CHƯƠNG 5 - VÀNH ĐAI 300 VĨ BẮC BỊ MẤT TÍCH

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi thứ nhất

VÒNG TRÒN MA QUÁI

Lúc trước, mọi người thấy Hải ngọng nằm cứng đơ trên đất, tất cả đều kinh ngạc và đau buồn, nhưng bấy giờ quá nhiều biến cố đột ngột xảy ra, nên không ai dám lơ là, cố gắng kiềm chế cảm xúc để đối phó với Lão Xà, không ngờ đúng lúc này Hải ngọng đột nhiên vùng dậy, cử chỉ và hơi thở hoàn toàn giống với người bình thường, lẽ nào trên đời này quả thật có chuyện hoàn hồn sau khi chết hay sao?

Tư Mã Khôi bước lên trước hỏi dò Hải ngọng: “Khi nãy cậu rõ ràng còn nằm thẳng cẳng, sao giờ đã thành vịt giời nhập tràng thế hả?”

Vẻ mặt Hải ngọng như thể bị đông cứng, chừng nửa phút sau mới hồi người, liên tiếp nôn ra mấy ngụm nước đen, sắc mặt khó coi đến dễ sợ. Anh chỉ nhớ sau khi ra tay cứu người, hình như anh bị thứ gì đó tóm chặt, không thể giãy giụa ra nổi, trong lúc hốt hoảng anh vội quăng móc câu ra, đợi khi hoàn hồn thì đã thấy Lão Xà đang trốn ngay kế bên. Anh liền rút dao săn chém xuống, còn trước đó xảy ra chuyện gì, anh không tài nào nhớ lại được.

Tư Mã Khôi thầm thấy việc này rất quái dị, từ sau khi mở chiếc hộp Sở U Vương, thì một luồng âm phong chợt nổi lên, rồi mọi nguồn sáng như đèn quặng và đèn chiếu u đều lập tức tắt lịm, và biển Âm Hải liên tiếp xảy ra nhiều sự việc lạ. Trước khi làm sáng tỏ chân tướng, toàn bộ sự việc này vẫn không thể giải thích rõ được, nhưng bất kể Hải ngọng vừa gặp phải chuyện gì, thì anh sống lại bằng da bằng thịt như bây giờ vẫn tốt hơn là xác chết lạnh ngắt lúc trước.

Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương thấy chỉ cần người còn sống là tốt rồi, mũi vẫn thở, tim vẫn đập thì chắc không thể là ma nhập tràng.

Nhị Học Sinh vẫn tỏ ra đầy ngờ vực, rõ ràng Hải ngọng đã ngừng nhịp tim từ lâu, sao đột nhiên lại sống dậy được? Người ta thường nói “núi cao ít người, động sâu lắm quỷ”, trong huyệt động nơi sơn cùng thủy tận, hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài, ai chứng minh được Hải ngọng bây giờ vẫn là Hải ngọng lúc trước. Phàm người hiểu chút cơ bản về chủ nghĩa duy vật sơ khai, cũng đều cảm thấy việc này quá đỗi bất thường! Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Hải ngọng thấy Nhị Học Sinh đang lăm lăm cầm khẩu súng săn đạn cỡ 8 của mình, thì bực bội hỏi: “Ranh con nhà chú gộp cả hai mắt lại cũng cận hơn 18 độ, biết sử dụng món này không mà rờ rẫm?”

Nhị Học Sinh ấp úng: “Khẩu này… đúng là cũng hơi nặng, tôi chỉ mới trong giai đoạn thích nghi thôi..”

Hải ngọng giơ tay giật súng lại, trợn mắt mắng: “Thích nghi cái con bà! Anh thấy chú có mà đang ở giai đoạn thích ăn đấm thì có!”

Nhị Học Sinh không dám nhiều lời với Hải ngọng, vội tránh sang chỗ Cao Tư Dương, nhờ cô băng bó vết thương, nhưng lòng vẫn nguyên nỗi sợ hãi khó hiểu.

Tư Mã Khôi nhìn Hải ngọng chăm chú một hồi, nhưng vẫn không phát hiện ra điểm gì khác thường, liền bảo Nhị Học Sinh: “Chỉ cần còn hình còn bóng thì chắc chắn không phải là ma. Huynh đệ của anh, anh là người hiểu nhất, chú mày không cần nghi ngờ làm gì”. Tư Mã Khôi thấy phía ngoài động sương đen bao phủ mờ mịt, không rõ gã thổ tặc khi nãy đã trốn vào hốc nào, còn cỗ di hài trong hộp gấm vẫn nằm chỏng chơ trên đất. Anh thấy Thắng Hương Lân đang lấy đèn quặng soi bích họa trong động đá, liền hỏi xem cô có phát hiện thấy gì không.

Thắng Hương Lân lắc đầu, phần bích họa lộ ra chủ yếu ghi chép những câu chuyện trấn ma của Sở U Vương, ngoài ra, trong bích họa dường như còn vẽ rất nhiều vòng tròn quái dị, mà đại bộ phận bức họa hãy còn ẩn phía trong tường, còn chỉ dựa vào phần lộ ra thì không thể giải thích được gì nhiều.

Tư Mã Khôi nghe vậy, liền dùng báng súng đập cho đá rơi xuống; lớp tường bao ngoài tương đối mỏng như chỉ cố tình đắp lên để che lấp, sau khi nứt vỡ rơi xuống lả tả, bức bích họa lộ ra mỗi lúc một rõ hơn, rồi cảnh tượng hiển hiện trước mắt càng lúc càng khiến người ta chấn động. Dù Tư Mã Khôi biết trong bích họa của Sở U Vương nhất định còn ẩn chứa bí mật gì đó rất trọng đại, nhưng anh không mò ra được manh mối. Anh liền quay sang hỏi Thắng Hương Lân: “Bích họa không ghi chép chuyện chết đi sống lại sao?”

Thắng Hương Lân nhíu mày, trầm giọng nói: “Hình như không có, nhưng tôi biết khi nãy anh gặp thứ gì ở trong hộp đồng rồi…”

Tư Mã Khôi nghĩ đến sự việc lúc đó mà lạnh sống lưng: “Cái người đội mặt nạ phòng độc á? Hắn ta là ai?” Lúc này, Thắng Hương Lân rời ánh mắt khỏi bức bích họa, ngẩng đầu nhìn Tư Mã Khôi: “Tôi nghĩ, nó là u hồn, không những thế, u hồn đó thực ra… chính là bản thân anh”.

Tư Mã Khôi nghe Thắng Hương Lân nói, anh bất giác rùng mình: “Kẻ xuất hiện trong đám sương mù và luồng âm phong là một u hồn ư? Tôi vẫn còn sống, sao lại nhìn thấy vong hồn của chính mình được? Chẳng lẽ đúng là sau khi tôi chết đi, tôi đã phát ám hiệu với gã thổ tặc kia? Không! Chuyện này không thể xảy ra được.”

Thắng Hương Lân nói: “Chuyện về Nấm mồ xanh tôi không thể giải thích được, nhưng căn cứ vào những sự kiện mô tả trên bích họa, thì tôi tin rằng, kẻ khi nãy anh gặp đúng là u hồn của chính anh.”

Ba người còn lại đứng cạnh nghe cũng bị chấn động, Hải ngọng kinh ngạc kêu lên: “Thì ra người bị chết là Tư Mã Khôi chứ không phải tớ à?”. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi điên tiết: “Ông mày chết lúc nào hả? Chuyện quan trọng thế làm sao tôi không nhớ được?”

Cao Tư Dương nói với Thắng Hương Lân: “Cô là người có đầu óc tỉnh táo nhất đội khảo cổ, mà cũng tin mấy chuyện quỷ quái đó à? Chuyện này rốt cuộc là sao?”

Bức họa vu Sở thần bí li kì, thường siêu nhiên hóa những hiện tượng tự nhiên, đề cập đến nhiều truyền thuyết cổ quái không thể lý giải, nhưng từ khi Thắng Hương Lân bước chân vào Thần Nông Giá, tiếp xúc với rất nhiều ẩn số khó hiểu, cô cũng dần dần mò ra quy luật bên trong. Cô phát hiện ra bích họa ẩn chứa trong khám động đúng là ghi chép rất nhiều sự kiện quái dị, thêm vào đó, chuyên ngành của Thắng Hương Lân là thám trắc, trắc họa, nên cô cũng biết thêm một số điển cố lịch sử và kiến thức về sơn kinh thủy pháp, nhờ thế, cô có thể hiểu được vài nội dung thần bí trong bích họa. Thắng Hương Lân soi đèn lên tường, nói với hội Tư Mã Khôi suy đoán của mình: “Bích họa trong tượng thần thú này là do Sở U Vương sai người cho vẽ ở đây từ hai ngàn năm trước, lấy thời gian làm kinh tuyến và sự kiện làm vĩ tuyến, thì nó giống như cuốn sử thi hoành tráng và diễm lệ: phần đáy mỗi họa cảnh đều có lực sĩ mình trần đứng trên lưng cá voi khổng lồ dang hai tay chống đỡ; mãng xà, rùa, chim muông và các loại quái vật được bố trí xung quanh. Bắt đầu từ thuở hồng hoang sơ khai, trong tám trụ chống trời có hai cột trụ bị sụp đổ khiến thủy khí và đại khí hợp thành một thể, khắp nơi sương mù mịt mùng giăng mắc, mờ mờ ảo ảo, không phân biệt được sáng tối. Sau đó, cuồng phong sấm sét bắt đầu kéo đến, mưa đổ như trút nước, kéo dài không biết bao nhiêu ngày, nước càng lúc càng dâng cao, đổ vào muôn khe ngàn hẻm, hình thành đại dương nguyên thủy. Lúc ấy, khu vực Thần Nông Giá vẫn còn là biển lớn mênh mông, phía dưới dòng nước lại là núi cao hùng vĩ, các hẻm và rãnh biển sâu hun hút, mãi đến khi địa môn rộng mở nuốt chửng nước biển, đồi núi đội đất vươn lên, thì các bình nguyên và một số núi lửa nằm cô lập dưới lòng biển cả mới trở thành vùng Thần Nông Giá, với những dãy núi trùng điệp như ngày nay.

Trong lúc bãi bể biến thành nương dâu, có một hòn đảo bị lún chìm vào khe đất nứt, mang theo quần thể thực vật tiền sử trên đảo vẫn giữa nguyên diện mạo, sau đó đã xuất hiện người cổ đại với thân hình cao lớn và chiếc sừng mọc trên đầu. Họ gá gỗ trên núi thành ổ, săn thú bắn chim. Nhóm người đó khả năng chính là thị tộc Thần Nông thượng cổ. Do trên hòn đảo cổ đại dưới lòng đất có rất nhiều thú quý cây lạ, nên con người cũng theo dấu vết lần tìm đến đây, đồng thời cũng phát hiện các huyệt động trên đảo ăn thông xuống nơi sâu hơn về tâm Trái đất, còn phía dưới nó có một khe lớn, chẳng khác nào vực sâu không đáy.

Trong vực sâu có chỗ núi khuyết vào, giống như cửa núi, đó chính là nơi mà người ta gọi là Âm Sơn. Ngọn núi này lúc có lúc không, xuất quỷ nhập thần, tứ bề toàn là bóng tối âm u, không thể đặt chân tới được, và người cổ đại đã tìm thấy “di hài” ở đây. Cỗ di hài được vẽ trong bích họa, thực ra chính là tập hợp của một số khoáng quặng nằm sâu nhất dưới mạch đất, tuy giống như bộ xương người, nhưng trên thực tế chỉ là khối pha lê lẫn vàng có khung hình con người, cỗ di hài đã lưu truyền từ bấy giờ cho đến tận thời Xuân Thu Chiến Quốc.

Theo truyền thuyết, địa điểm phát hiện thấy di hài rất đặc biệt. Dựa theo mô tả của bức bích họa, thì đó là vật thể hình tròn với nhiều hình thù cổ quái to nhỏ không đều nhau, có đường vân loang lổ. Ngoài Sơn Hải Đồ khắc trên đỉnh Vũ Vương ra, thì không một cuốn văn hiến cổ đại hoặc bách khoa địa lý nào ghi chép về nó. Vật thể đó trông rất thần bí, trên bích họa vu Sở trong khám động nó cũng là vòng tuần hoàn hình tròn, dường như là hình tròn quái dị biểu thị luân hồi sinh tử không có điểm đầu và điểm cuối. Theo tôi suy đoán, bố cục tuần hoàn của bích họa thể hiện quan niệm về sinh tử của người Sở. Ngoài ra, trong bức tranh còn đề cấp đến chuyện tế ma vẫn thường diễn ra vào thời xưa, bởi vì người xưa cho rằng: ‘Tất cả sinh vật có mạng sống và hình dạng của vật thể chỉ là hư vô, vật chất sinh ra là do sự biến đổi âm dương, bởi vậy mới có sinh và có tử’. Sau khi người chết đi sẽ hóa thành ma, chỉ khi tế lễ thật nhiều, bậc đế vương mới biến thành rồng thăng thiên, chứ không rơi vào hư vô, cỗ di hài chính là đồ tế lễ quan trọng nhất.”

Những tình tiết này hoàn toàn trùng khớp với manh mối mà đội khảo cổ nắm được từ trước. Sau khi Sở U Vương mất con gái, vô số người dân đã bị tuẫn táng theo, rồi cơn ác mộng quấn chặt hàng đêm khiến ông ta không thể ngủ yên. Ông ta lo sợ âm hồn trốn thoát khỏi lòng đất, nên định tế tiếp hàng loạt người sống, nhưng vu sư gieo phải quẻ hung, nên đành đặt báu vật này xuống đây để trấn ma, đục đẽo nham thạch trong động thành tượng thú “tải”, che lấp cửa động thông xuống Âm Sơn; sau đó ông ta lại gieo thêm quẻ nữa, và lại là một quẻ hung. Sở U Vương nghi ngờ cỗ di hài có xuất xứ dưới vực sâu kia không phải vật chốn nhân gian, có thể là vật bị ma ám trên trần thế và là căn nguyên của mọi tai họa, nên ông ta đã thả nó xuống núi Âm Sơn.

Nghe nói, thời Sở có con rùa thần, sống ba ngàn năm cuối cùng vẫn không tránh khỏi cái chết, điều đó chứng tỏ tất cả những vật có sinh mệnh và hình dạng trên thế gian đều có một ngày phải bước tới hạn số của mình. Sở U Vương suy cho cùng cũng chỉ là người trần, lần này chưa kịp ra lệnh cho vu sư gieo tiếp quẻ cát hung thì đã thẳng đuội người tắt thở, hồn cưỡi rồng bay đi.

Thắng Hương Lân nói: “Bức bích họa gần cửa động mô tả quá trình tế ma mà Sở U Vương vẫn chưa kịp tiến hành, và chỉ cần mở chiếc tráp ngọc đựng trong hộp đồng, khiến cỗ di hài lộ ra ngoài, thì âm phong sẽ tràn vào trong huyệt động, mây mù sương đặc ùn ùn phun ra, lúc ấy chỉ có khám động này là nơi duy nhất có thể dung thân. Cảnh tượng vẽ trong bức họa sau khi Sở U Vương cưỡi rồng bay về trời, là mười mấy vị vu sư mặt đeo mặt nạ, đặt cỗ di hài vào một vị trị đặc biệt trong động, cho tải mang nó xuống lòng đất. Những vị thần vu thông thiên trong bích họa đứng phân bố thành mấy điểm, ngoài vài người đứng canh di hài trong động, thì còn có vài vị khác đứng bên ngoài khám động, nét mặt người nào cũng toát lên vẻ khiếp đảm, hoảng sợ cùng cực. Bất luận hình dạng họ thế nào, thì trong sương đều xuất hiện cái bóng của họ và những hình ảnh trùng lặp, còn có không ít người đã chết đứng tại chỗ. Bích họa dường như muốn ám chỉ, trên đường vận chuyển cỗ di hài xuống Âm Sơn, nếu kẻ nào có ý đồ làm phản lệnh vua mà trốn chạy, thì kẻ đó sẽ bị chết thảm. Trong khi đó, ở nơi sâu trong luồng âm phong và màn sương ma quái, còn có rất nhiều tiên nữ với thân hình mảnh mai yêu dị, bay lượn chập chờn, vây quanh thần thú, đây là điểm duy nhất mà tôi không thể lý giải được.”

Tư Mã Khôi nghe Thắng Hương Lân phân tích rất hợp tình hợp lý. Mấy vị vu sư của Sở quốc đeo mặt nạ quỷ trong bích họa đều chết ở khu vực gần đó, xương cốt sớm đã hóa thành tro bụi, nhưng cỗ di hài vẫn nằm y nguyên trong tráp ngọc hộp đồng, không hề suy suyển. Rõ ràng là, sau khi Sở U Vương chết, các vu sư đã không hành sự theo lệnh vua. Vì huyệt động dưới biển Âm Dụ đã bị lấp kín, trong khi con đường bí mật đi xuyên qua đảo thông ra lòng núi thi chỉ có một mình Sở U Vương biết, bởi vậy, các vu sư cũng không còn đường tháo thân; tuy nhiên họ thà chết tại chỗ, chứ không dám mang di hài đi tìm mạch đất dưới núi Âm Sơn. Có điều, căn cứ vào nội dung bích họa “bất kể ai bước vào sương mù, đều sẽ gặp vong hồn chính mình” thì rốt cuộc là chuyện gì? Lẽ nào, nó quả thực có thể dự báo trước cảnh tượng của mình sau khi chết đi? Vì sao khi chiếc hộp được mở ra thì sương đen mới xuất hiện? Lẽ nào tất cả đều liên quan đến cỗ di hài? Rốt cuộc, chuyện gì đã xảy ra với Hải ngọng? Và ai là người đã ra lệnh cho Lão Xà lúc đó?

Mọi người đều muốn nhanh chóng giải đáp những thắc mắc này, nhưng Thắng Hương Lân không tìm được nhiều manh mối từ bức bích họa, giờ đây cô chỉ có thể nói với Tư Mã Khôi: “Thứ xuất hiện trong sương mù không phải vong hồn của anh sau khi chết, mà có lẽ dùng từ u hồn thì hình dung sẽ chính xác hơn, hoặc có thể nói, đó chính là một linh thể”.

Hồi thứ hai

XUẤT VÍA

Nhị Học Sinh có người chị ruột làm quản lý ký túc xá trường học trong thời kì cách mạng Văn hóa. Chị thường lấy sách bị niêm phong ở thư viện mang về cho Nhị Học Sinh đọc, đọc xong lại lẳng lặng cất lại chỗ cũ. Hồi Nhị Học Sinh phải tới lâm trường Thần Nông Giá, chị gái tiễn cậu em ra bến tàu, dặn dò: “Con nhà người ta đi cải tạo, bố mẹ mua tặng đồng hồ, rồi ra cả bách hóa mua áo rét phòng thời tiết lạnh, chị chẳng làm được thế cho em, chẳng tặng em nổi món gì, biết em thích đọc sách, sau này chị sẽ thường xuyên gửi sách cho em”. Bởi vậy, trong mấy năm cải tạo ở đây, Nhị Học Sinh đã đọc rất nhiều sách, trong điều kiện hoàn cảnh ấy có sách để đọc đã là khá lắm rồi, làm gì có chuyện lại còn kén cá chọn canh, chỉ cần thứ gì có chữ, bất kể nội dung thế nào, bất luận là thể loại gì, Nhị Học Sinh đều say mê xem tất. Vì xem nhiều sách, nên lúc này anh chàng là người đầu tiên lĩnh hội được ý của Thắng Hương Lân: “Tạm thời chưa xét đến tính hợp lý và xác thực của thuyết pháp, tóm lại sau khi con người chết đi mới có hồn ma, nhưng lúc còn sống thì trong cơ thể con người vẫn tồn tại linh thể, hiện tượng vừa rồi của Tư Mã Khôi có thể gọi là ‘hiện tượng xuất vía sinh học’, linh thể là cái bóng mà mắt thường căn bản không thể nào nhìn thấy.”

Hải ngọng mất kiên nhẫn, chen ngang: “Anh nghe mà điên cái đầu, chú mày nói nhảm thế, bố ai hiểu được”.

Khác với Hải ngọng, Tư Mã Khôi nghe xong cũng hiểu chút ít manh mối. Nói theo cách giải thích của cổ lý tướng vật thì: hình, thần, khí, chất là biểu hiện từ trong ra ngoài của người sống, dựa theo thuyết ngũ hành kim mộc thủy hỏa thổ, thì nó tương đương với năm thứ là: ngôn (lời nói), mạo (tướng mạo), thị (nhìn), thính (nghe) và tư (suy nghĩ), những thứ này lúc tăng lúc giảm, khi lên khi xuống, biến hóa khôn lường, nói toẹt ra là: “người còn sống thì còn thở”, nên kẻ mà anh nhìn thấy cạnh hộp đồng chỉ là hơi khí mà bản thân anh lưu lại trong sương mù mà thôi.

Thắng Hương Lân gật đầu nói: “Một số nơi giữa các địa mạch phân bố mây từ dày đặc, cổ nhân cho rằng, đây chính là gốc rễ của sương mù. Mấy năm trước, thành viên của một đại đội trắc địa tiến vào khe Hắc Trúc trong núi Nga Mi, Tứ Xuyên, cũng gặp phải sương mù hình thành do mây từ. Loại sương mù này giống như có sinh mệnh hẳn hỏi, hễ gặp gió thổi mạnh là lập tức xuất hiện, tuy không đến nỗi gây chết người nhưng nó khiến tầm nhìn bị che khuất tối đa, không thể xác định được phương hướng. Tôi thấy sự kiện quái dị miêu tả trong bích họa vu Sở thể hiện rõ lòng đất bên dưới Thần Nông Giá cũng có mây từ. Thứ xuất hiện trong sương mù, chỉ là linh thể bị hút ra sau khi anh tiếp xúc với mây từ, đó là một linh thể không có sinh mệnh, bởi vậy, nó tiêu tan rất nhanh ngay sau đó. Có điều, luồng âm phong cùng sương độc xuất hiện rất bất thường, hoàn toàn khác với hiện tượng trong khe núi Hắc Trúc, có lẽ chính cỗ di hài đã thu hút sương mù đến.”

Nhị Học Sinh nói: “Khe núi Hắc Trúc ở Tứ Xuyên và rừng nguyên sinh Thần Nông Giá đều nằm ở vành đai 30° vĩ Bắc, điểm này mọi người cũng không được bỏ qua đấy!”

Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ giây lát, thấy Hương Lân phân tích dựa vào tình hình thực tế như thế cũng có lý nhất định, bản thân 30° vĩ Bắc cũng là vành đai thường xuyên xảy ra nhiều sự cố quái lạ. Điều này cũng có thể giải thích về các hiện tượng mà anh nhìn thấy cạnh chiếc hộp lúc trước, nhưng điều kiện tiền đề là: người sống đã bị sương mù nuốt chửng, trong khoảng khắc sau khi thần tốc thoát khỏi nó, thì chủ thể sẽ nhìn thấy linh thể tàn lưu của bản thân ngay trên bề mặt sương mù. Vậy lúc anh đối mặt với tên thổ tặc, thì thứ xuất hiện trong khám động là gì? Tuy cái bóng đó mơ hồ không rõ, nhưng vóc dáng đội mũ Pith Helmet thì vẫn lờ mờ nhìn thấy. Lúc ấy mọi người nấp trong động cũng khá lâu, và trong suốt quá trình diễn ra sự việc, cả hội đều không hề tiếp xúc với sương mù, mà dẫu có thì họ cũng không thể nhìn thấy mỗi chiếc bóng của mình. Tất cả những điều này là vì nguyên nhân gì? Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Lúc này, Thắng Hương Lân mới biết Tư Mã Khôi gặp chiếc bóng của mình những hai lần. Kể từ khi bắt đầu nhìn thấy cỗ di hài, rất nhiều biến cố quái dị đã xảy ra chỉ trong thời gian ngắn ngủi, rồi mỗi người đều tự trải nghiệm một phần trong chuỗi sự kiện đó, khiến cả chuỗi biến cố trở nên vô cùng li kì.

Có điều, tư duy của Thắng Hương Lân rất mẫn cảm, cô có tài tìm ra những manh mối từ những dãy sự kiện phức tạp chứa đầy yếu tố nguy hiểm, mâu thuẫn và bí ẩn. Lúc này, Hương Lân nhíu mày, ngẩng đầu nhìn bức bích họa vu Sở và nói: “Vì trong sương mù còn có thứ khác, có lẽ nó liên quan đến tất cả những ẩn số khác…”

Tư Mã Khôi nhớ lại lúc anh đứng cạnh hộp đồng Sở U Vương, bỗng nhiên có luồng âm phong thổi tới, rồi dường như có bàn tay người đột ngột đặt sau lưng mình, hơi lạnh ngấm vào tận xương tủy. Anh không dám quay đầu lại nhìn, mà lập tức bật dậy vọt ra xa. Cảm giác lạnh rợn người đó chắc chắn không thể là giả, xem ra trong màn khí đen quả thực tồn tại thứ gì đó vô cùng khủng khiếp, chẳng lẽ nó là tiên nữ vẽ trên bích họa vu Sở? Tư Mã Khôi không đoán ra được, vì rốt cuộc chỉ có Hải ngọng bị nhốt trong sương mù lâu nhất, mà sau khi Hải ngọng bị lôi ra khỏi động thì đã trở thành cỗ tử thi lạnh ngắt cứng đơ, bây giờ bỗng dưng cậu ta lại sống dậy, miệng vẫn nói tiếng người nhưng không biết có còn tim người trong ngực hay không?

Tư Mã Khôi không phải người hay nghi thần ngờ quỷ, nhưng vì chuyện này quá khác thường, bây giờ thì sương đen đã bao trùm khắp ngoài động, e rằng chỉ cần thò đầu ra nhìn một cái cũng đủ mất mạng. Anh đành ngồi nọc Hải ngọng ra truy hỏi, bảo Hải ngọng thử nhớ kỹ lại xem lúc đó có nhìn thấy gì không, trong sương mù có xuất hiện thứ gì giống trên bích họa không?

Hải ngọng nghe nhắc đến bích họa vu Sở trên tường, thì bỗng nhiên có cảm giác lanh rùng mình, anh hít một hơi hỏi: “Mấy ả trên bích họa đó là ma hay yêu quái thế nhỉ?”, sau đó anh lắc đầu, biểu thị như mình không nhìn thấy gì. Đúng lúc này, mây mờ sương tối, âm phong lại ùa tới, thổi tắt hết nến trong động. Trong lúc hoảng hốt, cả hội vẫn cảm thấy một cột khí đen xộc thẳng tới, trong chớp mắt, ngay cả đèn cácbua gắn trên mũ cũng không sáng nữa. Trong tình trạng hoàn toàn không có nguồn sáng, trước mắt tối đen như đít nồi, mọi người lại không có mắt lửa ngươi vàng nên tất thảy như mù, không nhìn thấy gì hết.

Thắng Hương Lân nói: “Yêu quái trong bích họa là thứ gì nhỉ? May mà chúng đều bị chặn phía ngoài tượng thần thú, nhưng chúng ta cũng không thể trốn ở trong này mãi được”.

Tư Mã Khôi định thần ngẫm nghĩ, lúc trước, anh hoàn toàn không ngờ Nấm mồ xanh sẽ xuất hiện dưới biển Âm Dụ, càng không biết bóng ma u linh đó ẩn nấp phương nào. Đầu tiên, Lão Xà nhận được mệnh lệnh từ bộ điện đàm không dây trong trạm thông tin, sau đó nghe thấy thủ lĩnh phát tín hiệu trong màn sương đen, vì dưới biển Âm Dụ Thần Nông Giá, ngoài bản thân kẻ đó và gã thổ tặc ra, thì có lẽ không còn tồn tại người nào khác. Thêm vào đó Lão Xà không hề hay biết gốc gác lai lịch của thủ lĩnh, nên mới ngộ nhận Tư Mã Khôi chính là Nấm mồ xanh. Nhưng những sự kiện này cũng vô tình khiến những đặc trưng của Nấm mồ xanh ngày càng lộ rõ. Đầu tiên, hắn vẫn không dám xuất đầu lộ diện; thứ hai là năng lực hành động của hắn rất có hạn, hắn chỉ có thể lợi dụng người khác để hoàn thành nhiệm vụ; ngoài ra, mục tiêu và thời gian hành động của tên thủ lĩnh rất có khả năng hoàn toàn trùng khớp với đội khảo cổ. Điều này chứng tỏ mọi manh mối ở thành Nhện Vàng và kính viễn vọng Lopnor đều tập trung ở biển Âm Dụ, dưới Đại Thần Nông Giá. Xem ra, cỗ di hài đến từ vực sâu nhất định là kim chỉ nam giúp mọi người tìm ra đáp án của ẩn số. Ngoài ra, từ đầu chí cuối, Tư Mã Khôi đều cho rằng, Nấm mồ xanh không phải là một u hồn đúng nghĩa, vì u hồn không có thể xác cụ thể. Hắn có thể có khả năng thay hình đổi dạng, hoặc thậm chí là tàng hình, nhưng hoàn toàn không cần thiết phải che giấu khuôn mặt thật của mình. Tình hình đã đến nước này, cả hội cũng không còn đường lui, mà chỉ còn cách tiếp tục đi tìm lời giải cho ẩn số “di hài”, thì mới mong tìm được đường đi xuống tiếp mạch đất núi Âm Sơn. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Nghĩ xong, Tư Mã Khôi liền khoác súng sau lưng, cùng Hải ngọng đến chỗ di hài, kẻ ôm đầu, người khiêng chân nhấc bổng lên, rồi vác lên tay mới cảm thấy nó rất nặng, xương cốt di hài đều làm bằng vàng ròng, khắp người bị mấy con rắn đồng quấn chặt, viên ngọc đen trong hốc mắt giống như đầu lâu vượn cổ rừng sâu, lại chuyển động một cách quái dị, khiến người ta không dám nhìn gần.

Mọi người tham chiếu theo cảnh tượng vẽ trong bích họa để lần tìm lối đi, họ thấy trong động thất có hai pho tượng thú bằng đồng, quy mô rất hoành tráng, một pho mặt người mình hổ, sau mọc chín đuôi, còn pho kia mặt người mình chim. Trong bích họa vẽ cảnh mọi người tiến vào mạch đất núi Âm Sơn, vị vu sư của Sở quốc đang chuẩn bị đặt di hài xuống đây.

Tư Mã Khôi đang định đặt di hài xuống giống như bức họa miêu tả, thì Cao Tư Dương bỗng nhiên ngăn lại: “Khoan đã, tôi thấy có điều gì đó không đúng lắm”. Nhị Học Sinh nhỏ giọng nhắc nhở Cao Tư Dương: “Định luật Murphy nói, mọi thứ trông đều có vẻ bình thường, chính là điều bất thường nhất”.

Cao Tư Dương không đếm xỉa gì đến Nhị Học Sinh, cô tiếp tục nói với Tư Mã Khôi: “Lẽ ra tôi không nên nhiều chuyện, nhưng anh đừng quên rằng, chính thủ lĩnh của Nấm mồ xanh ra lệnh cho gã thổ tặc mang di hài vào trong động, mà anh lại nói tên thủ lĩnh không phải vong hồn, và kẻ đó chỉ trốn đâu đó trong động ở nơi mà mọi người không thể nghĩ ra được, rồi có lẽ nhất cử nhất động của chúng ta đều bị hắn theo dõi. Vậy thì chưa biết chừng mang di hài xuống vực sâu cũng chính là điều mà hắn đang muốn đạt được, nên chí ít anh cũng không được bỏ qua khả năng này”.

Tư Mã Khôi cũng thấy hội Thắng Hương Lân đều rất bất an về điểm này, anh liền bảo: .“Tôi đã nghĩ tới khả năng này, chúng ta buộc phải đi xuyên qua màn sương dày đặc, rồi cố gắng nhìn rõ bản chất của cả chuỗi sự kiện, tôi đoán Nấm mồ xanh và đội khảo cổ chúng ta đều sẽ có được kết quả mà mình muốn tìm kiếm. Nhưng tôi nghĩ, Nấm mồ xanh cũng không thể tiên đoán được mọi việc sẽ như thế nào, nếu không, hắn đã sớm phái đội thám hiểm băng qua biển Âm Dụ Đại Thần Nông Giá, xuống vực sâu dưới lòng đất, chứ không việc gì phải đợi tới tận bây giờ mới đến. Nước ta giải phóng đã hơn hai mươi năm, vùng núi Đại Thần Nông Giá ngày nay không giống Miến Điện chiến tranh loạn lạc, cũng không giống với thời kì những năm 50, 60, đặc vụ nằm vùng khắp mọi nơi nữa. Cùng với thời gian, cục diện chính trị dần trở nên ổn định, các thành viên của tổ chức ngầm đã dần dần bị tóm sạch. Bây giờ, ngay cả tên thổ tặc chưa được tẩy não như Lão Xà cũng được trưng dụng, thì xem chừng năng lực hành động của tổ chức này ở phạm vi trong nước đã bị suy yếu đến cực hạn. Lúc mới bắt đầu, tất cả những gì liên quan đến Nấm mồ xanh đều là những ẩn số to đùng, mà đến bây giờ, tôi vẫn nghĩ không ra Nấm mồ xanh làm cách nào để biết được thông tin đội khảo cổ thâm nhập kính viễn vọng Lopnor và tìm được manh mối. Có điều, sau khi trải qua cả chuỗi sự kiện từ hẻm núi Dã Nhân, kính viễn vọng Lopnor, biển Âm Dụ Đại Thần Nông Giá, thì bí mật của tên thủ lĩnh cũng dần dần lộ ra. Lịch sử tồn tại của tổ chức ngầm này đã có từ rất lâu đời, nhưng mãi đến thời Dân Quốc, khi Triệu Lão Biệt trốn thoát khỏi chiếc hộp thời gian, mang theo tin tình báo về thành Nhện Vàng của vương triều Chăm Pa, từ đó kẻ mà chúng ta vẫn coi là thủ lĩnh Nấm mồ xanh, mới chính thức bắt đầu khống chế tổ chức ngầm này, đồng thời bắt tay tìm kiếm đường xuống vực sâu. Căn cứ vào hài cốt của các thành viên đội thám hiểm Pháp tử mạng ở Lâu Lan, có thể suy đoán, thời gian lúc đó đại khái là những năm hai ba mươi. Nếu Nấm mồ xanh thực sự tiên liệu được mọi việc, thì không thể mãi đến năm 1974 hắn mới bắt tay hành động. Tôi cảm thấy, kế hoạch ban đầu về biển Âm Dụ Đại Thần Nông Giá của tên đầu lĩnh là, dự định để gã thổ tặc đoạt được tấm bản đồ mà đội thám hiểm Taninth để lại trước đội khảo cổ một bước. Bởi trước giải phóng, hắn biết tấm bản đồ ghi chép nơi cất giấu kho báu của Sở quốc, chỉ có điều hắn hoàn toàn không ngờ mạch đất núi Âm Sơn trong truyền thuyết của Sở U Vương, lại là cánh cửa thông xuống vực sâu, và tấm bản đồ cuối cùng lại rơi vào tay đội khảo cổ chúng ta. Vậy là, hắn ta đành ra lệnh cho Lão Xà mang di hài vào trong động. Tôi nghĩ, có lẽ hắn đã phát hiện ra bí mật của cỗ di hài khắc trên lớp điêu khắc ngoài của bức bích họa, mà trước đó hắn đã hoàn toàn không biết. Bởi vậy, tôi có thể dám chắc, hắn đã biết đáp án của ẩn số; nhưng vẫn chưa biết cả quá trình và kết quả sẽ xuất hiện sau khi tìm thấy ẩn số, không những thế, hắn cũng chịu sự quấy nhiễu của định luật Murphy giống như chúng ta. Nếu chúng ta bỏ cuộc giữa chừng, thì tất cả những gì chúng ta đã nỗ lực từ trước đên giờ, đều hóa công cốc, không chỉ vậy, mà còn khó bảo toàn tính mạng. Chúng ta sẽ vĩnh viễn mất cơ hội vạch trần bộ mặt thật của Nấm mồ xanh.”

Mọi người nghe Tư Mã Khôi phân tích đều thấy rất phải, Nhị Học Sinh bất ngờ nói: “Tôi nghĩ, Nấm mồ xanh không những không biết kết quả đáp án của ẩn số, mà còn không biết cả bản thân đáp án của ẩn số nữa”.

Hồi thứ ba

NGUYÊN LÝ BẤT ĐỊNH CỦA WEMER HEISENBERG

Nhị Học Sinh lạnh tanh vọt ra một câu khiến hội Tư Mã Khôi lập tức cảnh giác, bởi đáp án của ẩn số chính là bí mật vùi dưới vực sâu, còn kết quả đáp án là sự việc phát sinh sau khi tìm thấy bí mật; và nếu phân tích theo lôgíc này, thì thủ lĩnh Nấm mồ xanh muốn tìm thấy con đường dẫn xuống vực sâu, nhất định phải có ý đồ bí mật không thể tiết lộ, bởi vậy Nấm mồ xanh chắc chắn phải nắm rõ được chân tướng của đáp án, nếu không tất cả những việc này sẽ không thể xảy ra. Nhị Học Sinh chỉ là một thanh niên trí thức bị đẩy vào lâm trường cải tạo tư tưởng, dựa vào đâu mà anh ta dám khẳng định thủ lĩnh Nấm mồ xanh không biết đáp án?

Nhị Học Sinh thấy nét mặt Tư Mã Khôi lộ rõ vẻ nghi ngờ, lại càng thể hiện thái độ khẳng định: “Theo góc độ lý luận thì Nấm mồ xanh chắc chắn không thể biết đáp án được”.

Tư Mã Khôi đặt cỗ di hài xuống đất, bảo Nhị Học Sinh: “Bọn anh ít học, không mài đít quần trên ghế đọc sách giống phần tử trí thức các chú, tốt nhất chú mày nói dễ hiểu một chút cho anh nhờ. Chú mày căn cứ vào đâu mà nói vậy?”

Nhị Học Sinh nói: “Trước đây có một nhà vật lý học người Đức tên là Wemer Heisenberg, ông ấy đã nêu ra một nguyên lý về tính bất định của các đại lượng đồng nhất, tên là ‘Nguyên lý bất định Heisenberg’. Nguyên lý phát biểu rằng: ta không bao giờ có thể xác định chính xác động lượng và xung lượng của một hạt vào cùng một lúc, nếu ta biết một đại lượng càng chính xác thì ta biết đại lượng kia càng kém chính xác; nói một cách nôm na, khi anh quan sát suy đoán một vật thể, các số liệu anh nhận được vĩnh viễn không thể cùng đúng tuyệt đối, giống như ta quan sát vật thể qua tia sáng, ánh sáng sẽ khiến vật thể biến đổi, tuy đó chỉ là sự biến đổi cực kì nhỏ bé, mà mắt thường không nhận biết được, nên chúng ta vẫn không thể phát hiện được bản chất thực sự, bởi vì tất cả cơ sở động lượng đều bắt nguồn từ những biến hóa nhỏ bé, tinh tế đó. Nguyên lý này chỉ ra sự vô tri của nhân loại, sự vô tri này tồn tại khách quan, đồng thời rất khó vượt qua. Ngay cả sự thay đổi nhỏ bé ở bề mặt vật lý mà cũng không thể xác định thì sự phát triển của số mệnh và sự kiện càng khó tiên liệu hơn. Bởi vậy, trừ khi Nấm mồ xanh là thần thánh, nếu không; bí mật mà hắn ta nắm được chỉ là phiến diện chủ quan và không xác định.”

Hải ngọng gật gù tán thưởng: “Đúng là chú làm anh sáng mắt sáng lòng ra bao nhiêu đấy! Nói duy tâm theo các cụ thì cuối cùng sẽ xảy ra chuyện gì, chú không biết, anh không biết, thằng Nấm mồ xanh cũng không biết, chắc chỉ mỗi ông giời mới biết mà thôi”.

Tuy Tư Mã Khôi không hiểu về nguyên lý bất định của Heisenberg lắm, nhưng nghe Nhị Học Sinh nói thì cũng có lý, cũng giống như người xưa vẫn nói “thế sự khó lường”, vì những chuyện này ông cha ta đã phải dùi mài nghiên cứu kỹ từ mấy ngàn năm trước thì mới đúc kết được. Tóm lại, giờ chúng ta không nên nghĩ nhiều làm gì, cứ nhắm mắt mà liều húc đến cùng, cũng không được mất niềm tin khi phải đối đầu với khó khăn, mà phải nhớ rằng: “vấp ngã là huân chương của người thành công, gió to cỏ rậm thể hiện bản sắc anh hùng, phong ba bão táp mới thấy sinh mệnh là bất diệt”.

Thắng Hương Lân cũng gật đầu tỏ ý tán thành, nhưng Cao Tư Dương lại cho rằng: “Mớ lý luận của Nhị Học Sinh lúc thì duy tâm, lúc thì duy vật, thực ra chẳng qua là muốn giải vây cho anh Khôi mà thôi; có điều có một điểm cậu ta nói không sai: không ai biết sau này sẽ xảy ra điều gì, các anh đã đặt cỗ di hài xuống đất lâu thế sao vẫn không thấy xảy ra động tĩnh gì nhỉ?” Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Căn cứ theo cảnh tượng mô tả trên bích họa, thì chỉ cần đặt cỗ di hài dưới chân hai pho tượng thú bằng đồng lập tức “tải” sẽ biến thành con đường thông xuống mạch đất núi Âm Sơn. Tư Mã Khôi đưa tay ra sờ bề mặt điêu khắc lồi lõm trên mặt đất, nhưng không phát hiện thấy đường nứt hay kẽ hở nào. Chẳng lẽ “tải” lại là tảng đá khổng lồ nặng trình trịch? Nên cũng không biết nội dung kì quái và thần bí khắc trên bích họa là thật hay giả! Mọi người cảm thấy rất đỗi hoang mang, vì không có chút manh mối nào cả.

Tư Mã Khôi đành đối chiếu bích họa vu Sở lại lần nữa, thấy ánh mắt hung ác của hai pho tượng thú bằng đồng mô tả trong bích họa, khác hẳn với vẻ u uất, ảm đạm của chúng ngoài đời thật. Anh liền lại sát gần xem, chợt thấy trong hai con ngươi của pho tượng thú có máng xoay, bên trong rỗng ruột, cất giấu chiếc đèn hình nửa viên ngói, đường nét tinh xảo, do bị bụi bám dày nên không lại gần thì khó có thể phát hiện ra được. Tư Mã Khôi mở nắp, thấy thân đèn còn một vật gì đó sót lại, hao hao giống hình cây nến, và nửa phần bấc đèn; anh đoán chất liệu dẫn cháy là mỡ động vật hoặc sáp nến, chứ không phải “long tủy”; có lẽ người ta dùng nó để thắp sáng ngọn đền đã bị tắt từ hơn hai ngàn năm trước, nhưng không ngờ giữa chừng lại xảy ra sự cố bất ngờ.

Tư Mã Khôi nghĩ đến đây, liền bảo Nhị Học Sinh cầm đuốc châm lửa vào ngọn đèn đồng bên trong.

Hải ngọng đoán già đoán non: “Cái hộp đá này chẳng lẽ lại là thang máy hình hộp phi thẳng xuống mỏ quặng bên dưới à? Thắp sáng đèn đồng tương đương mở máy phát điện, khởi động cho hệ thống của nó thâm nhập lòng đất hả Khôi?”

Tư Mã Khôi mầy mò mãi mà không tìm ra bên trong có gì, nên đành phải làm theo chỉ dẫn trên bích họa. Tuy nói thời xưa không có thang máy, nhưng tương truyền hơn năm ngàn năm trước, khi Hoàng Đế đại phá Xi Vưu ở Bắc Hải, ngài từng chế tạo cỗ xe chỉ nam trong sương mù. Nghe nói chỉ cần ngồi lên xe, không cần định vị phương hướng, bánh xe sẽ tự động lăn tròn, muốn sang đông là được đông, muốn sang tây là được tây, bên trên lắp người gỗ để phân biệt bốn hướng, đó là nguyên lý máy móc cổ xưa nhất, bởi vậy, Hoàng Đế còn có biệt hiệu là Hiên Viên. Hai chữ Hiên Viên không phải để chỉ tên địa danh, mà có lẽ liên quan đến việc chế tạo cỗ xe này. Con quái vật “tải” có lẽ được vùi dưới lòng đất từ thời Xuân Thu Chiến Quốc, xuất hiện muộn hơn thời điểm Hoàng Đế chế tạo xe chỉ nam hàng mấy ngàn năm, nếu trong hang núi có lắp đặt hệ thống gì đó giúp nó di chuyển về hướng mạch núi Âm Sơn, thì cũng không phải là điều gì kì lạ.

Lúc này, Nhị Học Sinh đã giơ cao cây đuốc, lần lượt thắp sáng các bàn đèn bên trong tượng thú bằng đồng nhưng do nến bị bám bụi lâu ngày, nên đèn không cháy rõ lắm, chập chờn lúc sáng lúc tối tựa ánh lửa ma trơi. Hai pho tượng thú bằng đồng có nét mặt hung hãn kì dị, đúng lúc này lại chầm chậm mở to hai mắt trong bóng tối.

Tư Mã Khôi nín thở một hồi, vẫn không thấy động tĩnh gì, thầm nghĩ: “Vu thuật của Sở quốc rất nặng nề, chuyên dùng những sự vật thần bí, lẽ nào phải có vu sư đến niệm thần chú mới được? Đáng tiếc là mấy lão vu sư đeo mặt nạ đồng, cho đến lúc chết vẫn chưa mang được di hài xuống lòng đất, bây giờ xương cốt họ lại đã hóa thành tro bụi thì làm sao mà hiệu triệu âm hồn lên trần thế mà căn vặn được?” Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Đang suy nghĩ miên man, anh bỗng thấy ánh nên trong mắt tượng thú dần dần sáng lên, cỗ di hài đặt trên mặt đất khi nãy nằm ở nơi hội tụ ánh sáng đèn, giờ dưới sự phản chiếu của ánh nến, bỗng phát ra luồng ánh sáng âm u, quái dị, chiếu sáng trong phạm vi hơn mười bước chân. Dường như cũng chính lúc ấy, mọi người phát hiện bốn bức tường rung chuyển, ai nấy đều khiếp sợ, cảm thấy nguy hiểm đang rình rập đâu đó. Tuy biết rõ pho tượng thần thú “tải” bịt kín lối vào huyệt động thông xuống lòng đất, nhưng không ngờ nó lại đột ngột di chuyển thụt xuống, may mà tốc độ sụt lún không nhanh, nên mọi người vẫn tạm thời tìm được chỗ đứng tương đối vững chắc.

Tư Mã Khôi vịn vào một pho tượng thú nói: “Không ngờ Hải ngọng lại đoán trúng phóc, chẳng lẽ nó là thang máy xuống mỏ quặng thật sao?”

Nét mặt Thắng Hương Lân hơi thay đổi: “Hình như, có thứ gì đó ở nơi sâu dưới huyệt động bị cỗ di hài thu hút, nó đang kéo chúng ta xuống lòng đất”.

Nhị Học Sinh nhớ đến mấy ả ma nữ ký sinh trong chiếc hòm vẽ trên bích họa, lòng bất giác phát hoảng: “Sao bọn chúng lại có sức mạnh ghê gớm thế được nhỉ? Chúng là ….loại gì không biết?”

Thắng Hương Lân lắc đầu: “Không biết, nhưng rất có khả năng chúng bị cỗ di hài thu hút, nên mới xuất hiện ở đây”.

Tư Mã Khôi hồi tưởng lại những trải nghiệm trước đây, anh cho rằng Hương Lân đoán không sai, có thứ gì đó ở bên ngoài đang lao tới với tốc độ ánh sáng, nhưng không rõ chúng bị cái gì đó cản trở, nên nhất thời không dám chui vào bên trong tượng thần thú “tải”, nên xem ra chỗ này tạm thời vẫn khá an toàn. Không chỉ vậy, tình hình bây giờ hoàn toàn trùng khớp với nội dung thần bí được mô tả trong bích họa vu Sở.

Tư Mã Khôi vừa định dựa lưng vào tường, cong người tay ôm đầu gối để giảm bớt xung lực tác dụng vào cơ thể khi chạm đất, thì lúc này đột nhiên có người luồn từ ngoài động vào, hóa ra, đó chính là gã tiêu lộc Lão Xà mà cho dù xương cốt có hóa thành tro anh cũng vẫn nhận ra. Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Thì ra tên thổ tặc này chưa ngỏm mà cũng chưa chạy thoát, hắn vẫn đang trốn trong huyệt đạo giữa các vách đá. Mày bò vào đây phen này coi như đúng tầm ngắm họng súng nhà ông”. Khẩu súng M-1887 trong tay được lên nòng, nhân lúc đối phương chưa kịp đứng vững, anh đã ngắm thẳng vào đầu Lão Xà và chuẩn bị bóp cò, nào ngờ tên thổ tặc không hề né tránh đường đạn, mà bỗng nhiên há ngoác miệng, rồi từ trong đó thò ra một cánh tay người đen sì sì.

Tư Mã Khôi thấy Thắng Hương Lân từng nói: trong mây từ hình thành ở mạch quặng dưới lòng đất, rất có khả năng tồn tại “hiện tượng xuất vía”, nghĩa là, nguồn năng lượng sinh mệnh của con người bị mây hút ra, và để lại di ảnh trong sương mù trước khi nó tan biến trong phút chốc ngay sau đó, còn Lão Xà thì vừa mới từ ngoài động bò vào, nên rõ ràng không phải linh thể xuất hiện trong sương mù.

Lúc này, anh thấy từ miệng gã thổ tặc thò ra một cánh tay, dường như âm hồn trong cơ thể đang giãy giụa đòi ra, còn cả người gã thì cứng đơ, trên mặt chỉ có hai con ngươi vẫn gian manh đảo liên hồi. Cảnh tượng lúc này kinh dị như thể kim thiền thoát xác. Tư Mã Khôi bất giác nhớ đến truyền kì “họa bì” của Bồ Tùng Linh. Anh thầm nghĩ: “Chẳng lẽ âm hồn trong sương mù chui vào trong cơ thể tên thổ tặc ư?”. Anh định quan sát kỹ hơn, nên quay đèn quặng chiếu vào khuôn mặt gã, nhưng phía đó chỉ có bóng tối đen ngòm, dường như vật thò ra từ trong miệng gã đã hút hết ánh sáng.

Lúc này, đột nhiên anh nghe thấy một tiếng thét thất thanh, sau đó màn khí đen tỏa ra mù mịt. Tư Mã Khôi thoắt cảm thấy khí lạnh thổi thốc vào người, toàn thân nổi dựng da gà. Anh từng thân chinh bách chiến ở Miến Điện, tuy biết rõ tình hình trước mắt rất nguy hiểm, nhưng vẫn muốn chộp cơ hội này giải quyết tên giặc đất. Đột nhiên, một ý nghĩ vụt lóe lên trong đầu, Tư Mã Khôi máy móc dừng ngón tay đang chuẩn bị bóp cò, quay ngược cán súng, dùng hết sức thọc mạnh đẩy Lão Xà trở lại động, sau đó tung người tránh đám sương đen, rồi khi nhìn lại anh thấy trong động đạo đen ngòm ngòm, không một bóng người.

Cao Tư Dương chạy lại đỡ Tư Mã Khôi dậy rồi hỏi: “Cơ hội khi nãy tốt thế, sao anh không nổ súng?”

Thắng Hương Lân chạy lại, trả lời thay: “May mà Tư Mã Khôi không nổ súng, nếu không bây giờ không phải chỉ một mình Lão Xà mất mạng”.

Tư Mã Khôi nói: “Tôi nghĩ bí mật trong sương mù chính là ánh sáng, may mà ông Khôi này tỉnh ngộ nhanh nếu không đã làm đá lót đường cho tên giặc thối kia rồi”.

Hải ngọng nói: “Hay cậu đã bị nó dọa cho mất vía nên mới không dám bắn? Trách gì người xưa nói không sai chút nào: ‘Ngựa chạy bằng chân, hảo hán chạy bằng miệng’, làm tốt không bằng nói hay. Câu này áp dụng cho cậu không lệch vào đâu được”.

Tư Mã Khôi nói: “Cậu mà chịu động não nghĩ kỹ thì cũng sẽ không khó để nhận ra một cách đại khái mô hình của mê cung mà Sở U Vương dày công bố trí. Huyệt động phía dưới tượng thần thú ‘tải’ ăn thông với mạch đất vừa sâu lại vừa rộng, không những vậy còn tập trung lượng mây từ dày đặc, trong đó ẩn náu những sinh vật đáng sợ. Ngoại trừ xác chết ra, người sống vào đó chăc chắn mất mạng, đó cũng là vạch ranh giới không thể vượt qua. Ngoài ra, cỗ di hài lại có lai lịch lấy từ vực sâu, trông có vẻ chỉ hơi phát sáng yếu ớt, nhưng ánh sáng đó trải qua hàng ngàn năm vẫn không hề suy giảm, mà còn dẫn dụ được thứ gì đó nằm ẩn mình trong mây từ dưới lòng đất bò lên trên. Vật thần bí này được mô tả trong bích họa với thần thái giống như cô gái quái dị, nhưng không rõ nó thực ra là ma hay yêu quái. Song, có một điều không cần nghi ngờ, bệ đèn đặt trong tượng thú bằng đồng chiếu vào di hài sẽ khiến ánh sáng của nó tăng lên gấp bội, từ đó lại dẫn dụ càng nhiều bọn quái vật dưới lòng đất bò lên. Chúng tụ tập ở bốn phía xung quanh, phá vỡ kết cấu địa tầng vốn mềm xốp ở đây, khiến “tải” bắt đầu bị chìm lún xuống lòng đất; nhưng thứ xuất hiện trong huyệt động dường như lại có thể nuốt chửng ánh sáng, bởi vậy những chỗ chúng lướt qua, đèn nến đều tắt lịm.

Căn cứ vào kinh nghiệm lúc trải qua trên cầu đá lúc trước, Tư Mã Khôi phỏng đoán, ánh sáng phát ra từ họng súng sẽ thu hút chúng ùa vào tấn công, vì dường như mục tiêu tiếp cận của chúng là những nơi có ánh sáng và nhiệt độ tương đối cao. Tên giặc đất trốn trong huyệt đạo chạy trốn không kịp, kết quả đã bị thứ đó chui vào trong cơ thể, gã không cam lòng chịu chết, liền bò vào trong khám động tìm đường sống, vô tình mang cả thứ trong sương mù vào đây, bận này gã chết chắc rồi. Nhưng Tư Mã Khôi vẫn không hiểu vì sao anh lại nhìn thấy chiếc bóng của mình trong động đạo, và chuyện gì đã xảy ra với Hải ngọng và Lão Xà khi họ bị rơi vào trong sương mù?

Ngoài ra, vòng tròn quái dị tượng trưng cho sự luân hồi sinh tử, thực ra muốn ám chỉ điều gì? Trước khi nhận diện rõ chân tướng của “tiên nữ trong chiếc hòm”, anh không thể suy đoán được gì.

Lúc này, thần thú “tải” vẫn không ngừng chìm xuống, mặt đất bắt đầu dốc nghiêng, mọi người đứng tựa vào tường, hai tai họ bắt đầu ngâm ngẩm đau, có lẽ do càng xuống sâu, địa áp càng không ngừng gia tăng, mọi người mặc kệ tất cả những ẩn số trong bích họa vu Sở, người nào cũng nơm nớp lo sợ, không hẹn mà đều có chung ý nghĩ: “Rốt cuộc huyệt động dưới biển Âm Dụ sâu bao nhiêu? Sao mãi vẫn chưa rơi tới đáy?”.

Hi thứ tư

ÂM NGUỒN

Lớp mây điện từ dưới lòng đất đã khiến các thiết bị cơ học như đồng hồ đều mất tác dụng, tốc độ rơi đã nhanh đến chóng mặt, mà vẫn ngày một nhanh hơn, thời gian trôi qua dường như dài đằng đẵng, mọi người quay cuồng trong không gian kín mít, ngũ quan cũng mất hết công dụng cần có, chỉ cảm thấy mình đang không ngừng rơi mãi; nếu đây không phải là vực sâu không đáy, thì cũng không thể biết nó sâu bao nhiêu.

Lúc trước, họ chỉ biết hòn đảo cổ đại nằm dưới lòng đất Đại Thần Nông Giá, cách rừng rậm nguyên sinh theo chiều thẳng đứng tầm hai trăm mét. Hố tế lễ còn sót lại từ thời Xuân Thu Chiến Quốc đã lún sâu xuống phần đáy của hòn đảo, còn bên dưới tượng thần thú “tải” lại giống như cửa khổng lồ, có lẽ còn có một huyệt động sâu hơn, thông thẳng xuống mạch núi Âm Sơn. Lúc này, tượng thú vẫn không ngừng rơi xuống, có cảm giác như hòn đảo cổ đại dường như đang lún vào khu vực giáp ranh mảng địa tầng, nếu không sẽ không thể sâu đến vậy, có lẽ đây chính là “khe sâu” được ghi chú trong bích họa vu Sở.

Tư Mã Khôi thấy đầu đau muốn nổ tung, màng nhĩ cũng đau nhức nhối, dưới ánh đèn quặng, anh thấy những người còn lại cũng nổi đầy mạch máu trên mặt. Anh cũng biết, nếu tiếp tục rơi xuống với tốc độ thế này, thì khi chưa kịp rơi tới đáy, huyết dịch sẽ sôi sục như bị đun trong ấm, rồi thành huyết quản không chịu nổi áp lực sẽ đột ngột vỡ ra. Anh định nói, nhưng không mở miệng ra được, bởi hai hàm răng không ngừng va vào nhau lập cập, ngoài tiếng “vù vù” của dòng khí đối lưu ra, thì không nghe thấy bất kì âm thanh nào khác nữa, anh cũng đành mặc kệ sự sống chết.

Lúc này, mọi người đột nhiên thấy cơ thể như bị hất tung lên, lục phủ ngũ tạng cũng suýt chút nữa trôi vọt ra khỏi miệng. Đèn đồng tắt ngóm, xung quanh tối đen như mực, mọi người chưa kịp điều hòa hơi thở, thì dòng nước ngầm lạnh lẽo đã cùng lúc ùa vào qua bốn vách tường, mặt nước dâng cao thần tốc, rồi trong thoáng chốc đã tới đầu gối, hình như “tải” bị rơi xuống nước, nghiêng ngả chìm vào dòng nước sâu.

Hội Tư Mã Khôi chưa kịp hoàn hồn, thấy tình thế trước mắt nguy cấp, vội vàng bò lên động đạo phía trên, thấy bốn phía không còn mây từ bao phủ, nhưng trong phạm vi đèn quặng chiếu sáng, chỉ thấy xung quanh mặt nước cuộn sóng dữ dội, ở sâu hơn, không gian đen quánh, chỉ thấy tiếng gió lốc gầm rít, tứ bề âm u mờ mịt, không ai biết mình đang ở đâu.

Lúc này, “tải” không còn chìm xuống nữa, nhưng mọi người cũng không thể dừng chân ở trong này mãi được. Tư Mã Khôi thấy trên vách tường có mấy đoạn thân cây khô của thực vật tiền sử còn bám lại, trong đó có đoạn dài tầm năm mét, to bằng một vòng tay, anh lấy dao chặt hết cành lá còn bám trên vách khám, những người còn lại đều hiểu ý đồ của Tư Mã Khôi, nên hăng hái chạy lại giúp sức. Một lát sau, “tải” đã bị dòng nước xoáy nuốt chửng hoàn toàn, mọi người may mắn kịp thoát chết trong gang tấc, nhưng ai nấy đều xước xát, rách rưới thảm hại, họ gắng gượng bò lên thân cây khô, thở hổn hà hổn hển, sắc mặt khó coi như người chết. 

Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi bảo Thắng Hương Lân đốt sáng một cây nến phát tín hiệu, ánh sáng lập tức bừng lên như ban ngày. Mọi người nằm rạp trên thân cây như chiếc bè gỗ, thất thần nhìn bốn phía, chỉ thấy nơi cao che kín mây đen dày đặc, còn bốn phía chỗ nào tầm mắt có thể nhìn đến, đều thấy sóng nước vỗ ầm ầm, sương khí hòa quyện vào nhau, sương mù vây kín không gian. Pho tượng thần thú khổng lồ như trái núi chìm nghỉm dưới biển nước sâu hút, tuyệt không sủi bọt, thân cây khô rỗng ruột, bị sóng đánh trôi nổi trên mặt nước, chấp chới tiến về phía trước, ngày càng cách xa vị trí “tải” rơi xuống khi nãy.

Lúc này, Tư Mã Khôi mới nhớ ra, cỗ di hài cũng chìm theo pho tượng thần thú dưới biển sâu, tình hình này có lẽ không còn hi vọng vớt nó lên được nữa.

Cao Tư Dương đột nhiên giơ tay chỉ về phía trước, khẽ gọi hội Tư Mã Khôi: “Mọi người nhìn kìa, hình như phía trước có người!”

Cả hội nghe nói lập tức quay ngóắt lại, nhờ ánh sáng chói lòa của pháo tín hiệu, thấy ở mặt nước phía xa thấp thoáng một cánh tay, mọi người chợt chột dạ. Những người rơi theo “tải” xuống đây, ngoài hội Tư Mã Khôi, thì chỉ còn gã thổ tặc Lão Xà, bây giờ dẫu có nhìn thấy xác gã nổi trên mặt nước cũng không có gì là kì lạ, nhưng cánh tay người thò ra khỏi mặt nước lại chỉ xòe năm ngón cừng đờ, nó cứ thẳng đơ như thế trôi theo sóng nước, khoảng cách giữa cánh tay và thân cây khô càng lúc càng gần.

Hội Tư Mã Khôi thấy cánh tay nổi bập bềnh đến gần, liền giơ nến tín hiệu về phía mặt nước quan sát. Cảnh tượng đập vào mắt khiến mọi người không khỏi giật mình, thì ra đó là một con quái ngư với đôi vây dài, hình như đó là loài cá khổng lồ thường sinh sống ở vùng nước sâu tăm tối. Hội Tư Mã Khôi chỉ nhìn thấy đầu, không nhìn thấy đuôi nó, nên cũng không thể phân biệt nó là loại cá gì. Con thủy quái đã nuốt già nửa thân người Lão Xà, chỉ còn mắc lại mỗi một cánh tay và cái đầu vẫn đang thò ra ngoài miệng. Xem ra, gã thổ tặc trước lúc bị thủy quái nuốt vào bụng, thì đã tắt thở và chết cứng trong sương mù từ bao giờ.

Tư Mã Khôi biết rõ gã là tay dị thuật cao cường, chẳng ngờ gã lại có kết cục chôn thây trong bụng cá, biến mất khỏi cõi đời như khói tan cỏ lụi, và cảnh tượng đó khiến anh không khỏi ớn lạnh. Anh chỉ sợ ánh sáng của pháo tín hiệu sáng quá sẽ dẫn dụ bọn thủy tộc kéo đến lật đổ bè gỗ, nên vội vàng vứt nó xuống nước; bọn thủy quái quả nhiên đuổi theo ánh sáng, trong phút chốc đã mất dạng.

Trong bóng tối chỉ còn sóng dữ cuộn trào, thân cây khô bị cuốn phăng theo dòng nước xiết, không thể kiểm soát nổi. Mọi người tắt đèn quặng, chỉ để một ngọn đèn cácbua chiếu sáng, đầu óc mơ màng giật giật từng hồi, cơ sự đã đến nước này sống chết chỉ còn tùy thuộc vào mệnh trời. Nhân lúc đầu óc còn chút tỉnh táo, Tư Mã Khôi bảo mọi người lấy dây thừng buộc thân mình vào bè gỗ, đề phòng bị dòng nước hất xuống biển, sau đó ôm súng nằm cuộn tròn người tránh rét. Tự anh cũng không biết mình thiếp đi lúc nào, vì dù mở mắt hay nhắm, trước mắt cũng chỉ một màu đen. Trong đầu anh không còn chút tư duy hay ý thức nào, thậm chí ngay cả ác mộng cũng không mơ thấy, vì có lẽ giờ đây hiện thực và ác mộng cũng không có gì khác biệt. Không biết thời gian trôi qua bao lâu, anh mới dần dần phục hồi tri giác.

Những người khác cũng lần lượt tỉnh dậy, chủ yếu là do mấy ngày nay chưa được hạt cơm nào dính bụng, giờ họ đói đến mức ngực dính sát vào lưng, toàn thân run lẩy bẩy, muốn ngủ cũng không ngủ tiếp được. Thắng Hương Lân lấy lương khô chia cho mọi người lót dạ. Dạ dày có chút “thực”, nên đầu óc quả cũng mới “vực được đạo”, nhưng nghĩ đến hoàn cảnh trước mắt, ai nấy đều cảm thấy không thể lạc quan. 

Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Nhị Học Sinh say sóng đến mềm nhũn cả người, anh chàng nôn hết sạch số lương khô vừa mới ăn. Bây giờ anh chàng mới thấy thế giới dưới lòng đất hoàn toàn vượt xa những gì mình tưởng tượng được. Nhị Học Sinh gắng gượng nói với Tư Mã Khôi: “Tuy tên thổ tặc đã toi mạng, nhưng lòng đất vẫn bị mây từ che phủ dày đặc, còn đến bây giờ vẫn không biết bọn ma nữ được mô tả trong bích họa vu Sở là thứ gì. Cỗ di hài cũng bị nước xiết nhấn chìm rồi, giờ không thể tìm được núi Âm Sơn thông với mạch đất nữa. Chúng ta cũng không hiểu vì sao núi Bối Âm trong truyền thuyết vu Sở lại lúc ẩn lúc hiện? Chẳng lẽ nó đang ở dưới nước? Mức nước lên xuống sẽ khiến nó bị lộ ra ngoài? Tôi thấy, ẩn số xuất hiện càng lúc càng nhiều, nhưng ngay cả phương hướng bây giờ chúng ta cũng không thể xác định chính xác, thậm chí còn không biết mình đang ở chỗ nào. Điều đáng mừng duy nhất là vẫn còn chiếc bè gỗ, nếu không, cả hội bây giờ đã nằm gọn trong bụng cá rồi.”

Tư Mã Khôi nói: “Tuy đoạn gỗ này đã cứu sống chúng ta, nhưng nó chỉ nổi lềnh bềnh trên đại dương tối tăm vô bờ bến. Tôi thấy nơi quỷ quái này không phải điểm đầu cũng chẳng là điểm cuối, nhưng lại giống với nơi tận cùng của thế giới. Tôi từng nghe người ta nói, thời xưa có tòa ‘phù sai’, đó là chiếc bè gỗ dùng để di chuyển giữa đại dương và thiên hà; bè gỗ mà chúng ta đang ngồi bây giờ xem ra cũng chẳng khác gì ‘phù sai’, có điều chúng ta không lên thiên đàng mà xuống cõi u minh dưới lòng đất, nơi đó chính là hoàng tuyền, là nơi người chết đều phải đi xuống.”

Tuy mọi người biết Tư Mã Khôi nói vậy chỉ là một cách tự trào, nhưng ai nấy đều cảm thấy tuyệt vọng cùng cực, chỉ có Hải ngọng vẫn cố tỏ ra vẻ anh hùng hảo hán: Chết nhanh cho sướng, càng đỡ phải sống chịu tội. Đây là tin vui duy nhất tôi nghe được sau khi nôn sạch bữa trưa ra đấy!”

Tư Mã Khôi lại tưng tửng nói: “Tớ còn phải nói với cậu một tin, đảm bảo cậu nghe xong sẽ nôn nốt cả suất bữa tối ra luôn”.

Hải ngọng hết hồn: “Tớ biết là vẫn còn chuyện đen đủi hơn mà, vì đen đủi là không thể tránh khỏi, mà đen đủi, bà nội nó chứ, đúng là đầy sức sáng tạo. Tớ chịu không nghĩ ra nổi sẽ còn xảy ra chuyện đen đủi gì nữa. Cậu nói mau đi, Hải ngọng tớ vẫn còn chống đỡ được”.

Tư Mã Khôi móc mấy tút thuốc lá trong ba lô ra, khi nãy rớt xuống nước, chưa kịp bọc chống ẩm, giờ ướt nhũn như cháo.

Hải ngọng há hốc mồm, lòng đau như cắt, miệng lẩm bẩm: “Thế là toi, cả đống lương thực hi sinh hết sạch, bận này bọn mình có chết cũng yên lòng, vấn đề là giờ vẫn chưa chết được, mà rơi xuống chỗ chính mình cũng chẳng biết là chỗ nào, mà không có thuốc lá thì làm sao mà kiên trì chiến đấu đến cùng được? Tớ thấy bọn mình chắc không ngáp nổi qua đêm nay để đợi đến bình minh ngày mai đâu….”

Cao Tư Dương thấy hai người buồn rầu vì mất mấy tút thuốc lá, cô không thể hiểu rốt cuộc trong đầu họ đang nghĩ gì, cảm giác vừa bực mình vừa bất lực trào lên, cô quay sang hỏi Thắng Hương Lân: “Cô làm việc trong đội trắc họa, chắc rất rành kết cấu địa chất, thế có phán đoán đựợc bây giờ chúng ta đang ở đâu không?”

Nhị Học Sinh chen ngang: “Chỗ này sóng vỗ dữ dội, mặt biển mênh mông, dưới lòng đất làm gì có sông ngầm hay biển hồ nào rộng lớn từng ấy? Chắc chúng ta rơi xuống biển rồi, nghe nói dưới lòng đất có vực sâu gọi là “nhược thủy”, còn có núi lửa đốt cháy xinh xịch suốt ngày đêm, hai nơi này gọi là vực Nhược Thủy và núi Diêm Hỏa. Vực Nhược Thủy thực ra là chỉ vùng biển dưới lòng đất từ thuở hỗn độn hư vô, rồi tận cùng của nó toàn là dung nham nóng bỏng dị thường, người trần mắt thịt như chúng ta còn chưa kịp đến gần ngọn núi lửa đó thì đã bị dòng nhiệt lưu cao hàng ngàn độ chưng thành sương khí rồi”.

Thắng Hương Lân chăm chú nhìn la bàn trong tay, nghe vậy liền nói: “Tôi phát hiện, bè gỗ hút một số loài thực vật dạng tảo vĩ mô, nhưng đây không phải biển. Ngoài ra, dòng nước luôn chảy xiết không ngớt, sóng lại dữ dội, mặt nước bao la, nên cũng không giống biển hồ hay sông ngầm dưới lòng đất. ”

Nhị Học Sinh không hiểu liền hỏi lại: “Nếu xét theo địa hình quy mô thủy hệ dưới lòng đất, thì sông ngòi, biển hồ đều không phải, cái gì cũng không phải, nên rốt cuộc đây là chỗ nào?”

Thắng Hương Lân nói: “Hình dung một cách đơn giản, cội nguồn của nó rất có khả năng là thủy thể, tức là một vùng chứa nước nguyên thủy. Nó là tiền thân của tất cả thủy hệ ở tầng địa biểu, là vùng giao hòa giữa nước mặn và nước ngọt. Thời tiền sử, biển Âm Dụ ở Đại Thần Nông Giá mênh mông nước, chính là bắt nguồn từ nơi đây.”

Tư Mã Khôi nói: “Này Nhị Học Sinh! Anh cứ tưởng chú đọc nhiều sách, nên thiên văn địa lý cái gì cũng am hiểu, nhưng thực ra chú biết mỗi cái vỏ ngoài, những kẻ bi quan chỉ nhìn thấy khó khăn trong cơ hội, trong khi những người lạc quan thì lại nhìn thấy cơ hội trong khó khăn. Anh ngờ rằng, chỗ này chẳng phải ‘thủy thể’ quái gì dưới lòng đất, mà nó rộng lớn thế nào đi nữa cũng không thể vô bờ vô bến, chỉ cần bè gỗ trôi theo dòng nước, thì sớm muộn gì cũng đến bờ thôi”.

Mọi người không có niềm tin vào điều này lắm, nhưng giờ chơi vơi trên bè gỗ thì cũng không thể nghĩ ra cách gì, nên chỉ đành mặc cho dòng nước không ngừng đẩy bè về phía trước. Kim đồng hồ khựng lại bất động, nên không rõ cả hội lênh đênh trôi theo dòng nước, giống như biển u minh này, bao ngày bao đêm. Hết lương khô thì họ bắt cá biển ăn bù, hết nước thì hứng nước ngầm nhỏ xuống uống cho đỡ khát. Chiếc bè gỗ rơi xuống vực sâu không đáy như chiếc lá khô giữa cơn lốc tố, mưa to gió lớn do ma sát mây từ mang đến xuất hiện bất thường, trải qua vô số lần suýt chút bị lật, phía trước họ vẫn là bóng tối mênh mang không thấy điểm tận cùng, còn thứ dịch chuyển trong bóng tối giữa cõi hồng hoang tựa hồ chỉ có thời gian và gió.

Tư Mã Khôi bàng hoàng cảm thấy bất lực, lần trước khi bước chân vào biển cát khô nóng mênh mông dưới kính viễn vọng Lopnor, ít ra anh còn cảm thấy bàn chân chạm đất, còn biết rằng chỉ cần kiên trì bước từng bước, thì cuối cùng cũng sẽ phải ra đến rìa sa mạc, nhưng lần này thì quả thật ngay cả Werner Heisenger cũng không dám xác định. Lúc này, bè gỗ vẫn liền ngày nối đêm liên tục trôi về hướng Tây, có trời mới biết họ đã cách biển Âm Dụ Đại Thần Nông Giá bao xa. Nghĩ mãi vẫn không ra, Tự Mã Khôi liền hỏi Thắng Hương Lân: “Có thật nó là thủy thể không hả? Chẳng lẽ không còn khả năng nào khác sao?”

Thắng Hương Lân sớm có dự cảm không lành, cô trầm ngâm giây lát rồi mới nói: “Tôi nghĩ đây có lẽ chính là thủy thể dưới lòng đất, nhưng còn một khả năng xấu hơn, chúng ta đã rơi vào vòng tròn ma quái mà bích họa vu Sở đã mô tả. Nếu quả như là vậy, thì bất kể bè gỗ trôi bao lâu, cuối cùng vẫn sẽ quay lại huyệt động dưới lòng đất Đại Thần Nông Giá, nơi chúng ta rơi xuống lúc đầu. Vòng tròn quái dị này có lẽ chính là vành đai 30° vĩ Bắc”.

Hồi thứ năm

THỦY THỂ

Tư Mã Khôi thấy chuyện này thật khó tin, anh thắc mắc: “Vành đai 30° vĩ Bắc tồn tại một vòng tròn ma quái, mà lúc chúng ta rơi xuống huyệt động biển Âm Dụ lại ngẫu nhiên lọt đúng vào cái vòng tròn không ngừng tuần hoàn lặp đi lặp lại ấy sao?”

Thắng Hương Lân nói: “Tôi thấy bè gỗ đi mãi vễ hướng tây, còn thời gian và phương hướng gần như mất đi giá trị, nên mới nảy ra suy đoán ấy, nhưng tôi không dám chắc và cũng chưa có bằng chứng cụ thể”.

Nhị Học Sinh đang nằm bẹp trên bè gỗ, nghe Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân bàn bạc, lập tức bò dậy ôm lấy gạc cây, kích động nói: “Khả năng này rất lớn, có thể đáp án của ẩn số 30° vĩ Bắc chính là vòng tròn ma quái đó”.

Khu vực 30° vĩ Bắc và khu vực lệch 5° xung quanh đó, thường xuyên tồn tại hàng loạt hiện tượng kì quái. Nó dường như được thay thế bằng cụm danh từ: khu vực “thần bí”, khu vực “bị mất tích”, đồng thời lưu giữ vô số di tích lịch sử nổi tiếng. Nhiều bậc nhân sĩ thuộc các lĩnh vực như lịch sử, khoa học, địa lý đều cho rằng: phía sau hàng loạt những sự việc quái dị tập trung ở vĩ độ này, có ẩn chứa một mối liên kết nội tại nào đó, nhưng từ trước tới giờ chưa ai tìm thấy đáp án, mà tất cả đều chỉ dừng lại ở giai đoạn phỏng đoán và giả thiết. Có điều, khi mọi người thâm nhập biển Âm Dụ, thì phát hiện thấy vùng thủy thể rộng vô biên và sâu hun hút, trên cao mây sương vần vũ che phủ, “phù sai” tựa hồ lạc trong biển u minh vĩnh viễn không có điểm tận cùng. Bao nhiêu ngày đã trôi qua, nói không chừng bè gỗ đã trôi hàng vạn dặm, nhưng ngay cả một chút dấu hiệu có thể nhìn thấy đất liền cũng vẫn không xuất hiện. Tuy phỏng đoán của Thắng Hương Lân rất táo bạo, nhưng mọi người không thể tìm được sự giải thích hợp lý hơn thế. Dưới vành đai 30° vĩ Bắc, chắc chắn là vật thể hình vòng tròn không đầu không cuối.

Hải ngọng lớ ngớ chưa hiểu, hỏi lại: “Chúng ta rơi vào vòng tròn ma quái dưới vòng đất… thế nghĩa là thế nào?”

Tư Mã Khôi nói: “Nghĩa là chúng ta cần một tấm bản đồ thế giới chứ sao.”

Lúc này, Cao Tư Dương sợ Nhị Học Sinh hướng mọi người đi nhầm đường, cô nói: “Anh cũng chỉ đưa ra phỏng đoán dựa vào hướng trôi của bè gỗ. Trước khi có được bằng chứng xác thực, chớ đưa ra kết luận lung tung”.

Nhị Học Sinh tỏ ra rất tự tin: “Những điều này tuyệt đối không phải phát hiện kinh thiên động địa gì, vì từ cổ chí kim đã xảy ra hàng loạt sự việc li kì xung quanh khu vực 30° vĩ Bắc, mà phần lớn đều rất phức tạp và không thể giải thích. Thêm vào đó, mọi người trên khắp thế giới cứ bàn luận đồn thổi, khiến những sự việc đó như được trùm thêm tấm màn bí ẩn. Thậm chí, con người còn cho rằng: đó là do ma quỷ lộng hành, nhưng giờ chúng ta đích thân rơi vào cảnh ngộ đó, với tiền đề xác định lòng đất tồn tại vòng tròn ma quái, rồi sau đó tiếp tục đi tìm đáp án, thì có lẽ vấn đề sẽ được nhanh chóng hóa giải hơn.”

Thắng Hương Lân ngẫm nghĩ hồi lâu, cũng cảm thấy phán đoán của mình không sai: “Vành đai 30° vĩ Bắc là khu vực tập trung các hoạt động giải phóng địa từ và địa áp một cách liên tục nhất, dưới lòng đất tích tụ lượng lớn mây từ, khiến thủy thể tuần hoàn xuyên suốt, không ngừng lặp đi lặp lại. Ví dụ như khe Hắc Trúc ở nội địa Tứ Xuyên và rừng nguyên sinh Đại Thần Nông Giá ở  phía tây Hồ Bắc, những khu vực cùng chung vĩ độ này đều xuất hiện mây từ và sương đen. Khu vực nằm trong vành đai 30° vĩ Bắc, quy tụ rất nhiều địa điểm được mệnh danh là tam giác quỷ, cạm bẫy tử thần, hắc động địa cầu. Bây giờ nghĩ lại, chẳng phải tất cả những nơi đó đều đã bị nhiễu loạn bởi một năng lượng bí ẩn và vô hình nào đó hay sao? Mà thực ra, nguồn gốc của nó chính là ‘vòng tròn ma quái’ nằm trong lòng đất sâu.”

Cao Tư Dương nói: “Tình hình chúng ta bây giờ là lương thực thì đã cạn kiệt, không thể bó tay chịu nhốt trên cái bè gỗ và để mặc nó trôi mãi được. Giờ đã xác định hoàn cảnh trước mắt, chúng ta phải suy nghĩ xem, rốt cuộc phải làm thế nào mới thoát khỏi vòng tròn quái dị này”.

Nhị Học Sinh nói với Cao Tư Dương: “Đội trưởng vẫn chưa hiểu ý chúng tôi, cô có biết thế nào là hắc động địa cầu không? Những tàu thuyền, máy bay, con người bị mất tích ở những nơi khác, ngoại trừ những người may mắn sống sót ra, thì phần lớn di hài và tàn tích thực thể sẽ được tìm thấy, cho dù thời điểm tìm thấy đôi khi cách thời điểm xảy ra tai nạn đến mấy chục hoặc thậm chí mấy trăm năm. Thế nhưng, nếu mất tích ở vành đai 30° vĩ Bắc, thì trên thực tế có nghĩa là biến mất hoàn toàn, vĩnh viễn không bao giờ xuất hiện lại nữa, bởi vì vòng tròn ma quái đỏ có thể nuốt chửng tất cả sự vật, nó giống như vòng tròn Ouroboros kinh dị trong truyền thuyết Bắc Âu ấy”.

Thắng Hương Lân nghe đến đây cũng gật gật đầu, miệng lẩm bẩm: “Vòng tròn Ouroboros, đúng là sự so sánh giàu hình tượng nhất về hắc động dưới lòng đất”.

Cao Tư Dương chưa bao giờ nghe đến chuyện này, liền hỏi: “Vòng tròn Ouroboros là gì vậy?”

Tư Mã Khôi nói: “Tôi thấy nghe cũng hơi quen quen, hình như vòng tròn đó vẽ một phù hiệu cổ xưa và thần bí, là hình “rắn ngậm đuôi rắn”, để ám chỉ ý tuần hoàn thì phải. Trước đây, khi còn ở trong thành Nhện Vàng của vương triều Chăm Pa, tôi đã từng nhìn thấy bích họa vua Anagaya cưỡi mãng xà vượt đại dương, con bạch xà đó tự mình nuốt đuôi mình. Sau đó, tôi có kể với giáo sư Nông Địa Cầu chuyện này, thì mới biết phù hiệu cổ quái này đã có từ rất lâu đời. Nghe nói, trong truyền thuyết thần thoại Bắc Âu có một con rắn lớn tự mình cắn đuôi mình, nó quanh quẩn ở vùng ven Trái đất, và được gọi là ‘trần thế cự mãng’, hình ảnh mãng xà tượng trưng cho sự luân hồi và hỗn độn của vạn vật, đại diện cho hiện tượng thế giới tự nhiên liên tục luân chuyển để quay về điểm xuất phát ban đầu, nên kết thúc chính là sự bắt đầu, và bắt đầu cũng có nghĩa là sắp kết thúc. Thủy thể khổng lồ nằm ở nơi sâu dưới lòng đất vành đai 30° vĩ Bắc, đúng là rất giống với ‘con rắn ngậm duôi’ ngầm dự liệu về sự không đầu không cuối, chẳng lẽ nguyên hình của ‘vòng tròn Ouroboros’ chính là ở chỗ này?”

Thắng Hương Lân nói: “Ngay từ trước thời Ân Thương, đã xuất hiện phù hiệu rồng cuộn mình thành hình tròn, nó cũng thuộc loại phù hiệu thần bí này. Trước đây chưa ai biết chúng có hàm ý đặc biệt gì, nhưng bây giờ xem ra nó có vẻ liên quan đến ẩn số 30° vĩ Bắc, từ đó cũng có thể chứng minh phán đoán của chúng ta là đúng. Chỉ có điều, mây từ dưới lòng đất dày đặc, mịt mù, hạn chế sự chính xác của các thiết bị đo đạc thám trắc, khiến con người ngày nay cũng không thể biết nhiều thông tin về nó hơn thế hệ mười năm trước là bao”.

Mọi người đi sâu vào phân tích hoàn cảnh khốn cùng mà cả hội phải đối mặt: “Nếu mô tả vùng thủy thể đen ngòm vô biên này là: “rắn ngậm đuôi” dưới khu vực lệch 5° xung quanh vành đai 30° vĩ Bắc, thì bây giờ chúng ta như thể đang rơi vào bụng con quái xà. Lớp vỏ Trái đất chịu tác động của áp lực và vận động dãn nở khuếch trương, nên đã nảy sinh ra những vết nứt hình tròn, hình thành nên hình thái nguyên thủy của đại dương trong đó, và thủy thể cuộn trào tuần hoàn dưới ảnh hưởng của từ trường. Hắc động giống như một con mãng xà khổng lồ, cũng bị che kín bởi màn sương dày do địa trường sinh ra. Phía trên nó nằm ở khu vực mạch núi và đại dương, và khu vực này nối liền với những khu vực kết cấu địa tầng mỏng yếu khác, có lẽ vì thế nên ở đó thường xảy ra những hiện tượng quái dị. Đó là do mây từ ùn lên từ lòng đất, gây ra địa chấn và đất lún, thậm chí ảnh hưởng còn khiến mực nước sông ngòi biển hồ lên xuống bất thường; tàu thuyền hoặc máy bay qua lại nơi đây thường bị mất tích. Phần lớn các vụ tai nạn đều liên quan đến điều này, chính bởi vậy nên số lượng tai nạn đến giờ vẫn không thể thống kê đầy đủ.”

Từ đây có thể suy đoán, rất nhiều địa điểm khác thường như ánh lửa ma trơi ở hồ Phiên Dương, dòng nước cụt ở Trường Giang, khe núi tử thần, sương mù yêu dị ở khe Hắc Trúc hay tam giác quỷ Bermuda v.v… khả năng đều liên quan đến vòng tròn “rắn ngậm đuôi rắn” ẩn chứa trong vành đai vĩ độ này, mà huyệt động dưới rừng rậm nguyên sinh biển Âm Dụ Đại Thần Nông Giá lại là một trong những nơi thông với thủy thể. Pho tượng thần thú “tải” chặn ngay cửa động có tác dụng ngăn cản sương từ, nên lúc mọi người rơi xuống đây mới may mắn thoát chết, còn về thứ quỷ quái xuất hiện trong đám sương, cho đến tận giờ vẫn còn là một ẩn số, giờ ngồi nghĩ lại chuyện lúc trước mới thấy sởn gai ốc, cả hội quá liều lĩnh xông vào đây khác gì tự đâm đầu vào cõi chết. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú ngư

Có lẽ, khoảng cách hắc động bao quanh khu vực 30° vĩ Bắc, ít nhất cũng tầm 30 ngàn đến 40 ngàn cây số, huống hồ cả hội lại đang ngồi trên bè gỗ mất phương hướng, không biết đã trải qua bao ngày đêm, và cũng không ai biết vị trí cụ thể hiện giờ trong vòng tròn ma quái. Đối với hội Tư Mã Khôi mà nói, trên đầu lúc này là biển cây bạt ngàn của rừng nguyên sinh Đại Thần Nông Giá, hay là mạch núi Hymalaya của tận cùng cao nguyên, thì cũng không còn khác biệt rõ rệt nữa. Chiếc bè gỗ mà mọi người nương tựa, chỉ là một thân cây cổ đại đã khô queo, tuy nó khá to và rắn chắc, chất gỗ cũng tương đối tốt, nhưng chỉ e không trụ nổi trước gió to sóng cả.

Tư Mã Khôi từng nhiều lần lâm vào vòng nguy hiểm, từng thâm nhập kính viễn vọng Lopnor sâu cách bề mặt Trái đất hơn mười ngàn mét, nhưng vẫn không đáng sợ bằng lần rơi vào vòng tròn ma quái này, bởi nó không có điểm tận cùng, cũng không có điểm khởi đầu, dẫu có mọc cánh cũng không bay đi đâu được.

Cao Tư Dương hiểu, hoàn cảnh hiện tại vô cùng hung hiểm, nhưng cô lại cho rằng: dù hắc động có là vòng tròn ma quỷ không đầu không cuối, thì nó vẫn phải có đường biên nhất định, chúng ta có thể thử tiếp cận vách động ở hai bên, chắc chắn nó phải có khe nứt nào đó; mà chỉ cần tìm thấy một khe hở đủ cho người chui lọt, là chúng ta sẽ thoát khỏi vòng tròn ma quái.

Thắng Hương Lân cũng từng nghĩ đến con đường này, nhưng lại thấy không khả thi, vì cho dù bạn có thể thể đến gần đường biên của thủy thể, thì vị trí hiện tại vẫn nằm ở tầng đáy của lớp vỏ, nên chưa hẳn đã tìm thấy đường sống, không những thế, ở nơi sâu hút như vậy sẽ không có ôxy để thở, thì đi chưa được bao xa đã ngạt thở mà chết.

Tư Mã Khôi thấy bè gỗ vẫn trôi trên biển, nhấp nhô theo luồng sóng cuồn cuộn, thế nước phía trước càng lúc càng xiết. Anh nói với những người còn lại: “Có câu ‘Nhân định thắng thiên’, nhiều người cho rằng, câu này ám chỉ con người có thể chiến thắng thế giới tự nhiên, riêng tôi thấy nếu hiểu thế thì ôm đồm quá, mà thực ra câu này nên nói là ‘Nhân định sẽ thắng thiên’, ‘thiên’ ở đây chỉ số phận hoặc khó khăn, chỉ khi con người bình tĩnh, ổn định, đoàn kết, quyết tâm, thì mới có cơ hội khắc phục khó khăn. Đương nhiên, không phải người nào cũng có thể xoay chuyển được vận mệnh, thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn. Thế nhưng nếu không làm vậy, thì nửa cơ hội cũng không tồn tại. Đội thám hiệm chúng ta giờ đang bị nhốt trên bè gỗ, không nghĩ ra cách gì khả dĩ, nhưng chúng ta tuyệt đối không được từ bỏ hi vọng, ngồi đây chờ chết. Việc cần làm trước mắt là: gắng hết sức để sinh tồn, sống thêm một ngày là thêm một ngày hi vọng. Nếu số mệnh của chúng ta quả thực đã bị nguyền rủa, thì chỉ còn cách tiếp tục kiên trì lặng lẽ tiến về bóng tối phía trước, đó mới là phương thức duy nhất cứu rỗi vận mệnh bi kịch của chính mình.” 

Bạn đang đọc truyện tại blog Xú ngư

Mọi người cũng chung suy nghĩ như vậy, vì rốt cuộc ngay từ thời Thần Nông gá gỗ làm tổ, người cổ đại đã mang cỗ di hài dưới lòng đất lên đây, điều đó cũng cho thấy trong hắc động phía dưới vành đai 30° vĩ Bắc, không hẳn là chốn hồng hoang mênh mang vô tận, chỉ có điều, rất nhiều bí mật đã bị nó nuốt chửng, nên điều đội thám hiểm đang cần bây giờ là một cơ hội, gần như là điều thần kì xảy ra. Lúc này, trong lòng mọi người đã le lói tia hi vọng, đồng thời tâm lý bi quan tuyệt vọng cũng dần vợi bớt. Cả hội lấy lại tinh thần, họ kiểm đếm số lượng đèn cácbua còn sót lại. Bè gỗ trôi trên dòng nước dưới lòng đất chủ yếu phải dựa vào đèn cácbua chiếu sáng, nếu không có nguồn sáng, ngọn lửa của sinh mệnh sẽ hoàn toàn tắt lịm, bởi vậy đèn cácbua và đuốc là hai thứ vô cùng quý giá.

Lúc này, trên cao có lằn sét sượt qua, tựa hồ sấm dội xuất hiện trong đám mây điện từ; khí áp xuống thấp đến mức khiến người ta cảm thấy khó thở; sóng cũng vỗ dữ dội hơn, bè gỗ chòng chành lắc lư như muốn lật. Mọi người sợ sóng to gió lớn sẽ đánh nát chiếc bè, sau khi chỉnh đốn giây lát, cả hội lại vội vàng dùng dây thừng cố định bè gỗ lại.

Tuy Nhị Học Sinh không chịu được sự giày vò do chiếc bè gỗ liên tục lắc lư điên đảo, anh chàng nôn ồng ộc, người sọp đi trông thấy, nhưng cuối cùng thấy cả hội dường như phát hiện lời giải của ẩn số vành đai 300 vĩ Bắc, thì Nhị Học Sinh lại hưng phấn, lớn giọng khẩu hiệu “chiến thiên đấu hải” rồi giúp mọi người lấy túi chống thấm bọc lại những vật dễ bị ngấm nước.

Hải ngọng cho rằng tình hình của Nhị Học Sinh không được lạc quan lắm, anh chép miệng than: “Học người ta cái gì hay ho không học, lại đi học cái bài ‘cáo bắt trộm gà’, bám đít thằng Khôi, ngoài tinh thần chủ nghĩa lạc quan mù quáng ra, thì còn thứ gì ra hồn nữa hả? Anh thấy chú mày sắp hỏng hẳn rồi, anh đây dày công giấu được một lon thịt bò hộp, định để dành đến lúc bí quá mới mang ra dùng, thôi thì bây giờ biếu không cho chú mày vậy” – nói đoạn anh thọc tay vào ba lô bới tung cả lên.

Nhị Học Sinh thấy Hải ngọng bới tung ba lô lên, bên trong lộ ra một chiếc ống nhòm quân dụng Falcon độ phân giải 8×40, thì mắt anh chàng sáng rực lên, anh chàng liền mượn Hải ngọng rồi hí ngoáy thao tác, nhân lúc ánh chớp lập lòe phía đằng xa, Nhị Học Sinh giơ ống nhòm lên mắt, đột nhiên qua ống nhòm, anh ta quan sát thấy giữa đại dương mênh mông có một chấm đen nổi lềnh bềnh. Nhị Học Sinh sửng sốt thốt lên: “Đằng kia hình như có con cá to lắm!”

Tư Mã Khôi cướp lấy ống nhòm nhìn một hồi, nét mặt anh đột nhiên căng ra: “Đó là một cỗ tàu ngầm”.

Hồi thứ sáu

Z-615

Trước đây, Tư Mã Khôi đã biết trong kính viễn vọng Lopnor có chiếc tàu ngầm bị mất tích của Liên Xô, kí hiệu là Z-615, thuộc chi đội tàu ngầm độc lập thứ 40 của lực lượng vũ trang hải quân Liên Xô. Chiếc tàu ngầm này mang theo hai quả tên lửa ra khơi, sau đó mất tích và trở thành con tàu ma xuất quỷ nhập thần, nơi nó gặp nạn cũng trong phạm vi hải vực đi qua vành đai 30° vĩ Bắc. Thế giới bên ngoài thỉnh thoảng lại bắt được sóng ngắn của con tàu này phát ra, nhưng rất khó xác định chính xác vị trí cụ thể. Chiếc tàu ngầm động cơ Diesel quy chuẩn ấy, dường như liên tục di chuyển, chặng đường nó đã đi vượt xa mức độ duy trì liên tục trên biển 11 ngàn hải lý.

Tư Mã Khôi hơi bất ngờ, anh đưa ống nhòm cho những thành viên còn lại quan sát, sau khi nhận định rõ tình hình, mọi người thì thầm bàn luận. Cả hội suy đoán: có lẽ chiếc tàu ngầm vẫn chưa vào đến vực sâu giữa tâm Trái đất, thì gặp sóng thần hoặc thềm sói mòn, nên kết quả  bị xoáy vào vòng tròn ma quái bên dưới 30° vĩ Bắc, giống như tình cảnh của chiếc bè gỗ đang chở mọi người lúc này. Chúng đều di chuyển theo vòng tuần hoàn trong thủy thể dưới lòng đất, suốt từ năm 1953 đến nay, hai mươi mấy năm ròng rã không nhìn thấy ánh mặt trời. Có điều, vòng tròn ma quái tựa con rắn tự cắn đuôi mình, lại nằm ngay trong tầng từ trường phía dưới cùng của lớp vỏ Trái đất, sóng ngắn hoàn toàn có thể truyền dẫn ra ngoài thông qua đám sương nhiễm từ. Đội thám hiểm chỉ có thể giải thích được như vậy về những tín hiệu cổ quái, mà cả hội đã nhận được khi còn ở dưới sa mạc Lopnor.

Nhưng hắc động dưới lòng đất sóng vỗ dữ dội, lại sâu hun hút, không khác gì đại dương mênh mông. Mọi người ngồi trên bè gỗ, mặc cho sóng nước dập dềnh cuốn trôi, bởi vậy cơ hội gặp được chiếc tàu ngầm là vô cùng mong manh. Thế mà, giữa lúc này, nó bỗng dưng lại xuất hiện ngay trước mặt, như thể tự rước xác đến, khiến mọi người không khỏi cảm thấy nghi ngờ.

Cao Tư Dương dụi mắt, trách móc Tư Mã Khôi: “Anh làm công tác bảo mật tốt quá nhỉ? Sao trước đây không kể cho bọn tôi biết dưới lòng đất còn có chiếc tàu ngầm của Liên Xô?”

Tư Mã Khôi sợ nhất là phải đấu lý với Cao Tư Dương, anh liền viện cớ thoái thác: “Làm sao mà tôi biết nó bỗng dưng lại mọc ra chỗ đó, mẹ tiên nhân, đúng là gặp ma giữa ban ngày”.

Hải ngọng cũng muốn ra đó để xem xét tình hình cho ba năm rõ mười, liền đề nghị: “Chắc trên tàu có đồ hộp, vũ khí và pin đèn chưa biết chừng. Khó khăn lắm chúng ta mới tóm được cọng cỏ cứu mạng, nên tuyệt đối không được bỏ qua nó”.

Tư Mã Khôi nói: “Chiếc tàu ngầm này rơi xuống hắc động hai mươi mấy năm nay, chưa biết đã bị thủy thể nuốt chửng hẳn chưa. Tôi thấy bây giờ nó chỉ là con tàu ma hữu danh vô thực mà thôi. Người bên trong chắc đã ngỏm củ tỏi từ tám đời nào rồi, chắc gì đã tìm thấy lương thực và pin. Có điều, trong vòng tròn ma quái dưới lòng đất, khả năng còn ẩn chứa rất nhiều bí mật mà khó có thể tưởng tượng. Chúng ta không được bỏ qua bất kì manh mối nào”.

Thắng Hương Lân nhắc nhở Tư Mã Khôi: “Thủy thể dưới lòng đất rộng mênh mông, bè gỗ trôi không biết bao nhiêu ngày đêm trong cõi biển u minh này, bây giờ, chúng ta chỉ có thể suy đoán chỗ này đại khái là một địa điểm nào đó nằm trên vĩ tuyến 30°, còn kinh tuyến thì không cách nào xác định được. Trong khi đó, bên trong tàu ngầm chắc chắn phải lắp đặt la bàn từ trường hồi chuyển, nếu có thể xác nhận tham số, thì chí ít chúng ta cũng có thể biết vị trí cụ thể của chiếc bè gỗ. Tôi thấy mạo hiểm lần này là rất đáng. Tuy trong con tàu có thể không còn thủy thủ nào sống sót, nhưng thông tin sóng ngắn mà nó liên tục phát ra lại rất bất thường. Chúng ta muốn tiếp cận nó, nhất định phải thật đề cao cảnh giác mới được.” 

Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Đương nhiên, Tư Mã Khôi cũng biết, đoạn sóng ngắn tín hiệu Morse đó rất có thể là do các thủy thủ đã phát đi trước khi con tàu lâm nạn, và nó đã liên tục phát đi trong suốt hai mươi năm, thông qua máy điện đàm không dây công suất thấp và truyền dẫn ra ngoài. Những nạn nhân đang đối mặt với cái chết ấy, muốn cảnh báo đội cứu hộ không nên tiếp cận con tàu. Xem ra, có thể lúc đó trên tàu đã xảy ra việc gì đó vô cùng đáng sợ, nhưng nếu không vào tận trong khoang để chứng kiến tận mắt, thì e rằng họ sẽ vĩnh viễn không thể biết nguyên do thực sự là gì. Nghĩ vậy, anh bảo mọi người phải vô cùng thận trọng, chuyến đi này tuyệt đối không phải buổi diễn tập. Nói xong, anh đưa báng súng thò xuống nước làm mái chèo, gắng sức lái bè về phía phát hiện ra tàu ngầm.

Bè gỗ trôi trong bóng tối không biết bao lâu, đột nhiên có một luồng khí chuyển động thổi ù ù lướt Trong chớp mắt, gió nổi lên như nước triều dâng, kéo con sóng dâng cao như ngọn núi, bè gỗ bị cuốn tung lên tận ngọn rồi lập tức rơi xuống lòng vực sâu, sinh tử chỉ cách nhau khoảng cách mong manh như sợi chỉ, vì tất cả có thể bị dòng khí nuốt chửng bất cứ lúc nào. Mưa lớn quất phần phật, quần áo mọi người ướt sũng. Khung cảnh trước mắt phút chốc bỗng chìm vào bóng tối vô biên.

Cao Tư Dương lấy vải mưa che đèn cácbua, nên luồng sáng mới không bị tắt, rồi đợi khi sóng yên bể lặng đôi chút, cô mới xách đèn ra soi để đếm số người. Những thành viên còn lại thấy lòng đất tối như đáy nồi, chìa bàn tay ra không nhìn thấy năm ngón, nên ai nấy đều bật hết cả đèn quặng lên để phân biệt phương hướng.

Tư Mã Khôi thấy Nhị Học Sinh say sóng, đã nôn hết mật xanh mật vàng, thân hình run rẩy như chiếc lá sắp lìa cành, răng va vào nhau nghe lập cập, liền nói: “Hải ngọng là tay bơi lội vô đối đấy, người ta còn tặng cho mỹ danh ‘mò trăng đáy bể’ nữa cơ, lâu lâu cậu ta lại làm cú nhảy vực, một phát là đã xuống sâu mấy nghìn mét, rồi ngồi đó thong dong ngắm cá chép hóa rồng giữa sóng lớn. Có cậu ta ở bên cạnh, chú mày cứ việc yên tâm khỏi lo chết đuối”.

Hải ngọng ngồi phía sau, chối đây đẩy: “Ớ! Đừng trông đợi gì ở anh. Người chứ có phải rái cá đâu mà dám ngồi thong dong ngắm cá chép hóa rồng, cùng lắm cũng chỉ biết vài chiêu vặt vãnh như vịt cạn thôi, chẳng tài cán gì hơn mọi người đâu”.

Nhị Học Sinh xua xua tay, ý muốn nói: không phải cậu ta sợ rơi xuống nước, mà chỉ là đột nhiên nhớ lại một chuyện rất khủng khiếp. Năm đó, tàu cá của ngư dân quần đảo Chu Sơn ra biển tác nghiệp, họ thường nhìn thấy một cái nắp hình tròn bồng bềnh trên biển, đáy gầm khe có phao gỗ, trông đen sì sì, ruột rỗng, không biết nổi lềnh bềnh trên mặt biển đã bao năm. Trước đó, có người định vớt nó lên, nhưng kéo mãi nó vẫn không động đậy, những người bơi lội giỏi nhất nhảy xuống đó thử mò xem, thì phát hiện bên dưới nắp sắt là ống cao su rất to, nhưng làm thế nào cũng không kéo nó lên được, và không rõ phía dưới còn nối liền với vật gì, người ta rộ cả lên vì suy đoán. Theo lời những lão ngư dân, vật này tồn tại ở đây từ thời trước giải phóng, có lẽ là kho báu mà bọn cướp biển chôn giấu, rồi chúng cắm phao tiêu trên mặt nước để xác định vị trí, đề phòng lúc quay lại vớt lên không tìm thấy.

Sau này, các ban ngành địa phương hay tin, họ đã nhúng tay vào việc, và thật không ngờ “cái nắp sắt” hoàn toàn là công trình chế tạo quân sự, bên trong còn giấu cáp quang thông tin, chắc chắn không phải bọn cướp biển để lại. Việc này thu hút sự chú ý của tất cả các đơn vị liên quan, họ cất công mời sở trục vớt tàu thuyền đến, huy động nhiều tàu cá tham gia trục vớt, nhưng dù thế nào cũng không thể dịch chuyển được vật khổng lồ dưới lòng biển sâu.

Hải quân trinh sát và phát hiện: đó là tàu ngầm của Nhật thời kì hậu chiến chiến tranh Thái Bình Dương. Có lẽ nó đã va đập phải quần thể san hô dưới đáy biển, máy móc lại đột nhiên hỏng hóc, nên khiến nó không thể nổi lên mặt nước. Thế là, các thủy thủ đành thả phao tiêu liên lạc, vì phía dưới nắp sắt có một cái ống thông thẳng vào trong tàu, vừa có thể phát tín hiệu cấp cứu cho thế giới bên ngoài, vừa giúp cung cấp dưỡng khí. Thế nhưng cỗ tàu ngầm này lại gặp vận rủi, phao tiêu liên lạc bị tắc nghẽn, đồng thời không thể kịp thời xử lý sự cố động cơ diesel, nên dẫn đến dưỡng khí trong khoang bị tiêu hao nhanh chóng, khí áp trong lòng tàu mất cân bằng, các cửa khoang chịu ảnh hưởng của áp lực đẩy vào từ phía bên ngoài nên không thể mở cửa thoát hiểm từ trong ra được, và kết quả là hơn 60 viên thủy thủy quân Nhật đều bị chôn sống dưới đáy biển, họ chết vì ngạt thở. Do điều kiện kỹ thuật, nên đến tận ngày nay người ta vẫn chưa thể trục vớt con tàu. Nhị Học Sinh vì đã từng nghe bạn bè làm trong sở trục vớt tàu thuyền mô tả cả quá trình một cách sinh động, mà đương nhiên, trong đó không thể thiếu những chi tiết nhiễm màu sắc phóng đại, như tình hình bên trong con tàu và quá trình xảy ra tai nạn, tuy những chuyện đó chỉ là tin vỉa hè, nhưng tất cả đều hằn khắc thành ám ảnh trong đầu Nhị Học Sinh, nên cậu ta luôn cảm thấy tàu ngầm là vật báo hiệu điềm gở, cái vỏ sắt khổng lồ đó chẳng khác gì chiếc quan tài, và chỉ cần sai sót một chi tiết vô cùng nhỏ bé xảy ra, thì sẽ dẫn đến những biến cố nghiêm trọng. Không những thế, cái chết còn đến rất thảm thương, trước khi chết họ sẽ phải chịu đựng nỗi tuyệt vọng và sự hoảng sợ đến cùng cực, và rất có thể họ sẽ vĩnh viễn nằm lại trong khoang tàu dưới đáy biển tăm tối. Thế mà bây giờ cả hội lại liều lĩnh xông vào trong đó, mà không xảy ra điều quái gở thì mới lạ. Không biết họ sẽ tìm thấy gì trong con tàu ma đã mất tích hơn hai mươi năm nằm giữa vòng tròn ma quái dưới lòng đất? Và chuyện gì đã xảy ra với con tàu hơn hai mươi năm về trước? Cứ nghĩ đến những điều này, cậu ta lại lạnh cả người. 

Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi gạt ngay: “Thời xưa, trình độ văn hóa cỡ chú mày được coi là tú tài đấy, tước vị trên bậc tú tài đều được coi là quan lớn, quan lớn lên công đường không phải quỳ, mắc tội không bị phạt, ngay cả thần quỷ cũng còn nể sợ vài phần nữa là, việc gì chú phải tự mình nhát ma minh thế? Bớt thỏ đế đi cho anh nhờ!”

Hải ngọng cũng chế giễu: “Cái gì mà lạnh người, tớ thấy cậu ta có mà đông cứng từ đời thuở nào rồi ấy chứ, đút cho miếng canh xem cậu ta còn thấy lạnh nữa không?”

Cao Tư Dường sờ trán Nhị Học Sinh, thấy trán cậu ta nóng như phải bỏng, lúc này mưa to như trút, trên bè gỗ lại không có gì che chắn, trước sau, trái phải, hễ thò chân xuống là thấy nước, cô liền bảo Tư Mã Khôi: “Tạm thời cứ trốn vào trong tàu ngầm chốc lát cũng được, biết đâu lại tìm thấy ít thuốc men thì sao”.

Lúc này, chiếc bè gỗ bị sóng đẩy phăng về phía trước, nhờ ánh sáng ngoằn ngoèo của những lằn sét trong mây mù, nên mọi người có thể thấy khoảng cách giữa chiếc bè và vật thể đen sì, khổng lồ, giống như tàu ngầm Z-615 càng lúc càng gần, rồi cảm giác dồn nén theo đó càng lúc càng tăng. Khi đến gần, mọi người lại phát hiện con tàu đã rách nát không còn nguyên vẹn nữa, vỏ ngoài han gỉ loang lổ thành từng vết rạn nứt.

Tư Mã Khôi cũng thầm lấy làm lạ, vì nhìn thân tàu có vài lỗ thủng bị nước tràn vào, có lẽ lúc nó mới rơi xuống đây hãy còn nguyên vẹn, nhưng do nước biển ăn mòn nhiều năm, nên bây giờ mới hư hại nghiêm trọng thế này; nhưng sao nó không bị chìm xuống nước mà vẫn nổi như vậy được nhỉ? Tuy nhiên, Tư Mã Khôi không hiểu nguyên lý cấu tạo của tàu ngầm lắm, nên ý nghĩ đỏ chỉ thoáng qua trong đầu giây lát, rồi anh không để ý đến nó nữa. Anh đốt một cây nến tín hiệu chiếu sáng khu vực mặt nước xung quanh, quăng dây thừng gắn móc câu lên cầu thang nối lên tàu.

Mọi người buộc cố định chiếc bè gỗ thật chặt, sau đó đội mưa chạy lên cầu thang, loạng choạng dò dẫm đến trước nắp khoang chính. Đến gần, cả hội mới phát hiện ống nhòm ngầm ban đêm và đèn halogen cường quang  42cm đều bị hỏng nặng, còn nắp khoang đóng chặt từ bên trong, hoàn toàn không có cách gì mở ra được. Cả hội đành dự tính phải chui qua một khe nứt khá lớn để vào trong. Họ ghé mắt nhìn, thấy các khoang bên trong cấu tạo theo hình trụ, vừa thấp vừa hẹp, không khí ẩm ướt, nước ngấm khắp nơi, khiến hơi thở mọi người trở nên gấp gáp khác thường. Thông qua số hiệu khắc trên thân thuyền, cả hội có thể xác định nó chính là Z-615 – con tàu ma một đi không trở lại hai mươi năm về trước.

Nhị Học Sinh nói với hội Tư Mã Khôi: “Chỗ này giống như ‘buồng điều áp’, phân bố hai bên mạn tàu, vết nứt kéo dài từ ngoài vỏ vào sâu tít bên trong, xem ra Z-615 từng bị va chạm rất mạnh, không biết thứ gì đã đâm nó ra nông nỗi này?”

Tư Mã Khôi thấy, chỉ cần đi xuyên qua buồng điều áp là có thể bò vào lòng tàu ngầm, bên trong tối thui và im lìm. Tuy đến giờ chiếc tàu ngầm Z-615 chỉ còn là cái xác sót lại, nhưng anh vẫn không dám coi thường. Tư Mã Khôi bảo Thắng Hương Lân lắp phim vào máy ảnh, nếu phát hiện ra điều gì quan trọng, thì có thể kịp thời ghi hình lại, rồi anh phân công Hải ngọng kiểm tra lại súng ống đạn dược một lượt. Thân súng M-1887 đã được cải tiến, trông ngắn hơn cả súng lục, phù hợp sử dụng trong môi trường huyệt động, khoang tàu thuyền hay vùng địa hình chật chội, ngoài ra loại đạn mà đội thám hiểm Taninth lắp bên trong, lại toàn loại đạn vỏ kim loại đặc chế, có tác dụng chống thấm rất tốt.

Mọi người chuẩn bị giây lát, rồi lần lượt nối nhau kéo qua khe nứt giữa hai tầng vỏ, chui vào trong chiếc tàu ngầm nằm nghiêng nghiêng một phía, xung quanh không một bóng người, cũng không thấy một thi thể nào, không gian chật chội tràn ngập bầu khí âm u và dồn nén. Tư Mã Khôi quan sát địa hình, thấy có vẻ cả hội đang đứng bên trong một đường hầm chính, ngẩng đầu lên là chạm phải hệ thống đường ống chi chít, trong đó , một đầu có cánh cửa đóng chặt, còn tận cùng đầu bên kia có một tầng chứa nước ngọt và khoang nhiên liệu, cỗ tàu ngầm này tuy dài gần trăm mét, nhìn từ ngoài vào trông vô cùng khổng lồ, nhưng ngoại trừ hai tầng vách vỏ tàu ra, thì bên trong ít nhất cũng phải chia thành ba tầng – tầng trên, tầng giữa và tầng dưới. Bởi vậy, kết cấu bên trong con tàu rất chật chội và phức tạp. Hội Tư Mã Khôi lần đầu bước vào đây nên không khỏi cảm thấy hoa mắt chóng mặt, mọi người đành chia nhóm ra để tiến hành lục soát.

Trong một khoang khép kín, Tư Mã Khôi lật mấy bộ đồng phục dự bị của các thuyền viên, thấy trên cầu vai có biểu tượng cá voi, có lẽ đây là đồng phục của nhân viên SONAR. Thời kì chiến tranh lạnh, đồ dùng của quân đội Liên Xô nhất loạt đều được sản xuất theo quy chuẩn dành cho chiến tranh hạt nhân, nên độ bền và chắc, chắc chắn đã vượt xa mức bình thường, Nhị Học Sinh mà mặc nó vào người thì chắc là sẽ giúp cậu ta che chắn được luồng khí âm lạnh dưới lòng đất.

Suốt mấy năm ở lâm trường, Nhị Học Sinh không hề có lấy một bộ quần áo nào không có mụn vá, nay thấy bộ đồng phục vẫn còn nguyên lành, nên cậu ta chẳng chần chừ mà mặc luôn vào người, rồi lúc thì sờ huy hiệu cá voi trên cánh tay, lúc lại đút tay vào túi áo, ngắm chỗ nọ nghía chỗ kia, thấy chỗ nào cũng mới lạ. Thế nhưng, không hiểu vì lẽ gì mà trong lòng cậu ta luôn dấy lên một cảm giác rất khác thường, dường như cỗ tàu ngầm bí hiểm này không hề có thực như những gì cả hội đang tiếp xúc.

Hồi thứ bảy

NỖI TUYỆT VỌNG SÂU HƠN BIỂN CẢ

Tư Mã Khôi hiểu cảm giác của Nhị Học Sinh, đó hoàn toàn không phải là ảo giác tâm lý, do bầu không khí quánh đặc trên tàu và bóng đổ quanh ánh đèn chiếu tạo thành, mà sau khi mọi người lạc vào vòng tròn ma quái dưới lòng đất, rồi không biết bao nhiêu ngày đêm ngồi trên bè gỗ nổi lênh đênh giữa biển cả, nên ai nấy đều khó tránh khỏi cảm giác đầu nặng chân nhẹ, thậm chí còn quên cả cảm giác giẫm chân xuống đất là như thế nào. Trong khi đó, cỗ tàu ngầm Z-615 có thể tích khá lớn, nó nổi trên biển thì sẽ đằm hơn bè gỗ rất nhiều, nên khi mới bước chân vào, mọi người sẽ nhất thời khó thích ứng. Thế nhưng đến tận giờ cả hội cũng lên tàu nhiều giờ rồi, mà cảm giác bất an đó vẫn còn nguyên, muốn xua cũng không xua được.

Tư Mã Khôi phát hiện, sau khi bị hư hỏng, cỗ tàu ngầm không hề bị chìm, bất kể sóng xô dữ dội thể nào lòng tàu vẫn nhất nhất chúi về phía trước, góc độ không hề thay đổi, điều đó khiến mọi người phải bám vào vách tàu để giữ vững trọng tâm khi muốn di chuyển trong hành lang, hoặc trong khoang tàu. Điều đó cũng chứng tỏ, con tàu nổi trên mặt nước theo một trạng thái cố định và rất bất thường. Thủy thể dưới lòng đất sâu không thể lường, vậy mà con tàu Z-615 tại sao vẫn có thể đứng yên và nổi nghiêng trên mặt biển?

Tư Mã Khôi không nghĩ ra đáp án nào, chỉ cảm thấy con tàu mất tích hơn 20 năm này nhất định phải ẩn giấu rất nhiều ẩn số, và vị trí mà mọi người đang đứng bây giờ có lẽ chỉ là một góc của tảng băng trôi chứa đầy bí ẩn. Nghĩ vậy, anh lại cùng Nhị Học Sinh tiếp tục lục soát, phát hiện trong khoang tàu có vài hộp sắt hình dẹt, bên trong đựng đèn pin và một số dụng cụ khác, ngoài ra còn có hai hộp nến dưỡng khí, chỉ cần châm nó lên là sẽ được cung cấp dưỡng khí trong một thời gian ngắn, có lẽ nó được dùng cho khi phải sửa chữa trong môi trường bóng tối, khép kín và bị mất điện. Tư Mã Khôi nhét đèn pin và nến dưỡng khí vào ba lô của Nhị Học Sinh, còn những thứ phát hiện khác gần như đều vô dụng.

Lúc này, hội ba người Hải ngọng lục soát ở khu vực gần đó cũng quay trở về địa điểm hẹn ban đầu. Họ không tìm thấy pin đèn, dược phẩm, hay vũ khí như lúc trước mong đợi, nên đành tiếp tục do thám khu vực sâu hơn. Cả hội đi xuyên qua hành lang âm u, bên trong chính là khoang chính và phòng thông tin SONAR(1), trong đó chất đầy các loại bản đồ biển và bản đồ máy móc trong thuyền, ngoài ra còn có một cuốn sổ mật mã thiết lập liên lạc giữa con tàu và máy sóng dài ở trụ sở, Tư Mã Khôi tiện tay nhặt mấy tấm bản đồ, nhìn hồi lâu vẫn không phát hiện ra điều gì. 

Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

[1] SONAR: là từ viết tắt của sound navigation and ranging, là một kỹ thuật sử dụng sóng âm hoặc sóng siêu âm (thường ở dưới nước) để di chuyển, liên lạc hoặc phát hiện tàu bè khác.

Sau khi lục soát tổng thể kiểu cuốn chiếu, ngoài chiếc máy phát sóng ngắn, công suất thấp, vẫn đang không ngừng phát ra tín hiệu liên lạc “không được đến gần” ra, thì manh mối duy nhất mang ý nghĩa thực tế trên cả con tàu chính là cuốn nhật ký hành trình của tàu Z-615, trong đó ghi chép rất chi tiết quá trình ra khơi của con tàu. Tuy Thắng Hương Lân đọc được tiếng Nga, nhưng phần lớn nội dung của cuốn nhật trình đều sử dụng thuật ngữ quân sự, nên cô phải rất vất vả mới dịch ra được.

Mọi người đều sốt ruột muốn biết rõ chân tướng vì sao tàu Z-615 mất tích, và tung tích của các thủy thủ bao gồm cả thuyền trưởng hiện giờ ra sao, bởi vì họ cùng gặp cảnh ngộ giống như đội thám hiểm lúc này.

Tư Mã Khôi bảo Thắng Hương Lân đừng cuống, cứ cẩn thận đọc từng chữ, từng đoạn cho chính xác, dù sao bên ngoài vẫn đang mưa lớn, rời khỏi đây cũng không có chỗ nào khác dung thân.

Mọi người thấy tình hình trước mắt, liền cậy nắp lon đồ hộp cuối cùng, rồi cùng nhau ăn lót dạ. Bụng có tí lương thực, lòng cũng đỡ hoang mang hơn. Hải ngọng chớp cơ hội liền tự khen trước mặt mọi người: “Tôi bình sinh coi vật chất như cỏ rác, coi trọng tinh thần như ngàn vàng, cho dù chỉ còn một miếng cuối cùng, thà mình chết đói, tôi cũng sẵn sàng nhường nhịn miếng ăn cho bạn bè. Tôi thấy lần này chúng ta tìm thấy tàu ngầm Z-615 dưới lòng đất, chắc chắn là một phát hiện vô cùng trọng đại, đợi sau khi trở về viết báo cáo cho quân ủy trung ương và Mao chủ tịch, các cậu nhớ phải nói thêm cho tôi vài câu tốt tốt tí nhé. Thế thì Hải ngọng tôi ấy à, chắc chắn quan cao không thể không làm, ngựa tốt không thể không cưỡi, một bước ra ngoài sẽ có xe ô tô đưa đón, sau đít còn có hai cảnh vệ tò tò bám theo; khi đó Nhân dân nhật báo, Quang Minh nhật báo, sẽ thay nhau đăng hình lên trang bìa, còn phải làm báo cáo trong hội nghị hàng chục ngàn người nữa chứ. Các cậu thử nghĩ xem, cảnh tượng đó khiến mình phấn khích biết mấy?”

Cao Tư Dương lườm anh chàng một cái, nói: “Bây giờ rơi vào hoàn cảnh nào rồi mà còn vịt giời nhập tràng vẫn mơ tưởng đến chuyện lập công lĩnh thưởng hả?”

Hải ngọng đang định chu mồm phản bác, thì thấy Tư Mã Khôi xua tay ra hiệu im lặng, để Thắng Hương Lân dịch nội dung ghi chép trong cuốn nhật trình của con tàu Z-615.

Thắng Hương Lân xem qua nội dung ghi chép trong cuốn sổ lịch trình hàng hải, cô phát hiện, trong đó có phần nội dung mà thuyền trưởng đã ghi lại vào những thời khắc cuối cùng, thuyền trưởng hình dung con tàu Z-615 là cỗ tàu ngẫm chưa ra khơi mà đã chịu nhiều lời nguyền tà ác.

Tư Mã Khôi và Hải ngọng từng có kinh nghiệm tác chiến trong quân ngũ. Hai người cho rằng, lẽ ra thuyền trường phải đối xử với con tàu của mình giống như người đồng chí cùng vào sinh ra tử, và phải nảy sinh tình cảm sâu đậm không thể nào chia lìa mới phải. Nghe nói, nhiều thuyền trưởng khi phải đối mặt với tình huống hiểm nguy bất ngờ xảy ra, và không còn cách cứu vãn, họ đã ra lệnh cho toàn bộ thuyền viên bỏ tàu để thoát thân, còn một mình thì họ chọn cách chìm cùng con tàu, mang theo niềm hãnh diện và vinh quang xuống ngủ mãi mãi dưới lòng đại dương u tối. Thế nhưng vị thuyền trưởng của con tàu Z-615 thì dường như rất có thành kiến với con tàu của mình, thậm chí cả ngay khi bắt đầu chấp hành nhiệm vu đưa nó ra biển khơi, ông đã linh cảm thấy con tàu này cực kì không may mắn. Nói như vậy dường như hơi quá lời, bởi rốt cuộc kết quả sau này Z-615 bị rơi vào hắc động dưới vành đai 30° vĩ Bắc, là sự việc không ai có thể tiên đoán được trước khi nó thực sự xảy ra. 

Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Thắng Hương Lân nói, căn cứ theo mô tả của thuyền trưởng trong cuốn nhật trình hàng hải, thì quả thực có hàng loạt sự kiện quái lạ xảy ra với tàu ngầm Z-615, hết bất hạnh này nối tiếp bất hạnh khác bám đuổi theo nó. Kỹ thuật tàu ngầm của Liên Xô thời kì chiến tranh lạnh đã vô cùng tiên tiến, bất luận kết cấu thiết kế, hay tính năng bảo vệ đều dẫn đầu, đã nhiều lần lập kỷ lục về tốc độ lặn và độ lặn sâu lặn. Đặc biệt là động cơ diesel cấp Z rất quy chuẩn, nó sử dụng kết cấu lòng tàu hai vỏ, nên khả năng chịu công phá và tính năng sinh tồn rất mạnh mẽ, trọng lượng nước rẽ dưới ngầm là 2475 tấn và trên mặt là 1952 tấn. Nó có chiều dài 91 mét, rộng 7,5 mét, trong trạng thái tự cung tự cấp hoàn toàn, nó có thể duy trì liên tiếp trong 53 ngày, bởi vậy nó được mệnh danh là con quái vật khổng lồ trên biển. Trong khi đó, con tàu Z-615 này lại có số hiệu chiến thuật là 107, số hiệu đó đồng thời còn là số hiệu của đá huyền vũ, và vì loại hình tàu ngầm này không được sản xuất rộng rãi, nên chỉ có một chiếc Z-615 độc nhất vô nhị mà thôi, các thuyền viên quen gọi nó là “615”.

Thuyền trưởng nói, 615 dường như bị nguyền rủa, ngay trong quá trình chế tạo ban đầu, nó đã bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu điềm gở, lúc mà công nhân phải lắp một thanh dầm lớn, thì bỗng một thanh dầm thép bất ngờ rơi xuống, nghiền nát hai công nhân xưởng tàu đứng dưới thành tương thịt; còn lần đầu điều chỉnh động cơ diesel cấu hình P37-D, con tàu lại phun ra một lượng lớn khói đặc do động cơ gặp sự cố, khiến một nhân viên bị chết ngạt; rồi đến lúc hạ thủy chấp hành nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu bắn thử ngư lôi thì nó lại đột nhiên phát nổ, khiến mấy người thiệt mạng và nhiều người bị thương nặng trong vụ này. Dường như 615 đã bị chiếc bóng của tử thần che phủ, nên nó luôn luôn gặp phải những sự cố chí mạng khiến lòng người khiếp sợ.

Mọi người nghe những ghi chép trong cuốn nhật trình hàng hải xong thì ai nấy đều bất giác cảm thấy rờn rợn, vì sao Z-615 lại thường xuyên xảy ra sự cố như vậy?

Hải ngọng nói: “Xem ra con tàu này rất giống với ngôi nhà ma, ai đến gần nó, người đó sẽ đoản mệnh”.

Tư Mã Khôi thở dài: “Thực ra trên đời này, không chỉ con người mà vạn vật đều có số mệnh riêng của nó, con tàu này có vẻ giống chúng ta, toàn gặp chuyện xui, có điều không ai có thể trả lời được câu hỏi ‘vì sao lại thế’, mà chỉ có thể đổ tại đó là do ông trời sắp đặt, tạo hóa an bài mà thôi. Chúng ta chỉ có thể trải nghiệm số mệnh chứ không thể nào lý giải số mệnh”.

Cao Tư Dương nói với Thắng Hương Lân: “Cô đừng nghe bọn họ huyên thuyên vớ vẩn nữa, mau đọc tiếp đi, sau đó điều gì đã xảy ra với 615?”

Thắng Hương Lân nói: “Tuy những sự cố của 615 liên tục xảy ra, nhưng ủy ban điều tra nguyên nhân sự cố đã tiến hành kiểm nghiệm kỹ càng, mà kết quả vẫn không phát hiện bất kì vấn đề gì tồn tại trong tàu ngầm, bởi vậy tầng lớp lãnh đạo cho rằng, chính sự vô kỷ luật và thiếu ý thức đã dẫn đến những sự cố trên, đồng thời nghiêm cấm các thuyền viên bàn tán đưa tin về những chuyện này nữa. Cuối cùng, lãnh đạo quyết định thay mới toàn bộ thành viên trên tàu, chi đội tàu ngầm độc lập thứ 40 của lực lượng vũ trang hải quân Liên Xô đã nhận lệnh tiếp quản. Đó là đơn vị bộ đội anh hùng, có lịch sử rất oanh liệt, tiền thân của nó chính là hạm đội khu vực sông Vonga, từng tham gia cuộc chiến tàn khốc bảo vệ trận Stalingrad và được nhận danh hiệu cận vệ.

Thuyền trưởng mới nhậm chức của con tàu là một vị chỉ huy có kinh nghiệm tác chiến rất phong phú và vô cùng có uy tín trong quân đội, mọi người đều nhất nhất phục tùng mệnh lệnh của ông, ngay cả quân địch cũng cúi đầu nể phục. Nhân viên cấp dưới của ông được huấn luyện để có phẩm chất ngoan cường, tác phong quân đội, cũng từng nhiều lần nhận được huân chương ‘Sao đỏ’ do đoàn chủ tịch tối cao Xô Viết trao tặng.

Trước khi tiếp quản 615, thuyền trưởng đã nghe rất nhiều lời đồn hư thực về nó, nhưng dưới sự răn đe của chính ủy, không ai dám bàn luận về chuyện trước đây, mà họ thậm chí còn chưa kịp quen thuộc với con tàu, thì đã đột nhiên nhận được mật lệnh chấp hành nhiệm vụ chuẩn bị trực ban.

Các thuyền viên tranh thủ thời gian ngắn ngủi để nói lời tạm biệt với gia đình, rồi hối hả tập hợp, đội mưa lớn lái Z-615 rẽ sóng vào trùng dương. Chẳng ngờ, con tàu đến gần khu vực 30° vĩ Bắc, thì đột nhiên địa chấn dưới đáy biển gây ra sóng thần, rồi tàu chìm nhanh như viên đá rơi xuống nước, lao thẳng xuống đáy biển, sa lầy trong bùn cát, không thể nổi lên được. Các thuyền viên trên tàu bị nhốt mười mấy tiếng trong nỗi tuyệt vọng, mọi người vắt óc nghĩ mọi cách, nhưng đều không thể cứu vãn được tình hình, khoảnh khắc đó như thể đã chạm một tay vào cánh cửa địa ngục.

Đúng lúc mọi người đang trong tận cùng tuyệt vọng, thì con tàu lại đột nhiên khôi phục, như chưa hề xảy ra hỏng hóc, nó lại nổi lên mặt nước. Nhưng khi những khuôn mặt với đủ nỗi kinh hoàng còn chưa kịp hoàn hồn thì 615 lại bị một chiếc cầu nước hình thành từ dòng nước ngầm dưới đáy biển xoáy tít đưa vào hắc động, rồi mặt biển sau sóng gió lại trở về trạng thái tĩnh lặng như lúc đầu. Vì lòng chảo biển bị cơn địa chấn rạch đứt vẫn chưa kịp khép miệng, nên trong khi 615 tuy lành lặn, nhưng đã hoàn toàn mất liên lạc với thế giới bên ngoài, nó chìm lún vào nỗi tuyệt vọng còn sâu hơn biển cả. Đối mặt với hiện thực còn đáng sợ hơn cả ác mộng này, thuyền trưởng đã mô tả cảm giác đó như sau: Vì tổ quốc, tôi nguyện phn bội thượng đế, nhưng giờ phút này có lẽ chỉ mình thượng đế mới biết, rốt cuộc 615 đã rơi xuống nơi nào.’

Những cảnh ngộ mà tàu ngầm Z-615 gặp sau đó, đại khái cũng tương tự như hội Tư Mã Khôi, do kim la bàn bị hỏng, nên chỉ biết cỗ tàu ngầm trôi theo vành đai 30° vĩ Bắc về hướng tây, bất kể ngày đêm. Tuy công năng vượt trội của tàu ngầm và hệ thống SONAR có khả năng giúp Z-615 có thể định vị được lối ra, nhưng hiềm nỗi, đại dương dưới lòng đất lúc nào cũng ầm ầm dậy sóng, lại sâu vô tận, còn không gian trên đầu thì hoàn toàn bị mây từ che phủ dày đặc, nên để tiết kiệm nguyên liệu cho đến khi chờ được đội cứu viện đến, họ bắt buộc phải dừng cung cấp điện cho động cơ diesel, để mặc cho nó trôi nổi trong hắc động. Sau hơn sáu mươi ngày đêm ngoan cường chống chọi giành giật sự sống, từng người trên tàu bắt đầu chết dần, thậm chí có người không chịu được áp lực đã phát điên. Thuyền trưởng nhận thấy vùng biển tử thần trong hắc động căn bản không có điểm tận cùng, bởi vì nó chính là một vòng tròn ma quái quấn quanh vành đai 30° vĩ Bắc, chỉ có lối vào mà không có lối ra. Tuy lúc tác chiến, để ẩn giấu tung tích, tàu ngầm thường để chế độ hoàn toàn tĩnh lặng, nên việc cắt đứt liên lạc với trung tâm chỉ huy là chuyện bình thường, nhưng mất liên lạc trong suốt thời gian dài, lại chứng tỏ con tàu đã gặp sự cố, thế mà đã hơn 60 ngày trôi qua, vẫn không thấy bóng dáng của đội cứu hộ, xem ra không thể hi vọng gì vào viện binh được nữa. Giờ này, có lẽ tên tuổi của tất cả các thuyền viên trên con tàu 615 đã được khắc trên bia đá nghĩa trang liệt sĩ Matxcơva rồi cũng nên, và chắc họ khắc thế này ‘Tưởng niệm các anh hùng Z-615 đã hi sinh bất khuất vì nghĩa lớn. Tổ quốc ghi công những đứa con trung thành bất diệt của người. Các anh sẽ sống mãi trong trái tim mỗi người dân Xô Viết’. Nhưng bất kể bia mộ có khắc những dòng chữ vinh quang đến mấy, thì những thành viên trên con tàu ấy không bao giờ còn có cơ hội được đọc, thậm chí họ đã hoàn toàn từ bỏ hi vọng được cứu viện, giờ chỉ có thể cố gắng tự mình cứu lấy mình mà thôi.

Lúc này, thuyền phó đề nghị cho 615 lặn xuống sâu như vậy có lẽ sẽ tìm thấy huyệt động mà dòng nước ngầm chảy qua và thoát khỏi vòng tròn ma quái. Thuyền trường chấp nhận đề nghị mạo hiểm đó, quyết định phải liều chết một phen. Độ sâu cực hạn mà Z-615 có thể lặn xuống là 200 mét, nhưng nhờ thiết bị tiên tiến và kinh nghiệm điều khiển tàu lặn nhiều năm, nên thuyền trưởng đã cho con tàu lặn xuống tới độ sâu 260 mét, khi áp lực của nước khiến khoang tàu gần như bị ép vỡ, vậy mà vẫn chưa thể chạm tới đáy, cũng như chưa tìm thấy huyệt động nước ngầm.

Thuyền trưởng biết kế hoạch này không khả thi, nếu không nổi lên thì chắc con tàu sẽ tiêu đời, nên ông lập tức ra lệnh cho Z-615 nổi trở lại mặt nước. Nhưng tất cả đã quá muộn, con tàu đã lặn xuống quá sâu, buồng điều áp bị đè bẹp biến dạng, miễn cưỡng duy trì trạng thái tiến về phía trước ở độ sâu 260 mét, các thuyền viên đều tự biết khó thoát khỏi kiếp nạn này, và ai nấy đều cho rằng tất cả mọi chuyện là do lỗi con tàu Z-615 đáng chết này gây ra.

Ai ngờ, đúng lúc này, con tàu đột nhiên được một sức mạnh vô hình nào đó từ từ nhấc bổng, và nổi trở lên mặt nước như cũ, nhưng hình như nó va chạm phải đá, nên lòng tàu bị vỡ và hư hỏng nghiêm trọng. Nhiều người mắc phải chứng tăng áp, rồi bình tích điện của vách ngăn đột nhiên chạm mạch bốc cháy, cũng may mà các thuyên viên kịp thời dập tắt được ngọn lửa, sau đó họ cầm ống nhòm ban đêm đặc chế cho tàu lặn quan sát kỹ xung quanh, và phát hiện thấy con tàu bị một hòn đảo hút chặt, dường như đó là một hòn đảo từ trường, nó cũng nổi bập bềnh giữa biển khơi dưới lòng đất, con tàu đã đâm phải đá ngầm cách hòn đảo một đoạn khá gần.

Sau khi tiến hành thám trắc, thuyền trưởng suy đoán, rất có thể hòn đảo đó là một núi sắt từ khổng lồ, nó hút tất cả tàu thuyền hoặc máy bay gặp nạn và mất tích gần vành đai 30° vĩ Bắc. Có lẽ tiền thân của hòn đảo này là tảng đá khổng lồ từ trong lớp vỏ Trái đất rơi xuống, có điều nó sở hữu một loại từ trường đặc biệt mà các thiết bị thám trắc thông thường không thể nào dò nổi, lực hút của nó đối trọng với thể tích của của tàu thuyền, thể tích càng lớn thì càng chịu lực hút lớn, ví dụ: những vật thể có thể tích nhỏ bé như cây súng, sẽ không bị nó hút. Năm đó, vào thời kì chiến tranh trên biển giữa Nga và Nhật, chiến hạm sắt của quân Nga cũng từng gặp một tai nạn tương tự, hai chiếc tàu hải quân bị hút chặt xuống đáy biển. Tuy nhiên lúc đó loài người còn chưa nhận thức được hiện tượng nên không ai có thể ngờ rằng dưới lòng đất sâu lại tồn tại một con quái vật như vậy, trách gì khi máy bay và tàu thuyền đi qua vành đai 30° vĩ Bắc, thì hết chiếc này đến chiếc khác bị rơi xuống biển. Còn chiếc Z-615, sau khi lặn xuống và mất kiểm soát, cũng may nhờ nó chỉ cách hòn đảo này một đoạn rất gần, nên mới không bị nó kéo tít xuống tận cùng của dòng thủy thể.

Sau khi thảo luận với chính ủy, thuyền trưởng quyết định cử đồng chí thuyền phó lão luyện và chín chắn dẫn theo mười thuyền viên bơi ra đảo do thám địa hình, nhưng sau khi rời khỏi tàu, chẳng bao lâu sau cả đội liền mất liên lạc, những người được cử đi thi hành nhiệm vụ cũng không thấy ai trở về.”

Hồi thứ tám

BẬT LỬA

Thắng Hương Lân nói tiếp: “Ngay sau đó, thuyền trưởng không chỉ phát hiện hòn đảo này là khối sắt từ khổng lồ, mà nó còn ẩn giấu một bí mật còn đáng sợ hơn, con tàu đã bị hủy hoại hoàn toàn, không còn hi vọng có ai sống sót được nữa. Ông liền ra lệnh cho thuyền viên phát tín hiệu, thông báo đội tìm kiếm ‘không được lại gần’. Cuốn Nhật trình hàng hải chỉ có bấy nhiêu, những ghi chép về sau, tôi thực sự không hiểu ông ấy muốn viết gì”.

Mọi người nghe Thắng Hương Lân đọc cuốn “Nhật trình hàng hải” của Z-615, ai nấy đều thầm kinh hãi. Lúc trước cả hội đội mưa to gió lớn phát hiện ra con tàu, nhưng vẫn chưa kịp xem xét kỹ tình hình dưới nước, thì ra Z-615 bị hòn đảo từ trường hút chặt, mà hòn đảo cô lập trôi nổi trong vòng tròn 30° vĩ Bắc này dường như chính là núi Âm Sơn trong truyền thuyết của nước Sở cổ đại. Thế nhưng vì sao sau khi lên đảo, đội trinh sát lại không ai trở về? Vì sao không có một thi thể nào còn sót lại trên tàu? Tất cả những thành viên còn lại, họ đã đi đâu?

Hải ngọng nói: “Tôi cảm thấy thằng cha thuyền trưởng này đúng là mắc dây diều vào mồm, lão này có khiếu ăn tục nói phét đấy, chắc chắn lão thấy con tàu hỏng nặng, không thể dùng tiếp được nữa, nên một mặt dẫn thuộc hạ chạy trốn khỏi tàu, mặt khác lại lo người ngoài tìm thấy nó, nên mới cố ý bịa chuyện nhát ma người yếu bóng vía đây mà”.

Nhị Học Sinh lại nghĩ khác: “Kỹ thuật tàu ngầm thuộc phạm trù tối mật quân sự, nếu quả thực họ phải rời khỏi tàu vì nó quá hỏng hóc, thì họ sẽ dùng ngư lôi hủy hoại nó hoàn toàn, chứ không thể cứ thế bỏ đi được. Ngoài ra, thủy thể hình tròn tựa con rắn tự ngậm đuôi dưới lòng đất rất giống với đại dương nguyên thủy u tối vô biên vô tận, nên hòn đảo này cũng mãi mãi di chuyển tuần hoàn theo một quỹ đạo cố định bên trong vòng tròn ấy. Vậy thì những thành viên may mắn sống sót của con tàu Z-615 có thể trốn đi đâu được chứ?”

Mọi người rôm rả suy đoán, nhưng cuối cùng vẫn không thể rút ra kết luận gì. Có điều, Tư Mã Khôi cảm thấy dường như chuyện này không còn lựa chọn nào khác, vì cảnh ngộ mà Z-615 gặp phải rất khó phán đoán chính xác nguyên nhân. Nếu hòn đảo trôi nổi trong vòng tròn ma quái 30° vĩ Bắc quả thực là núi Âm Sơn, được mô tả trong bích họa vu Sở, thì tất cả những manh mối phát hiện từ trước đến giờ đều tập trung ở đây. Bây giờ, anh buộc phải tin rằng, chỉ có tiếp tục vén bức màn bí mật về chân tướng sự thật, thì mới có cơ hội tìm thấy điểm tận cùng của vòng tròn ma quái.

Mọi người đều đồng ý rằng, đây là kế sách khả thi duy nhất, rồi cả hội nghỉ ngơi giây lát trong khoang tàu, đợi mưa bão dừng hẳn, sẽ rời khỏi con tàu hoang phế, chuẩn bị trèo lên núi Âm Sơn.

Lúc này, Cao Tư Dương thấy Nhị Học Sinh vẫn chưa bớt sốt, cô lục tung khoang chính của tàu ngầm, nhưng vẫn không tìm thấy viên thuốc nào, liền nghĩ đến việc đi tìm trong những căn phòng ở tầng dưới của tàu ngầm Z-615.

Hội Tư Mã Khôi biết phía dưới khoang chính còn có hai tầng nữa, mỗi tầng nối với nhau bằng hệ thống giếng thang dựng đứng, tầng trên là khoang chứa đạn dược, tầng dưới là khoang chứa nước ngọt. Hai đầu của khoang chứa đạn được thiết kế thêm mấy vách ngăn, có lẽ là khoang dùng để chứa vật tư dự trữ, vì mũi tàu chúi về phía trước, mặt đáy rất chật chội, nên những khu vực có nguy cơ thấm ngước nghiêm trọng thì bây giờ đã hoàn toàn chìm ngập trong nước, bởi vậy khi nãy mọi người mới không xuống dưới xem. 

Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Mọi người lập tức đi xuống hàng lang chính ở gần đó, mở nắp sắt của vách ngăn, trèo qua giếng thang và lần lượt xuống gian phòng dưới tầng hai. Không gian ở đây càng ẩm ướt và ngạt thở hơn. Hai bên đều lắp giá đỡ cố định ngư lôi trợ lực cho tên lửa, soi đèn quặng xem kỹ thì thấy phía dưới toàn là nước ngầm đen ngòm ngòm, có lẽ do khoang trước bị nứt vỡ, cộng thêm nước tù ngấm từ trên xuống, đã nhấn chìm cả phần trước cửa của kho đạn dược. Cả hội không thể nào tìm cách vào được bên trong khoang ngư lôi phóng xạ.

Thắng Hương Lân soi đen quặng lên tấm bản đồ kẹp trong cuốn nhật trình hàng hải, cố gắng nhận biết kết cấu lòng khoang của tầng hai. Cô dự đoán, phía sau chắc còn có mấy khoang phụ, không biết bên trong chứa cất thứ gì.

Tư Mã Khôi thấy không thể thâm nhập khoang trước của tầng hai, liền quay lại khoang sau, đột nhiên anh nghe thấy phía trên đầu phát ra tiếng động nhỏ, liền thuận thế ngẩng đầu nhìn lên, thì chỉ thấy có một cái đầu lấp ló thò xuống lòng giếng thang, cái đầu đó đang nghiêng ngó nhìn xuống, ánh sáng đèn quặng của Tư Mã Khôi vừa vặn soi đúng vào lớp da mặt trắng xám của kẻ mới đến, trông bộ dạng của hắn không khác gì pho tượng một con ma bị chết dìm dưới nước, thất khiếu còn ri rỉ máu.

Những người còn cũng lại lần lượt phát hiện ra sự có mặt của hắn, tất cả đèn pin và đèn quặng đồng loạt soi về phía đó. Trong mấy chùm sáng chuyển động bất định, cả hội nhìn thấy một sinh vật vừa giống người lại vừa không giống người, không rõ nó là loài quái vật gì, mà cái đầu giống như con kì nhông bị lột da, hai con mắt cực kì nhạy cảm với ánh sáng, trên mặt không có mũi, chỉ có mấy tầng nếp gấp thịt, hai bên cổ dường như còn có mang, kéo dài đến tận mép, hình như nó cảm nhận được hơi thở của người sống, nên thò cái lưỡi đỏ như máu bò ngược xuống giếng thang.

Mọi người đột ngột nhìn thấy con quái vật, thì da đầu như bị điệt giật, từng cọng tóc dựng đứng cả lên.

Toàn thân con quái vật ướt ròng ròng, nó như một con ma chết đuối mới vớt từ dưới nước lên, động tác của nó nhanh như ma quỷ, không đợi mọi người kịp phản ứng, nó đã nhảy bổ vào trong giếng thang, khẩu súng M-1887 của Tư Mã Khôi không thể xoay chuyển trong không gian chật hẹp thế này, nên anh đành nhanh như cắt lộn người ra sau để tránh nó.

Con ma chết đuối lao theo, đáp đúng xuống khoảng trống giữa Tư Mã Khôi và Cao Tư Dương, rồi chỉ nghe một tiếng “lục cục”, nó đã há ngoác miệng định cắn Cao Tư Dương. Trong lúc hồn vía bay chín tầng mây, Cao Tư Dương vội vàng nổ súng, khẩu súng “pằng” một tiếng trúng ngực con quái vật, viên đạn ghém cỡ 12 bắn xuyên thủng một lỗ lớn qua người con quái vật. Trong tiếng gào rú thảm thiết, nó rơi thẳng vào người Tư Mã Khôi đang đứng gần đó, rồi lăn lông lốc xuống dưới. Vừa chạm sàn con quái vật đã đứng bật dậy. Cao Tư Dương chưa kịp lên đạn, thì nó đã lù lù xuất hiện ngay trước mặt, cô thấy tình thế nguy cấp, không đủ thời gian né tránh, đành lấy báng súng gắng sức chặn con quái vật.

Nhị Học Sinh và Thắng Hương Lân đứng phía trước cùng lúc hét lên kinh hoàng: “Chết rồi!”. Hải ngọng thấy Cao Tư Dương lâm vào tình thế hiểm nghèo, thì anh lập tức khai hỏa khẩu súng săn gấu Canada, loại đạn dành cho họng súng cỡ lớn đã lập tức xé nát con quái vật ra thành hai mảnh, máu chảy lênh láng khắp mặt sàn.

Ai ngờ, hai cặp móng vuốt của con ác ma vẫn nắm khư khư khẩu súng trường của Cao Tư Dương không chịu buông ra, không những vậy lực nắm còn rất mạnh, làm cách nào cũng không rứt ra được.

Lúc này, Tư Mã Khôi vừa nhổm người dậy, anh không dám nổ súng vì trong khoang thuyền chật hẹp, bởi chỉ sợ ngộ nhỡ sát thương đồng đội, hoặc vô tình kích nổ ngư lôi, thế là anh vung dao săn từ phía sau, rạch từng ngón của con quái vật. Chẳng ngờ, con ác ma tuy mất đầu nhưng vẫn chưa đoạn khí hẳn, những khúc xương ngón cứng chắc vẫn bám riết lấy vách khoang, phát ra tiếng ‘‘ken két”, rồi mười mấy giây sau mới bất động hoàn toàn.

Sự cố bất ngờ xảy ra chỉ trong nháy mắt, còn chưa đầy nửa phút, nhưng cả quá trình đó cũng khiến cả hội thót tim như thể vừa lượn một vòng quỷ môn quan trở về, mọi người ướt đầm mồ hôi lạnh. May mà không gian chật chội trong khoang đã hạn chế hành động của con quái vật, nếu không thì chắc bây giờ trong hội đã có người phải xuống âm tào điểm danh.

Hải ngọng bắn vỡ cái sọ còn lăn lóc trên đất, mắng chửi: “Con mẹ mày, mày là cái thứ gì thế không biết, mong rằng không phải ác ma bị đày dưới núi Âm Sơn!” 

Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi nói: “Ma thì làm gì có thể xác máu thịt. Tớ thấy nó chắc là xác chết thành tinh tương truyền từ thuở xa xưa. Nghe nói, con người tồn tại hoàn toàn là do hồn phách, hồn thiêng nhưng phách thì đục, hồn thiện còn phách ác; nếu hồn đã chết mà phách vẫn còn ngưng trệ, thì trong thể xác chỉ còn lại mỗi “phách”, đến lúc đó con người sẽ trở thành cương thi, ban ngày bất động, ban đêm mới xuất hiện đi lang thang khắp nơi”.

Những người còn lại lấy hết can đảm bước đến gần, soi đèn quặng vào chỗ thi thể nát bét những máu với thịt, chỉ thấy sinh vật đó có mang, có vây, móng vuốt sắc nhọn, chi sau rất phát triển, xương đuôi rất dài.

Cao Tư Dương nói: “Hình như, khứu giác và thính giác của nó đặc biệt nhạy bén, hơn nữa còn có mang và hình như nó từ dưới nước bò vào trong khoang Z-615. ”

Nhị Học Sinh sợ vãi linh hồn, mồ hôi lạnh toát ra như tắm, cơn sốt không biết tự động hạ nhiệt từ lúc nào, cái đầu đang mê man, nặng trịch bỗng chốc trở nên tỉnh táo hẳn ra. Cậu ta nói: “Hình như nó là loài sinh vật bắt mồi nguyên thủy vô cùng hung ác và tàn nhẫn, nghe đồn trước đây tàu đế quốc Mỹ ra khơi tuần tra trên biển, lúc về bắt được một con ‘cá người’ đào được trong băng, còn vì sao gọi nó là cá người, mà không phải người cá? Bởi vì đặc trưng của loài cá trên cơ thể nó rất nổi bật. Người ta suy đoán, có lẽ nó bị đóng băng ở vùng biển Bắc Băng Dương từ hơn hai trăm triệu năm trước. Sau khi rã đông, không ngờ nó vẫn còn dấu hiệu của sự sống, người ta gọi đó là một mắt xích bị thất lạc trong lịch sử sinh vật. Chuyện này cho đến ngày nay vẫn được liệt vào hàng tài liệu tuyệt mật của quân đội. Thủy thể dưới lòng đất 30° vĩ Bắc, cũng là nơi hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài. Hay con quái vật khi nãy cũng là loài ‘cá người’ nhỉ?”

Tư Mã Khôi lắc đầu nói: “Đã là tài liệu tuyệt mật của quân đội, thì làm sao chú lại biết được? Năm đó người ta còn đồn đại, bọn Mỹ chế tạo ra bom nguyên tử từ dầu ép bằng tinh hoàn đàn ông nữa cơ. Đó toàn là tin vỉa hè không có căn cứ, làm sao mà tin được chứ?”

Thắng Hương Lân đột nhiên nhớ ra điều gì đó, cô hốt hoảng nói với Tư Mã Khôi: “Có lẽ nó chính là một trong những thành viên trên con tàu Z-615 năm ấy. Anh còn nhớ chuyện quái dị ở lâm trường mà bác đánh xe kể cho chúng ta nghe không?”

Nhị Học Sinh trố mắt hỏi: “Con quái vật có mang này trông dáng dấp cũng khá giống người, vì nếu bảo nó là loài động vật máu lạnh nào đó chuyên sinh tồn trong huyệt động, thì nghe có lẽ còn hợp lý hơn, chứ nó làm sao là thủy thủ của con tàu 615 được chứ?”

Tư Mã Khôi ngớ người một lúc rồi hỏi: “Chuyện này liên quan gì đến câu chuyện quái dị trong lâm trường nghe kể lúc dọc đường chứ?”

Trên đường đến vùng núi Đại Thần Nông Giá, hội Tư Mã Khôi tiện đường đáp nhờ chuyến xe đến lâm trường của ông bác đốn gỗ, rồi trong câu chuyện phiếm, ông bác đánh xe đã kể cho cả hội nghe chuyện tên thổ tặc trong lâm trường trước đây từng vào núi đào bới văn vật đồng xanh của Sở quốc. Có lẽ, người này đã chui vào đường hầm trong rừng rậm nguyên sinh biển Âm Dụ, nhưng vẫn chưa đến hố tế lễ đặt thần thú “Sở tải”. Không ai biết hắn đã đào được thứ gì, nhưng sau khi giết chết đồng bọn, hắn đã tìm cách trốn ra nước ngoài, nhưng không may lại bị cảnh sát bắt giữ ngay trên toa xe lửa. Căn cứ vào lời kể của những nhân chứng trên tàu, gã thổ tặc còn định phi tang chứng cớ, bằng cách ném cái bọc gói một đứa trẻ đã chết xuống sông. Hắn đã cõng án giết người, một lúc hai chết ba mạng, kiểu gì cũng không tránh khỏi án tử hình, nhưng từ đầu chí cuối hắn vẫn kiên quyết không chịu nhận tội giết đứa trẻ, chỉ nói thứ mình vứt xuống sông là minh khí đồng xanh của Sở quốc. Đến tận lúc bị áp giải ra pháp trường xử bắn, hắn vẫn khăng khăng không chịu nhận tội. Từ đó, câu chuyện về hắn trở thành chuyện quái dị được lưu truyền rộng rãi khắp lâm trường. 

Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Lúc đó, Tư Mã Khôi cũng chỉ nghĩ: chuyện đâu nghe xong để đấy, hơi đâu mà đi kiểm chứng xem nó thật giả thế nào, vì có khi đến chín phần là bịa đặt ấy chứ, bởi ngay cả lô gích cơ bản nhất của cả chuỗi sự kiện cũng không có, đúng là điển hình cho loại chuyện lưu truyền trong dân gian. Khi đó, Thắng Hương Lân vẫn nằm ngủ trên xe, nhưng thực ra cô đã nghe hết từ đầu đến cuôi câu chuyện.

Tư Mã Khôi vẫn tự nhận mình là người nhanh trí, nhưng đến bây giờ anh vẫn thực sự không thể hiểu hai chuyện “gã thổ tặc bị lâm trường thẩm vấn bắn chết” và “cả hội bị quái vật tấn công trên tàu Z-615” rốt cuộc có liên quan gì đến nhau.

Tư Mã Khôi đang định hỏi kỹ, thì lại nghe thấy có tiếng động vọng lại từ trong khoang. Anh vội vàng soi đèn lên giếng thang, thì thấy một cái bóng trắng lướt qua, nghe động tĩnh có thể phán đoán, trong khoang thuyền không phải chỉ có một vị khách không mời mà đến.

Mọi người biết tình hình không ổn, nếu vẫn còn lũ sinh vật này nhảy vào tàu ngầm; vì đối phó với từng con trong khoang chứa đạn chật hẹp, còn cuống quýt hết cả chân tay, huống hồ là cả bầy, vả lại địa hình ở đây vô cùng bất lợi, chui xuống từ thang giếng khác nào đợi chết, thế là mọi người liền nhanh tay đóng chặt nắp khoang lại, ai ngờ mặt nước ở khoang trước lại lay động dữ dội.

Tư Mã Khôi lập tức xoay đèn quặng chiếu về phía đó, anh nhìn thấy một khuôn mặt quái dị, trắng bệch như ma chết đuối đang từ từ ngoi lên. Anh biết cả hội bây giờ đang lâm vào tình huống vô cùng ngặt nghèo, xem ra tất cả đã bị bao vây trong khoang tàu.

Lúc này, Hải ngọng xông lên vác súng chĩa thẳng về mặt nước. Con quái vật chưa kịp thò mặt ra, đã bị bắn vỡ nửa cái sọ, máu nhuộm đỏ trong khoang, khắp nơi nồng nặc mùi tanh tưởi. Ngay phía sau con quái vật, còn vô số đồng loại của nó, chúng ồ ạt chui vào khoang tàu từ khe nứt trên khoang ngư lôi phóng xạ.

Tư Mã Khôi thấy có con đang trườn xuống từ giếng thang, anh vội tóm lấy Hải ngọng lúc này vẫn đang bận bịu lên đạn, rồi hét lớn: “Không chống lại chúng được dâu, mau rút ra khoang sau thôi”.

Mọi người nhanh chóng bước giật lùi về vách ngăn khu vực phía sau tầng hai, hợp lực đẩy bánh lái định đóng cửa khoang, nhưng có một cánh tay trắng ởn từ ngoài khoang bỗng dưng thò vào, vừa vặn kẹp ngay giữa khe cửa, khiến cả hội không thể nào khép chặt được cửa tàu.

Hội Tư Mã Khôi tự biết, thời khắc này mà không đóng được cửa tàu, thì chắc chắn cả lũ sẽ mất mạng. Mọi người hét lớn rồi nhất tề đẩy thật mạnh cánh cửa, gắng hết sức xoay bánh lái đến tận cùng. Cánh tay kẹt ở giữa bị ép đến nỗi máu thịt trộn lẫn vào nhau be bét, nửa cánh tay với nguyên bàn tay mắc cả da lẫn thịt vào trước cửa, ngón tay vẫn không ngừng cử động.

Cao Tư Dương không dám nhìn, cô đưa tay quệt mồ hôi lạnh trên trán, quay người xách đèn cácbua. Cô xem xét tình hình trong khoang vách ngăn trước, thấy có bốn chiếc thùng sắt lớn đóng cố định, đang định nhìn kỹ xem nhãn mác dán bên trên thì Nhị Học Sinh đột ngột thổi tắt đèn cácbua. Cao Tư Dương giật nảy mình, hỏi: “Anh làm gì vậy?”

Nhị Học Sinh căng thẳng quá, mặt vàng như nghệ, run lập cập nói: “Trong thùng đựng chất lỏng hydrogen, chỉ cần dính tí lửa thôi, thì cả chiếc Z-615 này sẽ nổ tung lên trời cho coi!”

Thắng Hương Lân soi đèn quặng bốn phía xung quanh, cô phát hiện trên thân thùng quả nhiên có dán nhãn mác dung dịch hydrogen. Theo nội dung ghi trong cuốn nhật trình hàng hải, thì ngoài động cơ diesel ra, tàu ngầm Z-615 còn lắp đặt bình khí hydro đang trong giai đoạn thử nghiệm, dùng để cung cấp nguồn nhiên liệu, phục vụ những chuyến đi dài ngày trên biển. Vì vấn đề an toàn, những thùng sắt này được đặt trong khoang riêng, nhưng vì thùng chứa được thiết kế chưa hoàn thiện, nên vẫn tồn tại khả năng bén nổ bất cứ lúc nào, bởi vậy loại nhiên liệu này còn có tên gọi là “bật lửa”. Nhìn thông số ghi trên nhãn mác có thể thấy rõ, mỗi thùng sắt đều chứa đầy ắp dung dịch, có lẽ vẫn chưa bị tràn ra ngoài, nếu không, lúc cả hội vừa xách đèn cácbua vào khoang thì nó đã nổ tan thành xác pháo. Nghĩ đến cảnh tượng đó, hội Tư Mã Khôi ai nấy đều sợ tái mặt.

Tư Mã Khôi biết rõ tình hình, cũng thầm than khổ. Anh bảo Hải ngọng giữ chắc cánh cửa, sau đó đuổi theo Thắng Hương Lân hỏi: “Sao cô lại nói bọn xác chết bò vào khoang tàu có liên quan đến gã thổ tặc bị xử bắn? Rốt cuộc gã đó đã giấu giếm điều gì?”.

Hồi thứ chín

THOÁI HÓA

Thắng Hương Lân nói: “Ban đầu, tôi không hiểu nửa sau của cuốn nhật trình hàng hải viết gì, nhưng bây giờ tôi hiểu ra rồi. Toàn bộ thuyền viên trên con tàu Z-615 đều đã trở thành quái vật bị hòn đảo này khống chế.”

Tư Mã Khôi lắc đầu nói: “Cô càng nói càng rối rắm, hòn đảo này làm sao có thể biến các thuyền viên của Z-615 thành quái vật được chứ?”

Thắng Hương Lân sốt ruột, chỉ muốn mau chóng giải thích rõ mọi chuyện cho Tư Mã Khôi nghe, nhưng câu chuyện này không thể chỉ nói một hai câu là có thể hiểu ngay được. Nghĩ đi nghĩ lại, cuối cùng cô bắt đầu điều tra từ tin đồn mà mọi người nghe được lúc dọc đường. Bởi vì mọi người chỉ nghĩ đó là chuyện nghe xong để đấy, vì rốt cuộc nó đã truyền đi truyền lại trong bao nhiêu năm, thì ai biết thực hư thế nào. Nhị Học Sinh là thanh niên trí thức bị đẩy xuống lâm trường cải tạo tư tưởng đã nhiều năm, nên cô đã hỏi cậu ta xem chuyện bác đánh xe kể có thật hay không.

Nhị Học Sinh nói rằng, chuyện đó hoàn toàn có thật, không chỉ mấy lâm trường, mà ngay cả dân bản địa trong núi, ai ai cũng đều biết cả; có điều chuyện đó xảy ra khi cậu ta vẫn chưa đến lâm trường, nên cũng chỉ nghe người ta kể lại, chứ không tận mắt chứng kiến, nhưng nội dung cũng đại khái như những gì hội Tư Mã Khôi được biết. Khu vực rừng nguyên sinh ở Đại Thần Nông Giá đầy rẫy dã thú, nhưng con người thì vô cùng thưa thớt. Những truyền thuyết như thủy quái hay dã nhân nhiều vô số kể, nhưng những câu chuyện liên quan đến con người thì lại rất ít, huống hồ chỗ cậu ta ở lại là rừng sâu núi thẳm, đằng đẵng với tuế nguyệt, chính vì vậy mà chuyện gã thổ tặc bị xử bắn đã trở thành đề tài rất nóng hổi, hầu như không người dân nào không biết, rồi dần dần, nó trở thành chuyện quái dị bị đồn đi đồn lại khắp nơi. Nó quái dị vì các tình tiết trong câu chuyện không hợp lý, nó kì lạ vì tình tiết không tuân theo lô gích thông thường, nên khiến mọi người không thể lý giải. Không ai biết trong đầu gã thổ tặc đó nghĩ gì, bởi vậy, dẫu câu chuyện đã thành dĩ vãng nhiều năm, nhưng tận bây giờ vẫn được rất nhiều người nhắc đến. 

Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Cao Tư Dương gật đâu tỏ ý rằng mình cũng đã từng nghe dân binh kể lại chuyện quái dị này. Có người còn nói, gã thổ tặc là đặc vụ nằm vùng, hắn đã lấy bộ da của đứa trẻ để bọc máy điện đàm rồi, sau khi hành tung bị bại lộ, hắn liền quăng máy điện đàm xuống sông để tiêu hủy tang chứng, bảo vệ sự an toàn của đồng đảng, nên đến lúc chết hắn vẫn không chịu nhận tội. Có người còn nói, thổ tặc là những kẻ bị âm hồn trong núi nhập vào, thế nhưng những phán đoán đó càng lúc càng hoang đường, nên không thể thuyết phục được mọi người.

Hải ngọng nói: “Đây chỉ là tin đồn thất thiệt, vì một chuyện rất bình thường nhưng đôi khi cũng có thể đồn đại thành chuyện quái dị, mà càng đồn lại càng quái dị, thậm chí có những chuyện hoàn toàn do bịa đặt, chứ không hề xảy ra ngoài thực tế”.

Thắng Hương Lân nói: “Nếu chuyện này xảy ra thật, thì chỉ có một cách giải thích hợp lý duy nhất, đó là, gã thổ tặc hoàn toàn quên mất việc mình đã làm”.

Mọi người tròn mắt kinh ngạc: “Quên á? Làm gì có chuyện nói quên là quên được dễ dàng thế?”

Thắng Hương Lân nói: “Vành đai 30° vĩ Bắc chôn giấu rất nhiều tầng quặng có từ tính mạnh, những thành viên trước đây từng tham gia tác nghiệp dưới giếng quặng hoặc thám trắc địa chất ở khu vực này, cũng có đã người xuất hiện triệu chứng dần dần mất trí nhớ. Đó là triệu chứng mắc phải do chịu tia phóng xạ khoáng vật dẫn đến protein TAU(1) trong não tập trung lại một chỗ, mà phần bị mất trong chuỗi trí nhớ thường không có quy luật nhất định. Tôi thấy, nội dung phần sau của cuốn nhật trình hàng hải, thuyền trưởng ghi chép rất hỗn loạn, hầu hết là những nội dung không liên quan gì với nhau, giống như chuyện quái dị đồn đại trong lâm trường, bởi lô gích kì quặc khiến người ta không thể lý giải. Từ đó tôi đã nghĩ, năm đó rất có khả năng gã thổ tặc đã thâm nhập huyệt động có sự tồn tại của tầng từ, còn những chuyện xảy ra sau này thì có lẽ đều do chuỗi ký ức bị khuyết tạo thành. Có lẽ, ngoài việc trộm được minh khí đồng xanh, gã thổ tặc còn ra tay giết chết một đứa trẻ vì nguyên nhân nào đó, rồi giấu xác đứa bé trong tay nải, nhưng lúc bị người khác phát hiện, hắn đã hoàn toàn không nhớ nổi chuyện gì đã xảy ra vào khúc giữa ấy; còn về thực sự lúc đó cụ thể đã xảy ra những gì, thì chúng ta cũng không có cách nào truy xét được. Tôi chỉ suy đoán ra cảnh ngộ mà Z-615 gặp phải từ gợi ý của truyền thuyết đó mà thôi.”

[1] Protein TAU: là một loại protein có trong các tế bào thần kinh, chủ yếu trong hệ thống thần kinh trung ương, có chức ng hỗ trợ hoạt động cho các nơron. Một khi protein TAU có khiếm khuyết thì sẽ gây cho con người các chứng bệnh liên quan đến thần kinh như mất trí nhớ,Alzheimer.

Tư Mã Khôi vẫn thắc mắc: “Chuyện gã thổ tặc có thể đúng như cô nói thật, nhưng theo suy đoán, nếu vòng tròn ma quái ở 30° vĩ Bắc khiến con người mất đi trí nhớ thì cùng lắm những thuyền viên đó cũng chỉ mất hết ký ức trong đầu, hoặc cùng lắm là trở thành ngây dại, chứ sao lại biến thành lũ quái vật giống như loài ác quỷ vậy?”

Thắng Hương Lân nói: “Vì những kẻ may mắn sống sót trên tàu Z-615 đã bị thoái hóa, họ đã biến thành ký sinh trùng trên hòn đảo này”.

Mọi người nhìn nhau thất sắc, Cao Tư Dương hỏi: “Nói như thế thì chẳng phải đây là một loại hiện tượng quay trở về gốc gác nguyên thủy ư?”

Hải ngọng vội cắt ngang: “Đợi đã, theo tôi hiểu thì con người được tiến hóa từ vượn, nếu thực sự xảy ra hiện tượng thoái hóa trở về cội gốc nguyên thủy, thì họ phải biến thành vượn mới phải chứ. Tôi chưa từng thấy con vượn nào lại mọc mấy cái mang trong mồm cả”.

Nhị Học Sinh giải thích: “Sinh vật sống dưới biển cả bị những thứ trên lục địa thu hút, khiến chúng xảy ra thay đổi, dần dần tiến hóa thành động vật lưỡng cư, rồi dần dần chuyển hóa thành loài động vật bò sát, mà vượn cổ lại được tiến hóa từ động vật bò sát”.

Hải ngọng gãi đầu gãi tai: “Thật khó hiểu! Nếu vượn cổ có thể tiến hóa thành người, thì tại sao trên thế giới vẫn còn loài vượn?”

Nhị Học Sinh nói: “Điều này…. có lẽ là do vượn cổ có rất nhiều chi họ khác nhau, nhưng chỉ một trong những chi họ của chúng có đầy đủ gốc rễ trí tuệ, nên mới có thể dần dần tiến hóa thành con người”.

Tư Mã Khôi vẫn cảm thấy vẫn lơ mơ đôi chỗ, liền muốn Thắng Hương Lân nói cụ thể hơn, anh hỏi: “Nếu các thuyền viên của Z-615 bị thoái hóa nhanh như vậy, thì hội chúng ta giờ đây cũng đang nằm trong vòng tròn ma quái 30° vĩ Bắc, chẳng lẽ chúng ta cũng sắp phải đối mặt với kết quả đáng sợ đó sao?” 

Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Thắng Hương Lân nói: “Trong mạch đá nào đó dưới lòng đất tồn tại loại nguyên tố phóng xạ hoặc từ trường thiên nhiên, nếu tiếp xúc trong khoảng thời gian ngắn thì có thể sẽ gây ảnh hưởng đến trí não con người, ví dụ như mất trí nhớ hoặc nảy sinh hành vi bất thường, giống như hội chứng Alzheimer, mà người phương Tây vẫn nói đến. Theo kết quả thám trắc của tàu ngầm Z-615, thì núi Âm Sơn dưới lòng đất chính là một thỏi thạch từ khổng lồ. Từ những chuyện mới xảy ra khi nãy có thể thấy, nếu chúng ta dừng lại và tiếp xúc lâu dài với nó, chúng ta cũng sẽ bị thoái hóa với tốc độ nhanh chóng, rồi cuối cùng sẽ biến thành quái vật mất hết nhân tính, chẳng khắc nào loài ác quỷ, đồng thời vĩnh viễn bị ngọn núi Âm Sơn trói buộc ờ đây. Các thuyền viên trên con tàu Z-615 bị lạc đường đến vành đai 30° vĩ Bắc, chí ít đã trôi nổi trong thủy thể liên tục trong nhiều ngày đêm, và khi nó mới bị hòn đảo này hút, các thành viên trên tàu vẫn chưa có biểu hiện gì khác thường, thế nhưng những phần sau của cuốn nhật trình hàng hải dần dần trở nên hỗn loạn, thì dường như thuyền trưởng đã phát hiện ra bí mật này, nhưng lúc đó tất cả cũng quá muộn. Theo truyền thuyết của nước Sở cổ, thì dưới núi Âm Sơn toàn nhốt những âm hồn ác ma vạn kiếp không được siêu sinh, nhưng nguyên hình của nó thì có lẽ chính là những quái vật bị thoái hóa này. Có lẽ họ chính là số tù binh và nô lệ bị quẳng vào núi hiến tế ngay từ thời Hạ Thương Chu cho đến thời Xuân Thu Chiến Quốc; và có lẽ, những kẻ may mắn sống sót trên tàu Z-615 không hề bị ác ma ăn thịt, mà bản thân họ đã biến thành ác ma của núi Âm Sơn. Đội thám hiểm chúng ta hiện giờ thân cô thế cô, khó mà thoát ra khỏi vòng quay số phận tàn khốc này.”

Thực ra, cả hội đã sớm đặt mình ra khỏi vòng sinh tử, nhưng cứ nghĩ đến kết quả mà họ sắp phải đón nhận, thì trong lòng ai nấy không khỏi cảm thấy run sợ.

Tư Mã Khôi hỏi Thắng Hương Lân: “Bây giờ, chúng ta còn bao nhiêu thời gian nữa?”

Thắng Hương Lân nói, cô cũng không thể suy đoán chính xác, nhưng căn cứ theo ghi chép trong cuôn nhật trình hàng hải của Z-615, thì có thể tính toán chậm nhất là trong vòng hai ngày, sẽ có người bắt đầu xuất hiện biểu hiện mất trí nhớ.

Tư Mã Khôi dựa vào đồng hồ sinh học của bản thân, dự đoán từ lúc phát hiện thấy Z-615 đến giờ, có lẽ đã ba bốn tiếng trôi qua. Nếu trong núi Âm Sơn quả thực có tồn tại nhật quỹ, thì có lẽ đội thám hiểm vẫn còn kịp tìm thấy lối ra, và đào thoát ra khỏi vòng tròn tử thần 30° vĩ Bắc này.

Cao Tư Dương nói: “Bây giờ không biết bao nhiêu bọn ác quỷ đã bò vào trong tàn tích con tàu Z-615, chúng ta còn không bước được ra khỏi cửa được nữa là…”

Nhị Học Sinh thở nặng nhọc: “Tôi bắt đầu cảm thấy càng lúc càng khó thở, e là không khí trong khoang phụ hình như không còn nhiều nữa”.

Hải ngọng cũng cảm thấy ngột ngạt, liền nảy ra ý nghĩ: “Chẳng phải chúng ta vừa tìm thấy nến dưỡng khí dùng trong tàu ngầm sao? Tôi thấy chắc chỉ cần châm một cây cũng đủ duy trì trong vòng vài giờ đồng hồ, trong thời gian đó, chúng ta phải mau nghĩ cách thoát ra ngoài”.

Nhị Học Sinh vội vàng xua tay: “Anh đừng quên cả khoang tàu này là cái bật lửa cực nhạy, ai dám dùng lửa ở gần cái thùng chứa đầy dung dịch hydrogen chứ? Tôi thà cửa ra cho bọn quỷ sống kia ăn thịt cho xong”.

Tư Mã Khôi biết “bom hydro”, hay còn gọi bom hạt nhân, là một loại vũ khí chiến lược, có thể tạo ra vụ nổ cấp trên ngàn vạn tấn hạng thuốc nổ TNT, không những vậy, nó còn mang tính phóng xạ truyền nhiễm rất nghiêm trọng, bởi vậy nên nó còn có tên gọi là bom phóng xạ hay bom bẩn. Cỗ tàu ngầm Z-615 có chứa nhiên liệu phụ trợ dung dịch hydrogen này, có khác nào một trái bom phóng xạ khủng bố với uy lực kinh người? Nếu nó phát nổ dưới lòng đất, đừng nói tàn tích con tàu Z-615 hóa thành tro bụi, mà e là cả ngọn núi Âm Sơn cũng nổ bắn cả xác lên tận bề mặt Trái đất ấy chứ, thậm chí cái vòng tròn ma quái phía dưới vành đai 30° vĩ Bắc này cũng sẽ gãy lìa. Lúc này, anh thấy không gian khoang phụ gần như bị bịt kín hoàn toàn, chút dưỡng khí ít ỏi còn lại chắc không thể duy trì trong bao lâu, nhưng nếu sử dụng nến dưỡng khí hoặc súng ống, thi hậu quả sẽ xảy ra thật ngoài sức tưởng tượng.

Thắng Hương Lân nói: “Cũng không nghiêm trọng như anh nghĩ đâu, vì dung dịch hydrogen trong khoang nhiên liệu và bom hydro cấp vũ khí là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, nhưng dù vậy thì uy lực phá nổ của nó cũng đủ sức hủy diệt con tàu này”.

Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ hồi lâu, anh nhận thấy không thể quay trở lại khoang trước, còn nếu ở lại đây thì trước sau gì cũng ngạt thở mà chết, đồng thời cũng không thể tiếp tục lùi về khoang sau, ngộ nhỡ nhưng khoang sau cũng bí khí như thế này thì cả hội có mà thành “thịt hộp”.

Tim đập thình thịch, anh rờ rẫm tới bàn bánh lái đang chuyển động, từ từ mở cửa khoang sau, khoang sau khá lạnh lẽo, anh có thể cảm thấy không khí phía ấy lưu thông rất tốt.

Thắng Hương Lân đối chiếu với bản đồ, trên đó chỉ rõ phần phía sau tàu ngầm ngoài vách ngăn ra, lần lượt còn có khoang điện chính và phòng máy phụ, đi theo giếng thang trong phòng máy phụ để trèo lên trên sẽ tới nắp khoang đóng kín mít nối liền với boong tàu, rồi từ trong khoang tàu có thể mở nắp sắt này.

Mọi người thấy hành lang yên lặng như tờ, xem ra mấy con ma dưới núi Âm Sơn đều đã bò cả vào trong từ khoang chứa nước ngọt, nên nghe động tĩnh có vẻ chúng vẫn chưa bao vây được khoang sau, cả hội phải nhân cơ hội này mà trốn thoát, còn đến lúc bọn chúng đã phát hiện thấy thì có muốn trốn cũng khó. Thế là, cả hội không dám nấn ná thêm, ba chân bốn cẳng chui vội vào phòng máy phụ. Tư Mã Khôi đẩy nắp khoang lén nhìn ra ngoài quan sát tình hình, nhờ ánh sáng những lằn sét sượt qua giữa màn sương mưa, anh thấy một trái núi đen sì sì sừng sững đằng xa.

Lúc này, Thắng Hương Lân trầm giọng thì thầm với Tư Mã Khôi: “Cảm giác của bọn quái vật kia vô cùng nhạy bén, nếu chúng ta trốn trong tàu ngầm thì vẫn còn khoang tàu làm vật che chắn, nhưng một khi đã lên bè gồ trôi nổi theo dòng nước, thì bọn chúng chắc chắn sẽ phát hiện thấy, mà trên mặt nước thì không có gì che chắn, vậy đến lúc đó, chúng ta phải chống đỡ thế nào?”

Tư Mã Khôi nghe Thắng Hương Lân nói mới giật mình tỉnh ngộ, đúng là có câu: “Đi sai một nước, hỏng cả ván cờ”. Hoàn cảnh hiện giờ khiến Tư Mã Khôi nhớ lại khi anh mới đến Miến Điện, cùng đội du kích chui vào rừng rậm nguyên sinh, phía trước có một con sông nước lớn, nước chảy cuồn cuộn chắn ngang, mặt sông rộng bao la. Lúc mọi người chuẩn bị vượt sông, đột nhiên phát hiện có một toán địch từ trong rừng đuổi theo. Lúc đó, viên chỉ huy thấy phía trước là sông lớn, phía sau là địch mạnh, mà lực lượng quân du kích lúc bấy giờ lại yếu mỏng, nên vị chỉ huy đã ra lệnh cho cả đội vượt sông, tranh thủ thời gian cố gắng mau chóng chiếm cứ khu vực địa hình có lợi. Nào ngờ, tốc độ lội nước của bộ đội chậm hơn nhiều so với tốc độ hành quân trong rừng rậm, đến khi quân địch xuất hiện ngay sau lưng, thì đội du kích mới lội tới giữa sông, nên kết quả cả đội đã trở thành bia ngắm bắn, đội mười mấy người lội sông, nhưng không người nào sống sót lội được lên đến bờ, nước và máu hòa lẫn vào nhau, nhuộm đỏ cả một quãng sông. Từ đó, Tư Mã Khôi rút kinh nghiệm, anh hiểu chuyến vượt sông đó bắt buộc phải hi sinh một số người, để họ ở lại rừng rậm chặn bước quân địch, yểm trợ cho bộ đội chủ lực vượt sông an toàn. Kế này được gọi là “thí tốt cứu xe”.

Mọi người ngẫm nghĩ một lát, ai nấy đều sởn gai ốc. Giờ đây họ đang ở trong tình thế mà tốc độ hành động không chiếm ưu thế, nếu lên bè gỗ vượt sông tiếp cận núi Âm Sơn, thì chỉ sợ giữa đường sẽ bị bọn quái vật đuổi theo, ở trên mặt đất thì còn gắng gượng ứng phó với chúng bằng vũ khí, chứ nếu đã bị kéo xuống sông sâu thì không còn đất để giãy giụa phản kháng, huống hồ bây giờ cả hội lại không còn nước và thức ăn, dẫu có cố thủ trong khoang tàu, e rằng cũng không thể chống cự được lâu.

Tư Mã Khôi bảo Thắng Hương Lân ở lại trên nắp khoang quan sát động tĩnh, sau đó quyết định nói với ba người còn lại: “Giờ chẳng còn cách gì nữa cả, chỉ còn mỗi việc cho nổ tung mấy cái thùng sắt chứa đầy dung dịch hydrogen kia thôi, cho dù không làm cho bọn quái vật bám quanh tàu ngầm nổ tan xác, thì âm thanh và ánh lửa của vụ nổ cũng sẽ khiến chúng sợ hãi tản ra chạy trốn. Đây là cơ hội duy nhất để đội thám hiểm chúng ta sống sót và tiếp cận mạch núi Âm Sơn”.

Nước dưới lòng đất cuồn cuộn chảy xiết, cỗ tàu ngầm Z-615 bị hút vào rìa núi từ, bây giờ chỉ còn cách để lại một người kích nổ thùng nhiên liệu thì bốn người còn lại mới có cơ hội thoát thân. Mọi người biết rõ, thời gian tiếp xúc với núi từ dưới lòng đất càng lâu, thì khả năng bị nó nhốt giữ vạn kiếp và khó lòng siêu sinh càng lớn. Trước khi xuất hiện triệu chứng thoái hóa, cả hội bắt buộc phải tìm đường thoát khỏi vòng tròn ma quái 30° vĩ Bắc, một phút cũng không được chậm trễ. Tuy kế hoạch mà Tư Mã Khôi đưa ra nghe có vẻ khả thi, nhưng người nào ở lại, người đó cầm chắc cái chết, vấn đề bây giờ là quyết định để ai ở lại?

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro