CHƯƠNG 6 - MẠCH NÚI VÀNG VÀ RỪNG RẬM PHA LÊ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi thứ nhất

SUỐI VÀNG BẤT TỬ

Hải ngọng thấy ánh mắt sắc như dao của Tư Mã Khôi dừng lại chỗ Cao Tư Dương, lại tưởng Tư Mã Khôi đã xác định người phải hi sinh, anh liền vội vàng nói: “Thế mà cậu cũng nghĩ ra được, sao cậu nỡ bắt một cô gái chết thay cho chúng ta hả? Nếu làm thế thật, thì cho dù mai sau may mắn chạy thoát được số mệnh, tớ cũng không dám ngửa mặt lên nhìn đời nữa đâu. Tớ thấy, hay là cứ để Nhị Học Sinh ở lại lót đường cho xong”.

Nhị Học Sinh cuống cuồng sợ hãi: “Chuyện này đột ngột quá, tôi… tôi… tôi vẫn chưa kịp chuẩn bị tư tưởng… vẫn cần chút thời gian để…. suy nghĩ cho kỹ…”

Hải ngọng vỗ vai Nhị Học Sinh thân mật: “Suy nghĩ làm gì nữa? Chú mày rõ là… nam tử hán đại trượng phu mà cứ do dự chần chừ như đồ đàn bà. Chúng ta sống phải thật thoải mái, chết phải thật oanh liệt, đã cướp phải cướp tận giường vua, đã chơi phải chơi tới bến. Cuộc đời con người ấy mà, chóng tàn như hoa cỏ, kiếp này sống vội vội vàng vàng, mơ mơ hồ hồ, rồi quay đi ngoảnh lại một cái đã ngỏm củ tỏi, muốn làm một việc có ý nghĩa mà sao khó thế? Bây giờ chú mày gặp được cơ hội ngàn năm có một, được hi sinh vì nghĩa lớn, vĩnh viễn bất tử, sống mãi trong trái tim của quần chúng nhân dân, chuyện vinh quang như vậy, chú mày còn định đi đâu tìm nữa chứ?”

Cao Tư Dương nghe chối tai quá, mắt ậng nước nhìn thẳng vào Tư Mã Khôi, mắng: “Các anh dựa vào đâu mà dám quyết định sự sống chết của người khác vậy hả?”

Lúc này, mọi người đang trong tình cảnh ngặt nghèo, không ai dám nói lớn tiếng, Tư Mã Khôi đành cố ghìm giọng thật nhỏ chửi Hải ngọng: “Tiên sư Hải ngọng, cậu chõ mồm vào làm cái mẹ gì, tớ có bảo ai phải ở lại dẫn nổ thùng nhiên liệu đâu”, nói xong anh quay sang Cao Tư Dương hỏi: “Trong ba lô của cô có còn cácbua dự trữ không?”

Cao Tư Dương giờ mới hiểu ra, đèn cácbua sử dụng nguồn sáng hóa học, cấu tạo đơn giản nhưng chắc chắn, cácbua chỉ cần gặp nước sẽ lập tức bốc cháy, phát ra thứ ánh sáng màu trắng sáng, trong môi trường thiếu ôxy, nó sẽ tỏa ra màu xanh nhạt, đặc biệt thích hợp sử dụng trong các giếng quặng hoặc đường hầm, đó là vật dụng tất yếu của đội thám hiểm trong các chuyến hành động dưới lòng đất.

 Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Hộp cất chứa cácbua phải kín không khí và chống ẩm, nếu không, nước thấm vào sẽ bắt lửa bén cháy. Sau khi đội thông tin gia nhập đoàn khảo cổ, đèn cácbua được giao cho Cao Tư Dương sử dụng, hộp cácbua dự trữ cũng cất cả trong ba lô của cô. Tuy đội thám hiểm chưa có ngòi dẫn cháy kéo dài giống như kíp dẫn hỏa chậm, nhưng chỉ cần mở buồng điều áp hai bên của tàu ngầm, nước ngầm sẽ chảy vào, nhấn chìm cả khoang chứa thùng dung dịch hydrogen, rồi có thể lợi dụng hiện tượng cháy của cácbua, dẫn nổ tàu ngầm Z-615.

Mọi người lập tức bắt tay hành động theo kế hoạch, nhanh chóng quay về khoang phụ, sau đó chui vào tàu ngầm, trèo xuống thang tàu ở hai bên boong, rồi rút lên bè gỗ. Tư Mã Khôi lấy dao chặt đứt sợi dây thừng nối bè với tàu ngầm, chiếc bè làm từ thân cây khô của loài thực vật thời tiền sử liền bị dòng nước xiết đẩy trôi, dập dềnh tiến về phía trước. Có lẽ tiếng mưa và màn sương đã che khuất mọi âm thanh và hơi thở, nên mọi việc được tiến hành một cách khá thuận lợi may mắn. Bè gỗ trôi qua bánh lái phía sau con tàu, đột nhiên một lằn sét lóe lên giữa không trung, cả hội nhìn thấy hơn chục cái bóng trắng lô nhô trên vỏ tàu đen xì, chúng đang chuẩn bị bò xuống nước với tốc độ mau lẹ.

Hội Tư Mã Khôi kinh hoàng than thầm trong lòng, người nào người nấy cuống cuồng quay báng súng xuống nước ra sức khua loạn xạ, nhưng thực ra tốc độ trôi của bè gỗ trên dòng nước xiết đã cực kì nhanh, nên chớp mắt đã bơi xa cả mấy chục mét, cách mạch núi Âm Sơn chẳng còn bao xa. Nhưng cùng lúc đó, cả hội cũng phát hiện trong làn nước và giữa những dãy núi phía xa, bọn xác chết đang lao vù vù đến gần. Mọi người biết, nếu chỉ dựa vào súng ống thì căn bản không thể áp chế được chúng, bây giờ chỉ cầu mong cho chiếc tàu ngầm Z-615 mau mau phát nổ, cả hội sẽ nhân cơ hội thoát thân, nhưng không hiểu sao chờ mãi mà vẫn không thấy động tĩnh gì.

Lúc này, Hải ngọng mới vỗ mạnh vào đầu, kêu lên: “Thôi toi rồi, khi nãy hình như tớ quên không tháo hộp kín chống ẩm bên ngoài viên cácbua, cácbua không tiếp xúc với nước sẽ không thể bốc cháy. Định luật Murphy đúng là dai như đỉa đói, cậu xem, sao nó không buông tha tớ thế hả?”

Tư Mã Khôi nghe xong, mũi suýt lệch sang một bên vì tức, anh xối xả: “Vứt mẹ cái định luật thối tha của cậu đi, tớ thấy không áp dụng biện pháp chủ nghĩa nhân đạo vĩnh hằng cho cậu thì không được”.

Hai người vừa đấu khẩu vừa sẵn sàng lên nòng khẩu súng đang cầm trên tay, chỉ đợi bọn ác ma trong Âm Sơn đến gần là xông lên liều mạng đánh một trận đến hòa vốn, nhưng bè gỗ không ngừng trôi về phía trước còn xung quanh vẫn không thấy có bất kì động tĩnh nào.

Mọi người thầm thấy lạ, sao bọn xác chết quanh đây lại bỗng dưng biến mất tăm mất dạng nhỉ? Tương truyền gỗ đào có thể trấn quỷ xua tà, chẳng lẽ mùi gỗ của cây cổ thụ, mà cả hội đang ngồi vượt biển, đã xua đuổi chúng? Loại gỗ thời tiền sử này tuy hiếm gặp thật, nhưng ngoài thớ gỗ mịn và chất gỗ rắn chắc ra, thì cũng không có điểm kì lạ gì khác, lẽ nào nó có khả năng khiến bọn quái vật kia sợ hãi bỏ chạy thật sao?

Bất giác, bè gỗ chạm phải một mỏm đá nhô ra, năm người đều thấy đáng nghi, nên nhất thời không dám mạo hiểm tiến vào. Ngọn núi trước mặt ngay ngắn, khoáng đạt như một tòa thành, phần lộ diện có hình nửa trên của chữ thập, dường như nó là một khối đá khổng lồ không thể tách nhỏ các phần, nằm ngủ im lìm trong biển nước quạnh vắng cô liêu. Bề mặt nó phủ đầy rêu xanh, trông đầy vẻ âm u và hoang vắng thê lương, những vết nứt sâu rộng, hình thành do thời gian và môi trường xâm thực, đã tạo nên vô số thâm cốc, khe rãnh. Trên cao, mây quyện vào sương mịt mùng, bởi vậy rất khó quan sát diện mạo tổng thể của hòn đảo. Mọi người thấy rờn rợn, không ai dám thở mạnh.

Tư Mã Khôi SỜ lên bề mặt đá vằn vện loang lổ, phát hiện địa chất và màu sắc nhang nhác giống gạch xếp, anh thầm nghĩ: “Lẽ nào đây chính là núi Âm Sơn trong truyền thuyết vu thuật thời Sở sao? Trung Quốc cổ đại có điển tích núi tiên trôi trên biển, phương Tây lại có truyền thuyết hoàng tuyền dưới lòng đất, nếu ai uống nước ở dòng suối này sẽ trường sinh bất tử, bỗng dưng chán ngán sự đời, thăng thiên về với Chúa, có điều không một ai biết suối nguồn trong truyền thuyết ở đâu. Tư Mã Khôi thấy cảnh tượng nơi đây núi cao nước thẳm, quanh núi Âm Sơn lại mai phục toàn bọn xác chết, có nét hao hao giống với truyền thuyết trong thần thoại cổ xưa, hay nói cách khác chúng giống nhau về bản chất, chỉ biểu hiện bên ngoài có điểm khác biệt mà thôi. Tư Mã Khôi thấy nét mặt Nhị Học Sinh là lạ, liền hỏi: “Chú phát hiện ra điều gì à?”

Nhị Học Sinh len lén như thể sợ kinh động đến thứ gì rất đáng sợ, hai mắt cậu ta nhìn chằm chằm vào khẩu súng trường Tư Mã Khôi đang cầm trên tay, thì thầm nói: “Chỗ này có gì đó rất bất thường, nó khiến tôi nghĩ đến….”

Tư Mã Khôi phẩy tay: “Con mẹ chú, chuyện bé xé ra to! Thế mà anh còn định tin lời chú cơ đấy. Địa hình ngọn núi này tuy kì quái hiểm trở và cảm giác không được hài hòa cho lắm, nhưng thế thì liên quan gì đến khẩu súng M-1887 của anh cơ chứ?”

Nhị Học Sinh hỏi: “Anh có biết vì sao người ta lại đặt cho khẩu súng này là Winchester Model -1887 không?”

Tư Mã Khôi: “Chủ hỏi đầu gối nó cũng biết, Winchester là xưởng chế tạo vũ khí nổi tiếng của Mỹ, loại vũ khí mà đội thám hiểm Taninth mang theo này được sản xuất năm 1887, sử dụng cơ chế lên đạn bằng cách kéo thoi nạp đạn, tuy nó dùng loại đạn ghém cỡ 12 không nhả khói, nhưng sau đó, anh phát hiện là người ta đã lắp thêm hệ thống rãnh xẻ, để khi ra khỏi nòng, đạn tụ thành một khối, tuy làm vậy sẽ giảm nhẹ lực sát thương bề mặt, nhưng bù lại thì uy lực lại tăng lên đáng kể, thích hợp với môi trường chật hẹp và hay thay đổi dưới lòng đất. Loại súng này có thể coi là súng trường, đến tận bây giờ vẫn chưa lạc hậu, vì tính năng rất ưu việt.”  

Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Nhị Học Sinh nói: “Chuyện này tôi cũng chỉ nghe kể lại thôi, khẩu súng anh đang cầm trên tay do công ty chế tạo vũ khí liên thanh của Mỹ sản xuất. Súng họ sản xuất rất nhiều model khác nhau và được ứng dụng rộng rãi trên toàn thế giới, và cũng bởi thế, mà vong hồn chết dưới họng súng M-1887 nhiều không kể xiết, rồi từ đó hàng loạt tai họa đã không ngớt xảy ra với gia tộc này. Thực ra, người phương Tây cũng rất mê tín, họ xây một tòa nhà lớn, hậu thế gọi tòa nhà này là ‘ngôi nhà ma Winchester’. Trong kết cấu kiến trúc của tòa nhà, có một vài vị trí bị cố ý thiết kế một cách méo mó lệch lạc, tương truyền làm cách này để ‘mang ý thay đổi’, có tác dụng nhốt giữ những oan hồn muốn hại gia tộc”.

Hội Tư mã Khôi chưa bao giờ nghe kể về chuyên này, nên đều cảm thấy khó tin. Trên đời có bao chuyện bịa đặt, nhưng ít nhiều nó cũng phải bám vào cơ sở thực tế, lẽ nào người phương Tây lại hiểu bí thuật phong thủy để bố trí hướng nhà theo âm dương ngũ hành sao? Tư Mã Khôi không đếm xỉa đến lời Nhị Học Sinh nói, giục mọi người vác súng men theo con đường ngoằn ngoèo bên rìa núi, tiến về phía trước.

Nhị Học Sinh kiên quyết khẳng định, chuyện này hoàn toàn không phải bịa đặt. Nghe nói nhờ sản xuất và buôn lậu súng ống, công ty vũ khí liên thanh của Winchester đã kiếm được khoản lợi nhuận khổng lồ, nhưng không hiểu sao các thành viên trong gia tộc lại lần lượt chết một cách bất đắc kì tử, rồi cuối cùng chỉ còn lại mỗi cô em gái tên là Sara kế thừa toàn bộ gia sản. Rủi thay, chồng con của Sara cũng nối nhau qua đời, khiên Sara trở thành quả phụ ngồi giữ núi vàng. Một hôm, bà ta đi xe ngựa ra ngoài, vô tình chẹt chết một con mèo đen. Từ đó, phu nhân thường thấy con mèo đen ngồi ngay sau lưng mình mỗi khi soi gương, nhưng khi bà ta quay người lại, thì phía sau trống trơn không có gì; đêm đến bà cũng liên tục mơ thấy ác mộng, và chỉ cần nhắm mắt là đã cảm nhận luồng âm phong lạnh lẽo thổi quanh giường.

Tuy Sara không phải người sùng tín, nhưng bà ta vẫn mời một vu sư đến, với hi vọng ông ta có thể dùng vu thuật xua đuổi tà ma. Vị vu sư nọ xem quẻ xong, thấy khí số của gia tộc Winchester đã tận, những vong hồn chết thảm dưới họng súng sớm muộn gì cũng tìm đến đòi trả món nợ máu, mà tất cả những chuyện kinh dị đang diễn ra chỉ là màn khởi đầu, còn tai họa khủng khiếp hơn sẽ dồn đập xảy đến trong tương lai gần. Bấy giờ, phu nhân chỉ có hai lựa chọn, thứ nhất là tán tận toàn bộ số di sản khổng lồ, bởi vì số tiền này đều được đánh đổi bằng mạng người, nên đó là đống tài sản bị nguyền rủa, ai sở hữu nó thì người đó sẽ bị vận rủi đeo bám. Lựa chọn thứ hai là chống lại số mệnh, đương nhiên, đây là con đường vĩnh viễn không thể quay đầu trở lại.

Sara là quả phụ cô độc không chồng không con, bạn bè thân thiết hầu như đều chết hết, nhưng bà ta lại là người có tính cách cứng cỏi, không cam tâm từ bỏ cuộc sông xa hoa, nên nghĩ tới nghĩ lui, cuối cùng bà ta quyêt định lựa chọn con đường thứ hai, dùng chính số tài sản bị nguyền rủa đó để bảo vệ bản thân.

Theo chỉ dẫn của vu sư, nếu muốn sống sót, bà ta phải chuyển đến bờ biển phía tây, xây một tòa nhà mới và ở trong đó, nhưng tòa nhà này vĩnh viễn phải ở trong trạng thái đang xây đựng dở, liên tục thi công, cũng liên tục sửa chữa, ngày nào quá trình thi công kết thúc, thì ngày đó sẽ là ngày tận số của Sara.

Ngồi nhà ma Winchester nổi tiếng được ra đời từ đó. Tòa nhà ấy liên tục được xây dựng trong suốt 38 năm. hàng trăm căn phòng không ngừng được xây lên rồi lại phá đi, khắp tòa nhà chằng chịt hệ thống mật thất và đường ngầm. Bà ta muốn lợi dụng một bố cục giống như mê cung để buộc hồn ma phải đi lòng vòng, quẩn quanh khắp ngôi nhà, bởi vậy ngôi nhà không được thiết kế theo ý nghĩa nhà ở thông thường, mà kết cấu của nó vô cùng quái dị, bậc trên cùng của cầu thang có khi là bức tường cụt, mở cửa sổ ra chẳng ngờ lại là bậc thang, khắp tòa nhà rộng lớn không hề treo một mảnh gương nào.

Số tiền Sara phải bỏ ra để xây dựng tòa nhà cơ hồ đã dài bằng con số thiên văn, và bà ta cứ tiếp tục cho xây dựng căn nhà đến tận ngày Chúa gọi về trời. Sau đó, tòa nhà Winchester trở thành di sản của địa phương, viện bảo tàng quyết định mở cửa đón khách vào tham quan, nhưng cánh cửa chính lệch hướng của tòa nhà không bao giờ được mở ra, mà ngay cả tổng thống Mỹ từng vào đây tham quan cũng không dám đi băng lối cổng chính. Có lẽ người ta cho rằng, u hồn ác linh không thể đi qua cánh cửa ấy, ngay cả người sống nếu bước vào cũng sẽ gặp điềm gở. Đúng như dân gian vẫn nói, khi người ta đã ước định với nhau rằng, tuyệt đối không được làm điều gì hoặc tuyệt đối không được nói điều gì, thì điều đó chính là “cấm kỵ”.

Mọi người lắng nghe Nhị Học Sinh kể hùng hồn như thể chuyện đó có thật rành rành. Hành vi và tư duy của bà quả phụ thừa kế khối tài sản khổng lồ nọ, đã khiến người ta rất khó lý giải, nhưng thế thái muôn hình vạn vẻ, chuyện kì lạ gì mà chẳng có. Thực ra, điều Nhị Học Sinh muốn nói với mọi người là hình thế của núi Âm Sơn rất kì quái, nó không phù hợp với trạng thái bình thường của giới tự nhiên, bởi vậy ngay cả bọn xác chết chết cũng không dám đến gần, mà chỉ lởn vởn quẩn quanh bên ngoài, nhờ vậy, đội thám hiểm mới chạy thoát thân.

Vừa đi vừa nói, chẳng mấy chốc cả hội đã đên chân núi. Lúc trước, mọi người nhìn thấy bóng núi mờ đen từ xa nhờ ánh sét vụt lóe trên cao, đoạn lưng chừng núi có phần đột ngột nhô ra giống hình nửa trên chữ thập. Giờ đây khi đã đến thật gần, họ mới phát hiện, thì ra đó là một huyệt động khổng lồ. Nó to đến nỗi trông không cân xứng với chỉnh thể chung của trái núi một chút nào, như thể người ta đào hai phần ba trái núi làm huyệt động và chỉ chừa lại mồt phần trái núi để phủ lên động vậy.

Mọi người thầm kinh ngạc, dừng chân soi đèn quặng khắp bốn phía xung quanh, chỉ thấy những khe nứt bên ngoài động chất đầy xương trắng, đa phần đều là xương ma núi Âm Sơn đã chết từ nhiều năm trước Điều đó chứng minh, suy đoán của Nhị Học Sinh không chính xác, bọn quái vật bị thoái hóa này rõ ràng đã ẩn nấp nhiều năm trong thủy thể và hang động dưới lòng đất chứ không phải không dám bén mảng vào núi giống như hồn ma không dám đến gần ngôi nhà ma Winchester. Có điều, theo lẽ thường, người sống đi vào đây, thì chắc chắn chúng phải ùa ra cắn xé, nhưng bây giờ tình hình lại “trái với lẽ thường”. Tư Mã Khôi đã dự cảm, phía sau những dấu hiệu khác thường ấy, nhất định còn ẩn chứa những nguy hiểm vô cùng khủng khiếp.

Hồi thứ hai

ĐỘNG TO HƠN NÚI

Cổ thuật tướng vật có câu: “Âm dương không biết, ấy gọi là ma; huyền thâm không hay, ấy xưng là thần”. Hang động khổng lồ mà hội Tư Mã Khôi phát hiện thấy trong núi Âm Sơn vừa vặn ứng với câu nói đó.

Thắng Hương Lân chưa bao giờ nhìn thấy loại địa mạo địa chất nào như vậy. Cô thò đầu vào trong quan sát một hồi, rồi càng nhìn càng thấy nó sâu hun hút, không rõ rốt cuộc sâu bao nhiêu. Cô quay sang nói với mọi người: “Các anh xem, hình như đây là trái núi bị rỗng ruột hoàn toàn vậy”.

Cao Tư Dương cũng ngạc nhiên hết sức: “Trong rừng rậm nguyên sinh Đại Thần Nông Giá, huyệt động kì dị nào cũng có, nhưng tôi chưa bao giờ nhìn thấy một sơn động lại quái lạ và đáng sợ dường này”.

Nhị Học Sinh gật đầu tán đồng: “Một số huyệt động dưới biển Âm Dụ quy mô còn lớn hơn thế này nhiều, nhưng không có cái nào trông quái dị như thế, chẳng những vậy, cảm giác thiếu hài hòa một cách đáng sợ này thực sự rất khó dùng từ ngữ để hình dung…”

Hải ngọng phẩy tay: “Thế mà cũng phải khó hình dung, chuyện gì chẳng lấy được ví dụ. Ví dụ thế này nhé, đầu chú mày là quả núi, mắt, mũi, miệng, tai là hang động trong núi, mặc kệ phần phía dưới cổ trông tròn méo héo hó thế nào, thậm chí trong não hoàn toàn trống hoác cũng không có gì quái lạ, nhưng chú thử nghĩ xem, nếu cái miệng của chú lại chiếm đến hai phần ba diện tích khuôn mặt, thì kinh dị quá đi mất.”

Nhị Học Sinh nghe Hải ngọng lấy ví dụ, tuy có hơi kì lạ, nhưng lại vô cùng thích hợp, và cụm từ khái quát chính xác và trực quan nhất để hình dung huyệt động này là “động to hơn cả núi”.

Trước đây, Tư Mã khôi suy đoán, núi Âm Sơn trong truyền thuyết có lẽ được hình thành do mạch nham thạch dưới lòng đất rơi xuống, chầm chậm trôi nổi quanh vòng tròn ma quái 30° vĩ Bắc trong thủy thể. Nếu nó chỉ là một hang động trong núi sâu thì cũng không có gì kì lạ, nhưng đằng này nó lại là một trái núi bị rỗng hoàn toàn phần ruột, thật quá ngoài sức tưởng tượng. Vì môi trường xung quanh tối đen như mực, nên anh không thể quan sát địa hình địa mạo ở đây ra sao. Tư Mã Khôi cũng không dám xác định, liệu nhật quỹ có ở trong này thật không. Tương truyền, nhật quỹ xuất hiện từ thời hằng cổ, nó là vật để đo đất trời, có khả năng tự vận hành. Có lẽ, hoàng đế Huyên Tuyên đã lợi dụng nguyên lý về núi điện từ trong lòng đất để sáng tạo ra cỗ xe chỉ nam cũng nên. Ngoài ra, ở nơi sâu bên trong ngọn núi này còn chôn giấu rất nhiều vàng và pha lê, cỗ di hài trong chiếc hộp của Sở U Vương cũng được lấy ra từ đây, còn nhật quỹ chính là con đường thâm nhập xuống vực sâu trong núi, rồi tận cùng của con đường đó tồn tại lời giải mà những kẻ may mắn sống sót của đội khảo cổ đang muốn kiếm tìm. Giờ đây, muốn lội nước ngược dòng, quay đầu lại cũng khó, vì vậy cả hội đành buông xuôi mọi hồ nghi, lo lắng, để bước tiếp. Tuy nhất thời không đoán được trong huyệt động có thứ gì, nhưng họ vẫn cố tự an ủi rằng: huyệt động trong núi dẫu có sâu rộng khó lường, nhưng chắc không đến nỗi là một huyệt động không đáy. 

Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi hạ quyết tâm liều đến cùng, anh liền bảo Nhị Học Sinh chia hết nến dưỡng khí, đuốc và đạn dược trong ba lô cho tất cả mọi người.

Nhị Học Sinh vừa phân phát vật phẩm, vừa ủ ê mặt mày nói với Tư Mã Khôi: “Súng ống đạn dược thì còn nhiều, nhưng đuốc và nến tín hiệu thì dùng thanh nào hết thanh đó, nguồn năng lượng chiếu sáng như pin và cácbua cũng chỉ có hạn, nếu không dùng tiết kiệm, chỉ sợ không trụ được mấy ngày nữa đâu…”

Hải ngọng nói: “Lương khô và đồ hộp còn hết sạch sành sanh rồi cơ, tôi đoán chưa đợi đến lúc trời tối, chúng ta sẽ đói đi không nổi nữa cho mà xem”.

Tư Mã Khôi nói: “Nếu trong thời gian ngắn mà chưa tìm thấy lối ra khỏi vòng tròn ma quái, thì tất cả mọi người sẽ biến thành xác chết trong núi Âm Sơn, vì vậy những chuyện khác đừng bận tâm vội, mà trước tiên trụ được ngày nào hay này đó đã”. Nói xong, anh cầm bút viết lên mu bàn tay mấy hàng chữ để tự nhắc nhở mình: “Khi bắt đầu xuất hiện dấu hiệu mất trí nhớ, tuyệt đối đừng quên bắn một phát vào đầu”. Ghi xong, anh lấy lại tinh thần, chuẩn bị chui vào trong thăm dò tình hình, nhưng vừa mới bước được vài bước, thì đột nhiên anh ngửi thấy một mùi hôi thối của tử thi bốc lên từ phía sau, cái mùi đó đã nhiều lần xuất hiện trong biển Âm Dụ Đại Thần Nông Giá, và dường như đó là lão thổ tặc chuyên hái thuốc và tiêu lộc.

Tư Mã Khôi vừa nghĩ đến đây, tim đã thắt lại như bị ai bóp nghẹt: “Chẳng lẽ lại là tên Lão Xà luyện công phu cương thi đó thật sao?”

Lúc tượng thần thú “tải” rơi xuống lòng thủy thể, Tư Mã Khôi đã tận mắt nhìn thấy gã bị con quái ngư nuốt mất quá nửa thân người, chỉ thò mỗi cái đầu và cánh tay ra ngoài miệng cá. Dầu gã có dị thuật thiên phú hay uống linh chi ngàn năm, thì vẫn chưa đến trình độ 72 phép thần thông biến hóa, bởi vậy, dù không bị chôn thây trong bụng cá, thì cũng tuyệt đối không thể sống thoát khỏi đại nạn, và chắc chắn gã đã sớm biến thành cỗ tử thi về cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Thế nhưng sao cỗ tử thi của gã thổ tặc đang trôi nổi trong làn nước bao la cuộn sóng, lại xuất hiện ở núi Âm Sơn được?

Đầu Tư Mã Khôi lóe lên một suy nghĩ, anh vội quay người lại sau, phát hiện hội Hải ngọng vẫn ở sát ngay bên, chỉ duy Nhị Học Sinh là biến mất dạng.

Mọi người đều là những người từng bước chân qua địa ngục, chịu đựng mọi sự khảo nghiệm ác nghiệt, lăn lộn bao năm nơi đường biên của sự sống và cái chết, nên giờ khá hiểu nhau, ba người còn lại thấy Tư Mã Khôi đột nhiên quay người lại, thì đều cảm thấy tình hình phía sau có biến, nên ai nấy vội vàng tản ra mấy bước, tay cầm chặt súng, giơ cao đèn quay lại phía sau, nhưng chỉ thấy sau lưng một khối đen sì sì, không hề có hơi khí của người sống.

Mọi người nhớ là Nhị Học Sinh vừa mới ở quanh đây, tay còn cầm đèn pin soi loạn xạ, thế mà mới trong thời gian chớp mắt, sao bảo biến mất là biến mất ngay được. 

Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi phát hiện mùi tử khí càng lúc càng nồng nặc, anh ra hiệu bảo cả hội tiến từ từ về phía trước, ánh sáng đèn quặng cũng từ từ đẩy về trước theo từng bước chân. Chùm sáng đột nhiên soi thấy khuôn mặt của Nhị Học Sinh trong bóng tối, khuôn mặt trắng bệch, ngũ quan méo méo, hai mắt trợn trừng, miệng há rộng, cả thân người cứng đơ, bất động, và rõ ràng là đã tắt thở. Phía sau lưng cậu ta thò ra một khuôn mặt khác, khuôn mặt quái dị, ướt ròng ròng, trông như mặt vượn cổ, trên má còn hằn rõ một vết dao rạch, vết rạch đó giống như khuôn miệng đứa trẻ, đang hé ra cười, bên trong lộ ra phần da thịt trắng bệch, mủn nát.

Mọi người vừa kinh hãi, vừa ngạc nhiên, kẻ mới đến không phải Lão Xà thì còn ai vào đây nữa, vết thương trên mặt gã là do Hải ngọng phi dao vào. Tên gian tặc này giỏi sử dụng “tứ khí ngũ vị”, luyện được món công phu mình đồng da sắt, dẫu bị chôn sống trong mộ huyệt, vẫn còn thể nhịn thở sống dậy. Nhưng lúc này, xem bộ dạng gã thật thảm hại, nơi lẽ ra là hai con mắt vằn đỏ tia máu, thì giờ đây chỉ còn một cặp hốc đen ngòm, trên người gãy liền mấy khúc xương sườn, lòi cả đoạn trắng ởn ra trước ngực, trông gã đúng là đã chết đến mức không thể chết hơn được nữa, không còn dấu tích nào của người sống. Có lẽ gã biến thành cương thi, rạch nát bụng cá thoát thân, âm hồn chưa tiêu tan nên bám theo thân xác tàn tạ, mò đến tận đây.

Mọi người vừa đau lòng vì cái chết của Nhị Học Sinh, vừa kinh ngạc với cỗ thi biến của gã thổ tặc. Tư Mã Khôi cảm thấy luồng khí lạnh thấu xương khiến da nổi hết gai ốc, tất cả những chuyện quái dị lúc trước xảy ra trong tượng thần thú “tải”, giờ đây đều hiện lên trong đầu anh. Khi ấy, anh đã bỏ ngoài tai mọi điều cấm kỵ, liều lĩnh mở chiếc hộp đồng của Sở U Vương, bị di hài trong hộp thu hút, rồi âm phong trong đáy động bỗng nhiên nổi lên, mây từ dày đặc ùn ùn phun ra, có lẽ đó chính là lúc lũ yêu quái, mà bích họa Sở quốc miêu tả là “tiên nữ trong hộp” xuất hiện. Cùng thời điểm đó, Hải ngọng bị rơi vào sương đen và tử vong tại trận, mọi người buộc phải lùi vào trong lòng tượng thần thú trốn tránh, sau đó, Hải ngọng đột nhiên hoàn hồn sống dậy, khiến gã thổ tặc kinh sợ chạy ra khỏi động, rồi sa chân vào trong màn sương đen, không rõ tung tích thế nào.

Đến khi hai bên gặp lại nhau, thì Tư Mã Khôi lại thấy một cánh tay đen sì sì của Lão Xà thò ra khỏi miệng cá, và dường như gã đã mất mạng trong sương đen, nhưng bị yêu quái trong mây từ chui vào cơ thể, và dường như lũ yêu quái được mô tả trong bích họa, buộc phải mượn xác người chết, thì mới có thể rời khỏi sương đen. Bọn chúng phải làm tê liệt con mồi trong khoảnh khắc, biến họ thành trạng thái cứng đơ, rồi sau đó mượn xác của họ đi lại. Điều kiện để chúng có thể sử dụng cái xác vĩnh viễn là khiến kẻ cho mượn xác phải chết hẳn, nếu không chủ nhân cái xác vẫn còn khả năng sống lại; đó cũng là cách giải thích hợp lý duy nhất về hiện tượng Hải ngọng đột nhiên trở thành “vịt giời nhập tràng” lúc trước. Bởi vậy, cái xác theo chân đội thám hiểm đến núi Âm Sơn không phải là Lão Xà, mà là “tiên nữ”, kẻ nhiều lần xuất hiện trong bích họa của Sở quốc.

Nhưng nếu gã thổ tặc đó là cương thi, chết rồi mà vẫn chưa siêu thoát được thì còn dễ đối phó, vì kiểu gì cũng còn có hình có chất, còn thứ quỷ quái mô tả trong bích họa vu thuật thời Sở, thì không biết rốt cuộc là thứ chết tiệt gì, bây giờ chỉ có thể khẳng định một điều, thứ đó trốn trong xác của gã thổ tặc và trôi theo dòng nước đến đây. Gã thổ tặc kia tuy có cơ thể rắn chắc hơn người bình thường, nhưng trôi nổi bấy nhiêu thời gian trong biển nước cuồn cuộn mênh mông, cũng không thể tránh khỏi sắp mủn như mùn, bởi vậy, nó mới muốn tìm một cái xác mới để thay thế. Nó bám theo hơi thở và nguồn sáng để đến tận cửa động, Nhị Học Sinh bất cẩn nhất nên bị nó ra tay khống chế, cậu ta liền rơi vào trạng thái thể xác cứng đờ.

Trong khoảnh khắc ngắn ngủi như vậy, hàng loạt nghi ngờ và suy đoán ùa đến trong đầu Tư Mã Khôi, anh biết rõ: bây giờ phải lập tức ra tay, nếu không đợi “nàng tiên” kia thoát ra khỏi cái xác của gã thổ tặc, rồi chui vào cơ thể đang cứng đờ của Nhị Học Sinh, thì có thuốc tiên cũng không cứu chữa được. 

Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Ba người còn lại đều kinh hãi cực độ. Hải ngọng thấy khuôn mặt quái dị như vượn cổ kia đang thập thò phía sau Nhị Học Sinh, liền điên tiết hét lên: “Tiên nhân cái thằng sống dai như đỉa!” – Vừa mắng, anh vừa giương khẩu súng săn Canada trong tay lên bắn.

Tư Mã Khôi vội vàng ngăn lại: “Đừng dùng vũ khí, nó là yêu quái trong bích họa của Sở quốc đấy”.

Nhưng Tư Mã Khôi vẫn nói chậm nửa giây, Hải ngọng đã kịp bóp cò, chỉ nghe “pằng” một tiếng, lửa súng lóe lên, không rõ cái xác của gã thổ tặc di chuyển như thế nào mà trong nháy mắt đã âm thầm đứng sừng sững ngay trước mặt, Hải ngọng lạnh buốt tận tim gan, lông tóc dựng ngược hết cả lên, anh chưa kịp nói tiếng nào thì lưỡi đã cứng đờ, đổ vật xuống đất như khúc gỗ.

Tư Mã Khôi thấy đầu của cái xác bị súng săn bắn nát tươm, nhưng hai tay vẫn tự động vồ lấy thân thể cứng đơ của Hải ngọng, cổ họng phun ra một luồng khí đen cơ hồ có hình có chất, xộc thẳng vào trong miệng Hải ngọng, Tư Mã Khôi nhìn mà gai lạnh khắp người. Anh rất am hiểu thuộc tính của mọi vật trong thiên hạ, tuy không rõ “tiên nữ” trên bích họa vu thuật thời Sở rốt cuộc là thứ gì, nhưng trong khoảnh khắc chớp giật, anh đã nhận ra bản chất của vật này vô cùng âm lạnh, bởi thế nó mới bám đuổi theo nhiệt độ và ánh sáng. Đèn pin mà Nhị Học Sinh cầm trong tay là công cụ chiếu sáng mà cả hội tìm thấy trong tàu ngầm Z-615, độ sáng của nó hơn hẳn đèn quặng gắn trên mũ Pith Helmet của những người còn lại, bởi vậy, Nhị Học Sinh là người bị tấn công đầu tiên, còn Hải ngọng sử dụng súng săn, ánh sáng và luồng nhiệt tỏa ra từ súng lớn hơn ánh sáng của đèn pin, nên nó bỏ mặc thân thể đang cứng đơ của Nhị Học Sinh, quay đầu lao vào mục tiêu hấp dẫn hơn, súng cầm tay, đầu gắn đèn, là Hải ngọng.

Tư Mã Khôi thấy tình hình cấp bách, không còn cách nào khác, đành phải nổ súng, trước tiên phải dụ nó chui ra khỏi thể xác của Hải ngọng đã, tiếng súng chưa dứt, anh đã phát hiện khối sương đen trong cái xác đã giãy giụa chui ra, bọc lấy luồng âm phong, bay vèo đến trước mặt, nhưng chưa kịp chạm vào người anh thì nó lại quay sang hướng Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương đang đứng.

Thì ra, Thắng Hương Lân cũng là người nhanh trí không thua kém gì Tư Mã Khôi, cô biết “tiên nữ” đã chui vào người ai thì kẻ đó sẽ nguy hiểm đến tính mạng, cô ngăn Cao Tư Dương đang chuẩn bị nổ súng, rút thanh đuốc trong ba lô ra, định huơ huơ trước gió, hòng đánh lạc hướng nó ra xa, nào ngờ đám sương khí đó đến nhanh quá, vừa mới châm lửa, bó đuốc đã mờ tịt.

Gân xanh trên trán Tư Mã Khôi không ngừng giật giật, lòng thầm nghĩ bây giờ kéo dài được giây nào hay giây đó, anh cướp ngọn đuốc trong tay Thắng Hương Lân, rồi lao đi nhanh như một mũi tên. Tư Mã Khôi cảm thấy luồng khí lạnh buốt tận xương tủy đang bám riết sau lưng. Anh định thuận thế quăng thanh đuốc ra xa, sau đó nằm rạp xuống đất né tránh, đợi qua cơn này sẽ từ từ nghĩ cách xoay chuyển tình thế, nào ngờ trước mắt tối rầm rầm, anh không thể phân biệt được phương hướng trong hỗn loạn, vả lại anh dùng sức quá đà, không điều chỉnh được cự li, nên đã nhảy bổ vào một khe núi sâu hút, cả thân người anh như diều đứt dây, chỉ nghe “vù” một tiếng rồi cứ thế rơi tự do.

Hồi thứ ba

CHEO VEO

Tuy Tư Mã Khôi chưa đạt đến bản lĩnh khinh công “én liệng tầng không, chuồn chuồn chấm nước”, nhưng cũng từng luyện qua thuật “phiến cao đầu” của giới lục lâm, cơ thể nhẹ tênh như mây khí, nên cái gì cao siêu thì không nói, chứ leo tường vượt mái chỉ là chuyện nhỏ. Nhưng con người rốt cuộc vẫn không phải chim, lúc này anh đột nhiên thấy chân mình giẫm hụt xuống động sâu, chân không tới đất, cật không tới trời, mà muốn quay lại cũng không được. Tư Mã Khôi nghe tiếng gió vù vù không dứt, tự biết bất kể huyệt động núi Âm Sơn sâu nông thế nào, nhưng chắc chắn phải sâu hơn 20 mét, vì phạm vi đèn quặng không chiếu tới đáy, với độ sâu ấy thì cũng đủ để thịt nát xương tan, một sống chín chết, nghĩ đến đây mà lòng anh ớn lạnh.

Lúc này, hai tay Tư Mã Khôi vẫn cầm súng và đuốc, bất kể gió tạt, mưa ướt, thanh đuốc dầu cá vẫn không tắt, nó loang loáng soi những nét vằn vệt trên vách đá, hai bên vách cơ hồ có thể chạm tay vào được, nếu nhờ vào bản lĩnh “bọ cạp đảo đầu leo tường”, anh vẫn có thể bám trụ lại trên vách, ngặt nỗi khoảng cách từ chỗ anh đến vách đá còn xa tầm ba đến năm mét, mà vách lại lõm vào trong, rất khó chạm tay tới, vả lại cơ thể anh đang trong trạng thái rơi xuống với tốc độ chóng mặt, nên không thể mượn lực bay sang ngang được.

Tư Mã Khôi hiểu rõ sống hay chết được quyết định chỉ trong thời gian khoảnh khắc, nên bản năng mưu cầu sinh tồn đã khiến anh gắng hết sức nhoài người vào vách. Tư Mã Khôi thả bó đuốc xuống, bắn một phát súng vào bờ đá, lực đẩy về phía sau của loại đạn cỡ 12 khiến người Tư Mã Khôi hơi dạt sang phía đối diện, giúp phần ngực bụng được trợ lực trong không trung. Tư Mã Khôi vứt súng, lộn một vòng hướng về phía vách đá, đầu ngón tay chạm vào những nếp nhấp nhô trên bề mặt vách và bám chặt vào đó. 

Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Môn công phu “bọ cạp đảo đầu” gia truyền của Tư Mã Khôi, muốn nói gì cũng là đệ nhất trong bốn tuyệt kỹ lục lâm. Muốn học môn công phu này, ngoài việc rèn luyện lực của khuỷu tay và gót chân ra, thì trong lúc luyện tập còn phải đóng một cái đinh trên tường, rồi ngoắc một ngón tay lên chiếc đinh đó, treo mình lơ lửng cách mặt đất mấy mét, bởi vậy thuật treo người leo trèo của anh đã

thực sự là một tuyệt kỹ; có điều, tình trạng lúc này là thừa chết thiếu sống, nên khắp người anh ướt đầm mồ hôi lạnh

Chưa kịp thở ra, thì đột nhiên Tư Mã Khôi thấy một vệt sáng mờ mờ trên vách đá ở ngay cạnh sườn. Ban đầu anh còn ngỡ mình bị rơi xuống, chóng mặt quá nên nảy sinh ảo giác, nhưng dụi mắt nhìn kỹ lại, Tư Mã Khôi mới phát hiện hình như đó là tàn tích phốt pho còn sót lại trên vách động, bị vật gì đó chà sát nên bén thành một quầng lửa ma trơi. Trong vầng quang sương thấp thoáng thân hình một cô gái, chân tay mảnh và dài, nhưng không nhìn rõ mặt mũi cụ thể ra sao.

Tư Mã Khôi kinh hãi thất sắc, con yêu quái trong bích họa vu Sở quả nhiên có âm hồn. Khi xưa, nước lũ ngập mênh mông, Vũ Vương đào kênh trị thủy, vết tích vũ khư trải rộng khắp bốn cực, rồi ngài lại cho khắc hình của vạn vật li kì quái dị trên thế gian lên đỉnh đồng Đồ Sơn, cho hậu thế biết trước về những loài quái vật này, để đề phòng bị chúng hãm hại. Hình họa trong Sơn Hải Đồ bao la vạn tượng, ngay cả các sinh vật hóa thạch sống tiền sử dưới biển Âm Dụ Đại Thần Nông Giá cũng được liệt kê vào đây, vậy mà tuyệt nhiên không thấy bóng dáng của “tiên nữ” đâu cả. Trong khi đó, hình thái ghi chép của bích họa thời Sở lại thần bí quái dị, chiếc hộp bên ngoài cũng có thể tượng trưng cho xác người, chẳng lẽ người Sở muốn ám chỉ nó có khả năng mượn xác dạ hành? Nội dung hư hư thực thực, không biết đâu mà lần. Ngoài ra, vật đó còn nuốt nhiệt quang, nên hầu như không có cơ hội nhìn thấy hình hài thật sự của nó.

Tư Mã Khôi sững người giây lát, âm hồn kia đang bò sát đến gần anh. Lúc này, anh có thể quan sát nó rõ hơn, càng nhìn lại càng kinh ngạc. Tư Mã Khôi thấy vật đó như một nhúm sương đen, gần như hữu hình vô chất, tứ chi bám vào vách động, mang theo quầng sáng lân tinh, luồng âm phong lạnh teo teo thổi vào tận xương tủy. Anh bất giác run cầm cập. Nhờ luồng khí lạnh, anh mới tỉnh người, mở miệng chửi: “Con ranh con!” – rồi vội vàng giở chiêu “bọ cạp đảo đầu leo tường”, trốn vào khe đá. Chết nỗi, vách động dựng đứng khác thường, ánh sáng của đèn quặng không phát huy được nhiều công dụng trong huyệt động tối tăm, nên muốn trốn cũng không kịp. Anh đã cảm thấy một sức mạnh khủng khiếp giữ chặt lấy mình, không thể giãy giụa thoát ra nổi. 

Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi biết, nếu chạm phải âm hồn kia, toàn thân anh sẽ cứng đơ như thanh củi khô, rồi sau đó thì đành để nó muốn làm gì thì làm. Lúc này, anh cảm thấy nó đã bám sát ngay sau lưng, lòng bất giác hoảng loạn, bàn chân trượt một cái, suýt chút rơi cả người xuống vực, nhưng sau đó anh lại thấy, chân tay vẫn có thể cử động bình thường. Nhờ ánh lửa ma trơi trên vách động, Tư Mã Khôi quay đầu lại nhìn, thì ra âm hồn giống như cụm khói kia đã thò cánh tay dài ngoằng tóm trúng ba lô sau lưng anh.

Tư Mã Khôi mừng thầm: “Đội ơn ông bà ông vải!” rồi vội vàng tháo bỏ dây ba lô, thuận thế trèo nhanh xuống đáy động. Lúc này, một ý nghĩ thoáng hiện qua và anh để mặc cho mình rơi tự do. Anh biết, bất kể mình gắng sức vẫy vùng thế nào, thì cũng không thể thoát khỏi sự bám đuổi của âm hồn, vì nó nuốt nhiệt quang, còn anh lại không thể nhìn thấy cơ thể của nó, nên anh hầu như không có đất chống trả, chỉ còn cách nhờ tới ánh sáng lân tinh, gắng nhìn rõ chân tướng của “tiên nữ”, thì mới biết, nó có điểm yếu hay không.

Giờ là thời khắc quyết định sinh tử, cơ hội không nắm lấy sẽ vụt mất, nên anh không thể suy nghĩ gì hơn. Tư Mã Khôi vốn là người có máu liều, sẵn sàng ăn gan hùm, uống mật gấu, thế là anh lập tức tắt đèn quặng, tuy không biết thuật “cương thi nín thở” của gã thổ tặc, nhưng anh cũng hiểu hơi thở của con người chính là sinh khí, khi thở ra trăm mạch dãn nở, khi hít vào trăm mạch co khép. Thế là, Tư Mã Khôi hít sâu một hơi, rồi nằm sát xuống đất, án binh bất động. Anh thấy vệt lân tinh bao bọc quanh nhúm khí đen bay từ trên xuống ngay cạnh mình, và quả nhiên di chuyển chậm hẳn lại.

Toàn thân Tư Mã Khôi bủn rủn, anh đánh liều đưa mắt nhìn sang, thấy trước mặt có thứ vật chất trong suốt với tầng cánh chuồn mỏng mảnh, nó đậu cheo veo trên vách động. Dưới ánh lân quang, anh có thể nhìn rõ bóng mình trong nó. Thứ vật chất trong suốt ấy có hình dạng gần giống một cái hộp, bên trong chứa một khối màu đen, khối đen đó có hình dạng như một cơ thể người, nói chính xác hơn là giống một cô gái có dáng điệu quái dị. Trên lớp ngoài trong suốt đó lại có nhiều chi, mỗi chi lại chia thành hơn chục đốt tơ gai.

Tư Mã Khôi chợt hiểu ra tất cả, thứ này có thể tạm gọi là sứa ma, hoặc sứa hộp tiên nữ. Sơn Hải Đồ trên đỉnh đồng Vũ Vương có nhắc đến rất nhiều vật quái dị vừa kì lạ vừa đáng sợ, có lẽ trong đó cũng ghi chép về vật này, nhưng lúc xem bản đồ, đầu Tư Mã Khôi lại mang suy nghĩ chủ quan, anh chỉ chú ý đến những hình vẽ phía dưới biển Âm Dụ trong Đại Thần Nông Giá, mà không để ý đến tình hình xung quanh vòng tròn ma quái. Vả lại đỉnh đồng có niên đại rất cổ xưa, hình vẽ cổ phác, khác hẳn với cách vẽ “tiên nữ trong hộp” của bích họa Sở quốc. Hơn nữa, ghi chép trên đỉnh đồng về nó cũng rất ít, đại khái chỉ có mấy dòng: “Cổ gọi là ‘phù cự’, treo mình cheo veo, thiên biến vạn hóa, bất khả cực tận”. Nếu chỉ nhìn mấy chữ triện cổ triều Hạ khắc trên đỉnh đồng, thì không thể hiểu nó có nghĩa gì. Qua mấy lần tiếp xúc, cuối cùng Tư Mã Khôi cũng nhận ra, phần hình người giống như cô gái chính là nội tạng của nó, bọc bên ngoài là một tầng keo trong suốt có khả năng co giãn tùy ý, quanh người nó mọc đầy xúc tu mang tơ độc, đủ làm con người cứng đơ trong thời gian nháy mắt. Cơ thể nó không có xương sống, nhưng có thể chịu đựng được áp lực khủng khiếp của sương từ. Khi ở trong sương từ, nó có sức mạnh khủng khiếp, nhưng hễ rời khỏi sương từ, nó không thể tồn tại được lâu, chính bởi vậy, nó phải mượn cái xác của gã thổ tặc bơi theo nước đến đây.

Đầu Tư Mã Khôi liên tiếp nảy ra mấy ý tưởng, nhưng không có đối sách nào khả dĩ, vì chỉ cần chạm nhẹ một cái, anh sẽ bị gai tơ của thứ giống như ma quỷ kia trói chặt, rồi trong chớp mắt, toàn thân sẽ tê liệt, mà ngay cả con ngươi cũng không chuyển động được nữa. Điều đó chứng tỏ độc tố của loài sinh vật này cực mạnh, trong vòng mấy giây đã kịp phát tán khắp cơ thể.

Tư Mã Khôi thấy khoảng cách giữa mình và “phù cự” càng lúc càng bị rút ngắn, anh đoán chiêu nín thở không phát huy được tác dụng lâu dài, rồi cử nghĩ đến cảnh bị con quái vật có nội tạng giống như ma nữ kia từ miệng chui vào cơ thể, là anh lại dựng hết cả lông tóc, bụng bảo dạ: “Hảo hán sợ gì thiệt trước mắt, bây giờ không chuồn thì còn đợi đến bao giờ!”. Nghĩ xong anh vội co chân bò xuống đáy động tối thui, ai ngờ con “phù cự” kia bám theo còn nhanh hơn. Tư Mã Khôi chưa kịp hạ chân xuống, thì đã thấy toàn thân lạnh ngắt, gai tơ của nó đã chạm trúng người anh.

Tư Mã Khôi đoán, “con sứa hộp tiên nữ” giống như âm hồn kia, chỉ thích ứng với môi trường trong sương, còn hễ rời khỏi sương, là nó bắt buộc phải tìm thể xác có máu thịt để duy trì trạng thái sinh tồn; không những vậy, nó còn phải không ngừng lặp đi lặp lại quá trình ấy. Lúc này, anh ép sát vào vách động tụt người xuống, nhưng không ngờ giữa chừng lại bị gai tơ của “phù cự” quấn chặt toàn thân, và trong nháy mắt mọi ý niệm trong lòng anh đều nguội lạnh. 

Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi rơi xuống, phần nội tạng giống như ma nữ của phù cự cũng bị rơi theo, cái màng mỏng hình chiếc hộp gần như trong suốt, bỗng xòe rộng giống chiếc ô đang giương ra, cơ thể nó trùm cả lên người anh, khiến tốc độ rơi cũng giảm bớt.

Từ lúc Tư Mã Khôi tiếp xúc với gai tơ, đến lúc cơ thể cứng đơ, ý thức mơ hồ, tất cả quá trình đó chỉ diễn ra vẻn vẹn trong có mấy giây. Chính khoảnh khắc này lòng ham sống của Tư Mã Khôi lại trỗi dậy mãnh liệt, anh thực sự không cam tâm chịu chết tại nơi đây. Nhân lúc tay trái chưa bị tê liệt, anh mò nến dưỡng khí trong ba lô, cắn đứt vòng kéo, gí thẳng vào khoang bụng tựa đám sương đen kia, nhưng cánh tay anh còn chưa kịp duỗi ra thì đã mất tri giác.

Nen dưỡng khí vốn được cả hội cất trữ, để chuẩn bị cho lúc vào hang động gặp phải tình trạng thiếu dưỡng khí trong không gian kín mít và chật chội. Nó là chiếc hộp thiếc, dưới đáy có một tầng thuốc, và chỉ cần giật vòng kéo lên là nến sẽ cháy và cung cấp một lượng dưỡng khí nhỏ. Lúc này, tiếng “soạt” trong tay Tư Mã Khôi vang lên, nến vụt sáng. Phù cự bị nhiệt quang thu hút, nó lập tức thò cả người vào trong trùm lấy hộp nến dưỡng khí. Nào ngờ, miệng hộp dưỡng khí rất bé, khi phần ruột giống như sương đen vừa chui vào trong, thì lửa nến phút chốc bị tắt ngấm, chiếc hộp hình thành trạng thái chân không, hút chặt nội tạng của nó vào bên trong. Loài sứa ma hay sứa hình hộp chứa tiên nữ này không có xương sống, nên thân hình có thể biến hóa to nhỏ tùy ý, thậm chí có thể thu gọn thành một nắm nhỏ đủ để chui vừa miệng người, nhưng rốt cuộc nó vẫn là vật có hình có chất, phần trên cùng của khoang ruột co bóp lại thành hình tròn, chỉ nhỏ bằng một nắm đấm, đó là phần nhạy cảm nhất của phù cự. Lúc này, nó bị hộp thiếc hút vào trong, giãy giụa kiểu gì cũng không thoát ra được, hơn nữa cơ thể nó chỉ có một lớp màng mỏng bọc bên ngoài, nên sau một tiếng “rột”, màng bọc nội tạng của nó đã rách toạc ra, rồi trong phút chốc, dịch đen trào ra đầy khoang, và thứ chụp lên người Tư Mã Khôi lúc cùng rơi xuống đáy động bỗng dưng biến mất, nhanh như thể bốc hơi lên trời.

Huyệt động Tư Mã Khôi rơi xuống không sâu lắm, hơn nữa anh lại được sứa hình hộp chứa tiên nữ bám vào người, xòe ô làm giảm tốc độ rơi, nhưng lúc anh tiếp đất vẫn bị sây sát hết cả người, có điều, do cơ thể đang tê liệt, nên anh không cảm thấy đau. Một hồi sau, Tư Mã Khôi mới liên tiếp nôn ra mấy ngụm nước đen, thần trí mê man, tựa hồ vừa mới trải qua một lần chết, mắt anh hoa thành từng quầng xanh đỏ tím vàng, anh thấy những thành viên còn lại cũng đã xuống tới đáy động.

Tư Mã Khôi nghe mọi người kể lại đầu đuôi, mới biết sau khi anh rơi xuống động, Thắng Hương Lân sợ Tư Mã Khôi xảy ra điều bất trắc, liền vội vàng tuột xuống theo, nhưng xuống tới nơi, chỉ thấy anh nằm cứng đờ trên mặt đất, không thấy âm hồn kia đâu nữa. Hai người còn lại trúng độc tương đối nhẹ, lần lượt tỉnh lại, rồi cùng Cao Tư Dương kéo nhau cả xuống đây, đến lúc thấy Tư Mã Khôi đã qua cơn nguy kịch, mọi người mới thở phào nhẹ nhõm.

Hải ngọng hỏi Tư Mã Khôi: “Lũ ranh con trong bích họa rốt cuộc là thứ gì hả Khôi? Cậu xử lý bọn nó gọn gàng hết rồi à?”

Tư Mã Khôi cử động cánh tay còn đang tê dại, anh thấy toàn thân đau nhức tận xương, không nhịn được nghiến răng hít một hơi, đầu óc trống rỗng, anh cố sức nhớ lại tình hình xảy ra ở mấy giây cuối cùng, đoạn trả lời Hải ngọng: “Hình như tớ… nhốt nó vào trong hộp rồi thì phải!”

Cao Tư Dương nói: “Khi nãy, anh nằm thẳng đơ như người chết, làm chúng tôi hết cả hồn, thế mà giờ đã có hứng tán hươu vượn rồi cơ à?”

Đầu óc Tư Mã Khôi tê rần, phải một lúc sau mới khôi phục lại thần trí, anh kể sơ lược cho mọi nghe tình hình lúc bấy giờ.

Mọi người nghe xong đều ngỡ ngàng, tuy cuối cùng cũng giải thích được hiện tượng dị thường xảy ra xung quanh chiếc hộp của Sở U Vương và thần thú “tải”, nhưng giải được câu đố này lại nảy sinh càng nhiều câu đố khác phức tạp hơn, và cả hội không thể lý giải được kẻ đã sai khiến gã thổ tặc ôm cỗ di hài chạy vào trong động là ai? Nhật quỹ có thực sự tồn tại hay không? Sơn động khổng lồ như một phép màu này rốt cuộc là nơi nào?

Hồi thứ tư

DẤU VẾT GỢN SÓNG

Cuộc đời Tư Mã Khôi đã trải qua rất nhiều trải nghiệm kì lạ, anh từng nghĩ, vận may trên gương mặt thần phật của quốc vương Chăm Pa, chiếc hộp thời gian trong biển cát cực vực Lopnor, vòng tròn ma quái dưới lòng thủy thể 30° vĩ Bắc, đều là những chuyện cổ quái kì dị nhất có thể tồn tại trên thế giới này, nhưng ngẫm lại, những chuyện này đều có manh mối lý giải, duy chỉ những gì liên quan đến Nấm mồ xanh là hoàn toàn đi vào ngõ cụt, nó khiến anh mãi luẩn quẩn trong “vòng tuần hoàn chết” mà càng lún lại càng sâu. Anh chỉ biết, Nấm mồ xanh luôn có ý đồ nắm bắt bí mật tồn tại dưới vực sâu, và giờ đây thì toàn bộ hi vọng chỉ treo trên một manh mối mờ mịt cuối cùng, đó chính là tìm thấy thông đạo dưới núi Âm Sơn trước Nấm mồ xanh một bước.

Sau khi bị rơi xuống khe núi, Tư Mã Khôi đã nhìn ra chân tướng thật sự của tiên nữ trong hộp nhờ vào ánh lửa ma trơi trên vách đá, rồi cuối cùng, giữa lúc ngàn cân treo sợi tóc, anh dùng nến dưỡng khí và đã đẩy nó vào chỗ chết. Cùng lúc ấy, anh cũng bị mất tri giác, sau đó hội Hải ngọng cũng mò xuống đáy động, bởi vậy chưa ai kịp quan sát địa hình bốn phía xung quanh.

Thắng Hương Lân châm đuốc, Tư Mã Khôi lần theo ánh sáng tìm ba lô và súng của mình, nhưng phát hiện khẩu M-1887 đã bị gãy, không sử dụng được nữa. Thắng Hương Lân thấy vậy liền đưa khẩu súng M-1887 của mình cho anh, rồi quay sang đòi khẩu P38 dự phòng của Hải ngọng.

Nguy cơ mà cả hội phải đối mặt lúc này chẳng khác nào “thanh kiếm Damocles”(1) treo lơ lửng trên đỉnh đầu, và bất cứ lúc nào cũng có khả năng rơi xuống. Tư Mã Khôi cảm thấy bước chân của tử thần càng lúc càng sát gần. Anh không dám chậm trễ, lập tức khoác súng lên vai, cố gắng nhịn đau đưa mắt nhìn xung quanh. Vách động ở đây dính hợp chất phốt pho, nên thỉnh thoảng lại xuất hiện những đốm lửa ma trơi vật vờ bay lượn. Trong cổ thuật tướng vật, những đốm lửa này gọi là “âm trùng”, nơi nào có nhiều âm trùng, thì nơi đó có nhiều người chết, bởi âm trùng do tử khí ngưng tụ dần dần tạo thành, đứng cách xa sẽ nhìn không rõ nữa; giờ đây, nguồn sáng của họ chủ yếu vẫn dựa vào đèn quặng và đuốc.

(1) Thanh kiếm Damocles: là thanh kiếm được treo trên đỉnh đầu Democles – nhân vật trong thần thoại Hi Lạp – bằng một sợi lông ngựa.

Mọi người thấy quy mô của động hùng vĩ ngoài sức tưởng tượng, tuy đèn đuốc rất sáng, nhưng chỉ sáng rõ được một góc, nên cả hội đoán, độ sâu của huyệt động chỉ bằng một nửa đường kính cửa động, phía dưới cũng không rộng rãi như cửa động, còn xung quanh là vách đá dựng đứng, trông thẳng hàng ngay lối một cách dị thường; trên vách toàn là những nếp gấp hoa văn loang lổ, tầng nọ nối tiếp tầng kia, mỗi tầng cao tầm nửa mét, hình khối rất rõ ràng, trông như những vết gợn sóng trên biển. 

Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Tư Mã Khôi nhớ lại có loại vết tích cổ địa tầng, gọi là “vết sóng gợn”, trước đây, anh đã từng xem một hình vẽ minh họa tương tự như vậy trong sách của giáo sư Nông Địa Cầu. Lúc này, anh lại được tận mắt chứng kiến, nên cảm thấy thật sự kinh ngạc trước sự hùng vĩ của tạo hóa, mà tranh người vẽ cũng không thể bắt chước giống hệt như vậy được, có điều trong động hoàn toàn trống trải, khác hẳn với dự đoán ban đầu của anh.

Cao Tư Dương không biết nhật quỹ thực ra là vật gì, cô hỏi Tư Mã Khôi: “Theo anh, nó là thứ gì vậy?”

Tư Mã Khôi nói, cuộc đời con người như vị khách vội vã qua đường, cơ thể bằng xương bằng thịt khó tránh khỏi cái chết. Tương truyền con người sau khi chết đi thể xác bị hủy diệt, nhưng linh hồn thì vẫn tồn tại, và chỉ cần một nhúm linh hồn chưa tan biến, là còn có thể luân hồi quay trở lại trần thế. Thế nhưng nhiều người lúc sinh thời làm quá nhiều điều ác, nên sau khi chết bị đày xuống núi Âm Sơn, vĩnh viễn không được siêu sinh. Bởi vậy, núi Âm Sơn chính là nơi giam giữ những oan hồn ác nghiệt. Lại nghe nói trong ngọn núi này có một vật thể hình tròn, xuất hiện từ thời hằng cổ, mọi ghi chép liên quan đến nó hầu như không có, mà nếu có thì cũng rất li kì, cổ quái, dẫu đọc cũng không thể lý giải được ý nghĩa bên trong. Trước khi chúng ta tận mắt nhìn thấy vật thực, tôi cũng không thể biết nó là vật gì.

Cao Tư Dương lại hỏi: “Nhưng tôi thấy trong này làm gì có gì, hay chúng ta đến nhầm chỗ rồi?”

Tư Mã Khôi nói: “Ngọn núi này trôi nổi trên nước trong vòng tròn ma quái 30° vĩ Bắc, nó chắc chắn chính là núi Âm Sơn, vì các đặc điểm của nó hoàn toàn trùng khớp với ghi chép trong bích họa vu thuật thời Sở, nhưng đến giờ tôi chưa thể xác định được hai điều: thứ nhất là, vì sao ở khoảng cách gần thế mà núi mang từ tính vẫn không hút những vật bằng kim loại như dao, súng? Thứ hai là, địa điểm cụ thể mà người cổ đại phát hiện cỗ di hài thực ra ở chỗ nào”.

Vừa nói chuyện, mọi người vừa vượt qua hết tầng gợn sóng này đến tầng gợn sóng khác, dò dẫm đến vách đá đối diện gần đó, chỉ thấy trong cửa động vọng lại tiếng động nho nhỏ, hình như là vật gì đang bò từ trên vách xuống.

Hội Tư Mã Khôi lập tức dừng bước chân, nín thở mấy giây, mặt bất giác biến sắc: “Bọn cương thi dưới núi Âm Sơn đấy!”.

Mọi người vốn đang ngạc nhiên không hiểu sao không thấy bọn cương thi tấn công, cứ tưởng chúng đã tản cả ra xa để săn mồi, nhưng có lẽ lúc trước chúng sợ lũ “tiên nữ” nên mới trốn mất tăm, bây giờ ngửi thấy hơi người sống, chúng lại bò vào trong động. 

Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Cả hội lạnh người, bọn quái vật hồn chết xác còn này bản tính hung tàn độc ác, mà hành động thì mau lẹ như chớp giật, cộng thêm không gian trong động tối thui, nên nếu bọn chúng bè lũ nhào lên, chỉ e mấy khẩu súng của đội khảo cổ không phải đối thủ của chúng. Dưới ánh đuốc, Tư Mã Khôi chợt thấy dưới đáy vách động có ba cửa huyệt với hình thù trông rất quy mô, to cỡ cổng thành, anh liền nhanh chân chạy vụt vào trong.

Hai cẳng chân Nhị Học Sinh mềm nhũn, chạy chậm hơn mọi người mấy bước. Cậu ta nghe thấy phía sau có tiếng nuốt nước bọt ừng ực, thì lòng càng hoảng sợ cực độ, tuy đã nhủ thầm tuyệt đối không được quay đầu lại, nhưng vẫn không kìm được nên vẫn ngó lại sau một cái, lúc đó dưới ánh nến chập chờn, cậu ta nhìn thấy một khuôn mặt trắng bệch với những đường nứt nẻ ngang dọc đứng cách mình chỉ vài thước. Nhị Học Sinh sợ muốn chết, hai chân càng bủn rủn không chịu nghe lời, cậu ta bị cương thi quật xuống đất. Khi thấy cái miệng đỏ au au của nó há rộng ngoác, cậu ta kinh hãi kêu lên thất thanh.

Ai ngờ, phần miệng cương thi càng há càng rộng, trong phút chốc đã ngoác hẳn 180°, cằm như cái rèm rách rớt hẳn xuống trước ngực, máu tươi trào ra miệng ào ào như vỡ đê, chảy tràn cả xuống mặt của Nhị Học Sinh. Cậu ta cứng lưỡi ngạc nhiên, không hiểu chuyện gì đang xảy ra, chỉ biết ngây ngô nằm chết cứng như bức tượng trên mặt đất.

Thì ra, Hải ngọng phát hiện Nhị Học Sinh gặp nguy, anh liền giương súng, lực sát thương của khẩu súng hai nòng Canada rất rộng, mà lại không thể bắn ở khoảng cách gần, trong lúc cuống, Hải ngọng trực tiếp thọc hẳn tay vào trong miệng con quái vật, dùng hết sức ngoáy tít mù bên trong, miệng hét lờn “Nổ!”, rồi chỉ nghe “Cạch” một tiếng, cả hàm trên và hàm dưới của con ma chết đuối tách luôn ra làm hai mảnh.

Lúc này, ba người còn lại đuổi kịp tới nơi, tận mắt thấy Hải ngọng tay không bắt giặc mà uy lực khủng khiếp thế, ai nấy đều kinh ngạc phục sát đất. Cao Tư Dương đỡ Nhị Học Sinh dậy, rồi cả hội chui vào huyệt động dưới chân vách.

Đi qua vách đá, mọi người giơ cao thanh đuốc, mới biết không gian bên trong cũng có quy mô tương tự huyệt động phía ngoài, hóa ra đây là một hệ thống động lồng trong động, vách đá này là bức tường chia động thành hai gian thạch thất, và hai gian giống nhau một cách khác thường. Chỉ có điều, phía trên gian thạch thất thứ hai này là vách đá kín, dưới chân vách lại có cửa hang thông nhau và không có bất cứ vật gì che cản.

Mọi người không dám nấn ná lâu, vội vàng giơ cao đuốc tiếp tục chạy vào sâu hơn. Chạy được một hồi, cả hội lại nhìn thấy một vách đá chắn ngang trước mặt và dưới chân vách đá vẫn là ba cửa huyệt động xếp liền kề nhau; lạ lùng hơn, vách đá này giống y đúc vách đá mà mọi người vừa mới đi qua. Tuy ngạc nhiên, nhưng vì bọn cương thi đang bám riết sau lưng, nên mọi người không có thì giờ quan sát địa hình xung quanh, đành đánh liều chui tiếp vào trong, rồi cứ đi qua một gian là lại thấy một gian khác y như vậy, nên hội Tư Mã Khôi càng lúc càng hoang mang.

Năm người thâm nhập bên trong, không biết đã đi qua bao nhiêu vách đá, mà đối diện mỗi vách đá vẫn là môt gian thạch thất giống y hệt các gian trước, rồi chui mãi mà vẫn chưa thấy địa hình có gì thay đổi so với trước đó.

Cả hội thấy sơn động này quá sức quái dị, chỉ có trời mới biết nó thông tới đâu. Kết cấu trong sơn động chắc không thể do thiên nhiên tạo hóa tạo thành, bởi không thể tồn tại khả năng có mấy chục gian thạch thất đều giống nhau, y đúc về cả hình dạng và quy mô; không những vậy, mà các gian đều ngăn nhau bởi một vách đá, nhưng mọi người cũng không thấy dấu tích đục đẽo của con người, thậm chí có thể hoàn toàn loại trừ khả năng do con người tạo ra, bởi vì sức lực con người tuyệt đối không thể xây dựng được công trình tuyệt tác đến như vậy. Cả hội không biết rốt cuộc là do địa hình giống nhau, hay mọi người đang không ngừng lặp đi lặp lại trải qua cùng một sự kiện giữa hai điểm?    

Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Bọn cương thi vẫn không chịu bỏ cuộc, chỉ có điều vì do yếu tố địa hình hạn chế khả năng hành động, nên bọn chúng không thể đồng loạt nhào lên. Hội Tư Mã Khôi cũng bị địa hình bức bách, không ai dám chậm chân nửa bước, liên tục chui hết qua vách đá này lại đến vách đá khác, căn bản không kịp nghĩ ngợi gì, và chỉ thấy thạch thất trong lòng núi dường như trải dài vô cùng vô tận. Hai chân mọi người bắt đầu tê rần, hơi thở nặng nhọc, tim đập thình thịch.

Nhị Học Sinh không chạy nổi nữa, cậu chàng bị mọi người kéo lê lết trên đất như con chó chết. Cậu ta hổn hà hổn hển nói với những người còn lại: “Chỉ sợ chúng ta chạy đến chết cũng vô dụng thôi, cái sơn động này quái dị quá, cứ nghĩ mà xem, kết cấu trong sơn động thiên nhiên làm gì có chuyện hoàn toàn giống nhau đến mức thế. Nơi này thật chẳng khác nào mê cung trong ngôi nhà ma Winchester.”

Hải ngọng cũng kêu: “Ngay từ khi bắt đầu bước vào, tôi đã thấy nó là lạ, chắc chúng ta đã bị bọn âm hồn trong sơn động ám rồi, không có tí máu chó đen là không ra nổi đấy đâu.”

Tư Mã Khôi nghe Nhị Học Sinh nói, anh kinh hãi nhớ lại một chuyện kinh dị:

Hồi đó có một thư sinh, gia cảnh bần hàn, anh ta khổ luyện dùi mài kinh sử trong một vườn hoang ở ngoại ô kinh thành, dự định đợi đến kì thi sẽ cố thi đậu để rạng danh tổ tông. Người đọc sách trong thiên hạ nhiều như lá mùa thu, nên nghĩ thì đơn giản nhưng làm mới thấy khó. Trạng nguyên tiến sĩ trong chế độ khoa bảng thời xưa, oai phong lẫm liệt như sư tử gầm, mà mỗi khoa có được mấy người đỗ tú tài? Thư sinh nọ thi liên tiếp mấy năm nhưng vẫn không đỗ. Một đêm nọ, trăng sáng sao thưa một mình anh ta bồi hồi đứng trong vườn, ngẩng đầu nhìn trăng, ngâm vịnh một bài, đột nhiên bên tường phát ra một tiếng cười khe khẽ, ngẩng đầu nhìn lên, thì ra là một mỹ nhân tuyệt sắc, đang thò đầu vào nhìn anh ta. Cổ nhân có câu “trai dưới đèn, gái dưới trăng”, chàng thư sinh thấy cô gái dưới ánh trăng đúng là tuyệt sắc giai nhân, liền ngẩn người ra ngắm. Anh ta cứ ngỡ là tiểu thư nhà nào thầm mến mộ tài năng của mình, nên nhân lúc trăng sáng lẻn ra vườn hoang nhìn trộm. Anh ta hớn hở ra mặt, vội vàng chỉnh đốn mũ áo, chạy ra mở cửa vườn nghênh đón; nào ngờ, vừa ra ngoài cổng, liền phát hiện phía dưới cái đầu mỹ nhân là một con mãng xà khổng lồ, đang bò ngay dưới chân tường với thân mình to như cái đấu. Nghe tiếng cửa vườn mở, nó liền quay lại đầu mày cuối mắt. Anh chàng thư sinh ba hồn bảy vía lên mây, cũng vội vàng chạy như bay vào phòng, khóa chặt cửa lại. Liền sau đó, anh ta nghe tiếng người gõ cửa cửa và gọi tên mình, nhưng chàng thư sinh nào dám mở, rồi khổ sở lắm mới đợi được đến lúc trời sáng, anh ta vội vàng thu dọn hành lý về quê.

Nhưng từ đó về sau, đêm nào anh ta cũng nằm mơ, mỗi lần nhập mộng lại thấy mình trở về khu vườn hoang và lặp lại chuyện đã từng trải qua đêm hôm đó, và cứ như vậy trong suốt bao nhiêu ngày tháng. Chàng thư sinh nọ sợ quá đâm đổ bệnh, mắt nhắm chỉ còn đợi ngày về chầu trời. May thay, cuối cùng anh ta lại được một ông lão ra tay cứu giúp. Ông lão đã truyền cho chàng trai một bí quyết, lần sau khi mơ trở về khu vườn hoang, anh ta hãy tự cắn ngón tay trỏ của mình, thì sẽ lập tức giật mình tỉnh khỏi ác mộng. Không rõ truyền thuyết này có bao nhiêu dị bản, cũng không biết bản nào là thật bản nào là giả, nhưng chàng thư sinh nọ chắc chắn đã bị ma ám, nên chỉ cần phá vỡ chướng nhãn pháp là có thể bình an vô sự. Ngôi nhà ma Winchester mà Nhị Học Sinh nói, tuy cổ quái nhưng dù sao vẫn là sản phẩm của con người, còn sơn động này lại do thiên nhiên tạo nên, nói không chừng bên trong lại đang tồn tại một loại từ trường nào đó khiến con người nảy sinh ảo cảnh, hoặc cũng có thể là cả hội quả thực đã bị âm hồn đeo bám cũng nên. Nhưng bất kể đội khảo cổ đang gặp phải điều gì, chỉ cần cắn ngón tay trỏ, để khi cơ thể cảm thấy đau, là sẽ được giải thoát khỏi mê cung.

Nghĩ vậy, Tư Mã Khôi liền bảo mọi người mau cắn đầu ngón tay mình, nếu không sẽ còn tiếp tục phải chui qua những vách đá giống nhau hết lần này đến làn khác. Nói xong, anh cắn luôn đầu ngón tay trỏ của mình, thầm nghĩ chắc phen này cả hội sẽ thoát khỏi đây, nào ngờ, chạy đến điểm tận cùng cũng mà vẫn là một vách đá dựng đứng, trên vách vẫn là những dấu vết gợn sóng, còn bên dưới vẫn có ba huyệt động mà anh đã đếm không biết bao nhiêu lần.

Hồi thứ năm

TRÙNG LẶP

Tư Mã Khôi nghe đồn, trước đây, mỗi khi thiên hạ đại loạn, là trời đất lại nảy sinh rất nhiều hiện tượng kì dị, yêu quái lũ lượt kéo về, dùng tà thuật mê hoặc con người, nên nếu anh lặp đi lặp lại chuyện cùng trải qua một việc quái lạ, thì quá nửa là dính hiện tượng “địa thị”. Ảo cảnh này hình thành bởi rất nhiều nguyên nhân, và có thể là do âm khí tích tụ trong vách đá tạo nên. Chuyện này cũng không phải là không có bằng chứng xác thực, trước đây, quanh khu Hắc Ốc ở Trường Sa, tỉnh Hồ Nam có rất nhiều mộ cổ, mỗi khi đêm xuống, bọn thổ tặc thời Dân quốc thường mò ra kiếm chác, bọn chúng quật mồ đổ đấu. Rồi một lần nọ, có ba tên gian tặc đi đào mả lúc nửa đêm, khi lưỡi xẻng chạm phải lớp ngói cổ, chúng phát hiện đó toàn là đá khắc hoa văn, nên lòng chắc mẩm phen này đào trúng mộ quan sang quý tộc rồi đây. Bọn chúng hớn hở mừng ra mặt, cứ ngỡ sắp phát tài đến nơi, liền hì hục vùi thuốc nổ suốt đêm, cuối cùng cũng đánh nổ được một hố thông xuống, rồi đợi khí độc bên trong bay hết, mới mon men xuống lấy hàng. Bọn chúng vốn đã phân công rõ ràng, nhưng sau đó tên nhận trách nhiệm đứng trên gác cửa lại sợ hai tên còn lại xuống đó kiếm chác được thứ gì là đút túi làm của riêng, còn hai tên phải xuống mồ thì lại sợ lỡ đâu gặp chuyện xui rủi, chết ngạt dưới đó cũng nên. Cuối cùng, sau khi bàn bạc, bọn chúng quyết định, lần này sẽ phá luật, cả ba đều chui cả vào mộ. Bọn chúng thắt dây gân bò, lần lượt bò xuống. Nào ngờ, cái hố vốn không sâu lắm mà ba người bò mãi đến tận khi đèn hết sạch dầu vẫn chưa bò tới nơi. Không gian tối mù mù, cả hội vẫn chưa mò đến được bức tường mà lúc trước dùng thuốc nổ phá thủng. Bọn chúng cảm thấy tình hình không ổn, biết chắc gặp phải ma, thêm vào đó là tâm lý ăn cắp run tay, khiến chúng càng nghĩ lại càng sợ, vội vàng bò giật lùi quay lại phía sau, nhưng cửa sau cũng không còn, quãng đường ngắn ngủi thẳng tắp lúc đầu, giờ đây biến thành hai đoạn không điểm đầu không điểm cuối. Kết quả, ba tên thổ tặc hoảng loạn đến nỗi chịu chôn sống trong mồ, vì đến trước lúc chết vẫn không tìm thấy lối ra. Nửa tháng sau, một đoàn trộm mộ khác lại đến đào ngôi mộ cổ đó, bọn họ phát hiện ra ba xác chết. Tên giặc già thủ lĩnh có kinh nghiệm đầy mình đã ngờ rằng ba tên đồng nghiệp xấu số của mình vì gặp phải “địa thị” nên mới phải chết tức tưởi thế này. Lão ta liền cho đốt giấy cỏ, hun đặc bên trong đợi sau khi khói tan hết mới chui vào, và quả nhiên bọn họ tìm thấy một con chồn tinh ngàn năm. 

Nói nó ngàn năm thực ra chỉ là cách nói ước lệ, bởi thực tế nó là con chồn già sống lâu năm, bộ lông đã trắng toát. Chồn thích nơi tăm tối âm u, nên thường đào ổ trong huyệt mộ, bởi vậy trong ngôi mộ cổ này toàn là nước đái của nó, mà nước đái của nó thì có khả năng sinh ra một loại mùi đặc biệt, hình thành nên cái gọi là “địa thị”. Người hít phải mùi này vào não, sẽ nảy sinh hiện tượng ảo giác, rõ ràng là một cái hố chỉ sâu mấy chục mét, nhưng ba tên thổ tặc lại cứ loay hoay mãi trong đó và bị giày vò cho đến chết. Trên thực tế, bọn chúng từ đầu chí cuối chỉ loanh quanh một chỗ, nên nếu không phá giải được điểm then chốt này, thì cho dù kẻ xâm nhập có cứng tim bạo gan đến đâu, mười người vào cũng chín người trúng phải yêu thuật của nó.

Tư Mã Khôi đã nghe không ít những chuyện dân gian kì dị kiểu này, nhưng tất cả những câu chuyện đó đều xảy ra vào thời kì rất xa xưa, khi đó con người còn thưa thớt, núi còn hoang, đất còn vắng, còn tồn tại những loài yêu quái như chồn tinh ngàn năm, yêu quái rắn đầu người. Nhưng bây giờ, như cánh rừng rậm nguyên sinh Đại Thần Nông Giá này, không biết bao nhiêu quả núi đã bị đốn thành đồi trọc? Thì cho dù vẫn tồn tại những con vật mà con người chưa biết, e rằng cũng không dễ nhìn thấy chúng nữa, bởi vậy, thời cận đại rất ít nghe kể những chuyện quái lạ đại loại như vậy. 

Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Căn cứ vào kinh nghiệm và những chuyện từng nghe trước đây, Tư Mã Khôi nhận định, hội anh đã trúng “địa thị”, tuy không biết là yêu quái gì, nhưng chỉ cần cắn rách ngón chỏ, rồi một khi cảm giác đau xuất hiện thì ảo giác kia sẽ biến mất, nếu không thạch thất phía sau vách đá lại lần nữa xuất hiện và không biết bao giờ mới kết thúc.

Nào ngờ, chiêu này cũng không ăn thua, mà tận cùng của thạch thất vẫn là vách đá với ba huyệt động như trước, mọi người mệt muốn chết, thở hổn hà hổn hển, vậy mà cơn ác mộng không ngừng lặp đi lặp lại vẫn dai dẳng đeo bám.

Hội Tư Mã khôi càng lúc càng hoảng sợ, nghe tiếng động vọng lại từ bên kia vách đá, rồi cảm thấy sau lưng không lành, vội quay lại thì đã phát hiện một cương thi đang tiếp cận gần mép ngoài của quầng sáng từ ngọn đuốc. Nó di chuyển từ bóng tối dần ra chỗ sáng, trên khuôn mặt trắng xám, ánh mắt như nước tù trong đầm đen kia vẫn không thay đổi. Mọi người lạnh tái toàn thân, vội vàng quay mũi súng ra sau bắn, nhưng cũng không dám dây dưa lâu với chúng, vừa nổ súng, cả hội vừa rút lui vào trong huyệt động dưới vách tường.

Tư Mã Khôi và Hải ngọng quanh năm lăn lộn trong chốn núi cao rừng sâu, nên quen hành quân đường trường, nhưng các thành viên còn lại thì đã sức cùng lực kiệt nên khó lòng trụ thêm được nữa. Tư Mã Khôi biết rõ, có trốn sâu nữa vào trong hang thì cũng không giải quyết triệt để được vấn đề, nên bây giờ đội khảo cổ phải nhanh chóng tìm thấy lời giải về ẩn số hang động cổ trong lòng núi Âm Sơn. Nghĩ vậy, anh liền rút một hộp long tủy trong ba lô Nhị Học Sinh, châm lửa rồi lần lượt vứt vào ba huyệt động. Lửa quả nhiên có tác dụng tạm thời cản đường đám cương thi đang ùn ùn kéo đến.

Mọi người chỉ sợ thế lửa yếu đi, bọn cương thi lại ùa tới, đến lúc đó sẽ không gì có thể cản trở được bước chân của chúng. Cả hội cắn chặt răng tiếp tục chạy sâu vào trong, mãi đến khi nhìn thấy vách đá, thì nhịp chân mới giảm chậm đôi chút để thở.

Quy mô của gian thạch thất khá lớn, mỗi căn áng chừng mấy trăm mét vuông, không gian bên trong âm u tối thui. Tư Mã Khôi quay người quan sát, anh nhìn thấy ánh lửa bập bùng trong huyệt động ở phía sau, nhưng khi đi xuyên qua vách đá, thâm nhập thạch thất, thì không thấy ánh lửa đâu nữa. Trong sơn động sâu hút và rộng lớn thế này, tầm nhìn có hạn đã khiến ngũ giác của con người dường như đều giảm sút. Tư Mã Khôi thầm kêu khổ, anh bật đèn quặng soi khắp bốn phía trên vách đá.

Cao Tư Dương mệt muốn quỵ xuống, cô thấy tim phổi như sắp nổ tung đến nơi, tim đập thình thịch như trống gõ; nhân lúc này, cô chống hai tay vào đầu gối thở gấp. Cao Tư Dương thấy hành động của Tư Mã Khôi hơi lạ, nên không nhịn được hỏi: “Anh định tìm thứ gì thế?”

Tư Mã Khôi nói: lúc trước tôi thấy người Nhị Học Sinh bê bết máu, mới tiện thể quệt một ít, rồi ấn dấu tay vào vách đá làm ký hiệu, rõ ràng ở chỗ cạnh huyệt động này, nhưng con mẹ nó gặp ma hay sao ấy, bây giờ bốc hơi chẳng thấy đâu cả.

Cao Tư Dương kinh ngạc nói: “Anh lên cơn rồ à? Chỗ này làm sao có thể có ký hiệu mà anh để lại ở phía sau chứ?”

Tư Mã Khôi hiểu rõ ý đồ của mình, anh chỉ muốn xác nhận xem rốt cuộc cả hội đang phải đối mặt với tình cảnh gì. Anh suy đoán, chỉ có hai khả năng mà thôi: thứ nhất là địa hình trong sơn động giống nhau như đúc, thứ hai là mọi người đang lặp đi lặp lại một hành động trong sơn động. Anh hiểu “vật gì cũng có lý riêng của nó”, và vạn vật vạn việc đều trên cõi đời chỉ xoay quanh một chữ “lý” đó. Đầu tiên, anh vốn nghĩ khả năng thứ nhất xem chừng có vẻ hợp lý hơn, nhưng những gì đang hiển hiện trước mắt lại khiến anh cảm thấy dường như chữ “lý” này bị lật đổ.

Nếu núi Âm Sơn vẫn hoàn chỉnh, thì nó còn cao hơn nhiều so với phần mà mọi người nhìn thấy bây giờ. Vì do trong núi có một hang động khổng lồ, nên hình thể ngọn núi vốn sừng sững chỉ còn lại một phần ba, động đá thông với cửa động, có thể đánh ký hiệu là thạch thất số 0, còn dưới chân vách đá của thạch thất số 0 lại có ba huyệt động chạy thẳng vào nơi sâu hơn, và không gian sau khi đi xuyên qua vách đá được đánh ký hiệu là thạch thất số 1. Điểm khác biệt giữa thạch thất số 0 và thạch thất số 1 là: không gian ở thạch thất số 1 tương đối khép kín, không thông với cửa động. Phía chân vách đá ở tận cùng của thạch thất số 1, lại là ba huyệt động khác, thông đến nơi sâu hơn, gọi là thạch thất số 2, và kết cấu của gian thạch thất số 2 cũng giống y đúc thạch thất số 1, nên nếu gian nào cũng đánh ký hiệu, thì nơi mọi người đang đứng, có lẽ đã là thạch thất số mấy chục rồi. Thế nhưng nhiều dấu hiệu lại chứng tỏ, không gian trong sơn động không thể tồn tại địa hình hoàn toàn giống nhau, vậy nếu loại trừ khả năng thứ nhất “địa hình hoàn toàn giống nhau” ra, thì chỉ còn khả năng thứ hai, là: trong sơn động chỉ có một gian thạch thất, và mọi người đang không ngừng chui qua chui lại không gian cố định này, nên cảnh ngộ lúc này cũng tương tự với cơn ác mộng khủng khiếp mà mọi người đang phải mơ hết đêm này đến đêm khác.

Tư Mã Khôi nói vắn tắt suy đoán của mình cho cả hội nghe. Mọi người thất kinh, chân tay đờ ra không biết phải làm gì, không hẹn mà cùng muốn hỏi: “Sao có thể xảy ra chuyện quái dị thế được?”

Nhưng đúng như những gì Tư Mã Khôi vừa nói, địa hình trong huyệt động núi Âm Sơn chắc chắn là đo thiên địa tạo hóa hình thành. Vì tầng đá trầm tích bên trong sơn động đều có vết sóng gợn tự nhiên, bởi sự tồn tại của địa chất gợn sóng này chí ít cũng phải có lịch sử hàng trăm triệu năm, và trong huyệt động dưới vách đá cũng có những dấu vết gợn sóng tương tự như vậy, mà tất cả đều tự nhiên, không hề có dấu vết can thiệp của bàn tay con người. Vả lại, quy mô của hang động cổ đại này rất hoành tráng, nên con người tuyệt đối không thể làm ra một kiệt tác vĩ đại dường ấy. Nhưng vấn đề là, những gian thạch thất kéo dài vô cùng vô tận trong hang động này lại hoàn toàn giống nhau. Nếu cứ xem tất cả hang động trên thế giới tuy kì dị và thiên biến vạn hóa, thì cũng không thấy hang động nào có hai gian hoàn toàn giống nhau. Mà cứ cho là có giống nhau thật đi nữa, thì cùng lắm cũng chỉ có hai gian, và người ta sẽ miễn cưỡng giải thích sự trùng hợp ấy là hi hữu, còn nếu ba gian thì người ta gọi là điều thần kì; chứ còn có vô số gian như thạch thất trong núi Âm Sơn này, thì dẫu có giải thích đó là điều thần kì gì đi nữa, thì e ràng đến quỷ cũng không tin nổi. 

Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Giờ đây, mọi người đều đã tận mắt chứng kiến và chắc không có chuyện nhìn lầm, hơn nữa, cảm giác nhoi nhói đau trên cơ thể và hơi thở gấp gáp đều là bằng chứng về tình cảnh hiện tại của cả hội chứ không phải “ảo cảnh mê cung” giống như Tư Mã Khôi suy đoán lúc đầu, càng không phải kết cấu quái dị giống như ngôi nhà ma Winchester mà Nhị Học Sinh kể khi trước. Vậy thì chỉ còn một khả năng, đó là mọi người đang lặp đi lặp lại đi qua cùng một gian thạch thất.

Cao Tư Dương không lý giải được nguyên nhân, cô hỏi Tư Mã Khôi: “Nếu xác định quả thực nơi chúng ta từng đi qua chỉ là một gian thạch thất, vậy tại sao anh không tìm thấy vết dấu tay mình để lại lúc trước?”

Tư Mã Khôi gãi đầu giải thích: “Có lẽ vì chúng ta lặp lại hành động, chứ không lặp lại thời điểm phát sinh, thạch thất trong sơn động vẫn cố định bất biến, chỉ có điều mỗi lần xảy ra, đều là một lần hoàn toàn mới, nên mọi dấu vết để lại mới biến mất như vậy”.

Hải ngọng nghe xong vỗ đùi cái đét, nói: “Gay to rồi! Thế nếu chúng ta chạy chậm một bước, thì cũng biến mất luôn à? Cậu bảo có xảy ra khả năng này không?”

Tư Mã Khôi nói: “Cậu thử là biết liền chứ gì!”

Hải ngọng lưỡng lự: “Chúng ta vẫn chưa tu luyện đến cảnh giới sẵn sàng hiến thân cho thí nghiệm để tìm ra chân lý, nên bây giờ tốt nhất là chạy cho nhanh!” – Nói xong, anh giúp Tư Mã Khôi, kéo lê Nhị Học Sinh đang thở không ra hơi, co cẳng chạy.

Khi nãy, Thắng Hương Lân đã ngồi thở một hồi, giờ có thể miễn cưỡng mở miệng nói chuyện, cô vừa đi vừa hỏi Tư Mã Khôi: “Ý anh là… chúng ta đang đi qua đi lại một gian thạch thất sao?”

Tư Mã Khôi gật đầu: “Ngoại trừ khả năng này ra, thì không còn cách giải thích nào hợp lý hơn, nếu không phải tôi đi nhiều hiểu rộng, thì cũng không thể nghĩ ra cách suy đoán này. Đen đủi hơn, bây giờ chúng ta phải chạy không ngừng, vì chỉ cần ngừng một cái, thì cho dù không bị biến mất trong thạch thất, cũng bị bọn cương thi đuổi theo xé xác. Mà chúng ta người trần mắt thịt, nên thể lực rồi có lúc phải suy kiệt, nếu cứ chạy mãi thế này cũng không phải cách, trước khi mệt đến chết, phải nghĩ ra kế sách gì thoát khỏi cảnh ngộ khốn cùng này mới được”.

Thắng Hương Lân nói: “Tôi cảm giác có lẽ còn nguyên nhân khác, chỉ là chúng ta chưa phát hiện ra mà thôi”.

Nhị Học Sinh đang co rúm người để thở, cũng dần điều hòa trở lại, cậu ta há hốc mồm nói ngắt quãng: “Tôi…. tôi cảm thấy, tôi phát hiện… phát hiện ra nguyên nhân đó rồi, ngoại trừ sự trùng lặp hết lần này đến lần khác trong sơn động… còn có… còn có một việc khác rất quái dị…”

Hải ngọng giơ tay cốc vào đầu Nhị Học Sinh một cái đau điếng, rồi lên giọng kể cả: “Nhóc con nhà chú nhai nhầm thuốc à? Nói nghe dễ thế! Đến anh Hải ngọng còn chưa phát hiện ra, mà chú đòi phát hiện được á?”

Nhị Học Sinh nói: “Vì anh… chỉ trố mắt lên nhìn, còn tôi… tôi luôn luôn… quan sát. Tôi phát hiện trong sơn động… còn có việc… quái dị…. hơn cả hiện tượng chúng ta lặp đi lặp lại chạy qua một nơi…”.

                                                        <strong style="color: #000000; line-height: 1.5em; text-align: center;">Hồi thứ sáu

HÀNH LANG HÓA THẠCH

Hải ngọng trợn mắt, nói mát: “Ờ, anh đếch quan sát đấy! Thế gan chú em to cỡ nào mà dám phọt ra câu đấy?”

Nhị Học Sinh tưởng Hải ngọng hỏi thật, liền thành thật trả lời: “Thực ra, gan tôi cũng to phết đấy, không chỉ biết nói suông thôi đâu, từ đầu đến cổ cũng bê bết máu đây này…”, cậu ta chưa kịp dứt lời thì đã bị Hải ngọng nện thêm một cú nữa.

Thắng Hương Lân nghe thấy hơi kì lạ, liền hỏi dồn Nhị Học Sinh: “Khi nãy anh nói phát hiện thấy dấu tích khác thường, là chỉ ý gì hả?”

Hải ngọng phẩy tay nói với Thắng Hương Lân: “Năng lực phân tích của thằng ranh này đúng là rất phong phú nhưng trí tưởng tượng của nó còn phong phú hơn, nhìn khẩu súng M-1887 mà còn tưởng tượng được ra ngôi nhà ma nữa là, cái đồ đầu to mắt cận, đeo cái kính còn dày hơn cả đít chai thế kia thì phát hiện ra nổi thứ gì chứ?”

 Tư Mã Khôi nghe thấy nhức tai, liền ra hiệu bảo Hải ngọng đừng chen lời vào nữa, để Nhị Học Sinh nói hết cái đã, nếu nghe xong mà thấy chẳng ra tí sửu dần mão gì, thì cứ áp dụng quân luật, xử lý tội báo cáo láo sau cũng không muộn.

Nhị Học Sinh hấp tấp bộc bạch suy nghĩ: cá nhân cậu ta hoàn toàn đồng ý với phán đoán của Tư Mã Khôi, do trong tầng nham thạch giữa lòng núi tồn tại vết tích địa chất cổ đại từ hàng trăm triệu năm trước, vì vậy hang động này hoàn toàn là sản phẩm của thiên nhiên tạo hóa, chứ không phải do bàn tay con người làm nên. Thêm vào đó, hai bên cũng không thấy có đường rẽ, nên có thể loại bỏ giả thiết “địa hình tương tự” và “mê cung ngôi nhà ma”. Sau khi mọi người tiến vào hang động núi Âm Sơn, thì đều cảm giác tuy đã tiến thẳng vào sâu bên trong, nhưng trên thực tế là vẫn đi vòng quanh một điểm. Điều đáng sợ nhất là sau mỗi lần đi qua nơi đó, dấu vết cố tình để lại cũng đều biến mất, không chỉ dấu vân tay của Tư Mã Khôi mà vỏ đạn, vết tích nhiên liệu cháy cũng hoàn toàn bốc hơi.

Dường như, ngoại trừ bản thân gian thạch thất trong sơn động ra, thì mọi sự việc từng xảy ra bên trong đều nhất loạt bị xóa sạch. Nhưng nếu mọi người lý giải sự việc theo chiều hướng những gì mà mình đang nhìn thấy, thì hoàn toàn sai lầm, bởi vì gian thạch thất này không phải hoàn toàn cố định bất biến, mà thực tế nó đang có sự thay đổi rất quái dị. Dưới chân vách tường thạch thất có ba huyệt động, Nhị Học Sinh vẫn nhớ rõ, lần đầu tiên chạy qua đây, ba huyệt động đó rõ ràng trông to như cổng thành, nhưng sau mỗi lần chạy qua, thì ba huyệt động đó cũng dần dần trở nên nhỏ lại, hoặc giả có thể nói: cả tòa thạch thất bắt đầu thu nhỏ; chỉ có điều, sự thay đổi ấy vô cùng nhỏ bé, trong huyệt động sâu hút, tối thui và mọi người chỉ định vị phương hướng bằng ánh đuốc nhập nhèm, thì cảm giác và tầm mắt của con người đều bị hạn chế rất lớn, cũng bởi vậy nên không ai phát hiện ra sự thay đổi này. Cũng giống như một cái bát đỗ đầy ắp, nếu mỗi lần anh chỉ gắp ra một hai hạt, thì bát đỗ vẫn không có gì biến đổi, nhưng nếu anh vốc hẳn hai vốc, thì sự biến đổi trong bát đỗ sẽ trở nên rất rõ ràng. Lúc này, nếu quan sát huyệt động dưới vách đá và so với ấn tượng lúc trước, sẽ thấy một cảm giác cách rất sát thực về độ cao và chiều rộng của nó, là nó rõ ràng đã nhỏ hơn rất nhiều, chỉ nhỉnh hơn cánh cửa nhà dân một chút thôi, khoảng cách giữa hai bên vách thạch thất cũng bị rút ngắn đi đáng kể.   

hoatanhoano.wordpress.com

Mọi người nghe Nhị Học Sinh nói đều cùng gật gù công nhận, lúc trước gặp phải chuyện quái lạ bất ngờ, lại phải chặn bọn cương thi bám theo đằng sau, nên cả hội chỉ mải chạy bạt mạng, mà không ai chú ý đến sự thay đổi này, bây giờ phát hiện ra, mới vội vàng giơ cao đuốc quan sát xung quanh, thì thấy lời của Nhị Học Sinh không hề sai, gian thạch thất đã bị thu nhỏ lại.

Tư Mã Khôi càng nghĩ càng kinh ngạc, ba huyệt động trên vách tường sớm muộn gì cũng trở nên nhỏ đến nỗi người chui không lọt. Nhưng vì sao sau mỗi lần chui qua thạch thất, gian phòng đó lại bỗng nhiên nhỏ hơn một chút như vậy?

Mọi người ong hết cả đầu, rồi không ai bảo ai, tất cả cùng dừng chạy. Đội khảo cổ muốn nhanh chóng tìm ra kế sách khả thi, nhưng đầu óc đều mụ mị nên chẳng nghĩ được cách gì. Không rõ do hành quân gấp gáp khiến mọi người mệt bở hơi tai, hay do chuyện quái dị đang xảy ra trong sơn động khiến tim họ thình thịch nổi loạn, và người nào người nấy thở hổn hà hổn hển, mãi không nói được câu nào.

Cao Tư Dương thấy bầu không khí ngột ngạt đến đáng sợ, liền hỏi Tư Mã Khôi: “Anh nói gì đi chứ, tiếp theo ta phải làm sao?”.

Tư Mã Khôi lắc đầu, quay sang hỏi Nhị Học Sinh: “Chú cảm thấy nguyên nhân hiện tượng quái lạ này bắt nguồn từ đâu?”

Nhị Học Sinh nói: “Tôi đoán đây là sức mạnh thần bi mà con người vĩnh viễn không bao giờ chạm tới được….”

Tư Mã Khôi cau mày: “Đừng suốt ngày nhát ma dọa quỷ nhau thế, chú mày cứ nói toẹt ra là đếch biết cho xong.”

Hải ngọng đề nghị: “Tôi thấy chạy mãi vào trong sơn động cũng không phải ý hay, hay là quay đầu lại mở một đường máu xem thế nào!”

Cao Tư Dương nói: “Nơi này kì dị quá sức tưởng tượng, chỉ sợ quay đầu lại cũng không tìm thấy lối vào, huống hồ mọi người đều đã kiệt sức, lại không có lương thực và nước uống, thì làm gì còn sức mà chạy trốn ra ngoài?”

Thắng Hương Lân bắt đầu tập trung suy nghĩ, đột nhiên cô ngẩng đầu lên nói: “Tôi đoán ra bí mật trong sơn động này rồi!”

Nhị Học Sinh không dám tin, trố mắt nhìn Thắng Hương Lân hỏi: “Cô có thể lý giải bí mật mà trí tuệ con người không thể nào chạm tới được ư?”

Thắng Hương Lân nói: “Anh cứ quy kết mọi hiện tượng quái dị xảy ra trong sơn động đều do thần quỷ gây ra, nhưng tôi lại cảm thấy chúng ta đã bị chính sơn động này dẫn đi nhầm hướng thì đúng hơn”.

Tư Mã Khôi biết tư duy của Thắng Hương Lân rất rõ ràng, tỉnh táo, kiến thức của cô cũng vượt xa một Nhị Học Sinh chỉ biết đánh trận trên giấy. Theo anh, cảnh ngộ đội thám hiểm gặp phải trong sơn động, tóm lại chỉ có thể tồn tại ba khả năng: đầu tiên là, thiên nhiên tạo hóa đã tạo ra những gian thạch thất giống nhau như đúc, thứ đến là do sức mạnh thần bí của ma quỷ, còn cuối cùng là người thượng cổ đã tạo ra mê cung tinh xảo tuyệt mỹ này.

Có điều, do bề mặt biểu tầng của nham thạch vẫn còn dấu tích địa chất gợn sóng, nên khả năng thứ ba tuyệt đối không thể tồn tại. Ngoài ra, hang động cổ trong núi Âm Sơn này được hình thành từ hàng trăm triệu năm trước, còn trong lòng nó có hàng trăm gian thạch thất giống nhau, thì làm sao có thể ngày càng thu nhỏ theo độ sâu được? Bởi vậy, khả năng thứ nhất cũng rất mờ mịt, chỉ có khả năng thứ hai “do ma làm” là nghe có vẻ hợp lý nhất, đồng thời có thể lý giải mọi thứ đang diễn ra; có điều, khi Tư Mã Khôi nghe ý Thắng Hương Lân, thì anh lại chột dạ: “Lẽ nào trong hang động hàng vạn năm này tồn tại vật chất gây ảo giác nào đó?”

Quả như suy đoán của anh, so với khả năng “do ma làm” thì Thắng Hương Lân càng tin khả năng thứ nhất. Cô nói tiếp: “Có lẽ do địa hình thiên nhiên tạo hóa giống nhau, kết cấu mỗi gian thạch thất không khác nhau là mấy, chỉ có điều quy mô có chút thay đổi mà thôi, càng sâu vào trong lại càng chật hẹp…”

Tư Mã Khôi hết sức ngạc nhiên, anh hỏi: “Đúng là ma mị hết chỗ nói, đừng nói sơn động cổ xưa này do thiên nhiên tạo thành, mà cho dù do bàn tay con người làm ra cũng không thể làm đến mức… tinh xảo như thế”.

Nhị Học Sinh phụ họa: “Đúng vậy, mỗi gian thạch thất nằm cách nhau, nhưng giống nhau hoàn toàn, mà lại thu nhỏ dần dần từ ngoài vào trong, đúng là chỉ có thể dùng hai chữ “tinh xảo” để hình dung thôi”.

Thắng Hương Lân thầm biết thời gian bây giờ rất cấp bách, không thể cùng lúc trả lời hết thắc mắc của mọi người, cô đưa thanh đuốc cho Cao Tư Dương, lấy bút và sổ ra, vẽ một vòng tròn hình xoắn ốc, rồi dùng bút đánh dấu rất nhiều vạch ngang trên mỗi vòng xoắn ốc. Vẽ xong, cô nhìn mọi người và giải thích: “Địa hình trong sơn động đại khái như thế này, trong vòng xoắn ốc có những vách ngăn rất tinh xảo, ngoại trừ quy mô trong to ngoài nhỏ ra, thì kết cấu hoàn toàn đồng nhất, huyệt động của mỗi vách ngăn chính là lỗ thoát khí, nó giống như… một hóa thạch của cúc đá(1) hoặc ốc anh vũ”.

1 Cúc đá: là tên gọi chỉ một nhóm các loài động vật không xương sống biển trong phân lớp Ammonoidea thuộc lớp chân đầu. Các loài động vật thân mềm này có mối quan hệ gần gũi với các loài Coleoid còn sống (như bạch tuộc, mực ống, và mực nang) hơn là các loài Nautiloidea có vỏ như loài còn sống là ốc anh vũ (Nautilus). Cúc đá là những di chỉ hóa thạch có ý nghĩa quan trọng, tồn tại trong các lp đá có tuổi xác định trong bảng niên đại địa chất.

Tư Mã Khôi nhìn hình vẽ trên sổ, lập tức hiểu ra moi chuyện, thạch thất trong hang động núi Âm Sơn gian nọ nối tiếp gian kia, nó là một “hành lang hóa thạch”.

Trong bóng tối, mọi người không thể phát hiện thấy phương hướng lối ra hơi chệch một chút, mà chỉ thấy địa hình địa mạo đồng nhất không thay đổi, rồi trong lúc tâm trí bấn loạn, không tránh khỏi việc đưa ra những suy đoán ngu muội, bây giờ vén được màn sương, nên những việc còn lại đột nhiên đều trở nên hết sức rõ ràng: ngọn núi hoàn toàn rỗng ruột này, thực ra là một đĩa tròn hình xoắn ốc, và có lẽ nó là cái vỏ còn sót lại của loài cổ sinh vật thân nhuyễn nào đó. Vỏ của loài ốc cúc đá hình như không to đến độ này, có lẽ đó là vỏ của loài ốc anh vũ cổ, bên ngoài lớp vỏ là tầng từ chất, bên trong tồn tại rất nhiều tầng vách ngăn và thu nhỏ xoáy dần từ ngoài vào trong, kết cấu phân cách kì dị, vô hạn, gần giống tỷ lệ của vàng, và có thể chịu áp lực lớn đến mức khó lòng tưởng tượng, nên nhờ vậy mà nó đã lặn xuống được vực sâu dưới đáy cửu tuyền.

Lúc trước, Tư Mã Khôi nhìn thấy trên vỏ ngoài của ốc anh vũ có tầng hóa vật giống như gạch, có lẽ nó đã chết vì nham thạch nóng bỏng phun lên từ lòng đất, rồi biến thành hóa thạch rỗng ruột, nổi bập bềnh theo dòng thủy thể, cuối cùng trôi dạt đến nơi này.

Tư Mã Khôi nghĩ đến đây thì chợt lóe lên một suy nghĩ: phải chăng nhật quỹ ghi chép trên đỉnh Vũ Vương và trong bích họa Sở quốc mà cả hội đang bỏ công tìm kiếm, chính là vật này? Nhật quỹ là vật có thể đo độ sâu của đất trời, trên thân nó cũng có chi chít những đường vân, có thể tự vận hành, vỏ ngoài là cái đĩa tròn hình xoắn ốc, rõ ràng hình dạng của nhật quỹ rất giống với vỏ ốc anh vũ cổ đại. Anh chỉ không ngờ nó lại to đến mức này, và là con vật đã chết từ đời thuở nào, không thể tự di chuyển được nữa. 

hoatanhoano.wordpress.com

Tư Mã Khôi nói với mọi người suy nghĩ của mình, mọi người đều tán đồng. Căn cứ vào đây có thể suy đoán, thủy thể nằm ở vành đai 30° vĩ Bắc, nằm ở dòng suối sâu phía dưới vòng tròn nham thạch, chỉ có ốc anh vũ mới có thể xuống đến độ sâu đó, mà cỗ di hài trong chiếc hộp của Sở U Vương lại tồn tại dưới đáy vực.

Lúc này, Cao Tư Dương nhắc nhở mọi người: “Nhiên liệu bố trí trong lỗ khí không duy trì được bao nhiêu thời gian đâu, rốt cuộc chúng ta muốn đi đâu thì phải quyết định nhanh lên”.

Tư Mã Khôi cũng nghĩ vậy, anh hỏi Thắng Hương Lân: “Trong vỏ ốc anh vũ còn lối ra nào khác không?”

Thắng Hương Lân chỉ mới nhìn thấy vỏ ốc hóa thạch của loại ốc anh vũ bình thường, không biết nó có khác với loại ốc cổ đại này không. Nhưng nếu suy đoán theo lẽ thường, thì nếu cứ đi tiếp vào sâu như vậy, không gian sẽ càng lúc càng hẹp, rồi trong khi điểm tận cùng lại chưa chắc đã có lối ra.

Tư Mã Khôi nghĩ thầm: “Huyệt động hóa thạch này là cái vỏ rỗng, vách ngoài chỉ được bao bọc bởi hóa vật gạch, có lẽ cũng không dày như mình nghĩ, đợi khi đi đến vách ngăn hẹp nhất phía trong cùng, thì mình thử lấy súng săn bắn một lỗ xem sao, không chừng lại mở được lối ra”. Thế là, cả hội lại quyết tâm tiếp tục chạy sâu vào trong, liên tiếp đi xuyên qua mấy gian thạch thất, lỗ khí trên vách càng lúc càng chật chội, nhưng vẫn chưa thấy điểm tận cùng.

Hải ngọng không ngớt miệng than thở: “Cứ chạy mãi thế này chẳng khác nào sa chân vào vũng lầy, càng cố thoát càng lún sâu, dù tinh thần không xuống dốc thì bụng cũng không trụ nổi nữa rồi…”, Hải ngọng đang nói nửa chừng đột nhiên im tịt.

Hội Tư Mã Khôi thấy Hải ngọng chợt lặng thinh, lòng cũng thấy là lạ, anh liền lập tức đuổi theo, lấy đuốc soi sáng quan sát, thì thấy vách đá gian thạch thất khép vòng tròn, xung quanh vách toàn là tượng quỷ được điêu khắc bằng đá, trên người chằng chịt hoa văn như tranh, miệng há hốc, lưỡi thè dài, tướng mạo vô cùng quái dị.

Mọi người không có thời gian quan sát kỹ, liền hợp lực đẩy mấy pho tượng ma đến cửa động để bịt chặt lối vào, sau đó nằm vật ra đất thở hổn hển.

Tư Mã Khôi định thần đưa mắt quan sát, thấy gian thạch thất có bốn vách quây thành hình tròn này đã là điểm tận cùng, giờ đây năm người chen chúc nhau cộng thêm mấy pho tượng quỷ, nên khiến không gian lại càng thêm phần bức bối, giống như đang đứng trong đáy miệng giếng sâu.

Tư Mã Khôi lo thiếu dưỡng khí, liền bảo Thắng Hương Lân dập bớt đuốc. Lúc trước, mọi người còn để lại mấy cục cácbua dự phòng, bây giờ lấy ra dùng. Ánh đèn cácbua âm lạnh trắng nhạt, khiến cả gian thạch thất bừng sáng, nhìn bóng tượng đổ xuống vách tường, dễ làm người ta nảy sinh cảm giác không lành và đè nén. Dưới ánh đèn, trên vách động bỗng đâu hiện lên vô số cặp mắt quái dị, xanh len lét lập lòe lập lòe.

Hồi thứ bảy

ĐƯỜNG XUỐNG VỰC SÂU

Mọi người thấy cảnh tượng ấy đều giật nảy mình, lập tức giương súng rồi lên đạn, sau đó họ định thần nhìn lại mới phát hiện, trên vách đá khắc rất nhiều hình đầu người, tầng tầng lớp lớp nổi hẳn lên bề mặt đá, tạo thành từng vùng lỗ chỗ lồi lõm đan xen lẫn nhau, mà đa phần khuôn mặt đều không nhìn rõ nét, chỉ còn lại hình khối, duy chỉ có hai hốc mắt được chạm khảm bằng ngọc lam, bị đèn cácbua chiếu vào, trông nó ánh lên xanh len lét rất quái dị.

Hải ngọng điên tiết chửi đổng: “Bà nội nó chứ! Làm ông hết cả hồn!” – Nói xong anh liền rút dao, bảo Tư Mã Khôi: “Bữa trước, bọn mình vay lão Lưu Hoại Thủy tí kính phí trên tàu, nếu bị Diêm Vương điểm mặt gọi tên ở đây thì đương nhiên ta bùng luôn được khoản nợ đấy, nhưng nếu may mắn sống sót trở về, tớ cũng không muốn bị lão chặn cửa suốt ngày ồi ồi đòi nợ…”, vừa nói Hải ngọng vừa nhanh nhẹn nạy mấy viên ngọc lam, rồi bỏ tọt vào túi, anh còn lệnh cho Nhị Học Sinh mau đến giúp mình một tay.

Tư Mã Khôi mắng: “Hải ngọng, tớ biết cậu tuy là dân chân đất mắt toét, nhưng nói gì thì nói vẫn là một Bát Lộ quân, mấy món này tầm thường đến mức không thể tầm thường hơn, cậu tưởng nó là ngọc lục bảo chắc?”

Cao Tư Dương mỉa mai: “Bọn anh tuột gan tuột ruột ra ngoài thì quả nhiên chẳng khác gì phường thổ tặc”.

Tư Mã Khôi nói: “Cô không biết chứ, Hải ngọng ngày xưa có tên tiếng Nga hẳn hoi nhá, để nghĩ xem là gì nhi? À! Mocracski, tức “móc rác xờ ki”, một chuyên gia thu nhặt và kiểm duyệt đồng nát chính hiệu đấy”.

Hải ngọng nghe hai người châm chọc, lập tức dừng phắt lại, không nạy tiếp nữa, chống chế chữa ngượng: “Cậu không vùi dập khuôn mặt khôi ngô vĩ đại của tớ xuống bùn thì không chịu được à? Lần trước đi sa mạc Lopnor, tớ nghe ông bác Nông Địa cầu nói, bà Nữ Oa dùng loại đá ngọc lam này để vá trời đấy. Tớ rất lấy làm buồn, vì thấy một vật có ý nghĩa dường ấy, mà sao trong mắt cậu lại biến thành đồ giẻ rách được nhỉ? Hải ngọng tớ xem trọng nó là xem trọng mặt ý nghĩa tinh thần, rồi sau đó mới xét đến giá trị vật chất. Không có vật chất vẫn sống tốt, nhưng không có tinh thần ngủ cũng không yên giấc, cậu thấy có đúng không?”

Tư Mã Khôi đã đạt mục đích, anh không nói thêm gì nữa. Nhìn mấy bức phù điêu trên tường và những pho tượng quỷ, trông đều có dáng vẻ rất cổ xưa, Tư Mã Khôi liền hỏi Thắng Hương Lân xem chúng có từ triều đại nào?

Thắng Hương Lân nhìn hồi lâu, rồi đoán rằng: họa tiết trên thân pho tượng hao hao giống long triện triều Hạ, nhưng vẫn rất khó phán đoán chính xác lai lịch, càng không thể giải mã được bí mật ẩn chứa bên trong. Cô nghĩ, dãy núi Âm Sơn vẽ trong bích họa Sở quốc, với dáng vẻ giống cổng thành này, thực ra là một ngọn núi từ nằm dưới lòng đất, xung quanh nó có rất nhiều vật thể hình tròn, mà nếu quả đúng vậy, thì hang động cổ mà mọi người đang đi vào chỉ là một trong số đó. Ven núi Âm Sơn không biết còn bao nhiêu loại vỏ ốc hóa thạch này nữa, có lẽ nó còn nhiều hơn cả con số mọi người có thể tưởng tượng, và nếu cả hội lại gần mạch núi chính hơn một chút nữa, thì các vũ khí như súng trường và dao săn đều sẽ bị nó hút mất.

Tữ Mã Khôi ngẫm nghĩ, giờ cả hội đã bị nhốt trong căn thạch thất nơi tận cùng hang động cổ, và cứ ở mãi đây cũng không phải cách, đó là chưa nói đến chuyện không còn lương thực, mà nếu hao phí thời gian quá dài, thì trí nhớ mọi người cũng sẽ dần bị núi từ xóa sạch. Bởi vậy, bây giờ không thể lưu lại đây lâu, phải cố nhanh chóng nghĩ cách thâm nhập vào trong núi để tìm hiểu cho rõ nguyên nhân, rồi tìm đường thoát thân; nhưng chỉ e thời gian còn lại không nhiều, rồi ngay cả việc có thể phá vỡ được cái vỏ ốc này để thoát ra ngoài hay không, còn chưa rõ nữa là.

Hoàn cảnh không cho phép mọi người chần chừ thêm, Tư Mã Khôi bàn bạc mấy câu với mọi người, rồi đang định bắt tay hành sự, thì anh chợt nghe thấy có người “hèm” lên một tiếng trong bóng tối gian thạch thất. Tuy động tĩnh không lớn, nhưng chất giọng khàn khàn, sống sượng đó khiến da đầu anh bỗng chốc tê bì. Tư Mã Khôi và Hải ngọng suýt chút nữa nhảy bật khỏi mặt đất, bàng hoàng thốt lên: “Nấm mồ xanh!” 

hoatanhoano.wordpress.com

Tư Mã Khôi đã từng giằng co suốt thời gian dài với Nấm mồ xanh ở thành cổ Chăm Pa, và âm thanh đặc trưng ấy đã khắc sâu vào tâm trí anh, có điều lúc này anh không ngờ đối phương lại xuất hiện ngay bên cạnh. Xem ra, kẻ nói ám hiệu với Lão Xà trong biển Âm Dụ Đại Thần Nông Giá, quả nhiên chính là hắn. Anh lập tức mở đèn quặng, chiếu về nơi phát ra giọng nói.

Ánh đèn chiếu đúng vào bóng pho tượng, còn xung quanh đó thì không hề có vật gì khác, nhưng hội Tư Mã Khôi vào sinh ra tử bao phen cũng chỉ là vì muốn giải mã ân số Nấm mồ xanh, nên lúc này mọi phát hiện dù nhỏ bé nhất cũng không dễ dàng chịu bỏ qua. Cả hội liền xách súng chạy lại đó lùng sục.

Hai thành viên đội thông tin và Thắng Hương Lân tuy chưa bao giờ chạm trán với Nấm mồ xanh, nhưng họ đều nhận thấy tình hình lúc này chẳng khác nào đang gặp ma, người nào người nấy đều rùng mình sợ hãi, bởi một nỗi sợ khó nói thành lời. Mọi người im lặng, không ai dám ho he câu gì, lặng lẽ bám theo sau Tư Mã Khôi.

Tư Mã Khôi quan sát kỹ vách đá chạm toàn hình đầu người, anh thấy chỗ bị Hải ngọng móc mất mấy viên đá ngọc lam đều lộ ra mấy cái hố, và dường như phía ngoài của gian thạch thất này còn có tầng kép, nên giọng nói khi nãy có lẽ vọng từ nơi đó ra. Tư Mã Khôi gỡ đèn quặng xuống, áp sát nửa mặt vào vách đá nghe ngóng. Bên trong tối thui, không rõ có người hay không.

Đang lúc Tư Mã Khôi bán tín bán nghi, thì chùm sáng đèn quặng vừa chiếu xuyên qua khe lỗ, đã soi đúng vào chiếc mặt nạ lấm lem bụi đất, rồi tuy chỉ thấp thoáng lướt qua, nhưng vẫn có thể nhận ra đó là mặt nạ phòng độc của Liên Xô. Thế nhưng, nó không giống với loại mặt nạ phòng độc hình mang cá của Tư Mã Khôi, và phía sau chiếc mặt nạ rõ ràng là mặt người. Khi hắn cảm thấy luồng sáng rọi vào liền né sang một bên lẩn trốn. Nhân cơ hội đối phương di chuyển, Tư Mã Khôi kịp nhìn thấy kẻ đó mặc bộ đồng phục thuyền viên trên người, nhưng vô cùng cũ rách, còn phả ra mùi khí hủ hóa, như thể vừa mới lột ra từ bộ xương người chết đã nhiều năm. Anh biết rõ hắn chính là Nấm mồ xanh, nên chỉ lặng lẽ hành động, vừa quan sát vị trí của đối phương vừa ngầm ra hiệu bằng tay cho Hải ngọng.

Tư Mã Khôi lùi nửa bước, lạnh lùng “hừ” một tiếng nói: “Lẽ nào mày đang tưởng nhớ đến những kẻ may mắn sống sót trên tàu Z-615 sao? Chúng ta kể ra cũng quen nhau kha khá đấy nhỉ, từ lúc chia tay đến giờ không lúc nào tao nguôi ngoai nỗi nhớ mày. Tao nói trước, tốt nhất mày đừng giở giọng dọa thần nhát quỷ ra làm gì”.

Nấm mồ xanh đáp lại bằng giọng âm lạnh: “Đã nhận ra kẻ thù thì cứ người thật nói chuyện thật, ta cũng chẳng ngại nói một sự thật mất lòng, mi có biết câu ‘bọ ngựa phí sức chặn xe tăng’ không? Nuôi thù chuốc oán làm gì cho mệt”.

Hội Tư Mã Khôi tất nhiên không thể tin lời Nấm mồ xanh, vì không biết bao nhiêu mạng người đã phải thiệt mạng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp dưới bàn tay của tổ chức này, mà trong đó có Tuyệt, Ngọc Phi Yến, bác Nông, giáo sư Thắng Thiên Viễn, Karaweik, tiểu đoàn trưởng Mục, đội trưởng thông tin Lưu Giang Hà, cậu dân binh Hổ Tử…, những người này đều có mối quan hệ đặc biệt với hội Tư Mã Khôi, hoặc là thầy trò hoặc là huynh đệ chiến hữu, hoặc là cha con chị em. Mối thù này đã kết quá sâu, nên mối quan hệ giữa hội Tư Mã Khôi và Nấm mồ xanh chỉ có thể gọi là mối quan hệ “nước lửa không đội trời chung”.

Tư Mã Khôi hiểu, Nấm mồ xanh là kẻ gian giảo xảo quyệt, nên anh biết rõ vì sao hắn nói vậy. Chắc chắn hắn bị tình thế bức bách, không còn cách nào khác nên đành ra mặt lợi dụng đối phương giúp mình thoát khỏi cảnh khó khăn.

Dường như, Nấm mồ xanh cũng nhìn thấu suy nghĩ trong lòng của Tư Mã Khôi, hắn nói thẳng: “Bò khỏe không bằng trâu yếu, mấy người các ngươi tuyệt đối không phải đối thủ của tổ chức ngầm của ta. Từ khi gặp các ngươi trong núi Dã Nhân, ta đã luôn muốn đẩy các ngươi vào chỗ chết, chỉ hiềm nỗi số các ngươi chưa đến lúc tận, chắc tại hạn số vẫn còn; nhưng lúc ở trong mây từ, ta đã dần dần hiểu ra, nếu truy ngược lên ngọn nguồn, thì ra quan hệ giữa chúng ta không liên quan gì đến chính tà thiện ác, cũng không phải nước hỏa không dung, mà chỉ đơn giản là vì ‘tương tác nhân quả’ mà thôi”.

Hội Tư Mã khôi vừa nghĩ cách tóm cổ lôi Nấm mồ xanh ra ngoài, vừa đoán ý đối phương, nên không ai đáp trả câu gì. Nấm mồ xanh tiếp tục nói, hắn bảo mối quan hệ giữa hai bên là tương tác chuỗi nhân quả, người này vì người kia, người kia lại vì người này, mà cuối cùng đều rơi vào thủy thể giống như hắc động. Trong khi đó, dưới lòng thủy thể là núi từ có khả năng xóa sạch mọi trí nhớ, nên nếu không tìm cách chui vào thông đạo nối liền tới vực sâu, thì mọi người đều sẽ bị thần quỷ tiêu diệt. Hắn còn tự khoe mình đã nắm được bí mật của núi từ, nhưng nếu chỉ dựa vào sức của bản thân thì khó mà xoay chuyển được tình thế, vậy nên hắn cần mọi người ra tay tương trợ. Nói xong, hắn im lặng chờ đợi phản hồi của hội Tư Mã Khôi.

Bây giờ, dù hắn nói gì chăng nữa, thì Tư Mã Khôi vẫn kiên trì giữ vững quan điểm: “bố mày đếch tin”, nhưng thấy không khí càng lúc càng lâm vào tình thể căng thẳng, anh liền nói: “Nếu mày có thành ý thật, thì gỡ ngay cái mặt nạ xuống cho tao xem nào!”. 

hoatanhoano.wordpress.com

Nấm mồ xanh có mấy phòng tuyến không thể vượt qua, trong đó phòng tuyến đầu tiên là không để cho bất kì ai biết khuôn mặt thật sự của mình, thứ đến là không tiết lộ cho bất kì ai biết cách che giấu hành tung. Khi nghe Tư Mã Khôi nói, hắn quả nhiên không chịu lộ mặt, mà chỉ nói sẽ tiết lộ một bí mật khác để đổi lấy điều kiện mà Tư Mã Khôi vừa đưa ra.

Tư Mã Khôi không bất ngờ, anh thầm nghĩ: bất kể Nam mồ xanh là người sống hay u hồn của người chết, thì kiểu gì hắn cũng phải có một lai lịch thân phận nhất định, đồng thời bí mật này chắc chắn sẽ uy hiếp chí mạng đến sự tồn tại của hắn, nên thậm chí khi sa chân vào bước đường này, hắn vẫn không chịu gỡ bỏ mặt nạ phòng độc xuống. Xem ra, khuôn mặt thật của Nấm mồ xanh còn thần bí hơn cả khuôn mặt của quốc vương Chăm Pa. Lẽ nào u hồn này không có mặt sao? Suy nghĩ ấy vừa lướt qua đầu, anh liền thấy không hợp lý. Nếu quả thực hắn không có mặt, thì sợ gì bị người khác nhìn thấy! Vậy rốt cuộc hắn là ai? Chẳng lẽ lại là người anh đã từng gặp trước đây hay sao?

Nghi ngờ này bất chợt lóe lên, nhưng vì cách một vách tường, nên anh không thể tóm cổ hắn để gỡ mặt nạ ra được, mà duy chỉ có cách cố gắng đoán mò ý đồ của đối phương mà thôi. Anh biết tình hình trước mắt hai bên đang tìm cách khống chế lẫn nhau, nên nghĩ thầm: “Đối phương định lợi dụng đội khảo cổ để thoát khỏi núi từ, đây là quyền chủ động của mình, thế nhưng phải làm sao mới không bị đối phương lợi dụng vào mục đích của hắn? Hơn nữa, trước đây rõ ràng Nấm mồ xanh không hề hay biết gì về bí mật trong núi từ, mà cứ cho là hắn đã thâm nhập vào đây sớm hơn đội khảo cổ mấy bước, thì cũng không thể nghĩ ra cách thoát khỏi núi từ nhanh như vậy”.

Tư Mã Khôi vừa nghĩ đến đây, thì nảy ra một ý nghĩ, có lẽ Nấm mồ xanh chính là ác ma bị đày dưới núi Âm Sơn, sau đó vì một cơ duyên nào đó nên thoát ra khỏi lòng đất, nhưng ký ức trong đầu thì đã bị tòa núi từ này xóa sạch; lúc này trở về thạch thất, nhìn những họa tiết chữ triện cổ khác trên pho tượng ma, hắn mới chợt nhớ ra những chuyện cũ trước đây chăng?

Rốt cuộc, Tư Mã Khôi không hề biết gì về lai lịch gốc gác của Nấm mồ xanh, tuy anh suy đoán mấy khả năng, nhưng đều không lần ra manh mối. Chỉ có điều, căn cứ vào những sự kiện đã xảy ra, anh thấy rõ: Nấm mồ xanh dường như rất khiếp sợ núi từ dưới lòng đất, bởi vậy hắn mới xuất hiện trong gian thạch thất, để thỏa hiệp với mọi người. Nhưng hắn vốn là người nham hiểm, nên anh không biết liệu có phải hắn đang cố tình kéo dài thời gian, ngăn cản đội thám hiểm đang dần dần tiếp cận với lời giải, lợi dụng núi từ để nhốt mọi người đến chết ở đây không?

Nếu là khả năng thứ nhất, thì Tư Mã Khôi cam tâm tình nguyện: có chết cũng phải kéo hắn chết cùng; còn nếu là khả năng thứ hai, thì anh phải, nhanh chóng chấm dứt đôi co với Nấm mồ xanh, lập tức tìm cách thoát khỏi hang động hỏa thạch này. Cả hai tình huống đều có khả năng xảy ra, còn Tư Mã Khôi vốn là người quyết đoán, là kẻ liều mạng, sẵn sàng đem sọ ra đánh cược, nhưng lúc này anh lại do dự, không biết nên lựa chọn phương án nào.

Tư Mã Khôi nhất thời chưa thể quyết định, anh liền đánh mắt thăm dò ý kiến mọi người. Cả hội thống nhất phải bình tĩnh, thăm dò xem Nấm mồ xanh thực ra muốn gì trước đã.

Hồi thứ tám

TẤM BIA CỔ CỦA VŨ VƯƠNG

Nấm mồ xanh thấy hội Tư Mã Khôi không lập tức trả lời, thì đoán chắc vẫn còn đất thương lượng. Hắn nói từ thuở xa xưa, khi hồng hoang sơ khai, âm dương hòa hợp sinh ra trời đất, mặt đất là những vòng nham thạch dày mấy ngàn mét, trong tầng nham thạch có sông ngầm, vì trong huyệt địa, khe giếng, thường có dòng nước phun trào, mà trên thực tế là do áp lực tạo thành, nên thời cổ người ta gọi nước dưới lòng đất là “tuyền’, thủy thể khổng lồ nằm dưới vành đai 30° vĩ Bắc, chính là nơi có dòng suối lớn sâu vô tận.

Dòng suối này sâu như vực, không nhìn thấy đáy, phía trên bị bao phủ bởi lớp mây từ dày đặc, xung quanh là hỗn độn chưa phân chia, nhưng tận cùng dưới sóng nước còn có một cái máng lõm hình tròn, đó mới chính là vực sâu đích thực nằm dưới cửu tuyền. Thủy thể nguyên thủy dưới lòng đất chính là mô hình thu nhỏ của đại dương ngày nay, trong lòng nó từng tồn tại rất nhiều loài sinh vật có vỏ, sau này bãi biển hóa nương dâu, địa hình thay đổi đột ngột. Một số loài sinh vật như ốc anh vũ cổ đã bị dòng nước ngầm cuốn xuống vực sâu, và nhờ lớp vỏ có khả năng chịu thừa áp tốt, chúng chui vào không động rồi dần dần trở thành hóa thạch, sau đó lại bị dung nham phun ra từ tầng quyển manti đẩy ra ngoài thủy thể, trôi bập bềnh trong biển tối mênh mông, cho đến khi núi từ bị sụt lún xuống đây, những vỏ ốc này mới bị hút vào quanh lòng núi.

Khi Thần Nông gá gỗ làm ổ, người thượng cổ đã đi lạc vào lòng đất, lúc đó núi từ vẫn cao sừng sững, còn động nham thạch phía dưới biển Âm Hải lại thò hẳn vào trong sương. Sau vụ va chạm, mặt đất xảy ra địa chấn, khiến núi từ bị chặn lại tại chỗ, phần lòng núi sụt lở đã lộ ra một vòm hang lớn, nhờ vậy mà con người mới có thể chui vào bên trong và phát hiện ra vàng, mã não. Nhưng ngọn núi lại trôi nổi bất định, đến lúc họ muốn quay lại lấy tiếp, thì đã không thấy tung tích của nó đâu nữa. Người đời sau lắp ghép những phần khoáng vật giống như xương khô này thành một cỗ di hài, rồi gọi nó là thánh vật, vì trong núi từ không có mạch vàng, nên người cổ đại suy đoán: có lẽ di hài trong hang động trôi đến từ dòng suối lớn dưới lòng đất.

Đến thời Vũ Vương đào kênh trị thủy, ông ta muốn tìm nhật quỹ để đo xem trời cao bao nhiêu, đất dày mấy tấc. Lại được biết nước Toại Minh cổ đại có một cái cây thần, uốn lượn vạn mẫu, thông thiên tiếp đất, mây sương vờn vũ lưng chừng thân cây, núi từ cũng bị rễ của nó quấn chặt dưới lòng đất. Bởi thế Văn Vương đã nhìn thấy ngọn núi này, đồng thời cũng phát hiện con người không được lưu lại đây lâu, vì chỉ cần quá một ngày sẽ biến thành ác quỷ, nên đã đặt tên cho núi là Âm Sơn.

Lúc đó, người ta đã phát hiện ra một tấm bia cổ rất lớn ở Hoài Nguyên, trên đó khắc rất nhiều chữ triện hình long ly, đây là một phần bị thất lạc sớm nhất của chữ long triện triều nhà Hạ. Nghe nói sau đó Vũ Vương đã nhốt con rắn lớn dưới sông Hoài Thủy, còn tấm bia này là cổ vật của tộc người Bái Xà, trên đó ghi chép rất nhiều bí mật kinh thiên động địa. Thuở ấy, hồng hoang sơ khai, núi sâu đất mỏng, liên tục bị nứt đôi, nên bất kể thành quách, quốc gia hay con người, chỉ cần sụt xuống đó thì đừng mong có ngày lên được. Sau khi xin thần khấn phật, Vũ Vương liền ném tấm bia cổ xuống lấp kín hoàng tuyền, phân ra hai cực đất trời, sau đó lại cho chặt đứt cây thần, khiến núi Âm Sơn từ đó hoàn toàn biến mất giữa sóng nước mênh mông.

Trong khi đó, tộc người Bái Xà bị nhốt dưới Vũ khư lại cứ đau đáu muốn tìm lại tấm bia cổ, nhưng cho đến ngày họ bị diệt vong thì hoàn toàn vẫn không có kết quả gì; có điều, những sự tích này đều được ghi chép lại trên các di tích mà tộc Bái Xà để lại bằng chữ triện cổ triều Hạ.

Về sau, thời đại Xuân Thu Chiến Quốc, Sở U Vương đã lần lượt đúc chín pho tượng vàng hình người để tế ma, chặn kín trước núi Âm Sơn, và kết quả đã khiến địa tầng sụt lở, lớp sương từ nhanh chóng bủa vây khắp nơi, người nào vào bên trong, người đó tất bỏ mạng.

Nấm mồ xanh nói với mọi người, những pho tượng quỷ trong hành lang hóa thạch này đều là của tộc người Bái Xà để lại, nên chỉ cần làm theo lời hắn, thì sẽ khiến vỏ ốc thoát ra khỏi lực hút của núi Âm Sơn, tuy chưa thể đến nơi an toàn, nhưng có thể thâm nhập đáy vực sâu. Đến lúc đó, hắn sẽ tình nguyện nói ra toàn bộ bí mật kinh thiên động địa trên tấm bia cổ của Vũ Vương cho hội Tư Mã Khôi. Nếu hai bên cùng hợp sức, lo gì không tìm được đường sống, sao phải giằng co với nhau ở đây làm gì cho vô nghĩa.

Tư Mã Khôi nghe Nấm mồ xanh nói mà thầm kinh hãi, không ngờ hắn lại biết rành rẽ mọi chuyện đến thế, và chắc hắn vẫn còn giấu giếm hội anh rất nhiều thông tin quan trọng khác. Anh trầm ngâm một lát, tuy hiểu rõ Nấm mồ xanh sẽ không nói sự thật, nhưng anh vẫn không kìm được nên hỏi: “Hội tao có bốn người thoát khỏi núi Dã Nhân, Miến Điện, trừ tao và Hải ngọng ra, hai người còn lại bây giờ thế nào rồi?”

Nấm mồ xanh nham hiểm nói: “Thực ra, mi đã biết rồi, thì việc gì phải hỏi nữa? Nếu ta có lòng lừa dối, thì hoàn toàn có thể nói hai người kia vẫn còn sống; nhưng nếu thế ngươi sẽ thấy mọi lời nói của ta về sau đều không đáng tin. Thời gian không còn nhiều, ngươi phải tin lời ta, dịch chuyển pho tượng cụt đầu kia sang một bên, vì bản thân pho tượng là một khối huyền từ, nó có khả năng làm lệch vị trí của khối từ khác, rồi hang động cổ hóa thạch sẽ bị sóng đẩy đi, hoàn toàn thoát khỏi núi Âm Sơn. Người Bái Xà rất am hiểu từ tính, họ đã lợi dụng vẫn thạch sắt dưới lòng đất làm cột dẫn đường cho tàu thuyền. Phương pháp cổ xưa này khá hiệu quả, nếu bọn ngươi không muốn biến thành những cỗ hoạt thi, thì mau hành động theo lời ta nói”. 

hoatanhoano.wordpress.com

Tư Mã Khôi thầm nghiến răng, anh nhất thời không biết nên quyết định thế nào, mấy lời Nấm mồ xanh vừa nói chẳng khác nào một quả lựu đạn khói, tin cũng không được, không tin cũng không xong. Anh không hề lo việc bị nhốt đến chết trong núi Âm Sơn, mà là không thể xác định được đối phương thực hư thế nào.

Cao Tư Dương tiến sát gần, nhỏ giọng nói với Tư Mã Khôi: “Bây giờ hắn cách chúng ta một vách tường, chẳng ai làm gì được ai, chi bằng mình cứ đẩy pho tượng ra theo lời hắn, đợi khi xuống đến đáy vực, lo gì không có cơ hội tóm cổ hắn”.

Tư Mã Khôi nhíu mày, rồi lắc đầu không đồng ý, anh thầm nghĩ: cô chưa bao giờ tiếp xúc với Nấm mồ xanh, nên không biết tâm địa hắn thâm hiểm, ác độc đến mức nào đâu. Làm gì có chuyện hắn tốt bụng chỉ điểm đường sống cho chúng ta? Ngoài ra, chắc chắn đối phương biết tôi sẽ không tin mấy lời quỷ quái của hắn, và không biết hắn có cố ý bày kế “nghi binh” để khiến hội mình không dám chạm vào bức tượng không đầu đó không?

Tư Mã Khôi nghĩ đến đây, thì quay sang nhìn Thắng Hương Lân, nhưng nét mặt Thắng Hương Lân cũng nghi hoặc không kém, cô nhè nhẹ lắc đầu, ra hiệu không thể đoán được thực hư.

Tình hình bây giờ không khác gì trong tay Nấm mồ xanh có một đồng xu với hai mặt sấp ngửa, trong đó có một mặt khi tung sẽ ngửa lên; trong lòng Nấm mồ xanh biết rõ mặt nào sẽ ngửa, đồng thời hắn cũng nói với mọi người kết quả, nhưng không rõ kết quả đó là thật hay giả. Trước khi hắn xòe bàn tay ra, thì không ai có thể xác định đồng xu sấp ngửa thế nào.

Nấm mồ xanh thấy mọi người vẫn do dự không quyêt, hắn lại tiếp tục bồi thêm đòn tâm lý, nào là bí mật dưới vực sâu và trên tấm bia cổ Vũ Vương kinh thiên động địa ra sao, nào là kết cục bị nhốt dưới núi Âm Sơn sẽ bi thảm, khủng khiếp đến mức nào.

Tư Mã Khôi nghe đến đây thì bỗng cười nhạt, mọi người giật mình, lòng thầm kinh hãi: “Tình thế đang lúc nước sôi lửa bỏng, cậu ta dở hâm hay sao mà đột nhiên lại cười nhăn nhở thế nhỉ?”

Nấm mồ xanh cũng bất ngờ: “Ngươi… ngươi có định đẩy bức tượng đó hay không?”

Tư Mã Khôi nói: “Suýt nữa ông bị mày lừa, dưới vực sâu có liên quan đếch gì đến ông, sao ông lại phải mệt người đi đẩy bức tượng đá đó?”

Nấm mồ xanh hỏi: “Thế ngươi muốn cả hội bị nhốt trong núi Âm Sơn đến chết sao?”

Cao Tư Dương chột dạ: “Sao Tư Mã Khôi dám tự tiện quyết định thay mọi người. Anh ta làm thế khác gì lấy mạng của bọn mình”. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, cô lại thấy: “Bây giờ có trời mới biết mình đang ở chỗ nào, hi vọng sống sót sau khi chạy thoát khỏi lòng đất vẫn rất vô cùng mờ mịt, sao mình phải thể hiện sự nhát gan ra như vậy chứ?” – Thế là cô nhịn lại không nói gì.

Lúc này, Tư Mã Khôi cũng im lặng, chỉ bật đứng dậy, gọi Hải ngọng đến giúp, hai người hợp sức đẩy đổ một pho tượng xuống dất.

Hải ngọng chưa hiểu dụng ý của anh, thắc mắc: “Cậu lại định giở trò gì thế?”

Mặt Tư Mã Khôi thấp thoáng sát khí, nhỏ giọng trả lời: “Tớ đoán tượng đá rất nặng, nếu đập vỡ vách đá này, đến lúc đó, cậu nhớ nhanh tay lẹ chân một chút, đừng để cái thằng chó đẻ kia trốn mất đấy”.

Hải ngọng đỏ mắt từ lâu, vừa nghe đã hiểu Tư Mã Khôi muốn gì, anh lập tức nghiến răng ken két nói: “Bận này cậu cứ việc chống mắt mà xem, tớ không lột da nó không xong…”

Hai người vận hết công lực, dồn toàn bộ sức vào đôi bàn tay, đồng thanh hét lớn, ôm tượng đá nhất tề thúc mạnh vào vách, tai nghe thấy “rầm” một tiếng”, vách đá thủng một lỗ lớn.

Nấm mồ xanh tự thấy kế sách của hắn kín kẽ từ đầu chí cuối, chẳng ngờ Tư Mã Khôi còn có chiêu này, hắn quay người định trốn vào nơi sâu giữa tầng kép, chẳng ngờ lại bị gạch cổ sụt lở đè vào, hắn đành giãy giụa bò ra ngoài.

Tư Mã Khôi quăng tượng đá, nhìn chằm chằm vào Nấm mồ xanh hãy còn đang giãy đạp giữa đống đổ nát, quát lớn: “Phen này xem mày chạy đằng trời, để ông Khôi nhìn kỹ mày rốt cuộc là người hay ma?” – Nói xong, anh liền xách súng chạy đến gần.

Mọi người bám theo sau, Thắng Hương Lân khẽ nhắc: “Cẩn thận kẻo trúng quỷ kế của hắn!”

Ai ngờ, phía sau chợt vang lên âm thanh “kẹt kẹt kẹt”, đó là tiếng phát ra do gạch đá ma sát vào nhau. Hội Tư Mã Khôi lo bọn cương thi kịp bò vào trong, nhưng quay đầu lại thì thấy Nhị Học Sinh đang nhễ nhại mồ hôi, dùng vai đẩy pho tượng không đầu, gắng gượng di chuyển nó về phía trước. Pho tượng rất nặng, phần đáy còn bị từ thạch hút chặt, Nhị Học Sinh đã vận hết sức bình sinh, nó mới di chuyển nửa thước.

Mọi người đồng thanh hét “Dừng tay!” – Tư Mã Khôi bừng bừng sát khí, liền giương súng bắn, nhưng Thắng Hương Lân cảm thấy Nhị Học Sinh không phải thành viên của tổ chức ngầm, mà cậu ta làm vậy chẳng qua vì lòng hiếu kì quá lớn, chắc chắn bị mấy lời dụ dỗ của Nấm mồ xanh mê hoặc, muốn biết bí mật tồn tại trong vực sâu, nếu luận về tội trạng thì cũng chưa đến mức phải xử bắn; bởi vậy, cô đẩy cánh tay anh, viên đạn không bắn trúng đầu, mà bay thẳng vào phần thân pho tượng.

Khi nãy, Nhị Học Sinh còn nóng máu, nhưng giờ thấy hội Tư Mã Khôi vừa kinh ngạc vừa tức giận, thì lòng cậu ta phút chốc liền hối hận, nét mặt hốt hoảng, quỳ vội xuống đất: “Chắc chắn chúng ta… không ra khỏi đây được đâu. Trước khi chết, tôi chỉ muốn nhìn… nhìn xem trên tấm bia Vũ Vương viết gì mà thôi…”

Tư Mã Khôi chỉ sợ Nấm mồ xanh nhân cơ hội này lủi mất, anh mặc xác Nhị Học Sinh đang phân bua, vội quay đầu lại, nhưng vừa nhìn đã thấy hang động hóa thạch này không biết ngâm bao năm trong nước, thân nó bị xâm thực nghiêm trọng, nó đứng vững được ở đây hoàn toàn là nhờ pho tượng đá huyền từ cố định nó lại, sau khi Nhị Học Sinh di chuyển pho tượng, cực từ bị thay đổi, nên trong phút chốc nó trượt từ sườn núi xuống dòng nước xiết, rồi chìm vào Vũ khư sâu hun hút. Mọi người đứng trong thạch thất bỗng chốc thấy trời đất quay cuồng, tai không nghe thấy bất kì âm thanh gì nữa, những pho tượng quỷ và gạch đá xung quanh rơi xuống rào rào.

Tư Mã Khôi thầm biết tình hình không ổn, anh vội vàng cố gắng đứng vững, soi đèn ra xa, chỉ thấy gạch đá đang đè trên người Nấm mồ xanh trượt sang một bên, hắn nhân cơ hội này chạy thoát thân, nhanh chóng bò vào nơi sâu trong kẽ hở của vách đá. Mọi người định nhất loạt giương súng bắn loạn xạ, nhưng vì mất trọng tâm nên chẳng phát đạn nào phát huy được tác dụng. Giờ đây, cơ hội ngàn năm khó gặp đã vuột khỏi tầm tay, mọi người đành phải tự cứu mình trước.

Hỏa thạch ốc anh vũ cổ đại vốn là sinh vật không có sự sống, nó bị rơi xuống sóng nước cuồn cuộn, nước ngầm dưới lòng đất chảy tràn vào trong, nhưng cấu trúc từng gian từng gian thạch thất ăn thông với nhau, cũng giúp nó phần nào giảm nhẹ được áp lực và lượng nước tràn vào. Nó chìm xuống như đá rơi xuống biển, xuyên qua hỗn độn mịt mùng vô biên, rơi xuống vực sâu không đáy. Mọi người nhanh chóng mất hết tri giác trong gian thạch thất tối om.

Đến khi Tư Mã Khôi tỉnh lại, anh thấy đầu óc ong ong, gần như không thể nhớ chuyện gì đã xảy ra, còn tứ chi tựa hồ bị xé đứt, gân cốt cảm giác không có vấn đề gì lớn, nhưng khắp cả toàn thân đau tê dại. Anh thử mở đèn quặng, may mà thứ này cũng khá nồi đồng cối đá, rồi nhờ ánh sáng đèn quặng, anh thấy khắp vách động toàn là những vết rạn hình mai rùa, nhưng về tổng thể thì vẫn còn nguyên vẹn, trước mắt mịt mù hơi nước ẩm ướt, xung quanh lại toàn sương mây đen ngòm. Anh nghĩ, có lẽ mình đã rơi xuống không động dưới đáy cửu tuyền.

Hồi thứ chín

NHỤC CHI DƯỚI LÒNG ĐẤT

Đầu Tư Mã Khôi đau như muốn vỡ tung, anh mặc kệ tất cả, nằm bất động tại chỗ giữa bóng tối mịt mùng không biết bao lâu, những người khác cũng lần lượt tỉnh lại, rồi mãi một hồi sau mới cố gắng gượng người dậy nổi.

Hải ngọng vừa hồi người lại đã sôi tiết lên, anh hùng hổ vung dao định băm Nhị Học Sinh một nhát, rồi moi tim ra xem màu gì mà khi nãy dám thò chân ngáng hội anh. Nếu khi nãy cậu ta không nhúng tay giữa đường, thì Nấm mồ xanh làm sao có thể trốn thoát lần nữa ngay trước mũi mọi người?

Cao Tư Dương vội vàng ngăn lại, cô đảm bảo Nhị Học Sinh tuyệt đối không hề có can hệ gì với Nấm mồ xanh, lúc đó chẳng qua chỉ vì bản năng sinh tồn thôi thúc quá mạnh mẽ mà thôi. Mọi người đều là người trần mắt thịt, gặp phải tình huống như vậy, ai chẳng run sợ chứ?

Lúc này, Nhị Học Sinh đang tự ăn năn hối, lỗi lầm lũi cúi đầu không dám nhìn mọi người, chỉ mong tìm thấy kẽ nẻ nào để chui mau xuống lòng đất cho rồi.

Ngược lại với Hải ngọng, Tư Mã Khôi bình tĩnh hơn nhiều, tuy anh cũng tiếc nuối cơ hội tốt vừa mới vuột khỏi tầm tay, vì khó khăn lắm mới tóm được chỗ sơ hở của Nấm mồ xanh và đẩy hắn vào vòng hiểm nguy, nhưng hắn vẫn tìm ra mắt xích lỏng lẻo và yếu ớt nhất trong tâm lý của mọi người, khiến bao công sức của anh đều đổ cả xuống sông xuống bể. Nấm mồ xanh không ngờ anh lại vác tượng đá đâm thủng vách tường, còn anh cũng không ngờ phòng tuyến tâm lý của bạn đồng hành phía mình lại bị phá vỡ vào khoảnh khắc then chốt nhất. Đây chính là những thay đổi đột ngột không ai dự tính trước được, có lẽ đó chính là số phận an bài. Nghĩ vậy, anh liền xua tay bảo Hải ngọng dừng lại: “Ai mà chẳng mưu cầu sinh tồn, nói thế chứ coi cái chết nhẹ tựa lông hồng cũng đâu phải chuyện dễ. Thằng nhãi trí thức này không có hoàn cảnh giống chúng ta. Cậu ta không thù không oán với Nấm mồ xanh, nên trong thời khắc sinh tử nhất thời thấy sợ sệt cũng là điều dễ hiểu”.

Nhị Học Sinh, nước mắt trộn nước mũi, thề thốt từ nay về sau sẽ sửa đổi tư tưởng sai lầm tận gốc rễ và thành tâm hối cải tận sâu thẳm linh hồn, tuyệt đối không bao giờ dám tham sống sợ chết nữa.

Trước đây, Cao Tư Dương vẫn có thành kiến với Tư Mã Khôi, nhưng bây giờ thấy anh dễ dàng bỏ qua chuyện này, thì cô không khỏi thán phục sự độ lượng của anh.

Thực ra, Tư Mã Khôi cũng thầm cảm thấy hổ thẹn, lúc trước nếu Thắng Hương Lân không đẩy mũi súng, thì anh đã bắn Nhị Học Sinh vỡ sọ. Ngẫm lại, anh thấy mọi người thâm nhập vào vực sâu nơi tâm Trái đất, đã trải qua không biết bao nhiêu khó khăn, nguy hiểm, và có thể sống đến tận lúc này, là hoàn toàn là nhờ sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Tuy anh là kẻ liều mạng không sợ chết và sẵn sàng trả bất cứ giá nào để dồn Nấm mồ xanh vào chỗ chết, thậm chí là mạng sống của mình, nhưng làm sao anh có thể hi sinh cả tính mạng của những người xung quanh?

Mọi người ngồi quây quần trong gian thạch thất tính toán bước hành động tiếp theo. Tuy không rõ tình hình bên ngoài thế nào, nhưng có lẽ cả hội đã rơi xuống đáy vực cùng với hang động hóa thạch. Phía dưới thủy thể dường như là khe sâu, cũng chính là lòng máng hình tròn bị lún xuống quyển manti; ở giữa có vật chất là thể khí dày đặc, mù mịt cách tuyệt lòng máng với không gian phía trên, nước rơi xuống liền bị bốc hơi thành sương mù, bởi vậy dưới này lượng không khí rất dồi dào. Chỗ mọi người đang đứng chính là cửu tuyền hun hút, còn dưới sâu hơn không còn nước ngầm và nham thạch nữa, mà chỉ có vật chất thể khí nóng bỏng và biển cả, do những dòng dung nham ngưng tụ tạo thành, và thực thể sống chỉ cần lại gần là lập tức sẽ hóa thành tro bụi. Nên thật khó lòng tưởng tượng người cổ đại đã mang tấm bia của Vũ Vương xuống đây bằng cách nào, và càng không thể đoán ra được vì sao họ phải làm vậy. Nấm mồ xanh cũng đang có ý đồ dòm ngó bí mật được ghi chép trên tấm bia, dù bất kể phải nhận kết cục gì. Đội khảo cổ cũng chỉ còn cách phải tìm thấy tấm bia trong vực sâu trước hắn một bước, và họ tin rằng mọi đáp án cần tìm đang treo lơ lửng trong đó.

Trước khi xuất phát, hội Tư Mã Khôi tiến hành kiểm đếm súng ống đạn dược và trang thiết bị công cụ. Đến lúc này vẫn còn ba khẩu M-1887, sau khi phân phát đạn cho mọi thành viên, mỗi người vẫn còn hơn năm mươi viên, khẩu súng săn của Hải ngọng còn hơn 30 viên, khẩu súng lục P38 của Thắng Hương Lân còn mấy băng đạn dự phòng. Tuy đạn dược vẫn đủ duy trì một thời gian nữa, nhưng nước uống và thức ăn thì đã hoàn toàn cạn kiệt.

Mọi người hành quân ở nơi không khí ẩm ướt, sương khí bay la đà nên không thấy khát, nhưng ai nấy đều đói đến nỗi hai thành ruột dính sát nhau. Sau khi dần thích ứng với cảm giác huyết quản muốn vỡ tung, vì chịu áp lực quá tải, cả hội lại bật đèn quặng mò mẫm ra phía ngoài, bò từ khe nứt của tầng vỏ hang động hóa thạch ra. Thoát khỏi vỏ ốc, mọi người thấy không khí giăng ngập hơi sương, chỉ cách mấy bước chân mà đã không nhìn thấy nhau, còn dưới chân êm êm, mềm mềm, không biết là vật gì. Mọi người lần theo chỗ tương đối bằng phẳng để đi, chỉ thấy xung quanh toàn những vòng nấm khổng lồ màu sắc rực rỡ, to như những vầng mây, phía dưới có năm chân, trên đỉnh là đường vân hai màu vàng và trắng, xuôi xuống thân dưới là màu đỏ nhạt, dày hơn mười mét, chỗ đường diềm rong rêu buông rủ, hình thù trông rất kì dị.

Tư Mã khôi dự đoán hang động hóa thạch này đã bị rơi xuống đỉnh của một lùm địa chi, và đè bẹp một vạt lớn. Đang lúc đói meo, nhìn thấy đám nấm này thì chẳng khác nào buồn ngủ gặp chiếu manh, rồi không kịp phân biệt nó có độc hay không, cả hội đã ào tới cắt lấy mấy miếng, cho vào miệng nhai, nếm thử thấy vị nó giống như thịt gà, vừa bùi vừa ngậy, mà ngay cả linh chi hay nấm ngàn năm trong rừng sâu cũng không bằng một phần vạn của loại nấm này. Đúng là nó có thể ăn được, và có lẽ nó là một loài thuộc họ nhục chi sinh trưởng dưới lòng đất. Mọi người không nghĩ nhiều, mà người nào người nấy ai cũng phồng mang trợn má nhai nuốt. 

hoatanhoano.wordpress.com

Trong bụng có thứ lót dạ, đầu óc cũng thấy linh hoạt hẳn lên, Tư Mã Khôi chợt nhớ là không được ăn bừa bãi loài nhục chi dưới lòng đất. Nghe nói thời Dân quốc có một người đi đào nhân sâm ở núi Bạch Sơn, bị rơi vào trong hang núi vì mặt đất đột nhiên sụt lún. Anh ta phát hiện có tầng nhục chi lớn dưới đáy động, liền vớ lấy ăn, và chẳng bao lâu sau anh ta đã hóa thành cây khô hình người. Nghe đồn, nhục chi là loại nấm có hình có khí hẳn hoi và được chia ra làm nhiều loại. Loại nhục chi giống hình người, mọc đủ cả chân tay mắt mũi là loại có linh khí, nếu ăn nó sẽ cải lão hoàn đồng, răng mọc lại như trẻ lên ba, nhưng loại nhục chi thành tinh thì sinh ra là do cảm ứng khí tăm tối của đất trời, nên nếu lỡ ăn phải loại này thì sẽ biến thành hóa thạch dưới lòng đất. Có điều, bây giờ mới phân biệt xem nó thuộc loại nào thi cũng đã muộn, ngước mắt lên lại thấy mọi người đang cắt lấy cắt để từng miếng địa chi cất vào ba lô, nên Tư Mã Khôi cũng mặc kệ ý nghĩ vừa nhen nhóm trong đầu.

Lúc này, xung quanh sương dày bao phủ trùng điệp, mọi người không thể phán đoán địa hình và phương vị trong vực sâu, càng không biết tấm bia của Vũ Vương đang nằm ở đâu. Hơn nữa, tuy đa số bọn cương thi núi Âm Sơn rơi theo hang động hóa thạch xuống đây, đều bỏ mạng vì không chịu nổi địa áp, nhưng cũng khó lòng đảm bảo tuyệt đối không còn tên nào may mắn sống sót. Đội khảo cổ lẩn quẩn mãi ở đây cũng rất nguy hiểm, bởi vậy mọi người định thăm dò địa thế, rồi đi tìm một nơi tương đối an toàn nghỉ ngơi lấy sức, sau đó sẽ nghĩ cách đi tìm tấm bia Vũ Vương và Nấm mồ xanh. Cả hội gắng gượng leo lên cao, đến tận cùng của quầng nhục chi vươn ra khỏi sương, rồi đi đến ven rìa thì thoát ra khỏi bụi nấm. Nhờ vệt sáng phát ra do ma sát điện từ trên đỉnh đầu, cả hội đã phát hiện mình đang đứng trong kẽ hẹp của biển sương mù mênh mông. Sương mù dày đặc trông như mây trút đổ từ trên trời xuống, che phủ cả thâm cốc sâu rộng bát ngát. Thâm cốc này chủ yếu được tạo thành bởi các mỏ vàng nhấp nhô tựa gò đồi và rừng rậm pha lê phân bố ở nơi sụt xuống. Tư Mã Khôi suy đoán những thứ này được sinh ra sau khi dung nham bị làm lạnh và biến đổi lại trong quyển manti.

Hội Tư Mã Khôi nhìn thấy cảnh tượng này đều hãi hùng, lòng máng trũng lún sâu trong tầng quyển Manti chắc vươn sâu xuống mấy chục ngàn cây số, còn số lượng của một nhóm người so với nó nhỏ bé chẳng khác nào hạt bụi giữa sa mạc. Nơi vệt sáng chiếu tới chỉ là một phần nhỏ, còn cả vùng đất rộng lớn đều nằm ẩn trong sương mù dày đặc tựa hồ như không thể xuyên qua. Thế giới dưới lòng đất hung hiểm khác thường, từ cổ chí kim đều hiếm bóng người lai vãng, hơn thế nữa phần lớn mọi thứ lại đang nằm trong bóng tối, nên chỉ cần bước hụt chân và tụt xuống hố pha lê hoặc động dung nham bị phong kín, thì đừng có nghĩ đến việc sổng sót ngoi lên.

Cao Tư Dương chỉ tay về hướng đông và nói: “Tôi thấy trong sương mù có một cái bóng đen rất lớn thì phải. Phía dưới vệt sáng vẫn là bóng tối, mà dường như ở sâu trong biển sương lại có một đường viền khe nứt, mà không rõ vị trí cụ thể của nó ở đâu.”

Tư Mã Khôi cũng cảm thấy bóng đen đó rất khác thường, anh ngạc nhiên nói: “Cơ hồ có thứ gì che mất sương mù thì phải, không biết có phải bia Vũ Vương đang chìm dưới vực sâu không nhỉ? Nhưng nếu là bia đá, thì… nó cũng hơi to quá”.

Thắng Hương Lân nói: “Đâu phải chỉ hơi to, không khéo nó phải cao đến trên ngàn mét ấy chứ…”, cô vừa nói xong thì vệt sáng đột nhiên tắt ngóm, cả lòng đất lại chìm vào miền tối vô tận, cô vội vàng đánh dấu phương hướng lại.

Mọi người hoàn toàn không xác định được vị trí cụ thể của bia Vũ Vương, bây giờ thấy cấu tạo địa chất dưới cửu tuyền hùng vĩ, sâu hút như vậy, lại càng không biết nên đi hướng nào, đành đi bừa, đến đâu hay đến đấy vậy. Cả hội thấy mạch núi hai bên chạy theo hướng đông tây, trong khi đó hướng xuất hiện chiếc bóng khổng lồ chìm trong sương lại là hướng tây, còn phía đông là khe núi phủ dày sương và sâu hun hút, xem chừng rất khó tiếp cận, thế là cả hội quyết định đi về hướng tây.

Tư Mã Khôi thấy mọi thứ ở đây đều rất thần bí, nên dẫu cả hội đều kiệt sức, anh cũng không dám cho dừng lại. Tư Mã Khôi bảo mọi người kiểm đếm lại dụng cụ chiếu sáng, đèn quặng có thể duy trì được thêm vài hôm, cácbua tiêu hao khá chậm, nên tạm thời vẫn còn đủ dùng, đuốc của đội thám hiểm Taninth thì chỉ còn mười mấy thanh, vì không biết phải đi bao nhiêu cây số trong vực sâu tối om nên chưa đến lúc thật cần thiết, mọi người không được sử dụng. Anh bảo bốn người còn lại chỉ dùng công cụ chiếu sáng để đảm bảo an toàn bản thân, không được lãng phí, mọi người phải giữ vững khoảng cách nhất định, không được tách khỏi đội ngũ. 

hoatanhoano.wordpress.com

Nơi này đã hoàn toàn cách biệt núi từ, nên có thể sử dụng la bàn để xác định phương hướng, sau khi sắp xếp mọi thứ ổn thỏa, đội khảo cổ tìm chỗ giẫm chân lên và tiến về phía trước. Hai bên đường mọc đầy những lùm nhục chi cao trên trăm mét, chúng đan xen lẫn nhau, trùng trùng điệp điệp, tán nấm che kín không gian phía trên đầu, phía dưới vương vãi rất nhiều vỏ cúc đá. Sự tĩnh lặng đến đông đặc đã khiến người ta cảm thấy bất an, con đường đi xuyên qua bụi nhục chi khó hơn mọi người tưởng tượng. Cả hội mò mẫm trong bóng tối, lúc đi lúc dừng, nên tốc độ rất chậm chạp.

Cao Tương Dương không ngờ còn cơ hội thoát chết khỏi cảnh đường cùng, nên từ đó về sau lúc nào lòng cô cũng thấp tha thấp thỏm. Cô có cảm giác: Nấm mồ xanh đã lợi dụng mọi người để xuống được khe sâu dưới cửu tuyền, thì cũng có thể lợi dụng mọi người để tìm ra bia Vũ Vương. Tư Mã Khôi chỉ mải ngẫm nghĩ về bí mật mà đáng lẽ ra vẫn chưa bị phanh phui, còn anh không hề nghĩ xem, rốt cuộc kết quả của cuộc hành trình này sẽ như thế nào. Hội anh rõ ràng đang đùa với lửa. Cao Tư Dương là người thẳng thắn, cô không ngại nói thẳng mọi suy nghĩ của mình với mọi người. Nhưng Tư Mã Khôi không sợ, anh xác định, dẫu sao cả hội sớm muộn cũng đã rơi vào nơi nước sôi lửa bỏng, đến giờ này thì còn gì để mất đâu mà không liều mạng xông lên?

Anh nhớ lại đoạn đường đã qua với những chuỗi sự kiện thần bí, chiếc máy bay tiêm kích rơi xuống khe núi Dã Nhân, loài thực vật thượng cổ Udumbara mọc um tùm dưới đáy khe núi, gương mặt như thần phật của quốc vương Chăm Pa trong thành Nhện Vàng, sóng điện u linh trong mật thất “thi nhãn”, khối sắt thần nằm sừng sững dưới sa mạc Lâu Lan cổ đại, trạm thám trắc trung tâm trong kính viễn vọng Lopnor, chiếc hộp thời gian giữa biển cát dưới cực vực, long triện triều Hạ mà người Bái Xà để lại, thần thú “tải” của người Sở trong biển Âm Dụ ở Đại Thần Nông Giá, thủy thể vòng tròn ma quái quấn quanh vành đai 30° vĩ Bắc, tàu ngầm Z-615 của Liên Xô bị mất tích, ngọn núi từ dưới lòng đất có thể biến người sống thành cương thi, hóa thạch nhật quỹ có khả năng đo độ sâu lòng đất… Tất cả lời giải của những ẩn số này đều lần lượt được mở ra trước mắt anh.

Giờ đây, những hiện tượng bí ẩn với lời giải còn bỏ ngỏ đã bắt đầu xuất hiện khung hình rõ rệt. Có lẽ, bí mật ghi trên tấm bia Vũ Vương chính là chân tướng của cả chuỗi ẩn số, và vấn đề then chốt bây giờ là liệu mọi người có đủ can đảm chạm tay vào lời giải ấy không. Bất luận là Triệu Lão Biệt từng chết hai lần, sau khi trốn ra khỏi chiếc hộp thời gian, đã tiết lộ bí mật cho Nấm mồ xanh, hay tấm bia Vũ Vương chìm sâu dưới đáy vực, thậm chí cả Nấm mồ xanh không bao giờ để lộ khuôn mặt thật, hay tộc người Bái Xà bị nhốt dưới lòng đất và diệt vong từ hàng ngàn năm trước… ẩn số của cả mớ hỗn độn này, có lẽ đều liên quan mật thiết với nhau, mà đáp án lại được lớp bụi trần ai niêm phong ở một nơi gọi là “miếu thần” nằm im lìm dưới vực sâu thăm thẳm.

Cao Tư Dương không khuyên giải được hội Tư Mã Khôi, cô thở dài: “Cho dù tìm thấy tấm bia của Vũ Vương dưới vực sâu, tìm ra được mọi ẩn số liên quan đến Nấm mồ xanh, rồi đẩy hắn ta vào chỗ chết, thì chúng ta cũng không thể sống sót mà quay trở về, số phận của tất cả mọi người đều sẽ kết thúc tại đây thôi”.

Tư Mã Khôi đăm đăm nhìn cái bóng đen khổng lồ trong màn sương mù dày đặc, anh không quay đầu lại, chỉ nói nhẹ bẫng: “Tôi tin rằng, tìm thấy đáp án không có nghĩa là mọi chuyện sẽ kết thúc, thậm chí cũng không phải là điểm khởi đầu của sự kết thúc, mà cùng lắm cũng chỉ là… điểm kết thúc của một sự khởi đầu”.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro