếc hộp của Sở U Vương ra, có thật sẽ xuất hiện ác ma không? Mọi người không thể suy đoán được gì từ những ẩn số đó, nhưng vẫn bắt buộc phải suy đoán.

Những hình họa chạm khắc trên hộp đồng trông rất thần bí, ảo diệu và mang đậm màu sắc vu thuật thời Sở, hư hư thực thực. Nỗi nghi hoặc trong lòng mọi người càng lúc càng dâng cao; mà nghi hoặc càng dâng cao thì họ lại càng nóng lòng muốn tìm chân tướng sự thật – Cỗ di hài mà người cổ đại tìm thấy dưới lòng đất rốt cuộc của loài sinh vật nào? Lai lịch của nó kì dị đến mức nào? Giờ đây, đã đến lúc phải quyết định, nhưng cả hội lại không thể nhắm mắt bỏ qua lời nguyền của Sở U Vương để lại trong chiếc hộp, bởi không ai có con mắt nhìn thấu quá khứ và tương lai, nên không thể dự tính được tình hình gì sẽ xảy ra sau khi chiếc hộp được mở.

Cao Tư Dương phẩy tay vẻ coi thường: “Theo lời các anh, thì xung quanh chiếc hộp có ma, nhưng chỗ này yên ắng thế này, đâu có dấu hiệu gì khác thường đâu chứ?

Thắng Hương Lân nói: “Hình vẽ trên chiếc hộp cho thấy, sau khi người ta nhìn thấy di hài, mới bị ác quỷ lôi đi. Tôi thấy nơi này ma quái thế nào ấy. Nói chung, mọi việc đều phải đề phòng cẩn thận mới được”.

Cao Tư Dương nói: “Cô đừng tin mấy trò ma quỷ của Sở U Vương, chúng ta mau mở chiếc hộp ra xem thì chẳng phải tất cả sự việc sẽ rõ như ban ngày hay sao?”

Nhị Học Sinh cũng gật đầu đồng tình: “Hình vẽ ác quỷ ăn thịt người trên chiếc hộp, chắc chắn không thể linh nghiệm như dự báo thời tiết được. Tôi cảm thấy đó chỉ là sự chiêm nghiệm đối với số mệnh, cũng có thể nói đó là suy nghĩ vô tri ngu muội của người cổ đại mà thôi”.

Tuy Tư Mã Khôi đã sớm đặt mình ra khỏi vòng sinh tử thông thường, nhưng anh cũng không phải hạng chán sống đến mức muốn tự mình đâm đầu tìm cái chết. Tư Mã Khôi quan sát địa hình xung quanh, thấy khu vực gần pho tượng đầu thú quái vật “tải” thời Sở tối đen như mực, nó chỉ cách vùng nước tù dưới đáy động chừng hơn chục mét là cùng, bọn cá bay ăn thịt người rất khó tiêp cận, những rặng dây leo rủ xuống tứ phía, im lìm và trầm mặc. Anh quyết định bảo những người còn lại rút lui về phía sau pho tượng thú bằng đồng chờ đợi để yểm trợ cho mình, còn anh, sẽ mở chiếc hộp của Sở U Vương ra xem, ngộ nhỡ xảy ra bất trắc thì cũng không đến nỗi chết hết cả đám.

Lòng Thắng Hương Lân dấy lên một dự cảm không lành, cô nhỏ giọng bảo Tư Mã Khôi: “Hay để tôi mở cho, tôi chết vẫn hơn là anh chết”.

Hải ngọng nói chen ngang: “Hương Lân! Cô nói bậy bạ gì thế? Mấy chuyện lăn xả đầu súng ngọn giáo đã có anh Hải ngọng gánh, làm gì phải đến lượt cô hả? Có điều ngộ nhỡ tôi vinh quang thật, thì đừng rắc tro cốt tôi dưới đáy động tối om om như hũ nút này nhé, mà nhớ mang tro cốt tôi về nhà, chôn cất dưới đất cho tử tế. Đừng để tôi trở thành cô hồn dạ quỷ dưới núi Bối Âm giống như ông bác Nông địa cầu, quê tôi là coi trọng mấy chuyện đó lắm đấy….”

Cao Tư Dương không tin là vừa nhìn thấy cỗ di hài trong hộp thì sẽ lăn ra chết ngay lập tức, lại nghe Hải ngọng diễn bài kịch dài lê thê, dặn dò chuyện hậu sự mãi không hết, cô ngán ngẩm định một mình đi lên cậy nắp hộp.

Tư Mã Khôi khuyên ngăn: “Mọi người đừng tranh nhau nữa, chúng ta cứ hành động theo kế hoạch cũ. Tôi đây sống hơn hai mươi năm, có chuyện liều mạng nào chưa từng làm, mà có ngắn mất sợi lông nào đâu, chắc do mệnh tôi cứng. Hôm nay, tôi cũng không tin bọn ác ma ăn nổi thịt tôi, nếu lỡ gặp phải nguy hiểm thì tôi vẫn có thể nhanh chân chạy thoát thân”. Rồi không để cho mọi người có cơ hội nói chen vào, anh xua tay bảo mọi người tránh sang một bên, sau đó cắm đuốc vào trong miệng con hổ đồng, lần sờ tìm kẽ hở trên thân hộp.

Mọi người đành rút lui về phía sau, thấy hai cánh tay quái dị ở hai phía của cái đầu thú nâng hai cây đèn khổng lồ, mỗi cây lại nối liền với cây cầu đá, mọi người lần lượt lấy đuốc châm lửa, nên phút chốc cả khu vực xung quanh sáng rực như ban ngày; sau đó cả hội nằm mai phục bên cạnh đèn đồng ôm súng chờ yểm trợ cho Tư Mã Khôi.

Lúc này, Tư Mã Khôi đã sờ thấy kết cấu của hộp đồng, bề mặt bị ôxy hóa nghiêm trọng, độ rắn chắc của đồng đã bị tiêu giảm, chỉ cần lấy dao săn nậy một lúc là mở được nắp hộp. Anh thầm nghĩ: “Di hài trong chiếc hộp của Sở U Vương lai lịch rất bất mịnh, nghe nói khu vực giữa tầng nham thạch trong mạch đất thường tồn tại nguyên tố mang tính phóng xạ tự nhiên, không những vậy, dưới vực sâu còn có rất nhiều loại nấm siêu nhỏ mà con người chưa từng biết. Chỉ riêng gặp những thứ này cũng thừa sức mất mạng rồi”. Thế là, anh đeo súng sau lưng, sờ ba lô lấy mặt nạ phòng độc hình mang cá đeo lên mặt, rồi xỏ găng tay, xong đâu đấy mới bắt đầu dùng dao nậy nắp hộp đồng.

Ai ngờ bên trong hộp đồng là một chiếc hộp ngọc, bên trên trang trí họa tiết màu vàng kim, nhưng nó đã bị niêm phong hơn hai ngàn năm, nên khi vừa mới tiếp xúc với không khí bên ngoài, đã nhanh chóng mờ nhạt. Tư Mã Khôi chưa kịp nhìn rõ các Hình vẽ bên trên, đã thấy chúng tan biến ngay trước mắt. Anh thầm mắng chết tiệt, rồi lấy mũi dao cạo phần sáp nến giữa kẽ hộp, nhẹ nhàng khía sâu dao vào khe hẹp. Đầu Tư Mã Khôi căng như dây đàn, anh chăm chú nhìn vào bên trong, thấy bên trong chiếc hộp quả nhiên có một cỗ di hài đang nằm, nhưng cùng lúc nắp hộp được mở ra, thì cỗ di hài đột ngột mở trừng hai mắt.

Hồi thứ sáu

DI HÀI

Tư Mã Khôi mở nắp hộp dưới ánh sáng ngọn đèn đồng chiếu u, vừa ngó mắt nhìn vào trong một cái, anh liền biết cỗ di hài bên trong tuyệt đối không phải xương người, vì thoáng nhìn khung xương đã thấy không giống; nhưng anh chưa kịp nhìn kĩ thì đã thấy trong hốc mắt lõm sâu thành hai cái hố đen ngòm ngòm trên chiếc đầu lâu đột nhiên phóng ra hai luồng ánh sáng lạnh. Tư Mã Khôi giật mình, vội vàng dùng hết sức đóng sập nắp hộp lại. Hộp đồng có chứa cái tráp ngọc bên trong, tuy không phải quan tài nhưng đồng đã bị han gỉ ăn mòn nghiêm trọng, dù không hề có vết tích từng bị nạy mở trước đây. Di hài nằm trong hộp chí ít cũng bị phong bế hai ngàn năm, vậy sao vẫn còn tồn tại dấu tích của sinh mệnh sống được nhỉ?

Trong bích họa mà mọi người phát hiện lúc trước, tuy cũng chạm khắc hình dáng cỗ di hài trong chiếc hộp của Sở U Vương, nhưng tranh vẽ thời Xuân Thu Chiến Quốc thường mang đậm màu sắc thần dị, rất ít tranh vận dụng kỹ thuật tả thực, khiến người xem không thể cảm nhận được cái ảo diệu ẩn chứa bên trong.

Ngoài ra, những hình vẽ chạm khắc trên bề mặt hộp đồng cũng ghi chép lai lịch của di hài trong chiếc hộp. Theo dòng lịch sử của những năm tháng cổ xưa đã sớm phôi pha, người cổ đại yểm một lời nguyền tất phải chết trên chiếc hộp, giống như lời tiên tri vậy, lời nguyền ấy khiến lai lịch cỗ di hài càng trở nên li kì và mơ hồ hơn. Những người còn lại thấy Tư Mã Khôi giật thót mình như thể chạm phải bọ cạp, nắp hộp vừa mới mở ra đã vội đóng sập xuống, nên không ai biết trong khoảnh khắc đó, anh đã nhìn thấy gì. Cả hội thấp thỏm bất an, không kiềm chế được liền xúm lại xem rốt cuộc thế nào.

Tư Mã Khôi đưa tay ra hiệu cho mọi người không được manh động, sau đó ghé sát người vào chiếc hộp nghe ngóng một hồi, nhưng anh không phát hiện ra bất kì âm thanh gì. Tuy Tư Mã Khôi là người gan to hơn trời, nhưng hành sự lại không hề vội vàng, bất cẩn, nay thấy sự việc trước mắt chưa rõ thế nào, anh đâu dám coi thường. Tư Mã Khôi hít sâu một hơi, nhẹ tay cậy nắp hộp lần nữa. Lần này đã chuẩn bị tâm lý trước, nên anh chăm chú quan sát vật đựng trong hộp dưới sáng của ngọn đèn đồng; có điều tuy mắt anh nhìn thấy nó rõ ràng, mà đầu vẫn mờ mịt như chìm giữa biển sương, bởi vì thứ trong hộp quả thực vượt xa sức tưởng tượng của con người.

Cỗ thi hài trong hộp dài chừng hơn hai mét, dung mạo vừa giống người lại vừa không giống, tứ chi đều đầy đủ nhưng lại không phải xương người, cũng không phải xương của bất kì loài động vật nào, mà từ xương sọ đến xương bàn chân đều làm bằng vàng ròng, nội tạng làm bằng các loại đá quý như mã não, hổ phách, pha lê, phần trước xương sọ có hai hốc mắt lõm xuống, mỗi hõm đặt hai viên ngọc màu đen tuyền, loại ngọc này do tinh thể than đá hóa thành, gần giống với loại ngọc huyền lê thời cổ đại, dưới ánh sáng đèn chiếu u, trông nó ánh lên thứ ánh sáng sắc lạnh, tỏa ra bốn phía xung quanh. Điều đáng ngạc nhiên là, cả cỗ thi hài hoàn toàn do thiên nhiên tạo ra, không hề thấy bất cứ dấu tích đục đẽo, chạm khắc nào. Cung A Phòng và cung Vị Ương thời Tần Hán nổi tiếng thâu tóm hết mọi báu vật của thiên hạ, nhưng e rằng, gom tất cả số báu vật đó lại cũng không địch nổi cỗ thi hài vô giá đang nằm ở trước mặt mọi người. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi đã hiểu ra, có lẽ, người cổ đại đã tìm thấy số vàng và pha lê này trong mạch núi dưới lòng đất. Khi đó, loài người còn chưa hiểu thế giới tự nhiên cũng là vị thần điêu khắc kì tài, cỗ di hài lưu truyền đến thời Xuân Thu Chiến Quốc thì được Sở U Vương xem là di hài báu, nên lão ta bí mật cất giấu trong cung để chuyên phục vụ cho chuyện vu thuật gieo quẻ dự đoán họa phúc, hung cát. Nhưng chẳng bao lâu sau, Sở quốc suy vong, Sở U Vương cho rằng mình đã đắc tội với hung thần ác quỷ, nên muốn lấy vật này để trấn núi Âm Sơn. Điều đó đủ để chứng minh, dưới biển Âm Dụ còn có huyệt động sâu hơn. Nơi đó chính núi Bối Âm nhốt giữ vô số ác ma trong truyền thuyết, cỗ thi hài làm bằng vàng ròng và pha lê, có lẽ được mang về từ nơi ấy, nhưng căn cứ theo ghi chép trên hộp đồng, thì trong núi Âm Sơn không hề tồn tại mỏ vàng, cỗ di hài này được người cổ đại phát hiện trong nhật quỹ có hình khum tròn, phình bụng. Vậy nhật quỹ rốt cuộc là vật gì? Lai lịch của nó như thế nào? Vì sao mạch núi trong vực sâu lại lúc ẩn lúc hiện như vậy?

Vô số nghi vấn ùa đến như thác lũ, tuy điều đáng mừng là đến bây giờ, các manh mối vẫn chưa bị đứt quãng, nhưng đầu óc chỉ cần lơ đễnh một chút là cả hội đã quên khuấy mất lời nguyền kẻ nào chạm vào di hài kẻ ấy sẽ chết, bởi từ lúc mọi người chạm vào nó đến nay vẫn chưa thấy xảy ra điều gì bất thường. Tư Mã Khôi phỏng đoán, lời nguyền kia có lẽ chỉ là lời hù dọa nhằm đối phó với bọn trộm mộ mà thôi, nên trái tim đang treo giữa lưng chừng trời của mọi người đến lúc này tạm thời đã chạm đất. Tư Mã Khôi liền mở hết nắp hộp ra, đúng lúc anh định gọi hội Hải ngọng đến xem thì bỗng nhiên thấy một luồng âm phong quét ngang sau lưng, rồi một bàn tay lạnh như băng đặt trên vai anh, khiến trong phút chốc cả cơ thể anh bị khí lạnh bao phủ, gai ốc nổi khắp mình mẩy, toàn thân run lên lẩy bẩy.

Tư Mã Khôi thấy tình hình không ổn, tựa hồ có âm hồn xuất hiện ngay sau lưng, lòng thầm hiểu chỉ cần quay đầu lại là mất mạng ngay, nên lập tức, anh vội vàng nắm hai tay vào vách hộp, hít sâu rồi tung người nhảy qua cỗ di hài bàng vàng và pha lê; khi chân vừa chạm đất, anh lại thuận thế lăn một vòng về phía trước. Chỉ trong khoảnh khắc nhanh như điện xẹt, Tư Mã Khôi đã nhảy ra khỏi chỗ cũ chừng hơn chục mét, rồi lập tức giương súng ngắm thẳng vào người đứng đằng sau, chỉ thấy nơi họng súng chĩa tới có một người đang đứng im lìm, đầu của kẻ đó đội mũ Pith Helmet gắn đèn quặng, mặt đeo mặt nạ phòng độc kiểu mang cá, trông giống hệt với cách ăn vận của Tư Mã Khôi.

Tư Mã Khôi thấy kẻ đó giống hệt với chiếc bóng của chính mình, từ đầu đến chân đều không có điểm nào khác biệt. Hắn chắc chắn không phải tên gián điệp khác của tổ chức Nấm mồ xanh, vì mọi trang bị trên người Tư Mã Khôi toàn là đồ hiếm có khó tìm, nhặt nhạnh cóp nhặt mỗi chỗ một tí. Nếu không vào kính viễn vọng Lopnor và rừng nguyên sinh biển Âm Dụ dưới núi Thần Nông Giá, thì làm sao có thể tập hợp được tất cả những đồ dùng như: mặt nạ phòng độc kiểu mang cá mập của Liên Xô sản xuất, mũ bấc Pith Helmet, và cả khẩu súng liên thanh M-1887 của đội thám hiểm Taninth để lại được? Cả thảy chỉ có ba người tham gia cả hai lần hành động của đội, ngay cả loại đèn quặng cácbua chuyên dùng để săn đêm hoặc tác nghiệp dưới lòng đất, tuy là loại thường thấy, nhưng vì muốn phòng tránh va đập trong khi hành động, nên cả ba đã bọc tấm lưới mỏng trước đầu đèn, đặc điểm này không thể bắt chước được. Bởi vậy, cho dù kẻ đó đeo mặt nạ phòng độc trên mặt, nhưng Tư Mã Khôi chỉ cần thoáng nhìn một cái đã có thể nhận ra đặc trưng vóc dáng của hai người bạn đồng hành, có điều kẻ xuất hiện trước mắt anh lúc này chắc chắn không thể là Thắng Hương Lân hoặc Hải ngọng được, vậy thì ngoài mình ra còn có thể là ai chứ?

Tư Mã Khôi đương nhiên biết rõ mình không thể nhìn thấy chính mình, trừ khi chịu ảnh hưởng của tác động quang học theo kiểu bóng trăng dưới nước, bóng hoa trong gương; nhưng ảnh phản chiếu đó lại không có sự tương phản trái phải với vật thật, cảm giác lạnh như băng chạy sát sau lưng khi nãy cũng bỗng nhiên ùa đến, như thể ba hồn bảy vía bị kéo ra khỏi thể xác vậy. Tư Mã Khôi bình sinh nhiều lần gặp phải sự cố kì lạ, nhưng chưa bao giờ thấy mình gặp phải tình huống nào tà mị đến thế, nên bất giác nhớ đến lời nguyền “ác ma sẽ xuất hiện ngay sau khi mở chiếc hộp đồng”.

Ác ma chính là ma thiêng, nghe nói người chết đi sẽ hóa thành ma, nếu người nào chết phải năm âm, tháng âm, giờ âm thì sẽ hóa thành ma thiêng, ma thiêng tu luyện lâu sẽ thành hình, rồi oan hóa thành người. Tư Mã Khôi vốn không tin mấy thuyết pháp tà ma kiểu này lắm, vì anh là chân truyền Kim Điển, nên hiểu rõ bí quyết Kim Bất Hoán là gốc rễ của cổ thuật tướng vật, mà chân lý của bí quyết này là: không có vật gì trên thế giới không thể nhận diện phân biệt, nhưng trong đó cũng có một câu nói rất hay thế này: “Thần quỷ vô hình, chỉ có con người là hiện hữu, một con chó sủa bóng mình, trăm con chó khác cũng đua nhau sủa theo, ngàn lời đồn đủ sức tan chảy sắt đá, giết chết mạng người, ngay cả trí sĩ thánh hiền cũng phải hoài nghỉ”. Ý câu này muốn ám chỉ: mọi sự việc ở cõi u minh chỉ là hư vô, không ai xác định được trên đời có ma quỷ thật không, phần lớn chuyện thần thoại hay ma quỷ đều do con người nhào nặn nên, có điều cũng không thể khẳng định rằng chúng không tồn tại trên đời, bởi vì âm hồn không phải thực thể, không thể lấy cái thực để luận cái hư, bởi vậy rất khó dùng thuật tướng vật để nhận diện chúng. Chuyện anh vừa gặp khi nãy thật quá sức quái dị. Tư Mã Khôi cũng không biết cái bóng đối diện với anh thực ra là do ma quỷ hóa thành, hay hồn vía mình đã lìa khỏi thể xác. Trong thoáng chốc, anh vừa kinh hãi vừa hồ nghi như thể đúng là bị rơi mất hồn thật.

Trong nháy mắt, hai ngọn đèn chiếu u bên cạnh cũng tối sầm theo, cái bóng đeo mặt nạ phòng độc kiểu mang cá giống như một đám sương mù tan dần ra, uốn éo vươn dài rồi dần dần biến mất vào nơi sâu trong bóng tối mênh mông.

Cùng lúc này, những thành viên còn lại cũng phát hiện thấy tình hình bất ổn, liền lập tức lao lên tiếp ứng, nhưng bị Tư Mã Khôi che khuất tầm nhìn, nên không ai trông thấy cảnh tượng quái dị vừa xảy ra cạnh chiếc hộp đồng.

Tư Mã Khôi thực sự không biết nên lý giải thế nào, nhưng anh cũng hiểu rõ, nếu khi nãy mình không nhanh chân chạy trốn thì giờ đã nằm lăn quay ra đất rồi. Anh chỉ cảm thấy khi luồng âm phong quét qua, ánh nến xoay vòng rồi tắt lịm, luồng gió thổi khiến da thịt khắp người gai lạnh. Thấy bóng tối sắp nuốt chửng chiếc hộp của Sở U Vương, anh hấp tấp gỡ mặt nạ phòng độc ra, đang định bảo hội Thắng Hương Lân mau chóng rút lui, nào ngờ đám dây leo trên cao bỗng lắc lư từng hồi, rồi một người tụt tò dây leo xuống, động tác nhanh nhẹn như bay, lao vụt đến canh chiếc hộp đồng. Kẻ mới đến lưng hổ, eo sói, mặt vượn, toàn thân tỏa ra mùi tử khí nồng nặc, đó chính là gã hái thuốc ở lâm trường.

Thì ra, đúng như Tư Mã Khôi tiên liệu, gã giặc đất Lão Xà quái dị khác người, quanh năm tiêu lộc hái thuốc trong rừng rậm, không biết gã nuốt bao nhiêu hà thủ ô thành hình và linh chi ngàn năm, lại còn luyện được cả món công phu cương thi và bí thuật nhịn thở của tên sư phụ chuyên đào mồ quật mả. Năm đó, nhất cử nhất động của gã ở lâm trường hàng ngày đều bị mọi người giám sát, nên gã đành giả chết. Sau khi bị chôn xuống đất, gã mới lấy tay đào đất chạy thoát, rồi lặn một hơi trong rừng sâu núi thẳm, khát thì uống nước suối, đói thì ăn quả rừng, khó khăn lắm mới lặn lội đến được trạm thông tin ở Đại Thần Nông Giá để đào đường hầm. Gã hy vọng sẽ tìm thấy tấm bản đồ và đồ nghề đội thám hiểm Taninth để lại năm xưa, rồi ra tay tìm kiếm cổ vật của Sở quốc nằm dưới biển Âm Dụ. Nào ngờ, giữa đường vỏ quýt dày lại gặp móng tay nhọn, gã bị hội Tư Mã Khôi nẫng tay trên, phá hỏng đại sự mà gã đã âm thầm dày công lên kế hoạch từ bao năm nay.

Lão Xà tự biết nắm đấm khó địch nổi súng đạn, nên sau khi bị rơi xuống khe núi, gã tìm chỗ trốn tạm, định mấy hôm sau sẽ nghĩ cách chôn sống hội Tư Mã Khôi trong núi, còn mình năm ba ngày không ăn không uống cũng chẳng hề gì, nếu đói quá thì vẫn có thể cắt thịt tên dân binh Hổ Tử ra xơi dần, kiểu gì mà chẳng đợi được đến lúc bọn khảo cổ chết mòn. Nào ngờ, hội Tư Mã Khôi lại quyết định thâm nhập lòng đất phía dưới biển Âm Dụ theo chỉ dẫn của tấm bản đồ, rồi lại tìm thấy hố tế lễ trấn ma của người Sở cổ đại. Gã quan sát và nhận thấy rằng, hội người này dường đã chuẩn bị chu toàn mọi thứ trước khi đến đây, có vẻ bọn họ muốn tìm vật gì đó. Lão Xà cho rằng, hội Tư Mã Khôi cùng một giuộc giống mình, đều là dân quật mả đổ đấu, nên lặng lẽ bám theo. Gã ngậm đắng nuốt cay đã lâu, dọc đường chỉ muốn hạ thủ ám sát, ngặt nỗi không có cơ hội ra tay, vả lại gã chỉ sợ mùi tử khí trên thân thể mình làm bại lộ tung tích, nên không dám đến gần. Mãi khi Tư Mã Khôi mở nắp chiếc hộp của Sở U Vương, gã đã đứng nấp giữa rặng dây leo thấy di hài bằng vàng ròng và pha lê cực kì quý hiếm bày ngay trước mặt, liền nổi lòng tham. Sau đó, gã lại phát hiện luồng âm phong sương thảm mây sầu thổi thốc ra từ phía dưới con quái vật “tải”, ngoài ra còn có bóng ma hiện hình trong làn sương đen, rồi cùng lúc đó gã lại trông chiếc hộp đồng sắp bị chìm vào bóng tối, nói không chừng sẽ bị âm hôn ác ma đem đi mất, nên lòng tham trỗi dậy, Lão Xà định liều mạng cướp lại cỗ di hài. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tuy hội Tư Mã Khôi đã dự tính trước Lão Xà là tay có thủ đoạn rất quái dị, nhưng sự quái dị của gã đã vượt xa tưởng tượng của người thường. Nếu gã chưa thảm bại thịt nát xương tan, thì tuyệt đối không chịu bỏ cuộc, bởi vậy cả hội luôn trong trạng thái đề cao cảnh giác, nhưng lúc này tất cả mọi người đang tập trung chú ý đến chiếc hộp đồng, không ngờ Lão Xà lại từ đâu đột ngột xuất hiện. Tư Mã Khôi cũng biết Lão Xà không đơn giản, chuyến vào núi này nếu không có bản đồ của đội thám hiểm Taninth, không biết cả hội còn gặp bao nhiêu trắc trở và hiểm nguy, mà đối phương lại chọn đúng thời điểm này xuất hiện ở trạm thông tin, chẳng lẽ tất cả chuỗi sự kiện đó chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên? Tư Mã Khôị lờ mờ cảm nhận bên trong chắc hẳn phải có uẩn khúc. Anh bất giác nhớ đến câu danh ngôn mà mình từng nghe trong hẻm núi Dã Nhân ở Miến Điện: “Càng nghiên cứu sâu về lô gích, càng nên trân trọng sự ngẫu nhiên”. Tuy khẩu súng thợ săn mà Hổ Tử dùng có vẻ nguyên thủy lạc hậu, tầm bắn và lực sát thương đều kém xa khẩu M-1887 trong tay anh, nhưng ở tầm bắn gần thì vẫn đủ sức quật đổ con báo. Tên giặc đất này tuy đã luyện qua công phu cương thi, nhưng rốt cuộc vẫn chỉ là da thịt con người, sao gã đã bị súng săn bắn trúng mà vẫn hành động thoăn thoắt như thường? Ngoài ra, chẳng lẽ ý đồ của gã lại đơn giản như gã nói – chẳng qua chỉ là lâm vào cảnh đường cùng nên muốn đánh một quả rồi vượt biên trốn ra nước ngoài? Trên người gã dường như ẩn giấu rất nhiều bí mật. Liệu gã có liên quan đến tổ chức Nấm Mồ Xanh không?

Đương nhiên, ngay từ đầu Tư Mã Khôi đã nảy sinh những suy nghĩ đó trong đầu, nhưng do không tìm được manh mối gì nên anh chưa nói cho ai biết. Giờ đây, anh thấy đối phương xuất hiện ngay trước mặt, nên không cần ngẫm nghĩ gì nữa, lập tức giương súng bắn. Tuy Tư Mã Khôi rất nhanh tay nhanh mắt, nhưng thân thủ của Lão Xà cũng cực kì mau lẹ, gã chui vào góc chết mà mũi súng không chĩa tới được và nằm ngay cạnh chiếc hộp đồng, thò tay nắm lấy cỗ thi hài. Lại thêm hai ngọn nến thắp trên đèn chiếu u bị luồng âm phong thổi tắt ngóm, nên trong chớp mắt, bóng dáng tên giặc đất bị màn sương đen nuốt chửng hoàn toàn.

Hồi thứ bảy

HỒ NGHI

Tư Mã Khôi thấy sương đen tỏa ra từ phía dưới tượng thần thú “tải” đã che lấp hết chiếc hộp đồng, cả Lão Xà và cỗ thi hài bảo vật đều bị sương khí nuốt chửng, một nửa số nến trên đèn chiếu u cắm giữa vách tường và hộp đồng đã bị gió thổi tắt. Anh không biết thứ xuất hiện trong luồng âm phong rốt cuộc là vật gì, liền hét lớn, ra lệnh cho mọi người đang chạy đến gần lập tức lui về sau.

Cao Tư Dương thấy Lão Xà xuất hiện, cô vốn chỉ một lòng muốn báo thù, nên giờ không muốn lùi lại chút nào. Thấy đèn nến trước mắt đen thui, bóng tối bủa vây tứ phía, lại nghe văng vẳng đâu đây như tiếng cổ họng ai đó kêu khục khục, nên cô liền kề khẩu M-1887 lên vai, ngắm thẳng về hướng phát ra âm thanh và bóp cò. Nhưng đúng lúc tiếng súng vang lên, thì một trận âm phong bỗng nhiên ào tới, toàn thân Cao Tư Dương ớn lạnh, cảm giác như thể có ác ma đứng ngay trước mặt há mồm phả luồng khí lạnh vào người mình. Cao Tư Dương phát hiện tình hình không ổn, bèn cuống quýt quay người rút lui. Nào ngờ, Nhị Học Sinh cũng nóng lòng muốn chạy lên giúp sức, hai người đứng gần nhau quá nên khi Cao Tư Dương lùi lại, cả hai đâm sầm vào nhau, ngã sóng xoài xuống đất.

Lúc này, khu vực xung quanh chiếc đầu linh thú “tải” càng lúc càng tối. Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân không nhìn thấy các thành viên khác ở đâu, chỉ có Hải ngọng phát hiện thấy có người ngã ngay bên cạnh mình, anh nhất thời nổi máu anh hùng, vội vàng khoác súng săn ra sau lưng, đưa tay ra tóm mỗi bên một người. Trên mình hai người bạn đồng hành đều có ba lô và súng ống, nặng trĩu cả tay.

Hải ngọng phát hiện ngọn đèn cácbua gắn trên mũ nhấp nha nhấp nháy như bị chập điện rồi vụt tắt. Mọi thứ trước mắt trở nên tối thui, không một tia sáng, dù chỉ le lói. Hải ngọng chửi thầm: “Chết tiệt!”. Dựa vào kinh nghiệm từng băng rừng vượt núi khắp vùng Miến Điện, thì giờ anh chỉ cần chạy thẳng một mạch về phía trước là có thể thoát thân; nhưng trong khoảnh khắc sinh tử ấy, trong đầu anh lại bồng bềnh hiện lên khuôn mặt của những đồng đội đã chết thảm trong núi Dã Nhân và dưới kính viễn vọng Lopnor, bởi vậy anh không muốn vứt hai người bạn này lại để chạy trốn một mình. Anh gồng mình lên, hét to một tiếng, gắng gượng vung hai tay lần lượt ném mạnh hai người về phía trước, sau đó định co cẳng chạy trốn ra ngoài. Bỗng nhiên, trên lưng Hải ngọng cỏ luồng khí lạnh buốt, anh khiếp sợ đến mức hồn lìa khỏi xác, rồi vô thức quay đầu nhìn lại phía sau, nhưng phía sau chỉ là khoảng không mênh mang và bóng đêm đen ngòm, ngoài ra không còn thứ gì khác….

Lúc này, Tư Mã Khôi phát hiện có người bị rớt lại phía sau, đang định nghĩ cách ứng cứu thì nhìn thấy Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh rơi phịch xuống ngay gần chân mình, đầu gối và khuỷu tay của họ sây sát, lem nhem, chứng tỏ cú ngã có vẻ khá nặng.

Tư Mã Khôi nghe động tĩnh thì biết Hải ngọng chưa kịp thoát thân, còn già nửa cây cầu đá trên đầu con linh thú “tải” đã chìm vào bóng đêm. Lòng nóng như lửa đốt, anh lập tức nhào qua đó định tìm Hải ngọng. Nào ngờ, giữa lúc nước sôi lửa bỏng đột nhiên lại có một người lao ra, đó chính là Lão Xà, tay vẫn ôm cỗ di hài. Tư Mã Khôi thấy lúc trước Lão Xà rõ ràng đứng phía sau Hải ngọng, sao giờ tên giặc đất này lại thoát ra khỏi chiếc hộp bóng đêm đó trước được, mà không bị âm hồn ác ma cuốn đi. Vậy gã ta rốt cuộc là người hay ma?

Hai bên ngẩn người nhìn nhau, dường như trong đầu cùng lóe lên suy nghĩ: đúng là oan gia ngõ hẹp, tao không chết thì mày phải chết, tuyệt đối không thể nương tay, cả hai đỏ mắt gườm gườm nhìn nhau. Tư Mã Khôi định giương súng nghênh chiến, nào ngờ tuy thân thủ anh đã rất mau lẹ, nhưng động tác của đối phương còn nhanh hơn nhiều, anh thấy cánh tay phải bỗng nhiên tê rần, rồi đau thấu tận tim phổi, thì ra đối phương đã bóp mạnh vào huyệt thốn quan xích ở khuỷu tay anh.

Sức mạnh của Lão Xà thật khiếp người. Thợ săn ở vùng núi Thần Nông Giá từ xưa đến nay đều là những tay võ nghệ cao cường. Lão Xà cũng luyện thành thục “ngũ cầm chiêu” mô phỏng động tác tấn công của năm loài: hổ, rắn, gấu, vượn và chim. Cánh tay rắn chắc như hổ báo của gã lúc này đang xiết chặt mạch môn của đối phương, tay kia vẫn ôm chặt cỗ di hài. Gã chỉ mong thêm chút công lực nữa để bóp nát cổ tay Tư Mã Khôi, sau đó giẫm chân đạp vỡ lồng ngực anh. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi là người dạn dày kinh nghiệm chiến đấu, nên lúc lâm nguy anh vẫn không hề hoảng loạn .Thấy mạch môn của mình đã bị đối phương bóp chặt, anh thuận thế lộn người lại để giảm bớt lực xiết, đồng thời kéo khuỷu tay đối phương lại, giơ chân tung liên hoàn cước. Lão Xà không ngờ Tư Mã Khôi lại ứng biến thần tốc như vậy, gã bị đá liên tiếp hai cú vào lồng ngực, nên buộc phải buông tay và lùi về sau tránh né. Tư Mã Khôi đau đến mức phải hít một hơi lạnh vào, vì ngoài cổ tay ra, hai xương ngón chân của anh cũng suýt chút gãy lìa, và lúc này anh mới biết tên giặc đất Lão Xà còn mặc giáp da và đeo gương đồng bảo vệ tim. Không biết mấy món đồ cổ đó gã moi ra từ ngôi mộ nào, chẳng trách sau khi bị súng bắn, gã vẫn điềm nhiên như không có chuyện gì xảy ra.

Hai người đều không thể đẩy đối phương vào được chỗ chết, nhưng xương cốt Tư Mã Khôi đều bị Lão Xà bóp sắp gãy vụn, nên rõ ràng anh đang ở thế hạ phong; nhưng cuối cùng anh cũng xác định được, Lão Xà tuy đã luyện công phu cương thi, biết bí thuật ngưng thở, nhưng rốt cuộc gã vẫn chỉ là người bình thường. Thế nhưng nếu lời nguyền là sự thật, nghĩa là chỉ cần lại gần cỗ di hài trong chiếc hộp sẽ bị âm hồn đòi mạng, thì sao gã giặc đất này lại bình an vô sự? Trong khi đó, chính bản thân anh cũng suýt bị thứ gì đó kéo mất hồn vía ra khỏi thể xác?

Từ lúc Tư Mã Khôi mở chiếc hộp đồng, nhìn thấy cỗ di hài thần bí bên trong, rồi phát hiện phía sau lưng mình có ma, anh vội vã tháo chạy khỏi chiếc hộp; sau đó luồng âm phong thổi tắt đèn chiếu u, khoảng không gian xung quanh chiếc hộp đồng càng trở nên ma quái, mãi đến khi đụng độ Lão Xà, cả hai lao vào trận quyết chiến sống mái, thì những biến cố này liên tiếp xảy ra chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi chừng mười phút. Tư Mã Khôi không hề có thời gian ngẫm nghĩ, thấy mình và tên giặc đất đã nới rộng khoảng cách, súng vẫn trong tay, anh định bắn chết gã để thanh toán nhanh gọn mối hiểm họa lớn trong lòng, nhưng cánh tay phải của anh đang đau như muốn gãy lìa, không nhấc lên nổi nên anh không thể bóp được cò súng.

Lão Xà thấy họng súng đen ngòm chĩa thẳng vào mình, lòng cũng thấy hơi chờn, gã lập tức kẹp cỗ di hài, rút lui vào cạnh cầu đá, rồi tụt xuống, nấp trong huyệt động phía trên linh thú “tải”.

Tư Mã Khôi thấy đối phương chuồn mất ngay trước mắt, nhưng vẫn không làm gì được. Anh liếc mắt sang, thấy ba người còn lại đang hợp lực kéo sợi dây thừng lôi Hải ngọng đang mềm oặt như dải khoai héo lại gần. Xem tình hình, có vẻ như trong lúc Hải ngọng lâm nguy, hội Thắng Hương Lân đã quăng móc câu vội vàng chạy lại tiếp ứng, không còn tâm trí nào truy bắt Lão Xà. Tư Mã Khôi cũng lập tức đến trợ giúp, rồi mọi người gắng hết sức mới kéo được Hải ngọng đến bên cạnh, nhưng thấy sắc mặt Hải ngọng trắng bệnh như giấy, hai mắt nhắm nghiền, cơ thể cứng đờ, từ đầu đến chân đều bất động, thì không rõ sống chết thế nào.Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Đúng lúc này, hai ngọn nến cuối cùng trên đèn chiêu u cũng bị âm phong thổi tắt, tứ bề tối đen như mực. Mọi người hoảng hốt, đành khiêng Hải ngọng lui vào huyệt động giữa vách hộp, rồi tiện tay đẩy ngã một tượng đá chặn một cửa động lại, có điều huyệt động trên con quái vật “tải” thông với khắp mọi hướng, bịt một cửa cũng chẳng ăn thua gì, nếu quả thực có âm hồn đuổi sau lưng, thì cho dù tường đá có kiên cố hơn nữa, e cũng không có tác dụng. Việc đã đến nước này, cũng đành bó tay tuân theo mệnh trời.

Mọi người thấy Hải ngọng vẫn không có động tĩnh gì, thì một dự cảm không lành trào lên, lạnh buốt cả tim. Cả hội đoán chừng hơi thở của Hải ngọng đã ngừng từ lâu, vì giống như anh đã chết được mấy tiếng rồi, giờ chỉ còn lại cái xác không còn sự sống. Chẳng ai ngờ cái chết lại đến với Hải ngọng đột ngột như vậy, cả hội đứng chôn chân lặng người không nói gì, bầu không khí tang tóc im lìm, có lẽ khi ta càng hiểu rõ sự đáng sợ của cái chết thì càng không biết khi nào nó thình lình ập đến.

Có điều, Tư Mã Khôi lại có linh cảm rất lạ, không biết vì nguyên nhân gì mà anh vẫn cảm thấy thi thể trước mắt không phải là Hải ngọng, hoặc có thể nói, nó không phải là một tử thi thực sự của người chết, mà chỉ là thứ gì đó xuất hiện sau khi mở chiếc hộp của Sở U Vương mà thôi.

Tư Mã Khôi lắng tai nghe ngóng, thấy bốn bề xung quanh yên ắng không một tiếng động, anh mới kể cho mọi người nghe tình cảnh mình gặp phải sau khi mở nắp hộp đồng: đầu tiên, anh bỗng nhiên phát hiện có một bàn tay đặt trên vai mình, rồi anh mau lẹ nhảy phắt qua chiếc hộp trốn thoát, lúc quay đầu lại thì chỉ nhìn thấy luồng âm phong lạnh lẽo, ngoài ra còn có một cột khí đen, hai ngọn nến trên đèn chiếu u đột ngột tắt ngóm, đồng thời anh còn thấy phía sau chiếc hộp thấp thoáng bóng người đối phương cũng đeo mặt nạ chống động kiểu mang cá, nên không rõ mặt mũi cụ thể trông thế nào, có điều vóc dáng và trang phục thì giống hệt anh. Tư Mã Khôi tin chắc chắn “một người tuyệt đối không thể gặp một bản sao của chính mình trong thế giới thực”, nhưng hiện tượng quái dị này quả thực đã xảy ra, chính vì vậy, thi thể trước mắt mọi người chưa chắc đã phải Hải ngọng thật.

Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh đều lắc đầu không tin, họ khuyên Tư Mã Khôi nên chấp nhận sự thật, người chết giống như ngọn đèn đã tắt, nghĩ ngợi xa xôi cũng đâu cứu vãn được gì.

Thắng Hương Lân nghe Tư Mã Khôi miêu tả những gì anh vừa gặp lúc trước thì nhận định, bóng người xuất hiện canh hộp đồng chắc không phải thực thể, mà là một hình thức di ảnh nào đó, giống như sương khói, vì vậy nó mới nhanh chóng biến mất. Nếu lúc trước Tư Mã Khôi không nhanh chân chạy trốn, thì bây giờ cũng đã trở thành một thi thể lạnh ngắt rồi.

Tư Mã Khôi đương nhiên cũng hiểu những lý lẽ này, chỉ có điều, trong lòng anh vẫn ôm một tia hi vọng nhỏ nhoi. Anh nhớ lại những người bạn của mình: Karaweik, Ngọc Phi Yến, giáo sư Nông địa cầu, Tuyệt, tiểu đoàn trưởng Mục, đội trưởng Lưu Giang Hà… họ đều dần dần bỏ mạng trong quá trình đi tìm ẩn số về Nấm mồ xanh. Tất cả những ai từng có liên quan, dính líu đến bí mật này, dường như đều phải chịu lời nguyền của số mệnh. Các bạn anh, kẻ chết trước, người chết sau, mọi ngưòi đều chết cả, chẳng qua chỉ là sớm hay muộn mà thôi, mà cái chết lại không hề được báo trước, mọi người vừa không có sự lựa chọn chạy trốn định mệnh, vừa không kịp chuẩn bị tinh thần để đón nhận cái chết. Thế nhưng Hải ngọng lại chết quá đột ngột, trên người cũng không có vết thương nào rõ rệt, trong khoảnh khắc trước khi chết, cậu ấy đã gặp phải chuyện gì? Nghĩ đến đây, những thời khắc oanh liệt quá khứ cứ hiển hiện trước mắt, anh thầm oán: “Hải ngọng ơi là Hải ngọng, mưa bom bão đạn, trời sập đất lún, bao nhiêu kiếp nạn mà cậu còn chả chết, thế mà bây giờ lại chết khuất tất ngay ở Thần Nông Giá. Cậu đúng là đồ thiếu nghĩa khí, bỏ đi vội vàng, chẳng từ biệt thằng bạn thần lấy một tiếng. Mà thôi, nếu cậu hiển linh, thì cứ xuống cửu tuyền đợi tớ trước, mấy hôm nữa tớ sẽ xuống đó bù khú với cậu sau…”

Lúc này, ở nơi sâu gần cái đầu thú chợt phát ra tiếng động nhỏ, rồi Tư Mã Khôi ngửi thấy mùi dung dịch phoóc môn dùng để chống xác chết thối rữa. Anh biết, Lão Xà lúc trước chui vào huyệt động vẫn chưa chạy đi xa được liền xách đèn chui tuột vào trong, quả nhiên thấy gã vẫn ôm cỗ di hài lò dò tiến lại gần. Khi còn cách anh chừng mười bước thì gã dừng lại bất động, nấp sau cái đầu thú, chỉ lộ cặp mắt vằn sọc tia máu chăm chú nhìn mọi người.

Lão Xà “e hèm” cất giọng khàn đục hỏi: “Không biểt tôi nên… xưng hô như thế nào với thủ lĩnh đây nhỉ?”. Gã vốn vẫn cho rằng hội Tư Mã Khôi cùng một giuộc thổ tặc với mình, cũng vào rừng trộm báu vật, nhưng theo quy tắc giang hồ, cho dù hai bên đều là phường giặc đất, cũng không được hỏi quý tính đại danh của đối phương, vì hễ hỏi, đối phương sẽ sinh lòng nghi kỵ: “Mày muốn làm gì tao?” bởi vậy phải hỏi “xưng hô thế nào”, và thông thường người được hỏi chỉ cần nói tên hiệu là xong mục khai báo họ tên.

Mắt Tư Mã Khôi lộ tia sát cơ, tuy anh còn rất nhiều nghi hoặc về lai lịch tên này, nhưng bây giờ chẳng còn tâm trí nào mà truy hỏi, bởi vậy anh không thèm trả lời đối phương. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Lão Xà lại hỏi: “Bọn mày đừng ép người quá đáng, lúc đầu nếu không phải thằng oắt con Hổ Tử nổ súng bắn tao trước, thì tao cũng không giết nó. Bây giờ tao lâm vào đường cùng, chỉ muốn hỏi mày một câu thôi, vì sao mày lại lừa tao đến chỗ này tìm di hài?”

Chẳng phải gã định xuống biển Âm Dụ hy vọng kiếm món hàng khủng rồi chạy trốn ra nước ngoài sao? Lúc trước, Tư Mã Khôi đã lờ mờ nhận ra gã còn có âm mưu gì khác, vì thời gian Lão Xà đào địa động ở trạm thông tin rất kì quái, và sự trùng hợp này khiến người ta cảm thấy bất an. Từ khi gặp nạn đến nay, đội thám hiểm Taninth đã vùi xương trong rừng sâu suốt mấy chục năm, sao gã không đến sớm hơn hay muộn hơn, mà mãi mấy ngày gần đây mới ra tay hành động, để kết quả là gã không những không thành công, mà tất cả bản đồ và vũ khí của đội thám hiểm để lại đều rơi vào tay hội Tư Mã Khôi. Tuy Tư Mã Khôi không nhìn thấu được chân tướng đằng sau những vụ việc này, nhưng anh có thể khẳng định rằng: trước lúc đến đây, gã tuyệt đối không có lý do gì phải tự mình mò đến huyệt động tế lễ để tìm di hài; thậm chí trước đây gã còn không biết dưới biển Âm Dụ có chiếc hộp của Sở U Vương, có điều tên giặc đất này cũng không phải vô duyên vô cớ vọt ra câu nói đó. Câu Lão Xà vừa nói tuy không có gì đao to búa lớn, nhưng ngẫm thật kỹ sẽ cảm nhận thấy bên trong hàm chứa một điều khả nghi vô cùng to lớn mà khó có cách nào giải đáp.

Hồi thứ tám

ÁM HIỆU

“Nếu sự việc có thể trở nên tồi tệ hơn, thì nó chắc chắn sẽ trở nên tồi tệ hơn, chỉ là tạm thời vẫn chưa xảy ra mà thôi!” – Tư Mã Khôi không thể không gật gù với định luật lạnh lùng của Murphy. Anh lo những dự cảm không lành sẽ trở thành sự thực, có điều, cả chuỗi sự kiện như bị mây đen bao phủ, nên nhất thời anh cũng không rõ rốt cuộc mình đang sợ điều gì.

Cao Tư Dương thì thầm bảo Tư Mã Khôi: “Anh đừng bị mắc lừa. Nhất định hắn ta đang cố tình kéo dài thời gian, chứ làm gì có chuyện anh sai khiến được hắn xuống biển Âm Dụ tìm di hài chứ?”

Tư Mã Khôi đưa mắt nhìn Cao Tư Dương, ra hiệu bảo cô đừng lên tiếng vội, hãy nghe xem Lão Xà định nói gì trước đã, vì sự việc này rất quan trọng, bất kể đối phương nói thật hay giả vờ, thì mình cũng phải nghe hết mới được.

 

Tai Lão Xà thính như tai dơi, chỉ cần nghe loáng thoáng cũng đoán được tình hình. Gã đã nghe Cao Tư Dương nói, và cũng hiểu dụng ý mọi người không muốn trả lời, thế là liền kể tất cả đầu đuôi câu chuyện:

Thì ra, gã vốn họ Dư, được dân địa phương đặt cho biệt danh là Lão Xà, vì tất cả thợ săn trong núi chỉ có họ chứ không có tên; vả lại bởi cha mẹ gã sớm qua đời, nên từ nhỏ đã không có tự hiệu gì cả, sau đó, hắn theo chân sư phụ chuyên làm nghề hái thuốc vào rừng tiêu lộc và hái thuốc quý, đồng thời cũng thường làm những phi vụ tổn hại âm đức. Sư phụ quen gọi gã là Xà Sơn Tử. Cuối cùng, lúc sư phụ sắp đoạn khí, Lão Xà biết sư phụ đã gia nhập tổ chức ngầm từ rất lâu, còn được huấn luyện nghiệp vụ điện mật, ông ta là đặc vụ nằm vùng ở vùng núi Thần Nông Giá. Tổ chức này ra đời từ rất sớm, còn thủ lĩnh cầm đầu tên là Nấm Mồ Xanh.

Trước lúc lâm chung, sư phụ của Lão Xà đã kể cho gã nghe tình hình đội thám hiểm Taninth, và còn nói với gã một chuyện vô cùng trọng đại khác: tổ chức phải tìm con đường hầm dẫn xuống vực sâu gần tâm Trái đất, còn nguyên nhân vì sao thì chỉ thủ lĩnh mới biết. Không một ai biết đường hầm đó nằm ở đâu, thậm chí còn không có mục tiêu cụ thể. Trong khi đó, việc thám hiểm dưới lòng đất vô cùng khó khăn, vì vậy, ngoài việc cần tổ chức những đợt hành động tìm kiếm độc lập, hễ khu vực nào được biết có khả năng thâm nhập huyệt động dưới lòng đất, thì khu vực quanh đó nhất định có các thành viên của Nấm Mồ Xanh đang ngầm theo dõi. Huyệt động ở rừng nguyên sinh biển Âm Dụ trong khu vực Đại Thần Nông Giá cũng là một trong số đó. Nghe nói, Sở U Vương từng chôn bảo vật để trấn ma quỷ ở đây, nơi sâu nhất là mạch núi Âm Sơn, nhưng không biết thực hư thế nào. Năm đó, đội thám hiểm Taninth trang bị vũ khí tinh nhuệ, có ý đồ vào núi tìm bảo vật quý giá thất lạc, kết quả họ đã bị sư phụ Lão Xà trà trộn vào hàng ngũ làm người dẫn đường, rồi ra tay giết sạch cả đoàn. Tuy nhiên, sự việc này cũng không giúp sư phụ của gã dành được sự chú ý của thủ lĩnh, vì lúc bấy giờ ai cũng nghĩ huyệt động sâu nhất là kính viễn vọng Lopnor.

Sư phụ Lão Xà giao lại cho gã quyển điện mật, dặn gã thay lão ta tiếp tục đợi mệnh lệnh, nói đến đây thì sư phụ thở hắt ra một hơi rồi hồn dạt về âm.

Bấy giờ, Lão Xà mới biết, thì ra những ký hiệu, ám hiệu mà sư phụ truyền thụ cho mình trước đây, và cả phương pháp liên lạc điện mật nữa, tất cả đều để phục vụ việc liên lạc với tổ chức ngầm ở nước ngoài kia. Tuy nhiên, gã hoàn toàn không chú tâm tới việc này, mà không hiểu vì sao sư phụ lại phải tận trung như thế với thủ lĩnh, vì tay làm sao mà dài bằng chân, bây giờ đã giải phóng bao lâu rồi, thì cho dù vẫn còn vài đặc vụ chưa bị tóm cổ, nhưng thế cũng làm được trò trống gì, mà tổ chức đó còn tồn tại hay không, thì còn khó nói nữa là. Gã nghĩ, chắc sư phụ bị ma nhập cũng nên, cả đời chui rúc trong rừng sâu núi thẳm, chưa bao giờ được hưởng thụ thứ gì, giờ âm quang thoáng chốc, tuế nguyệt trôi chảy, sư phụ việc gì mà phải khổ sở thế?

Lão Xà thầm ngẫm nghĩ: “Bây giờ thế thời thay đổi, những ngày tháng vô thiên vô pháp như trước đây đã hoàn toàn kết thúc, dân tình ngoài núi lại luôn tổ chức rầm rộ hết đợt hoạt động bài trừ phản động này đến đợt hoạt động bài trừ phản động khác; hai thầy trò ta đã làm biết bao vụ giết người cướp của, quật mồ đổ đấu, huống hồ sư phụ lại là đặc vụ của tổ chức ngầm, mà bất kể vụ nào bị người ta phanh phui ra ngoài ánh sáng, thì cũng đủ lĩnh đạn, vậy thì cứ cúp đuôi làm người cho lành”. Thế là, gã đã tìm việc ở lâm trường, đôi lúc vẫn vào rừng hái thuốc, tiêu lộc, cho mãi đến khi dung mạo bị nấm độc hủy hoại, gã buộc phải lột da mặt mình, nên đi đến đâu cũng bị mọi người coi là quái vật. Gã vốn là người tâm địa hẹp hòi, nghe ai bàn luận chuyện của mình là lập tức nghĩ cách lấy mạng đối phương, rồi tiêu hủy tang chứng, nên dân trong núi càng lúc càng có nhiều người bị mất tích đã khiến công an bắt đầu chú ý. Gã cũng biêt cái kim trong bọc lâu ngày thế nào cũng lòi ra, sự việc của gã kiểu gì cũng bị người ta điều tra ra và xử tội nặng. Trong lúc tuyệt vọng, gã đã thử dùng ám hiệu liên lạc mà sư phụ để lại trước lúc chết, vì nếu tìm được cơ hội chạy trốn, biết đâu tổ chức sẽ kịp đến ứng cứu.

Lão Xà đã lên kế hoạch, nhưng mãi vẫn không nhận được hồi âm nào từ phía tổ chức. Gã còn cho rằng, không khéo tổ chức ngầm đã tan rã từ đời nào, giờ không còn tồn tại nữa, ai ngờ lúc thu tín hiệu đài địch, gã đã bị người ta phát hiện, khiến lâm trường sinh nghi. Đến bước đường cùng, gã đành giả chết, để đánh lạc hướng mối hoài nghi của địa phương, thoát khỏi sự theo dõi của mọi người, rồi lẩn vào núi tránh né. Từ đó, gã không dám thò mặt ra nữa, nhưng vẫn không nản lòng, mà thỉnh thoảng lại lẻn vào trạm liên lạc thông tin, dùng máy điện báo phát sóng ngắn bên trong thử liên lạc với tổ chức. Mãi đến mùa thu năm 1974, cuối cùng gã cũng nhận được mệnh lệnh trực tiếp của thủ lĩnh: hãy đi tìm tấm bản đồ mà đội thám hiểm Taninth để lại.

Đừng nói hai thành viên của đội thông tin, mà ngay cả Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân khi nghe Lão Xà nói cũng phải đưa mắt nhìn nhau, nhưng ai nấy im lặng không lên tiếng bởi xem ra việc này quả nhiên có liên quan đến Nấm Mồ Xanh. Những lời tiết lộ vừa rồi còn liên quan đến nhiều tình tiết bí mật, chứ không thể bịa đặt ra được, nhưng nếu gã nói thật, thì cuối cùng sẽ rút ra kết luận gì?

Suy đoán theo quãng thời gian mà Lão Xà vừa nói, thì cũng là từ khi Tư Mã Khôi gặp cơn bão Buddha ở Miến Điện vào mùa hè, rồi gia nhập đội thám hiểm đến hẻm nủi Dã Nhân tìm chiếc máy bay tiêm kích vận tải, sau đó vượt biên trở về tổ quốc, bị áp giải trong xưởng đóng gạch ngói, rồi theo chân giáo sư Nông địa cầu chui xuống biển cát dưới vực sâu cách mặt đất cả mấy chục nghìn mét, bây giờ anh lại đến rừng rậm nguyên sinh Thần Nông Giá. Lúc này đã là giữa thu, thế có nghĩa là: sau khi những kẻ sống sót của đội khảo cổ thoát khỏi kính viễn vọng Lopnor, Lão Xà mới biết đường hầm thông tới vực sâu dưới lòng đất nằm dưới biển Âm Dụ ở Đại Thần Nông Giá, lẽ nào Nấm Mồ Xanh chưa thu được sóng điện u linh ở thành Nhện Vàng? Vậy thì ai đã tiết lộ những tin tình báo tối mật này?

Hội Tư Mã Khôi vì tìm thấy cuốn sổ giải mã long ấn triều Hạ ở tận cùng cực vực, thì mới chỉ biết về bí mật Sơn Hải Đồ trên đỉnh đồng Vũ Vương, và suy đoán dưới biển Âm Dụ tồn tại một vật thể, được gọi là “nhật quỹ”, đó là cánh cửa thông tới vực sâu nơi tâm Trái đất, còn mọi điều khác đều là những ẩn số mơ hồ. Thế nhưng tất cả chỉ có ba người sống sót thoát ra khỏi kính viễn vọng Lopnor mà thôi. Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ: “Trước khi tiến vào Thần Nông Giá, ngoài lão Lưu Hoại Thủy lo kinh phí cho cả hội biết chút ít, thì không còn người thứ năm biết tình hình cụ thể. Mà nếu lão Lưu Hoại Thủy tư thông với địch, thì cả hội đã mất mạng trên tàu hỏa từ lâu rồi, bởi vậy khả năng này có thể loại trừ. Với khả năng đoán vật nhìn người của mình, tuy chưa đến mức phân rõ vàng thau, rồng rắn, nhưng nếu những người xung quanh có dấu hiệu khác thường thì mình chắc chắn không thể không phát hiện thấy. Mà sao gã thổ tặc đó lại bảo mình bắt gã đến đây tìm di hài, vì bản thân mình từng làm gì, chẳng lẽ mình lại không rõ sao? Trước khi mở chiếc hộp của Sở U Vương ra, thậm chí bên trong đựng thứ gì mình còn không xác định được nữa là…”

Ngay từ lần đầu tiên Tư Mã Khôi gặp Nấm mồ xanh đến giờ, đã trải qua biết bao nhiêu biến cố bất ngờ, anh cảm thấy ẩn số quanh mình càng lúc càng nhiều, giống như bị lớp sương mù dày đặc che khuất tầm mắt, khiến anh không thể nhìn thấy tia sáng nào. Lúc này, vừa nghe Lão Xà tiếp tục kể, đầu óc Tư Mã Khôi lại xoay chuyên nhanh chóng, anh cố gắng phân biệt những manh mối mơ hồ ẩn nấp đằng sau những sự việc này.

Lăo Xà nói, sau khi nhận được mệnh lệnh của thủ lĩnh, gã cho rằng, chỉ cần hành sự theo lệnh là sẽ có cơ hội trốn ra nưởc ngoài. Thế là gã lén phỏng hỏa đốt lâm trường, thu hút sự chú ý của lực lượng dân binh, khiến cả vùng núi này bị bỏ trống. Sau đó, gã mò vào trạm thông tin ở tháp canh giết chết nhân viên kiểm lâm, lần tìm phương hướng đào địa huyệt, không ngờ đúng lúc này hội Tư Mã Khôi đột ngột xuất hiện. Ban đầu, Lão Xà cho rằng hội người này có lẽ là nhóm thông tin đến để sửa máy bộ đàm liên lạc, khi thấy hành tung của mình sắp bị phát hiện, gã đành nghĩ cách cản trở, nhưng không thành, rồi sau đó gã lại chậm chân, để nhóm thông tin tìm thấy nơi gặp nạn của đội thám hiểm Taninth trước.

Lúc đầu, Lão Xà còn “ăn cắp run tay”, thấy đội thông tin có năm, sáu người, lại có hai người thân thủ nhanh nhẹn, cho dù gã có ra đòn bất ngờ, thì cũng không thể cùng lúc hạ gục mấy người. Bởi vậy, gã đã không mạo hiểm động thủ, nên kết quả đầu không xuôi nên đuôi không lọt, không những mất đi cơ hội “tiên hạ thủ vi cường” mà còn trừng mắt ngậm đắng nhìn súng ống và bản đồ rơi vào tay người khác. Gã lại càng không ngờ, sau khi có được bản đồ, đội thông tin lại đi một mạch xuống huyệt động dưới biển Âm Dụ. Lúc bấy giờ, gã mới bừng tỉnh, thì ra hội người này cũng là thổ tặc. Quả đúng kẻ cắp gặp bà già, gã đành nhờ vào kinh nghiệm phong phú tích lũy sau nhiều năm hái thuốc tiêu lộc trong rừng sâu, mà bám theo đội thông tin đến đây.

Có nói gì thì Lão Xà cũng là tay thổ tặc lọc lõi, thấy trong hộp đồng của Sở U Vương đựng cỗ di hài với lai lịch thần bí khó lường. Đoán vật này là bảo khí hiếm có khó tìm, trong lòng gã chợt nổi tà niệm tham thú vật chất, đang lúc không kiềm chế nổi, thì bỗng nhiên thấy luồng âm phong từ sau dội đến, rồi một cột sương đen từ đáy động trào ra, nến quanh hộp đồng đột ngột tắt lịm. Khi Tư Mã Khôi vội vàng rút lui, thấy cơ hội đến, Lão Xà lập tức xông lên cướp di hài, có điều lão cũng phát hiện có thứ gì đó đang áp sát ngay sau lưng. Dân trộm mộ đổ đấu vốn không bao giờ tin có ma quỷ, nhưng cảm giác rùng rợn chưa từng có từ trước đến nay đã bao trùm lấy gã, dường như trong màn đêm có vô số bàn tay lực lưỡng tóm lấy. Tuy trước giờ Lão Xà giết người không ghê tay, thủ đoạn lại vô cùng tàn độc, nhưng đến lúc này gã cũng thấy bủn rủn hết cả người. Gã nghĩ, chết vinh không bằng sống nhục, không thể vì cỗ di hài này mà đền cả mạng sống được. Gã ỷ mình giỏi món công phu cương thi ngưng thở, đang định chuồn, thì chợt nghe phía trước có người nói khẽ, nội dung vô cùng ngắn gọn, bảo Lão Xà hãy mang cô di hài vào trong khám động. Ngoài ra, người đó còn nói một ám hiệu.

Năm đó, Lão Xà biết được ám hiệu liên lạc điện mật thông qua lão sư phụ thổ tặc quá cố của mình. Kết cấu của tổ chức dưới sự khống chế của Nấm Mồ Xanh tỏa ra giống như một chiếc ô. Mỗi người đều có mã số, tuy ám hiệu đơn giản, nhưng nội dung chỉ có thủ lĩnh và chính thành viên đó mới biết, và bọn chúng chỉ sử dụng phương thức liên lạc đơn tuyến. Thủ lĩnh ra lệnh trực tiếp cho thuộc hạ, còn các thành viên không thể liên lạc với nhau. Lúc này, người có thể nói ra ám hiệu, thì ngoài thủ lĩnh còn ai khác được nữa? Lão Xà thực không thể ngờ thủ lĩnh lại ở quanh đây, gã ta không dám trái lời, vội vàng ôm cỗ di hài cùng người đó chạy sâu vào trong, kết quả lại đón ngay họng súng của Tư Mã Khôi. Lão Xà thấy đội phương muốn giương súng giết mình, cảm giác phẫn uất, căm hận xáo trộn, sa cơ, bừng bừng sôi trào.

Tư Mã Khôi càng nghe càng thấy kì lạ, những chuyện về sau thì anh đã rõ, hai bên đều chưa thể dồn đối phương vào chỗ chết, cuối cùng lại gặp nhau trong khám động, nhưng người nói ra ám hiệu với gã thổ tặc rốt cuộc là ai vậy?

Hồi thứ chín

TIÊN NỮ TRONG HỘP

Theo miệng Lão Xà, tình hình khi nãy là đèn chiếu u chập chờn sắp tắt, đáy động dội lên một cột khí đen xoay vần cùng luồng âm phong, không gian xung quanh hộp động bỗng dưng trở nên đen kịt, thò tay ra không nhìn thấy ngón, nhưng ngọn nến cắm phía trước hộp đồng thì vẫn sáng. Lão Xà đã gặp một người nói ám hiệu với mình trong bóng tối, gã đành liều mạng cướp cỗ di hài, nhưng từ vùng bóng tối thoát ra ngoài ánh sáng, người cách gã gần nhất lúc bấy giờ lại là Tư Mã Khôi, ngoài ra tuyệt đối không còn ai khác. Lão Xà cho rằng mình bị tổ chức lợi dụng, sau đó giết người diệt khẩu, nên trong lòng bất giác phẫn uất quá hóa giận; nhưng gã cũng phát hiện, sau khi mở hộp đồng của Sở U Vương, thì chắc chắn đã xuất hiện thứ gì đó rất đáng sợ. Vậy nên gã đành nén giận, trốn vào trong khám động lánh nạn trước. Lão Xà nói đến đây thì im lặng, chỉ nấp sau tượng thú nhìn Tư Mã Khôi chằm chằm, dường như đang đợi anh trả lời. Không khí trong động thất tối đen như mực phút chốc trở nên tĩnh lặng.

Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ lại toàn bộ đầu đuôi sự việc. Anh nhận thấy, nếu lời Lão Xà nói là thật, thì kẻ phát ra ám hiệu gần chiếc hộp chắc chắn là Nấm mồ xanh, bởi vì tình hình quái dị lúc đó anh cũng từng gặp một lần ở thành Nhện Vàng. Thật không ngờ, từ rừng rậm Miến Điện đến tận huyệt động Thần Nông Giá, anh vẫn không thể thoát khỏi sự truy đuổi của vong hồn đó. Có điều, cỗ di hài trong chiếc hộp Sở U Vương, thực ra chỉ là chút pha lê và vàng ròng chôn giấu ở nơi sâu trong mạch đất mà thôi, nhưng vì sao Nấm mồ xanh lại dẫn tên thổ tặc mang cỗ di hài đi về hướng đó? Lời nguyền khắc trên chiếc hộp đã nói rõ, kẻ nào nhìn trộm di hài, kẻ đó sẽ lập tức phải chết. Sau khi mở chiếc hộp, quả nhiên có thứ đúng như âm hồn xuất hiện và Hải ngọng cũng đột nhiên lăn ra chết vì nó. Thế nhưng sao lúc này trong khám động lại yên lặng kì lạ đến vậy, chẳng lẽ quái vật thời Sở kia thực sự có khả năng trấn giữ ma quỷ thật?

Sau khi mở chiếc hộp, các sự việc quái dị cứ liên tục xảy ra mà Tư Mã Khôi không tìm ra manh mối nào, cứ như là đang đứng giữa màn sương dày đặc. Điều duy nhất mà anh có thể xác định được bây giờ là phương hướng cơ bản có lẽ không bị nhầm. Người cổ đại đã khai quật vật thể thần bí từ lòng đất lên, thì chắc chắn họ đã chạm tới cánh cửa của lời giải, bây giờ chỉ có nghĩ cách cướp lại cỗ di hài, mới mong tìm được chốn thoát thân trong khám động có quái vật “tải” này, rồi sau đó tiếp tục tìm đường tắt thâm nhập mạch dưới đất núi Âm Sơn. Thế nhưng việc cần làm trước mắt là phải giải quyết tên thổ tặc như xác chết di động này trước đã. Tư Mã Khôi biết rõ đối thủ là tay thủ đoạn cao cường, lúc này hắn đang ở ngay trước mắt nên anh không dám lơ là. Anh nhìn chằm chằm vào thân hình đối phương. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Nhị Học Sinh thấy tình thế đang chuyển biến, sợ mọi người hành động trong bóng tối không tiện, liền vội vàng đốt đuốc, đèn đồng trong động thất cũng được thắp sáng.

Lão Xà tuy biết nhiều bí thuật dị thường, nhưng rốt cuộc vẫn chỉ là gã hái thuốc, cả đời chưa bao giờ bước chân ra khỏi rừng sâu núi thẳm, tầm nhìn hạn hẹp, nông cạn, vì vậy, gã tưởng rằng, kẻ phát ra ám hiệu là Tư Mã Khôi, lại thấy đối phương im ỉm không trả lời, thì càng cho rằng mình nhận là đúng. Gã nghiến răng kèn kẹt, tuy lòng biết rõ phen này có chắp cánh cũng không bay thoát, nhưng cho dù tất cả mọi người đều bị nhốt dưới lòng đất, thì gã cũng phải tận tay bóp chết từng người mới yên lòng nhắm mắt. Thế là, gã vận khí, rồi đầu, ngực, eo, vai, cánh tay, khuỷu tay, đầu gối, ngón chân phát ra tiếng “cách cách” nhè nhẹ, từ trên xuống dưới lan khắp toàn thân.

Tư Mã Khôi biết một trận quyết đấu sống mái sắp diễn ra trong tích tắc. Lúc trước, anh đã nếm mùi lợi hại của gã thổ tặc này. Gã có thân hình lực lưỡng, hành động uyển chuyển như vượn, nhanh thoăn thoắt như chim ưng, nếu không thể dùng súng hạ gục gã ở khoảng cách xa, thì e rằng rất khó dồn đối phương đến chỗ chết. Người nào người nấy thần kinh căng như dây đàn, cùng lùi mấy bước, lấy vách khám làm chỗ dựa.

Tư Mã Khôi lùi đến rìa khám động, đang định giương súng, thì bỗng nhiên anh cảm thấy từng sợi lông tơ trên cổ mình dựng đứng lên, bởi một luồng âm hàn phía sau thổi buốt tận xương tủy. Anh biết có biến cố, liền quay nhanh lại nhìn. Chùm sáng đèn quặng chiếu sáng khám động bỗng tối lại, rồi xuất hiện một người đội mũ Pith Helmet. Lúc này, đối phương cũng đang ngẩng đầu nhìn anh, và khoảng cách hai khuôn mặt đối diện nhau chỉ tầm chục mét. Tư Mã Khôi lờ mờ thấy gương mặt của kẻ đó. Anh giật nảy mình: “Người kia là… mình sao?”

Khám động tối đen như mực, tuy Tư Mã Khôi có đèn quặng, nhưng tầm nhìn vẫn vô cùng mơ hồ, anh và kẻ đó lại đứng cách nhau bởi pho tượng thú đổ ngang cản đường, bởi vậy không hoàn toàn nhìn rõ khuôn mặt đối phương, mà chỉ có thể nhận ra đối phương cũng đội mũ Pith Helmet trên đầu.

Loại mũ bấc của người Pháp này làm bằng loại gỗ mềm, hình dáng rất đặc biệt, trừ ba thành viên may mắn sống sót trong đội khảo cổ ra, thì cả vùng núi này không thể có người thứ tư đội nó được. Kẻ xuất hiện trong khám động khi nãy là ai? Tư Mã Khôi nhớ đến lúc linh hồn vọt ra khỏi chiếc hộp đồng, mà lòng vẫn khiếp sợ. Anh nhớ, có lần giáo sư Nông Địa cầu từng kể một chuyện về bác sĩ tâm lý người Áo, Sigmund Freud, lừng danh thế giới trong lĩnh vực phân tích thần kinh, mà theo lý thuyết của ông thì thần kinh là cụm từ để chỉ “cảm giác, tri giác và ý thức”, mà trong thần kinh của con người, ngoại trừ “cái tôi” ra, thì trong tiềm thức còn có sự tồn tại của “bản ngã” và “siêu bản ngã”. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Lúc đó, Tư Mã Khôi chỉ nghe tai nọ lọt tai kia, nên đến tận giờ anh vẫn chưa hiểu hết ý nghĩa của nó. Anh cho rằng, quan điểm này gần tương tự như quan niệm truyền thống ba hồn bảy vía của Trung Quốc, có câu “hồn vía tụ hợp thành tinh thần”, một khi tinh thần tiêu tan thì sẽ trở thành “siêu bản ngã”, cũng có nghĩa là sẽ xuất hiện một bản thân khác ở trạng thái đặc biệt. Có lẽ, sau khi chiếc hộp mở ra, một phần linh hồn đã bị rời khỏi thể xác, rồi dần dần trở thành thực thể? Hay chẳng lẽ kẻ đang đứng trong khám động lúc này… lại chính là Hải ngọng vừa nằm đứ đừ trên đất khi nãy? Nếu không, chẳng lẽ là yêu quái biến thành người sao? Nhưng bất kể là khả năng nào, thì đều khiến người ta cảm thấy dựng hết tóc gáy.

Tư Mã Khôi biết thế thái biến hóa vô thường, trước khi nhìn rõ mặt kẻ đó, tuyệt đối không được võ đoán, anh lầm bầm: “Bố mày phải xem mày rốt cuộc là đứa nào mới được?”, rồi anh bạo gan lấy tay xoay luồng sáng đèn quặng, quầng sáng chiếu thẳng vào mặt đối phương, nhưng cự li chùm sáng vươn tới chỉ tầm mấy mét, chiếu tới khám động thì như thể bị luồng khí đen chặn lại, nên anh không nhìn thấy gì trước mắt nữa. Tư Mã Khôi cảm , thấy có vật gì ở trong đó đang động đậy, nhưng vì bị vách khám cản trở, nên không thể vào được.

Lão Xà thấy Tư Mã Khôi ngoảnh đầu nhìn khám động, thì sự chú ý của gã cũng bị phân tán, liền định nhỏm dậy sau tượng đá, lao thẳng vào trong đó, nhưng ngặt nỗi trong “hàm tải” lại đặt mấy ngọn đèn chiếu u. Nhị Học Sinh cầm đuốc, làn lượt thắp sáng hết mấy cây nến cỡ lớn trong thạch thất. Không gian phút chốc sáng bừng như ban ngày. Lão Xà vừa thò người ra đã trở thành tấm bia đỡ đạn sống, vừa vặn nằm trong tầm ngắm bắn của khẩu M-1887, dẫu Lão Xà mình đầy bí kíp nhưng bây giờ cũng không kịp thi triển. Gã điên cuồng như con thú bị chọc tiết, thấy Nhị Học Sinh đang vươn người châm đèn, liền mò mẫm trong bóng tối rồi lấy ra một đoạn mác đồng bị gãy, nhắm vào Nhị Học Sinh, ném thật mạnh.

Tư Mã Khôi nghe thấy tiếng “vù vù” rạch không gian ngay sau lưng, liền quay ngoắt đầu lại. Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương vẫn dính mắt bám sát Lão Xà nhưng vẫn không ngờ gã đột nhiên ra tay nhanh như vậy Cả hai chưa kịp hét lên kinh hoàng, thì đoạn mác đồng đã bay đến trước mặt Nhị Học Sinh.

Nhị Học Sinh sợ tái mặt, hai chân nhũn xuống đất, đoạn mác bay sát sạt qua vai anh chàng, đập vào tường một mảnh áo và da thịt bị xén khuyết. Nếu không phải vi Lão Xà sợ nên không thò cả người ra khỏi tượng thú, thì cái mác đồng đã xuyên thủng ngực Nhị Học Sinh rồi. Mác đồng lao tới, đập mạnh vào vách đá khiến vụn đá văng ra tứ tung. Tượng đá vỡ thành mấy mảnh, vụn đá và mác đồng cùng rơi rào rào xuống đất. Tuy Tư Mã Khôi và hai thành viên còn lại đứng cách đó khá xa, nhưng cũng bị bụi đá văng vào mặt, cảm thấy ran rát. Không ngờ, tên giặc đất này lại có sức mạnh kinh hồn đến thế, lòng anh cũng không khỏi thầm kinh hãi.

Tư Mã Khôi sợ đối phương giở lại bài cũ, anh vẫy tay bảo hội Hương Lân trốn sau đèn chiếu u. Mọi người vừa nấp xuống, thì một quầng màu sắc cổ xưa, loang lổ ở chỗ đá vỡ trên vách đã đập ngay vào mắt, thì ra phía dưới bức tường đá khắc họa tiết còn có một lớp bích họa nữa, miêu tả những chuyện quái lạ sẽ xảy ra sau khi mở hộp đồng Sở U Vương.

Người Sở cổ đại thích hành lễ vu thuật hỏi ma, nên nội dung bích họa vẽ trên cuộn tranh lụa của áo quan cũng rất kì bí. Trong những bài từ thời Sở, có một bài rất nổi tiếng, tên là “Thiên vấn”, tức là sau khi Khuất Nguyên tận mắt nhìn thấy bức bích họa tráng lệ, huy hoàng của Sở quốc, ông đã quay mặt vào tường để hỏi trời. Những nghi vấn ông đưa ra để hỏi, bao gồm thiên địa vạn tượng âm hòa, thần kì quỷ quái, gọi chung là “thiên cổ vạn cổ chí kĩ”, qua đó cũng đủ thấy bích họa thời Sở bí hiểm đến mức nào. Bức tranh đầy màu sắc lộ ra sau lớp đất đá trên khám động là hình vẽ con thú mình rùa đầu rồng, tên gọi là “tải”, cỗ di hài trong huyệt động được đặt trên lưng nó, vây quanh phía ngoài có rất nhiều thiếu nữ với dáng hình thướt tha, không rõ là người hay ma, có lẽ giống với dáng dấp tiên nữ trong bức bích họa “phi thiên” thời Đôn Hoàng. Họ sống trong chiếc hộp có hình dáng đặc biệt, ẩn ẩn hiện hiện giữa màn sương mù, không khí quanh họ nhuốm đầy màu sắc cổ quái, yêu ma.

Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân đưa mắt nhìn nhau, hai người đều cảm thấy nội dung bích họa trong khám động vô cùng kì bí, có khả năng liên quan đến những ẩn số bí mật như di hài, quái vật thời Sở, núi Âm Sơn… Nhưng phần lớn bức họa đã bị tường đá chạm trổ phía trên niêm phong kín, chỗ lộ ra chỉ là một phần rất nhỏ còn sự kiện mô tả trong bức họạ lại rất cổ xưa và li kì, khiến mọi người nhất thời không thể lý giải nổi ý nghĩa sâu xa ẩn chứa bên trong.

Tư Mã Khôi cũng hiểu rõ kẻ địch vẫn quanh quẩn đâu đây, anh không có thời gian quan sát thêm mấy bức bích họa, liền lấy tay ra hiệu cho mọi người xách súng đi vòng qua đèn chiếu u, chầm chậm bao vây chỗ Lão Xà đang ẩn nấp. Nhị Học Sinh nhặt khẩu súng săn trên cái xác cứng đơ của Hải ngọng, bám sát ngay sau lưng Tư Mã Khôi, chuẩn bị cuộc chiến sống mái với Lão Xà. Thủ đoạn của gã đã rất tàn độc, không những vậy, gã còn là tay thợ săn cừ khôi, chuyên hái thuốc trong rừng sâu. Nhưng suy cho cùng, Lão Xà cũng vẫn chỉ là hạng hữu dũng vô mưu, đối phó với hung cầm mãnh thú thì còn tạm ổn, chứ hội Tư Mã Khôi đều có súng, chỉ cần ổn định thế trận là có thể triển khai theo chiến lược, sử dụng chiến thuật chính xác, hợp sức tấn công, cố gắng thì sẽ dồn được đối phương vào góc chết trong động thất chật chội. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Lão Xà thấy không còn đường thoát, xem ra có muốn tóm hai đứa làm đệm lưng cũng còn khó, nên gã càng nóng lòng như kiến bò chảo lửa. Lão Xà nghĩ, nếu để cho bọn này giết chết hoặc tóm sống mình rồi hạ nhục, thì chi bằng cứ liều mạng chui ra khỏi động, cùng lắm là chết. Nghĩ đoạn, gã liền ôm di hài, thụt lùi dần ra cửa động.

Tư Mã Khôi biết cỗ di hài vô cùng quan trọng, nói không chừng, có thể là kết nối cả chuỗi ẩn số xuất hiện dưới biển Âm Hải, vì thế anh có muốn vuốt mặt cũng phải nể mũi vài phần. Vậy là, Tư Mã Khôi cố gắng nổ súng để không chạm tới cỗ di hài. Đạn bắn trúng vách tường, đá vụn rơi xuống rào rào, một mảng bích họa nữa lại lộ ra.

Lão Xà lui về chỗ cạnh vách hộp mà gã bò vào lúc trước. Gã nghĩ, tuy mình không thể trực tiếp giết chết mấy người này, nhưng có thể mang bí mật về cỗ thi hài chôn vùi mãi mãi. Cảm giác báo được thù đã khiến gã cảm thấy hơi phấn khích, nhưng bỗng nhiên, hắn cảm thấy sau lưng dường như có người; quay đầu lại nhìn, gã giật thót mình, chỉ thấy Hải ngọng khi nãy còn chết cứng đơ trên đất, giờ đang gườm mặt nhìn, giống như tòa tháp bằng thép đứng sừng sững sau lưng từ bao giờ. Lão Xà làm nghề đào mồ bới mả bao năm nay, nhưng chưa bao giờ gặp phải tình huống yêu mị đến thế, gã bất giác rùng mình kinh sợ, nhỏ giọng thảng thốt: “Xác chết sống dậy?”. Hải ngọng không nói không ràng, vung con dao săn trong tay bổ xuống nhanh như chớp giật. Lão Xà không kịp đề phòng, liền ăn một dao, cả đầu lẫn vai đều trọng thương, lớp da vượn trên má cũng bị lột một mảng lớn. Gã đâu dám dừng lại, vội buông tay vứt di hài, rồi lộn một vòng tránh né, cuối cùng chui tọt vào trong động, và chớp mắt đã mất dạng.

Gã thổ tặc sợ chết khiếp, còn hội Tư Mã Khôi cũng kinh ngạc không thốt nên lời, tất cả đứng chôn chân tại chỗ nhìn Hải ngọng và bức họa phía sau anh, cảm giác như thể mình vừa sa chân vào vòng luân hồi sinh tử không lối thoát và đối diện với vòng tròn kinh dị vĩnh viễn không có lời giải.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro