than dieu dai hiep winwinwin

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 21 : Cưỡi trâu tiếp viện

Nghe lọt hai tiếng Cổ-mộ Dương-Qua "á" lên một tiếng rồi lắng tai nghe nữa.

Người khàn khàn hỏi:

- Cổ-mộ là môn phái nào, nghe xa lạ quá vậy?

Cơ Thanh-Hư đáp:

- Theo Triệu sư-thúc cho biết thì đệ-tử phái này ít khi xuất hiện giang hồ nên không mấy người biết rõ. Tuy nhiên có một sự lạ là chính Hàn-trại chủ đây cũng không biết rõ?

Người trại chủ họ Hàn đáp:

- Thôi chả nên bàn đến việc đó nữa làm gì. Chỉ nên xem thử sáng mai đối phương có bao nhiêu mạng, tài lực ra sao, mình đối phó như thế nào đây.

Cơ Thanh Hư nói:

- Triệu sư-thúc giao hẹn sẽ gặp con bé tại cửa hang Sài-Lang đúng giờ ngọ ngày mai để so tài, còn bọn họ bao nhiêu người thật cũng chưa biết rõ.

Hàn Trại chủ hỏi:

- Hang Sài-Lang ở đâu, về hướng nào?

Cô Thanh-Hư đáp:

Hang Sài Lang cách đây bốn mươi dặm về phía Tây-Nam. Bọn ta đã được Hàn Trại-chủ, thêm quyền sư họ Trần giúp nó còn sợ gì nữa.

Có tiếng ông già nói:

- Thôi được chúng ta sẽ gặp nhau nơi đây, đúng ngọ ngày mai, bây giờ mình đi, đi đệ.

Cô Thanh Hư tiễn hai người ra cửa còn dặn tiếp theo.

- Chỗ này không xa Trùng-Dương cung là bao nhiêu, nên làm sao cho cuộc đấu ngày mai đừng đến tai các vị Mã, Khưu, Vương biết được thì lôi thôi lắm, cần giữ kín nhẹm nhé.

Hàn trại chủ cười to bảo:

- Các người là môn đệ của Mã Ngọc và Khưu-xứ-Cơ, ta đây là kẻ ngoại phái việc gì phải sợ.

Lão sư họ Trần nói:

- Ngươi cứ yên lòng, nói thế chứ chúng ta không để cho ai biết đâu mà ngại.

Dương-Qua bực quá nghĩ bụng:

- Bọn này quyết tâm hạ thủ Long cô nương của mình nên tìm cách đấu nhẹm không cho Trùng-Dương cung biết. Nhưng sao chủ quan thế? Đã chắc ai hơn ai chưa mà sớm tự phụ lắm vậy.

Khi ấy, bốn người vừa đi vừa chuyện trò, bước luôn ra đường cái.

Dương-Qua thừa dị nhảy phắt qua cửa sổ, chui vô phòng của hai người lục soạn.

Mới nhìn vào đã thấy trên bàn có hai gói bạc, ước chừng vài chục lạng, chàng mừng rỡ nghĩ bụng:

- Thật "buồn ngủ gặp chiếu manh" "đói lòng gặp cơm nguội". Sẵn đây ta lấy đỡ để tiêu xài.

Vừa cất bạc vào lưng, chàng nhìn bên cạnh có một cái bao da dài, mở ra thấy có hai thanh trường kiếm.

Dương-Qua vận sức bẻ gãy thanh kiếm bốn khúc rồi cẩn thận đặt vào bao như cũ. Đoạn, hắn vén quần tiểu vãi lên áo quần, mền chăn của hai đạo sĩ rồi mới rút lui về phòng mình trùm chăn nằm giả bộ ngủ kỹ.

Bỗng có tiếng người phi thân qua tường và nhảy phịch xuống đất. Nghe bước chân đi nặng nề, chàng biết hai đạo sĩ khinh công còn quá non nớt nên chẳng thèm để ý nữa. Tuy nhắm mắt nhưng tai vẫn áp gần vách lắng tai nghe.

Hai đạo sĩ còn bàn tán thêm về cuộc chiến đấu ngày mai trước khi sửa soạn đi ngủ.

Thình lình Bì-thanh-Huyền hét lớn:

- ủa, sao ướt hết cả như vậy?

Kế nghe tiếng hít hơi mấy cái rồi một giọng bực dọc khó chịu thốt lên vang phòng:

- ồ, khai quá, khai không chịu được! Cơ sư huynh đã trót đái dầm sao! Nếu có thì nói trước để chi tệ vậy?

Cơ-thanh-Hư nạt lớn:

- Đừng nói xàm. Có lẽ mèo, chuột hay con gì đái đấy. Ta đâu có làm chuyện bậy bạ như vậy.

Bì-thanh-Huyền cãi:

- Mèo chuột gì mà ướt nhẹp cả chăn mền như thế này được.

Bỗng Cơ-Thanh-Hư hốt hoảng hỏi:

- ủa, hai gói bạc đâu mất rồi? Thế là cả hai vội vàng lục soạn khắp phòng để tìm gói bạc, may ra chuột mèo bỏ xó nào chăng?

Dương-Qua nghe hai người bàn bạc cãi lẫy, thích chí cười sằng sặc một mình.

Bỗng Bì-thanh-Huyền gọi lớn:

- Ông chủ ơi, ông chủ? Nơi đây là hắc điếm hay ổ trộm mà có người vào đây cắp hai gói bạc của ta đi rồi.

Tiếng gọi của hai người khiến bọn bồi phòng thức dậy chạy đến.

Bì-thanh-Huyền túm ngực người thủ-quỷ mắng lớn:

- Bọn bây rước trộm về đây lấy hết tiền bạc của ta. Muốn tốt phải giao hoàn lại lập tức. Nếu không ta phá điếm ngay bây giờ.

Khách trọ nghe ồn ào cũng thức giấc chạy đến xem, đứng xung quanh đen nghịt, Dương-Qua cũng thừa dịp trà trộn vào đám đông xem thử.

Người thủ-quỷ cãi lại:

- Quý khách có tiền nhiều sao không gửi chúng tôi, để hỏng hẻo mất mát, làm sao trách chúng tôi được. Tiệm này vốn lương thiện xưa nay, chưa một khách trọ nào than phiền mất một cái gì. Hôm nay hai ông kiếm chuyện sanh sự thật là lần đầu tiên mới có.

Hai đạo-sĩ nghe nói cường lý không biết đối đáp ra sao. Sau cùng Bì-thanh-Huyền tiếc của quá chịu không được, tát vào tai người thủ-quỷ một cái thật mạnh.

Người này nổi nóng, cầm ghế đập nhầu, miệng hô lớn:

- Bà con ơi, có cướp!

Người trong tiệm ùa ra, kẻ cây người gậy xúm lại bao vây hai đạo sĩ đánh nhầu.

Cả hai cố sức đỡ gạt. Tuy nhiên vì bên này quá đông người nên hai người đã rơi vào thế bị động, phải đứng đâu vai vào nhau mà chống cự cầm chừng.

Dương-Qua thích chí quá chạy về phòng leo lên giường trùm chăn cười khúc khích.

Đánh một chập, cự đương hết nổi, hai đạo sĩ vội rút lui vào phòng gài cửa lại.

Sáng sớm ngày sau, Dương-Qua thức dậy ngay từ khi trời còn mờ sương chưa sáng hẳn, gọi hai tô mì ăn điểm tâm.

Chàng để ý thấy các người giúp việc kẻ bưu đầu, người rách áo ai cũng càu nhàu nguyền rủa hai tên đạo sĩ.

Dương-Qua khơi chuyện hỏi:

- Rõ hai đạo sĩ thật quá ngang ngược. Bạc tiền cất giấu trong hồ bao, ít nhiều chẳng ai biết, bỗng dưng hô mất rồi còn làm phiền đến chủ tiệm nữa.

Người tửu bảo tức quá lên tiếng phân bua:

- Quả thật quân ăn cướp, đạo sĩ gì, tu hành chi thứ ấy! Ăn ở không trả tiền, lại kiếm cách phao vu giá họa, gây chuyện đủ điều. Câu chuyện này tức quá, chúng tôi sẽ đi khiếu nại tận Trùng-Dương Cung. Trên ấy người ta đàng hoàng giữ đúng phép tắc lắm! chưa có ai xằng bậy như thế bao giờ. Bao nhiêu đạo sĩ trên núi Chung-nam chưa có một ai ngang tàng như hai tên ấy.

Dương-Qua trả tiền rồi ra phòng tìm đường đi đến hang Sài-Lang

Chẳng bao lâu chàng đã vượt quá hai chục dậm đường. Hang Sài-lang đã hiện ra phía xa xa, đàng trước.

Ngó bóng mặt trời chỉ vào khoảng mười giờ thìn, còn sớm chán. Chàng muốn tìm chỗ mát mẻ kín đáo nghỉ chân dưỡng sức để xem thử cuộc đấu ra sao.

Để gây thích thú cho Cô nương, Dương-Qua tìm cách "cải trang" làm một trai cày. Chớ lúc xô xát hai bên, chạy ra để đem sự ngạc nhiên và thích thú cho Tiểu-long-Nữ.

Nghĩ đến việc cải trang, chàng nhớ lại ngày nào đã giả dạng một lần để phỉnh Hồng-lăng-Ba, bây giờ phải làm sao cho thật khéo léo để sư phụ lầm cho vui.

Dương-Qua rảo bước đi vào một nhà nông dân cạnh đó, xem có phương tiện nào để cải trang hóa dạng chăng.

Qua khỏi sân, vào vườn sau, nhìn vào chuồng thấy có một con trâu rất lớn đang nhơi cỏ, cọ sừng nhìn ra như muốn đòi đi.

Vừa thấy bóng Dương-Qua, con trâu trừng mắt, dừng tại nhìn sững.

Dương-Qua bỗng có ý định:

- Hay là mình cải dạng làm đứa bé chăn trâu. Cô nương chắc không thể nào nhận ra được.

Nghĩ xong, chàng xăm xăm bước vào nhà. Trước sân có mấy đứa bé đang ngồi vọc đất chơi nghịch, nhưng thấy dáng điệu chàng hùng hổ, chúng khiếp sợ chẳng dám nói gì hết.

Vào nhà ngó lên vách đất có treo sẵn một bộ áo quần ngắn nhà nông, phía dưới có để một đôi giày cỏ hơi nhục nhục.

Chàng cởi quần áo mình, lấy bộ đồ này mặc thử thấy vừa vặn quá, mà đôi giày cỏ cũng đúng cỡ chân mình.

Chàng vói lên cao lấy một cây roi mây rồi rảo bước lên nhà trên. Khi đi qua nhà cầu, thấy có treo một cây sáo trúc của các mục đồng thường thổi, đưa tay lấy sáo, đội một nón mê, thắt một dãy nịt bằng cỏ, ngắm nghía một chặp rồi đi luôn ra chuồng trâu.

Con trâu thấy người lạ, trừng mắt nhìn, sịt mũi kháng cự lại.

Khi cổng chuồng vừa mở nó đã lồng lên bức dây xông tới định húc Dương-Qua.

Dương-Qua đưa tay điểm trên đầu trâu rồi tung người nhảy lên lưng nó.

Con trâu lực lưỡng, mạnh phi thường, thấy người lạ ngồi trên lưng không chịu, lồng lộng nhảy lên muốn hất Dương-Qua xuống.

Dương-Qua thích chí bảo:

- Thôi, đừng lồng nữa mệt sức. Ta đã có cách trị mi bây giờ.

Chàng dùng tay vỗ nhẹ vào mông, con trâu chịu không nổi, quỵ bốn vó nằm yên. Một chập sau, Dương-Qua thu hồi chưởng lực trâu hết đau đứng dậy, nhưng lần này đã hiền khô, hết còn trở chứng tùy ý chàng điều khiển muốn đi đâu cũng được.

Chàng kịp chân giục mạnh, con trâu phóng đi nước kiệu vừa lên vừa mau không thua gì một con tuấn mã.

Trâu sải đi một hồi, xuyên qua một cánh rừng rậm rồi đến một vùng bao la, bốn bề đá dựng chập chồng thẳng đứng. Xa xa núi non trùng điệp, cao thẳng mây xanh. Trên sườn núi, cây mọc lưa thưa, cành lá xanh tươi mát mẻ, phía dưới thảm cỏ như nhung che kín, phong cảnh vô cùng u nhã ngoạn mục.

Dương-Qua nhìn thấy cảnh rất đẹp, rừng núi hùng vĩ thâm u, chợt nghĩ:

- Tại sao một chốn nên thơ như vầy lại đặt tên là "Sài Lang cốc". Tiếc thay tạo hóa đặt để những cảnh đẹp ở những nơi hiểm bí hoang u nên chẳng mấy người được thưởng thức.

Chàng thả trâu gậm cỏ non bên sườn núi, còn mình nằm dài trên tảng đá dưới gốc cây to, lim dim đôi mắt đợi chờ Tiểu-long-Nữ.

Chẳng bao lâu mặt trời đã đứng bóng. Dương-Qua hồi hộp, đầu óc miên man, chẳng biết chừng nào cô nương mới đến chỗ hẹn.

Bốn bề núi rừng u tịch, ngoài tiếng chim kêu lảnh lót trên sườn đồi!

Dương-Qua đang nằm mơ màng suy nghĩ miên man, thình lình ở phía sau có tiếng nhiều luồng chưởng bị chạm nhau, từ đồi xa vọng lại.

Chàng vội lồm cồm ngồi dậy ngó quanh rồi rón rén bò sang và đưa mắt nhìn, thấy dạng ba đạo sĩ là Cơ-Thanh-Hư, Bì-Thanh-Huyền và một người vào khoảng năm mươi tuổi, hơi lùn, có lẽ là Triệu sư-thúc.

Dương-Qua đang ngờ ngợ nhìn thế cùng khi ấy có hai người nữa từ sau hóc núi đi ra. Người đi trước thân hình hiên ngang vạm vỡ, đó là một ông lão râu tóc trắng như tuyết, ngoài lão quyền sư họ Trần, chắc không còn ai nữa.

Năm người gặp nhau yên lặng chẳng nói một lời, chỉ chắp tay lễ phép chào nhau rồi cũng đứng thành hàng chữ nhứt hướng mặt về phía Tây.

Dầu bóng mặt trời đứng bóng chói lọi quá gay gắt, Triệu sư-thúc không dám sơ ý, vẫn đưa mắt nhìn thẳng lên.

Trông thấy dáng điệu hắn, Dương-Qua suy nghĩ:

- Tài nghệ ra sao chưa biết nhưng trông qua lão này có vẻ thận trọng không coi thường địch thủ.

Ngay lúc đó, từ phía bên kia cửa hang, có tiếng vó câu vang dậy, năm cặp mắt nhìn theo thì bỗng thấy bóng một nữ lang mặc toàn đồ trắng hiện ra trên lưng một con lừa màu đen.

Nàng phi đến mau như gió lốc, chưa nhìn rõ mặt mày. Dương-Qua vừa thấy cõi lòng đã rộn rã, nghĩ thầm:

- Nàng có phải là Cô nương của mình chăng? Nếu quả đúng thì cố nhiên ta phải ra tay tiếp sức.

Nữ lang bạch y dưng lại, cách bọn này chừng bảy tám trượng, ngồi yên trên lưng lừa đưa mắt nhìn sang, vẻ mặt điềm nhiên hình như quá coi thường, chẳng gì đáng lo ngại về bản lãnh của họ.

Cơ Thanh-Hư quát lớn:

- Cô bé học Lục, khá khen đã có gan giữ đúng lời hẹn ước. Bây giờ có đồng bọn nào giúp sức, cứ gọi hết ra đây, chúng ta sẵn lòng tiếp đón.

Nàng cười nhạt đáp:

- Cần gì phải có người giúp sức.

Nàng nói vừa dứt lời, rút dao vung lên một vòng, dưới ánh mặt trời ban trưa sáng rực như muôn ngàn ngân quan, trông chói cả mắt.

Cơ Thanh-Hư nói:

- Mi làm sao chống nổi với năm anh em bọn ta?

Nàng cầm dao chỉ vào mặt hắn nạt lớn:

- Một mình cô nương cũng đủ sức hạ năm đứa bay rồi, cần gì phải thêm người tiếp sức nữa.

Nói xong nàng vung dao tiến tới, xé gió rít lên những tiếng rợn người.

Binh khí của sáu người chạm nhau rang rảng nghe nhức óc. Nàng lanh lẹ như con chim phượng trắng đang bay nhảy tung tăng khắp bốn mặt, chống cự năm người hăm hở như cọp dữ giành mồi.

Nhìn nữ lang bạch y tuy mặt mày xinh đẹp đáng yêu, nhưng không phải là Tiểu-long-Nữ, Dương-Qua thở dài thất vọng.

Vừa buồn rầu, vừa xúc động, chàng bụm mặt, ngồi sụp xuống đất khóc òa.

Cả sáu người vội dừng tay lại, đưa mắt nhìn xem thử kẻ nào vừa khóc. Khi thấy đó chỉ là một chú bé mục đồng, ai cũng đoán có lẽ thằng bé này bị chủ hà khắc, chịu không nổi mới lùa trâu ra đây ngồi than khóc một mình, nên không thèm quan tâm đến nữa.

Muốn làm rủn chí đối phương bằng lối phô trương lực lượng phe mình, Cơ-Thanh-Hư bèn trỏ Hàn Trại chủ long trọng giới thiệu:

- Đây là Hàn Trại chủ, đã lừng danh Tân Tấn!

Rồi ngó Trần lão quyền sư nói:

- Đây là đại võ sư về quyền cước Trần-tiểu-Sinh, một trong tam hùng khét tiếng miền Hà-sóc!

Sau cùng hắn chỉ vào Triệu sư thúc, long trọng nói:

- Còn đây là Đạo trưởng họ Triệu chuyên môn huấn luyện cho hào kiệt võ lâm, môn "Long ngân kiếm".

Mặc cho tán tỉnh đủ điều, nàng ấy vẫn phớt tỉnh như không thèm quan tâm đến và cũng không hề lộ vẻ sợ hãi nể nang gì ráo.

Nàng đưa cặp mắt lạnh lùng ngó mấy đối thủ, nét mặt khinh khi chẳng đáp một lời.

Triệu-bất-Phàm dịu giọng nói:

- Chúng ta đông người không thèm ra tay đánh một mình có em. Vậy để cho em một thời gian năm mười hôm tìm thêm bốn người nữa rồi đây tranh tài cũng được.

Nữ lang áo trắng "xì" một tiếng đáp:

- Đối với bọn giá áo túi cơm như chúng bay, ta đâu cần nhờ ai giúp sức làm gì. Vậy cứ ra tay cho rồi.

Triệu-bất-Phàm nổi lòng tự ái, tuy vậy cũng cố dằn tâm suy nghĩ:

- Ranh con thật quá tự hào, nhìn người nửa mắt. Chưa rõ tài nghệ của hắn ra sao mà lớn lối quá vậy.

Hắn ôn tồn hỏi thêm:

- Cô em có phải môn đồ phái Cổ-Mộ đấy chăng?

- Muốn đúng cũng được, mà không cũng được.

Lão đạo sĩ nổi nóng dằn không được bảo họ Triệu:

- Mình đâu có ngán con ranh này mà phải nhiều lời vô ích. Thôi cứ đánh đi cho rồi, đừng dài giòng thêm mất thời giờ nữa Triệu-ca!

Triệu-bất-Phàm vốn sẵn tánh ý thận trọng và trầm tính, thấy nữ lang đơn độc chỉ một mình nhưng vẫn lớn lời khinh miệt bọn mình nên đoán chắc có âm mưu hay biệt tài ám khí gì đây chăng. Nên lão vẫn ôn tồn nói:

- Cô nương, thường ngày môn phái chúng tôi chưa ai dám vô lễ hay làm điều gì không phải cùng cô nương. Không hiểu vì sao cô nương nỡ nặng tay đả thương người của chúng tôi. Hôm nay xin cô nương vui lòng cho biết hết nguyên nhân. Nếu quả chúng tôi có lỗi xin sẵn lòng đến tạ tội cùng quý phái.

Trái lại, nếu chỉ là một việc làm rồ dại không có lý do xác đáng thì cô nương chớ trách sao chúng tôi thiếu lễ độ.

Nữ lang cười mũi rồi đáp:

- Chẳng hiểu vì sao bọn ấy cả gan dở thói khinh người, nên bên cô nương mới cho nó vài đòn để sửa mình về sau. Từ nay hãy chừa cái thói khinh người như thế đó nhé.

Triệu-bất-Phàm tuy kiên nhẫn nhưng thấy đầu óc cũng xốn với thái độ ngông cuồng của nàng. Trần lão quyền sư chịu không nổi nữa nhảy vọt ra thét lớn:

- Ranh con, sao dám trịch thượng trước mặt các võ lâm tiền bối. Muốn yên thân, lập tức xuống lừa tạ tội cho rồi.

Nói chưa dứt lời lão đã phi thân đến cạnh lừa, đưa tay níu vai nàng định vít cho nhào xuống.

Bận cầm đao nơi tay mặt, người con gái không kịp xoay trở ứng phó với đòn này. Nhưng tài nghệ nàng không đến nỗi bị hạ ngay về ngón ấy.

Nàng chỉ khẽ xoay bàn tay một cái, tức thì hai vừng sáng bạc lấp loáng từ tay áo vun vút lao ra ngay ngực và đầu ông lão.

Trần lão sư hoảng hốt vội nhảy lui mấy bước, tay vung đao lên gạt hai lưỡi diệp dao, miệng la lớn:

- Con a đầu vô lễ thật. Phen này đừng đem lòng oán hận lão gia nhé!

Nói rồi lão huơ dao chém như mưa bấc.

Hàn Trại chủ phía sau, Triệu bất Phàm đứng bên cạnh cũng đồng thời kẻ múa roi, người loang kiếm, nhất tề tấn công một lượt.

Cơ-Thanh-Hư, Bì-Thanh-Huyền cũng múa kiếm xông vào trợ chiến. Nhưng bỗng có hai tiếng leng keng ngân lên, đôi tay cầm kiếm của hai người như tê dại hẳn, và hai thanh kiếm đã bị một vật gì vô hình chạm phải gãy đôi rơi xuống đất. Hai người hết hồn, đưa mắt nhìn quanh vừa bỡ ngỡ vừa lo âu, không dám xông tới nữa.

Nguyên do vì Dương-Qua muốn ra trợ giúp cho nữ lang bạch y đỡ bớt vài đối thủ nên đã lẹ tay phóng hai ám khí đánh gãy kiếm của hai đạo sĩ này.

Nữ lang áo trắng đang tung hoành chống đỡ cùng ba người, bỗng nghe có tiếng động và nhìn thấy kiếm của hai gã gãy đôi thì thích chí cười lên một hồi, rồi đánh mạnh hơn nữa.

Thấy nàng vui vẻ cười to, Dương-Qua cũng thấy hân hoan mừng lấy và phút chốc quên hết âu sầu, cười theo dòn dã.

Thình lình nữ lang xoay bàn tay, một lưỡi diệp dao xé gió vun vút về phía Bì-Thanh-Huyền. Hắn vội vàng cúi đầu né tránh, nhưng đã chậm rồi. Lưỡi diệp dao phớt qua đầu hắn, đã thiến đứt ngon một vành tai rơi xuống đất, máu chảy dầm dề.

Mấy người kia cũng kinh hãi cho tài nghệ về môn ám khí của nữ lang, trong bụng có phần e dè. Nhưng vì đinh ninh phe mình đông người sẽ thắng thế, nên vẫn yên lòng bao vây tấn công ráo riết.

Nói rằng nhiều người cùng tấn công, như hai gã họ Cơ và họ Bì chỉ nắm hai thanh gươm gãy để đánh cầm chừng chứ không có tài dụng gì mấy.

Lợi dụng nhược điểm ấy, nữ lang thét một tiếng lớn, vung tay gạt phắt các môn binh khí ra, giật cương giục lừa nhảy phóc ra xa hai trượng. Cả bọn hè nhau chạy theo bám riết không chịu rời.

Hàn Trại chủ đuổi theo vừa kịp tung thiết-chùy đánh ra một đòn cực kỳ dũng mãnh, nữ lang vung gươm gạt trúng thấy rung động cả cánh tay, thất kinh vội nghĩ:

- Tên này bản lĩnh không phải tầm thường. Cần thận trọng đề phòng hắn mới được.

Nàng giật cương cho lừa né qua một bên tránh được.

Hàn Trại chủ thừa thế vung chùy đánh luôn mấy cái liên tiếp.

Riêng quyền sư họ Trần bình sinh chuyên môn về quyền, nên kém về môn đao kiếm, huống chi tay đã bị thương nên lực lượng không có gì đáng ngại. Nhưng Triệu-bất-Phàm thì quả là một cao thủ, kiếm pháp tinh vi, cho nên mỗi thế kiếm của hắn tung ra là cả một thể tuyệt diệu kinh hồn làm đối phương phải kiêng nể.

Cuộc đâm chém mỗi lúc càng kéo dài, hai bên một đông một ít nhưng mải mê chiến đấu chưa ngã ngũ về bên nào. Dương-Qua thừa dịp ngắm nhìn mặt mày của nữ lang áo trắng.

Chàng thấy nàng rất đẹp. Mặt trái xoan, da dẻ hồng hào, mũi thẳng, mày thanh, môi tươi, có lẽ lớn hơn mình đôi ba tuổi, chàng nghĩ bụng:

- Xem sắc diện cô ta cũng na ná như mình, hèn chi tên tửu-bảo nói nàng là chị mình cũng phải.

Da nàng tuy cũng trắng, nhưng đậm hơn của Tiểu-long-Nữ. Nhìn đao pháp của nàng cũng lạ lùng kỳ ảo nhưng vì phải chống với nhiều người nên chưa giữ được phần thắng lợi.

Theo lối xuất thủ thì rõ ràng là người của phái Cổ-mộ rồi. Phải chăng nàng là đệ tử của Lý-mạc-Thu sư bá?

Lúc mới đánh nhau, Dương-Qua thấy năm người xông ra đánh một nữ lang nên trong lòng bất phục.

Nhưng xét lại thấy mấy người kia bản lãnh tầm thường thì dầu có đông cũng chưa hẳn thắng nổi.

Sau này nhận xét ra nàng là học trò của Xích-Luyện Tiên-tử Lý-mạc-Thu thì chàng đã sanh ra ác cảm nên nghĩ thầm:

- Dầu nàng hay mấy đạo sĩ thắng cũng không có gì can hệ đến ta, thôi chả cần quan tâm làm chi nữa.

Nghĩ xong chàng vếch chân nằm dài trên tảng đá nhìn mây, nghe gió, chẳng để ý đến mấy người.

Mười hiệp sau, nữ lang đã dần dần chiếm lại ưu thế. Nàng ngồi trên lừa tả xông hữu đột, vung kiếm loạn xạ buộc năm người phải lo chống đỡ và từ thế công đã rơi dần vào thế thủ.

Lúc ấy Cơ-Thanh-Hư nhớ lại mình chẳng giúp ích được gì, mới nói cùng Bì-Thanh-Huyền:

- Bì sư-đệ, gươm chúng ta đã gãy, dẫu đánh cho đông cũng chẳng lợi ích gì thiết thực. Chi bằng đôi ta tạm rút lui ra ngoài, kiếm một nhánh cây hay khúc gỗ nào chắc chắn, vừa tay, vào làm côn đánh nhau có lẽ hơn đấy nhỉ?

Bì-Thanh-Huyền cũng đồng ý.

Cả hai chạy luôn ra rừng bên cạnh tìm được một cây gỗ khá cứng rồi trở vào.

Cơ-Thanh-Hư bảo:

- Cây này vừa tay lắm. Nếu đánh hắn không được thì tấn công lừa nó càng thuận tiện hơn.

Thế rồi cả hai hè nhau xông lại cứ nhè bốn chân lừa đập túi bụi.

Nữ lang áo trắng, mãi lo đánh đỡ các đường kiếm vô cùng hiểm ác của họ Triệu, đâu để ý đến thâm ý này. Bỗng nhiên con lừa đen rống lên một tiếng, nhảy dựng lên rồi ngã quỵ xuống què hẳn mất một chân vì ngọn côn của Cơ-Thanh-Hư.

Tiếp đến, Bì-Thanh-Huyền cũng phang trúng một đèn nữa vào chân kia, con lừa chịu không nổi nằm bẹp luôn. Nữ lang buộc lòng phải nhảy xuống đất đánh bộ.

Nàng tung mình lanh lẹ né tránh cả kiếm chùy của địch đánh tới tấp vào đầu, rồi đưa tay chém ngang một nhát lộng gió vù vù, đúng ngay khúc cây trên tay Bì-Thanh-Huyền đứt tiện thành hai khúc.

Nhưng vì đang mải lo chém vào phía Bì-Thanh-Huyền nàng sơ hở bị lão quyền sư họ Trần thừa thế đâm một nhát trúng nơi chân.

Dương-Qua thấy nàng đã thọ thương hốt hoảng la lên:

- úy, nàng nguy mất rồi!

Động lòng nghĩa hiệp chàng muốn xông ra cứu giúp nhưng chợt suy nghĩ:

- Ta cùng cô nương đang chung sống êm đềm trong Cổ-mộ đài chỉ vì con nghiệt súc Lý-mạc-Thu dẫn học trò vào tác quái, làm xáo trộn cả cuộc đời chúng ta. Ngày nay cô nương ta lưu lạc hà phương, và thân ta bây giờ một mình một bóng cũng chưa biết nên về xứ nào, nghĩ càng thêm căm tức. Thôi cuộc đời mặc người lo liệu, hơi đâu nhúng tay vào để gây thêm ân oán cho phiền lòng.

Nghĩ xong chàng làm ngơ không đếm xỉa đến nữa.

Nhưng tiếng reo hò hỗn loạn, tiếng gươm kiếm chạm nhau loảng xoảng lại kéo Dương-Qua trở lại thực tại, không thể làm ngơ, chàng ngó lại thì trận thế đổi khác. Nàng áo trắng đã có bề thất thế, bị bọn này vây hãm càng lúc càng lúng túng, chỉ đánh đỡ cầm chừng và giờ phút bại trận đã gần đến.

Thình lình một ánh sáng xẹt qua, cả nửa mái tóc và cây trăm cài đầu của nàng đã theo một làn gươm bay xuống cỏ. Nàng thẹn đỏ mặt, uất hận tràn trề, bặm môi trừng mắt cố sức múa đao đánh hăng thêm.

Dương-Qua nhìn nàng, lẩm bẩm:

- Lúc này nàng tức giận, sao mà giống hệt như Long Cô-Nương như đúc. Ta không thể thờ ơ mà cần ra tay cứu nàng mới được.

Nữ lang đã đuối lắm rồi, tay cầm đao chỉ đánh qua loa hời hợt như không còn sức lực nữa. Thần sắc có vẻ hoang mang, dáng điệu đã có phần luống cuống.

Chợt Triệu-bất-Phàm lên tiếng hỏi:

- Nàng kia, nàng là người chí của Xích-Luyện Tiên-tử Lý-mạc-Thu. Hãy nói rõ cho ta nghe, nếu không đứng trách ta vô tình đấy nhé.

Nàng ấy không đáp lại, thừa lúc Triệu-bất-Phàm vô ý, vung đao chém mạnh vào giữa lưng. Lão quyền sư thất kinh gọi lớn:

- Hãy xem chừng kẻo nguy đấy.

Nếu Cơ-Thanh-Hư không lanh tay vung còn ra đỡ hộ thì chắc hắn sẽ bị lủng lưng dưới làn gươm ấy rồi.

Triệu-bất-Phàm nghĩ bụng:

- Cứ theo ta đoán thì nàng này nhất định phải có liên hệ mật thiết cùng Lý-mạc-Thu. Phen này nếu để hắn thoát được, rủi đến tai Lý-mạc-Thu, thì bọn mình khó bảo toàn tánh mạng. Cho nên thế nào cũng giết hắn để giữ nhẹm chuyện hôm nay.

Cả bọn năm người cùng hè nhau đánh hăng hơn trước.

Triệu-bất-Phàm nắm chặt đốt gươm, liều mạng xông vào quyết ra tay hạ sát.

Dương-Qua thấy nàng đã lâm vào trạng thái cực kỳ nguy hiểm không thể chậm trễ nữa, bèn nhảy phóc lên mình trâu, vận chưởng lực phổ vào giúp nó hăng sức hơn nữa, giục chạy thẳng về phía sáu người đang hỗn chiến.

Trâu vừa chạy, Dương-Qua càng la thêm như thúc đẩy:

- Trâu ơi, chạy mau lên để cứu người, trâu ơi!

Trong nháy mắt con trâu mộng đã xông vào trận đấu.

Sáu người đang mải mê chiến đấu, bỗng thấy một người cưỡi trâu xông vào, thất kinh dừng tay nhảy qua một bên để né tránh.

Dương-Qua ngồi trên mình trâu, hoa chân múa tay, hò hét luôn mồm, khi trâu chạy tới cạnh hai gã Bi, Cơ, chàng vội lanh tay điểm vào huyệt ở sau lưng hai người. Đây là thuật điểm huyệt "phượng nhỡn" một tuyệt kỳ công phu, chỉ một mình chàng làm được. Hai đạo sĩ bị điểm huyệt, toàn thân cứng đờ không cử động được. Dương-Qua đưa hai tay túm hai người vắt cạnh sừng trâu mang đi vun vút.

Hai đạo sĩ vừa thốt tiếng cầu cứu thì con trâu đã lao thẳng đến sườn đồi. Dương-Qua bỏ hai người nằm đó rồi quày trâu trở lại.

Thật ra bản lãnh của sáu người so với Dương-Qua còn sút kém xa lắm. Khi trâu chạy tới, rồi kế đến lại xảy ra những chuyện bất ngờ gần như ảo thuật, thì ai nấy đều lạ lùng đứng nhìn trân trối, quên cả đánh nhau.

Dương-Qua cho trâu đến gần Hàn Trại chủ và Trần lão quyền sư.

Hàn Trại chủ thấy vậy vung chùy nhắm đầu con trâu bổ xuống. Nhưng Dương-Qua đã lanh tay điểm vào huyệt "Tương đại" rồi xoay qua điểm luôn huyệt "Tĩnh xúc" của Trần lão quyên sư.

Cả hai bị điểm huyệt nơi lưng và giữa bụng đã loạng choạng muốn ngã nhào, nhưng Dương-Qua đã chộp được đầu, kéo luôn để vắt ngang mình trâu rồi giục luôn lên đồi vứt bên cạnh hai đạo sĩ trước.

Nữ lang áo trắng và Triệu-bất-Phàm định xáp lại đánh một trận cuối cùng quyết định ăn thua, nhưng thấy sự việc xảy ra quá lạ lùng nên đứng trố mắt nhìn mãi, lòng ai cũng phân vân, từ cái lạ này qua cái lạ khác.

Khi thấy trâu từ trên vườn đồi phi xuống lần thứ ba, và trên lưng chú mục đồng hoa chân múa tay, miệng la ó om sòm.

Biết mối nguy đã đến phần mình, nên Triệu-bất-Phàm đề phòng vung gươm nhắm đầu trâu vừa đâm vừa chém loạn xạ.

Nhưng lạ quá, gươm tuy bén nhưng đâm hoài không thấy sờn một tý da trâu. Chú mục đồng ngồi vắt vẻo trên mông trâu, tay chỉ cầm một chiếc sáo trúc dài mấy tấc, gạt ngang một cái mà lưỡi kiếm đã cong vòng như một móc câu.

Triệu-bất-Phàm nhằm thế không xong, phi thân tung mình nhảy vút qua khỏi đầu trâu, muốn phóng về phía sau tẩu thoát. Nhưng thân hình lão đang lơ lửng nửa chừng. Bỗng một sức mạnh vô hình níu lại, rơi xuống ngay giữa sừng trâu. Con trâu cứ giữ nguyên như vậy, ngay đuôi giõng thắng một mạch lên sườn đồi rồi hất xuống.

Dương-Qua ném hắn bên cạnh bốn tên kia rồi lại thúc trâu trở lại ngay hướng nàng áo trắng đang đứng nhìn ngơ ngác.

Nàng nhìn tận mắt thấy con trâu đã hạ luôn trong chốc lát cả năm người trong tay có vũ khí, bất giác cũng đem lòng lo sợ và nghi ngờ.

Nàng nghi ngờ vì chưa tin rằng một con trâu mà có tài lạ lùng đến mức đó.

Đang suy nghĩ bâng quơ thì con trâu đã xồng xộc chạy lại, dừng ngay trước mặt mình, mồm đầy nước dãi, mồ hôi ướt cả lòng. Nàng thất kinh vung gươm ra chém. Nhưng Dương-Qua đã hét lớn:

- Xin đừng chém trâu tôi! Vừa la vừa vung tay gạt gươm đỡ đòn cho trâu rồi ghì trâu đứng lại.

Chàng nhảy xuống đất ngó nữ lang nói:

- Xin cô tha cho nó, đừng giết tội nghiệp!

Con trâu đứng yên lặng mũi thở khì khì, đuôi ngoe nguẩy, không có vẻ gì hung tợn.

Nàng thấy trâu không còn hung hăng hại mình như bọn kia nên vội băng người chạy bay lên núi.

Dương-Qua than nhỏ:

- ồ, nàng quyết theo hạ sát bọn này rồi! Phải cứu họ mới được.

Chàng cúi xuống lượm năm viên đá nhỏ, liệng luôn về phía năm người.

Võ công chàng đã đạt tới mức kỳ diệu, có thể đẩy xa hàng mười mấy trượng, liệng năm viên đá giải huyệt cho năm người không sai viên nào.

Cả bọn năm người đang nằm im toàn thân tê liệt, không cử động nổi, bỗng nhiên có vật gì chạm nhẹ vào thân rồi cảm thấy đầu óc sáng suốt và tay chân cử động trở lại như trước. Ai nấy cũng đều đoán có lẽ một dị nhân đã núp đâu đây ra tay cứu mạng cho mình. Nhìn thấy nữ lang đang xách dao chạy thẳng lại đấy, ai nấy cũng tưởng chính nàng này giải cứu nên cùng ngẫm nghĩ:

- Nàng đã tài ba như vậy, thử còn tranh chấp làm sao nổi nữa, chi bằng tẩu thoát đi cho rồi.

Thế rồi mạnh ai nấy tìm đường phân tán cả.

Bì-Thanh-Huyền vừa tỉnh dậy, thấy các bạn chạy, cũng lật đật chạy càn, bất ngờ đúng vào phía nữ lang đang đi tới.

Cơ-Thanh-Hư thất kinh gọi lớn:

- Ô kìa, sao sư đệ chạy về phía đó? Hãy tránh mau nơi khác kẻo nguy hiểm lắm đấy.

Bì-thanh-Huyền lật đật quay mình rẽ sang phía tả, nhưng đã muộn rồi. Người con gái đã đến ngay trước mặt, múa dao chém sả xuống.

Trong lúc tâm thần rối loạn, khí giới không có, Bì-Thanh-Huyền lúng túng, xoay trở không kịp chạy quanh chạy quẩn, đến đâu cũng thấy dao bay lóe mắt. Hắn không tránh đỡ được bị một nhát đứt ngon một cánh tay.

Tuy bị thương nhưng vì quá hoảng hốt, hắn chưa biết đau, cứ lo chạy cuống cuồng tìm lối trốn tránh.

Vừa khi đó, Triệu-bất-Phàm đã đến kịp, vung gươm chặn cô gái lại.

Biết Triệu-bất-Phàm đâu phải tay vừa, nàng không dám tham chiến, kế đó nhìn về phía xa thấy dáng Cơ-Thanh-Hư đang cõng Bì-Thanh-Huyền chạy ra sau núi, nàng thấy hài lòng nhưng suy nghĩ:

- Bọn này đã được người nào giải khai huyệt đạo rồi. Biết đâu kẻ ấy còn ẩn nấp mai phục đâu đây, nếu mình háo thắng e gặp nguy hiểm. Tốt hơn là ta phải đi tìm cho ra sự thật là ai.

Nàng lăm lăm cây gươm trong tay chạy khắp xung quanh đồi, lục lạo hết các bụi lùm, hóc đá để tìm, nhưng chẳng thấy một bóng dáng người nào hết.

Khi trở lại chỗ cũ thì thấy tên mục đồng đang ngồi dưới đất sụt sùi khóc lóc.

Nàng ngạc nhiên hỏi lớn:

- Tại sao lại khóc lóc như vậy, hả chú mục đồng?

Dương-Qua gạt nước mắt bệu bạo đáp:

- Con trâu này trái chứng chạy lồng trong rừng, cọ vào đá rụng lông, e về nhà chủ tôi đánh đòn nên phải khóc.

Nàng đưa mắt nhìn qua con trâu đang gặm cỏ, thấy lông hắn vẫn láng mượt không trầy tróc chỗ nào, nên an ủi:

- Không hề chi đâu. Có xây xát chút ít chăng nữa chủ mi cũng không nhìn thấy được đâu mà sợ.

Trâu này đã giúp cho ta được việc, ta biếu mi ít tiền gọi là đền ơn nhé.

Nói rồi nàng đưa tay vào túi lấy ra năm lạng bạc ném ra đấy, chắc chắn thế nào chú mục đồng cũng hết sức mừng rỡ và tạ ơn mình ngay. Không ngờ sự thật khác hẳn. Hắn vẫn đứng yên, mặt mày ủ đột, không thèm ngó đến bạc.

Nàng nổi giận mắng:

- Đồ ngu, sao chẳng lấy bạc cất đi cho rồi?

Dương-Qua mếu máo đáp:

- ít quá tôi đâu thèm.

Cô gái lấy luôn một gói lớn hơn ném luôn xuống đất nhưng hắn vẫn đứng nhìn, lắc đầu mãi, không thèm lấy.

Nàng tức quá đỏ mặt tía tai, nguýt hắn một cái và mắng:

- Thật quả đồ ngốc. Chưa thấy ai như mày. Ngốc ơi!

Mắng rồi quay mình bỏ đi luôn.

Dương-Qua để ý thấy mỗi khi nàng nổi giận, giống Tiểu-long-Nữ những lúc mắng mình, như hai giọt nước, nên nghĩ bụng:

- Bây giờ chưa tìm được cô nương. Ta cố giữ cô này, để thỉnh thoảng nhìn cho đỡ nhớ.

Nghĩ xong vội vàng chạy theo nắm lấy chân phải của nàng miệng nói lớn:

- Hãy đứng lại, đừng đi đâu hết!

Cô gái cố gỡ ra, nhưng hắn cứ giữ chặt không chịu buông.

Nàng trừng mắt nạt lớn:

- Bỏ ra lập tức, mi không muốn sống nữa hay sao?

Nhìn nàng giận dữ nét mặt hay quá. Dương-Qua càng thích chí cố nài nỉ:

- Cô nương thương tôi và giúp đỡ dùm. Tôi không dám trở về nhà nữa. Thà cô giết tôi chứ về nhà chắc cũng không sống nổi với ông chủ.

Nàng dịu giọng hỏi:

- Nhà mi ở đâu?

Hắn đáp:

- Tôi quên mất nẻo đi rồi. Cô nương cho tôi theo với nhé.

Nàng thấy thằng này ương gàn và ngơ ngác quá, vung dao lên chém. Dương-Qua vội vàng xách giò của nàng đưa lên để đỡ nhát dao ấy.

Nàng nổi nóng giật phắt chân lại rồi bồi thêm một dao nữa mạnh vô cùng.

Dương-Qua lẹ làng bước qua một bên tránh được rồi luôn mồm la lớn:

- Cứu tôi, cứu tôi với bà con ơi!

Thấy thái độ của hắn như vậy nàng cũng thừa hiểu chẳng phải tay vừa, nên bỗng ôn tồn bảo:

- Thôi đừng la nữa, lại đây chị bảo.

Dương-Qua hỏi:

- Đến gần để cô giết tôi sao?

Nàng mỉm cười:

- Không, ta chẳng giết đâu. Cứ lại đây mà em.

Dương-Qua ngầm vận khí dồn huyết vào trong người khiến nước da trở nên tái xanh lợt lạt như một thây ma, rồi giả bộ sợ sệt rón rén bò lại cạnh nàng.

Nữ lang đưa chân hất gói bạc về phía chàng bảo nhỏ:

- Thôi cầm lấy rồi cút đi cho rồi, thằng ngốc! Ta còn phải đi tìm con lừa đen một tý. Chẳng biết lúc nào đánh nhau, nó bị hai gậy thất kinh chạy đi đâu mất biệt chưa trở lại.

Nàng vừa bước đi thì Dương-Qua bỏ tiền vào bọc, giắt trâu chạy theo gọi lớn:

- Cô ơi, cô đi đâu cho tôi cùng theo với.

Nàng bừng bừng nổi giận trợn mắt nhìn hắn rồi triển khai khinh công lao mình đi mau như gió, trong bụng nghĩ thầm:

- Mày có giỏi thì chạy theo xem có kịp không cho biết?

Phi thân đi một hồi lâu, bỗng có tiếng của hắn gọi cách đó không xa:

- Cô ơi, chờ tôi với cô ơi! Sao đi mau thế cô?

Nàng tức quá dừng chân lại, múa đao chém nhầu, miệng hét lớn:

- Cút ngay, thằng ranh!

Dương-Qua giả bộ hoảng sợ, vừa la vừa tìm đường lẩn trốn. Nàng không thèm đuổi theo, cất đao, quay mình phi thân theo đường cũ lao đi thật mau.

Được một chập, bỗng nghe tiếng trâu rống và chân chạy thình thịch đằng sau, nàng ngạc nhiên nhìn lại thấy Dương-Qua cưỡi trâu đi cách mình độ ba, bốn chục thước mà thôi.

Nàng bặm môi dừng chân đứng chờ.

Dương-Qua cũng gò trâu ngừng lại không tiến tới nữa.

Nàng lại rảo bước đi nữa. Trâu lại bước theo. Cứ đi đi, ngừng ngừng như vậy, không biết mấy lần. Nàng tức giận quá sức nhưng chẳng biết nói sao.

Lúc bấy giờ chim rừng đã ríu rít gọi nhau về tổ, ánh tà dương le lói sắp tàn. Sương chiều bay phủ khắp đầu non và màn đêm cũng vừa sụp xuống.

Nữ lang chưa tìm được cách nào để gỡ cho khỏi tên mục đồng kỳ quái cứ cố tình bám riết bên lưng, nên suy nghĩ:

- Thằng này đi mau chạy lẹ không thua gì kẻ có biết khinh công. Có lẽ vì ở miền rừng núi leo trèo đã quen nên chân tay dẻo dai nhặm lẹ. Chi bằng dụ nó lại gần, điểm cho một huyệt bại bớt cặp giò thì hết còn đi theo quấy rầy nữa.

Tuy chẳng nói ra, nhưng dự đoán của nàng đều bị Dương-Qua nhận xét qua mặt và điệu bộ mà biết trước, vì so sánh, bản lãnh của nàng còn thua sút hắn quá nhiều.

Thấy cô ta như thế, Dương-Qua cũng đã có cách để làm nàng khỏi nghi ngờ nữa.

Một chập sau, nàng thấy hai chân mỏi rã rời, dừng bước chờ hắn lại gần nói lớn:

- Này em, bây giờ ta bằng lòng cho em cùng đi theo, nhưng cần nghe lời ta một việc nhé.

Dương-Qua mừng quá vội đáp:

- Cô cho thật sao? Thế thì hay quá! Nhưng thật không cô?

Nàng đáp:

- Thật chứ. Bây giờ ngươi leo lên lưng trâu đi, và để ta cùng ngồi phía trước nhé.

Dương-Qua hân hoan dắt trâu đến gần.

Thấy mắt nàng liếc qua liếc lại sắc như dao hình như đã có một âm mưu gì đây, Dương-Qua vội nghĩ:

- Nàng lại tìm cách hại ta! Chờ xem nàng còn thi thố cái gì nữa đây.

Hắn điềm nhiên nhảy lên ngồi phía mông trâu, nhường phía trước cho nàng.

Cô gái nghĩ bụng:

- Bây giờ lừa đã chạy mất, thì ngồi trâu tạm đỡ chân cũng tốt.

Nàng thúc chân vào sườn, đau quá trâu lồng lên phóng nước đại.

Nàng thừa dịp, đưa tay ra sau điểm mạnh vào mỏ ác Dương-Qua nơi "kỳ môn huyệt" Dương-Qua rú lên một tiếng té nhào ra sau.

Nàng chẳng thèm nhìn lại, mồm mắng nhỏ:

- Đáng kiếp cho mày, từ nay đừng phá rối nữa.

Rồi nàng dùng ngón tay ấn mạnh vào cổ trâu. Con trâu tung bốn chân sải đi như ngựa phi nước đại, cát bụi tung mịt mù!...

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 22 : Cô gàn gặp tay thằng ngốc

Nhưng bỗng có tiếng kêu réo nheo nhéo đằng sau. Nàng quay lại xem thấy hắn đã tóm chặt đuôi trâu, chân bỏng đất tòn teng lơ lửng như chiếc diều, cát bụi đóng đầy mình, mặt mày lem luốc, nước mắt ràn rụa, vừa thút thít vừa kêu nàng.

Nữ lang tức không chịu được rút dao toan chặt vào cặp tay hắn cho rồi, nhưng khi ấy gặp chỗ chợ đông, thiên hạn ngồi đầy đường trâu đi không được nữa và buộc lòng nàng phải thu dao lại.

Dương-Qua cố tình trêu ngươi để chọc nàng một mẻ nên kêu rối rít:

- Cô đánh chết tôi sao được? Miệng tôi còn kêu được tôi cầu cứu bà con. Bà con ơi, cứu tôi với, cứu tôi với!

Bà con thiên hạ trong chợ thấy lạ ùn ùn kéo nhau lại xem, bao vây xung quanh lớp trong vòng ngoài, có kẻ hỏi nguyên nhân sự việc.

Nàng mắc cỡ cố lẩn vào đám đông chạy trốn nhưng Dương-Qua đã níu được chân la lớn:

- Trốn đi đâu, trốn sao được với tôi phen này!

Một người đứng tuổi hỏi:

- Hai người tại sao dằng co như vậy?

Dương-Qua đáp:

- Người này là chị dâu tôi đấy. Chị ấy ghét tôi nên cứ đánh đập tôi hoài.

Nàng tức quá, mắt phượng tròn xoe, mày liễu dựng ngược, đưa chân đạp mạnh một nhát vào mông Dương-Qua lăn cù trên mặt đất.

Ngay lúc ấy có một đại hán vừa đến, trông thấy nổi giận hét:

- Con bé này, sao nhẫn tâm khốn nạn như vậy hử?

Vừa nói, đại hán vung quyền ra đỡ hộ cho hắn.

Nàng lại vung dao ra chém luôn.

Người ấy tung người lên cao để tránh rồi la lối om sòm. Tức thì sáu bảy người to lớn cùng chạy lại xông vào can thiệp.

Nhìn thấy tình hình có vẻ gay cấn bất lợi cho mình, nàng suy nghĩ:

- Ta muốn dứt bỏ hắn mà không được. Bây giờ đông người quá, nếu cứ thẳng tay e có hại vì làm sao đối phó với số người tại chốn chợ đông. Chi bằng nên dỗ ngọt hắn cho xong, rồi sau sẽ hay.

Nghĩ vậy, nàng dịu lời bảo:

- Thôi đừng khóc nữa, lại đây cùng chị đi về.

Dương-Qua đáp:

- Nhưng chị đừng đánh tôi nữa nghe chưa?

Nàng cười giả lả:

- Thôi, chị chả đánh em nữa đâu.

Thấy hai nàng đã thuận thảo, chị em hết xung đột nên thiên hạ trong chợ cũng dần dần giải tán và nhường đường cho Dương-Qua dắt trâu đi.

Cả hai bước đi đã khá xa, nhưng phía sau còn vọng lại những lời bàn tán ồn ào về câu chuyện mình khi nãy.

Khi ấy Dương-Qua lại khơi mào nói chuyện:

- Tại sao cô có ác ý xô tôi xuống đất chiếm đoạt trâu của tôi?

Nàng ta đỏ mặt tía tai, nạt lại:

- Thằng ranh con, ai là chị dâu của mày mà đi nhìn càng như vậy?

Nói rồi tuốt gươm chém luôn.

Dương-Qua thụt lùi ra sau né tranh, miệng năn nỉ:

- Thôi, xin cô đừng giận nữa, về sau tôi thề không dám nói ẩu nữa đâu.

Nàng hét lớn:

- Xem mặt mày như ma lem mà lại gọi ta là chị dâu. Chỉ có quỷ dạ xoa mới xứng là chị của mày.

Dương-Qua chẳng cãi lại, cứ cười hì hì cho qua chuyện.

Đêm tối xuống dần, nhưng hai người vẫn còn ở giữa cánh đồng không hiu quạnh. Đưa mắt nhìn vào phía xa xa, trong xóm có le lói ánh đèn. Người con gái nói:

- Bây giờ đã đói bụng lắm rồi, mi đi vào xóm ấy xem có thứ gì ăn được mua ăn đỡ dạ chứ.

Dương-Qua nhìn nàng lắc đầu nói:

- Đâu được! Tôi chẳng đi đâu hết.

Nàng hỏi:

- Vì sao mi không chịu đi?

Dương-Qua đáp:

- Tôi đi rồi cô bỏ đi nơi khác tôi biết đâu mà tìm nữa. Cô đừng lừa tôi vô ích.

Nàng nghiêm mặt nói:

- Ta đã quả quyết không đi đâu cả, mi cứ tin ta. Ai đi lừa mi làm gì.

Nhưng Dương-Qua vẫn lắc đầu tỏ vẻ không tin lời nàng nói.

Nàng nổi nóng vung quyền thoi đại. Dương-Qua lật đật nhảy ra sau né tránh. Nàng tuy võ nghệ cao cường, khinh công cũng có hạng, nhưng vì chân có tật một bên đi khập khễnh nên đuổi theo không kịp hắn.

Thấy sai khiến không xong, đánh cũng không trúng, nữ lang buồn lòng suy nghĩ:

- Mình mang danh biết võ nghệ mà không điều khiển được, biết làm sao bây giờ. Thật chán quá!

Suy nghĩ xong nàng làm thinh lững thững bỏ đi. Dương-Qua dắt trâu bước theo. Cả hai cứ theo đại lộ đó mãi. Nàng vừa đi vừa nghĩ bụng:

- Ta cứ giả vờ tự nhiên cho hắn im rồi xuất kỳ bất ý cho hắn một dao là xong việc chứ gì!

Đi mãi vừa khoảng chín một nồi cơm, bóng tối đen dần, không trông thấy xa được nữa. Bỗng hai người gặp bên đường có một miễu đá, cửa đóng then gài, có vẻ rêu phong cổ kính và đã bị hoang phế lâu ngày rồi.

Nàng suy nghĩ:

- Hay là mình rủ hắn vào ngủ trong miễu này. Thừa dịp hắn ngủ mê sẽ cho một nhát gươm là rảnh nợ.

Dự định xong, nàng đẩy cửa nhìn vào. Miễu bị bỏ phế lâu ngày bụi bám nhện giăng, mùi mốc bay lên nồng nặc. Chạy quanh đó tìm ít nhánh cây khô, nàng dùng làm chổi quét dọn trên bàn đất, ghé ngồi nghỉ chân.

Không thấy Dương-Qua vào, nàng cất tiếng gọi:

- Mày còn đứng ngoài ấy làm chi sao chưa chịu bước vào cho rồi, hở ôn con?

Nhưng tư bề vắng lặng không có tiếng đáp lại. Nàng sực nghĩ:

- Hay là nó đoán được ý ta, không dám vào, sợ mình giết đi chăng. Nếu hắn tự ý bỏ đi càng tốt.

Nàng ngồi dựa lưng vào vách trầm ngâm suy nghĩ. Thình lình một trận gió thoảng qua, đưa vào mũi nàng một mùi thịt nướng thơm ngào ngạt. Nàng ngạc nhiên bỏ chạy ra nhìn. Dưới ánh sao mờ mờ, bên cạnh đống lửa hồng cháy hực hỡ, Dương-Qua đang ngồi chồm hỗm, gặm một khút thịt nướng còn lên hơi nghi ngút. Trên đống lửa có mấy gắp thịt nữa đang cháy xèo xèo, mùi khói cuồn cuộn bay lên thơm phứt.

Đang gậm thịt ngon lành, thấy nàng bước ra, Dương-Qua cười hề hề, dồn dã hỏi:

- Cô nương xơi thịt không? Ăn một miếng cho đỡ dạ nhé?

Miệng nói tay đưa cho nàng một gắp thịt.

Nàng tiếp lời, đưa lên ăn thử. Có lẽ thịt nai? Tuy chẳng được ướp muối mắm, gia vị gì, nhưng thịt tươi, bụng đói ăn ngon miệng quá. Nàng thấy hay hay, cũng ngồi luôn bên cạnh, hơ lại gắp thịt rồi ăn không chút e dè.

Nàng ăn hết gắp ấy. Dương-Qua đưa thêm gắp khác.

Được ăn ngon, ngồi bên đống lửa ấm cúng, nàng thấy vui vui bèn gợi chuyện hỏi Dương-Qua:

- à quên, cậu em tên là gì nhỉ?

Dương-Qua vừa gặm thịt vừa nhìn nàng đáp ấm ớ:

- Suốt ngày nay cô đã gọi tôi là thằng ranh, thằng ngốc quả đúng tên tôi rồi, chứ hỏi làm chi nữa. Cô giả vờ hay thật đấy?

Nàng tức cười hỏi tiếp:

- Vậy cậu em tên Ngốc thật sao? Cha mẹ em còn đầy đủ cả chứ?

Dương-Qua thở dài đáp:

- Cha mẹ tôi đều mất sớm cả rồi. Còn cô, tên họ là gì nhỉ?

Nàng đáp:

- Ta quên đi mất rồi. Mà em hỏi có ích chi đâu?

Dương-Qua thấy nàng muốn giấu nên nghĩ bụng:

- à, mi cố tình giấu ta, thì ta cũng chọc tức một hồi xem mi có nói ra không cho biết.

Nghĩ rồi cười lớn nói:

- Dầu cô không muốn nói, tôi cũng biết từ lâu, nhưng chưa muốn gọi mà thôi. Nói ra cũng chả ích gì.

Cô gái ngạc nhiên hỏi:

- Mi biết ta tên gì, nói thử xem nào.

Dương-Qua nhìn nàng, ranh mãnh đáp:

- Tên cô là "Trứng Ngốc", có lẽ vì tên đẹp quá, cô không muốn phô bày ra chứ gì?

Nàng ta tái mặt vì quá giận, vùng đứng lên cốc vào đầu hắn một cái và quát lớn:

- Mày cả gan khinh miệt ta là "Trứng Ngốc"? Chỉ có mày là Ngốc rồi cũng tưởng ai nấy đều giống họ nhà Ngốc cả sao!

Dương-Qua ôm đầu bệu bạo nói:

- Cô gán cho tôi tên "Thằng Ngốc. Tôi hỏi tên cô là gì cô chẳng nói. Tôi tạm gọi như vậy để dễ kêu, vì Ngốc và Trứng Ngốc cũng họ hàng với nhau cả. Sao cô cứ ỷ thế hà hiếp đánh đập tôi mãi thế. Vô lý quá!

Nàng nói:

- Ta ghét mi nên chẳng thèm nói tên: Muốn lắm thì ta cho biết một phần nào. Ta vốn họ "Lục", còn tên ta là gì, để mi đoán ra cho được.

Nguyên cô gái này là Lục-vô-Song hái sen bên hồ, đã thuật hồi đầu chuyện. Nàng cùng chị dâu là Trình-Anh và anh em họ Võ đi hái hoa, rủi té gãy xương chân. Tuy được Võ Tam Nương buộc thuốc ghép lại hộ nhưng sau đó vì có sự nghi ngờ và xô xát giữa Võ Tam Nương và cha nàng là Lục Lập Đỉnh cho nên việc ghép xương chưa được hoàn toàn, Võ Tam Nương bỏ nhà ra đi. Vì vậy nên Lục-vô-Song mang tật phải đi tập tễnh.

Nàng có màu da bánh mật, tuy không trắng lắm nhưng có duyên, mặt mũi cũng xinh đẹp, nhưng hiềm vì mang tật nơi chân, bước đi không tự nhiên nên bị một phần lớn ảnh hưởng cho nhan sắc nàng, cũng đáng thương hại.

Khi Xích-Luyện Tiên-Tử Lý-mạc-Thu đến hạ sát toàn gia họ Lục định giết nàng thì nhìn thấy trên lưng có mảnh khăn hồng, khiến cho nàng nghĩ đến cựu nghĩa cùng ông nàng là Lục-tiểu-Nguyên, động lòng không nỡ hạ thủ và bắt đem đi.

Lục-vô-Song tuy ít tuổi nhưng rất lanh lẹ thông minh. Thừa hiểu số phận mình đang ở trong nanh vuốt quân thù, không biết lúc nào mất mạng, cho nên cố sức tìm cách ăn ở thật mềm mỏng khéo léo để mua lòng. Nhờ đó mà ý định giết nàng, ngày càng phai nhạt, Lý-mạc-Thu thỉnh thoảng có nhớ lại cựu thù thì đưa nàng ra mắng nhiếc cho hả dạ chứ không hại đến tánh mạng.

Muốn cho Lý-mạc-Thu không quan tâm đến mình nữa, nàng cố để cho đầu bù tóc rối, mặt mũi lem luốc, chân đi khập khễnh càng cố làm khập khễnh nhiều hơn, và thỉnh thoảng ra bộ điệu vớ vẩn ngẩn ngơ như người mất trí.

Lý-mạc-Thu thấy con người tàn phế chẳng có gì đáng kể hay lo ngại nữa nên để ở trong nhà sai vặt như một đứa ở.

Lục-vô-Song ấp ủ mãi trong lòng mối cựu thù của song thân, không bao giờ lộ cho ai biết.

Thỉnh thoảng Lý-mạc-Thu thử ý hỏi đến tên cha hay tên mẹ thì nàng cũng giả vờ ngu ngu dại dại, nói bậy bạ chẳng trúng vào đâu hết. Nhờ vậy nên Lý-mạc-Thu không quan tâm đề phòng nữa.

Hàng ngày Lý-mạc-Thu rèn luyện võ nghệ cho Hồng-lăng-Ba thì Lục-vô-Song đứng hầu để sai vặt, hoặc múc nước, đưa khăn, thu dẹp bàn ghế hoặc xếp vũ khí.

Trước kia cũng đã có chút ít căn bản võ nghệ, nên nàng chú ý học lỏm nhiều ngón rồi thừa lúc vắng vẻ tìm nơi kín đáo để tập luyện lại.

Đối với Hồng-lăng-Ba thì nàng hết lòng chiều chuộng, bợ đỡ, luôn luôn tán tỉnh, khiêm nhường cho nên được Hồng-lăng-Ba thương mến, thỉnh thoảng gặp lúc Lý-mạc-Thu vui tính, Hồng-lăng-Ba tìm lời nói giúp cho nên Lý-mạc-Thu cũng bằng lòng chỉ bảo cho nàng.

Cứ như vậy tập luyện suốt mấy năm trời về cái môn quyền thuật, Lục-vô-Song lại tỏ ra có nhiều tiến bộ khiến cho Lý-mạc-Thu lại đem lòng nghi ngờ nên không tiếp tục truyền dạy võ nghệ cho nữa.

Trái lại, Hồng-lăng-Ba đã sẵn mến nàng cho nên đem lòng thương hại, thỉnh thoảng dấu sư phụ, đem cái môn bí truyền về đao kiếm, khinh công hay quyền cước đã học được truyền thụ lại cho nàng.

Nhờ vậy mà chẳng bao lâu Lục-vô-Song cũng có một bản lãnh khá cao có thể sánh với nhiều tay cự phách trong võ lâm thời bây giờ.

Trong dịp Lý-mạc-Thu cùng Hồng-lăng-Ba tái nhập Cổ-Mộ đài để tìm cách lấy trộm "Ngọc nữ tâm kinh" ở quá lâu, Lục-vô-Song chờ mãi không thấy về nên có ý muốn tìm cách trở về đất Giang-Nam để thăm quê hương và dò la tin tức của cha mẹ.

Ngày còn thơ ấu, khi Lý-mạc-Thu đến Lục gia trang, nàng chỉ được nghe cha mẹ bị Lý-mạc-Thu đánh trọng thương chứ không biết sống hay đã chết rồi. Vì vậy nên nàng cố nuôi hy vọng kiếm tìm, may ra còn có ngày được sum họp lại.

Trên đường về Giang-Nam nàng có gặp hai đạo sĩ lạ mặt. Hai người này thấy nàng đi tập tễnh đem lời chọc ghẹo. Tuy cố sức làm ngơ nhưng hai đạo sĩ càng tỏ vẻ thô bạo quá đáng nên nàng nổi nóng đem cắt tai một người cho hả giận.

Vì vậy nên người kia mới thách nàng và hẹn trưa hôm sau ra Sài Lang Cốc để thí võ, nên mới gặp lại Dương-Qua.

Ngày còn nhỏ, nàng và Dương-Qua đã có dịp gặp nhau, khi nàng vừa bị Lý-mạc-Thu bắt cóc đem đi. Nhưng thời gian qua, cả hai lớn lên, thân hình dáng điệu mỗi người cùng thay đổi quá nhiều cho nên tuy gặp lại vẫn không nhìn ra được.

Lục-vô-Song ăn hết ba gắp thịt của Dương-Qua đưa, thấy đã no lắm rồi. Trong người cảm thấy khoai khoái dễ chịu lắm.

Riêng Dương-Qua cứ ngồi nhìn đám lửa hồng thả hồn mơ mộng đâu đâu.

Chàng nghĩ đến Tiểu-long-Nữ và chép miệng than thầm:

- Chẳng biết giờ này cô nương ta phiêu dạt nơi đâu. Có nhớ đến mình chăng? Giá thử nàng này là cô nương ta, cùng ngồi hơ lửa ăn thịt, thì thú vị biết bao nhỉ?

Càng nghĩ càng mơ màng, mắt đăm đăm nhìn nàng không chớp.

Lục-vô-Song chợt thấy Dương-Qua nhìn mình như ngây dại nên phát ngượng, muốn đứng lên bỏ đi nơi khác bỗng nghe tiếng ho nho nhỏ từ đàng xa và một người lê đôi giép đến gần.

Người ấy vừa đưa mũi hít lia, vừa cất tiếng trầm trầm, tiến lại gần nói:

- ồ, thơm quá, thịt nướng ngon lành quá!

Lục-vô-Song để ý thấy người này ăn mặt rách rưới, quần áo chằn vá khắp nơi, dáng điệu quả là một chàng ăn mày chính cống.

Hắn bước thảng lại đống lửa ngồi kề bên cạnh Dương-Qua chẳng thèm hỏi han một lời, lấy que củi khều than ra gắp một miếng thịt đưa lên miệng nhai nhồm nhoàm, khen ngon rối rít.

Dương-Qua cứ điềm nhiên ngồi ngó không nói một lời.

Lục-vô-Song người thấy mùi hôi hám từ người này xông ra khó chịu quá. Hơn nữa thái độ của y lại vô lễ thô tục khiến nàng bực mình, phủi áo đứng dậy, ngoay ngoảy đi vào trong.

Người ấy nhìn theo tủm tỉm cười rồi như có vẻ vừa khiêu khích nữa. Cười xong, hắn cúi đầu ăn nữa.

Lục-vô-Song bực mình quá nhịn không nổi nữa, quay phắt lại trỏ mặt người ấy quát:

- Tên kia, mi cười cái gì?

Người ăn mày nghếch mặt một cách tư thị đáp:

- Ta cười mặc ta, có can hệ chi đến cô mà hỏi?

Lục-vô-Song muốn nhảy đến chém cho một dao bay đầu, nhưng sợ làm cho chú chăn trâu hoảng sợ chạy mất nên cố nén bụng làm ngơ rồi lẳng lặng đi vô.

Nàng vừa đến hiên miếu, bỗng nghe người ăn mày hỏi Dương-Qua:

- Chị của chú đấy à? Trông cũng khá đẹp đấy chứ! Nhưng nóng nổi là chân đi cà thọt khó coi quá nên chẳng còn đáng bao nhiêu.

Mấy lời ấy như muối xát vào lòng Lục-vô-Song. Nàng vừa nghe và thấy nóng bừng cả má, nóng cả tai. Bao nhiêu năm sống chung quả phụ Lý-mạc-Thu, nàng phải nhẫn nhục chịu đựng tất cả sự đè nén khinh khi, áp bức. Ngày nay đã ra đời tự do thế mà một tên ăn mày dám đương nhiên chế diễu khinh miệt mình ra mặt thì làm sao dằn lòng cho nổi nữa.

Lập tức nàng rút gươm nhảy lại chém mạnh vào đầu tên ăn cướp.

Người này cũng là một tay có hạng trong bang hành khất, cho nên võ nghệ cũng vào bậc khá.

Bang này do Hồng-thất-Công lãnh đạo gồm đủ ăn mày tứ phương, khắp cầu đường xóa chợ, từ thành thị đến thôn quê, chỗ nào cũng có mặt.

Hôm nay giữa đồng hoang vắng, tình cờ gặp Dương-Qua ăn mặc cùng bẩn thỉu rách rưới, hắn lầm tưởng là bạn đồng nghiệp cho nên thấy thịt cứ sa vào ăn, chẳng cần hỏi han khách sáo gì hết.

Thấy Lục-vô-Song tỏ ý không thích bỏ đi vào, hơn nữa nhìn nàng đi tập tễnh, hắn hiến kỳ hỏi thăm cho biết và sẵn dịp cũng buông đưa vài câu cho đậm chuyện, đâu ngờ lại xảy ra cớ sự như thế này.

Khi thấy nàng đưa dao chém mình, người ấy vội vàng "ủa" một tiếng rồi phi thân nhảy ra một bên tránh né, miệng la lớn:

- ồ, sao nóng nảy vậy cô! Tôi mới ăn góp với em chồng cô vài miếng thịt đã là bao mà cô lại đối xử như vậy. Nếu cô không bằng lòng, tôi sẽ trả đủ cho mà.

Lục-vô-Song đâu phải tiếc thịt. Nàng chỉ căm thù kẻ vào đây nhạo báng sự tàn tật của mình cho nên nàng chẳng nói gì thêm, vung dao chém tiếp thêm nhát nữa.

Người ăn xin lanh chân lánh mình tránh né được hết, rồi nhìn nàng như muốn khiêu khích để chém thêm vài nhát nữa.

Lục-vô-Song càng giận thêm, tiến sát gần bên, chém vun vút vào làm đứt tung một mảnh áo, người ăn mày hãi kinh nghĩ bụng:

- ồ, con bé này cũng là tay hữu hạng, đâu phải tầm thường.

Hắn rút ra một cây roi sắt để tiếp đánh.

Độ mười hiệp, người ăn mày thấy cô gái càng đánh càng hăng nên chột dạ suy nghĩ:

- Ta với nàng có thù oán gì mà đánh nhau nữa. Chi bằng bỏ chạy cho rồi. Nàng bị thọt chân chắc đuổi theo mình không kịp.

Hắn vung roi quất mạnh vào chân đau của nàng, cười một tiếng rồi xoay mình bỏ chạy.

Lục-vô-Song vội vàng đưa dao đỡ ngọn roi ấy, nhưng lúc thấy người ăn mày vụt chay đi thì nổi tức lên thét lớn:

- Thằng chó chết, mày tưởng ta không đuổi kịp hay sao?

Thế rồi nàng múa lộng lưỡi dao lên mấy vòng, lộng gió vi vu rồi phóng theo người ấy đang chạy về hướng Bắc.

Dương-Qua cứ mải miết nướng thịt vừa ăn vừa xem hai người đánh nhau. Thấy người ăn mày cự không nổi cô gái, chàng thích chí cười hoài.

Thình lình có tiếng đao rít vi vu nghe ớn xương sống, chàng đưa mắt nhìn lại thấy Lục-vô-Song đang vũ lộng một thanh đao cong như vành cung, lưỡi mỏng như lá lúa phóng theo người ăn mày.

Lưỡi đao vòng cung đã phóng trúng lưng, người ăn mày la lên một tiếng té nhào xuống đất.

Lục-vô-Song bay tới rút đao toan hạ sát, nhưng người ấy đã lanh chân chờ dậy và kiếm đàng chuồn mất.

Lục-vô-Song chạy theo ít trượng đã thấy người ăn mày hiện đâu mất tìm chẳng được.

Nàng quay lại bảo Dương-Qua:

- Mi đi lại chỗ ấy lấy lưỡi phi đao mang lại đây cho ta.

Dương-Qua trố mắt hỏi:

- Phi đao nào, biết đâu mà lấy.

Lục-vô-Song nói:

- Lưỡi phi đao của ta vừa phóng ghim trúng giữa lưng hắn đấy, ngươi chẳng thấy sao?

Dương-Qua ngớ ngẩn đáp:

- Nó chạy mua như vậy, làm sao theo kịp mà lấy.

Nói rồi chàng khoát tay, lắc đầu quầy quậy.

Lục-vô-Song chán quá nghĩ rằng:

- Hơi nào đi cãi nhau với thằng khùng, vừa lười, vừa vô dụng, cho mất công.

Nàng đứng dậy vào trong leo lên bực nằm xuống nghỉ lưng, gối đầu trên lưỡi đao mà ngủ, bụng nghĩ thầm:

- Thôi, mất lưỡi phi đao, còn con đao này cũng đủ hạ sát hàng trăm kẻ địch.

Đến nửa đêm Lục-vô-Song thức dậy, rón rén bước ra ngoài.

Bên đống lửa đã tàn, nhưng Dương-Qua nằm chèo queo ngủ mê như chết. Nhìn lên trời, trăng đã xế non Tây, le lói, chiếu ánh sáng bạc màu xuống đồng mênh mông hiu quạnh. Mấy hàng cây đứng rọi bóng trên thảm cỏ xanh ướt đẫm sương đêm. Thỉnh thoảng vài tiếng chim đêm kêu văng vẳng nghe rờn rợn.

Nàng nắm chặt thanh đao, xăm xăm về phía Dương-Qua đang nằm, vung lên chém xuống một nhát thật mạnh.

Một tiếng "choeng" nổi lên, nháng lửa sáng lòe như chém phải sắt đá, bàn tay nàng tê rần, thanh đao muốn rơi xuống đất.

Nàng thất kinh muốn bỏ chạy đi vì sợ hãi và tự nghĩ:

- Không biết thằng này tập luyện cách nào mà đã trở thành mình đồng da sắt! Hắn thức dậy, biết rõ âm mưu mình, chắc không yên thân với hắn.

Chạy được mấy trượng vẫn không có tiếng đuổi theo, và nhìn lại thấy Dương-Qua vẫn nằm im ngủ kỹ dường như không hề hay biết.

Lục-vô-Song ngập ngừng một chút rồi lên tiếng gọi lớn:

- Ngốc ơi ngốc! Thức dậy bớ ngốc.

Gọi mãi mấy lần mà không thấy hắn dậy, nàng bước lại gần, định thần nhìn lại thì thấy không phải Dương-Qua, kinh như chỉ một thứ gì bên trong có phủ manh áo của hắn bên ngoài.

Nàng lấy can đảm đến gần đưa tay hất manh áo lên thì đó chỉ là một tảng đá xanh dài dài.

Nàng ngạc nhiên đứng nhìn sững sờ một chập và băn khoăn nghĩ mãi chẳng biết thằng ranh con này nghi trang hòn đá để đi đâu rồi.

Chờ một chập chẳng thấy tăm dạng, nàng gọi lớn:

- Ngốc ơi, đâu rồi! Ngốc ơi!

Nhưng mặc dầu nàng đã gọi đều lạc giọng vẫn chẳng có tiếng đáp lại.

Tứ bề vắng lặng đến rợn người. Thỉnh thoảng một vài giọt sương rơi lộp bộp trên cành lá điểm nhịp cùng tiếng côn-trùng rỉ rỉ suốt canh thâu, và tiếng gió lộng phần phật vào mấy lá chuối phía sau tòa cổ miếu.

Lục-vô-Song mỏi miệng quá, ngồi trên phiến đá nghỉ xả hơi. Bỗng bên trong có tiếng ngáy của ai vọng ra.

Nàng ngạc nhiên rón rén đi vào thì rõ ràng Dương-Qua đang nằm trên bực đất của nàng ban nãy xây mặt ra ngoài, ngủ say như chết.

Đang bực tức vì mấy lần bị gạt, Lục-vô-Song không do dự nữa, nhảy luôn lên bục, nắm đầu hắn, vung dao chém phập vào ngay lưng một nhát.

Tiếng "phập" vừa dứt, nàng định thần nhìn lại, thấy rõ ràng đã chém trúng ngay giữa lưng, nhưng Dương-Qua vẫn nằm ngủ mê mệt và không có một tý máu me gì hết.

Nàng bặm môi, chém thêm một nhát nữa, và cũng không thấy máu.

Tức quá Lục-vô-Song cứ chém mãi liên hồi vào chỗ ấy, nhưng Dương-Qua vẫn cứ ngủ mê hơi ngáy đều đều không đứt quãng.

Đang bàng hoàng ngơ ngác chưa hiểu vì sao, bỗng Dương-Qua cựa mình ú ớ mê sảng nói lảm nhảm:

- Ai đi trên lưng đó... nhột quá. Hãy bỏ ra đi.

Lục-vô-Song sợ đến tái mặt không còn tý máu, răng đập vào nhau cồm cộp, miệng lẩm bẩm:

- Trời, quỷ hay người mà dễ sợ quá như thế này?

Muốn quay mình trốn đi nơi khác nhưng cặp giò như rã rời không nhích nổi nữa, đứng sững sờ như pho tượng.

Dương-Qua lại mê sảng nói nữa:

- Ai cứ sờ vào lưng mãi thế! ồ con chuột thật bự, tha đùi thịt nai mất rồi!...

Hết nói mơ, lại nghiêng qua một bên vén áo gài sồn sột, làm một đùi thịt nai để bên mình rơi luôn xuống đất.

Lục-vô-Song mới hiểu, nguyên nhân vì đùi nai cài sẵn bên lưng cho nên đao chém mấy lần không phạm được vào người hắn được. Thế mà nàng hoảng sợ gần điến hồn.

Vì nhiều lần cố chém không kết quả, phen này nàng quyết tâm hạ cho kỳ được để hắn khỏi trêu ngươi nữa.

Sau một phút đắn đo, nàng vung đao đâm mạnh vào bụng. Nhưng vừa lúc ấy, Dương-Qua bỗng nằm nghiêng qua một bên, mồm lảm nhảm mê sảng nữa. Lưỡi dao đâm hụt ghim xuống bực sâu hơn ba tấc.

Lục-vô-Song bặm môi rút mạnh lưỡi dao rồi trợn mắt đâm nữa.

Dương-Qua ú ớ la hoảng:

- Chuột ớ kìa, chuột tha đùi nai rồi!

Ngay lúc đó, Dương-Qua duỗi chân trái điểm ngay huyệt "Khúc tử" và chân phải điểm huyệt "Khiêm tĩnh", hai trọng huyệt nơi đùi và vai của Lục-vô-Song, khiến cho nàng bủn rủn cả thân hình đứng không vững, té nhào vào đùi chàng bị kẹp chặt lại.

Tuy toàn thân đã mềm rã, cử động không được nữa, nhưng thần trí vẫn tỉnh táo như thường. Nàng vội kêu lớn:

- Mau nới đùi ra không, quỷ sứ. Đồ gì mà hôi như heo. Chịu không nổi nữa.

Mặc nàng la lối, mắng chưởi, Dương-Qua vẫn khép đùi kẹp chặt và nằm yên ngủ mãi.

Lục-vô-Song tức quá rán ngóc đầu lên phun nước bọt vào mặt Dương-Qua. Hắn nghiêng mình, chìa ngón chân vào huyệt "tý nho" khiến nàng á khẩu luôn, hết nói hay há miệng ra được.

Nàng nằm yên toàn thân bất lực, trong khi ấy xú uế trong quần của Dương-Qua bốc ra muốn ngạt mũi, không thể nào thở nổi.

Nằm mãi như thế gần nửa giờ, dần dần đã thấy quen, hết thấy hôi hám, Lục-vô-Song tức mình nghĩ bụng:

- Mai đây, huyệt đạo thông suốt trở lại, ta thề sẽ bằm mi ra làm trăm mảnh cho hả giận.

Trêu đùa đã nư, bấy giờ Dương-Qua mới duỗi chân, uốn mình từ từ thả nàng ra, rồi quay mặt ngó xuống.

Tuy ánh trăng tàn chỉ le lói nhưng Dương-Qua cũng đủ nhìn thấy đôi mắt nàng quắt lên sáng rực và mặt nàng hầm hầm đầy sát khí.

Thấy nàng càng tức giận, sắc mặt càng giống Tiểu-long-Nữ quá chừng. Dương-Qua đắm đuối nhìn hoài không nháy mắt.

Lúc ấy đêm đã hầu tàn, trăng gần gác núi, chênh chếch, xiên qua cửa sổ dọi thẳng vào bục chỗ hai người nằm, thấy rõ như ban ngày.

Lục-vô-Song thấy Dương-Qua cứ nhìn mình đắm say, đôi mắt lờ đờ như si như dại, trên môi điểm một nụ cười thích thú, khiến nàng giật mình nghĩ bụng:

- Hay là hắn điểm huyệt mình để làm điều tồi bại và hiếp đáp mình chăng? Nguy quá.

Vì quá sợ, mồ hôi toát ra đầm mình.

Vừa khi ấy Dương-Qua lại đưa mắt nhìn thẳng ra phía cửa. Nàng vội ngó theo thì thấy có ba cái bóng đen đang chầm chậm bước vào, mỗi bóng đều có sẵn khí giới cầm tay.

Lục-vô-Song tái mặt nghĩ thầm:

- Phen này thêm nguy biến nữa đây. Thằng chăn trâu xem vậy mà tài cao quá cỡ. Nó cứ giả ngây ngơ, ngốc ngác, không ngờ bản lĩnh quá kinh người.

Hắn đã điểm huyệt ta rồi, bây giờ làm thế nào để đối phó với ba tên này cho được.

Bước vào đến cửa, người đi đầu đã hét lớn:

- Con tiện tỳ đâu rồi, mau ra đây nộp mạng cho rồi để khỏi nhọc công các lão gia ra sức.

Người thứ hai nói tiếp theo:

- Các ông chẳng thèm giết mi làm gì, chỉ cần lấy một tai xẻo mũi và hớt một cánh tay cũng đủ đền tội rồi.

Dương-Qua lẩm bẩm:

- Tưởng ai té ra bọn đạo sĩ khi ban ngày. Chẳng biết làm sao bọn hắn tìm ra chỗ này được.

Kế đó người thứ ba nói.

- Các lão gia đang chờ đợi để tiếp mi đây, cứ ra đi, mau hiến dâng ba vật đó là xong.

Thế rồi ba người lùi ra sau chia nhau đứng ba phía thành hình rẽ quạt, cầm vũ khí lăm lăm chờ đón nữ lang.

Lục-vô-Song kinh hãi quá, không cử động được mà muốn nói cũng chẳng nên lời.

Dương-Qua rỉ tai nàng nói nhỏ:

- Mấy lão đạo sĩ này, chuyện gì mà la lối om ròm lúc ban đêm chẳng để cho người ta yên nghỉ. Cô nương chịu khó bước ra cho chúng một bài học để chừa thói khinh người, hỗn láo.

Nói xong, chàng se sẽ gạt áo nàng lên, điểm nhẹ qua các huyệt đạo, trả lại công lực cho nàng.

Lục-vô-Song cảm thấy tinh thần sảng khoái, chân tay đã mạnh các huyệt đạo hết đau nhức nữa, lồm cồm chổi dậy nắm đao nhìn ra.

Dưới ánh trăng vằng vặc, ba tên đạo sĩ vẫn đứng bao trước cửa, múa may thách thức.

Lục-vô-Song phi thân nhảy ra, cử đao chém mạnh vào người đứng bên tả.

Người ấy vội đưa roi lên đỡ. Roi vừa chạm làn đao chém quá mạnh kêu chát một tiếng, đội ngược lại và sút tay rơi luôn xuống đất.

Dương-Qua thấy vậy khen thầm:

- Kỳ này khá lắm, lối ra tay quả đúng theo võ thuật chân truyền của phái Cổ-Mộ.

Vừa lúc ấy, Lục-vô-Song tiếp bồi cho một nhát nữa, lão đạo sĩ la hoảng một tiếng, nhảy lùi ra sau trốn tránh.

Lục-vô-Song thấy phấn khởi tinh thần, vung đao chém luôn vào người đạo sĩ cầm dáo.

Người đạo sĩ lùn lùn bảnh lãnh rất cao, cùng người cao xúm lại tấn công vào ráo riết, đánh toàn những ngón đòn hiểm ác khốc liệt.

Càng lâu, Lục-vô-Song càng bết dần và trở nên lúng túng. Có nhiều lần thất thế suýt bị thương. Trong khi đó người đạo sĩ bị văng roi cũng đã hết ê tay, nhảy lên, chỉ mặt nàng thét lớn:

- Nhãi con, phen này đừng hòng thoát khỏi tay ta.

Nói xong, hắn lao đầu vào đúng ngay lưng nàng. Lục-vô-Song có cảm giác như đụng phải chàng đá, toàn thân đau dần, tâm thần rối loạn, đứng lảo đảo muốn ngã quỵ.

Thấy một mình nàng không cự nổi ba mạng và đã lãnh một đòn nơi lưng, Dương-Qua vội thét:

- Nguy tai!

Vừa lúc đó lưỡi dao của lão đạo sĩ lùn đã loang loáng chém xuống lưng nàng, đồng thời ngọn roi của người đạo sĩ nọ cũng đang bay vút vào trước bụng.

Dương-Qua lập tức lượm hai viên đá, khẽ vung tay, tức thì một viên trúng tay lão lùn đau quá rơi đao, còn viên kia chạm ngay ngọn roi của đạo sĩ rớt xuống đất.

Tuy vậy nhưng lão đạo sĩ vẫn không chút e dè. Mất vũ khí hắn bỗng vung quyền dùng thế "Liên-hoàn song kích" lăn sản vào dùng tay tả đấm trúng ngay bụng nàng dội ngược ra sau nằm không động đậy. Dương-Qua hoảng quá la lớn:

- Nàng nguy rồi. Phải cứu ngay mới được.

Lập tức chàng cầm "tiểu chu thiên" ném mạnh vào, lanh như gió.

Với sức mạnh gần ba trăm cân, Tiểu-chu-thiên ồ ạt bay tới đánh mạnh người đạo sĩ văng ra sau xa hơn ba trượng.

Thấy đối phương vô cùng dũng mãnh, người lùn và tên đạo sĩ kia vội vàng khiêng bạn bị thương chạy mất.

Dương-Qua bước lại nhìn, thấy Lục-vô-Song nằm bất tỉnh trên cỏ, mặt vàng như thoa nghệ, hơi thở rất yếu, thương tích có vẻ trầm trọng.

Chàng đỡ nàng ngồi dậy, thấy toàn thân mềm nhũn, xương cốt kêu lắt rắt thỉnh thoảng nấc lên mấy lần và nhăn mặt rên nho nhỏ hình như quá đau đớn vì ngọn đòn vừa rồi.

Dương-Qua hỏi:

- Sao, có đau lắm không cô?

Lục-vô-Song đau quá, hạn xuất đầm mình. Nghe chàng hỏi, nàng sẽ mở mắt lườm một cái và khẽ gắt: - Thế mà cũng hỏi. Không đau mà thân hình như vầy sao. Hãy bồng ta vào trong đi.

Dương-Qua luồng tay dưới lưng bồng lên. Nhưng thân nàng quằn xuống, xương chuyển động nghe sào sạo, đau quá, nàng lại trách.

- Ngốc ơi, sao lại thế? Ba thằng kia đã đánh ta bị thương rồi, mi còn hành hạ thân xác ta đau thêm nữa sao?

Dương-Qua mỉm cười đáp:

- Bọn chúng ngỡ cô chết rồi không quan tâm nữa bỏ đi cả rồi.

Lục-vô-Song mừng rỡ thấy nhẹ cả người, đưa mắt háy một cái và nói:

- Sướng lắm sao mà cười. Mi muốn ta đau cho nhiều để thích thú phải không Ngốc.

Dương-Qua thấy mỗi lúc nàng giận, mắng thì vẻ mặt giống y như Tiểu-long-Nữ, cho nên chẳng hề giận mà còn vui nữa. Ngày xưa chung sống trong "hoạt tử mộ đài" thỉnh thoảng Tiểu-long-Nữ cau có, mắng nhiếc nhưng Dương-Qua lại sung sướng cho rằng, sở dĩ cô nương có yêu mới mắng, có lo cho mình mới rầy la.

Ngày nay Tiểu-long-Nữ lưu lạc phương nào chưa tìm được may gặp Lục-vô-Song, tuy có tánh ương gàn nhưng nhiều nét giống cô nương. Chi bằng lưu nàng cùng ở một bên để thỉnh thoảng nhìn nàng khi giận hờn trách móc đỡ nhớ Tiểu-long-Nữ. Trên đường phiêu bạt, tìm sư phụ cũng được một bạn đồng hành cho đỡ bớt nỗi cô đơn.

Dưới áng trăng soi, Lục-vô-Song nhìn thấy rõ mặt Dương-Qua vẫn vui vẻ không có gì bực tức hay phiền hà về cái lời nói trách móc, lúc nào cũng giữ nụ cười trên môi thì cảm thấy chột dạ và nghĩ thầm:

- Hắn chỉ là một đứa mục đồng bẩn thỉu nhưng tâm hồn cao thượng, thân thể cường tráng, còn ta mang thân một thiếu nữ có nhan sắc, sao trời nỡ khiến mang tật nguyền để người đời chế riễu, thật là bất công.

Thằng này lúc nào cũng tự cao tự đại, ương gàn, ngốc nghếch dễ ghét quá. Sao ta không tìm cách giết hắn đi cho đỡ gai mắt.

Trí vẩn vơ suy nghĩ, quên bớt đau đớn, mỗi khi trở mình thấy như bị ai dần khắp đầu xương nên không ngớt kêu la và rên rỉ như bị thương quá nặng.

Dương-Qua thương hại hỏi:

- Nếu có đau lắm, hãy bằng lòng để tôi dùng thuật "tiếp cốt" chữa cho nhé!

Nàng gay gắt mắng:

- Khéo kiếm chuyện đặt bày theo lối chăn trâu càn dở? Làm gì có chuyện "tiếp cốt" mà bày đặt đến để chọc ta nữa.

Dương-Qua cười hề hà đáp:

- Hồi nhỏ tôi đã học được phép này. Hễ ai bị chó cắn, heo ủi dầu bị thương nặng nhưng cứ tiếp cốt cho một chập là mạnh liền.

Nàng cãi lại:

Chó heo khác, võ thuật quyền cước đả thương là một chuyện khác. Làm sao dùng cách này chữa bệnh nọ.

Dương-Qua đáp:

- Thì cô cứ để làm thử, hiệu nghiệm hay không sẽ rõ, cãi cọ làm gì.

Lục-vô-Song suy nghĩ:

- Thằng này có nhiều chuyện lạ đời lắm. Biết đâu nó chữa được bệnh mình cũng nên. Nếu cứ để mãi như thế này, đau đớn quá chịu không nổi e chết mất. Nơi đây làm gì có thầy lang hay thuốc men gì để cứu chữa. Nhưng nếu hắn buộc mình phải bỏ hết áo quần để xoa bóp nắn chữa thì ngượng quá chịu sao nổi.

May ra khỏi được, sau này mặt mũi nào ngó hắn nữa. Nhưng nếu câu chấp để kéo dài, bỏ mạng chẳng ai thương. Hay là ta cứ bằng lòng cho hắn tự do cứu chữa. Nếu lành rồi, sẽ tìm cách giết đi là xong chuyện, còn đâu nữa mà thẹn với thuồng!

Thật ra Lục-vô-Song vốn bản chất hiền lành nhưng từ nhỏ có tật ương gàn nghịch ngợm. Suốt thời gian sống chung với Lý-mạc-Thu lại nhiều tánh ác độc nên hành động cũng trở nên ác độc, háo sát như vậy.

Nàng dịu giọng bảo:

- Cậu em hãy cẩn thận chữa thử xem sao. Nhớ nhẹ tay kẻo đau lắm.

Thấy cô gàn đã thuận cho chữa, Dương-Qua bỗng có ý nghĩ:

- Bây giờ ta nên thừa dịp làm khó, ghẹo nàng một mẻ, kẻo còn cơ hội nào nữa.

Chàng mỉm cười bảo:

- Xưa kia có một ái nữ của một phú ông trong vùng rủi bị heo cắn rất nặng. Gia đình nàng có mời tôi đến chữa, tôi không đòi hỏi tiền bạc, lễ lộc gì hết mà chỉ buộc nàng một điều kiện duy nhất để chứng tỏ người ta có lòng thành cố tâm muốn được cứu chữa hay không.

Lục-vô-Song hỏi:

- Điều kiện gì, có khó không?

Dương-Qua cười đáp:

- Dễ lắm! Tôi buộc nàng gọi luôn một trăm lần câu này:

"Người anh yêu quý của em ơi!". Gọi xong tôi mới chịu nữa. Bây giờ có muốn lành bịnh cũng phải kêu như vậy mới được.

Lục-vô-Song điên tiết hét lớn:

- Khỉ khô, khỉ khô! Mặt mày dơ dáy bẩn thỉu như trâu, ai mà thương cho vô mà đèo bòng kia nọ.

Dương-Qua cười khà khà nói:

- Cô không bằng lòng cũng tốt. Tôi khỏi bận trí nữa. Thôi cô nằm đây nghỉ, tôi đi về nhà nhé. Sau này có dịp sẽ gặp nhau lại.

Nói rồi đứng dậy đi luôn ra cửa.

Lục-vô-Song suy nghĩ:

- Nếu hắn bỏ đi thiệt, thế ai săn sóc chạy chữa. Chẳng lẽ ta đành nằm chết khô nơi đây sao.

Nghĩ rồi cố nén giận gọi theo:

- Đi đâu mà nôn nóng vậy. Hãy nán lại một chút, ta có chuyện muốn nhờ mi.

Dương-Qua dừng bước quay lại nói:

- Không cần đến thì tôi đi chứ ở đây làm gì. Phàm người khác, gọi một trăm câu sẽ được tôi cứu chữa. Cô nương chẳng gọi mà còn chưởi mắng tôi nữa. Bây giờ muốn chuộc lại thì ít nhất cũng phải gọi một ngàn câu tôi mới nhận chữa cho.

Lục-vô-Song túng quá không biết làm sao hơn nên suy nghĩ:

- Ta nên làm theo ý muốn hắn cho rồi.

Chừng nào khỏi bệnh sẽ có cách đối phó sau .

Sắp đặt xong nàng gọi lớn :

- Anh yêu quý , anh yêu quý của em ơi ! Anh yêu quý ơi , cứu dùm cho em đi anh yêu quý ...

Nghe gọi , Dương Qua thích chí và cũng buồn cười nên vui vẻ nói :

- Thôi được rồi . Biết nghe lời thì tôi cũng chữa cho để khỏi đau đớn tội nghiệp . Còn lại chín trăm mấy chục lần nữa thì tạm cất một bên để dành . Sau này lúc cần sẽ đem ra gọi nhé .

Nói rồi cúi xuống mở cúc áo định cởi hết xiêm áo của nàng .

Lục vô Song mắc cỡ quá nạt lớn :

- Thôi đi , làm gì lạ thế ?

Dươn Qua dừng tay , nhìn mặt nàng đáp :

- Có khám kỹ mới tìm ra chứng bệnh . Nhìn bên ngoài làm sao biết được mà hòng chữa với chuyên . nếu không chịu cho cởi thì tôi cũng không thể nào chữa nổi .

Lục vô Song gượng cười nói :

- Thôi tuỳ ý , muốn cởi thì cởi đi .

Loay hoay một lúc lâu vẫn chưa xong , nàng mắc cỡ quá hỏi nhỏ :

- Sao , chữa được không mà rị mò hoài , lâu thế ?

Dương Qua lắc đầu bảo :

- Sao nôn nóng vậy . Đã chữa phải chu đáo chứ đâu hấp tấp sao được .

Nga lúc đó bên ngoài có tiếng xì xào . Một người nói lớn :

- Thế nào con ấy cũng ẩn nấp trong khu vực này . Hãy chịu khó tìm thêm latý nữa ắt sẽ gặp .

Nhận thấy qua giọng nối của Xích luyện Tiên tử Lý mạc Thu nên Lục vô Song sợ quá , mặt mày xanh lét , mát ngó láo liên , mồ hôi xuất đầy mình . Nàng quên đau nắm tay Dương Qua hỏi nhỏ :

- Làm sao bây giờ . Sư phụ đã đến tìm ta đó . Nguy quá !

Dương Qua cũng ngại lắng tai nghe nữa .

Kế đó có tiếng người đàn bà khác nói tiếp :

- Cứ nhìn con dao cong vòng ghim trên lưng hắn thì đích thị là con dao của sư phụ rồi , không còn nghi ngờ gì nữa .

Đó là tiếng của Hồng lăng Ba .

Nhắc lại thầy trò Lý mạc Thu khi tìm cách thoát được khỏi Cổ Mộ đài thì về ngay Xích hà trang . Đến nới thấy Lục vô Song đã trốn mất thì Lý mạc Thu cũng chẳng them quan tâm mấy

nhưng sau khi xem xét lại đồ đạc thấy mất tập " Ngũ độc bí truyền " thì Lý mạc Thu rụng rời lo lắng . Sở dĩ tren võ lâm , anh hùng thiên hạ nể sợ nàng là do môn " Ngũ độc thần chưởng " và môn " Băng hồn ngân châm " chứ đâu phải vì võ công cao siêu hay vì bản lĩnh của nàng . Trong sách này có ghi chép tất cả bí thuật của hai môn độc đáo kia . nếu chẳng may để lọt vào tay kẻ khác họ sẽ đem ra truyền cho dạy các phái , rồi thiên hạ mọi người đều biết ngay cả những môn giải độc cũng không còn bí mật nữa . Chừng ấy danh tiếng của Xích luyện Tiên tử có ra gì nữa đâu .

Lý mạc Thu đã luyện sách này tinh thục rồi đem cất giấu nới Xích hà trang , chẳng may Lục vô Song biết được , ăn cắp mang đi mất thì quả là một mối tai hoạ vô cùng to lớn đối với nàng .

Lý mạc Thu giận quá lập tức cùng đệ tử Hồng lăng Ba đuổi theo truy nã .

Nhưng ngại vì Lục vô Song đã trốn đi từ lâu , biết đâu mà tìm . Vì vậy nên hai thầy trò phải chịu khó lạn lội khắp chỗ để dò la thăm hỏi , tốn không biết bao nhiêu công phu tiền bạc mướn thuê , từ đô thị đến thôn quê nhưng vẫn chưa gặp .

Một chiều ảm đạm , sương trắng phủ đầu non ,ánh tà dương vừa khuất núi . chim rừng cũng ríu rít kêu nhau vè tổ thì thầy trò Lý mạc Thu vừa đến một vùng gần ải Đông Quan .

Cả hai thầy trò cũng nhau đi tìm một quán trọ nghỉ tạm một đêm , ngày mai đi tìm nữa .

Cơm nước xong xuôi , hai thầy trò ngồi nơi quán trọ nhìn ra đường . Thấy ở phía góc chợ có một nhóm ăn xin đang tập trung về , tranh nhau chỗ ngủ .

Lý-mạc-Thu nghĩ bụng:

- Bọn ăn xin ở rải rác khắp nơi, chỗ nào cũng đến, tất nhiên biết được nhiều người, nghe được nhiều chuyện, ta thử đến hỏi thăm, may hỏi ra tung tích của hắn cũng chưa biết chừng.

Hai thầy trò rảo bước lại gần bọn ăn xin nghe ngóng.

Vừa đến nơi bỗng thấy đàng xa có một người ăn xin cõng trên lưng một đồng nghiệp khác đang bị thương, xăm xăm về hướng này, xung quanh có trên mười tên khác đi theo hộ vệ, người nào cũng mang bị và chống gậy.

Lý-mạc-Thu đưa mắt nhìn thấy trên lưng người ấy có ghim một lưỡi dao mỏng, lưỡi cong vòng như vành cung, chính là con dao của nàng do Lục-vô-Song lén cắp mang đi.

Lý-mạc-Thu chạy lại gần thì người ăn mày ấy phân bua cùng các bạn đồng nghiệp:

- Tôi vừa bị một con bé thọt chân phóng đao này vào lưng đấy.

Nghe được manh mối, Lý-mạc-Thu mừng quá, bảo đệ tử:

- Nếu vậy thì hắn vẫn còn lẩn quẩn gần đây chưa đi đâu xa. Mau mau đi tìm, nhất định phải gặp.

Thế rồi không kể đêm tối, hai thầy trò cùng nhau đi kiếm ngay.

Khi đến tòa cổ miếu, nhìn trước sân có một đống lửa đã tàn chỉ còn leo lét một vài đom đóm, thoáng đâu đấy có mùi máu tanh tanh.

Dưới bóng dáng lờ mờ, Lý-mạc-Thu thấy trên mặt đất có một vài vũng máu khô rơi rớt, do cuộc đánh nhau vừa lưu lại.

Thế là hai thầy trò cùng nhau đi thẳng vào tòa miếu cổ, gươm cầm tay, để ý nhìn quanh khắp nơi quyết tìm cho ra phen này.

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 23 : Thoát nạn ăn mày gặp lại Lý-mạc-Thu

Trong miếu, Lục-vô-Song đang nổi cơn đau gắt, bỗng nghe tiếng nói bên ngoài rõ ràng là của sư-phụ cùng sư tỷ nàng thất kinh hồn vía than thầm:

- Thôi, phen này chắc chết không tránh khỏi nữa!

Thình lình nghe soạt, một bóng vàng loang loáng từ cửa sổ bay vào. Lục-vô-Song ngước lên nhận rõ là Sư-tỷ Hồng-Lăng-Ba. Xưa nay Lục-vô-Song đối với Hồng-lăng-Ba một niềm kính trọng cho nên khi trông thấy không dám bỏ lễ, gắng gượng đứng lên vái chào. Hồng-lăng-Ba thấy Lục-vô-Song đã phạm kỷ luật sư môn, gây thành tội lớn, không thể nào nương tay được, cho nên quyết sát hại cho rồi. Nàng vừa vung kiếm lên định đâm một nhát đổ ruột tên học trò phản bội thì bỗng nghe "choeng" một tiếng, thanh gươm bị Lý-mạc-Thu gạt ngang rơi xuống đất. Hồng-lăng-Ba đang ngơ ngác thì Mạc-Thu đã mỉm cười bảo:

- Khoan giết đã, ta có chuyện cần hỏi nó.

Rồi đưa mắt nghiêm nghị ngó Lục-vô-Song khẽ hỏi một cách dịu dàng:

- Sao ngươi không làm lễ chào sư-phụ?

Lục-vô-Song thừa rõ tánh tình Lý-mạc-Thu vô cùng ác độc, phen này dù van xin khóc lóc cũng không hy vọng được hắn dung tha, cho nên quắc mắt nhìn lên trả lời:

- Mi là kẻ thù muôn đời đã sát hại cả gia đình ta, đâu có thầy trò gì mà hòng chào hỏi?

Lý-mạc-Thu chiếu cặp mắt sáng như gươm, lạnh như tiền, quét lên mặt Lục-vô-Song, chẳng hề lộ vẻ giận hờn hay bực tức. Hồng-lăng-Ba đứng một bên nhìn sư muội mà đem lòng thương hại, nhưng chẳng dám thốt lời gì.

Lục-vô-Song trừng mắt nhìn lại, luôn luôn giữ thái độ cương ngạnh không hề hoảng sợ.

Ba người trừng trừng ngó nhau không nháy mắt. Không khí căng thẳng, nặng nề, khó thở.

Một lúc sau, Lý-mạc-Thu chậm rãi hỏi:

- Sách của ta đâu, mi hãy giao nộp lại cho ta.

Lục-vô-Song đáp gọn mấy tiếng:

- Sách ấy bị một đạo sĩ cướp mất rồi.

Lý-mạc-Thu nghe nói rụng rời, băn khoăn lo ngại:

- Sách "ngũ độc bí truyền" mà để lọt vào tay một kẻ khác thì làm sao chiếm lại được. Thế là bao nhiêu điều bí mật bị chúng khám phá ra rồi còn chi nữa? Thật vô cùng nguy hiểm!

Lục-vô-Song thấy Lý-mạc-Thu chẳng trả lời, cười lạt một tiếng mặt lạnh như băng, thì biết hắn đang toan tính hại mình đây cho nên lăm le tìm mọi cách để tẩu thoát.

Tuy vậy nàng vẫn nghĩ tới Dương-Qua:

- Lúc này mạng ta như chỉ mành treo chuông, chết sống kể từng giây từng phút. Còn thằng Ngốc, không biết hắn trốn tránh xó nào rồi. Biết đâu hắn có mưu hay giải thoát cho mình được cũng nên.

Đang phân vân với điểm hy vọng cuối cùng như ánh đom đóm giữa đêm khuya, thình lình có tiếng bồm bộp rộn lên, và một con trâu to lớn bên ngoài hùng hổ lao vào như gió lốc.

Lý-mạc-Thu giật mình dòm lại thấy một con trâu mộng to lớn sừng trái có buộc một thanh đao sáng quắc, sừng phải có buộc một bó đuốc đang cháy rực rỡ, ầm ầm xông vào cúi đầu lia cặp sừng vào phía hai thầy trò, dáng điệu vô cùng dũng mãnh.

Hai người vội phi thân nhảy ra một bên né tránh.

Con trâu được thế lồng lên chạy quanh một vòng rồi trở lộn lại đâm sầm ra cửa lẹ làng như tên bắn.

Trong phút chốc trâu đã đi xa mất dạng chỉ còn le lói một điểm sáng sáng trên sừng.

Thấy con trâu dị kỳ như vậy, Lý-mạc-Thu cũng ngạc nhiên không hiểu trâu của ai, vì sao có đao va đuốc cột trên sừng và nguyên nhân nào đến đây một tý rồi lại quay đi ngay?

Khi trở lại chỗ cũ, hai người cùng kinh ngạc và đồng la lên một tiếng. Lục-vô-Song đã mất dạng từ bao giờ rồi.

Tức thì cả hai tung mình chạy ra ngoài nhảy lên nóc miếu, lùng khắp bụi cây nhưng vẫn không tìm thấy.

Lý-mạc-Thu đoán có lẽ con trâu tác quái vừa rồi là nguyên nhân của sự biến đổi nầy cho nên hai thầy trò nhắm hướng đó, nhìn ánh đuốc chập chờn le lói đàng xa mà phi thân theo miết.

Vừa chạy theo vừa suy nghĩ:

- Nhờ có ánh sáng ngọn đuốc ta thấy quả trên lưng trâu không có người ngồi. Hay là có kẻ nào tinh ý, cho trâu chạy vào gây náo loạn để mình sơ ý rồi giải cứu Lục-vô-Song đi một nẻo khác chăng?

Nàng gia tăng tốc độ mau hơn, quyết theo kịp con trâu xem thử. Trong phút chốc đã theo kịp, dùng khinh công lao vút lên mình trâu rồi đưa mắt quan sát trước sau, trên dưới không thấy một bóng hình ai hết.

Lý-mạc-Thu bực mình, nhảy xuống đất hú lên một hơi dài để ra dấu hiệu gọi Hồng-lăng-Ba lại.

Hai người giáp mặt, Lý-mạc-Thu bày tỏ ý nghĩ của mình cho đệ tử nghe và nói rõ ý định mới:

- Bây giờ chúng ta phân công, người đi một phía. Ta đi Bắc sang Nam và mi từ Đông sang Tây, thế nào cũng tìm được hắn.

Nguyên do lúc thầy trò Lý-mạc-Thu vừa bước chân vào miếu, Dương-Qua đã lẹ làng phóng qua cửa sổ nhẹ nhàng như tàu lá rụng, núp đó nhìn vào. Chàng lo lắng cho số mạng của Lục-vô-Song, phen này chắc Lý-mạc-Thu không tha thứ được. Nếu không cứu thoát kịp thời thì không thể nào sống nổi với thầy trò con ác phụ.

Trong lúc đang băn khoăn lo nghĩ, Dương-Qua thấy bóng con trâu đang cúi đầu gặm cỏ ngoài xa xa, bèn nghĩ ra một kế, buộc đao và đuốc lên đôi sừng. Truyền chân lực thêm cho nó rồi giục thẳng vào miếu.

Chàng dùng thuật sà hình bám sát dưới bụng trâu, trong bóng tối mơ hồ không thể nào nhận thấy nổi.

Nhân lúc ấy thày trò Lý-mạc-Thu tránh qua một bên cho trâu lồng trong miếu, Dương-Qua đã lẹ làng kẹp Lục-vô-Song theo rồi giục trâu chạy ra cửa tẩu thoát.

Về sự việc xảy ra quá bất ngờ và cấp bách cho nên một kẻ tinh tế như Lý-mạc-Thu cũng không đề phòng nổi.

Trâu chạy một đỗi, đến một vùng hẻo lánh rậm cây. Dương-Qua bồng Lục-vô-Song nhảy vào một đám cỏ cao để trốn, con trâu cứ mang đuốc tiếp tục giông đi như cũ. Nhờ vậy cho nên Lý-mạc-Thu đuổi kịp cũng không trông thấy người nào cả.

Lục-vô-Song trải qua một cơn kinh hoàng đã mê man không biết gì hết. Một chập sau nàng cựa mình mờ mắt ú ớ muốn nói.

Dương Qua vội vàng bụm miệng nói nhỏ vào tai:

- Lặng im ... đừng nói ... nguy lắm .

Ngay lúc ấy có tiếng chân người giẫm lên cỏ khô xào xạc , có tiếng Hồng lăng Ba nói lớn ;

- Lạ quá, đệ tử tìm khắp nơi mà không thấy gì hết .

Bỗng đằng xa có tiếng Lý mạc Thu vọng lại :

- Chắc bọn nó chạy trốn xa rồi . Thôi chúng ta đi nơi khắc tìm kiếm vậy .

Lắng nghe tiếng chân Hồng lăng ba đi xa dần rồi mất hẳn . Rừng đêm lắng đọng dưới màn sương âm u cô tịch như cũ .

Lục vô Song đã hồi tỉnh , tình thần sáng suốt , mở mắt nhìn trăng , thở dài một tiếng não ruột .

Dương Qua vội vàng đưa tay bụm miệng ra dấu bảo giữ im lặng .

Lục vô Song dáo dác ngó quanh , thấy mình nằm gọn trong lòng Dương Qua thì thẹn quá vội vàng đưa tay đẩy chàng ra lồm cồm toan đứng dậy . Dương Qua khẽ nói nhỏ vào tai nàng :

- Nằm im , không cực cựa , sư phụ cô sắp đến đây ngay bây giờ .

Kế đó có tiếng Lý mạc Thu vàng lên rõ rệt cách đó không bao xa :

- ủa , cũng chẳng có nó ở đây , lạ quá !

Lục vô Song hết hồn nghĩ :

- Nếu thằng Ngốc này không tinh ý thì mạng mình nguy rồi .

Thì ra Lý mạc Thu vốn con người ranh mãnh xảo quyệt vô cùng . Miệng thì bảo đệ tử đi nơi khác nhưng kỳ thật nàng thì triển tài khinh công lướt trên mặt cỏ đảo lại mấy vòng để tìm nữa .

Chỉ một ly nữa là Lục vô Song lầm quỷ kế của nàng , nếu không được Dương Qua che đậy và ngăn cản kịp lúc .

Lúc bấy giờ Dương Qua đưa mắt nhìn quanh thật kỹ , lắng tai nghe ngóng thêm lần nữa , chắc chắn thầy trò Lý mạc Thu đã đi xa rồi mới thôi bịt miệng Lục vô Song rồi phủi tay áo đứng dậy vừa cười vừa bảo :

- Thoát nạn rồi , hú vía !

Lục vô Song nguýt chàng và nũng nịu nói :

- Sao không ôm nữa đi ? Rõ khéo thừa cơ !

Dương Qua mỉm cười đáp :

- Bấy giờ cô để cho tôi " tiếp cốt" để chữa lành vết thương , ngày mai còn đi trốn . Lỡ hắn đến tìm nữa làm sao trốn thoát được . Bằng lòng không ?

Nàng gật đầu ưng chịu .

Dương Qua ngại nếu dùng thuật "tiếp cốt " hơi đau , lỡ nàng la lên động đến Lý mạc Thu nghe được tìm lại thì nguy lắm , nên dùng cách điểm huyệt " ma nhuyễn " thay thế .

Chàng suy tính xong đưa tay cởi áo bày ngực nàng rồi tháo luôn lớp vải băng ngang nơi vúi , miệng lẩm bẩm :

- Ngàn vàng chưa quý bằng đôi quả tuyết lê của mỹ nhân .

Khi hai nhũ hoa của Lục vô Song vừa lộ ra , Dương Qua bỗng thấy tim đập từng hồi , tai run , mặt nóng , ngồi thần thờ như người mất trí , không cử động gì đựoc nữa .

Lục vô Song chờ mãi không thấy chàng làm gì thêm sẽ hé mắt nhìn thử , thấy mặt mày Dương Qua ngơ ngác như người mất trí , mắt mở mày dựng , hình như đang suy tính một điều gì vô cùng quan trọng nên e ngại vội nhắm mắt không ngó nữa .

Trong giấy phút yên lặng huyền ảo thiêng liêng ấy , Dương Qua cảm thấy từ thân hình nàng có một mùi hương thơm ngát toả ra thoảng như mùi hoa lài khiến tâm hồn chàng đê mê muốn thoát tục . Chàng lẩm bẩm :

- Phải chăng đây là hương thơm trinh nữ , ta mới thưởng thức lần đầu ?

Toàn thân chàng rạo rực như nhắp ly rượu mạnh . Lục vô Song cũng thấy cõi lòng xao xuyến, đôi mắt lờ đờ ngước nhìn lên hỏi nhỏ :

- Xong chưa ? Sao lâu vậy ?

Hỏi xong , nàng nhắm mắt lại ngay , nghiêng đầu qua nới khắc , mắt lim dim .

Nghe nhắc , Dương Qua sực tỉnh vội vàng đưa tay gạt tấm bắng lụa . Tay vừa chạm trúng thớ thịt hồng hồng trên làn ngực trắng phau của nàng trinh nữ , chàng bỗng cmả thấy như một luồng điện giật nên rụt lại ngay .

Lục vô Song nằm ngửa , phơi ngực dưới trăng . Làn gió mát mơn man thoáng qua khiến nàng có cảm giác như bàn tay ai đang mơn trớn , hé mắt ra nhìn nữa . Thấy Dương Qua cứ ngồi yên , đôi mắt ngơ ngác nhìn ngực mình như phỗng đá không làmgìcả , nàng bực mình quá khẽ gắt :

- Làm gì mà đờ người ra như vậy hở Ngốc ?

Dương Qua giật mình , lấy cam đảm , đưa tay lấy tấm dải trắng lên rồi xoa bóp nắn lại các khớp xương cho nàng .Tay chàng xoa đến đâu hình như da nàng toát ra một luồng điệm âm ấm dịu dịu khiến chàng phải e dè không dám bóp mạnh .

Khi bóp lần xuống dưới , Lục vô Song nói :

- Thôi đi .Mắc cỡ quá , chịu không được . Hay là ... nhắm bớt mắt đi để ... ta cởi bớt phía dưới , kỳ quá ...

Thẹn qúa , nói đây nàng xúc động nấc lên khóc rấm rứt .

Dương Qya lo lắng vội an ủi :

- Cô nín đi , tôi xin nhắm mắt lại để cô được tự nhiên .

Thấy chàng thật tình chặt nhắm đôi mắt , ngước mặt nhìn lên trăng , Lục vô Song vội vàng co đùi lên trút hết y phục phía dưới ra tạm giữ một mảnh xiêm che từ rốn đến đầu gối và thúc gục :

- Rồi đấy , mau len chứ !

Dương Qua định tĩnh tâm thần , lại bụi gần đấy bẻ bốn cành láa . Hai cành che nơi bụng , hai cành lót bên dưới lưng rồi dùng vỏ cây xoa bóp khắp người nàng cho nóng , nắn lại hết mấy đầu xương rồi đưa tay điểm vào huyệt đạo .

Lục vô Song khẽ mở mắt nhìn thử . Dưới ánh trăng tá sáng bạc mặt Dương Qua lồ lộ rất tuấn tú khôi ngô . Hai mắt chang sáng trưng , đôi má hồng hào , môi cắn chỉ, tươi như son , luồng nhỡn tuyến quét lên người nàng như hai ánh điện . Nàng có cảm giác đê mê thích thú và nhìn thấy chàng có vẻ dễ yêu mến hơn là một thằng ngốc như mình thường gọi .

Nàng nhắm mắt lại , lắng tai nghe máu chảy rần rật thịt xương bốc nóng , chuyển động khắp châu thân , có lúc tăng tăng như kiến bò , có khi đau nói như ong cắn , sinh lực bỗng trở lại dồi dào hơn , tay chân cảm thấy khẻo hơn , những sự mỏi mệt đau nhức lúc trước dần dần tiêu tan hết .

Lục vô Song thấy hối hận :

- Thằng Ngốc này có bản lĩnh vô cùng cao sieu tinh diệu . nếu không có hắn thì mạng ta đã mất mấy lần rồi chứ đâu sống sót tới giờ phút này được . Một tay phi thường như vậy mà mình cứ một ngốc , hai ngốc , hết mi đến ta thật là lố bịch .

Nghĩ xong , nàng dịu dàng hỏi :

- Này cậu , bây giờ cuậ định đi về đâu đây ?

Dương Qua hỏi :

- Cô muốn hỏi gì ?

Lục vô Song đáp :

- Cậu định đi nơi khác , về một chốn nào ?

Dương Qua đáp :

- Còn cô , cô định đi về đâu chưa ?

Lục vô Song đáp :

- Tôi muốn về Giang Nam thăm quê nhà nên không thể đi quá xa được .

Lục vô Song rầu rầu đáp :

- Như vậy , cậu cứ đi đi , tuỳ ý . Còn về phần tôi , để tôi nằm chết nơi đây cũng được .

Lời nói em đềm , vừa lẩy vừa trách khiến Dương Qua cảm động , chưa biết đối đáp hay xử trí thế nào cho hợp . Liếc mắt nhìn nàng thấy vẻ mặt u sầu , đượm đầy nước mắt , môi mím , mắt nhắm tỏ vẻ dỗi hờn giận dữ . Sắc diện nàng lúc này giống hệt như Tiểu long Nữ khiến Dương Qua cảm thấy cõi lòng rào rạt , không đành dứt khoát bỏ đi .

Trong giây phút phân vân bỗng chàng có ý nghĩ ;

- Hay là mình cứ đưa nàng đến Giang Nam . biết đâu làm ơn cho người rồi trời sẽ nhỏ phước khiến xui gặp được Tiểu Long Nữ cũng nên . Cũng có thể lúc này cô nương mình đi về xứ Giang Nam rồi càng thuận tiện .Tuy nghĩ thế Dương Qua cũng chứa dám tự ý đưa chân vào một cuộc phiêu lưu không cần thiết trong lúc mình ra đi đã có một định hướng nhất định là tìm Tiểu Long Nữ.

Nhưng trước lời nài nỉ thiết tha của Lục-vô-Song chàng cũng không thể từ chối được.

Sau một lúc phân vân, tranh chấp chàng lắc đầu thở ra một cái rồi cúi xuống bồng nàng đứng dậy.

Lục-vô-Song ngơ ngác hỏi:

- Bây giờ cậu định bế mình đi đâu đây.

Dương-Qua cười đáp:

- Đi sang Giang Nam về thăm quê nhà chứ còn đi đâu nữa.

Lục-vô-Song cười lớn đáp:

- Từ đây đến Giang Nam xa cách lắm bế đi sao nổi.

Tuy miệng nói thế nhưng thâm tâm nàng vẫn muốn chàng cứ bế mãi mình vào lòng.

Vì ngại thầy trò Lý-mạc-Thu bắt gặp nên cứ bồng Lục-vô-Song theo nẻo đường vắng vẻ đi hoài. Chàng trổ tài khinh thân chạy lướt trên mặt đất mau hơn ngựa sải, nhưng Lục-vô-Song vẫn thấy nằm êm ru không bị dằn xốc đau đớn tí nào.

Lục-vô-Song lơ đễnh nhìn hai bên đường thấy cây cối xua nhau chạy dặt về phía sau liên tiếp, hai bên tai gió lộng vù vù. Nếu so với Lý-mạc-Thu, khinh công của chàng không kém sút tý nào. Bất giác nàng tự nhủ:

- Không ngờ chàng ngốc mà bản lãnh khinh người như vậy?

Hắn còn trẻ lắm mà làm sao đã có một nghệ thuật quá ư siêu phàm như vậy nhỉ. Âu cũng là một sự tình cờ may mắn cho mình, mới gặp được một tay điêu luyện dường ấy.

Lúc bấy giờ phương Đông đã ửng đỏ, vừng Thái dương sắp mọc, ánh ban mai đã dần dần le lói trên cành cây. Chim rừng đã kêu nhau ríu rít.

Lục-vô-Song hé mắt nhìn lên thấy Dương-Qua tuy bị sạm đi vì nắng gió phong trần, nhưng mày thanh, mắt sáng, mũi cao, cằm vuông, trán rộng, rõ ràng là một trang anh tuấn nam nhi, càng trông càng đẹp. Nàng bỗng thấy một cảm giác dìu dịu chuyền khắp cơ thể rồi từ từ nhắm mắt ngủ thiếp đi từ lúc nào không hay.

Khi mặt trời lên cao độ một sào, Dương-Qua cũng vừa đến một gốc cây cao tàn lá mát mẻ, nên dừng lại se sẽ đặt nàng nằm trên bãi cỏ rồi ngồi khích một bên nghỉ sức.

Lục-vô-Song mắt nhìn chàng, mỉm cười hỏi:

- Anh có đói không, tôi thấy đói quá.

Dương-Qua đáp:

- Đói chứ! Thôi, để chúng ta cùng đi một vòng nơi đây thử may ra có hàng quán nào tìm thức ăn đã dạ nhé.

Không cần nàng đáp, chàng đứng dậy liền. Vì phải bồng suốt đêm, tay đã mỏi, nên lần này Dương-Qua để nàng ngồi trên vai mình rồi bước đi.

Lục-vô-Song ngồi trên vai Dương-Qua, một chân trước, một chân sau như cỡi ngựa. Nàng tung tăng đôi chân, vui vẻ cười vang và hỏi lại:

- Anh ơi, tên họ là gì, cho biết đi để tiện xưng hô, chẳng lẽ nơi chỗ đông người cứ thằng ngốc mà réo thì nghe sao cho được.

Dương-Qua đáp:

- Tôi chỉ có tên "Ngốc", ngoài ra không còn họ tên nào khác nữa. Xưa nay thiên hạ đã gọi "Ngốc" quen rồi, đâu phải chỉ một mình cô dâu mà e ngại.

Lục-vô-Song thấy chàng cố giấu tên cũng bực mình nhưng chẳng biết nói sao, hỏi thêm:

- Anh không muốn nói tên, giấu họ cũng được. Nhưng Sư phụ của anh là ai, có cho biết được không?

Xưa nay Dương-Qua kính trọng nhất là Sư phụ. Vừa nghe Lục-vô-Song nhắc tới danh từ thiêng liêng khả kính ấy, dạ chẳng vui nhưng vẫn đáp cộc lốc:

- Sư phụ tôi là Cô nương tôi chứ ai?

Lục-vô-Song suy nghĩ:

- à, sư phụ chàng là một người đàn bà! Nếu vậy võ nghệ của môn phái này phải tinh diệu lắm.

Nàng hỏi thêm:

- Cô nương của anh thuộc môn phái nào vậy?

Dương-Qua chỉ đáp vớ vẩn cho qua chuyện.

Sư-phụ tôi không khi nào đi đâu xa và cũng không rõ thuộc môn phái nào hết.

Lục-vô-Song thấy cứ đáp lần khần mãi, phát cáu lên gắt:

- Ngốc ơi, sao giấu mãi thế, sở dĩ ta muốn hiểu môn phái chàng là vì thấy võ công chàng kỳ diệu quá.

Dương-Qua cũng gắt lại:

- Tôi học ai kệ xác tôi, hỏi mãi ích gì? Tôi học cây học đá đấy!

Lục-vô-Song không bực tức nữa mà suy nghĩ:

- Chàng này giả bộ ngơ ngốc, chứ người bản lãnh như vậy làm sao ngốc được, vì đã ngốc làm sao học được võ công? Cứ xem riêng thuật điểm huyệt cũng có thể đoán chàng đã được danh môn chính phái chân truyền võ thuật không sai.

Nàng ôn tồn hỏi thêm:

- Này cậu, còn chuyện này, đừng quanh co dối ta nữa nhé. Ta muốn biết tại vì sao cậu lại tận tình giúp đỡ và cứu ta mấy lần như vậy?

Dương-Qua cũng chẳng biết trả lời thế nào cho xuôi. Nghĩ suy một chập rồi trả lời:

- Vì Cô nương tôi bảo vậy nên tôi mới phải cứu giúp cô tận tình.

Lục-vô-Song ngạc nhiên quá hỏi nữa:

- Vậy cô nương cậu là ai, tên gì?

Dương-Qua đáp:

- Tôi đã nói rõ cô nương tôi là Cô nương mà sao cứ hỏi đi hỏi lại hoài như vậy?

Lục-vô-Song ngán quá, chỉ biết thở dài rồi làm thinh, vẻ mặt rầu rầu.

Dương-Qua hỏi:

- Tại sao cô có vẻ buồn bã vậy?

Lục-vô-Song chép miệng rồi làm thinh.

Dương-Qua hỏi nữa:

- Sao buồn vậy cô?

Lục-vô-Song gắt:

- Người ta không muốn nói mà cứ hỏi hoài. Ta chẳng có gì buồn hết. Hỏi làm chi?

Mỗi lần nàng nóng giận thì đẹp lắm và giống Tiểu-long-Nữ quá. Chàng muốn ngắm một tý cho thỏa lòng, nhưng chẳng lẽ ngửa người lên mà nhìn cho nên đành làm thinh ngó xuống đất bước đi hoài.

Chẳng bao lâu đến thị trấn nhỏ. Mọi người thấy một trai một gái vác nhau đi lạ đời quá nên tò mò kéo nhau lại xem, bàn tán om cả lên.

Hai người làm lơ đi thẳng vào một quán ăn, gọi hai phần cơm và ngồi đối diện nhau để ăn. Lục-vô-Song ngửi mùi hôi hám từ trong người Dương-Qua bốc ra khó chịu quá nên bảo chàng:

- Này cậu, qua bên bàn kia ăn riêng đi. Để đây mặc ta.

Dương-Qua lẳng lặng bưng bát cơm và một tô canh sang bàn bên cạnh ngồi ăn.

Thấy Dương-Qua cứ chập chập lại nhìn mình say đắm. Lục-vô-Song thấy ngượng quá nói thêm:

- Cậu đi lại bàn xa kia kia. Ngó ra ngoài mà ăn. Nhìn hoài ai nuốt cho trôi.

Dương-Qua cười và làm theo.

Chàng lẳng lặng ngồi ăn, nhìn thẳng ra cửa sổ.

Lục-vô-Song thấy miệng đắng quá nuốt không vô, ngồi để đũa ngó mông ra ngoài.

Bỗng đau có tiếng ăn xin thưa bẩm rối rít ở phía trước:

- Nhờ bà con bố thí cho chút cơm cặn, canh thừa để đỡ đói.

Rồi lại có tiếng nói:

- Xin Cô nương ra ơn bố thí cho một bữa ăn.

Ngay trước tiệm ăn, có bốn người ăn xin, vai mang bị, tay xách gậy hướng vào phía nàng xin nữa.

Lục-vô-Song nhớ lại trước đây đã dùng lưỡi dao vành cung đâm vào lưng một lão ăn mày. Hôm nay lại gặp chúng, thế nào họ cũng nhận diện ra, nên chưa biết tìm cách nào để lẩn trước.

Đang lúc phân vân, bỗng tên cao nhất đứng giữa nói lớn:

- à, hắn đây rồi. Phen này mi đừng hòng trốn thoát khỏi tay bọn ta.

Người phía sau hết cũng nói tiếp:

- Nơi đây lên trời không được, xuống đất cũng không xong, con ơi!

Nàng đưa mắt nhìn thấy người nào cũng kè kè sáu cái túi, tay lăm lăm một cây gậy to tướng với một cái bát xin cơm. Ai nấy cũng hầm hầm đều bước sấn tới.

Khi xưa, Lục-vô-Song đã có lần được Hồng-lăng-Ba kể chuyện trong Cái Bang và phân tách tài nghệ từng loại ăn xin. Những kẻ mang đến 6 túi đã thuộc vào hạng cao, có bản lãnh khá lắm.

Khi ấy trong tiệm có vẻ xôn xao. Người chủ tiệm thấy bốn vị cao cấp trong phái "Sáu túi" cùng đến đây gây sự, biết chuyện chẳng lành, vội đưa mắt ra hiệu cho bọn tửu bảo tìm cách chiều chuộng đừng khiêu khích họ làm gì.

Lục-vô-Song còn đau chưa mạnh, sức lực đâu chống cự lại với bốn người nên chỉ lo tìm kế thoát thân. Nếu cùng lắm, nàng chỉ trông cậy vào tài lực của Dương-Qua may ra cứu thoát được mình chăng.

Dương-Qua điềm nhiên ăn uống như chẳng có việc gì xảy ra. Thỉnh thoảng nhìn sang hỏi:

- Cô nương ăn đi chứ, sao có vẻ bơ phờ vậy? Cá ngon lắm ăn đi cô!

Lục-vô-Song chẳng đáp lại, cố cúi mặt nhìn xuống mâm cơm như để tránh thoát tám con mắt xoi bói của bốn người ăn mày sáu túi đang chiếu thẳng vào mình và nói lớn:

- Sao, cô nương không bố thí cho một bát cơm hay tô canh? Nếu không thì xin Cô nương một lưỡi dao cũng được.

Lục-vô-Song thấy đáp không tiện mà làm thinh cũng chẳng yên thân.

Một tên khác nói:

- Bọn ta tuy mang danh ăn mày nhưng xử sự lúc nào cũng đường đường chánh chánh chứ không bao giờ ỷ đông hiếp ít đâu. Vậy để tùy cô liệu định trước.

Lục-vô-Song biết bọn này đã cố tình gây chuyện, chẳng lẽ cứ làm thinh hoài nên gắng gượng đứng dậy thủ thế phòng chúng tấn công.

Ngay lúc đó Dương-Qua bước lại hỏi lớn:

- Chuyện gì vậy cô?

Bốn tên ăn mày nhất tề vung gậy xáp đến. Dương-Qua chúm miệng, phì ra một cái, cả nắm xương cá từ miệng chàng bắn tung vào đúng huyệt "khúc trì" của bốn người ăn mày.

Bị điểm huyệt bất ngờ, cả bốn người cảm thấy toàn thân tê tái tay chân rời rã, buông rớt cả gậy lẫn bát đứng không vững, lảo đảo tìm chỗ để bám khỏi ngã.

Dương-Qua lập tức bồng Lục-vô-Song để lên vai nói gấp:

- Chạy mau, kẻo nguy lắm!

Lục-vô-Song run run hỏi ngập ngừng:

- Bây giờ... biết chạy đâu... đây?

Khi Dương-Qua để nàng lên vai, phi thân chạy đi Lục-vô-Song quay đầu nhìn lại thì lạ quá cả bốn tên ăn mày đã đi đâu mất chỉ thấy bốn chiếc gậy và mấy cái bát bể nằm ngổn ngang trên mặt đất.

Nàng vội hỏi Dương-Qua:

- Bọn họ đi đàng nào mất rồi?

Dương-Qua đáp:

- Có lẽ họ đánh cô không được đã kiếm ngõ khác đi rồi, hoặc gọi thêm đồng bọn cũng chưa biết chừng.

Nàng ngẫm nghĩ mãi không hiểu vì sao, bèn đưa một đinh bạc cho Dương-Qua bảo:

- Hay chúng mình tìm mua cho một con lừa đi đỡ chân, chả lẽ cứ cõng nhau hoài họ bàn tán khó chịu quá.

Mua được lừa rồi, trả tiền cơm cho tiệm, Dương-Qua bảo nàng lên lưng lừa ra đi.

Lục-vô-Song gượng đau trèo lên lưng lừa, mặt mày nhăn nhó.

Dương-Qua nói:

- Tiếc vì người tôi hôi hám dơ dáy quá chừng, nên không tiện ngồi phía sau để đỡ cô được.

Lục-vô-Song gắt lớn:

- Thôi đi, lúc này đừng nói lắm chuyện nữa.

Nói rồi giật cương cho lừa chạy.

Con lừa chưa thuần tánh, tung bốn vó nhảy tới, hất nàng lăng xuống đất.

Lục-vô-Song còn đau bỗng bị té bất ngờ rêm cả mình mẩy giận quá nạt:

- Ta té mi thích lắm sao, cứ đứng ngó không thèm lại đỡ hộ.

Dương-Qua cười nói:

- Tôi dơ dáy, hôi hám lắm, đâu tiện đứng gần cô mà nâng với đỡ?

Nàng tức quá nên phải dịu giọng:

- Thôi phủi hộ áo quần ta đi.

Dương-Qua cười cười, bước lại phủi.

Lục-vô-Song lại nói:

- Đỡ hội ta lên lưng lừa chứ.

Dương-Qua bồng nàng đặt lên yên. Con lừa thấy có người ngồi lại dợm chân muốn chạy lồng như lần trước.

Nàng nhìn xuống bảo:

- Thôi, dắt hộ nó đi cho rồi.

Dương-Qua đáp:

- Tôi lại gần sợ nó đá lắm.

Lục-vô-Song bực trí quá nhưng cũng tức cười, nghĩ thầm:

Thằng này quá quắt lắm chứ có ngu ngốc tý nào đâu. Hắn muốn trả đũa mình xua đuổi khi nãy đây mà.

Phải ngọt với hắn mới được.

Nàng bảo nho nhỏ:

- Thôi cậu lên ngồi chung với tôi vậy.

Dương-Qua lắc đầu đáp:

- Tôi cũng muốn lắm. Nhưng vì mình mẩy hôi hám quá, e rồi cô không bằng lòng, lại xua đuổi nữa xấu hổ lắm.

Lục-vô-Song giả lả:

- Thôi mà, đừng làm bộ nữa. Sao mà lắm lời thế, ta đã yêu cầu mà còn xua đuổi gì nữa. Sao mà giận dai quá.

Dương-Qua nhoẻn miệng cười rồi nhảy phóng lên phía sau, hai tay ôm nơi vai Lục-vô-Song, đôi chân thúc nhẹ vào hông lừa, khiến nó tung vó chạy nước kiệu mau như gió.

Ngồi trên lưng lừa, Dương-Qua hỏi Lục-vô-Song:

- Bây giờ cô muốn đi về xứ nào đây?

Lục-vô-Song thừa hiểu hễ đi về phía Đông đến ải Đồng-Quan rồi đi theo đại lộ tiến về hướng Nam dễ dàng yên ổn lắm. Ngặt vì lối này bị mấy tên ăn xin chận đường phá rối, nếu bây giờ đi theo đường cũ tất nhiên bè đảng của hắn sẽ chận đường gây sự khó bề đối phó được.

Thà đi theo tiểu lộ qua Trúc-lâm-quan, đến Long-cầu trại rồi theo lối Tử-kinh-quan về thẳng phía Nam cũng được. Lối này tuy phải đi vòng, đường xa thêm mấy đoạn, nhưng không ngại bọn ăn mày đón đường phá rối thuận tiện hơn.

Vì vậy nên nàng đáp:

- Chúng ta nên đi về hướng Đông-Nam thì hơn.

Dương-Qua giục lừa bon bon chạy về phía ấy.

Lừa đến một chỗ chợ đang họp, thình lình có một đứa bé có vẻ con nhà nông dân, đứng chực sẵn đầu đường, đưa tay đón lừa lại, đon đả nói:

- Lục cô nương. Có thư của người gửi cho cô nương đây này.

Nói xong hắn tung lên một bó hoa tươi.

Lục-vô-Song bỡ ngỡ đưa tay đón lấy bó hoa, thì đứa trẻ cũng kiếm đường lánh mất. Nàng nhìn lại thấy bó hoa gồm một số hoa thông thường, chính giữa có cài một bức thư.

Nàng vội bóc ra thấy bên trong viết trên một mảnh giấy vàng, đề vội mấy dòng chữ:

"Tôn-Sư sẽ đến ngay bây giờ.

Hãy tìm lối lánh đi, Gấp lắm".

Chữ viết vô cùng sắc sảo, nét bén như gươm, có lẽ do một bàn tay cự phách văn chương chứ chẳng phải tầm thường.

Xem xong, Lục-vô-Song bồi hồi lo sợ run lập cập nghĩ thầm rằng:

- Vì sao đứa bé này biết được họ của ta? Vì sao kẻ viết thư chắc chắn sư phụ ta sắp đuổi đến?

Thật hết sứ huyền hoặc lạ lùng!

Nàng băn khoăn hỏi Dương-Qua:

- Cậu có biết đứa bé vừa rồi con cháu mà ai, hay là người của cô nương cậu sai đến chăng?

Nãy giờ ngồi sau, Dương-Qua nhìn qua vai nàng đã đọc xong bức thư rồi. Chính chàng cũng hết sức ngạc nhiên về hành tung của đứa bé và lời lẽ trong phong thư. Chàng suy nghĩ:

- Thằng bé xem có vẽ lam lụ chất phác, có lẽ do kẻ nào thuê hay mượn và dặn nó đưa thư dùm chứ không can hệ chi cùng người viết thư. Còn người viết thư thì thật hoàn toàn bí mật. Kể ra họ cũng có hảo tâm mách dùm. Nếu quả thật Lý-mạc-Thu sắp đến đây thì cũng nguy hiểm lắm. Biết tính sao đây cho ổn.

Mặc dầu Dương-Qua đã học được bộ đệ nhất kỳ thư của võ Lâm là "Ngọc nữ tâm kinh" và "Cửu âm chơn kinh" nhưng ngặt vì thời gian quá ít chưa tập luyện được thuần thục thành thử nếu bây giờ có gặp thì hẳn vẫn chưa phải là đối thủ của Xích-luyện Tiên tử.

Vừa suy tư, bỗng nghe Lục-vô-Song gạn hỏi. Dương-Qua đáp liền:

- Tôi không hề quen biết hắn. Chắc hắn không phải là người của cô nương tôi đâu.

Trong lúc đang nghĩ ngợi chưa biết làm gì cho đúng, thình lình có tiếng ca nhạc, sáo đàn từ xa vọng lại. Phía trước lô nhô một đám đông trên mấy chục người, ăn mặc tề chỉnh, cũng rước một cỗ kiệu hoa từ từ đi đến. Có lẽ đây là một đám cưới của nhà ai, đang rước dâu đón rễ gì đây.

Cứ nghe tiếng đàn tấu thì chỉ những bản thông thường trong các đám rước bình dân chẳng có những bài du dương réo rắt của những đám rước xa hoa của các hạng phong lưu quý phái. Tuy nhiên nhạc điệu trầm bổng nghe cũng rất trang nhã êm tai. Kẻ qua đường ai cũng dừng chân đứng lại để nghe.

Dương-Qua thấy trong lúc ban ngày, thanh thiên bạch nhật chốn đồng hoang đường vắng, nếu Lý-mạc-Thu đến đây, biết chỗ nào ẩn nấp cho tiện.

Bỗng chàng nảy ra một sáng kiến và quay sang hỏi nhỏ Lục-vô-Song.

- Lục cô nương, hay là cô tạm chun đỡ vào kiệu cô dâu lánh mặt đi nhé!

Lục-vô-Song đang băn khoăn lo lắng chưa biết tính sao, bỗng nghe hỏi đột ngột có vẻ nửa đùa nửa thật thì phát cáu gắt:

- Ngốc, sao hay đùa bậy bạ vậy.

Dương-Qua cười bảo:

- Không bậy đâu. Tôi thiết nghĩ nếu cô thay đổi áo cưới của cô dâu, may ra sẽ che mắt được Sư-phụ Lý-mạc-Thu. Ngoài ra không còn cách nào hay hơn nữa.

Lục-vô-Song suy nghĩ một lát rồi hỏi:

- Ta giả cô dâu, còn mi trốn đi đàng nào cho người ta khỏi nghỉ?

Dương-Qua khúc khích đáp:

- Tôi sẽ cải trang làm chú rể.

Lục-vô-Song nghĩ:

- Hắn tinh như vậy mà hay đấy, không ngờ thằng ngốc mà có lắm mưu mẹo hay đáo để!

Nghĩ rồi ôn tồn hỏi lại:

- Nhưng làm sao cải trang giả dạng thành cô dâu chú rể bây giờ?

Dương-Qua lặng thinh không đáp. Giục lừa bước mau về phía ấy.

Phàm những con đường làng phần nhiều chật hẹp. Đám rước có kiệu kềnh càng người lại đông, chen lấn nhau đi thành hàng dài, không thể bước qua hai bên vì có nhiều bụi gai, hốc đá. Thấy lừa xăm xăm chạy về hướng ấy, mọi người hết sức sợ hãi vội kêu lớn:

- Xin nhị vị dừng bớt lại kẻo nguy hiểm lắm.

Dương-Qua chẳng đáp, cứ cho lừa đi mau hơn nữa.

Bỗng có hai người tráng đinh vạm vỡ xông đến nắm chặt dây cương thì lừa lại.

Dương-Qua đưa chân đá cho mỗi người một đá té ngửa bên đường xa mấy thước, rồi chạy thẳng tới trước, miệng bảo Lục-vô-Song.

- Tôi cải trang làm chú rể đây này.

Độ mươi thước, chàng gặp một thanh niên tác độ 17, 18 tuổi ăn mặc áo quần mới, đội mũ có kết hoa vàng, ngồi trên con bạch mã vừa chờ tới.

Dương-Qua đưa tay nắm lấy, ném bổng lên cao hai trượng chờ rơi xuống hứng lấy đặt đứng một bên lề. Mọi người hoảng kinh thất vía. Tuy có nhiều trai tráng vạm vỡ nhưng nhìn thấy sức lực và bản lĩnh của Dương-Qua quá cao siêu nên chẳng một ai dám hó hé lời nào. Trong đám có mấy vị bô lão mặc áo rộng xanh vội vàng chạy đến trước mặt chàng chắp tay vái dài thưa rằng:

- Tâu đại-vương, nếu Đại-vương cần dùng bao nhiêu bạc vàng hay của cải, chúng tôi xin dâng nạp để Đại-vương lòng tha cho chú rể một phen.

Dương-Qua ngước mặt lên trời cười ngất và nói với Lục-vô-Song:

- Cô thấy không? Họ gọi tôi bằng Đại-vương. Tôi có làm vua to, chúa lớn nào đâu mà họ gọi thế nhỉ?

Lục-vô-Song lộ vẻ lo âu bảo khẽ:

- Thôi, cậu đừng đùa nữa, tính điều gì thì làm phúc cho mau tiếng nhạc "Loan-linh" trên cổ lừa của Lý-mạc-Thu đã reo vang có lẽ cũng gần đến đây trong chốc lát.

Dương-Qua đứng yên, lặng tai nghe thử. Quả thật đã nghe tiếng nhạc "Loan linh" trên cổ lừa Lý-mạc-Thu reo lên văng vẳng. Xưa nay chỉ có lừa của Xích-luyện Tiên tử mới có buộc loại lục lặc này mà thôi. Chàng cũng thất kinh, bắt đầu lo ngại.

Nguyên Lý-mạc-Thu vốn hay tự cao tự đại cho mình là tay võ nghệ tuyệt luân, trên đời không ai cự lại. Hễ nàng muốn hạ sát kẻ nào chỉ cần in trước một bàn tay máu để cảnh cáo rồi đương nhiên đến giết sau, không thể nào thoát nổi. Để áp đảo tinh thần nạn nhân, nàng dùng máu bôi trên vàng, đúc thành những lục lạc đặt tên "Loan-linh" tiếng kêu lảnh lót, vang đi rất xa, ai nghe tiếng cũng biết nàng sắp đến. Đối thủ của nàng nghe tiếng nhạc "Loan-linh" reo lên chẳng khác nào nghe tiếng hú của tử thần, nên hồn phi phách lạc.

Dương-Qua nghe nhạc rung nghĩ thầm:

- Quả đúng là hắn đã đến gần tới nơi rồi!

Tuy vậy chàng vẫn giữ nét mặt tỉnh khô, cười cười nói đùa cùng nàng:

- Nhạc chi đâu? Chẳng qua tiếng chuông reo của bọn bán kẹo chứ có gì mà lo ngại.

Dương-Qua nhìn mấy cụ già nghiêm nghị nói:

- Ta có một việc yêu cầu. Nếu các người đồng ý thì mọi việc đều yên. Nếu không thì cứ xem đây mà làm gương.

Lập tức chàng đưa tay nắm hai giò chú rể quăng tuốt lên trời rồi đưa tay hứng bắt như khi nãy. Lúc được đặt xuống đất đứng run như cầy sấy, mặt không còn chút máu, rồi sụp xuống lạy cố mạng.

Mấy cụ già, bọn phù dâu phù rể đứng sắp hàng trước mặt chắp tay thưa:

- Đại-Vương cần sai khiến điều gì xin cứ chỉ dạy, chúng con xin tuyệt đối tuân theo.

Dương-Qua cười lớn rồi đưa tay chỉ Lục-vô-Song nói:

- Chị ta đi ngang qua đây thấy đám cưới linh đình, cô dâu chú rể có vẻ đầy đủ hạnh phúc, nên có ý muốn giả dạng thử xem thế nào.

Lục-vô-Song vội gắt:

- Thằng Ngốc, cứ nói bậy hoài. Dương-Qua không thèm cãi, cứ nói tiếp:

- Các cô hãy đem y phục cô dâu mặc vào cho nàng, mau lên. Còn ta thử đóng vai chàng rể xem thế nào.

Cả bọn tuy khiếp sợ nhưng cũng thấy lạ lùng, cùng suy nghĩ:

- Xưa nay chỉ có trẻ em con nít mới giả làm chú rể cô dâu để cùng nhau nô đùa. Ngờ đâu bọn ăn cướp mà cũng thích đóng tuồng này, lạ thực. Chắc chắn họ có dụng ý gì đây.

Họ chẳng biết chuyện đùa hay thật, cứ đứng nhìn trân. Hơn nữa thấy đôi nam nữ, người nào cũng xinh tươi duyên dáng, quả xứng lứa vừa đôi, nếu mặc áo cô dâu chú rể thật quả là đôi vợ chồng lý tưởng.

Nhưng chẳng hiểu hai người muốn đóng kịch để làm chi.

Ai nấy cứ đứng trố mắt ra nhìn, thì tiếng nhạc rung cũng gần sắp đến.

Dương-Qua lật đật nhảy xuống, xách chú rể đặt lên lưng lừa, bỏ Vô-Song coi chừng đó rồi chạy đến kiệu hoa vẹt màn kéo nàng dâu ra.

Cô dâu cũng hoang mang bỡ ngỡ chưa rõ chuyện gì nhưng vì thấy mọi người yên lặng cũng ríu rít đi theo không một lời chống cự. Tấm khăn hồng vừa kéo xuống lộ ra vẻ mặt phúc hậu, đầy đặn của một thiếu nữ khá đẹp.

Thấy Dương-Qua bước lại nhìn mình cười cười miệng khen đẹp đẹp, xinh xinh. Cô dâu sợ quá run rẩy, chẳng dám hở môi.

Dương-Qua bảo:

- Muốn bảo toàn tánh mạng, mau mau cởi cho mượn bộ y phục cô dâu ngay lập tức.

Lục-vô-Song càng nghe nhạc "Loan-Linh" reo gần tới, dạ nóng như bốc lửa, mà thấy Dương-Qua cứ đứng cà rà đùa dỡn mãi cũng nổi tức vội hét lớn:

- Mau lên chứ ngốc!

Mọi người chẳng hiểu nàng nạt ai là Ngốc, thảy đều lo sợ vội vàng thúc cô dâu:

- Cởi áo ra mau dâng cho Đại-Vương đi con.

Chưa đợi nàng dâu cởi xong, một vị bô lão xáp lại cởi gấp chiếc áo gấm đem đưa cho Lục-vô-Song liền.

Dương-Qua lột hết áo quần chú rể mặc vội mặc vàng vào người miệng thúc hối Vô-Song:

- Mau sang ngồi trên kiệu đi chứ.

Lục-vô-Song vội vàng leo lên kiệu ngồi yên, buông rèm xung quanh xuống.

Dương-Qua định gọi bảo thay luôn đôi hài nữa nhưng vì nghe nhạc reo quá gần đâu đây rồi, nhắm chẳng kịp nữa nên thét bọn phu kiệu:

- Cứ tự nhiên khiên về phía Đông-Nam, đờn sáo cứ lên như thường lệ, ai lo phận nấy tự nhiên như thường. Nếu tên nào hó hé lộ tình ý gì khác, đừng trách ta độc ác đây nhé.

Nói rồi phóc lên mình bạch mã, đủng đỉnh theo phía sau kiệu.

Mọi người từ mấy cụ già, cô bác đôi bên, các cô phù dâu, mấy chú phụ rể nghe lệnh thảy răm rắp làm theo.

Kiệu đổi hướng đi được một đoạn đường. Bỗng tiếng nhạc "Loan-Linh" đã tới nơi, có hai nữ lang kẻ mặc đồ trắng, người mặc áo vàng, cỡi ngựa đi tới và vượt qua phía trước.

Lục-vô-Song ngồi trong kiệu hoa, nghe nhạc Loan-Linh rung dòn bên tai ruột gan muốn rã rời, thần trí muốn bấn loạn trong dạ nghĩ thầm:

- Phen này thật khó thoát nổi.

Dương-Qua giả bộ thẹn thùng ngồi trên ngựa cúi gầm đầu xuống đất, tay mân mê bờm ngựa.

Lý-mạc-Thu hỏi lớn:

- Mấy người có gặp một cô gái thọt chân đi khập khễnh qua lối này không?

Mấy ông lão cùng vòng tay lễ phép đáp:

- Thưa cô nương không ạ.

Nàng hỏi tiếp:

- Các người cũng không thấy có thiếu nữ nào, nước da ngâm ngâm, mặt đẹp, cỡi lừa đi ngang đây không?

Mấy cụ cũng đồng thanh đáp:

- Dạ, thưa không thấy nốt. Chúng tôi không gặp một người nào hết.

Lý-mạc-Thu giục lừa muốn vượt qua kiệu hoa, bỗng tò mò dừng lại đưa cán phất trần khều bức rèm vẹt ra đưa mắt nhìn vào rồi à một tiếng lớn.

Dương-Qua thất kinh, vội thúc ngựa gần, định bụng nếu rủi chuyện bị lộ sẽ ra tay trước.

Dương-Qua thất kinh, vội thúc ngựa gần, định bụng nếu rủi chuyện bị lộ sẽ ra tay trước.

Nhưng Lý-mạc-Thu chỉ à một tiếng và khen lớn:

- Cô dâu đẹp quá!

Rồi nhìn lại phía Dương-Qua, tươi cười nói:

- Chàng rể khéo đường tu mới được một cô vợ phúc hậu như vậy. Ta có lời mừng cho đấy.

Dương-Qua giả dò e lệ, cuối gầm mặt xuống, mân mê tà áo gấm.

Khi lắng tai nghe tiếng nhạc rung xa, Dương-Qua lạnh lùng tự hỏi:

- ủa, sao không có Lục-vô-Song trong kiệu, nếu có sao hắn nhận diện chẳng ra?

Nghĩ xong giục ngựa chạy tới, kéo rèm nhìn trong kiệu.

Chàng hoảng hốt mặt mày tái xanh, run run nhìn cô dâu đang bỡ ngỡ ngó mình, còn Vô-Song đi đâu mất, chàng gọi:

- Cô đâu rồi?

Có tiếng cười khúc khích, phía dưới chân cô dâu đống áo quần rung động, Vô-Song ló đầu lên, vừa cười vừa đáp:

- Ta đây nè! Thế mà không thấy, dở quá!

Thì ra lúc Lý-mạc-Thu đang hỏi chuyện, Lục-vô-Song biết ý hắn vô cùng tinh tế, không bao giờ chịu bỏ đi ngay cho nên chun dưới chân cô dâu, dùng áo quần che lên trên thật kín.

Nghe nàng thuật lại, Dương-Qua cười hì hì khen có tài tháo vát, đoạn bảo cô dâu:

- Thôi cô em xuống đây dùng lừa đỡ một khúc đường nhé.

Lục-vô-Song cũng xã giao nói thêm:

- Chị vui lòng hy sinh một tý cho trót nhé.

Cô dâu ngoan ngoãn tuân theo chẳng dám nói lời nào, chạy lại leo lên lừa ngồi chung phía trước chú rể.

Đám rước dâu với hai cặp dâu rể cứ hướng cũ thẳng tiến, chẳng bao lâu mặt trời đã xế bóng.

Mấy ông già vội vàng chạy tới trước mặt Dương-Qua lễ phép thưa:

- Xin Đại-Vương tha cho để hai cháu về nhà làm lễ tơ hồng kẻo trễ giờ mất.

Dương-Qua trợn mắt hét:

- Không được kêu nài gì hết, im mồm!

Ai nấy thất kinh nín thin thít.

Ngay lúc đó, Dương-Qua thấy trước mặt loang loáng một cái bóng đen nhảy vụt ra rồi chạy thật mau vào khu rừng kề đó.

Giục ngựa đuổi theo gần kịp, thấy đó là một tên ăn xin, áo quần rách rưới.

Dương-Qua nghĩ bụng;

- Chẳng hiểu bọn này lại muốn kiếm chuyện gây rối gì nữa đây? Mặc kệ hắn, mình nên trở lại tốt hơn.

Quay ngựa về đến gần kiệu hoa, Lục-vô-Song đã vén rèm thò đầu nhìn ra hỏi gấp:

- Có chuyện gì lạ không?

Dương-Qua nói đùa:

- Có chứ, tại cô vô ý mà hỏng cả chuyện rồi, có lẽ hắn đã biết bọn mình rồi cũng nên.

Lục-vô-Song thất sắc hỏi dồn dập;

- Lỗi ta chỗ nào, nói mau.

Dương-Qua nghiêm mặt nói:

- Phàm cô dâu mới về nhà chồng phải âu sầu, khóc lóc sụt sùi tỏ vẻ thương nhớ mẹ cha, chứ cô mặt mày lúc nào cũng tươi rói như người được ăn cỗ. Như thế bảo người ta, nhất là hắn, không hoài nghi sao được.

Lục-vô-Song nguých chàng một cái mắng khẽ:

- Im mồm đi, Ngốc!

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 24 : Cải trang đạo sĩ gạt Lý-mạc-Thu

Đoàn người cứ đi mãi, chẳng bao lâu đến một vùng rừng núi thâm u hiểm trở. Đường đi hẹp dần, thêm gồ ghề mà giốc nữa. Những phu khiêng kiệu phải đi chầm chậm, gặp những chỗ giốc quá phải lấy tay níu vào cây cỏ mà lên. Ai nấy đều mệt bùng tai, mồ hôi nhễ nhại, nhưng vì sợ oai Dương-Qua cứ bặm môi đi mãi chẳng dám nói một lời. Thế là một đêm qua.

Nhìn từng đàn quạ đen bay lượn trên đầu đèo hóc núi, cô dâu chú rể thở dài mến tiếc một đêm qua. Đáng lẽ cái đêm đầu tiên đầy hạnh phúc bắt đầu cuộc tình duyên son trẻ, nào ngờ lại một đêm vất vả phải lội núi băng rừng.

Nhưng dầu sao họ vẫn mừng thầm vì bọn cướp này không hề xâm phạm đến người hay tiền của. Đoàn đám cưới vừa vượt qua khỏi đèo, thình lình trong hốc núi có tiếng người vang lên:

- Cô nàng hãy dừng lại. Muốn đi qua phải biếu lại một mũi hay một cái tai mới được.

Lục-vô-Song giật mình xanh mặt than thầm:

- Lại bọn ăn mày đến sanh sự nữa đây.

Tức thì có ba người cao lớn vạm vỡ từ trong ấy bước ra đón đường, so với bọn hôm trước có vẻ hùng dũng mạnh bạo hơn nhiều.

Dương-Qua để ý thấy người nào bên vai cũng có đeo bảy cái túi. Cứ như số túi nhiều hơn, chắc bọn này phải lợi hại hơn và quyết đến đây ăn thua với bọn mình một phen nữa.

Đoàn người sửng sốt nhìn ba người chẳng biết xử ra sao. Một người trong số phu kiệu, cầm cây gõ nhẹ vào đầu một tên bảo nhỏ:

- Hãy tránh ra cho mau.

Người nọ chẳng hề né tránh, đưa tay chụp lấy chiếc cây, đập một cái, làm người phu kiệu té nhủi đập mặt xuống đất chảy máu mũi đỏ lòm.

Ai nấy cũng muốn xông lại đánh cho bọn ăn mày một trận nên thân, nhưng vì nhớ lại trận Dương-Qua làm dữ nên lo ngại không hiểu bọn này ra sao, có phải cùng bọn với Đại-Vương kia chăng.

Vì vậy không ai bảo ai, cùng lùi ra sau mấy bước nhìn.

Một đứa trong ba người ăn mày nói:

- Bà con có chuyện vui mừng, xin bố thí cho chúng tôi một bữa ăn.

Lục-vô-Song nói nhỏ với Dương-Qua:

- Này cậu, ta đang bị đau chưa lành, cậu làm ơn ra tay giúp hô nhé.

Dương-Qua gật đầu, thúc ngựa trờ tới hét lớn:

- Bọn ăn mày, khôn hồn mua tránh ra xa cho người ta đưa đâu, nếu cãi lệnh thì không toàn tánh mạng.

Ngày hôm qua, bọn sáu túi có bị Dương-Qua phun xương điểm huyệt nhưng chúng không ngờ, cứ đinh ninh là do Lục-vô-Song, vì vậy nên lôi về báo cáo lại với các sư thúc và sư bá cấp bảy túi không nói về tài nghệ của Dương-Qua.

Một tên xốc tới bất thình lình khiến con ngựa của chàng hoảng sợ nhảy thụt lùi ra sau. Dương-Qua giả vờ lúng túng muốn té, một chập mới gượng ngồi lại được.

Bọn ăn mày thấy chú rể nhút nhát quá nên tránh ra xa hơn.

Nguyên những tên ăn mày trong Cái bang tuy đi ăn xin nhưng hành động rất quang minh quân tử, chuyên cứu khổn phò nguy chứ không bao giờ hà hiếp kẻ yếu. Hôm nay họ đến đây là cốt gây chuyện cùng Lục-vô-Song chứ không có ác ý cùng Dương-Qua hay những người khác.

Thấy Dương-Qua tay không, chẳng có khí giới, lại có vẻ nhút nhát hoảng sợ ngồi lảo đảo muốn té nên họ bước lại đỡ họ.

Dương-Qua hỏi:

- Mấy người cần tiền ta sẽ cho tiền, chứ tại sao đi cản đường ngăn nẻo như vậy?

Rồi chàng ném cho mấy đồng tiền.

Ba người theo lệ của Cái Bang cúi xuống lấy và tỏ lời cám ơn.

Dương-Qua thích chí nói với Lục-vô-Song:

- Tôi đã vâng lời cô dẹp đường yên rồi đấy.

Lục-vô-Song gật đầu rồi nhìn ba người ăn xin hỏi lớn:

- Các người tại sao cứ đi theo ngăn đường ta mãi như vậy?

Một người đáp:

- Anh em trong bang chúng tôi được biết cô nương bản lãnh cao cường nên phái chúng tôi lại xin lãnh giáo vài ngón tuyệt diệu của phái Cổ-Mộ.

Lục-vô-Song đáp:

- Hiện nay ta chẳng may bị nội thương nặng, tay chân đau nhức không cử động mạnh được. Nếu các ngươi muốn thử sức xin chờ một dịp khác, khỏi đau rồi ta sẽ lãnh giáo ít hiệp. Ta nghĩ rằng, theo tôn chỉ tốt đẹp của bang Khất Cái xưa nay, có lẽ các ngươi cũng không bao giờ đi bức bách một phụ nữ đang lúc bị thương chưa khỏi tin rằng những người có địa vị trong Cái Bang sẽ hành động theo đường lối quân tử.

Tuy là ăn xin, nhưng cả thảy là những người khá trong bang, biết điều xử sự. Khi nghe Lục-vô-Song phân trần, họ cũng cho là hữu lý nên cùng suy nghĩ.

Một người nói:

- Được, ta bằng lòng chờ nàng hết đau sẽ hay.

Nhưng một người khác ngăn lại nói:

- Khoan đã! Cô nói đau nhưng biết cô quả thật đau hay chỉ là lấy cớ để thoái thác. Chúng ta muốn được chứng minh cụ thể hơn. Nếu quả thật ta sẽ tha cho lần này.

Thật ra hắn không biết Lục-vô-Song bị thương nơi bụng nên mới yêu cầu vô ý như vậy.

Lục-vô-Song đã sẵn có tật nên khi nghe hắn nói thì nổi xung giận tím mặt, phát run cả tay chân, nhưng cố gắng nén cơn tức, một lát mới nói được:

- Người đời thường ca tụng Cái-Bang là một hội quang minh chính đại, người của Cái-Bang ai cũng là xử thế một cách anh hùng, nhưng không ngờ hôm nay ta mới được thấy rõ chỉ là lời đồn huyễn hoặc và bọn người chỉ là phường vô liêm sỉ.

Ba người ăn mày thấy Lục-vô-Song mắng đùa cả bọn mình, xúc phạm đến toàn thể Cái-Bang thì nổi giận vội vàng vung gậy đập nhầu vào kiệu hoa.

Dương-Qua thấy bọn chúng hành hung vội chạy ra trước kiệu dùng lời giả lả:

- Tôi thấy các ông toàn những người đàn ông, tướng mạo đàng hoàng đáng được kính nể, chẳng hiểu vì sao lại hùa nhau đi ăn hiếp một người đàn bà như vậy. Không sợ người đàn bà cười chê là phương thiếu giáo dục hay sao.

Lời chàng nói cũng nặng nhưng xét cũng hạp lý cho nên cả ba chưa biết đối đáp như thế nào.

Sao đó một người trong bọn mới phân trần:

- Anh em chúng tôi muốn gọi nàng ra cho thưởng thức một vài ngón võ tinh diệu của phái Cổ-Mộ, nàng lại nặng lời sỉ vả nên chúng tôi mới có thái độ vừa rồi chứ đâu phải cậy thế hiếp cô mà người gọi là phường thiếu học?

Nói rồi hắn đưa tay điểm một huyệt, Dương-Qua la ối một tiếng thật to rồi lăn ra đất ôm tay nhăn nhó rên siết dường như đau lắm.

Khi ấy trời đã nhá nhem nên ba người ăn mày không thấy rõ được vết thương của chàng nặng hay nhẹ. Hơn nữa theo quy tắc của Cái-Bang nhất thiết cấm không cho đánh một người không hiểu biết võ nghệ. Vì vậy nên người ấy bối rối lo đỡ dậy để an ủi.

Dương-Qua vừa rên vừa nói:

- Ba lão ăn mày sao mà ngang ngược như thế. Nếu muốn nói chuyện với người ta, họ mắc cỡ không đáp thì tìm cách khác hoặc nhờ ta nói lại chứ có lý đâu đi bức bách đàn bà như vậy.

Ba gã ấy cũng nghĩ bụng:

- Thằng này có dáng điệu ngốc ngốc tàn tàn, như lý sự không ngốc tý nào hết.

Người nhỏ tuổi nhất bước lại hỏi:

- Này, cô gái họ Lục nàng là đau thật hay đau giả vậy?

Thấy hắn nín thinh người lớn hơn nổi nóng trợn mắt hỏi:

- Sao mày có trả lời hay không?

Người thứ ba hỏi thêm:

- Mi và cô gái họ Lục có liên hệ gì với nhau không chú Ngốc?

Dương-Qua giả vờ ngớ ngẩn hỏi lại:

- ủa lạ nhỉ! Sao các ông lại biết rõ tôi đây tên Ngốc mà gọi như vậy?

Người lớn nhất nóng hét:

- Bọn ta đến đây không có mục đích gì hơn là hỏi bọn bây cho biết thế võ gì dùng để phóng lưỡi dao vành cung vào lưng của đồng bọn của ta.

Lục-vô-Song không muốn để Dương-Qua cãi lẫy dằng dai với họ nên thuận miệng đáp lớn:

- Thế võ ấy gọi là "Điêu Thuyền bái nguyệt".

Dương-Qua lớn tiếng cãi:

- Không phải đâu. Thế võ ấy không dài dòng mà chỉ có một tiếng mà thôi. Xem đây này.

Nói chưa dứt lời chàng vung tay đấm luôn mỗi đứa một đấm như búa bổ. Cả ba tên bất ngờ không đề phòng, lãnh mỗi người một thoi ngã bật ngửa ra sau. Lồm cồm đứng dậy, ba người vừa thẹn vừa tức hét lớn:

- ủa, thằng rể này can chi lại bênh hắn, đánh chúng ta?

Tên nóng tính nhất múa gậy xông vào nói:

- Mi muốn sanh sự, ta cho mi nếm miếng đòn cho biết.

Dương-Qua đáp:

- Các ngươi nằn nằn xin lãnh giáo chị dâu ta. Chị ấy đang bị bệnh thì ta đây thay thế để dạy bay vài ngón cũng được rồi. Thật ra ta đâu có bênh ai và cũng chẳng biết chi về câu chuyện nàng hết.

Người ấy nạt lớn:

- Chị dâu mày hay mày cũng được.

Dương-Qua cười cười quay về phía chiếc kiệu hỏi Lục-vô-Song:

- Chị ơi, bây giờ dạy cho chúng thế nào trước đây?

Lục-vô-Song thừa biết bản lãnh của Dương-Qua tuyệt vời đủ sức hạ ba đứa đó, nhưng nàng cũng muốn nhân dịp lòe với bọn chúng nên đáp lại:

- Chú cứ dạy trước thế "Điêu Thuyền chào trăng" đi.

Dương-Qua "vâng ạ" một tiếng rồi xoay mình lại. Lập tức một bàn tay đã vung ra lẹ như chớp đập mạnh vào giữa lưng của tên đứng xa nhất.

Cả ba tên ăn mày ngơ ngác trước lối xuất thủ thần tình của Dương-Qua nên cùng vũ lộng binh khí xông vào vây đánh một lượt.

Dương-Qua đứng yên không nhúc nhích dùng hai tay đưa ra đỡ gạt.

Lục-vô-Song nhìn thấy thế đỡ của hắn thất kinh nghĩ bụng:

- ủa, ai dạy thằng này mà hắn xuất thủ quả đúng theo nghệ thuật của phái "Cổ-Mộ" rồi.

Nàng nhắc thêm:

- Bây giờ dùng thế "Tây Thi ôm bụng" mà tấn công đi.

Dương-Qua dạ lớn rồi quay mình phóng tay nghe "bịch" một tiếng ngay miệng một tên té nhào ra xa gần hai trượng.

Hai đứa khác thấy chàng lợi hại quá nên cố sức tấn công lanh hơn nữa.

Dương-Qua vừa đánh vừa hỏi nữa:

- Chị ơi, còn thế nào nữa, chỉ mau lên chứ!

Lục-vô-Song đáp:

- Đánh luôn thế "Chiêu Quân quá ải" và tiếp theo thế "Tiên cô chúc thọ".

Dương-Qua vòng cánh tay như đang ôm đàn, rồi xòe cả năm ngón tay phải điểm nhẹ vào huyệt nơi thái dương bên trái khiến cho một tên ăn mày ngã nhào ra, toàn thân bủn rủn, không cử động được nữa.

Xong thế "Chiêu quân quá ải" chàng bước sang bên phía mặt, hai tay nắm chặt vào nhau sụp ngồi xuống thật nhanh, nhoài người ra phía trước hất mạnh một đòn ngay hạ bộ của tên ăn mày đang đứng phía ấy bay bổng lên cao, cách đất gần hai trượng rồi cười lớn bảo:

- Cho mi nếm sơ sơ thế "Tiên cô chúc thọ". Ta nhơn đức nương tay chứ nếu đánh đúng miếng thì mi đã theo ông bà rồi.

Nguyên tất cả các thế võ này đều do Lâm-Triều-Anh sáng chế riêng cho giới đẹp để truyền cho phái Cổ-mộ. Tất cả đệ tử phái Cổ-Mộ đều là đàn bà cho nên cái thế võ cũng phải có tên đẹp, lối múa uyển chuyển dịu dàng hợp với bản chất người đẹp.

Những thế ấy không bao giờ truyền cho đàn ông. Nhưng vì Tiểu-long-Nữ thấy Dương-Qua trung thành với mình cho nên mới đặc biệt đem ra dạy cho chàng.

Dương-Qua đem mấy ngón ra cốt để biểu diễn cùng Lục-vô-Song và thị uy với ba người trong Khất Cái chứ không hề có ác tâm. Vì vậy cho nên các tên ăn mày tuy bị đánh trúng nhưng không ai bị thương nặng.

Nhưng họ nào rõ dụng tâm của Dương-Qua, cứ đinh ninh rằng chàng chưa đủ sức nên có ý xem thường cứ lăn sả vào đánh ráo riết.

Dương-Qua giả bộ nhảy đông nhảy tây, lánh né lăng xăng, miệng la ó:

- Chị ơi, sao lặng thinh mất rồi? Muốn ở góa hay sao mà không chịu nhắc cho vài thế nữa để chống cự với người ta.

Lục-vô-Song bảo:

- Hãy dùng thế "Văn quân hơ tay" và "Quý phi say rượu" đi.

Dương-Qua đưa tay lên cao như người đang rót rượu, chọi trúng đầu tên nóng tính rồi ngồi xụp xuống thấp tung luôn hai đòn liên tiếp vào giữa bụng tên thứ hai.

Cả ba vừa lo sợ vừa bực tức và hổ thẹn, đem hết tàn lực ra đánh ráo riết nhưng cũng không thể nào động được một đòn nào vào mình của Dương-Qua.

Dương-Qua lách mình tránh né các đòn của ba người như trò đùa, thỉnh thoảng khẽ đập vào chúng như để chọc ghẹo cho vui chứ không làm đau hay gây thương tích.

Lục-vô-Song thấy chàng biểu diễn tất cả các ngón một cách quá sức tài tình thì khoái chí quá, nhắc luôn hai thế "Lộng ngọc thổi tiêu" và "Thần nữ vượt sóng". Nói đến đâu Dương-Qua biểu diễn đến đó một cách hoàn toàn, khiến cho nàng phải đem lòng thán phục.

Sau cùng muốn thử tài chàng đúng mức, nàng nhắc đến một thế thật khó "Võ-hậu buông rèm".

Chẳng ngờ nàng vừa nói dứt lời Dương-Qua đã vận sức vào hai tay xỉa tới trước vẹt ra như vén màn, gạt cả ba đối thủ văng ra xa lắc.

Lục-vô-Song phục quá sức, hứng chí nói thêm:

- Diễn luôn thuật "Cười dòn dã" xem thử thế nào?

Nguyên thuật này cho phái Cổ mộ đặc biệt chế biến ra theo câu "người đẹp cười nghiêng nước đổ thành" nếu luyện đến chỗ tinh vi, sẽ khiến cho địch thủ vỡ mật ngã quay ra đất. Đó là một nghề tuyệt diệu một phần dựa theo "Ngọc nữ tâm kinh" và một phần theo "Cửu-âm chơn-kinh".

Dương-Qua vận sức đầy đủ cất tiếng cười khan. Lúc đầu giọng cười như nước chảy ngọc reo, dần dần đổi khác như ma gào quỷ ré, tiếng cười lộng kêu như xoáy vào màng nhĩ khiến cho ba cao thủ bảy túi của Cái Bang chịu không nổi, bay hồn mất vía, nhào lăn ra đất cả.

Lục-vô-Song bước lại đỡ họ dậy.

Dương-Qua vừa dứt tiếng cười, ba người ăn xin cũng hoàn hồn hoảng kinh tìm đường chạy mất.

Tất cả mọi người trong đám cưới thấy cặp này tài ba lỗi lạc, bản lãnh cao cường quá nên càng sợ hơn nữa, nhất nhất nghe theo ý muốn chẳng dám cãi lại.

Cả đoàn nghỉ ngơi một chặp rồi tiếp tục đi lại. Qua canh hai đêm đó vừa tới một thị trấn có vẻ sầm uất.

Dương-Qua cho đoàn đám cưới về làng rồi cùng Lục-vô-Song bước vào một quán rượu, gọi thức ăn.

Vừa ngồi lại bàn định ăn, bỗng có một bóng đen chạy vụt vào. Nhưng vừa thấy hai người thì bóng ấy vội chạy ra rồi biến mất.

Dương-Qua ngạc nhiên phi thân đuổi theo.

Ra khỏi cửa ngõ một chặp, thấy có hai người đạo sĩ dáng điệu quen quen. Hai đạo sĩ vừa nhìn thấy mặt Dương-Qua vội bỏ chạy trốn. Dương-Qua sực nhớ lại hai tên đạo sĩ này quả là Cơ-Thanh-Hư và Bì-Thanh-Huyền đã cùng bọn Triệu Hàn... vây đánh Lục-vô-Song tại Sài-Lang cốc bữa nọ.

Chàng đứng suy nghĩ:

- Tại sao bọn này cứ theo dõi mình hoài. Hay chúng có dự mưu gì đây chẳng sai. Ta nên nói lại và bàn cách đối phó cùng Lục-vô-Song mới được.

Chàng chạy vào tiệm ghé tai thuật lại cho Lục-vô-Song nghe. Thuật chưa hết chuyện lại thấy bóng hai đạo sĩ thấp thoáng phía trước nữa.

Kế đó có tiếng nhạc Loan linh reo vang cách quán chẳng bao xa. Hai tên đạo sĩ nghe tiếng nhạc bỗng lộ vẻ đớn đác lo sợ, vội vàng chạy vào phòng bên đóng cửa lại.

Dương-Qua thấy thái độ ấy cũng lấy làm lạ, tự nghĩ:

- Hai đứa này có liên hệ gì Lý-mạc-Thu hay sao mà xem bộ hớt hải sợ sệt tìm đường trốn tránh như vậy?

Lục-vô-Song thì buồn buồn, gục đầu nghĩ kế chẳng ra, ngước mắt hỏi Dương-Qua:

- Sư phụ ta đã đến nữa đây. Chúng mình phải xử trí bằng cách nào bây giờ?

Dương-Qua điềm nhiên đáp:

- Nếu cần ta cũng cứ đánh chứ sợ gì nữa?

Tiếng lạc reo vang phía cửa trước, có tiếng Lý-mạc-Thu nói:

- Ba con, con hãy lên đứng trên nóc nhà xem chừng đi.

Tiếp đó người chưởng quỳ lễ phép thưa:

- Kính thưa lão gia, có phải có kẻ nào vừa vô lễ làm xúc phạm đến quý thể nên lão gia muốn tìm bắt để trị chăng?

Lý-mạc-Thu tự cho mình còn trẻ và đẹp lắm. Vì vậy nàng rất kỵ và oán hận những kẻ nào gọi mình là "gia" hay dùng danh từ "lão" để gọi mình.

Hôm nay nghe tiếng "lão gia" từ miệng người chưởng quỹ thốt ra, nàng phừng phừng nổi giận khẽ dùng phất trần phẩy nhẹ trên đầu, khiến hắn ngã lăn ra chết tốt.

Tên Tiểu-nhị lấm lét đứng đầu phòng nhìn ra thấy nàng chỉ phẩy sơ một cái giết một mạng người, hồn vía đều bay lên mây, hết đứng tại chỗ.

Lý-mạc-Thu hỏi hắn:

- Mi thấy có một đứa con gái thọt chân vào trong tiệm này không?

Tiểu-nhị điếng hồn đứng há miệng ấp úng mãi nói chẳng ra lời.

Lý-mạc-Thu hự một tiếng rồi rảo bước đi thẳng vô phòng bên cạnh ở mé phía Tây. Phòng này là nơi ẩn nấp của bọn đạo sĩ.

Dương-Qua cho rằng nếu lúc này đi trốn là thuận tiện nhất. Nếu cỡi ngựa đi ra quán, Hồng-lăng-Ba đứng trên mái ngói sẽ trông thấy ngay. Nhưng với tài nghệ của hắn cũng không ngại lắm.

Chàng hỏi Lục-vô-Song:

- Bây giờ bọn mình nên trốn ngay là hơn, cô nghĩ sao?

Lục-vô-Song liếc mắt nhìn ra bên ngoài, lòng chưa dám quyết định ra sao cả và nghĩ thầm:

- Nếu mi lại giải thoát cho ta thêm lần nữa thì quả là ơn sâu như trời cao biển rộng.

Trong khi hai người còn phân vân bàn kế thoát thân thì có một bóng người từ phòng phía Tây chạy vụt qua, đến cạnh bàn nói nho nhỏ đủ nghe:

- Hai người mau mau theo tôi để chạy trốn.

Vừa dứt câu, người ấy đã vụt lao mình vào đêm tối.

Dương-Qua chưa nhìn được mặt người ấy, chỉ nghe tiếng nói có vẻ thanh tao nhưng cương nghị, bóng người thanh thanh không cao không thấp, nhỏ hơn Lục-vô-Song chút ít, mặc áo rộng tay màu xanh biên biếc.

Ngay khi ấy , tiếng nhạc lại reo vang , Dương Qua hoảng hốt đưa tay kéo Lục vô Song chạy gấp về hướng Bắc.

Bỗng đâu có tiếng Hồng lăng Ba báo động từ trên mái ngói vọng cuống :

- Có người đang cưỡi lừa chạy về hướng Bắc đấy , sư phụ ơi !

Lục vô Song quýnh lên , bảo nhỏ :

- Trời ơi , chạy mau lên , nguy quá rồi .

Nhưng Dương Qua lại nghĩ khác :

- Đối với một kẻ có tài khinh công tuyệt thế , đời này mấy kẻ dám sanh tày thì việc chạy trốn không có gì bảo đảm .

Huống chi ngay sau khi Hồng lăng Ba gọi , đã có một bóng trắng lấp loáng đuổi theo từ phía xa xa . Nếu Lý mạc Thu chạy theo thì nhất định không thoát khỏi , hơn nữa Lục vô Song lại bị tật , tập tễnh nơi chân phải dùng kế khác mới được .

Nghĩ xong , chàng kéo Lục vô Song chạy qua hướng Tây , chui vào một căn phòng .

Trong phòng này bọn Cơ thanh Hư và Triệu bất Phàm dang ngồi cạnh vách tường , mặt mày láo liên không còn chút máu . Cơn sợ hãi đã lên tới cực độ .

Trong lúc gấp rút quá , Dương Qua chẳng nói một tiếng , lẹ làng điểm luôn mấy huyệt , hai người ngã quay ra liền . Đoạn chàng kéo Lục vô Song chạy thằng vào phòng gài cửa cẩn thận và hối Lục Vô Song rối rít :

- Mau mau cởi hết quần áo ra !

Lục vô Song mắc cỡ quá , nạt nhỏ :

- Bảo gì lạ vậy hở Ngốc ?

Dương Qua vội vã nói luốn :

- Cô bằng lòng cởi hết không tùy ý , tôi lo cởi phần tôi cho rồi . Gấp lắm , gấp lắm !

Vừa nói hán lanh lrj tuột hết áo quần rồi lấy y phục của Triệu bất Phàm mặc lên người .

Lục vô Song trông thấy nghĩ thầm :

- ồ hay quá ! Thật là diệu kế !

Nàng khẽ đá vào Cơ thanh Hư bảo :

- Hãy nhắm mắt lại đừng nhìn ta nhé . Bọn bay không nghe ta giết ngay .

Cơ thanh Hư và Triệu Bát Phàm đã bị điểm huyệt toànd thân bất ôộng nhưng trí não vẫn còn sáng suôts . Thấy nàng bảo và đe dọa cũng sợ nên cả hai vâng lời nhắm kỹ mắt lại .

Lục vô Song quay lại bảo Dương Qua :

- Chú mi cũng vậy , hãy quay mặt vô tường một tý cho ta thay áo quần chứ .

Dường Qua cười hì hì đáp :

- Còn lạ lùng gì nữa mà kiêng . Hôm dùng thuật " tiếp cốt " tôi cũng đã ... đã hiểu qua cả rồi , cô còn ngại ngùng chi nữa .

Tuy nói vậy nhưng chàng cũng tự xét thiếu đứng đắn nên không nói nữa và quay mặt vào vách ngay .

Lục vô Song nguýt một cái , lấy tay khẽ dí đầu Dương Qua vào tường rồi thay quần áo .

Dương Qua liếc qua , thấy thân hình nàng lồ lộ , bỗng liên tưởng đến Tiểu long Nữ , lòng tràn gập một niềm vui cảm xúc quá mạnh nên gục xuống tường .

Lục vô Song ngỡ mình xô đầu chàng quá mạnh nên gục như thế bèn lấy tay xoa đầu chàng mấy cái hỏi :

- Tôi lỡ tay đầy . Đau lắm không ? Đừng buồn nhé !

Dương Qua cười khì khì rồi ngước mắt lên nhìn .

Lục vô Song thấy nóng ran cả người nhưng cũng cố nói cho đỡ mắc cỡ :

- Cậu xem ta có giống đạo sĩ tý nào không ?

Dương Qua đáp :

- Có thấy đâu mà biết được .

Nàng bảo :

- Thì cứ thử nhìn đi .

Dương Qua quay lại ngẫm nghĩ : Lục vô Song thân hình nhỏ bé nên bộ đồ vừa rộng vừa dài , mặc xùng xình xem tức cười lắm . Định nói mấy câu pha trò cho vui bỗng nàng hót hoàng đưa tay chỉ lên nóc nhà .

Nhìn lên phía ấy Dương Qua thấy rõ ràng là Bì thanh Huyền , tên đạo sĩ cùng đánh nhau với Lục vô Song ở Sài Lang Cốc độ nọ đang lom khom nhìn xuống .

Lục vô Song nổi giận nói :

- Quả đồ khốn nạn ! Thằng này đã núp sẵn từ lâu , cứ nhìn ta thay quần áo . Ta quyết ...

Vừa nói đến đây nàng nín bặt vì nghe tiếng nhạc " Loan lịch " của Lý mạc Thu đến gần quá rồi .

Cả hai hốt hoảng nhìn nhau . Dương Qua bỗng nghĩ một cách , vội bồng Cơ thanh Hư đặt nằm vào lò sưởi . Nguyên vùng này trời lạnh lắm , nhà nào cũng có lò sưởi riêng để chụm lửa cho ấm mới chịu nổi sức lạnh của mùa đông . Lò sưởi này hiện không dùng nhưng khá rộng , đầy cả tro và than .

Cơ thanh Hư bị đặt vào đấy , mặt mày lem luốc , quần áo cũng dính cả tro than .

Tiếng nhạc reo lên trước cửa , Dương Qua khẽ bảo :

- Cô nương cũng tạm thời nằm vào đây lánh thân nghe .

Lục vô Song nhăn mặt vùng vằng :

- Bọn này hôi hám dơ dáy quá nằm một bên chịu sao nổi .

Chàng cười hì hì dỗ ngọt ;

- Chịu khó tạm một chốc thôi mà !

Miệng nói , tay bồng luôn cả Triệu bất Phàm đặt vào lò sưởi , để chỗ cho Lục vô Song nằm .

Rồi chàng cũng leo lên nằm ké một bên ngáy lớn , giả bộ đang ngủ say .

Thỉnh thoảng có một mùi thơm thoang thoamngr từ thân hình nàng bốc ra làm cho Dương Qua thấy khoan khoái vô cùng , muốn trò kịch này cứ kéo dài lâu thêm mãi .

Lý mạc Thu xuống lừa bước vào phòng , nhìn lò sưởi thấy hai đạo sĩ chan nhau nằm , mặt mày lem luốc trông rất tức cười và trên giường có hai đạo sĩ khác nằm đấu lưng vào nhau ngủ mê chứ không thấy hình dáng Lục vô Song đâu cả .

Lục vô Song thấp thỏm trong lòng lo sợ quá mức . đến lúc Lý mạc Thu bỏ đi , nàng mới thấy nhẹ cả người và thầm phục mẹo hay của Dương Qua cứ mình một lần nữa .

Suốt đêm đó , thấy trò Lý mạc Thu lùng khắp các nhà , các nẻo trong thị trấn để tìm Lục vô Song . Trái lại Lục vô Song điềm nhiên ngủ trên giường tại quán trọ một cách ngon lành .

Dương Qua nằm bên cạnh Lục Vô Song , nghe tiếng chó sủa vang rân xong xóm , lòng thấy khoan khoái mừng thầm . thỉnh thoảng mùi thơm trong người nàng cứ toát ra khiên chàng không thể nào ngủ được .

Lục vô Song cũng cảm thấy cõi lòng xao xuyến rạo rực . Nằm bên Dương Qua , bao nhiêu ý nghĩ vừa vừa thú vị cứ quay cuôpngf trong óc mãi .

Chàng này đâu phải ngốc . Có ngốc chằng cũng do chàng cố ý tạo ra mà thôi . với tài nghệ tuyệt luân , với bộ óc thông mình nhiều sáng kiến mưu mô kỳ diệu , chàng phải là một kẻ phi thường . Những hành động của chàng đượm nhiều tánh chất tuy ương gàn nhưng nhân hậu , đôi khi khùng khùng nhưng nhiều tình cảm thiết tha . Lạ một điều là đã lắm lần thân tựa vai kề , hoa gần bên bướm nhưng bướm chẳng thiết hoa , gái gần trai nhưng trai hờ hững mãi .

Đến đây nàng cảm thấy một luồng nhiệt khí từ mình chàng toát ra chuyền vào người nàng như sưởi ấm .

Nàng run run nhưng thấy thích thú , muốn nhích lại gần hơn . Nghĩ lại thêm thẹn , cố nghìm cơn bồng bột bằng cách cắn mạnh nơi môi thật đau để lấy lại mức bình tĩnh của lòng mình .

Sáng hôm sau , Dương Qua thức dậy sớm lắm . nhìn vào lò sưởi thấy Cơ thanh Hư nằm ngủ mê man , nhó lại một bên , Lục vô Song đưa mặt ra ngoài ngáy đều . Chàng ngắm kỹ thấy đôi mát nàng nhắm kín dưới hai hàng mi cong như vòng nguyệt trên chiếc mũi cao dọc dừa . Hai làn má phính phính ửng hồng như đôi chiếc bánh mật , làn môi tươi thắm như san hô .

Dương Qua thấy tim hồi hộp , lòng rạo rực một cảm giác mới lạ , muốn đưa tay rờ thử xem nàng có biết hay chăng .

Là một trai tơ đang lúc sung sức , nằm bên một cô gái đào non hơ hớ , nhất là giữa lúc bình minh vừa lên , xuân tình của nam giới cực thịnh , chàng thấy cõi lòng rào rạt , bao nhiêu sự ham muốn yêu đương cuộn dâng hơn cả lúc đang " tiếp cốt " cho nàng trong khu rừng vắng .

Dương Qua cố bặm môi ngó đi nơi khác và dùng nghị lực chống lại dục tình đang trào lên bồng bột .

Nhưng lửa tình đang lên khó bề kiềm hãm nổi . Toàn thân chàng như bốc chay , tay chân mất cả tự nhiên , cặp mắt trừng trừng nhìn sát mặt Lục vô Song đang nằm như đoá hoa hàm tiếu . Không dằn tâm được , chàng muốn đặt sẽ trên đôi môi đỏ mọng một chiếc hôn như thình lình một ám khí của ai vừa phóng ra bay vút qua đầu đem chàng trở vè thực tại .

Dương-Qua giật mình nhìn ra thấy tấm vách cửa bị ai phá tung một khoảnh và có một vật gì nửa quỷ, nửa người vừa mới thụt ra biến mất.

Chàng tung người nhảy lại, đưa đầu nhìn qua lỗ hổng chẳng thấy gì hết. Muốn phóng ra ngoài đuổi theo xem thử, nhưng e ngại trúng kế "điệu hổ ly sơn" của quân địch nên chẳng dám đuổi theo, chàng quay trở vào trong quan sát xem có gì lạ chăng.

Thấy trong góc nhà có một cuộn giấy nhỏ, bóc ra xem có mấy chữ:

"Liệu hồn, chớ bày trò khốn nạn mà chết!"

Lục-vô-Song vừa thức giấc, cũng vội chạy lại nhìn xem.

Tuồng chữ ghi trên mảnh giấy, giống y những chữ đã viết trong bức thư do đứa bé kèm vào bó hoa trao dọc đường hôm nọ.

Dương-Qua đọc xong thấy thẹn thùng và xấu hổ. Chàng đoán có lẽ đây là một nhân vật nào có hảo ý đeo đuổi giúp đỡ mình và cũng cảnh cáo mình để khỏi làm điều bậy bạ.

Càng nghĩ càng xấu hổ, mặt mày đỏ gay, đứng lặng người không nói năng gì hết.

Lục-vô-Song thấy vậy hỏi:

- Sao đứng thừ người như vậy, cậu có phải bị cô nương quở trách gì chăng?

Dương-Qua không đáp suy nghĩ:

- Người này nhất định không phải cô nương ta, vì nét chữ không phải của nàng. Theo dáng điệu kỳ quái, nửa quỷ nửa người hiện trên lỗ hổng, chưa hiểu đây là kẻ nào, quen hay lạ, gái hay trai. Thật là khó đoán.

Đang ngẩn ngơ suy tính lại có tiếng nhạc "loan linh" từ phía Tây Bắc vọng lại nữa.

Lý-mạc-Thu tìm không ra Lục-vô-Song đã bỏ đi nơi khác, nhưng lúc nào cũng lo nghĩ về cuốn "Ngũ độc bí truyền" đang còn ở trong tay Lục-vô-Song chưa lấy lại được cho nên nóng lòng sốt ruột, ăn chẳng được ngủ chẳng yên.

Sau khi tìm các chỗ khác không có, nàng quày lừa trở lại kiếm nữa.

Dương-Qua bảo Lục-vô-Song:

- Hắn đi một đêm qua, nay trở lại nữa, chả nghi ngờ bọn mình còn ở nơi đây nên cố tìm nữa. Vì cô còn mang thương tích nặng, nếu không chỉ cần chọn hai con ngựa hay chạy đi là thoát nạn.

Lục-vô-Song giận dỗi nói:

- Cậu có ỷ mạnh thì cứ đi một mình cho khỏe. Ta bị thương cứ để ở lại đây mặc ta, cần gì phải lo cho mệt.

Dương-Qua thấy nàng hay gắt gỏng vô lý nên nghĩ bụng:

- Nếu nàng ưa gắt gỏng giận hờn, ta làm cho nàng gắt luôn cho đã nư.

Đoạn chàng nói:

- Vậy cô không định về Giang-nam nữa sao? Tôi có vất vả cũng vì cô cần đến, nếu không, tôi tội gì mang cực vào thân như thế này.

Lục-vô-Song tức quá trợn mắt thét lớn:

- Chẳng cần mi nữa đâu! Muốn đi đâu bước đi cho khuất mắt, chết sống mặt kệ thân ta.

Dương-Qua không muốn chọc thêm, sợ nàng quá tử liền có hại nên chỉ cười hề hà rồi đi thẳng lại phía bàn giấy của người chưởng quỹ bưng nghiên mực chạy lại bôi lên khắp mặt nàng.

Vì bôi bất ngờ không tránh kịp. Lục-vô-Song bị mực dính lấm lem nổi giận hét lớn:

- Thằng quỷ, sao mi bôi lọ vậy?

Dương-Qua làm thinh không đáp, điềm nhiên thấm mực bôi luôn vào mặt mình nữa.

Lúc ấy Lục-vô-Song mới chợt hiểu: Té ra hai người ăn mặc áo quần đạo sĩ chỉ có thể che mắt người ngoài, chứ đối với Lý-mạc-Thu, thứ bản mặt mày gạt hắn sao được. Vì vậy nên Dương-Qua cầm lấy mực thoa đen cho khác đi, may ra tránh thoát được.

Cải trang xong xuôi, Dương-Qua lại bên lò sưởi đưa tay giải huyệt. Hai đạo sĩ lồm cồm ngồi dậy ngó quanh rồi tìm ngỏ cút mất.

Lục-vô-Song thấy nghệ thuật giải huyệt của chàng rất thán phục, nghĩ thầm:

- Tài ba của hắn thật là xuất chúng, thế mà mình cứ gọi là ngốc thật quá vô lý. Cũng lạ là hắn cũng không tỏ ý gì giận mình.

Đến nay thương tích của Lục-vô-Song đã khỏi hẳn, nên chàng cỡi riêng một con ngựa khác.

Hai người cỡi ngựa một lừa, song song đi về hướng Đông-Nam.

Ngồi trên lưng ngựa, Dương-Qua cứ phân vân thắc mắc nghĩ về hàng chữ trên bức thư, chẳng biết kẻ viết cho mình hai bận là ai?

Lục-vô-Song thấy chàng tư lự chẳng nói năng gì nên hỏi:

- Sao có vẻ buồn rầu như vậy Ngốc?

Dương-Qua đột nhiên vỗ đùi hoảng hốt nói:

- Nguy quá, ta hồ đồ quá, có lẽ hỏng mất!

Lục-vô-Song hỏi:

- Chuyện gì mà nguy hiểm, hồ đồ?

Dương-Qua đáp:

- Ba tên đạo sĩ đã thấy bọn ta cải trang rồi. Nếu chúng đem mặt lại cùng Lý-mạc-Thu thì nguy mất.

Lục-vô-Song đáp:

- Tưởng gì chứ vụ ấy đâu đáng lo. Bọn chúng tuy trông thấy ta cải trang làm đạo sĩ nhưng đâu biết ta đi về hướng nào mà điểm chỉ. Hơn nữa đã chắc chi bọn chúng còn nhớ.

Dương-Qua cười hì hì đáp với một giọng đùa cợt:

- Sao không nhớ? Bọn chúng đã nhìn thấy một việc lạ lùng ngay trước mắt, dẫu ngàn năm cũng khó quên được.

Lục-vô-Song biết Dương-Qua nhạo mình thay áo quần để cho bọn đạo sĩ nhìn thấy nên thẹn đỏ mặt, chỉ hứ một tiếng và nguýt dài.

Ngay khi ấy con lừa của nàng nhảy lồng lên rồi dậm chân hí lớn.

Ghìm cương lại được, Lục-vô-Song nhìn thấy có mấy người ăn xin đang đứng chận mất lối đi.

Dương-Qua đưa mắt ngó sang bên kia đồi thấy thấp thoáng bóng của hai người, rõ ràng là Cơ-Thanh-Hư và Triệu-Bất-Phàm. Chàng nổi giận nghĩ bụng:

- Thật đáng ghét cho bọn đạo sĩ khốn nạn. Chúng đã đi khách với bọn hành khất. Cái Bang tìm đến phá rối mình nữa đây.

Nghĩ xong chàng nhảy xuống ngựa, đến trước mặt mấy người ăn mày, chắp tay nói:

- Các bạn đi xin khách thập phương bố thí, còn bần đạo đây cũng sống về sự giúp đỡ của đồng bào, làm gì có dư cơm dư tiền chia cho các bạn mà đi đón nhau rầy rà như vậy.

Một đứa trong bọn cất tiếng sang sảng đáp lớn:

- Bọn mi đâu phải là kẻ tu hành, đừng khoát áo cà sa mà xưng là hòa thượng, không che nổi mắt bọn ta đâu.

Muốn yên lành thì mau mau bó tay theo anh em ta đi yết kiến Bang chủ cho rồi.

Nghe nói, Dương-Qua nghĩ thầm:

- Theo Cô nương và Tôn bà ngày còn sanh tiền kể lại, thì Bang Khất-cái có một vị Bang chủ là Cửu-chỉ Thần-cái Hông-thất-Công, võ nghệ có một không hai, trên đời không ai sánh kịp. Bọn này tuy chẳng ra gì, nhưng nếu Bang-chủ của họ là Hồng-thất-Công có mặt nơi đây thì làm sao trốn thoát nổi.

Nhìn kỹ hai người ăn mày mang tám túi, thuộc cấp bực cao hơn và bản lãnh cũng trội hơn những bọn đã gặp trước. Hai người này thấy Dương-Qua còn trẻ tuổi nhưng đã có tài cao đánh bị được cả mấy người hạng bảy túi nên có kiêng nể chưa dám ra tay vội.

Hai bên đứng đối diện nhìn nhau chờ dịp ra tay thì từ phía Bắc lại văng vẳng vang lên tiếng nhạc "loan linh" của Lý-mạc-Thu sắp tới nơi.

Lục-vô-Song lo sợ quá nghĩ rằng:

- Tuy ta đã cải trang nhưng bỗng dưng bị bọn ăn mày chận lại thì làm sao dấu nổi được sư phụ, nguyên do cũng vì ta quá nông nổi gây thương tích cho một tên, đến nay bọn chúng cứ bám theo báo đời hoài, bây giờ nghĩ ăn năn cũng đã muộn.

Nhạc "loan linh" mỗi lúc càng đến gần.

Dương-Qua nghĩ:

- Nếu chờ Lý-mạc-Thu đến đây mới trở tay sẽ không kịp nữa. Chi bằng ta tìm cách tẩu thoát ngay từ bây giờ may ra được.

Tuy e ngại lo lắng, nhưng ngoài mặt vẫn làm tỉnh như chẳng có việc gì bận trí, hai chân lướt tới miệng hỏi:

- Sao, bây giờ chư vị có bằng lòng nhường đường cho đạo hay vẫn quyết tâm cản trở.

Nhìn lối bước của Dương-Qua xông tới quá nhanh nhẹn lẹ hai người thừa rõ đây là một tay có bản lãnh phi phàm, tuy nhiên họ vẫn gan lỳ đứng yên, đưa tay ngăn lại.

Dương-Qua đưa tay gạt ngang qua thật mạnh. Cả ba cánh tay bám chặt vào nhau như ba con rắn quấn nhau. Nhưng chỉ trong nháy mắt, Dương-Qua đã đẩy hai người lùi qua một bên trên mấy bước.

Hai người này vốn thuộc hạng 8 túi, công phu luyện tập trên vài chục năm, ai cũng có dõng lực ghê gớm, và trên giang hồ không dễ gì có người chống cự nổi với họ.

Mặc dầu công phu họ có phần lớn hơn nhưng về căn bản võ thuật Dương-Qua học được nhiều. Hồng-thất-Công, Bang chủ khất cái, tuy võ nghệ quán quân, tài năng tuyệt diệu, nhưng tánh ông ta ưa ăn uống nhậu nhẹt nên ít thì giờ truyền dạy lại cho học trò. Đệ tử đắc ý nhất đã được Hồng-thất-Công chân truyền vũ thuật là Đại hiệp Quách-Tỉnh.

Sau khi đẩy lui được hai người, Dương-Qua muốn thừa cơ thoát chạy nhưng cả hai vẫn cố tình bám riết không rời.

Thế rồi sáu mắt nhìn nhau lườm lườm như ba mãnh hổ giành mồi chỉ chờ dịp là tấn công nữa.

Vừa lúc ấy Lý-mạc-Thu và Hồng-lăng-Ba đi đến nơi, dừng chân lại xem.

Hồng-lăng-Ba cất tiếng hỏi thăm:

- Này các người, ở đây có thấy một người con gái thọt một chân đi tập tễnh qua đường này không?

Hai người ăn mày đang lo đánh nhau với Dương-Qua thấy có kẻ lạ mặt xen vào làm rộn, thì trong bụng đã ghét rồi, tuy nhiên họ vẫn cố nén bụng làm thinh, vì theo luật của cái Bang không cho phép được vô cớ để gây chuyện cùng kẻ khác.

Họ chẳng đáp chỉ lắc đầu ra dấu không thấy.

Lý-mạc-Thu nhìn dáng điệu của Dương-Qua và Lục-vô-Song thấy có nhiều nét quen quen hình như đã gặp đâu đôi lần rồi nhưng nghĩ không ra.

Định bước ra đi, nhưng thấy ba người đứng ngó gờm nhau giữ miếng để tranh tài hơn thua, Lý-mạc-Thu nghĩ bụng:

- Hay là ta nán lại xem bọn chúng đánh nhau một chặp thử tài hai tên ăn mày tám túi ra sao, và hai cậu đạo sĩ trẻ tuổi này thuộc môn phái nào cho biết.

Thấy Lý-mạc-Thu đứng lại xem đấu, Dương-Qua nghĩ bụng:

- Hắn cố tìm hiểu gốc gác sư muội mình đây. Ta phải làm lạc hướng hắn mới được.

Thế rồi chàng chạy thẳng lại phía Hồng-lăng-Ba lễ phép cúi đầu chào và nói:

- Xin kính chào đạo hữu.

Hồng-lăng-Ba tuy ngạc nhiên nhưng cũng phải chắp tay đáp lễ cho đúng phép xã giao.

Dương-Qua lễ phép nói:

- Bần đạo tình cờ đi qua chốn này, bỗng nhiên gặp hai người ăn mày đón đàng sinh sự. Chỉ vì bần đạo không màng theo khí giới tùy thân nên mong đạo hữu bẩm lại cùng bề trên cho bần đạo tạm mượn thanh kiếm dùng đỡ để thử tài cùng bọn ấy.

Hồng-lăng-Ba thấy người đạo sĩ trẻ tuổi tuy mặt mày đen đúa xấu xa nhưng nói năng có lễ độ chẳng lẽ chối từ. Hơn nữa trong phép xã giao trên võ lâm, khi người ta nhớ đến mình phải tận tình giúp đỡ.

Nàng rút kiếm khỏi vỏ đưa mắt nhìn sư phụ để thỉnh ý.

Thấy Lý-mạc-Thu gật đầu đồng ý. Hồng-lăng-Ba trao thanh kiếm cho Dương-Qua.

Dương-Qua nhận kiếm cúi đầu bái lễ tạ ơn và thưa nhỏ:

- Nếu rủi vì tài hèn sức mọn không cự nổi với bọn chúng, xin đạo hữu nghĩ tình cùng đạo phái vui lòng giúp đỡ một tay thật là vạn hạnh.

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 25 : Dương-Qua làm Hoa Bang khất cái

Hồng-lăng-Ba đưa mắt nhìn chàng, tằng hắng một tiếng rồi nín thinh không đáp.

Dương-Qua quay lại Lục-vô-Song bảo:

- Khỏi cần sư đệ giúp sức, để một mình ta tranh tài cùng bọn này để làm rạng rỡ danh dự cho phái Toàn-Chân một phen. Vậy Sư-đệ cứ đứng ngoài lược trận và làm trọng tài luôn thể nhé.

Lý-mạc-Thu thấy vậy lẩm bẩm:

- ủa, té ra hai đạo sĩ trẻ tuổi này là môn đệ của Trùng-dương-Cung. Xưa nay bang Khất Cái và phái Toàn-Chân giao tình rất hậu, chẳng hiểu vì sao bọn đệ tử lại trở mặt gây sự cùng nhau đến nỗi xung đột đánh chém quyết liệt như thế này.

Dương-Qua thấy nếu để chần chờ e hai người ăn xin nói ra làm tiết lộ hình tích của Lục-vô-Song nên vội vung kiếm tấn công ngay.

Chàng xông tới, miệng réo, tay múa:

- Này hai bạn, một mình ta chấp cả hai, hãy liệu hồn mà chống cự đấy nhé.

Lục-vô-Song thấy Dương-Qua bày vẽ nhiều chuyện cũng phát bực, rủa thầm trong bụng:

- Thật thằng ngốc này khéo ba hoa, tự nhiên nhận mình là đồ đệ của phái Toàn-Chân. Sư phụ ta đâu có lạ gì kiếm pháp quyền thuật của Toàn-Chân phái mà hòng nói khoát. So qua vài thế cũng đủ cho bà nhận xét và phác giác ra chân tướng của nàng cho mà xem.

Nguyên dưới thời Nam Tống lúc bấy giờ có rất nhiều đảng phái, nhưng các giáo phái có tiếng tăm cũng không có được bao nhiêu Phái Toàn Chân là một trong chín phái quan trọng, tiếng tăm đang lừng lẫy đương thời. Nhưng nếu kể về số đông và phạm vi hoạt động thì Bang-Khất-Cái do Trương-Thiên-Sư chỉ đạo lớn hơn nhiều. Trụ sở chính của "Chính Khất-Cái" đóng tại núi Long Hổ thuộc tỉnh Giang Tây.

Giữa Toàn Chân phái và Khất-Chính-Cái có nhiều giao tình liên hệ rất mật thiết, môn đệ đôi bên rất nể nhau.

Vì vậy nên khi vừa nghe Dương-Qua tự xưng môn đệ Toàn-Chân phái, cả hai người hành khất thảy giựt mình, trong bụng đã nao núng, vội hỏi lớn:

- Mi thuộc Toàn Chân phái, nhưng ở trong Chi-Bộ nào.

Dương-Qua e rằng nếu để nói giằng dai sợ làm lộ tẩy Lục-vô-Song nên chẳng đáp nữa, dùng một ngón độc vung trường kiếm chém ngang một nhát rồi đổi thế khác đâm xóc vào bụng hai người.

Thấy đòn xuất thủ của đối phương rõ ràng là phương thức chân truyền của Trùng-Dương kiếm pháp, cả hai nghĩ thầm:

- Hai đứa mình dẫu sao cũng là hai nhân vật cao cấp của hạng tám túi, lẽ nào hùa nhau đi hiếp đáp một đạo sĩ còn non nớt theo loại đàn em hay sao?

Đang lúc phân vân tìm cách đối phó cho đứng đắn, bỗng Dương-Qua vũ động thanh kiếm, dùng toàn những thế ác liệt chém đâm tới tấp, hai người không thể nào đứng yên phải lật đật tung thiết bổng ra chống đỡ.

Nhìn bề ngoài, hai cây Thiết bổng có vẻ nhẹ nhàng nhưng thật ra rất nặng vì cây nào cũng đúc toàn bằng thép lọc vô cùng cứng rắn, trui luyện năm bảy lần.

Thế là hai cây thiết bỗng lộng lên như đôi thần long vờn sóng, thanh trường kiếm tung hoành như một đám bạch quang, soắn chặt lấy nhau, phát gió vùn vụt, rít lên nghe nhức óc, dùng toàn những thế tuyệt diệu phi thường, khiến cho những kẻ đứng xem phải bồi hồi thán phục.

Đánh một hồi lâu, hai thiết bảng dần dần yếu thế, bị lưỡi trường kiếm áp đảo rõ rệt. Hai người ăn mày vừa đánh vừa thối lui ra sau.

Dương-Qua hứng chí, dùng tư thế "liên thinh nhị cửu nhứt bái" tấn công ráo riết. Cứ một đường kiếm vừa tung ra đã biến thành hai thế, và chín đường biến thành mười tám thế, liên miên trường tận, kỳ ảo vô cùng. Đấy là một kiếm pháp tuyệt kỳ của Toàn-Chân phái được mệnh danh là "Nhất khí hóa tam thanh".

Với thế võ này, một người có thể ứng phó dễ dàng cùng ba đối thủ. Vì vậy nên hai người ăn xin không thể nào đương cự nổi, càng lúc càng lúng túng và sụt lùi ra rất xa, muốn tìm cách tẩu thoát.

Lý-mạc-Thu theo dõi trận đấu, thấy Dương-Qua xuất thủ rất tinh điệu, kiếm pháp biến ảo vô cùng phải chột dạ và nghĩ bụng:

- Toàn-Chân kiếm pháp quả danh bất hư truyền. Ngay một đạo sĩ còn nhỏ tuổi, thời gian tập luyện chưa bao nhiêu mà đã có một bản lĩnh ghê gớm như thế này thì sau đây được truyền thụ đúng mức hắn sẽ tiến bộ đến đâu nữa. Trong vòng năm mười năm nữa, tài này thế nào cũng giữ tay chương giáo Toàn-Chân và chừng ấy ta đây cũng chưa xứng là đối thủ của hắn.

Hồng-lăng-Ba và Lục-vô-Song cứ đứng ngẩn người mà nhìn theo không biết nói lời gì nữa. Dương-Qua vừa đánh vừa nghĩ thầm:

- Nếu ta để cho hai thằng này rảnh tay, chúng sẽ nói chuyện rồi vô tình phát giác chuyện bí mật cho Lý-mạc-Thu biết được thì nguy lắm. Âu là ta phải tấn công cho thật gắt để chúng không hở tay thốt được lời gì.

Chàng tung vút người ra phía sau hai đối thủ, vẹt phăng đôi thiết bảng, nhắm lưng đập tới.

Hai người thất kinh vội vàng ngồi sụp xuống tránh né. Nhưng Dương-Qua đã nhảy qua một bên tấn công liền. Chàng dùng khinh công nhảy nhót bốn phía như bươm bướm, đâm tả chém hữu, khi thiệt khi hư, khiến hai người hoa cả mắt hết thấy đường chống đỡ, mệt thở muốn hụt hơi.

Đây là lối khinh công đặc biệt luyện theo lối "Hỏa hầu" trong thế trận "Thiên cang Bắc đẩu" của Toàn-Chân phái.

Lối đánh đỡ, tấn công các mặt, dùng theo kiếm pháp Toàn-Chân, nhưng về lối thở hút, vận công thì Dương-Qua lại áp dụng theo "Ngọc-nữ tâm-kinh" của phái Cổ Mộ.

Với lối nội công và khinh công ảo điệu của Cổ Mộ phái thân pháp của Dương-Qua biến chuyển không cùng cho nên hai đối thủ càng lúc càng cảm thấy bất lực, chỉ lăm le tìm dịp để thoát thân.

Nhưng khốn nỗi làn kiếm quang của Dương-Qua loang loáng bám sát không chỗ nào hở, hai cây thiết bảng hình như bị một sức mạnh vô hình hút lấy, muốn thu lại để chạy cũng không được nữa. Cả hai thì thầm, phen này cũng đành liều với định mạng.

Một chập sau hai người ăn mày cảm thấy mắt hoa đầu váng, trời đất quay cuồng, đứng không vững nữa.

Lý-mạc-Thu thấy vậy động lòng mách nước hộ:

- Tại sao hai ngươi không đâu lưng nhau để chống cự.

Nghe nói, hai người sực nhớ lại, vội vàng xây lưng cùng nhau mà cầm cự.

Dương-Qua nghĩ:

- Con ác phụ cũng giỏi mách nước đấy. Bây giờ ta không nhảy lung tung nữa, xem bọn bay đối phó cách nào.

Nghĩ xong chàng đứng im một chỗ vung kiếm chém liên hồi.

Hai người ăn mày lâm ngay vào thế bị động, không thể nào chống cự nổi nữa bèn quay mình trốn chạy.

Dương-Qua khẽ nhún chân một cái đã đứng sát ngay bên lưng họ, cả hai cảm thấy một lần lãnh khí phía sau lưng, hình như cả thanh kiếm thép nằm ngang trên da thịt mình, hoảng hốt cuống cuồng. Nhưng Dương-Qua chỉ đuổi theo cho họ sợ chứ không dụng tâm sát hại. Chàng chỉ dùng lưỡi kiếm áp trên vai và lưng mỗi người mà thôi chứ không chém.

Biết đối phương không muốn giết mình nên hai người ăn mày mừng rỡ và yên trí dùng khinh công lao vút về phía xa, không bao lâu đã cách Lý-mạc-Thu hơn hai dặm.

Dương-Qua phi thân bay theo chận lại cười cười nói:

- Thôi đừng chạy nữa, mình là bạn với nhau cả mà.

Hai người vung thiết bảng đánh nữa. Nhưng Dương-Qua đã dùng kiếm gạt rồi đưa tay trái giật một cây ném ra phía sau. Còn cây thứ hai vừa bổ tới đã bị chàng quất mạnh một kiếm sút tay rơi xa mấy trượng. Bị mất hết vũ khí, cả hai thất kinh đành đứng lặng yên nhìn nàng.

Dương-Qua cười hề hà kiếm lời an ủi:

- Sư môn của bần đạo cùng quý Bang đã có tình giao hảo từ trước đến nay, không thể nào chỉ vì một sự nông nổi hiểu lầm nhau mà đi làm sứt mẻ hòa khí của đôi bên. Ngay giờ phút này kẻ thù nguy hiểm của quý Bang là Lý-mạc-Thu, một con ác phụ của phái Cổ Mộ đang đứng trước mặt đó, sao chúng ta không hợp nhau để trừ khử có hơn không?

Hai người tuy có nghe danh Xích-Luyện-Tiên-Tử Lý-mạc-Thu nhưng chưa rõ mặt mày ra sao, nay nghe Dương-Qua mách cũng hỏi lại:

- Có thật là hắn không? Đạo huynh đừng dối chúng tôi nhé.

Dương-Qua đáp:

- Bần Đạo đâu dấu liệt vị. Chính Bần Đạo cũng đang bị hắn bức bách không biết lối nào thoát được, phải dùng kế ra đây để cùng liệt vị bàn tính cách đối phó.

Chàng chạy lại nhặt hai cây thiết bảng, hai tay trao cho mỗi người có vẻ thân mật và kính cẩn lắm rồi nói thêm:

- Xích-Luyện-Tiên-Tử có một bảo bối vô cùng ác liệt mà khi nào hắn cũng mang theo bên mình, quý vị có biết là thứ gì không?

Một người suy nghĩ một tý và đáp:

- Theo tôi đoán có lẽ là cây "phất trần" của hắn, xâu nhạc "loan linh" trên cổ lừa, và chiếc áo "hoàng sam" có phải chăng?

Dương-Qua cười dài và nói:

- Không phải đâu! Ba món ấy đâu có gì là lợi hại, mà món bảo bối nguy hiểm nhất của hắn là lưỡi phi dao mỏng, hình cánh cung mà đệ tử của hắn dùng để phóng vào lưng một người trong quý Bang đó.

Hai người nghe nói cùng "à" một tiếng, suy nghĩ thêm một chập rồi đồng nói:

- Phải rồi, lưỡi phi đao ấy quả là lợi hại. Bây giờ chúng ta có những ba người, nên thừa dịp là lại tấn công hắn cho rồi, có gì đâu mà sợ.

Người kia cũng phụ họa theo. Nhưng Dương-Qua khoát tay nói:

- Phải bình tĩnh mà trù liệu không nên hấp tấp nông nổi mà hư việc.

Người ăn mày cãi lại:

- Tại sao lại hư việc được?

Dương-Qua nghiêm giọng từ từ nói:

- Xích-Luyện-Tiên-tử là tay lợi hại, đã lừng danh xưa nay, trên giang hồ ai cũng chạy mặt. Liệt vị tuy có bản lãnh, nhưng chưa hẳn là đối thủ của nó. Ngay như người bạn của liệt vị cũng vì ỷ tài mà bị đệ tử của hắn phóng đao gây trọng thương đấy. Cần phải cẩn thận đề phòng cho lắm mới được.

Bị Dương-Qua nói khích, người ăn mày nóng tính nổi giận vung cây thiết bảng, trợn mắt đỏ mặt hét:

- Dầu nó là Xích-Luyện-Tiên-Tử hay thứ chi chi đi nữa ta cũng quyết thử một trận cho biết sức.

Nói rồi quay mình toan bước đi.

Người kia có vẻ thận trọng hơn nghĩ bụng:

- Chỉ có một đạo sĩ trẻ tuổi này mà cả hai đứa còn cự địch không xuể huống chi là Xích-Luyện-Tiên-tử Lý-mạc-Thu! Nóng nảy hấp tấp chi gây nên tai họa cho mình mà thôi.

Việc này cần phải bàn tính thật chu đáo mới được. Nghĩ ngợi xong, người ấy kéo áo bạn lại nói:

- Không nên hấp tấp, phải tính toán kỹ đã.

Nói rồi hắn chấp tay lễ phép hướng về phía Dương-Qua nói:

- Xin đạo hữu cho biết phương danh quý tánh.

Dương-Qua đáp:

- Bần đạo họ Tát tên Hoa-Tư.

Chàng đáp rồi chắp tay bái hai người nói tiếp:

- Giờ đây xin tạm biệt, hẹn gặp nhau vào một dịp sau.

Dương-Qua vừa đi khuất dạng thì người ăn xin cúi đầu, lẩm bẩm mãi cái tên Tát-Hoa-Tư và nghĩ thầm:

- ồ, con người có cái tên xa lạ quá, nhưng bản lãnh quả thật cao cường, tài không đợi tuổi!

Hắn cố moi trong ký ức tìm xem cố nhớ lại cái tên này nhưng vẫn hoàn toàn xa lạ.

Đang lẩm bẩm một mình bỗng có người vỗ mạnh trên vai nói lớn:

- Sao mà ngây thơ vậy. Chuyện gì cứ lẩm nhẩm như người đọc kinh thế?

Người ăn mày thấy bạn phá rối câu chuyện mình đang suy nghĩ phát cáu, nhăn mặt nói:

- Cứ phá người ta hoài. Tại sao lại gọi là ngây thơ được?

Người nọ đáp:

- Chẳng phải ngây thơ sao? Kẻ tử thù đang đứng trước mặt không lo giải quyết cho rồi, để đi lẩm nhẩm một cái tên không hề quen biết. Chả ngây thơ sao?

Tuy cãi vã nhau hăng lắm nhưng rốt cuộc chẳng người nào dám đả động đến Lý-mạc-Thu.

Dương-Qua bỏ đi, nghĩ buồn cười cho hai chàng ăn mày bất tài mà nói dốc, miệng lớn lối mà nhát gan hơn thỏ. Nhớ đến Lục-vô-Song chàng bỗng lo lắng cho nàng, không biết có xảy ra điều gì bất trắc hay không.

Khi về đến nơi thấy nàng vẫn bình yên ngồi trên mình ngựa mắt hướng về phía mình có vẻ trông đợi lung lắm.

Vừa gặp nhau, Lục-vô-Song vội giục lừa chạy lại gần. Thấy chàng lộ sắc mặt vui vẻ, nàng cũng mừng vội hỏi:

- Làm gì lâu quá, để ta chờ thật sốt ruột. Sao, êm thấm tốt đẹp cả đấy chứ?

Dương-Qua mỉm cười gật đầu rồi cầm thanh trường kiếm đi lại phía Hồng-Lăng-Ba lễ phép nói:

- Đa tạ đạo hữu đã có lòng tốt cho mượn gươm để đánh bại kẻ thù.

Hồng-Lăng-Ba đưa tay tiếp nhận thanh gươm tra vào vỏ.

Thấy Dương-Qua sắp quay lưng trở lại, Lý-mạc-Thu cất tiếng nói:

- Khoan đã. Hãy chờ ta nói tý việc cần.

Lý-mạc-Thu thấy Dương-Qua bản lãnh cao cường, ngại về sau trở thành một cao thủ võ lâm, nàng không thể nào địch nổi. Chi bằng nhân lúc tài nghệ hắn chưa phát triển đúng mức, ra tay trừ phứt cho rồi để khỏi hậu họa.

Nghe hai chữ "khoan đã" Dương-Qua đoán biết cuộc sóng gió sắp xảy ra trên đầu mình, nhưng vẫn bình tĩnh đứng dừng lại, cách xa Hồng-Lăng-Ba chừng mấy thước.

Thấy chàng cố ý đứng xa mình hơn, Hồng-Lăng-Ba cười lớn nói:

- Đạo hữu bản lãnh cao kỳ mà óc nhận xét cũng tinh tường lắm.

Lý-mạc-Thu muốn thừa thế đánh cho Dương-Qua một phất trần rồi mạng, nhưng nghĩ lại mình như thế này mà đi đánh bất ngờ một đứa trẻ trong tay không binh khí thì quả là hèn hạ, nên cất phất trần vào lưng rồi hỏi:

- Trong Toàn-Chân phái, ai là sư phụ của ngươi?

Dương-Qua vừa cười vừa đáp ngay, không một chút ngập ngừng hay do dự:

- Thưa, tôi là đệ tử của Vương-Trùng-Dương chân nhân.

Dương-Qua thừa rõ Lý-mạc-Thu không thân mật mà cũng chẳng nể vì một nhân vật nào trong Toàn-Chân phái. Ngay như Khưu-xứ-Cơ đạo trưởng, có võ nghệ tuyệt luân đạo hạnh hơn người, mà nàng cũng chẳng xem ra gì huống hồ chi Xích-đại-Thông, hay Triệu-chí-Kính!

Vì nhờ Vương-trùng-Dương có nhiều liên hệ với phái Cổ-mộ và hơn nữa chính người là kẻ đã lưu truyền "Cửu âm chơn kinh" cho mình nên Dương-Qua mới nhận ẩu như vậy cho qua chuyện.

Lý-mạc-Thu nghĩ bụng:

- Thằng này tuổi chưa bao lăm, nếu xét theo lứa ấy chỉ đáng là đệ tử của bọn Doãn-chí-Bình hay Triệu-Chí-Kính, chẳng hiểu vì sao mà võ thuật quá ư tinh điệu? Cứ xem lối đánh đỡ của nó thì quả thật là từ Toàn-Chân phái xuất thân rồi.

Thấy Lý-mạc-Thu đăm chiêu suy nghĩ, Dương-Qua bỗng sực nhớ lại ngày nào mình đã cải trang chọc ghẹo Hồng-lăng-Ba, mấy phen đấu cùng Lý-mạc-Thu nữa. Nếu đứng nói chuyện lâu e bọn chúng nhận diện ra được thì phiền lắm, chi bằng kiếm cách chuồn đi cho rảnh nợ.

Nghĩ xong chàng cúi đầu bái tạ rồi nhảy lên lưng ngựa toan đi.

Nhưng Lý-mạc-Thu đã lẹ làng chuyển mình chận ngay trước mặt bảo:

- Khoan đi, ta có việc cần hỏi thêm.

Dương-Qua ngó lên nói:

- Phải cô muốn hỏi thêm tôi có gặp cô gái thọt chân, mang sách chạy về phía nào đấy chứ gì?

Lý-mạc-Thu ngạc nhiên quá, gật đầu đáp:

- Quả đúng thế. Tại sao mi đoán giỏi như vậy. Thật đáng khen. Vậy mi có thể cho biết hắn mang sách đi đâu rồi không?

Dương-Qua thong thả kể chuyện:

- Cách đây không lâu, hai anh em tôi ngồi nghỉ chân bên đường có trông thấy một cô bé chân đi khập khễnh cùng đánh nhau kịch liệt với ba tên ăn mày. Nàng đã dùng "ngân hồ phi đao" phóng trúng lưng một người. Nhưng sau đó thất bại nàng đã bị mấy tên bắt được đem đi mất rồi.

Lý-mạc-Thu vốn là người hiểm độc và bình tĩnh. Đối với nàng dầu việc gì quan trọng đến long trời lở đất vẫn cứ giữ vẻ điềm nhiên không hề cảm động. Nhưng lần này khi được biết tin Lục-vô-Song bị bọn ăn mày bắt được, cuốn "ngũ độc bí truyền" lọt vào tay Cái Bang thì nàng thấy bàng hoàng cả người, nỗi ưu tư lộ ra trên nét mặt.

Thấy mặt nàng đã tái, Dương-Qua biết câu chuyện của mình đã làm cho nàng tư tưởng xao động nên kể thêm

- Hai người có lục soát trong người nàng thấy một cuốn sách nàng nhất định giành lại, nhưng sức yếu không làm gì được. Sau đó tên cao lớn hơn chiếm sách mang đi.

Lục-vô-Song nghe chàng kể lể ngon lành như chuyện thật cũng ngắn cho tài nói láo của chú Ngốc này. Nàng nghĩ:

- Hắn quả con người có lợi khẩu hèn chi lúc đầu hắn muốn lừa gì mình cũng lầm hết!

Liếc thấy vẻ mặt Lục-vô-Song lộ vẻ ưu tư, Dương-Qua tìm cách trêu chơi:

- Này sư đệ, nghĩ cũng đáng giận nhỉ! Mình vô tình mà chứng kiến việc này, còn cô nương đây quyết tâm tìm kiếm mà tìm chẳng ra, để đến nỗi phải lê gót đi khắp bốn phương, tốn biết bao nhiêu công của mà chẳng ích gì cả.

Lục-vô-Song sợ quá chẳng dám nói gì, chỉ gắng gượng "vâng" nhỏ một tiếng rồi cúi mặt xuống ngay.

Vừa lúc đó từ phía sau núi có tiếng ngựa hí quân reo vang dậy, một đoàn quân rất đông đang rầm rập tiến về phía này, cờ xí rợp trời, cát tung đầy đất.

Đó là một đoàn quân Mông Cổ do một viên quan điều khiển đang đi về vùng này thị sát. Lúc này quân Kim không còn nữa mà quân Mông Cổ đã thay thế để cai trị toàn cõi đất Bắc.

Lý-mạc-Thu mãi lo theo dõi câu chuyện của Lục-vô-Song và cuốn sách, nào thèm quan tâm đến đám quân này. Nàng đứng tránh qua một bên nhường đường cho đoàn người ngựa kéo đi.

Đoàn kỵ binh phi như gió, cát bụi mịt mù. Bao nhiêu quân binh ủng hộ một viên quan văn nhưng cỡi ngựa cũng tài tình lắm.

Đoàn kỵ binh qua khỏi, áo quần nàng bị bụi đóng một lớp rất dày, Lý-mạc-Thu bèn dùng cây phất trần phủi bụi trên mình.

Lục-vô-Song lấm lét đứng nhìn. Cứ mỗi lần thấy chiếc phất trần giơ lên là nàng tái mặt và tưởng tượng hình như nó sắp bổ vào đầu mình.

Phủi sạch bụi xong, Lý-mạc-Thu hỏi:

- Rồi sao nữa kể thêm đi?

Dương-Qua đưa tay chỉ về phía Bắc, miệng nói tiếp:

- Mấy người ấy bắt nàng đem đi theo hướng này. Theo họ bàn tán định dẫn về Đồng Quan thì phải.

Nghe xong Lý-mạc-Thu gật đầu có vẻ bằng lòng và tươi cười nói:

- Cám ơn chú lắm. Chính ta là Lý-mạc-Thu, sư phụ của cô gái ấy đây. Thiên hạ thường gọi ta là Xích-Luyện Tiên-Tử hoặc Xích-Luyện Mã-đầu. Chú em có nghe danh hiệu ấy bao giờ chưa?

Dương-Qua giả bộ suy nghĩ một chặp rồi lắc đầu nói:

- Dạ chưa hề nghe bao giờ. Nhưng có một điều tôi không phục là vì như tôi thấy Cô-nương đẹp lắm.

Danh từ-tiên-tử dùng để gọi cô thì thật là xứng đáng. Nếu dùng tiếng mã-đầu quả không đúng một tý nào hết.

Xưa nay Lý-mạc-Thu vẫn chú trọng việc giữ gìn thân thể và sắc đẹp, vì vậy cho nên tuy tuổi đã quá năm mươi, nhưng da dẻ nàng vẫn hồng hào, thân hình đầy đặn, nét mặt xinh tươi đẹp đẽ không kém một phụ nữ ba mươi. Chính Lý-mạc-Thu cũng tự hào nhan sắc của mình đã giúp mình trẻ gần một nửa số tuổi đã có.

Nay được Dương-Qua tán dương mình đẹp thật chẳng khác nào đã gãi nhắm chỗ ngứa, cho nên nàng khoái chí lắm và có cảm tình cùng chàng ngay.

Nàng vui vẻ hân hoan vô cùng, tay cầm chiếc phất trần phẩy nhẹ một cái và hỏi Dương-Qua.

- Chú em xưng mình là đệ tử Vương-trùng-Dương chân nhân lẽ ra ta cho nếm một cây phất trần để bỏ bớt tánh nói dóc, nhưng ta cũng thương tình tha cho một bận. Tuy nhiên ta muốn dùng phất trần để chỉ điểm cho chú vài ngón, có bằng lòng không?

Dương-Qua lắc đầu lia lịa đáp:

- ồ, không nên đâu. Bình sinh bần đạo không bao giờ muốn tranh chấp với bọn hậu bối như cô.

Lý-mạc-Thu nổi giận nói:

- Thằng này hết muốn sống sao mà dám gọi ta là hậu bối?

Dương-Qua đáp:

- Sư phụ tôi là Vương-Trùng-Dương chân nhân, cùng vai vế với Sư-Tổ của cô là Lâm-Triều-Anh, như vậy so với tôi, cô há chẳng phải là kẻ hậu bối hay sao?

Lý-mạc-Thu căm giận cành hông nhưng cố giữ vẻ điềm tĩnh bảo Hồng-Lăng-Ba:

- Mi cho hắn mượn lại thanh kiếm.

Dương-Qua vội gạt đi:

- Khỏi cần, khỏi cần mượn!

Nhưng Hồng-Lăng-Ba đã rút gươm ra. Thình lình nghe rắc một tiếng khô khan, lưỡi gươm đã gãy lìa làm đôi nằm nguyên trong vỏ, chỉ còn một cái cán không trên tay mà thôi.

Hồng-lăng-Ba ngạc nhiên quá nhưng cũng đoán được là Dương-Qua chơi nghịch bấm trước vào lưỡi gươm khiến cho khi rút mạnh bị gãy hai làm nàng không có vũ khí để sử dụng nữa.

Thấy Lý-mạc-Thu giận tái cả mặt, Dương-Qua nhanh nhảu nói:

- Này, thật tâm bần đạo không bao giờ muốn hạ thể đi đánh nhau với bọn hậu bối. Nhưng thấy hai thầy trò người thiết tha van nài, bần đạo đồng ý chỉ dùng tay không cho người đánh thử ba phất trần.

Nếu sau ba ngón đó mà không làm gì bần đạo được thì phải rút lui đi cho rảnh mắt. Hễ đánh thêm một cái thứ tư nữa thì bần đạo không thể tha thứ được đâu nhé.

Dương-Qua muốn dùng đòn tâm lý, lấy lời lẽ đạo mạo nói chuyện để cho nàng nể nang mà rút lui đi chăng. Không ngờ Lý-mạc-Thu tự tin nơi tài nghệ mình và cho rằng chỉ một vài cái phất trần cũng đủ hạn hắn rồi, đâu cần phải ra tay đến lần thứ ba nữa.

Nghĩ vậy nên nàng nói lớn:

- Hay lắm, nếu tiền bối đã muốn như vậy, hậu bối xin ra tay trình bày tài mọn.

Dương-Qua nói:

- ừ, cứ tự nhiên, không sao.

Thế là một luồng sáng bạc vung lên, không biết bao nhiêu là phất trần loang loáng đập vào mình chàng như bươm bướm.

Lý-mạc-Thu đã dùng ngay thuật "Võ khổng bất nhập", một tuyệt ký lợi hại nhất trong lối đánh phất trần. Cứ một ngón đánh ra, liền thành muôn ngàn ngón khác, bao phủ khắp người địch thủ, không biết đâu mà chống đỡ nữa. Ngoài ra, nàng còn nhắm điểm luôn cả ba mươi sáu yếu huyệt của Dương-Qua.

Thì ra trong lúc đứng ngoài xem chàng đánh nhau với hai tên ăn mày tám túi, Lý-mạc-Thu đã ngán cái bản lãnh cao cường của Dương-Qua rồi, không dám coi thường chàng nữa. Khi ra tay nàng đã dùng thế võ hiểm ác nhất để hạ sát ngay cho rồi.

Dương-Qua tiền khai khinh công tránh né nhưng lanh lẹ mấy cũng không kịp nữa. Nhảy bên trái thì bị trúng bên phải, bước tới trước bị điểm sau lưng, trong nháy mắt đã bị điểm trúng nhiều yếu huyệt, thân thể tê rần, tay chân rúng động.

Chàng hoảng kinh, vội vàng lộn đầu xuống đất đưa chân lên trời theo phương pháp "trồng chuối" của dưỡng phụ Âu-dương-Phong đã truyền thụ. Hai tay chống đi lanh như tên bắn.

Nhờ lối này nên máu chảy lộn ngược, các đường huyệt đạo tự động khai phúng, thân thể trở lại bình thường như trước.

Lúc cảm thấy trong người hết tê tái vận động được tự nhiên. Dương-Qua đứng dậy như cũ.

Lý-mạc-Thu thấy Dương-Qua đã bị điểm huyệt nhưng không hề bị ảnh hưởng tý nào thì ngạc nhiên quá. Nhưng nàng nghĩ bụng:

- Mày đã giỏi, ta sẽ điểm luôn cả bảy mươi hai yếu huyệt khắp người xem mày có khỏi chết được không?

Thừa lúc nàng đang do dự, Dương-Qua bất ngờ đưa tay điểm "ủy trung" của nàng.

Lý-mạc-Thu vội vàng né tránh và nghĩ bụng:

- Theo thuật điểm huyệt "tam vô tam bất thủ" của ta vừa dùng thì địch thủ nhất định phải bị mù mắt, nghẹn họng và bủn rủn tứ chi, chẳng hiểu vì sao thằng oắt con này vẫn không bị ảnh hưởng gì hết cũng lạ.

Thật ra Lý-mạc-Thu ngạc nhiên là đúng. Vì trong đời nàng đã trải qua biết bao nhiêu lần tranh tài cùng các võ lâm cao thủ, sát hại biết bao nhiêu mạng, bách chiến bách thắng, làm chấn động quần hùng, không ngờ hôm nay thế võ hiểm ác nhất lại vô hiệu lực đối với một đạo sĩ tuổi chưa quá hai mươi.

Đang lúc Lý-mạc-Thu đang hoang mang ngơ ngẩn như vậy, Dương-Qua đã xuất thần vận dụng nội công há miệng dùn mình một cái lanh như chớp đứng thẳng người lên lao lại đớp ngay cây phất trần vào miệng, giật phắt khỏi tay nàng.

Thật là một chuyện bất ngờ hi hữu.

Nguyên thuật này vốn của Âu-dương-Phong truyền lại. Ngày xưa trong dịp luyện kiếm trên đỉnh Hoa-Sơn, Âu-dương-Phong đã áp dụng thuật này cắn đứt ngón tay của Hoàng-dược-Sư.

Hôm nay Dương-Qua cũng nhờ ngón ấy cướp được cây phất trần của Xích-Luyện-Tiên-Tử khiến cho bao nhiêu thành tích chiến thắng trước đây của nàng đã tiêu tan theo mây khói.

Thật là một điều ngoài sức tưởng tượng của mọi người! Hồng-lăng-Ba thất kinh la lên một tiếng, lúng túng chưa biết nên xử sự ra sao thì Lý-mạc-Thu vẫn giữ bình tĩnh tung Xích-luyện thần chưởng ra để cướp lại cây phất trần.

Trong lúc sắp tung thần chưởng Lý-mạc-Thu bỗng "ồ" lên một tiếng, rồi la lớn:

- Té ra là mi! Còn sư phụ của mi đâu rồi?

Trong lúc đánh nhau, mồ hôi ra nhiều làm trôi hết mực và cát bụi trên mặt của Dương-Qua, nên Lý-mạc-Thu nhìn thấy nhận diện được ngay.

Đồng thời Hồng-lăng-Ba cũng nhận ra Lục-vô-Song và la lớn:

- Sư muội đây rồi, sư phụ ơi!

Dương-Qua lanh như chớp, dùng khinh công phóc lên lừa của Lục-vô-Song ngồi ngay phía sau lưng nàng rồi vung tay phóng mấy mũi ngọc phong châm vào lừa của Hồng-lăng-Ba.

Lý-mạc-Thu giận lắm xông đến tấn công ngay.

Dương-Qua nhẹ nhàng nhảy xuống đất, dùng cây phất trần phe phẩy về phía sau gọi lớn:

- Cô hãy chạy theo tôi mau.

Miệng nói, tay giắt lừa chạy tới.

Khi lừa chạy có trớn rồi, Dương-Qua lại tung mình nhảy lên ngồi lại chỗ cũ. Lục-vô-Song giật cương, lừa tung bốn vó phi đi như bay, Dương-Qua cứ dùng phất trần hươi về phía sau, nửa để tự vệ, nửa để trêu tức.

Thuật khinh công của Lý-mạc-Thu đã đến mức cao siêu, dẫu xa cách một vài dặm đường cũng có thể đuổi kịp trong chốc lát. Hôm nay vì sự việc xảy ra quá bất ngờ khiến cho nàng rủ chí, hết tin tưởng nên chẳng muốn làm gì hơn là đuổi theo cầm chừng cốt để thu hồi được cây phất trần lại mà thôi.

Con lừa của Hồng-lăng-Ba vừa bị trúng ngọc phong châm đau quá lồng lên đạp đá lung tung rồi đến ngay trước mặt Lý-mạc-Thu cất bốn vó lên trời mồm rống lên rất quái gở.

Lý-mạc-Thu phát cáu trợn mắt nạt Hồng-lăng-Ba:

- Bây giờ mi lại làm cái trò gì lạ vậy?

Hồng-lăng-Ba thưa:

- Chẳng hiểu vì sao hắn trở chứng lồng lên la hí như thế này, đệ tử đã ghìm cương hết sức mà không được.

Nói xong nàng vội nắm cả bờm nó ghì lại. Con lừa nhảy tung lên mấy cái rồi ngã đùng trên mặt đất ném Hồng-lăng-Ba nhào theo.

Bị té bất ngờ, Hồng-lăng-Ba gọi lớn:

- Sư phụ ơi, xin chờ con với.

Lý-mạc-Thu phải dừng lại chờ. Nhờ phút rắc rối này. Dương-Qua cùng Lục-vô-Song đã chạy thoát được một đoạn khá xa.

Cứ chạy mãi một hồi lâu nữa hai người quay đầu nhìn lại chẳng thấy thầy trò Lý-mạc-Thu đuổi theo cũng hơi yên bụng.

Lục-vô-Song hỏi:

- Này cậu, ta lo quá, không biết có tẩu thoát được lần này nữa không?

Dương-Qua làm thinh nhảy xuống lừa, áp tai trên mặt đất nghe ngóng rồi đáp:

- Không nghe thấy vó ngựa đuổi theo nữa, bây giờ mình có thể đi chậm hơn, khỏi lo lắm.

Hai người cứ buông cương cho lừa đi nước kiệu đều đều.

Lúc bấy giờ Lục-vô-Song mới hỏi:

- Ngốc giỏi quá! Làm sao mà cướp được cả cây phất trần của sư phụ mình như vậy?

Dương-Qua cười hì hì đáp:

- Tôi cứ làm cho nàng sướng mê lên rồi bất ngờ cướp lấy chứ có gì khó đâu!

Lục-vô-Song ngạc nhiên hỏi nữa:

- ô, sao lại có thuật làm cho người ta sướng mê lên được. Hay quá nhỉ. Vì cậu đẹp trai chăng?

Nàng hỏi xong thấy nóng bừng cả mặt, đôi má đỏ hây hây.

Dương-Qua khoác tay đáp:

- Bí mật không nói. Thật ra tôi chỉ biết cô nàng cứ ngó sững mình hoài. ấy chết, nói nữa e có kẻ nổi ghen lên bây giờ.

Lục-vô-Song đấm vào đùi chàng nói:

- Cóc khô! Ai thèm! Bộ ngon lắm sao?

Cho lừa đi chầm chậm một chập để dưỡng sức, hai người sợ Lý-mạc-Thu đuổi theo nữa nên cho phi nhanh trở lại.

Chẳng bao lâu núi rừng đã chìm đắm trong màn sương chiếu trắng đục, ánh hồng chỉ còn le lói trên ngọn cây, chim rừng kêu nhau về tổ, bóng hoàng hôn sắp trùm lên vạn vật.

Dương-Qua nói:

- Bây giờ trời đã tối, miệng đã khô, bao tử trống trơn, cửa nhà không có, tính liệu sao đây?

Lục-vô-Song đáp:

- Cậu muốn gì cứ nói ra chứ hỏi làm gì cho lắm chuyện.

Dương-Qua nói:

- Nếu không bận tâm về chú lừa này, bọn mình tìm bụi nào kín đáo ngủ đỡ một đêm cũng xong.

Lục-vô-Song đáp:

- Chỉ có bọn mọi man rợ mới đi ngủ núi nằm rừng mà thôi.

Dương-Qua làm thinh. Hai người cứ cho lừa đi bước một trong đêm tối. Chẳng bao lâu tới một thôn trang nhỏ, ngay ở đầu thôn có buộc một đoàn ngựa rất nhiều, có hàng trăm con. Ngựa này của quân Mông Cổ vừa đi ngang vùng này ban sáng và hình như tạm nghỉ chân lại một vài hoom.

Dương-Qua bảo Lục-vô-Song:

- Cô tạm ở đây coi chừng lừa, tôi vào xóm xem xét tình hình thế nào rồi ra ngay nhé.

Nói rồi xăm xúi đi thẳng vào làng.

Nơi phía đầu làng có một tòa nhà rất lớn, tuy đóng cửa, bên trong đèn đuốc thắp sáng, chiếu ra ngoài qua các khe cửa.

Dương-Qua rón rén lại gần, nhón chân ghé mắt nhìn qua kẽ hở của cánh cửa sổ, thấy bên trong có một viên quan Mông Cổ ngồi xây lưng ra ngoài, chàng nghĩ bụng:

- Ta bắt cóc người này lợi hơn là đoạt ngựa.

Vừa khi ấy viên quan nọ đứng dậy đi đi lại lại trong phòng hình như đang suy nghĩ điều gì quan trọng.

Nhìn nét mặt thì y hãy còn trẻ lắm, tuổi độ ba mươi thôi, nhưng xem dáng điệu và lối ăn mặc, thì có vẻ một vị quan lớn lắm.

Chờ cho người ấy ngồi lại chỗ cũ xoay lưng về phía mình, Dương-Qua chuyển lực vào hai cánh tay bẻ cong mấy thanh sắt nơi cửa sổ rồi phóng người vào, đưa tay chụp lấy lưng hắn.

Vị quan này tuy nhỏ tuổi nhưng cũng có bản lãnh. Vừa nghe tiếng gió phía sau hắn đã cúi sạp mình tới trước né tránh, khiến cho Dương-Qua chụp hụt vào không khí, hắn bỗng xoay mình lại, xòe hai bàn tay như cặp vuốt chim ưng, chộp lấy Dương-Qua.

Thấy y xuất thế "thần ưng vỗ kiếm" một thế võ lợi hại, Dương-Qua vội vàng nghiêng qua một bên và trong bụng khen thầm chẳng ngờ một viên văn quan mà cũng khá thạo về võ nghệ.

Viên quan ấy bước tới chụp luôn mấy cái nữa nhưng không kết quả gì.

Nguyên lúc còn thơ ấu, viên quan này có gặp một dị nhân dạy cho thế võ "thần ưng vỗ kiếm" nên lấy làm tự hào, dùng đó làm món nghề hộ thân. Chẳng ngờ hôm nay đưa ra ngón một mà chụp hoài không trúng được đối phương nên y lộ vẽ lúng túng, đứng yên một chỗ đưa mắt nhìn người lạ mặt lộ vẻ sợ hãi.

Dương-Qua thấy y cứ loay hoay và dùng mãi chỉ có một thế võ đó nên phi thân lên trên cao, đưa tay nắm trúng bả vai viên quan, trừng mắt bảo:

- Hãy im lặng. Muốn sống quỳ xuống ngay.

Viên quan cảm thấy trên vai nặng chĩu như có một tảng đá nặng ngàn cân, buộc lòng phải quỳ xuống theo lệnh của đối phương nhưng lòng căm tức muốn ói mật.

Dương-Qua xem sắc diện y tái mét lộ vẻ căm phẫn cực độ, e rằng có thể vì quá phẫn uất lên mà chết mất, nên đưa tay điểm nhẹ một huyệt cho máu huyết lưu thông.

Viên quan cảm thấy trong người đã thư thái nhẹ nhàng, dễ chịu hơn trước nên đứng thẳng dậy, mắt nhìn trừng trừng vào Dương-Qua, nghiến nàng hỏi:

- Ngươi là ai, dám vào nơi đây hành hung như vậy?

Thấy người này nói giọng Hán rất trôi chảy, không ngượng nghịu líu lo như phần đông người Mông-Cổ khác nên cười khà khà hỏi lại:

- Còn chú mi tên chi, hiện đang giữ chức vụ gì, từ đâu lại đây?

Người ấy nổi nóng xung tới thoi nhầu vào ngực Dương-Qua. Chàng chỉ sẽ đưa tay gạt qua một bên rồi ôn tồn nói nhỏ:

- Chú ni đã thọ thương nơi vai rồi, phải liệu lấy, đừng làm phí sức khỏe lắm mà chết không kịp ngáp.

Người ấy trợn mắt đáp:

- Mi đừng nói nhảm, ta mạnh khỏe như thường, chẳng bị thương tích nào cả.

Dương-Qua nói thêm:

- Mi chưa cảm thấy đó thôi. Nhưng bây giờ vai đã bắt đầu ê ẩm rồi đó.

Quả nhiên viên quan ấy thấy hai đầu vai đã tăng tăng như bị kiến cắn, biết không phải chuyện nói đùa nên lật đật trật áo ra xem thử nơi mỗi vai có một vết đỏ ửng như bị kim châm.

Y đoán chắc người này đã dùng ám khí chém nơi vai mình khi nãy, nên bốc giận phừng phừng nhưng không dám nặng lời, chỉ hỏi lại:

- Ngươi dùng loại ám khí gì đâm ta như vậy? Có độc lắm không?

Dương-Qua mỉm cười đáp:

- Té ra chú mi chẳng hiểu tý gì về ám khí cả sao? Như thế mà cũng xưng võ nghệ với ai? Chú mi há chẳng nghe tục ngữ trong võ lâm thường nhắc: "ám khí nặng không độc, ám khí nhỏ mới có nhiều chất độc", nguy lắm chứ.

Nhìn thấy nét mặt của viên quan trẻ tuổi từ hồng hào sang tái xanh, môi mép lợt lạt, Dương-Qua biết y sợ hãi đến cực độ nên dùng cây bút lấy trên bàn khẽ chỉ vào hai vết đỏ mà giải thích thêm:

- Hai đấu này là do kim châm của ta đã điểm vào khi nãy. Cứ một ngày chất độc lan ra bám đen thêm một tấc. Cứ thế mãi, đúng sáu hôm, chất độc sẽ thấm vào tim, thế là hết sống.

Viên quan thất kinh hồn vía, muốn lạy dài nhờ ơn cứu mạng nhưng vốn bản chất quan liêu còn quá nặng không chịu nhún mình năn nỉ, đưa tay chỉ mặt chàng nói rằng:

- Nếu ta bỏ mạng thì quyết không để mi sống sót. Thà cả hai cùng thác một lần, phen này ta quyết thí mạng cùng mi.

Nói rồi xông đến toan hành hung.

Vừa lúc ấy một giọng quát lanh lảnh từ bên ngoài vọng vào:

- Thằng Mông-Cổ khốn nạn Gia-luật-Tấn kia, quan gia chi mi mà múa mỏ. Biết điều mau mau ra đây nộp mạng cho rồi.

Viên quan ấy vừa nghe gọi tên mình vừa quay đầu ngó ra bỗng đâu có từng loạt ám khí từ ngoài cửa sổ bắn vào ào ào như mưa tuôn gió thổi.

Trước một cơn mưa ám khí ào ạt bay mau như chớp nhoáng viên quan này dẫu có tài giỏi bao nhiêu cũng khó bê tránh khỏi.

Tức thì Dương-Qua vung tay áp dụng thuật "mưa hoa khắp trời" một tuyệt kỹ trong "Ngọc nữ tâm kinh" đánh bạt bao nhiêu ám khi rơi xuống đất leng keng như một đám đinh, cứu thoát được mạng hắn.

Ngay lúc đó bên ngoài có tiếng người nói:

- Khá lắm, các hạ tài nghệ quá đáng phục, vậy xin hẹn gặp gỡ một ngày gần đây. Bây giờ xin tạm biệt.

Kế đó có tiếng lanh lảnh của một nữ lang bảo nhỏ:

- Thôi chúng ta đi cho rồi.

Dương-Qua cười lớn:

- Kẻ nào có giỏi thì vào đây, xuất đầu lộ diện, trình bày tên họ xem nào. ẩn nấp như vậy đâu phải là hào hiệp.

Chẳng có tiếng người đáp lại, kế đó trên mái ngói nghe rào rào, hình như có ba người từ cửa sổ phi thân lên nóc nhà chạy đi nơi khác.

Dương-Qua lắng tai nghe tiếng chân bước trên mái ngói có vẻ nặng nề, nên nghĩ bụng:

- Đây là những hạng tầm thường võ công còn thấp kém, chẳng thèm để ý làm chi cho bận lòng.

Cũng nên nói thêm về thuật "mưa hoa khắp trời". Đó là một phương pháp tuyệt diệu dùng ám khí. Người giỏi thuật này có thể đồng thời tung ra thật nhiều ám khí để đánh rơi những ám khí của đối phương. Đây chỉ là một ngón bí truyền trong "Ngọc nữ tâm kinh" mà Dương-Qua đã học được trên võ lâm chưa một kẻ nào biết đến.

Ngoài ra, Dương-Qua đã luyện đến mức tinh diệu hơn là một tay phóng ra, một tay có thể thu hồi ám khí trở lại được.

Mấy lúc nay tuy đã tập luyện tinh thục nhưng Dương-Qua chưa bao giờ đem ra thực hành. Hôm nay vì thấy đối phương ném vào quá nhiều ám khí nên chàng phải buộc lòng thí nghiệm lần đầu tiên. Không ngờ kết quả đạt được đã ngoài sức tưởng tượng.

Tuy thích chí về sự thành công của thuật này nhưng Dương-Qua sực nghĩ lại và trong lòng rất áy náy. Chàng nghĩ.

- Quan quân Mông Cổ đứa nào cũng là phường hại dân cướp nước. Hôm nay có người muốn giết nó thì kẻ này nếu không người đông đạo, ít ra cũng là hạng yêu nòi thương nước. Ta vì hăng hái nhất thời đã đánh lại người đồng ý chí để cứu bọn Mông Cổ, quả thật là bậy.

Viên quan này đâu biết ám khí của ai, thấy Dương-Qua vung tay thì cứ đinh ninh rằng chàng cố hạ mình nên tức giận cúi xuống lượm những mũi phi tiêu, tên sắt, đạn, rơi rớt khắp nền nhà, nhắm người Dương-Qua liệng đại.

Dương-Qua khinh thường không tránh né, ngồi yên đưa tay bắt hết không sót một mũi nào. Khi Gia-luật-Tấn dừng tay, chàng hét lớn:

- Hãy coi chừng kẻo chết đấy.

Tức thì hàng mấy chục thứ ám khí đủ loại như phi đao, thiết tiễn, thiết đạn, kim tiêu, loang loáng như sao sa, bay vun vút về phía Gia-luật-Tấn, chỗ nào cũng có.

Gia-luật-Tấn quá hoảng hốt lật đật co giò nhảy trái ra sau, va lưng vào vách một tiếng ầm, đứng khựng lại đó không cử động nổi. Y len lét đưa mắt nhìn lại thấy bao nhiêu ám khí đếm ghìm chặt vào vách, sát bên da mình, nên kinh hoàng vội nghĩ:

- Trời ơi, người này tài quá! Nếu va cố tình giết ta thì đâu có khó gì. Chỉ xem vị trí các ám khí cũng đủ thấy mạng mình tùy thuộc nơi va rồi.

Nghĩ xong, y để nguyên mũ áo, sụp xuống sáp đất lạy dài, miệng nói:

- Người thật là bậc anh hùng quán thế. Tôi xin hoàn toàn bái phục.

Dương-Qua tuy bản lãnh cao cường, nhưng từ bé đến lớn trải qua nhiều cảnh đoạn trường, chỉ bị hà hiếp bức sách hơn là được ca ngợi tán tụng. Hôm nay bỗng nhiên được một quan viên cao cấp lay mình sát đất và ngỏ lời khen tặng thì thấy phơi phới trong lòng, cất tiếng cười khoan khoái lắm.

Gia-luật-Tấn lễ phép hỏi:

- Xin đại nhân cho biết quý tánh đạo danh để nhớ ơn muôn thuở.

Dương-Qua đáp:

- Tôi họ Dương tên Qua. Ông có phải tên thật là Gia-luật-Tấn hay không? Hiện nay ông đang giữ chức tước gì của triều đình Mông-Cổ.

Nguyên Gia-luật-Tấn là con trai của Gia-luật-Sở-Tài, đương kim Thừa tướng của vua Mông Cổ.Gia-luật-Sở-Tài đã có công giúp vua Thái-Tồ nhà Nguyên là Thành-Cát-Tư-Hãn, và sau giúp vua Nguyên-Thái-Tôn là Oa-Khoát-Thai, thứ nam của Thành Cát-Tư-Hãn, chiến công hiển hách, vang danh thiên hạ suốt hai trào.

Gia-Luật-Tấn nhờ oai danh của phụ thân cho nên mặc dầu còn trẻ tuổi đã được làm chức Biện-Lương Kinh-Lược-Sử. Hôm nay Gia-Luật-Tấn lên đường đi Biện-Lương, thuộc xứ Nam-Hà để phó nhiệm.

Y lần lượt kể hết gốc tích của mình cho Dương-Qua nghe.

Dương-Qua xuất thân hàn vi, từ nhỏ đến lớn trong núi học võ, đâu có am hiểu ngoài đời, cho nên chẳng hiểu chức Biện Lương Kinh-Lược-Sứ là chức chi, lớn hay nhỏ, nhưng vẫn làm bộ thạo đời, gật gù lia lịa, miệng khen:

- Hay lắm, tốt lắm!

Gia-Luật-Tấn lễ phép hỏi:

- Thưa Dương anh-hùng, chẳng hay kẻ hạ quan này có làm điều chi xúc phạm đến Dương anh-hùng, xin vui lòng chỉ dạy cho.

Dương-Qua cười dài đáp:

Chẳng có gì xúc phạm hết.

Nói dứt lời đã lao mình qua khung cửa sổ đi mất.

Gia-Luật-Tấn vội vàng chạy theo kêu với thật lớn:

- Dương anh-hùng sao mà gấp vậy?

Nhưng tiếng gọi vang đi không lời đáp lại. Hình bóng Dương-Qua đã biến mất trong bóng tối của màn đêm.

Gia-Luật-Tấn vừa ngạc nhiên vừa lo lắng, băn khoăn suy nghĩ:

- Người này đi đâu không chừng, gốc gác chẳng rõ, không biết vì sao đến đây? Bây giờ bỏ đi rồi, làm sao chữa cho hết chất độc của kim châm đang thấm vào cơ thể của mình đây. Thật là nguy hiểm quá!

Đang vẩn vơ lo nghĩ bỗng có hai bóng hiện ra trên cửa sổ. Dương-Qua đã trở lại, có dắt thêm một người nữa.

Gia-Luật-Tấn mừng như người bắt được của, hớn hở nói:

- May quá ngài đã trở lại. Tôi đang nóng ruột chờ ngài đây.

Dương-Qua chỉ Lục-vô-Song giới thiệu:

- Đây là người chị dâu của tôi. Ông xem có hạp nhãn không?

Lục-vô-Song xấu hổ nạt lớn:

- Sao ăn nói bậy bạ vậy?

Vừa nói nàng vừa đưa tay tát mạnh vào miệng Dương-Qua.

Chàng không tránh né, đứng yên hứng nhận cái tát nghe bốp một tiếng, in dấu bàn tay rõ ràng lên mặt.

Gia-luật-Tấn chưa biết giữa hai người ai hơn ai kém, nhưng có lẽ nàng này có bản lãnh hơn nên mới hành động lỗ mãng như vậy. Y cứ đứng nhìn hai người không dám nói năng một lời nào.

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 26 : Mối thù oan gia giữa hai họ

Dương-Qua thản nhiên như không, đưa tay vuốt lại nếp áo rồi cười cười bảo Gia-luật-Tấn!

- Ông bị thuốc độc của kim châm, chỉ còn ba giờ nữa là mất mạng. Nếu ông thuận tình nghe tôi một việc tôi sẽ cứu cho.

Gia-luật-Tấn chấp tay nói:

- Bình sinh hạ quan vốn ngưỡng mộ những bậc anh hùng hiệp sĩ như quý Ngài, hôm nay tình cờ được gặp thật cũng thỏa lòng mong ước. Dương anh hùng thương tình cứu cho thì thật là may phước. Nếu không, dẫu phải bỏ mạng hạ quan cũng vui lòng vì đã hân hạnh được chết vì bàn tay của một hảo hán. Chết như thế là một danh dự chứ đâu phải điều nhục nhã mà buồn.

Bao nhiêu lời tâng bốc, khéo nói của Gia-luật-Tấn khiến cho Dương-Qua hứng chí như bay tận mây xanh nên chàng lộ vẻ hân hoan trên nét mặt.

Dương-Qua từ tấm bé có khi nào tiếp xúc được với giới quan trường nên đâu có hiểu thấu những mánh lới tán dương quỵ lụy của họ đối với các bậc bề trên, mỗi khi họ cầu van nài một ân huệ gì đặc biệt. Vì vậy nên những lời tán dương của Gia-luật-Tấn, Dương-Qua hoàn toàn tin là lời lẽ chân thật. Huống chi hắn ăn nói đã nhỏ nhẹ, điệu bộ lại khúm núm nên chàng vừa ý hết sức.

Nguyên người Mông-Cổ bản chất mộc mạc thô lỗ nghĩ đâu nói đấy. Nhưng Gia-luật-Tấn nhờ sinh trưởng ở Trung nguyên lại thuộc giòng danh gia quý tộc cho nên sự nói năng khôn khéo không thể chê được.

Dương-Qua vỗ vai Gia-luật-Tấn nói:

- Thôi, ông khỏi cần nói nhiều, để tôi cứu chữa cho.

Nói xong chàng thò tay vào bọc lấy ra một viên đá "nam châm" hút sắt đặt lên vết thương trên vai Gia-luật-Tấn. Tức thì hai cây "Ngọc phong châm" theo sức hút của viên đá vọt ra ngoài. Dương-Qua lấy thuốc xoa vào vết thương bớt ê ẩm ngay.

Lục-vô-Song chưa bao giờ được thấy "Ngọc phong kim châm" nay thấy hai mũi kim tý hon, mỏng manh như hai sợi lông, thả vào nước nổi lềnh bềnh thì nghĩ bụng:

- ám khí gì mà lạ vậy. Thứ này lấy ra gió thổi bay mất ngay, làm sao mà phóng đi được!

Nàng cười mãi, bảo Dương-Qua:

- Mang danh nam tử phải hành động thế nào cho quan minh chính đại chứ lẽ nào đi chế ám khí hại lén người ta thì đâu phải con người khí phách!

Dương-Qua nghe nói chỉ cười lạt, chẳng trả lời, quay sang hỏi Gia-luật-Tấn:

- Chị em chúng tôi muốn được đại nhân kết nạp làm gia nhân sai vặt trong dinh, chẳng hay có được không?

Gia-luật-Tấn thất sắc vội đáp:

- Dương anh hùng thích vui nói đùa như vậy, chứ hạ quan đâu dám nhận. Bây giờ đại nhân muốn cần dùng việc gì cứ thật tình nói thẳng ra, hạ quan sẽ xin hết sức làm vừa lòng đại nhân.

Dương-Qua nói:

- Tôi muốn thật đấy, không nói đùa đâu. Chúng tôi muốn được làm kẻ hầu cận cho đại quan, chứ không giả ngộ như đại quan đã lầm tưởng.

Gia-luật-Tấn thấy chàng quả quyết như vậy, nghĩ thầm:

- Có lẽ hai người muốn được ta tấn cử để có quan to chức trọng, nhưng không tiện nói thật, tìm cách nói khéo ra như vậy, mình là kẻ thức thời, tất nhiên phải hiểu lấy chứ.

Nghĩ rồi y chậm rãi nói:

- Nếu nhị vị đã quyết lòng, hạ quan đâu dám cãi ý. Cứ như tài năng của nhị vị, nếu tiến cử đến Hoàng-Thượng, chắc chắn sẽ được trọng dụng ngay.

Dương-Qua biết y đã hiểu lầm mình nên cười rồi đáp:

- Ông đã hiểu lầm chúng tôi rồi. Hai đứa tôi đâu có ý nghĩ làm quan hay được chức tước. Sở dĩ vì bị kẻ thù đuổi gấp, mà chống cự không nổi, buộc lòng phải xin ông nhận tạm, cho giả làm gia nhân để che mắt chúng mà thôi. Ngoài ra tuyệt nhiên không có một hậu ý gì khác nữa.

Gia-luật-Tấn ngỡ ngàng quá, thở dài một cái, gượng nói:

- Cứ như bản lãnh siêu phàm của nhị vị thì kẻ thù nào dám bức sách nổi, hoặc giả nếu chúng ỷ thế đông người, hạ quan sẽ cho quân lính tiếp tay cùng nhị vị để đối phó, được không?

Dương-Qua đáp:

- Đối với người thù của chúng tôi, dầu bao nhiêu quân mà cũng chẳng làm chi hắn nổi. Tốt hơn là đại nhân cứ cấp cho hai bộ đồ thị vệ là xong chuyện.

Nghe câu nói tuy đơn giản nhưng có vẻ nghiêm trọng và quả quyết nên Gia-luật-Tấn phải luôn miệng vâng dạ rồi truyền cho đi lấy hai bộ đồ "thị-vệ" mang lại ngay.

Dương-Qua tiếp nhận, chia cho Lục-vô-Song một bộ rồi cùng qua phòng kế bên thay đổi.

Lục-vô-Song thay đồ xong đứng trước gương ngắm nghía thấy mình đã hiển nhiên biến thành một chú thị vệ Mông-Cổ rất bảnh trai!

Bắt đầu đêm đó cả hai ở luôn trong tư dinh của Gia-luật-Tấn và chẳng có việc gì lạ xảy ra.

Rạng ngày sau, đoàn quân Mông Cổ lại lên đường. Dương-Qua và Lục-vô-Song mỗi người ngồi trong một chiếc kiệu có bốn người khiêng, còn Gia-luật-Tấn cưỡi ngựa đi theo sau.

Đoàn quân đi mãi đến gần đứng bóng, thình lình có tiếng nhạc Loan-Linh reo vang lảnh lót, nhưng một chặp sau tắt hẳn không còn nghe nữa.

Lục-vô-Song được nằm trong kiệu êm, được kẻ hầu người hạ bốn phía lấy làm thích chí nghĩ thầm:

- Bây giờ ta cần gì phải đi nữa cho vất vả, cứ nằm lỳ nơi đây cho chúng khiêng đi, khi nào về tới Giang-Nam sẽ hay.

Đi mãi hai ngày sau, không còn nghe tiếng nhạc Loan-linh nữa mà bọn hành khất cũng không ai hay biết để đón đường phá rối. Vì vậy nên Lục-vô-Song cũng thấy vững bụng bớt lo.

Đến ngày thứ ba, đoàn quân đến trại Long-câu, một vị trí quan trọng, sầm uất phồn thịnh, người ở đông đúc và cũng là địa điểm trọng yếu trên trục giao thông giữa Tân-Hoài và Biện-Lương.

Gia-luật-Tấn ra lệnh cho quân lính dừng lại nghỉ chân và ăn uống.

Chiều đó, sau khi cơm nước xong xui, Gia-luật-Tấn vào phòng gặp Dương-Qua nói chuyện và ngỏ ý muốn được chàng chỉ vẽ cho một vài ngón võ tùy thân.

Nhờ y khéo tán tỉnh nên Dương-Qua vui vẻ nhận lời.

Dương-Qua chỉ vẽ cho y một vài thế võ thô sơ, chàng giảng lý thuyết trước rồi biểu diễn từng lối đánh đỡ thật chu đáo.

Gọi là vài thế thô sơ, nhưng đối với Gia-luật-Tấn thì toàn là những thế tuyệt diệu chưa hề biết nên rất thích thú và chăm chú đem hết tâm trí để học.

Đang say mê học tập, thình lình thị vệ vào bẩm:

- Kính bẩm đại nhân, có người mang thư của Cụ Cố từ Kinh đô đem về.

Gia-luật-Tấn mừng quá hỏi:

- ồ, hay quá, mi dặn hắn chờ một tý ta sẽ ra ngay bây giờ.

Nói rồi, y đứng dậy xin lỗi tạm cáo biệt Dương-Qua để ra ngoài đón người đem thư, nhưng bỗng y đổi ý nghĩ thầm:

- Hay là ta cứ ở đây tiếp tục học tập và bảo hắn mang thư thẳng lại đây cũng được.

Nếu ta bỏ đi e Dương anh hùng buồn ý, cho là không thiết tha với việc học tập rồi chẳng truyền dạy cho nữa.

Nghĩ xong y bảo người thị vệ:

- Nhà ngươi bảo người mang thư đem ngay lại đây cho ta xem.

Người thị vệ biến sắc, ấp úng một chập và thưa:

- Bẩm đại nhân... bẩm... bẩm...

Gia-Luật-Tấn gắt:

- Bẩm, bẩm gì mà lôi thôi mãi thế, làm như có điều gì quan trọng lắm. Cứ bảo hắn đem lại đây ngay, đừng bẩm dai nữa.

Tên thị vệ lấy lại bình tĩnh thưa:

- Bẩm ngài, chính Cụ Cố đã thân hành đến thăm, chứ không phải gửi thư.

Gia-Luật-Tấn không tin, đứng yên suy nghĩ:

- Vô lý, có chuyện gì đến nỗi phụ thân ta phải đến tận nơi đây?

Ngay lúc đó, bức màn cửa vén lên một cụ già tóc râu như tuyết, ung dung bước vào, vừa cười vừa nói:

- Con, chắc con không ngờ rằng cha đến thăm con tại đây phải không?

Gia-Luật-Tấn vừa trông thấy mặt cha, vừa mừng vừa sợ, vội vàng sụp lạy thưa rằng:

- Kính lạy phụ thân, thật con không ngờ phụ thân đến để ra đón mừng. Xin phụ thân tha tội bất hiếu.

Ông cụ vẫn tươi cười đáp:

- Cha cũng muốn cùng đi với con cho vui.

Ông lão chính là Gia-luật-Sở-Tại, cha của Gia-Luật-Tấn. Đại-Thừa-Tướng của dương trào Mông-Cổ. Theo quan chế của triều Nguyên thì gọi Thừa Tướng là "Trung thư lệnh".

Tuy biết ông cụ là cha của Gia-Luật-Tân, nhưng Dương-Qua chưa hiểu quyền uy tột bực của ông như thế nào, và cũng không ngờ, trong khắp thiên hạ trên toàn cõi Trung-hoa, ông chỉ thua sút có một mình đương kim Hoàng-Đế mà ngồi trên mấy trăm triệu người cả Hán lẫn Mông-Cổ.

Nhìn thấy ông Cụ rất phương phi quắc thước, đầu tóc bạc phơ, râu dài uốn lóng lánh như cước, trán rộng, mắt sáng, da dẻ hồng hào, uy nghi đường bệ, thoạt trông thấy cũng phải đem lòng kính nể. Quả thật là một Cụ già quý tướng.

Chàng tự nhiên có một cảm giác vừa kính vừa yêu từ trong lòng phát ra.

Ông Cụ vừa ngồi xuống ghế thì ngoài cửa có hai người nữa cùng bước vào, thì lễ cùng Gia-Luật-Tấn và gọi bằng anh cả.

Đó là một người con trai và một người con gái. Trai độ 25 tuổi, gái vào khoảng hai mươi, cỡ tuổi của Dương-Qua mà thôi.

Chào hỏi xong xuôi, Gia-luật-Tấn hỏi hai em:

- Hai em cùng đi với thân phụ đến đây phải không?

Thì ra người thanh niên là con thứ của Gia-luật-Sở-Tài, tên là Gia-luật-Tề và người thanh nữ là Gia-luật-Yên, gái út của ông Cụ.

Gia-luật-Tề dáng người thanh thanh cao cao, trán rộng, cằm vuông, nhìn điệu bộ cử chỉ thật là uy nghi dũng mãnh.

Người mới gặp chàng lần đầu không biết rõ thân thế, chỉ nhìn quan dáng điệu cũng có thể đoán là công tử của một danh gia quý tộc.

Gia-luật-Yên thì mặt đẹp như hoa, da trắng như trứng gà bôi, mắt phượng mày tầm, thân hình mảnh mai nhưng không có vẻ quá lả lướt. Trong cái đẹp vẫn ẩn tàng một nét uy nghi của con người cân quắc nữ lưu.

Nghe anh hỏi, Gia-luật-Yên hé cặp môi đỏ mọng như san hô cười dòn dã, toan trả lời thì Gia-luật-Tấn đã bước lại gần thân phụ hỏi nhỏ:

- Có việc gì trọng đại mà phụ thân lại bất ngờ mang cả hai em con cùng ra đây. Hay đã có điều gì xảy ra tại Kinh-đô chăng?

Gia-luật-Sở-Tài vuốt râu đáp:

- Quả đúng như vậy. Nhưng con nên cho bọn thị vệ ra hết cả rồi cha sẽ thuật lại cho mà nghe.

Gia-luật-Tấn ra lệnh cho các thị vệ giải tán ngay. Nhưng đối với Dương-Qua thì xem y như bậc bề trên chẳng dám đả động tới. Tuy nhiên Dương-Qua cũng hiểu ý, mỉm cười rồi lẳng lặng bước ra ngoài.

Gia-Luật Sở-Tài quả con người mẫn thiệp có mắt tinh đời, chỉ ngó qua đã nhận thấy Dương-Qua có những cử chỉ khác hẳn bao nhiêu người khác. Trong lúc bao thị vệ lễ phép sụp lạy mình thì chàng vẫn đứng im nhìn với cặp mắt thản nhiên không chút nể sợ, vì vậy nên ông hỏi Gia-luật-Tấn:

- Người mới vừa bước ra sau cùng là nhân vật nào vậy?

Gia-luật-Tấn tự xét không tiện đem lai lịch và sự việc của Dương-Qua ra trình bày cho cha và hai em biết để rồi có thể hiểu lầm mình thích giao du với bọn búa đao lạc lõng mất thể diện một phụ mẫu chi dân. Vì vậy nên y tìm cách nói lệch đi:

- Bẩm phụ thân, đó là một ông thầy tướng số. Lần này phụ thân về Giang-Nam chắc có chuyện gì cần thiêt hay bất ngờ chăng?

Gia-Luật Sở-Tài thở dài một cái và rầu rầu đáp:

- Ta đi phen này có hai mục đích, một là đi lánh nạn cho mình hai là để tìm cách cứu vãn để nghiệp muôn đời cho tiên đế.

Gia-luật-Tấn yên lặng ngồi nghe và thấy cả hai em cũng nín thinh với vẻ mặt đăm chiêu buồn bã.

Nguyên từ ngày Nguyên Thái-Tổ là Thành-Cát-Tư-Hãn băng hà, con thứ là Oa Khoát Thai lên ngôi kế vị chưa được bao lâu cũng qua đời truyền lại cho con là Quí-Do. Quí-Do cũng chết non nên Hoàng-Hậu của Quí-Do chấp chánh theo lối "thùy liêm thính chính" nghĩa là rủ màn nghe việc trào đình.

Hoàng-Hậu có tánh ưa nịnh ghét trung, thích nghe những bọn tiểu nhân dèm siểm, đố kỵ những văn quan võ tướng có công lớn với đương triều. Vì thế cho nên công việc trong trào lộn xộn chia rẽ chưa lúc nào tệ như vậy.

Gia-luật Sở-Tài là một tay "khai quốc công thần" đã ba đời vua có công hạn mã, được ba vua yêu mến nể vì. Thấy Hoàng hậu hay tin cậy những bọn không ra gì lại hay bày trò đâm loạn ngay trong cung cấm nên đã nhiêu lần đem lời ngay thẳng can gián.

Vì nhiều lần bị Thừa Tướng cản ngăn và chỉ trích việc làm của mình, Hoàng hậu có ý bất bình ra mặt, tuy nhiên vì Gia-Luật Thừa Tướng là vị đệ nhất Công Thần của tiên đế nên chưa làm chi được, song trong bụng vẫn lăm le kiếm dịp để sát hại cho khuất mắt.

Sở dĩ cái việc làm của Gia-luật Sở-Tài lúc nào cũng đường đường chính chính nên mặc dầu Hoàng hậu hay bọn nịnh thần có ghét cũng không có cách nào buộc tội được.

Gia-luật-Sở-Tài thừa rõ ý ấy nhưng ông nghĩ rằng:

- Ta đã cao niên dầu có chết đi cũng không tủi nữa. Sống ngày nào ta quyết không để cho sự nghiệp của tiên hoàng Thành Cát Tư Hãn bị hư nát vì tay một người đàn bà.

Vì vậy cho nên mỗi khi thấy có việc gì không đúng, lão thần thẳng thắn cản ngăn cho tới kỳ cùng. Lắm khi hai bên tranh chấp gay go và khi tan chầu, cả hai có vẻ không vui và giận lẩy.

Là người thông minh xuất chúng, liên việc như thần Thừa Tướng Gia-Luật-Sở-Tài cũng biết rõ ràng đi đối đầu với Hoàng hậu là một điểm quá ư nguy hiểm và ngày nay mạng mình cũng lung lay như ngọn đèn treo trước gió, chưa biết sẽ phục tắc lúc nào. Nhưng mỗi khi nghĩ đến cơ nghiệp của Tiên-Hoàng Thành-Cát-Tư Hãn và lời ủy thác của người lúc băng hà thì ông lại quyết tâm bảo vệ cho đến cùng, tìm cách củng cố lại công việc trào chánh.

Một ngày kia Thừa Tướng bỗng nghĩ ra một kế nên lúc vào chầu có dâng cho Hoàng hậu một bản điều trần rằng xứ Hà-nam hiện có nhiều tham quan ô lại những lạm dân nghèo nên xin đảm nhận trọng trách đích thân ra đó để thanh tra và tìm cách bổ cứu.

Đọc biểu chương Hoàng hậu cả mừng vì lúc nào Thừa Tướng ở tại triều không khác nào một cái đinh trước mắt, nay người đi càng xa, càng đỡ bận trí bấy nhiêu, mong cho người ở ngoài đó càng lâu càng tốt, và mỗi ngày đỡ phải nghe những lời ngăn can phiền phức nhức óc.

Vì vậy nên Hoàng-hậu đặt bút chuẩn phê ngay.

Để ra ơn lấy lòng đối với một lão thần đã có công to cùng triều đình nên Hoàng-hậu hạ chiếu cấp cho Thanh "thượng phương bảo kiếm" và ủy quyền cho Thừa tướng có thể "chém trước tấu sau", với quyền uy tuyệt đối thay mặt cho vua quyết định mọi việc ở phương xa.

Về đến tư dinh, Thừa-Tướng cho mời tất cả các vị công thần đã có công hạn mã cùng hai trào Tiên-đế Thành-Cát-Tư-Hãn và Oa-Khoát-Thai dựng lên đế nghiệp, vào bàn luận.

Nghe tâm sự của Thừa Tướng mọi người đều khen phải.

Trong đêm ấy, Gia-Luật Thừa Tướng thức khuya đọc bộ "Tư tri thông giám" đến đoạn "Trương-Giám-Chi truất phế Võ-tắc-Thiên hoàng hậu lập vua Trung-Tôn nhà Đường thì trong lòng nảy ra một ý tưởng muốn noi gương ấy áp dụng cho Trào chánh hiện nay, nhưng ông suy nghĩ:

- Ta muốn noi chí tiền nhân làm sao phế bỏ mụ đàn bà này củng cố lại đế-nghiệp của Tiên-Vương, nhưng nếu không kịp nhẹm lỡ đổ bể ra thì chắc con dâm phụ sẽ thừa dịp gán cho mình vào tội phản loạn.

Muốn thực hiện mưu này ta nên chuẩn bị khi ra đến Hà-Nam sẽ dâng biểu xui đem binh dẹp loạn. Chắc chắn thế nào Hoàng hậu cũng sẽ chuẩn y. Lúc ấy ta sẽ thừa dịp chấn chỉnh lực lượng. Khi nào có đầy đủ binh hùng tướng mạnh sẽ hưng binh về trào, lập một vị minh chúa lên ngôi, truất phế Hoàng-hậu xuống.

Hiện nay trong những người trong hoàng tộc chỉ còn Mông-Kha, cháu của Thành-Cát-Tư-Hãn vốn người thông minh đạo đức, bản chất anh minh thuần hậu khẳng khái hơn người, được hầu hết các văn võ bá quan mến chuộng. Nếu lập Mông-Kha lên ngôi Hoàng-Đế chắc chắn mọi người thảy đều hoan-nghinh.

Sau khi bọn thị vệ rút lui rồi, cha con Gia-luật-Sở-Tài mới đem câu chuyện này ra bàn luận.

Gia-luật-Tấn bồi hồi mừng lo lẫn lộn vì y nghĩ rằng:

- Nếu việc này thành công thì quả là công đức phi thường với quốc dân, xây dựng lại được đế nghiệp, nhưng nếu rủi ro bị thất thì nhất định phải mang trọng tội và bị tiêu diệt toàn gia.

Trong khi bốn cha con trù tính kế hoạch trong phòng thì ở phòng kế bên, Dương-Qua lắng tai nghe ngóng. Vốn đã biết được phép "thiên nhãn thông" "thiên nhĩ thuật" nên Dương-Qua có thể nghe được rõ ràng mặc dầu họ nói rất nhỏ và đôi bên bị cách vách.

Kẻ nào đào luyện hai phép này đến chỗ tuyệt kỹ cao siêu sẽ có thể thấy được những gì mà người thường không trông thấy, nghe được những gì mà thiên hạ không nghe ra.

Lục-vô-Song ở cách buồng của Gia-luật-Tấn một căn nhà nhỏ. Những điều của bốn người bàn luận trong phòng, Lục-vô-Song không hề hay biết, nhưng trái lại Dương-Qua thì nghe không sót một câu nào.

Đối với Dương-Qua, chỉ có những chuyện có liên hệ đến mình mới đáng để ý, ngoài ra bao nhiêu việc khác dầu quan trọng đến đâu cũng chả nghĩa lý gì.

Lục-vô-Song thấy Dương-Qua lặng yên ngồi xếp bằng tròn, mắt nhắm kỹ không khác nào một nhà sư đang tham thiền nhập định gần nửa ngày không nhúc nhích thì ngạc nhiên vỗ vai hỏi:

- Làm gì mà ngồi lặng yên như ông sư nhập định vậy ngốc?

Trong khi ấy Dương-Qua đang tập trung mọi ý chí lắng nghe câu chuyện của cha con Gia-luật-Sở-Tài phòng bên nên không hay biết gì về câu hỏi của Lục-vô-Song.

Lục-vô-Song hỏi lại lần nữa nhưng Dương-Qua vẫn ngồi yên không đáp. Nàng nổi giận đưa tay đập mạnh hai cái vào lưng và gắt:

- Ta hỏi mi có nghe không mà làm thinh mãi vậy hở ngốc?

Dương-Qua bị đập mạnh vào người mở choàng mắt, nhảy tung ra phía trước rồi nói nhỏ:

- Có kẻ nào đang rình trên mái nhà gần đây.

Lục-vô-Song ngơ ngác nhìn quanh chẳng thấy gì hết, đáp khẽ:

- Đâu có, không thấy bóng dạng một người nào hết.

Dương-Qua bảo:

- Nhất định có! Nhưng hắn đang nấp trên nóc phòng thứ năm đàng kia chứ không có ở đây.

Lục-vô-Song không tin, cười chế nhạo:

- Làm gì có ai đâu? Mi ngồi ngủ mê, chiêm bao nói sảng đấy.

Dương-Qua thấy nàng ngoan cố bèn nắm áo nàng kéo luôn ra ngoài và bảo:

- Cô chẳng tin thì ra đây mà xem. Biết đâu không phải là Sư phụ của cô đang dò xét để tìm cô!

Nghe tiếng Sư-phụ, Lục-vô-Song giật mình lo sợ, ngoan ngoãn bước theo, ra đến mái hiên, phủ phục phía sau tấm bao lớn đưa mắt nhìn lên trên trời.

Theo tay của Dương-Qua chỉ về phía Tây, Lục-vô-Song trông thấy quả nhiên có một bóng đen lù lù hình như một người đang nằm nấp trên nóc nhà thứ năm.

Đêm nay thuộc hạ tuần cuối tháng không trăng sao, tư bề tối đen như mực, đứng xa không tài nào nhận được những vật trước mắt chớ đừng nói ở trong nhà mà đoán sự việc xảy ra bên ngoài.

Lục-vô-Song càng cảm phục tài nghệ của Dương-Qua, nàng nghĩ bụng:

- Thằng Ngốc quả thật tài tình đúng mức. Tuy nhiên nhất định người này không phải sư phụ của ta đâu. Bất cứ ngày hay đêm lúc nào sư phụ ta cũng mặc y phục trắng hay màu vàng nhạt, chứ không bao giờ mặc đồ đen hay màu nào khác.

Nàng đang đứng lặng thinh suy nghĩ bỗng Dương-Qua ghé miệng kề tai nói nhỏ:

- Người này không phải là Sư-phụ cô đâu, cứ yên chí nhé.

Ngay khi ấy, bóng đen vươn mình đứng dậy nhảy xuống đất chạy thoăn thoắt lại phía nhà của Gia-luật-Tấn, bước tới cửa, đẩy nhẹ ra tay vung một ngọn đoản đao tóe ánh thép loang loáng sáng ngời miệng thét lớn:

- Gia-Luật-Sở-Tài, hôm nay mi đã đến ngày tận số rồi.

Quát vừa dứt câu, người ấy đã bước lọt vào trong nhà. Tiếng nói lảnh lót giống giọng đàn bà. Thân hình nàng tầm thước thon thon, dáng đi đứng có vẻ lẹ làng mạnh dạn lắm. Thấy vậy Dương-Qua có ý lo ngại và nghĩ rằng:

- Cứ theo dáng điệu nàng này thì bản lãnh cao hơn Gia-Luật-Tần một bực rất xa. Phen này cha con hắn khó chống cự nổi.

Lúc ấy Lục-vô-Song nhắc:

- Chúng mình cũng nên lại gần xem thử ra sao chứ!

Thế là cả hai phi thân nhẹ nhàng như đôi bướm đứng ngay phía ngoài cửa sổ đưa mắt nhìn vào gặp lúc Gia-luật-Tấn đang múa một cây gậy ngăn trước đỡ sau chống lại với lưỡi đao của nàng ấy đang vung lên nghe vùn vụt, xé gió vo vo.

Nàng áo đen có một bản lãnh khá cao, đao pháp có vẻ tinh thục lắm. Nàng vũ lộng thanh đao lấp lánh như hoa lê, chém vun vút vào người của Gia-luật-Tấn làm cho cây gậy bỗng sắp bị chặt gãy, càng lâu càng lúng túng.

Biết mình đã đuối sức không thể cự đương lâu nữa, y vội gọi lớn:

- Phụ thân, xin tìm đường lánh đi cho mau.

Rồi y thét lớn:

- Quân bay đâu rồi, hãy đến tiếp tay cùng ta, mau lên!

Thấy nếu cứ để kéo dài cuộc tranh chấp, e bọn thị vệ kéo vào đông quá bất lợi, nên nữ lang áo đen chuyển mình phóng ra một ngọn cước.

Ngọn đá tung ra mau quá, Gia-luật-Tấn né tránh không kịp bị trúng ngay giữa lưng dội tới trước, ngã sắp xuống nền nhà.

Lập tức nàng ấy phóng tới, vung đao nhắm ngay đầu chém xuống thật mạnh.

Dương-Qua thấy tình hình quá nguy ngập miệng la "nguy quá"! rút ngay một mũi "Ngọc Phong Châm" định tung ra để giải cứu nhưng bỗng có bóng một người con gái nhảy ra quát lớn:

- Tiện tỳ, chớ vô lễ!

Người ấy chính là Gia-Luật-Yên, gái út của Gia-Luật-Sở-Tài.

Miệng nói tay trái tát ngay mặt nữ lang áo đen, tay mặt dùng thế "tay không đoạt đao" cướp lấy thanh đoản đao đang chém xuống đầu anh mình.

Thế là hai bên dằng co, kẻ trì người kéo, trông như hai con vượn giành mồi. Cả hai hành động hết sức lanh lẹ, biến thế liên tiếp khi sang tả lúc sang hữu, cây diệp đao lúc ở tay người này khi lại lọt vào tay nàng nọ, nhưng ai cũng cố nắm lấy đằng cán, không người nào chịu nắm đàng lưỡi.

Dương-Qua bèn nhìn Lục-vô-Song nói nhỏ để chọc tức nàng:

- Xem tài nghệ hai nàng này có vẻ cao cường hơn cô một bực.

Trong lúc ấy bọn thị vệ đã vũ lộng binh khí hè nhau xông vào định vây đánh nữ lang, nhưng Gia-Luật-Tề cản lại nói:

- Các ngươi cứ để yên. Tam-Tiểu-Thư khỏi cần các ngươi đánh giúp.

Lục-vô-Song nghe Dương-Qua nói khích, nổi nóng đấm thùm thụp mấy cái vào lưng chàng.

Dương-Qua cười hề hề ghẹo nữa:

- Cô cứ xem đấy không phải sao? Tôi nói không bao giờ sai. Họ xuất thủ toàn những ngón rất tinh diệu, nhất định phải là đệ-tử của cao nhân. Cô bì sao được.

Gia-luật-Tấn đứng qua một bên nghỉ sức và cả cha con đều ngạc nhiên trố mắt ra nhìn, cùng suy nghĩ:

- Xưa nay Gia-Luật-Yên có tập luyện võ nghệ bao giờ đâu mà hôm nay lại tài giỏi như thế này?

Thế rồi hai người hồi hộp đứng nhìn trân trối.

Hai cô cứ tranh nhau quyết giựt cho được lưỡi đoản đao. Người nào cũng quyết túm lấy cán cố rút khỏi tay kẻ địch. Giằng co qua lại, đẩy tới kéo lui, chạy quanh co khắp phòng chưa ai đạt được ý muốn.

Thấy cứ kéo dài mãi, Gia-luật-Tấn nóng ruột đứng dậy nói:

- Tam muội, em hãy lui ra, để cho anh tiếp nàng vài ngón xem sao.

Vừa dứt lời, chàng lanh chân bước vào tung ra liên tiếp ba quyền như búa đập.

Gia-Luật-Yên bước trái qua một bên, miệng nói:

- Đây, anh ra tay bắt sống hắn cho em nhé.

Dương-Qua mỉm cười, chắp tay sau lưng, đứng xem Gia-Luật-Tề và nữ lang áo đen tranh tài cùng nhau.

Đánh một chập lâu, Gia-Luật-Tề bỗng đứng nguyên một chỗ, tay trái giấu sau lưng, tay phải đưa ra phía trước muốn cướp lấy thanh đao, nhưng chưa động thủ. Người con gái áo đen cũng đứng lại thủ thế không dám tấn công nữa.

Dương-Qua buột miệng khen nhỏ:

- Thế võ của chàng này quả nhiên lợi hại!

Lục-vô-Song chế nhạo:

- Bản lãnh của hắn trội hơn chú gấp mấy lần, không lợi hại sao được.

Dương-Qua lặng thinh không đáp, giả bộ như không nghe câu ấy.

Bỗng Gia-Luật-Tề gọi em gái nói:

- Tam muội, hãy xem, anh điểm huyệt cho hắn mềm cả gân cốt, không còn đủ sức nằm vững thanh đao. Em chuẩn bị để đoạt lấy nhé!

Nàng áo đen giận quá hét lớn:

- Súc sinh đừng phách lối, quả là quân khốn kiếp óc đầy cuồng vọng chủ quan.

Gia-Luật-Tề không đáp lại, đưa tay lẹ như chớp điểm ngay vào người cô gái. Cô gái áo đen cảm thấy như muôn ngàn mũi kim châm vào các thớ thịt, chân tay bủn rủn, thanh đoản đao đã rơi xuống đất nghe xoảng một tiếng lớn.

Mọi người xung quanh thảy đều thán phục Gia-luật-Tề nói đâu có đó, tài nghệ tuyệt vời.

Gia-luật-Tề cúi xuống lượm thanh đoản đao nhìn Gia-luật-Yên nói:

- Tam muội, bây giờ hắn không còn binh khí nữa, em có muốn thử sức thì cứ xông vào, nhưng phải để ý đề phòng song cước của hắn nhé.

Nữ lang bị mất khí giới chỉ còn hai bàn tay không, nét mặt có vẻ hốt hoảng vì kinh sợ.

Bọn thị vệ nghĩ thầm:

- Công tử mình đã đoạt khí giới mà không ra tay hạ sát là có ý muốn tha chết cho nàng, sao nàng không chịu tẩu thoát đi cho mau, cứ đứng hoài như vậy làm gì nữa.

Gia-luật-Yên tiến lên hai bước, đưa tay chỉ ngay mặt nữ lang áo đen, nghiêm nghị nói:

- Hoàng-nhan-Bình, đã hai phen anh em ta rộng lòng tha chết sao mi chẳng biết thân cứ mang mặt đến đây làm dữ mãi. Hôm nay đừng trách chúng ta độc ác nhé.

Dương-Qua nghe gọi tên nữ lang thì nghĩ bụng:

- Bọn này có nhiều tên họ quá ư kỳ lạ, ít khi nghe gọi quá.

Thật ra chàng đâu biết rằng giòng họ Gia-Luật là quốc tính của nước Đại-Liêu, cũng như giòng họ "Hoàng nhan" là quốc tính của nước Kim. Hai họ này đều là Hoàng-Tộc của hai nước. Nước Kim tiêu diệt nước Liêu, và sau này nước Kim lại bị nước Mông Cổ tiêu diệt lại.

Ngày nay cả hai họ "Hoàng-Nhan" và "Gia-Luật" đều là giòng dõi Hoàng phái bị vong quốc.

Bị Gia-luật-Yên trách mắng, Hoàng-nhan-Bình đứng yên không đáp lại.

Gia-luật-Yên hỏi luôn:

- Nếu mi muốn cùng ta tranh tài cao thấp thì cứ ra tay đi.

Nói rồi múa quyền đánh nhau.

Hoàng-nhan-Bình bước lùi ra sau né tránh rồi nói nho nhỏ, giọng rầu rầu:

- Mi hãy giao trả thanh đạo lại cho ta.

Gia-luật-Yên nghe nói suy nghĩ:

- Sở dĩ anh ta đoạt lấy đoản đao của ngươi là muốn cho ngươi tay không cùng ta tranh tài cao thấp. Nay mi cứ nằng nặng đòi lại đao ấy, không hiểu với mục đích gì đây?

Tuy vậy nhưng nàng vẫn có tính hào hiệp không hề cân chấp, ngó một tên thị vệ bảo:

- Ngươi thưa với anh ta xin nhận lại thanh đoản đao để trả cho nàng này.

Một phút sau, tên thị vệ cầm đao ra, hai tay đưa cho nàng và hỏi thêm:

- Bẩm cô nương, cô nương có cần đến vũ khí nào không?

Gia-luật-Yên lắc đầu đáp:

- Khỏi cần, ta không muốn dùng vũ khí.

Rồi nàng ngó Hoàng-nhan-Bình trao thanh đao cho nàng và nói:

- Ta dùng tay không đánh với mi, tuy chắc thua, nhưng ta vẫn cố gắng để mi được thỏa lòng.

Hoàng-nhan-Bình nét mặt tái lợt, đôi mắt rầu rầu chớp lia, nhìn về phía Gia-luật-Sở-Tài, òa lên khóc lớn và nói qua giòng nước mắt:

- Mi đã giúp quân Mông-Cổ sát hại song thân ta, ngày nay ta không đủ sức báo thâm cừu, xin hẹn gặp nhau dưới suối vàng để rửa hận lớn.

Dương-Qua thấy đôi mắt vô cùng chán nản và tuyệt vọng của nữ lang đã đoán hiểu ý định của nàng nên kêu lớn:

- Cô nương, cô nương! Chớ nên!

Ngay lúc ấy Hoàng-nhan-Bình trở ngược lưỡi dao đâm vào cổ họng để tự vận.

Gia-luật-Tề xông vào đoạt mất thanh đao rồi điềm đạm nói:

- Việc gì nàng phải làm như vậy?

Mọi người quá ngạc nhiên, cùng kêu lên một tiếng vì hốt hoảng, do đó chẳng ai để ý đến tiếng kêu của Dương-Qua.

Lục-vô-Song nghe được, nhìn chàng hỏi nhỏ:

- Chú gọi nàng là Cô nương? Vậy nàng là sư-phụ của chú sao?

Dương-Qua lắc đầu và ấp úng đáp:

- Không phải... không phải Cô nương tôi đâu.

Nguyên nhân vì trong khi Hoàng-nhan-Bình quyết tâm tự tử, nét mặt và khóe mắt nàng chứa chất tất cả niềm đau đớn thất vọng, mới nhìn thấy giống hệt như nét mặt ủ rũ của Tiểu-long-Nữ lúc nhìn chàng lần chót nói lời vĩnh biệt. Vì vậy nếu trong giây phút quá cảm xúc, chàng cứ đinh ninh đó là Tiểu-long-Nữ của mình, nên hốt hoảng gọi Cô nương.

Lục-vô-Song thấy nét mặt Dương-Qua rầu rầu đăm chiêu và nghiêm nghị không giống như thái độ thường ngày nên cũng e dè không dám hỏi thêm nữa.

Khi ấy Gia-luật-Sở-Tài cất tiếng nói:

- Hoàng-Nhan cô nương đến đây nay đã ba lần cô nương đến tìm lão phu để hành thích nhưng không làm được như ý. Lão phu muốn hỏi cô nương một câu này: Luôn luôn cô nương oán hận lão phu đã làm Tể-tướng cho Đại Mông-Cổ rồi giết hại song thân mình. Cô nương có biết kẻ nào đã giết hại tổ phụ của lão phu không?

Hoàng-nhan-Bình lắc đầu đáp:

- Tôi không rõ điều ấy được.

Gia-luật-Sở-Tài nói tiếp:

- Tổ phụ của lão phu là Hoàng tộc của nước Đại-Liêu, mà nước Đại-Liêu đã bị nước Kim tiêu diệt. Con cháu họ Gia-Luật của Đại-Liêu đã bị người họ Hoàng-Nhan của nước Kim giết chết rất nhiều. Cũng vì vậy mà ngay từ khi còn niên thiếu, lão phu mới quyết tâm phò Mông-Cổ để nhờ thế lực Mông-Cổ mà tiêu diệt lại họ Hoàng-Nhan của Kim quốc. Than ôi! Nếu ngày nay con cháu đôi bên cứ lấy oán trả oán thì oán nọ sẽ liên miên, đời đời kiếp kiếp cứ lo thù qua giết lại, biết bao giờ dứt được.

Nói đến đây, người lão thành đáng kính mơ màng đưa mắt nhìn qua khung cửa sổ, như muốn tìm thấy cảnh núi xương, sông máu. Tưởng tượng hình ảnh thảm sát đã diễn ra trong dĩ vãng và sẽ tiếp tục về sau muôn đời bất tuyệt! Bao nhiêu hình ảnh ghê rợn ấy cũng chỉ do một động cơ chính là hai chữ "oán thù"!

Hoàng-nhan-Bình nghe nói có vẻ suy tư, trầm ngâm đôi phút rồi nhớ tại thực tại, tức mình không tự nhủ được, trợn mắt nhìn Gia-luật-Tề thách lớn:

- Tôi hổ thẹn tài hèn sức kém đã ba lần đi báo thù cho song thân nhưng đều thất bại, chẳng muốn sống làm gì nữa. Tại sao mi nhúng tay vào cản ngăn tôi?

Gia-luật-Tề mỉm cười nói bông đùa:

- Bây giờ cô nương cứ tự cho mình không đủ sức để trả thù nữa thì tự nhiên ý chí cũ sẽ tiêu tan hết.

Hoàng-nhan-Bình uất hận quá nhưng không cử động gì nữa, hét lên một tiếng, đôi mắt nhìn Gia-luật-Tề trừng trừng như muốn moi mật ăn gan.

Gia-luật-Tề vội vàng quay cán đao giải huyệt cho nàng.

Sở dĩ chàng không dùng ngón tay mà lấy đao giải huyệt cho Hoàng-nhan-Bình là để giữ cho nàng không muốn trước mắt mọi người sờ mó vào mình một phụ nữ đang tê liệt và cũng là một lối để giữ câu phương châm "nam nữ thọ thọ bất tương thân".

Giải huyệt xong rồi, chàng lễ phép hai tay cầm thanh đoản đao trao trả.

Hoàng-nhan-Bình do dự một hồi lâu mới đưa tay tiếp nhận và điềm đạm nói:

- Đã ba lần công tử tha tội không giết, lại đối đãi hết sức tốt. Tôi đâu phải sắt đá mà không thấy rõ điều ấy. Tuy nhiên mối cựu thù giữa hai họ sâu hơn biển, cao hơn núi, không thể vì chút cảm tình mà dẹp bỏ đi được.

Gia-luật-Tề cúi đầu suy nghĩ:

- Nàng có một bản lãnh khá cao siêu mà lúc nào cũng cương quyết phục thù cho cha mẹ. Chẳng lẽ ta phải ở luôn bên cạnh phụ thân để bảo vệ mãi sao? Hay là bây giờ ta tìm cách khích nàng để quỵ hết mối thâm thù ấy vào bản thân ta cho yên chí.

Nghĩ như vậy rồi chàng nói lớn:

- Tôi hết sức thán phục lòng hiếu thảo của cô nương, lúc nào cũng quên mình để nghĩ đến mối thù của cha mẹ. Nhưng giữa thân phụ của tôi đều là những bậc tiền bối, phải để cho họ tự lo liệu, giải quyết cùng nhau vì họ chịu trách nhiệm về việc làm của họ. Ngày nay cô nương và tôi là phận làm con, cùng vai vế, cùng địa vị như nhau. Vậy tôi ước mong rằng chúng ta sẽ cùng nhau thanh toán món nợ máu. Cô nương nghĩ sao?

Hoàng-nhan-Bình chẳng suy nghĩ đáp ngay:

- Hiện nay tài nghệ của ta còn thấp kém thua mi nhiều, ta chưa phải là đối thủ của mi. Nếu muốn như thế cũng được, nhưng phải chờ một cơ hội khác trong tương lai.

Nói xong nàng xoay mình nhảy ra ngoài biến mất.

Gia-luật-Tề thấy vậy ngại rằng nàng sẽ phẫn chí đi tìm chết nên vội vàng phi thân đuổi theo và kêu nói:

- Cô nương họ Hoàng, cô nương quả là con người quá ư nông nổi và cạn tính. Hãy ngừng lại, tôi phân tỏ vài lời.

Hoàng-nhan-Bình nghe nói dừng chân quay lại hỏi:

- Tại sao nhà ngươi bảo ta là nông nổi?

Gia-luật-Tề cả cười đáp rằng:

- Tôi cũng đồng ý là hiện nay võ công của tôi cao hơn cô một bậc. Nhưng tại sao cô nương không chịu khó đi tìm một danh sư để học hỏi thêm, chừng nào xét có đủ bản lãnh sẽ tìm lại cùng tôi so tài rửa hận? Chúng ta thảy đều trẻ tuổi, thời gian còn dài lắm, có gì mà phải hấp tấp như vậy kia.

Hoàng-nhan-Bình lắng tai nghe cũng nhận là hữu lý nên gật đầu tỏ vẻ đồng ý.

Gia-luật-Tề nói tiếp:

- Trong những lần qua, tôi chỉ sử dụng một cánh tay phải để đối phó với cô nương. Sau này tôi nhất định chỉ dùng một cánh tay ấy mà đối địch nữa. Nếu tôi sai lời dùng đến tay trái, thì tôi nguyện sẽ chịu chết bởi lưỡi gươm của cô nương. Nói như thế không phải tôi có ý tự phụ hay muốn khinh miệt cô nương mà thật tình vì tôi nghĩ, nếu dùng cả hai tay thì tánh mạng cô nương khó nỗi bảo toàn. Vì tánh thương người nên tôi đã đưa ra lời cam kết ấy, và tôi xin lấy danh dự để bảo đảm không hề nói ngoa.

Sở dĩ Gia-luật-Tề đưa ý kiến này ra là muốn Hoàng-nhan-Bình nuôi hy vọng thắng được mình để bỏ ý định tự tử đi. Chàng biết rằng sở dĩ con người đi tự tử vì đã quá tuyệt vọng. Nếu có hy vọng không khi nào họ tự tử bao giờ.

Hoàng-nhan-Bình nghe xong ngẫm nghĩ:

- Mi tự cho mình tài cao hơn người nên đã quá tự phụ nên ra điều kiện ấy. Tự mi đã buộc nợ cho mi, chứ ta nào có biết.

Mi đã thách như vậy, ta cũng bằng lòng đi tìm thầy học thêm để trở về đấu lại lần nữa.

Nghĩ rồi nàng gật đầu nói:

- Ta bằng lòng, và mong ngươi phải giữ lời đã hứa. Người quân tử đã nói như dao khắc cột, không thể làm khác được nữa.

Gia-luật-Tề đáp:

- Gia-luật-Tề này đã nói, dầu đến chết vẫn không quên.

Hoàng-nhan-Bình thở dài, đưa mắt rầu rầu nhìn quanh một bận rồi phi thân biến mất trong bóng đêm.

Bọn thị vệ thấy công tử đã tha cho nàng rồi mới yên chí, quay lại vấn an cụ cố Tể-tướng.

Trong khi sự việc xảy ra quá ư gây cấn nhưng Gia-luật-Tấn thấy Dương-Qua vẫn điềm nhiên không thi thố tài năng cũng lấy làm ngạc nhiên lắm. Gia-luật-Yên hỏi Gia-luật-Tề:

- Vì lẽ gì mà anh cứ tha cho cô bé ấy mãi như vậy.

Gia-luật-Tề cười đáp:

- Nếu muốn giết hắn thì lúc nào giết cũng được cần gì phải nôn nóng.

Gia-luật-Yên mỉm cười ranh mãnh đáp:

- Có lẽ anh muốn em gọi cô ta là chị dâu chăng? Nếu có thể cứ nói thật đi.

Gia-luật-Tề nghiêm giọng nói:

- Em đừng bông đùa nhàm nhở không được.

Thấy anh đã giận, Gia-luật-Yên không nói dỡn nữa.

Dương-Qua đứng ngoài cửa sổ đã nghe rõ mọi việc, khi nghe Gia-luật-Yên hỏi anh muốn bảo mình gọi là chị dâu thì nghĩ rằng:

- Cô này có ý nghĩ cũng ngộ nghĩnh lắm. Gia-luật-Tề hành động có vẻ quân tử đại lượng lắm. Nhưng hắn vẫn còn trẻ tuổi nhiều tình cảm, đâu phải nhà sư mà tránh khỏi nanh vuốt của ái tình.

Chàng nghĩ càng mến phục Gia-luật-Tề, nhưng sực nhớ lại khóe mắt của Hoàng-nhan-Bình lúc long lanh cảm động giống hệt như đôi mắt đẹp của Cô nương Tiểu-long-Nữ. Liên tưởng đến hai người chàng cũng công nhận quả xứng đôi vừa lứa.

Đang suy nghĩ xa gần thình lình có một bóng đen vụt bay từ nóc nhà phía Đông qua hướng Tây Nam. Dương-Qua khẽ bảo Lục-vô-Song:

- Đứng chờ đây một chốc. Tôi đi có tý việc cần, sẽ về ngay.

Lục-vô-Song vội hỏi:

- Chuyện gì vậy, ở đâu thế?

Chàng nín thinh băng mình như làn khói, mờ dần trong bóng đêm về hướng Đông.

Bóng đen ấy là Hoàng-nhan-Bình. Nàng có bản lãnh và khinh công cũng khá, nhưng đối với Dương-Qua đâu có nghĩa lý gì. Vì vậy không bao lâu chàng đã theo kịp và thấy nàng sà xuống một túp nhà nông dân trong xóm.

Nàng tằng hắng một tiếng rồi khoan thai bước vào nhà. Dương-Qua cũng từ từ hạ xuống, nhè nhẹ lướt theo sát gót, nhưng nhờ tài khinh thân quá tinh dịu nên Hoàng-nhan-Bình chẳng hề hay biết.

Khi bước vào trong, Dương-Qua đứng nấp ngoài tường nghe ngóng.

Một chập sau từ căn nhà gần bên có ánh đèn le lói, trong đó có tiếng thở dài vô cùng não ruột.

Dương-Qua cũng thấm thía với tiếng thở dài căm hờn như nức nở ấy nên bất giác cũng thở dài theo.

Hoàng-nhan-Bình hình như nghe được tiếng thở dài ấy, nên cả sợ, vội vàng thổi tắt ngọn đèn trên bàn rồi rón rén bước lại đặt tai vào vách tường nghe ngóng.

Một chặp sau vẫn thấy tư bề vắng lặng như tờ, nàng khẽ hỏi:

- Ai đó?

Dương-Qua cũng se sẽ đáp lại:

- Vì cảm thông cùng cảnh ngộ đau lòng nên tôi cũng thở dài để trút bớt phần nào phiền não xin miễn chấp.

Thấy kẻ này không có gì ác ý, Hoàng-nhan-Bình vững bụng hỏi thêm:

- Xin cho biết người là ai?

Dương-Qua chậm rãi nói:

- Ngày xưa, cổ nhân quyết chí báo thù đến nỗi phải "nằm gai nếm mật" hay "ăn than sơn mình" trải bao nhiêu gian khổ chẳng sờn lòng. Lạ gì mới thất bại một vài lần mà cô nương đã nản chí đâm ra tự tử, không hổ thẹn với tiền nhân ư?

Nguyên ngày ở Đào-Hoa-Đảo, được Hoàng-Dung dạy văn, Dương-Qua có đọc được sách biết Câu-Tiễn nằm gai nếm mật và Dự-Nhượng sơn mình nuốt than để nuôi ý chí phục thù, nên mới đem ra làm ví dụ để nói chuyện cùng Hoàng-nhan-Bình cho có điển tích.

Thình lình đèn sáng trưng, cửa phòng mở rộng, Hoàng-nhan-Bình ló đầu nhìn ra rồi chắp tay vái dài, lễ phép nói:

- Kính mời các hạ bước vào trong nầy cho tôi được hầu chuyện.

Khi Dương-Qua bước vào phòng, dưới ánh đèn dầu, Hoàng-nhan-Bình thấy một thanh niên mặt mày xinh đẹp, y phục theo lối Mông-Cổ thì rất ngạc nhiên, vội hỏi:

- Nghe những lời các hạ vừa dạy thật quả chí lý, vậy xin các hạ vui lòng cho biết quý danh quý tánh để thỏa lòng ngưỡng mộ.

Dương-Qua không đáp theo câu hỏi, đứng thẳng người, vòng tay trước ngực nói:

- Tên Gia-luật-Tề thật là một đứa tự phụ và khoác lác. Hắn dám xưng chỉ dùng một tay đánh thắng cô được. Lối ấy đâu có gì khác lạ mà khoe khoang?

Hoàng-nhan-Bình chưa hiểu Dương-Qua thuộc thành phần nào, theo phe ai nên còn e dè, chưa dám tán thành hay phản đối.

Dương-Qua nói tiếp:

- Tôi có thể chỉ cần dạy cho cô vài thế võ để buộc Gia-luật-Tề phải sử dụng cả hai tay. Nếu cô chưa tin, cứ thử rồi biết. Tôi cam đoan không dùng đến thế thứ tư đâu.

Hoàng-nhan-Bình vẫn ngạc nhiên và bỡ ngỡ lắm. Nàng nghĩ bụng:

- Anh chàng này là ai? Sao tự nhiên đến đây chưng tài, hay có dụng ý gì đối với mình chăng?

Thấy nàng còn do dự, Dương-Qua nói tiếp:

- Nếu nàng muốn thử thách để tin vào lời nói của tôi, xin cứ dùng gươm chém tôi đi sẽ có chứng minh cho mà xem. Nếu tôi nói dóc bị chết bỏ mạng không oán trách được ai.

Hoàng-nhan-Bình nói:

- Khỏi cần đấu gươm đao. Tôi chỉ cần quyền chưởng để thử sức thôi. Nếu các hạ né tránh được cũng đã cao siêu lắm rồi.

Dương-Qua lắc đầu đáp:

- Không được đâu. Cô phải dùng đao kiếm, nếu không, thì đời nào cô thấy được sự thật để phục tài tôi chứ?

Thấy người này nói năng có vẻ thật tình chứ không phải đùa cợt hay phỉnh phờ, Hoàng-nhan-Bình nói:

- Nếu quả vậy thì các hạ thật là một kẻ tài ba xuất chúng, tôi không bao giờ ngờ đến một chuyện như vậy được. Vậy xin các hạ xem chừng ngay nhé.

Nói xong nàng múa đao chém lia vào vai Dương-Qua như bằm chuối.

Dương-Qua thản nhiên khoanh tay đứng nhìn, hình như không đếm xỉa gì hết. Khi lưỡi đao sắp chạm vào da, chàng chỉ lắt mình nhẹ một cái là tránh được rất dễ dàng.

Hoàng-nhan-Bình muốn chặt ngay vào đầu nhưng vẫn do dự, vừa vung ra đã thụt lại ngay.

Dương-Qua bảo:

- Cô cứ chém thật tình đi, chớ ngại ngùng gì hết.

Hoàng-nhan-Bình nghĩ:

- Chẳng lẽ y là yêu ma hay thần thánh gì mà nói có vẻ lớn lối tài tình quá vậy.

Nàng bặm môi chém vút một đao thật mạnh, định chặt đôi thân hình chàng làm hai đoạn.

Nhưng ánh đao vừa vung lên, Dương-Qua hình như đã đoán trước bảo rằng:

- Với thế đao ấy, tôi chỉ cần nằm rạp xuống là chém hụt ngay, cô đừng dùng ngón này vô ích.

Hoàng-nhan-Bình đem hết tinh thần và sức lực dồn vào cánh tay chém vù vù khắp bốn mặt, nhưng Dương-Qua vẫn nhởn nhơ cứ nghiên qua lật lại sơ sơ cũng đủ tránh được trong đường tơ kẽ tóc.

Hoàng-nhan-Bình thán phục quá, đang phân vân chưa biết nên đổi cách nào để chém cho trúng thì Dương-Qua đã bảo:

- Bây giờ tôi đã rõ tài chém của cô rồi. Nhưng tôi chưa biết tài phóng đao của cô ra sao, xin hãy thi thố xem thử.

Hoàng-nhan-Bình gật đầu, bước lui ra sau một tý rồi vung tay phóng luôn lưỡi điệp đao bay thẳng lại chàng như tên bắn. Dương-Qua khẽ đưa tay bắt được, thảy lại cho nàng và bảo:

- Hãy phóng mạnh hơn xem thử.

Hoàng-nhan-Bình khiếp quá, đứng nhìn trân, chưa tin là sự thật.

Dương-Qua nói tiếp:

- Thôi được rồi, bây giờ đến phiên tôi nhé. Cô cứ múa đao cho kỹ và giữ gìn cẩn thận đấy. Chỉ trong ba ngón là tôi đoạt được lưỡi đao ngay, cô giữ cách nào cũng không thể được.

Hoàng-nhan-Bình tuy đã phục chàng quá sức với những ngón vừa mới thi thố, tuy nhiên vẫn chưa dám tin rằng chỉ trong ba thế mà có thể tay không đoạt được đao mình.

Tay nắm chặt cán đao, nàng bảo:

- Xin các hạ xem đây!

Nói xong nàng vung lên múa đao theo thế "Vân hoành Tần Lĩnh" (mây bay trên đỉnh non Tần) chém phạt ngang một nhát. Dương-Qua khẽ cúi đầu thấp xuống tránh được, thuận tay hất nhẹ vào sống đao khiến con đao rời ngay khỏi tay nàng, quay một vòng kêu vo vo rồi rớt trên mặt đất.

Hoàng-nhan-Bình mất đao đứng ngẩn người trố mắt nhìn chàng, phục quá!

Dương-Qua mím miệng vận khí thổi phù một hơi, thanh đao bay bổng lên rơi lại gần chân Hoàng-nhan-Bình như người ta thổi một mảnh giấy con.

Hoàng-nhan-Bình chưa biết nói sao mặt mày ngơ ngác suy nghĩ, bỗng Dương-Qua cười cười nói tiếp:

- Bây giờ tôi cho cô nương xem lối ném đao bằng môi, đỡ dao bằng lưỡi nhé.

Vừa nói xong chàng vận khí hút một cái, thanh đao bay lên dính giữa đôi môi rồi thổi phù ra một hơi, thanh đao bay vút lên trên cao rồi từ từ rơi xuống. Chàng thè lưỡi nhẹ nhàng đỡ lấy sống đao rồi ngậm chặt trên miệng. Một lát chàng nhả đao rơi xuống đất rồi cười hà hà nhìn nàng không nói gì hết.

Hoàng-nhan-Bình quá sức kinh ngạc, cảm phục sát đất, miệng lẩm bẩm mãi:

- Trời! Quả thật là lạ lùng, kỳ diệu quá sức.

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 27 : Cảm nghĩa kết thâm tình

Dương-Qua nhìn nàng đứng ngơ ngẩn và nghĩ bụng:

- Sau thuật tránh đao, cướp đao, bây giờ cũng nên cho nàng nếm mùi điểm huyệt một chút.

Nghĩ xong đưa tay khẽ điểm vào "khúc trì huyệt" của Hoàng-nhan-Bình.

Bị điểm đúng yếu huyệt, Hoàng-nhan-Bình bủn rủn cả tứ chi, mắt long lên vì căm giận, miệng cứng đờ chẳng nói năng gì được, chỉ đưa mắt nhìn chàng loang loáng như van lơn như thán phục lẫn căm hờn.

Thấy đôi mắt đen huyền đưa qua liếc lại sao giống mắt Tiểu-long-Nữ quá, Dương-Qua thấy cảm động vô cùng và nghĩ hối hận:

- Mình có muốn cầu thân cùng nàng, nhưng vì sao lại đi đối xử tệ bạc như vậy nhỉ? Ta nỡ nào vì muốn chưng sơ tài nghệ đến nỗi khiến cho nàng phải chịu đựng sự đau đớn hay sao?

Nghĩ vậy chàng thấy hối hận cầm đao lại gần trao trả.

Hoàng-nhan-Bình thấy toàn thân rũ riệt, cặp giò run lên đứng hết muốn vững, tay rã rời, môi miệng cứng hết, chẳng động đậy gì được cứ nhìn chàng với cặp mắt cảm phục nhưng đượm vẻ hằn học.

Dương-Qua nghĩ thầm:

- Gia-luật-Tề là thù nhân mà còn dùng cử chỉ lễ độ nhã nhặn đối xử cùng nàng thay, huống chi ta, tại sao kém cỏi và vô lý như vậy, thật không xứng đáng với tư cách của một bậc tượng phu.

Vì vậy nên chàng vội lại gần đưa tay giải huyệt liền.

Hoàng-nhan-Bình, cảm thấy sinh lực hồi phục, tinh thần sảng khoái, tay chân thơ thới cử động được như cũ thì mừng rỡ vô cùng, vội sụp quỳ xuống làm lễ và thiết tha nói:

- May mắn được gặp gỡ bất ngờ, xin sư phụ ngỏ lòng xót thương, truyền thụ cho vài ngón võ để có thể báo được mối thù cho song thân, ơn đức này tiện nữ xin đời đời ghi tạc.

Dương-Qua cuống cuồng vội đưa tay nâng nàng đứng dậy nói:

- Tôi đâu có đủ điều kiện làm sư phụ cô được. Tuy nhiên tôi có thể chỉ vẽ hộ cho Cô nuơng vài miếng võ đủ giết chết được Gia-luật-Tề mà thôi. Cô bằng lòng chứ?

Hoàng-nhan-Bình sáng rực đôi mắt hân hoan reo lên:

- Trời ơi, như thế thì còn gì bằng. Nếu hạ sát được Gia-luật-Tề thì anh em hắn đâu phải là đối thủ của tôi nữa. Chừng ấy tôi có thể tự do hạ sát cha mẹ hắn để trả thù cho song thân.

Vừa nói tới đây bỗng nàng có ý nghĩ:

- Nếu ta học võ nghệ cho đến ngày vượt hơn Gia-luật-Tề, nghĩa là phải một thời gian quá lâu chứ đâu phải một ngày một tháng gì mà xong, thì lão già Gia-luật-Sở-Tài có thể còn sống sót đến ngày ấy chăng.

Nếu hắn chết trước thì dầu có tài giỏi đến đâu cũng không thể trả thù cho cha mẹ được. Như thế, chẳng hóa ra tốn công vô ích quá sao?

Dương-Qua đoán được thâm ý của nàng, cả cười nói:

- Có lẽ cô nương muốn giết ngay lão già ấy trong một vài hôm gần đây chứ gì?

Hoàng-nhan-Bình vui mừng đáp:

- Dạ đúng vậy. Lòng tôi chỉ ước mong được trả thù sớm chừng nào hay chừng ấy. Lão già ấy tuổi tác đã quá cao, e không theo được bao nhiêu ngày nữa.

Dương-Qua quả quyết nói:

Muốn giết Gia-luật-Tề không có gì khó khăn hết. Tôi có thể dạy ngay cho cô để có đủ sức giết được hắn nội trong đêm nay mà thôi.

Hoàng-nhan-Bình tuy mừng rỡ nhưng cứ phân vân cân nhắc mãi.

- Ta đã bao phen giết hụt lão già cũng vì tài nghệ của Gia-luật-Tề cao siêu hơn ta có mấy bậc. Sau mấy lần bị đánh bại, ta cảm thấy phải lâu lắm mới bằng được một phần bản lãnh của hắn. Người này trông tài nghệ kỳ diệu thật nhưng chưa chắc đã thắng được Gia-luật-Tề một cách dễ dàng. Vì dầu y có giỏi hơn Gia-luật-Tề một bậc cũng không thể nào chỉ dạy mình ba thế võ mà hạ sát ngay hắn trong đêm nay được. Lời nói y tuy quả quyết nhưng có vẻ hoang đường quá, chắc chắn mười mươi là không thể nào làm được.

Tuy nghĩ vậy nhưng nàng không có can đảm nói thật, nên chỉ nhìn Dương-Qua với cặp mắt buồn buồn có vẻ thất vọng, thiếu tin tưởng.

Dương-Qua đã đoán rõ được tâm trạng nàng nên dùng lời an ủi:

- Cô cứ yên tâm, tôi không khi nào nói khoác để lừa phỉnh cô làm gì. So tài nghệ của tôi cùng hắn chưa hẳn tôi giỏi hơn. Nếu đôi bên cùng giao đấu, tôi cũng không dám chắc thắng hắn được dễ dàng. Tuy nhiên tôi đã có cách, một cách kỳ diệu và thần tỉnh, chỉ dạy cho cô ba thế để hạ sát được nó. Tôi dám quả quyết cùng cô điều này, xin chớ nghi ngại nữa. Nhưng chỉ có một điều tôi còn đang phân vân là đã ba phen hắn rộng lượng tha chết cho cô, e rằng ngày nay lúc giết được, cô sẽ không nỡ ra tay hạ thủ!

Hoàng-nhan-Bình đã tin tưởng rồi và chính nàng cũng công nhận ý kiến chót của Dương-Qua là đúng, trong lòng thấy băn khoăn. Tuy nhiên nàng vẫn cứng cỏi đáp:

- Tuy hắn đã lấy độ lượng quân tử tha chết cho tôi nhiều lần. Tuy nhiên tôi cũng không thể chỉ vì cảm tình riêng mà quên được phụ mẫu chi cừu.

Dương-Qua nói:

- Thôi được rồi! Tôi sẽ truyền cho cô ba thế võ ấy ngay bây giờ. Nhưng nếu khi cô có thể giết hắn được mà cô không giết thì sẽ tính sao đây?

Hoàng-nhan-Bình đáp:

- Nếu tôi không giết hắn thì xin tùy ân sư xử phạt cách nào tôi cũng xin nhận chịu.

Dương-Qua cười thầm trong bụng:

- Nàng này ăn nói cũng hay đấy! Thù của cô mà cô không muốn trả, có can hệ gì tới ta mà bảo ta xử phạt. Xử phạt bằng cách nào. Đánh mắng nàng ư. Mà xử phạt như vậy để có lợi gì cho mình chứ?

Nghĩ xong chàng tươi cười bảo:

- Thật ra ba thế võ này không có gì khó, cô đã thuộc cả rồi, nhưng vì không biết cách áp dụng cho đúng lúc đúng chỗ mà thôi. Tôi sẽ bày vẽ cho cô cách để thực hiện được ước nguyện.

Nói rồi chàng cầm đao chém ngang một nhát từ phải sang trái rồi vút trở lại, miệng nói:

- Đây là ngón "Vân hoành Tân lãnh" chắc cô cũng biết rồi.

Hoàng-nhan-Bình nghĩ thầm:

- Tưởng ngón nào cao siêu kỳ lạ, chứ ngọn "Vân hoành Tần lãnh" mình vừa dùng chém hắn khi nãy là một thế nhập môn sơ đẳng, lúc vừa học võ ai lại không biết?

Đang suy nghĩ chưa trả lời, bỗng lưỡi đao bay vút lại phía mình nàng vừa nghiêng mình né tránh thì Dương-Qua bất ngờ đã đưa tay ra nắm chặt cổ tay mặt của nàng, miệng nói:

- Thế thứ hai này gọi là "Khô đằng chiền thụ" (tức là dây khô quấn cây), chắc cô cũng đã học rồi trong khi luyện "Thiết chưởng".

Hoàng-nhan-Bình nghĩ bụng:

- Tưởng gì chứ lối "mở và nắm" trong mười tám thế sử dụng Thiết chưởng thì cần gì phải dạy nữa. Chẳng hiểu lúc này ngươi chỉ ta thế ấy để làm gì?

Nắm cổ tay nàng mềm mại và mát rượi Dương-Qua thấy thích thú lắm cười cười bảo:

- Cô chưa học thế "mở bôi tay ngọc" mà đã học thế "nắm mở bàn tay" thì có ích gì mấy!

Tuy biết chàng nói đùa nhưng Hoàng-nhan-Bình cũng mỉm cười hỏi:

- Cái tên "mở bôi tay ngọc" nghe là lạ và hay hay đấy nhỉ. Tôi chưa được học thế ấy bao giờ.

Nguyên phép sử dụng bàn tay sắt (thiết chưởng) phải dùng cả khinh công và chưởng pháp phối hợp chặt chẽ thì công dụng mới lợi hại.

Thế này chỉ có "Cửu-âm-chân-kinh" mới thu thập được hết cả những tinh hoa vũ thuật, các phái biến chế cho nên vô cùng lợi hại. Luyện thế ấy theo "Cửu-âm-chân-kinh" thì dầu bị địch nắm chặt đến đâu cũng giải thoát được dễ dàng. Trái lại nếu phối hợp được môn pháp Thiết-chưởng theo "Cửu-âm-chân-kinh" thì một khi đã nắm được tay ai chẳng khác nào kềm sắt, không thể nào vùng vẫy nổi.

Hoàng-nhan-Bình thấy tay chàng nắm tay mình thật chặt, đưa đi đưa lại, nhưng không đau đớn. Có lúc siết mạnh, có lúc mơn trớn trên làn da, nên chẳng hiểu vì ý gì.

Thấy lối nắm mở bàn tay chàng dũng mãnh lợi hại hơn mình rất nhiều, nên Hoàng-nhan-Bình rất cảm phục, tuy nhiên chờ lâu quá không thấy dạy thế khác nàng nhìn chàng ngẫm nghĩ:

- Ưng bụng cứ bóp hoài! Còn một thế thứ ba nữa sao chẳng dạy người ta cho rồi! Mình đã biết qua hai thế đầu đều là những ngọn thông thường của vũ thuật vỡ lòng chẳng có gì mới lạ hết. Có ngón thứ ba ra sao, có lẽ kỳ diệu tinh xảo lắm nên mới có đủ oai lực giết được Gia-luật-Tề.

Lúc bấy giờ Dương-Qua mới đĩnh đạc ra lệnh:

- Bây giờ chuẩn bị học thế chót để quyết định đây! Hãy nhìn đây.

Vừa nói xong chàng đưa mũi đao dí thẳng vào cổ mình.

Hoàng-nhan-Bình thất kinh la lớn:

- ủa, anh làm gì lạ thế. Sao kỳ vậy?

Tay phải nàng bị Dương-Qua nắm chặt không vẫy vùng được, nàng phải buộc lòng dùng tay trái đằng lưỡi dao ra, lúc nắm được thanh đoản đao rồi mới yên chí hỏi lại:

- Tại sao anh dùng đao để tự tử như vậy?

Dương-Qua buông tay nàng ra, nhảy lùi về phía sau cười lớn đáp:

- Bây giờ cô đã học đủ ba thế rồi đó. Chừng đó đã đủ rồi.

Hoàng-nhan-Bình thấy Dương-Qua thọc đao vào họng tự tử đang lo sợ bàng hoàng chưa rõ lý do vì sao, thấy chàng bảo như vậy, lạ lùng không hiểu gì hết cứ nhìn trừng trừng không biết nói lời gì nữa.

Dương-Qua bèn giải thích:

- Này nhé, đêm nay cô cứ tìm Gia-luật-Tề để tỷ thí. Sau khi dùng thế "Vân hoành Tần lãnh" chuyển ngay thế "khô đẳng chiền thụ" để lanh tay nắm chặt tay mặt của hắn lại rồi quay sang thế chót là đâm ngược lưỡi đao vào họng tự tử. Chắc chắn thế nào hắn ta cũng phải dùng tay trái ra dằng lấy lưỡi đao để cứu cô. Như vậy vô tình hắn đã phạm lời thề nên phải để cho cô tự ý giết hại mà không oán trách gì nữa. Chắc cô cũng còn nhớ Gia-luật-Tề đã long trọng cam kết chỉ dùng một tay đấu cùng cô nếu dùng thêm tay trái sẽ chịu chết về tay cô. Kế hoạch này xem có được không?

Hoàng-nhan-Bình bấy giờ mới hiểu rõ nghĩ bụng:

- ồ, chú này xem không bao nhiêu tuổi mà nhiều mưu kế hay tuyệt. Phương pháp này quả thật là bí hiểm và chắc ăn lắm.

Dương-Qua nói tiếp:

- Nếu cô cứ đem đúng ba thế đó ra áp dụng trong một lần mà không đoạt được kết quả mong muốn thì tôi cam đoan để cô đem đầu tôi ra mà chặt.

Hoàng-nhan-Bình gật đầu nói:

- Tôi cũng tin tưởng vào kế này lắm, nhưng ngại một nỗi, nếu hắn không chịu dùng tay trái để giật đao thì xử trí làm sao bấy giờ?

Dương-Qua cười lớn:

- Nếu hắn thông dùng tay trái thì cô cứ vụng gươm chém đầu hắn đi là xong chuyện. Đơn giản quá mà!

Hoàng-nhan-Bình mừng quá, chắp tay nói:

- Thành thật cám ơn anh đã có lòng giải thích tôi biết được đường đi nước bước khỏi nghĩ bậy và hành động vô ý thức. Hơn nữa đã giúp tôi kế hoạch để trả thù cho cha mẹ, ơn đức ấy tôi nguyện đời đời ghi sâu vào tâm khảm. Giờ đây, xin anh vui lòng cho biết anh là ai, quý danh là gì.

Dương-Qua chưa kịp đáp bỗng có một giọng nói lanh lảnh từ ngoài cửa vọng vào:

- Hắn tên thằng Ngốc đấy! Cô đừng nghe theo hắn mà lầm.

Tiếp theo đó là một chuỗi cười dòn dã. Dương-Qua chỉ mỉm cười không đáp lại vì biết người ấy là Lục-vô-Song rồi.

Hoàng-nhan-Bình lao mình ra cửa sổ thấy có một cái bóng đen vừa vụt đi mau như gió. Nàng định đuổi theo thì Dương-Qua bảo:

- Thôi, cô đừng nhọc lòng đuổi theo vô ích. Cô ấy là một người bạn đồng hành với tôi chứ không ai xa lạ đâu.

Hoàng-nhan-Bình đưa mắt dịu dàng nhìn Dương-Qua một chập rồi nhỏ nhẹ nói:

- Em xin hoàn toàn tin theo lời anh đã dặn, vì thâm tâm em nghĩ rằng chẳng bao giờ anh nỡ dối em.

Dương-Qua tuy có tánh can trường nhưng ưa nói ngọt. Nhưng ai đối với chàng hỗn láo, dối trá lừa gạt thì dầu chết cũng không bao giờ khuất phục. Trái lại ai đối cùng chàng có cảm tình, nhỏ nhẹ thì muốn gì chàng cũng cố làm cho vừa ý. Nhìn Hoàng-nhan-Bình xinh như hoa, đôi mắt bồ câu lóng lánh, êm êm như mặt nước hồ thu, nét mặt sáng rực, lúc nào cũng đượm nét u buồn man mát, đôi má đầy đặn khi tái khi hồng hào tươi thắm, lời lẽ lại ngọt ngào, thỏ thẻ như oanh kêu, khiến cho chàng vô cùng cảm xúc, bèn bước lại gần đưa tay nắm lấy vai nàng cùng ngồi kề nhau bên cạnh giường, âu yếm nói:

- Anh họ Dương tên Qua. Cũng như em, cha mẹ anh thảy đều khuất bóng, trên đời này anh chỉ có một thân trơ trọi, không cửa không nhà.

Hoàng-nhan-Bình nghe những lời thấm thiết bỗng xúc động cang tràn, đôi mắt lệ chan hòa, ngồi làm thinh thút thít khóc mãi, nói chẳng nên lời.

Dương-Qua cũng xúc động không kiềm được hai giòng lệ, uất lên khóc lớn. Hai người lẳng lặng nắm tay nhau, cảm thông một hoàn cảnh xấu số như đôi chim lạc loài mới tìm được bạn mới. Hoàng-nhan-Bình đưa tay ôm ngang lưng chàng ghì sát vào mình. Dương-Qua áp má vào tóc nàng ngồi không nhúc nhích. Cả hai cứ kéo dài mãi nửa giờ phút thiêng liêng này để sưởi ấm cõi lòng giá lạnh.

Dương-Qua đê mê tận hưởng vị thơm tho từ làn tóc của nàng bốc ra thoang thoảng.

Hai tâm hồn như cùng lắng xuống để chung hòa nhạc điệu mê ly cảm động, hồi tưởng lại thân thế gia đình mình, cha mẹ chết hết, sống côi cút trên đời nên quá cảm xúc lệ tuôn rào rạt.

Bỗng Hoàng-nhan-Bình nhìn chàng mỉm cười:

- Anh định để em khóc đến bao giờ mới thôi đây?

Dương-Qua gạt lệ hỏi nhỏ:

- Năm nay em được bao nhiêu tuổi?

Hoàng-nhan-Bình đáp:

- Mười tám tuổi. Còn anh?

Dương-Qua đáp:

- Anh cũng mười tám tuổi như em.

Rồi chàng nghĩ ngay:

- Nếu cùng một tuổi, ta không nên để nàng nói sanh già tháng hơn để xưng chị với mình, ta phải giữ vai làm anh mới được.

Nghĩ xong chàng nói tiếp:

- Anh sanh hồi thượng tuần tháng giêng. Chắc em sanh sau anh mấy tháng. Vậy từ nay em gọi anh là "Anh hai" và anh gọi em là "em bé" nhé.

Hoàng-nhan-Bình hân hoan mừng thầm, đôi má đỏ hây hây. Nàng thấy Dương-Qua ăn nói chắc thiệt, phân tách rành mạch, không có vẻ gì lừa bịp hay hiểm ác nên gật đầu tỏ ý bằng lòng.

Được thêm một cô em bé xinh tươi, Dương-Qua nghĩ bụng:

- Mình không cha mẹ, cô nương chưa biết ở nơi nào, được thêm bạn thân kể cũng đỡ hiu quạnh cô đơn. Tuy nhiên, thế nào rồi đây Lục-vô-Song cũng ganh ghét kiếm lời kia nọ. Nhưng mặc kệ, ta cứ lờ đi như không để ý. Miễn vui thầm trong bụng cũng thích rồi. Thấy Hoàng-nhan-Bình xinh tươi đẹp đẽ, lại gặp phải cảnh ngộ éo le kể cũng đáng thương hại. Lạ một điều hai mắt nàng quá đẹp, lại giống y mắt của Cô nương mình như hệt.

Chàng ngắm nhìn nàng một chặp tưởng tượng thêm:

- Nếu nàng bỏ bộ đồ đen, mặc y phục trắng vào, thì nàng sẽ giống hệt như Tiểu-long-Nữ. Cô nương không sai một nét.

Chàng cứ vẩn vơ suy nghĩ, nhìn nàng mãi, đến nỗi đôi mắt lờ đờ, vẻ mặt ngẩn ngơ, mới nhìn thấy hình như một kẻ khát tình đang mơ ước dục vọng, lộ ngay trên nét mặt.

Hoàng-nhan-Bình thấy chàng hơi thở dồn dập, mặt đỏ ửng, mắt lờ đờ như si dại, sẽ vỗ vào lưng chàng nói nhỏ:

- Nhìn gì lạ vậy?

Ai đã thu hồn đớp vía anh mất mà ngồi ngay ra như vậy.

Dương-Qua bừng tỉnh lại như kẻ vừa qua cơn ác mộng, ngượng quá, nhưng cũng hỏi gượng cho đỡ mắc cỡ:

- Sao em không đi tìm kẻ thù để hạ sát cho rồi.

Nàng nũng nịu nói:

- Em sẽ đi liền bây giờ đây. "Anh Hai" có theo giúp em không?

Dương-Qua định gật đầu bằng lòng nhưng chợt nghĩ lại:

- Nếu ta đi theo, e nàng ỷ lại không đem hết tinh thần ra chiến đấu và lúc giả tự tử không tự nhiên, khiến cho Gia-luật-Tề sanh nghi thì hỏng hết mưu kế đã bài trí.

Nghĩ thế, chàng trả lời:

- Em cứ đi một mình cho tự nhiên. Anh theo giúp sức không tiện đâu.

Nghe chàng đáp Hoàng-nhan-Bình rất thất vọng, nét mặt lộ vẻ u buồn thảm đạm, nhìn chàng không nói gì hết.

Dương-Qua mủi lòng muốn đổi ý nhận lời, nhưng nàng đã đứng dậy nói nhỏ:

- Thôi anh Hải ở lại, em bé đi đây nhé. Xa nhau lần này có lẽ không còn dịp tái ngộ nữa.

Dương-Qua ngỡ ngàng ấp úng hỏi:

- Tại sao em nói thế? Sở dĩ... tôi...

Nàng lanh lẹ lấy một nén bạc đặt trên bàn để trả tiền quán trọ rồi tung mình dùng khinh công lao vút ra ngoài mất dạng ngay.

Dương-Qua ra cửa sổ trông theo gật đầu khen nhỏ:

- Khinh công của nàng cũng khá lắm. Tội nghiệp!

Ngoài trời một bóng đen xé màn đêm lao vút đến nhà trọ của gia đình Gia-luật-Tấn. Khi ấy cha con Gia-luật-Sở-Tài đang sửa soạn đi ngủ.

Hoàng-nhan-Bình dừng lại trước ngõ, đưa tay gõ cửa và bảo quân thị vệ:

- Nhờ các cậu vào thưa, có Hoàng-nhan-Bình muốn gặp mặt Công-tử Gia-luật-Tề.

Bốn tên thị vệ không muốn phá rầy công tử trong giờ đi ngủ, xông ra chận lại, nhưng vừa khi ấy Gia-luật-Tề mở cửa nhìn ra hỏi:

- Chẳng hay Hoàng-nhan cô nương có điều gì cần dạy bảo?

Hoàng-nhan-Bình đáp ngay:

- Tôi muốn được công tử chỉ giáo cho một vài ngón võ để học thêm.

Gia-luật-Tề ngạc nhiên ngẫm nghĩ:

- Quả nàng này ương gàn, không biết tự lượng sức mình. Ta đã tha chết mấy phen, đã không biết thẹn, còn mang xác đến đây đòi thử sức nữa.

Nhưng chàng vẫn ân cần mời:

- Xin mời cô nương quá bộ vào trong này.

Hoàng-nhan-Bình bước theo, vào đến giữa phòng nàng đã tuốt gươm ra, múa lên vùn vụt quyết đem ba thế võ ra ứng dụng xem sao.

Bắt đầu nàng tấn công bằng thế "Lục chiêu thiết chưởng" để Gia-luật-Tề nghênh chiến và chuẩn bị thực hiện dự định của mình đã sắp đặt.

Gia-luật-Tề giữ đúng lời cam kết, tay trái buông thõng xuống, chỉ vũ động tay mặt để chống đỡ mà thôi.

Mặc dầu Hoàng-nhan-Bình dùng thế "Tam đảo lục chưởng" ra thi thố nhưng cánh tay của Gia-luật-Tề đưa ra bắt đao quá mạnh và lanh lẹ như một vòi voi, bao nhiêu thế võ của nàng bị phá hỏng hết.

Thật tình Gia-luật-Tề muốn đưa ra những ngón đòn thật hại để thị oai, khiến nàng hoảng sợ tự ý rút lui chứ trong thâm ý không muốn tấn công sát hai nàng.

Hai người đang mải mê đánh nhau chưa phân thắng bại Hoàng-nhan-Bình định đưa mấy đòn "tuyệt kỷ" của Dương-Qua ra thi thố thình lình có tiếng đàn bà từ ngoài cửa gọi vào:

- Gia-Luật công tử hãy khá đề phòng. Nàng ấy cố ý lừa công tử phải dùng đến tay trái để đánh nhau đó. Đừng lầm gian kế đấy nhé.

Đó là tiếng nói của Lục-vô-Song.

Gia-luật-Tề để ý thấy Hoàng-nhan-Bình dùng thế "Vân hoành Tần lĩnh".

Khi chàng vừa nghiêng mình cho ánh đao chém hụt qua một bên thì Hoàng-nhan-Bình lẹ như chớp đem thế "khô đắng chiền thụ" chộp lấy tay mặt của chàng niếu xuống, rồi tay kia trở ngược mũi đao đâm vào cổ họng để tự tử.

Gia-luật-Tề hoảng hốt muốn ra tay giải cứu nhưng tay mặt đã bị nàng nắm chặt. Nếu đưa tay trái ra tiếp cứu, lại phạm vào điều cam kết, có hại đến mạng sống của mình. Nhưng chàng lại chép miệng nghĩ thêm:

- Ta là đại trương phu, xem cái chết nhẹ như lông hồng. Nếu thấy một người đàn bà sắp chết mà điềm nhiên không cứu thì còn gì là danh dự. Mặc dù mất mạng ta, nhưng phải cứu người trước đã.

Vừa rồi được Lục-vô-Song nhắc khéo, Gia-luật-Tề cũng liên tưởng lại lời thề khi trước, tuy nhiên vốn tay anh hùng hào kiệt, trọng danh dự hơn tính mạng, cho nên dầu biết ra tay cứu người sẽ mất mạng, nhưng chàng vẫn mạnh dạn làm không do dự.

Sau một giây phút tranh chấp Gia-luật-Tề vội đưa tay trái giựt thanh đoản đao ném luôn xuống đất.

Sau đó cả hai người đến thối lui ra sau, cách nhau mấy bước.

Gia-luật-Tề đưa chân vích thanh đao bay đến trước mặt Hoàng-nhan-Bình bảo lớn:

- Cô nương, nàng đã bắt buộc được tôi phải sử dụng hai tay kiếm, tôi thua cuộc và giữ đúng lời cam kết cũ tôi bằng lòng để cho nàng quyết định về mạng sống của tôi, nhưng trước giờ phút nhắm mắt tôi muốn yêu cầu cô nương một chuyện.

Hoàng-nhan-Bình rất cảm động trước thái độ hiên ngang chính đại của Gia-luật-Tề, nên run run hỏi:

- Công ử muốn yêu cầu điểm gì xin cứ nói ra.

Gia-luật-Tề nhìn thẳng vào mắt nàng nói từng tiếng một:

- Tôi chỉ xin Cô nương đừng giết hại phụ thân tôi.

Hoàng-nhan-Bình không đáp, bặm môi múa đao xông lại để chém.

Dưới ánh đen thắp sáng như ban ngày, Gia-luật-Tề điềm nhiên đứng yên không cử động, đợi chờ giây phút cuối cùng của mình, không hề cảm xúc, khí sắc hiên ngang rực rỡ như một vị thiên thần.

Hoàng-nhan-Bình vốn là một nữ lang đa cảm, thấy thái độ Gia-luật-Tề quá ư cao thượng, bỗng nảy ra ý tưởng vừa thương hại, vừa thán phục. Nàng suy nghĩ:

- Người ta đã ba lần dừng gươm tha ta thoát chết. Nay chỉ vì chữ tính người ta hiên ngang khứng nhận cái chết lẽ nào mình nằng nàng đi lợi dụng sự khí khái của người ta mà ra tay hạ sát một "chân chính hảo hán", sao?

Nét mặt uy nghi đằng đằng sát khí của nàng bỗng dịu xuống. Nàng buông rơi thanh đao xuống đất, lắc đầu mấy cái rồi quay mình chạy ra khỏi cửa.

Trong lúc thần hồn bất định, Hoàng-nhan-Bình cứ cắm đầu chạy mãi, không biết đi về hướng nào, và không biết chạy để làm chi nữa. Chạy một hồi lâu đến một con suối nước sâu thăm thẳm, nàng mới dừng chân đứng lại, đến gần bờ nhìn xuống đáy. Đêm khuya đen nghịch, vài ánh sáng lóng lánh chiếu xuống giòng suối như những con đom đóm; suối rộng, nước sâu không thể nào dượt qua nổi. Nàng do dự đứng nhìn, tâm thần thác loạn khó tới khó lui, vẩn vơ nhìn trời mây, nghe gió rì rào thổi, buồn ơi là buồn! Bất giác nàng thở dài một tiếng như xé lòng.

Thình lình sau lưng nàng cũng có một tiếng thở dài đáp lại.

Tiếng thở dài vang lên trong bầu không khí vắng lặng giữa cánh đồng không, bên bờ suối thẳm nghe lành lạnh rợn người. Hoàng-nhan-Bình cảm thấy như có một luồng băng giá chảy qua xương sống. Nàng có cảm giác như quỷ ghẹo ma trù lơ láo đưa mắt nhìn ra phía sau.

Cách nàng vài thước có một bóng đen đứng đấy từ bao giờ, nhìn lại là Dương-Qua.

Nàng đổi sợ làm mừng chỉ kịp kêu lên hai tiếng "Anh Hai - rồi ngồi xụp xuống đất, hai tay bưng mặt thổn thức.

Dương-Qua bước lại đỡ vai nàng đứng dậy miệng an ủi:

- Em Bé, tại em nông nổi hấp tấp quá! Thờ cha mẹ là việc vô cùng trọng đại, đâu phải trò đùa mà có thể làm được trong một ngày một bữa như em như em đã tưởng.

Hoàng-nhan-Bình len lén nhìn chàng hỏi nhỏ:

- Có lẽ anh đã hiểu qua đầu câu chuyện rồi chứ?

Dương-Qua lặng thinh gật đầu.

Hoàng-nhan-Bình nắm tay chàng nói se sẽ như thở than, oán trách:

- Anh Hai! Em thừa biết ý chí kém cỏi, tài nghệ cũng không ra chi nên không thể nào báo thù cho song thân được. Em có nhờ anh giúp đỡ thì anh lại ngơ đi thì làm sao nên công việc được.

Dương-Qua nắm tay nàng chậm rãi đến một gốc cây ngồi trên bãi cỏ, hai vai kề nhau, dịu dàng an ủi:

- Em không nên nóng lắm càng dễ hỏng việc. Em học võ công cho nhiều, bản lãnh cao siêu tới đâu cũng vô ích nếu em không thấy được ai là kẻ thù chính. Ngay như anh đây, cả cha mẹ đều chết trong những trường hợp vô cùng bi đát, chẳng minh bạch, mà ngày nay anh chưa dò xét ra manh mối. Ngày anh chào đời, cha anh đã chết cho nên lớn lên, anh chưa hề biết được mặt cha mình, cũng chẳng biết ông chết ra sao. Hoàng-nhan-Bình ngạc nhiên hỏi:

- Tại sao vậy hở anh.

Dương-Qua buồn rầu kể lể:

- Anh mồ côi cha ngay từ khi còn trong bào thai. Khôn lớn lên lắm lúc có hỏi mẹ vì sao cha chết và ai đã giết cha mình, nhưng mẹ anh chỉ nhìn anh lắc đầu và khóc mãi, không chịu nói. Vì sợ gợi lại nỗi đau buồn cho mẹ, anh không dám hỏi thêm.

Anh cứ đinh ninh có lẽ chờ khi khôn lớn mẹ sẽ thuận lại rõ ràng, chẳng ngờ vài năm sau, mẹ anh bị rắn độc cắn sắp chết. Trong giờ phút hấp hối của mẹ, anh có hỏi lại chuyện này nhưng mẹ anh chỉ đáp:

- Cha con làm những điều không đứng đắn dầu chết cũng đáng đời. Người giết cha con là một nhân vật rất tốt, bản lãnh cao siêu, có địa vị rất cao trên xã hội và trong võ lâm nữa. Thôi để cho cha con chết cho yên thân, con chẳng nên đề cập tới hai chữ báo thù làm gì nữa.

Dương-Qua muốn đem chuyện mình ra làm điển hình mong làm dịu lòng cô em út, chàng bỗng nghĩ đến tiếng đời thường nhắc lại lời nói của tiểu nhân:

- Người giết cha mình là kẻ thù số một, không đội trời chung. Đứa con không lo báo phục thù là đại bất hiếu.

Nhưng trong trường hợp chàng, biết ai là kẻ thù mà hòng trả oán? Nếu cứ làm thinh cho oán thù rơi trong dĩ vãng của thời gian thì mình đâu xứng đáng là người con trai của thế hệ, có sống cũng chỉ làm bia miệng cho người đời phỉ nhổ.

Nhưng muốn báo thù một kẻ vô danh, thì làm sao cho tròn nổi!

Suy nghĩ đến đây chàng lại cảm thấy xót xa cho thân phận.

Hoàng-nhan-Bình hỏi:

- Cha anh chết trước, mẹ anh cũng chết khi anh còn bé. Vậy anh nhờ ai nuôi nấng cho đến ngày nay?

Dương-Qua đáp:

- Thân anh kể ra thật muôn cay ngàn đắng. Ngày mẹ anh bất hạnh qua đời, anh lang bạt rày đây mai đó, không cửa không nhà, đói thì xin ăn, ngủ nơi xó chợ đầu đường. Lắm khi xin ăn không có, bao tử hành hạ, phải lẻn vào vườn người hái trộm trái dưa quả mít đỡ lòng. Rủi ro bị chủ túm được họ thẳng tay đánh đập không chút thương tình. Vì vậy nên mình anh chỗ nào cũng đầy cả vết thương và sẹo.

Miệng nói, tay chàng vén quần, xăng áo, chỉ cho Hoàng-nhan-Bình xem thử.

Trong bóng tối lờ mờ xem không rõ, Hoàng-nhan-Bình lấy tay rờ theo các chỗ, thấy thịt chỗ lồi chỗ lõm quả như lời chàng nói.

Vốn có tánh đa sầu đa cảm, một bệnh chung của giới quần thoa, Hoàng-nhan-Bình sờ đúng những vết thẹo to lòng thấy xót xa như bị xát muối và tự nghĩ:

- Thân ta tuy nổi trôi bềnh bồng do cảnh nhà tan nước mất nhưng nhờ tiền của còn nhiều, gia đình đông đúc, nhiều người thân yêu, nếu so với số phận chàng, ta còn hạnh phúc hơn gấp mấy lần.

Hai người mải nắm tay nhau trong im lặng như lắng nghe tiếng động của đôi tim ,Hoàng nhan Bình ghé tai Dương Qua khẽ hỏi:

- Anh võ nghệ cao siêu mà đầu phục bọn Mông Cổ , chúng phong anh được chức phận gì ?

Dương Qua cười hà hà đáp :

- Tôi ăn vận như thế này cốt để cải trang che mắt một kẻ thù lợi hại đang tìm kiếm chứ đâu có phaỉ người của Mông Cổ .

Hoàng nhan Bình không giấu được nỗi vui mừng đang bồng bột trào dâng , nhảy tung lên vỗ tay hô lớn :

- ồ , hay quá , may quá ! Thật không có gì sung sướng cho bằng .

Dương Qua trố mắt hỏi :

- ủa , em làm chi lạ vậy ?

Hoàng nhan Bình thấy mình hơi lố lăng , mắc cỡ đỏ hồng đôi má rồi lẽn bẽn đáp :

- Trên đời này , quân Mông Cổ là kẻ thù số một của em . Em chỉ lo ngại nếu anh là tay chân của bọn chúng thì ...

Nàng nói đến đây tắt lời vì quá cảm động .

Dương Qua mân mê bàn tay của nàng vừa mềm mại vừa mát mẻ , cõi lòng nao nao rạt rào tình thương mến , bỗng nhiên thấy mất cả tự nhiên thường lệ , vội gợi chuyện cho đỡ ngượng :

- Nàh em , giá anh làm quan to của nước Đại Kim chắc em cưng chiều , quý trọng lamứ phải không ?

Hoàng nhan Bình ngay từ phút gặp gỡ đã dành nhiều cảm tình cùng anh chàng vui tánh xinh trai lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ mình . Qua mấy lần nói chuyện nàng đã có lòng thầm yêu trộm nhớ đến chín phần mười , khi được hiểu rõ thân thế long đong càng thương cảm hơn gấp bội . Nay biết chàng hợp ý với mình càng mừng hơn nữa nên thở dài , rầu rầu đáp :

- Nếu phụ thân em còn sống , anh muốn gì cũng được hết . Rủi phụ thân em đã qua đời , em hết chỗ nương tựa , đâu còn có gì nữa . Nhắc lại chỉ làm cho lòng thêm chua xót .

Dương Qua thấy nàng quả hết lòng thương yêu mình , nói năng thật thà chất phát , lời lẽ ôn hoà , cảm động lắm đưa tay nắm đôi vai tròn rồi vuốt nhẹ đôi má ửng hồng của nàng , ghé gần tai nói nhỏ :

- Em bé , em của anh ... anh muốna ... xin em một ... điều thôi .

Hoàng nhan Bình cũng cảm thấy sóng tình rào rạt , đầu óc nóng bừng , tâm thần bất định . Nàng cũng đoán trước được phần nào ý muốn của Dương Qua nên khẽ siết bàn tay chàng , gật đầu nói :

- Anh muốn gì cũng được . cứ nói thẳng đi đừng e ngại úp mở gì hết .

Dương Qua thì thầm qua lời nói e thẹn thiếu tự nhiên :

- Anh chỉ cần xin được hôn .. hôn vào đôi ... mắt đẹp của em . Ngaòi ra anh cam đoan không dám đòi hỏi hay động chạm gì đến chỗ khác nữa .

Khi moí nghe lời chàng cầu xin lúc đầu , nàng đoán có lẽ chàng muốn cầu xin đính ước cầu hôn . Khi đưa tay sờ vào người chàng thấy châu thân nóng ran , gân cốt giật lên rần rật như chạm phải luồng nhiệt điện , nàng lại e rằng chàng sẽ nài ép chuyện mây mưa trắng gió ngay tại đây . Nàng đinh ninh nếu quả vậy sẽ chống cự đến cùng mặc dầu trong thâm tâm nàng cũng bị xâm chiếm bơỉ một sự ham muốn rạo rực . Nhưng lúc sờ vào người chàng lại thấy có một luồng hơi âm ấm chuyển sang khiến cho nàng đờ người ngẩn ngơ mất hết nghị lực hay phản ưmngs , cố ghì lấy vai chàng như chờ đón một câu nài ép ái ân để mà ... nhận lời , tránh bớt sự đòi hỏi của thể xác đang tràn nhựa sống .

đến khi nghe chàng cầi xin hôn vào đôi mắt , Hoàng nhan Bình chưng hửng và chán nản quá , nghĩ bụng :

- Sao có chuyện tréo cẳng ngỗng như thế này ! Quả là thằng Ngốc , người đời đặt tên không sai !

Nàng cứ thẫn thờ , có bực bội , lòng rối như tơ vò .

Nàng chớp chớp như muốn ứa lệ vì tức bực , vừa thẹn thuồng và thất vọng , chỉ tức một điều là không biết làm sao tỏ bày thật ý mình mong muốn .

Dương Qua nhìn vào những giọt lệ trên vành mi của Hoàng nhan Bình lóng lánh như ngọc trai , bỗng nhớ đến đôi mắt đẹp của Tiểu long Nữ tha thiết nhìn mình trước khi từ biệt nên lửa lòng bốc lên ngùn ngụt , tay lại như hùm dữ , ôm chầm nàng , ghì thật chặt vào lòng , đắm đuối hôn hoài đôi mắt không biết chán .

Hoàng nhan Bình bị chàng siết mạnh quá muốn ngộp thở , trong lòng hoang mang chưa đoán được chàng sẽ làm việc gì nữa đây nên không tiện hỏi .

Ngày cùng chúng sống với Tiểu long Nữ tại Mộ Đài , Dương Qua chỉ nhìn đôi mắt đẹp như sóng nước mùa thu của cô nương mà quên cả mọi vật trên đời , tuy vậy chàng chỉ cảm thấy vui thích sung sướng ấm lòng chứ không có tà tâm .

Tiểu long Nữ ra đi như chim trời bạt gió , góc biển chân mây . Dương Qua chỉ biết nhớ lại hình bóng nàng thương nhớ thiết tha . Từ ngày đưụng chạm cọ xát cùng Lục vô Song , chàng moí cảm thấy những niền rung cảm huyền diệu mê ly của đôi trai gái . Giờ phút này được hôn những hạt lệ nóng hổi trên mi mắt người tình , chàng mới cmả thấy cái hương vị thơm tho , mặn nồng của tình ái .

Buông Hoàng nhan Bình ra , Dương Qua ngây ngất , nghĩ lại những ngày qua , biết bao lần Tiểu long Nữ đã liếc mắt đưa tình mở đường cho chàng đi tới nhưng chỉ vì quá khờ khạo thật thà không nắm được cơ hội khiến cho bao nhiêu dịp tốt trôi qua mất .

bây giừo chàng mới nhớ lại và thông cảm những lời nói cuối cùng của tiểu long Nữ và nghĩ bụng :

- Cô nương đã thật tình thương yêu ta , đem chuyện vợ con bàn cùng ta thế mà ta cứ ngơ ngơ ngáo ngáo chẳng biết một tý gì đến nỗi nàng buồn ý thất vọng bỏ núi ra đi . Ngày nay ăn năn việc đã muộn rồi , muốn gặp lại cô nương còn đâu nữa .

Lòng bị xâu xé bở một niềm ân hận , bực tức Dương Qua muốn đập đầu vào gốc cây tự vẫn cho rồi nhưng một trận gió nhẹ toàng qua , mùi thơm của da thịt Hoàng nha Bình lại phảng phất vào mũi , chàng lại ôm nàng vào lòng hô nữ , quên cả ý muốn tự tử vừa rồi .

Hoàng nhan Bình lim dim đôi mắt nằm gọn trong đôi cánh tay chacứ nịch của Dương Qua đang quàng vongf quanh chiêcss lưng thon . Nàng cảm thân thể như muốn bốc cháy dưới những cía hôn nồng nàn kéo dài vô tận . Mặc cho chàng nâng niu ô mấp , tóc ngọc thưởng hoa , nàng cảm thấy tâm hồn chơi vơi trong sóng tình dào dạt , tận hưởng bao nhiêu hương vị ngây ngất của men tình .

Hoàng nhna Bình nhám nghiền đôi mắt , đôi môi hé mở , đê mê mà chờ đợi nhưng nàng chỉ cảm thấy đôi môi nóng bỏng của chàng hết ở mắt này lại sang mắt kia , không có một động tác nào khác nữa .

Nàng thấy bực bội nên cũng khen thầm :

- Chú Ngốc quả đứng lời đã hứa ! Không biết hôn mắt thú vị làm sao mà ham lắm vậY ?

Thình lình Dương Qua buông nàng ra cất tiéng gọi :

- Cô nương , cô nương .

tiếng kêu thật thiết tha cảm động , bao hàm tất cả sự thành thật của con tim . Nghe giọng chàng thật nặng nề đau khổ , hònh như đang gọi một kẻ thân yêu cách biệt ngàn trùng xa xăm biền biệt và sau đó đã thất vọng vì nhận lầm người khác .

Nàng muốn hỏi chàng gọi ai nhưng chưa kịp mở lời bỗng có tiếng nói thanh thanh của một thiếu nữ :

- Xin chào anh chị .

Cả hai người ngơ ngác bàng hoàng vì quá ngượng , vội buông nhau ra , đưa mắt nhìn thấy có bóng người áo xanh đang thấp thoáng dưới một gốc cây lớn cách đó mười bước .

Dương Qua vội vàng đứng dậy chắp tay vái chào :

- đã mấy lần được ngwoif có lòng chiếc cố giúp đỡ , ơn này không bao giờ dám quên .

Người ấy cũng chắp tay bái lại và nói :

- Dương lang quả thật con người đào hoa tốt số . Mải lo hú hí voí người yêu mới mà quên hẳn người bạn đồng hành đã bao lần cùng sống chết rồi chăng ? Chắc bao nhiêu hứa hẹn thề nguyện bảo vệ cho nàng trong giây phút theo mây gió theo gió hết .

Dương Qua vừa mắc cỡ và lo lắng ấp úng hỏi :

- ủa , cô ... cô ... bảo ai vậy ?

Người ấy rầu rầu đáp :

- Lục vô Song chứ ai ! Nàng đã bị Lý mạc Thu bắt đi rồi .

Dườn Qua giật bán người hỏi lớn :

- Trời thật sao ? Cô nhìn được tận mắt chứ ?

Người con gái nói :

- Nàng đã bị Lý mạc Thu bắt đi ngay trong lúc hai người đang mê ly âu yếm yêu đương dưới gốc cây này .

Dương Qua ngơ ngác hỏi thêm :

- Nàng bị bắt lâu chưa , vào khoảng giờ nào ?

Người ấy đáp :

- Không lâu, mới đây vài khắc mà thôi. Lục-vô-Song khai rằng bộ sách "ngũ độc bí truyền" đã bị bọn ăn mày Cái Bang chiếm đoạt rồi, nên Lý-mạc-Thu bắt nàng đi tìm để chỉ. Tôi e rằng tánh mạng nàng không thoát được lần này nếu không giải cứu kịp thời.

Dương-Qua vội nói:

- Vậy tôi phải đi ngay bây giờ tìm cứu nàng mới được.

Nữ lang lắc đầu nói:

- Dương-Qua có võ công linh diệu lắm, tuy nhiên vẫn chưa phải đối thủ của Xích-luyện-Tiên-Tử Lý-mạc-Thu. Tôi chỉ e rằng làm hấp tấp rồi sa luôn vào tay hắn thì uổng mạng mà chẳng đem lại một kết quả nào.

Mặc dầu trong đêm tối, nhưng mắt Dương-Qua tinh tế lạ thường nhìn rõ hết mọi vật. Chàng trông thấy cô gái áo xanh mặt mũi quá sức xấu xa gớm ghiếc, có lẽ chưa có ai xấu xí hơn nàng.

Thật không ngờ một con người có nhiều hảo ý, tâm địa tốt quá mà mặt mũi lại xấu đến bực ấy.

Chàng hỏi thêm:

- Chúng tôi chưa có cái hân hạnh được quen biết cô nương nhưng chẳng hiểu vì sao được cô nương có lòng tốt nhiều phen cứu giúp như vậy. Xin cô nương vui lòng biết họ tên gọi là làm quen và để nhớ ơn mãi mãi.

Nàng đáp:

- Tên họ của tôi chẳng có gì đáng để ý. Sau này có dịp Dương huynh sẽ biết ngay. Giờ phút này, cấp bách nhất là đi cứu Lục-vô-Song, xin Dương huynh phải lo liệu gấp mới khỏi chậm trễ.

Nàng nói âm điệu dịu dàng, nhỏ nhẹ nhưng rất thanh tao, ai nghe cũng mến. Lạ một điều là khi nàng nói bao nhiêu sớ thịt trên mặc không hề rung động. Hình như tiếng nót phát ra từ một thây ma.

Dương-Qua gật đầu đáp:

- Quả đúng như vậy. Theo ý cô nương, bây giờ chúng ta cứu nàng bằng cách nào tiện nhất? Xin cô nương vui lòng chỉ bảo cho.

Cô gái đáp:

- Kể về tuổi tác, kinh nghiệm các thứ, Dương huynh đều hơn tôi. Vậy Dương huynh cứ tùy nghi định đoạt, khách sáo làm gì. Tôi sẵn sàng giúp sức nếu cần đến.

Dương-Qua rất cảm mến thái độ ôn hòa và khiêm tốn của nàng và nghĩ bụng:

- Nếu cứ xem mặt đoán người như thường lệ thì chắc ai cũng hiểu lầm nàng này ngay.

Nghĩ xong nói nhỏ:

- Vậy thì tôi đi ngay bây giờ và thề cứu nàng cho được. Cô nương có thể giúp sức được chăng.

Nàng ấy đáp:

- Tôi xin sẵn lòng. Cô nương Hoàng-nhan-Bình, thế nào, có cùng đi với chúng tôi không?

Dương-Qua nghe nói trong bụng khen thầm nàng có tư cách mẫn thiệp lắm và trả lời thay cho Hoàng-nhan-Bình:

- Hoàng-nhan-Bình thế nào cũng nhận giúp một tay rồi, khỏi cần hỏi nữa.

Nàng ấy bước lại trước mặt Hoàng-nhan-Bình chắp tay thi lễ và nói:

- Cô nương là người lá ngọc cành vàng, nên phải suy nghĩ cẩn thận trước khi quyết định công việc này vì Lý-mạc-Thu vô cùng lợi hại. Trên đời này Xích-luyện ma đầu đã nổi danh là con người ác độc nhất. Chúng tôi thì không sao, chứ cô nương thì cần cân nhắc kỹ trước khi nhận lời đấy nhé.

Câu nói có vẻ khiêm nhường và có thiện ý, nhưng cũng bao hàm sự khích lệ thử thách.

Hoàng-nhan-Bình lễ phép đáp:

- Đối với tôi, Dương đại ca là một ân nhân, nên việc của chàng cũng như việc của tôi. Tôi có bổn phận phải tiếp sức. Tiểu thư là bầu bạn mà đã có lòng giúp đỡ thì cả ba chúng ta cùng đi cho vui.

Người ấy bước đến năm tay Hoàng-nhan-Bình ân cần nói:

- Thật hân hạnh được gặp nhau hôm nay. Chị lớn hơn tôi cứ gọi bằng em cho tiện và thân mật hơn.

Trong đêm tối Hoàng-nhan-Bình đâu nhìn rõ gương mặt xấu xí của nàng. Chỉ nghe giọng nói dịu dàng trong trẻo, bàn tay mát mẻ mềm mại, Hoàng-nhan-Bình đoán thế nào cũng một tuyệt sắc giai nhân, mặt mày xinh đẹp lắm nên rất vui mừng hỏi:

- Năm nay chị mấy tuổi?

Nàng cười đáp:

- Lúc này chưa phải lúc tâm sự để tìm hiểu tuổi tác tên họ nhau. Dương huynh, sao chẳng lên đường gấp cho kịp, chần chờ hoài không nên, việc cứu người như chữa lửa.

Dương-Qua gật đầu đáp:

- Cô nương quả chí lý. Vậy xin đi trước chỉ đường cho.

Nàng đáp:

- Tôi thấy Lý-mạc-Thu bắt Lục-vô-Song đưa về hướng Đông Nam, có lẽ đi về Kinh tử quan thì phải.

Thế rồi cả ba triển khai khinh công nhắm phía ấy lao đi vùn vụt nhanh như ba cái bóng.

Kể về tài khinh công thì phái Cổ-mộ luyện theo bí quyết của "Ngọc nữ tâm kinh" đã chiếm bậc nhất trong các môn phái thời bấy giờ.

Hoàng-nhan-Bình vốn là môn đệ của Thiết-chưởng-Bang và bang chủ là Cửu-Can-Điêu, cứ theo biệt danh "Thiết chưởng thủy thượng phiêu" (bàn tay sắt nổi trên nước) cũng đủ rõ tài nghệ khinh công kỳ diệu là dường nào rồi.

Nàng áo xanh tuy không nhanh lắm nhưng lúc nào cũng đi bén gót Hoàng-nhan-Bình. Hoàng-nhan-Bình đi mau thì nàng đi mau, đi chậm thì nàng cũng đi chậm. Vì vậy nên chưa rõ mức tuyệt đỉnh tối đa của nàng là đến đâu.

Dương-Qua thầm nghĩ:

- Không biết nàng này thuộc môn phái nào mà khinh công có vẻ trội hơn cả Hoàng-nhan-Bình nữa.

Phàm bản chất đàn bà ưa hiếu thắng, hay là mình nên nhường cho hai cô đi trước để họ vui lòng.

Nghĩ vậy chàng chậm bước đi ra sau.

Khi trời vừa rựng sáng, nàng áo xanh lấy lương khô trong bọc đem chia cho mọi người lót dạ.

Dương-Qua để ý nhìn chiếc áo xanh của nàng. Tuy áo bằng vải bố tầm thường nhưng đường kim mũi chỉ thật nhặc, lối cắt may vô cùng sắc sảo, ôm vừa vặn thân hình trông rất đẹp.

Mọi thứ cần dùng, từ túi cơm khô, bầu đựng nước và các vật lặt vặt đều sắp đặt ngăn nắp gọn gàng trong một cái bao xách đeo bên mình. Bấy nhiêu đó cũng chứng tỏ được nàng này rất chu đáo trên mọi vấn đề.

Nhờ trời đã sáng, Hoàng-nhan-Bình nhìn thấy mặt nàng áo xanh xấu quá, chép miệng than rằng:

- Con người nói năng dễ thương, tánh tình chu đáo, nhưng sao xấu tệ như vậy! xưa nay ta chưa hề thấy một kẻ nào xấu như cô ấy.

Chờ ai nấy ăn xong, nàng áo xanh thu xếp đồ đạc rồi trước khi mọi người tiếp tục theo hướng cũ, nàng hỏi Dương-Qua:

- Dương huynh, có lẽ Lý-mạc-Thu nhận diện anh dễ lắm phải không?

Dương-Qua đáp:

- Hắn gặp tôi nhiều phen, có lẽ đã biết mặt rõ lắm.

Nàng thò tay vào bọc rút ra một chiếc khăn mỏng dệt bằng tơ, trao cho và dặn thêm:

- Trong khăn này có gói một cái mặt nạ bằng da người. Dương huynh hãy đeo vào, tự nhiên không kẻ nào nhận ra anh nữa đâu.

Dương-Qua mở ra thấy có một miếng da rất mỏng và mềm mại, phía trên có hai lỗ mắt, và mũi mồm giống y như người thiệt, chỗ cao chỗ thấp trông rất lạ.

Dương-Qua mừng lắm, tỏ lời cảm ơn.

Nhìn chàng mang chiếc mặt nạ vào đã đổi ngay hình dạng, mặt mày xấu xa như quỷ sứ, Hoàng-nhan-Bình chợt nghĩ ra một chuyện, vỗ vai nàng con gái áo xanh hỏi:

- Cô em mang mặt nạ mà tôi không để ý. Nãy giờ tôi cứ đinh ninh cô em mặt mày xấu xí, thật ngốc quá!

Nàng ấy cả cười đáp:

- Dương huynh thật đẹp trai mà đeo mặt nạ vào trông thấy ngay. Đố ai nhận diện ra nổi. Riêng phần em thì có đeo hay không cũng không thay đổi bao nhiêu vì sự thật mặt mày em cũng không hơn gì cái mặt nạ.

Hoàng-nhan-Bình tò mò nài nỉ:

- Xấu đẹp gì cũng được, cô em cho chị xem bộ mặt thiệt một chút thôi mà.

Dương-Qua cũng sẵn tính háo kỳ nghe Hoàng-nhan-Bình nói như vậy, cũng vội bước lại gần để xem thử.

Nhưng thiếu nữ mỉm cười đáp:

- Em chẳng tiếc gì chị. Nhưng xét bây giờ chưa phải lúc để biểu lộ hình tích nhau ra, e không có lợi mà còn hại là khác. Xin chờ dịp sau vậy.

Thấy nàng chẳng bằng lòng, Hoàng-nhan-Bình cũng không nài ép nữa.

Mãi đến trưa, mặt trời đứng bóng, ba người đến một thị trấn nhỏ, đưa nhau tìm một tửu quán nghỉ chân và ăn uống.

Tiểu-Bảo thấy Dương-Qua ăn mặc theo lối Mông-Cổ nên chẳng dám coi thường lo hầu hạ săn đón tươm tất lắm.

Vừa khi đó thầy trò Lý-mạc-Thu dẫn Lục-vô-Song cũng bước vào trong quán.

Dương-Qua rất thông minh và lanh lẹ. Chàng đoán chắc nhờ chiếc mặt nạ này, Lý-mạc-Thu không thể nào nhận ra mình nữa. Nhưng cần phải làm sao cho hắn đừng có một điểm nào nghi kỵ mới phải.

Suy nghĩ xong chàng không nhìn lên hay ngó qua ngó lại, cứ cúi mặt xuống ăn uống, thỉnh thoảng liếc lên xem chừng bọn hắn làm gì hoặc có bàn tán gì cùng nhau chăng.

Lục-vô-Song dĩ nhiên không nói năng một lời. Nhưng Lý-mạc-Thu và Hồng-Lăng-Ba cũng cứ cặm cụi ăn uống không bàn luận gì cả.

Một chặp sau, gần xong bữa ăn, Hoàng-nhan-Bình

khẽ đưa chân hất nhẹ vào gót Dương-Qua để nhắc nhủ chàng hành động kẻo chậm trễ.

Dương-Qua đã hội ý nhưng suy nghĩ:

- Nếu đem cả tài nghệ của ba đứa, hoặc nếu thêm luôn cả cô chị dâu đang bị nạn kia, cũng chưa chắc đã làm gì xuể nổi Lý-mạc-Thu. Như vậy nếu đấu lực không lợi mà cần phải dùng trí đối phó thì hơn.

Nghĩ vậy chàng ngó nàng láy mắt rồi tay cầm chiếc muỗng khoát khoát mấy cái ngụ ý bảo chậm chậm đừng nôn nóng.

Vừa ngồi vào bàn ăn, Lý-mạc-Thu để ý nhìn theo Lục-vô-Song, thấy đôi mắt nàng long lên sáng ngời chưa biết con bé này dự định việc gì đây. Quan sát khắp xung quanh, Lý-mạc-Thu chỉ thấy ba người đang ngồi chăm chú ăn uống, và Lục-vô-Song cũng không để ý tới bọn này, nên không lưu tâm đến nữa.

Dương-Qua cố ngồi yên không nhúc nhích nhưng dồn hết tinh thần nghe ngóng, vì vậy nên Lý-mạc-Thu cũng không nghi ngờ tí nào.

Trong bầu không khí yên lặng có lảng vảng một sự nặng nề khó thở. Ngay khi đó có tiếng chân đi rộn rịp từ phía cầu thang và hai người xuất hiện.

Hoàng-nhan-Bình đưa mắt xem thử cặp ấy là anh em Gia-luật-Tề và Gia-luật-Yên.

Hai người gặp Hoàng-nhan-Bình ngồi đây, rất ngạc nhiên nhưng cũng cúi đầu chào hỏi, xong lại ngồi một bàn ở phía trước.

Lý-mạc-Thu thấy đôi nam nữ vừa bước vào vô cùng xinh đẹp, trai như phan an tái thế, gái như ngọc nữ giáng trần, thật đáng một đôi trai tài gái sắc. Nàng đâu ngờ đó là hai anh em một, cứ tưởng là cặp tình nhân đang rủ nhau đi uống rượu.

Số là sau khi Hoàng-nhan-Bình đã chạy rồi, anh em Gia-luật-Tề đoán chắc nàng không trở lại nữa nên xin phụ thân đi xem phong cảnh vùng này và ghé vào đây giải khát, không ngờ oan gia lại gặp oan gia.

Lý-mạc-Thu chưa thu hồi được quyền "Ngũ độc Bí truyền" thì luôn luôn đem lòng lo lắng, ăn chẳng ngon ngủ chẳng yên. Vào bàn ăn, nàng chỉ nuốt qua loa vài miếng rồi lại bên cửa sổ, tỳ tay vào lan can nhìn xuống đường tiêu khiển.

Bỗng phía đầu đường có hai người ăn mày bảy túi đang cùng nhau nói chuyện, chỉ trỏ huyên thiên rồi sắp sửa đi nơi khác có vẻ hấp tấp lắm.

Lý-mạc-Thu bỗng nhớ ra một việc, đưa tay ngoắc hai người và lớn tiếng gọi:

- Này hai vị anh hùng trong Cái-bang, kính mời hai vị vào đây nhậu chơi. Tôi có một việc muốn nhờ nhị vị về thưa lại cùng Bang chủ.

Sở dĩ thấy thái độ của họ đang hoảng hốt sắp bỏ đi đâu đó, nếu gọi lại để cho tiền như lúc thường e họ không lại, vì vậy nên Lý-mạc-Thu lấy cớ là nhờ nói chuyện với Bang chủ. Hai người sẽ nghĩ có chuyện rất quan trọng mới liên hệ đến Bang chủ nên buộc lòng phải lên.

Lục-vô-Song theo dõi thấy sư phụ gọi hai người ăn mày trong bụng dự đoán có lẽ sư phụ sẽ chất vấn về cuốn "ngũ độc bí truyền" nên đau lòng lo sợ, mặt mày tái mét, tim đập đồm độp.

Gia-luật-Tề đã từng nghe danh Cái-Bang là một tổ chức to lớn có ảnh hưởng vô cùng sâu rộng trong nước. Bang chủ là một nhân vật siêu quần, tài cao xuất chúng. Nay có một đạo cô hãy còn non tuổi mà gọi hai người ăn mày nhắn lời muốn nhờ chuyển lên Bang chủ thì không hiểu nàng thuộc hạng người nào nên ngừng lại theo dõi xem thử sự việc xảy đến ra sao.

Hai người ăn mày chống gậy lộp cộp vào tiệm đến trước mặt Lý-mạc-Thu hỏi:

- Kính xin tiên cô cho biết có điều gì chỉ dạy?

Chào hỏi xong, hai người đưa mắt nhìn xung quanh, vừa thấy Lục-vô-Song ngồi bên cạnh, mặt người đã biến sắc vì tức giận. Y nhớ lại Lục-vô-Song đã đón đánh mình độ nọ, chẳng biết vì sao lại ngồi đây, cho nên trong lòng hậm hực, chỉ muốn ăn gan nuốt sống.

Lý-mạc-Thu mỉm cười và dịu dàng nói:

- Quý vị đừng nóng nảy vô ích, cứ xem lại mu bàn tay rồi sẽ biết.

Cả hai giật mình vội lật úp bàn tay xem lại. Trên mu bàn tay mỗi người in rành rành một dấu bàn tay son đỏ đậm có đủ năm ngón.

Hai người đến tái mặt vì sợ hãi và kinh dị, tự hỏi:

- Không biết hắn hạ độc thủ hồi nào dấu vết "ngũ độc thần chưởng" đã khắc rõ trên tay mà không hề hay biết.

Thật ra không riêng gì hai gã ăn mày không biết mà chính bọn Dương-Qua, Gia-luật-Tề cũng chẳng ngờ được Lý-mạc-Thu hành động quá mau lẹ đến mức đó.

Thế là hai người ăn xin đồng thanh rú lên:

- Trời ơi, vậy Tiên-Cô là Xích-luyện Tiên-tử rồi còn chi nữa?

Lý-mạc-Thu làm thinh không đáp. Nàng điềm nhiên bưng ly rượu lên dùng tay xoay một vòng. Bao nhiêu rượu thoát ra ngoài biến thành một vòng tròn quay tít trên không. Nàng đưa tay khẽ phẩy một cái bao nhiêu rượu lại thu hồi vào chén như cũ không rơi một hột nào.

Đây là một thế trong công phu thượng thừa của Cổ Mộ đài. Dương-Qua cũng có học qua nhưng vì đào luyện còn non, chưa được tinh diệu bằng Lý-mạc-Thu.

Sau khi trổ tài để dằn mặt hai gã ăn mày, Lý-mạc-Thu từ từ bảo:

- Ta cảm phiền hai người về thưa lại với Bang chủ rằng xưa nay Lý-mạc-Thu này cam phận nước sông, chưa hề lan tràn vào nước giếng và lúc nào cũng hâm mộ oai danh của Đại Bang Khất Cái. Như vậy thì quý Bang cũng không nên vô cớ để sát hại lẫn nhau nghe chưa?

Hai người lấm lét nhìn nhau rồi lén nhìn Lý-mạc-Thu. Lời nói của nàng sao mà dịu dàng thanh nhã như vậy, mà hành động lại quá hiểm ác. Chẳng hiểu bọn mình đã làm gì xúc phạm mà nàng nỡ hạ độc thủ.

Lý-mạc-Thu đoán biết tư tưởng của họ nên nói tiếp:

- Các ngươi đã trúng "Ngũ độc thần chưởng" nơi tay rồi. Mau mau về thưa lại cùng Bang chủ đem cuốn sách trả lại xong, ta sẽ giải độc cho.

Hai người ngạc nhiên hỏi:

- Sách gì vậy. Chúng tôi không hề biết?

Lý-mạc-Thu tươi cười và ôn tồn nói:

- Cuốn sách ấy đã cũ kỹ và rách nát lắm rồi. Nhưng nếu sợ mất một trang thì một trăm mạng người cũng không bù được nổi.

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 28 : Nữ lang áo đỏ với cặp thần điêu.

Tuy biết mình đã bị độc chưởng nhưng hai người vẫn chưa thấy đau đớn hay có gì khác lạ trong người. Đến khi nghe Lý-mạc-Thu nói giọng hăm dọa thì giựt mình, xem lại mu bàn tay thấy dấu đỏ càng lúc càng lan rộng thêm. Lúc bấy giờ cả hai mới bàng hoàng và không còn mơ hồ gì nữa. Độc thủ của Xích luyện thần chưởng đã nhiễm vào người đúng sự thật một trăm phần trăm rồi.

Thấy Lý-mạc-Thu hăm giết hàng trăm mạng để đổi cuốn sách ấy thì cả hai càng lo âu hơn nữa, nhắm phải về thưa lại Bang chủ ngày không còn trì hoãn được nữa.

Thế rồi họ ngầm đưa mắt láy nhau ra ám hiệu và chạy luôn ra ngoài không một lời bái biệt.

Nhìn theo hai người ăn mày khuất dạng ngoài đầu phố, Lý-mạc-Thu nghĩ bụng:

- Chúng bay đã trúng "ngũ độc thần chưởng" rồi thì không một danh sư nào có thể chữa nổi. Suốt gầm trời này, chỉ trừ một mình Nhất-Đăng Đại-Sư, không có một kẻ nào, hay một phương tiện nào có thể cứu chữa được nữa. Nếu Bang chủ bây muốn cứu mạng hai đứa, phải đem trả cuốn "Ngũ độc bí truyền" may ra ta sẽ ra ơn mới khỏi chết.

Nhưng bỗng nhiên nàng sạm mặt vì một ý nghĩ khác:

- Tất cả bí truyền của "ngũ độc thần chưởng" và phương pháp cứu cấp đều có ghi rõ trong cuốn "ngũ độc bí truyền". Sách này hiện đang nằm trong tay ban Khất-Cái. Bọn chúng chỉ cần học theo đó mà giải cứu chứ cần gì nhờ đến mình nữa.

Nghĩ đến đây nàng toát mồ hôi ướt áo, vội vàng phi thân bay vút theo để bắt hai người ấy lại.

Trong phút chốc, nàng đã đuổi theo kịp và đưa tay nắm đầu lôi lại.

Hai người đang đi bỗng nghe gió lộng đàng sau, một ánh vàng thấp thoáng vừa đến thì một cánh tay của một người đã bị túm chặt kéo ngược trở lại.

Vì sức kéo quá mạnh, xương tay hắn gãy lìa răn rắt.

Người kia vội vàng xáp lại cố đánh để giải thoát cho bạn. Nhưng Lý-mạc-Thu khẽ lách qua một bên thoát khỏi đường quyền, vung bàn tay trái ra giả đập vào mặt. Người ấy cả sợ cúi đầu xuống tránh. Tức thì nàng xòe tay chém sả xuống một nhát gãy tiện xương vai.

Trong chớp mắt cả hai người đều bị trọng thương. Tuy cố gắng vùng vẫy nhưng vẫn không thoát khỏi và bị nàng lôi luôn về tiệm nước.

Đến nơi, Lý-mạc-Thu xô hai người trên mặt đất cười bảo:

- Hai ngươi tạm ở đây dưỡng bệnh. Chừng nào Bang chủ đem sách đến trả ta sẽ cho đổi mạng hai đứa mang về.

Nàng điềm nhiên kêu thêm rượu rồi ngồi xây lưng về phía hai người để uống.

Hai người dáo dát nhìn nhau rồi muốn tìm cách chạy thoát. Hình như Lý-mạc-Thu đã biết rõ thâm ý ấy nên quay lại cười lớn nói:

- Hai ngươi đã sả vai gẫy tay rồi. Nếu biết thân ở lại đây điều dưỡng thì được yên thân, tìm cách tẩu thoát sẽ gãy thêm chân nữa đấy nhé.

Nói xong nàng ngồi quay ra ngoài, ung dung rót rượu uống hình như không cần đếm xỉa gì đến kẻ khác.

Hồng-lăng-Ba động lòng bèn nói:

- Sư phụ, bọn chúng đã bị thương nặng. Sư phụ không tha cho khuất mặt để ở đây có ích gì đâu.

Lý-mạc-Thu hứ một tiếng đáp:

- Hôm nay sao cô giầu lòng nhân đạo vậy?

Nói rồi nàng đứng dậy xăm xăm bước đến gần hai người ăn mày.

Hai người này uất ức quá, đôi mắt trừng trừng nhìn thẳng vào mặt Lý-mạc-Thu, muốn ăn gan uống máu. Dẫu đã bị thương, nhưng nếu nàng còn ra tay hành hạ nữa, hai người sẽ thí mạng không tiếc.

Anh em Gia-luật-Tề nãy giờ ngồi ngoài nhìn xem sự việc xảy ra, ai nấy đều bất nhẫn và căm hờn thái độ kiêu căng, hành động quá ác của Xích-luyện Tiên-Tử.

Gia-luật-Tề bảo nhỏ em gái:

- Hiền muội hãy kiếm đường tạm lánh xa đi, con ác phụ này hung bạo lắm.

Gia-luật-Yên hỏi:

- Còn anh thì sao?

Chàng nói nhỏ:

- Chờ anh trừ được con ác phụ rồi sẽ ra sau. Thôi em đi đi để khỏi nguy hiểm.

Thật ra Gia-luật-Yên lúc nào cũng quý mến anh, đời nào nàng để Gia-luật-Tề ở lại với sự hiểm nghèo và lánh đi ra ngoài một mình cho yên thân được.

Vì vậy cho nên tuy không dám cãi, nàng vẫn bần dùn chưa biết nên ở hay đi.

Ngay lúc ấy Dương-Qua phi thân bay vút qua gần Gia-luật-Tề khẽ bảo:

- Đại huynh, chúng ta cùng ra tay một lượt thì hay hơn. Cứu nạn cho kẻ yếu đâu phải phần việc của riêng ai.

Gia-luật-Tề thấy người này ăn mặc y phục Mông-Cổ nhưng mặt mày quá ư xấu xí, có lẽ từ xưa đến nay chưa có một thanh niên nào xấu xa bằng. Chàng suy nghĩ:

- Người này là ai, bản lãnh như thế nào chưa rõ. Hắn ngồi chung bàn cùng Hoàng-nhan-Bình, chắc nàng biết rõ, tông tích, nhưng chẳng lẽ đi gạn hỏi bây giờ. Đành rằng việc cứu khốn phò nguy là nhiệm vụ của kẻ cầm gươm. Nhưng Xích-Luyện Tiên-Tử Lý-mạc-Thu đâu phải tay vừa. Ta làm sao chống cự nổi hắn. Người này dầu tài giỏi cũng chưa chắc hơn ta, nếu cả hai cùng nông nổi e mất mạng vô lối.

Trong khi ấy, Lý-mạc-Thu cũng nhận được tiếng quen quen của Dương-Qua. Nhìn mặt chàng quá xấu xa và hoàn toàn xa lạ nhưng nghe tiếng nói thì nhất định có tiếp xúc hay tranh tài nhiều bận tại một nơi nào rồi, nhưng nghĩ chưa ra.

Lúc đó Dương-Qua nói tiếp cùng Gia-luật-Tề:

- Đại huynh chờ tôi đi mượn gươm đã, vì tôi không có vũ khí.

Nói rồi chàng xoay mình bay sát bên Hồng-lăng-Ba đưa tay nắm gươm nàng và nói nhỏ:

- Nương-Tử xin vui lòng cho mượn tạm thanh kiếm nhé!

Hồng-lăng-Ba chưa kịp đối đáp ra sao thì gươm đã bị đoạt mất rồi.

Dương-Qua nắm gươm trong tay rồi xông ra đứng sừng sững giữa Lý-mạc-Thu và hai người ăn xin.

Thấy thân pháp người này vô cùng lanh lẹ, Lý-mạc-Thu cảm thấy chột dạ, để ý xem chừng. Riêng Gia-luật-Tề được biết tài năng của người bạn lạ thì lòng mừng vô hạn, cùng bước đến gần khẽ hỏi:

- Xin Đại-huynh vui lòng tỏ bày quý tánh cao danh để tiện bề xưng hô.

Dương-Qua đáp:

- Tôi họ Dương!

Nói rồi chàng vung gươm lên, nhưng bỗng hoảng hốt buột miệng nói:

- ấy chết, ta mượn lầm thanh gươm gãy rồi.

Vừa nghe được câu ấy, Hồng-lăng-Ba vụt nhớ ra và gọi lớn:

- Sư phụ, lại hắn nữa rồi. Chính thằng bé đấy sư phụ ạ!

Biết không tiện che đậy nữa, Dương-Qua đưa tay vuốt chiếc mặt nạ xuống và lễ phép nói:

- Đệ tử Dương-Qua xin kính chào Sư-bá. Xin chào mừng liệt vị.

Nghe lối xưng hô "Sư-bá" của Dương-Qua, Gia-luật-Tề hoảng kinh nghĩ bụng:

- ồ té ra họ cũng một phái với nhau cả, phen này quả thật mình đã sa chân vào cạm bẫy đầy chông gai và rắn độc.

Lục-vô-Song cũng lẩm bẩm:

- Nhất định là chú Ngốc rồi chứ ai nữa. Nếu không phải hắn thì sao xưng hô như vậy?

Lý-mạc-Thu cất tiếng rang rảng lảnh lót hỏi:

- Mi đó hả? Sư phụ mi mạnh giỏi chứ?

Nghe nhắc đến sư phụ, Dương-Qua thấy đau nhói trong tim, mắt đỏ ngầu ngấn lệ.

Lý-mạc-Thu nói thêm, nửa đùa nửa thật:

- Tiểu-long-Nữ cũng có mắt tinh đời, khéo chọn đệ tử lắm. Thày trò mi quả thật vừa lứa xứng đôi!

Dương-Qua bỡ ngỡ đứng yên chưa biết nói sao.

Nguyên từ khi gặp lại Dương-Qua lần thứ nhì, Lý-mạc-Thu hết sức ngạc nhiên thấy tài nghệ chàng tăng tiến rõ rệt vì vậy nên hôm nay thấy chàng cùng xuất hiện với nhiều người lạ cũng đem lòng e ngại. Nàng muốn tìm cách ly gián và nói chọc tức để thủ thắng.

Nàng chậm rãi nói tiếp:

- Mi đi đâu lại trôi dạt về xứ này?

Dương-Qua chưa hiểu dụng ý của hắn ra sao, chắp tay bái một cái và nói:

- Sư phụ tôi có lời kính chào Sư-bá!

Lý-mạc-Thu hỏi:

- Mấy lâu nay chị em ta không có dịp gặp nhau, nên đem lòng tưởng nhớ. Hiện nay Sư phụ mi ở đâu rồi.

Dương-Qua đáp:

- Sư phụ tôi cũng ở gần đây, lát nữa sẽ đến gặp Sư-bá đấy.

Dương-Qua cũng thừa rõ sức mình, ngay có cả anh em Gia-luật-Tề cũng chưa thế thủ thắng được ác phụ. Chàng cố đặt điều lấy oai cô nương để lòe cho Lý-mạc-Thu sợ đừng bức sách mình lắm, hoặt rút lui đi ra khỏi đánh nhau cho đỡ khổ.

Lý-mạc-Thu lạnh lùng đáp:

- Ta chỉ hỏi cho biết thầy trò mi làm gì, chứ đâu có cần gặp mặt.

Dương-Qua nói:

- Sư phụ tôi định gặp Sư-bá để cầu xin Sư-bá rộng lòng tha tội cho Lục-sư-muội. Chẳng lẽ Sư-bá còn giận hờn không chịu tiếp ư?

Lý-mạc-Thu cười lạt nói:

- Mày đã cùng Sư-phụ mày làm những chuyện loạn luân, quả tệ hơn loài cầm thú. Hôm nay trước mặt ta còn giả ơn giả nghĩa, thầy thầy trò trò quả không biết xấu hổ.

Nghe Lý-mạc-Thu nhục mạ, Dương-Qua tức muốn điên người. Xưa nay chàng tôn sùng kính mến Tiểu-long-Nữ hơn ai hết. Hôm nay Lý-mạc-Thu chẳng những vu khống cho mình mà còn trắng trợn bêu xấu Sư-phụ nữa, quả là một điều không thể chịu nổi. Chàng trợn mắt nhìn, rồi vung gươm xông vào chém loạn xạ.

Lý-mạc-Thu né sang một bên cười trêu nói thêm để chọc tức:

- Ta tưởng bọn thú vật đã có gan làm việc loạn luân như mi thì chẳng biết gì liêm sỉ nữa. Thế mà cũng biết giận hờn, xấu hổ sao?

Dương-Qua làm thinh không đáp nữa. Sử dụng thế "Liên hoàn kiếm" của Trùng-dương-Cung tấn công liên tiếp.

Thấy thế kiếm cực kỳ ác liệt, Lý-mạc-Thu chẳng dám xem thường vội múa phất trần chống cự.

Hai người cùng nhau tranh tài một chập lâu, Lý-mạc-Thu nhận thấy kiếm pháp của Dương-Qua vô cùng tinh thục, càng đánh càng hăng, càng múa càng dẻo, tất cả những thế của mình đều bị hắn đoán trước khắc chế được hết, giá mình không dày công rèn luyện khó bề cự địch nổi.

Càng nghĩ càng oán thầm Sư-phụ mình quá thiên vị, không truyền dạy cho mình tất cả những bí quyết của vũ thuật sư môn, để đến bây giờ một đệ tử của Sư-muội mình biết nhiều thế võ mà mình chưa được học.

Một chập sau, nàng thấy tay chân có phần lúng túng bèn hét lên một tiếng, nhảy vọt lên không trung là là sa xuống, đặt một chân trên miệng ly còn chân kia co lên không cử động. Nếu một kẻ khác thì cái ly phải bể tan dưới sức nặng của thân hình ngay. Lý-mạc-Thu triển khai khinh công tuyệt kỹ nhón ngón chân khẽ đứng trên mép ly mà vững như đinh đóng, toàn thân không xao động, rượu trong ly cũng không đổ ra một giọt nào.

Đứng yên nàng mỉm cười hỏi:

- Sao, tình nhân mi có dạy cho mi được khinh công như vậy chưa?

Dương-Qua trợn mắt chỉ mặt Lý-mạc-Thu hét:

- Mi chớ nói càng, ai là tình nhân của ta mà hỏi bậy như thế?

Lý-mạc-Thu cất tiếng cười vang rồi nói lớn:

- Long Sư-muội đã có lời phát thị, nếu Thủ-cung-Sa chưa mất, không bao giờ rời khỏi Cổ-Mộ đài. Hôm nay mi o bế quyến rũ như thế nào đến nỗi hắn thuận theo mi hạ san một cách ngoan ngoãn. Như thế không phải là tình nhân thì là gì nữa hử?

Dương-Qua nổi giận đến cực độ, nhưng chẳng biết lấy câu gì biện bạch cho tiện, chàng cũng phi thân nhảy lên và dùng khinh công đặt chân trên một miệng bát. Tuy mức khinh công của chàng cũng khá điêu luyện, cái bát lớn mười lần chiếc ly nhưng chàng vẫn bị loạng choạng mấy cái rồi mới giữ thăng bằng lại được.

Lý-mạc-Thu cười cười dùng cán phất trần điểm nhẹ vào sống kiếm và nói lớn:

- A, thế ra hắn cũng dạy cho mi khinh công khá lắm. Vậy mi phải cố ăn ở cho vẹn tình để đáp lại thâm ân sư phụ nhé.

Dương-Qua tức giận gần lộn ruột, đỏ mặt tía tai quát lớn:

- Hỡi con điếm Lý-mạc-Thu. Mi quả thật là thú vật nên mở miệng nói ra những lời bậy bạ như thế ấy.

Nói xong, lưỡi gươm đã vun vút chém tới, lấp loáng ánh hào quang.

Lý-mạc-Thu vẫn ung dung đỡ và chậm rãi nói với giọng kẻ cả:

- Muốn người ta đừng bêu xấu thì chính mình đừng làm điều tồi bại! Ta không ngờ phái Cổ-Mộ lại sanh ra hai đứa bay, đến nỗi làm thương luân bại lý, xấu hổ tông môn, thật đáng lấy mo che mặt để thiên hạ khỏi nhìn thấy mà chê cười.

Mỗi câu nói châm chọc của Lý-mạc-Thu như một mũi dao nhọn đâm vào tim của Dương-Qua, khiến chàng thấy tâm thần bấn loạn vì uất khí đang trào dâng ngùn ngụt.

Hai anh em họ Gia-Luật, Hoàng-nhan-Bình, Lục-vô-Song lặng thinh đứng nghe, không biết thật hay giả, chẳng nói một câu nào.

Ai nấy cũng đồng nghĩ bụng:

- Có tích mới dịch ra tuồng, nếu chẳng lửa thì làm sao có khói! Chuyện này nếu không hoàn toàn ắt cũng phải có mấy phần đúng. Và hành vi như vậy quả là một việc làm đáng khinh bỉ.

Thế là ai ai cũng đinh ninh Dương-Qua là một thanh niên thiếu tư cách.

Trong khi Dương-Qua dùng kế nghi binh đem Tiểu-Long-Nữ ra chọc Lý-mạc-Thu, trái lại Lý-mạc-Thu ngán tài nghệ của Dương-Qua lại sợ Tiểu-long-Nữ ra tiếp ứng không đủ sức đánh lại nên đem những chuyện xấu xa phóng đại thêm để bêu xấu. Nếu Tiểu-long-Nữ nấp đâu gần đây chắc sẽ xấu hổ mà cút luôn. Thật là vỏ quít dày gặp móng tay nhọn.

Dương-Qua bản chất ngay thật, xưa này sùng kính Sư-phụ như một vị thầy bất khả xâm phạm, thế mà hôm nay bị kẻ thù công nhiên phỉ báng không có lời bào chữa được nên uất khí xông lên, đầu óc bấn loạn, hét lên một tiếng té nhào xuống ngất xỉu luôn.

Lý-mạc-Thu cả mừng, huơ phất trần đập mạnh vào đầu Dương-Qua.

Gia-luật-Tề thấy tình trạng quá cấp bách, chẳng biết làm sao giải cứu kịp, vội cầm hai ly rượu trợn mắt lia mạnh vào Lý-mạc-Thu nhằm vào hai yếu huyệt "Chi Dương" và "Dương Quan" mà điểm.

Lý-mạc-Thu nghe có tiếng gió vù vù sau lưng đoán có ám khí, bèn vận dụng nội công bế tắc cả các huyệt đạo để chịu đựng, đồng thời dùng phất trần đập luôn vào sọ Dương-Qua để hạ sát cho rồi.

Nhưng nàng bỗng giật mình vì thấy hai ly chưa chạm vào người mà mùi rượu đã thấm vào hai huyệt đaọ "Dương-Quan" và "Chi Dương". Như vậy kẻ ném ly phải là một tay cao thủ đáng ngại. Đó là cái vạ bên lưng cần phải trừ trước. Còn thằng ranh này sẽ giết sau cũng được.

Nghĩ rồi nàng quay phắt cây phất trần gạt mạnh đôi ly. Phất trầm chạm vào ly, chấn động cả cánh tay, Lý-mạc-Thu thất kinh suy nghĩ:

- Chà, nội lực ghê lắm! Hay là con A đầu Tiểu-long-Nữ đã đến rồi chăng?

Sau khi định thần nhìn lại thì không phải Tiểu-long-Nữ, mà là một thanh niên tuấn tú ăn mặc theo lối Mông-Cổ. Nàng ngạc nhiên lẩm bẩm:

- Bọn trẻ ranh sao lắm đứa lợi hại như vậy nhỉ?

Lúc đó Gia-luật-Tề tuốt trường kiếm, cất giọng sang sảng nói:

- Cô nương võ nghệ tuyệt luân, xin chỉ giáo cho tiểu sinh vài đòn.

Lý-mạc-Thu ngán tài ném ly của người này, nhưng thấy bước chân đi còn nặng nề thì biết rằng công phu chưa đáng kể mấy nên yên chí nạt rằng:

- Các hạ là người ở đâu, đệ tử của vị nào, tự nhiên lại xen chân vào công việc của kẻ khác như vậy?

Gia-luật-Tề đáp:

- Tiểu sinh là Gia-luật-Tề, đệ ử của Toàn-Chân giáo phái.

Ngay khi tấy Dương-Qua sực tỉnh lại. Chàng đang mơ hồ nhìn xung quanh để nhớ lại những việc vừa xảy ra, thình lình được nghe Gia-luật-Tề tự xưng môn đệ của Toàn-Chân phái thì giựt mình sợ hãi.

Lý-mạc-Thu hỏi tiếp:

- Tôn-Sư của ngươi là ai? Mã-Ngọc hay Khưu-xứ-Cơ?

Gia-luật-Tề đáp:

- Hai vị đó đều không phải là Sư-phụ của Tiểu-sinh.

Lý-mạc-Thu nói thêm:

- Có lẽ là Vương-Xứ-Nhất chăng?

Gia-luật-Tề đáp:

- Thưa, cũng không phải.

Lý-mạc-Thu cả cười rồi đưa tay chỉ về phía Dương-Qua nói lớn:

- Thằng bé kia cũng xưng là người của Toàn-Chân phái, đệ tử của Vương-Trùng-Dương đó! Vậy ngươi và hắn có quen biết nhau không?

Gia-luật-Tề đáp:

- Chính tôi đây và người ấy chưa hề quen biết. Nếu theo mức tuổi ấy thì làm sao có thể là đệ tử của Vương giáo chủ được.

Lý-mạc-Thu cầm phất trần điểm mặt chàng nói:

- Bọn đệ tử Toàn-Chân chúng bay đều là bọn man trá, ăn nói bậy bạ, chẳng có chút gì thành thật, làm sao mà tin nổi. Thôi chuẩn bị đỡ đây.

Nàng đưa phất trần đập luôn mấy nhát liên tiếp.

Gia-luật-Tề vũ lộng tay trái cầm kiếm gạt ngang, chân trái dang ra, tay mặt phóng ngầm một mũi "định phong châm" bay vung vút về phía Lý-mạc-Thu.

Nguyên thuật ném Định phong Châm vốn là môn bí tuyển chính tông của Toàn-Chân-Phái. Muốn ngọn châm phóng đi đúng đích phải tập trung đầy đủ "Thần hoàn, khế túc", "với bốn tác kinh, công, lực, thức" dầu xa mấy cũng trúng, dày mấy cũng phủng.

Phàm đệ tử nào được bí truyền thuật này phải có thiên tư xuất chúng công lực siêu phàm chứ không phải bất cứ kẻ nào cũng học được.

Ngày còn ở Trùng-dương-Cung, Dương-Qua có hiểu hết sự huyền diệu của môn Định phong Châm. Sau này chàng cũng có học qua, nhưng vì phải trau luyện nhiều môn nên không được chu đáo và điêu luyện bằng kẻ đã chuyên tập riêng môn ấy nhiều năm như Gia-luật-Tề.

Nghe tiếng chân lao đi xé gió, Lý-mạc-Thu biết không phải tầm thường, hơn nữa trong lòng đã e dè tài nghệ của Gia-luật-Tề, nên vội vàng múa tít cây phất trần để chống đỡ bốn mặt.

Nhưng kỳ quặc thay cho mũi châm lúc nào cũng bám sát theo cây phất trần, lúc bên tả, lúc bên hữu, đảo lộn không ngừng, rít lên vo vo nghe rất dễ sợ, hở có một tý là bỏ mạng ngay!

Gia-luật-Tề còn thiếu kinh nghiệm chiến đấu, xưa nay chưa gặp tay nào có lợi hại như thế này, vì vậy nên đem hết tài năng ra thi thố. Lý-mạc-Thu trái lại đã sành sỏi quá nhiều nên lúc đấu chí đành đỡ tránh né cầm chừng để nhận xét, tìm ra nhược điểm của đối phương để dễ bề hạ thủ.

Sau khi thu hồi "định phong châm" về Gia-luật-Tề vũ lộng thanh trường kiếm như muôn ánh sao sa, biến thành một vầng hào quang sáng trắng bao phủ khắp người, thỉnh thoảng lao ra những ngọn mạnh như vũ bão.

Lý-mạc-Thu vừa đánh vừa khen thầm:

- Phái Toàn-Chân sao có nhiều cao thủ lắm vậy. Cậu bé này tuy chưa có danh tiếng trên giang hồ nhưng xem tài nghệ cũng không kém gì những tay hữu hạng như Tôn-Bất-Nhị, Xích-Đại-Thông của Toàn-Chân phái.

Một chập sau, Lý-mạc-Thu đánh đỡ có vẻ uể oải, hình như đã đuối sức. Gia-luật-Tề mừng rỡ, vội xông lên chém xả vào người một kiếm thật hiểm ác. Nhưng chàng đâu có ngờ đó là nghi kế của địch. Vì vậy nên Lý-mạc-Thu đã lách qua một bên, tung cước đá trúng cánh tay một cái tưởng như gãy xương, lưỡi kiếm văng ra xa lắt.

Tuy vậy, Gia-luật-Tề vẫn không rối loạn, kiếm vừa mất đã lập thế nhập nội, dùng tay trái cướp lấy cây phất trần khiến Lý-mạc-Thu phải thối lui buột miệng khen lớn:

- ồ, khá lắm, khá lắm!

Khi ấy Dương-Qua đã tỉnh hẳn. Thấy Gia-luật-Tề đang lâm nguy chàng đã nạt lớn:

- Con tiện tỳ chớ lên mặt ỷ tài. Ta không còn xem mi là sư bá nữa đâu nhé.

Lý-mạc-Thu nhìn chàng cười nhạt và nói nữa:

- Phải rồi ngày nay mi là chồng của Sư phụ mi rồi thì ta đâu còn là Sư bá được nữa. Bây giờ cùng vai vế, mi có gọi ta Sư tỷ cũng được vậy.

Miệng nói tay vung phất trần phảy nhẹ một cái, thanh kiếm của Gia-luật-Tề hình như bị một mãnh lực vô hình phăng lên lao vút vào ngực giữa Dương-Qua.

Lục-vô-Song, Hoàng-nhan-Bình thất sắc cùng rú lên một tiếng vì sợ hãi.

Lý-mạc-Thu dùng thuật "phóng kiếm" để hạ Dương-Qua. Nhưng nàng đâu rõ trong khi còn ở trong Cổ-Mộ, Dương-Qua đã rèn luyện môn bắt kiếm và phóng kiếm cực kỳ tinh diệu, có lẽ còn cao siêu hơn Lý-mạc-Thu một bực nữa.

Vì vậy chàng khẽ đưa tay trái thu kiếm một cách rất nhẹ nhàng như trò chơi. Thế rồi tay kiếm tay gươm, cùng Gia-luật-Tề tấn công Lý-mạc-Thu không ngớt.

Quang cảnh tửu điếm thật là hỗn độn. Bàn ghế ngã nghiêng, chén bát đổ hết. Bao nhiêu thực khách hoảng sợ rút lui hết, ngay cả bọn tửu bảo và tên Chưởng-Quỳ cũng kiếm đường trốn tránh không dám đứng gần.

Từ ngày theo thầy học đạo và cũng xuất thân trên giang hồ Hồng-lăng-Ba thấy Sư phụ chưa bại một trận nào, vì vậy nên mặc dầu có hai người cùng tấn công Lý-mạc-Thu, nàng vẫn điềm nhiên đứng ngó, không vào tiếp ứng.

Thình lình Lý-mạc-Thu vận khí ép hơi thành gió tung ra một chưởng rất mãnh liệt. Gia-luật-Tề và Dương-Qua bị làn chưởng phong đẩy tới quá mạnh, lảo đảo đứng không vững nữa.

Hoàng-nhan-Bình và Gia-luật-Yên hè nhau nhảy vào tiếp chiến.

Nhưng tài nghệ của hai nàng chưa cao siêu lắm cho nên không thể cứu vãn tình thế. Loay hoay mấy đòn, Gia-luật-Yên đã lãnh một phất trần vào đùi ngã ngồi xuống đất ôm chân rên rỉ.

Gia-luật-Tề thấy em bị thương nóng ruột, hoang mang, tay chân luống cuống đỡ không kịp cũng bị một đòn khá mạnh té nhào ra đất.

Nữ lang áo xanh vội vàng nhún chân phi thân vào vòng chiến bồng Gia-luật-Yên mang ra.

Lý-mạc-Thu tuy bận đánh cùng nhiều người nhưng vẫn giữ bình tĩnh nhận xét đủ bốn phương tám hướng, chủ động tình hình. Vừa thấy lối nhảy của nữ lang áo xanh rất nhẹ nhàng thanh thoát nàng cũng chột dạ nghĩ thầm:

- Nàng này là ai nữa mà tài nghệ cũng rất cao siêu. Xem lối phi thân của nàng cũng đủ biết đã được chánh phái chân truyền không sai.

Nàng quay lại phía nàng áo xanh, khẽ vung phất trần hỏi lớn:

- Nàng là ai, sư phụ tên gì, bỗng dưng đến đây gây hấn cùng ta?

Hai người tuy đứng cách xa nhau gần hai trượng nhưng cái phẩy nhẹ của cây phất trần đã lộng một luồn gió mạnh, thổi tốc vào mặt nữ lang, khiến nàng phải bước qua một bên, và dung tay áo rút ra một món binh khí đối địch lại.

Lý-mạc-Thu nhìn thấy món binh khí ấy rất lạ lùng, giống như một ống tiêu, bề dài chừng ba thước, óng ánh như ngọc. Nàng rất ngạc nhiên không biết nàng thuộc chánh phái nào mà sử dụng loại vũ khí này.

Lý-mạc-Thu vũ lộng phất trần tấn công dồn dập, nàng áo xanh chống đỡ có phần yếu thế. Dương-Qua và Gia-luật-Tề thấy vậy cùng nhau xông vào đánh giúp.

Lý-mạc-Thu vẫn không nao núng, điềm nhiên múa cây phất trần đánh bốn mặt, thỉnh thoảng vận dụng chưởng lực đánh bồi vào khiến cả ba người đã dần dần lâm thế hạ phong rõ rệt.

Dương-Qua vừa đánh đỡ cầm chừng vừa nghĩ bụng:

- Nếu cứ để đánh kéo dài mãi, thế nào cũng có người tán mạng.

Vì vậy chàng bỗng gọi lớn:

- Con nữ tặc này lợi hại và ác độc vô cùng, xin bốn chị em hãy tìm đường rút lui gấp, đừng chần chờ nữa mà mất mạng đấy.

Bốn nàng nghe nói cũng nhận thấy tình thế quá nguy cấp, tuy nhiên không ai nỡ bỏ ra đi. Nhưng mỗi lúc Lý-mạc-Thu càng tăng gia áp lực, thấy không thể nào nấn ná được nữa nên Lục-vô-Song băng mình chạy xuống lầu trước tiên.

Hoàng-nhan-Bình phụ lực cùng nữ lang áo xanh dìu Gia-luật-Yên đi theo.

Hai người ăn mày thấy hai thanh niên xinh đẹp kịch đấu cùng Lý-mạc-Thu một trận vô cùng ác liệt, muốn xông lên giúp sức, nhưng hiềm nỗi kẻ bị gãy tay, người bị gãy vai, thương tích trầm trọng nên không thể nào đánh nhau được. Tuy nhiên cả hai cũng quyết tâm cùng ở lại, quyết không chịu bỏ đi nơi khác lánh thân.

Gia-luật-Tề, Dương-Qua cố đem hết tâm lực đánh cầm chừng cùng Lý-mạc-Thu, chờ các cô chạy trốn được xa rồi sẽ thừa dịp tẩu thoát.

Lý-mạc-Thu tuy chiếm phần ưu thế nhưng trong lòng vô cùng phiền muộn vì nghĩ rằng:

- Xưa nay được một cây phất trần tung hoành trên thiên hạ không nhượng một kẻ nào, muốn giết ai thì giết, hễ đánh đâu là thắng đó. Không ngờ hôm nay chỉ có hai thằng nhãi con, miệng còn hôi sữa mà đánh nhau cả buổi không thắng được, để cho Lục-vô-Song tự do trốn thoát. Như vậy còn đâu là oai danh lừng lẫy của "Xích Luyện Tiên Tử" nữa?

Trận đấu vẫn tiếp diễn vô cùng khốc liệt, đôi bên dồn hết sức, đem hết ngón ruột ra để tranh thắng lợi về mình.

Từ trong tiệm ăn, họ đưa nhau dần dần ra sân rồi kéo luôn ra lộ để đánh nữa. Cứ đuổi tới, chạy lui quần nhau một hồi, cả ba đã kéo nhau ra giữa đường, đánh vùi không ngớt.

Dương-Qua vừa đánh vừa lớn tiếng hò la thúc các cô tẩu thoát. Gia-luật-Tề cứ bặm môi đánh mãi không hé miệng nói một lời nào.

Dương-Qua lẹ như cheo, vừa đánh vừa nhảy tung tăng thoạt trước thoạt sau luôn luôn thay đổi thế đánh. Gia-luật-Tề lúc nào cũng giữ nét mặt uy nghiêm trầm tĩnh đánh ra nhiều đòn thật mãnh liệt khiến Lý-mạc-Thu đôi khi cũng thấy lúng túng.

Đánh mãi nhưng không thấy Tiểu-long-Nữ ra mặt giúp sức, lúc bấy giờ Lý-mạc-Thu mới yên chí và phấn khởi tinh thần tấn công gắt hơn trước. Hai chàng thanh niên dần dần thấm mệt, trán đẫm mồ hôi, hơi thở đã dồn dập.

Lý-mạc-Thu mừng lắm và đinh ninh thế nào cũng bắt sống được cả hai trong phút chốc.

Bỗng nhiên từ giữa chín từng mây vọng xuống tiếng chim kêu lảnh lót như tiếng hạt reo, mỗi lúc lớn dần. Rõ ràng là tiếng chim điêu.

Hai con chim điêu xuất hiện giữa lưng trời, cánh xòe ra như bốn chiếc buồm, lông trắng xóa như tuyết, dáng điệu đẹp đẽ và hùng mạnh không tả xiết.

Vừa trông thấy, Dương-Qua đã nhận ra đây là cặp thần điêu của Quách-Tỉnh nuôi từ lâu, mà chàng đã từng quen thuộc khi còn sống trên Đào-Hoa-Đảo.

Nhận ra đôi chim điêu, Dương-Qua thoạt nghĩ:

- Hễ có chim tất nhiên sẽ có người. Thế nào Quách-Tỉnh cũng ở gần đâu đây. Ta đã phụ lòng ủy thác của ông, náo loạn Trùng-dương-Cung, cũng không nên để ông ấy gặp mặt lại thêm rắc rối.

Nghĩ thế chàng lấy chiếc mặt nạ mang vào mặt.

Đôi thần ưng bay xuống là là gần đất, đôi cánh vĩ đại quạt mát cả một vùng làm cho cát bụi bay lên mù mịt. Chúng đảo lên, sà xuống lượn mấy vòng rồi mỗi con một bên cùng xông vào mổ mắt Lý-mạc-Thu.

Thì ra đôi thần ưng còn nhớ và nhận ra con người đã phóng "Băng phánh châm" làm chúng nhiễm độc gần chết, nhờ Quách-Tỉnh tận tình cứu chữa rất lâu mới khỏi. Hôm nay vừa thấy Lý-mạc-Thu, chúng đã nổi lòng căm phẫn sà xuống tấn công trả thù.

Chúng cũng thừa biết Lý-mạc-Thu có băng châm vô cùng lợi hại cho nên luôn luôn để ý đề phòng. Hễ Lý-mạc-Thu đưa tay phất ra là chúng đã vút tận mây xanh để tránh né. Một chặp sau lại bay xuống tấn công vào đầu hay cổ.

Gia-luật-Tề thấy đôi thần điêu quá ư to lớn và khôn ngoan thì rất lạ lùng trong lòng có ý mến cảm, nhưng chàng cũng đoán rằng chúng không thể nào thắng nổi Lý-mạc-Thu.

Nghĩ rồi, chàng gọi Dương-Qua nói:

- Dương huynh, bây giờ chúng mình cùng xông vào, tấn công luôn bốn phía, xem con ác phụ chống đỡ cách nào!

Dương-Qua gật đầu. Hai người sửa soạn xông ra, bỗng nhiên có tiếng vó câu dồn dập từ xa vọng lại mỗi lúc một gần.

Một con ngựa vừa hiện ra, mình thon cẳng cao, màu lông đỏ như lửa phi đi rất mau. Vừa thoáng nghe tiếng nhạc reo mà nháy mắt ngựa đã đến ngay trước mặt.

Mọi người hết sức thán phục tài chạy mau của con thần mã và càng ngạc nhiên hơn nữa là một thiếu nữ cũng mặc toàn màu đỏ ngồi trên mình ngựa. Cả người và ngựa cùng màu, đàng xa không phân biệt được. Lúc đến gần mới nhận ra nàng có một khuôn mặt trắng như tuyết lồ lộ như tiên nga.

Nữ lang ghì cương. Con hồng mã đang phi như bay biến, bỗng đứng dừng lại toàn thân không nhúc nhích, bốn chân không xao động, nữ lang ngồi êm ru như trên phản gỗ, quả là điều hiếm có của một con ngựa quý.

Gia-luật-Tề vốn người Mông-Cổ, một xứ chuyên nuôi và cỡi ngựa. Chàng đã cỡi và thấy không biết bao nhiêu là ngựa quý, nhưng lúc nhìn con ngựa đỏ của nữ lang Hồng-y, chàng phải phục là con ngựa vô cùng quý báu, xưa nay chưa từng thấy con nào đẹp và hay như vậy.

Con ngựa hồng này vốn là con thần mã do Quách-Tỉnh bắt được trên sa mạc Mông-Cổ ngày trước, thuộc giống "Hàn huyết bảo câu", thứ ngựa thần rất hiếm có trên thiên hạ.

Con thần mã này chỉ chịu để cho vợ chồng Quách-Tỉnh và con gái là Quách-Phù cỡi được mà thôi.

Nữ lang hồng y quả là Quách-Phù, ái nữ của Quách đại hiệp.

Đã lâu lắm không gặp Quách-Phù, hôm nay vừa thấy mặt, Dương-Qua bỗng nhớ lại những cử chỉ kiêu căng ngang ngạnh của nàng đối với mình ngày còn thơ ấu, bất giác thở dài suy nghĩ:

- ờ chóng quá! Thật mới ngày nào mà nàng đã lớn lên và xinh đẹp như thế này rồi! Trông nàng chẳng khác gì một đóa hoa hồng mới nở giữa mùa xuân!

Quách-Phù dừng ngựa, trán lốm đốm mồ hôi, đôi má phấn phản chiếu màu đỏ của y phục càng tăng vẻ hồng hào trông thật lộng lẫy.

Nàng đưa mắt nhìn theo đôi thần ưng rồi quay lại ngó qua Gia-luật-Tề và Dương-Qua.

Thấy mặt mày Dương-Qua xấu xa cổ quái lại mặc y phục Mông-Cổ nên nàng bĩu môi khinh bỉ cho là giống man di mọi rợ.

Ngày còn thơ ấu giữa Dương-Qua và Quách-Phù có nhiều sự xung đột do tánh ý khác nhau, hôm nay vừa gặp lại nàng có thái độ kiêu căng khinh khỉnh, làm cho Dương-Qua bực mình thấy lòng tự ái dâng trào bồng bột. Chàng ngẫm nghĩ:

- Tại sao mi có thái độ khinh bạc hợm đời như vậy? Mi xem thường ta thì ta đâu có trọng mi. Mi đã quá ỷ lại vào cha mi là một trang đại hiệp võ nghệ trùm đời, mẹ mi là vị Bang chủ nữ hiệp, ông ngoại mi là một tiền bối trong võ lâm ngũ bá, suốt mấy đời nhà mi được thiên hạ nể vì tôn trọng! Ta đây trái lại đã gặp mọi cảnh trái ngang điêu đứng. Cha chết từ ngày còn trong bào thai, mẹ làm nghề bắt rắn rồi bỏ mạng vì rắn độc. Song thân ta đã như thế nên ta bị người đời xem rẻ. Như vậy chưa đủ sao mà mi còn muốn khinh miệt và sỉ nhục ta thêm nữa. ở đời nếu đừng kể đến ảnh hưởng của gia phong thì há dễ ai lại hơn ai, đối với mi ta đâu chịu thua sút. Thực chất của điều vinh nhục phải do chính mình tạo nên mới đáng quý chứ!

Càng ngẫm nghĩ, Dương-Qua càng đau lòng cho thân thế hẩm hiu và nghĩ thêm:

- Thiên hạ mông mênh, đất trời lồng lộng, chưa có một kẻ nào hiểu mình và thật tình thương yêu mình.

Đời ta chỉ có một người duy nhất đã tỏ lòng mến ta thật tình. Người ấy là Tiểu-long-Nữ. Nhưng ngày nay nàng lại bỏ ta ra đi không biết phiêu dạt phương nào, ngày hội ngộ thật là mơ hồ khó đoán.

Chàng đang vẩn vơ suy nghĩ, than cho mình, trách cho người lại nghe có tiếng ngựa phi mau tới nữa. Kế đó có hai người cỡi hai con ngựa vàng và xanh, đàng xa phi nhanh lại. Hai ngựa này cũng cao lớn, xinh đẹp thuộc loại báu câu hiếm có.

Lại gần, Dương-Qua thấy đó là hai chàng thiếu niên mặc áo màu vàng.

Quách-Phù đưa tay ngoắc hai người, liến thoắn nói lớn:

- Võ ca, anh có nhận ra con ác phụ chưa?

Hai thiếu niên áo vàng vừa cỡi ngựa đến sau không ai khác là hai anh em ruột Võ-đôn-Nhu và Võ-tu-Văn. Lý-mạc-Thu đã sát hại cả nhà họ Võ thì đối với hai anh em này quả là kẻ thù số một.

Bao năm qua hai anh em họ Võ lúc nào cũng nhớ đến mối thù của song thân, hằng nuôi ý chí phục thù rửa hận, nhưng chưa gặp dịp, không ngờ tình cờ hôm nay lại gặp oan gia. Lập tức cả hai đều nhảy xuống ngựa vung gươm đồng xông vào tấn công Lý-mạc-Thu.

Quách-Phù cũng la lớn:

- Tôi cũng xin giúp hai anh một tay nhé!

Nàng vừa nói vừa rút một thanh gươm đang cài bên yên ngựa, tung người nhẹ nhàng nhảy xuống đất rồi lăn sà vào vòng chiến.

Lý-mạc-Thu rất ngạc nhiên chẳng hiểu vì sao kẻ thù mình mỗi lúc một đông. Nàng nhìn sắc diện hai chàng thiếu niên này, mặt mày hùng hổ, miệng mím, mắt trợn như nẩy lửa, cố tâm ăn thua đủ với mình, mà võ công của người vào cũng có vẻ vô cùng điêu luyện quả là đệ tử của danh môn chính phái.

Kế đến cô gái áo đỏ, mặt đẹp như hoa, múa thanh gươm báu hào quang chói mắt, ánh sáng lập lòe, mặc dầu lối đánh đỡ còn thô sơ nhưng lối sử dụng kiếm pháp thì vô cùng vững chắc, đúng quy tắc nghề võ, chứng tỏ có một căn bản tập luyện rất công phu.

Lý-mạc-Thu nhìn nàng một chập bỗng nhớ lại và buột miệng gọi lớn:

- à, Cô nương họ Quách đây rồi!

Quách-Phù loan gươm một vòng, phi thân nhảy vụt lên cao rồi cả cười nói lớn:

- Té ra mi cũng nhận ra ta sao?

Nói xong nàng sà xuống, chân vừa chấm đất đã vung gươm đâm luôn hai nhát liên tiếp.

Lý mạc Thu cầm phất trần gạt phăng đi và nghĩ bụng:

- Con bé hãy còn nhỏ tuổi mà đã kiêu căng , thật ra mi có tài cán gì bao nhiêu mà hợm mình như vậy . Nếu ta không nể mặt cha mi thì đã cho nếm một cây phát trần cho bỏ xác .

Nghĩ xong , Lý mạc Thu muốn thừa cơ chiém đoạt thanh gươm báu nhưng ngay lúc đó anh em họ Võ đã nhất tề vung kiếm tấn công một lượt , mạnh như vũ bão .

Anh em họ Võ cùng Quách Tỉnh truyền phép đánh kiếm từ khi còn ở trên Đào Hoa Đảo . Cả ba cùng nau luyện tập sớm chiều , biết dùng phép phối hợp rất chặt chẽ . Cứ một người lui thì hai người tiến , kẻ thủ thế người tấn công , tới lui qua lại rất quy củ mạch lạc . Vì vậy tuy không phải là một trận pháp nhưng nhờ lối đánh ấy đã tăng lên áp lực rất nhiều cho đối phương . Huống chi lối múa cũng như cách đánh phối hợp lại do một đại võ sư là QuáchTỉnh chân truyền nên mỗi thế đánh ra vô cùng lợi hại .

Ba người một gái hai trau và thêm hai con thần điêu cùng nhau vây đánh một mình Lý mạc Thu rất kịch liệt .

Cả ba tuy có bảnh lãnh khá nhưng dù sao cũng chỉ là những tay mới , công phu còn non nớt , kinh nghiệm chiến đấu chưa bao nhiêu còn Lý mạc Thu thì võ công đã già dặn , công lực dồi dào , hơn nữa nếu nàng chú tâm hạ được một người thì tự nhiên hai người còn lại sẽ bại ngay .

Tuy nhiên Lý mạc Thu thấy phía địch ngày càng đông thêm , bọn Dương Qua , Gia luật Tề cũng lăm le xông đến . Hơn nữa ,chưa biết vợ chồng Quách Tỉnh sẽ xuất hiện lúc nào . Nếu y cũng đến đây thì làm sao cự cho lại , chi bằng cách chuồn sớm thì hay hơn .

Suy nghĩ xong , Lý mạc Thu múa tit cây phất trần cười ha hả nói lớn :

- Ta cho các người thưởng thức ngón " Võ hầu múa bông " nhé !

Thế là cây phất trần vũ lộng lên vo vo ,xé gió vùn vụt , đập tung bốn bề khiến ba người bị dồn lần ra xa , không thể nào đánh đỡ nổi . Anh em họ Võ bị áp lực của cây phất rần đánh dạt ra , lảo đảo đứng không vững nữa . Do đó thế liền hoàn phối hợp của ba thanh kiếm cũng mất hết hiệu lực , không còn thi thố được nữa .

Lý mạc Thu co một chân , đứng một chân , nhìn xa giống như một con vượn đang múa cành bông , quay cuồng như chong chóng .

Trong lúc đối phương đang chăm chú nhìn xem lối múa của mình , Lý mạc Thu khẽ bảo Hồng lăng Ba :

- Lăng Ba , chúng ta đi thôi !

Hai thầy trò dắt nhau chạy như tên bắn về phía Tây Bắc .

Quách Phù hét lớn :

- Đừng để hắn tẩu thoát . Hãy cố đuổi theo mau lên Võ ca .

Nói xong , cả ba cùng vung kiếm phi thân đuổi theo vùn vụt .

Lý mạc Thu triển khai khinh công dắt Hồng lăng Ba chạy mau như gió thoảng .

Vì sức khinh công của thầy trò Lý mạc Thu lẹ gấp đôi ba người cho nên phút chốc đã bỏ rơi khá xa , chỉ còn đôi thần điêu vỗ cánh tung bay theo và thỉnh thoảng sà xuống để mổ hay đưa vuốt ra chộp.

Thấy khinh công của mình còn sút kém , anh em họ Võ than rằng :

- Thôi đành bỏ dở dịp này vậy .

Than rồi huýt còi gọi đôi chim điêu ba trở lại .

Bọn Gia luật Tề ngại ba người lầm kế Lý mạc Thu nên vội vàng phi thân chạy theo đề phòng tiếp sức nếu cần .

Chạy một đỗi gặp ba người trở lại , đôi bên chào hỏi thân mật và vui vẻ lắm . Cùng là tuổi trẻ đang háo thắng , hơn nữa ai cũng tự hào vừa đánh bại được Xích luyện Tiên tử Lý mạc Thu cho nên câu nói tiếng cươì dòn dã , không tiéc lời ca tụng lẫn nhau .

Bỗng nhiên Gia luật Tề hoảng hốt hỏi :

- ủa , còn Dương huynh đâu rồi .

Hoàng nhan Bình đáp :

- Cách đây hơn một giờ tôi thấy anh ấy chạy đi một lối khác , tôi có hỏi đi đâu nhưng anh ấy chẳng trả lời và cứ đi mãi .

Nói xong nàng rầu rầu nhìn xuống đất , nét mạt suy tư như tiếc một cái gì quý báu đã mất .

Gia luật Tề vội chạy thẳng lên ngọn đồi cao , phóng mắt nhìn khắp nơi chỉ thấy đồng nội xanh rì , cỏ cây man mác , ngoài Lục vô Song và nữ lang Thanh Y đang nắm tay nhau đi đi lại lại trò chuyện , không thấy hình bóng Dương Qua đâu cra .

xa xa chân trời trắng đục , rừng núi bao la , chim ngàn tung cánh lẫn trong mấy xám . Gia luật Tè buồn rầu đưa mắt nhìn khắp cánh đồng bao la bắt ngát mà cố nhân đã vắng bóng biền biệt nơi nào ? Chàng cảm thây một nỗi u buồn xâm chiếm cõi lòng như mới mất đi một người bạn tri kỷ .

Tuy mới gặp Dương-Qua chưa được bao lâu, nhưng tình đã thắm thiết, ý hiệp tâm đầu, hình như đã quen biết từ mười năm trước.

Chàng bồi hồi suy nghĩ:

- Dương-Qua tuy tuổi trẻ mà tài cao, tánh tình vô cùng hào hiệp mới gặp nhau mà ta đã thấy mến ngay. Mặc dầu Lý-mạc-Thu xỉ vả y về câu chuyện bậy bạ cùng nữ sư-phụ, nhưng đó là một vấn đề hoàn toàn riêng tư đâu có liên hệ chi đến tình bè bạn. Không kết bạn được cùng chàng thật quả một điều đáng ân hận. Trên đời này dễ gì tìm được một thanh niên như chàng. Nếu chàng còn ở đây, chung sống cùng nhau, ta sẽ giúp chàng được nhiều ý kiến hay để trở nên con người chính đáng, gọt rửa hết những chuyện không hay đã xảy ra.

Nhất định một người như Dương-Qua sẽ trở thành một trang hảo hán đầy nghĩa khí. Chẳng hiểu vì sao Dương-huynh lại dứt áo ra đi không lời từ biệt. Thật tiếc cho ta đã mất một người bạn tốt.

Nhắc lại Dương-Qua, khi trông thấy bản lãnh của anh em họ Võ và Quách-Phù cũng đủ sức cầm cự được với Lý-mạc-Thu nên đã yên bụng được phần nào. Hơn nữa, chàng thừa biết Lý-mạc-Thu kiên oai Quách-Tỉnh chắc không khi nào dám hạ thủ bọn này, và có lẽ hắn sẽ tìm cách lánh đi để khỏi mua oán chuốt thù cùng gia đình Quách Đại-Hiệp.

Nghĩ đến đây chàng lại liên tưởng đến phận mình. Từ ngày được Quách-Tỉnh đem lên ký thác cho các bạn trên Chung-Nam-Sơn, đã thấy Quách-Tỉnh đánh bại hết mấy trăm đạo sĩ của Toàn-Chân phái, sau bao năm qua chắc võ nghệ của ông phải tăng tiến gấp mấy lần khi trước.

Chàng bỗng nhớ lại khi ở Đào-Hoa-Đảo, bị anh em họ Võ ỷ thế hà hiếp đánh đập, vết thương trên mình nay còn đó, đến nỗi phải chạy trốn suốt đêm trong hang đá. Chàng nhớ thêm việc Hoàng-Dung chỉ đem sách vở bắt chàng học mà không chịu dạy võ công, đến sau, Quách-Tỉnh lại đem mình giao cho bọn đạo sĩ độc ác của Trùng-dương-Cung hành hạ đủ điều. Càng nhớ, Dương-Qua càng thấy căm hờn cực điểm.

Lòng dạ đang chất đầy thù hận, bỗng thấy các người đẹp Hoàng-nhan-Bình, Lục-vô-Song, Gia-luật-Tề và Nữ-Lang thanh y cứ len lén nhìn mình có ý khinh bỉ về câu chuyện loạn luân mà Lý-mạc-Thu đã vu khống, khiến chàng không chịu đựng được nổi và suy nghĩ:

- Bọn bay đã khinh miệt ta, ta đâu thèm sống chung cùng bay nữa. Thôi, đi xa cho khuất mắt.

Thế rồi chàng băng mình ra đi, không lời từ biệt, cứ nhắm mắt chạy bừa, qua rừng qua núi, chẳng kể đường sá gì hết.

Chàng cứ thất thểu chạy hoài, tâm hồn như nổi sóng, miệng lúc nào cũng lẩm bẩm:

- Ta đi mãi, xem gầm trời này có kẻ nào hiểu thấu được lòng ta!

Chàng cố ý tìm những chốn hoang vu hẻo lánh để ẩn mình không muốn gặp gỡ một "con người" nào, vì theo chàng nghĩ, loài người chứa đựng toàn sự xấu xa ác độc. Sống với chúng sẽ chịu đựng tất cả những điều vu không và khinh khi mà thôi.

Trí não hoang mang, tâm hồn bất định, Dương-Qua cứ xuyên qua rừng không kể phương hướng, suốt một tháng trường, hễ đói ăn trái cây, khát uống nước suối, mệt nằm ngủ trong hang đá hay trên cành cây, mình mẩy ốm tong, áo quần như xơ mít.

Một ngày kia Dương-Qua đến một dãy núi cao sừng sững, cây lá um tùm, đỉnh khuất trong mây xanh, vô cùng hiểm trở.

Thấy núi cao trước mặt, Dương-Qua đưa mắt nhìn lên rồi than nhỏ:

- Dương-Qua đâu có ngại núi cao sông lớn. Dẫu núi này có hiểm trở đến đâu cũng không sờn lòng, quyết vượt qua cho được.

Đây là núi Hoa-Sơn thuộc dãy Ngũ-Nhạc.

Thế rồi chàng cứ thẳng lên núi vượt càng. Mặc dầu có khinh công cao điệu, nhưng vì dãy Sơn-Hoa vô cùng hiểm trở, đá dựng chập chồng cho nên đã trèo liên tiếp mấy ngày, Dương-Qua cũng chỉ mới đến lưng chừng núi.

Đến đây, khí trời lạnh buốt, suốt ngày mây đen bủa vây vần vũ, gió lốc ào ào, từng trận mưa tuyết rơi xuống trắng xóa, bao phủ tất cả đá, cây, mọi vật!

Trước cảnh hoang vu kinh khủng, trước sức mạnh vô biên của tạo hóa, Dương-Qua vẫn không chút sờn lòng, chẳng thèm tìm hang hóc để tránh tuyết, hay trốn gió, cứ ngang nhiên níu đá túm cành, thoăn thoắt leo lên đường dốc dựng đứng, tuyết phủ trơn như mỡ. Chỉ một cái sẩy tay hay trượt chân thì nhất định sẽ té nhào xuống vực sâu thăm thẳm.

Chàng cứ leo, leo hoài lên quên cả mưa tuyết, mệt nhọc, hiểm nguy.

Đang cặm cụi leo, Dương-Qua bỗng nghe phía sau có tiếng kêu "kìn kịt" như có tiếng chân người hay chân thú bước trên tuyết giá.

Lúc quay đầu nhìn lại, không thấy gì hết.

Dương-Qua nhìn nhiều lần không gặp thứ gì cả mà tiếng động vẫn còn vang lên nho nhỏ. Chàng để ý nhìn xuống dưới, thấy bên cạnh dấu chân mình, có lờ mờ dấu chân một kẻ nào nhẹ in trên nền tuyết.

Chàng ngạc nhiên cúi xuống xem kỹ thì rõ ràng là vết chân người, nhưng nhìn ra sau lại không thấy gì hết.

Bực tức quá, không biết đây là quỷ hay người lại đi trêu chọc mình như vậy.

Lẩm bẩm chưởi thề vài tiếng, Dương-Qua cặm cụi leo nữa.

Leo thêm chừng vài bước lại nghe tiếng "kìn kịt" y như hồi nãy, rõ ràng bước chân người nghiến trên mặt tuyết, thế mà ngoảnh lại vẫn không thấy hình bóng một kẻ nào hết.

Giữa chốn rừng hoang tuyết lạnh tịch mịch như hư vô, cảnh tượng này có thể làm khiếp đảm những người to gan lớn mật. Thế mà Dương-Qua vẫn lầm lì không chút hoảng sợ, cố tìm cách khám phá cho ra.

Vì tánh tò mò giúp chàng quên cả sợ hãi và suy nghĩ tính toán:

- Nơi đây không bụi cây, tư bề toàn là tuyết phủ. Phía trong là vách đá sững tận mây xanh, bên ngoài là hố sâu thăm thẳm, không chỗ nào ẩn nấp được. Nếu bền gan rình rập ắt cũng phải tìm ra kẻ này. Chỉ trừ khi nào họ có cánh như chim, hay có phép tàng hình mới không bắt gặp.

Nghĩ rồi chàng tiếp tục leo lên, nhưng mặt cứ thỉnh thoảng ngoảnh lại sau xem thử.

Một chập sau lại có tiếng động nữa. Dương-Qua nghĩ:

- Kẻ này chắc là một tay khinh công thượng đẳng nên ẩn hiện như bóng ma, ta phải làm thế nào chứ hễ quay lưng lại ắt không nào thấy nổi. Ta đã có cách, không cần xoay mặt mà vẫn trông thấy xem hắn có lánh được hay không.

Liệu tính xong chàng khom lưng trèo lên, đầu hạ thấp xuống, vừa đi vừa nhìn qua hai chân mình ngó ra phía sau. Phương pháp này áp dụng theo phép luyện công của Âu-dương-Phong đã dạy chàng lúc trước cùng một dịp với tư thế đi ngược đầu. Hôm nay đem ra áp dụng thật là phải lúc.

Bỗng thoáng qua một cái, có một bóng người vừa hiện ra đã biến mất lanh như điện chớp, ngay vào phía hang núi cạnh vách đá dựng.

Dương-Qua mừng quá, nhưng lòng cũng kinh hãi vì thấy tài khinh công của người này mau lẹ ngoài mức tưởng tượng.

Chàng chú mục nhìn ngay vào hang đá, bỗng thấy thoáng một người, bụng rất phập phồng không biết người ấy có ác ý muốn hãm hại mình chăng.

Chỉ thấy người này đưa tay vẽ một hình tròn trước mặt, tự nhiên cả thân hình nhẹ hàng bốc lên như làn khói, cách mặt đất có mấy trượng cao.

Chàng suy nghĩ:

- Vừa rồi có lẽ người này đã áp dụng lối ấy để đùa mình đấy mà!

Nhìn thấy người ấy chỉ khoanh một vòng tròn mà toàn thân bốc tung lên như chiếc pháo thăng thiên, muốn bay đi đâu cũng được, Dương-Qua đoán chắc bản lĩnh của y phải thuộc vào hạng siêu nhân, khinh công đã biết vào hạng thượng thừa.

Trí nghĩ, bụng mừng, lòng bỗng cảm phục hết sức, tự nhiên chàng quỳ xuống, chắp tay phủ phục sát đất thưa rằng:

- Kẻ đệ tử hành tâm ngưỡng mộ, xin cao nhân hiện ra cho đệ tử được hân hạnh bái yết.

Người đó cất tiếng cười vang. Tiếng cười rung động cả núi rừng, làm những tảng tuyết bám trên vách đá phải rớt xuống ào ào như động đất.

Người ấy đưa tay vòng một cái nữa, thân hình bay lên, nhẹ nhàng rơi đến trước mặt Dương-Qua như một tàu lá rụng.

Người ấy nhìn Dương-Qua đang quỳ mọp dưới đất vừa cười vừa mắng lớn:

- Mi là ai, có phải là bè đảng của bọn "ngũ quỷ" ác ôn ở nơi này cứ thừa dịp đêm hôm tăm tối đi phá làng hại dân hay không?

Giờ này mi đến đây để giở trò ma quái gì nữa đây?

Dương-Qua sửng sốt, chẳng hiểu vì sao lại bị trách mắng. Nghĩ mình vô duyên xấu số, suốt tháng nay vất vả lầm than không gặp một bóng người. Hôm nay mới gặp một kẻ đầu tiên là bị lời nặng nề oan uổng. Nghĩ tủi cho số phận vô duyên chàng bỗng mủi lòng ôm mặt khóc ngất.

Càng khóc càng chạnh lòng cho cái mạng mình xấu số hẩm hiu, một đời gặp toàn những chuyện đớn đau để cho mọi người khinh khi đày đọa. Ngay như Tiểu-long-Nữ là người được mình kính mến nhất đời cũng hiểu lầm đến nỗi chán ghét mình, bỏ đi biền biệt như lá lìa rừng. Bây giờ tứ cố vô thân, hễ gặp một cái gì cũng toàn là sự bẽ bàng uất hận. Phải chăng hóa công đã sanh ra mình để chịu đựng tất cả những cái gì đớn đau buồn thảm nhất! Càng nghĩ càng thấm thía, chàng càng khóc rống lên, khóc nức nở, thật thiết tha thảm não.

Có lẽ chàng muốn khóc một lần để trút sạch những cái gì đau khổ nhất đang tàng ẩn trong tim cho neen càng lúc khóc càng to, khóc như mưa như gió.

Lúc chàng mới khóc người này hình như không quan tâm mấy, nhưng một lát sau thấy khóc thảm thiết quá, nghe muốn khô héo cả ruột gan. Người ấy bỗng ngửa mặt cười dài.

Một người khóc như đưa ma, một người cười như sấm động, cười đến nỗi vang chuyển cả núi rừng! Khóc cười lẫn lộn tạo thành một hòa âm kỳ quái làm huyên náo cả một sườn núi Hoa-Sơn tuyết phủ.

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 29 : Cuộc ác chiến cuối cùng giữa Hồng-thất-Công và Âu-dương-Phong.

Dương-Qua vừa khóc vừa lắng nghe thấy người ấy cứ hả miệng cười hoài, liên miên bất tận, bỗng nổi giận gắt lớn:

- Tại sao ông cười lâu quá vậy?

Người ấy vẫn cười, hỏi lại:

- Còn chú tại sao khóc dai dữ vậy?

Dương-Qua nghe giọng nói của người ấy sang sảng như chuông ngân, âm thanh chuyển động cả màng nhĩ, biết là một bậc dị nhân nên vội vàng đổi giận làm vui, cung kính lạy hai lạy rồi thưa rằng:

- Tiểu tử Dương-Qua xin kính cẩn làm lễ tham kiến lão tiền bối.

Người ấy mỉm cười cầm cây gậy khẽ lăn trên vai Dương-Qua. Chàng có cảm tưởng hình như cả một quả núi đè trên vai, muốn đưa tay xô ra nhưng không nhắc tay lên nổi. Lật đật dùng lối chổng chân ngược đầu theo phép "Hàm mô công" của dưỡng phụ đã dạy, mới thấy trong người khoan khoái như trút được gánh nặng.

Dương-Qua cũng không ngờ đó là một lối điểm huyệt tài tình đặc biệt của dị nhân này mà tình cờ phương pháp "Hàm mô công" đã giải thoát được một cách quá ư kỳ diệu. Ngay người này cũng hết sức ngạc nhiên không ngờ một thằng bé tuổi chưa bao nhiêu mà có biệt tài như vậy nên nghĩ thầm:

- Tài nghệ tiểu-tử này, chưa chắc Lý-mạc-Thu và Khưu-xứ-Cơ đã qua mặt nổi?

Bụng khen miệng hỏi:

- Tại sao ngươi khóc?

Dương-Qua đưa mắt nhìn thấy một ông cụ đầu râu trắng xóa, áo quần rách nát tả tơi và chằm trăm mối, bên vai mang một chiếc hồ lô màu đỏ. Tuy trời đã nhá nhem nhưng vẫn nhìn rõ thần thái uy nghi, mặt mày đường bệ quắc thước, mới trông qua đã đem lòng kính phục, nên đáp rằng:

- Thưa lão bá, cháu gặp nhiều cảnh đoạn trường cay đắng, dầu có sống cũng không còn sinh thú gì nữa, chỉ muốn chết cho yên thân, nhưng không chết được, vì vậy nghĩ lại tủi thân xót phận mà khóc.

Ông cụ già nghe nói hình như có lòng thương xót, ôn tồn hỏi thêm:

- Gia đình người dâu, kẻ nào cả gan khinh thường hiếp đáp, ngươi cứ nói thực ra cho ta rõ.

- Cha tôi bị giết chết từ ngày tôi còn trong bụng mẹ. Kẻ thù giết cha tôi là ai, mãi đến nay vẫn chưa được rõ. Mẹ tôi nghèo khổ sống theo nghề bắt rắn nuôi tôi, sau bị rắn cắn bỏ mình, còn lại một thân một bóng, tôi sống lẻ loi, mồ côi, cô độc, không bạn bè thân thuộc. Cuộc đời tôi cơ cực, đầy cả chuyện đau buồn!

Ông cụ chép miệng thở dài và gật gù nói:

- Đời ngươi quả thật đáng thương! Sư phụ của ngươi là ai. Tên họ chi?

Dương-Qua nghĩ bụng:

- Nếu cứ theo danh nghĩa mà nói thì Quách Bá mẫu nhận làm sư phụ đầu tiên của ta nhưng người có daỵ cho ta được đường quyền miếng võ nào đâu? Bọn đạo sĩ Toàn-Chân phái toàn là những kẻ ác nghiệt đáng ghét, đáng thù đâu thể gọi là sư phụ. Người có công nâng niu chỉ dạy ta tận tình là Tiểu-long-Nữ cô nương, nhưng điều này không thể tiết lộ ra cho kẻ khác hay biết được. Ngoài ra những kẻ đã lưu lại kinh sách, lý thuyết võ thuật trong Cổ-Mộ như Lâm-triều-Anh, Vương-trùng-Dương cũng có thể xem như sư-phụ được. Tính ra thì thật nhiều, nhưng không hẳn ai là sư phụ một cách công nhiên.

Nghĩ suy lui tới một hồi, chàng thấy cõi lòng rào rạt buồn buồn tủi tủi nên buông mặt khóc nữa rồi nói qua giọng nức nở:

- Thưa, tôi không... không có sư phụ.

Ông cụ già bảo:

- Thôi, nếu ngươi thấy không tiện nói ra cũng được, chẳng sao.

Dương-Qua vừa khóc vừa phân trần:

- Không phải cháu không chịu nói. Nhưng thật ra là cháu không có ai là sư phụ chính thức hết.

Ông cụ lắc đầu nói:

- Điều đó không có gì quan hệ cả. Nhưng tại sao ngươi cứ khóc hoài như vậy. Sở dĩ nơi đây núi rừng hoang tịnh, ngươi đến làm chi, nếu không phải là bè đảng của bọn "ngũ quỷ" giết người cướp của. Nếu không phải ta sẽ kết nạp ngươi làm đồ đệ.

Nguyên ông cụ ăn mặc rách rưới này không ai xa lạ, chính là Cửu-chỉ Thần-cái Hồng-thất-Công, cùng vai vế với các vị khét tiếng trong võ lâm là Đông tà, Tây-độc và Nam-đế, biệt danh của cụ là Bắc-cái. Từ ngày nhường chức Bang-chủ ăn mày lại cho Hoàng-Dung, Hồng-thất-Công xếp bỏ mọi việc đi ngao du khắp thiên hạ, thưởng thức những cảnh đẹp và các món ngon vật quý.

Khi đi đến tỉnh Quảng-Đông thấy thời tiết ôn nhuần, cảnh vật xinh tươi, ông rất hài lòng nên ở mãi nơi đây trên mười năm không trở về Trung-Nguyên nữa. Bao nhiêu bạn bè và các người trong bang Khất Cái cứ đinh ninh rằng ông đã lớn tuổi nên qua đời rồi.

Thật không ai có thể ngờ rằng đến nay ông vẫn ung dung sống vùng này, ngày ngày bắt rắn rết, ếch chuột để ăn độ nhật không thèm tiếp xúc với đời.

Lúc bấy giờ có năm tên ăn cướp cạn dùng căn cứ bên kia đỉnh núi để cướp bóc dân chúng vùng lân cận.

Thỉnh thoảng ông có gặp đôi lứa, muốn ra tay hạ sát cho rồi nhưng lại sợ rằng, nếu giết một vài đứa sẽ động ổ làm mấy đứa khác tìm đường trốn mất. Như thế không trừ được hết mối họa cho dân lành. Vì vậy mà ông cứ nấn ná ở lại trong dãy Hoa-Sơn này chờ cơ hội, hễ có dịp gặp đủ năm tên sẽ giết luôn một lượt.

Trong lúc đi theo dõi một tên đang nấp trên chỗ này, Hồng-thất-Công tình cờ lại gặp Dương-Qua trong đêm bão tuyết ngập trời.

Trước kia Hồng-thất-Công chỉ nhận Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung làm đồ đệ. Lần này nghe Dương-Qua thuật lại thân thế thấy cũng đáng thương hại nên muốn thu nhận làm đồ đệ, ông chắc chắn thể nào Dương-Qua cũng mừng rỡ nhận ngay. Nhưng không ngờ lại khác hẳn điều dự đoán.

Vì thâm tâm lúc nào cũng tưởng nhớ Tiểu-long-Nữ mà chàng cho là vì sư phụ duy nhất của đời mình, cho nên khi nghe Hồng-thất-Công ngỏ ý muốn thu làm đệ thì nghĩ rằng:

- Tuy ông tài cao hơn sư phụ tôi thật, nhưng tôi chẳng thể nhận thêm một ông thầy thứ hai nữa.

Thế rồi chàng lắc đầu đáp:

- Xin đa tạ lão bá, thật tình chẳng thể nhận lão bá làm sư phụ được.

Hồng-thất-Công nghe nói vừa tức giận vừa ngạc nhiên, vội hỏi:

- Tại sao thế? Nếu ngươi không khứng nhận ta sẽ có cách buộc ngươi phải nhận.

(Xin lỗi bạn đọc, truyện bị thiếu 3 trang)

Dương-Qua lẽo đẽo bước theo, bụng nghĩ:

- Chẳng lẽ ông cụ này lại ăn thịt rết! Nhưng xem bộ tịch ông ấy không có vẻ gì lòe mình cả. E ông ấy ăn thịt cũng nên!

Về đến cửa hàng thấy nồi nước đã sôi lên sùng sục. Hồng-thất-Công đặt cái túi xuống, bắt từng con ném vào nồi nước. Con nào cũng quẫy một cái rồi chết luôn.

Hồng-thất-Công nói:

- Gặp nước sôi, rết bắn hết chất độc trong mình ra trước khi chết. Vì vậy nên nước trong nồi này độc không tả.

Ông bới một lỗ tuyết cạnh đó, bưng nồi nước đổ ụp vào. Không bao lâu cả nồi nước sôi cũng đong lại hết.

Đoạn, ông thò tay vào bọc rút ra một con dao nhỏ, bắt đầu từng con rết, chặt đuôi rồi bóc vỏ ra, bày thịt trắng hồng hồng như thịt tôm trông rất ngon lành.

Dương-Qua nhìn thịt rết nghĩ bụng:

- Xem bộ ngon lành quá, có lẽ ăn được thật đấy.

Hồng-thất-Công lại bóc tuyết bỏ vào nồi cho tan ra, bỏ đống thịt rết vào rửa đi rửa lại mấy lần thật sạch rồi mở bao rút ra một gói nhỏ bày trên tuyết. Nào là hành, tiêu, tương, ớt, gia vị đủ thứ. Ông bỏ hết vào nồi, cho thêm tý muối, xào lên, mùi thơm bốc ra ngạt mũi.

Nghe mùi thơm xông lên, Dương-Qua thấy cái hạch nước miếng căng lên, bụng cồn cào, thèm lắm, nhưng vẫn e dè suy nghĩ:

- Thịt có vẻ ngon lành lắm nhưng không rõ còn độc hay không?

Chàng bỗng nực cười cho tính háo đói của mình, ngồi nhìn mãi.

Hồng-thất-Công trộn đi chiên lại, tiếng kêu xèo xèo, khói bốc lên thơm ngát. Một chập sau gia vị thấm vào, miếng thịt oăn lại, vàng khè trông ngon lành quá. Ông bốc một miếng đưa vào mồm nhai rau ráu, chắp chắp mấy cái, đôi mắt lim dim để tận hưởng tất cả những cái ngon thơm của món thịt rết!

Thấy đã vừa ăn rồi, ông bê nồi đặt giữa hai người và bảo Dương-Qua:

- Cứ ăn tự nhiên, đừng ngại ngùng khách sáo gì hết.

Dương-Qua lắc đầu đáp:

- Tôi ăn không được.

Hồng-thất-Công ngước mặt cười lớn:

- Ăn đi, không hề gì cả. Biết bao anh hùng hảo hán, võ nghệ đầy mình, giết người không gớm tay thế mà không có gan cùng ta nếm miếng thịt rết! Chú mi nếu không có gan thì cũng không nên ăn làm gì.

Dương-Qua nghĩ bụng:

- Ông ấy ăn được tại sao mình lại sợ? Dầu có độc cũng rán nuốt một vài miếng kẻo người ta khinh, chịu không nổi.

Hồng-thất-Công thấy sắc diện chàng đã đoán được ý nên dặn thêm cho vững bụng:

- Có sợ cứ nhắm mắt mà nuốt mau. Đừng có ngập ngừng ngậm trong miệng rồi chập sau e ngại nhổ ra, làm trôi mất thanh danh anh hùng hảo hán đấy nhé.

Dương-Qua cười nhạt và nói:

- Thưa lão bá, chẳng lẽ chỉ ăn được thịt rết độc mới là hảo hán anh hùng sao?

Hồng-thất-Công nói:

- Lắm kẻ tự xưng hảo hán anh hùng, nhưng đến khi nếm một miếng thịt rết lại rùng mình sợ chết rồi tìm mọi cách để tự bào chữa mà không biết xấu. Lão muốn nhắc cho ngươi để ý đến cái hèn kém của bọn ấy mà thôi.

Dương-Qua suy nghĩ:

- Cứ ăn đại vào, tới đâu hay đó. Nghĩ xong chàng gắp một miếng bỏ vào mồm, nhai ngấu nghiến và nuốt luôn.

Vừa nhai và nuốt xong, chàng cảm thấy cả hàm răng như được thắm mùi ngon của chất mỡ béo, nước miếng chảy ra, và một hương vị vừa thơm vừa ngọt xông lên ngát mũi.

Chàng ngẫm nghĩ:

- ồ, ngon thật, từ bé chưa hề ăn món nào ngon bằng thứ "ngô công" xào này.

Thế rồi không còn e dè nữa, chàng gắp hết miếng này sang miếng nọ, vừa nhai vừa trầm trồ "ngon, ngon tuyệt"!

Hồng-thất-Công thấy Dương-Qua đã thưởng thức được món ăn đặc biệt do mình đã tìm ra và nếu lấy thì khoái chí lắm.

Thế rồi cứ bác một miếng, cháu một miếng, thi tài gắp một loáng, nồi thịt rết đã hết trơn. Còn tý nước Hồng-thất-Công cũng húp luôn.

Dương-Qua đề nghị:

- Để tôi đem con gà lên chôn lại, câu thêm mớ rết nữa, xào bữa khác.

Hồng-thất-Công lắc đầu nói:

- Không được đâu. Con gà này đã hết cả hơi ngọt, hơn nữa bao nhiêu rết lớn vùng này mình đã tóm hết rồi còn đâu nữa mà câu.

Nói xong ông há miệng ngáp, uốn mình mấy cái rồi nói:

- Suốt bảy tám ngày đêm nay ta chưa ngủ được, nay được bữa thịt rất no nê rồi, cần phải ngủ luôn một giấc ba ngày liên tiếp mới đã sức. Trong lúc ta đang ngủ, ngươi đừng gọi ta nhé.

Nói xong ông đưa tay gạt tuyết qua một bên, đặt lưng xuống, ngáy liền.

Dương-Qua nghĩ bụng:

- Ông già này có nhiều hành vi thật quái gở. Ngủ gì một hơi những ba ngày đêm! Hiện nay ta cũng không biết đi đâu nữa. Thôi, nán lại đây ít ngày, chờ ông ta thức dậy sẽ hay.

Thịt tuy rất ngon nhưng tánh hàn.

Dương-Qua ăn xong thấy lạnh bụng, vội vàng tìm một hóc đá kín đáo ngồi núp gió cho ấm.

Ngồi dựa lưng vào vách đá, Dương-Qua nhìn ngoài trời thấy tuyết rơi trắng xóa khắp nơi, như đám bụi lông thiên nga rải rát đầy cả. Không bao lâu khắp mình Hồng-thất-Công, đều bị tuyết phủ một lớp tựa hồ như có một tấm lụa trắng đắp lên, chỉ trừ có cái mặt không hề có tuyết.

Dương-Qua ngạc nhiên nhưng suy nghĩ một chặp đã hiểu, sở dĩ lúc ngủ, ông già đã vận dụng nội công, dồn hết sức nóng trong người lên mặt khiến cho tuyết không thể đông nổi. Công lực như thế này tưởng đã tột bực rồi, ngay như Vương-trùng-Dương tái sanh cũng chưa chắc hơn nổi.

Dương-Qua ngồi yên thả hồn về dĩ vãng. Chàng nhớ lại mấy mươi năm xưa Hồng-thất-Công và Vương-trùng-Dương đã cùng nhau so kiếm trên đỉnh Hoa-Sơn, tuy Vương-trùng-Dương thắng, nhưng không bao lâu ông đã qua đời. Từ ấy đến nay trải thêm bao nhiêu luyện tập, mức tiến bộ của Hồng-thất-Công ngày nay thế nào cũng phải vượt cao hơn Vương-trùng-Dương hồi đó nhiều.

Mải suy nghĩ vẩn vơ mà trời đã sáng từ lúc nào không biết. Chàng nhìn lại chỗ Hồng-thất-Công nằm ngủ thấy tuyết phủ kín mít mới trông như một nấm mộ bằng bông, không có một mình áo hay sợi tóc.

Đưa mắt nhìn khắp nơi, bầu trời cũng chỉ toàn một màu trắng xóa, gió lộng từ hồi, thật là ảm đạm.

Thình lình có chân ai đang bước mau từ phía Đông-Bắc tiến lại.

Chàng định thần nhìn kỹ thấy đàng xa có năm bóng người thoăn thoắt đi trên tuyết thật mau, chứng tỏ người nào cũng có bản lãnh khá cao.

Dương-Qua nghĩ bụng:

- Không biết đây có phải bọn ngũ quỷ mà Hồng-thất-Công có nói ngày hôm qua đó chăng! Nếu quả thật bọn ấy thì hay biết mấy.

Chàng vội tìm một kẽ đá ẩn thân và lén theo dõi hành động chúng.

Không bao lâu cả năm người đã đến trước hang đá, ngó láo liên một chốc, cùng ồ lên một tiếng, một đứa nói:

- Lão ăn mày ở đây rồi. Đồ đạc của hắn đây chắc hắn cũng ẩn nấp trong hang hóc nào gần đây chứ không xa.

Cả năm đứa lộ vẻ sợ hãi, kéo nhau ra phía ngoài, xúm đầu lại bàn tán thầm thì rồi phan tán đi tứ phía để tìm kiếm.

Vì đường núi chật hẹp nên chẳng bao lâu một đứa trong bọn đạp trúng chỗ nằm của Hồng-thất-Công.

Nghe có vật gì mềm bập bềnh dưới chân, tên đó vội cúi xuống bới tuyết ra xem. Bốn đứa kia cũng xúm lại xem.

Chúng thấy Hồng-thất-Công nằm ngửa trong tuyết, chân cẳng cứng đờ hình như đã chết từ mấy hôm rồi.

Cả bọn hớn hở reo vang. Một tên lấy tay sờ trên ngực và đặt trên mũi, thấy toàn thân lạnh buốt như băng, chẳng còn chút hơi thở nào nữa.

Một đứa nói:

- Lão già ăn mày đã chết rồi. Ai khiến mi cứ mò mẫm theo chân chúng ta làm gì đến nỗi bỏ thây trong tuyết như vầy.

Một tên khác thận trọng hơn nói:

- Lão này võ nghệ tuyệt luân, tài ba xuất chúng, không dễ gì chết được đâu, không khéo mình trúng kế của hắn thì nguy lắm.

Tên khác ra mặt thạo đời cãi lại:

- Có lý nào võ giỏi cứ lột da sống hoài không chết được sao? Theo tôi đoán có lẽ hắn đã quá già, gặp lạnh bị cóng, máu đông rồi chết như thế này.

Mấy đứa kia cùng tán thành nói:

- Thật quả là may. Nếu thiên tào không dũ số nó đi thì bà con mình cũng phải điêu đứng mãi với hắn.

Tên gặp đầu tiên đưa ý kiến:

- Bây giờ anh em chúng ta đâm hắn mỗi người một nhát để cho hắn mang danh đệ nhất cao thủ võ lâm mà chết chẳng toàn thây.

Dương-Qua nấp sau một tảng đá lớn, mắt lom lom nhìn ra, tay lăm le mũi "ngọc phun châu" và nghĩ bụng:

- Bọn nó những năm tên, chưa chắc ta đương cự nổi. Chi bằng ra tay trước, tỉa dần vài đứa. Còn mấy đứa sau sẽ tuần tự giải quyết tiếp có lẽ hay hơn.

Tuy đã dự liệu như vậy nhưng vì tuổi trẻ tánh nóng còn nhiều nông nổi không kềm hãm được lòng mình, cứ lăm le muốn xông ra. Khi nghe bọn này bàn tính mỗi đứa đâm ông một dao vào người thì Dương-Qua càng cuống quít vội vàng quát lên một tiếng, từ phía sau hòn đá phi thân nhảy vọt ra, mỗi tay cầm một khúc cây bẻ sẵn để làm vũ khí.

Vừa hạ chân xuống tuyết, Dương-Qua đã lẹ tay điểm luôn mấy huyệt vào năm người. Cũng may vì nghe tiếng thét của chàng, ngũ quỷ kịp thời phòng bị, vận nội công bế kín các huyệt vì vậy nên chàng điểm không còn hiệu nghiệm nữa. Giá không thét trước có lẽ ít nhất cũng có ba tên bị ngã với ngón đòn đầu tiên của chàng.

Mỗi tên trong ngũ quỷ đều sử dụng một thanh đao to bản sống dầy, hơn nữa nghệ thuật cùng học một thầy cho nên lúc xuất thủ rập cùng nhau một lượt, khí thế vô cùng hiểm ác.

Vừa tránh khỏi trận đòn điểm huyệt đầu tiên, ngũ ác quỷ vội quay mặt nhìn xem kẻ ấy là ai.

Khi trông thấy Dương-Qua là một thiếu niên còn nhỏ tuổi, thân hình ốm tong, tay cầm 2 nhánh cây làm binh khí thì bọn ấy đã có vẻ khinh thường không thèm quan tâm cho mấy.

Tên đầu đảng trợn mắt hét lớn:

- Thằng oắt con, mi là tay sai của lão ăn mày này phải không? Sư phụ mày đã chết ngoẻo lâu rồi, nếu mày không muốn về Tây phương chầu Phật cùng nó thì mau mau quỳ xin tạ lỗi.

Vừa nghe hắn dứt lời, Dương-Qua chắp tay cúi đầu đáp:

- Dạ, kẻ hèn xin kính chào ngũ vị.

Chàng tiến lên hai bước, hai tay gạt ngang qua theo thế "mở cửa nhìn trăng" phang hai khúc cây vào đầu năm đứa.

Thế này vô cùng lợi hại, năm tên tránh đỡ chẳng kịp nên hai đứa nhào bên tả, ba đứa ngã bên hữu.

Ba đứa bên mặt bản lãnh khá hơn, cho nên vừa nhào xuống đã tung mình đứng dậy được, rút dao xông đến chém nhau.

Đứa xông vào đầu tiên bị Dương-Qua gạt trái một gậy, tét cả hổ khẩu, thanh đao sút tay, văng đi xa lắc. Tức thì chàng hạ xuống phang mạnh vào hai ống chân, tuy chưa đến nỗi gãy xương nhưng đau đớn rên la ầm ỹ và nằm luôn không ngồi dậy nổi.

Bốn tên kia nổi nóng xông lại bủa vây tứ phía tấn công chàng dồn dập.

Bốn thanh đao to bản vung lên chém xuống xé gió ào ào muôn phần nguy hiểm. Nhưng Dương-Qua lẹ chân né tránh được hết, khi lách đông lúc ẩn tây, khiến cho bọn chúng chỉ chém vào không khí.

Một chập sau, tên bị ngã cũng thấy bớt đau, vội vàng gượng dậy, lượm lưỡi dao nhảy vào trợ chiến để trả thù ngón đánh vào giò vừa rồi.

Dương-Qua đã học được những ngón bí truyền trong Ngọc Nữ tâm kinh, hơn nữa tài khinh công chàng cao hơn năm tên này mấy bậc, nếu cần bỏ chạy thoát thân thì quá dễ dàng, nhưng chàng e rằng nếu mình chạy thoát bọn chúng sẽ đâm chém Hồng-thất-Công ngay. Vì vậy nên chàng quyết tâm ở lại đánh để bảo vệ cho ông lão còn đang nằm ngủ như chết trên mặt tuyết.

Đánh thêm một chập, Dương-Qua nảy ra một kế bèn phi thân bỏ chạy, tức thì năm đứa cùng đuổi theo, ba tên khinh thân khá hơn chạy tới trước còn hai tên kém hơn chạy chậm mãi tận sau xa.

Thừa lúc bọn chúng đang cắm cổ đuổi theo, chàng dùng thế "tia sáng xuyên rừng" lao mình như một bóng ma vụt lại phía Hồng-thất-Công đang nằm, đưa tay sờ thử vào ngực thấy toàn thân lạnh toát như băng. Chàng ngạc nhiên thầm nghĩ:

- Trời ơi, lối ngủ gì mà khác đời như thế này. Hay là ông đã chết cóng rồi cũng nên. Nếu ngủ thì nãy giờ náo động cũng phải giật mình thức để tiếp cứu cho mình chớ lý đâu cứ để mặc mình bị bọn này vây khổn như vậy.

Chàng kề miệng vào tai ông gọi lớn:

- Lão trượng tiền bối ơi! Lão tiền bối, tỉnh dậy.

Nhưng Hồng-thất-Công vẫn nằm cứng đờ như xác chết không cục cựa.

Nghe tiếng chàng kêu réo, năm tên cướp kia cũng quày lại, xúm vây xung quanh đánh nữa.

Nhưng lần này đứa nào cũng ngán tài Dương-Qua nên chỉ vây cầm chừng, đứa nào cũng lấm lét nhìn nhau chứ không dám mạo hiểm lại gần sợ lãnh đủ.

Dương-Qua bèn bỏ bọn chúng quay mình theo đường dốc chạy mãi lên cao. Cả bọn cùng hét lớn:

- Mày có chạy lên trời cũng không thoát khỏi.

Năm người hè nhau đuổi theo, nhưng cũng không dám chạy gần, thong thả đi sau cách xa hơn mấy trượng.

Dốc càng cao, đường càng hẹp, địa thế hiểm trở vô cùng, khi đến một mỏm núi cheo leo, tứ bề toàn vực thẳm, nhìn xuống sâu hun hút ngó muốn chóng mặt, bên cạnh thì vách đá đứng thẳng tắp, láng như mỡ.

Con đường hẹp băng qua mỏm đá này cheo leo như một chiếc cầu thiên tạo, chỉ đủ cho một người đi mà thôi.

Dương-Qua thấy địa thế quá hiểm trở bỗng nghĩ đến câu: "nhất phu đương quan, vạn phu mạc khai" (nghĩa là một người giữ ải, muôn người khó đánh nổi) chính chỗ này là nơi dụng võ thuận lợi nhất.

Chàng nghĩ bụng:

- Bây giờ ta cứ án ngữ tại eo đá này. Bọn chúng dầu đông nhưng không thể hùa nhau tấn công một lần được. Nếu một đứa vượt qua, ta sẽ tỉa liền. Ráng cầm cự với chúng cho qua ngày thứ tư. May ra đúng kỳ hẹn, Hồng-thất-Công tỉnh dậy sẽ ra tay hạ sát cả năm tên "ác quỷ". Nếu rủi ông chết thật thì ta sẽ chôn ông dưới tản đá này trước khi rời đánh Hoa-Sơn.

Ngay lúc đó năm tên cướp đuổi vừa đến.

Dương-Qua đứng ngay giữa cầu ưỡn ngực quát lớn:

- Chúng bay khôn hồn dừng chân lại. Đứa nào qua đây ta sẽ đẩy xuống vực sâu làm mồi cho rắn rết hoặc đập đầu vào đá nhọn cho rồi.

Thấy con đường độc đáo quá hiểm trở, tên đi đầu phải dừng lại. Cả bọn thất kinh cũng không dám bước chân tới nữa.

Đứng bên đầu cầu trên cao, Dương-Qua đưa mắt nhìn qua bên kia sườn núi thấy tuyết đã tan dần, ánh chiều dương vừa lóe sáng chiếu vào những cây quỳnh và vô số thảo mộc kỳ lạ mọc rải rác khắp nơi. Những mảnh tuyết chưa tan hết còn dính rơi rớt trên các cành cây, phản chiếu thành những chòm lấp lánh như muôn ngàn hạt minh châu cực kỳ xinh đẹp. Cảnh rừng núi hoang vu, do bàn tay tạo hóa đã bày ra không khác nào một bức tranh thiên nhiên vĩ đại.

Nhìn cảnh chán rồi, Dương-Qua liếc xuống xem bọn cướp, thấy cả năm đứa đang xúm xít bên đầu cầu, cách xa chàng non mươi trượng, lên thì không dám, bỏ đi lại không đành. Chúng cứ ngập ngừng, bị tranh chấp giữa hai cảm giác: tiếc và sợ.

Dương-Qua thò tay vào túi lấy chiếc mặt nạ da người đeo lên mặt rồi hét lớn:

- Bọn xú quỷ, bây tuy xấu, nhưng chưa xấu bằng ta đâu nhé!

Cả năm tên trực ngó lên thấy mặt mày chàng đã đổi khác kỳ dị vô cùng thì thất kinh hồn vía đứa nào cũng tự hỏi:

- Thằng này là người hay ma mà thay hình đổi dạng lạ lùng như thế này?

Thấy dáng điệu chúng nháo nhác Dương-Qua tự bảo.

- Quân này miệng hùm gan sứa, chẳng làm nên trò trống gì đâu ta cứ thị uy cho chúng sợ, sẽ không dám bén mảng đến đây nữa.

Nghĩ rồi chàng lui ra giữa cầu, co chân mặt lên, đứng một chân trái theo thế "kim kê độc lập" tay chỉ lên trời toàn thân cứng đờ không lay động. Đứng xa nhìn vào không khác nào một thiên thần hay hộ pháp đang giữ của.

Bọn ngũ quỷ đã rung động, không dám bước tới vì nghĩ rằng:

- Bản lãnh thằng này cao siêu lắm, chỉ có thể dùng số đông áp đảo chứ nến một xáp một thì bị hắn hạ sát liền. Vì con đường quá chật hẹp, cả bọn nghĩ kế luân phiên nhau canh chừng đầu bên này. Trong một vài ngày, chờ Dương-Qua đói lả sẽ qua bắt sống.

Lập mưu xong bọn chúng sai một tên đi lấy lương thực, còn tên đứng dàn thành hình chữ nhất ám ngữ bên này đầu cầu để canh phòng.

Hai bên cứ xem chừng nhau suốt nửa ngày. Dương-Qua không thể xuống mà bọn này cũng không thể lên được.

Vừa đúng ngọ Dương-Qua đã mỏi chân không đứng theo lối kim kê độc lập nữa mà chỉ ngồi dựa bên đường để dưỡng sức.

Qua ngày thứ hai, bọn chúng mang cơm và thức ăn đem bên đầu cầu vừa ăn vừa nhem thèm Dương-Qua.

Dương-Qua đang đói cào cả gan ruột, lại hít phải mùi thơm của cơm, mùi béo của thịt nướng từ đầu cầu theo gió bay tạt vào mũi khiến chàng thấy lòng nóng như lửa đốt. Chàng liếc mắt nhìn về phía Hồng-thất-Công đang nằm, bụng nghĩ:

- Giấc ngủ gì kỳ lạ quá! Không biết ông lão ngủ thật hay đã chết cóng rồi. Nếu ông chết thì uổng công mình canh giữ nơi đây mà nhịn đói luôn mấy ngày trường. Nếu cứ tiếp tục chờ ông ấy thức dậy, bụng đói thêm còn hơi sức đâu để đánh nữa. Chi bằng mình tấn công ngay bây giờ mới mong còn đủ sức thoát thân.

Nhưng lúc sắp nhảy xuống, chàng bỗng nhớ lại:

- Trước khi ngủ, Hồng-thất-Công có dặn sẽ ngủ đúng ba ngày. Nếu lời ông nói đúng, thì cũng không còn bao lâu nữa. Ta rán chờ thêm, không nên bỏ ông ấy tội nghiệp.

Thế rồi Dương-Qua nhất quyết chịu đói, nhắm mắt không thèm dòm chúng ăn và vận nội công nín thở không ngửi mùi thơm của đồ ăn bay qua.

Qua ngày thứ ba, Hồng-thất-Công vẫn nằm yên không cục cựa. Dương-Qua thấy vậy than rằng:

- Thế là ông đã chết thật sự rồi. Nếu ta cứ chần chờ mãi, trong ngày nay khí lực kiệt quệ, dầu bọn chúng không đánh ta cũng chết đói.

Đói quá, chàng bốc một bụm nước tuyết bỏ vào mồm nhai và nuốt, cảm thấy trong lòng có phần khoan khoái dễ chịu hơn nhiều.

Chàng lẩm bẩm:

- Thôi, đã hai ngày qua, mình cũng hết lòng cùng lão tiền bối. Bây giờ phải ra tay chứ để kéo dài nguy hiểm lắm.

Nhưng Dương-Qua không thể cất bước nhảy qua cầu được vì lương tâm vẫn không cho phép.

Chàng tự nhủ lòng mình:

- Ta không thể thi thố chữ trung với nước và không giữ được tận hiếu với mẹ cha, cũng không có anh em bà con ruột thịt để vẹn tình "hiếu dễ". Lẽ nào chỉ một chữ "tín" mà cũng không giữ được hay sao? Làm trai như vậy đâu đáng mặt làm trai nữa.

Ngày xưa chàng Vỹ-Sinh ước hẹn cùng tình nương sẽ gặp nhau dưới chân cầu. Khi người tình chưa đến mà nước thủy triều đã dâng lên. Vỹ-Sinh đã cam lòng ôm lấy cột cầu, nước lên ngập đầu chết đuối, cho vẹn chữ tình cùng bạn lòng. ở đời đối xử với thiên hạ, ai cũng lấy chữ tình ra để đo lường chân giá trị của con người.

Dương-Qua, mày sinh ra đã bị người đời ghét bỏ khinh khi, nếu ngày nay mày còn thất ước bỏ người cho kẻ khác sát hại, thì còn mặt mũi nào nhìn thiên hạ nữa. Thôi, dầu phải chết đói, ta cũng quyết giữ trọn lời hứa, chờ đủ ba ngày như Hồng lão tiền bối đã dặn trước.

Nghĩ vậy chàng kiên gan nhịn đói luôn một ngày một đêm nữa.

Sáng ngày thứ tư, Dương-Qua thấy không có gì thay đổi, Hồng-thất-Công vẫn nằm cứng đờ trên tuyết. Chàng chắp tay hướng về xác của Hồng-thất-Công lâm dâm khấn vái:

- Kính lão tiền bối, đã ba ngày ròng rã, tiểu niên cố chịu đựng với lạnh lẽo đói khát để giữ vẹn lời tiền bối đã dặn. Tiếc vì lão tiền bối đã vô phần nhắm mắt lìa trần nên đệ tử không thể nào chịu đựng hơn nữa được. Đệ tử xin đem thi hài tiền bối táng vào thạch động để khỏi bị lũ quân gian ác ra tay phũ phàng.

Lão tiền bối có linh thiêng xin chứng minh và phò hộ!

Khấn xong chàng lìa vị trí chạy qua cầu xuống phía dưới.

Vừa thấy Dương- Qua chạy xuống năm tên xú-quỷ đoán chàng không chịu nổi đói khát định đến cướp thực phẩm đỡ lòng nên cùng đứng dậy và đưa mắt ra hiệu cùng nhau để chận lại.

Tên đầu đảng nói lớn:

Dẫu mạnh khỏe như voi mà nhịn đói luôn ba ngày đêm cũng không còn hơi sức nữa huống chi thằng này. Chúng ta cứ ra tay bao vây để bắt sống hắn. Kẻ nào để hắn chạy thoát phải thế mạng vào đấy nhé.

Hắn vừa nói dứt câu, thình lình phía sau có tiếng cười ha hả và một giọng nói vang lên rang rảng:

Chà! ngủ một giấc đã quá! ủa mà bọn bây làm thứ gì vậy?

Dương-Qua nghe rõ ràng là tiếng nói của Cửu chỉ Thần Cái Hồng-thất-Công nên trong lòng mừng không thể tả.

Năm tên xú-quỹ thất kinh hồn vía, mặt mày tái mét vì quá sợ, muốn tìm đường chạy trốn nhưng hai chân đã quýnh lại như không còn một tý gân sức nào nữa, rồi đầu óc tối xầm, cả năm đều ngã quay trên tuyết bò lê bò càng xem rất thảm hại.

Dương-Qua hết sức ngạc nhiên không ngờ chưởng lực của ông này lại quá ư kỳ diệu, vì chàng thấy ông ta chỉ khẽ phất tay có một tý mà năm tên xú quỷ đã ra tình trạng như thế này. Thật đáng khiếp đáng phục.

Hồng-thất-Công đưa tay điểm mặt bọn xú quỷ nạt lớn:

Năm tên ác quỷ, quân bây đã gây bao nhiêu tội ác cho dân lương thiện vùng này hôm nay gặp phải tay ta, đâu phải bỏ mạng cũng không có gì oán trách nữa.

Bọn ngũ quỷ vừa sợ vừa tức, lồm cồm ngồi dậy, đứa muốn bỏ chạy, đứa muốn liều mạng xông vào tấn công, nhưng vì đã bị ảnh hưởng của "giáng long thập bát chưởng" gân cốt rũ riệt, không thể ngồi dạy được. Năm tên chỉ lăn qua lộn lại bò lê bò càng trên mặt đất, hơi thở hào hễn như năm con trâu vừa mới kéo cày xong.

Ngay lúc ấy có tiếng động lao xao trên tuyết, và một bóng người đầu chổng xuống đất, chân dựng lên trời, đi tới mau như tên bắn.

Người ấy quả là Âu-dương-Phong Tây-Độc.

Dương-Qua mừng quá gọi lớn:

Cha, cha ơi... Dưỡng phụ!

Âu-dương-Phong làm lơ không đáp, cứ di chuyển ngay về phía ngũ quỷ, dùng chân khẽ đá vào lưng mỗi đứa một cái, tức thì cả năm tên xú quỷ đã trở lại bình thường, mà sức mạnh còn dồi dào hơn trước.

Hồng-thất-Công đang ngạc nhiên vì sự xuất hiện quá đột ngột của Âu-dương-Phong, lại nghe Dương-Qua gọi bằng dưỡng phụ càng thêm lạ lùng hơn nữa. Ông tự hỏi:

Té ra hai đứa này là cha con với nhau sao? Thật là một chuyện không thể ngờ được.

Nghĩ xong, ông hỏi lớn:

Tôi thấy năm tên xú quỷ này đã làm nhiều tội ác, hãm hại lương dân nên định trừng trị chúng. Tại sao đạo huynh đi giải cứu cho chúng?

Âu-dương-Phong cười ha hả đáp:

Hễ ác lai thì ác báo, chúng giết người sẽ phải đền tội, nhưng trước khi hành hình cũng nên giáo hóa chúng đã. Được rồi, ta xin trả chúng lại với tình trạng như trước.

Nói xong y dùng chân trái, khẽ điểm vào lưng mỗi đứa.

Bị áp lực giữa chưởng lực của hai cao thủ, tên nào cũng cảm thấy toàn thân đau đớn như dần, chợt tỉnh chợt mê, khi lạnh khi nóng, lăn lộn trên tuyết trông rất thảm thương.

Từ ngày luận kiếm Hoa Sơn lần thứ nhì đến nay đã quá mười năm chẵn, Âu-dương-Phong và Hồng-thất-Công chưa có dịp gặp nhau lần nào. Trong thời gian này, Âu-dương-Phong cố sức luyện theo Cửu âm chân kinh nên bản lãnh có phần tiến bộ hơn trước.

Hồng-thất-Công tuy được nghe Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung đọc lại tất cả các đoạn trong kinh này, nhưng không chịu đào luyện thế nên mức tăng tiến không vượt qua Âu-dương-Phong được.

Trong cuộc so tài ngày trước, hai người vẫn chưa phân thắng bại. Vì vậy nên lòng họ vẫn đinh ninh sẽ cùng nhau đấu lại một phen nữa để rõ tài cao thấp.

Hôm nay là lần gặp gỡ thứ ba nên thế nào cũng thi tài mới được.

Hồng-thất-Công thử đưa ra vài ngọn nặng có, nhẹ có, nhưng Âu-dương-Phong đã hòa giải được hết.

Thấy đối phương chỉ dùng chân mà tài nghệ rất lợi hại, Hồng-thất-Công nhất định thử thách đến kỳ cùng.

Ông bèn lùi ra sau mấy bước dồn công lực vào tay, định tấn công.

Năm tên xú quỷ thấy hai tay cao thủ sắp choảng nhau mà bọn mình nắm giữa để làm vật hy sinh thì thất kinh hồn vía năn nỉ khóc lóc cầu xin tha mạng.

Hồng-thất-Công nghiêm giọng bảo:

Ngũ quỷ, mạng căn chúng bay vẫn chưa đến ngày tận số, nên ta rộng lòng tha thứ cho lần chót. Phải mau mau cải tà quy chánh từ nay không được theo nghề cũ sát hại dân lành, nghe chưa?

Nói rồi ông phất tay giải huyệt.

Cả bọn vui mừng được thoát chết, sụp lại tạ ơn rồi rủ nhau xuống núi.

Từ đó về sau, nhân dân vòng này không còn nạn ngũ quỷ phá hại nữa.

Lúc ấy Âu-dương-Phong đã đứng lại trên hai chân, quét mắt nhìn Hồng-thất-Công hỏi bâng quơ:

Thằng kia xem quen quá, chẳng biết tên gì, võ nghệ ra sao, hãy nói nghe thử?

Hồng-thất-Công thấy Âu-dương-Phong cặp mắt láo liên, tâm thần bất định, khi tỉnh khi say thì biết là chứng bệnh điên điên của hắn gần mấy chục năm nay vẫn chưa dứt được.

Ông cả cười nói đùa:

Ta là Âu-dương-Phong đây, còn mi là ai?

Lúc này thần trí Âu-dương-Phong đang bấn loạn, vừa nghe ba tiếng "Âu-dương-Phong" thấy quen lắm, chưa biết tên mình hay tên ai, chỉ lắc đầu đáp:

Âu-dương-Phong à! Tên quen lắm. Còn ta, ta tên... gì... như... quên mất rồi!

Hồng-thất-Công cười ngất nói:

Chỉ có cái tên của mình mà không nhớ, thì đấu võ làm sao được, hãy về nhà suy nghĩ lại, chừng nào nhớ được sẽ trở lại đây.

Âu-dương-Phong nổi giận trừng mắt nạt:

Thế thì mi có nhớ không? Hay nói hộ cho ta nghe thử.

Hồng-thất-Công đáp:

Tên mi là "Cáp-Mô", nhớ không?

Nghe hai chữ cáp mô, Âu-dương-Phong cũng thấy quen quen nhưng chưa dứt khoát đúng hay không đúng. Lòng cứ phân vân, chợt quên, chợt nhớ rồi đứng thừ người ra nghĩ nữa.

Nguyên Hồng-thất-Công là đối thủ số một của Âu-dương-Phong. Hai người xem nhau như kẻ tử thù. Mỗi lúc tánh ngây ngây nổi lên thì quên tất cả, nhưng hễ tỉnh trí lại, nhớ đến Hồng-thất-Công là lửa giận bốc lên muốn đánh nhau liền.

Hồng-thất-Công để ý theo dõi thấy Âu-dương-Phong đang ngơ ngơ ngác ngác, bỗng nhiên đôi mắt trừng lên lộ vẻ hung quạu thì biết y đã tỉnh lại nên thủ thế đề phòng.

Âu-dương-Phong vừa bớt cơn mê, nhớ lại kẻ thù, hét lên một tiếng, vung quyền tấn công liền.

Hồng-thất-Công liền đưa Giáng long thập bát chưởng ra chống cự, phá tan những ngón quyền của đối phương. Quyền cước vung lên vùn vụt, gió lộng ào ào. Mỗi khi chưởng lực xuất ra là tuyết rơi đá chạy, rung động cả núi rừng. Cả hai người quấn chặt vào nhau, dùng toàn những đòn bí hiểm thượng thạng, chỉ sơ ý một tý là lăn đùng xuống hang sâu vực thẳm. Chừng ấy dầu xương sắt da đồng cũng không thoát chết.

So với hai kỳ đọ kiếm tại Hoa-Sơn khi xưa, cuộc tranh tài lần này có vẻ gay go nguy hiểm hơn nhiều do địa hình quá hiểm trở và cheo leo.

Kể về võ thuật thì người nào cũng thuộc về tuổi cao tác lớn, ai cũng đến ngày gần đất xa trời cho nên công lực đã hao mòn, so với ngày còn trẻ, không thể nào bì kịp.

Trong trận này ai cũng quyết giành thắng thế nên trận đấu không còn tánh chất so tài thử sức như xưa mà lại là một trận quyết định tử sanh.

Dương-Qua đứng ngoài nhìn xem, thấy hai bên đều cố đem chưởng lực ra ăn thua chứ không đem so tài hay võ nghệ.

Dương-Qua thấy trận đấu ngày càng ác liệt hiểm nghèo. Có lúc Hồng-thất-Công suýt té nhào xuống vực sâu, cũng có lúc Âu-dương-Phong bị áp lực đẩy vào đá, chỉ trong gang tấc là tan xương nát thịt. Chàng băn khoăn lo nghĩ:

- Âu-dương-Phong là dưỡng phụ của ta, còn Hồng-thất-Công tuy mới gặp gỡ, nhưng là một nhân vật lỗi lạc, quang minh chính đại rất đáng mến phục, ai thua cũng đem lại sự đau lòng cho ta hết vì vậy cần phải làm sao chấm dứt trận đấu càng sớm càng hay.

Chàng đứng nhìn xem chăm chú, định có dịp là nhảy vào phân giải xin giảng hòa đôi bên.

Không bao lâu trận đấu đã trên hai trăm hiệp. Dương-Qua đứng nhìn say sưa thấy bên nào cũng áp dụng đúng như những từ chương của Cửu âm chơn kinh đã chỉ dạy. Vì áp dụng quá đúng cho nên họ có thể giải thoát được nhiều thế bí, tưởng nguy đến tánh mạng một cách linh điệu phi thường.

Nhiều lúc chàng không thể ngờ được chỉ có một câu quá đơn giản nhặt trong kinh mà lúc đem ra áp dụng thật là biến ảo khôn lường.

Trận đấu càng kéo dài càng gây cấn, chỉ trong nửa ngày đã hơn một ngàn hiệp. Cả hai chưa đem sử dụng hết những thế hay của mình nhưng vì tuổi cao bụng đói nên vị nào cũng có vẻ mệt lả, hơi thở dồn dập, tay chân bớt phần linh hoạt.

Nhân cơ hội này Dương-Qua gọi lớn:

- Nhị vị đánh nhau quá nửa ngày rồi. Xin khá dừng tay để ăn uống và xả hơi chút đỉnh chứ!

Nghe được hai tiếng ăn uống là Hồng-thất-Công hoan nghênh ngay nên nhảy ra ngoài vòng gật đầu nói:

- Ăn uống đã, tốt lắm!

Dương-Qua thấy bọn ngũ quỷ còn bỏ lại rất nhiều thực phẩm, nào cơm trắng thịt gà, giò heo, rượu nữa. Chàng thu góp đem lại dọn ngay trên tuyết để khoản đãi.

Hồng-thất-Công rất tự nhiên và thật tình nên vừa dừng tay la thò tay lấy một khúc gà thật bự đưa lên mồm nhay rau ráu nghe dòn tan, nuốt luôn cả xương và da.

Dương-Qua lấy một góc con gà khác đưa cho Âu-dương-Phong, miệng nói:

- Cha dùng đi. Thật không ngờ ngày nay được gặp lại cha nơi chốn này.

Âu-dương-Phong đã lấy lại sự bình tĩnh, nhìn Dương-Qua rồi dịu dàng nói:

- Mấy lúc nay cha cố ý đi tìm con. Vì vậy nên mới đến đây, thật là may mắn.

Nghe nói Dương-Qua cảm động vô cùng và suy nghĩ:

- Không ngờ ông lại thương yêu và thiết tha tới mình như vậy. Lòng ta cũng được an ủi và đỡ cô độc vì vẫn còn được người tưởng đến để vượt núi đi tìm.

Chàng lại gần nắm tay dưỡng phụ ân cần năn nỉ:

- Thưa cha, Hồng-thất-Công tiền bối quả là người rất tốt. Xin cha đừng chống đối và đánh nhau với cụ ấy nữa, cha nhé.

Âu-dương-Phong nghiêng tai nghe nói rồi quay lại điểm mặt Hồng-thất-Công hét lớn:

- Thằng kia, mày là Âu-dương-Phong đấy sao? Hạng mày là đồ xả rác, đâu đáng cùng ta so tài.

Hồng-thất-Công ngửa mặt cười ha hả rồi điểm mặt Âu-dương-Phong đáp:

- Đúng rồi! Âu-dương-Phong là đồ xả rác, đáng đánh chết vứt xác xuống hố cho rồi.

Dương-Qua thấy cha nuôi đã loạn trí trở lại, khó bề khuyên can giảng hòa gì nữa.

Khi ấy Âu-dương-Phong cứ trợn mắt đỏ ngầu, nhìn trừng trừng vào Hồng-thất-Công rồi đến Dương-Qua, thần trí bất định, như đã loạn óc trở lại rồi. Có lúc ông ngó nghiêng nghiêng hình như cố lắng tai để nghĩ lại một việc gì đã quên lãng nhưng nghĩ hoài không ra.

Dương-Qua đưa cơm, thịt cho Âu-dương-Phong xong, đến trước mặt Hồng-thất-Công chắp tay kính cẩn thưa rằng:

- Hồng lão tiền bối, ông này quả là dưỡng phụ của cháu, hiện nay đã mất trí nên tỉnh mê không biết lúc nào. Kính xin Hồng-Lão tiền bối niệm tình cháu, đừng thèm chấp nên nghĩa phụ, coi ông ấy như người đang điên rồi bệnh hoạn, bỏ qua hết mọi điều đi cho.

Hồng-thất-Công vốn người quảng đại vô cùng, nghe Dương-Qua tỏ bày các lời trung hậu chí thiết thì hài lòng lắm, đưa tay vuốt tóc chàng, mỉm cười khen:

- Cháu ít tuổi nhưng có nghĩa và biết điều lắm. Ta rất mến những kẻ ăn ở thủy chung.

Nhưng vừa lúc ấy Âu-dương-Phong, đứng dậy mắt trừng miệng quát:

- Này Âu-dương-Phong, nãy giờ quyền cước chả ăn thua. Bây giờ ta cùng mi sử dụng vũ khí xem ra sao nào?

Hồng-thất-Công nhìn Dương-Qua ái ngại lắc đầu đáp:

- Thôi, đừng đánh nhau nữa. Ta nhường cho mi thắng đấy.

Âu-dương-Phong nói:

- Không được. Mi nhường hay nhận thua ta cũng không để mi sống sót được đâu.

Nói xong đưa tay bợ một cành cây thật lớn, suốt hết lá, vung lên, nhắm Hồng-thất-Công đánh đại.

Xưa nay Âu-dương-Phong đã nổi tiếng về lối dùng gậy cho nên mặc dầu chỉ một nhánh cây, nhưng mỗi lúc lão múa lên đã lộng gió ù ù, rúng động cả một vùng rộng lớn. Dương-Qua đứng gần cũng thấy sức ép vô cùng mãnh liệt, khó thở vô cùng.

Chàng vội bước qua một bên né tránh và trong lòng lo ngại cho Hồng-thất-Công quá sức.

Nhưng Hồng-thất-Công vẫn ung dung thứ thái hình như không quan tâm đến, đưa tay bẻ một nhành cây khác, làm "đoản bổng" để chống lại.

Lối đánh bổng của Hồng-thất-Công đã chấn động giang hồ thế gian có một. Vì đã lâu ẩn tịch ít thi thố nên không còn ai nhắc lại.

Cuộc đấu quyền vừa rồi tuy dữ dội nhưng cuộc tranh tài về trượng bổng lần này càng ghê rợn hơn gấp bội.

Cây trượng múa lên như rồng thiêng uốn khúc, đoản bổng quay cuồng như rắn độc vây mình, hai món binh khí soắn tít vào nhau, như chong chóng lộng gió rít vo vo, làm chuyển động cả một vùng tuyết văng tứ hướng.

Dương-Qua đứng ngoài say sưa theo dõi mà hồn phách như dại như ngây bởi những thế võ vô cùng kỳ diệu. Chàng vừa xem mê mẩn, vừa hồi hộp lo lắng cho cả hai người.

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 30 : Dự "Anh hùng Yến".

Trận chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt. Côn qua bổng lại, gió lộng, tuyết bay, đánh mãi đến chiều tối không biết bao nhiêu hiệp, hai người cũng không chịu ngừng tay.

Dương-Qua đưa mắt nhìn quanh thấy đầu non tuyết phủ trắng xóa một màu, bao nhiêu ngọn cây, hóc đá, hầm hố bụi bờ đều bị bao bọc bởi một lớp tuyết thật dày cho nên không biết chỗ nào lành nơi nào nguy hiểm nữa.

Chàng lo ngại hai người tuổi cao sức đã kém, nếu cứ đấu hoài thế nào cũng phải kiệt quệ, rủi có bề nào thật là đáng ân hận.

Chàng vội vàng lớn tiếng yêu cầu hai vị tạm ngừng trận đấu, nhưng đôi bên mãi mê say đánh, mặc kệ cho van nài chẳng thèm đếm xỉa mà càng đánh hăng thêm.

Sực nhớ đến cố tật của Hồng-thất-Công, chàng nghĩ ra một kế:

- Ta phải tìm món gì thật thơm, đem nướng nơi đầu gió, xông vào mũi ông ấy may ra mới dụ được ngừng tay.

Chàng chạy luôn xuống dưới khe suối, hái mấy thứ cây và cỏ thơm mang lên, đem lại phía mỏm đá ở trên gió, chụm lửa để đốt.

Mùi "cam thảo, hoắc hương" nướng cháy, khói tỏa ra mùi thơm ngạt mũi. Hồng-thất-Công đánh hơi thèm quá nhịn không được bảo Âu-dương-Phong:

- Lão Cáp-Mô hãy tạm dừng một chút, ta có việc cần.

Nói xong ông kiễng đầu quay ra sau, chạy lại phía Dương-Qua lấy mấy khúc cam thảo nướng đưa vào miệng vừa nhai vừa chắp và khen Dương-Qua:

- Cháu bé chu đáo lắm!

Âu-dương-Phong chờ một chập không thấy Hồng-thất-Công trở lại bèn vung nhánh cây nhảy lại đập nhầu.

Hồng-thất-Công né xong, cầm khúc cam thảo nướng đi vào mồm Âu-dương-Phong bảo:

- Hãy nuốt đi cho ấm bụng. Thơm quá.

Âu-dương-Phong ngạc nhiên ngần ngừ một chút nhưng cũng đưa tay nhận lấy và nhai ngon lành, quên cả chuyện đánh nhau.

Nhai xong mớ cây thuốc, cả ba cùng vào hang đã nghỉ ngơi.

Đêm đã xuống, âm u rùng rợn làm sao! Đỉnh Hoa-Sơn như chìm đắm trong màn đêm dày đặc. Ngoài hang gió lộng từng cơn, tuyết đổ ào ào đập vào vách đá như tiếng gào thét của rừng xanh. Dương-Qua nằm không ngủ được, to nhỏ đem những chuyện ngày xưa hỏi lại Âu-dương-Phong nhưng ông chỉ ngơ ngẩn nói không trúng vào đâu hết, có nhiều lúc chỉ làm thinh không trả lời.

Khi bị hỏi vặn, Âu-dương-Phong vỗ tay vào trán để suy nghĩ mãi không ra, mặt mày lộ vẻ băn khoăn quá sức rồi ngẩn người lộ vẻ âu sầu bực tức lắm.

Dương-Qua sợ hỏi mãi ông lão sẽ nổi cơn điên gây sự thì nguy hiểm lắm nên ân cần dỗ ngọt để cha nuôi ngủ đi cho rồi.

Khi cả hai ông lão đã ngủ mê, tiếng ngáy đều đều, Dương-Qua lồm cồm ngồi dậy, rảo bước đi ra ngoài hang.

Chàng nhớ lại bao nhiêu thế quyền khi sáng hai cụ đã thi thố quả thật vô cùng kỳ diệu. Thế rồi chàng đứng lên tập luyện một mình để nhớ lại những thế hiểm ác nhất mà mình đã tận mắt nhìn xem đôi bên thi thố.

Tập một hồi thấm mệt, chàng vào hang ngủ lại.

Rạng ngày sau, khi ánh mặt trời le lói dọi vào hang, Dương-Qua thức giấc, đã nghe phía ngoài cửa hang có tiếng chân dẫm trên tuyết rào rạo và chưởng lực chạm vào nhau rầm rập. Chạy ra xem thấy Hồng-thất-Công và Âu-dương-Phong đã đem nhau ra đồng để đấm đánh từ lúc nào rồi.

Dương-Qua chép miệng than thầm:

- Hai ông cụ đã già, gần đất xa trời nhưng còn háo thắng, tranh nhau như con nít, thật ngán!

Chàng ngồi trên một tảng đá nhìn xem hai người đấu nhau, hết bằng quyền thì đến côn bổng.

Các đòn tấn công của Hồng-thất-Công hiểm ác vô cùng, nhưng Âu-dương-Phong đâu chịu sút kém, dùng ngón khác phá được ngay rồi phản công lại.

Cuộc chiến đấu đôi bên cứ kéo dài suốt sáu ngày ròng rã, cứ ngày đánh, đêm nghỉ, chẳng ai chịu thua ai, mà cũng không người nào nắm phần thắng thế.

Dương-Qua nghĩ bụng:

- Nếu để cục diện kéo dài, giữa hai người thế nào cũng có một kẻ bị thương nặng. Đêm hôm ấy, chờ Âu-dương-Phong ngon giấc, Dương-Qua thưa nhỏ cùng Hồng-thất-Công:

- Xin mời Hồng-Lão tiền bối ra cửa động, cháu có tý việc muốn trình bày.

Khi hai người ra khỏi động ít trượng, Dương-Qua bỗng sụp xuống lạy dài không nói một tiếng.

Hồng-thất-Công nhìn thấy ngạc nhiên nhưng bỗng nghĩ lại:

- Có lẽ cậu này thấy cha nuôi bị bệnh nên muốn van nài xin ta nhân nhượng cho chăng?

Ông ngước mặt cười dài rồi nói:

- Ta đã hiểu ý muốn của ngươi rồi.

Nói dứt lời, ông cầm khúc cây ngắn phi thân bay luôn xuống núi.

Nhưng ông vừa đi chưa được vài trượng, thình lình nghe gió lộng từ phía sau, có tiếng ai nạt lớn:

- Thằng già ăn mày, định trốn đi đâu đó?

Té ra Âu-dương-Phong vừa thức dậy trông thấy, vội cầm gậy ngắn phi thân đuổi theo, chận lại.

Hồng-thất-Công đã có ý định nhận lời cầu khẩn của Dương-Qua, cố nhẫn nhịn, tìm đường chạy thoát cho xong chuyện.

Nhưng Âu-dương-Phong lầm tưởng ông hoảng sợ cố ý lánh mình nên càng làm già đuổi riết. Y vung gậy ngắn đánh đập tứ phương quyết ngăn đường cản lối.

Phàm khi nghênh chiến cùng một địch thủ ngang tài phải giữ miếng ngay từ giờ phút đầu. Nếu để thua sút một đòn cũng đã bất lợi, huống chi Hồng-thất-Công đã tránh né nhường nhịn luôn mười ngón thì lúc cần lấy lại thế quân bình không phải dễ.

Đã hai ba lần suýt lâm nguy với cây gậy của Tây-Độc Âu-dương-Phong, Hồng-thất-Công không dám nhân nhượng nữa, phải tận lực múa bổng chống cự lại để cứu vãn tình thế.

Thình lình Âu-dương-Phong phóng một gậy đâm thẳng vào bụng dưới nếu lôi thôi sẽ lủng ruột ngay, nên Hồng-thất-Công vội vàng né qua một bên rồi múa bổng gạt mạnh một cái.

Nhưng lúc bỗng chạm phải gậy, Hồng-thất-Công có cảm giác như một cái roi đập phải bức tường sắt. Cây gậy của Âu-dương-Phong đứng sững nặng có ngàn cân. Hồng-thất-Công biết y đã vận chuyển toàn nội lực phổ vào ngọn cây để áp đảo mình. Nếu không cấp bách tận dụng hết khả năng nội công ứng phó thì nguy đến sinh mạng như chơi.

Thế là từ võ thuật, hai bên đã đem nội lực ra đấu nhau.

Đối với hai quái kiệt này bản lãnh đã đến mức linh diệu tuyệt kỹ, nếu kẻ nào chỉ sơ hở trong đường tơ kẽ tóc thì không bỏ mạng cũng mang tật suốt đời.

Từ quyền cước, đến côn bổng bây giờ qua nội lực, người nào cũng hiểu rõ quá nhiều công phu tài nghệ của đối phương cho nên không dám coi thường vì hễ chủ quan, nó mất một ly là chết liền.

Sau bảy ngày tranh tài về võ thuật thấy không qua mặt được Hồng-thất-Công, sáng nay Âu-dương-Phong nhất định đem nội lực ra đối chọi.

Suốt mấy chục năm qua, Hồng-thất-Công ghét cay ghét đắng bản chất hung bạo tàn ác của Âu-dương-Phong. Hễ có dịp là ra tay hạ sát mới đả giận. Nhưng càng võ gia, tâm tánh càng thuần hậu, lòng háo thắng cũng chẳng còn. Hơn nữa vì Dương-Qua đã hết lòng van xin cầu khẩn, nên Hồng-thất-Công không muốn ra độc thủ, chỉ đánh cầm chừng, có thủ nhưng không muốn tấn công, chờ hắn hở cơ là tẩu thoát.

Không dè Âu-dương-Phong lại vận chuyển nội lực hùng hậu như sóng cồn, thác chảy, khiến Hồng-thất-Công phải giật mình kinh hãi.

Suốt đời Hồng-thất-Công chú trọng khổ luyện về công lực cho nên tuy về già nhưng không đến nỗi tệ. Vì vậy nên cố vận hết nội công đối chọi. Cả hai bên cứ giữ mãi cái thế quân bình, không hơn không kém.

Dương-Qua để ý nhìn thần sắc hai người có vẻ khẩn trương, đem hết tâm lực vào cuộc so tài. Tuy hai người đứng yên không cử động nhưng cả hai cùng dồn hết nội lực như hai quả núi đang choảng nhau, nếu người nào sút một ít sẽ bị đè bẹp hay bị nội thương ngay.

Chàng lo ngại cho tánh mạng của Âu-dương-Phong, muốn thừa cơ phóng ám khí hay tập kích sau lưng Hồng-thất-Công để tiếp sức cho dưỡng phụ. Nhưng nhìn vẻ mặt hiền hậu đầy chánh khí hiên ngang của ông lão, Dương-Qua bỗng thấy thẹn cho cảm nghĩ thiếu đứng đắn của mình và nghĩ thầm:

- Hồng-Lão tiền bối quả là một bậc trượng phu đáng kính, ta không thể nào dùng thủ đoạn ám muội để hãm hại ông được.

Thình lình Âu-dương-Phong hét lên một tiếng vang trời, vụt quay đầu xuống đất, chổng cẳng lên trời, nội lực ngùn ngụt phát ra nghe vo vo, mà Hồng-thất-Công vẫn đứng trụ vững như pho tượng đồng không hề chuyển động tý nào.

Từ đầu đến gót chân của Âu-dương-Phong phát tiết một làn hơi trắng, ngùn ngụt bốc ra, cuộn khắp người của Hồng-thất-Công.

Hồng-thất-Công tăng gia nội lực để đánh tan luồng bạch khí này. Hình như ông chỉ muốn đối phó bằng cách chống đỡ chứ không muốn phản công lại như những lần trước.

Thế rồi hai bên cứ tận dụng toàn thể nội lực áp đảo nhau, cầm cự dằng dai từ giờ thìn đến cuối giờ ngọ. Hồng-thất-Công có vẻ kém sức, mà trái lại công lực Âu-dương-Phong cứ cuồn cuộn trào dâng như nước thủy triều.

Hồng-thất-Công than thầm trong bụng:

- Thằng Tây-Độc càng điên khùng càng lợi hại, ta đây tuổi càng cao, nội lực cũng kém sút, không khéo phen này ta bị nguy mất.

(Xin lỗi bạn đọc truyện bị thiếu 1 trang)

Hồng Thất Công đắn đo một chập rồi mới nói thêm :

- Ta có một món võ bí truyền của Cái Bang vô cùng kỳ diệu, muốn đem truyền lại cho con. Theo quy luật của Cái Bang thì môn võ này chỉ có thể độc truyền lại cho vị bang chủ kế vị để cầm giềng mối vạn mạng của bổn bang , tuyệt đối không dạy cho một kẻ nào khác, dầu vợ chồng con cái cũng vậy. Nay vì dưỡng phụ con có chọc tức nói khích, ta chịu không được mới đem dạy cho con đó.

Dương Qua mừng rỡ không xiết kể nhưng vẫn từ chối lấy lệ :

- Thưa lão tiền bối, nếu theo quy luật của Cái Bang, võ công ấy chỉ có thể truyền lại cho Cái Bang bang chủ mà thôi thì con đâu dám học. Vả lại dưỡng phụ con đang lúc điên điên khùng khùng, nói năng không đúng chỗ, hơi đâu mà chấp nệ những lời ông ấy nói. Dầu có truyền lại cho con rồi chưa chắc gì ông ấy thấu hiểu nổi.

Hồng Thất Công nói :

- Phàm những tuyệt kỹ võ công có hai phần : "tư thế" và "quyết khiếu". Phải biết cả hai chuyện mới đến chỗ hoàn toàn. Hôm nay ta dạy cho ngươi cái tư thế để sử dụng chân tay trong "Đả cẩu bổng pháp" chứ không truyền lại cái phép về "quyết khiếu" thì đâu có vi phạm quy luật mà hòng ngại.

Dương Qua nghĩ thầm :

- Đả cẩu bổng pháp là môn võ thuật trấn môn, quý báu nhất của Cái Bang đã duy trì uy danh của Bang này trên mấy mươi đời nay, chắc gì dưỡng phụ mình hiểu. Hôm nay Hồng lão tiền bối muốn dùng mình để biểu diễn thị uy cùng cha nuôi đây chứ gì.

Hồng Thất Công thấy Dương Qua lộ vẻ nghĩ ngợi cũng hiểu được những điều mà chàng đang thắc mắc nên nói cùng Âu Dương Phong :

- Này chú Tây Độc, thằng con nuôi của ngươi nó cũng thừa hiểu ngươi không thể nào sánh nổi với "Đả cẩu bổng pháp" của ta nên do dự không dám nhận biểu diễn vì sợ mất mặt cha nuôi đấy.

Âu Dương Phong tự ái nổi đầy bụng, trợn mắt nói :

- Này Qua nhi, con cứ làm theo ý hắn muốn đi. Sau khi con hiểu xong mấy cái thế võ quèn của lão rồi, ta sẽ chỉ cho con một vài bí quyết vô cùng ảo diệu mà hắn nhất định không bao giờ hiểu thấu nổi.

Thấy cả hai vị đều thúc ép, Dương Qua thấy khó nỗi chối từ đành lại trước mặt Hồng Thất Công chờ ông chỉ bảo.

Hồng Thất Công bảo chàng đi bẻ một nhánh cây nhỏ làm bổng rồi bắt đầu dạy tỷ mỷ từng ly từng tý tư thế trong "Bổng đả song khuyển" ( tức là một gậy đánh hai chó ).

Vốn được trời phú tư chất thông minh lanh lợi, học đâu hiểu đấy và nhớ kỹ càng, nên Dương Qua cầm bổng đứng lên biểu diễn được ngay.

Âu Dương Phong trông thấy đường bổng pháp quả nhiên kỳ diệu. Nếu mấy ngày qua mà lão ăn mày đem ngón này ra dùng, chắc mình chống đỡ không thể nổi.

Vì vậy, ông gọi Dương Qua để gỡ gạc lại phần nào danh dự :

- Được rồi, bây giờ con lại đây, cha dạy cho con phép "Nhất trượng sát song hùng" cho lão xem để mở rộng thêm tầm mắt của lão đôi chút.

Dương Qua lại gần, Âu Dương Phong tay chân múa máy, mồm giảng giải từ động tác cơ bản đến cái lối đánh đỡ, biến thế dọc ngang nhất nhất rành rẽ từng ly từng tý.

Dương Qua học xong, biểu diễn lại không sai một chút nào.

Hồng Thất Công gật đầu khen :

- Hay lắm, khá lắm đấy !

Thế rồi Hồng Thất Công lần lượt dạy cho Dương Qua cả 36 đường trong "Đả cẩu bổng pháp", phân tích những lối biến hoá kỳ diệu không biết đâu mà lần.

Đáp lại, Âu Dương Phong cũng đem ra dạy tất cả các bí quyết về "Công thủ" khiến Hồng Thất Công phải tấm tắc khen thầm.

Hai bậc lão anh hùng thi nhau đem tất cả các môn ruột bí truyền của mình dạy hết cho Dương Qua để biểu diễn lại trong suốt ba ngày liền. Đến cuối ngày thứ ba, Hồng Thất Công mới đem môn "đục biến" của môn múa bổng dạy nốt cho Dương Qua. Đây là một thế tối hậu của mọi bí quyết, có cả lối "bạt thảo tầm xà" ( vạch cỏ tìm rắn ) vô cùng kỳ ảo.

Dạy xong, Hồng thất công nhìn Âu Dương Phong nói :

- Ta có thể nói, đây là môn võ công tinh diệu nhất, dầu có thánh cũng không thể nào phá giải được. Mi cứ thử xem nào ?

Âu Dương Phong cứ đứng nhìn hoài, tìm mãi không biết cách nào để khắc chế nên cứ làm thinh suy nghĩ mãi.

Suốt đêm ấy, Âu Dương Phong không ngủ, nằm thao thức lăn lộn cố tìm cách phá giải và đến gần cuối canh hai mới tìm ra được cách, gọi Dương Qua thức dậy bảo :

- Ta đã có cách phá cái thế "Bạt thảo tầm xà" rồi. Mi đem trượng lại đây ta dạy cho ngay bây giờ.

Nghe tiếng nói của nghĩa phụ thay đổi khác giọng nói thường ngày , Dương Qua ngạc nhiên nhìn kỹ thì thấy tất cả râu tóc của Âu Dương Phong đã bạc phếch, sắc diện già đi hơn người mấy tuổi. Ghê thay cho tác dụng của một đêm lao tâm suy nghĩ.

Dương Qua khiếp hãi, định lại năn nỉ cùng Hồng Thất Công xin bãi bỏ lối thi đâu này đi, nhưng chàng chưa kịp làm thì Âu Dương Phong đã mở miệng thét vang gọi Hồng Thất Công ra đấu.

Hồng Thất Công đang ngủ trên ổ cỏ, nghe gọi bèn ngồi dậy bước ra liền.

Dương Qua ngại nguy hiểm cho dưỡng phụ vội nắm áo kéo Âu Dương Phong lại nhưng toàn thân của lão đứng sững như cột đá, vững như trời trồng không thể nào lay chuyển nổi. Chẳng biết làm sao hơn, chàng đành đứng phía sau canh chừng mọi sự bất trắc.

Thấy Âu Dương Phong đã tìm ra lối phá, Hồng Thất Công cười ha hả nói:

- Âu Dương lão trượng, nhà ngươi quả là bậc kỳ tài mới tìm ra được lối phá thế võ ấy. Ta hoàn toàn cảm phục và xin có lời thành thực khen ngợi người đấy nhé .

Âu Dương Phong võ nghệ cao siêu thật, nhưng tuổi cao, sức yếu, lại thêm dùng tận lực đấu nhau suốt mấy ngày liền, còn phải trải qua một đêm suy nghĩ quá sức nên đã hoàn toàn kiệt quệ.

Vừa nghe Hồng Thất Công nhắc đến hai chữ Âu Dương ông tự nhiên nhớ lại, trí óc như bừng sáng, tư tưởng như được mở rộng, ký ức nhớ lại bao chuyện đã qua trong dĩ vãng rõ ràng như một tấm gương soi, bất giác thích chí cười lên một tràng dài rồi thét lớn ;

- à ! Đúng là tên Âu Dương Phong. Tên ta là Âu Dương Phong rồi, đúng lắm, đúng lắm !

Tiếng của lão rống lên như tiếng chuông ngân, âm thanh rùng rợn vang dội bên tai như tiếng cười đắc chí của tử thần.

Hồng thất Công cũng thích chí vụt ngồi dậy ôm chầm lấy Âu Dương Phong. Hai ông lão cứ ôm lấy nhau cười ngất, tiếng cười kéo dài mỗi lúc một to, rồi nhỏ dần và cuối cùng thì tắt hẳn.

Hai thân hình cứ ôm nhau mãi không cử động.

Dương Qua sợ hãi liền kêu lớn :

- Dưỡng phụ, dưỡng phụ ! Hồng lão tiền bối ! Hồng lão tiền bối !

Tiếng gọi của chàng như rơi vào hư vô, vang bên sườn núi rồi tắt hẳn không lời đáp lại.

Thân hình hai ông lão cứ đứng sát vào nhau, trơ như hai bức tượng đá, như muốn nhắc lại cho người đời nhớ rằng : "đời người lắm chuyện bạc đen, không thèm nghe, chẳng thèm ngó gì nữa. Chết là giải thoát !"

* *

*

Rừng sâu vắng lặng hình như còn rơi rớt dư âm của chuỗi cười cuối cùng của hai nhà đại hiệp khách, suốt mấy mươi năm lừng lẫy giang hồ.

Dương Qua không thấy ai đáp lại, đến sờ vào lưng Hồng Thất Công thì thấy lạnh như băng , đặt thử tay lên ngực Âu Dương Phong cũng thấy không còn hơi thở nữa. Nhưng nhìn sắc diện hai người thấy vẫn tươi nhuận và bình thản như đang ngủ một giấc êm đềm .

Thiên hạ muôn đời về sau nghe lại chuyện này đều băn khoăn suy nghĩ :

Hai đại anh hùng võ lâm Bắc Cái và Tây Độc đã từng sống qua cuộc đời chém giết, làm lưu huyết biết bao nhiêu người. Họ xem nhau như thù số một , vậy mà lại cùng ôm nhau cưòi đến chết ngay trên đỉnh núi Hoa Sơn này .

Chẳng biết họ cười nhau là ngu ngốc hay kém cỏi, hay cười để xoá tan bao ngày hận thù chồng chất. Thật khó hiểu cho cái cười kỳ lạ, mà cũng không ai ngờ đến cái chết của hai quái kiệt võ lâm.

Dương Qua không ngờ được cái chết quá ngẫu nhiên và đột ngột như thế này. Chàng chỉ lầm thầm khấn vái mong sao đây chỉ là một cuộc chết giả cũng như ngày trước đây Hồng Thất Công đã chết giả trong ba ngày ba đêm liên tiếp. Biết đâu lần này ông cũng giả chết để khỏi có sự tranh chấp với dưỡng phụ mình.

Cầu khấn xong chàng ẵm hai người đem đặt tại giữa hang và ngồi ngay ở giữa để xem chừng ra sao.

Cứ để yên liên tiếp 7 ngày 7 đêm, Dương Qua thấy hai thây ma đã bắt đầu đổi sắc và có mùi nên chắc chắn là chết thật rồi không còn nghi ngờ gì nữa. Chàng ôm mặt khóc lóc một hồi rồi đào hai cái huyệt để an táng hai quái kiệt võ lâm, nằm song song bên cạnh nhau muôn đời trên núi tuyết.

Chàng loay hoay vác đá lên đắp thành hai cái mồ thật cao, rồi bước ra nhìn lại. Trên mặt tuyết vẫn in rành rành dấu chân của hai vị đã giẫm lên trong lúc cùng nhau kịch chiến.

Dương Qua âu sầu than nhỏ :

-" Dấu chân trên tuyết nay còn đó

Hình bóng người thân đã mất rồi "

Than xong, chàng lẳng lặng bước tới nhìn hai nấm mồ rồi đặt chân mình vào dấu chân của người quá cố, bất giác cảm thấy nỗi nhớ thương tràn ngập, thổn thức can tràng.

Nhớ lại hai người, chàng đau lòng hoài niệm :

- Suốt đời tung hoành dọc ngang, uy danh chấn động giang hồ, tiếng tăm cho lắm, tranh tài cho lắm rồi bất quá cũng vùi thây dưới ba thước đất cho tuyết dập sương pha, lúc sinh tiền họ đã giết chết bao nhiêu người, khuất phục bao nhiêu tài danh thiên hạ, thế mà ngày nhắm mắt lìa đời không có một manh chiếu bọc thân, cũng không tránh nổi thây sình xác rữa. Ôi ! đời người sống tham nhiều chết càng thối lắm ! Cuộc đời phải chăng là một giấc mộng, mới thấy đó đã mất liền. Thế mà ai cũng ham sống để tranh danh đoạt lợi, theo cái bả phù hoa .

Nghĩ vẩn vơ hồi lâu, chàng đứng tần ngần nhìn lại lần chót, cúi sụp lạy bốn lạy rồi quay mình xuống núi.

Xuống núi lần này, Dương Qua tuyệt nhiên không có một tham vọng chi hết, lòng lâng lâng như thoát tục, thản nhiên cất bước thẳng về phía trước, chẳng cần lựa chọn phương hướng, và cũng không có chủ định đi về đâu.

Trong thâm tâm chàng lúc nào cũng nghĩ :

- Cái thân cô độc này, dầu có đi đến nơi nào trên khắp bầu trời cũng chưa tìm được chốn định đậu. Biết đâu là nhà, là thân tộc ? Thà cứ đi lang thang cho đến ngày mãn phần hết số là yên thân.

Trong thời gian nửa tháng trên đỉnh Hoa Sơn tuyết phủ, Dương Qua có cảm giác như trải qua nhiều năm giữa thị trấn đông người.

Sống giữa chốn hoang sơn không có ai khinh, người trọng, chẳng bận rộn đến chuyện đời, chẳng oán hận giận hờn, mọi việc đều xem như đám phù vân lơ lửng, mới đó rồi tan mất ngay.

Chàng tự nhủ thầm ;

- Cuộc đời nhan nhản cả điều ngang trái, giàu trọng khó khinh, bao nhiêu tiền bạc hạnh phúc đều nằm trong tay một bọn quyền thế, dân nghèo thì cơ khổ cho đến mãn đời cũng chỉ có bàn tay trắng. Như vậy thì cuộc đời đâu có gì đáng thiết tha và bận tâm đến. Ta chỉ cần biết trọng những kẻ quý ta và khinh kẻ muốn hại ta.

Ngày nọ, chàng đặt bước đến xứ Thiểm Nam, nơi đây có cả một cánh đồng bao la, mênh mông bát ngát. Chàng ngừng chân phóng tầm mắt quan sát tận chân trời thấy toàn là cây khô lá úa, cỏ mọc lơ thơ, có vẻ vô cùng cằn cỗi. Mỗi luồng gió thổi qua lá vàng theo cát bụi bay mịt trời.

Thình lình từ phía Tây nổi lên nhiều tiếng sấm, rồi từng đám mây đen bao kín khắp bầu trời. Một đàn ngựa đông đen có vài trăm con chen nhau chạy gấp từ đằng xa lại, tiếng vó giậm vang lên rầm rập, cách chỗ chàng đứng độ một dặm thì dừng lại. Con nào con nấy đều có vẻ ngơ ngác, hình như đang lo sợ một kẻ nào đó. Dương Qua thấy đoàn ngựa rừng chạy lồng trên đồng hoang thì thích chí lắm, nghĩ thầm :

- Con ngựa có khớp yên cương vào, xem oai vệ đẹp đẽ lắm, nhưng đâu được tự do chạy nhảy như mấy chú ngựa rừng này.

Cũng như trên đời này biết bao nhiêu kẻ tự cao tự đại, xêng xang với mũ cao áo dài, oai nghi chốn thềm vàng điện ngọc, nhưng trên đầu họ có biết bao nhiêu sự ràng buộc áp bức, đâu có được thảnh thơi tự tại như ta đây. Cái thằng Dương Qua với mảnh áo xơ mướp, manh quần rách ống nhưng muốn dọc ngang tuỳ ý.

Bọn giàu sang co tiền bạc cho nhiều , có lụa là gấm vóc cũng chỉ cố che đậy cái xác thân dơ bẩn, tâm hồn ghẻ lở lúc nào cũng háo hức của ngon vật lạ, lăm le hãm hại lẫn nhau. Ngày nay ta sống với trái rừng nước suối, bạn với cảnh đẹp bao la, cõi lòng hồn nhiên thích sống cạnh thiên nhiên.

Đang trầm ngâm suy nghĩ về cuộc đời phù phiếm, nhân tình thế thái , Dương Qua nghe từ đằng xa có một giọng ngựa hý rất buồn bã. Chàng quay lại nhìn, thấy trên con đường gồ ghề đầy sạn đá, một con ngựa ốm nhom, lưng bày xương, ỳ ạch lôi một chiếc xe to tướng, chất đầy củi tiến về phía này.

Dương Qua thấy dáng điệu con ngựa ốm quá ư thiểu não, thật hợp với tiếng hý buồn bực vừa nghe. Chàng nhìn con ngựa nghĩ thầm :

- Có lẽ ngựa này thèm khát cái không khí tự do của mấy trăm đồng loại, xót cho phận mình éo le phải ỳ ạch kéo xe mà không có ai cùng cảnh ngộ để chia sẻ bớt số kiếp hẩm hiu chăng ?

Chàng mải suy tư mà con ngựa ốm đã kéo chiếc xe củi đi ngang qua trước mặt.

Con ngựa này tuy gầy ốm có lẽ vì thiếu ăn, lại phải làm việc quá sức, nhưng nom kỹ thì tầm vóc rất cân đối, chân cao, mình dài. Tội nghiệp cho nó, vì mình ốm gầy xương nhô lên rõ ràng từng cái một, lông rụng lơ thơ, ghẻ mọc khắp nơi, mới nhìn cũng phát ớn.

Trên chiếc xe chất củi đầy nhóc, một gã đại hán ngồi chễm chệ ngay phía trước, cứ mỗi lần con ngựa đi chậm một chút là thẳng tay nện tới tấp.

Dương Qua đã thấm thía với cuộc đời hẩm hiu bị thiên hạ giày xéo, khinh miệt, nay trông thấy con ngựa ốm bị chủ hành hạ tàn nhẫn quá nên cảm thấy đau lòng và liên tưởng số phân nó và số phận mình cũng chẳng khác gì nhau.

Vì thương tâm cho con ngựa khốn khổ, chàng cảm thấy đầu óc nóng bừng, lòng dạ xót xa, nước mắt chực trào ra nên đứng né sang một bên đường và tức quá không dằn được quát lớn ;

- Tên kia,ngươi không có lương tâm hay sao mà nỡ hành hạ con ngựa quá lắm vậy ?

Người ấy quắc mắt nhìn lại, thấy một chàng trai trẻ, quần áo lam lũ rách rưới như ăn xin, chực đứng ra can thiệp vào chuyện của mình nên giơ roi nạt lớn :

- Bé con tránh ra cho mau, không tao cho một roi võ sợ liền bây giờ .

Dương Qua bước tới một bước hét lớn ;

- Ngươi đánh nó một roi nữa, ta giết ngươi ngay lập tức.

Gã đánh xe không đáp lại, giơ roi thẳng tay quất mạnh vào đầu Dương Qua.

Dương Qua đưa tay nắm lấy ngon roi, giật mạnh rồi quất luôn vào người hắn mấy cái. Tên đánh xe đau quá té nhào xuống xe rên la lăn lộn, mặt mũi dính đầy đất, sưng bầm nhiều chỗ.

Con ngựa ốm nhìn thấy xấu nhưng khôn ngoan vô cùng. Nó biết kẻ hành hạ nó bị đánh đau nên cất cổ hý vang, dường như hả dạ lắm, rồi đến gần cọ đầu vào đùi Dương Qua như tỏ ý cảm ơn.

Dương Qua cảm động tháo bỏ dây cương cho nó rồi đưa tay hất nhẹ chiếc xe qua bên đường, xem bộ nhẹ nhàng như ném một chiếc hộp quẹt rồi đưa tay chỉ vào đàn ngựa hoang vừa mới phi ngang qua hãy còn lưu lại một đám bụi trắng và bảo

- Ta cho mi được tự do đi theo các bạn ngươi phi về hướng đó.

Con ngựa hình như hiểu biết ý chàng, cất tung hai vó trước lên cao, hý một tràng dài như để cảm ơn rồi chạy ngay về phía đó.

Không ngờ, vì nhịn đói lâu ngày và bị buộc mãi giữa hai gọng xe , bốn chân cóng quá, nên mới loạng choạng được mấy chục trượng đã té nằm dài, đưa bốn vó lên cao không đứng dậy nổi.

Dương Qua thương hại quá, vội chạy lại nâng nó lên xem nhẹ như nâng một con mèo rồi vỗ nhẹ vào cổ nó như để an ủi.

Gã đánh xe ngồi dậy trố mắt nhìn, thấy chàng thiếu niên xách chiếc xe như bó củi, nâng con ngựa như nâng con mèo thì biết chàng có dũng lực phi thường, không dám chọc nữa, vội vàng tìm đường chạy trốn.

Nhưng khi chạy độ nửa chặng đường, hắn bỗng dừng lại dậm chân la lớn :

- Ôi bà con ơi, có cướp, có cướp . Quân này đã cướp mất con ngựa của tôi rồi, Bà con ơi !

Dương Qua chỉ mỉm cười chẳng chút quan tâm, chạy lại lề đường bứt mấy đám cỏ non đút cho con ngựa ăn. Thấy con ngựa bị hành hạ khổ sở giống như hoàn cảnh của mình nên Dương Qua chạnh lòng thương mến nó lắm.

Khi ngựa ăn cỏ đã no, chàng vỗ nhẹ vào lưng nó nói nhỏ :

- Mi khỏi đi đâu xa nữa, từ nay cứ đi theo ta nhé.

Rồi chàng ung dung dắt ngựa đi chầm chậm, qua thị trấn mua lúa cho ăn thật no, rồi dẫn nó ra khe tắm rửa thật sạch.

Qua hôm sau ngựa đã bình phục, sức khoẻ tăng lên gấp mấy lần. Dáng điẹu không còn quá thiểu não như ngày hôm qua nữa. Lúc bấy giờ chàng mới cưỡi nó đi từng bước một.

Lúc đầu nó chạy còn ngập ngừng, nhưng một chập sau mau hơn và mỗi lúc càng chạy thật khoẻ.

Liên tiếp bảy tám ngày, Dương Qua cho ngựa ăn no nê, tắm rửa thường xuyên nên lông lá đã láng, mụn ghẻ không còn nữa và dáng điệu trông đẹp lắm .

Chàng thấy vậy mừng rỡ, càng chăm sóc con ngựa chu đáo, cho ăn uống no nê, bất cứ đi đến chỗ nào cũng buộc ngựa luôn một bên.

Một hôm, vào một thôn trang nọ, Dương Qua tìm quán trọ và kiếm thức ăn đỡ lòng. Bỗng thấy con ngựa nghênh mũi nhìn vào một hũ rượu gần đó, miệng hý vang như muốn đòi uống.

Dương Qua thấy lạ bèn gọi tửu bảo đem ra một hồ đổ vào bát, đặt ngay trước mặt nó. Con ngựa cúi xuống uống một hơi cạn ráo không còn một giọt.

Thấy vậy Dương Qua thích chí cười vang, cho là một chuyện hy hữu. Chàng bảo tửu bảo đem thêm. Con ngựa uống thêm cả mứòi bát thật lớn, mũi thở khịt khịt vẫn tỏ ý muốn uống nữa.

Dương Qua muốn thử thách tửu lượng của nó đến mức nào nên bảo tửu quán đem thêm rượu ra thêm nữa.

Tên tửu bảo thấy chàng ăn mặc rách rưới như ăn mày, sợ không đủ tiền trả nên nói khéo ;

- Tiệm tôi hết cả rượu rồi .

Dương Qua lặng thinh không nói một lời, móc túi trả tiền cơm, tiền rượu rồi nhảy lên ngựa đi liền.

Con ngựa có thấm hơi men, hừng nóng da thịt, tung bốn vó sải như bay,cây cối hai bên đường thi nhau lao ngược về phía sau như đèn kéo quân.

Nhiều lúc đang kiệu thật êm, nó bỗng nổi chứng, búng hai giò sau cao vút lên không rồi từ từ rơi xuống, khi chân vừa chạm đất thì bốn vó lại cất đều như đánh nhịp dòn tan trên đất cứng. Nếu người cưỡi ngựa hơi yếu nhất định phải té nhào gãy cổ trẹo chân hay trẹo xương sống ngay.

Dương Qua thì khác hẳn. Hễ ngựa càng lồng bao nhiêu thì chàng càng thích thú bấy nhiêu, và cho rằng ngựa hay phải có tật dữ.

Chàng đoán rằng :

- Sở dĩ con thiên lý câu có tánh bất thường, tinh nghịch, hễ gặp bất cứ con vật nào trên đường cũng phi vút qua đầu và đá hậu lại là vì trong người nó đã có sẵn tính ngang tàng, bất khuất của một con tuấn mã. Huống chi tron g thời gian qua nó chịu đoạ đày dưới làn roi của một đứa lái xe vũ phu quê kệch, bây giờ được thảnh thơi nên muốn tận hưởng những cái gì có thể tận hưởng được của không khí tự do. Khi trước người ta cho nó ăn ít mà làm nhiều, tài năng bị giảm sút, bây giờ được chủ biết tài, chăm sóc mến chuộng, nó cũng tỏ ra ngang tàng để bù lại những khi bị áp chế hành hạ quá đáng.

Thời may tính ngang tàng của con ngựa lại hợp với bản tính của Dương Qua cho nên chàng rất quý mến nó. Từ đó về sau, người và ngựa quyến luyến nhau như một đôi tri kỷ.

Vốn còn trẻ tuổi, ưa tinh nghịch hay đùa cho nên trên đường trường, Dương Qua để cho nó mặc tình rong ruổi đúng sức mà còn khuyến khích chạy mau hơn nữa.

Cứ theo đường mòn chạy mãi, chưa mấy hôm đã quá Lam Kiều, khỏi Thương Huyện rồi qua Long Câu trại.

Dừng lại Long Câu trại mấy hôm nghỉ dưỡng sức, rồi người ngựa lại lên đường nhắm hướng Kinh Tử quan.

Ngồi trên mình ngựa chẳng có việc gì làm, Dương Qua hồi tưởng những lúc đùa cợt Lục Vô Song và chọc tức Lý Mạc Thu rồi thích chí cười sằng sặc một mình.

Mặt trời vừa đúng Ngọ, Dương Qua bỗng gặp một bọn ăn mày. Cứ nhìn qua dáng điệu bên ngoài chàng có thể đoán được đây cũng là những tay cao thủ có hạng.

Nghĩ lại chuyện rắc rối cũ, chàng tự hỏi mình :

- Không hiểu Lục Vô Song có điều gì liên hệ trước kia với bọn này mà nuôi mãi hận thù đến nay, hễ gặp nhau là hậm hực.

Hay là bọn này có tiền cừu cùng Lý Mạc Thu , nên bất cứ người nào có liên hệ cùng Lý Mạc Thu , tất thảy đều là kẻ thù của họ nên quyết tìm cách thanh toán đấy chăng ?

Thấy ăn mày tụ hội đông quá, chỗ nào cũng có tụm năm, tụm bảy những chàng bị gậy quần áo lươm tươm nên chang để tâm theo dõi.

Đang lúc phân vân chưa hiểu ra sao , chàng bỗng nhớ đến Hồng Thất Công.

- Hồng Thất Công là cựu bang chủ Cái Bang. Tuy ta chưa hiểu rõ tôn chỉ mục đích của Cái Bang ra sao, nhưng chỉ cần nhìn thái độ uy nghi đại độ, quang minh chính đại của Hồng lão tiền bối thì cũng có thể đoán trước rằng bang Khất Cái phải là một bang có nhiều đức tính, hành vi chính đáng. Ta cũng nên lân la làm quen với họ, trước để hiểu thêm những người này, sau là để báo tin Hồng bang chủ đã qua đời cho họ rõ.

Được biết Dương Qua quen với Hồng bang chủ, ăn mày từ các nẻo kéo về , bị gậy cùng đường, ai ai cũng có lòng kính nể đối với chàng. Nhưng có một điều lạ mà mọi người đều phân vân tìm hiểu:

- Cứ theo lối ăn mặc bẩn thỉu rách rưới của Dương Qua thì có vẻ đúng là ăn mày rồi. Nhưng lạ một nỗi là ăn mày mà còn cưỡi ngựa ?

Nếu đi ăn xin mà cưỡi ngựa thì sang quá rồi, ai thèm bố thí cho nữa.

Dương Qua vô tình đâu biết điều tối kỵ đó nên cứ nhởn nhơ ngồi trên ngựa đi rong ruổi khắp phố phường.

Bỗng đâu có tiếng chim điểu kêu lớn, và từ không trung một đôi thần điêu từ từ sà xuống.

Một chú ăn mày đứng bên đường nhìn đôi chim điêu lẩm bẩm :

- Hoàng bang chủ lại sắp đến rồi đấy. Chiều nay có cuộc họp bất thường ở Cửu Thành.

Người bên cạnh nói :

- Không rõ có Quách đại hiệp đến dự không nhỉ ?

Người kia đáp :

- Điều đó chưa ai dám chắc được .

Khi ấy một người khác chột mắt, đứng nhìn Dương Qua cưỡi ngựa đi qua, đôi mắt lườm lườm, tỏ ý bất bình nhưng chưa nói ra.

Dương Qua nghe nhắc tới Quách Tỉnh và Hoàng Dung trong lòng đã hơi e ngại .

Ngày này đã lớn rồi, tính tình chàng không lất khất nông nổi như xưa kia nữa, cho nên bề ngoài vẫn giữ được vẻ điềm nhiên và nghĩ bụng :

- Ngày xưa ta sống dưới mái nhà họ Quách thật đã đổi bát mồ hôi để lấy bát cơm, thế mà từ lớn đến nhỏ nhà ông đều khinh thường áp chế ta mãi. Nhưng vì sức yếu và còn nhỏ dại, ta phải cam tâm chịu đựng. Ngày nay ta đã thoát ly ra ngoài ảnh hưởng gia đình này, bốn phương đâu cũng là nhà thì còn bận tâm đến họ làm gì cho mệt xác. Nếu họ còn ngược đãi khinh khi ta nữa, ta nhất định sẽ có phản ứng lại liền.

Chàng dự định giả một kẻ tứ cố vô thân đến xin nương tựa xem họ đối xử với mình ra sao.

Dự mưu xong, chàng tìm nơi vắng vẻ, lấy bùn đất bôi mặt, vò tóc cho rối bù lên, đưa tay tự đấm vài thoi vào mặt , khiến cho lưỡng quyền sưng vù như bị ai đả thương. Trên trán cũng cào xước luôn mấy đường như bị gai cào.

Nhìn Dương Qua lúc bấy giờ mặt mày sưng húp, trán xước mấy lằn rớm máu, quần áo đã rách rưới bẩn thỉu mà chàng còn lăn lộn dưới đất vài vòng nên càng lem luốc tàn tệ hơn nữa. Thật quả là một kẻ ăn xin chinh cống cuối chợ đầu đình.

Thay hinh đổi dạng xong, chàng dắt ngựa lững thững trở lại chen vào đám đông chứ không cưỡi nữa.

Có một người hỏi chàng ;

- Sao, cậu có đi dự "Đại yến" không ?

Dương Qua chẳng hiểu gì để trả lời, đành cứ ngơ ngác đứng ngó.

Thình lình cả sóng người xô lên, tràn vào lấn Dương Qua lọt ra phía sau chẳng nói năng gì được nữa.

Cả sóng người lần lượt kéo nhau đi như trảy hội. Trời về chiều, bóng hoàng hôn cổ miếu có mấy cây cổ thụ cành là sum suê, hai con thần ưng đang đậu trên cành cao nhất. Hai anh em họ Võ đang loay hoay xắt thịt cho đôi chim ăn.

Bữa nọ , Dương Qua lo nhìn Quách Phù mà không để ý đến anh em họ Võ. Nay có dịp, chàng cố ý nhìn , thấy hai người này cũng có ve oai nghi đường bệ, đáng mặt anh hùng. Võ Đôn Nho có vẻ cứng rắn mực thước, mỗi hành vi cử chỉ đều cẩn thận đắn đo, còn Võ Tu Văn thì lanh lẹ liến thoắng, hay xem chỗ này, đi chỗ nọ, ít khi điềm tĩnh như anh.

Võ Đôn Nho mặc áo bào tím, Võ Tu Văn mặc áo bào lam, cả hai đều buộc dây đơm gâm thêu hoa, trông có ve phong lưu tiêu sái, phong nhã hào hoa.

Dương Qua bước lại trước mặt hai người, cúi đầu chào, ngập ngừng một chút rồi nói :

- Kính chào nhị vị .... tôn huynh, mấy lúc nay nhị vị đều mạnh giỏi cả chứ ?

Ngay lúc ấy khắp nơi, xung quanh toà cổ miếu nhan nhản những người ăn mày bị gậy, quần áo rách tả tơi. Dương Qua ăn mặc cũng rách rưới, tiều tuỵ như mọi người nên không bị ai để ý.

Võ Đôn Nho cũng nhã nhặn vòng tay chào lại, đưa mắt nhìn Dương Qua nhưng không nhận ra được nên trả lời :

- Xin lỗi , nhân huynh là ai mà tôi quên mất ?

Dương Qua đáp :

- Tên họ của tại hạ chẳng có gì đáng làm rườm tai đại huynh. Tại hạ chỉ muốn được vào diện kiến Hoàng bang chủ thôi.

Ngay lúc đó, đằng xa có một giọng nói thanh tao như tiếng ngọc reo :

- Võ đại ca, em muốn gặp anh ngay. Việc mình không lo sao cứ đi lo chuyện thiên hạ mãi thế. Mau lên đi.

Võ Đôn Nho vừa nghe gọi, vội vàng quay đi ngay, chưa kịp trả lời cùng Dương Qua .

Dương Qua quay lại nhìn theo, thấy từ trong miếu có một nữ lang tuyệt đẹp , mặc áo màu hồng nhạt, thoăn thoắt đi ra. Nàng mặt đẹp như hoa, đôi mi vòng nguyệt, mũi thẳng mày cao, môi tươi như hoa hàm tiếu cười xuân, thân hình nở nang cân đối. Rõ ràng là Quách Phù , ái nữ của Quách Tỉnh đại hiệp.

Nàng không trang sức loè loẹt như bao nhiêu cô gái con nhà khuê các khác. Trên cổ nàng chỉ đeo một chuỗi hạt châu , lóng la lóng lánh, chiếu sáng ngời làm cho vẻ mặt hoa càng tăng thêm phần lộng lẫy diễm lệ.

Nhìn nàng rực rỡ như tiên nữ, Dương Qua nhớ lại thân mình áo quần như xơ mướp , bẩn thỉu lem luốc nên chạnh lòng quay đi nơi khác không nhìn nàng nữa.

Nàng vừa tới, hai anh em Võ Đôn Nho, Võ Tu Văn cùng chạy lại xoắn xít một bên truyện trò vồn vã lắm. Võ Đôn Nho thì có ve mặt kiêu kỳ tự phụ, còn Võ Tu Văn thưa dạ luôn mồm ra vẻ một kẻ nịnh đầm thiện nghệ.

Vừa bước đi, Võ Đôn Nho bỗng sực nhớ lại câu chuyện Dương Qua hỏi mà mình chưa kịp đáp, quay lại nhìn chàng hỏi :

- Tôn huynh đến đây để dự "Anh hùng yến" phải không ạ ?

Dương Qua đâu hiểu "Anh hùng yến" là gì, do ai tổ chức để làm chi nhưng cũng buột miệng dạ ẩu cho rồi.

Võ Đôn Nho bèn đưa tay ngoắt một người ăn xin gần đó lại dặn :

- Nhờ anh tiếp đãi ông bạn này cho chu đáo rồi mời sang Kinh tử quan nhé .

Người ăn xin được lệnh đến gần Dương Qua lễ phép hỏi :

- Xin quý khách vui lòng cho biết rõ tên họ !

Dương Qua cho biết tên họ thật của mình. Chú ăn mày chỉ là một người vô danh tiểu tốt trong giới hành khất đâu có biết Dương Qua là ai nên không để ý đến

Khi Dương Qua hỏi lại họ tên thì người ăn xin trình bày lại lý lịch, cấp bậc của mình trong giới hành khất ;

- Tôi họ Vương, đứng hàng 13 trong hạng 2 túi của Cái Bang. Võ công tôi còn kém cỏi , nhưng được cái miệng mồm lanh lẹ hoạt bát nên được thượng cấp giao cho lo liệu việc tiếp tân.

Khai lý lịch rồi , hắn hỏi thêm :

- Dương huynh từ đâu về đây ?

Dương Qua đáp :

- Tôi từ Tây Bắc lại .

Người ấy vội hỏi :

- Như vậy chắc Dương huynh là môn đệ của phái Toàn Chân chăng ?

Chàng bực mình khi nghe nhắc lại ba chữ Toàn Chân phái nên lắc đầu đáp ngay :

- Không phải !

Vương thập tam bèn đem lời tán khéo :

- Như vậy chắc Dương huynh được mời đến dự "Anh hùng yến" , Dương huynh có mang thiếp mời theo đó chứ ?

Dương Qua đáp :

- Tiểu đệ chẳng qua chỉ là một kẻ phiêu bạt giang hồ, chưa có chi trên thiên hạ nên đâu có cái vinh dự được mời dự yến này. Trước kia tiểu đệ có quen cùng Hoàng bang chủ , nhân dịp đến đây, muốn gặp mặt để xin ít tiền lộ phí về quê. Sự thật là thế .

Vương thập tam tỏ vẻ bất bình, cau mày suy nghĩ một chặp rồi đáp :

- Hiện nay quan khách quá đông, Hoàng bang chủ đang bận tiếp đãi các bạn anh hùng bốn phương về dự "Anh hùng yến" nên không có thì giờ để tiếp Dương huynh.

Mục đích của Dương Qua là cố làm ra vẻ rách rưới tồi tệ để cho thiên hạ khinh khi, nên vừa nghe Vương thập tam nói thật đúng ý mình thì thích chí lắm và giả vờ than thở thêm :

- Xưa nay Hoàng bang chủ vẫn lừng danh con người hào hiệp không trọng phú khinh bần. Hơn nữa bao nhiêu người trong bang hành khất đều là những kẻ bần cùng đâu có giàu sang hơn ai, nhưng người nào cũng theo tôn chỉ cứu nạn phò nguy, phục vụ cho các thành phần khốn khổ. Tôi đoán chắc không khi nào bang chủ đi xem thường một kẻ bần cùng như tôi để chỉ hướng về những kẻ giàu sang quyền quý như Vương huynh tưởng .

Nghe giọng nói của chàng có vẻ bi thiết và tâng bốc Cái Bang mình nên Vương thập tam dịu giọng nói :

- Thôi, ông bạn cứ theo tôi ăn cơm đã. Mai đây về Kinh Tử quan sẽ nhờ vị công tử lúc nãy chuyển lời lên Bang chủ, còn việc được tiếp hay không tôi không dám quả quyết được .

Sở dĩ lúc đầu Vương thập tam tâng bốc "Dương huynh" là vì tưởng chàng được thiệp mời dự "Anh hùng yến" . Nhưng sau này được biết là không phải nên hắn đổi cách xưng hô ngay thấy Dương Qua tuổi kém thua mình .

Dương Qua đồng ý , tỏ lời cám ơn rồi bước theo Vương thập tam vào miếu dọn cơm rau ra đãi.

Theo quy luật của Cái Bang thì các bang chúng thực thụ dầu có được thiết tiệc, khách tiệc, rượu thịt phủ phê sang trọng đến đâu cũng phải ăn trước một vài món cơm thừa canh cặn để khỏi mang tiếng "vong bổn" rồi sau đó muốn ăn gì cũng được. Tuy nhiên đối với khách thì lúc nào cũng phải thết đãi đàng hoàng chứ không giữ thủ tục ấy.

Dương Qua đang ngồi ăn bỗng thấy một bóng trắng lướt qua trước mặt. Quách Phù đã đi đến, từ ngoài bước vào , vừa đi vừa nói chuyện luôn mồm như bắp rang. Nàng lo chuyện trò liến thoắng cùng anh em họ Võ nên không để ý đến Dương Qua đang ngồi ăn cơm bên cạnh tượng Phật.

Nàng nói :

- Nếu chúng mình đi ngay chiều nay thì chỉ trong một đêm là đến Kinh Tử quan chứ gì . Để tôi bảo bọn nó đưa đôi hồng mã của hai anh đến nhé.

Ba người cứ chuyện trò rồi đi lần ra hậu viện, lấy hành lý và khi sắp đặt trên ngựa xong rồi cùng đi ra khỏi miếu.

Tiếng vó ngựa vang lên dồn dập, xa dần rồi không nghe nữa.

Ngồi nghe tiếng vó ngựa mỗi lúc một nhỏ, Dương Qua đưa đũa quấy bát canh thừa, thấy đắng cay cho phận mình và ngẫm nghĩ :

- Thật đáng phiền cho lũ người kiêu kỳ xa hoa, lúc nào cũng coi thường người đói rách thản nhiên tiến qua cửa số để hợm đời. Nhân tình thế thái thật đáng nguyền rủa.

Chàng thấy nóng bừng trên mặt, muốn lên ngựa đuổi theo, xuất lộ hình tích coi lũ này đối xử ra sao để cho một vố cho hả lòng căm tức, nhưng đưa mắt nhìn phía trên có tấm biển chạm hai chữ "từ bi" , chàng thấy bao nhiêu căm hận đã tiêu tan và trở lại với tâm hồn hiền lành thủ phận và lẩm bẩm hai chữ "sắc không" .

Màn đêm đen kịt, cả bầu trời ảm đạm không một vì sao. Từ toà cổ miếu cho đến cái nhà to lớn trong miếu đều chìm ngập trong bóng đêm dày đặc. Chàng lại nghĩ đến một chuyện rồi mỉm cười lẩm bẩm :

- "Tắt đèn, nhà ngói như nhà tranh" , xã hội loài người có bình đẳng chăng cũng chỉ trong đêm tối,kẻ sáng người mù cũng như nhau, kẻ giàu người nghèo cũng không có gì để phô trương và chỉ cùng chung một định luật.

Nghe tiếng trùng khóc đêm khuya rì rầm , Dương Qua nghĩ thầm :

- Hoá công sanh làm chi voi to trùng nhỏ, đêm đêm trùng khóc có phải là để than thân trách phận hay phàn nàn cái bất công của tạo hoá đây chăng ? Nghĩ phận voi to và loài trùng dế nhỏ cũng chẳng có gì hơn nhau.

Nghĩ vẩn vơ rồi chàng thiếp ngủ từ lúc nào không biết.

Sáng sớm hôm sau, Vương thập tam gọi Dương Qua thức dậy để lên đường lên Kinh Tử quan.

Trên đường đi , hàng đoàn ăn mày cũng kéo nhau đi lũ lượt.

Chốc chốc, có một vài người trong các môn phái khác , trẻ già có đủ hình dạng cũng chen chân vào đám đông. Có lẽ họ đi xem hội hay được mời dự "Anh hùng yến" .

Dương Qua nhắc đi nhắc lại ba chữ "Anh hùng yến" mà không hiểu ý nghĩa gì. Chàng muốn nhờ Vương thập tam giải thích hộ nhưng ngại hắn từ chối nên làm thinh giả bộ ngây ngô không biết gì hết và cứ lầm lũi đi hoài.

Khi mặt trời sắp chen núi thi Dương Qua và Vương thập tam cũng vừa đến Kinh Tử quan.

Kinh Tử quan là vị trí trọng yếu nhất giữa hai tỉnh Phụng Thiên và Dự Châu, địa thế vô cùng hiểm trở, dân cư trù mật, chợ búa đông đúc hơn tất cả các địa điểm khác.

Chàng bước theo Vương thập tam đi khỏi thị trấn hơn 7 dặm thì đến một nơi có mấy trăm cây hoè cùng mấy hàng cổ thụ mọc quanh một trang viện cực kỳ to lớn, anh hùng hào kiệt từ các nơi lũ lượt kéo về đông như kiến cỏ.

Trong trang viện không biết bao nhiêu là phòng trại được dựng lên la liệt, nhiều quá đếm không xuể. Theo ước lượng của Dương Qua thì bao nhiêu phòng trại này có thể dung nạp trên hai ngàn người.

Vương thập tam đã biết phận mình hèn kém không thể nào dám gặp bang chủ trong lúc đang bận rộn nhiều khách này để xin cho Dương Qua được gặp mặt và xin tiền lộ phí. Vì vậy cho nên sau khi tìm được chỗ ăn nằm cho Dương Qua rồi thì lẻn ra ngoài tán chuyện cùng bạn bè.

Phòng của Dương Qua cũng khá rộng. Chàng ăn uống xong đứng tựa cửa nhìn quanh thấy phòng nào cũng đầy cả người, kẻ hầu người tiếp chạy qua chạy lại lăng xăng,cảnh tượng thật quá nhộn nhịp.

Chàng lạ lùng suy nghĩ :

- Chẳng biết chủ nhân trang viện này là ai, làm chức phận gì mà có một cơ nghiệp quá ư đồ sộ như vậy.

Chàng mải nhìn ngó vẩn vơ, lòng đang thắc mắc thì bỗng có tiếng phát loa nói lớn :

- Xin để ý ! Ai ở đâu ngồi đấy, chớ nên lộn xộn, ông bà Trang chủ sắp ra tiếp khách.

Tiếng loa vừa dứt, ba tiếng pháo lệnh nổ lớn "Đùng, đùng,đùng" như long trời lở đất. Tiếp theo đó bọn nhạc công đang đứng hai hàng dài ngoài sân từ cửa viện ra tận cổng, cử bài nhạc chào mừng thật là trọng thể.

Phía sau hai hàng tráng đinh là các vị quan khách anh hùng và các anh em trong giới bị gậy.

Vừa lúc ấy có hai người sánh vai nhau từ trong cửa viện bước ra, một người đàn ông và một thiếu phụ trạc độ bốn mươi.

Người đàn ông mình cao lớn, nước da hồng hào, lơ thơ vài sợi râu, mặc áo gấm thêu hoa thật là hiên ngang, oai phong lẫm liệt, tướng đi có vẻ là một tay đại thủ lãnh .

Người thiếu phụ da dẻ cũng hồng hào, mặt mũi phúc hậu, cốt cách phi thường, đáng mặt một phu nhân mệnh phụ, xuất thân con nhà quyền quý.

Trong đám tân khach có tiếng xầm xì trầm trồ :

- Lục trang chủ và Lục phu nhân !

Bước sau lưng vợ chồng Lục Trang chủ là một cặp vợ chồng khác , vừa trông thấy, Dương Qua thấy nóng bừng cả mặt, thần trí phân vân, đó chính là Quách Tỉnh và vợ là Hoàng Dung bang chủ Cái Bang.

Đã bao nhiêu năm xa cách không thấy mặt hai người, ngày nay gặp lại, Dương Qua cũng không thấy có gì thay đổi khác trước. Quách Tỉnh vẫn hiên ngang, phúc hậu và trầm tĩnh. Hoàng Dung thì đẹp như hoa, trên môi lúc nào cũng điểm một nụ cười tươi, lôi cuốn được cảm tình của ngay cả những người khó tính nhất.

Quách Tỉnh mặc áo dài vải thô, Hoàng Dung đã là bang chủ Cái Bang tuyệt đối không được ăn mặc quần áo loè loẹt, hoa hoè nên chỉ mặc một chiếc áo tía màu lợt lợt.

Nối theo sau Hoàng Dung là Quách Phù , tiếp đó là anh em họ Võ.

Trong đại sảnh, đèn đuốc thắp lên sáng rực, soi rực rỡ từ trong ra ngoài.

Nếu đứng ngoài nhìn vào, ai ai cũng phải thán phục cho lối trưng bày lộng lẫy của trang viện và náo nức trầm trồ các cặp nam nữ quý phái này, người nào cũng hiên ngang đẹp đẽ, trai anh hùng khí phách, gái yểu điệu diễm kiều. Dưới ánh đèn, mọi người đều lộ nét mặt vô cùng hân hoan sung sướng.

Mấy người tân khách ở mé trái đưa tay chỉ trỏ trầm trồ :

- Vị anh hùng đứng giữa chính là Quách đại hiệp. Người đứng kế là nữ hiệp Hoàng Dung, bang chủ Cái Bang . Còn nữ lang nào xinh đẹp như hoa đang đứng cạnh Hoàng nữ hiệp đấy ?

Người kế bên có vẻ thạo hơn, nói khẽ :

- Còn ai xa lạ nữa, nàng ấy quả là ái nữ của Quách đại hiệp rồi.

Người khác cãi lại :

- Không phải là con gái đâu. Nàng và hai thanh niên đi sau thảy đều là môn đệ của Quách đại hiệp đấy.

Dương Qua không muốn cho vợ chồng Quách Tỉnh trông thấy mặt mình nên đứng ra phía sau lưng của một người ăn mày, thân hình cao lớn, thập thò nhìn ra đằng trước....

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 31 : Đại Hội Cái Bang.

Ban nhạc cử lên nhiều bài khi hùng tráng, lúc mê ly, khi dồn dập như sấm động, lúc thoảng qua như gió mùa xuân.

Dương Qua đứng nghe tiếng nhạc lòng mê say với giọng sáo tiếng kèn, óc ngẩn ngơ suy nghĩ những chuyện xa vời.

Vừa lúc đó cửa ngoài có bốn vị đạo nhân từ từ bước vào.

Thoạt trông thấy mấy người này, chàng cảm thấy tấm thân xao xuyến nhưng vẫn cố giữ vẻ bình tĩnh.

Người đi đầu mặt đỏ hồng hào, tóc râu trắng phau như tuyết , quả là Quang Minh Tử Hách Đại Thông, một trong bảy vị cao thủ phái Toàn Chân- Toàn Chân thất tử.

Người đi kế theo là một lão đạo cô ,cả tóc mi cũng trắng bạc, xưa nay Dương Qua chưa gặp mặt lần nào nên không rõ danh tánh.

Hai người đi sau rốt không ai xa lạ , chính là Triệu Chí Kính và Doãn Chí Bình, sánh vai nhau đi thong thả, vừa bước vừa chuyện trò.

Vợ chồng trang chủ từ trong đại sảnh bước ra bái chào làm lễ tham kiến và gọi lão đạo cô là sư phụ.

Kế đến là vợ chồng Quách Tỉnh, con gái là Quách Phù và hai anh em Võ Đôn Nho, Võ Tu Văn cũng lần lượt chạy ra kính cẩn lạy chào đón tiếp.

Tuy trong rừng người , kẻ bàn tán ồn ào nhưng Dương Qua vẫn thính tai nghe được những lời đối đáp của đôi bên.

Chàng thấy một ông lão đứng bên mặt chỉ mấy vị và giới thiệu cho một người bạn biết :

- Vị lão đạo cô này là một vị nữ kiếm khách lừng danh của Toàn Chân phái tên là Tôn Bất Nhị đó.

Người kia nói :

- A, té ra là nữ hiệp Tôn Bất Nhị đã lừng danh Nam Bắc. Tôi đã từng nghe tiếng tăm vang dậy nhưng đến nay mới được gặp mặt lần đầu.

Ông lão nói thêm :

- Ngài là sư phụ của Lục phu nhân trang chủ. Còn Lục trang chủ thì không thọ giáo cùng lão đạo cô.

Lục trang chủ là Lục Quán Anh, con của Lục Thừa Phong. Xưa kia Lục Thừa Phong là đệ tử của Hoàng Dược Sư đảo chúa Đảo Đào Hoa, phụ thân của Hoàng bang chủ. Nếu tính theo vai vế thì Lục Thừa Phong và Quách Tỉnh ngang nhau, mà Lục Quán Anh thì dưới một bậc.

Vợ của Lục trang chủ tên là Trình Dao Ca, đệ tử của lão đạo cô Tôn Bất Nhị. Ngày trước hai vợ chồng trang chủ sống chung với cha là Lục Thừa Phong tại Quy Vân trang trên bờ Thái Hồ. Sau đó Âu Dương Phong đến đánh phá, đốt trụi cả Quy Vân trang. Lục trang chủ không đủ sức chống cự phải dời về Kinh Tử Quan là cơ sở ngày nay đây.

Thời còn niên thiếu, Trình Dao Ca gặp nhiều nỗi truân chuyên hoạn nạn , may nhờ có Quách Tỉnh và Hoàng Dung mấy phen cứu thoát, vì vậy cho nên đối với vợ chồng Hoàng Dung nói riêng và Cái Bang nói chung, Lục phu nhân vẫn mang một cái ơn rất lớn.

Lần này nhân dịp toàn thể Cái Bang họp đại hội và toàn thể anh hùng khắp nơi cũng được thiếp mời về dự "Anh hùng yến" nơi đây, tất thảy đều do vợ chồng Lục trang chủ bao hết mọi phí tổn. Số người quá đông, lẽ dĩ nhiên sự chi tiêu phải vô cùng tốn kém, có thể lên đến gần một nửa gia sản của chủ nhân. Tuy nhiên hai vợ chồng Lục Trang chủ là người hào phóng, trọng nghĩa khinh tài, vẫn không nề hà chút nào cả.

Khi ấy Quách Tỉnh mời Hách Đại Thông và Tôn Bất Nhị cùng bước vào đại sảnh để gặp mặt chư vị anh hùng.

Hách Đại Thông đưa tay vuốt chòm râu bạc, cất giọng sang sảng nói :

- Tất cả các huynh Mã , Khưu , Lưu, Vương đều có nhận được thiếp mời của Hoàng bang chủ , ai nấy cũng đã chuẩn bị để lên đường đi dự "Anh hùng yến" . Không ngờ vào giờ chót, Lưu sư huynh bị bệnh nên các vị sư huynh khác buộc lòng phải ở lại để lo săn sóc và tìm thầy thuốc men chạy chữa. Vì vậy nên bốn vị sư huynh có nhờ lão chuyển lời cáo lỗi cùng Hoàng bang chủ và Quách đại hiệp.

Hoàng Dung đáp lại :

- Không dám, xin nhị vị lão tiền bối đừng khách sáo. Được nhị vị niệm tình chiếu cố đến dự hôm nay cũng là một vinh dự cho Cái Bang lắm rồi. Chúng tôi chẳng còn đòi hỏi gì hơn nữa.

Tuy Hoàng Dung còn trẻ tuổi nhưng đã là Bang chủ của một tổ chức quan trọng nhất, nên Hách Đại Thông nể vì trọng vọng lắm.

Còn Quách Tỉnh và Doãn Chí Bình vốn đã quen biết và thân với nhau ngay từ ngày còn niên thiếu, do đó hôm nay gặp lại thì tay bắt mặt mừng chuyện trò vui vẻ lắm.

Lục Quán Anh nhân danh chủ yến, sai gia nhân dọn tiệc và mời chư vi anh hùng cùng vào ngồi dự.

Trong đại sảnh đèn đuốc sáng rực rỡ, bàn ghế la liệt, người đông như kiến, nói nói cười cười vô cùng náo nhiệt.

Tuy đã ngồi vào bàn nhưng Doãn Chí Bình cứ đưa mắt láo liên nhìn khắp chỗ, hình như cố tìm kiếm một kẻ nào đó. Triệu Chí Kính biết ý chàng , cười thầm trong bụng rồi ghé tai nói nhỏ :

- Sư đệ có gặp Long đạo hữu về dự tiệc hay không ?

Doãn Chí Bình thất sắc, chỉ nhìn lại, không nói gì hết.

Quách Tỉnh lắng tai nghe hai người nhắc đến vị đạo hữu họ Long thì cũng ngờ là một vị nào trong môn phái chứ không ngờ Triệu Chí Kính ám chỉ Tiểu Long Nữ.

Ông cũng vui cẻ góp lời :

- chắc nhị vị đang chờ một vị đạo hữu nào họ Long nhưng đến muộn phải không ?

Triệu Chí Kính cười hóm hỉnh và nói kháy :

- Thưa, vị ấy là bạn thân của Doãn sư đệ đấy. Bần đạo đâu dám đèo bòng đến.

Quách Tỉnh thấy thái độ hai người có ve khách sáo thiếu tự tin, đoán có lẽ giữa đôi bên có ẩn tình gì đây, nhưng không tiện hỏi thêm, quay sang nói chuyện với khách.

Chợt Doãn Chí Bình thấy Dương Qua đang ngồi lẫn lộn giữa đám đông thì trong lòng hồi hộp mất tự nhiên, sắc mặt tái đi trông thấy rõ. Chàng nghĩ thầm :

- Dương Qua có mặt thì thế nào Tiểu Long Nữ cũng đến đây và có lẽ sớm muộn gì rồi cũng xuất đầu lộ diện.

Nhìn mặt mày Doãn Chí Bình tái mét, Triệu Chí Kính và Quách Tỉnh cũng đều hết sức ngạc nhiên, vội nhìn ngay về hướng đó thì thấy có Dương Qua. Quách Tỉnh mừng quá lật đật chạy đến nơi nắm tay chàng ôn tồn nói :

- Qua nhi,chẳng hay con đến từ lúc nào. Sở dĩ vì đường sá quá xa xôi nên ta không biên thiếp mời con, ngại con đi vất vả. Con cùng đi với sư phụ sao không vào ngay mà cứ để sự phụ con nhọc công đi tìm kiếm con từ nãy đến giờ ?

Nguyên Quách Tỉnh ở Đào hoa đảo cách phái Toàn Chân quá xa xôi, hơn nữa lúc bấy giờ giao thông liên lạc rất khó khăn nên việc xung đột giữa Dương Qua và Toàn Chân phái ông vẫn chưa hề hay biết. Lần này đi dự Anh hùng yến , Triệu Chí Kính định đưa ra nói lại cho ông nghe nhưng chưa kịp. Chẳng ngờ lại gặp Dương Qua ở đây mà Quách Tỉnh lại ân cần đón hỏi, Triệu Chí Kính sợ rằng Dương Qua đưa ra nói trước. Khi nghe thấy Quách Tỉnh nói thế hắn mới biết Quách Tỉnh cũng chưa nắm rõ được tình hình nên buộc miệng nói :

- Bần đạo đâu có tài năng và diễm phúc được nhận Dương Qua làm đệ tử !

Quách Tỉnh nghe nói lạ lùng quá hỏi lại :

- ủa, tại sao Triệu sư huynh lại nói như vậy. Hay là Qua nhi đã có làm điều chi vô lễ xúc phạm đến sư huynh, hoặc chẳng nghe lời dạy bảo chăng ?

Triệu Chí Kính đưa mắt nhìn lên thấy trên đại sảnh anh hùng hào kiệt qua đông, ngại rằng nếu đưa việc này ra nói thì quả là dài dòng mà còn làm thương tổn đến danh dự của phái Toàn Chân nên phải dằn lòng cười nhạt một tiếng không nói gì hết .

Quách Tỉnh đưa mắt nhìn kỹ Dương Qua thì thấy mặt mũi sưng vù, trên má có bị nhiều vết trầy như bị ai cào, quần áo rách tả tơi, thân hình ốm o tiều tuỵ thì đoán có lẽ chàng đang sống trong một hoàn cảnh bi đát, nên chạnh lòng thương xót, đưa tay ôm choàng vào lòng vỗ nhẹ lên lưng như để an ủi vỗ về .

Dương Qua thấy bị Quách Tỉnh ôm chặt vào mình chưa rõ dụng ý gì nên vội vàng vận dụng nội công chống đỡ .

Quách Tỉnh thật lòng thương xót cháu, chẳng quan tâm đến sắc diện của chàng, ngó Hoàng Dung hỏi :

- Em có nhận ra ai đây không ?

Hoàng Dung đưa mắt nhìn Dương Qua từ trên xuống dưới và hỏi một câu để lấy lòng Quách Tỉnh :

- Hay quá, cháu về đây từ lúc nào đấy ?

Dương Qua không đáp lại, chỉ lấy tay gỡ tay Quách Tỉnh ra khỏi mình và nói nhỏ :

- Thân hình tôi dơ dáy bẩn thỉu lắm, xin lão trượng buông ra để khỏi làm lấm quần áo quý.

Câu nói đơn giản chân thật nhưng bao hàm nhiều nỗi cay chua đau đớn khiến cho Quách Tỉnh chạnh lòng thương xót nghĩ thầm :

- Tội nghiệp cháu tôi, không cha không mẹ, làm sao sung sướng được.

Ông âu yếm nắm tay Dương Qua kéo lại ngồi bên mình.

Dương Qua ghe xuống ghế và nói nhỏ nhẹ :

- Dạ,cháu ngồi đây được rồi. Xin bá bá đừng bận tâm , cứ lo tiếp các quan khách đi.

Quách Tỉnh nhận thấy chàng nói đúng vì nhìn xung quanh chư vị anh hùng đã tề tựu đủ cả. Ông cúi xuống vỗ vào lưng và bóp nhẹ vào vai chàng để tỏ ý thông cảm rồi trở lại ghế cũ rót rượu mời mọi người.

Qua ba tuần rượu, Hoàng Dung đứng dậy nghiêm trang lên tiếng :

- Thưa liệt vị , ngày mai mới là ngày chính thức của Anh hùng yến. Hôm nay còn nhiều vị ở xa chưa về kịp. Vậy kính mời liệt vị cứ ăn uống no say, rồi ngày mai chúng ta uống nữa.

Mọi người nâng chén vui vẻ nói :

- Chúng tôi xin vâng lời, Bang chủ chớ bận tâm.

Tiếp theo đó bọn tráng đinh khiêng các món ăn và đủ thứ đặt lên các bàn , nào thịt heo, thịt dê , bê thui, ... mỹ tửu không thiếu thứ gì. Bàn nào cũng la liệt đầy cả các món ăn.

Tiệc xong các vị anh hùng đều được hướng dẫn về phòng riêng nghỉ ngơi.

Khi ấy tại đại sảnh, Triệu Chí Kính lại gần Hách Đại Thông thưa nhỏ vài câu.

Hách Đại Thông nghe xong gật đầu tỏ vẻ đồng ý.

Thưa xong, Triệu Chí Kính chạy lại phía Quách Tỉnh, chắp hai tay lại vái dài một lễ và nói:

- Xin Quách đại hiệp rộng lòng tha thứ cho, bần đạo đã phụ lòng uỷ thác của đại hiệp.

Quách Tỉnh cũng chắp tay đáp lễ rồi nói lại :

- ủa , sao Triệu sư huynh lại nói như vậy. Hay là cháu nó đã có gì thất lễ cùng sư huynh chăng. Vậy xin mời các vị cùng vào trong để tôi gọi cháu nó ra la rầy ít câu dạy hắn ít bớt cái tính ngang ngạnh bướng bỉnh đi.

Quách Tỉnh nói lớn tiếng nên mặc dầu ở xa, Dương Qua vẫn nghe rõ từng tiếng một. Chàng tức mình nghĩ bụng :

- Nếu người mắng ta một câu ta sẽ bỏ đi ngay, tội gì ở lại đây để nghe những lời vô lối như vậy . Nếu người đánh ta thì dẫu tài mọn sức kém, ta cũng quyết tâm chống lại, không thèm nhẫn nhịn nữa .

Vì có dự định thái độ trước nên chàng thản nhiên chờ đợi không chút nào phân vân lo ngại như lúc ban đầu.

Quách Tỉnh đưa tay ngoắc chàng lại bên mình.

Trong lúc ấy, Quách Phù và anh em họ Võ ngồi ăn chung một bàn ở căn phòng bên cạnh.

Khi thấy cha mẹ nhận ra Dương Qua , Quách Phù cũng nhớ ra liền. Nàng sực nhớ lại anh chàng này lúc bé đã cùng sống chung với mình trên đảo Đào Hoa, vui đùa thân thiết lắm, chẳng ngờ chưa bao lâu mà đã thay đổi khá nhiều, lúc gặp lại nhận không ra.

Nàng bỗng băn khoăn suy nghĩ thêm :

- Phàm còn trẻ tuổi ai cũng lớn mau như thổi. Chỉ cách nhau vài ba tháng, khi gặp lại đã thấy khác liền, huống chi hắn cùng ta đã xa nhau bao nhiêu năm trời thì làm sao khỏi quên cho được.

Nàng bỗng nhớ thêm :

- à, không rõ anh chàng này còn nhớ câu chuyện tranh chấp nhau hồi trên đảo không ? Nếu còn nhớ thì chắc hẳn là oán hận mình lắm.

Nàng thấy Dương Qua ăn mặc quá tồi tàn, rách rưới thì đem so sánh với anh em họ Võ và suy nghĩ có vẻ khoái chí lắm :

- Nhìn hai anh em họ Võ xinh trai, đẹp đẽ, ăn mặc sang trọng bao nhiêu thì trông anh chàng Dương Qua dơ dáy, rách rưới như ma lem thật quả là hai thái cực trái ngược nhau.

Nhưng chàng lại thương hại ngay và quay sang hỏi nhỏ Võ Đôn Nho :

- Ngày trước phụ thân em đích thân đem Dương Qua gửi cho Toàn Chân phái, không biết đến nay đã học hỏi tới đâu rồi, có giỏi hơn bọn mình không nhỉ ?

Võ Đôn Nho tỏ vẻ khinh thường nhướn mắt đáp :

- Quách sư phụ là đệ nhất anh hùng trên thiên hạ. Quách bá mẫu đã được ngoại tổ và Hồng Thất Công lão bang chủ truyền lại nhiều thế võ công tuyệt diệu. Hai vị đã hết lòng truyền thụ cho chúng ta thì hắn không thể nào bì nổi. Trên thế gian này làm sao tìm ra một bậc sư phụ ngang tài cùng Quách sư phụ và Quách sư mẫu. Vì vậy, chắc chắn tài nghệ của chúng ta phải vượt hơn hắn xa lắm.

Quách Phù gật đầu tỏ vẻ tán đồng và nói thêm :

- Xưa kia hắn đã tỏ ra là người thiếu căn bản, ngày nay dù cố gắng cũng chưa chắc tiến bộ được là bao nhiêu. Nếu hắn có bản lĩnh khá, đâu đến nỗi lang thang tiều tuỵ như vậy được.

Vừa lúc ấy nghe Quách Tỉnh cất tiếng cười , Hách Đại Thông và mọi người vào phòng để hỏi tội Dương Qua , Quách Phù bỗng nổi tánh hiếu kỳ đứng dậy nói :

- Chúng ta thử nấp phía ngoài nghe thử mọi việc xem sao.

Võ Đôn Nho e ngại nếu sư phụ biết sẽ trách phạt thì Võ Tu Văn đã lẹn miệng đáp :

- Hay đấy, mình đến rình thử cho biết !

Thấy Võ Đôn Nho còn ngập ngừng không nói , Quách Phù đã bước ra bỗng dừng chân lại nói gằn :

- Sao, anh không đi phải không ?

Nghe giọng nói của nàng có vẻ gay gắt, Võ Đôn Nho nghĩ dầu có từ chối cũng chẳng xong nên gượng cười đứng dậy đi theo .

Ba người đứng ngoài, ghé mắt nhìn qua khe cửa thấy trong phòng có đủ mặt vợ chồng Quách Tỉnh , Hách Đại Thông , Tôn Bất Nhị , Doãn Chí Bình và Triệu Chí Kính.

Khi ai nấy ngồi xong rồi, Quách Tỉnh bảo Dương Qua :

- Con ngồi xuống đi !

Dương Qua lắc đầu, ngước mắt nhìn ông đáp :

- Con không dám ngồi, sợ rằng như thế sẽ vô lễ với sư thúc, sư bá.

Miệng nói, mắt nhìn xung quanh một lượt, thấy toàn là những cao thủ võ lâm, kẻ nào cũng vẻ mặt lạnh lùng, khiến cho Dương Qua cũng thấy rờn rợn trong lòng .

Quách Tỉnh xưa nay rất trọng các vị trong phái Toàn Chân , đối với Dương Qua thì ông lúc nào cũng xem như hàng con cháu. Ông không muốn căn vặn nhiều e mang tiếng hạch sách áp chế trẻ con nên chỉ la rấy lấy lệ :

- Tại sao cháu to gan lớn mật, chẳng biết kính nể kẻ bề trên ?

Mắng sơ rồi ông quay sang thưa cùng các vị trong phái Toàn Chân :

- Kính thưa sư phụ , sư thúc, xưa nay thánh nhân đã dạy con người phải biết kính trọng ba ngôi Quân , Sư , Phụ. Học trò lúc nào cũng phải tuyệt đối tuân theo lời thầy chỉ dạy, xem thầy như cha , thế mà ngày nay tình sư đệ trong võ lâm mỗi lúc càng lỏng lẻo, chẳng qua là vì chúng ta cưng chiều bọn hậu bối quá nên chúng đâm ra lớn mật .

Ông nói năng từ tốn, ôn tồn không hề quát tháo nặng lời hay hạch sách như bao nhiêu ngừoi khác .

Triệu Chí Kính cười lạt rồi đứng dậy nói :

- Xin Quách đại hiệp đừng dạy vậy mà bần đạo càng thêm hổ thẹn. Bần đạo đâu dám nhận làm sư phụ Dương tiểu gia đây. Ngay tất cả anh em trong Toàn Chân giáo đây cũng không một ai dám ngỏ lời buộc lỗi ai, xin đại hiệp đừng nói nặng lời cùng "tiểu anh hùng" trước đám đông mà không phải .

Rồi hắn nhìn Dương Qua nói :

- Dương anh hùng hãy tha thứ cho bọn già có mắt không ngươi này nhé. Chúng tôi bất tài, đâu có đủ tư cách làm sư phụ ai !

Quách Tỉnh và Hoàng Dung thấy thái độ của Triệu Chí Kính có vẻ quá đáng , càng nói càng lộ vẻ căm hờn , thấy có điều khác lạ và suy nghĩ :

- Phàm học trò có lỗi , làm thầy rầy la đánh mắng là chuyện bình thường xưa nay. Tại sao y nói năng có vẻ móc ruột và bực tức như vậy nhỉ ?

Hoàng Dung lanh trí hơn, đã dự đoán được phần nào câu chuyện nên vội dùng lời khoả lấp đôi bên :

- Triệu huynh không cần phải giận dỗi xa xôi làm gì cho mệt trí. Cháu nó dại khờ, nhân có đủ mặt mọi người ,cứ vạch tội của hắn cho rõ ràng, tự nhiên hắn sẽ biết lỗi mà chừa ngay.

Triệu Chí Kính cười nhạt và lớn tiếng nói :

- Triệu Chí Kính này bất tài thiếu đức , đâu dám làm sư phụ ai, nói ra người ta sẽ phỉ nhổ vào mặt tôi đấy .

Hoàng Dung có vẻ không bằng lòng thái độ của Triệu Chí Kính nên nghĩ thầm :

- Gia đình ta cũng Toàn Chân giáo cũng chẳng có thân tình bao nhiêu. Trước đây bọn Toàn Chân thất tử bày trận Thiên cang Bắc đẩu vây khốn phụ thân ta là Hoàng Dược Sư, sau nhờ Trường Xuân Tử Khưu Xứ Cơ đứng ra dàn xếp cùng Quách Tỉnh mới yên. Ngày nay nhớ lại chuyện này lòng ta vẫn còn bực tức. Nhưng nghĩ vì mọi việc đều thay đổi với thời gian , ta chẳng thèm quan tâm đến nữa. ấy vậy mà nay chú đạo sĩ này lại to tiếng lớn lời có vẻ vô lễ quá, thật không thể nào nhẫn nhịn được nữa .

Hách Đại Thông và Tôn Bất Nhị đã hiểu thấu được nỗi bực mình của Triệu Chí Kính nên không chấp nhất về sự to tiếng lớn lời của Triệu Chí Kính . Tuy nhiên hai người cũng đồng ý là thái độ ấy không phải là thái độ của một kẻ tu hành.

Nghĩ vậy nên Tôn Bất Nhị bảo Triệu Chí Kính :

- Nếu có điều gì hắn không phải thì cứ thẳng thắn trình bày cho vợ chồng Quách đại hiệp biết rõ và giải quyết, không nên hồ đồ như vậy, không xứng đáng là kẻ tu hành .

Tuy là đàn bà nhưng Tôn Bất Nhị là kẻ bề trên mà tính tình lại vô cùng nghiêm khắc nên đệ tử ai cũng kính nể. Vì vậy nên sau mấy lời ấy, Triệu Chí Kính không dám cãi lại , phải cúi đầu vâng dạ rồi rón rén trở về chỗ cũ .

Lúc bấy giờ Quách Tỉnh nghiêm giọng nói :

- Dương Qua ! Chắc con cũng nhận thấy thái độ khiêm cung lễ độ của sư phụ đối với bề trên . Sao con không noi theo gương ấy mà ăn ở cho đúng đắn và có lễ độ ?

Triệu Chí Kính định cải chính mình không phải là sư phụ của Dương Qua , nhưng Tôn Bất Nhị đã trừng mắt không cho phép nên vội làm thinh ngay và ngồi xuống .

Ngờ đâu Dương Qua vùng thét lớn :

- Hắn đâu phải là sư phụ tôi !

Câu nói quá đột ngột ,chẳng những làm cho Quách Tỉnh và Hoàng Dung ngạc nhiên mà Quách Phù và hai anh em họ Võ đang nấp ngoài cửa cũng kinh hồn vì không ai có thể ngờ trước được.

Quách Tỉnh nghĩ bụng :

- Phàm cổ nhân có câu "Nhất tự vi sư, chung thân như phụ" , một ngày là thầy, suốt đời cũng coi như cha đẻ. Hơn nữa trong quy luật võ lâm, nghĩa thầy trò được xem trọng lắm. Mình đây ngày còn niên thiếu đã lạy thờ Giang Nam thất quái làm thầy, nhờ công ơn dạy dỗ nên người . Sau được Hồng Thất Công truyền dạy cho nhiều thế võ công thượng thặng trùm thiên hạ, lúc nào ta cũng xem tình thầy trò nặng như núi , sâu như biển. Thế mà không ngờ ngày nay thằng này quá ngỗ nghịch chẳng xem thầy ra cái quái gì hết ?

Nghĩ tới đây, Quách Tỉnh tức quá, xanh mặt trợn mắt điểm mặt Dương Qua thét lớn :

- Sao, mày .... muốn ... nói sao ?

Hoàng Dung xưa nay chưa thấy chồng giận dữ đến mức đó bao giờ, nay thấy vậy lật đật dùng lời nhỏ nhẹ khuyên nhủ cho dịu bớt :

- Quách ca , đừng nóng giận lắm. Gặp thằng cháu ngỗ nghịch dạy không được thì cứ cho nó một quyền xong đời, hơi đâu mà bận lòng nhọc trí đến như vậy .

Dương Qua lúc đầu cũng e dè lo ngại, chừng nghe Hoàng Dung nói như vậy, lòng tự ái dâng lên, sinh liều nghĩ bụng :

- Bọn bay có cậy đông , ỷ lớn hiếp người , ta cũng quyết chống lại đến cùng, rủi mất mạng thì thôi chứ có chi đâu mà sợ ?

Nghĩ xong, chàng không kể gì nữa , oang oang quát lớn :

- Ta vốn là đứa bé bất lương, mất dạy, không có hân hạnh được học võ công của mấy người . Nhưng ta cũng có một điều hết sức ngạc nhiên là chẳng hiểu vì sao các người mang danh anh hùng hiệp nghĩa, bản lãnh siêu quần, thế mà nỡ mang tâm đi dùng thủ đoạn bất lương để lừa đảo một đứa bé khốn khổ mồ côi cha mẹ ...

Nhắc đến bốn chữ "mồ côi cha mẹ" chàng bỗng xúc động tâm tình, nước mắt tuôn trào như suối, nhưng cũng cố bặm môi cố dằn cơn nức nở nghĩ thầm :

- "Phen này dầu chết thì thôi, ta cũng quyết không để sa lệ trước mặt bọn này để cho chúng đem lòng khinh miệt".

Quách Tỉnh nổi giận nói :

- Vợ ta và sư phụ mi đã hết lòng dạy mi võ nghệ chỉ vì niệm tình ngày trước đã giao du cùng cha mi, ai lại cố tâm lừa đảo mi làm gì mà mi lại mở miệng nói những câu vô hậu như thế hả ?

Dương Qua mỉm cười mỉa mai đáp :

- Riêng Quách bá bá hết lòng thương tôi, nghĩa ấy tôi không thể quên được .

Hoàng Dung cũng nói trước để bào chữa cho mình :

- Nếu Quách bá mẫu có điều gì sơ thất cùng cháu, cháu đem lòng oán hận cũng phải đấy.

Dương Qua nổi nóng đáp lớn :

- Dầu Quách bá mẫu có không tử tế với ta, ta cũng đâu thèm oán hận. Nhưng ta thử hỏi bà đã dạy võ nghệ cho ta từ bao giờ, được môn nào. Hay chỉ dạy vớ vẩn mấy câu sách , để đọc như đọc vẹt, phòng sau này đi luồn cúi thiên hạ tìm những cái hư danh hay chăng ?

Nói đến đây lòng uất hận tràn lên bồng bột, Dương Qua chỉ thẳng vào Triệu Chí Kính và Hách Đại Thông gằn lên từng tiếng một :

- Còn hai cái hận máu này, thế nào ta cũng lấy máu để đòi nợ máu trong một ngày gần đây.

Quách Tỉnh quá đỗi ngạc nhiên vội hỏi :

- ủa , cái gì mà lạ thế ? Cháu muốn nói sao ?

Dương Qua càng to tiếng nói :

- Lão đạo sĩ họ Triệu kia, ngươi xưng danh sư phụ ta, chẳng hay ngươi đã dạy cho ta một ngón võ, một thế quyền nào chưa. Điều đó ta cũng chưa trách lắm. Nhưng ta thử hỏi , ta đã có tội tình gì mà người manh tâm gọi những tên đạo sĩ khác hùa nhau để giết ta ? Dầu cho Quách bá mẫu không dạy ta một miếng võ nào, bọn Toàn Chân không hề chỉ cho ta một đường kiếm , nhưng nếu bọn ngươi có tiểu tâm áp bức đánh ta, ta cũng sẵn sàng nghênh địch, dù cho đến chết cũng chẳng cần đâu .

Chàng chỉ luôn vào mặt Hách Đại Thông trợn mắt hỏi lớn :

- Thằng già họ Hách kia, tại sao ngươi nỡ đang tâm hạ sát một lão bà chỉ vì bà ta có lòng thương xót đùm bọc cho một đứa bé mồ côi ? Mang danh một đạo sĩ tu hành, tại sao có những hành vi ác độc như vậy ? Mi hãy tự vấn lương tâm về việc làm của mình xem có đúng hay không hả ?

Nhớ đến cảnh tượng Tôn bà bị chết thảm thương quá, Dương Qua uất hận tràn trề, nhảy tới thoi đại vào mặt Hách Đại Thông .

Kể về võ công và đạo đức , thì Quang Minh Tử Hách Đại Thông là một trong những người hữu danh nhất trong Toàn Chân thất tử, được người đời ca tụng tặng cho bốn chữ "cực cao cảnh giới" . Từ khi lỡ tay giết chết Tôn bà ngày nọ, ông vẫn thường ân hận mãi về hành đông nông nổi của mình. Ngày nay nghe Dương Qua nhắc lại, ông bỗng chạnh lòng, hồi tưởng hình ảnh Tôn bà bị ngã gục trước mặt mình, máu tuôn lai láng nên từ từ đứng dậy, rút thanh gươm đang cài sau lưng Triệu Chí Kính , nhìn thẳng vào Dương Qua .

Mọi người đinh ninh ông sẽ dùng gươm này để trừng trị cái tội hỗn láo của Dương Qua .

Quách Tỉnh dự định đứng ra can thiệp.

Nhưng ai nấy đều ngạc nhiên khi thấy ông trở chuôi gươm trao cho Dương Qua, từ tốn nói :

- Mi nói đúng lắm . Mấy năm nay lúc nào Hách Đại Thông này cũng ăn năn mãi về hành động sát nhân của mình. Vậy hôm nay tuỳ ý mi sử trí, lão chẳng hề kháng cự tý nào đâu. Cứ nhận gươm và ra tay rửa hận cho Tôn bà đi.

Sự việc diễn ra quá đột ngột, ngoài sức tưởng tượng và ước đoán của mọi người.

Quách Tỉnh sợ Dương Qua giật gươm làm bậy nên vội lớn tiếng nói :

- Qua nhi, không được vô lễ đấy !

Dương Qua tự xét thấy trước mặt có Quách Tỉnh và Hoàng Dung , không dễ gì mình báo thù được cho Tôn bà nên lạnh lùng mỉa mai nói :

- Phải lắm. Ngươi đã già kinh nghiệm nên xử sự phải lắm. Ngươi thừa biết Quách bá bá và Quách bá mẫu đời nào để cho ta được tự do giết mi nên mới làm ra vẻ anh hùng trao gươm cho ta để loè thiên hạ. Nếu không, đời nào ngươi dám làm như vậy .

Hách Đại Thông vốn là một bậc võ lâm tiền bối , nay bỗng nhiên bị một thiếu niên như Dương Qua sỷ nhục trước mặt mọi người , làm sao chịu đựng nổi . Lưỡi gươm đưa ra không được, thu lại cũng không xong, ông uất quá, thét lớn một tiếng , bẻ thanh gươm làm hai đoạn vứt trên mặt đất và kêu lớn :

- Thế là hết , hết rồi !

Nói xong phi thân khỏi thư phòng rồi mất dạng.

Quách Tỉnh vội vàng chạy ra giữ nhưng không kịp nữa .

Ông trở vào đưa mắt nhìn Dương Qua , Tôn Bất Nhị và mọi người, lặng người suy nghĩ :

- Cứ xem thái độ thằng này thì có lẽ nó không nói bậy. Chắc việc này phải có nhiều uẩn khúc mà nó là kẻ chịu đựng phần thiệt thòi đau khổ nên nó mới có những cử chỉ như thế này.

Nghĩ vậy ông hỏi Dương Qua :

- Nếu trong mấy năm qua , các vị trong Toàn Chân giáo không truyền võ nghệ cho con thì ta hỏi con ở đâu và làm công việc gì, tại sao thân hình quá ư tiều tuỵ như vậy ?

Nghe câu hỏi này, lòng Dương Qua đã lắng dịu phần nào nên đáp :

- Ngày Quách bá bá lên Trùng Dương cung đánh bại mấy trăm đạo sĩ rồi ra về, bọn này đã cố tâm hành hạ đánh đập tôi đến chết đi sống lại nhiều lần. Họ xem tôi là kẻ tử thù chứ có dạy cho tôi một miếng võ nào đâu. Bao nhiêu năm qua tôi đã sống những ngày cơ cực lầm than nhất đời, những tưởng không bao giờ nhìn thấy thiên hạ, hưởng ánh sáng mặt trời và cũng không ngờ ngày nay còn được gặp Quách bá bá nữa.

Nói đến đây chàng cảm động quá đứng lặng yên.

Thấy Quách Tỉnh có vẻ tin lời Dương Qua nói nên Triệu Chí Kính đứng lên cướp lời nói lớn :

- Tất cả huynh đệ trong Toàn Chân giáo đều là những người trọng nghĩa khinh tài, hành vi lỗi lạc, khi nào lại có những hành động vô lý như mi đã đặt điều nói láo. Ai đi hành hạ mi đâu ?

Quách Tỉnh vốn bản chất trung hậu, ngay thẳng, nghe Dương Qua nói là tin ngay. Hoàng Dung lanh lẹ trí trá hơn nhiều, khi nhìn thấy nét mặt của Dương Qua luôn luôn thay đổi , thỉnh hoảng len lét nhìn mình có vẻ e dè, thì đoán bên trong vẫn còn điều gì uẩn khúc nữa, chứ chưa nhất thiết như lời hắn đã thuật lại.

Nghĩ xong Hoàng Dung hỏi :

- Theo như mi nói, thì mấy năm qua mi làm việc không công cho Toàn Chân giáo phải không ?

Nói xong Hoàng Dung bất chợt vung tay, vận chưởng đập mạnh vào đỉnh đầu Dương Qua một cái, bàn tay xoè ra điểm luôn vào huyệt Bách hội và huyệt Thượng Tỉnh là hai huyệt quan trọng nhất trong người, nếu bị trúng phải là chết ngay tức khắc.

Quách Tỉnh thất sắc gọi lớn :

- Dung em , không nên như vậy !

Miệng kêu tay vung ra đỡ đòn. Nhưng Hoàng Dung xuất thủ theo thế "Lạc Anh Chưởng" lanh lẹ quá mức, hễ đánh ra là trúng ngay nên không đỡ kịp nữa .

Dương Qua muốn tránh nhưng nghĩ thầm :

- "Với bản lãnh của Hoàng Dung, mình né tránh làm sao nổi. Nếu đỡ được , bà tiếp tục thế khác cũng không xong. Biết đâu bà muốn thử xem quả thực mình không biết võ công như đã nói chăng ? "

Nghĩ vậy, chàng cứ đứng yên lặng nhận đòn không hề né tránh. Nếu ra tay thật tình thì Dương Qua không tài nào tránh né hay chịu được đòn này, nhưng đây chỉ là một thế thử thách của Hoàng Dung , nên chiêu thức đưa ra tuy mau lẹ nhưng chỉ đánh khẽ mà thôi .

Thấy Dương Qua không phản ứng gì mà vẻ mặt có vẻ lo sợ, Hoàng Dung mới tin chàng chưa được truyền thụ võ công nên mỉm cười nói :

- Mi chưa được học võ nghệ là một điều may mắn lắm đấy !

Tuy miệng nói như vậy nhưng trong thâm tâm Hoàng Dung vẫn chưa tin chắc là Dương Qua lại chưa học võ công của Toàn Chân giáo vì bà chợt nhớ lại :

- Có lẽ mình cũng lầm gian kế của thằng ranh này rồi. Ngay từ lúc trên Đào Hoa đảo hắn đã dùng được thế "Hàm mô công" để đánh người , như thế hắn đâu phải hoàn toàn không biết võ nghệ. Ta cần phải thử thách thêm một lần nữa mới chắc được .

Dương Qua nghe Hoàng Dung nói vậy chỉ yên bụng được phần nào, chứ trong lòng dự đoán là vẫn còn nhiều thủ đoạn nữa sẽ được thi thố. Vì vậy nên lúc nào chàng cũng luôn để ý đối phó để khỏi bị lật tẩy.

Khi đó Hoàng Dung hết nhìn Dương Qua đến Triệu Chí Kính, bỗng nghĩ ra một kế, mỉm miệng cười thầm .

Triệu Chí Kính thấy Hoàng Dung đánh thử, Dương Qua ranh mãnh làm bộ không chịu tránh né nên Hoàng Dung đã tin lời và ngó mặt mình mỉm cười mỉa mai nên nổi nóng nghĩ bụng :

- Thằng nhóc con này thật lắm cơ mưu , xảo quyệt đến nỗi Hoàng Bang chủ cũng phải lầm kế. Ta phải khám phá và vạch mặt hắn ra mới được.

Nghĩ xong hắn điểm mặt Dương Qua nạt lớn :

- Ranh con, nếu mi quả tình không biết võ công cứ nói thẳng ra đây trước mặt mọi người, nếu không ta quyết không tha mạng . Sống chết tuỳ nơi mi cả đấy, hãy lựa chọn lấy mà nói thật đi .

Triệu Chí Kính thừa biết Dương Qua võ công cao hơn mình một bậc nên quyết tâm nói khích để chàng lộ chân tướng ra , cho mình khỏi mất mặt cùng Quách Tỉnh. Nếu Dương Qua cứ khăng khăng đóng vai người không biết võ nghệ thì mình cứ hạ sát cho rồi .

Vì vậy nên miệng nói, tay y đã vung lên đập mạnh vào ngừoi Dương Qua mạnh như búa bổ.

Quách Tỉnh sợ nguy đến tính mạng Dương Qua vội gọi lớn :

- Hãy ngừng tay lại, sao nóng nảy vậy ?

Ông định ra tay can thiệp , nhưng Hoàng Dung đã đưa tay níu lại nói nhỏ :

- Mặc kệ chúng nó thử xem sao ?

Sở dĩ Hoàng Dung ngăn cản chồng đừng can thiệp vì đoán rằng trong lúc Triệu Chí Kính đang nóng giận thế nào cũng dùng những chiêu thức hiểm độc để hạ thủ. Lẽ cố nhiên Dương Qua phải dùng những thế võ đã học hỏi được ra chống cự để tự vệ và sẽ lộ liễu sự dối trá ra liền .

Quách Tỉnh tuy chẳng hiểu đầu đuôi sự việc ra sao. Ông chỉ đoán rằng trong việc này thế nào cũng có uẩn khúc chi đó và có lẽ Hoàng Dung lanh lợi hơn đã biết rồi . Ông cũng nghe theo đứng im để xem và định bụng nếu Dương Qua không biết võ công thật hoặc nếu bị bức bách quá đáng thì sẽ ra tay giúp đỡ .

Triệu Chí Kính đưa tay thoi ra một quyền, nhưng Dương Qua không né đỡ, cứ điềm nhiên chịu trân nên tức giận vô cùng quay về phía Tôn Bất Nhị và Doãn Chí Bình phân trần :

- Sư thúc và sư đệ cũng đã thấy rõ ràng, thằng ranh này quá sức xảo trá. Hắn muốn đóng kịch giả vờ không biết võ để lừa dối thiên hạ, lãnh phần phải về mình và chọc tức tôi mãi. Phen này tôi quyết đánh chết hắn để trừ một phần tử gian manh quỷ quyệt. Sau này xin nhờ nhị vị trình lại Giáo chủ giúp dùm tôi.

Tôn Bất Nhị thừa biết Dương Qua phản bội Toàn Chân giáo và cố tình trêu tức Triệu Chí Kính nên bảo rằng :

- Quân lừa thầy dối bạn ấy cũng nên xử đi cho rồi, để làm chi nữa.

Nguyên Tôn Bất Nhị là một vị lão ni đạo đức hiền lành, không khi nào có dụng ý sát nhận nhưng vì đã hiểu rõ tài nghệ của Dương Qua nên giả bộ nói câu ấy khích chàng nổi tức đánh lại, hoặc cũng không dám tiếp tục giả bộ ngây ngô để nhận đòn.

Triệu Chí Kính được sư thúc tán đồng ý kiến nên càng thấy yên chí, dùng chân phải đạp một đạp thật mạnh vào bụng Dương Qua theo thế "Thiên sơn phi độ" . Thế này bao gồm cả âm, dương, mềm cứng, mới trông vào thì rất dũng mãnh nhưng thực ra thì không nguy hiểm bao nhiêu.

Toàn Chân giáo đem thế này để huấn luyện các đệ tử mới nhập môn, tuy lợi hai với những tay mới chứ Dương Qua thì đâu có xem ra gì .

Theo lệ thường trong Toàn Chân giáo , mỗi khi dạy thế "Thiên sơn phi độ" thì dạy luôn thế "Thoái mã " để tránh đòn. Sở dĩ Triệu Chí Kính dùng thế này là để cốt nhử cho Dương Qua theo thói quen tự nhiên lùi ra sau để né tránh. Như thế sẽ có đủ bằng cớ là chàng có thọ giáo với võ thuật của Toàn Chân giáo .

Nhưng Dương Qua ranh mãnh đoán được mưu ấy nên không hề thoái bộ né tránh mà chỉ đưa tay ôm bụng rồi ngồi xuống nhăn nhó la đau.

Triệu Chí Kính tức giận điên người , vận sức vào chân đạp thêm một cái nữa, sức mạnh có thể phá vách bể tường , nhưng Dương Qua đã đề phòng, một mặt cố sức chịu đựng, một mặt dùng tay trái ôm chân Triệu Chí Kính rồi điểm nhẹ vào huyệt "Thái cốc"

Phép điểm huyệt của Dương Qua đặc biệt ở chỗ là chàng không xỉa thẳng ngón tay vào huyệt đạo mà chỉ giả vờ xô nhẹ vào chân địch thủ, tự nhiên huyệt "Thái cốc" chạm vào ngón tay. Triệu Chí Kính bị chồn chân mất thăng bằng té nhào trên mặt đất.

Quá xấu hổ vì bị té bất ngờ, Triệu Chí Kính lồm cồm bò dậy, mặt mày đỏ gay, bẽn lẽn đứng nhìn mọi người. Doãn Chí Bình nín thinh không nói gì hết. Tôn Bất Nhị đứng dậy khen lớn :

- Chú bé tài thật ! Tài thật !

Từ xấu hổ đến tức giận, từ tức giận trở nên liều lĩnh . Triệu Chí Kính từ từ đứng dậy, mắt trừng trừng nhìn vào Dương Qua, dùng tay trái giả đập vào hàm mặt của Dương Qua rồi bất thình lình trong ống tay tống một đòn thật mạnh từ dưới lên trên móc vào quai cằm. Dương Qua đâu có ngán những thế võ này. Chàng ngấm ngầm vận dụng nội công của "Ngọc nữ tâm kinh" để chịu đựng, thành thử mấy đòn của Triệu Chí Kính tuy trúng được mục tiêu nhưng chẳng làm chàng đau đớn chút nào.

Không muốn để cuộc xung đột kéo dài mãi bất tiện, Quách Tỉnh bèn đứng ra hoà giải và dàn xếp đôi bên. Ông nhìn Tôn Bất Nhị lễ phép nói :

- Bây giờ cũng đã xế chiều, cần phải lo coi thu dọn nơi ăn chốn ở để sư thúc và chư vị anh hùng nghỉ ngơi đêm nay. Còn câu chuyện của Dương Qua xin tạm gác lại một bên. Khi nào thuận tiện sẽ đưa ra bàn bạc lại. Kính mời sư thúc về phòng an nghỉ. Dương Qua , bá bá nhờ cháu thay mặt ra ngoài xem xét dùm công việc , đừng để bê bối mà thất lễ với chư vị anh hùng nhé !

Nói xong ông nắm tay Dương Qua bước ra khỏi phòng ngay.

Vừa đi, ông vừa ghé tai nói nhỏ, vừa để khuyên răn, vừa để an ủi :

- Qua nhi , phàm người anh hùng lúc nào cũng lấy đức trả oán , cháu đừng nên bận tâm nhiều đến câu chuyện của Triệu Chí Kính làm gì. Ngoài trang viên có hàng trăm hạng người . Biết đâu trong số đông không tìm được một vài người có khí tiết để làm quen mà kết thành bạn tốt. Nhân dịp này cháu nên trà trộn vào đó, tìm hiểu và kết bạn với những người ý hợp tâm đầu.

Dương Qua chẳng biết nói sao, cúi đầu vâng dạ rỗi lững thững ra ngoài.

Thấy Dương Qua đi rồi, Quách Tỉnh lại nói chuyện với Triệu Chí Kính :

- Dương Qua nó còn nhỏ dại chưa hiểu đời , có những cử chỉ nông nổi, xin đừng quan tâm phiền trách làm gì cho mệt trí . Hôm nay trong buổi tiệc , sư đệ nên quên hết mọi chuyện , uống một bữa cho thật say để thoả tình hội ngộ. Chuyện cũ cứ để cho nó trôi qua trong quên lãng.

Vừa lúc ấy bọn tráng đinh đã bưng lên nhiều mâm trái cây tươi, rất nhiều món ăn lạ và rược ngon hảo hạng. Chén đũa cũng toàn là đồ quý giá, trông hoa cả mắt.

Nhìn trên bàn tiệc nhan nhản cả sơn hào hải vị , không thiếu gì của ngon vật lạ , Doãn Chí Bình vui vẻ nói với Hoàng Dung :

- Giàu có sang trọng đến bực này, hèn chi nhà chứa thực phẩm của Lục trang chủ có treo hai câu đố mà tiểu đệ dám chắc dầu là các bậc vương hầu khanh tướng cũng chưa chắc dám treo.

Hoàng Dung mỉm cười hỏi :

- ủa, sư đệ xuống phòng đấy hồi nào mà xem được hai câu đối ấy ?

Doãn Chí Bình đáp :

- Tiểu đệ vừa mới đi ngang qua đấy, thấy nét chữ quá sắc sảo, tiểu đệ mới chú ý nhìn xem cho biết . Tay nào đã viết ra hai câu đối ấy , chắc hẳn cũng là một bậc tài hoa xuất chúng, chữ nghĩa đầy mình .

Tôn Bất Nhị lắng tai nghe hai người nói chuyện cũng động tánh hiếu kỳ xen vào hỏi :

- Hai câu đối ấy như thế nào , hãy đọc lại cho ta nghe thử .

Doãn Chí Bình vâng lời đọc :

" Sơn hào hải vị tàng vô tận

Dã vị lâm cầm vẫn hữu dư "

Tạm dịch là :

" Miếng ngon vật lạ kho không thiếu

Dê béo chim rừng hỏi có ngay "

Chàng vừa đọc vừa kéo dài giọng ngâm nga ca kệ theo lối mấy cụ đồ ngâm thơ, khiến cho bao nhiêu quan khách trong buổi tiệc cũng đều tức cười và cùng vỗ tay tán thưởng .

Lúc bấy giờ Quách Phù và hai anh em họ Võ đã rời chỗ nấp đi ra phòng khách. Còn Dương Qua thì len lỏi vào đám đông tìm lại Vương Thập Tam nói chuyện cho vui nhưng tìm mãi không gặp .

Chàng lần đi vào nhà tiếp tân ăn năm ba miếng dằn bụng rồi rảo bước ra tìm thăm chừng con ngựa của mình còn đó hay là đi tìm cỏ để gặm rồi .

Vừa ra khỏi sân được vài bước , Dương Qua bỗng thấy dưới bóng cây hoè có hai người ăn xin đang nằm gối đầu trên bị gậy , quần vén tận háng, vừa nói cười tay gãi sồn sột, ra bề tương đắc lắm .

Dưới ánh sao chiếu mờ mờ, Dương Qua nhận thấy một người đã già và một chàng trai trẻ.

Người đã già có râu quai nón mọc rậm bao quanh hàm, che kín cả miệng. Ngừoi trẻ còn thanh niên , vẻ mặt tao nhã dễ ngó.

Nếu không có bị và gậy dưới đất , chắc cũng không ai có thể ngờ đó là đệ tử của Cái Bang hành khất.

Người già râu rậm nói :

- Sáng hôm qua ta đi ngang qua Dự châu, có đứa bé con gái đứng trong tiệm nhìn ra, nhạo ta hai câu thơ nghe cũng ngồ ngộ, cậu muốn biết không ? Để ta đọc lại và nhân thể nhờ cậu nhận xét thử ý nghĩa như thế nào nhé ? Có lẽ cũng sâu xa và thâm thuý lắm đó , hay câu thơ đó như vầy :

" Bất thức khẩn âm hà xứ đạo

Chỉ văn mạo lý hữu thanh tuyền"

Người thanh niên cười sằng sặc đáp :

- Hai câu thơ ấy tôi có nghe đọc một lần rồi . Kể ra chẳng có gì sâu xa hiểm hóc nhưng có vẻ hài hước chút ít. Nhưng có một điểm đáng trách là nó cả gan vô lễ mắng đại huynh là kẻ thiếu mồm .

Người già nhiều râu có vẻ bực tức nói :

- Chỉ có bọn ngu si dại dột mới nói như vậy . Chú mày thử nghĩ , nếu thiếu mồm thì làm sao nói năng ăn uống để sống chứ ? Hẳn là đàn bà chẳng biết gì. Cũng do nơi chú bàn xa tán rộng để mỉa mai ta mà thôi. Có phải thế không ?

Người thanh niên ôn tồn đáp :

- Đời nào đệ lại dám đi mỉa mai nhạo báng đại huynh. Hiện nay tiểu đệ tứ cố vô thân , hỉ co một hình một bóng , chuyện gì cũng nhờ cậy vào một mình đại huynh che chở đùm bọc, đời nào đệ lại đi xuyên tạc kẻ bề trên ân nhân của mình ! Đại huynh không để ý đấy chứ, trên đời hiếm chi người văn hay chữ nhiều , nếu đại huynh không tin cứ nhờ người ta giải thích hộ xem họ có nói như tiểu đệ hay không ? Bây giờ tiểu đệ xin giảng lại cho đại huynh nghe nhé :

Cứ theo câu trên " Bất thức khẩu âm hà xứ tại " có nghĩa là "chẳng biết mồm ông ở chốn nào ? " . Còn câu dưới là "Chỉ văn mạo lý hữu thanh truyền " có nghĩa là "chỉ nghe tiếng nói phát ra từ đám lông" . Muốn cho văn vẻ đôi chút thì tiểu đệ xin tạm dịch là :

" Mồm lão nơi đâu tìm chẳng thấy

Chỉ nghe tiếng nói tại chòm lông"

Giảng giải đến đây, chàng ta tức cười quá nhịn không được ré lên cười hăng hắc , khiến lão già râu rậm nổi giận nạt lớn :

- Cười gì mà lãng nhách , vo duyên lạ . Con bé đã nhạo ta chú lại còn thêm dầu giấm tô đậm thêm cho mặn mà để cười cho sướng cổ. Thôi từ đây có lên dốc xuống đèo , qua rừng lội suối , hãy cố mà lo liệu lấy, đừng có phá rày đến lão không mồm nãy nữa nhé.

Chàng thanh niên sợ hãi vội đứng dậy chắp tay bái luôn mấy cái khẩn khoản nói :

- Đại huynh, tiểu đệ trẻ người non dạ, vì nông nổi theo câu văn nói càng thiếu suy nghĩ đến nỗi xúc phạm đến đại huynh thật là đắc tội. Vậy xin đại huynh niệm tình tha thứ, đừng chấp nê tội nghiệp tiểu đệ .

Người già nghiêm giọng nói :

- Chú ăn nói hồ đồ , quả thật đáng trách lắm . Trong lúc này mà huynh đệ còn đùa cợt trêu chọc người ta được thì quả là vô ý thức. Ta đây dốt chữ, chỉ biết dùng sức mạnh giết quân thù xây dựng đất nước , cứu vãn dân tộc. Sở dĩ chưa tung hoành được là chưa có cơ hội tốt mà thôi. Ta muốn nhờ chú mày có chút căn bản học hành , mong một ngày mai tươi sáng cùng dìu dắt nhau hiến tài cho đất nước , không ngờ chú mày quá trẻ con chỉ nghĩ đến chuyện cười đùa cho thoả thích , đâu có nghĩ gì đến tình yêu đất nước giống nòi.

Bị mắng đậm, người thanh niên mủi lòng sụt sùi khóc nói :

- Từ ngày vua Cao Tông dời đô về Lâm An , giữ lại miền Nam Tống, bỏ rơi miền Bắc Tống vào tay bọn rợ Kim cướp nước, bao nhiêu công lao hạng mã Tống Thái Tổ gây dựng ngày xưa đã trôi theo dòng nước, kẻ có chút ít tâm huyết ai chẳng đau lòng. Em đâu phải hạng người tim sắt đá mà hững hờ với cảnh đất nước ngửa nghiêng. Ngày nay ta đã tạm dời cư sang Nam, em chỉ mong chờ một ngày nào thiên quang vân tạnh để đưa thân này hiến cho đất nước , đánh đuổi bọn xâm lăng. Nhưng buồn nỗi từ vua đến quan triều đình nhà Tống chỉ thủ phận cầu an, ai cũng muốn tích cực sống riêng giữ lấy hạnh phúc gia đình. Có kẻ tự cho có chút bản lãnh lại đứng lên xưng hùng xưng bá. Quan địa phương bất lực, bọn chúng càng tung hoành, không ai làm gì nổi. Ngày nay bao nhiêu ăn mày cùng chung sức trong tổ chức Cái Bang cũng chỉ mong có cơ hội tìm lại vinh quang cho đất nước. Em tự xét tài hèn sức yếu phải chờ đợi thời cơ. Những lúc buồn lòng, muốn dùng câu thơ ngâm nga cho tiêu sầu giải muộn, nào ngờ quá trớn xúc phạm đến đại huynh làm cho đại huynh buồn ý, thật ân hận vô cùng.

Dương Qua lắng tai nghe hai người nói chuyện có nhiều khí phách anh hùng nên vội rảo bước tới gợi chuyện làm quen .

Chàng vồn vã nói :

- Nơi đây chùa đất có Phật vàng , thật không ngờ hôm nay được nghe những lời tâm huyết . Tình cờ nghe câu chuyện của nhị vị, tiểu đệ mới biết được mục đích của Cái Bang và hiểu rõ nghĩa trắng đen của câu nói " Đói cơm, rách áo mới đi ăn mày "

Nghe nói ông già liếc mắt nhìn chàng, ánh mắt sáng như sao băng.

Tuy ban đêm nhưng Dương Qua chú mục nhìn kỹ cũng nhận ra được ông lão da dẻ hồng hào, dáng độ vô cùng hiên ngang quắc thước, râu nửa đỏ nửa đen mọc rậm xung quanh hàm như râu Châu Thương đời nhà Hán, người thanh niên cứ ngồi yên một chỗ , không nói một lời , hình như y không hề quan tâm đến mình.

Ông già hỏi :

- Chú là ai ? Đến đây làm gì ?

Dương Qua đáp :

- Tôi về đây dự đại hội Cái Bang .

Ông lão hỏi tiếp :

- Chú thuộc hàng mấy túi ?

Dương Qua đáp luôn :

- Tôi chưa thuộc dạng nào mà cũng chưa có túi nào hết.

Ông ta cất tiếng cừoi ha hả và nói :

- A, thế ra chú mày cũng như bọn này , đều thuộc vào loại "ăn mày bất đắc dĩ" nên chưa được cấp túi sắp hạng chứ gì ?

Lúc ấy người ăn mày trẻ mời nhìn lại nói ra vẻ dạy đời :

- "Ninh khả chính nhi bất túc, bất khả tả nhi hữu dư" . Thà cứ làm việc để chịu nghèo còn hơn là làm điều bậy để mong giàu sang. Chức phận trong Cái Bang lợi đâu mà phải ước mơ ? Chú còn nhiều việc quan trọng phải làm tròn, hãy về mà lo liệu cho xong, sáng mai đến đây hãy gặp lại bọn ta nói chuyện lại.

Nói xong cả hai nằm lăn ra ngủ liền, không mấy chốc đã ngáy vang như xay lúa.

Thấy đứng mãi cũng chướng nên Dương Qua lẳng lặng rút lại về phòng trọ, trong lòng hơi cảm thấy tức về thái độ thiếu lịch sự của hai người ăn mày.

Canh càng khuya đêm càng vắng lặng. Bốn bề vẳng tiếng kêu ri rỉ như khóc như than khiến cho Dương Qua chạnh lòng thao thức mãi, không nhắm mắt được và nghĩ bụng :

- Hai người ăn mày một già một trẻ, khẩu khí cũng có vẻ anh hùng mã thượng , biết yêu nước thương nòi , chắc cũng ẩn tàng một bản lãnh siêu quần xuất chúng, mưu lược hơn người . Chẳng hiểu sao người thanh niên lại quả quyết là ta đang còn nhiều việc quan trọng chưa làm xong ? Hay sáng nay bọn Triệu Chí Kính còn kiếm chuyện gì rắc rối nữa chăng ?

Gió đêm thoảng mát, chàng bỗng nhớ lại những lúc cùng Lục Vô Song kề vai cọ vế và nhớ xa hơn nữa , đến chuỗi ngày thơ mộng vô tư lự cùng Tiểu Long Nữ trong cổ mộ đài, bao nhiêu nỗi nhớ nhung thiết tha dồn dập, khiến cho chàng thấy một niềm nhớ nhung tràn ngập tâm tư, phải kêu lên cho vơi bớt :

- Cô nương ơi ! Cô nương ! Giờ đây cô nương phiêu bạt nơi nào, cô nương ơi !

Lời kêu vô cùng thiết tha đến tận cõi lòng , tràn ngập tiếc thương như tiếng kêu của con nhạn lạc bầy trong đêm vắng.

Trằn trọc vẩn vơ suốt tàn canh, chàng thiếp đi lúc nào không hay biết.

Sáng tinh sương, tiếng thần điêu ríu rít trên ngọn cây tùng trước sân làm Dương Qua giật mình thức dậy.

Chàng dụi mắt , vươn tay mấy cái cho đỡ mỏi , lại ra ao rửa mặt, định vào sảnh đường để cáo biệt Quách Tỉnh rồi ra vườn dắt ngựa lên đường đi tìm Tiểu Long Nữ.

Quách Tỉnh đang đứng nơi đại sảnh, vừa trông thấy Dương Qua đã ân cần vui vẻ hỏi :

- Suốt đêm qua chắc con đã suy nghĩ điều hơn lẽ thiệt rồi, vậy con nên gặp Triệu sư phụ chịu nhận lỗi đi cho rồi .

Dương Qua từ tốn đáp :

- Thưa Quách bá bá, ở đời có hai điểm cần phải nhớ ơn : nhớ ơn người giúp mình khi đói rét, nhớ ơn kẻ dạy dỗ mình nên thân . Đối với người này tôi không hề chịu ơn gì hết. Hắn không giúp đỡ an ủi tôi một câu, chẳng dạy tôi một ngón võ nào, vậy thì tại sao tôi phải gọi hắn là sư phụ và buộc phải nhớ ơn hắn ?

Triệu Chí Kính đứng phía sau, nghe nói thẹn quá, nổi giận lôi đình đưa tay điểm vào "Hậu khê huyệt" của chàng.

Lối điểm huyệt này chỉ dùng bàn tay phớt qua trên ngón tay của địch thủ. Dương Qua đã biết trước nên vận khí vào ngón tay chờ sẵn và điểm ngay vào yếu huyệt trên tay y, Triệu Chí Kính đau quá tung chân đạp thật mạnh...

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 32 : Đôi lứa gặp nhau trong bẽ bàng.

Dương Qua vờ kêu lên :

- Xin đừng giận dữ và bạo động như vậy !

Vừa nói vừa chuyển mình dùng tay trái gạt vào lưng Triệu Chí Kính cách bả vai độ hai tấc năm phân.

Ngọn cước của Triệu Chí Kính đưa mạnh quá, sức mạnh dồn hết vào đòn độc đó, nên hai huyệt "chiếu hải" và "Thái khê" trong mình trống trơn, bị Dương Qua phản công lại, không sao gượng kịp, đành té xỉu xuống đất.

Tôn Bất Nhị thấy vậy vội đứng dậy nâng Triệu Chí Kính lên dùng ngón tay giải huyệt đạo cho Triệu Chí Kính .

Dương Qua thấy hành động của Tôn Bất Nhị , biết vị này võ công cao hơn Triệu Chí Kính một bậc, nên có vẻ ái ngại, lùi lại mấy bước rồi tránh sang một bên.

Tôn Bất Nhị là người luyện võ công nhiều năm, sự hiểu biết rất tinh vi nên thấy Dương Qua có lối đánh đỡ thần tốc đó thì tự nghĩ rằng :

- Dầu mình có giao đấu với hắn cũng chưa chắc đã giành được phần thắng .

Nghĩ như thế nên Tôn Bất Nhị nói với Triệu Chí Kính:

- Chạy đi thôi ! Chạy đi thôi !

Vừa nói vừa phẩy tay áo, lẹ làng tung mình qua cửa sổ như một cánh chim không kịp từ biệt Hoàng Dung và Quách Tỉnh lấy một lời .

Từ nãy đến giờ , Doãn Chí Bình như người mất trí, toan đến chất vấn Quách Tỉnh mấy câu , song Triệu Chí Kính khoa tay bảo :

- Thôi ! Còn mong mỏi làm gì nữa cho hoài hơi uổng tiếng.

Dứt lời , Triệu Chí Kính nắm áo Doãn Chí Bình kéo băng qua cửa sổ , phi thân đuổi theo Tôn Bất Nhị .

Quách Tỉnh và Hoàng Dung không trông thấy Dương Qua dùng tay chân điểm huyệt , mà sao Triệu Chí Kính lại bị xỉu xuống đất, nên cả hai đều lấy làm ngơ ngác nhìn nhau nghĩ thầm :

- Chắc có người thứ ba nào núp đâu đây ám trợ cho Dương Qua thì phải .

Quách Tỉnh vội vã nghiêng đầu qua cửa sổ nhìn theo , nhưng không trông thấy một bóng người nào cả.

Hoàng Dung chợt bắt gặp đôi hài xanh của Quách Phù bỏ rơi gần lối ra vào , bèn cất tiếng gọi :

- Quách Phù con ! Con ở nơi nào vậy.

Quách Phù chạy ra , cười hì hì nũng nịu :

- Con đang xem sách với hai anh con trong phòng này .

Hoàng Dung vốn đã rõ tánh nết của ba đứa trẻ đó có bao giờ để ý đến sách vở đâu. Hôm nay chúng vờ xem sách chỉ là để nghe trộm câu chuyện của mình.

Tuy vậy, Hoàng Dung cũng bỏ qua không hỏi gì thêm.

Quách Tỉnh nhìn qua cửa sổ, không thấy một bóng ai. Với bản tính thật thà, Quách Tỉnh phỏng đoán :

- Nếu không có kẻ ám trợ Dương Qua thì làm sao sự việc lại xảy ra như thế được. Có lẽ Triệu Chí Kính muốn giết thằng bé Dương Qua , nhưng sau nghĩ thế nào lại thôi, rồi giả cách bị trúng huyệt rồi bỏ chạy.

Hoàng Dung trái lại không nghĩ thực thà như Quách Tỉnh . Bà cho rằng Dương Qua đã dùng bí thuật nào đây để ngầm hại Triệu Chí Kính , nhưng bà không trông kịp , vì lúc đó bà đứng phía sau lưng Dương Qua.

Điều thắc mắc của vợ chồng Quách Tỉnh không có gì là lạ vì cả hai đều chưa biết trên đời lại có "Ngọc nữ tâm kinh".

Chính nhờ "Ngọc nữ tâm kinh" mà Dương Qua đã dự liệu được những hành động của đối phương và vì thế Toàn Chân giáo mới mang thảm bại.

Vợ chồng Quách Tỉnh đang ngấm ngầm nghi hoặc về sự chạy trốn của Tôn Bất Nhị và Triệu Chí Kính thì bỗng có một đệ tử Cái Bang chạy vào bẩm cáo :

- Thưa Bang chủ, có một vị khách ở xa đến xin yết kiến !

Hoàng Dung đưa mắt nhìn Dương Qua từ đầu đến chân rồi lặng lẽ theo Quách Tỉnh ra đón khách .

Trước khi cất bước, Quách Tỉnh quay lại dặn anh em họ Võ :

- Anh Dương Qua đây vốn là bạn với các cháu hồi nhỏ . Các cháu mời anh ấy vào trò chuyện cho vui.

Hai anh em họ Võ từ nhỏ tánh đã không hợp với Dương Qua , nay lại thấy Dương Qua quần áo lôi thôi, hình dáng tiều tuỵ thì có ý khinh khi, bèn gọi một gia nhân đến bảo dọn cho Dương Qua một chỗ để nghỉ ngơi rồi hai anh em trở ra tìm Quách Phù để hàn huyên tâm sự.

Nhưng Quách Phù lúc này lại săn đón Dương Qua hơn lúc nào hết . Nàng thấy Dương Qua có thái độ hững hờ không vui liền hỏi :

- Anh Dương Qua ơi ! Sao sư phụ anh lại không nhận anh nhỉ ?

Dương Qua thản nhiên đáp :

- Việc đó có gì khó hiểu . Chẳng qua vì tôi dốt nát, sư phụ tôi dạy mãi không được gì , nhất là tôi không biết chiều chuộng sư phụ tôi nên sư phụ tôi oán ghét tôi.

Anh em họ Võ nghe Dương Qua nói như chọc vào tai.

Võ Tu Văn không dằn được lòng bực tức gắt gỏng nói :

- Anh nói sao ?

Dương Qua vẫn nói với giọng cay đắng, đáp :

- Tôi nói là tôi vụng về, không làm vừa lòng sư phụ nên sư phụ bỏ tôi chứ sao ?

Quách Phù với nụ cười vô tư đon đả nói :

- Sư phụ anh là một nhà đạo sĩ mà tại sao lai có cái tính như đàn bà con gái, hay giận hay hờn như thế ?

Dương Qua đưa mắt nhìn Quách Phù thấy nàng cười tươi như hoa, vẻ đẹp kiều diễm không sao tả xiết. Cái đẹp của nàng là một cái đẹp hồn nhiên, không như những cái đẹp bóng loáng của các cô gái lầu hồng.

Trông thấy vẻ đẹp trang nhã thơ ngây ấy, Dương Qua có cảm giác là mình đang đứng trước một đoá hoa phù dung đang ướm nhuỵ.

Quách Phù thấy tự nhiên anh em họ Võ tỏ thái độ bất bình trước mặt Dương Qua thì lẫy làm lạ lắm. Tuy nhiên, chẳng mấy chốc , linh tính của nàng đã cho nàng biết rằng chỉ vì mình có thái độ thân thiện với Dương Qua nên anh em họ mới có thái độ ấy.

Dương Qua quay mặt sang phía khác , không hề để ý đến tâm trạng của Quách Phù và anh em họ Võ lúc bấy giờ.

Tuổi Dương Qua tuy chẳng hơn anh em họ Võ và Quách Phù bao nhiêu, song nhờ chàng dấn thân trên bước giang hồ, phiêu lưu đây đó nên sự hiểu biết già dặn hơn.

Quách Phù thấy Dương Qua mơ màng đưa mắt nhìn sang phía khác mà nghĩ chuyện đâu đâu , liền dịu giọng nói :

- Dương đại ca ! Bây giờ đã tối rồi. Vậy Dương đại ca hãy vào phòng an nghỉ. Sáng mai chúng ta sẽ cùng trò chuyện.

Dương Qua sẽ gật đầu, không đáp, bước theo gia đinh vào phòng ngủ.

Nhưng chưa vào khỏi phòng, Dương Qua nghe Quách Phù nói với hai anh em họ Võ :

- Sao tôi thấy quý mến và thích nói chuyện với Dương đại ca quá. Nếu Dương đại ca võ nghệ sút kém, tôi sẽ yêu cầu phụ thân tôi rèn luyện cho Dương đại ca.

Lẽ ra đợi xem anh em họ Võ phản ứng trước câu nói này của Quách Phù thế nào, Dương Qua không thèm để ý, bước thẳng vào phòng, cởi hài trèo lên giường nằm ngay tức khắc.

Sau khi thẫn thờ suy nghĩ đó đây một lúc, Dương Qua ngủ thiếp đi lúc nào không hay biết. Đến khi thức dậy , chàng thấy trời đã sáng, vội bước ra rửa mặt rồi lên đại sảnh dùng điểm tâm .

Vừa dùng điểm tâm xong, Dương Qua đã thấy Quách Phù đứng nơi hoa viên vẫy tay gọi :

- Dương huynh, hãy ra đây !

Dương Qua thấy hai anh em họ Võ cũng đã có mặt nơi đó nhưng cả hai đều đượm vẻ rầu rầu.

Dương Qua vừa cười , vừa chạy đến cất tiếng hỏi :

- Cô gọi tôi có việc gì thế ?

Quách Phù nói :

- Có chứ ! Tôi muốn anh và tôi, hai chúng ta cùng nhau dạo chơi trước cánh đồng này để anh có dịp kể lại cho tôi nghe những gì trong mấy năm qua mà anh vắng mặt.

Dương Qua chép miệng nghĩ thầm :

- "Ôi chao ! Kể lại chuyện cũ trong mấy năm thì biết bao giờ mới hết. Nhưng ta dại gì đem chuyện đời mình kể cho cô ta nghe "

Tuy nghĩ vậy nhưng Dương Qua vẫn tản bộ nối gót theo Quách Phù .

Đi được một lúc, Dương Qua ngoảnh lại thấy anh em họ Võ cùng lẽo đẽo theo sau.

Quách Phù vẫn biết anh em họ Võ theo mình, nhưng nàng làm như không hay biết, không để ý đến, cứ chuyện trò với Dương Qua một cách thân mật.

Dương Qua được thế khoa chân múa tay, nói trời nói đất làm cho Quách Phù cười như nắc nẻ. Tuy nhiên có nhiều chuyện Quách Phù cũng biết là Dương Qua đặt điều, song những câu chuyện bịa ấy rất duyên dáng và lý thú , ít người nghĩ ra được.

Hai người thong thả từng bước một , vừa đi vừa chuyện trò. đến một gốc hoè kia, cành lá rườm rà, thấy thoáng có bóng con ngựa ốm, lông lá xồm xoàm.

Anh em họ Võ bỗng ré lên cười lớn , chạy đến bên cạnh Quách Phù , trỏ tay vào con ngựa nói với Dương Qua bằng giọng chế diễu :

- Dương huynh mua con "Thiên lý mã" này ở đâu thế ? Chắc là quý lắm ! Khi nào gặp Dương huynh mua dùm tiểu đệ một con.

Võ Đôn Nho bĩu môi, xen vào :

- Đây là giống ngựa quý ở bên "Đại tư" chỉ có Dương huynh mới sắm nổi. Chúng mình làm gì có nhiều tiền mà mong ước.

Quách Phù ngắm con ngựa ốm tong, lại nhìn Dương Qua quần áo rách rưới , đầu tóc bù xù, không nhịn được , phá lên cười lớn .

Dương Qua cũng cười theo và nói :

- Tôi xấu thì tất nhiên con ngựa cũng xấu. Tục ngữ nói " Thầy nào tớ ấy" có gì mà phải lấy làm lạ. Tôi chắc rằng ngựa của anh em Võ huynh phải là những con "Thần câu, tuấn mã".

Võ Tu Văn ngắt lời nói :

- Anh em chúng tôi cũng không có con ngựa nào hơn con ngựa của Dương huynh. Chỉ có Quách muội đây được con ngựa hồng rất quý. Chắc Dương huynh còn nhớ được con ngựa đó trước đây ở Đào hoa đảo chứ ?

Dương Qua làm ra vẻ ngạc nhiên :

- Thì ra Quách bá bá đem con ngựa hồng ấy tặng cho cô nương rồi sao ! Tôi đâu có rõ...

Bốn người đang cười đùa vui vẻ , chợt Quách Phù chỉ tay về phía Tây nói :

- Mẫu thân tôi đang dạy phép "đánh bổng" kia mà !

Dương Qua ngẩng đầu lên, thấy Hoàng Dung đang cùng một ông lão trong Cái Bang ở tận chân núi thao diễn, người nào cũng cầm trong tay một cây bổng.

Võ Tu Văn nhướn mày nhìn ông lão một lúc rồi nói :

- Lỗ trưởng lão đã già, tinh thần suy kém, trí óc đã mờ, học đến bao giờ mới thuộc được "đả cẩu bổng pháp" đây.

Dương Qua nghe nói đến bốn tiếng "Đả cẩu bổng pháp" lòng bỗng nhiên bồi hồi . Tuy nhiên , chàng cố giữ lấy vẻ điềm tĩnh vờ như không để ý, ngoảnh mặt sang phía khác vờ ngắm cảnh đẹp núi non.

Quách Phù nói :

- Thân mẫu tôi thường nói môn "đả cẩu bổng pháp" là bảo vật của Cái Bang dùng để trấn áp trong bang và làm áp lực với bên ngoài. Phép ấy lợi hại lắm, không thể học trong mười ngày hai nửa tháng mà đạt được . Các anh chớ khinh khi ông lão đó .

Võ Đôn Nho thở dài nói :

- Nghe nói phép đó huyền diệu lắm, tiếc rằng chỉ được truyền cho ai làm Bang chủ mà thôi, không truyền cho người ngoài.

Quách Phù nói :

- Nếu mai kia anh được đề cử làm Bang chủ thì sẽ được Lỗ trưởng lão truyền lại cho chứ lo gì. Môn đánh bổng ấy chính phụ thân tôi còn chưa biết mà.

Võ Đôn Nho nói :

- Bọn hèn như mình làm gì được chức Bang chủ . A này, khi truyền dạy "Đả cẩu bổng pháp" cho Lỗ trưởng lão , có phải sư mẫu muốn truyền Lỗ trưởng lão thay thế chức Bang chủ phải không ?

Quách Phù nói :

- Sang năm nay, thân mẫu tôi sẽ giao hết tất cả mọi việc trong bang cho Lỗ trưởng lão. Tôi thường nghe thân mẫu tôi nói trong bang già trẻ không thiếu gì người , song phần nhiều là những hạng ham ăn, tham uống , những phường hữu thực vô danh, chỉ có Lỗ trưởng lão là khá hơn hết. Chờ khi nào lão học được "Đả cẩu bổng pháp" thành thạo, lão sẽ được chính thức làm Bang Chủ .

Võ Tu Văn nói :

- Cô đã được xem lối đánh bổng theo phép "Đả cẩu bổng" chưa ?

Quách Phù nói :

- Tôi chưa bao giờ được xem . Vả lại cũng không ai cho tôi xem .

Võ Tu Văn nói :

- Thế mà tôi xem rồi đấy !

Dứt lời, Võ Tu Văn cúi xuống lượm một cành cây ngắn quất nhẹ vào vai Võ Đôn Nho , nói :

- Đây này ! Phép "đánh chó" đây này !

Võ Đôn Nho quát lớn :

- A ! Ngươi dám bảo ta là chó sao ?

Quách Phù cười ngất nói :

- Thôi , chư huynh chớ tranh hơn thua. Tôi có ý kiến này ...

Võ Tu Văn nói :

- Được , cô có ý kiến gì thì cứ giãi bày ra.

Quách Phù nói :

- Chúng mình lén đến xem thuật "Đả cẩu" như thế nào, để hiểu tại sao môn võ đó lại là một bí quyết lợi hại.

Võ Tu Văn vỗ tay khen :

- Hay lắm ! ý kiến của cô rất hợp lý.

Võ Đôn Nho lắc đầu , nhún vai nói :

- Không được ! Chúng ta đến xem lén, rủi sư mẫu biết được thì chết cả lũ.

Quách Phù thấy Võ Đôn Nho trái ý mình , nói giận dữ, mặt đỏ gay :

- Các anh muốn hiểu phép "đả cẩu" mà không đi xem lén thì làm sao mà biết được ! Tôi muốn xem ,các anh có đi theo tôi không thì mặc .

Võ Đôn Nho thấy Quách Phù giận dữ , không dám trái ý, đứng lặng thinh.

Quách Phù quay qua nói với Võ Tu Văn :

- Đây là buổi thao diễn môn võ công vào bậc nhất thiên hạ. Dầu chết cũng phải đi xem cho sướng mắt, huống hồ bọn ta đều là con cháu trong nhà, thân mẫu tôi có bắt gặp chẳng lẽ lại đem giết chết đi hết hay sao mà sợ ?

Dứt lời, Quách Phù quay sang hỏi Dương Qua :

- Thế nào ? Dương huynh cũng vui lòng đi với chúng tôi chứ ?

Dương Qua giả cách mải mê ngắm cảnh không nghe lời nói của Quách Phù nên không đáp lại.

Quách Phù hỏi lần nữa, Dương Qua mới làm bộ ngơ ngác quay lại hỏi :

- Cái gì nhỉ ? Đi đâu vậy ? Xa hay gần hả Quách cô nương ?

Quách Phù nói :

- Anh này hay thật! Nãy giờ chúng tôi tranh luận anh không để ý hay sao ? Thôi chẳng dài dòng, chúng tôi đi đâu anh theo đó là đủ .

Võ Đôn Nho ra vẻ cẩn thận , nói với Quách Phù :

- Cô rủ Dương huynh cùng đi e bất tiện .Dương huynh vốn quê kệch, không lanh lẹ, rủi sư mẫu trông thấy thì nguy cả lũ .

Quách Phù nói :

- Hai anh chớ lo . Hai anh đi trước, tôi và Dương huynh đi sau. Tôi đảm bảo mọi trách nhiệm.

Bốn người cùng cất bước.

Hai anh em họ Võ tuy chiều ý Quách Phù nhưng lòng không vui vì Quách Phù đi kèm một bên Dương Qua , làm cho anh em họ Võ thấy khó chịu.

Mặc dầu thế , anh em họ Võ chẳng bao giờ dám làm trái ý Quách Phù , sợ làm phật lòng nàng , nàng hờn dỗi mười bữa, nửa tháng không chuyện trò thì càng buồn hơn nữa.

Qua đến ngã rẽ, Quách Phù chỉ tay với anh em họ Võ :

- Hai huynh đi vòng đường này đến ẩn núp vào bụi cây cành lá rườm rà đó. Còn tôi và Dương huynh đi vòng đường này cũng đến đó luôn.

Anh em họ Võ đều gật đầu đồng ý .

Quách Phù nhìn ngắm Dương Qua thấy quần áo rách nát như kẻ ăn xin , thương hại nói :

- Để lát nữa về tôi nói với thân mẫu tôi may cho Dương huynh vài bộ quần áo để thay đổi. Ăn mặc thế này thì khó thương quá.

Dương Qua mỉm cười hỏi :

- Thế tôi ăn mặc thế này cô không thích à ?

Quách Phù nói ;

- Không phải không thích . Nhưng người của anh thế kia mà ăn mặc như thế thì khó coi quá. Nếu anh ăn vận đàng hoàng , lành lặn thì có lẽ thiếu nữ nhiều cô phải để ý đến !

Nói dứt câu, Quách Phù đỏ bừng mặt lên, e thẹn vì biết mình nói lỡ lời .

Dương Qua thấy vẻ e thẹn của Quách Phù làm cho nàng đẹp hơn lên rất nhiều. Hai má ửng hồng , làn mi thon thon, khoé mắt long lanh như mặt nước hồ thu, thật là một tuyệt thế giai nhân. Đem nàng so sánh với Lục Vô Song, Hoàng Nhan Bình, Gia Luật Yến thì nàng còn đẹp hơn gấp bội lần.

Dương Qua tự nhiên thấy lòng rạo rực vì men tình mới chớm bốc, bèn nói :

- Tôi hiểu nỗi buồn rầu của cô rồi.

Quách Phù cũng cười nói :

- Thật thế sao ? Dương huynh biết nỗi lòng của tôi sao ? Vậy thử nói ra xem sao.

Dương Qua nói :

- Tâm sự của cô lúc này là buồn phiền vì hai anh em họ Võ. Hai người ấy để ý thương cô mà cô chẳng bằng lòng ai cả ? Có đúng như vậy không ?

Quách Phù thấy Dương Qua hiểu rõ tâm sự của mình, tự nhiên bối rối, nghĩ thầm :

- " Tâm sự của mình mà anh chàng này hiểu được. Nếu anh ra đem niềm riêng của mình nói ra cho mọi người làm cho các trấn quan nha đồn đãi anh em họ Võ bất bằng, thân phụ ta mà biết được thì xấu hổ lắm. Chi bằng nói thiệt với anh ta và dặn anh ta đừng thổ lộ với ai thì hơn!"

Nghĩ như thế , Quách Phù toan tỏ thật với Dương Qua nhưng ú ớ mãi mà nàng không đủ can đảm để tỏ bày. Và e thẹn của người con gái lại tràn ngập cả tâm tư.

Bỗng hai mắt nàng rớm lệ, rồi những giọt lệ đọng lại từ từ lăn trên hai gò má của cô bé.

Dương Qua thấy người đẹp đến lúc mủi lòng , liền tấn công thêm vài đòn tâm lý :

- Tôi thấy anh em họ Võ một người thì nho nhã phong lưu, một người thì kiêu hùng khí tượng. Người nho nhã phong lưu thì có thể cung cấp đủ yêu thương tình cảm, còn người khí tượng kiêu hùng thì có thể đem lại sự nghiệp vĩ đại trong đời, như vậy đâu có phải là bậc thường tình trong trong thế sự. Tôi chỉ tiếc cô nương không thể hoá thân thành hai để thụ hưởng hai tài năng khác biệt đó thôi.

Quách Phù nghe nói nghĩ thầm :

- Mình ta mà cả hai anh em họ Võ đều mến chuộng, ta phải làm sao để có thể làm vừa lòng cả hai người được ?

Nàng hỏi Dương Qua :

- Theo ý anh thì nên giải quyết ra sao ?

Dương Qua nhìn sắc diện và nghe hơi thở của Quách Phù thì biết nàng đã xiêu lòng thực sự trước những lời tâm huyết của mình, nên lầm bầm :

- Thế thì bỏ quách anh em họ Võ mà lấy tôi chứ khó gì !

Tuy nhiên câu nói ấy chàng không dám nói ra tiếng. Chàng chỉ ậm ừ để kéo dài giây phút đợi chờ của Quách Phù.

Không thấy Dương Qua trả lời, Quách Phù giục :

- Thế nào , Dương huynh thấy hai anh em họ Võ người nào khá hơn ?

Sở dĩ Quách Phù dám đường đột hỏi Dương Qua như vậy là vì hai người từ khi còn bé đã quen thân nhau, nay lớn lên, trai đương độ, gái đương thì, lời nói ấy vừa thực lòng vừa dối lòng để thử lòng nhau. Qua cử chỉ thân mật của Dương Qua, Quách Phù cũng phần nào cảm thấy lòng cảm mến của Dương Qua đối với nàng. Nhưng nàng cũng không quên anh em họ Võ từ tấm bé đến giờ sống chung với nàng, chiều chuộng nàng hết mực mà cũng nhiều phen vì nàng mà rầu rĩ, vì nàng mà vui tươi. Nhân cớ ây, nàng thử xem Dương Qua có vì sự thân mật của anh em họ Võ đối với nàng mà phản ứng chăng...

Quả nhiên, Dương Qua nghe Quách Phù hỏi , đáp ngay :

- Tôi xem hai anh chàng họ Võ đều là phương bất hảo cả!

Quách Phù làm ra vẻ ngạc nhiên hỏi : - Sao ? Họ bất hảo ở chỗ nào ?

Dương Qua nói liền :

- Nếu họ không phải là kẻ bất hảo thì Dương Qua này còn hy vọng gì nữa ?

Dứt lời, Dương Qua phá lên một trận cười lớn để che lấp cái vẻ lì lợm của mình.

Quách Phù đưa mắt nguýt Dương Qua một cái rồi chẳng nói gì nữa.

Từ đó , hai người sát cánh nhau, vừa đi vừa cười đùa vui vẻ, ríu rít như đôi chim đã tìm ra tổ ấm. Tuy nhiên, đối với Dương Qua chàng chỉ cốt đùa vui ngoài mặt chứ không có tà ý gì khác .

Qua một lúc, bỗng Dương Qua nín lặng không nói năng gì với Quách Phù nữa.

Quách Phù tự thấy làm khó chịu, nắm tay Dương Qua níu lại hỏi :

- Sao anh lại đờ người ra như thế ?Không tươi tỉnh hơn lên !

Quách Phù từ thưở bé vốn là một đứa con cưng. Chỉ có nàng giận hờn người khác chứ người khác chưa bao giờ dám giận nàng.

Dương Qua hiểu lẽ đó, làm ra vẻ nghiêm trọng nói :

- Gần đến nơi rồi . Phải cẩn thận chứ ! Cô nương không sợ dư luận ư ?

Quách Phù như vừa tỉnh cơn mộng, gật đầu , rồi dùng khinh công leo núi, băng qua lối mòn, thoăn thoắt như thỏ vượt rừng hoang, chạy về phía sau núi.

Nàng bỏ Dương Qua đến hơn một dặm.

Dương Qua thững thờ như chợt nhớ lại một điều gì trong trí óc. Chàng lẩm bẩm :

- "Ta đuổi theo ba đứa này làm gì nhỉ ? Sao ta không nhân lúc này tránh xa chúng đi ? "

Nghĩ như vậy, chàng thong thả đi từng bước một và xem xét lại cử chỉ của anh em họ Võ đối với Quách Phù.

Anh em họ Võ xem Quách Phù như một tiên nữ giáng trần, người nào người nấy lúc nào cũng lo sợ không biết nàng tiên ấy có để bụng mình chăng ! Ôi, sống giữa cái đời nước mắt nhà tan mà thân trai chỉ biết đem thờ phụng ái tình thì còn gì là danh dự. Dương Qua lần lần tản bộ theo lối khác , không đi theo hướng của Quách Phù .

Quách Phù chạy một lúc ngoảnh đầu lại không thấy Dương Qua đâu, đoán là Dương Qua không thạo khinh công nên không theo nàng kịp, nàng liền phóng người quay lại tìm kiếm. Nàng trở lại một đoạn đường bắt gặp Dương Qua, nhưng thấy Dương Qua không đi theo mình mà lại đi theo một hướng khác, lấy làm lạ tự hỏi :

- Anh chàng này sao ngu ngốc thế nhỉ ?

Quách Phù vận dụng hết sức lực của mình chạy lên đón đầu Dương Qua, hỏi :

- Sao không đi với tôi mà lại rẽ hướng khác /

Dương Qua thản nhiên đáp :

- Quách cô nương, xin cô làm ơn bẩm hộ với lệnh tôn đường là tôi xin phép đi phương khác.

Quách Phù ngạc nhiên, nhìn đăm đăm vào mặt Dương Qua hỏi :

- Tại sao anh có ý định bỏ đi một cách hấp tấp như thế ?

Dương Qua cười nhạt nói :

- Do sự bất ngờ mà tôi đến đây, nay xét ra tôi ở lại cũng vô ích, nên lại xin ra đi một cách bất ngờ như khi đến vậy !

Quách Phù lúc này đối với Dương Qua đã có ý cảm mến, tuy chưa tỏ ý cho Dương Qua biết. Nay Dương Qua định bỏ đi, làm sao nàng không quyến luyến.

Nàng buồn bã nói :

- Dương huynh, anh em ta lâu ngày xa cách nhau, còn nhiều việc tâm sự, sao Dương huynh đã vội dứt dây thân ái.

Dương Qua lầm lì nét mặt không đáp .

Quách Phù tìm cách để giữ Dương Qua lại, nói tiếp :

- Đại ca ơi ! Đêm nay mới khai mạc Anh hùng yến, các tay hảo hán đều tụ họp nơi đây đủ mặt, sao đại huynh không ở nán lại dự hội cho vui ?

Dương Qua cười nhạt nói :

- Tôi đâu phải là anh hùng mà dự Anh hùng yến . Nếu ở lại đây các vị anh hùng thấy mặt cười cho thì mang xấu .

Quách Phù lâu nay sống trên đảo , ít tiếp xúc với ai nên lời nói cũng không thận trọng . Nàng vụt miệng nói :

- Trong trang viện họ Lục thiếu gì người không biết võ công. Vậy anh hãy lưu lại lo việc trông nom sai bảo bọn gia đinh lo cơm nước , nhân đó xem hội luôn.

Tuy Quách Phù không có ý khinh Dương Qua mà chỉ cốt nói sao cho Dương Qua ở lại, nhưng nàng vụng về đến nỗi như khing người.

Dương Qua nghe Quách Phù nói mấy câu ấy, lòng hậm hực vô cùng, song cũng nén giận nghĩ thầm :

- Nếu nàng khinh ta, ta sẽ ở lại để cho nàng biết ta như thế nào !

Nghĩ như vậy, Dương Qua nói :

- Được vậy rhì còn gì hơn!

Quách Phù thấy Dương Qua nhận lời mình thì vui vẻ nói :

- Thôi, chúng ta tiến lên mau kẻo trễ mất. Thân mẫu tôi diễn xong môn võ ấy thì hết cả thú vị.

Nói xong, nàng quay người cất bước . Dương Qua cố làm ra vẻ chậm chạp tiếp bước theo sau.

Khi gần đến chỗ Hoàng Dung dạy võ thì đã thấy anh em họ Võ đang vắt vẻo ngồi trên một cành cây rậm rạp, um tùm ngó đầu nhìn ra.

Quách Phù nhún mình một cái, nhảy lên một cành, rồi đưa tay xuống kéo Dương Qua. Dương Qua nắm lấy tay nàng thấy mềm mại và man mát, cũng có đôi phần rạo rực, lòng chàng có ý nghĩ :

- "Cô ta tuy đẹp thật, song cái đẹp của cô ta đâu bằng Tiểu Long Nữ "

Quách Phù kéo Dương Qua lên đến một cành cây, quay lại hỏi anh em họ Võ :

- Thân mẫu tôi đã khai diễn chưa ?

Võ Tu Văn chỉ tay về phía trước nói thấp giọng :

- Lỗ trưởng lão đang tập luyện kia kìa. Còn sư mẫu và sư phụ vừa nói rủ nhau đi đâu, chẳng biết là có việc gì !

Quách Phù vốn sợ cha nên nghe nói có mặt Quách Tỉnh ở đây thì lấy làm ái ngại. Nàng nhìn ra thấy Lỗ Hữu Cước đang cầm một đoạn tre múa đông đánh tây, chẳng có pháp thuật nào ra vẻ lợi hại mà người ngoài phải sợ cả.

Nàng thì thầm :

- Đánh múa như thế mà gọi là "Đả cẩu bổng pháp" ư ?

Võ Đôn Nho nói :

- Đã lâu rồi, sư mẫu dạy cho lão đánh múa hay lắm, nhưng vừa rồi sư phụ gọi sư mẫu đi chỗ khác nói chuyện riêng, nên lão mới tập dượt một mình đó.

Quách Phù xem Lỗ Hữu Cước mua thêm mấy đường bổng nữa, không nhận thấy có gì gọi là huyền diệu, bèn bảo mọi người :

- Lỗ trưởng lão chắc học không thuộc nên múa bậy bạ xem chán mắt quá. Thôi, chúng ta đi là hơn.

Tuy nhiên dưới mắt của Dương Qua , chàng thấy lối múa của Lỗ trưởng lão giống hệt lối đánh đỡ mà Hồng Thất Công đã truyền dạy cho chàng nơi núi Hoa Sơn. Chàng tủm tỉm cười , nói một mình :

- Bọn chúng ngu dốt chẳng hiểu gì mà cứ tự phụ !

Bỗng có tiếng chân người sột soạt dẫm trên cỏ khô từ phía đằng xa vọng lại. Cả bọn nhìn xuống thì thấy Quách Tỉnh đang cùng với Hoàng Dung đi tản bộ gần đó.

Quách Tỉnh vừa đi vừa nói :

- Việc chung thân của Quách Phù, mình không thể coi thường được. Dương Qua còn trẻ người non dạ, chúng ta không nên chấp trách chuyện lầm lỡ của nó. Ta nên gầy dựng cho nó mới phải !

Hoàng Dung nói :

- Ông nghĩ đến tình xưa giữa hai nhà họ Dương và họ Quách cũng phải, song tôi thấy tánh nó giống cha nó quá, nên tôi phân vân không muốn gả Quách Phù cho nó .

Cả Dương Qua, Quách Phù lẫn anh em họ Võ đang núp trên cây , nghe vợ chống Quách Tỉnh bàn như thế đều lấy làm kinh hãi.

Anh em họ Võ nghĩ thầm :

- "Chẳng biết giữa họ Dương và họ Quách trước kia đã toan tính như thế nào mà sư phụ mình lại muốn gả Quách Phù cho Dương Qua nhỉ ?"

Cả ba chàng trai đang nấp trên cây, nghe câu chuyện đó ai cũng cho là chuyện hệ trọng có liên quan đến cuộc đời của mình nên tất cả đều chăm chú theo dõi.

Quách Tỉnh nói :

- Nghĩa đệ Dương Khang lưu lạc sang nước Kim, tính đột nhập vào Vương phủ , không ngờ bị trúng kế của giặc phải chết một cách thảm thương, đầu một nơi, thân một nẻo, thịt da chôn vào bụng quạ. Nếu Dương huynh đệ chịu nghe theo lời thúc phụ Dương Thiết Tâm dạy bảo thì đâu đến nỗi !

Hoàng Dung thở dài, than :

- Cứ nghĩ việc ấy xảy ra ở Gia Hưng Vương miếu thuở nào mà tôi lại rùng mình kinh sợ.

Nói đến đây, Hoàng Dung hạ thấp giọng thì thầm :

- Việc đã lỡ rồi thì biết làm sao ?

Dương Qua từ tấm bé đến giờ chưa được rõ thân thế, cảnh ngộ của mình ra sao. Chàng chỉ biết cha chàng chết sớm vì bị người ta giết. Còn bị giết tại đâu ? Chết bằng hình phạt gì ?thì chẳng được ai nói lại cả. Ngay như mẹ chàng lúc sinh thời cũng chẳng nói cho chàng hay việc ấy.

Nay nghe Quách Tỉnh nói đến việc cha mình lưu lạc đến nước Kim, đột nhập vào Vương phủ trúng kế giặc. Lại nói cha chàng chết không toàn thây, đầu một nơi, người một nẻo, thịt da chôn vào bụng quạ. Chàng lấy làm kinh sợ, toàn thân run lên, mặt tái mét.

Quách Phù thấy nét mặt Dương Qua biến đổi lạ lùng, chẳng hiểu ra sao, nói nhỏ :

- Dương huynh sợ quá ư ? Đừng sợ gì cả, cứ bấu chặt vào cành cây kẻo rơi xuống bây giờ.

Dương Qua chỉ ấm ớ không nói.

Bấy giờ vợ chồng Quách Tỉnh dắt nhau đến ngồi dưới một gốc cây tùng gần đó. Quách Tỉnh nhìn Hoàng Dung âu yếm nói :

- Từ ngày phu nhân mang thai đến nay, ta thấy sức khoẻ của phu nhân không còn tốt như ngày xưa nữa. Vậy nên giao việc Cái Bang cho Lỗ trưởng lão để phu nhân có thì giờ nghỉ ngơi.

Hoàng Dung nói ;

- Việc trong Cái Bang không làm cho tôi bận rộn bằng việc chung thân của Quách Phù. Việc này đã làm cho tôi phải lo nghĩ nhiều.

Quách Tỉnh nói :

- Phái Toàn Chân đã không thu nhận Dương Qua, vậy ta phải nuôi nấng dạy dỗ nó . Tôi xem nó thông minh hơn người, nếu mình đem hết khả năng rèn luyện cho nó thì chắc ở dưới suối vàng cha nó cũng vui mừng là trên đời này đã có người bạn tốt chăm sóc, bảo vệ cho nó.

Nghe đến đây, Dương Qua mới biết Quách Tỉnh là bạn chí thân của cha mình. Ba tiếng "Quách bá bá" mà chàng thường gọi hàng ngày chính là đã bao hàm một ý nghĩa trọng đại.

Nghĩ như thế, Dương Qua cảm động đến ứa hai dòng lệ...

Trong lúc Quách Tỉnh đang trầm ngâm thì Hoàng Dung nói :

- Tôi chỉ ngại nó thông minh quá mà hại đời nó. Vì vậy , trước đây tôi định dạy cho nó học đọc sách, không học võ nghệ, cốt hy vọng sau này nó trở thành một người rõ nghĩa lý, đường đường một trang nam nhi trong học giới, rồi sẽ gả Quách Phù cho nó,. Như vậy là đẹp đôi. Ai ngờ ...

Quách Tỉnh mỉm cười ngắt lời vợ :

- Phu nhân xem tôi không thông minh ư ? Thế nào, thông minh không làm hại được tôi. Vả lại Quách Phù có một hình dáng "anh thư", lại năm ba môn võ công, bắt nó làm vợ một thư sinh yếu đuối thì làm sao nó bằng lòng. Vợ chồng như vậy không thể sống trong hạnh phúc được.

Hoàng Dung nghĩ một lúc rồi nói :

- Việc mình thu nhận Dương Qua không khó, chỉ khó là đối xử với anh em họ Võ làm sao cho đẹp ý. Theo nhận xét của Tỉnh ca thì trong hai anh em họ Võ, người nào khá hơn?

Nghe câu này, anh em họ Võ và Quách Phù lòng nóng như lửa đốt. Còn Dương Qua thì cho là không can hệ gì đến mình. Tuy nhiên, chàng cũng để ý nghe để tìm hiểu xem sự phê phán của vợ chồng Quách Tỉnh như thế nào ?

Quách Tỉnh trầm ngâm rồi thở phào ra một hơi, nói :

- Tài năng con người ta không thể nói trước được, chờ khi nào lâm sự, ai hơn, ai kém mới biết rõ.

Giọng nói êm dịu của Quách Tỉnh như rót vào tai người nghe.

Hoàng Dung chưa kịp tỏ ý thì Quách Tỉnh đã nói tiếp :

- Quách Phù còn nhỏ tuổi, việc đôi lứa kéo dài thêm vài năm cũng chưa muộn.Mà như vậy mình có đủ thì giờ để xét đoán việc hơn thiệt. Mình làm cha mẹ không nên vội vã làm hỏng việc trăm năm của con gái. Tôi xem mấy hôm nay phu nhân phải dạy võ thuật đánh bổng cho Lỗ trưởng lão, trong người chắc không được khoẻ khoắn. Vậy chúng ta hãy gác việc này lại, bàn vào dịp khác.

Dứt lời, Quách Tỉnh đứng dậy, rảo bước về trang trại.

Hoàng Dung ngồi một mình trên tảng đá, thỉnh thoảng hít mạnh khí vào như để điều hoà huyết quản.

Một lúc sau, Hoàng Dung gọi Lỗ Hữu Cước đến diễn lại thuật đánh bổng mà nàng đã truyền dạy.

Lúc này, Lỗ Hữu Cước đã gần thuộc ba mươi sáu thế trong "đả cẩu bổng pháp". Lão múa để trình diễn. Tuy nhiên, những bí quyết quan trọng trong mỗi đường lão chưa hiểu đến đâu cả.

Hoàng Dung lần lượt giảng cho lão từng bí quyết một để luyện tập.

Môn võ "đả cẩu bổng pháp" này là môn võ công thật là cao siêu huyền bí mà bí quyết của nó thì còn thần diệu hơn nữa. Thật vậy, chỉ cần một đoạn tre mà có thể dùng làm vật trấn thủ quý báu của Cái Bang.

Xem như Âu Dương Phong lợi hại là thế mà cũng phải nghĩ ngợi suốt một đêm mới khám phá ra được ít nhiều.

Lỗ Hữu Cước được Hoàng Dung chỉ dạy phép đánh bổng được gần một tháng nay.Lúc này ông ta được dạy thêm về cách biến hoá của các chiêu thức,các bí quyết trong các ngón tân kỳ . Nếu Lỗ Hữu Cước không phải là người thông minh thì không thể nào lãnh hội được.

Hai anh em họ Võ và Quách Phù không hiểu gì cả, nên thấy Lỗ trưởng lão múa máy linh tinh thì cho là chuyện thường, chứ có biết đâu trong mỗi thế đều có biến thế từ một đến mười tám rồi từ mười tám đến ba mươi sáu, đủ cả công thủ.

Vì cho rằng những thế đánh đỡ của Lỗ Hữu Cước đang luyện tập chỉ là những miếng đánh đỡ của trẻ con nên anh em họ Võ và Quách Phù không muốn xem nữa, định tụt xuống ra về, nhưng vì sợ Hoàng Dung trông thấy nên cả ba đành nằm bẹp xuống, chờ cho Hoàng Dung về sớm để thoát thân.

Tuy nhiên, trái với ý muốn của anh em họ Võ và Quách Phù, Hoàng Dung không về vội, vì sợ đêm nay trong đại hội "Anh hùng yến" , Hoàng Dung phải trao quyền Bang chủ cho Lỗ Hữu Cước, do đó Hoàng Dung phải dạy cho Lỗ Hữu Cước thuộc lòng môn "đả cẩu bổng pháp" theo đúng quy luật của Cái Bang đã định.

Chỉ phiền một nỗi là Lỗ Hữu Cước lúc này đã già, sức yếu, hơn nữa trí óc đã lụt, nên nhiều chỗ Hoàng Dung phải dạy đi dạy lại nhiều lần ông ta mới lãnh hội được.

Hoàng Dung năm mười sáu tuổi đã quen biết Quách Tỉnh nên bà chịu ảnh hưởng rất nhiều ở tính cách của Quách Tỉnh. Sự trầm lặng và kiên nhẫn có thừa. Chính vì thế nên khi truyền dạy võ công có gặp những học trò dốt nát, chậm trễ, bà cũng không hề cáu gắt mà cứ dạy đi dạy lại cho đến khi biết hết thì thôi.

Theo quy luật của Cái Bang, phép "đả cẩu bổng pháp" chỉ được truyền miệng , không được ghi ra thành sách vở. Vì thế nên người dạy rất vất vả . Đôi khi , chỉ có một chiêu thế nhưng Hoàng Dung phải giảng giải đến hàng ba bốn canh giờ.

Nhưng thời gian kéo dài càng lâu bao nhiêu thì càng có lợi cho Dương Qua bấy nhiêu.

Trước kia, Dương Qua ở trên đỉnh Hoa Sơn được Hồng Thất Công truyền thụ mấy thế trong "đả cẩu bổng " nhưng toàn là chiêu thức chân tay, chứ không có khẩu quyết biến hoá của các thế. Bởi lẽ Hồng Thất Công cho rằng :"Dẫu có truyền dạy cho Dương Qua các chiêu thức đánh đỡ mà không truyền thụ cho nó khẩu quyết biến hoá thì nó cũng chẳng làm gì được và như thế thì Hồng Thất Công ta cũng chẳng vi phạm quy luật của Cái Bang".

Không ngờ trời xui đất khiến thế nào mà Dương Qua lại gặp dịp dể ghi nhận lại toàn bộ của "Đả cẩu bổng pháp". Dương Qua bản tính thông minh gấp hàng trăm lần Lỗ trưởng lão nên mỗi thế chàng chỉ nghe qua là thuộc làu làu, không sai một chữ.

Còn Lỗ Hữu Cước thì có khi phải nhắc đi nhắc lại đến ba bốn lần mà vẫn chưa thuộc.

Hoàng Dung đang mang thai, lại phải chỉ dạy cực nhọc nên chỉ mới nửa ngày, bà đã thấm mệt, không gượng được nữa, phải ngồi nghỉ trên tảng đá, nhắm mắt để bồi bổ tinh thần.

Một lúc sau, Hoàng Dung cất tiếng gọi :

- Phù nhi ! Cả Văn, Nho , Qua nhi nữa ! Các con xuống đây cả đi.

Cả bốn người đang nấp trên cành cây rậm rạp, nghe kêu đích danh, thất sắc nhìn nhau nói thầm :

-"Ôi chao ! Sao Hoàng sư mẫu tài tình đến thế nhỉ ? Làm thế nào mà bà có thể phát hiện được chúng ta núp ở nơi đây nhỉ ? "

Quách Phù nhanh nhẩu chạy xuống trước, tìm lời nũng nịu :

- Mẫu thân ơi ! Sao mà mẫu thân tài tình đến thế ? Biết chúng con ở đây ư ?

Dứt lời nàng dùng thế "Nhũ yến đầu lâm" phóng mình đến trước mặt Hoàng Dung, anh em họ Võ cũng nhảy xuống đứng hầu một bên, duy chỉ có Dương Qua làm bộ ngờ nghệch, hai tay vịn cành cây chuyền xuống rất nặng nề chậm chạp.

Khi đã đủ mặt bốn người , Hoàng Dung lên giọng mắng :

- Các con tài nghệ chưa vào đâu, giang hồ chưa từng trải, sao lại đến ẩn núp nơi đây làm gì ?

Quách Phù lấy thân tình mẹ con, vừa cười vừa nói :

- Thưa mẫu thân, việc này là do con rủ ba anh ấy, lỗi ở con cả mà. Con muốn xem "Đả cẩu bổng pháp" như thế nào vì nghe nói môn võ này nổi danh thiên hạ , nhưng lúc đến xem Lỗ trưởng lão luyện tập thì thấy môn võ này tầm thường quá, thực chất chẳng có gì là lợi hại cả.

Hoàng Dung nghe Quách Phù nói, vừa cười vừa lấy đoạn tre ở tay Lỗ trưởng lão , hăm :

- A ! Con dám chê môn võ này không hay sao ? Vậy giữ lấy thân, ta sẽ "đả cẩu" cho mà xem này !

Quách Phù chăm chăm nhìn tay Hoàng Dung, định bụng đoạn tre kia ném tới, nàng sẽ nhảy lên né tránh .

Nhưng thoáng một cái, đoạn tre kia đã bay vù đến hai ống chân nàng, Quách Phù thất kinh kêu lên :

- Thôi thôi ! Con xin má ! Để con thủ thế đã.

Hoàng Dung rút cây bổng lại , rồi cười và hỏi :

- Con thủ thế gì bây giờ ?

Suy nghĩ một lúc, Quách Phù bảo anh em họ Võ :

- Hai anh đứng hai bên, tôi đứng chính giữa, xoạc hai chân ra và nắm lấy tay nhau thì vững như núi Thái Sơn.

Hai anh em họ Võ liền làm theo lời Quách Phù.

Khi đã thủ thế xong, Quách Phù nói :

- Bây giờ mẫu thân "đả cẩu" đi. Chúng con đứng thế này thì dẫu có dùng "Giáng long thập bát chưởng" cũng chẳng thể làm gì nổi !

Hoàng Dung cười nụ , cầm cây bổng lướt qua mặt ba người. ba người thấy như bị một luồng gió tạt mạnh vào mặt, người nào cũng lùi để né tránh và nhanh như chớp, cây bổng luồn vào chân ba người làm ba người té lăn ra đất.

Cả ba vội đứng lên , Quách Phù nói :

- Mẫu thân ơi ! Ngón đánh đó gọi là gì mà lợi hại thế ?

Hoàng Dung nói :

- Đây là thuật "Đả cẩu bổng pháp" Nhưng chỉ là một thế thường trong ba mươi sáu thế mà ta mới truyền dạy cho Lỗ Trưởng lão chứ chưa phải là các ngón bí quyết của thế võ. Nếu muốn thòng lọng bắt các con, ta sẽ buộc vào đầu cây gậy này một đoạn dây, đoạn dây sẽ mắc vào cổ các con không thể nào giãy giụa nổi. Với môn võ này , thì cho dù các con có " Giáng Long Thập Bát Chưởng" cũng đành bó tay. Thật là một môn võ siêu đẳng trong thiên hạ .

Những lời giảng giải trên , Dương Qua nghe đến đâu thì gật đầu đến đấy, chàng cảm thấy sung sướng vì mình đã gặp vận may.

Còn anh em họ Võ và Quách Phù thì bỡ ngỡ, chẳng hiểu vào đâu cả, vì chúng chưa rõ căn nguyên của diệu pháp.

Hoàng Dung lại giảng giải tiếp :

- Phép sử dụng "đả cẩu bổng" của Cái Bang có chỗ khác biệt với các môn phái khác ở chỗ : tuy học được chiêu thức thì cũng chưa thể dùng được khi chưa biết được các khẩu quyết của các thế. Các bí quyết ấy dầu người thông minh đến đâu cũng không thể nào lần ra được. Nói tóm lại, những bí quyết khẩu truyền ngoài ta ra không ai có. Vì vậy cho dù có nhìn trộm, học lén cũng chẳng có ích gì !

Quách Phù cười rồi nũng nịu nói :

- Môn võ lợi hại thế mà sao mẫu thân lại không truyền lại cho đứa con cưng của mẫu thân ?

Hoàng Dung rất cưng cô con gái này. Tuy nhiên, với đòi hỏi đó, Hoàng Dung chỉ mỉm cười nói :

- Con cùng hai anh đi chơi đâu đó đi !

Đoạn bà quay sang bảo Dương Qua :

- Qua nhi! Ta có việc cần hỏi, con ở lại một chút.

Khi anh em họ Võ và Quách Phù đã dắt tay nhau đi khỏi, Hoàng Dung nói với Lỗ Hữu Cước :

- Lão hãy còn chậm chạp lắm ! Hôm nay ta mệt, vậy hãy tạm để ngày mai học tiếp.

Lỗ Hữu Cước tuân lệnh, cầm cây bổng theo chân Quách Phù và anh em họ Võ trở về trang viện.

Dương Qua còn lại một mình, chàng thấp thỏm nghĩ thầm :

- Không lẽ riêng mình ta chịu tội xem trôm thế võ "đả cẩu" chăng ?

Nhưng không, Hoàng Dung thấy Dương Qua thần sắc không được tự nhiên, bèn cầm tay chàng dắt đến một phiến đá, bảo ngồi một bên và nói :

- Dương Qua con, con còn có những khúc mắc gì , ta đâu có biết ? Dầu ta có hỏi , chắc con cũng chẳng nói thật. Ta lúc tuổi trẻ, tính tình nhiều khi quái ác. Nhưng từ khi gặp được Quách bá bá con , tánh tình ta chịu ảnh hưởng rất nhiều ...

Nói đến đây, Hoàng Dung thở ra một hơi dài não ruột, bà lại tươi tỉnh mỉm cười nói tiếp :

- Ta không dạy con võ nghệ là dụng ý muốn con là một người tốt, ngờ đâu, vì ý nghĩ của ta mà gây cho con biết bao đau khổ đoạ đày.

Ngừng một lúc, bà nhìn Dương Qua nói với giọng thân mật :

- Qua nhi ! Quách bá bá của con thương yêu ta lắm. Tình thương ấy sâu như biển cả , há ta chẳng đáp đền ư ? Quách bá bá con lại để ý đến con, mong tác thành cho con làm thế nào để con sau này trở thành một trang tuấn kiệt. Vì cảm tình của Quách bá bá con, ta muốn dạy dỗ con để người được toại nguyện. Con đừng nghĩ quanh co đến những việc đã qua mà làm phật lòng Quách bá bá của con như thế . Con nghĩ sao ?

Lời ngọt ngào êm dịu đầy vẻ yêu thương thành thực và ánh mắt của Hoàng Dung lúc đó hiện ra những nét chân thành khiến cho Dương Qua cảm động quá. Bất giác chàng nức nở khóc.

Hoàng Dung vỗ nhẹ vào đầu Dương Qua nói :

- Qua nhi ! Đây là những lời thành thực phát ra từ đáy lòng ta. Trước kia, chỉ vì ta không ưa cha con mà ghét lây đến con. Từ nay trở đi, ta thề sẽ thương con hết mức, đợi đến khi ta sanh nở xong xuôi, ta sẽ đem hết võ công truyền dạy cho con.

Hoàng Dung càng nói, Dương Qua càng khóc, cái khóc cởi mở của một đứa bé đã cô đọng nhiều khúc mắc trong tiềm thức.

Được một lúc , Dương Qua sụt sùi nói :

- Quách bá mẫu, trăm sự nhờ ở tình thương của bá mẫu.

Hoàng Dung vuốt đầu Dương Qua nói :

- Hôm nay ta mệt mỏi lắm. Đợi vài hôm nữa ta sẽ nói hết cho con nghe cũng chẳng muộn gì ! Có điều cần làm là con ăn ở cho phải đạo trời đất là ta mừng rồi. Đợi đến khi xong đại hội Cái Bang, con sẽ thấy lòng ta đối với con là thực hay hư ảo.

Dương Qua nghĩ đến việc Hồng Thất Công qua đời, chàng muốn nhân đại hội Cái Bang này đem việc ấy trình bày cho mọi người rõ, nên chàng ưng thuận ở nán lại.

Cả hai chuyện trò dưới gốc cây, thổ lộ tất cả các suy nghĩ của mình. Bao nhiêu sự bất mãn trước đây đều xoá nhoà trong trí nhớ, và quyện theo mây khói thời gian.

Phá tan được thù hận , ngờ vực, Dương Qua vui mừng lắm. Từ ngày cùng Tiểu Long Nữ cách biệt đến nay, có lẽ hôm nay Dương Qua mới thấy lòng mình có hy vọng về tương lai...

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 33 : Bọn Mông Cổ xuất hiện phá Anh Hùng Yến.

Trò chuyện được một chập, Hoàng Dung cảm thấy trong bụng chuyển đau dần dần, nên uể oải đứng dậy bảo Dương Qua :

- Thôi, chúng ta nên về đi là vừa !

Nói xong, Hoàng Dung nắm tay Dương Qua dắt đi bách bộ thong thả trên con đường về, Gió chiều nhè nhẹ thổi, nhiều cánh bướm bay chập chờn trên các bụi cây hai bên đường, cảnh sắc đượm vẻ êm đềm thơ mộng.

Bước theo Hoàng Dung, Dương Qua dự định đem câu chuyện Hồng Thất Công đã chết trên đỉnh Hoa Sơn để thuật lại cho bà nghe. Chàng nói :

- Quách bá mẫu ...

Trong lúc này, cơn đau bụng của Hoàng Dung lại gắt hơn trước. Nhiều lúc cơn đau tăng quá, bà phải cố vận công chịu đựng, hơi thở bị đứt quãng. Nghe Dương Qua nói, bà nhăn mặt nhìn chàng rồi lắc đầu đáp :

- Bây giờ ta đang đau bụng quá, có chuyện gì chờ sáng mai hãy nói !

Dương Qua nhìn mặt Hoàng Dung thấy nước da tái mét. Mồ hôi đổ lấm tấm trên trán và nơi cổ, đôi mắt lờ đờ, mới nhìn như một thây ma, không còn chút sắc khí. Nắm tay bà thấy lạnh buốt như nước mùa đông.

Chàng vội vàng nắm chặt bàn tay bà rồi vận công chuyển nội lực sang người Hoàng Dung.

Lối truyền nội công này là một công phu thượng thặng trong "Ngọc nữ tâm kinh" mà Dương Qua đã cùng Tiểu Long Nữ luyện tập khi còn ở trên Chung Nam Sơn lúc trước.

Vốn đã có một căn bản nội công thâm hậu, nay lại được Dương Qua truyền thêm nhiệt lực vào, Hoàng Dung cảm thấy một luồng hơi ấm từ lòng bàn tay thâm nhập vào khắp cơ thể, trong người trở nên sảng khoái, và không bao lâu cơn đau đã biến mất, hơi thở điều hoà trở lại, đi đứng được tự nhiên như cũ.

Xưa kia, tại Lâm An, trong hoàng cung vua Tống, Quách Tỉnh đã bị Âu Dương Phong dùng chưởng lực Hàm mô công đánh trọng thương. Hoàng Dung phải cõng Quách Tỉnh về trốn trong mật thất tại Ngưu gia thôn, áp dụng phương pháp luyện công trong Cửu Âm Chân Kinh , ấp hai bàn tay cũng nhau truyền nội lực , tĩnh dưỡng trong suốt bảy ngày bảy đêm liền mới chữa hết vết âm thương.

Hôm nay, thấy Dương Qua nắm tay mình truyền nội lực, chỉ trong chốc lát đã thấy khoan khoái và sức lực mạnh hơn trước gấp mấy lần, cơn đau cũng đã tiêu tan đi mất, da dẻ hồng hào trở lại, Hoàng Dung rất ngạc nhiên và nghĩ bụng :

- Thật không ngờ thằng bé này mà luyện được nội công thâm hậu như thế này, Cứ như công lực nó đã truyền cho ta, thì mấy vị trong Toàn Chân thất tử vị tất đã theo kịp.

Tuy nghĩ bụng nhưng Hoàng Dung không nói ra, chỉ dịu dàng nhìn Dương Qua mỉm cười tỏ ý khen ngợi.

Bà muốn nói chuyện cảm ơn và hỏi thăm thủ thuật này là do ai truyền dạy cho Dương Qua , thì bỗng đâu từ đằng xa, bóng Quách Phù đang tung tăng chạy lại. Khi vừa đến nơi, nàng liến thoắng hỏi ngay :

- Mẫu thân, con đố mẫu thân biết ai là người đến dự hội đầu tiên ?

Hoàng Dung cười xoà nói :

- Hôm nay là ngày hội ngộ của các anh hùng trong thiên hạ, ai ai cũng tề tựu về đây, kẻ trước ngừoi sau, làm sao ta biết rõ được ai là người đến trước được !

Vừa đáp xong, bà chợt nghĩ lại và nói tiếp :

- Sư thúc và sư bá của nhị Võ lâu lắm chưa lại đây, chắc thế nào cũng nóng lòng gặp gỡ hơn những người khác . Có phải hai vị này đã đến đây trước tiên phải không ?

Thấy mẹ đoán trúng phóc, Quách Phù vỗ tay tán thưởng và khen lớn :

- Mẫu thân thông minh và liệu việc như thần, đáp đúng quá. Con xin chịu thua.

Hoàng Dung mỉm cười xoa đầu Quách Phù nói :

- Có gì đâu mà không đoán ra. Hai anh em nhà họ Võ lúc nào cũng đi theoc cạnh con như hình với bóng. Hôm nay con chỉ đi tìm mẹ có một mình, không thấy bóng của hai đứa nó thì mẹ biết ngay là chúng phải ở nhà tiếp người thân rồi. Có thế thôi, phải không ?

Dương Qua xưa nay vẫn tự cho mình là lanh lẹ thông minh hơn người, hôm nay thấy Hoàng Dung nhận xét và quyết đoán công việc mau lẹ và chính xác như thế thì chàng phục bà hết sức và công nhận Hoàng Dung còn thông minh hơn mình một bậc xa.

Hoàng Dung nhìn Quách Phù tười cười bảo :

- Phù nhi ! Mẹ mừng cho con sắp học thêm được một môn võ công thượng thặng đấy nhé!

Quách Phù ngạc nhiên hỏi mẹ :

- Võ công nào mà thượng thặng hả mẹ ?

Hoàng Dung chưa kịp đáp thì Dương Qua đã buột miệng nói hớt :

- Thuật "Nhất dương chỉ" !

Quách Phù càng thêm lạ lùng hơn, bỡ ngỡ hỏi nữa :

- Anh bảo sao, em chưa hiểu ? Mẹ ơi, anh Dương Qua vừa bảo thuật gì nghe lạ quá hả mẹ?

Hoàng Dung mỉm cười nói :

- Anh Dương Qua con đã hiểu rõ, con cứ hỏi thêm, anh ấy sẽ nói thêm cho mà nghe !

Quách Phù phụng phịu nói tiếp :

- Mẹ lừa con rồi .Có lẽ mẹ đã bày cho anh ấy biết trước rồi phải không ?

Nghe câu nói quá ngây thơ, cả Hoàng Dung và Dương Qua đều cười tủm tỉm nhưng không nói gì cả.

Trong khi ấy, Hoàng Dung chợt nghĩ :

- Dương Qua là đứa thông minh tài trí, lanh lẹ tuyệt vời. Anh em nhà họ Võ làm sao bì kịp hắn. Còn Quách Phù thì trẻ con và hời hợt quá, co biết gì đâu. Thuật "Nhất Dương chỉ" là một môn công phu tuyệt đỉnh của Nhất Đăng đại sư tức là Đoàn Nam Đế luyện thành công. Quách Tỉnh tuy cũng được học qua nhưng do một người khác chỉ dạy lại chứ không phải là do chính Nhất Đăng đại sư đích thân chân truyền, kể ra cũng uổng. Ngày nay , hai vị sư thúc bá của anh em họ Võ tới thăm, thế nào cũng nghĩ xót tình hai cháu mồ côi mồ cút mà truyền lại thuật này cho. Tuy nhiên, hai đứa ấy tài nghệ trí óc quá nông cạn, làm sao thụ huấn được cho nổi, kể ra cũng đáng tiếc.

Trong khi Hoàng Dung đang phân vân suy nghĩ về vấn đề này Quách Phù thắc mắc trong bụng :

- Mẹ ta có thuật hay như vậy mà không truyền dạy cho ta, lại đi dạy cho anh Dương Qua là nghĩa lý gì nhỉ ?

Nguyên Nhất Đăng đại sư , tức Đoàn Chấn Hưng - Đoàn Nam Đế, một trong ngũ bá võ lâm ngày trước , có cả thảy bốn đại đồ đệ là Ngư , Tiều, Canh,Độc. Sau này Võ Tam Thông , cha của hai anh em họ Võ được đứng vào hàng đệ tử thứ năm của người.

Võ Tam Thông giao đấu cùng Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Thu bị trọng thương, sau đó mất tích giang hồ, chưa biết lưu lạc về đâu, đã chết hay còn sống ?

Trước kia, trong lúc Hoàng Dung được Quách Tỉnh cõng lên núi Đào nguyên cầu Nhất Đăng đại sư chữa bệnh, có gặp bốn người Ngư , Tiều ,Canh ,Độc , đấu võ và đấu trí cả bốn người đều thua cặp Quách Hoàng. Hôm nay, trong bốn vị có hai người là Tiều và Độc đến phó hội dự "Anh hùng yến" , còn Ngư, Canh có lẽ ở nhà bế môn dạy anh em họ Võ thuật "Nhất dương chỉ".

Qua ngày hôm sau, khi ăn cơm trưa xong, tất thảy mọi người trong Cái Bang đều tụ hội tại một khu rừng rộng lớn phía bên ngoài, cạnh Lục gia trang để chuẩn bị dự lễ.

Lễ bàn giao giữa nhị vị Tân và Cựu bang chủ là nghi lễ quan trọng bậc nhất của Cái Bang, cho nên tất cả các trưởng lão và bang chúng bị gậy ở khắp nơi, dù là phương nào cũng đều về tụ hội đủ mặt. Riêng anh hùng hào kiệt võ lâm cũng nghe tiếng và được giấy mời về tham dự. Tất cả các võ phái quan trọng đều cử người đại diện về.

Suốt mười năm qua, Hoàng Dung bận công việc riêng trên Đào Hoa đảo , giao cho Lỗ Hữu Cước xử lý thường vụ công việc trong Cái Bang. Vốn là công minh chính trực nên Lỗ Hữu Cước được toàn thể bang chúng kính nể và cả hai phe "áo bẩn" và "áo sạch" đều thảy kiêu vì. Nhờ vậy mà uy tín ông đã tăng nhiều, và công việc trong phát triển khả quan lắm.

Lễ bàn giao hôm nay là một dịp để hợp pháp hoá nhiệm vụ mà Lỗ Hữu Cước đảm nhận từ lâu để điều khiển Cái Bang với danh chính ngôn thuận. Vì vậy nên cần phải tổ chức lại thật trọng thể và đúng theo nghi thức của Cái Bang xưa nay.

Sau khi Hoàng Dung tuyên bố trước mọi người quy luật của Cái Bang xong, tự tay mình trao cho Lỗ Hữu Cước cây "đả cẩu bổng" do các vị Bang chủ đã lưu truyền hàng trăm năm nay để làm bảo vật trấn bang, và lưu truyền mãi mãi từ vị Bang chủ này đến vị Bang chủ khác.

Sau khi nghe tuyên bố nội quy xong, tất cả mọi người xúm lại khạc đờm nhổ vào người, đầu, mình của vị Tân Bang chủ. Khi nào khắp người của Bang chủ đã dính đầy đờm dãi, chừng ấy mới chính thức xem như đã cáo thành.

Dương Qua đứng ngoài nãy giờ theo dõi những thủ tục vô cùng kỳ dị của Cái Bang, chàng cảm thấy buồn cười nhưng chàng cố gắng bấm bụng chịu đựng không dám cười ra tiếng sợ mang tiếng thất lễ với bề trên. Tuy nhiên, chàng nghĩ :

- Có lẽ bao nhiêu đệ tử Cái Bang phải nhổ vào mặt vị chúa tể của mình để nhắc nhở vị ăn mày chúa lúc nào cầm cân nảy mực cũng phải đúng mực công bằng. Làm lớn phải nghĩ đến con em, đừng giành riêng phần mình no đủ. Ngay bây giờ họ phỉ nhổ trước rồi mới hoan hô sau, làm như thế thì việc hoan hô càng tăng thêm giá trị. Sau này nếu gặp một Bang chủ tham lam, gian lận thì cũng đã phỉ nhổ xong rồi, phải chịu vậy chứ sao?

Trong lúc đang mải mê suy nghiệm ngấm ngầm về cổ tục trong nghi lễ Tấn phong Bang chủ Cái Bang, Dương Qua muốn đem chuyện cựu Bang chủ Hồng Thất Công đã qua đời loan báo cho mọi người biết thì thình lình có một người đứng tuổi, có lẽ cũng thuộc hàng chức sắc cao cấp trong Cái Bang , tung mình nhảy lên một tảng đá cao, tay cầm một cái hồ lô màu đỏ đưa cao lên cho mọi người xem.

Dương Qua ngạc nhiên hết sức khi vừa trông thấy chiếc hồ lô này. Vì quả là chiếc hồ lô do Hồng Thất Công dùng để đựng rượu luôn luôn mang theo mình từ trước đến nay và cũng là vật báu di truyền từ đời Bang chủ này sang đời Bang chủ khác.

Chàng quá ngạc nhiên tự hỏi :

- Ô kìa , sao lạ quá vậy nhỉ ? Khi mình gặp Hồng lão tiền bối trên đỉnh Hoa Sơn thì rõ ràng là ông có mang theo cái Hồ Lô đỏ nọ toòng teng bên hông, Sau khi ông thất lộc , chính tay mình đã mai táng thi hài ông và cũng chính tay mình đã đem vùi cái Hồ Lô này bên huyệt. Tại sao hôm nay Hồ Lô lại rơi vào tay cái anh chàng kia thì cũng lạ thiệt ! Chẳng lẽ trên đời này lại có hai cái Hồ Lô giống nhau như đúc sao ?

Chàng cứ suy nghĩ mông lung, tinh thần rối loạn, chưa biết hư thiệt ra sao , bỗng nghe tiếng hoan hô vang dậy náo động cả khu rừng , nghe như tiếng sấm động.

Lão ăn mày này chờ cho tiếng vỗ tay và hoan hô lắng xuống mới lớn tiếng nói :

- Lão Bang chủ Hồng đại gia truyền lệnh cho tôi đến gặp các bạn hôm nay để truyền lại cho Lỗ Bang chủ.

Rừng người lại hoan hô náo động một lần nữa và lần này thì kéo dài như vô tận.

Nguyên nhân, toàn thể đệ tử Cái Bang ai nấy đều kính mến Hồng Thất Công, xem lão như vị cha già, nhưng suốt mười năm qua, Hồng Thất Công đi đâu biệt tích, không ai được gặp nên ngày nay nghe tin về Hồng Thất Công thì ai nấy đều hết sức vui mừng, xem như một tin đại hỷ.

Bỗng từ trong rừng có một ngừoi lớn tiếng nói :

- Toàn thể đệ tử Cái Bang thành tâm cầu chúc cho Hồng Bang chủ trường thọ , luôn luôn mạnh khoẻ !

Tiếng hoan hô và vỗ tay lại nổi lên ầm ầm như sấm đông lần nữa.

Suốt đời Hồng Thất Công luôn giữ được tấm lòng nghĩa hiệp can trường, xứng danh trang anh hùng hào kiệt đầu đội trời, chân đạp đất, khiến cho bao nhiêu anh hùng hảo hán dù hắc hay bạch đạo đều hết thảy kính ngưỡng, khâm phục tài đức của ông. Còn bao nhiêu vạn bang chúng trong làng bị gậy thì ai ai cũng xem ông như cha.

Tiếng hoan hô hoà lẫn với những tràng vỗ tay như pháo xuân cứ kéo dài luôn mấy khắc , âm thanh vang đi xa mấy dặm. Dương Qua để ý nhìn kỹ, thấy có nhiều kẻ vì quá cảm động mừng rỡ mà chảy cả nước mắt.

Thấy ai ai cũng hân hoan tin tưởng là vị chúa tể thân yêu hãy còn sống khoẻ mạnh, Dương Qua không tiện đem chuyện ông đã chết nói ra lúc này, vi sợ gieo sự đau buồn cho mọi người và có thể người ta sẽ không thèm nghe mình là khác.

Đang phân vân suy nghĩ, bỗng lão ăn mày vừa rồi la lớn tiếp :

- Trước đây ba hôm, tôi đã có dịp được bái yết Hồng lão bang chủ tại quận Long câu...

Dương Qua ngạc nhiên quá sức, nghĩ thầm :

- Lạ thật ! Rõ ràng Hồng Thất Công đã chết và do tay mình chôn cất trên đỉnh Hoa Sơn. Thế tại sao người này lại quả quyết là mới tiếp kiến người cách đây ba hôm thôi ?

Nỗi thắc mắc cứ vương vấn mãi chưa tìm ra manh mối. Dương Qua vẫn đang ngẩn người suy nghĩ thì lão ăn mày lại nói tiếp :

- Hồng lão bang chủ cũng biết rõ ngày hôm nay Hoàng Bang chủ làm lễ trao lại quyền bang chủ cho Lỗ trưởng lão và được toàn thể mọi người trong bang đồng ý tấn phong Bang chủ. Người có bảo cũng tại hạ rằng người cũng rất tán thành và hoàn toàn tín nhiệm Lỗ trưởng lão.

Nghe tới đây, Lỗ Bang chủ vội vàng quỳ sụp xuống đất khấu đầu nói lớn :

- Được Hồng Bang chủ có lòng xót thương , đệ tử nguyện xả thân hy sinh vì lợi ích chung cho Bang ta, dù phải nhảy vào lửa đỏ dầu sôi cũng không dám nề hà.

Thấy Lỗ hữu Cước tân Bang chủ Cái Bang quỳ thưa, người ăn mày nhắm mình thân phận thấp hèn, không biết nói năng sao cho phải lễ và khỏi mang tiếng là phạm thượng, nên vội vàng đưa tay lúc lắc chiếc Hồ Lô đỏ , biểu hiện của Hồng Thất Công.

Lỗ Hữu Cước kính cẩn nhắm chiếc hồ lô lạy luôn mấy lạy.

Người ăn mày dõng dạc nói thêm , giọng sang sảng :

- Hồng lão bang chủ có dạy rằng :" Quốc gia xã tắc đang lâm cảnh loạn ly, thiên hạ đang lầm thân vì quan tham vô lại và nạn ngoại xâm. Giặc Mông Cổ đang đặt gót sắt lên đất nước theo kiểu "tằm ăn rỗi" với ý đồ thôn tính toàn bộ giang sơn Đại Tống trong một thời gian ngắn gần đây. Vậy tất cả các đệ tử Cái Bang , từ trên xuống dưới phải dốc lòng hiệp nghĩa, đem gan óc đền nợ núi sông, chúng ta phải hy sinh xương máu chống giặc đến giọt máu cuối cùng.

Cả rừng người đồng thanh hô lớn :

- Đệ tử xin tuân lệnh, tuân lệnh ...

Người ăn mày già nói tiếp :

- Hiện nay triều chánh đang mục nát thối tha, , bao nhiêu quyền hành quốc gia đều nằm trong tay bọn mua quan bán tước. Chúng ta cần phải tiêu diệt trước bọn này để tẩy uế cho dân tộc, tránh cho đại chúng khỏi một cái ách bên trong rồi mới phấn khởi chống với cái nạn bên ngoài.Chúng ta trừ được nạn ô quan vô lại thì dân chúng mới tin tưởng và quên mình trả nợ nước. Ngày nay, lão Bang chủ đang dầm sương gội gió nơi miền cực Bắc để lo cho hoàn thành một sứ mạng vô cùng trọng đại. Vì vậy người không tiện về đây để chứng kiến và họp mặt cùng anh em được. Người sai tôi vượt ngàn dặm về đây cùng anh em và dặn tôi truyền đạt lại cho mọi người phải luôn luôn ghi tạc trong tâm hai chữ "Trung nghĩa" để bồi đắp mối nợ ấy của dân tộc, của quốc gia.

Người ấy nói vừa dứt câu thì rừng người lại hô lớn :

- Xin tuân lệnh Hồng Bang chủ, Hồng Bang chủ muôn năm...

Trước lòng nhiệt thành của hàng vạn bang chúng Cái Bang , triệt để tin tưởng vào mệnh lệnh của một vị Bang chủ, Dương Qua chạnh lòng suy nghĩ :

- Từ nhỏ mình không được học văn chương, chữ nghĩa nên chẳng quán thông cho hết ý nghĩa tốt đẹp của hai chữ trung, nghĩa ? Tuy nhiên, cứ nhìn hàng vạn người trong Cái Bang , tuy khoác chiếc áo ăn xin, tay gậy vai bị nhưng trong tâm hồn chất chứa đầy những chính khí thật đáng khâm phục. Thế mà xưa kia vì không hiểu rõ mục đích tôn chỉ của Cái Bang, mình đã nhiều lần đùa cợt với đệ tử của Cái Bang, quả thật là không phải.

Vừa hối hận với những việc mình đã làm khi trước, Dương Qua chợt nghĩ lại câu chuyện thắc mắc :

- Lạ quá, chính tay mình đã an táng thi hài Hồng Thất Công lão tiền bối. Tạo sao lão ăn mày này lại dám quả quyết rằng lão vừa yết kiến Hồng Thất Công trước đây ba bữa ? Bảo rằng lão mạo lệnh của Hồng Thất Công thì cũng không đúng. Vì hiệu lệnh toàn những lời nghĩa khí chính đại quang minh, không có ẩn ý gì vụ lợi hay hại ai cả . Nếu là kẻ tầm thường nhất định không thể nào thốt lên được bao nhiêu lời vang ngọc như thế được.

Trong lòng cứ băn khoăn ngờ vực không yên, cuối cùng Dương Qua nghĩ tới biện pháp chót :

- Để rồi ta hỏi lại Hoàng Dung Bang chủ vậy. Chắc là bà có ý kiến hay và đúng đắn !

Vì là việc của Cái Bang cho nên những người ngoài cuộc không ai muốn xen vào bàn cãi hay góp ý. Vì vậy, sau khi lễ tấn phong kết thúc, các anh hùng hảo hán đều cáo từ ra về.

Khi ấy , bóng chiều cũng dần dần phủ xuống non sông. Hồi chuông công phu vang lên trong bầu không khí, từ ngồi chùa cổ vọng ra, dội tận mé núi xa xa. Đoàn thợ rừng nghe tiếng chuông vội vàng thu xếp dụng cụ ra về. Những nông dân đang làm rẫy cũng ngước mắt nhìn ánh tà dương rồi ung dung về nhà. Chim rừng đã ríu rít gọi nhau về tổ.

Từng đàn chim lớn đậu đĩnh đạc trên ngọn cây cổ thụ đứng sừng sững trên khu rừng, đưa mắt nhìn từng đàn chim bé nhỏ đang chíu chít xôn xao tìm chỗ ngủ.Từ đằng xa , nhiều tiếng cò đang vỗ cánh bay từng đàn vượt qua triền núi cao về nơi chân trời khuất trong những đám mây xám xịt.

Nhìn những con chim bé nhỏ đang tìm chốn ngủ, Dương Qua nổi nóng bảo thầm trong bụng :

- Cây rừng đất núi đâu phải là dành riêng cho chúng bây mà chúng bây lại ỷ mạnh hiếp yếu, hiếp đáp bầy chim non như vậy. Ta phải cho bây biết mùi kẻ mạnh để chừa bớt thói bắt nạt kẻ yếu hơn.

Nghĩ xong, chàng cúi xuống toan lượm mấy viên sỏi giết chết bầy chim này, nhưng chàng chợt nghĩ lại :

- ấy chết, sao ta lại ác như vậy ? Sách thánh hiền đã dạy :" Làm ác gặp ác, làm thiện gặp thiện" ,. Hoá công đã sanh có chim nhỏ và bầy chim lớn chắc có định sẵn một quy luật sinh sống cho bọn chúng rồi, hơi đâu mà lo cho mệt xác. Ta ném bọn chim to, nhưng biết đâu bứt dây động rừng, nắm sỏi ném ra có thể gây náo loạn trong khu rừng này khiến bầy chim non thêm sợ hãi bay toán loạn để tối nay không có chỗ ngủ cũng tội. Thôi thây kệ chúng vậy. Bọn ác điểu sẽ có quyền hoá công xử phạt...

Màn đêm dần dần bao bọc khắp đó đây. Dương Qua thơ thẩn bước ra về vừa tới trước cổng trang viện nhà họ Lục

Chàng đưa mắt nhìn qua, thấy từ bên trong ra tới tận cổng, đâu đâu cũng có treo đèn kết hoa vô cùng lộng lẫy, chắc có lẽ đang có đại yến chi đây ?

Từ toà đại sảnh lớn giữa trang viện cho tới phía sau , hai bên tả hữu bàn ghế sắp la liệt . Trên những dãy bàn dài thẳng tắp có sắp sẵn hơn hai trăm thôi, mỗi thôi có mười người ngồi, để tiếp đãi anh hùng hào kiệt khắp bốn phương.

Dương Qua suy nghĩ :

- Từ trong đến ngoài, quá nửa là tân khách từ phương xa về dự. Bình sinh ta chưa khi nào gặp được một buổi đại tiệc vĩ đại và sang trọng như thế này ! Chủ nhân ngoài là một đại cự phú, tất nhiên còn phải là một tay trọng nghĩa khinh tài, nức tiếng giang hồ, được nhiều người ngưỡng mộ, cho nên ngày nay mới mời được quá đông người hưởng ứng như thế này !

Trong lúc này vợ chồng Quách Tỉnh, Hoàng Dung và con gái Quách Phù đang bận rộn tiếp khách nơi đại sảnh.

Hoàng Dung chỉ cho Dương Qua một chỗ ngồi ngay bên cạnh mình, còn Quách Phù và hai anh em họ Võ lại để ngồi ở một bàn khác cách bà khá xa .

Thấy Dương Qua được mẫu thân ưu đãi, Quách Phù thắc mắc trong bụng :

- Thằng ngốc Dương Qua không biết qua chút võ nghệ nào, chẳng hiểu vì sao mẫu thân lại trọng đãi nó, đưa nó lên ngồi chiếu trên trong đại yến dành riêng cho các bậc anh hùng hảo hán trong võ lâm như vậy nhỉ ?

Nhưng nàng bỗng nghĩ thêm:

- Hay là phụ thân có ý định đem mình gả cho chàng, nên mẫu thân mới đặc biệt đãi chàng như vậy chăng ? Như thế thì mẫu thân cũng ưng thuận rồi sao ?

Xưa nay Quách Phù vốn được cha mẹ nuông chiều đã quen . Ngày nay thấy Dương Qua đã chiếm mất sự ưu ái đó , trong bụng bỗng dưng sang tự ái, bực dọc. Khi thấy Hoàng Dung vỗ vai Dương Qua nói chuyện ra vẻ thân mật , hình như coi chàng là con đẻ, chính nàng xưa nay cũng chưa bao giờ được hưởng những cử chỉ đó, Quách Phù thấy sự căm tức tràn lên tận cổ, suy nghĩ :

- Phụ thân chỉ nói sơ như vậy mà mẫu thân đã vội thương nó ngay mà chẳng thèm nói với mình một tiếng .Đã vậy, ta quyết phá đám cho vui.

Bũng nghĩ như vậy, nét giận đã lộ ra trên đôi mắt. Nàng cứ nhìn trừng trừng về phía Dương Qua.

Thấy thái độ của Quách Phù như vậy, Võ Tu Văn mừng rỡ như bắt được báu vật, thừa dịp mở đường nói khích :

- Này Quách muội, hãy nhìn xem cái thằng nhãi con họ Dương kia kìa . Hắn là hạng nào, tài nghệ đáng bao nhiêu mà dám ngất ngưởng ngồi ngay tại chiếu trên dành cho các bậc anh hùng hào kiệt đương thời ?

Như được gãi đúng chỗ ngứa, Quách Phù vội phụ hoạ theo liền :

- ừ ! Quả thật tức muốn chết lên được. Anh có cách gì làm nhục hay tống cổ hắn đi cho khuất mắt không ?

Từ lúc nấp trên cây cao nghe trộm , biết Quách Tỉnh định đem Quách Phù gả cho Dương Qua, thì hai anh em họ Võ vô cùng bực tức và đã nuôi lòng ganh ghét Dương Qua từ lúc ấy. Từ chỗ ganh tỵ đến chỗ căm thù , xem nhau như tình địch có bao xa ?

Vừa nghe Quách Phù nói tỏ ý bực tức Dương Qua và yêu cầu như vậy, Võ Tu Văn nghĩ :

- Ta cũng nên thừa dịp này làm vừa lòng Quách Phù, cho tên Dương Qua này nhục một phen cho bõ ghét. Một khi hắn đã bị công khai bêu xấu giữa công chúng thì còn khi nào dám nhận làm rể quý của gia đình này nữa chứ ? Quách sư mẫu xưa nay chỉ thích và trọng những ai có võ công cao cường và nhiều tinh thần mã thượng mà thôi .

Nhân vừa học được một chút ít về thuật Nhất Dương chỉ, Võ Tu Văn muốn đem ra thi thố xem sao, trước để cho Quách Phù phục mình, sau làm đẹp lòng Sư bá đã có lòng rèn luyện cho mình.

Nghĩ thế nên Võ Tu Văn đáp ngay :

- Bất tài mà dám tự xưng anh hùng thì cũng đáng tống đi cho khuất mắt. Nếu không sẽ có ảnh hưởng không tốt đến bọn ta. Tôi đã có cách đối phó với hắn.

Nói xong, Võ Tu Văn rót đầy một ly rượu đứng dậy hăm hở bước lại cạnh Dương Qua tươi cười mời :

- Dương đại ca ! Em có ly rượu, xin chúc mừng anh đây !

Dương Qua vốn bản chất thông minh tuyệt vời, Võ Tu Văn không thể nào so sánh kịp. Nay tự nhiên thấy Võ Tu Văn đem rượu đến ân cần mời mọc, chàng đã có ý nghi ngờ. Hơn nữa, mắt Võ Tu Văn luôn liếc về phía Quách Phù, nên Dương Qua đoán việc này thế nào cũng có ác ý và bọn này dự mưu định hãm hại mình rồi !

Tuy trong lòng nghi ngờ ly rượu có bỏ độc nhưng Dương Qua vẫn tươi cười đứng lên tiếp lấy uống một hơi cạn ráo .

Võ Tu Văn thừa lúc Dương Qua đang uống, lén điểm ngay vào huyệt "Tiếu yêu" phía sau lưng chàng.

Nếu người thường mà bị điểm vào huyệt này thì tất nhiên sẽ nổi lên cười lăn cười lóc, cười hoài không thể nào ngưng được cho đến khi ra nước mắt và ngất xỉu mà thôi. Võ Tu Văn muốn điểm huyệt này để khiến Dương Qua cười hoài ngay giữa bữa tiệc, gây sự vô lễ trước mặt các vị anh hùng làm mất mặt Hoàng Dung, thì cố nhiên là sẽ mất vợ. Chừng ấy Quách Phù nhất định phải thuộc về mình.

Nhưng cách dự liệu này làm sao qua được con mắt tinh tế của Dương Qua. Chàng đã khám phá ra và lưu ý theo dõi từng cử chỉ nhỏ của Võ Tu Văn ngay từ lúc đầu rồi.

Nếu là một kẻ khác, hay trong một dịp nào không có mặt đông đủ quần hùng thì Dương Qua đã trả đũa lại ngay. Nhưng nơi đây thấy rằng dù sao mình cũng không nên gây rối loạn làm phiền lòng Quách bá mẫu, huống chi Võ Tu Văn là học trò của hai vị, dù ghét đệ tử thì cũng nên nghĩ đến thầy. Vì vậy nên chàng điềm nhiên như không hề hay biết, chỉ dùng phép nghịch chuyển các huyệt đạo mạch máu trong thân thể theo phương pháp mà dưỡng phụ Âu Dương Phong đã truyền thụ cho khi trước. Nhờ phương pháp này nên cho dù Võ Tu Văn có điểm trúng huyệt đạo "Tiếu yêu" thì chàng vẫn không bị ảnh hưởng gì hết.

Đây là một thuật đặc biệt do Âu Dương Phong sáng tạo ra, khiến cho thần kinh và mạch máu trong cơ thể nghịch chuyển và làm cho tất cả các yếu huyệt trong châu thân thay đổi phương vị. Vì trong trường hợp này, Dương Qua không thể chổng chân lên trời , chúc đầu xuống đất nên không lâu sau bao nhiêu mạch máu lại vận chuyển lại bình thường và các huyệt đạo lại trở lại vị trí cũ.

Võ Tu Văn điểm mạnh vào đúng ngay huyệt Tiếu yêu của Dương Qua , nhưng Dương Qua chỉ cười khẽ một tiếng rồi điềm nhiên ngồi yên như cũ, không có tác dụng nào khác nữa, nên trong lòng ngạc nhiên hết sức. Võ Tu Văn lẳng lặng trở về chỗ ngồi nói nhỏ cùng Võ Đôn Nho :

- Thuật điểm huyệt Nhất Dương chỉ của sư bá dạy anh em mình không có hiệu lực gì cả. Em đã điểm hắn trúng ngay huyệt đạo mà hắn vẫn không sao cả .

Võ Đôn Nho hỏi lại :

- Tại sao, chắc là vì lối dạy không hiệu nghiệm chăng ?

Võ Tu Văn đem việc mình vừa ngấm ngầm điểm huyệt Dương Qua mà kể đầu đuôi lại.

Võ Đôn Nho mỉm cười chưa đáp, Quách Phù đã bĩu môi nói :

- Tôi xem cái thuật Nhất Dương chỉ chẳng có gì đặc biệt, chỉ khiến cho thiên hạ buồn cười mà thôi, đừng thi thố làm gì cho xấu mặt !

Võ Đôn Nho tức ứa gan, nhưng không nói gì, lẳng lặng rót một ly rượu đầy, bưng lại trước mặt Dương Qua lễ phép nói :

- Kính thưa Dương đại ca, anh em chúng ta xa cách lâu ngày nay được gặp lại, không biết lấy gì, chỉ xin lấy chén rượu mừng đại ca lấy thảo. Xin chớ chối từ !

Dương Qua nghĩ bụng :

- A ! Té ra thằng em không làm gì được, bây giờ tới phiên thằng anh tới quyết hạ độc thủ đây mà. Bọn bay chỉ là bọn giá áo túi cơm, muốn hại ta thế nào nổi. Tài nghệ ngươi cũng như thằng em người chứ có hơn chút nào đâu mà hòng ?...

Nghĩ thế , chàng đứng dậy, tay phải gắp một miếng thịt trâu thật lớn trên mâm, tay trái bưng ly rượu, tươi cười đáp :

- Đa tạ, đa tạ !

Xuất kỳ bất ý, Võ Đôn Nho dùng tay phải che rồi đưa tay trái điểm thật nhanh vào huyệt "tiếu yêu" trên lưng Dương Qua.

Lần này, Dương Qua không cần phải dùng thuật nghịch chuyển huyệt đạo, chỉ thò tay ra đằng sau đặt miếng thịt trâu ngay trên huyệt "tiếu yêu" của mình.

Ngay lúc đó, Võ Đôn Nho đưa tay điểm tới, xuyên mạnh qua miếng thịt trâu.

Dương Qua đặt đũa xuống bàn, cười hề hề nói :

- Uống cạn ly này rồi được tặng miếng thịt trâu để nhắm thì còn gì thú vị bằng . Hì hì ...

Võ Đôn Nho rụt tay về , dính luôn cả miếng thịt trâu thui trên đầu ngón tay, máu chảy nhểu xuống đất từng giọt. Võ Đôn Nho luống cuống, bỏ ra thì chứớng, nắm lại thì càng xấu mặt hơn, nên chàng ta đứng sững sờ một lúc rồi đoạn lườm Dương Qua một cái rồi nắm luôn cả miếng thịt lầm lũi bước về chỗ cũ.

Quách Phù thấy Võ Đôn Nho cầm cả miếng thịt trâu to tướng còn dính đầy máu đem về thì ngạc nhiên lắm, vội hỏi :

- ủa ! tại sao vậy ? Bàn này thiếu gì thịt trâu mà phải lấy trộm nơi khác mang về =, không sợ thiên hạ cười cho hay sao ? Anh cũng nên nhớ hôm nay là ngày đãi tiệc anh hùng trong thiên hạ, làm như vậy không thấy thẹn với người ta hay sao ?

Võ Đôn Nho thẹn quá đỏ mặt, chỉ cúi xuống, không biết đối đáp ra sao.....

Trong lúc Võ Đôn Nho đang lúng túng chưa biết gỡ gạc ra sao thì một cụ già đi rót rượu từng bàn và mời từng tân khách. Cụ già ấy chính là Lỗ Hữu Cước , tân Bang chủ Cái Bang.

Sau khi rót rượu giáp vòng đủ cả các tân khách , Lỗ Hữu Cước trịnh trọng cất giọng nói sang sảng :

- Xin liệt vị tân khách vui lòng giữ yên lặng cho lão thưa qua một việc .... Vị chúa tể Cái Bang là Hồng Thất Công lão bang chủ có truyền lại một điều : Hiện nay quân Mông Cổ từ phương Bắc đang xâm lấn nước nhà. Phàm là công dân đất nước, trong lúc nước nhà gặp cơn nguy biến , bất luận già trẻ gái trai, ai ai cũng phải đem hết tài lực ra chặn đứng làn sóng ngoại xâm, quyết đem cái chết đáp đền nợ nước. Dám chắc bao nhiêu anh hùng liệt vị có mặt trong đại yến hôm nay người nào cũng nghĩ đến hai chữ "trung, nghĩa" làm đầu. Vì vậy, chúng tôi mong muốn quý vị ai có ý kiến nào hay có thể ngặn chặn được vết chân ngựa Hồ xâm lăng khỏi vượt qua sông tiến về phía Nam, để đem đến cái hoạ lớn khiến cho mọi người cõng vợ , bồng con đi chạy giặc thanh niên trai tráng chết la liệt ngoài đường như năm nào hồi đời Tỉnh Khang khi trước nữa.

Lời nói của Lỗ Hữu Cước vừa dứt, bỗng nhiều tiếng xôn xao của nhiều người muốn lên tiếng đáp một lúc, nghe không rõ ràng. Sau đó một người đứng dậy nói lớn :

- Chúng ta phải đồng tâm hiệp lực chống ngoại xâm, giữ gìn đất nước !

Hầu hết tân khách, ai ai cũng mang một bầu nhiệt huyết, lúc nào cũng có lòng thành với non sông, cho nên ai nấy đều nhận thấy cái họa Mông Cổ xâm lăng đất nước cũng giống như lửa cháy mày, đòi hỏi phải có sự đồng tâm nhất trí của anh hùng hào kiệt bốn phương để chống lại.

Một vị đầu bạc như tuyết, râu trắng như sương bước ngay ra giữa đại sảnh cất tiếng rổn rảng như chuông đồng, nói lớn :

- thưa liệt vị, phàm trời sinh rắn phải có đầu, binh phải có tướng, chúng ta dù có đông tới đâu nhưng không người điều khiển, lãnh đạo thì ai cũng như ai, mỗi người một ý , làm sao hiệp lực để hoàn thành việc lớn ? Liệt vị nghĩ vậy có phải không ?

Mọi người thét vang như sấm động :

- Hiện nay quần hùng chưa có người lãnh đạo, chúng tôi bằng lòng suy tôn lão trượng là người có tuổi tác đáng kính, nhận trọng trách lãnh đạo cho chúng tôi làm theo !

Ông lão cả cười đáp :

- Thân già này đã gần đất xa trời, không biết đến lúc nào chầu Diêm Vương, trí thiển tài hèn trong hành khất, làm sao có đủ tư cách đảm nhiệm trọng trách ấy. Ngày nay trong giới võ lâm giang hồ chỉ có bốn vị là Đông Tà, Tây Độc, Nam Đế, Bắc Cái là những bậc có võ công thượng thặng và Vương Trùng Dương là đệ nhất hào kiệt võ lâm e ra mới có đủ khả năng lãnh đạo công việc này. Hiện giờ Vương Trùng Dương đã sớm chầu trời, còn lại Đông tà, Tây Độc không phải là người trong phái chúng ta, còn Nam đế thì ở tận quốc gia Đại Lý quá xa vời. Như thế người có thể làm Minh chủ võ lâm chỉ còn lại có một mình Bắc Cái Hồng Thất Công là đáng mặt hơn cả .Xưa nay, Hồng Thất Công được các giới trong võ lâm sùng kính, mến chuộng, trọng vọng như Bắc đẩu, Thái Sơn và thảy toàn dân đều ngưỡng mộ.

Ngay lúc đó từ trong rừng người có tiếng nói :

- Hồng Bang chủ quả xứng mặt là lãnh tụ quần hùng, tuy nhiên, một mình người cũng chưa đủ. Chúng ta cần chọn một người tài đức gồm đủ để làm phó thủ lĩnh thì công việc lãnh đạo mới được hoàn thành.

Tiếng nói rổn rảng như tiếng chuông ngân, âm thanh như xói thủng màng tai, nhưng mọi người không thấy người đó đâu hết .

Mọi người đưa mắt nhìn về phía phát ra âm thanh tìm kiếm, mãi một hồi lâu mới tìm ra một vị thân hình lùn tịt, bị mọi người xung quanh che khuất nên mặc dù người đó đã nhón gót đứng dậy nhưng mọi người vẫn không trông thấy diện mạo được.

Có kẻ yêu cầu :

- Vị nào vừa phát biểu ý kiến , xin vui lòng xuất đầu lộ diện cho anh em nhìn thấy !

Từ đám đông, một người nhảy vút lên đứng trên mặt sàn giữa sảnh. Quần hùng nhìn thấy người đó trạc độ bốn mươi tuổi, thân hình thấp lùn, cao chỉ chừng mấy thước nhưng mặt mũi khôi ngô, đôi mắt sáng quắc như hai ngọn đèn.

Vừa trông thấy thân hình quá ư thấp bé, nhiều người đã cười khúc khích. Nhưng khi thấy người đó đưa đôi mắt sáng như điện loang loáng đảo khắp nơi, đầy vẻ hào khí , nên cảm thấy khiếp sợ, vội vàng nín miệng không dám cười nữa.

Một chập sau , ngưòi lùn nói :

- Mặc dù Hồng Thất Công lão tiền bối đạo đức cao thâm, bản lãnh hơn người , nhưng đã ngót mười năm qua, ngừoi không xuất đầu lộ diện . Nếu chúng ta bầu người làm Minh chủ thì ngay lúc này lấy ai đứng ra điều khiển quần hùng một cách thiết thực cho được ? Mặc dù chúng ta kính trọng, quý mến người nhưng việc làm cần thực tế mới được !

Ai nấy đều gật gù ngẫm nghĩ :

- Gã nói như vậy thật là có lý !

Người lùn nói tiếp :

- Công cuộc của chúng ta hiện nay dốc lòng tận trung báo quốc, đâu phải chuyện riêng tư của một người nào hay của một nhóm nào ? Chúng ta cần bầu một vị Minh chủ thứ hai, thay mặt Hồng Thất Công lão tiền bối điều hành đại cuộc chống ngoại xâm. Liệt vị nghĩ sao, xin cho biết ý kiến ?

Một tràng vỗ tay vang lên như sấm nổ, tán thành ý kiến đó.

Bây giờ bắt đầu mục đề cử.

Một người nói lớn :

- Tôi xin đề nghị đại hiệp Quách Tỉnh !

Một người khác cất tiếng theo :

- Tôi xin đề cử Lỗ Bang chủ !

Nhóm khác thét to :

- Xin bầu cho Lục Trang chủ là người xứng đáng hơn cả.

Từ phía trước lại nhao nhao lên :

- Chúng tôi xin đề cử Mã Giáo chủ Toàn Chân giáo. Nếu không thì xin bầu Bang chủ Thiết chưởng Bang làm đệ nhị Minh chủ võ lâm !

Mỗi người một tiếng, mỗi nhóm một ý, tiếng hò hét vang lên khắp nơi, vô cùng nhộn nhịp. Mãi một lúc sau, Quách Tỉnh phải chật vật lắm mới giữ được trật tự .

Mọi người đang phân vân chưa biết chọn người nào cho xứng đáng, bỗng từ bên ngoài, bốn lằn đen lướt vào như bốn luồng khói. Ai nấy cùng định nhãn nhìn kỹ thì thấy bốn ngừoi đó đang dùng thuật khinh công tiến vào phía sau đại sảnh. Người đi đầu là Hách Đại Thông, tiếp theo là Tôn Bất Nhị, kế tới là Triệu Chí Kính và sau cùng là Doãn Chí Bình.

Vừa thấy bốn người này trở lại, Dương Qua đã e ngại trong lòng không hiểu vì lý do gì .

Quách Tỉnh cùng Lục Quán Anh trang chủ cùng vội vàng bước ra niềm nở đón tiếp rồi ân cần đón tiếp vào trung quân, mời ngồi chiếu trên và nói :

- Khắp thiên hạ, ai ai cũng biết Toàn Chân giáo là Bắc đẩu võ lâm . Cho nên trong cuộc anh hùng đại yến hôm nay vắng mặt quý vị quả thật là một khiếm khuyết quá lớn. Chúng tôi đang âm thầm lo ngại và mong chờ. Không ngờ được liệt vị chiếu cố đến vừa đúng lúc quá. Thật là vạn hạnh.

Hách Đại Thông ghé vào tai Quách Tỉnh nói nhỏ :

- Vì có bọn kình địch sắp lại đây phá rối nên chúng tôi tới trước báo tin cùng đại hiệp biết để chuẩn bị đối phó. Vậy đại hiệp nên thu xếp đề phòng ngay bây giờ là vừa.

Quách Tỉnh nghe xong nghĩ bụng :

- Quảng Ninh tử Hách Đại Thông là một kiếm khách lỗi lạc trên giang hồ, trong võ lâm ai nấy đều kính nể. Nay người đích thân đến đây báo cho ta biết tin này, tất nhiên kẻ địch phải là hạng người đáng ngại lắm !

Nghĩ vậy, Quách Tỉnh hỏi :

- Thưa , có phải là Tây Độc Âu Dương Phong hay không ?

Hách Đại Thông đáp :

- Không phải ! Chính là bọn Mông Cổ. Chúng tôi đã cùng chúng đối địch mấy lần rồi !

Thấy không phải là Âu Dương Phong, Quách Tỉnh cảm thấy yên dạ được phần nào và suy nghĩ thêm :

- Nếu vậy có lẽ là bọn Hoắc Đô Vương tử . Và chắc cũng chỉ có nó mà thôi !

Quách Tỉnh định hỏi lại Hách Đại Thông xem có phải là đúng như lời mình đoán hay không . Hách Đại Thông chưa kịp trả lời thì bỗng từ bên ngoài đã có tiếng tù và rúc lên từng hồi liên tiếp , rồi kế theo đó là tiếng trống, thanh la và cả đàn sáo lẫn lộn. Cảnh tượng Lục gia trang trở nên xao xuyến hỗn độn hơn trước rất nhiều.

Lục Quán Anh đứng lên nhắc mọi người :

- Có quý khách sắp tới ! Xin quý vị chuẩn bị đón tiếp .

Nói vừa dứt lời , đã có trên hai chục người nhảy vào đại sảnh .

Quần hùng đang mải mê nói chuyện, bỗng thấy nhóm người lạ mặt xuất hiện quá đột ngột , ai nấy đều ngạc nhiên và đoán có lẽ là những người được mời dự Anh hùng yến nhưng đến muộn.

Toàn thể quan khách có ý thử nhìn xem có ai quen biết hay không. Nhưng một chập sau vẫn không nhận thấy kẻ nào quen thuộc.

Vì vậy nên quần hùng không để ý nữa .

Quách Tỉnh ghé tai Hoàng Dung bảo nhỏ :

- Bọn mới vào, ngừoi nào cũng có vẻ hiên ngang ngạo ngược. Chúng ta cần lưu tâm phòng bị mới được.

Dặn xong, hai người cũng chạy ra đón tiếp ....

Quách Tỉnh nhận thấy người đi đầu mặt mũi sáng sủa, khôi ngô, mình mặc áo cẩm bào màu đỏ, đầu đội mão có đính Kim hoa. Kẻ ấy không ai xa lạ, chính là Hoắc Đô Vương tử , một người trong Hoàng tộc Mông Cổ . Đi kèm theo là một người thân hình mảnh khảnh nhưng khoẻ mạnh, một vị chưởng giáo phái Mật Tông ở bên Tây Tạng tên Đạt Nhĩ Ma.

Quách Tỉnh đã chạm trán cùng hai người này tại Trùng Dương Cung ngày trước cho nên về mặt võ nghệ cũng không thấy gì đáng ngại.

Đi cạnh hai người này lại có một vị tăng, vừa gầy, vừa cao, đầu đội nón "tu lờ" , mặc áo bào đỏ thẫm, trán rộng, bóng nhoáng và nhô lên trông rất dữ tợn.

Quan sát xong, Quách Tỉnh và Hoàng Dung cùng suy nghĩ :

- Xưa kia, có lần được nghe Hoàng Dược Sư kể lại bên Tây Tạng có một phái Mật tông có võ công rất cao kỳ tinh diệu, vì phải luyện tập rất công phu. Nếu họ là những người này thì cũng đáng lo cho mình đấy !

Bụng nghĩ như vậy, nhưng hai người vẫn điềm nhiên cúi đầu thi lễ :

- Hôm nay được liệt vị chiếu cố tới đây, chúng tôi vô cùng hân hạnh. Vậy kính thỉnh liệt vị vào trong mời ngồi chiếu trên để tỏ lòng ngưỡng mộ.

Lục Quán Anh đưa tay ra hiệu, bọn tráng đinh vội vàng thay chén đũa và dọn tiệc mới.

Anh em Võ Đôn Nho và Võ Tu Văn lúc ấy cũng theo sư phụ và sư mẫu ra đón khách. Võ Tu Văn lanh chân lẹ miệng nên hối thúc bọn tráng đinh kê bàn dọn chén rất mau, không bao lâu tiệc đã bày xong tươm tất, mời tân khách vào an toạ.

Quách Phù nhìn lại thấy Dương Qua vẫn ngồi yên chỗ cũ thì nghĩ thầm :

- Ngươi sao không biết thân phận, cứ ngồi chỗ này hoài trông chướng mắt quá chừng ! Mi mà cũng xưng anh hùng hảo hán ư ? Hoạ chăng bao nhiêu anh hùng hảo hớn trên thiên hạ này chết hết rồi mới tới phiên mi được gọi là anh hùng !

Nàng đưa mắt liếc nhìn Võ Tu Văn rồi lại nhìn Dương Qua nguýt một cái , bĩu môi ra vẻ khinh bỉ .

Võ Tu Văn biết ý, và muốn được lòng ý trung nhân nên chạy lại cạnh Dương Qua nói :

- Dương đại ca, đây không phải là chỗ dành cho anh ngồi đâu !

Nói dứt lời, chẳng đợi Dương Qua cho biết ý kiến, Võ Tu Văn ra lệnh cho gia đinh dọn chén đũa của Dương Qua xếp vào xó nhà.

Dương Qua giận sôi lên trong lòng, nhưng cũng cố nén nhịn và chỉ cười nhạt, không nói gì hết.

Vừa lúc đó, tại tiệc giữa, Hoắc Đô Vương tử chắp tay nói với vị tăng nhân người Tây Tạng :

- Kính bẩm sư phụ, có phải sư phụ đưa đệ tử đến đây hôm nay để gặp mặt các vị anh hùng hào kiệt trong Trung Nguyên không ạ ?

Nghe thế, Quách Tỉnh chột dạ suy nghĩ :

- Té ra vị này là sư phụ của Hoắc Đô Vương tử.

Vị tăng nhân Tây Tạng chỉ gật đầu hai cái, chớp mắt mà không nói gì. Một chập sau nhắm mắt lại hình như không để ý đến mọi việc xung quanh.

Hoắc Đô Vương tử đứng lên giới thiệu :

- Bẩm sư phụ, vị này vốn là Tây chinh nguyên soái trong quân lực Mông Cổ , tên là Quách Tỉnh, một đại hiệp trong Trung Nguyên, ai ai cũng nể sợ oai danh.

Rồi chỉ Hoàng Dung nói tiếp :

- Còn đây là Cái Bang Hoàng Bang chủ

Khi nghe đến mấy chữ Tây chinh nguyên soái Mông Cổ, vị tăng nhân Tây tạng bỗng mở choàng đôi mắt sáng rực nhìn soi mói từ đầu tới chân Quách Tỉnh rồi nhắm mắt lim dim nhập định như cũ.Còn đối với Hoàng Dung lão vẫn cứ nhập định như thường, hình như không hề để ý tới.

Hoắc Đô Vương tử tiếp tục giói thiệu luôn :

- Thánh tăng đây biệt hiệu là Kim Luân Pháp Vương , vốn là người Tây Tạng , hiện nay được đức Hoàng thái hậu đại Mông Cổ sắc phong làm Hộ Quốc Đại Pháp Sư.

Nghe lời giới thiệu này , toàn thể quần hùng thảy đều ngạc nhiên, nhìn nhau nghĩ thầm :

- Chúng ta đang cùng nhau bàn bạc tìm cách chống quân Nguyên Mông xâm lược, cớ sao tụi Mông Cổ lại kéo nhau tới đây làm gì nhỉ ? Trong số này lại có cả vị quốc sư Mông Cổ , một nhân vật khá quan trọng của quân địch .

Quách Tỉnh vốn tính chậm chạp, không biết nói sao cho văn vẻ và hợp lòng người nên chỉ rót chung rượu mời bọn người mới tới :

- Quý vị không ngại đường sá xa xôi, quá bộ tới đây chiếu cố cho, chúng tôi rất lấy làm hân hạnh tiếp đón. Vậy đây có chén rượu tẩy trần , xin liệt vị nhận cho !

Uống rượu được ba tuần, Hoắc Đô Vương tử từ từ đứng dậy, phe phẩy cái quạt có vẽ mấy đoá hoa mẫu đơn hàm tiếu, cất tiếng dõng dạc nói :

- Thầy trò chúng tôi không được thiệp mời lại đường đột tới đây như thế này thì kể ra cũng vô lễ thật. Tuy nhiên, cứ suy nghiệm cho kỹ thì không mấy khi có cuộc đoàn tụ quần hùng đông đủ như thế này, nên cứ câu chấp không đến thì cũng uổng. Chúng tôi không muốn theo lối cổ tục thông thường "không mời không đến" cứ đường đột lại đây hôm nay, chẳng qua cũng chỉ vì vấn đề võ lâm Minh chủ. Hôm nay thầy trò chúng tôi muốn được cùng quần hùng đề cử ra một vị xứng đáng chỉ huy hào kiệt thiên ha, vậy chư vị nghĩ sao, xin cho biết ?

Ông già lùn khi nãy lên tiếng nói :

- Không được đâu, Vương gia nói thế sao được. Chúng tôi đã đồng thanh cử Hồng Thất Công lão tiền bối làm Minh Chủ rồi ! Hiện nay chỉ cử ra người làm phó mà thôi, vậy các vị có ý kiến gì về việc bầu phó Minh chủ hay không ?

Đạt Nhĩ Ma, trưởng giáo Mật Tông đứng lên cười nhạt nói lớn :

- Hồng Thất Công chết đã xanh cỏ từ lâu rồi , ai lại suy tôn một người đã chết làm Minh Chủ bao giờ. Bọn ta đâu phải cô hồn dưới âm ty ?

Câu nói ấy đã làm bao nhiêu người bất mãn, tiếng xôn xao huyên náo laị nổi lên, co người đã quát tháo cho là vô lễ không biết phép lịch sự.

Nhưng Đạt Nhĩ Ma vẫn không thèm đếm xỉa, nói lớn :

- Nếu quý vị bảo Hồng Thất Công chưa chết thì xin thỉnh ra đây cho mọi người diện kiến ngay bây giờ ?

Lỗ Hữu Cước nổi nóng, vung cây gậy trúc nói lớn :

- Hồng Lão Bang chủ ngài đang đi chu du thiên hạ , nay đây mai đó, hành tung không nhất định. Người muốn gặp mặt không phải là một chuyện dễ dàng !

Đạt Nhĩ Ma nói lớn :

- Ví dù Hồng Thất Công có còn sống và có mặt nơi đây thì cũng không đáng được ta bầu cử lên chức vị đó. Vì Hồng Thất Công so với sư phụ ta là Kim Luân Pháp Vương còn thua sút quá xa, kể cả đức độ và võ công cũng như thế. Như thế thì chư vị anh hùng nên theo lời đề nghị của ta tôn Kim Luân Pháp Vương làm Minh chủ võ lâm là xứng đáng hơn cả. Dưới tầm mắt của ta thì hiện nay trên võ lâm không còn một ai xứng đáng hơn Kim Luân Pháp Vương cả !

Sau mấy lời tuyên bố ấy, toàn thể quần hùng đều đã hiểu rõ thâm ý của bọn Mông Cổ. Bọn chúng hiểu rõ quần hùng Trung Nguyên đang bầu người giữ chức Minh chủ võ lâm nên kéo nhau về đây để tranh giành, hầu giữ phần lợi về mình. Nếu chức vị này thuộc về tay một cao thủ Mông Cổ thì người Hán không còn ai lãnh đạo nữa , võ lâm Trung Nguyên không khác gì rắn không đầu , hành động không thống nhất , sau này bọn chúng có thể thừa cơ tiêu diệt dần dần không một chút khó khăn. Chừng ấy lực lượng kháng Mông Cổ không còn nữa, trên dải đất Trung Nguyên gấm vóc tha hồ cho bọn chúng thao túng áp bức và đè đầu cưỡi cổ dân lành.

Tuy biết được thâm ý của Đạt Nhĩ Ma nhưng quần hùng chưa ai lên tiếng, vì mọi người đang chờ ý kiến của Hoàng Dung. Xưa nay trong võ lâm Trung nguyên, ai ai cũng biết là Hoàng Bang chủ là người đa mưu túc trí hơn cả.

Tuy nhiên mọi người đều yên chí vì ai cũng nghĩ rằng :

- Bọn chúng cho dù tài cao đến đâu nhưng với vài chục người cũng không thể nào chống lại với lực lượng hàng mấy nghìn con người đang hiện diện hôm nay nổi. Nếu mười ngưòi đánh một thì không chết cũng bị thương, huống hồ chi trăm người đánh một thì làm sao không nắm được phần thắng thế ?

Vì vậy nên mọi ngưòi lẳng lặng chờ nghe ý kiến của Hoàng Dung bang chủ.

Thấy mọi người đang chờ nghe ý kiến của mình, Hoàng Dung nghĩ bụng :

- Cứ như tình thế này, hôm nay chỉ có dùng võ lực mới giải quyết được vấn đề mà thôi, dùng lời lẽ không thấm vào đâu với bọn này được !

Nghĩ xong, bà lên tiếng dõng dạc nói :

- Anh em quần hùng Trung nguyên thảy đều bầu cử Hồng lão tiền bối làm MInh chủ võ lâm .Trái lại, chưởng giáo lại muốn suy tôn Kim Luân Pháp Vương làm Minh Chủ. Nếu lúc này có mặt Hồng Thất Công lão tiền bối thì công việc sẽ được giả quyết một cách đơn giản, vì trong một trận so tài sẽ biết ngay ai hơn, ai kém. Tiếc thay, Hồng lão tiền bối đang mải theo thú vui hạc nội mây ngàn, khi ẩn khi hiện như thần long nấp bóng, biết đâu mà tìm ? Đáng tiếc hơn nữa là Hồng lão tiền bối chúng tôi không biết hôm nay có quý vị giá lâm để chuẩn bị về đón tiếp cho đúng lễ ... Bây giờ tôi xin đề nghị một biện pháp là đưa đẹ tử của Hồng Lão tiền bối ra tranh đấu cùng đệ tử của Kim Luân Pháp Vương. Hai bên đại diện cho nhị vị sư phụ ra tranh tài cao thấp , rồi căn cứ theo đó mà quyết định ngôi Minh chủ võ lâm cũng tiện. Như vậy có được không, mong trưởng giáo cho biết ? ...

Toàn thể anh hùng Trung Nguyên thời bấy giờ ai ai cũng biết rõ Quách Tỉnh,đệ tử của Hồng Thất Công là một tay võ công tuyệt đỉnh, công lực dồi dào, ngay nếu Hồng Thất Công nơi đây cũng chưa chắc gì hơn được Quách Tỉnh nữa. Như thế thì trong cuộc thử sức này cùng đệ tử Kim Luân Pháp Vương, phần thắng chắc chắn sẽ về tay Quách Tỉnh .

Tin tưởng vào thắng lợi chắc chắn cho phe mình, toàn thể đệ tử Cái Bang và quần hùng có mặt nơi đây tất thảy đều mừng rỡ, cùng đưa tay múa chân reo hò tưng bừng, tiếng vang rền khắp một vùng, khiến cho mái ngói cũng lao xao chuyển động.

Mọi người đồng thanh la lớn :

- Hoàng Bang chủ nói phải lắm ! Xin cho đệ tử của hai bên giao đấu cùng nhau để lấy kết quả quyết định !

Phe Kim Luân Pháp Vương thấy mình ít hơn nên đứng im chưa nói một lời nào .

Hoắc Đô Vương tử từ ngày đụng độ cùng Quách Tỉnh tại Trùng Dương Cung đã biết tài của đại hiệp và tự lượng sức mình không thể nào cự lại được cùng Quách Tỉnh. Dù đưa Đạt Nhĩ Ma ra cũng không thể nắm được phần thắng lợi ! Nhưng nếu không theo lời đề nghị của Hoàng Dung thì làm sao phân biệt được chân tài để tranh ngôi Minh chủ ? Vì vậy nên bao nhiêu mâu thuẫn tranh chấp trong trí óc Hoắc Đô mãi chưa tìm ra một giải pháp nào cho thuận.

Giữa lúc Hoắc Đô đang phân vân thì Kim Luân Pháp Vương cất tiếng truyền lệnh :

- Hoắc Đô , con hãy thử ra tranh đấu cùng đệ tử Hồng Thất Công xem sao ?

Giọng nói của Kim Luân Pháp Vương bao gồm đầy vẻ hằn học và nặng nề, bao hàm tất cả tin tưởng quyết thắng và thắng gấp. Vì mãi sống ở Tây Tạng , Kim Luân Pháp Vương cho rằng võ công của Hoắc Đô đã đến chỗ tuyệt đỉnh cao siêu rồi, trên võ lâm chắc gì có kẻ nào chống lại nổi. Nếu có thì may ra chỉ là các tay cao thủ hào kiệt như Đông Tà, Tây Độc... mà thôi. Thật ra Kim Luân Pháp Vương chưa hề biết trong dịp đụng độ cùng Quách Tỉnh tại Trùng Dương Cung, Hoắc Đô đã bị Quách Tỉnh hạ thủ một cách quá dễ dàng.

Tuy nghe sư phụ ra lệnh nhưng Hoắc Đô chỉ dạ một tiếng lấy lệ rồi đứng nguyên một chỗ, suy nghĩ thêm chứ chưa ra giáp chiến.

Lặng yên một chút, hắn trầm giọng thưa rằng :

- Bẩm sư phụ, đệ tử của Hồng Thất Công rất đông, lại lắm người tài ba lỗi lạc, con chưa chắc đã đủ sức hạ gục bọn chúng. Nếu rủi ro mà con bị thua, chẳng những làm mất danh sư phụ, mà còn thương tổn đến uy danh của Triều Đình đại Mông Cổ nữa !

Kim Luân Pháp Vương nghe nói chỉ hừ một tiếng rồi nói :

- Người đã đấu với bọn chúng lần nào chưa mà bảo rằng bọn chúng tài cao ? Cứ ra tay liền xem thế nào , lẹ lên ?

Hoắc Đô vô cùng phân vân nên tự trách mình :

- Vì ta không trình bày trước cho sư phụ biết rõ các nhân vật Trung Nguyên , để ông ta cứ đinh ninh rằng mình tài cao hơn hết. Trong dịp này ông quyết thúc đẩy ta ra tranh tài cùng Quách Tỉnh dể tranh ngôi Minh chủ võ lâm. Quả thật việc tính một đường, chỉ sơ suất một chút mà đi xa muôn dặm. Nếu vâng lời sư phụ ra thi tài cùng Quách Tỉnh nghĩa là nắm lấy phần thất bại về mình một trăm phần trăm rồi còn gì ?

Trong lúc đang phân vân chưa biết giải quyết thế nào , bỗng có một người mặc y phục Mông Cổ chạy lại gần, ghé tai thì thầm mấy câu. Nghe xong, Hoắc Đô lộ vẻ mừng rỡ.

Y khoan thai bước ra đứng trước mặt quần hùng , tay phe phẩy cây quạt rồi cất tiếng dõng dạc nói :

- Tôi được nghe thiên hạ đồn, Hồng Bang Chủ có một pho võ công đặc biệt vô cùng kỳ diệu mệnh danh là "Đả cẩu bổng pháp" . Sở dĩ Hồng Thất Công được nổi danh trên giang hồ võ lâm cũng là nhờ có thiên võ công đó. Hôm nay, tôi muốn đem tài múa quạt ra thi thố cùng môn "Đả cẩu bổng pháp" của quý bang. Nếu tôi được thì xem như Hồng Thất Công thua cuộc và ngôi Minh chủ võ lâm sẽ đương nhiên thuộc về tay sư phụ tôi là Kim Luân Pháp Vương.

Lúc đầu, Hoàng Dung chú ý thấy một người ghé tai nói chuyện cùng Hoắc Đô nhưng không thèm quan tâm tới. Nhưng sau khi Hoắc Đô đưa ra ý kiến gạt được Quách Tỉnh ra vòng ngoài thì nàng vô cùng ngạc nhiên, không biết kẻ này là ai mà mưu kế cao diệu vô cùng.

Sau khi nàng định thần nhìn kỹ lại ngừoi ấy thì bà thất sắc bàng hoàng cả người. Kẻ đó không ai xa lạ mà lại là một vị chức sắc cao cấp trong Cái Bang , tức là Bành Trưởng lão đó !

Hoàng Dung nhìn trời than thầm :

- Thật không ngờ rằng bọn chó săn này lại tham vàng bỏ nghĩa ! Hắn nỡ vì chút công danh lợi lộc mà bán rẻ đất nước, đem thân phục vụ cho quân cướp nước., quên cả nòi giống dân tộc, dám công nhiên cải trang thành lính Mông Cổ để bày mưu lập kế cho quân thù, xúi chúng giết hại anh em bà con mình. Chắc chắn thế nào cũng do lão già này mật tấu cùng bọn Mông Cổ biết được môn võ công trấn bang "Đả cẩu bổng pháp" của Cái Bang chỉ truyền từ đời Bang chủ này sang đời Bang chủ khác . Dù Quách Tỉnh có là đệ tử thân yêu cũng không thể học được bổng pháp này., còn Lỗ Hữu Cước tuy có học nhưng chưa thành thục lắm. Hắn cố bày mưu để ép ta ra trận giao chiến đây mà !

Phần Quách Tỉnh lại suy nghĩ khác :

- "Đả cẩu bổng pháp" là món ruột của Hoàng Dung. Nàng áp dụng thuật này thì nhất định thế nào cũng thắng Hoắc Đô dễ như bỡn. Nhưng ngặt nỗi hiện nay Hoàng Dung đang mang thai gần đến ngày sinh nở. Mấy tháng nay khí huyết không điều hoà, thường chóng mặt và mệt nhọc, công lực giảm sút rất nhiều, e rằng không đủ sức ra giao đấu được. Phen này cứ liều để bà ra đánh nhau với bọn này thế nào cũng lành ít, dữ nhiều, có khi nguy đến tính mạng nữa.

Nghĩ xong, ông chững chạc bước ra chính giữa nói lớn :

- Thưa liệt vị, "Đả cẩu bổng pháp" là bảo pháp trấn Bang của Cái Bang, không thể nào vì một lẽ không xác đáng mà mang ra thi thố được. ... Nếu các ngài muốn tranh tài, xin cứ việc thi thố cùng môn "Giáng Long Thập Bát Chưởng của Quách mỗ cũng có thể tranh tài cao thấp được .

Nghe Quách Tỉnh tuyên bố, lời nói sang sảng, Hoắc Đô giật mình nhìn lại, thấy ông đứng tấn vững như núi Thái Sơn, vô cùng kiêu dũng, nên trong bụng lo ngại nghĩ thầm :

- Tay này quả nhiên quá lợi hại. Ta phải tìm cách tránh đi chứ không thể đương nhiên chạm trán cùng hắn được đâu.

Nghĩ vậy, Hoắc Đô cười xoà :

- Xưa kia, trên Trùng Dương Cung tại Chung Nam Sơn, tiểu vương đã có hân hạnh gặp gỡ cùng các hạ. Hôm ấy, các hạ đã nhận là môn đệ của Mã Ngọc và các vị trong Toàn Chân, cớ sao hôm nay lại nhận là đệ tử Hồng Thất Công nữa ?

Quách Tỉnh chưa kịp trả lời giải thích ra sao thì Hoắc Đô lại nói tiếp :

- Một học trò học hai ba thầy, chuyện ấy thế gian có thường, nhưng hôm nay là vấn đề đặc biệt, đệ tử Hồng Thất Công đua tài cùng đệ tử của Kim Luân Pháp Vương . Các hạ tuy là một tay võ công tuyệt đỉnh, tuy nhiên không thể nào các hạ thao diễn được đúng mức tất cả các tinh diệu của các môn võ công bí truyền của Hồng Thất Công được đâu !

Lời nói của Hoắc Đô cũng có phần hợp lý, Quách Tỉnh là người chất phác, tối dạ, không tài lợi khẩu, ít mồm mép cho nên không biết biện bác thế nào cho ổn, đành đứng yên một chỗ không đáp được.

Nhưng quần hùng nhao nhao phản đối kịch liệt :

_ Nếu có tài thì cứ ra tranh hùng cùng Quách đại hiệp mấy keo xem sao ? Quách đại hiệp là đệ tử chính tông của Hồng Bang chủ, thì so tài với người quả nhiên là hợp lý hết sức. Vương tử có gan thì nếm trước môn "Giáng Long Thập Bát Chưởng " của Hồng Bang chủ, rồi nếu còn thừa sức thì sẽ nếm "Đả cẩu bổng pháp" sau cũng được !

Hoắc Đô Vương tử chỉ ngước mặt lên trời cười tỏ vẻ khinh khi quần hùng. Rồi y không thèm đáp, chỉ điềm nhiên vận nội công xương cốt vang lên những tiếng răng rắc , át cả tiếng nói của quần hùng.

Y vận khi mạnh đến nỗi công phu phát ra khiến mái ngói trên nhà bị xô đẩy kêu rào rào như gặp cơn giông bão.

Toàn thể anh hùng có mặt trong sảnh thảy đều kinh hoàng và không ai ngờ một con người mặt mày non choẹt và tao nhã như thế lại có một công lực kinh người như thế ấy ? Vì vậy ai nấy đều đứng lặng im không nói một lời. Không khí nặng nề bào trùm cả một vùng đông nghẹt cả bóng người.

Hoắc Đô quay sang thưa với Kim Luân Pháp Vương :

- Bẩm sư phụ, thầy trò chúng ta cũng ngỡ anh hùng Trung Nguyên có nhiều tay khá nên không nài hà ngàn dặm đến đây. Không ngờ chỉ là phường tham sanh uý tử, vậy thì chúng ta nên bỏ về cho sớm còn hơn. Nếu chúng ta cứ ở lại đây, dù sau này có giữ được chức Minh Chủ võ lâm cũng sẽ mang tiếng là đứng đầu một phường vô dụng, giá áo túi cơm mà thôi. Như thế chẳng những làm hạ thể diện của sư phụ mà cũng giảm cả uy tín của đệ tử nữa.

Hoắc Đô nói những lời này là để khích Hoàng Dung ra thi đấu cùng mình.

Nghe y nói những câu khinh thường võ lâm Trung Nguyên, xem người bằng nửa con mắt, toàn thể quần hùng nổi giận căm gan, trừng trừng nhìn y đến tím cả mặt.

Lỗ Hữu Cước không nhịn nổi với câu nói mục hạ vô nhân ấy của Hoắc Đô, vung gậy trúc xông ra nói lớn :

- Lão phu vừa được tấn phong Bang chủ Cái Bang. Bằng phép đả cẩu mới học mười phần chưa thuộc một, tuy nhiên cũng không thể nào chịu để cho người khinh thị võ lâm Trung Nguyên. Ta sẵn sàng ra đây cùng ngươi hầu tiếp vài ngón xem sao ?

Lỗ Hữu Cước tuy chưa tinh thục "đả cẩu bổng pháp" nhưng về võ công cũng là người có hạng. Nay thấy Hoắc Đô tuổi trẻ mà lớn giọng khing thường bao nhiêu anh hùng thiên hạ nên không chịu nổi phải xông ra trước để bảo vệ thanh danh võ lâm trong nước mình, sau đỡ nhọc cho Hoàng Dung, vì lão thừa biết Hoàng Dung đang gần ngày sinh nở, khí huyết hao mòn, công lực giảm sút không thể nào chiến đấu được.

Phần Hoắc Đô thì chỉ sợ có một mình Quách Tỉnh mà thôi. Ngoài ra bất cứ kẻ nào y cũng không thèm quan tâm tới. Vì vậy nên khi nghe Lỗ Hữu Cước nói , y vội khom lưng bái một cái nói lớn :

- Kính chào Lỗ bang chủ. Tiểu Vương hân hạnh được hầu Lỗ bang chủ một vài keo cho biết .

Trong khi ấy, bọn gia đinh trong Lục gia trang đã dọn hết bàn ghế, lắp thèm đèn đuốc sáng rực trên một khoảng trống trên phạm vi bảy tám trượng để tiện bề dụng võ.

Giữa rừng người, một vùng rộng lớn , thảy đều sáng như sao sa, rực rỡ như ban ngày.

Hoắc Đô Vương tử đứng giữa thủ thế rồi nói tiếp :

- Xin Lỗ bang chủ cẩn thận, tại hạ ra tay đây !

Nói vừa dứt lời, y dùng quạt tấn công luôn mấy cái.

Tức thì một làn gió mạnh thổi phốc lại phía Lỗ Hữu Cước toả ra mùi hương thơm ngào ngạt, nghe thoang thoảng như mùi hoa nhài.

Ngại có mê hồn hương, Lỗ Hữu Cước vội nghiêng mình sang một bên để né tránh. Ngay khi đó, Hoắc Đô thừa dịp xếp quạt lại như cây bút dài độ tám tấc, điểm huyệt đối phương.

Nếu như đối phương là tay mơ thì phép điểm huyệt này vô cùng nguy hiểm. Nhưng Lỗ Hữu Cước đã biết trước nên ông múa tít ngọn bổng che kín phía trước ngực bao phủ cả bên sau, bước lùi ra sau mấy bước lấy trớn rồi nhún mình vọt luôn tới trước để tấn công Hoắc Đô.

Nhìn thấy địch thủ lùi ra sau, Hoắc Đô tiến theo. Vừa khi hắn tới đúng tầm ngọn bổng , Lỗ Hữu Cước tạt ngang một đòn "phát cỏ" xuống hạ bàn, trúng ngay mắt cá nghe "bốp" một tiếng.

Quần hùng đứng ngoài trông thấy vỗ tay tán thưởng và reo hò nói lớn :

- Chó nhỏ đã trúng đòn rồi. Phen này cho mi biết lợi hại của "đả cẩu bổng pháp" của Cái Bang nhé !

Bị chế nhạo, Hoắc Đô thẹn quá , đỏ mặt, hắn vội vàng xoay mình qua nhanh như điện chớp. , đưa tay trái phóng ra một chưởng tấn công Lỗ Hữu Cước.

Lỗ Hữu Cước bình tĩnh phóng mình sang một bên, vung tít cây bổng trúc theo tư thế "loạn đả tàn vân" khiến cây bổng xoay tít như một bầy rắn dữ đang vờn trên mặt sóng, đánh bật chưởng phong của Hoắc Đô ra ngoài và phá giải hoàn toàn chưởng thế của hắn.

Hoắc Đô thất kinh vội nghĩ :

- Chà, Đả cẩu bổng pháp" quả thật là tinh diệu phi thường,xưa nay tiếng đồn thiên hạ quả là không sai ! Ta cần phải cẩn trọng để khỏi bị thảm bại về tay lão.

Nghĩ xong, hắn đem hết tinh thần vào cuộc chiến đấu, quyền cước tung ra dồn dập, áp dụng theo đúng mười hai lối biến hoá vô cùng linh động, tấn công tới tấp vào người Lỗ Hữu Cước.

Vì chưa học hết tinh tuý của "đả cẩu bổng pháp" nên trong lúc đánh đỡ, Lỗ Hữu Cước đã có nhiều sơ hở vụng về đáng tiếc, khiến Quách Tỉnh và Hoàng Dung đứng ngoài trông thấy phải chắt lưỡi hít hà than thở :

- Kém quá, Lỗ Hữu Cước còn kém quá. Nếu cứ như thế này mãi thì tất nhiên phải nguy ngập rồi !

Trận chiến càng kéo dài, Lỗ Hữu Cước càng lộ nhiều sơ hở.

Dương Qua ngồi đằng xa thấy lối đánh của Lỗ Hữu Cước cũng tức mình dậm chân nhăn mặt, đứng ngồi không yên.

Cũng may, ngay từ lúc mới giáp chiến, Hoắc Đô đã bị một đòn vào chân, tinh thần dao động, không dám tấn công mạnh nữa vì sợ nhầm kế của đối phương, nếu không thì Lỗ Hữu Cước đã bị thảm bại từ lâu rồi.

Thấy tình thế ngày càng bất lợi, Hoàng Dung dự định cất tiếng gọi Dương Qua, bỗng nhiên Lỗ Hữu Cước thừa dịp đánh được một đòn "phang ngang lưng chó" trúng mạnh vào cạnh sườn Hoắc Đô thật mạnh.

Tuy bị đánh khá đau, nhưng vì cơn giận bốc lên ngùn ngụt quên cả đau đớn, Hoắc Đô chuyển hết thần lực kẹp chặt ngọn bổng rồi xông tới giáng một đòn thật mạnh, trúng ngay má Lỗ Hữu Cước nghe đánh "chát một tiếng, rồi thuận chân đạp luôn vào ống chân Lỗ Hữu Cước nghe "rắc một tiếng nữa, ống quyển gãy đôi. Lỗ Hữu Cước la "ối một tiếng miệng hộc máu tươi lăn đùng ra đất.

Lập tức hai đệ tử Cái Bang hạng tám túi xông ra khiêng Lỗ Hữu Cước đem vào trong buộc thuốc và chuyên chữa.

Quần hùng trông thấy Hoắc Đô tàn nhẫn và hung bạo quá, tất thảy đều nổi giận sôi gan, nghiến răng căm tức nhưng chưa ai nói câu nào.

Hoắc Đô cầm cây gậy trúc màu xanh biêng biếc trên tay, hiu hiu tự đắc, huyênh hoang tuyên bố :

- Té ra vật này là bảo vật trấn bang của Cái Bang . Ta tưởng có gì kỳ diệu, té ra cũng quá tầm thường !

Nói xong, hắn dùng hai tay định bẻ gãy cây gậy thành hai khúc.

Thình lình, có một luồng sáng bạch thoáng qua trên đầu, rồi có tiếng lanh lảnh của một thiếu phụ quát mắng theo giọng của kẻ bề trên :

- Hãy coi chừng và liệu hồn đấy !

Thiếu phụ ấy chính là Hoàng Dung. Bà vừa cất tiếng quát, đã đưa tay giật lấy chiếc gậy trúc.

Hoắc Đô bất thình lình bị Hoàng Dung cướp cây gậy trong tay lẹ như tia chớp nhoáng, nhanh như vũ bão thì giật mình kinh sợ.

Nguyên phép đoạt gậy này gọi là "giật gậy từ miệng chó", cũng chính là một tư thế vô cùng tuyệt diệu trong "đả cẩu bổng pháp" . Trước đây, trong đại hội Cái Bang trên núi Quân Sơn, Hoàng Dung cũng đã sử dụng chiêu này ba phen cướp gậy trong tay Dương Khang, cha của Dương Qua , dễ như lấy đồ trong túi.

Hôm nay, cũng một tư thế này, Hoàng Dung lấy lại cây gậy trong tay Hoắc Đô không chút gì khó nhọc cả.

Từ trên thềm cao và khắp xung quanh, quần hùng vỗ tay hoan hô dậy một gầm trời, Hoàng Dung nắm cây gậy ung dung trở về chỗ ngồi , sắc thái vô cùng tự nhiên, trong khi Hoắc Đô còn ngơ ngẩn nhìn theo, chưa tin rằng đó là sự thật. Hắn ngơ ngác nhìn theo Hoàng Dung , vẻ mặt bẽn lẽn thẹn thùng, nghĩ bụng :

- Hoàng Dung có tà thuật gì mà lấy gậy quá lẹ như vậy ? Tuy nhiên, trước mặt sư phụ ta, Hoắc Đô này nhất định không để cho một kẻ nào có thể làm nhục được !

Nghĩ xong, y cất tiếng nói lớn :

- Hoàng Bang chủ, tôi đã có hảo ý trao trả cây gậy cho bà để giữ tình hoà khí. Bây giờ bà có dám cùng tôi so tài mấy hiệp hay không ?

Câu nói vừa điêu ngoa, vừa kiểu cách như chọc vào ruột người nghe, làm cho Quách Phù tức không nhịn được. Nàng nghĩ :

- Bình sinh ta chưa hề thấy kẻ nào dám vô lễ với mẫu thân như tên này. Hắn đã dám ngang nhiên chọc tức, cần phải cho hắn nếm mùi lợi hại của cô nương một phen mới được !

Nghĩ thế, nàng liền vung kiếm xông ra/ Nhưng Võ Tu Văn vội ngăn lại bảo :

- Phù muội, hãy để hắn cho tôi trừng trị cho !

Võ Đôn Nho cũng lên tiếng nói theo :

- Đã có tôi tiếp sức, xin cô nương chớ bận lòng.

Cả hai cùng phi thân ra đấu trường, đồng thanh mắng lớn :

- Này tên rợ Mông Cổ kia, một người cao sang quý phái như sư mẫu ta đâu thèm đua tranh với những hạng như ngươi. Hãy cũng anh em chúng ta so tài cũng được.

Vừa trông thấy hai chàng tuổi trẻ mà thân hình mau lẹ như chim bay, Hoắc Đô đã đoán ra là hạng đệ tử của danh môn chính phái nên nghĩ thầm :

- Chúng ta tới đây là để quyết tranh ngôi Minh chủ võ lâm cùng một tay quái kiệt nhất trong Cái Bang, chứ nào phải để so tài theo bè với bọn chúng. Vì nếu chia bè để đánh thì bên ta ít, bên địch quá đông, làm sao cự cho lại ?

Nghĩ như vậy, hắn lớn tiếng nói :

- Xin chư vị anh hùng nghe Tiểu Vương trình bày một ý kiến. Xem hai chú con nít này, miệng còn hôi sữa, tài sức đáng bao nhiêu mà dám ra so tài cùng ta. Nếu ta ra tay thì làm sao tránh được tiếng ỷ lớn ăn hiếp trẻ con, nếu không ra tay thì cũng mang tiếng là sợ hãi lũ trẻ. Vậy ta nêu ra một điều kiện sau :"Keo vừa rồi tôi tuy thắng Lỗ Bang chủ Lỗ Hữu Cước nhưng tôi sẵn lòng bỏ qua không tính tới. Bây giờ , bắt đầu từ giờ phút này, tôi sẽ cùng người trong quý bang đấu luôn ba trận, bên nào thắng hai trận sẽ được xem như là thắng cuộc và được giữ ngôi Minh Chủ ! Các vị nghĩ sao ?

Câu nói bao hàm giọng bề trên nhưng cũng có lý. Quách Tỉnh và Hoàng Dung bàn nhỏ :

- Chúng ta nên phân công như thế này may ra thủ thắng được. Trước tiên cho một đệ tử của Nhất Đăng đại sư ra đấu cùng Hoắc Đô . Hách Đại Thông chuẩn bị đấu cùng Đạt Nhĩ Ma. Quách Tỉnh chờ đó để tiếp chiến cũng Kim Luân Pháp Vương . Tuy nhiên, lúc nào Quách Tỉnh cũng phải đề phòng xem chừng Kim Luân Pháp Vương có thể xông vào tiếp sức cho bọn đệ tử thì hỏng hết cả kế hoạch.

Tuy nhiên, mọi người kẻ bàn ra, người tán lại cũng vẫn chưa ngã ngũ ra sao hết. Bỗng Hoàng Dung nghĩ ra một kế và nói ngay :

- Tôi xin đề cử một người, và phần thắng nhất định phải nghiêng về phía chúng ta.

Quách Tỉnh nghe nói mừng quá, định hỏi thử là ai cho biết. Nhưng ông chưa kịp hé môi, bỗng từ phía dưới thao trường, tiếng vũ khí đã khua vang rang rảng nghe rợn cả người. Mọi người đưa mắt nhìn xuống thì thấy hai anh em họ Võ đã tấn công Hoắc Đô Vương tử...

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 34 : Giữa thao trường, Tiểu Long Nữ gặp Dương Qua.

Dương Qua ngồi tận sâu xa, vừa trông thấy anh em họ Võ xông ra đánh với Hoắc Đô thì cười thầm trong bụng :

- Không biết hai anh em này liều thân ra đánh với Hoắc Đô Vương tử là vì nòi giống Hán tộc hay là để làm hài lòng một giai nhân là Quách Phù cô nương ? Bảo rằng bọn bay vì nòi giống mà ra tay thì không thể nào mà tin được ! Vì trên đời này không có gì to tát hơn mối thù giết cha giết mẹ ( ? ) . Nếu hai anh em bây có chút khí khái thì đã đi tìm Lý Mạc Thu mà trả thù rồi, có lý nào ở đây đóng vai trò nô bộc để làm vừa lòng ý trung nhân ? Trên thiên hạ biết bao nhiêu kẻ khoác áo nhân nghĩa , lợi dụng mục đích phục vụ dân tộc để âm mưu làm lợi riêng cho mình ! Chẳng hiểu hai anh em nhà ngươi có khi nào thầm nghĩ mà tủi thẹn với hai cái tên đẹp đẽ "Đôn Nho" và "Tu Văn" hay không ? Mang danh Văn, Nho mà cứ cam tâm đi làm tôi đòi cho một cô gái còn hơn cả cha mẹ mình. Huống chi cả hai anh em ruột mà cùng yêu thương một cô gái thì thật quả là vô luân. Nếu họ không loạn luân một cách công nhiên thì cũng ít ra đã loạn luân về mặt tư tưởng và tinh thần rồi . Thật đáng trách và cũng thật đáng phàn nàn vậy !

Trong lúc Dương Qua trầm ngâm suy nghĩ về mục đích và tư cách của anh em họ Võ thì Quách Tỉnh, Hoàng Dung và bao nhiêu anh hùng trong đại yến thảy đều quan tâm đến cục diện trận chiến dang diễn ra phía dưới.

Nguyên trong khi đối đáp, anh em họ Võ thấy Hoắc Đô mằng mình là bọn con nít, miệng còn hôi sữa thì trong lòng đã oán hận và thẹn thùng vì lời nói thốt ra trước mặt người đẹp. Hơn nữa, vừa rồi thấy Hoàng Dung đoạt cây gậy trúc trong tay Hoắc Đô một cách quá dễ dàng, thì cả hai đinh ninh rằng gã này tài nghệ cũng không bao nhiêu, nên trong lòng cũng đã có ý khinh thường rồi. Huống chi cả hai đã mang danh là môn đệ của Quách Tỉnh đại hiệp, lúc này cùng nhau hợp lực tấn công hắn, cho dù không thắng nổi cũng thể để bại được.

Phàm trâu nghé chưa biết sợ cọp, nên hai người vung gươm tấn công Hoắc Đô Vương tử. Nhưng phàm ở đời có tiếp xúc với thiên hạ mới biết rõ tài năng của mình, chứ quanh năm cứ quanh quẩn trong nhà để so sánh với Quách Phù và bao nhiêu người mới nhập môn thì lúc nào cũng chủ quan tự cho mình là tài giỏi hơn ai hết. Hôm nay chạm trán với Hoắc Đô cũng là một dịp để nhìn xa hơn chút nữa.

Sau vài chiêu đánh đỡ, hai thanh trường kiếm của anh em họ Võ đã dần trở nên vụng về chậm chạp, không giữ vững được bình tĩnh như trước, thỉnh thoảng lại bị rối loạn. So với hai người, tài nghệ của Hoắc Đô cao hơn một bậc rất xa.

Hoắc Đô cũng muốn nhân dịp này trổ tài cho quần hùng trông thấy, nên giả vở luống cuống sơ hở, để Võ Tu Văn đâm vào một kiếm, rồi xuất kỳ bất ý, y cầm quạt điểm ngang vào thanh trường kiếm kêu "keng một tiếng rất to, thanh trường kiếm đã gãy thành hai đoạn .

Hai anh em họ Võ hoảng hốt, mất cả bình tĩnh. Võ Tu Văn sợ hãi vội bước lùi ra sau. Võ Đôn Nho sợ em bị tập kích theo nguy tới tánh mạng , nên vội đưa trường kiếm ra ngăn cản Hoắc Đô, không cho đuổi theo.

Lập tức Hoắc Đô vung quạt hất mạnh lên nhằm ngay thanh kiếm.

Võ Đôn Nho cảm thấy hình như có một luồng điện mạnh làm tê rền cả tay. Thanh trường kiếm bị đánh tung lên trên không như một lằn điện xẹt, văng tuốt ra đằng sau rất xa.

Tuy sợ hãi, nhưng quá uất ức và thẹn thùng, anh em họ Võ quyết không bỏ chạy, cố đứng lại dùng quyền cước đấu cùng Hoắc Đô.

Võ Đôn Nho dùng tay trái án ngữ trước bụng , còn tay phải quay ra sau lưng, tung một chưởng trong "Giáng Long Thập Bát Chưởng" tấn công Hoắc Đô. Còn Võ Tu Văn thì dùng tay trái che trước ngực, chìa ngón trỏ thẳng về phía trước, tay phải cũng vòng ra phía sau lưng, áp dụng thuật "Nhất Dương chỉ" để đối phó.

Thấy cả hai đã mất hết binh khí mà vẫn còn hiên ngang dùng quyền chưởng chống đỡ, Hoắc Đô không dám xem thường, chú ý dùng những đòn tuyệt kỹ để nghênh chiến, trong lòng suy nghĩ :

- Ta thắng chúng quá rõ rệt rồi, và thắng một keo cũng đủ rồi, cần gì phải đi đến nước cuối cùng cho nhọc thân vô ích.

Nghĩ vậy, y chắp tay vái một cái rồi cười ha hả nói lớn :

- Xin mời hai vị về nghỉ ngơi dưỡng sức. Chúng ta đấu cùng nhau cốt để thử tài cao thấp chứ nào phải phường đạo tặc mà hòng giết chóc lẫn nhau như thế ?

Lời nói thốt ra có vẻ từ tốn dịu dàng, nhưng bao hàm một ý nghĩa mỉa mai khinh miệt và khí phách.

Hai anh em họ Võ quá xấu hổ, nóng bừng cả tai, trong lòng muốn ra đánh nữa cho hả giận, nhưng không tiện ra tay vì thiếu binh khí. Muốn dùng chưởng lực, điểm huyệt thì Hoắc Đô lại không chịu xáp lại gần. Vì vậy cả hai đành lẳng lặng rút về chỗ khác chứ không trở lại chỗ Quách Phù lúc trước nữa.

Quách Phù cảm thấy thương hại, bèn chạy lại bên cạnh an ủi :

- Thôi, hai anh đừng buồn nữa. Hãy hợp sức cùng em, ba chúng ta cùng tấn công hắn để giành thắng lợi về mình.

Quần hùng chăm chú theo dõi hành động của ba người, không ai nói gì hết.

Nói xong, Quách Phù tuốt kiếm nhảy ra nói lớn :

- Anh em chúng ta quyết tâm sống mái một trận cuối cùng với tên Hung Nô Mông Cổ này.

Nhưng Quách Tỉnh đã thét lớn :

- Phù nhi ! Không được vỗ lễ, chớ làm huyên náo như thế !

Quách Phù lúc nào cũng kính nể cha, cho nên khi Quách Tỉnh vừa quát mắng, nàng đã sợ hãi rút lui ra sau, tra gươm vào vỏ ngay, nhưng đôi mắt phượng vẫn gườm gườm nhìn thẳng về phía Hoắc Đô Vương Tử.

Thấy một nữ lang xinh đẹp chăm chú nhìn mình, Hoắc Đô vui vẻ gật đầu mấy cái rồi cười mơn nói :

- Nếu cô nương không thoả mãn lúc ban ngày ban mặt, không phải lỗi về phần tôi đâu nhé. Vậy xin chờ đêm tới, Tiểu Vương sẽ xin hầu tiếp cô nương.

Quách Phù tức quá, trợn mắt nhìn hắn rồi nhổ nước miếng trên cỏ tỏ vẻ khinh bỉ rồi quay đầu bỏ đi.

Bị đại bại trước Hoắc Đô, anh em họ Võ chỉ ngại Quách Phù nhạo báng. Nhưng khi thấy nàng không những không có cử chỉ nhạo báng mà còn có ý ủng hộ thì cả hai yên tâm hơn, quên cả thất bại vừa rồi.

Hoắc Đô phe phẩy chiếc quạt nói :

- Bên tôi có cả thảy ba thầy trò. Sư phụ, sư huynh và tôi đang chờ một trận tranh tài xứng đáng. Mấy trận vừa qua chẳng qua chỉ là một dịp qua quít cho vui, không có gì đáng kể, xin bỏ qua cũng được. Bây giờ xin Quách đại hiệp vui lòng chọn người xứng đáng để ra thử tài cao thấp, kẻo để tình trạng như từ nãy đến giờ thì chán quá.

Quách Tỉnh sực nhớ lại vừa rồi Hoàng Dung nói là sẽ đề cử một ngừoi có đủ khả năng chiến thắng thì đoán là vợ mình đã tìm ra kế hay cho nên yên tâm tin tưởng, lớn tiếng nói :

- Được rồi, chúng tôi sẽ đề cử người xứng đáng ra tranh tài, ai thắng sẽ được giữ ngôi Minh chủ võ lâm, khỏi cần thúc hối làm gì.

Hoắc Đô Vương tử nghĩ bụng :

- Cứ xem lực lượng bên ấy thì chỉ có Quách Tỉnh là người đáng sợ hơn hết. Nhưng y đối với sư phụ ta chắc không thấm vào đâu. Hoàng Dung thì thân pháp cũng có vẻ kỳ diệu lắm, nhưng bà ta đang trong thời kỳ thái nghén, sức khỏe chẳng đầy đủ, thành thử không đáng quan tâm lắm. Trừ hai mạng này ra, ta xét thấy không còn tay nào đáng kể nữa.

Đoán ngầm thấy chắc ăn, Hoắc Đô lớn giọng nói :

- Xin quý vị khỏi nhọc công lo lắng chọn lựa nữa cho tốn thời giờ. Nếu bên ấy nhắm theo không được thì xin cứ chịu thua và nhường chức MInh chủ võ lâm lại cho chúng tôi thì hơn, mà còn giữ được tình hoà khí.

Toàn thể quần hùng thấy Hoắc Đô vừa đánh bại Lỗ Hữu Cước nặng nề và hạ luôn cả hai anh em họ Võ thì đã có phần kiêng nể nên ai nấy thảy đều chờ mệnh lệnh của Hoàng Dung chứ không lên tiếng như trước nữa.

Hoàng Dung quay sang hỏi Hoắc Đô :

- Có phải túc hạ ra điều kiện là keo thứ nhất túc hạ so tài , keo thứ hai đến phiên lệnh sư huynh, và keo chót là do lệnh Tôn sư, có phải như vậy không ?

Vừa thắng luôn hai keo, Hoắc Đô đã có ý xem thường phe địch nên Hoắc Đô điềm nhiên đáp :

- Đúng như vậy,.Tôi muốn theo lệ mới là để cao đấu với cao, thấp đấu với thấp cho xứng vai xứng vế, và cũng không ai phiền trách chỗ nào được, dù được hay thua cũng công bằng hết. Chừng ấy đôi bên không bên nào được oán hận.

Nghe nói xong, Hoàng Dung thấp giọng nói với quần hùng :

- Nếu như vậy thì phe mình ăn chắc đi rồi, xin anh em cứ tin tưởng....

Quách Tỉnh vội hỏi :

- Căn cứ vào đâu mà em dám chắc chắn là sẽ nắm phần thắng lợi như vậy ?

Hoàng Dung ghé tai ông nói nhỏ :

- Dùng ngựa hay của ta đua với ngựa thường của họ. Sau đó đem ngựa thường của mình đua với ngựa kém của người ta. Đó là phương pháp đua ngựa mà xưa kia Điền Kỵ đã áp dụng để thắng vua Tề đoạt giải ngàn vàng đó !

Quách Tỉnh không phải là người học rộng về văn chương điển tích, còn ngẩn ngơ chưa hiểu ý ra sao, thì Hoàng Dung lại ghé vào tai ông nói tiếp :

- Ông vốn là người tinh thông binh pháp, há lại quên chuyện Tôn Tẫn chân nhân dạy về diệu pháp rồi sao ?

Vừa nghe vợ nói, Quách Tỉnh bỗng sực nhớ lại lúc thiếu thời nghiên cứu Võ mục di thư có một đoạn ghi rằng :"Đại tướng nước Tề là Điền Kỵ đua ngựa với vua Tề,đánh cuộc ngàn vàng. Điền Kỵ tới thỉnh kế Tôn Tẫn chân nhân thì người dạy rằng : Lúc đầu đem ngựa kém đua với ngựa giỏi của vua. Như vậy vua thắng keo đầu nhưng phải thua hai keo sau. Ta thua một thắng hai tức là đã thắng rồi. Như thế làm sao không ăn giải được ?"

Khi nghe Hoàng Dung nhắc lại, ông chợt nhớ ra câu chuyện đó, bèn vỗ đùi khen hay và trong bụng đinh ninh thế nào vợ mình cũng có mưu kế để thắng bọn Hoắc Đô Vương tử.

Lúc bấy giờ, Hoàng Dung quay sang bên phải nói :

- Chu sư huynh, với thuật " Nhất dương chỉ", nhất định sư huynh phải thắng đứt tên Hoắc Đô vương tử rôi phải không ?

Nguyên Chu Tử Liễu là một thư sinh nước Đại lý, trước đây thi đỗ Trạng nguyên làm quan phò Đoàn Nam Đế nước Đại Lý, sau lên tới chức quan Tể Tướng, tột phẩm công thần. Vốn là bậc quân tử tài ba, kiến thức hơn người. Khi mới nhập môn cùng Nhất Đăng đại sư , ông đứng hàng thứ năm, sau Ngư, Tiều, Canh, Độc. Nhưng cách mười năm sau, ông đã vượt lên đứng hàng thứ hai. Càng ngày, võ công của ông càng tiến bộ bao nhiêu thì ông lại càng ôn hoà thuần hậu bấy nhiêu, chứ không bao giờ ỷ mình giỏi mà khinh thường người khác. Vì có đặc tính đó mà Nhất Đăng đại sư tín cẩn thương mến, dốc lòng truyền hết võ công "Nhất dương chỉ" cho.

Về thuật "Nhất dương chỉ " Quách Tỉnh và Hoàng Dung chẳng những kém hơn Chu Tử Liễu mà ngay cả bọn Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ, Hách Đại Thông ... là những võ lâm tiền bối cũng còn thua xa.

Vốn là người lòng dạ ngay thẳng chất phác, nên khi nghe Hoàng Dung nói, Quách Tỉnh đã gật đầu đáp luôn :

- Cứ so sánh tài nghệ thì Chu sư huynh có thể ăn đứt Hoắc Đô , phần tôi thì cũng có thể đánh bại được Đạt Nhĩ Ma, nhưng điều đáng ngại là không biết Hách sư thúc có cự nổi với Kim Luân Pháp Vương hay không ? Chúng ta nên thận trọng mới được.

Hách Đại Thông xưa nay vốn là người hào khí nghĩa hiệp, biết rõ cuộc đấu võ hôm nay sẽ quyết định tới vận mệnh quốc gia, dân tộc, chứ không phải là một cuộc so tài bình thường trong võ lâm. Nếu phe mình để ngôi Minh chủ rơi vào tay Kim Luân Pháp Vương thì bao nhiêu anh hùng Hán tộc sẽ bị chúng nó tiêu diệt dần dần hết. Như thế còn thể nào nói tới chuyện kháng Mông Cổ cứu quốc nữa.

Suy nghĩ xong, ông vuốt râu khẳng khái nói :

- Nếu việc này có lợi cho nước nhà , dân tộc thì dù thân già này có bị ác tăng bằm làm muôn mảnh ta cũng sẵn sàng hy sinh không hề tiếc.

Hoàng Dung nói :

- Như kế đã định sẵn, chúng ta chỉ cần thắng hai keo mà thôi, cho chúng nó thắng một keo cũng chẳng sao. Cứ theo tôi thì keo thứ ba không quan hệ mấy.

Quách Tỉnh nghe nói mừng quá cười lớn bảo :

- Hay quá, mưu kế quả là hay tuyệt !

Chu Tử Liễu tươi cười nói :

- Trong ba keo này, chỉ keo của tôi là nặng nề nhất. Nếu phen này mà không thắng nổi Vương tặc Mông Cổ thì đời sau thiên hạ phỉ nhổ lên thân xác, và không còn mặt mũi nào nhìn anh hùng hảo hán Trung Nguyên nữa.

Hoàng Dung tìm lời trấn an :

- Xin sư huynh đừng bi quan quá, không có chuyện chi đáng ngại hết. Vậy sư huynh cứ yên tâm ra chiến đấu đi !

Chu Tử Liễu khoan thai bước xuống vái Hoắc Đô Vương tử rồi lễ phép nói :

- Theo sự phân công trong nội bộ thì hôm nay tại hạ được hân hạnh lãnh giáo điện hạ keo này. Kẻ hèn này tên Tử Liễu, họ Chu, người ở Côn Minh thuộc xứ Vân Nam, vốn là đệ tử của Nhất Đăng đại sư. Bình sinh vốn ham mê văn chương thi phú, võ nghệ không tinh thông bao nhiêu. Vì vậy, hôm nay trong cuộc so tài cùng điện hạ , nêu có điều gì sơ suất, xin điện hạ vui lòng miễn chấp cho. Kẻ hèn này xin có lời cảm tạ trước.

Nói xong, ông rũ tay áo lấy ra một cây bút , cầm tay đưa thẳng lên trời vẽ luôn mấy vòng, rõ ràng là tác phong của một nhà nho không khác.

Hoắc Đô nghe giọng nghĩ bụng :

- Kẻ này nói năng lễ độ từ tốn khiêm cung, chắc bản lãnh phải cao siêu, tài ba xuất chúng. Ta cần phải để phòng mới được.

Nghĩ vậy, y vòng tay đáp lễ và nhỏ nhẹ nói :

- Tiểu Vương chưa có dịp được tiếp kiến và học hỏi lão tiền bối, không hiểu lão tiền bối quen sử dụng loại binh khí nào ?

Chu Tử Liễu cười ha hả nói :

- Mông Cổ là nước man di thiếu chữ nghĩa, văn chương, nên nhân tiện đây ta muốn dùng văn chương chữ nghĩa mà chỉ điểm cho một ít.

Hoắc Đô nghe nói, trong lòng giận sôi, suy nghĩ :

- Quân này láo thật. Hắn muốn dùng danh từ kiêu ngạo để mạ lỵ Đại Mông Cổ ta, Sự xáo láo này không thể tha thứ được. Phen này ta phải kết liễu mạng sống của hắn cho bọn này biết tay mới được !

Tuy nhiên, hắn cũng dằn lòng nói nhỏ nhẹ :

- ý tôi muốn biết ông sử dụng loại đao kiếm gì chứ đâu có hỏi văn chương chứ nghĩa mà ông bảo như vậy ?

Chu Tử Liễu múa tít cây bút lên trời mấy vòng rồi cười lớn đáp :

- Kẻ hèn xuất thân trong hàng nghiên bút, nào có biết đao kiếm là gì đâu. Những kẻ chuyên dùng đao búa chỉ là những bọn lòng lang dạ thú, chỉ chuyên ỷ mạnh hiếp người, xem sinh mạng con người như cỏ rác, có khi nào nghĩ đến nhân nghĩa, nhiều khi còn làm những điều thương luân bại lý nữa là đằng khác.

Hoắc Đô đưa mắt nhìn cây bút, thì thấy cán bằng trúc, đầu bút bằng lông dê, trên đầu có nhúng ướt mực cũng như muôn ngàn cây bút khác, chứ không phải là loại bút các nhà võ thuật thường dùng để điểm huyệt.

Y toan lên tiếng vặn hỏi thì thình lình có một bóng trắng bay qua lạnh như làn khói, mờ mờ trông như hình ảnh một nữ lang.Người này vừa sa xuống đã liếc mắt nhìn vào đám đông, hình như để tìm kiếm một kẻ nào vậy.

Quần hùng đang chăm chú nhìn vào trận đấu sắp diễn ra của Chu Tử Liễu và Hoắc Đô không hề để ý đến mọi việc bên ngoài. Nhưng bỗng nhiên có một bóng nữ lang bạch y vừa xuất hiện một cách quá ư đột ngột thì ai nấy tất thảy đều ngạc nhiên nhìn kỹ lại.

Dưới ánh đèn đuốc sáng rực như ban ngày, nư lang có nước da trắng xanh, hình như trong người đang mang bệnh, tuy nhiên hình dung vô cùng xinh đẹp. Trông nàng phảng phất như một tiên nữ, từ khuôn mặt cho đến dáng điệu thật vô cùng diễm lệ, hình như tất cả những nét gì tinh tuý nhất của vũ trụ này tất thảy đều tập trung để kết hợp lại thành nàng. Nàng đẹp đến nỗi chẳng biết dùng danh từ nào để tả, để gọi cho đúng. Mọi người có cảm tưởng đây là một tiên nữ vừa giáng trần !

Không ai hẹn mà cùng ồ lên một tiếng và cùng trầm trồ khen "quả thật là đẹp, đẹp như tiên nữ giáng trần"

Vừa trông thấy cô gái này, Dương Qua mừng rỡ như điên cuồng, vụt đứng thẳng dậy,chạy vụt ra khỏi chỗ chàng đang đứng, tay vung miệng reo :

- Cô nương ... Trời ơi, cô nương !

Nữ lang đó quả đúng chính là Tiểu Long Nữ.

Từ khi cùng Dương Qua chia tay mỗi người một ngả, Tiểu Long Nữ một mình trở lại Cổ mộ đài, sống những ngaỳ cô độc buồn bã, ngày đêm cô tịch, một bóng một đèn.

Hai mươi năm trước kia, nàng đã từng sống trong Cổ Mộ Đài hiu quạnh, cuộc đời như mặt nước hồ thu, không bao giờ buồn chán.

Nhưng từ khi gặp Dương Qua, hai người cùng nhau chung sống với nếp sống bình dị hồn nhiên trong Cổ Mộ đài, đôi khi nàng tự nhiên thấy cõi lòng xao xuyến như hồ thu gợn sóng. Tuy vậy, nàng vẫn cố tâm kìm hãm và vẫn giữ được tuyết sạch, giá trong, cả hai không bao giờ để lửa tình chi phối.

Khi trở về Cổ Mộ Đài lần sau, Tiểu Long Nữ cố nén lòng quên hết dĩ vãng và mọi nếp sống đã qua cùng chàng để tìm lại nếp sống bình thản trong cảnh hoang vu u tịch, nhưng không thể nào được nữa.

Lắm khi đang ngồi trên giường Hàn ngọc, nàng chợt nhớ tới hình ảnh Dương Qua đang nằm ngủ say sưa trên chiếc giường này, cà cũng chính trên cái bàn cạnh đấy, hàng ngày chàng lo rót nước bưng lại hầu mình. Bao nhiêu hình ảnh đó luôn luôn xâm chiếm tâm hồn nàng , khiến cho Tiểu Long Nữ không thể nào chăm lo tu luyện được nữa. Nàng đã trải qua cả ngày dài ngồi suy nghĩ vẩn vơ, thương hình nhớ bóng, bỏ cả ăn ngủ, kéo dài cuộc sống chập chơn như cơn ác mộng.

Cảnh thác loạn trong ngôi Cổ Mộ cứ keo dài ngày này sang ngày khác, không bao lâu đã được một tháng trường.

Tiểu Long Nữ không chịu đựng được nữa và một ngày kia, nàng quyết tâm đi tìm Dương Qua.

Suốt đời từ tấm bé sống trong Cổ Mộ, nàng đâu hiểu gì về cuộc sống bên ngoài, từ nhân tình thế thái đến quan niệm nhân sinh,cái gì nàng cũng thấy mờ mờ mịt mịt như chú Mán về đồng. Từ bé, nàng chỉ được sư phụ dạy cho phương pháp luyện phép "bài trừ thất tình lục dục" khiến nàng có thể trở thành một con người không bị xúc động vì ngoại vật, không hờn, không giận và không để mọi vật chi phối. Vì vậy, cái gì đối với nàng cũng đều mờ mịt, mỗi bước đường đều hoàn toàn bỡ ngỡ, ngơ ngẩn.

Đối với một người không bao giờ chung sống cùng xã hội bên ngoài mà phải vượt núi trèo đèo đi tìm Dương Qua giữa nhân thế bao la thì có khác chi là "mò kim đáy bể"

Bước ra khỏi Cổ Mộ, không biết là nên đi về hướng nào, nàng cứ đánh liều đi về phía trước mãi, tới đâu hay tới đó.

Trên đường đi gặp ai nàng cũng cứ tưởng họ đều quen biết Dương Qua nên thật thà hỏi : - Ông, bà có gặp Dương Qua đi về hướng nào hay không ?

Người nào nghe nàng hỏi cũng đều buồn cười, chỉ nhìn nàng lắc đầu, biết đâu mà chỉ ?

Thân gái dặm trường, đường đời không định hướng, nàng đánh liều cất bước, hễ đói bụng thì ghé nhà người ta, gặp cơm thì ngồi lại ăn, chứ không hề biết là ăn thì phải trả tiền, hoặc nếu không có tiền thì cũng phải hỏi chủ đồng ý trước mới được. Với tánh quá ư hồn nhiên và ngơ ngẩn của nàng khiến cho nhiều người phải cười nôn cả ruột.

Cũng may là nhờ nàng có nha sắc vô cùng xinh đẹp, nên ai ai trông thấy cũng đều có cảm tình ngay, ngoài ra còn có kẻ nghĩ rằng nàng là tiên nữ giáng trần để thử lòng nhân thế nên ai cũng hết lòng chiều chuộng dễ dãi cùng nàng. Không một người nào có ý ngăn trở hay làm khó khăn cho nàng từ bữa ăn tới chỗ ngủ.

Một ngày ka, nàng đang ngồi nơi quán trọ, chợt nghe thiên hạ bàn tán nơi Lục gia trang tại Kinh tử quan có tổ chức "Anh hùng yến" . Tiểu Long Nữ chợt nghĩ :

- Cứ nghĩ võ công của Dương Qua cũng đáng mặt anh hùng. Có lẽ hắn có tên dự Anh hùng yến cũng nên. Ta cứ đến đó may ra sẽ gặp.

Nghĩ vậy rồi nàng quyết tâm dò đường tìm tới Kinh Tử quan và hỏi trang viện họ Lục.

Hàng ngàn quan khách bốn phương về dự Anh hùng yến, nhưng trừ Hách Đại Thông, Doãn Chí Bình và Triệu Chí Kính là biết nàng còn bao nhiêu người khác không ai có thể ngờ được nàng là Tiểu Long Nữ. Tuy nhiên, mọi người thảy đều ngạc nhiên về dung nhan cực kỳ diễm lệ của Tiểu Long Nữ và đoán đây cũng là một dị nhân kỳ nữ.

Vừa nhận được nàng, Doãn Chí Bình giật mình kinh sợ tái mét cả mặt mày. Triệu Chí Kính theo dõi nhận thấy như vậy chỉ bĩu môi cười thầm.

Quách Tỉnh và Hoàng Dung nhìn cử chỉ của hai người thì lấy làm ngạc nhiên không hiểu vì sao, nên trong lòng rất nghi hoặc.

Nghe giọng nói quá ư tha thiết mừng rỡ của Dương Qua, Tiểu Long Nữ cảm động quá, run run giọng nói :

- Qua nhi ! Sao người đi đâu để ta mất công tìm kiếm vậy ?

Dương Qua đôi mắt đẫm lệ, sụt sùi một hồi lâu mới nói lên được :

- Sao, cô nương ... , cô nương có ... bị lạc đường không vậy ?

Tiểu Long Nữ lắc đầu đáp :

- Không đâu ! Ta đi tới đâu cũng hỏi thăm người ta nên không bao giờ bị lạc lối cả !

Dương Qua mừng quá nói dồn dập :

- Tôi định đi tìm kiếm cô nương, thời may cô tìm tới đây, may quá, mừng quá !

Hàng ngàn tân khách theo dõi cử chỉ của hai người đều ngạc nhiên hết sức. Giữa đám đông thiên hạ mà hai người cùng nhau trò truyện hình như đang ở trong phòng riêng, không chút ngại ngùng và xem như xung quanh không có một người nào nhìn họ.

Tiểu Long Nữ cầm chặt tay Dương Qua, lòng tràn ngập cả hoan hỷ lẫn sầu thương.

Hoắc Đô Vương tử trông thấy Tiểu Long Nữ đẹp quá cũng đứng sững ra nhìn chứ không biết là ai. Y không ngờ rằng đây là người đẹp Tiểu Long Nữ mà xưa kia y đã đến cầu hôn thất bại nơi Chung Nam Sơn.

Trông thấy người đẹp lại xoắn sít bên cạnh một anh chàng mặt mày lem luốc, áo quần rách vá trăm mảnh thì y có lòng ganh tỵ bèn mắng lớn :

- Đây là chốn anh hùng tranh tài cao thấp, đâu phải là chốn để cho trai giá tự tình ? Biết điều thì hãy tránh đi cho khuất mắt .

Dương Qua không thèm đáp lại, nắm tay Tiểu Long Nữ kéo nàng ra mé ngoài hiên ngồi bên nhau kể hết nỗi nhớ niềm thương trong những ngày xa cách .

Thấy hai người đã đi xa rồi, Hoắc Đô quay sang Chu Tử Liễu :

- Nếu ông không biết sử dụng binh khí thì chúng ta dùng quyền cước so tài cùng nhau cũng được.

Chu Tử Liễu cười lớn đáp :

- Đâu được ! Nước Trung Hoa là một nước văn hiến, lấy lễ nghĩ làm căn bản, lấy văn chương mà cầu hiền, dùng bút nghiên mà chọn bạn, đâu phải như phưỡng dã man mọi rợ như quân Mông Cổ chúng bay, chỉ biết lấy sự chém giết làm lẽ sống ?

Hoắc Đô nổi giận thét lớn :

- Ta cũng không cần dùng đến gươm giáo đâu !

Nói xong, y xoè quạt quạt liền mấy cái.

Chu Tử Liễu bước ngang qua một bên tránh né rồi dùng bút vẽ luôn mấy cái về phía Hoắc Đô.

Hoắc Đô thấy đối phương vừa xuất thủ lanh lẹ phi thường đã đem lòng kính nể không dám coi thường, hết sức thận trọng cố ý dò xét xem thuộc môn phái nào để tiện bề đối phó, hoặc tấn công phòng thủ.

Chu Tử Liễu thấy Hoắc Đô có vẻ ngán mình trong bụng mừng thầm bèn doạ lớn :

- Chỉ cần một nét bút của ta có thể vẽ tan một ngàn quân Mông Cổ đấy. Vậy điện hạ hãy cẩn thận đề phòng cho kỹ đấy nhé !

Nói vừa dứt lời, ông vun g bút điểm luôn mấy cái liên tiếp .

Hoắc Đô Vương tử tuy học tại Tây Tạng, chưa hề lăn lộn giang hồ, nhưng sự hiểu biết của Kim Luân Pháp Vương rộng như biển hồ, bao nhiêu võ công chốn Trung Nguyên ông ta đều biết qua hết cả. Biết rằng Hoắc Đô cần học mình tất cả những kinh nghiệm để uy hiếp quần hùng Trung Nguyên, nên Kim Luân Pháp Vương sẵn sàng đem hết tuyệt học của mình ra truyền thụ. Nhưng ngờ đâu, Chu Tử Liễu xuất thủ cầm bút điểm luôn mấy cái mà y vẫn chưa nhận định được là thuộc môn phái nào. Mỗi khi múa bút lên trời ý không biết chữ gìm, tác dụng ra sao, mà lạ thay, cứ mỗi lần Chu Tử Liễu đảo bút là y lại thấy rung chuyển cả các đại huyệt trong người.

Nguyên Chu Tử Liễu là một văn nhân nổi tiếng phương Nam, sau này theo học võ công nhưng không bao giờ xao nhãng nghiệp văn chương. Võ công càng tinh thục, văn pháp cũng được trau dồi, ông chú tâm phối hợp cả hai môn theo Thư Pháp Nhất Dương Chỉ thành một môn tuyệt kỹ. Đây là môn thư pháp do ông tự sáng chế. Nếu người khác muốn học lại cũng rất khó vì cần phải giỏi cả ba thứ : văn hay, võ giỏi và thuật Nhất Dương chỉ nữa mới được.

Thuật thư pháp này gọi là "Văn trung hữu võ, võ trung hữu văn" nghĩa là trong văn có võ, trong võ có văn, cần phải kiêm tài văn võ.

Theo quan niệm của Hoắc Đô thì bọn nhà văn chỉ là những nhà hữu nho, chỉ chuyên đọc Tứ thư, Ngũ Kinh, chuyên về thi phú, ngâm vịnh,trói gà không chặt, chẳng làm nên trò trống gì. Không ngờ hôm nay trước mặt y, một thư sinh trổ tài điểm huyệt bằng bút, mỗi nét bút tung ra là một đòn điểm huyệt vô cùng thần bí. Lạ hơn nữa là lối điểm bút liên miên bất tận, theo lối viết chữ loang loáng như thảo thư, ánh bút phấp phới như ánh sáng chói loà không biết đâu đề phòng hay né tránh cả.

Thấy lối hươi bút điểm huyệt của Chu Tử Liễu quá ư tinh diệu thần bí, Hoắc Đô Vương tử nghi nghi hoặc hoặc, nhìn trân trối chẳng biết nên tới hay nên lui.

Quách Tỉnh tuy không thạo về văn chương cho lắm nhưng cứ nhìn theo lối múa bút của họ Chu cũng phải gật gù thầm phục là kỳ diệu.

Còn Hoàng Dung thì ngay từ nhỏ đã được cha là Hoàng Dược Sư dạy học nhiều loại kinh pháp văn chương nên bà là một người cả văn võ đều thạo. Cho nên trông thấy thư pháp của Chu Tử Liễu biểu diễn với một lối lạ lùng, bà cũng thầm phục hết sức.

Quách Phù chạy lại gần mẹ, thỏ thẻ hỏi :

- Mẫu thân, Bác Chu dùng bút vẽ ngang vẽ dọc những gì mà có vẻ huyền diệu tài tình quá như vậy. ?

Hoàng Dung đang bận theo dõi nên không tiện giải thích lâu dài, chỉ đáp suông một câu :

- Đó là bút pháp của Phòng Huyền Linh.

Quách Phù không biết hỏi thêm :

- Phòng Huyền Linh là ai vậy, mẫu thân ?

Hoàng Dung giải thích đơn sơ cho con nghe :

- Phòng Huyền Linh là một vị đại thần đời Đường, ông ta có lối chữ viết như rồng bay phượng múa, nét chữ già dặn sắc sảo, tinh anh. Vì vậy nên thiên hạ bái phục và gọi ông là "giai thư linh phẩm".

Miệng thì nói chuyện với con gái, nhưng mắt bà không rời khỏi cuộc đấu giữa hai người.

Lúc bấy giờ, Chu Tử Liễu say mê với cuộc đấu , vứt bỏ cả mũ, hình thái không khác nào một kẻ điên khùng hay say rượu cả, vung tay viết những nét bút vừa mạnh, vừa dài, xem qua như rắn bò, rồng cuốn.

Quách Phù ngạc nhiên quá vội hỏi thêm Hoàng Dung :

- Mẫu thân, bác này có lẽ say rượu hay là nổi cơn điên rồi chăng ?

Hoàng Dung cười đáp :

- Không điên đâu. Nếu cho ông ấy uống thêm vài cốc mỹ tửu, ông ta càng viết đẹp hơn nữa đấy con ạ !

Nói dứt lời, Hoàng Dung xách bầu rượu lại gần nói lớn :

- Chu đại ca, hãy nếm vài ngụm rượu cho ấm lòng và thêm hứng thú !

Miệng nói, tay rót một chung đầy trao cho Chu Tử Liễu . Mùi rượu thơm phức xông ra ngào ngạt, nghe thoảng như mùi quế hương. Đây là loại rượu hảo hạng đặc biệt do Hoàng Dung mang từ đảo Đào Hoa về, tất cả quần hùng ở đây ai cũng công nhận là "thiên hạ đệ nhất mỹ tửu".

Chu Tử Liễu bước lùi ra sau mấy bước, đưa tay tiếp lấy chung rượu, uống một hơi cạn hết.

Hoàng Dung lại rót thêm chung thứ hai, Chu Tử Liễu cũng uống cạn luôn. Qua chung thứ ba thì Chu Tử Liễu đã cảm thấy đầu óc nóng bừng, tinh thần hứng thú, hình như được Phật bà ban cho nước cam lộ. Vì vậy nên ông bưng chung thứ ba uống từng ngụm nhỏ để kéo dài sự hứng thú.

Hoắc Đô nhìn thấy đối phương trong lúc đang chiến đấu cùng mình mà còn khề khà nhắm rượu có ý khinh thường thì nổi nóng dùng quạt định đập bể chung rượu, nhưng Hoàng Dung đã đoán biết từ trước nên kịp thu tay về ngay.

Chu Tử Liễu không thèm để ý tới Hoắc Đô, chỉ cúi đầu cảm tạ Hoàng Dung đãi rượu.

Hoàng Dung tươi cười nói :

- Đại ca, sau khi uống rượu vào rồi, chắc hẳn đại ca viết và múa đẹp lắm đấy !

Chu Tử Liễu vừa cười vừa đáp lời Hoàng Dung và cũng gián tiếp nói chuyện với Hoắc Đô:

- Gia Cát Khổng Minh xưa kia lâm trận, dù bên mình có hàng vạn tinh binh cũng vẫn giữ được thần trí vô cùng bình tĩnh thư thái an nhàn, không bao giờ nôn nóng hấp tấp. Kẻ hèn này ngày nay chỉ đua tài cùng một kẻ dưới tay, lòng dạ không hơn gì lang sói, thì cần gì phải nói gấp đến chuyện hơn thua ?

Nhìn trời cười thêm một lúc nữa, ông nói tiếp :

- Sẵn có tửu hứng, tôi xin viết theo lối bút pháp của Trương Húc thời xưa để Hoàng Bang chủ thưởng thức nhé. Chu Tử Liễu này tuy không hơn nhiều kẻ trượng phu Trung Nguyên, nhưng cũng không đến nỗi bị thịt như bọn man rợ nơi đây đâu !

Nói xong, ông ta hươi bút viết luôn bài "Thánh tảo" ( nghĩa là chữ viết đẹp như thánh ) của Trương Húc cho Hoàng Dung và quần hùng xem.

Kim Luân Pháp Vương tuy ngồi nhắm mắt tham thiền, nhưng vẫn chú ý theo dõi cuộc tranh tài giữa đôi bên. Khi thấy bên này đưa ra một nhà nho múa bút ba hoa để kéo dài thời giờ thì bực mình gọi Hoắc Đô :

- Ai Cổ Tư Kim con, sao con mê muội lắm vậy ? Còn thuật "thất nhi thất nhi" đâu rồi không dùng tới ?

Quần hùng nghe nói chẳng hiểu y muốn gì cả. Duy có Hoắc Đô Vương tử đã chợt nghĩ ra :

- Sư phụ không muốn mình chậm trễ kéo dài thì giờ và muốn mình dùng thuật gió lốc để tấn công đối phương chứ gì ?

Nghĩ vậy, y dung nội lực, chúm môi thổi phù một cái, tiếp đo tay trái phất mạnh , tay phải quạt lia, khiến cho một cơn gió lốc thật mãnh liệt thổi phụt về hướng Chu Tử Liễu.

Trận cuồng phong xuất phát từ ống tay áo và cánh quạt của Hoắc Đô ào ào thổi tới như một cơn lốc. Sức gió phạt ngang qua một chút mà nhiều kẻ trong quần hùng không đứng vững phải ngã lăn ra như có một sức mạnh vô hình nào đó cuốn theo và xô đẩy.

Hùa theo luồng gió lốc, Hoắc Đô còn chúm môi hú lên những tràng dài nghe rất rùng rợn như ma kêu quỷ rống để áp đảo tinh thần đối phương.

Hoắc Đô còn dùng quạt quạt lia lịa để tăng thêm cường lực cho trận quái phong. Đây là một thuật thổi gió phun sấm của Mông Cổ, một thuật đặc biệt dùng để khống chế tinh thần địch. Trần cuồng phong mạnh đến nỗi làm tróc cả mấy tảng đá to ở ngoài hoa viên, và nhiều người phải lật đật đứng sang một bên để khói bị luồng gió thổi té. Lắm kẻ hoảng sợ chạy ra đằng sau nấp vào tường nhà hay nhảy luôn xuống giếng.

Hoàng Dung thấy Dương Qua và Tiểu Long Nữ đang ngồi sát vai nhau trên thềm đá gần đó, cách đấu trường hơn một trượng, đúng ngay vào đầu luồng gió đang thổi cuốn tới. Mặc cho gió cuốn, cả hai vẫn điềm nhiên như không có chuyện gì xảy ra, vẫn nói chuyện như thường. Cả một trận cuông phong xô nhà bứng đá, làm dạt cả cây cối, thế mà đối với hai người không khác nào là một cơn gió chiều hè, không thèm tránh né và cũng không thèm quan tâm đến trận chiến giữa Hoắc Đô và Chu Tử Liễu.

Hoàng Dung ngạc nhiên vô cùng. Từ đó bà chú ý theo dõi Dương Qua và Tiểu Long Nữ hơn là trận đấu của hai người. Bà nghĩ bụng :

- Cô gái này có vẻ lạ lùng, và nhất định là võ công phải rất cao siêu tuyệt đỉnh. Nàng rất thân mật và thắm thiết cùng Qua nhi. Chẳng hiểu nàng thuộc môn phái nào mà xưa nay ta chưa từng quen biết.

Lúc bấy giờ Tiểu Long Nữ đã ngoài hai mươi tuổi. Vì từ nhỏ sống trong Cổ Mộ, không mấy khi tắm ánh nắng mặt trời nên nước da nàng hơi xanh mét, tuy nhiên vẫn mịn màng như nhung. Vì tập luyện nhiều nên nàng già đi hơn mấy tuổi. Thoạt nhìn qua nàng có vẻ như một nữ lang trạc chừng hai mươi bảy, hai mươi tám tuổi.

Ngày còn sống trong Cổ Mộ, chưa gặp Dương Qua, lòng nàng thảnh thơi không vương vẫn chút tình cảm, vui, buồn, mừng, giận thì nàng trẻ hơn tuổi mình có đến mấy năm, nghĩa là khi đó nàng chỉ phỏng chừng mười hai, mười ba tuổi mà thôi.

Từ lúc gặp Dương Qua , bị tình cảm chi phối, và nhất là sau thời gian cách biệt , ngày đêm nhớ nhung trông đợi, thất tình lục dục đã dày vò tinh thần, thể xác, nàng như bị bệnh tương tư, nên đã già đi rất nhiều. Kinh nghiệm với bệnh tương tư suốt thangsg trong Cổ Mộ đài, lúc bấy giờ Tiểu Long Nữ mới nghĩ lại lời giáo huấn của sư phụ là đúng. Nàng tự thấy, nếu mình dốc lòng tu luyện , đừng để hương vị yêu đương lung lạc thì dẫu thọ tới trăm tuổi cũng vẫn còn trẻ như người năm chục tuổi mà thôi, chứ không đến nỗi bị già trước tuổi như hiện tại.

Nhưng dưới mắt của Hoàng Dung thì Tiểu Long Nữ có nhiều cử chỉ hết sức hồn nhiên , thanh nhã, sắc diện phúc hậu. Đem so sánh với con mình thì không khác gì bao phấn với bì vôi, con mình không thể nào sánh kịp, từ sắc đẹp cho đến nét duyên dáng.

Mải mê nhìn ngắm và suy xét về người con gái đang ngồi tâm sự cùng Dương Qua, Hoàng Dung bỗng nghe Chu Tử Liễu thét lớn :

- Thôi, đừng hòng dùng ma thuật để lung lạc ta. Trận quái phong của mi đâu có lợi hại gì, hãy mở to mắt ra xem bút pháp của ta đây !

Nói xong, ông dùng bút hươi mạnh thành những nét dọc ngang như mạng nhện giăng khiến cho Hoắc Đô đâm ra hoảng hốt sợ hãi nghĩ :

- Té ra thuật thổi gió phun sấm của mình chẳng có nghĩa lý gì với tên thầy đồ này !

Y đang ngẩn ngơ chưa biết tính lẽ nào thì bỗng Kim Luân Pháp Vương nói lớn :

- Mã mễ bát mễ, cổ tư hắc tư...

Toàn thể quần hùng không ai hiểu rõ ý nghĩa của tám chữ này nên thảy nhìn nhau ngơ ngác, sững sờ.

Riêng Chu Tử Liễu khi nghe Kim Luân Pháp Vương mách nước cho Hoắc Đô thì tự nghĩ:

- Mặc kệ cho bọn bay bày vẽ lẫn nhau. Bây giờ bày trò gì ta cũng phá được. Ráng mà thi thố cho hết tài, chưa biết kẻ nào thắng, kẻ nào thua đấy nhé ?

Nghĩ xong, ông đổi hẳn bút pháp. Lúc bấy giờ ông không hươi bút viết thành chữ như lúc trước mà dùng cán bút đâm vào như một người thợ đá đang đục gọt để làm tượng.

Quách Phù thấy kỳ lạ quá, vỗ vai mẹ hỏi :

- Mẫu thân, sao bác ấy lại khắc chữ vào đá để làm gì vậy ?

Hoàng Dung mỉm cười đáp :

- Sao con kém thông minh thế ? Bác Chu khắc bia đá theo lối chữ triện thời xuân thu đã khắc vào bia đá đó. Con có đọc được chữ gì không ?

Quách Phù chú mục vào nhìn theo, thấy nét ngang nét dọc rối rít như một bức địa đồ, không phân biệt được chữ gì hết. Nàng nhìn lên hỏi mẹ :

- Bác ấy đang viết chữ gì vậy ? Sao mà khó đọc quá !

Hoàng Dung cười đáp :

- Đây là lối chữ triện cổ, khó đọc lắm, ngay như mẹ đây còn khó khăn , lúng túng huống chi là con, đọc sao ra nổi ?

Quách Phù vỗ tay nói lớn :

- Nếu mẫu thân mà đọc còn khó khăn thì cái thằng rợ Mông Cổ này làm sao mà đọc cho được ?

Hoắc Đô Vương tử nghe Quách Phù ngạo mình là thằng rợ Mông Cổ thì nổi giận và nghĩ bụng không biết Chu Tử Liễu đem loại chữ này ra thi thố để làm gì vậy ? Y bèn xáp lại, vung quạt quạt phẩy mấy cái vào người Chu Tử Liễu.

Thật ra Hoắc Đô đâu biết được rằng , cứ mỗi nét bút của thuật "Nhất Dương Chỉ" có thể phát huy lên tất cả sức mạnh trong người. Vì vậy cho nên mặc dù y cố sức quạt mạnh, nhưng đối với Chu Tử Liễu không hề bị ảnh hưởng. Ngoài ra, y quạt càng mạnh, thì họ Chu càng viết lanh lẹ và đẹp hơn là đằng khác. Trong lúc xuất kỳ bất ý, Chu Tử Liễu lanh tay viết luôn mấy chữ lên quạt của Hoắc Đô nữa.

Hoắc Đô vội vàng rút tay lại và hỏi lớn :

- Vì sao nhà ngươi lại viết chữ "võng" và chữ "lưới" trên quạt của ta như vậy ?

Chu Tử Liễu cười ha hả đáp :

- Ngu quá, đó là chữ "nhĩ" chứ đâu phải là chữ "võng" như mày nói !

Rồi thuận tay, ông viết thêm luôn một chữ khác nữa.

Hoắc Đô hỏi :

- Thế chữ này có phải là chữ " nguyệt" là mặt trăng không ?

Chu Tử Liễu lắc đầu đáp :

- Không phải đâu ! Chữ đó là chữ "nãi nghĩa là thẹn đó

Hoắc Đô nổi nóng và thẹn thùng, vội vàng giằng quạt ra không cho viết nữa, nhưng Chu Tử Liễu cũng đã viết được hai chữ khác .

Hoắc Đô nổi nóng vùng mắng lớn :

- Đồ man rợ !

Chu Tử Liễu cất tiếng cười ha hả nói lớn :

- Phải, mi là đồ man rợ chứ còn ai nữa !

Bao nhiêu quần hùng dều oán hận quân Mông Cổ đã xâm lấn Trung Nguyên, giày xéo Hán tộc, ai ai cũng nuôi chí phục thù rửa hận, nên nay nghe Chu Tử Liễu mắng tên Hoắc Đô Vương tử Mông Cổ là đồ man rợ thì rất lấy làm hả hê, mát lòng mát dạ vô cùng.

Nãy giờ bị Chu Tử Liễu dùng thuật "chân, thảo, triện, lệ" trong "Thư pháp Nhất Dương Chỉ" ra áp đảo, Hoắc Đô không thể nào thi thố được tài năng sở trường nên trong lòng rất căm tức. Hắn nổi nóng dùng quạt đập liên tiếp vào khắp nơi trên người của Chu Tử Liễu quyết tâm hạ độc thủ.

Không ngờ y càng ra tay mạnh chừng nào thì càng lộ nhiều sơ hở để Chu Tử Liễu áp dụng thuật điểm huyệt theo "Nhất Dương chỉ pháp liên hoàn" . Bị trúng đòn, Hoắc Đô cảm thấy đầu óc choáng váng, mặt mũi tối tăm, hai tai nóng bừng rồi ngã ra ngất xỉu.

Hai anh em họ Võ thấy sư bá dùng thuật Nhất Dương chỉ hạ được Hoắc Đô Vương tử thì trong lòng hân hoan vô hạn, muốn chạy ào ra đấu trường để tung hô bác lên cao cho thiên hạ anh hùng trông rõ, đồng thời cũng là một dịp để ra oai với Quách Phù.

Nhưng hai người chưa kịp lại gần bỗng nghe Chu Tử Liễu la ối lên một tiếng thất thanh rồi ngã quay ra mặt đất. hai chân giãy lên đành đạch.

Thấy Chu Tử Liễu bất ngờ bị thương nặng, quần hùng thảy đều ngạc nhiên nhưng chưa biết nguyên nhân tại vì sao, nên khắp nơi đã nổi lên những lời bàn tán xôn xao náo nhiệt.

Nguyên trong khi thấy Hoắc Đô bị trúng đòn ngã lăn ra đất, Chu Tử Liễu động lòng từ tâm không muốn hạ độc thủ và bước lại gần phất tay áo để giải huyệt cho hắn. Khi được giải huyệt rồi, Hoắc Đô đã không biết cảm ơn mà còn manh tâm quyết hại Chu Tử Liễu bằng một đòn độc thủ hèn hạ. Hắn lập tức xoay cán quạt lại, hướng về phía Chu Tử Liễu rồi bấm nút kín khiến cho bốn cây đinh tẩm độc từ trong quạt bắn ra nhanh như tên lao thẳng vào mình họ Chu.

Cứ theo quy luật võ lâm thì khi kẻ nào đã bị thua, không được dùng ám khí để hại lén. Vì đinh ninh vào quy luật ấy nên Chu Tử Liễu đã đến gần giải huyệt cho Hoắc Đô mà không đề phòng trước. Khi vừa giải huyệt xong, họ Chu đứng quá gần Hoắc Đô cho nên lúc bốn mũi kim độc lao ra, Chu Tử Liễu không thể nào tránh né cho kịp. Trên bốn mũi độc đinh này có tẩm sẵn một loại nhựa của một giống côn trùng từ bên ngoài Tây Tạng, rất nguy hiểm nếu đã thấm vào máu. Vì vậy nên Chu Tử Liễu bị thuốc độc hành giãy giụa như hổ phải tên.

Nhận thấy Hoắc Đô dùng thủ đoạn hèn hạ ngầm hại người chiến thắng, quần hùng nhao nhao lên phản đối, lắm kẻ còn chỉ thẳng vào mặt y mắng lớn :

- Thật là đồ tiểu nhân vô liêm sỉ, đã thua rồi mà còn dùng ám khí hại người !

Hoắc Đô cười hềnh hệch đáp rất tự nhiên :

- Đó chỉ là phương pháp chuyển bại thành thắng chứ có lạ gì đâu mà la lối như vậy ? Nếu Chu huynh dùng ám khí hại Tiểu Vương này, chắc các vị cũng bằng lòng lắm chứ ? Hơn nữa, trước khi giao đấu không thấy nói rõ về điểm này bao giờ.

Quần hùng thấy y mặt dày mày dạn như thế, già miệng cãi chày cãi cối nên không ai thèm tranh luận nữa

Quách Tỉnh vội vàng bước lại bồng Chu Tử Liễu lên, thấy cả bốn mũi đinh độc ghim khắp chỗ xung quanh miệng, và mặt mày Chu Tử Liễu đã thất sắc, cười không ra cười, mếu không ra mếu nữa.

Biết loại đinh này có tẩm độc nặng lắm nên Quách Tỉnh dùng thuật điểm huyệt , điểm luôn vào các đại huyệt trên người Chu Tử Liễu khiến cho máu độc không thể chảy vào tim được nữa rồi quay sang hỏi Hoàng Dung :

- Bây giờ nên tính sao bây giờ ?

Hoàng Dung cúi đầu suy nghĩ :

- Muốn có thuốc giải độc thế nào cũng phải cầu đến Kim Luân Pháp Vương hay Hoắc Đô vương tử. Chỉ hai người này có thể trừ được độc dược, tuy nhiên, cầu được họ không phải là một chuyện dễ.

Vì còn đang do dự chưa biết dùng cách nào nên Hoàng Dung đứng lặng thinh không đáp. vẻ mặt đăm chiêu buồn buồn.

Ngư Nhân trông thấy sư đệ thọ độc nặng nề , trong lòng vừa lo vừa giân, liền xắn tay áo định chạy lại tấn công Hoắc Đô ngay.

Nhưng Hoàng Dung chợt nghĩ :

- Quân Mông Cổ đã thắng một trận rồi. Nếu để Ngư Nhân ra đấu, rủi thua thêm nữa thì hư việc lớn. Hơn nữa, sức ông này đâu có thể chọi được với Đạt Nhĩ Ma.

Nghĩ vậy, bà gọi lớn :

- Ngư huynh, xin hãy thong thả, đừng nóng nảy quá như thế !

Ngư Nhân dừng chân nhìn bà nói :

- Thưa, Hoàng Bang chủ có điều gi dạy bảo ?

Hoàng Dung nhỏ nhẹ nói :

- Xin đại huynh hãy thong thả, chúng ta cần bàn tính lại cho chu đáo trước khi hành động. Mình đã thua một keo rồi. Nếu keo này không trù liệu cho kỹ, rủi thua chúng lần nữa thì đại cuộc hỏng hết.

Ngư Nhân cho là Hoàng Dung nói có lý nên cố dằn tâm không xông ra gây sự nữa.

Hoắc Đô dùng ám khí hạ được Chu Tử Liễu rồi, tự cho là thắng thế, vênh mặt nhìn quanh bốn phía, hiu hiu tự đắc, tưởng như nơi đây không ai có thể đương cự cùng mình.

Đang hứng chí nhìn quanh khắp mặt quần hùng, chợt ngó ra mái hiên, thấy Dương Qua và Tiểu Long Nữ đang ngồi sánh vai nhau trò chuyện. Hai người vừa nói vừa bứt những lá cây xung quanh khẽ xoa lên mặt đất, không thèm để ý đến mọi sự xung quanh. Hoắc Đô sinh lòng ganh tỵ và cảm thấy chướng mắt , cơn giận dâng lên ngùn ngụt, cầm quạt trỏ hướng đó mắng lớn :

- Quân súc sinh vô liêm sỉ, nơi đây không phải là chỗ để tình tự trai gái. Muốn yên thân thì xéo đi cho khuất mắt ta ngay bây giờ.

Dương Qua từ khi gặp được Tiểu Long Nữ thì trong lòng hân hoan sung sướng tới cực độ. Đối với chàng, ngoài Tiểu Long Nữ ra không còn điều gì đáng quan tâm nữa. Vì vậy nên chàng mải mê chuyện trò cùng nàng mà không cần để ý đến trận đấu giữa Hoắc Đô và Chu Tử Liễu. Trong lúc này dù thiên hạ có giết nhau, trời nghiêng đất lở thì cả hai cũng chẳng quan tâm.

Dương Qua nghĩ :

- Bao nhiêu năm chung sống trong Cổ Mộ , Tiểu Long Nữ đã xem mình như ý trung nhân, dám cùng nhau sống chết, thật cũng đã chí tình. Hèn chi có một dạo nàng ngỏ ý hỏi muốn làm vợ mình có được chăng, nhưng vì câu hỏi này quá bất ngờ nên mình phân vân chưa biết đáp sao cho phải, do đó nàng nổi giân cất bước ra đi biệt tăm không tìm ra tông tích. Những tưởng bóng hồng đã mất theo ngàn mây cỏ nội, không bao giờ hội ngộ để giáp mặt trao lời. Ngờ đâu nàng vẫn nặng tình thương nhớ, chẳng nài ngàn dặm lặn lội tìm ta, chắc không ngoài mục đích hỏi lại câu hỏi :"có thể làm vợ ta được chăng ?" .Nhưng suy nghĩ cho kỹ, nàng là sư phụ mình,lẽ nào ta dám vượt vòng lễ giáo để đi lấy cô nương làm vợ ?

Trong thời gian cùng chung sống trong Cổ Mộ, không biết tình yêu nảy nở từ lúc nào, nhưng cả hai người đều cố dùng hết nghị lực để kìm hãm và che đậy. Mãi đến khi sắp từ biệt không ngờ cô nương lại bồng bột biểu lộ tâm sự thầm kín trong lòng đem diễn tả ra bằng một câu hỏi vừa ngây thơ, vừa chân thật,chẳng chút ngại ngùng,

Bao nhiêu những niềm suy tư che đậy trong lòng, Dương Qua đem ra thổ lộ hết cùng Tiểu Long Nữ.

Trước kia Tiểu Long Nữ đã khắc chế được thất tình lục dục , không bao giờ nghĩ đến yêu đương, và cũng không hề yêu ai. Lòng nàng khi nào cũng bình thản như mặt nước hồ thu không gợn sóng, chẳng bao giờ giận hay bực tức ai cả . Hơn nữa, trong Cổ Mộ đâu có ai có thể khiến cho nàng phải giận hờn hay nhung nhớ đâu.

Nhưng từ khi gặp Dương Qua , không hiểu tình yêu từ lúc nào đã nảy nở, càng khống chế, nó càng thêm bồng bột, muốn quên cũng không quên được, muốn rứt cũng rứt không ra. Đối với nàng, lúc này, càn khôn đều là nhỏ bé, chỉ có tình Dương Qua là lớn mà thôi.

Đang khát vọng tình yêu, nay bỗng gặp nhau nên Dương Qua chẳng cần xem thiên hạ ra gì, mà Tiểu Long Nữ cũng không nề hà lễ nghi của thế tục.Cả hai cùng một ý tưởng :

- Yêu nhau, nay mới được gặp nhau là thoả mãn lắm rồi, cần chi tới tiếng đời thị phi hơn thiệt. Mình chỉ làm theo ý mình, khách bàng quan không quan hệ lắm. Vì vậy nên mặc cho hàng ngàn người đang có mặt xung quanh đây., mặc cho cục diện căng thẳng đáu tranh một còn một mất , hai người vẫn thản nhiên kề vai sát má trò chuyện cho phỉ tình.

Mải mê với câu chuyện tâm tình, Dương Qua không nghe được những lời quát tháo vô lễ của Hoắc Đô Vương tử. Đối với tất cả mọi người khi đang ngụp trong bể tình ái thì đâu có kể gì nhân tình thế thái bên ngoài. Vì vậy nên mặc cho hắn hò hét, trợn mắt ra oai , Dương Qua và Tiểu Long Nữ vẫn không có một lời đáp lại.

Thấy hai người không thèm đếm xỉa tới lời nói của mình, Hoắc Đô càng bực tức hơn nữa, định xông tới đá cho mấy cái. Nhưng vừa lúc đó , Kim Luân Pháp Vương dùng tiếng Tây Tạng bảo :

- Hoắc Đô , con đã thắng được một keo rồi, hãy tiếp tục luôn keo khác đi thôi !

Nghe lời thầy nói, Hoắc Đô không dám cãi, chỉ nguýt Dương Qua một cái rồi nhìn khắp quần hùng lên tiếng :

- Tiểu Vương này đã thắng được keo đầu. Qua keo thứ hai sẽ do sư huynh Đạt Nhĩ Ma đảm nhận. Vậy bên đó xem ai có đủ tài năng xin đề cử ra tranh tài cao thấp.

Hoắc Đô tuyên bố vừa dứt câu, thì Đạt Nhĩ Ma vận áo cà sa màu đỏ, tay cầm một thứ binh khí lạ lùng, hùng dũng bước ra giữa đấu trường hiên ngang đợi đối thủ.

Mọi người chú ý vào món vũ khí của y thì thấy đó là một loại vũ khí mà Phật giáo thường gọi là "Kim cương giáng ma chữ" bề dài trên bốn thước, sức nặng ngàn cân, trên đầu có miệng loa ra, toàn thân bóng loáng như làm bằng vàng khối.

Đạt Nhĩ Ma nhìn hướng về phía quần hùng chào tay làm lễ mười cái rồi quay lại múa cây chày giáng ma chữ lên trời.

Cây chày Kim cương giáng ma chữ bị tung vút lên cao đụng phải nóc nhà khiến cho ngói gỗ xô xác nghe rào rào rồi từ trên nóc lao xuống cắm sâu vào lòng đất, ngập trên hai thước.

Với thân hình mảnh dẻ, cây gậy nặng nề mà chỉ tung nhẹ một cái đã có oai lực chừng ấy, quả là y có một công lực phi thường. Chỉ có một đòn ra oai dằn mặt của Đạt Nhĩ Ma đã khiến cho quần hùng kính nể.

Hoàng Dung nghĩ :

- Cứ như tài nghệ và sức lực của tên này thì Tỉnh ca thừa sức chế ngự. Nhưng nếu Tỉnh ca xuất trận , sau này ai có đủ sức chống lại Kim Luân Pháp Vương ? Thôi thì dù sao ta cũng liều một phen thử xem sao !

Nghĩ vậy, bà vung cây gậy trúc đả cẩu xông ra tiếp chiến.

Quách Tỉnh trông thấy thất kinh, vội đưa tay ra ngăn cản :

- Bà đang còn yếu lắm, không nên liều lĩnh. Không thể nào đánh với hắn được đâu.

Bị chồng ngăn cản, Hoàng Dung suy nghĩ :

- Nếu phen này thua nữa thì nguy hiểm lắm. Nhưng thấy bọn chúng khinh thường quá không thể nào chịu nổi.

Trong khi bà đang lưỡng lự chưa biết nên giải quyết thế nào thì Ngư Nhân, đệ tử của Nhất Đăng đại sư bước lại nói :

- Thưa Hoàng Bang chủ, để tôi ra chiến đấu cùng tên ác tăng này để rửa hận cho sư đệ tôi và đồng đạo võ lâm Trung Nguyên.

Không còn cách nào để từ chối, Hoàng Dung đành gắng gượng nhận lời, nhưng bà dặn thêm :

- Xin sư huynh hãy cẩn thận cho lắm kẻo ...

Bà chưa nói hết câu thì hai anh em họ Võ đã mang cặp thiết tương ( cây chèo bằng sắt ) dâng lên. Ngư Nhân cầm lấy rồi tung người ra giữa trung quân, hai mắt toả hào quang, tay vung tít đồi thiết tương lộng gió ào ào.

Đạt Nhĩ Ma vội cầm chày đưa lên đỡ.

Chèo sắt giáng xuống , chày vàng hất lên, hai món vũ khí chạm nhau nghe xoảng một tiếng chát tai khiến quần hùng thất sắc. Cả hai đối thủ đều thối lui mấy bước , hổ khẩu đều toét , máu chảy đầm đìa.

Cả hai đều ngán tài và sức lực của nhau nên chẳng ai dám xem thường đối phương, đứng cách xa nhau mấy bước trợn mắt nhìn nhau trừng trừng.

Đạt Nhĩ Ma dùng tiếng Mông Cổ chủi thề, Ngư Nhân cũng dùng tiếng Đại lý chủi ại.

Một chặp sau, cả hai lại xông vào vòng chiến nữa.

Trận đấu diễn ra vô cùng ác liệt, dùng toàn những thế độc quyết hạ nhau chứ không khinh thường và cười cợt như trận đấu trước giữa Chu Tử Liễu và Hoắc Đô.

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 35 : Dương Qua trổ tài.

Ngày còn hầu hạ dưới trướng sư phụ Nhất Đăng, Ngư nhân còn mãng biệt danh là "điểm thương ngư ẩn" ngày ngày dùng đôi chèo sắt bơi thuyền đi ngược dòng sông. Mặc dù luồng nước chảy ngược như thác lũ nhưng ông vẫn xem thường, hai tay chèo đưa con thuyền vượt sóng vùn vụt, như một động cơ, không thấy gì là mệt nhọc,

Cũng nhờ cái sức mạnh như cọp ấy mà ông được Nhất đăng đại sư yêu mến vô cùng, bản chất thẳng thắn và cương trực , không phải như Chu Tử Liễu chỉ chuyên về thơ phú văn chương, ông là biểu hiện của sức mạnh, nên trong trận này giao chiến cùng Đạt Nhĩ Ma quả thật là xứng tài vừa sức.

Xưa nay, Đạt Nhĩ Ma tự cho mình là người dõng lược vô cùng, không ngờ ngày nay gặp phải vị thần dõng lược của Đại lý cũng vô cùng mạnh mẽ, cho nên cả hai cảm thấy cùng phấn khởi, hăng say tấn công tới tấp, không ai chịu nhường ai cả.

Trong keo đầu giữa Chu Tử Liễu và Hoắc Đô thì trong trận đấu có phát ra luồng gió mạnh, khiến quần hùng phải tránh xa, thì nay trong trận đấu này tuy không có luồng gió nhưng không ai dám đứng gần và cũng đều đưa tay bịt tai lại vì cũng không ai chịu nổi với những tiếng binh khí chạm nhau đinh tai nhức óc.

Dưới ánh sáng của muôn vàn ngọn đuốc, cầy chày Kim cương của Đạt Nhĩ Ma quay tít như rồng vàng uốn khúc tung hoành giữa không trung , trong lúc đôi chèo sắt của Ngư Nhân như hai làn khói mờ bao quyện lấy xung quanh khi ẩn, khi hiện vô cùng ảo diệu.

Hai người càng đánh càng hăng trận đấu mỗi lúc một căng thẳng , ác liệt khiến cho quần hùng phải nín thở và hồi hộp để theo dõi từng giây phút . Từ xưa tới nay, chưa có một trận đấu nào xứng sức và ác liệt như trận đấu này.

Bỗng trong đám đông có người buột miệng nói rằng :

- Không biết xưa kia Dực Đức dạ chiến cùng Mạnh Khởi có được hào hứng và kịch liệt như trận đấu này không nhỉ ?

Quách Tỉnh và Hoàng Dung theo dõi, tinh thần căng thẳng, mồ hôi ướt cả mình. Quách Tỉnh hỏi vợ :

- Bà thử xem bên ta có hy vọng thắng được không ?

Hoàng Dung nói :

- Chưa thể đoán ngay bây giờ được đâu ?

Thật ra trong thâm tâm Quách Tỉnh cũng biết rõ là lúc này chưa thê nào đoán ra được thắng bại về tay ai, tuy nhiên ông cứ hỏi Hoàng Dung và hy vọng bà sẽ trả lời là Ngư Nhân thắng cho đỡ hồi hộp.

Trận đấu kéo dài thêm vài chục hiệp nữa nhưng sức lực hai người vẫn không giảm sút, tinh thần còn có vẻ hăng hơn trước nữa.

Ngư Nhân vừa đánh vừa gầm gừ, có lúc hò lên như bò kêu, cọp rống.

Đạt nhĩ Ma lấy làm lạ hỏi :

- Mi nói cái gì thế ?

Vì Đạt Nhĩ Ma hỏi bằng tiếng Tây Tạng nên Ngư Nhân nghe không hiểu gì hết, bèn hỏi lại :

- Mi hỏi cái gì vậy ?

Đạt Nhĩ Ma cũng không hiểu tiếng Trung Nguyên .Hai người hỏi qua hỏi lại, một chặp sau nổi đoá chửi nhau ầm ỹ. Chửi đã rồi xuất hết tất cả các đòn hiểm độc để cố gắng chiếm phần thắng lợi.

Đấu trường bây giờ đã mở rộng chứ không ở trong phạm vi hẹp như trước nữa. Gặp lúc chiến đấu quá ác liệt gay go, hai người đuổi nhau chạy khắp nơi, bao nhiêu bàn ghế đổ gãy lung tung, chén bát bể văng tung tứ phía. Cả một toà đại sảnh và một hoa viên mênh mông đã biến thành thao trường, lắm lúc khiến những người đứng xem phải lanh chân chạy ra xa để khỏi phải mang hoạ bất ngờ vì tên bay đạn lạc.

Nghe tiếng binh khí chạm nhau mỗi lúc một lớn,Kim Luân Pháp Vương hé mắt ra nhìn , trong lòng lo ngại :

- Nếu cứ để đấu mãi như thế này , dù Đạt Nhĩ Ma có thắng ắt cũng phải trọng thương.

Suy nghĩ xong, ông ta dự định cất tiếng gọi đệ tử, nhưng thấy hai bên đang dấu hăng quá nên lại thôi đi.

Hai người quyết chiến càng lúc càng dữ dội, càng quyết liệt không khác gì hai con cọp giành mồi. Hai món binh khí xoắn tít vào nhau như cặp mãng xà đang quyện lấy nhau và quay tít, nhìn không kịp.

Dưới ánh đuốc, bóng chày vàng của Đạt Nhĩ Ma loé ra chói mắt trông tựa như một con kim xà. Đôi mái chèo sắt của Ngư Nhân vờn lên như cặp thuông luồng đen , trông rất ngoạn mục.

Trong lúc đang hăng say chiến đấu, bỗng choeng một tiếng rùng rợn, và cả hai cùng thét lên một tiếng vì hoảng hốt. Quần hùng nhìn kỹ thì một mái chèo đã bị cây Kim Cương đập gãy làm hai khúc văng bổng lên cao, lộn luôn mấy vòng rồi nhắm phía Tiểu Long Nữ đang ngồi bay tới.

Tiểu Long Nữ đang mải mê chuyện trò cùng Dương Qua không để ý. Thình lình khúc chèo văng tới xắng xuống đất, chạm phải mấy ngón chân cuả nàng.

Nàng giật mình la ối một tiếng , rồi đứng dậy , đưa tay bóp chân miệng xuýt xoa.

Dương Qua vội hỏi :

- Cô nương bị thương chỗ nào ? Có đau lắm không ?

Tiểu Long Nữ nhăn mặt đưa tay chỉ xuống chân, xuýt xoa mãi.

Dương Qua thấy vậy tức sôi lên, quay lại phía đấu trường cố tìm xem kẻ nào đã ném thanh sắt này trúng chân cô nương bị thương. Ngay trong khi đó, Ngư nhân đang cầm một nửa mái chèo cãi lý cùng Đạt Nhĩ Ma :

- Tôi đâu có thua, dù sao tôi cũng còn có một mái chèo và thừa sức tiếp tục chiến đấu.

Đạt Nhĩ Ma lắc đầu lia lịa :

- Không được, vũ khí gãy rồi thì cũng tính như là đã thua, cãi lý làm chi nữa.

Đạt Nhĩ Ma biết địch thủ là tay lợi hại , nếu để trận đấu kéo dài, chưa chắc mình đã thắng nổi nên hắn cố tình già miệng để giành phần thắng cho xong.

Hoắc Đô Vương tử cũng thừa dịp chạy lại hô lớn :

- Như thế trong ba keo, thì chúng tôi đã thắng hai rồi. Vậy chức Minh Chủ võ lâm phải thuộc về sư phụ tôi. Các ngươi không thể ...

Hắn nói chưa dứt lời thì Dương Qua đã sấn tới trước mặt Ngư Nhân sừng sộ bảo :

- Chúng ta vô can vô cớ, tại sao ngươi dám dùng mái chèo sắt ném trúng chân cô nương ta làm bị thương hả ?

Ngư nhân ngạc nhiên ấp úng đáp :

- Tôi .. tôi ... đâu có ...

Nhưng Dương Qua đã nạt lớn :

- CHính vũ khí của ngươi đã làm cô nương ta bị thương nơi ngón chân đấy. Biết điều thì lại xin lỗi ngay lập tức.

Ngư Nhân trông thấy Dương Qua còn trẻ tuổi, cho rằng "ngựa con chưa biết sợ cọp nên làm thinh không cãi lại.

Dương Qua điên tiết, xông lại giật đôi chèo, tay kéo Ngư nhân, miệng bảo :

- Muốn sống thì phải lại xin lỗi ngay, nếu không sẽ mất mạng ngay bây giờ.

Hoắc Đô thấy thằng bé chưa bao nhiêu tuổi đầu đã tới xen vào làm rộn chuyện của mình thì nổi nóng mắng lớn :

- Đồ ranh con, đứng có hỗn láo mà mất mạng !

Dương Qua hươi cây chèo hỏi lại :

- Súc sinh, mày bảo ai là ranh con hả ?

Rồi chàng cười lớn nói :

- Thằng chó chết mà dám bảo mình là ranh con,hay quá nhỉ ?

Chư vị anh hùng đứng ngoài nhìn vào, thảy đều buồn cười nên cùng cười lớn. Tuy nhiên khi trông thấy Hoắc Đô hầm hầm sấn tới thì biết việc không xong. Ai nấy có ý lo giùm tính mạng Dương Qua .

Hoắc Đô cầm cây quạt lại định bước tới đánh xuống đầu Dương Qua.

Hầu hết những người đến dự tiệc đều là những người có tinh thần nghĩa hiệp, nên khi thấy Hoắc Đô vung quạt định hại Dương Qua, ai nấy thảy đều tái mặt bất bình nhao nhao la lớn :

- Này tên mọi kia , đừng ỷ lớn hiếp người, không được đâu.

Quách Tỉnh xông lại , đinh đưa tay giật cây quạt trong tay Hoắc Đô.

Nhưng Dương Qua đã nhanh như điện chớp, cúi đầu hạ thân mình xuống một chút chui qua vòng tay của Hoắc Đô rồi thừa cơ vung cây chèo gãy, theo tư thế "hồi mã bổng" trong "đả cẩu bổng pháp" xắng mạnh vào ống quyển của hắn.

bị một đòn bất ngờ vào ống chân, Hoắc Đô Vương tử đau quá điếng cả người . Cũng may y được công phu luyện tập khá cao, nếu như kẻ nào khác thì tất đã phải té nhào xuống đất ôm chân rên rỉ rồi. Lập tức y nhịn đau, vận dụng nội công tung mình lên cao, lùi ra sau hơn năm thước, bặm môi nhịn đau, đứng không nói nên lời.

Quách Tỉnh vội hỏi Dương Qua :

- Qua nhi , có sao không ?

Dương Qua tươi cười đáp lại :

- Thưa bá phụ,con chẳng hề gì, nhưng trái lại con đã cho tên này nếm "đả cẩu bổng pháp" của Hồng lão tiền bối rồi,chắc cùng thấm thía lắm.

Quách Tỉnh ngạc nhiên quá hỏi lại :

- Làm sao con biết được thế đó ? Ai dạy cho con vậy ?

Dương Qua tìm lời tráo trở :

- Có khó gì đâu, chính con nhìn theo lối đánh của Lỗ Bang chủ vừa đấu cùng hắn mà học lỏm được đấy ạ.

Quách Tỉnh vốn là người thật thà và chất phác, nghe Dương Qua trả lời như vậy đã tin ngay và nghĩ bụng :

- ồ , thằng bé này thông minh quá cỡ. Trên đời này chưa chắc có được kẻ nào thông minh hơn nó.

Hoắc Đô bị một đòn vào ống chân đau điếng hồn, tuy nhiên hắn vẫn đinh ninh trong lúc mình vô ý không đề phòng mới bị đánh trúng chứ không thể tin một thiếu nên chưa đầy hai mươi tuổi như Dương Qua mà đã có võ công cao siêu như vậy. Y cho rằng trong lúc này, vấn đề quan trọng nhất là tranh ngôi Minh chủ võ lâm, còn chuyện chấp nệ trẻ nít chưa cần thiết lắm, nên bỏ qua không thèm nói nữa....

Bỏ Dương Qua đứng đó, Hoắc Đô lại gần bảo Quách Tỉnh :

- Kính thưa Quách đại hiệp, cứ theo hai trận đấu vừa rồi, bên tôi đã thắng hết, như thế thì theo lời ước hẹn , ngôi Minh chủ Võ lâm phải thuộc về sư phụ tôi là Kim Luân Pháp Vương rồi. Nhờ Quách đại hiệp công bố với quần hùng được rõ. Kể từ nay ngôi minh chủ võ lâm đã thuộc về tay sư phụ tôi Kim Luân Pháp Vương . Vậy có ai chưa bằng lòng hoặc phản đối nữa không ?

Y nói chưa dứt lời, Dương Qua đã phi thân đến sát một bên vung quyền đánh luôn hai đường liên tiếp , một đòn vào lưng, một đòn vào đùi, rồi thét lớn :

- Ta không bằng lòng, ta phản đối đó !

Bị đánh hai đòn bất ngờ vào lưng và đùi đau quá, Hoắc Đô la "ối" một tiếng rồi đứng nhăn mặt xuýt xoa rên rỉ.

Toàn thể anh hùng xung quanh thích chí cười ầm cả lên . Thật không ai có thể ngờ một cậu bé lại bạo gan ương ngạnh như thế, và cũng không ngờ một người như Hoắc Đô lại nếm luôn mấy đòn liên tiếp một cách quá ư dễ dàng.

Bị đánh luôn hai lần nữa, phen này Hoắc Đô không dằn lòng nhẫn nhịn nữa, tuy nhiên hắn vẫn chưa tin Dương Qua có bản lãnh cao siêu nên nghĩ bụng :

- Thằng bé này thật hỗn xược, phen này ta phải cho nếm một bạt tai cho biết thân. Chỉ cần một bạt tai của ta, mi cũng đủ về chầu tiên tổ.

Nghĩ vậy, y thuận tay tát luôn Dương Qua thật mạnh.

Quách Tỉnh thừa rõ bên Tây Tạng có một lối tát tay rất đặc biệt, gồm có cả cương lẫn nhu, vô cùng lợi hại, nếu gặp sắt cũng phải vỡ, gặp bùn cũng phải nhô. Đó là thuật "Tích hoa chưởng" của phái võ Tây Tạng, Dương Qua chắc không thể nào chịu đựng nổi. Vì vậy nên ông xông lại, nắm hai bàn tay Hoắc Đô ngỏ lời năn nỉ :

- Trẻ nít cạn nghĩ và có hành động dại khờ nông nổi.Xin điện hạ bỏ qua đừng chấp nệ nó làm gì cho mệt óc.

Bị Quách Tỉnh khoá hết tay chân không làm gì được, Hoắc Đô tức giận vô cùng, vội cố sức vùng cho thoát khỏi vòng kiềm chế của ông.

Ngay khi đó, Dương Qua cầm nửa khúc chèo sắt chạy lại đánh thêm một đòn vào đùi hắn và mắng lớn :

- Thằng man di súc sinh, đừng hỗn láo để bận lòng người bề trên của ta !

Quách Tỉnh vội nạt lớn :

- Qua nhi ! Con không được vô lễ !

Toàn thể anh hùng hào kiệt thích chí cười ầm rộ cả lên.

Bọn tuỳ tùng Mông Cổ thấy ba người đang giằng co, đồng hét lớn :

- Tại sao hai người lại xáp đánh một người như vậy ? Như thế đâu còn lẽ công bằng nữa. Nơi đây là nơi thí võ tranh tài cao thấp chứ có phải cuộc đánh lộn đâu mà kéo nhau hùa lại như vậy, không thấy nhục sao ?

Quách Tỉnh sực nhớ , lại thấy mình làm không đúng, vội vàng bỏ Hoắc Đô ra.

Hoàng Dung đứng phía sau để ý theo dõi, thấy Dương Qua xuất thủ đòn nào cũng đúng theo quy tắc của "Đả cẩu bổng pháp" nên nghĩ thầm trong bụng :

- Không biết Dương Qua đã được ai truyền dạy "Đả cẩu bổng pháp" mà có vẻ tinh thục như vậy kìa ? Chẳng lẽ chỉ nhìn lén trong lúc ta dạy cho Lỗ Hữu Cước mà đã thông thạo đến mức này hay sao ? Nếu vậy thì nó thật là thông minh xuất chúng , hay lắm !

Theo nhận xét của bà thì Dương Qua có thừa sức chiến đấu cùng Hoắc Đô nên bà cất tiếng gọi lớn :

- Xin mời Quách đại hiệp lên đây, mặc cho đôi bên tranh tài cao thấp, đừng nên can thiệp vào làm gì cả !

Nghe Hoàng Dung nói, Quách Tỉnh đoán vợ đã có mưu kế gì hay nên nghe theo, bước lại đứng bên cạnh bà.

Hoắc Đô nổi nóng vung tay múa chân đấm đá loạn xạ trên người Dương Qua, nhưng chàng đã trổ thuật khinh công tránh né tài tình khiến cho Hoắc Đô không đánh trúng đòn nào hết.

Sau khi để Hoắc Đô đánh gió một hồi, Dương Qua từ từ nói :

- Ta đánh vai mi đây !

Miệng nói, vừa dứt câu, thì tay chàng đã đập trúng vào vai y một mái chèo. Chàng nói tiếp luôn :

- Xem chừng trúng đùi đây này !

Và tiếp theo đó, Hoắc Đô lại lãnh thêm một chèo vào đùi ngay.. . Rồi cứ như vậy, nói trước đánh sau, nhưng nói đâu đánh trúng phong phóc. Hoắc Đô mặc dù được báo trước nhưng cũng không thể nào tránh kịp.

Hoắc Đô không dùng quyền cước nữa vì thấy không công hiệu với Dương Qua . Y bèn dùng quạt vụt túi bụi vào người chàng.

Nhưng Dương Qua lẹ làng tránh né và đỡ gạt tất cả, không để một đòn nào trúng mình. Nhưng cứ sau một cái gạt là chàng điểm một đòn trả lại vào đùi hay vào lưng Hoắc Đô ngay.

Quần hùng đứng ngoài nhìn vào thấy Dương Qua đánh trúng liên tiếp, nhưng chàng chỉ dụng ý đánh lấy có chứ không có ý hạ độc thủ, thành thử các đòn không có gì là nguy hiểm hay đau đớn cả.

Hai người quần nhau kẻ tới người lui chập chờn trong đại sảnh, có khi ra tận ngoài hoa viên, khiến cho bao nhiêu người đứng xem thảy đều thích thú như đang xem một trận múa rồi chứ không phải là một trận quyết đấu.

Một cảnh tượng đáng buồn cười nhất là Dương Qua thì ăn mặc quần áo rách rưới như xơ mướp, còn Hoắc Đô thì áo mão cân đai vô cùng sang trọng , rõ ràng là hai thái cực. Dương Qua thì trẻ măng như một thư sinh, còn Hoắc Đô thì uy nghi đường bệ như một viên đại tướng.

Dương Qua thì nhẹ nhàng nhảy nhanh như vượn, còn Hoắc Đô thì hùng hổ như cọp săn mồi, hai bên cứ quấn nhau mãi chưa ai hơn ai. Khách bàng quan đứng xem ai cũng thầm ước trận đấu cứ kéo dài mãi để xem cho thoả thích.

Bên cạnh đó, Ngư Nhân và Đạt Nhĩ Ma đã thủ sẵn binh khí trong tay, người nào người nấy hầm hầm trợn mắt nhìn đối thủ, chực xông vào tái đấu, nhưng ngặt vì chưa có lệnh trên, nên cả hai cùng phải đứng yên chờ đợi không động thủ được,

Đạt Nhĩ Ma đứng hoài chờ thấy Hoắc Đô đánh mãi không hạ thủ được một đứa thiếu niên thì trong lòng bực dọc vô cùng . Nay lại thấy địch thủ của mình vỗ tay reo hò tán thưởng có bề thích thú thì nổi nóng cất tiếng chửi bâng quơ. Nhưng vì y chửi bằng tiếng Tây Tạng líu lo, Ngư Nhân không nghe được, nên dùng bút hươi lên không khí mấy chữ :

- "Mi chửi ta thì gió thổi bay lên trời"

Hoắc Đô đem hết tài năng múa quạt ra tấn công nhưng mãi không trúng được Dương Qua một đòn nào.

Y tức giận lắm, nhưng không biết tính sao hơn. Cuối cùng y nghĩ ra một kế, xếp quạt bỏ chạy, định lừa Dương Qua đuổi theo sẽ quay trở lại đâm một nhát vào huyệt "Hoàn khiêu"

Đây là một thuật điểm huyệt vô cùng lợi hại . Nếu đối phương bị điểm trúng đùi tất nhiên sẽ phải quỵ xuống và không thể cất bước đi nổi nữa, toàn thân sẽ bị tê liệt ngay.

Dương Qua tuy còn trẻ tuổi, nhưng kinh nghiệm chiến đấu khá nhiều,hơn nữa, con người chàng vốn thông minh ranh mãnh , cho nên thấy đối thủ đang đánh tự nhiên bỏ chạy, biết ngay là có gian kế chi đây, nên chàng lại không đuổi theo, chỉ cười và nói lớn :

- Sá gì cái trò trẻ con ấy mà cũng định mang ra lừa ta được sao ? Nãy giờ ăn đòn khá nhiều rồi, nếu biết lẽ thì phải chịu thua phứt đi cho rồi.

Nếu so về sức mạnh thì Dương Qua không thể bằng Hoắc Đô, nhưng về tài lanh lẹ, mánh lới thì Hoắc Đô không thể nào bì được với Dương Qua.

Quần hùng nghe Dương Qua nói đều thích chí cười rộ lên.

Hoắc Đô thấy mưu kế của mình bị khám phá rồi, chẳng biết tính sao, tinh thần có phần rối loạn, e rằng trước mặt hào kiệt thiên hạ mà bị thua về tay một thiếu niên thì còn mặt mũi nào nữa. Trí óc hoang mang, lòng mất tự tin, y không dám tấn công nữa, chỉ đánh cầm chừng chờ thời cơ mà thôi.

Hoàng Dung theo dõi trận đấu, lúc bấy giờ mới vỡ lẽ ra rằng Dương Qua đã được cao nhân truyền võ nghệ, bản lĩnh phi thường, ít kẻ dám sánh. Tuy nhiên, nếu thế trận giằng dai, Dương Qua thiếu kinh nghiệm sẽ bị Hoắc Đô dùng ý chí hãm hại thì bỏ phí mất một dịp may hiếm có.

Nghĩ thế, Hoàng Dung cất tiếng gọi lớn :

- Qua nhi ! Giữa con và điện hạ nên xử hoà đi là hơn, đừng kéo dài làm gì nữa !

Nghe Hoàng Dung bảo, Dương Qua dừng tay lại bảo Hoắc Đô :

- Sao, mi muốn nghỉ hay muốn đánh nữa ? Có gan tiếp tục không ?

Hoắc Đô vốn là tay xảo quyệt, mưu mô cũng giảo hoạt lắm nên nghĩ bụng :

- Dù sao mình cũng đã thắng hai keo rồi, bây giờ kéo dài trận này làm gì nữa cho thêm rắc rối !

Nghĩ vậy , y trả lời :

- Này tiểu súc sanh, nếu nhà ngươi nhận thua và bằng lòng suy tôn sư phụ ta là Kim Luân Pháp Vương làm Minh chủ võ lâm, thì ta còn kéo dài trận đánh làm chi nữa ?

Vừa nghe hắn tuyên bố, tất cả anh hùng hào kiệt đều nhao nhao phản đối kịch liệt.

Thấy vậy, Hoắc Đô lớn tiếng phân bua :

- - Trước khi đấu, hai bên đã cam kết "Trong ba keo, ai thắng hai là được cuộc " . Điều kiện đã quá rõ ràng, bây giờ tại sao các vị đã vội quên lời ước hẹn mà phản đối tôi như vậy ?

Từ trong đám đông có người quát lớn :

- Đừng có xảo ngôn, mi thắng chúng ta chỗ nào ? Chính mi bị người đánh ngã rồi, đến khi người ta lẫy lòng nhân từ đến giải cứu cho thì mi lại cắn trộm, dùng ám khí hại ngầm. Như thế là thắng hay sao ? Còn keo thứ hai, thì khí giới người ta bị gãy, nhưng người ta vẫn còn đủ sức tiếp tục thi đấu, tại sao mi lại già mồm bảo người ta thua. Trước đó có ai đặt điều kiện là hễ bị hỏng khí giới là phải thua đâu ? Như vậy mà mi dám bảo là thắng luôn hai trận, thật không biết ngượng mồm !

Dương Qua cướp lời nói trước :

- Thôi xin đừng tranh chấp làm gì cho mệt. Còn lão hoà thượng già kia có tài cán gì đặc biệt mà dám huênh hoang đòi làm bá chủ thiên hạ ? Thấp kém nhỏ tuổi như tôi mà cũng không phục , huống chi là các hào kiệt võ lâm!.....

Hoắc Đô đỏ mặt tía tai quát lớn :

- Đồ ranh con, đừng lớn tiếng . Hãy gọi sư phụ mi ra đây giao chiến cùng ta cho biết tài cao thấp !

Dương Qua ngước mặt lên trời cười ha hả rồi đáp :

- Như sư phụ ta mới đáng mặt Minh chủ võ lâm chứ như lão hoà thượng sư phụ mi có tài cán gì mà hòng ? Còn phần mi thì kém quá, ai cũng thấy rõ rồi, xin đừng lớn lối.

Hoắc Đô trợn mắt nói :

- Sư phụ mi là ai đâu ? Hãy mời ra đây xem thử.

Dương Qua trả lời :

- Theo lời hẹn ước từ trước, thì cuộc đấu tài tranh ngôi Minh chủ hôm nay, chỉ có đệ tử thay mặt sư phụ ra đấu với nhau mà thôi có phải không ?

Hoắc Đô đáp :

- Quả đúng như vậy.Chính ta đây thay mặt sư phụ ta là Kim Luân Pháp Vương tranh tài và đã thắng luôn hai keo rồi, như thế thì ngôi Minh chủ phải về tay sư phụ ta chứ còn giông dài gì nữa ?

Dương Qua bèn chuyển qua lẽ cãi khác :

- Nãy giờ mi thắng phái khác chứ có thắng phái của ta đâu mà hòng giành ngôi Minh chủ. Trong võ lâm có biết bao nhiêu là môn phái chứ nào phải chỉ có một mà thôi đâu !

Hoắc Đô ngạc nhiên hỏi :

- ủa, mi ở môn phái khác sao ? Vậy sư phụ mi là ai hả ?

Dương Qua cười lớn rồi vỗ tay reo lên :

- Trời ơi ! Sao có hạng người ngu ngốc quá như thế này nhỉ ? Sư phụ ta tức là người đã dạy ta nên tài để đấu cùng mi và ta cũng chưa hề thua mi bao giờ. Việc gì mà phải hỏi ?

Anh hùng hào kiệt nghe Dương Qua nói vòng vo để trêu chọc Hoắc Đô, thảy đều tức cười, không ai bảo ai, toàn thể đều cười reo để tán thưởng.

Dương Qua nghiêm giọng bảo :

- Bây giờ đến phiên ta ra điều kiện . Chúng ta hãy đấu cùng nhau ba keo. Nếu bọn mi thắng ta hai keo , ta sẽ bằng lòng nhận lão hoà thượng già kia làm Minh chủ võ lâm . Trái lại, nếu ta thắng , mi phải tôn sư phụ ta làm Minh chủ, như thế mi có bằng lòng không ?

Nghe Dương Qua nói, toàn thể quần hùng ai cũng đinh ninh sư phụ chàng cũng là một bậc tiền bối có tên tuổi trong võ lâm. Hôm nay, Kim Luân Pháp Vương đang tranh ngôi Minh chủ cùng Hồng Thất Công Bắc Cái, nếu thêm một vị thứ ba có đủ tài đức để đại diện cho Hán tộc tranh tài cùng bọn Mông Cổ thì còn gì hay bằng.

Vì vậy nên mọi người đồng thanh nháo nhào nói :

- Hay lắm ! Tiểu anh hùng nói có lý lắm. Hoắc Đô phải thắng được tiểu anh hùng thì mới mong nói tới chuyện tranh ngôi Minh chủ võ lâm. Nếu không thì đừng hòng. Võ lâm Trung nguyên ta hiếm gì Bắc đẩu tài cao, bọn người không nên vội xem người bằng nửa con mắt như vậy !

Hoắc Đô suy nghĩ :

- Bên bọn chúng ta đã có hai tay giỏi nhất, và bên đó đã có hai đứa nếm mùi thất bại rồi, còn ai đáng ngại nữa. Tuy nhiên ta cũng cần đề phòng kẻo bị tụi nó ỷ đông, áp dụng chiến thuật xa luân chiến thì bất tiện cho phe mình lắm. Nếu thắng tên này, đứa khác lại nhảy ra, rồi cứ thế mãi thì biết chừng nào mới xong việc ?

Nghĩ ngợi một lúc, y cất tiếng hỏi lại :

- Nếu quý tôn sư muốn ra tranh tài cũng được, và đề nghị của tiểu huynh cũng có lý lắm. Tuy nhiên, anh hùng hào kiệt trong thiên hạ rất nhiều, chưa chắc đã tụ họp đông đủ nơi đây hôm nay. Nếu trong trận đấu sắp tới , chúng ta giải quyết xong rồi, nay mai có những kẻ vắng mặt ngày hôm nay đến đòi thử tài thử sức nữa, chừng ấy biết bao giờ mới giải quyết xong ?

Dương Qua nhìn thẳng vào mặt hắn, hiên ngang đáp :

- Nếu là người khác ra tranh đoạt ngôi Minh chủ, ta không bao giờ ra tranh chấp. Nhưng nếu là lão hoà thượng sư phụ ngươi thì ta quyết tranh cho tới kỳ cùng !

Hoắc Đô thừa dịp hỏi vặn lại :

- Nhưng quý tôn sư là ai, hãy giới thiệu ra xem thử ! Hay là tiểu huynh đệ đóng vai tranh hộ người ta mà thôi ?

Dương Qua cười ha hả đáp :

- Sư phụ ta đang đứng ngay trước mặt ngươi mà ngươi không thấy hay sao ? Để ta kêu sư phụ ta ra cho ngươi xem mặt nhé !

Nói xong, Dương Qua quay lại gọi :

- Cô nương ơi, cô nương ! Bọn chúng đòi được yết kiến cô nương, mời cô nương ra đây cho bọn chúng được gặp !

Tiểu Long Nữ đằng hắng một tiếng , đứng thẳng người nhìn Hoắc Đô , khẽ gật đầu chào.

Thật là câu chuyện không ai có thể ngờ trước được , Bao nhiêu anh hùng hào kịêt thảy đều ngạc nhiên, vừa buồn cười, vừa suy nghĩ :

- Nàng này xem ra còn trẻ măng, không hơn tuổi Dương Qua là bao nhiêu mà chẳng lẽ lại là sư phụ y hay sao ?Có lẽ Dương Qua kiếm cớ để đùa nghịch cùng Hoắc Đô chăng ?

Trong số đông chỉ có Triệu Chí Kính, Doãn Chí Bình và Hách Đại Thông là công nhận Dương Qua nói thật mà thôi

Hoàng Dung thấy Dương Qua bản lãnh cao cường, trong bụng đã đinh ninh là thế nào cũng do một dị nhân truyền dạy võ công. Hôm nay thấy chàng bảo sư phụ là một cô gái trẻ măng, xinh đẹp, hình dáng lả lướt mảnh mai như Tiểu Long Nữ thì ngạc nhiên hết sức . Bà cứ phân vân không biết Tiểu Long Nữ có tài chi đặc biệt mà được Dương Qua tôn làm sư phụ.

Còn Hoắc Đô Vương tử thì tức đến đỏ bừng mặt , trợn mắt thét lớn :

- Thằng oắt con, mi ranh mãnh vừa vừa chứ. Mi nên biết rằng hôm nay đại hội quần hùng tranh ngôi Minh chủ võ lâm, đồng thời bàn nhiều việc quan trọng chứ không phải là một cơ hội để bọn chăn trâu, chăn bò , quần manh áo túm như bọn mi giỡn cợt đâu nhé ! Muốn bảo toàn được mạng sống thì hãy cút đi cho khuất mắt ta.

Dương Qua cười dài nói :

- Mi hãy xem lại và nhận xét cho kỹ nhé. Sư phụ mi đã già lại đen , nói năng líu lo như vượn kêu, khỉ réo ai mà hiểu được ? Như thế mà mi cho là xứng đáng. Còn sư phụ ta thì xinh đẹp, thanh tao, mi lại bảo rằng không xứng đáng. Chẳng lẽ bậc Minh chủ võ lâm lại cần phải chọn những người mặt như trôn chảo, đầu trọc như gáo dừa, da nhăn mắt lõm như lão thầy chùa kia mới được sao ?

Tiểu Long Nữ xưa nay chưa từng tiếp xúc với đời, nên không có một ý thức nào khác. Nay thấy Dương Qua đem mình ra so sánh , lại khen mình xinh đẹp thì thích chí nhoẻn miệng cười .

Nàng hé môi cười tươi như hoa hồng mới nở, đẹp như ngọc san hô, khiến cho toàn thể quần hùng thảy đều xúc động và ai ai cũng công nhận vẻ đẹp của nàng quả thật là nghiêng nước, khuynh thành không bút mực nào tả xiết được.

Mọi người thấy Dương Qua cứ gan lỳ châm chọc Hoắc Đô thảy đều vừa ý. Nhưng những bậc lão thành lại có ý lo ngại, vì sợ Hoắc Đô nổi nóng giết mất Dương Qua đi chăng ?

Lúc bấy giờ, Hoắc Đô không còn nhẫn nại được nữa. Hắn gầm lên một tiếng vang trời rồi quát lớn :

- Chính thằng ranh con này gây hoạ trước, xin chư vị anh hùng tha lỗi cho tiểu đệ hạ sát hắn cho rồi, nếu cứ để kéo dài mãi thì chẳng còn thể thống gì nữa!

Nói xong, y cầm quạt đập vào huyệt Thiên linh cái của Dương Qua.

Dương Qua nào có chịu thua, trợn mắt thét lại :

- Xin chư vị anh hùng niệm tình thứ lỗi cho phép tiểu sinh hạ sát tên Hung nô này. Quả nhiên hắn cố tâm gây hoạ trước chứ không phải lỗi tại nơi tôi. ở đời có khi nào chim chích lại đi trêu chọc bồ nông ?

Mọi người khoái chí khi nghe Dương Qua nói câu này. Tiêng cười la reo hò vang lên náo động cả một góc trời. Ngay lúc ấy, Dương Qua đã múa tít cây chèo gãy, vừa đỡ, vừa tấn công tới tấp.

Hoắc Đô thận trọng né tránh. Tay y cầm quạt cứ lừa cho Dương Qua chống đỡ rồi thừa cơ vận dụng hết công lực vào tay trái tung chưởng đánh tạt vào Thái dương chàng .

Đây là thuật "Thập thành lực" một bí quyết về chưởng pháp vô cùng kỳ diệu và lợi hại. Dù cứng rắn như sắt đá mà bị chưởng lực này đánh trúng thì cũng nát bể ngay.

Nhưng Dương Qua tinh ý và lanh lẹ phi thường. Khi nghe tiếng gió lộng ào ào thốc mạnh vào Thái dương, chàng nhảy sang một bên tránh né, đồng thời cầm chiếc bàn vuông tung lên chống đỡ. Chỉ nghe "ầm" một tiếng vang trời, cả chiếc bàn vuông bằng gỗ lim đã bị chưởng lực đánh nát tan thành muôn mảnh.

Thấy khí thế và chưởng lực của Hoắc Đô vô cùng hùng hậu, quần hùng thảy đều khiếp sợ, lo giùm cho tính mạng của Dương Qua.

Dùng chưởng không kết quả, Hoắc Đô nổi đoá tung người bay lên không, dùng cước phóng luôn mấy đạp liên tiếp .

Mặc dù có học qua "Đả cẩu bổng pháp" nhưng dù sao cũng chỉ là học lỏm, hơn nữa tập luyện chưa thành thục nên Dương Qua có nhiều chỗ sơ hở. Không bao lâu, chàng bị Hoắc Đô tấn công tới tấp và dồn vào một chỗ, chống đỡ có phần chậm chạp hơn trước.

Hoàng Dung thấy Dương Qua biết nhiều phép lạ trong "Đả cẩu bổng pháp" nhưng vì chưa thuần thục, hơn nữa dùng cây chèo gãy không hợp với thuật đánh bổng nên không được thuận tay, đánh đỡ có phần lúng túng.

Thấy đối phương quyền cước lanh lẹ phi thường, Dương Qua không dám khinh địch. Chàng cố đem hết những thế mà trước kia Hồng Thất Công đã truyền dạy cho, phối hợp với các bí quyết mà Hoàng Dung đã dạy cho Lỗ Hữu Cước đem ra áp dụng. Thuật đánh đỡ đã tinh diệu, thêm nhiều bí quyết kỳ ảo vô cùng, từ ngôn trường đến ngôn đoản phối hợp chặt chẽ, cho nên mỗi một đòn của Dương Qua đánh ra mãnh liệt và lợi hại vô cùng, nhiều khi khiến cho Hoắc Đô phải bối rối...

Hoàng Dung cầm gậy trúc xông vào giữa trận đấu nói lớn :

- Xin đôi bên tạm dừng tay, tôi có chuyện muốn nói !

Thấy hai người vừa đứng yên, bà quay sang ngó Dương Qua bảo :

- Muốn đánh chó thì phải dùng gậy đánh chó chứ.

Nói rồi, bà trao cây bổng cho chàng, miệng nói lớn :

- Đây này, ta cho mượn tạm.Khi nào hạ nó xong thì phải trả lại ngay nhé !

Nguyên cây Đả cẩu bổng là báu vật của Cái Bang, chỉ một mình Bang chủ là có quyền sử dụng mà thôi. Vì vậy nên Hoàng Dung phải tuyên bố là cho Dương Qua tạm mượn để quần hùng và nhất là các vị chức sắc trong Cái Bang khỏi thắc mắc và chất vấn lôi thôi .

Dương Qua được cây bổng thì mừng rỡ quá sức, vội vàng đưa hai tay đón nhận . Hoàng Dung trao bổng cho chàng, thuận miệng bảo nhỏ :

- Nhớ buộc hắn phải đưa thuốc giải độc nhé !

Khi Chu Tử Liễu đánh với Hoắc Đô bị ám khí của hắn rồi, Dương Qua đang mải mê nói chuyện cùng Tiểu Long Nữ nên không hề hay biết. Nay nghe Hoàng Dung bảo, chàng chẳng hiểu gì hết, định lên tiếng hỏi thuốc giải độc gì, để dùng vào việc chi, nhưng chàng chưa kịp hỏi thì Hoắc Đô đã dùng quạt tấn công liến tiếp.

Dương Qua vung bổng gạt phăng cây quạt, rồi thuân thế đâm mạnh vào ngực Hoắc Đô.

Cây bổng đã vừa tầm thước, cầm xứng tay, hơn nữa lại hợp với các bí quyết trong "Đả cẩu bổng pháp" , cho nên Dương Qua thấy phấn khởi và đánh đỡ rất linh động , công lực do đó tăng lên gấp bội phần.

Hoắc Đô tung chưởng đập mạnh vào Thái Dương của Dương Qua. Chàng trầm mình né tránh , rồi thuận đà phóng bổng đâm thẳng vào dưới rốn của hắn nhưng Hoắc Đô cũng lanh lẹ bước qua một bên né được.

Vừa thoát khỏi một đòn yếu huyệt "Quản nguyên", Hoắc Đô vô cùng kinh hãi, không ngờ đối phương lại rất thành thạo về môn điểm huyệt , nghĩ thầm :

- Thằng bé này võ công cao cường,bản lãnh cao siêu lắm, không thể khinh thường nó được. Trước đây mình cũng tưởng hắn là tay mơ, giờ mới biết là tay đáng nể, có lẽ không thua gì mình đâu !

Suy nghĩ như vậy, hắn cẩn thận bước lùi ra sau, dùng quạt che kín trước bụng thủ thế.

Dương Qua nói lớn :

- Này, hãy thong thả nói chuyện đã. Cứ đánh nhau như thế này mãi thì chán quá. Cần phải có một giải gì đánh cuộc cùng nhau cho vui chứ !

Hoắc Đô đáp ngay :

- Được lắm, nếu mi thắng được ta, ta sẽ cúi đầu gọi mi bằng "ông nội" ba lần liên tiếp .

Dương Qua giả bộ không nghe, ngơ ngác hỏi lại :

- Sao, gọi bằng gì ?

Mọi người xung quanh ai cũng hiểu rõ dụng ý giả vờ ngờ nghệch của Dương Qua. Nhưng Hoắc Đô vốn là người Mông Cổ chất phác, đâu hiểu được những thâm ý xảo quyệt và trẻ con ấy của Dương Qua , nên thấy chàng hỏi lại, hắn lại đáp lớn :

- Kêu là "ông nội" !

Dương Qua nhắc lại theo giọng cười đùa , kẻ cả của kẻ bề trên :

- Ông nội hả ? Hay quá, khá quá, cháu tôi khá lắm ! Hà hà ...

Lúc bấy giờ Hoắc Đô mới biết mình bị mắc lừa chú bé nên đỏ mặt tía tai vì ngượng ngập, tay phải cầm quạt, tay trái vung chưởng đánh ra một lượt , khiến cho gió lộng ầm ầm tấn công Dương Qua dồn dập .

Dương Qua bình tĩnh đánh đỡ rồi lớn tiếng nói :

- Bây giờ thì tới phiên ta ra điều kiện . Nếu mày thua ta thì phải trao thuốc giải độc ngay đấy nhé !

Hoắc Đô nói :

- Ranh con, đừng lớn lối. Đời nào ta lại thua một thằng như mi mà hòng như vậy hả ?

Dương Qua múa tít cây bổng tấn công Hoắc Đô tới tấp.

Lại nhắc đến hai anh em họ Võ và Quách Phù . Khi Dương Qua và Tiểu Long Nữ dắt nhau ra ngoài tình tự, cả ba cũng đã quên lãng câu chuyện xích mích không nói tới nữa. Không dè một chặp sau, Dương Qua tự nhiên xông vào sanh sự cùng Hoắc Đô . Hai anh em họ Võ thấy vậy thảy đều mừng rỡ , vì hai người đinh ninh thế nào Dương Qua cũng bị Hoắc Đô giết chết phen này. Thật là nhờ tay giặc giết chết một tay kình địch lợi hại, cũng là một điều may mắn cho bọn họ.

Nhưng thực tế đã khiến cho ba người đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác . Tài nghệ của Dương Qua đối với Hoắc Đô cũng tương đương, kẻ tám lượng, người nửa cân. Lắm lúc, Hoắc Đô cũng phải lúng túng và nếu không lanh tay đánh đỡ thì có thể mất mạng như chơi.

Sau này, thấy Hoàng Dung lấy cây Đả cẩu bổng giao cho Dương Qua thì Võ Đôn Nho thất vọng than thầm :

- Khổ quá, trời đã sinh Du, sao còn sinh Lượng ? Một tình địch lợi hại dường này thì ta tranh sao nổi ?

Nhưng Võ Tu Văn chủ quan hơn , nghĩ bụng :

- Thằng này bất quá cũng liếng láo vài keo đầu mà thôi, trước sau rồi thì cũng bị Hoắc Đô hạ sát mà thôi. Hắn có tài giỏi thế nào cũng không thể hơn được Chu Tử Liễu bá bá cơ mà !

Riêng Quách Phù, nàng lại có ý tưởng khác.Khi nghe anh em họ Võ nói dèm, nàng nghĩ trách sao cha mẹ mình quá vội vã, nỡ đem một đứa con gái xinh như mộng, đẹp như hoa gả cho một tên bất tài khố rách áo ôm, trông chẳng khác gì một tên ăn mày. Việc này hệ trọng tới chung thân đời mình, thế nào cũng phải phản đối kịch liệt, chẳng lẽ mình chịu sống trăm năm với một kẻ như thế này ư ?

Nhưng trận quyết đấu cùng Hoắc Đô , thấy Dương Qua trổ tài khiến cho Hoắc Đô phải nhiều phen lúng túng tránh né, thì Quách Phù lại suy nghĩ và tự trách :

- Cha mẹ mình cao kiến, nhìn xa trông rộng thật. Quả nhiên ta chỉ là ếch ngồi đáy giếng, xem trời bằng vung, không có kinh nghiệm ở đời, chỉ biết đánh giá anh hùng bằng tấm áo bên ngoài mà thôi. Thế mới biết cha mẹ ta được thiên hạ nhận xét là anh tài, chọn người tài ba quả nhiên vô cùng tuyệt diệu. Có gặp những trường hợp như thế này ., mình mới thấy cảm phục cặp mắt tinh đời của bậc phụ mẫu. Như ta đây chỉ chuộng cái mã bề ngoài, suốt đời sống trong tơ lụa gấm vóc giàu sang nên cho dù có mắt cũng như người mù, có thấy đâu ra chân giá trị của kẻ anh hùng hào kiệt.Suýt chút nữa ta đã hiểu lầm một đấng trượng phu tài ba xuất chúng, chỉ biết nhận xét qua bộ cánh bên ngoài. Cha mẹ nhìn xa, thấy rộng cho nên nhân duyên là chuyện hệ trọng , từ đây cha mẹ đặt đâu, ta cứ ngồi đấy là xong !

Quách Phù cùng hai anh em họ Võ cứ suy tư mỗi người theo một dòng tư tưởng riêng của mình, thì giữa đấu trường, Hoắc Đô và Dương Qua càng lúc càng đưa ra nhiều đòn quyết tử, vô cùng ác liệt quyết chiến cùng nhau.

Thấy Dương Qua đã dần dần đuối sức, Hoắc Đô trong bụng mừng thầm và cố vận dụng hết công lực vào cây quạt và song chưởng, đem hết tài năng ra tấn công liên tiếp.

Nhiều ngón quạt đập mạnh quá làm cho không khí xung quanh phải rung động vì sức gió quá mạnh. Nhiều ngọn chưởng tạt ra gió lộng ầm ầm như núi lở, đá lăn khiến không ít quần hùng hoảng sợ, phải tránh ra xa.

Dương Qua cố đem hết tinh thần, sử dụng tất cả những ngón kỳ diệu nhất trong "Đả cẩu bổng pháp" ra ứng phó. Tuy nhiên, do vừa mới học sơ qua, và một phần chỉ là học lỏm, ít dịp rèn luyện, chưa thành thạo bao nhiêu nên chàng chưa vận dụng được tới cảnh giới tuyệt diệu của các tuyệt chiêu trong Đả cẩu bổng pháp. Do đó, chàng thỉnh thoảng bị Hoắc Đô tấn công, chỉ lo đỡ gạt , vừa đỡ chưởng, vừa đỡ quạt của hắn, tư thế có phần luống cuống. Thấy vậy, hai anh em họ Võ cùng mắng nhỏ :

- Đồ khốn nạn, không biết xét mình, tài nghệ chưa bao nhiêu mà đã phách lối.Phen này cho mày chết đáng đời.

Quách Phù nghe nói cự liền :

- Chính con người đó thừa can đảm và dõng lược mới có gan ra gánh vác việc đời, lo việc lớn cho quốc gia dân tộc, đâu phải như ai cứ ăn no ngủ kỹ, ngồi mát ăn bát vàng, chỉ đợi thiên hạ làm sẵn cho mình thừa hưởng. Những hạng người này mới đáng chết và cũng đáng cho thiên hạ phỉ nhổ !

Nghe Quách Phù nói, như kim châm vào ruột, anh em họ Võ tức mình nhưng mắc cỡ không dám nói lại, chỉ đứng yên, mặt mày đỏ lên vì xấu hổ.

Khi ấy, Dương Qua đã bị đối phương dồn vào thế bí, lắm khi tưởng là đã trúng đòn . Nếu trúng phải những đòn của Hoắc Đô thì không gãy cẳng thì cũng mang thương tật nặng nề.

Trong lúc trận đấu thập phần nguy cấp, chàng đưa mắt liếc sang một bên, thấy Tiểu Long Nữ đã bước lại gần, mắt chăm chú theo dõi trận đấu, hình như khuyên nhủ chàng yên tâm, lúc nào cũng có nàng ở bên để yểm trợ.

Dương Qua bèn trổ thần lực vụt mạnh một bổng , khiến cho Hoắc Đô phải tháo lui, rồi thừa dịp tung mình nhảy vút ra sau lưng Tiểu Long Nữ.

Hoắc Đô nổi nóng gầm lên như cọp rống :

- Mày đừng hòng thoát khỏi tay tao !

Miệng thét, chân phóng đi vun vút, quyết hạ sát Dương Qua cho bằng được.

Tiểu Long Nữ chờ cho hắn lướt qua , vừa khỏi, nàng bỗng dùng ngón chân cái khẽ húc vào huyệt "Côn luân" ở bên phải của Hoắc Đô và điểm luôn vào huyệt "Dũng tuyền" ở gót bên trái nữa.

Vừa trông thấy nàng chuyển gót sen điểm nhẹ tới, Hoắc Đô đã biết nguy rồi. Nếu là kẻ khác thì khó có thể tránh né cho kịp, nhưng Hoắc Đô vốn là một người nhiều kinh nghiệm chiến đấu, trong lúc bất ngờ, hắn vẫn giữ được bình tĩnh . Y nhận thấy tiến cũng bị mà thoái cũng gặp đòn, Hoắc Đô bèn đánh liều tung mình lên cao để né tránh.

Dương Qua đã liệu trước phản ứng của đối phương, cho nên không chờ cho Hoắc Đô đặt chân xuống đất, chàng đã dùng bổng quét ngang trên đấu hắn một đòn rất mạnh.

Hoắc Đô lật đật tung quạt đỡ được rồi nhảy phóc ra xa, mắt gườm gườm nhìn Tiểu Long Nữ trong lòng hoảng sợ nghĩ thầm :

-Tại sao võ lâm Trung nguyên có nhiều nhân tài lắm vậy ? Chỉ có hai đứa trai gái này cũng đã ngán xương lắm rồi !

Dương Qua thừa thắng thế, tung bổng tấn công liền.

Vì vừa mất tinh thần qua một đòn của Tiểu Long Nữ. Hoắc Đô lúng túng đỡ gạt trong ba hiệp đầu. Nhưng đến hiệp thứ tư thì y đã lấy lại được bình tĩnh, bắt đầu dồn Dương Qua về thế thủ. Qua hiệp thứ năm thì hắn bắt đầu phản kích tới tấp .

Hoàng Dung theo dõi trận đấu, thấy Dương Qua không nhớ được khẩu quyết chiêu thứ tư trong "Đả cẩu bổng pháp" nên bà buột miệng nhắc luôn :

- "Bổng hồi lược địa thì diệu thủ, Hoành đả song ngao mạc hồi đầu" ( nghĩa là : lẹ làng rút bổng để chiếm đất, rồi đánh tạt ngang đầu chó , chớ bước lùi )

Đây là một trong các phép lạ trong "Đả cẩu bổng pháp" , Dương Qua có học rồi nhưng trong lúc chiến đấu lúng túng quên mất hết cả. Nay nghe Hoàng Dung mách nước, chàng bỗng nhớ lại ngay, lập tức múa bổng tấn công theo thế ây, không bước lùi ra sau nữa.

Thật không ngờ phép đánh quái lạ ấy lại quá ư tinh diệu , kỳ quái như vậy. Cây quạt trong tay Hoắc Đô đang hùng dũng quét ngang dưới đất, bỗng chạm trúng đường bổng, suýt nữa sút khỏi tay bay mất.

Hoắc Đô kinh hãi vội vàng nắm chặt cán quạt rồi bước ngang sang một bên tránh né, không dám khinh thường xông xáo như trước nữa.

Thấy địch thủ tránh né, Hoàng Dung bèn nhắc thêm một câu khác :

- " Cẩu cấp khiêu tường như hà đả. Kích cầu dồn hề, tý cầu vỹ " ( nghĩa là : Khi chó nhảy qua tường, nên đánh vào chân hơn là đánh vào đuôi nó )

Đây là một thế khẩu truyền trong Cái Bang về phép đả cẩu, truyền từ đời Bang chủ này sang đời bang chủ khác . Người ngoài không học tới, nghe qua, dù tài giỏi đến đâu cũng không thể lãnh hội nổi. Chỉ có những ngừoi đã luyện tập qua rồi mới hội ý được. Mọi người đứng ngoài xem, thấy Hoàng Dung đọc những câu lạ, có xen vào những chữ "cẩu" , thì cũng ngờ rằng là bà đang mắng nhiếc Hoắc Đô là đồ chó má, chứ có ngờ đâu bà đọc khẩu quyết để mách nước cho Dương Qua.

Những khẩu quyết này , nếu không phải là người sắp kế vị chức Bang chủ thì không bao giờ được học tới. Nhưng Dương Qua đã được Hồng Thất Công dạy qua rồi , hơn nữa đây là một cuộc so tài vô cùng hệ trọng cho đại cuộc đôi bên, cho nên Hoàng Dung chẳng nề hà quy luật của Cái Bang để làm hỏng việc lớn của nước nhà, nen mới đem khẩu quyết ra đọc bày vẽ cho Dương Qua đánh với Hoắc Đô Vương tử.

Dương Qua vốn là tay thông minh, lanh lẹ tuyệt vời. Chỉ thoáng nghe qua đã hiểu ngay và ghi nhớ được liền, cho nên chàng trổ hết tài năng đánh đúng theo tư thế đã được mách nước, khiến cho Hoắc Đô luống cuống chống đỡ không kịp nữa.

Tiếp luôn mấy hiệp nữa, Hoắc Đô đã lộ vẻ thua sút rõ rệt, đang tìm cách lẩn trốn.

Quần hùng trông thấy vậy reo hò vang dậy dể giúp cho Dương Qua phấn khởi thêm lên.

Hoắc Đô dùng quạt đánh mạnh mấy cái liên tiếp vào người Dương Qua rồi la lớn :

- Hãy khoan, dừng tay lại nói chuyện đã.

Dương Qua định bộ, nhìn hắn cười lớn hỏi :

- Sao, đã chịu thua rồi chứ ?

Hoắc Đô nghiêm giọng bảo :

- Này, ta hỏi đây . Nhà ngươi bảo quyết tranh đấu giật ngôi Minh chủ võ lâm cho sư phụ ngươi, tại sao lại dùng toàn "Đả cẩu bổng pháp" của Hồng Thất Công mà chiến đấu cùng ta như thế ? Nếu đấu cho phe Hồng Thất Công thì bên đó đã bại hai keo rồi, chuyện gì ta phải tốn công chiến đấu nữa !

Hoàng Dung nhận thấy lời nói của hắn cũng có lý, muốn dùng lời hùng biện để lấn át, cãi ẩu cho phe mình. Nhưng bà chưa kịp lên tiếng thì Dương Qua đã nói :

- Cháu nói, ông nghe cũng có lý lắm. "Đả cẩu bổng pháp" này vốn là thuật bí truyền của Hồng Thất Công. Nếu hôm nay, "nội"đem ra để tranh đấu, khiến cho cháu bị thua thì cháu ấm ức cũng phải. Nhưng cháu há quên rồi sao ? Trong khi nội chỉ dùng một thế võ mượn tạm của người ta mà cháu đã thất điên bát đảo rồi, nếu nội dùng võ công của chíng tông bổn môn do sư phụ truyền dạy, thì cháu đã về chầu ông bà bên Mông Cổ từ lâu rồi còn chi nữa ?

Hoắc Đô nổi nóng, trợn mắt lên gần rách, thét lớn :

- Thằng con nít , tuổi mi đáng làm em út ta, sao cả gan xấc xược xưng ông nội với ta.

Dương Qua mỉm cười giải thích :

- Phàm con người từ Vương tử đến khanh tướng, ai cũng phải lấy hai chữ "thành tín" làm đầu . Không giữ được chữ tín thì con người không còn giá trị nữa. Khi nãy, cháu đã hứa là nếu kém sức thì tôn ta làm ông nội mà. Sở dĩ ta xưng hô như vậy là để giữ chữ tín cho cháu mà thôi. Tại sao cháu vừa nói đã nuốt lời ngay như vậy. Thật quả là quân chó ngựa chứ nào có phải là con người hào kiệt đâu ? Nếu cháu kém tư cách như thế , thì ông nội cũng chẳng thèm nhìn cháu làm gì nữa cho mang tiếng xấu lây.

Hoắc Đô thấy Dương Qua giải thích như vậy cũng có lý, không biết đối đáp ra sao, chỉ làm thinh, mặt mày đau khổ tím đen bầm cả lên.

Dương Qua khẽ liếc mắt nhìn Tiểu Long Nữ và nghĩ bụng :

- Cũng may thằng mọi này nhắc đến , nếu không ta cũng quên lửng mất rồi. Nếu trong trân này, ta chỉ áp dụng thuật "Đả cẩu bổng pháp" thì làm sao có dịp phát huy được các thế võ ảo diệu trong võ công của cô nương. Không khéo cô nương lại cho rằng Dương Qua này đã theo người ta mà quên cả gốc gác của mình đi chăng ?

Thật ra lúc này, Tiểu Long Nữ chỉ mải mê theo dõi sắc diện xinh tươi, thân thể cường tráng của Dương Qua mà quên đi tất cả mọi chuyệ. Ngay tới câu chuyện thắng bại cũng không màng, và Hoàng Dung đọc khẩu quyết mách nước cho Dương Qua nàng cũng không lưu ý tới.

Khi nghe Dương Qua đáp như vậy, Hoắc Đô thầm nghĩ :

- Sở dĩ mi cầm cự được và kéo dài trận đấu như vậy là nhờ sự tinh diệu của "Đả cẩu bổng pháp" mà thôi. Nếu không có môn võ công này, chỉ trong mười hiệp, ta sẽ hạ sát mi ngay !

Nghĩ vậy, y mỉm cười nói :

- Nếu là như vậy, ta xin lãnh giáo võ công của quý phái một phen.

Khi còn trong Cổ Mộ, Dương Qua chuyên học môn đánh gươm nhiều nhất, nên hôm nay chàng quyết đem sở trường của mình ra để thi thố cùng Hoắc Đô.

Dương Qua quay về phía quần hùng lớn tiếng hỏi :

- Có vị nào mang sẵn gươm, xin vui lòng cho tiểu sinh mượn tạm.

Trong số hàng ngàn người có mặt hôm nay đang đứng xung quanh, có hơn hai trăm người đeo gươm. Khi nghe Dương Qua hỏi, ai nấy cũng đều tuốt gươm ra khỏi vỏ đồng thanh nói :

- Có đây, có đây !

Hách Đại Thông và Tôn Bất Nhị là hai vị đại hiệp kiếm khách, được Vương Trùng Dương rèn luyện , thấm nhuần ý thức yêu nước thương nòi. Vì vậy nên trong dịp này, cả hai đều hăng hái có lòng muốn giúp cho Dương Qua .

Đành rằng trước kia, khi Dương Qua gây sự chống đối với Toàn Chân giáo nên hai người có ý chán ghét chàng, nhưng hiện nay thấy Dương Qua có lòng nhiệt thành ra gánh vác công việc của nước nhà , làm rạng danh cho dân tộc, giống nòi, nên việc tư thù tạm gác sang một bên để cùng chung sức giúp nước nhà cùng chàng.

Tôn Bất Nhị là người có võ công tương đối thua sút nhất trong Toàn Chân thất tử nên Vương Trùng Dương đem thanh gươm quý báu nhất để tặng cho bà để bù đắp chỗ yếu điểm.

Khi thấy Dương Qua hỏi mượn gươm để chống giặc, Tôn Bất Nhị sốt sắng lẹ làng nâng thanh kiếm báu, nước thép xanh lè, hào quang sáng rực, hơi lạnh toả cả ra ngoài, khẽ nói :

- Xin tiểu huynh đệ dùng tạm thanh gươm này cũng được !

Dương Qua liếc thấy ánh gươm sáng loà thì biết ngay là thanh bảo kiếm, nếu dùng để đánh với Hoắc Đô thì tiện lợi vô cùng. Nhưng khi nhìn qua chiếc đạo bào rộng thùng thình của Tôn Bất Nhị, Dương Qua bỗng nhớ lại ngày nào ở Trùng Dương Cung bị người nhục mạ, lại thêm cái cảnh Tôn bà bị Hách Đại Thông hạ sát, máu me đầm đìa cả người, thì chàng cảm thấy máu hận bốc lên ngụt đầu, làm lơ không thèm nhận thanh kiếm quý ấy, và quay sang một bên nhận thanh gươm tầm thường của một đồ đệ Cái Bang . Đây là một thanh gươm rèn tầm thường bằng thép đen đủi xấu xí.

Chàng vừa nắm lấy thanh kiếm, vừa ân cần nói với người ấy :

- Đại ca vui lòng cho tiểu đệ mượn tạm một chặp nhé !

Tôn Bất Nhị bị Dương Qua đối xử khiếm nhã trước mặt bao nhiêu anh hùng thiên hạ, mặc dù là người tu hành nhưng trong lòng bà cũng cảm thấy xốn xang, khó chịu, toan ngỏ lời oán trách , nhưng sau đó bà chợt nghĩ lại :

- Tánh tình hắn còn trẻ con nông nổi, ta không nên trách móc làm gì, nhất là trong lúc này. Mọi việc tranh chấp dù ít, dù nhiều thảy đều có lợi cho quân địch.

Suy nghĩ như vậy, bà lẳng lặng rút lui vào đám đông biến mất.

Dương Qua thật ra cũng vì tánh con nít ương ngạnh cố chấp, phải chi lúc này , chàng ôn hoà đối xử phải chăng để nối lại tình giao hảo cùng Toàn Chân giáo thì hay biết mấy ?

Hoắc Đô thấy Dương Qua từ chối một thanh bảo kiếm để lấy một thanh gươm tầm thường thô kệch thì nghĩ bụng :

- Có lẽ y tự hào về bản lĩnh cao siêu của mình, không cần đến báu kiếm cũng hạ được ta nên mới làm như vậy. Âu đây cũng là một chuyện may mắn cho ta !

Nghĩ vậy, y vội dùng cây quạt vung lên định thách thức Dương Qua quyết đấu.

Không chờ cho y hé môi, Dương Qua đã chĩa mũi kiếm vào cây quạt, chỗ Chu Tử Liễu ghi bốn chữ khi trước rồi cười lớn bảo :

- Ai cũng biết nhà ngươi là đồ man di mọi rợ, cần chi phải trương quạt ra để khoe bảng hiệu nữa ?

Hoắc Đô nghe Dương Qua nhạo báng, đỏ mặt hổ thẹn nhưng không biết đáp sao, chỉ hứ lên một tiếng rồi xếp cây quạt lại, điểm ngay vào trọng huyệt nơi vai chàng, đồng thời tung chưởng tấn công ngay một lúc.

Từ ngày sống trong Cổ Mộ, Dương Qua đã chịu khó kiên trì học hết những môn ảo diệu nhất của Cổ Mộ phái rồi. Trong khi Lâm Triều Anh sáng chế ra "Ngọc nữ tâm kinh" , thì kiếm pháp của bà còn có phần điêu luyện hơn cả kiếm pháp của Trùng Dương Cung. Nhưng Dương Qua đã học thêm được những bí quyết của Cửu Âm Chân Kinh và đem phối hợp cả hai môn võ công tuyệt đỉnh này dung hoà khiến cho kiếm pháp của chàng biến ảo phi thường, tưởng trên thế gian này không có một kẻ nào có thể theo kịp.

Khi Lâm Triều Anh sáng chế và phối hợp kiếm pháp rồi, bà không hề rời khỏi Cổ Mộ, chỉ đem những chiêu thức thần bí đó truyền lại cho Liễu Hoàn. Sau này, Liễu Hoàn truyền lại cho Tiểu Long Nữ. Cả ba đều chưa khi nào đặt chân lên chốn giang hồ võ lâm nên thiên hạ chưa một ai hay và thưởng thức kiếm pháp của Cổ Mộ phái ở Chung Nam Sơn.

Trong số đệ tử của Cổ Mộ có Lý Mạc Thu đã xuất thân giang hồ.Nàng là sư tỷ của Tiểu Long Nữ, tuy nhiên do thấy tính nết của nàng không được đoan trang, không nhân hậu cho nên sư phụ không chịu truyền hết tất cả những môn tuyệt đỉnh của kiếm pháp Cổ Mộ phái cho.

Khi Dương Qua trổ tài đem các ngón đánh và đỡ theo lối Cổ Mộ phái ra biểu diễn thì toàn thể quần hùng đều trầm trồ khen ngợi là hay và tinh diệu vô cùng, tuy nhiên trừ Tiểu Long Nữ ra, không ai có thể hiểu kiếm pháp này bắt nguồn từ đâu.

Kiếm pháp này do một người đàn bà sáng tạo ra, và sau đó truyền lại cho hai đời nữ đệ tử, cả thảy đều thuộc phái yếu cho nên trong lối đánh đỡ, khai triển không có vẻ hùng mạnh, chỉ mềm mại lả lướt và đẹp mắt mà thôi.. Sau này , Tiểu Long Nữ đem truyền lại cho Dương Qua. Tuy là đàn ông, nhưng Dương Qua cũng đã quen lối đánh của sư phụ và chàng múa kiếm cũng uyển chuyển lắm.

Trong những phút nhàn rỗi, Dương Qua đã đem tất cả những điều đã học hỏi được với đủ các tư thế căn bản, đem tự biên thành những thế khác nhau riêng biệt và thích hợp với con người và sức lực của chàng, cho nên lối đánh đỡ của chàng vừa hùng dũng, vừa bay bướm, mỗi khi múa ra linh động bay bổng vô cùng.

Cứ kể về sự lanh lẹ thần tốc thì trong các đường kiếm của Cổ Mộ phái, thật trên đời chưa có môn phái nào hơn.

Dương Qua đứng trước đại sảnh, biểu diễn những đường kiếm loang loáng, khi chém bên tả, khi vớt bên hữu, ánh kiếm bao phủ khắp toàn thân như hoa lê, trong phút chốc chỉ thấy đầy trời toàn ánh kiếm bay , không còn thấy bóng người đâu nữa. Tiếng gươm chém không khí như gió xé, rít lên những tiếng vi vu rùng rợn cả người, lộng thành trận gió làm phất phơ tà áo của bao người đứng xung quanh, khiến cho ai nấy thấy đều phải lắc đầu lè lưỡi, thầm khen kiếm pháp tinh diệu vô cùng.

Lối múa quạt của Hoắc Đô cũng vô cùng thần tốc. Đây là món trọng kỹ trong các môn võ từ bên Tây Tạng, lối đánh vừa mềm mại, vừa nguy hiểm. Tuy nhiên, các đường kiếm của Dương Qua quá ư mãnh liệt, khiến cho Hoắc Đô không thi thố tài năng được. Hơn nữa, mỗi khi quạt ra lại để lộ ra mấy chữ "man di" của Chu Tử Liễu đã đề lúc trước, khiến quần hùng reo cười chế nhạo, cho nên y đành xếp quạt lại để đánh. Vì vậy cho nên cây quạt trong tay Hoắc Đô Vương tử cũng trở nên vô dụng, chẳng thi thố được gì.

Lúc ấy Quách Phù và cả hai anh em họ Võ cũng trố mắt nhìn mê man, không ai thốt lên được tiếng nào nữa.

Toàn thể quần hùng ai nấy đều sững sờ mừng rỡ, nhất là Quách Tỉnh có lẽ là người sung sướng nhất, ông nghĩ rằng :

- Huynh đệ ta đã có một đứa con trai tài ba quán chúng, võ nghệ tuyệt luân như thế này, cũng đủ an ủi , được ngậm cười nơi chín suối.

Ông đăm đăm nhìn theo Dương Qua, cố ôn lại những chuỗi ngày khi trước và mối cảm tình thắm thiết giữa hai gia đình họ Quách và họ Dương khi xưa.

Hoàng Dung liếc mắt nhìn sang, thấy Quách Tỉnh tươi cười hân hoan thì đã đoán biết được phần nào tâm tư của chồng rồi. Bà đưa tay vuốt nhẹ nhẹ lên tay chồng ngỏ ý thông cảm và chia vui cùng ông.

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 36 : Quyết chiến thầy trò Kim Luân Pháp Vương.

Hoắc Đô đưa mắt nhìn Dương Qua biểu diễn những đường gươm kỳ diệu, đẹp như tung hoa trước gió, chập chờn như chớp giật lúc mưa đông, cũng tự nhận là mình còn kém xa, trong thâm tâm lo lắng suy nghĩ :

- Không ngờ hôm nay lại gặp thằng oắt con tuổi nhỏ tài cao lung lạc, chịu bề thua sút một cách nhục nhã như thế này ! Từ nay về sau còn xưng danh cùng ai được nữa để hòng xây dựng cơ đồ Vương bá nữa !

Trong lúc đang ngẩn ngơ đưa mắt nhìn theo đường gươm của Dương Qua phô diễn, bất thình lình thấy một lưỡi gươm phóng mạnh về phía hông mình ba nhát liên tiếp. Hoắc Đô thất kinh hồn vía, vội vã phi thân nhảy lùi ra đằng sau mấy bước rồi xoè quạt ra chống đỡ.

Giằng co được chừng ba hiệp, Hoắc Đô chợt nghĩ :

- Xem tài nghệ hắn có vẻ cao cường lắm, nếu cứ để giằng co mãi thì sẽ bất lợi cho mình, âu là ta dùng ám khí hại hắn cho rồi.

Dự định như vậy, Hoắc Đô bất thình lình hét lên một tiếng như sấm động, xoè quạt ra quạt liên tiếp không ngừng, áp dụng thuật "cuông phong lôi công" để mở đường cho cuộc tấn công Dương Qua.

Cứ tay phải quạt lia lịa, tay trái dùng tay áo rộng phất lên từng hồi tạo thành một trận cuồng phong đánh thốc về phía Dương Qua như bão táp, đồng thời, những phi tiễn trong tay áo phóng ra liên tiếp. Thuật ném ám khí này là điều cấm kỵ trong võ lâm, môn phái nào cũng phản đối, nhất là trong khi đang tranh đấu cũng những người trẻ tuổi dưới tay mình. Nhưng đối với Hoắc Đô trong lúc này, điều cần thiết nhất là giành được thắng lợi về mình, còn câu chuyện danh dự hay quy tắc võ lâm hắn không cần đếm xỉa đến. Không nói riêng gì về phi tiễn, mà nếu có cách ám toán nào nguy hiểm hơn , cho dù hèn hạ y cũng không nài hà.

Nhưng lạ một điều là mặc dù gió thổi, sấm động, phi tiễn lao ra vun vút nhưng Dương Qua vẫn bình thản đứng yên một chỗ, vung gươm che hết thân mình, biến thành một làn hào quang sáng loà bao bọc hết châu thân, dù cho múc nước tạt vào cũng khó mà ướt nổi. Những đường kiếm tung ra như chớp giật, cản hết bao nhiêu luồng quái phong và phi tiễn. Tuy lưỡi kiếm luân chuyển vun vút như mây, nhưng thái độ của chàng tỏ ra rất nhàn nhã chứ không hề tỏ ra cuống quít hay hấp tấp. Đó là thuật "Mỹ nữ kiếm pháp" trong "Ngọc nữ tâm kinh" .

Có một điều đẹp mắt nhất là làn kiếm cuốn gió thổi tung những mảnh áo rách phất phơ như muôn ngàn cánh bướm, lắm lúc bay phần phật như những bầy ếch trắng đang nhảy nhót đùa trăng.

Trong nháy mắt, Dương Qua đã áp dụng thuật "Mỹ nữ kiếm pháp" hoá giải thuật "Cuồng phong lôi công" và ám tiễn của Hoắc Đô.

Thấy mưu kế của mình bất thành, Hoắc Đô lồng lộn như nổi cơn điên,đánh liều xông tới vung rộng cánh quạt tấn công dồn dập như một con hổ đói đang bắt mồi, với các thế võ ngày càng ác liệt và công lực ngày càng tăng thêm.

Dương Qua thì trái lại, dần dần đã giảm sút sức tấn công.

Là những tay kiệt liệt trong giang hồ, kinh nghiệm có thừa nên Hoàng Dung , Quách Tỉnh vô cùng lo lắng khi thấy Dương Qua đã yếu sức dần dần. Cả hai không biết làm sao, chỉ biết đứng xuýt xoa, nhăn mặt giùm cho chàng.

Trong khi ấy, ngoài việc dùng quyền cước, Hoắc Đô còn áp dụng thuật "tất phong phi sa" thổi thành trận cuông phong, bốc tung thành đám cát bụi mờ mịt , bao vây xung quanh.

Vợ chồng Quách Tỉnh không hẹn mà cùng hô lớn :

- Nguy quá, nguy quá ...

Ngay trong lúc đó, Dương Qua vung gươm loé lên và hét lớn :

-Hãy cẩn thận , xem ám khí của ta đây !

Hoắc Đô đã dùng ám khí hại Chu Tử Liễu, nay nghe Dương Qua hô to như vậy cũng giật mình lo ngại. Y đoán thế nào trong lưỡi gươm cũng chứa sẵn ám khí như cây quạt của mình.

Liệu đoán như thế nên y hơi trầm mình, cẩn thận đề phòng.

Dương Qua thừa dịp ấy, tung người bay bổng lên cao, vung gươm đập mạnh vào người Hoắc Đô, nhưng chàng chỉ đập bằng bề sống chứ không phải là đập bằng bề lưỡi.

Bị một đòn đau điếng người, nhưng không thấy ám khí đâu hết, Hoắc Đô nổi giận thét lớn :

- Thằng oắt con, chỉ phách lối.

Dương Qua trợn mắt hỏi lại :

- Thằng mọi, mày mắng ai thế hả ?

Hoắc Đô lặng thinh không đáp, áp dung thuật "Tất phong phi sa" thổi cát bụi mù mịt lên như cũ.

Dương Qua vung tay trái lên rồi dặn lại lần nữa :

- Ta phóng ám khí đây này, báo trước cho mà liệu hồn !

Hoắc Đô vội vàng lách mình sang bên phải, ngay lúc đó Dương Qua vung lứõi gươm từ tay phải chém sạt ngang qua một nhát, mũi gươm rạch luôn mấy lần vải , làm cho đứt tung cả dây thắt lưng của Hoắc Đô.

Tất cả quần hùng đứng ngoài cùng ồ lên một tiếng tỏ ý tiếc nuối, nhiều người lên tiếng :

- Uổng quá, sao không ghim luôn giữa ngực hắn cho rồi. Tiếc thật, chỉ còn một ly nữa mà thôi.

Bọn Mông Cổ thấy Hoắc Đô bị Dương Qua đâm rách áo thì người nào cũng tỏ vẻ thẹn thùng, lo sợ và bực tức.

Bị một đòn suýt chết, Hoắc Đô thấy lạnh cả xương sống, từ đó không dám khinh thường tấn công nữa.

Dương Qua hô tiếp :

- Bây giờ ta phóng ám khí đây nhé. Nói thật đấy, không phải đùa đâu.

Hoắc Đô cúi đầu né tránh nhưng không thấy gì hết, y vừa thẹn vừa tức tối thét lớn :

- Quân khốn kiếp, mi ...

Nói chưa dứt câu, đã thấy hai luồng sáng bạc loé lên chập chờn trước mắt. Không còn cách nào khác để né tránh, Hoắc Đô chỉ còn biết nhảy vọt lên cao để tránh né, may ra thoát khỏi. Nhưng cũng đã muộn rồi. Y cảm thấy hai bên đùi tê buốt, nhưng ám khí có vẻ không có gì ác độc cả, nên tuy bị trúng cả nhưng không lấy làm đau đớn lắm.

Hoắc Đô điên tiết, định dùng độc đinh phóng lại để hạ sát Dương Qua cho rồi. Y chuẩn bị mấy mũi tên sắt như loại đã dùng để ném hại Chu Tử Liễu rồi dịnh vung quạt phóng ra.

Trong khi ấy, Dương Qua đã cười khanh khách và nói lớn :

- Này, cậu Vương tử, ta rất tiếc một người như ngươi, có đầy triển vọng mà ngày nay đành cam chiu bỏ mạng ở chốn Kinh Tử Quan này, kể ra cũng đáng phàn nàn lắm. Bây giờ mi đã sắp đến giờ chết rồi, còn định phóng đinh độc làm gì nữa, ta đâu có sợ !

Nghe nói dứt câu, quả nhiên Hoắc Đô cảm thấy hai bên đùi đã dần dần tê buốt, không chịu nổi nữa. Đau quá, không chịu nổi, y cầm cây quạt xoa nhẹ vào hai vết thương và có cảm giác như chất độc đang chạy rầm rập trong mạch máu, chuyển lên tim, tay chân bủn rủn, y la "ối" một tiếng, mặt mày tái mét, rồi ngã lăn ra đất, ngất xỉu tức thời.

Nguyên món ám khí mà Dương Qua dùng để phóng ra là "ngọc phong châm", một món bảo bối chân truyền của phái Cổ Mộ. Cây ki này nhỏ hơn sợi tóc, có tẩm nọc độc của loài ong trắng. Khi phóng ra không thấy đau đớn lắm. Nhưng sau đó , khi nọc ong đi vào máu thì cả người tê tái và ngất xỉu ngay tức khắc. Dù một cây cũng đủ bất tỉnh , huống chi Hoắc Đô lại bị trúng luôn mấy cây liên tiếp thì làm sao mà gượng cho nổi.

Quần hùng đứng ngoài trông vào thấy Hoắc Đô tự nhiên té ra bất tỉnh thì ngạc nhiên vô cùng vì không một ai trông thấy chàng đánh một đòn gì hay phóng ra một món ám khí nào hết. Như vậy không hiểu chàng hạ đối phương bằng cách nào ?

Trong khi mọi người đang ngẩn ngơ chưa tìm ra duyên cớ thì Đạt Nhĩ Ma vội chạy lại bồng Hoắc Đô đem đặt vào lòng sư phụ Kim Luân Pháp Vương rồi quay lại trừng mắt bảo Dương Qua :

- Này tên súc sinh, ta quyết thi tài cùng mi phen này.

Dương Qua nghe không hiểu, chàng đoán là Đạt Nhĩ Ma có ý khiêu chiến với mình, liền chắp tay nói :

- Bạch đại đức, việc gì mà đại đức nóng tính nói thế,tiểu sinh đây đâu có dám.

Đạt Nhĩ Ma không nói tiếp, vung chày Kim Cương đập mạnh một đòn, sức mạnh như di sơn đảo hải.

Dương Qua bình tĩnh bước ra sau hai bước, khiến cây chày đánh hụt phớt qua một cái vụt. Đạt Nhĩ Ma thuận tay đẩy luôn một thế, đấm mũi chày vào ngực Dương Qua.

Bị một đòn tấn công bất ngờ, Dương Qua dùng gươm đánh vụt chày ra rồi tung mình nhảy vọt lên cao né tránh.

Không đợi chàng rơi xuống, Đạt Nhĩ Ma trợn mắt, phồng miệng thét lớn :

- Mày có bay lên tận trời xanh cũng không thoát khỏi.

Miệng hét, chân y phóng tới, quyết đuổi theo cho bằng được.

Dương Qua đang bay lơ lửng trên không , thấy y tấn công gấp quá, không tiện đặt chân xuống đất, bèn liều mình từ trên cao xông xuống níu lấy đầu chày của Đạt Nhĩ Ma mà giật mạnh.

Nếu sức lực tương đương, thì trong tư thế như thế này, Dương Qua đoạt chày dễ như chơi. Nhưng vì sức lực Đạt Nhĩ Ma mạnh hơn Dương Qua nhiều nên chàng không thể nào giật nổi. Thấy không giật được, Dương Qua vội cắm đầu chạy thẳng.

Mặc dầu không đoạt được khí giới của đối phương, Dương Qua đã né được ngọn đòn ác hiểm của Đạt Nhĩ Ma và chạy thoát được. Quần hùng ai nấy đều thở phào, mừng giùm cho chàng...

Nhìn thấy Dương Qua bản lãnh khinh công cao tuyệt, võ công cao cường, Đạt Nhĩ Ma hỏi lớn :

- Này tiểu tử, ta xem mi bản lãnh cũng khá, vậy sư phụ của mi là ai vậy hả ?

Đạt Nhĩ Ma nói bằng tiếng Tây Tạng nên Dương Qua nghe chẳng hiểu gì cả. Chàng tự nghĩ :

- Có lẽ hắn chửi mình đây chứ gì ! Hắn chửi mình thì mình cũng dùng lời ấy chửi lại cho bõ ghét !

Chàng nhái y hệt như câu nói của Đạt Nhĩ Ma vừa nói. Vốn là con người thông minh tuyệt đỉnh cho nên tuy chỉ nghe qua mà chàng cũng đã nhớ rõ và nói lại đúng y như vậy, không sai một từ nào cả.

Đạt Nhĩ Ma lắng tai nghe xong, tưởng Dương Qua muốn hỏi thăm sư phụ mình là ai nên đáp ngay, tất nhiên là vẫn bằng tiếng Tây Tạng :

- Sư phụ ta là Kim Luân Pháp Vương. Ta là một đại hoà thượng , tại sao mi lại gọi là tiểu tử hả ?

Dương Qua nghe nói cũng chẳng hiểu gì cả. Chàng tin rằng lần này hắn cũng chửi mình nữa, nên cứ theo kiểu cũ, nhái y lời ấy để chửi lại. Chàng nghe ở tai, nhắc lại nơi miệng không khác nào một cái máy thu và phát thanh, không hề sai một tiếng nhỏ.

Đạt Nhĩ Ma nghe xong, lạ lùng hết sức, ngó quanh ngó quất xem chẳng có ai khác, bụng phân vân suy nghĩ :

- Rõ ràng thằng bé này đáp lại chứ còn ai khác lạ nữa đâu ? Không hiểu tại sao hắn cỡ chừng ấy tuổi mà cũng đã tự xưng là Đại hoà thượng ? Mà vì sao hắn cũng nhận sư phụ ta Kim Luân Pháp Vương là sư phụ hắn ?

Không giải đáp được, hắn ngó thẳng Dương Qua, ôn tồn bảo :

- Ta là đệ tử đứng bậc nhất của sư phụ Kim Luân Pháp Vương , còn ngươi là đệ tử thứ mấy hả ?

Dương Qua cũng nhắc lại y nguyên câu ấy.

Đạt Nhĩ Ma nghe nói kinh hãi rụng rời, không biết tính sao, chỉ đứng ngẩn người ra suy nghĩ mãi, không biết phải làm sao.

Nguyên những người tu hành đạo phái Lạt Ma bên Tây Tạng khi nào cũng tin tưởng mãnh liệt vào thuyết luân hồi. Họ tin rằng con người tuy chết nhưng linh hồn không tan và có thể đầu thai qua kiếp sau để làm người trở lại. Tất cả người trong môn phái này ai ai cũng tin như vậy.

Ngày xưa, khi Kim Luân Pháp Vương còn trẻ, ông ta đã thu nhận một đệ tử. Nhưng khi vừa tới hai mươi tuổi, người ấy chẳng may chết sớm. Tuy Hoắc Đô và Đạt Nhĩ Ma chưa được gặp mặt người ấy, nhưng cả hai cũng đã nghe sư phụ nhắc nhở tới luôn.

Trong buổi tiếp xúc hôm nay, Đạt Nhĩ Ma thấy Dương Qua nói tiếng Tây Tạng quá rành, thì hắn nghĩ có thể người đệ tử khi trước của sư phụ mình đầu thai vào chăng , vì dù sao, người Trung nguyên không bao giờ nói tiếng Tây Tạng rành như thế được cả.

Đoán như thế nên trong bụng y đã e dè.Đứng suy nghiệm một lúc, nhìn sững Dương Qua rồi bỗng nhiên vứt cây chày vàng xuống đất, cúi đầu nhắm Dương Qua làm lễ như tế sao.

Dương Qua trông thấy lấy làm lạ và ngẩn ngơ suy nghĩ :

- Lão này chửi mình đã đời, bị mình chửi lại, nay đã chịu thua nên lạy ta để xin lỗi chứ gì ?

Toàn thể quần hùng càng ngạc nhiên hơn nữa. Vì không ai có thể biết hai người đối đáp với nhau những gì mà bỗng nhiên Đạt Nhĩ Ma lại lạy Dương Qua như vậy.

Duy chỉ có Kim Luân Pháp Vương thì đã hiểu rõ đầu đuôi câu chuyện. Ông ta theo dõi câu chuyện giữa hai người và cũng hiểu rõ nội tình học trò mình nên biết rằng Đạt Nhĩ Ma vì quá trực tính nên đã hiểu lầm như vậy.

Ông ta bèn dùng tiếng Tây Tạng bảo lớn :

- Đạt Nhĩ Ma, thằng bé đó không phải là sư huynh của con đầu thai lên đâu ! Con đừng e dè gì hết, cứ thật tình giáp chiến với hắn đi.

Đạt Nhĩ Ma kinh ngạc nói :

- Bẩm sư phụ, theo sự nhận xét của con, thì tiểu tử này nhất định phải do sư huynh con tái sinh nên mới có bản lãnh cao siêu trong khi đang còn quá trẻ tuổi. Hơn nữa, hắn là người Hán nhưng nói tiếng Tây Tạng quá rõ ràng.

Kim Luân Pháp Vương bảo :

- Không phải đâu, sư huynh con có võ công cao cường hơn nhiều. Tài nghệ của tiểu tử này kém xa, chưa bằng nổi con thì làm sao gọi là sư huynh con được ?

Đạt Nhĩ Ma chưa dám quả quyết, còn dùng giằng chưa chịu nghe lời thầy.

Kim Luân Pháp Vương thấy vậy bèn thúc giục :

- Con phải nghe lời thầy dạy, không nên quá thực thà do dự nữa. Con cứ đấu với nó qua vài ba hiệp thì tự khắc biết ngay sự thực mà. Đừng quá tin bậy mà làm hư hỏng việc lớn đó !

Xưa nay Đạt Nhĩ Ma tuyệt đối phục tùng mọi ý kiến của sư phụ. Bất cứ lời nào của sư phụ phán dạy, hắn xem như là lời phán của thần linh, cứ cúi đầu làm theo, không bao giờ cãi lại. Hôm nay tuy trong lòng còn phân vân nghi hoặc, nhưng nghe Kim Luân Pháp Vương đã dạy như vậy , y phải tin rằng người này không phải là sư huynh của mình đầu thai, cần vâng lời quyết đấu để biết rõ hư thực.

Trong lòng đã có chủ ý, y đưa tay phân bua cùng Dương Qua :

- Bây giờ hai ta cứ việc đấu thử vài hiệp xem ai hơn ai kém !

Trông thấy đối phương nói chuyện tuy líu lo nhưng có vẻ trịnh trọng, ôn tồn hơn trước, chẳng biết hắn nói gì, tuy nhiên Dương Qua cũng cứ lặp lại y nguyên câu ấy.

Thấy chàng cũng bảo vậy, biết chàng đã đồng y nên Đạt Nhĩ Ma nói tiếp :

- Xin người anh em nhẹ tay với nhau thôi nhé !

Quách Phù đứng trên đại sảnh, thấy hai người đối đáp với nhau những câu nói líu lo, chẳng hiểu gì hết, nên vội vàng đến bên mẹ hỏi :

- Mẫu thân, hai người đó nói với nhau cái gì vậy ?

Hoàng Dung biết rõ rằng Dương Qua chỉ nhái lại những câu nói của Đạt Nhĩ Ma đã nói, nhưng không hiểu nguyên nhân vì sao mà Đạt Nhĩ Ma lại chắp tay làm lễ với chàng như thế. Nghe Quách Phù hỏi, bà cũng gượng đáp cho qua chuyện :

- Họ chỉ đùa với nhau thôi mà .

Tại thao trường, Đạt Nhĩ Ma bắt đầu dùng chày kim cương tấn công Dương Qua bằng những đòn mạnh như búa bổ.

Dương Qua phải dùng sức lanh lẹ né nhiều hơn là dùng gươm đỡ gạt.

Tuy vâng lời sư phụ ra chiến đấu, nhưng Đạt Nhĩ Ma vẫn chưa bỏ lòng tin của mình. Trong lúc đang xáp chiến, hắn vẫn có mặc cảm tự ti và luôn nghĩ bụng :

- Dù sao sư huynh ta cũng đã được truyền dạy lâu ngày, nên võ công có lẽ phải hơn mình nhiều lắm. Có lẽ anh ấy thương tình tương nhượng cho mình mà thôi.

Bị ám ảnh bởi đức tin "Dương Qua là sư huynh tái thế" cho nên trong lòng Đạt Nhĩ Ma e dè, chỉ đánh cầm chừng chứ chưa dám mạnh tay chiến đấu.

Dương Qua đoán biết đối phương chỉ dùng thế thủ chứ không tấn công. Chàng thừa dịp đó vũ lộng hết tất cả các tinh hoa trong Ngọc nữ tâm kinh kiếm pháp, múa kiếm loang loáng, đánh Đông, chém Tây vùn vụt, có khi uyển chuyển như vũ nữ đang múa bông, có khi lẹ làng xoay tròn như chong chóng, khiến cho bao kẻ đứng ngoài càng xem càng tỏ lòng kính phục.

Đạt Nhĩ Ma tuy giữ thế thủ nhưng hết sức thận trọng,chú ý từng đường đi nước bước. Kim Luân Pháp Vương bực mình quá sức, cất tiếng bảo :

- Đạt Nhĩ Ma, thầy đã bảo hắn không phải là sư huynh con đâu, con chớ ngại, cứ việc tấn công mạnh lên đi !

Thật ra tài nghệ của Đạt Nhĩ Ma cao diệu hơn Dương Qua nhiều nhưng vì trong lòng e ngại nên mười phần chỉ đánh được năm. Trái lại, Dương Qua tuy kém sút hơn, nhưng nhờ trong lòng nhiều tin tưởng và phấn khởi nên càng đấu càng thắng thế hơn.

Kim Luân Pháp Vương thấy Dương Qua càng đánh càng thắng thế, trái lại Đạt Nhĩ Ma càng đánh càng lui vào thế thủ thì nổi giận, vùng quát lớn :

- Đạt Nhĩ Ma, phải tấn công ngay lập tức !

Tiếng quát của Kim Luân Pháp Vương vang lên như sấm khiến cho bao nhiêu người nghe phải ù tai, và Đạt Nhĩ Ma nghe nói không dám e dè nữa, phải đưa cây chày kim cương ra phản công tới tấp.

Trong lúc Đạt Nhĩ Ma tấn công Dương Qua chỉ còn cách chống đỡ, không sao có cách xoay xở nữa. Một chặp sau, chàng đã lúng túng, phút nguy biến đã gần rõ rệt.

Dương Qua càng lúng túng , Đạt Nhĩ Ma càng vụt mạnh hơn nữa. Cây chày kim cương đã nặng nề, mà sức vụt càng mạnh thêm, khiến cho Dương Qua vừa vung gươm ra đỡ bị vụt mạnh quá toét cả hổ khẩu, thanh gươm gãy đôi văng mất, chỉ còn chiếc cán trong tay.

Đạt Nhĩ Ma mừng quá hô lớn :

- Ta đã thắng rồi !

Nói xong, hắn cầm cây chày lùi lại năm bước. Theo quy luật phái Lạt Ma trong khi đối thủ rơi vũ khí hay ngã ngựa cần phải tạm ngưng chứ không được bức chiến.

Nhưng Dương Qua cũng nói bằng tiếng Tây Tạng :

- Ta đã thắng rồi !

Nghe nói, Đạt Nhĩ Ma ngạc nhiên hết sức, hắn nghĩ bụng :

- Hắn thắng chỗ nào mà cũng dám tuyên bố như vậy nhỉ ?

Còn đang phân vân, chưa tìm ra được nguyên cớ thì Dương Qua đã chắp tay tung mình phi thân nhảy vụt đến trước mặt.

Nguyên trọng khi còn ở Cổ Mộ, Dương Qua được Tiểu Long Nữ dạy cho thuật "chính tước phi thường" ( nghĩa là : một chim sẻ bay nhảy) chỉ dùng hai bàn tay, vận dụng chưởng lực tung ra cũng cầm chân được hàng tám chục con chim sẻ không ra lọt.

Đây là chưởng pháp độc nhất vô nhị của Lâm Triều Anh sáng chế ra. Dùng chưởng này , dù chỉ hai tay không , nhưng sức mạnh và nguy hiểm có khi còn hơn cả dùng gươm giáo hay vũ khí sắc bén.

Thấy Dương Qua đánh liều dùng tay không xông vào tấn công, Đạt Nhĩ Ma vũ lộng cây chày vàng phát ra tiếng vu vu đập mạnh vào người chàng, nhưng lạ một nỗi là hắn đập không biết bao nhiêu lần mà không trúng được lần nào cả. Dương Qua đã dùng tài lanh lẹ né tránh hết. Lắm lúc hình như cây chày Kim cương còn như bị Dương Qua lấy mất.

Thế là một người có vũ khí, một người tay không, cuộc chiến đấu ngày càng quyết liệt. Kẻ có chày đập tả hữu như một vòi voi, kẻ tay không chụp tả hất hữu không khác gì mãnh hổ vồ mồi, thật là một trận đấu độc nhất vô nhị, thế gian chưa từng có.

Nhờ bền gan luyện tập trên giường hàn ngọc và nhảy nhót suốt ngày này sang ngày khác trong Cổ Mộ nên khing công của Dương Qua đã đạt đến mức tuyệt diệu, lúc đem ra sử dụng chính xác vô cùng , cho nên Đạt Nhĩ Ma dù đã cố gắng hết sức cũng không làm sao đánh trúng được Dương Qua đòn nào.

Tiểu Long Nữ đứng cạnh đó theo dõi, thấy Dương Qua đánh hoài không thắng được bèn thò tay vào trong bọc rút ra một đôi bao tay dệt bằng bạch kim tung cho Dương Qua, miệng nói :

- Qua nhi ! Hãy cầm lấy mà dùng !

Đôi bao tay bạch kim này dệt rất mềm mại, xinh xắn, nhưng chất bạch kim vô cùng chắc chắn, có thể chịu đựng được các loại bảo kiếm hay vũ khí hạng nặng.

Vừa trông thấy đôi bao tay tung lên sáng ngời, Hách Đại Thông đã khiếp sợ đến run người lên.Khi còn ở tại Trùng Dương Cung, chính Tiểu Long Nữ đã dùng đôi bao tay này để bẻ gãy trường kiếm của ông, khiến ông chút nữa phải tự sát mà chết. Hôm nay vừa trông thấy vật cũ, lòng ông đã xao xuyến vì quá cảm xúc.

Tiếp được đôi bao tay, Dương Qua bước lùi ra sau hai bước , mang bao tay vào đành hoàng rồi lấy đà nhảy vụt ra phía trước, áp dụng quyền thuật "mỹ nữ quyền" của phái Cổ Mộ ra để đối phó cùng Đạt Nhĩ Ma.

Thuật đánh quyền này có vẻ lả lướt, nhẹ nhàng uyển chuyền như người mỹ nữ đang múa lượn, có khi mềm mại như cô gái du tiên. Từ cái vung tay cho tới ngọn cước lúc nào cũng bay bướm như ong vờn hoa, lúc dồn dập mau vun vút, khi nghiêm nghị đoan trang, mỗi lúc một vẻ khác nhau, mỗi vẻ có một cái đẹp riêng.

Bao nhiêu anh hùng hào kiệt đứng ngoài thấy vậy đều lấy làm thán phục và ai cũng đều công nhận là cho dù một người con gái cũng chưa chắc có được một dáng điệu mềm mại ẻo lả như của Dương Qua trong lúc này.

Bỗng nhiên Dương Qua đổi ngay thế đánh chuyển sang thế "Hồng Ngọc đánh trống" , hai tay chàng vung về phía trước mặt. Khi Đạt Nhĩ Ma đưa chày ra đỡ, chàng chuyển ngay thành thế "Vung lửa đi đêm", thừa lúc xuất kỳ bất ý, xáp vào sát người Đạt Nhĩ Ma,

Đạt Nhĩ Ma vung chày định dập xuống, nhưng Dương Qua đã theo thế "Ném ngọc qua lầu" dùng cả hai tay chộp vào người Đạt Nhĩ Ma tung bổng lên không trung.

Đạt Nhĩ Ma không ngờ đối phương lại mạo hiểm và lanh lẹ đến dường ấy nên sinh ra lúng túng , vội vàng nhảy sang một bên né tránh, nhưng Dương Qua đã dùng thế "Văn cơ về Hán" dùng hai tay giữ lại.

Đạt Nhĩ Ma cố sức vẫy vùng, nhưng không sút ra được, phần vì do hai bao tay bằng bạch kim có sức hút mãnh liệt nên hai bên giằng co quyết liệt.

Cố sức vẫy vùng bốn phía để đoạt lại cây chày, từ Đông sang Tây, từ trái qua phải. Đạt Nhĩ Ma cảm thấy toàn thân mệt nhoài, hơi thở hổn hển như trâu rống.

Kim Luân Pháp Vương thấy Đạt Nhĩ Ma không phải thua tài kém sức mà chỉ vì tâm thần bất định, hoảng hốt mà sinh ra lúng túng, bị đối phương uy hiếp nên nhắc lớn :

- Tại sao con không dùng phép "Vô thượng đại lực" mà tấn công ?

Đạt Nhĩ Ma nghe mách nước, mừng rỡ "dạ" lớn một tiếng rồi theo lời sư phụ giật phăng được vũ khí, liền lập tức múa cây chày kim cương vụt tới tấp.

Lúc đang còn cầm chày bằng một tay mà sức mạnh đã ghê hồn, huống chi bây giờ, Đạt Nhĩ Ma dùng cả hai tay và vận dụng gân sức cả hai dồn vào cây chày nên gió lộng vù vù, thật là thần sầu, quỷ khốc.

Nguyên phép "Vô thượng đại lực" này mới xem qua thì rất đơn giản vì chung quy chỉ có mấy đường ngang tám gậy, đường dọc tám gậy, rồi từ mười sáu gậy ấy phối hợp thành những chiêu thế khác, cấu tạo thành vô số đòn khác, biến hoá phi thường, có khi kín đáo như có khiên che chở, có khi hùng hổ như sư tử vồ mồi. Dương Qua chỉ còn cách né gạt để khỏi phải trúng đòn chứ không còn sức đâu để đánh đỡ hay tấn công lại nữa.

Ngư Nhân đứng ngoài nhìn theo cuộc đấu, trong lòng vẫn không phục Đạt Nhĩ Ma, vì thật ra ông chỉ bị gãy mái chèo chứ chưa thua sút một đòn nào cả. Ông quyết tâm chờ đợi cơ hội để xông ra đấu thêm keo nữa quyết định hơn thua cùng Đạt Nhĩ Ma mới hả dạ.

Lúc này thấy Đạt Nhĩ Ma dùng phép "Vô thượng đại lực" để áp đảo Dương Qua, thì ông mới giật mình tự nghĩ :

- Xem thế thì hắn quả nhiên là tài giỏi và dũng lược hơn mình thật. Nếu khi nãy mà chưa thua thì bây giờ cũng phải chịu thua vì làm sao mà chịu được với lối tấn công lợi hại như thế này !

Đạt Nhĩ Ma càng múa gậy tấn công , thì Dương Qua càng phải trổ tài né tránh. Cây chày kim cương múa lên quá mau, lộng gió làm tắt phụt hết bốn ngọn đuốc thắp trong đại sảnh.

Dương Qua đem hết tâm thần nhảy lẹ như con sóc, lo tránh những đòn như trời giáng của Đạt Nhĩ Ma chứ không còn lòng dạ nào để trả đòn nữa. Xung quanh đấu trường, từ đại sảnh đến ngoài hoa viên, quần hùng lẳng lặng theo dõi trận đấu, người nào người nấy đều hổi hộp lo lắng như một đàn chim non đang đứng trước một con diều hâu hung tợn. Còn phía Mông Cổ thì tiếng reo hò cổ vũ vang dậy, tên nào tên nấy cũng lộ vẻ hân hoan khoái chí lắm.

Dương Qua nhận thấy "Mỹ nữ quyền pháp" của mình không đủ hiệu lực để chống lại địch thủ nên chàng suy nghĩ cách khác để phản công.

"Vô thượng đại lực" của Đạt Nhĩ Ma ngày càng gia tăng áp lực, người hầm hầm như cọp dữ, chày vung lên sầm sập như núi lở đá lăn. Lúc bấy giờ, Đạt Nhĩ Ma đã hăng tiết, không còn e dè lo ngại gì về việc "sư huynh tái sinh", chỉ còn cố tâm làm sao giết cho bằng được Dương Qua mới hài lòng. Thấy Dương Qua thối lui vào một góc nhà, hắn trợn mắt vung chày chận đường thét lớn :

- Mày mất mạng phen này rồi tiểu tử ạ !

Miệng hét, hai tay vung chày đập xuống một đòn như trời giáng.

Trong lúc thập tử nhất sinh ấy, Dương Qua chỉ có cách tung người qua đầu để né tránh.

Thế nhảy vọt này là một thế vô cùng kỳ diệu trong Cửu Âm Chân Kinh , do Vương Trùng Dương đã ghi rõ trên đỉnh toà nhà đá trong Cổ Mộ. Trong lúc nhàn rỗi, Dương Qua thường chú tâm luyện tập một mình. Vì không có ai giảng dạy hay có đối thủ để thí nghiệm hay thử thách cho nên tuy học được đã lâu nhưng chưa bao giờ chàng biết được kết quả ra sao. Hôm nay, trong lúc thập tử nhất sinh,thập phần nguy hiểm, chàng đánh liều đưa ra áp dụng cầu may, không ngờ lại kiến hiệu đến như vậy, và chàng đã tránh thoát ngọn đòn quái ác của Đạt Nhĩ Ma một cách dễ dàng. Bao nhiêu anh hùng chứng kiến trận đấu thảy đều thất kinh và thán phục lối khinh công kỳ diệu của chàng trai trẻ tuổi này.

Trong lúc ấy, Quách Tỉnh không ngờ rằng Dương Qua có thể tránh được ngọn đòn ấy, nên ông nghĩ nếu như chậm trễ, ngọn chày kim cương sẽ đập nát óc chàng ngay lập tức. Vì vậy ông vội vàng tung người nhảy ra phía sau lưng Đạt Nhĩ Ma, đưa tay định chộp lấy cây chày kim cương cứu nguy cho cháu.

Nhưng khi ông vừa cất nhấc chân nhảy ra, bỗng thoáng có một bóng áo đỏ đứng sừng sững chắn ngang trước mặt, dùng chưởng lực tấn công mình, không cho tiếp viện Dương Qua.

Người đó chính là Kim Luân Pháp Vương.

Quách Tỉnh hoảng hốt, vội dùng thế "Kiến Long Tại Điền" , một thế kỳ diệu trong mười tám thế "Giáng Long Thập Bát Chưởng" đánh lại.

Cả hai đều là tay quái kiệt võ lâm, tài cao,công lực siêu phàm cho nên thế chưởng xuất ra hùng mạnh không sao tả xiết.

Hai chưởng chạm nhau nghe một tiếng vang trời. Quách Tỉnh thối lui hai bước, còn Kim Luân Pháp Vương thì vẫn đứng yên vị.

Tuy về công lực, thì Kim Luân Pháp Vương có phần thâm hậu hơn Quách Tỉnh, nhưng về chưởng lực thì Quách Tỉnh lợi hại hơn một bậc và lanh lẹ hơn nhiều .

Sở dĩ Quách Tỉnh thối lui hai bước , không phải là vì sút kèm mà chính vì quá cẩn thận, muốn lùi lại để thủ thế, đề phòng đối phương đánh tiếp đòn khác. Nhưng Kim Luân Pháp Vương thấy vậy, tưởng rằng Quách Tỉnh không đủ sức chịu đựng ngọn đòn của mình nên toan xông tới tấn công luôn một đòn nữa. Không ngờ ông ta cảm thấy trong ruột bị đau nhói, hình như đã bị nội thương nên sợ hãi, thất kinh không dám động thủ, vẫn đứng yên thủ thế.

Mới tung ra một đòn đầu, chưa biết ai thắng ai bại, tuy nhiên cả hai đều trông thấy Dương Qua đã thoát khỏi ngọn đòn của Đạt Nhĩ Ma dễ như bỡn rồi. Quách Tỉnh trong lòng mừng vô hạn, còn Kim Luân Pháp Vương hối tiếc thấy học trò mình đã lỡ mất một dịp may.

Cả hai không tấn công nhau nữa, mà cùng về vị trí cũ tiếp tục theo dõi trận đấu.

Đạt Nhĩ Ma đinh ninh thế nào ngọn đòn này cũng kết liễu tính mạng Dương Qua rồi, không ngờ chàng lẹ làng tung mình né tránh dễ dàng , và xem ngọn chày trong tay mình không ra gì cả, thì lòng bực tức không tả xiết....

Sau khi thấy áp dụng lối né tránh của Cửu Âm Chân Kinh đã có hiệu lực, Dương Qua cứ nhởn nhơ như thế mà thoát hết mọi ngọn đòn của đối phương một cách dễ dàng.

Hoàng Dung trông thấy lối tránh né của Dương Qua như vậy thì ngạc nhiên quá, vội quay sang hỏi Quách Tỉnh :

- Tại sao Dương Qua nó lại biết các thế võ trong Cửu Âm Chân Kinh ? Ông đã dạy nó hồi nào thế ?

Sở dĩ bà hỏi chồng như vậy là bà nghĩ trong lúc đưa Dương Qua lên Chung Nam Sơn, có thể là Quách Tỉnh đã nghĩ đến tình cố cựu cùng cha hắn là Dương Khang ngày xưa, nên đã đem Cửu Âm Chân Kinh mà truyền dạy lại cho Dương Qua chăng ?

Nhưng Quách Tỉnh lắc đầu đáp :

- Không, tôi có dạy hắn bao giờ đâu ? Nếu tôi có dạy thì đã nói rõ cho bà biết rõ từ lâu rồi chứ !

Hoàng Dung nghe nói vậy thì nín thinh ngay vì bà biết chồng mình không bao giờ nói dối cả.

Bà chăm chú nhìn Dương Qua nhảy nhót như chim én tránh đòn của Đạt Nhĩ Ma,. Trong những lúc nguy hiểm,chàng áp dụng các phép trong Cửu Âm Chân Kinh mà thoát được dễ dàng. Tuy vậy, vì luyện tập chưa được tinh tế cho lắm nên nếu để kéo dài thì thế nào cũng để thua ngay.

Hoàng Dung nghĩ :

- Thằng bé Dương Qua này thông minh và tài lắm. Chẳng qua vì không được học tới nơi, tới chốn mà thôi. Nếu hắn học ta trong thời gian chỉ cần nửa năm, ta sẽ truyền hết thuật "Đả cẩu bổng pháp" và "Cửu Âm chân kinh" cho chu đáo, thì hạng những lão hoà thượng này nó có xem vào đâu .

Trong lúc đang phân vân nghĩ ngợi luyến tiếc, Hoàng Dung bỗng thấy thoáng một bóng ...

( Xin lỗi các bạn, truyện bị mất hai trang. Bạn nào có thì xin bổ sung hộ . Cảm ơn nhiều )

... nghị, Hoàng Dung mừng rỡ quay sang nói với Quách Tỉnh :

- Dương Qua quả nhiên là một thiên tài xuất chúng, tài nghệ phi thường. Ngày còn niên thiếu, ông đã có được bản lãnh của nó như lúc này chưa ?

Quách Tỉnh cũng hớn hở gật đầu, công nhận và chịu rằng khi mình bằng tuổi ấy thì không có được tài nghệ như Dương Qua bây giờ.

Trong thuật "Di hồn đại pháp" thì căn bản là sự cảm ứng của tinh thần để chống đối phương. Nếu đối phương giữ được tinh thần trong suốt, không hề bị ngoại cảnh hay điều gì bên ngoài chi phối , thì thuật này không có hiệu lực lắm. Cũng như đêm tối chỉ có tác dụng nhiều với những người nhút nhát hay sợ ma. Trong lúc này, Đạt Nhĩ Ma vẫn còn nghi ngại Dương Qua là Đại sư huynh của mình tái sinh đầu thai lại, nên trong lòng đã kinh nghi sẵn, điều đó thuật di hồn này có tác dụng hơn. Âu cũng là một dịp rất may để Dương Qua cứu vãn tình thế lúc này.

Trong khi Đạt Nhĩ Ma mê mê như người trong mộng, ngây người đứng yên một chỗ nhìn sửng sốt đối phương, thì Dương Qua dùng các thế trong "mỹ nữ quyền pháp" để biểu diễn. Có khi chàng đi theo bộ pháp "Bộ bộ sinh liên" ( cứ mỗi bộ sinh một bông hoa sen ) với những dáng điệu vô cùng uyển chuyển , ẻo lả , thướt tha, làm cho Đạt Nhĩ Ma càng tê tái tâm thần hơn nữa.

Mọi người xung quanh thảy đều buồn cười, nhưng cũng rất thán phục.

Quách Phù ngạc nhiên quá ,chẳng hiểu vì sao, liền đập tay mẹ hỏi :

- Mẫu thân, anh Dương Qua sao có lắm tài như vậy ? Mẫu thân cũng am hiểu những thế này mà không chịu dạy cho con à !

Hoàng Dung mỉm cười, xoa đầu Quách Phù đáp :

- Đó là thuật di hồn. Nếu con học được phép này thì nổi danh thiên hạ thực đó. Nhưng trái lại, cũng sẽ có những hậu quả vô cùng tai hại. Phàm sinh con gái trong gia đình khuê các phải lo giữ gìn sao cho vẹn câu hiếu thuận cùng cha mẹ. Khi con lớn lên, lại phải theo chồng. Chừng ấy, bổn phận của con là rất nặng nề là phải làm tròn vai trò của một người nội tướng, quán xuyến được bao quát những điều thờ chồng nuôi con, phụng dưỡng gia đình nhà chồng . Nếu người nội tướng giỏi thì gia đình thịnh, nếu ngừoi nội tướng kém thì gia đình chồng sẽ suy. Bao nhiêu nhiệm vụ đó đã nặng nề lắm rồi. Con còn ham học võ công cho giỏi để làm chi nữa hả ? Con đọc sách đã nhiều, xưa nay có người đàn bà nào giỏi võ công mà khiến cho gia đình hưng thịnh được đâu mà ham lắm vậy !

Quách Phù cãi lại :

- Nếu mẹ dạy như vậy thì phụ nữ chúng con không nên tham gia trong việc binh đao hay sao ?

Hoàng Dung đáp :

- Phải rồi, trời đất sinh người con gái cũng như các loại hoa xinh cỏ lạ, chỉ để tô điểm cho vườn cây xinh tươi chứ có phải là để thay thế cho các cây ăn trái được đâu ? Phàm cây ăn trái không có hoa xinh thì lại có trái ngon nuôi sống, còn cây có hoa đẹp thì bao giờ lại có được trái ngon. Mỗi người có một biệt tài, mỗi thứ có một công dụng riêng. Việc gươm đao trận mạc chẳng qua là vạn bất đắc dĩ phải dùng tới. Vì vậy , ngày xưa, khi Khổng Phu Tử sang thăm nước Vệ, vua Linh Công có hỏi thăm về binh thư trận mạc, ngài không hề trả lời, chỉ nói là :"Tôi chưa học tới" ,Còn đức Mạnh Tử sang nước Lương, vua Huệ Vương có hỏi những biện pháp làm lợi cho nước, thì ngài chỉ khuyên nhà vua dùng nhân nghĩa để thu phục nhân tâm. Nếu vua chỉ nghĩ tới lợi thì, toàn dân cũng chỉ mong về lợi thì đất nước sẽ rối beng về tranh chấp lợi quyền, làm sao mà cường thịnh được... Ngay như Khổng, Mạnh là hai bậc thánh nhân ngày trước cũng chỉ dạy người về đạo đức để kết hợp và thu phục nhân tâm chứ không bao giờ lấy binh đao làm cứu cánh cả. Cũng vì vậy mà thiên hạ khi nào cũng trọng văn hơn võ. Có gì quý báu đâu mà con ao ước lắm vậy ?

Nói dứt lời, Hoàng Dung chỉ tay xuống đấu trường nói thêm :

- Con cứ nhìn xem anh Dương Qua của con đang thắng hay bại, và việc thắng bại đó cũng vô cùng gay go, đánh giá cả mạng sống của con người , nguy hiểm lắm, không nên ham chuộng làm gì !

Quách Phù đưa mắt nhìn theo tay mẹ chỉ, trông thấy Dương Qua cười thì Đạt Nhĩ Ma cũng cười theo, mà Dương Qua làm nghiêm thì Đạt Nhĩ Ma cũng nghiêm nghị theo một chặp.

Quách Phù trông thấy, ngạc nhiên quá tự nghĩ :

- Thuật di hồn sao mà lợi hại quá như thế này. Nếu mình không được học thì cũng nên đến gần xem tận mắt cho biết mới được.

Nghĩ vậy, nàng dợm chân muốn phóng đi, nhưng Hoàng Dung đã nắm tay kéo lại, bắt nằm gục trong lòng, trong phút chốc, Quách Phù đã ngủ mê man trong lòng mẹ.

Tại thao trường lúc này, Dương Qua đã dùng thuật "di hồn" khống chế hoàn toàn Đạt Nhĩ Ma từ cử chỉ nhỏ. Chàng xuất hai chiêu "Tây Thi ôm bụng" rồi tiếp theo thế "Đông Thi nhăn mặt". Đạt Nhĩ Ma nhìn theo và cũng bắt chước diễn lại không sai một chút nào cả.

Dương Qua lại diễn chiêu "Tào Thực cắt mũi", một tay đưa lên giữ mũi, một tay đánh liên hồi vào mặt mình không ngớt. Thế này diễn ra theo câu chuyện vợ của Tào Thực tên là Lệnh, khi chồng chết, nàng Lệnh tự cắt bỏ mũi đi, tỏ ý chí quyết tâm thủ tiết chờ chồng, không bao giờ đi lấy chồng khác.

Lúc biểu diễn thì Dương Qua chỉ giả bộ đánh hờ vào mũi mình, nhưng Đạt Nhĩ Ma làm theo thì thật hết sức mạnh. Phải biết công lực của y mạnh đến mức nào, một cái tát nặng có đến trăm cân không ít. Vì vậy nên khi tát tới cái thứ mười hai, Đạt Nhĩ Ma đau quá không chịu nổi, té lăn ra đất, bất tỉnh.

Bao nhiêu anh hùng hảo hán đứng xung quanh trông thấy Đạt Nhĩ Ma ngất xỉu, thảy đều mừng rỡ đồng thanh hò lớn :

- Bên ta thắng tiếp keo thứ hai rồi. Như vậy ngôi Minh chủ nhất định phải thuộc về phe ta. Bên đó còn có ai tài giỏi thì xin ra đấu tiếp cho rồi.

Ngay lúc bấy giờ có hai tên võ sĩ Mông Cổ xông ra bồng Đạt Nhĩ Ma đem vào trong chữa thuốc.

Kim Luân Pháp Vương thấy đồ đệ của mình bị một thiếu niên đánh bại không phải vì tài nghệ mà vì một phương pháp mờ ám, nên trong lòng ông ta vừa buồn, vừa bực tức, ông ngồi trên ghế gọi lớn :

- Tiểu tử, sư phụ mi là ai ?

Kim Luân Pháp Vương là một tay lỗi lạc, học rộng hiểu nhiều nên ông ta dùng tiếng Hán nói rất rõ ràng.

Dương Qua đưa tay chỉ vào Tiểu Long Nữ đáp lớn :

- Vị này là sư phụ của tôi đấy. Ông xem thử sư phụ tôi có xứng đáng làm Minh chủ Võ lâm hay không ?

Kim Luân Pháp Vương nhìn theo, thấy Tiểu Long Nữ là một thiếu nữ xinh đẹp ẻo lả, thân hình mảnh mai, nét mặt trẻ măng, có khi còn trẻ hơn cả Dương Qua nữa, thì trong lòng nghi hoặc nghĩ thầm :

- Bọn Trung Nguyên các ngươi lắm mưu, nhiều kế, xảo quyệt vô cùng, nhưng không thể qua mặt ta nổi đâu !.....

Vì thắc mắc ấy nên ông ta không nói gì, tung mình nhảy xuống đấu trường, rút trong bọc ta một chiếc vòng đúc bằng vàng khối.

Chiếc vòng tuy bằng vàng khối nhưng trong ruột lại rỗng, có đựng chín cái hột bằng trái đào, cho nên mỗi khi rung lên, các trái này chuyển động phát ra những âm thanh nghe vô cùng rùng rợn. Đối phương chưa chiến đầu, chỉ cần nghe những tiếng này cũng đã mất tinh thần rồi.

Tay cầm vòng vàng, Kim Luân Pháp Vương khoan thai bước lại trước mặt Tiểu Long Nữ cất tiếng hỏi :

- Có phải cô nương muốn làm Minh Chủ võ lâm không ? Nếu quả thực như vậy, cô chỉ cần đấu với tôi mười hiệp. Nếu qua được mười hiệp, cô cự nổi với chiếc vòng vàng nảy của tôi thì tôi bằng lòng tôn cô nương làm Minh chủ võ lâm ngay.

Dương Qua gạt ngang nói lớn :

- Lệ ước đã đặt ra rồi. Bên tôi thắng luôn hai trận thì ngôi ấy phải thuộc về phe chúng tôi chứ. Chính bên ông đã ra điều kiện lại đi nuốt lời, xem ra sao được !

Tiểu Long Nữ vốn là người hiền lành chất phác. Nàng không biết Kim Luân Pháp Vương là ai và cũng không hề biết ông ta là người có công phu võ nghệ trùm đời, khiến cho bao nhiêu anh hùng võ lâm phải kiêng nể. Ngoài ta, nàng cũng không hiểu chức Minh chủ võ lâm là chức vị gì, đặt ra để làm chi nữa. Nàng chỉ thấy Kim Luân Pháp Vương hỏi với giọng hách dịch,thách đấu với mình trong mười hiệp với chiếc vòng vàng này thì thản nhiên đáp lại ngay :

- ừ , nếu ông muốn thử sức thì cứ đấu xem sao.

Kim Luân Pháp Vương hỏi lại :

- Cô nương đã nghe kỹ và bằng lòng đấu thử rồi đấy chứ ?

Tiểu Long Nữ điềm nhiên đáp :

- Hễ bằng lòng là đấu thử, còn không thì thôi, có gì đâu mà hỏi mãi !

Từ bé Tiểu Long Nữ đã luyện được thần sắc thản nhiên trước mọi việc, bất kỳ giận hơn hay vui mừng cũng không hề để lộ ra mặt. Vì vậy nên lúc trả lời Kim Luân Pháp Vương , nàng vẫn giữ một thái độ bình thường như không có chuyện gì xảy ra hết.

Bao nhiêu anh hùng Trung NGuyên nghe nàng đối đáp như vậy thì mỗi người có một cách nghĩ khác nhau.

Có kẻ thì nghĩ rằng :

- Cô này có lẽ là một tiên nữ cho nên mới dạy cho Dương Qua biết pháp thuật lạ mê hoặc Đạt Nhĩ Ma . Lúc này Kim Luân Pháp Vương cũng muốn dùng pháp thuật để phục thù cho đệ tử đây.

Có người thì lại nghĩ khác :

- Nàng này đẹp như tiên nữ giáng trần. Có lẽ, Kim Luân Pháp Vương cũng xiêu lòng với vẻ đẹp của nàng , nên đưa vòng vàng ra loè để thách đấu cùng nàng. Nếu quả thật ông ta muốn tranh tài cao thấp thì cứ đấu cùng Dương Qua là người thắng trận chứ cớ gì lại đi khiên chiến nữ sư phụ ?

Vì có những ý kiến dự đoán trái ngược nên trong đại sảnh và dưới đấu trường vang lên những tiếng bàn tán qua lại như giữa đám chợ đông.

Chính Kim Luân Pháp Vương cũng nghi ngờ Tiểu Long Nữ có nhiều phép thuật, nên ông ta đề phòng, niệm chú bằng tiếng Tây Tạng.

Ông ta đọc những câu chú trong bài "mật tôn chú" , đoạn "hàng yêu phục ma".

Dương Qua đứng gần đấy, nghe Kim Luân Pháp Vương đọc chú, không hiểu gì hết . Nhưng chàng đoán có lẽ ông hoà thượng này cố tình mằng chửi cô nương mình nên chàng cố tâm học hết các câu chú không sai một chữ nào.

Đọc xong mấy câu thần chú, Kim Luân Pháp Vương quát lớn :

- Tiểu tử, hãy tránh ra cho ta quyết đấu.

Dương Qua nghiêm mặt nói :

- Đánh nhau một ngày một đánh, chuyện chi phải chộn rộn lắm thế nhỉ ? Hãy nghe ta đọc đây này !

Nói xong, chàng đọc lại những câu thần chú vừa rồi không sai một mảy may. Khi ấy Đạt Nhĩ Ma vừa tỉnh dậy, trừng mắt nhìn thấy sư phụ mình đang cầm vòng vàng định đấu cùng bên địch thủ, còn Dương Qua đang đọc những câu chú quyết trong "mật tôn chân ngôn" trong đoạn "hàng yêu phục ma" , hắn ngạc nhiên quá, nghĩ thầm trong bụng :

- Lạ quá, chú này là một điều pháp bí mật của phái Tây Tạng, không bao giờ truyền ra cho người khác phái. Tại sao tiểu tử này lại thuộc như vậy. Như thế quả nhiên y là đại sư huynh mình tái sinh rồi, không còn nghi ngờ gì nữa. Nếu không phải đại sư huynh thì làm sao lại thuộc làu làu như vậy được ? Sư phụ ta trong lúc nóng nảy không nghĩ tới việc này, ta cần phải can gián người hổi tâm mới được.

Nghĩ như vậy, y nhảy xổ ra, phục trước mặt Kim Luân Pháp Vương, lạy luôn bốn lạy, thưa lớn :

- Bẩm sư phụ, theo con nhận xét, nhất định người này là sư huynh của con đầu thai rồi. Xin sư phụ hãy dung thứ cho y.

Kim Luân Pháp Vương nghe nói nổi đoá, thét lớn :

- Đừng có nói sàm. Sao hôm nay con mê muội làm vậy ?

Đạt Nhĩ Ma lại phủ phục làm lễ lần nữa và thưa tiếp với một giọng vô cùng thành khẩn :

- Xin sư phụ xét lại. Con quả quyết chuyện này ngàn lần không sai đâu. Mong sư phụ chấp nhận lời cầu khẩn của con, kẻo sau này lại hối hận .

Kim Luân Pháp Vương thấy y không chịu tuân lời, còn lằng nhằng cản trở thì nổi nóng, đưa tay chộp lấy lưng Đạt Nhĩ Ma vứt ra xa mấy trượng.

Đạt Nhĩ Ma nặng có trên trăm cân, thế mà Kim Luân Pháp Vương chỉ khẽ nắm lưng ném nhẹ đã bay đi như người ra ném một con gà nhỏ, không lộ vẻ gì mệt nhọc cả.

Quần hùng đã chứng kiến Đạt Nhĩ Ma chiến đấu cùng Ngư Nhân, sức khoẻ như hùm thiêng, thế mà lúc này, Kim Luân Pháp Vương chỉ khẽ ra tay nhấc bổng y lên như một con ếch, cũng đủ thất kinh và đoán rằng sức lực của ông ta ít ra cũng mạnh gấp mười lần Đạt Nhĩ Ma.

Vì vậy nên người nào cũng lo ngại dùm cho Tiểu Long Nữ, với thân hình mảnh mai ẻo lả, làm sao nàng chống đỡ lại được với ông ta.

Bọn Mông Cổ đã thừa biết Kim Luân Pháp Vương sức mạnh địch muôn người,dõng lược đánh nổi chín trâu. Tiểu Long Nữ dù có phép tà thuật hay bùa ngải gì cho lắm cũng chưa phải là đối thủ của ông ta được. Vì vậy cho nên bọn chúng chủ quan xem thường, hiu hiu tự đắc, cùng nhau bấu véo đùa cợt cho qua thì giờ.

Dương Qua đọc xong mấy câu thần chú bằng tiếng Tây Tạng rồi chạy lại bên Tiểu Long Nữ thấp giọng nói thầm :

- Lão hoà thượng này vô cùng lợi hại, cô nương cần lưu tâm cẩn thận cho lắm đấy nhé !

Kim Luân Pháp Vương lắng tai nghe Dương Qua đọc hết mấy câu thần chú không sai một mảy may cũng phải buộc lòng khen thầm là một người thông minh xuất chúng, nhưng ông ta mỉm cười ngó chàng :

- Cậu bé giỏi lắm , đáng khen đấy. Nhưng ráng mà liệu hồn đấy nhé !

Nhưng Dương Qua nào có chịu sút, đáp lại ngay :

- Hoà thượng hãy cố giữ mình đấy nhé. Phải coi chừng cẩn thận.

Kim Luân Pháp Vương trợn mắt hỏi :

- Mi bảo ta phải coi chừng cái gì ?

Dương Qua đáp :

- Hôm nay ra đua tài cùng sư phụ tôi, hoà thượng cần coi chừng cẩn thận. Vì sư phụ tôi là bồ tát tái sinh, am hiểu việc trên trời, dưới đất, có biệt tài phục hổ hàng long. Như vậy cho nên tôi bảo trước để cho hoà thượng biết mà đề phòng cho lắm !

Dương Qua thừa biết Kim Luân Pháp Vương là tay lợi hại phi thường nên cố bày chuyện đặt điều lung lạc lung tung, mong áp đảo tinh thần đối phương phần nào để có thể lợi cho sư phụ mình trong cuộc chiến này.

Nhưng Kim Luân Pháp Vương là một tay kiệt liệt trên đời, đệ nhất võ công trên xứ Tây Tạng và Mông Cổ, tài kiêm văn võ, thường ngày ông vẫn than thầm là chưa bao giờ gặp được đối thủ cho xứng đáng. Vì vậy nên không bao giờ ông ta lại đi tin những điều mộng mị viển vông.

Khi nghe Dương Qua nói, ông "hừ" một tiếng rồi nghiêm mặt bảo :

- Cứ đua tài một vài hiệp rồi sẽ biết nhau, cần gì phải căn dặn trước làm gì cho bận óc hả ?

Nói xong, ông ta quay sang hỏi Tiểu Long Nữ :

- Thế nào, cô nương chuyên dùng loại binh khí gì, cứ lấy ra đi là vừa !

Tiểu Long Nữ điềm nhiên rút trong bọc ra một vuông lụa trắng tinh như tuyết, phất lên một cái, chiếc khăn theo gió bay phấp phới, ở đầu khăn có cột một quả cầu tròn màu vàng. Trong lòng quả cầu trống rỗng nên mỗi lúc vung lên, gió lộng vào quả cầu rít lên những tiếng vu vu như sáo diều.

Dương Qua đem đôi bao tay bằng bạch kim trao lại cho Tiểu Long Nữ rồi đứng lui ra đằng sau xem.

Toàn thể quần hùng đứng xem, vừa trông thấy hai món vũ khí lạ đời của hai bên đưa ra thì ai nấy đều lấy làm lạ lùng hết sức. Người nào cũng băn khoăn tự hỏi không biết hình thái hai món vũ khí này dài ngắn, nặng nhẹ khác nhau một trời một vực, hỏi họ sẽ làm sao để chiến đấu ? ...

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 37 : Đại chiến Kim Luân Pháp Vương.

Cái vòng vàng do Kim Luân Pháp Vương sử dụng có nhiều tác dụng phi thường mà các anh hùng Trung Nguyên chưa mấy kẻ được rõ. Vòng này có tính chất hút kim khí, cho nên bất luận gươm , giáo, kích, côn, búa, chuỳ hay loại binh khí nào làm bằng kim khí đến gần đều sẽ bị chiếc vòng này hút mạnh khỏi tay.

Vì vậy nên bao nhiêu đấu thủ tầm thường xưa nay chưa đấu cùng ông qua ba hiệp đã bị cái vòng vàng này hút mất vũ khí.

Xưa nau Kim Luân Pháp Vương nổi tiếng là võ lâm đệ nhất cao thủ, ít khi ông ta dùng đến vũ khí để đánh với ai, nhưng cũng không kẻ nào đương cự nổi. Thế mà hôm nay, ông đã đem binh khí tuỳ thân ra sử dụng, và Tiểu Long Nữ chỉ dùng một vuông lụa mỏng thì làm sao có thể đương cự được nổi ? Vì vậy nên trong trận này, ông ta có thể bảo Tiểu Long Nữ không thể chống cự quá mười hiệp cũng không phải là điều nói ngoa vậy.

Từ ngày rời Tây Tạng sang Trung Quốc, Kim Luân Pháp Vương chưa hề gặp một đối thủ nào có thể chống cự quá ba hiệp. Lần này tuy xem thường Tiểu Long Nữ nhưng ông ta vẫn cẩn thận đề phòng vì trông thấy đệ tử của nàng là Dương Qua quả là một tay lợi hại và có nhiều mánh khoé bất ngờ.

Hai người vừa nhìn nhau thì Tiểu Long Nữ đã tung khăn lụa ra tấn công trước.

Kim Luân Pháp Vương không biết đây là vũ khí của tà ma hay tiên thánh, liền đưa tay chộp lấy liền.

Thấy tấm lụa trắng vô cùng uyển chuyển và linh động,Kim Luân Pháp Vương đoán trước là sẽ có nhiều sự biến hoá ly kỳ nên trong lòng đã có ý thận trọng, miệng lâm râm đọc thần chú trấn áp đủ năm phương tứ hướng trên đầu, đề phòng thật chặt chẽ.

Tiếng leng keng từ quả cầu vòng buộc nơi đầu giải lụa trắng phát ra những tiếng như tiếng chuông thu hồn, nghe rợn cả gáy và tiếng lụa rít gió vo vo đánh mạnh vào huyệt "trung chữ" nơi cánh tay của Kim Luân Pháp Vương .

Kim Luân Pháp Vương lẹ làng như chớp nhoáng, phi thân sang một bên rồi đưa tay lên đón bắt nữa.

Tiểu Long Nữ khẽ xoay tay một vòng , trái cầu tròn lộn qua rồi lao mạnh tới đánh thẳng vào hổ khẩu của Kim Luân Pháp Vương, ngay huyệt "hợp cốc" .

Kim Luân Pháp Vương vận dụng chưởng lực đánh trả lại rồi dùng hai ngón tay như hai gọng kìm sắt, kẹp chặt lại.

Tiểu Long Nữ tiến tới hai bước, tung vòng cầu vào ngay huyệt "khúc trạch" nơi bả vai Kim Luân Pháp Vương nhưng ông ta đã đề phòng tràn qua một bên né khỏi.

Thế là liên tiếp ba đòn của Tiểu Long Nữ thảy đều bị Kim Luân Pháp Vương phá giải hết. Dương Qua đứng ngoài nhìn trận đấu, miệng đếm lia lịa :

- Một, hai, ba, bốn, năm ....

Đến đây, chàng hô lớn :

- Đã được năm hiệp rồi đấy nhé. Nếu chưa ai thủ thắng được thì tính hoà đấy nhé !

Thật ra Kim Luân Pháp Vương có thách thức Tiểu Long Nữ đấu luôn mười hiệp, nhưng vừa đánh đến ba hiệp thì Dương Qua đã đếm đến năm rồi để trận đấu mau kết thúc, vì chàng ngại sư phụ mình không đủ sức đương cự cùng Kim Luân Pháp Vương. Trong trường hợp này chỉ còn cách ăn gian cho xong chuyện rồi sau đó sẽ tính mưu kế khác.

Nhưng Kim Luân Pháp Vương là bậc võ sư thượng thặng, ông ta không cần đối đáp hay cãi lẫy cùng Dương Qua . Khi thấy Tiểu Long Nữ đã tấn công đủ ba chiêu, ông ta bắt đầu tấn công lại.

Kim Luân Pháp Vương vừa vung tay lên, Tiểu Long Nữ đã nghe tiếng leng keng rít lên rợn người, từng loạt hào quang chói loà lấp lánh thốc mạnh vào mặt khíên cho tâm thần rối loạn, không nhận định được đâu là Kim Luân Pháp Vương, đâu là chiếc vòng vàng để tránh né hay chống cự nữa.

Thấy tình thế trở nên nguy ngập không có lối thoát, Tiểu Long Nữ chỉ còn cách tung mình vút lên không trung để tránh khỏi ảnh hưởng của chiếc vòng vàng rồi tung sợi lụa trắng, phóng quả cầu nhắm ngay huyệt "phong trì" của Kim Luân Pháp Vương .

Mặc dầu là một lối tránh né để thoát thân, đồng thời cũng là một đòn tấn công hiểm hóc, vì huyệt "phong trì" nằm ở ngay phía sau lưng con người, vồn là một huyệt trọng yếu, nếu đối thủ không né tránh kịp thời thì tính mạng không còn. Ngoài ra, nếu lôi thôi thì cả hai bên đều càng nguy ngập hơn nữa.

Nhưng Kim Luân Pháp Vương nào phải là tay vừa. Khi vừa trông thấy dáng điệu của Tiểu Long Nữ, ông đã đoán trước được và cúi rạp mình xuống đất để né tránh. Vừa thoát khỏi, ông ta đã lăn qua một vòng, đứng thẳng dậy tấn công liền.

Nhân khi Kim Luân Pháp Vương lăn mình, Tiểu Long Nữ nhảy phóc ra sau hơn một trượng để né tránh, nhưng ác thay, mặc dù đã đi xa, nhưng tiếng vòng vàng leng keng vẫn như xé vào màng tai, cứ liên tiếp đuổi theo như mũi tên đang tìm tới đích. Tiểu Long Nữ càng lùi, vòng vàng càng tiến tới không rời một ly, một tấc.

Trong hoàn cảnh thập tử, nhất sinh, Tiểu Long Nữ mặt mày tái xanh tái xám, chỉ còn cách vận dụng khinh công để lẩn tránh mà thôi. Nàng luôn luôn như cánh bướm nhảy nhót khắp nơi, tránh né, nhưng chiếc vòng vàng vẫn không buông tha, cứ một mực bám riết như bóng với hình.

Dương Qua đứng ngoài cứ lớn tiếng đếm mãi :

- Sáu, bảy, tám, chín, mười ...

Khi đếm đến mười rồi, chàng nhảy xổ ra đấu trường thét lớn :

- Đủ rồi, theo lời ước hẹn, chỉ đấu trong vòng mười hiệp, sao đủ số rồi, ông lạ nuốt lời, cứ ép cô nương tôi đấu mãi thế ?

Trong lúc cùng nhau giao đấu, Kim Luân Pháp Vương đã lượng được khả năng của Tiểu Long Nữ rồi. Nếu cứ bình thường chiến đấu, ông ta có thể thắng được nàng rồi. Ngặt một nỗi là tên tiểu tử Dương Qua cứ hò đếm bên ngoài, phá rối làm ông tức muốn lộn ruột, nhưng không làm được chi, ông ta định bụng :

- Mặc kệ hắn ! Để cho nó nói gì thì nói, ta thanh toán con bé này trước rồi sẽ nói chuyện với hắn sau cũng được, không hơi đâu đi lý sự với cái thằng già mồm này !

Nghĩ như vậy, ông ta tung vòng, phất tay áo đập mạnh tới .

Dương Qua đứng ngoài vẫn luôn miệng đếm lớn :

- Mười một, mười hai, mười ba, mười bốn ...

Nhưng chàng không ngừng chú ý đến cuộc chiến giữa hai người đang diễn ra như thế nào.

Bị đánh đòn thứ hai, Tiểu Long Nữ đã thấy ngán và rung động cả người rồi. Bây giờ tới đòn thứ ba thì còn hơi sức đâu mà chống đỡ nữa. Nàng chỉ còn áp dụng thuật khinh công kỳ diệu của phái Cổ Mộ , ẩn hiện vô chừng để lẩn tránh, đồng thời tung giải lụa trắng phóng quả cầu vi vu tấn công lại để hộ thân.

Vuông lụa trắng như dòng sương mù màu trắng đục, khi dài, khi ngắn, khi uốn lượn, cuộn khúc như sóng cồn. Quả cầu vòng xen kẽ với ánh vàng của chiếc vòng vàng của Kim Luân Pháp Vương khiến anh hùng đứng xung quanh nhìn sững.

Tiếng leng keng của chiếc vòng vàng hoà lẫn với tiếng vi vu của giải lụa bạch và tiếng động của quả khí cầu, khi bổng, khi trầm, lúc nhạt, lúc khoan, không khác gì một bản nhạc "vũ lân" , vừa êm tai, nhưng cũng vừa rùng rợn.

Mọi người đứng xem thảy đều hồi hộp lo lắng giùm cho tính mạng của nàng thiếu nữ xinh đẹp.

Từ ngày thơ ấu, Tiểu Long Nữ đã có khiếu ham thích âm nhạc. Trong khi nhàn rỗi, trong Cổ Mộ, nàng được bà LIễu Hoàn và sư bá dạy cho phép đánh đàn, nhờ đó nàng rất sành nghe nhạc điệu. Vì vậy, khi luyện tới phép phóng chiếc cầu, nàng nghiên cứu biến những tiếng động trong quả cầu thành những nhạc điệu , khi nào múa, các tiéng động đó phát ra đúng theo kỳ âm pháp của đàn. Với môn vũ khí này, trong võ lâm đã có thêm một điệu nhạc tân kỳ nữa.

Trong khi bị Kim Luân Pháp Vương đàn áp, Tiểu Long Nữ không thể công khai chính diện chống đối, mà chỉ tung cầu ra để tìm cách né tránh. Tuy nhiên, mỗi lần quả cầu tung ra đều có một điệu nhạc phổ kèm theo, nghe rất thâm trầm, khi dồn dập, khi hùng tráng, khi rời rạc mê ly. Bao nhiêu anh hùng đứng xem thảy đều kích động theo điệu nhạc kỳ lạ này.

Thuật khinh công của Cổ Mộ phái tuy cao siêu, nhưng trong võ lâm, không phải là hoàn toàn vô địch. Kim Luân Pháp Vương cũng vận dụng tài khinh công thượng thặng để đuổi theo truy kích, nếu là chốn đồng bằng rộng rãi thì có lẽ trận chiến đã kết thúc rồi, nhưng nhờ nơi đây địa thế chật hẹp, bàn ghế vướng chân vướng tay, Tiểu Long Nữ khéo léo lợi dụng địa hình địa thế ấy để tránh né và ẩn nấp kéo dài trận đấu nên chưa đến nỗi bị thất bại. Nhờ sống trong Cổ Mộ chật hẹp đã quen với lối đi vướng vít nên nàng đã nhanh chân lướt mình qua các cột nhà , hẻm hóc trong sảnh mà tránh thoát được tất cả các đòn ác hiểm của Kim Luân Pháp Vương .

Đuổi mãi đến mệt nhừ mà không bắt được Tiểu Long Nữ , hơn nữa, nghe tiếng nhạc thoát ra từ quả cầu nghe có âm điệu hay hay, Kim Luân Pháp Vương cũng thấy có hứng thú, bèn dừng chân lại, lắng tai nghe rồi cùng vung chiếc vòng vàng kêu leng keng, phát ra những âm điệu cũng khá nhịp nhàng.

Một trận đấu xô xát như vũ bão, trong phút chốc đã biến thành một cuộc hoà nhạc. Những tiếng vi vu, êm ái thanh tao từ trong giải lụa và trái cầu phát ra, hoà lẫn với tiếng leng keng chói ráy như đinh tai từ chiếc vòng vàng vang lên từng điệu nhịp nhàng và kéo dài không ngớt.

Hoàng Dung và Quách Tỉnh cùng nghe tiếng âm điệu này, bỗng chợt nhớ lại ngày nào trên Đào Hoa Đảo, cả ba vị kiệt liệt võ lâm là Hồng Thất Công , Âu Dương Phong và Hoàng Dược Sư đã dùng âm thanh của các nhạc cụ như đàn, tiêu,... kịch đấu với nhau. Nghĩ tới đó, hai ông bà bỗng cùng thở dài than rằng :

- Thật mới ngày nào đây, mà giờ này nghĩ lại , hình như đã xa vời như bao nhiêu thế kỷ. Trong trận đấu này, hai người tuy nội lực cũng khá, nhưng so với ba vị Đông Tà, Tây Độc, Bắc Cái ngày xưa vẫn còn thua kém nhiều lắm.....

Trong lúc đó, Dương Qua vẫn không dừng đếm, chàng cứ oang oang tiếp tục đếm luôn miệng " một trăm, một trăm sáu, một trăm tám,.... " Tức thì Kim Luân Pháp Vương lại khởi thế công sát phạt nữa.

Tiểu Long Nữ tự xét mình yếu hơn nên không dám công nhiên tiếp chiêu, chỉ dùng khinh công để lẩn tránh. Kim Luân Pháp Vương dù tấn công ồ ạt nhưng cũng vẫn chưa đánh trúng được đòn nào.

Quách Phù bấy giờ đang ngủ trong lòng mẹ, bị tiếng leng keng của chiếc vòng vàng làm cho tỉnh giấc. Nàng ngáp dài, vươn vai ngồi dậy, nét mặt buồn buồn , kế đó, nàng dùng hai tay bịt tai lại vì tiếng leng keng dội lên nghe khó chịu lắm.

Kim Luân Pháp Vương vừa đánh vừa suy nghĩ :

- Ta mang danh đệ nhất cao thủ Tây Tạng, nay chỉ đánh với một đứa con gái chưa được bao nhiêu tuổi mà mất đến cả ngày không thắng được thì còn mặt mũi nào mà nhìn thiên hạ và các tay hào kiệt võ lâm nữa. Cần phải giải quyết ngay trận đấu, nếu không cứ để giằng dai, dù sau có thắng được cũng không còn vẻ vang nữa !

Nghĩ vậy, ông ta tung chiếc vòng tấn công sang bên tả, rồi bỗng đổi hướng đập sang bên hữu, cố sức hạ thủ cho gấp mới nghe.

Tiểu Long Nữ tận lực chống đỡ, nhưng trong lúc này Kim Luân Pháp Vương tấn công theo lối ngũ hành, phát chưởng lực ra bao vây khắp các mặt không phía nào sơ hở, từ đấu đến chân, lúc nào cũng bị tấn công tới tấp.

Tiến lùi không xong, quay sang tả hữu cũng không thoát được, Tiểu Long Nữ đâm liều. Nàng dùng giải lụa trắng múa tít thành một vòng tròn như một tràng hoa trắng che phía dưới chân rồi tung người vọt lên trên không .

Kim Luân Pháp Vương thừa thế chộp trúng giải lụa. Nếu là khí giới thường thì nhất định Kim Luân Pháp Vương chiêm đoạt ngay. Nhưng ngại vì giải lụa vừa dịu, vừa mềm, trong khi Kim Luân Pháp Vương cố sức kéo lại thì nó bỗng mềm nhũn ra như giấy ướt , không thể nào giật được nữa.

Kim Luân Pháp Vương nổi nóng, giật mạnh một cái, miệng hét :

- Lần này nhất định phải được !

Nhưng Tiểu Long Nữ vẫn thoát thân như thường.

Mọi người đang lo ngại nàng bị tóm được, nên thảy đều vui mừng khi thấy nàng thoát khỏi. Tuy nhiên , Kim Luân Pháp Vương vẫn bám riết, không chịu rời nàng một bước, quyết tâm đuổi theo mãi.

Tiểu Long Nữ hoảng hốt , vội cúi đầu lòn xuống phía dưới nách ông ta chạy ra phía sau trốn thoát. Lập tức Kim Luân Pháp Vương quay người lại như chớp, đưa hai tay chộp nữa.

Tiểu Long Nữ không dám tung chiếc khăn lụa có vòng cầu chống đỡ mà chỉ dùng khinh công nhảy vọt lên cao trốn tránh.

Chộp trật mấy cái liên tiếp, Kim Luân Pháp Vương nổi đoá hét lớn :

- Mày giỏi dùng thuật khinh công thì ta cũng có phép trị !

Thét xong, ông ta vung chiếc vòng đập xuống . Tiếng leng keng từ chiếc vòng phát ra như tiếng thét của tử thần, khiến cho Tiểu Long Nữ lạnh gáy , toát mồ hôi , hết đường trốn tránh vì quá cận kề.

Quần hùng trông thấy hoảng quá, có kẻ không dám mở mắt để nhìn cảnh tượng sắp xảy ra.

Trước tình thế quá nguy cấp, Dương Qua không chịu được nữa, bất thình lình chàng giật ngay chiếc chày vàng trong tay Đạt Nhĩ Ma xông lại phang mạnh vào chiếc vòng vàng của Kim Luân Pháp Vương . Một tiếng "choeng" đinh tai nhức óc vừa nổi lên, cái vòng vàng bị rơi xuống đất.

Vì nhát đập quá mạnh, cả hổ khẩu của Dương Qua đã bị toét ra, chảy máu đầm đề.

Tiểu Long Nữ thấy chiếc vòng vàng ác hại đã rơi trên mặt đất thì biết nguy cơ đã qua đi, nàng vội vàng tung giải lụa có cầu vồng ra rồi nhảy lên nấp bên cột trụ trên nóc đại sảnh để đề phòng Kim Luân Pháp Vương dung "Ngũ đỉnh khai sơn chưởng" tấn công nữa.

Trong lúc đang tràn trề hy vọng sẽ hạ được đối phương, bất ngờ bị Dương Qua tấn công phá rối khiến cho đòn bị hụt và rơi cả vũ khí, nên Kim Luân Pháp Vương nộ khí xung thiên, gầm lên như cọp dữ. Xưa nay, chưa khi nào ông ta bị ai làm như vậy. Tức thì ông ta tập trung chưởng lực vào tay phải, tung một đòn như thiên lôi bổ ngay mình Dương Qua. Vì hai người chi cách nhau một trượng nên Dương Qua không tài nào né tránh nổi. Chàng đinh ninh thể nào cũng mất mạng dưới ngọn đòn ấy.

Quách Tỉnh đang đứng ngoài theo dõi, thấy Kim Luân Pháp Vương bực tức mặt mày bầm đen thì biết thế nào ông ta cũng sẽ tung ra một đòn ác liệt,. Khi trông thấy Kim Luân Pháp Vương vung chưởng đập tới, Quách Tỉnh chỉ kịp kêu một tiếng "nguy quá" rồi tung "Giáng Long Thập Bát Chưởng " ra ngăn cản ngay.

Nhờ chưởng lực của Quách Tỉnh mà Dương Qua thoát được đại nạn. Chàng nương thế "Phi long tại thiên" nhảy vọt lên cao rồi nhắm ngay đầu Kim Luân Pháp Vương giáng xuống một chưởng.

Nếu chỉ có một xáp một như thế thì như khi bình thường, Kim Luân Pháp Vương cũng có thể hạ được Dương Qua dễ dàng. Nhưng lần này vì bận tâm chống đỡ cùng Quách Tỉnh, trước sức tấn công ồ ạt như sóng cồn của Giáng Long Thập Bát Chưởng , Kim Luân Pháp Vương không thể nào sơ hở được, chỉ "hự" lên một tiếng, nghiêng mình né tránh đường chưởng của Dương Qua rồi chú ý đến chiến đấu cùng Quách Tỉnh.

Đây là trận đấu thứ nhì của hai vị đại võ sư trong võ lâm. Quách Tỉnh luôn luôn biến động, khi lao mình lên cao, khi sà ngang sát đất, tấn công ồ ạt, còn Kim Luân Pháp Vương không xê dịch nửa bước, bám lấy vị trí cũ mà chống đỡ.

Quách Tỉnh thấy không tiện đương nhiên giao đấu cùng Kim Luân Pháp Vương nên chỉ tấn công mấy đòn rồi bỗng chuyển sang thế thủ.

Bị Dương Qua đánh hụt mấy đòn liên tiếp, nên Kim Luân Pháp Vương cũng ngán. Vì vậy nên mặc dù Quách Tỉnh lùi ra sau để giữ thế thủ, ông ta cũng không dám xông tới bức chiến. Hai người chỉ đứng yên vị trí đánh nhau cầm chừng.

Hai tay đại võ sư quyết đấu được độ vài mươi hiệp, Kim Luân Pháp Vương có tiến lên vài bước, nhưng bỗng nghĩ thầm :

- Ta không nên khinh địch bước vào trọng địa, nếu đối phương cho người ra tiếp cứu thì nguy to.

Nghĩ vậy, ông ta vận dụng công lực đứng nguyên một chỗ, mím môi ngậm miệng ra sức chiến đấu chứ không tấn công như trước nữa.

Dương Qua cúi xuống nhặt chiếc vòng vàng đang nằm dưới đất, chạy lại chỗ Tiểu Long Nữ hỏi nhỏ :

- Sao, cô nương có hề chi không ?

Tiểu Long Nữ mỉm cười lắc đầu tỏ ý bình yên.

Dương Qua mừng quá, cầm tay nàng siết mạnh, tỏ ý cảm thông cùng Tiểu Long Nữ.

Sau đó, Dương Qua đem chiếc vòng vàng mắc lên đầu chày kim cương, và hô lớn trước mặt bọn Mông Cổ :

- Hỡi các người trong bọn Mông Cổ hãy lắng tai nghe đây; Cả hai thứ binh khí tuỳ thân của hai tên cao thủ nhất trong đám các người xứ Mông Cổ đã lọt vào tay ta rồi. Như vậy còn mặt mũi nào đi tranh chức Minh Chủ võ lâm nữa. Nếu các ngươi có chút danh dự thì hãy cút đi cho rồi.

Bọn võ sĩ Mông Cổ không bằng lòng, nhao nhao phản đối :

- Đâu được, bên ngươi, cô gái này đã thua trước đến nỗi hai người xáp lại đấu một và cuối cùng thì chú mày cũng gần bỏ mạng, nếu không có ông già họ Quách kia cứu ứng kịp thời. Thử hỏi xem, ba người đánh một mà gọi là thắng sao cho phải. Như thế mà không biết xấu, mà còn đi rêu rao lên nữa. Cái vòng vàng kia của Kim Luân Pháp Vương đã vứt đi rồi, mi lượm mót chứ mi đã đoạt được hồi nào ?

Một người khác trong bọn họ la lớn :

- Nếu có anh hùng thì hãy đấu một chọi một xem thế nào ?

Tiếp tới có kẻ nói thêm :

- Ê, ở đây không thể hùa nhau để kéo bè đánh lén như thế. Có gan thì hãy ra đấu lại xem nào ?

Một tên khác vừa cười, vừa nói nhạo thêm :

- Thầy đánh thua, chạy như chuột nhắt mà trò thì đi rêu rao nói dóc, thật không biết ngượng mồm.

Tiếng hò hét, ồn ào vang lên như vỡ chợ, nhưng họ nói toàn tiếng Mông Cổ nên quần hùng không ai nghe hiểu gì ráo.

Đối với các anh hùng có mặt hôm nay, ai nấy cũng đều công nhận là nếu so với tài lực của Tiểu Long Nữ còn kém xa Kim Luân Pháp Vương . Nhưng nếu đem chức Minh Chủ võ lâm mà nhường cho ngưòi Mông Cổ thì nhất định không thể được vì nhiều lẽ :

1. Võ lâm anh hùng Trung Nguyên sẽ bị mất thể diện. Hơn nữa, nơi đây chưa phải đã tập trung đông đủ hết anh hùng Trung Nguyên.

2. Nếu nhường chức Minh Chủ cho người Mông Cổ thì sẽ làm nhục ý chí của tất cả những lực lượng yêu nước đang quýết tâm chiến đấu với quân Mông Cổ.

Cả bọn anh hùng hào kiệt Trung Nguyên thấy bọn võ sĩ Mông Cổ hò hét la rống om sòm thảy đều nổi nóng, cùng đứng phăng cả dậy, xông lại hỏi :

- Này bọn man di mọi rợ xâm lược, bọn bay muốn đánh nhau hay không mà có những thái độ hỗn xược như vậy hả ?....

Dương Qua để chiếc vòng trên đầu chày kim cương vác lại trước mặt Kim Luân Pháp Vương trợn mắt hỏi lớn :

- Này, phen này nhà ngươi đã nhận thua chưa, xin cứ nói toẹt ra cho thiên hạ nghe một chút xem sao nào ? Đấu với người ta mà để mất vũ khí rành rành trước mặt mà bây giờ còn già họng cãi bướng hay sao ?

Nói xong. chàng nhìn quần hùng phân bua với một giọng hài hước mỉa mai :

- Có đời nào để cho người ta giật mất vũ khí trên tay mà lại đòi làm Minh Chủ võ lâm như vậy . Như thế mà không biết ngượng. Tôi như các người thì về chùa mà gõ mõ cho kêu, thỉnh chuông cho bền để tìm xôi chuối cho đỡ lòng còn hơn.

Lúc ấy, Kim Luân Pháp Vương ngồi lặng thinh để vận công và định thần, sức mạnh vững bền như núi Thái Sơn . Với công lực của ông ta, khi đã vận dụng đầy đủ thì dù rừng gươm biển giáo cũng không sờn, hàng vạn người cũng không di chuyển nổi. Ông ta định chịu đựng trong giây lát, đến khi nào mọi người kiệt sức không chịu nổi nữa sẽ lần lượt hạ từng người một.

Vì bận phải vận dụng nội lực nên tuy tai nghe Dương Qua nói mà Kim Luân Pháp Vương cũng không thể trả lời, vì hễ chỉ mở miệng ra nói là công lực sẽ theo tiếng nói mà thoát đi hết.

Dương Qua cũng thừa hiểu như thế nên chàng nghĩ thầm :

- Nếu ta để hắn vận dụng nội lực đầy đủ thì có khác nào đưa đầu cho hắn chặt ? Chi bằng tìm cách phá giải trước đi là xong.

Nghĩ vậy, chàng nói lớn cho mọi người cùng nghe :

- Xin toàn thể anh hùng hảo hán Trung Nguyên và Mông Cổ hãy nghe ta nói đây! Trước mặt chư vị anh hùng, tôi xin hỏi lại Kim Luân Pháp Vương ba lần, nếu ông ta không trả lời thì xem như là đã mặc nhiên thừa nhận là chịu thua đấy nhé !

Nói rao xong rồi ., Dương Qua quay lại nhìn Kim Luân Pháp Vương hỏi lớn :

- Ngài đã chịu thua rồi phải không ?

Thấy ông ta làm thinh, chàng hỏi tiếp :

- Ngài hết tham vọng giành ngôi Minh chủ võ lâm rồi đấy chứ ?

Thấy Kim Luân Pháp Vương vẫn làm thinh, Dương Qua hỏi câu cuối :

- Có lẽ ngài quá ngượng nên không tiện trả lời phải không ? Không sao đâu, việc lặng thinh của ngài là đã mặc nhiên thừa nhận rồi đó !

Lúc ấy Kim Luân Pháp Vương đã vận dụng nội công được tám thành, nên ông ta cố tâm nín thinh để cho đầy đủ mười thành thì sẽ nói chuyện luôn thể.

Nhưng Dương Qua đã lanh lẹ đoán ra thâm ý đó của Kim Luân Pháp Vương, cướp lời nói tiếp :

- Hay lắm, một khi ngài đã nín thinh không đáp và đã mặc nhiên thừa nhận là thua rồi, chúng tôi hứa là không bao giờ gây khó dễ gì cả. Ngài cũng như các chư vị đồ đệ cứ ung dung ra về,chúng tôi xin chịu trách nhiệm về sự an ninh của toàn thể quý vị trong phạm vi hai chục dặm trong vùng này.

Nói xong, chàng cầm chiếc vòng và chiếc chày vàng trao cho Quách Tỉnh, lễ phép thưa :

- Thưa Quách đại hiệp, đây là chiến lợi phẩm ta tịch thu được của địch trong cuộc tranh tài hôm nay. Xin Đại hiệp hãy cất giữ làm kỷ niệm cho võ lâm Trung Nguyên.

Kim Luân Pháp Vương nghe tới đây tức quá, dằn tâm không nổi nữa, thở phào ra một tiếng, bao nhiêu công lực vận dụng tới đây đã theo hơi thở thoát đi mất hết.

Ông ta tức quá, mặt mày đỏ như gấc, muốn ra tranh tài đánh nữa thì lại ngại có Quách Tỉnh không phải là tay vừa, huống chi trong tay không còn binh khí và bên quần hùng Trung Nguyên số lượng đông hơn phe mình đến mười lần thì làm sao đương cự cho nổi.

Nghĩ vậy, ông ta cố dằn tâm, đáp bằng một giọng khàn khàn vì quá tức tối :

- Bọn Trung Nguyên các người quả thật tinh quái và xảo quyệt hết sức, lại có dã tâm ỷ đông hiếp người cô thế, như vậy đâu có đáng mặt anh hùng ?

Nói xong, ông ta phát ống tay áo ra lệnh cho các võ sĩ Mông Cổ rồi bảo lớn :

- Thôi, anh em Mông Cổ chúng ta quay về thôi !

Ra lệnh cho thuộc hạ xong, Kim Luân Pháp Vương quay lại chào Quách Tỉnh rồi nói lớn:

- Thưa Quách Tỉnh đại hiệp và Hoàng Bang chủ, hôm nay chúng tôi hân hạnh được hầu liệt vị đôi ba đường gọi là làm lễ sơ kiến. Vậy xin tạm biệt và hẹn gặp lại vào một dịp khác.

Nói xong, ông ta nghiêm giọng nói hằn từng tiếng một :

- Thiên địa tuần hoàn, nước non còn đó, bọn hèn này thế nào cũng có dịp tái ngộ cùng chư vị anh hùng !

Quách Tỉnh vốn là người thuần hậu trọng nghĩa, thấy đối phương ăn nói lễ độ, khiêm tốn, vội vàng chắp tay chào nói :

- Đại sư quả là tay võ công tuyệt luân, khiến cho chúng tôi vô cùng ngưỡng mộ. Trước khi từ giã, xin hoàn lại các món binh khí của quý hiền đồ và đại sư !

Nói xong, ông đưa hai tay cầm chiếc vòng vàng và chày kim cương đưa ra trao cho Kim Luân Pháp Vương.

Nhưng Dương Qua đã thét lớn :

- Ôi , một người như Kim Luân Pháp Vương chẳng lẽ lại mặt dày mày dạn đến nỗi đi tiếp nhận lại các vật này hay sao ?

Quách Tỉnh nghiêm mặt bảo :

- Dương Qua con ! Con không nên quá thất lễ cùng người lớn tuổi !

Kim Luân Pháp Vương lặng thinh quay mình bước ra khỏi cửa không nói lại một lời.

Dương Qua nói theo :

- Đệ tử của ngài là Hoắc Đô đã bị trúng Ngọc Phong Châm của tôi, nếu không có thuốc giải độc thì tôi xin biếu lại này.

Nhưng Kim Luân Pháp Vương tự cho mình là có đủ y pháp thần thông trị được mọi chứng độc nên vẫn lặng thinh không nói, lặng lẽ bước cho mau.

Ra khỏi cửa, ông ta cúi đầu đi thẳng .

Hoàng Dung nhìn Chu Tử Liễu, thấy hai mắt nhắm thiêm thiếp, hơi thở đều đều như người ngủ say thì lo lắng suy nghĩ :

- Ông này bị trúng độc , nếu không tìm được thần y thì có lẽ không sao cứu thoát được. Mình muốn điều đình cùng lão hoà thượng lấy thuốc giải độc trao đổi với nhau, nhưng lão lại tự ái quá thì đành chịu vậy, phải tìm phương kế khác thôi.

Bà thở dài nhìn Chu Tử Liễu, thần sắc chẳng được vui.

Lúc đó, từ đại sảnh cho đến ngoài hoa viên đâu đâu cũng vang lên những lời bàn tán ca ngợi của quần hùng, tiếng reo hò như sấm động. Ai nấy đều hân hoan khi thấy Dương Qua và Tiểu Long Nữ đã chíên thắng được thầy trò Kim Luân Pháp Vương một cách vô cùng oanh liệt.

Hàng trăm người xúm lại bao quanh hai người mà ca tụng.

Có người bảo :

- Dương Qua dùng chày của Đạt Nhĩ Ma đánh rơi vòng vàng của Kim Luân Pháp Vương, quả thật là dùng gậy ông đập lưng ông. Nếu không có thứ binh khí nặng nề như chày kim cương thì chắc không thể nào đánh rơi nổi chiếc vòng vàng !

Có người thì trầm trồ về tài di hồn đại pháp của Dương Qua . Chính nhờ cái thuật ấy mà chàng đã chế phục được Đạt Nhĩ Ma một cách dễ dàng.

Có người khen Tiểu Long Nữ có thuật khinh công rất là tuyệt diệu, khiến cho bao nhiêu đòn của Kim Luân Pháp Vương đều trở thành vô dụng.

Kẻ bàn qua, người tán lại một câu, tiếng nói ầm ầm như tiếng chợ đông.

Lục trang chủ ra lệnh cho tráng đinh thết tiệc ăn mừng chiến thắng.

Từ nhỏ đến nay, Dương Qua bị người đời ruồng bỏ, sống cô độc một mình trong cảnh quạnh hiu. Hôm nay, bỗng nhiên lập được công lớn giữa ngàn tai mắt võ lâm , ai ai cũng trầm trồ khen ngợi , nên chàng hân hoan sung sướng vô cùng.

Còn Tiểu Long Nữ xưa nay vốn sống cách biệt với thê giới bên ngoài, không hề bị tinh cảm chi phối và cũng không hiểu chi tình tiết trong xã hội . Nàng chỉ nhìn nơi Dương Qua , thấy chàng hân hoan sung sướng thì mình cũng cảm thấy hạnh phúc lây. Tình cảm của nàng hiện nay hoàn toàn phụ thuộc nơi tình cảm của Dương Qua vậy.

Trong khi dự tiệc, Hoàng Dung mời Tiểu Long Nữ ngồi bên cạnh mình, vui vẻ nói chuyện từ vấn đề này sang vấn đề khác , đậm đà thắm thiết như tình cảm ruột thịt.

Tiểu Long Nữ nhìn lại Dương Qua , thấy chàng ngồi cạnh Quách Tỉnh và Ngư Nhân dằng phía cuối phòng, bèn đưa tay vẫy và gọi lớn :

- Qua nhi, sao không qua đây ngồi cạnh ta cho có bạn, ngồi chi xa quá vậy ?

Dương Qua vốn đã thạo đời và biết lễ nghi phong tục, không nhận lối trai gái chung chạ, ngừoi phải chăng thì ăn ở cũng phải đứng đắn, riêng biệt. Vì vậy nên chàng đã dụng ý lại ngồi bên Quách Tỉnh để tránh sự quyến luyến trước công chúng , thiên hạ không tốt.

Không ngờ Tiểu Long Nữ lại không để ý đến khía cạnh ấy, buộc chàng phải tới ngồi gần bên mình.

Nghe nàng gọi, Dương Qua bẽn lẽn nhìn lại, mặt đỏ gay vì mắc cỡ, ngó nhìn mọi người xung quanh rồi nhìn nàng mỉm cười khẽ lắc đầu mấy cái rồi ngồi yên chỗ cũ.

Tiểu Long Nữ bực mình gọi lớn :

- Qua nhi, sao không lại đây ngồi với ta ?

Dương Qua trả lời :

- Cô nương để tôi ngồi cạnh Quách bá bá xem người có điều chi dạy bảo chăng ?

Tiểu Long Nữ cau mày gắt nói :

- Ta yêu cầu Qua nhi lập tức lại đây ngồi với ta ngay bây giờ !

Dương Qua thấy mặt nàng đã lộ vẻ tức giận, bực dọc, mắt trừng, môi mím và nói dằn từng tiếng thì biết nàng đã giận tới cực điểm rồi, thầm nghĩ :

- Ngày ta đi tìm cô nương, thấy Lục Vô Song hao hao giống nàng mà ta đã không nào thiên khổ vạn nan để theo đuổi mãi. Huống chi ngày nay đã được gặp lại cô nương rồi, tại sao không vượt qua các nghi lễ tầm thường để làm vừa lòng nàng. Đối với ta hiện nay, cô nương là tất cả lẽ sống, bao nhiêu vịêc khác có ý nghĩa gì đâu ? Nếu ta câu nệ tiểu tiết không tuân theo ý nàng, nàng nổi giận bỏ đi lần nữa thì biết đâu mà tìm ?

Nghĩ vậy, chàng đứng dậy chạy lại chỗ Tiểu Long Nữ...

Hoàng Dung thấy thái độ của hai người có vẻ đặc biệt khác thường, đã có bụng nghi ngờ, muốn dò xét xem sao, tuy nhiên bà vẫn sai tráng đinh thu dọn chỗ ngồi cho Dương Qua .

Ngồi xong, Hoàng Dung quay sang hỏi Dương Qua :

- Qua nhi, con học võ công của ai mà giỏi như vậy?

Dương Qua chỉ vào Tiểu Long Nữ đáp :

- Thưa bá mẫu, đây là sư phụ con, bá mẫu không tin lời con hay sao ?

Hoàng Dung thừa biết Dương Qua là ngưòi lắm cơ trí, trái lại Tiểu Long Nữ thì thật thà chất phác, nghĩ sao nói vậy nên không bao giờ khách sáo, nên bà quay sang hỏi Tiểu Long Nữ :

- Hiền muội,có phải chính em đã truyền dạy võ công cho Qua nhi không ?

Tiểu Long Nữ vui vẻ đáp, trong câu nói bao hàm cả sự hãnh diện :

- Thưa, quả đúng là như vậy. Em dạy như vậy, phu nhân xem có được hay không ?

Hoàng Dung nức nở khen vùi :

- Ô, hiền muội khá lắm. Vậy hiền muội học võ công của ai thế ?

Tiểu Long Nữ đáp :

- Dạ, sư phụ em đã khuất bóng lâu rồi.

Hoàng Dung hỏi thêm :

- Vậy tôn sư danh hiệu là gì ?

Tiểu Long Nữ đáp :

- Em chỉ biết sư phụ là sư phụ, còn tên họ của người thì thật tình là em cũng không biết ?

Thật ra, việc không biết tên họ của người dạy võ công cho mình chỉ là việc thường tình trong võ lâm, không có gì uý kỵ cả. Nhưng sở dĩ, Tiểu Long Nữ không muốn nói lộ ra vì nàng nghĩ sư phụ mình chẳng qua là một người a hoàn của Lâm Triều Anh , nếu giới thiệu cái tên Liễu Hoàn cũng không tốt đẹp gì nên nàng mới tìm cách nói trá đi như vậy .

Trong tiệc rượu hôm nay, tất cả mọi người thảy đều hướng về Dương Qua, Tiểu Long Nữ và Hoàng Dung, ai ai cũng hết lời khen ngợi ,ca tụng và mời mọc uống rượu,vì họ xem cặp này là những người có công lớn nhất trong việc đuổi đánh thầy trò Kim Luân Pháp Vương, giải nạn lớn cho võ lâm Trung nguyên.

Phần Quách Phù thì từ trước tới nay, khi nào cũng được mọi người thiết tha coi trọng, vồn vã tiếp đãi. Hôm nay thấy mình bị thiên hạ bỏ rơi, chẳng ai hỏi tới thì trong bụng đã ấm ức thầm, mặc dù anh em họ Võ đã đua nhau ân cần mời mọc ca tụng đủ điều nhưng nàng vẫn không được vui. Nhìn qua bên cạnh thấy Dương Qua và Tiểu Long Nữ được mọi người tha thiết săn đón mời mọc ân cần, nghĩ lại phận mình bị lãng quên, Quách Phù chán ngán tủi thân, nói với anh em họ Võ :

- Tiệc này đâu phải dành cho chúng mình, hơn nữa mình cũng không biết uống rượu, ngồi đây mãi cũng vô ích . Chúng ta hãy bước ra ngoài hứng gió giải trí đi !

Võ Đôn Nho và Võ Tu Văn cũng đang ngượng ngập và cảm thấy bẽ mặt cùng Dương Qua nên lấn cấn chưa biết đi hay ở. Nay được Quách Phù đề nghị thì có khác chi là được quạt vào lòng, vui vẻ tán thành ngay. Cả ba người cùng đứng dậy bước ra ngoài.

Nhưng mới đi được mấy bước , Quách Tỉnh đã gọi :

- Phù nhi, đi đâu đấy, lại đây cha bảo !

Quách Phù nhìn vào thấy cha đã đến ngồi bên bàn mẹ bao giờ rồi, tay đang rót rượu và miệng nói vui vẻ lắm.

Nàng vội chạy lại hỏi :

- Cha, mẹ ...

Nói xong, nàng dựa người vào bên cạnh mẹ.

Quách Tỉnh tươi cười nói với Hoàng Dung :

- Xưa nay bà có thành kiến cùng Dương Qua, cho nó là đưa kém tài, thiếu tư cách không có bản lãnh thua sút con bà Quách Phù. Hôm nay, trước mặt quần hùng bà cũng thấy rõ khí tiết và tài nghệ của Qua nhi như thế nào rồi. Vậy bà đã công nhận là sự nhận xét của mình từ trước đến nay là sai lạc cả không ?

Hoàng Dung vui vẻ gật đầu :

- Thật tôi vụng về lẩm cẩm quá, có mắt cũng như không. Hôm nay được chứng kiến cháu nó có biệt tài và khí khái, tôi mừng hết sức.

Quách Tỉnh thâý vợ cũng đồng ý khen Dương Qua thì đoán là Hoàng Dung đã mặc nhiên tán thành việc mình đề nghị hứa hôn Quách Phù cùng Dương Qua hôm nọ rồi. Ông mừng quá vội hướng về phía Tiểu Long Nữ hỏi :

- Thưa Long cô nương, nhân tiện hôm nay tôi muốn nói để cô nương được biết , phụ thân của Dương Qua , đồ đệ yêu quý của cô nương, trước kia với tôi giao du như ruột thịt ,hai gia đình "Dương, Quách" đã mấy đời thân thiện cùng nhau. Hai vợ chồng tôi hiếm hoi chỉ sanh hạ được một cháu gái, mặt mày cũng không đến nỗi xấu, võ công cũng không tệ lắm ...

Thấy Quách Tỉnh thật thà quá và đã nói toẹt chuyện ra như vậy, Hoàng Dung bèn cười lớn ngắt lời ông :

- Này, ông khen con gái mình như vậy, không sợ Long muội chê cười chúng ta hợm mình hay sao ?

Quách Tỉnh cười nói :

- Thâm tâm chúng ta đã định đem con gái gả cho Dương Qua, đệ tử yêu của cô nương. Nhưng ngặt nỗi là hiện nay cha mẹ của Dương Qua thảy đều đã qua đời, thì người thay mặt chỉ có cô nương , vì lẽ thầy cũng ngang quyền cha mẹ. Vậy xin cô nương đồng ý đứng ra tác thành duyên nợ cho hai đứa nó. Nhân bữa tiệc hôm nay, có đầy đủ anh hùng thiên hạ, tôi muốn nhờ một vị nào cao niên, nhiều đức độ, có lòng thương tưởng , đứng ra làm mai mối để chọn ngày lành tháng tốt làm lễ đính hôn cho hai con trẻ. Vậy cô nương có bằng lòng hay chăng ?

Theo tục lệ Trung nguyên, thì vấn đề hôn nhân khi nào cũng phải có mai mối trước và được cha mẹ đôi bên ưng thuận mới được, chứ đôi trai gái dù yêu nhau cũng không thể tự tiện lựa chọn , Sở dĩ Quách Tỉnh đưa ra đề nghị này là tuân theo ý muốn của cha là Quách Khiếu Thiên và cha của Dương Khang là Dương Thiết Tâm ngày trước. Hai vị này đã hứa hôn cùng nhau ngày khi còn mang thai Quách Tỉnh và Dương Khang trong bụng. Nhưng vì Quách Tỉnh và Dương Khang đều là con trai cho nên chỉ kết nghĩa kim lan, thành anh em với nhau. Ngày nay, Quách Tỉnh muốn hứa hôn cho Quách Phù cùng với Dương Qua để giữ lời ước hẹn cũ của cha mẹ đôi bên ngày xưa.

Nói dứt lời, Quách Tỉnh nhìn con gái và Dương Qua mỉm cười, trong bụng đinh ninh thế nào Tiểu Long Nữ cũng đồng ý mà tán thành ngay.

Quách Phù xâú hổ quá, không biết nói sao, chỉ biết úp mặt vào lòng mẹ.

Tiểu Long Nữ nghe nói xong, mặt đã đổi sắc, chưa biết nên trả lời ra sao thì Dương Qua đã đứng dậy, bước hướng tới chỗ Quách Tỉnh và Hoàng Dung, vái mỗi người một cái và thưa lớn :

- Công ơn dưỡng dục của Quách bá bá và Quách bá mẫu nặng như non cao, biển cả, con chưa có dịp đền đáp. Con tự thấy gia thế, thân phận mình hèn kém, tài đức còn kém cỏi, phận con không thể nào cùng sánh với Quách tiểu thơ là một trang thiên kim tiểu thư, tài sắc vẹn toàn...

Quách Tỉnh nghe nói hết sức ngỡ ngàng. Lúc đứng ra công bố ý kiến của mình, ông đinh ninh vợ chồng mình tiếng tăm lừng lẫy thiên hạ, con gái mình vừa đẹp, vừa có tài, có thể nói trên thế gian ít người sánh kịp, chỉ cần mở lời ra thì Dương Qua sẽ mừng rỡ nhận lời ngay, đâu có ngờ hôm nay nó đứng ra cự tuyệt như vậy ...

Một chặp sau, ông lại nghĩ tiếp :

- Có lẽ nó còn trẻ người non dạ, chỉ từ chối lấy lệ đây chăng ?

Nghĩ vậy, ông cười lớn, an ủi :

- Qua con, gia đình con và gia đình bác nào phải là nơi xa lạ gì mà có điều cách biệt như vậy. Đây là việc trăm năm, không nên lấy làm xấu hổ.

Dương Qua quỳ xuống đập đầu lạy mấy cái rồi thưa tiếp :

- Thưa bá bá, bá bá cũng như cha cháu, muôn sai khiến điều gì, dù là bước qua đao kiếm, nhảy vào lửa đỏ cháu cũng không bao giờ từ nan. Nhưng về việc hôn nhân này thì cháu không thể nào tuân lệnh được !

Quách Tỉnh thấy Dương Qua trịnh trọng làm lễ và thưa rõ ràng quả quyết như vậy thì ngạc nhiên vô cùng, chưa biết giải quyết ra sao, chỉ quay lại nhìn Hoàng Dung để dò ý kiến vợ.

Hoàng Dung nghĩ bực mình vì chồng quá chủ quan và ngay thẳng, không chịu thăm dò ý kiến chúng nó trước khi tuyên bố . Nay ông đã nói trắng ra trước mặt thiên hạ đến nỗi bị nó từ chối, thiệt là mất mặt vô cùng. Bà thấy như đang ngồi trên chông và thầm trách Quách Tỉnh :

- Dù con mình có chửa hoang cũng không đến nông nỗi như ông vậy !

Nhìn lại Tiểu Long Nữ và Dương Qua, bà có cảm nghĩ :

- A, hai đứa này đã có tình ý với nhau, qua mắt ta sao nổi. Bên ngoài bay mượn tiếng thầy trò để rồi bên trong lại làm điều thương luân , bại lý. Nếu là kẻ như vậy thì đâu xứng đáng gì nữa mà còn làm cao hả ?

Theo cổ tục Trung nguyên hồi nhà Tống, quan hệ giữa thầy và trò cũng như cha mẹ và con cái, nếu sinh chuyện bậy bạ thì sẽ bị trừng phạt theo trọng tội loạn luân.

Trong bụng đã bực bội, vừa tức tối, vưa hổ thẹn, Hoàng Dung bèn đỡ lời cho chồng, quay lại hỏi Dương Qua :

- Qua con, Tiểu Long Nữ cô nương có phải là sư phụ của con không ?

Dương Qua lễ phép đáp :

- Thưa bá mẫu, đúng thế !

Hoàng Dung hỏi :

- Vậy là con đã làm lễ bái sư trước khi học chứ ?

Dương Qua ngạc nhiên hỏi lại :

- Chẳng hay vì sao bá mẫu lại hỏi con điều này ?

Miệng thì trả lời, nhưng đôi mắt liếc nhìn Tiểu Long Nữ, cả hai đều trìu mến nhìn nhau, chứng tỏ một niềm yêu thương đậm đà tha thiết.

Không riêng gì Hoàng Dung, mà tất cả mọi ngừoi trong tiệc thảy đều trông thấy và ai ai cũng công nhận mối quan hệ của hai người này quả thật có điều chi mờ ám.

Hoàng Dung bèn quay sang nói với chồng :

- Tỉnh ca, Quách Phù của chúng ta hãy còn nhỏ tuổi, việc hôn nhân không lẽ nào lại làm hấp tấp đến như vậy. Hôm nay là đại hội anh hùng yến, hãy giành thời gian để bàn chuyện quốc gia đại sự, còn chuyện hôn nhân của con , xin hãy gác lại khi khác sẽ nói tới cũng được.

Quách Tỉnh thấy ý kiến của vợ rất hay và ông cũng công nhận không nên nghĩ việc riêng trước công việc chung của đất nước, ông nhìn Tiểu Long Nữ nói :

- Long cô nương, hôm nay chúng ta nên nói chuyện chung về đại cuộc, vấn đề hôn nhân của bọn trẻ thì để khi khác vậy !

Không ngờ Tiểu Long Nữ quá thật thà, nàng lắc đầu nói :

- Tôi đã có ý định làm vợ Dương Qua từ lâu. Có lẽ anh ấy không thể nhận lấy con gái của ngài nữa đâu .

Câu nói tuy bất ngờ nhưng quá rõ ràng ràng mạch, từ trong đến ngoài, từ trên xuống dứoi trong tiệc mọi người đều nghe rõ. Quách Tỉnh có cảm giác như mình đã nghe lầm, vì không khi nào ông ngờ được một chuyện quá lạ lùng và đột ngột như vậy được. Trước mặt mọi người, họ đã công khai âu yếm nhau, tưởng như thế đã quá lắm rồi, đâu ngờ rằng ....

Quách Tỉnh ngượng ngập hỏi lại :

- ủa, nó không phải là học trò của cô sao ?

Tiểu Long Nữ hé miệng cười tươi như hoa anh đào mới nở, nói :

- Anh ấy là học trò của tôi chứ còn ai nữa. Lúc đầu tôi dạy võ công cho anh ấy, và sau này thành tài , võ nghệ anh ấy cũng đã ngang với tôi , lúc bấy giờ tôi có lòng thương anh ấy, trước đây tôi cứ ngờ là ....

Nàng ngập ngừng một lát rồi nói luôn :

- Tôi cứ ngờ là anh ấy không yêu tôi và không muốn nhận tôi làm vợ nên tôi buồn rầu bỏ đi một thời gian khá lâu. Trong thời gian xa cách , cả hai chúng tôi đều thương nhớ tha thiết tới nhau. Bây giờ gặp lại, tôi hiểu anh ấy cũng một lòng yêu thương tôi, vì vậy nên tôi ... nên tôi ....

Hàng ngàn cặp mắt trong tiệc đang chăm chú theo dõi, trong đại sảnh không một tiếng người. Ai ai cũng ngạc nhiên khi nghe Tiểu Long Nữ thành tâm thổ lộ tâm tình, và cũng thầm nghĩ :

- Lạ quá, con người trông xinh đẹp như hằng nga, mặt mày lanh lợi như thế mà sao lại chất phác đến thế này cơ chứ ? Dù rằng trai gái yêu nhau thắm thiết là chuyện thường tình trên thế gian không ai tránh khỏi con đường tình ái. Tại sao nàng lại đem đầu đuôi , gốc ngọn , kẽ tóc chân tơ ra khai báo cùng vợ chồng Quách Tỉnh là người không có liên hệ gì với tình yêu của nàng ?

Sở dĩ Tiểu Long Nữ là ngừoi chân thật, hơn nữa, vì chưa bao giờ tiếp xúc, giao thiệp với đời nên nàng không ngần ngại, e dè giữ gìn gì hết. Hôm nay thấy cần nói ra để cho mọi người nghe, hiểu ý mình và cũng nói để Dương Qua biết nên nàng nói chứ không hề câu chấp gì hết.

Dương Qua nghe Tiểu Long Nữ thành thật thổ lộ chân tình thì trong lòng rất cảm động. Chàng liếc mắt nhìn qua mọi người thấy ai ai cũng chú ý nghe nhưng có nhiều người bĩu môi ra vẻ khinh miệt cô nương mình, cho rằng nàng quá thật thà, ngu độn, ăn nói thiếu giữ gìn. Chàng bực mình nghĩ thầm :

- Cô nương ta nghĩ sao nói vậy, đâu có phải tụi gian manh vô loại như các người. Chúng mày chẳng qua là bọn người thấy ăn thì tìm tới, thấy khó thì bỏ đi, hay đâu chúc đó, miệng nói nghĩa nhân nhưng lòng hiểm độc hơn lang sói. Như vậy mà cũng vác xác tới đây để dự Anh hùng yến .

Nghĩ như vậy, chàng chán nản đến nói nhỏ với Tiểu Long Nữ :

- Cô nương, chúng ta đi thôi, ở lại nơi đây có ích gì đâu ?

Tiểu Long Nữ hân hoan nói :

- Phải đấy, chúng ta đi thôi !

Hai người bảo nhau xong rồi cùng len lỏi bước ra đại sảnh .

Thật ra trong số người dự anh hùng yến hôm nay, Tiểu Long Nữ chẳng ngó ngàng tới ai ngoài Dương Qua là người bạn tri kỷ mà thôi.

Thấy hành động quá ư kỳ quặc của hai người, Quách Tỉnh, Hoàng Dung cùng ngó nhau chứ không biết nói gì cả. Thật ra từ xưa tới nay, hai người chưa bao giờ chứng kiến cảnh nào ương gàn kỳ cục như vậy cả. Thật không ngờ lại có những hành động quái dị như thế !

Hoàng Dung cất tiếng nói theo :

- Long cô nương, hiện nay cô nương đang là Võ lâm minh chủ, bao nhiêu anh hùng trong thiên hạ đều trông chờ vào cô nương, tại sao lại bỏ đi một cách quá ư đột ngột như vậy ? Xin cô nương hãy suy nghĩ lại, đừng để phụ lòng các anh hùng hào kiệt nơi đây !

Tiểu Long Nữ quay đầu lại nhìn Hoàng Dung cười nói :

- Xưa nay tôi không thích danh tước chức vị gì đâu. Minh chủ với cả Minh tớ, đối với tôi không có gì quan hệ hết, xin chớ dây dưa tới tôi làm chi. Nếu phu nhân muốn, tôi xin nhường lại liền.

Hoàng Dung đáp :

- Không được đâu. Nếu cô nương không muốn thì xin nhường lại cho Hồng Thất Công lão tiền bối, vì người mới xứng đáng với chức vị này.

Tiểu Long Nữ lắc đầu nói :

- Xin bà tuỳ tiện thu xếp thế nào được thì thôi, chứ tôi chẳng biết gì hết đâu !

Nói xong, nàng dắt tay Dương Qua rảo bước ra ngoài rồi chạy như bay biến mất.

Ngay lúc đó, một bóng đen thoáng qua vù vù, một người đã phi thân xông tới cản lộ.

Dương Qua nhìn lại biết kẻ đó là Triệu Chí Kính, đạo sĩ của Toàn Chân giáo. Chàng chưa kịp hỏi gì thì Triệu Chí Kính đã mắng lớn :

- Dương Qua súc sinh, mày là đứa bỏ tổ phản tông, đâu phải là hạng người đáng sống trên thế gian này nữa. Hôm nay mày lại công khai làm chuyện loạn luân như loài cầm thú, bêu xấu giữa võ lâm, ta không thể nào tha thứ cho mày được nữa !

Dương Qua không muốn gây chuyện lôi thôi cùng hắn tại chốn này nên cố dằn tâm bảo :

- Hãy tránh đường cho ta đi !

Triệu Chí Kính trợn mắt quát lớn :

- Đi đâu được , hãy nghe đây. Này Doãn sư đệ, sư đệ hãy lên đây kể lại câu chuyện chúng mình bất ngờ gặp hai đứa nó trần truồng trên núi Chung Nam, đã trần truồng ăn nằm với nhau như thế nào, hãy kể lại cho mọi người cùng biết !

Doãn Chí Bình đứng dậy giơ bàn tay trái lên .

Mọi ngưòi để ý nhìn thấy cả ngón tay út và ngón tay vô dang của Doãn Chí Bình đã bị chặt cụt mất rồi, mà mặt mày y tái mét đang đứng lặng thinh run run nên chẳng ai hiểu gì hết. Người nào người nấy cũng nghĩ bụng :

- Trong việc này thế nào cũng có điều chi kỳ bí đây !

Nguyên trước đây tại Chung Nam Sơn, Tiểu Long Nữ và Dương Qua thoát y luyện Ngọc Nữ tâm kinh trong bụi hoa hồng, Triệu Chí Kính và Doãn Chí Bình tình cờ đến ngay lúc ấy. Dương Qua đã buộc Triệu Chí Kính phải tuyên thệ giữ kín chuyện này mới tha chết cho hắn. Không ngờ hôm nay tại chốn đông đảo quần hùng thiên hạ này, hắn lại đem câu chuyện này nói toẹt ra, lại thêm điều vu khống để làm nhục hai người. Dương Qua giận quá,quát lớn :

- Mi đã cam đoan thề không bao giờ nói chuyện này cho kẻ thứ năm biết, tại sao hôm nay lại nuốt lời như vậy hả ?

Triệu Chí Kính cười lớn đáp :

- Ta đâu có quên lời thề cũ. Mi cũng nhớ ta cam đoan không đem chuyện này nói lại với người thứ năm biết . Nhưng hôm nay, trước mặt quần hùng thiên hạ, hàng trăm hàng ngàn người là một vấn đề khác hẳn đi rồi. Ta đâu có nói với người thứ năm, mà nói với hàng ngàn người cơ mà. Hơn nữa bọn bay đã làm bậy thì bọn ta có quyền bảy tỏ trước mọi người chứ !

Sự thật và câu chuyện mà Triệu Chí Kính vạch ra đêm nay hoàn toàn khác xa nhau. Đêm đó, Triệu Chí Kính gặp hai người loã thể nấp mỗi người một nơi trong rừng hoa hồng để luyện Ngọc Nữ Tâm Kinh, một môn võ công thượng thừa trong Cổ Mộ phái. Chính y đã thừa rõ việc này. Hôm nay, Triệu Chí Kính cố tình nói qua lối khác không ngoài mục đích hạ nhục và chôn vùi danh dự của Dương Qua và Tiểu Long Nữ .

Tiểu Long Nữ bỗng nghĩ lại đêm nào bản thân mình đã bị một người nào đó làm điều ô nhục, không biết có phải là Dương Qua hay không, khiến nàng tức giận đến trảo cả máu miệng. Hôm nay, chính miệng hắn lại thêu dệt để nói xấu mình trước mặt quần hùng nữa thì trong lòng ức quá, không dằn tâm được chỉ thẳng vào mặt hắn nói lớn :

- Mi còn dám mở mồm nói chuyện bậy bạ nữa hay sao ?

Miệng thì nói, nhưng nàng vận nội công vào ngón tay, điểm vào huyệt theo thuật điểm huyệt trong Ngọc Nữ Tâm Kinh , phát ra vô hình vô tích, nhưng hiệu nghiệm vô cùng.

Triệu Chí Kính cảm thấy nguy cơ vội đưa tay ra đỡ gạt nhưng không thể được, bị điểm ngay vào huyệt đạo nơi bả vai.

Lúc đầu chưa thấy đau đớn chi, y xem thường, cười nhạt khinh khỉnh nói :

- Cô này định làm gì đấy ? Hay lại muốn giở trò bậy bạ như cái đêm nào trên Chung Nam sơn nữa sao ? Ta ...

Nhưng hắn chưa thốt hết câu thì bỗng đôi mắt trợn ngược, té sấp trên mặt đất, nằm giãy tê tê.

Triệu Chí Kính đã bị trọng thương rồi.

Tôn Bất Nhị và Hách Đại Thông thấy sư điệt bị trọng thương vội vàng đỡ dậy.

Triệu Chí Kính đôi mắt nhắm nghiền, mồm hộc máu tươi đầy đất. Toàn thân lả đi như người say rượu.

Tôn Bất Nhị cười gằn nói :

- Phái Cổ Mộ muốn gấy hấn cùng Toàn Chân giáo hay chăng ?

Nói xong, bà ta tuốt kiếm ra định xông tới đánh với Tiểu Long Nữ .

Quách Tỉnh từ trên đại sảnh lao vút xuống đứng giữa can ngăn :

- Chúng ta thường dặn nhau, anh em cùng trong nhà không nên đánh nhau. Cớ sao hôm nay quý vị lại hành động như vậy ?

Nói xong, ông nhìn Dương Qua nói :

- Qua con, cả hai đều là tôn sư con cả, con nên mời cả hai vị vào bên trong bàn chuyện ổn thoả với nhau đi.

Tiểu Long Nữ từ nhỏ tới lớn sống trong Cổ Mộ với một nếp sống hồn nhiên mộc mạc, không bao giờ động chạm đến bên ngoài nên ít khi nếm phải các thủ đoạn điêu ngoa quỷ quyệt của người đời. Nay gặp liên tiếp mấy chuyện, trong lòng nàng chán ngán quá, không chịu nổi nữa. Nàng quay sang bảo Dương Qua :

- Qua nhi, chúng ta nên đi cho khuất mắt để khỏi phải nhìn thấy bọn đểu giả này nữa !

Dương Qua gật đầu, nắm tay nàng cùng bước đi ra ngõ.

Tôn Bất Nhị vung trường kiếm thét lớn :

- Chúng bay đánh người bị trọng thương rồi, định vứt lại đây để chạy trốn chăng ?

Thấy hai bên lại xô xát, Quách Tỉnh nghiêm giọng dằn từng tiếng một bảo Dương Qua :

- Qua con, nếu con biết điều thì nên ở lại giải quyết cho ổn thoả. Nếu không, ta không còn nể tình nữa đâu. Con có biết tại sao tên con lại đặt là "Qua"không ? Luôn tiện ta cũng giải thích cho mà biết. Chữ "Qua" tức là "Quá" gọi theo lối miền bắc đấy ! Quá có nghĩa là "Lỗi", con đã hiểu rõ căn nguyên chưa ?

Nghe nói tới đây, trong lòng Dương Qua thấy sôi lên một niềm uất hận. Chàng thầm nhớ lại cuộc sống điêu linh phiêu bạt từ ngày còn bé. Chưa bao nhiêu tuổi đầu đã nếm mùi khổ đau đắng cay . Bây giờ Quách Tỉnh giải thích khiến chàng thầm nghĩ :

- Ông ta muốn đưa tên ta ra giải thích lúc này chắc là để làm nhục ta đây ! Ta cố dò xét xem sự thật ra sao rồi sẽ tuỳ cơ ứng biến !

Nghĩ vậy, chàng dừng lại để nói chuyện cùng Quách Tỉnh và trong thâm tâm muốn nhân dịp này để tìm ra nguồn gốc của song thân mình và tìm ra nguyên nhân cái chết của cha chàng khi trước. Suốt thời gian qua chàng vẫn cố tâm tìm hiểu, nhưng sự việc vẫn bị bao phủ trong màn đen bí mật...

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 38 : Trên đường về gặp lại Kim Luân Pháp Vương.

Quách Tỉnh lúc nào cũng xem Dương Qua như con cháu trong nhà. Khi thấy chàng trổ tài trước mặt quần hùng vì nghĩa lớn thì oong thương yêu chàng như con ruột của mình.

Cũng do tình thương ấy mà ông không ngần ngại tỏ ý định gả Quách Phù cho chàng để thực hiện theo phương châm "Dâu hiền hơn gái, rể thảo hơn trai " . Không ngờ Dương Qua lại gạt đi và nguyên nhân sự từ chối này lại xuất phát từ một hành động loạn luân giữa hai thầy trò nam nữ. Vì vậy ,ông nhắc lại chuyện cũ, nghiêm giọng quở trách :

- Sở dĩ trước khi mẹ con từ trần, người có nói lại cho ta chuyện này nên ta mới hiểu chữ "Qua" tức là "Quá" như ta đã nói.

Dương Qua nhớ lại lờ mờ trong ký ức, ngày mình còn thơ ấu, thỉnh thoảng mẫu thân cũng có nêu lại câu chuyện này nhưng khi ấy còn nhỏ tuổi quá, ngây thơ, chỉ nghe thoáng qua rồi quên mất chứ không hiểu được rành mạch

Nghĩ vậy, chàng ngước mắt lên nhìn Quách Tỉnh nói :

- Thưa Quách bá phụ, hay là bây giờ gọi bằng cách khác được không ?

Quách Tỉnh nói :

- Qua con, tên của con là do mẹ con đích thân đặt cho, không thể gọi khác được. Hơn nữa, nó cũng sẽ thường xuyên nhắc nhở con không nên gặp phải những sai lầm đáng tiếc trong cuộc đời đó !

Dương Qua nổi tức không dằn được nữa, cãi lại :

- Như thế thì Quách bá bá cho rằng một khi người ta có lỗi thì không bao giờ có thể sửa chữa được hay sao ?

Quách Tỉnh đổi giọng ôn tồn, hoà nhã nói :

- Qua con, con người ta trong đời ai tránh được mắc phải lỗi lầm. Khi có lỗi mà biết sửa đồi thì còn gì quý hoá bằng. Xưa nay thánh hiền vẫn khuyên chúng ta có từng ấy mà thôi. Con đã hiểu như vậy, tạo sao đối với sư phụ lại không tôn trọng, còn giở những trò hèn hạ như thế ?

Dương Qua cãi lại :

- Con có lỗi, con tự khắc sẽ sửa, có chuyện gì liên quan tới y ?

Chàng trỏ tay vào Triệu Chí Kính và nói tiếp :

- Chính hắn đã đánh đập hành hạ tôi đủ điều, làm sao tôi có thể nhận hắn làm thầy được ? Còn đối với cô nương tôi, trên biết thương dưới, chúng tôi đối xử với nhau quang minh chính đại, không điều gì trái với lương tâm, có Trời cao soi xét. Tôi hết lòng kính mến yêu thương cô nương tôi, như thế có gì gọi là lỗi lầm đâu ?

Dương Qua biện luận từ lời nói sang sảng rành mạch, nghe qua rất có lý. Quách Tỉnh không biết nói gì hơn để bắt bẻ nữa. Hơn nữa, ông vốn là người chất phác, không ưa mồm mép thì làm sao cãi lại được với Dương Qua. Huống chi việc bất chính của chàng và Tiểu Long Nữ cũng chưa có gì chứng minh rành mạch để đưa ra buộc tội chàng được.

Hoàng Dung bước lại gần nhẹ nhàng nói dỗ dành :

- Qua con, hai bác vì thương yêu cháu nên mới có lời khuyên can, con nên hiểu rõ điều đó nhé !

Nghe Hoàng Dung nói lời lẽ dịu dàng, mềm mỏng, đối xử với mình, Dương Qua thấy cõi lòng xao xuyến, cảm động, thấp giọng nói :

- Quách bá bá rất tốt đối với cháu, cháu biết rõ điều này chứ !

Nói tới đây, chàng xúc động quá, nước mắt trào ra dàn giụa.

Hoàng Dung lại ôn tồn an ủi thêm :

- Bác thương cháu nên muốn đưa điều hơn thiệt, lẽ phải trái để bày tỏ cùng cháu. Cháu không nên hiểu lầm bác, tội nghiệp nghe !

Thấy Dương Qua lặng thinh không nói gì, bà ôn tồn nói thêm :

- Thế ra cháu vẫn không nhận thấy lỗi lầm của mình hay sao. Chẳng lẽ bác lại đi vu khống cho cháu à ?

Nghe tới đây, Dương Qua thấy bực trong lòng, suy nghĩ :

- Ông bà có lòng tốt với tôi, lẽ dĩ nhiên là tôi phải đáp lại bằng hành động biết ơn, nhưng ép tôi làm một chuyện khác thì không khi nào tôi cam chịu đâu !

Nghĩ vậy, chàng căm tức đứng mím môi lặng thinh không nói nữa.

Hoàng Dung bèn nói thẳng ra :

- Được lắm, cháu đã muốn nói thẳng thì bác cũng nói luôn ra đây. Nghe xong, cháu đừng có loanh quanh chối cãi nữa nhé ! Long cô nương đây là bậc tôn sư của cháu, cháu phải xem người như bậc cha mẹ, tại sao lại có tư tình nam nữ, như vậy xem sao được ?

Thật ra trong khuôn khổ lễ nghi thì Tiểu Long Nữ chưa hiểu rõ ràng về quy tắc "thầy, trò" cho lắm, chỉ biết một cách mờ mịt mà thôi. Còn Dương Qua thì đâu phải ngu đần gì mà không hiểu được vấn đề này. Tuy nhiên, chàng thường nghĩ rằng :

- Cô nương dạy ta võ công, ta cần phải kính trọng người như dạy chữ nghĩa văn chương, vì dù sao một chữ cũng là thầy, một đường võ cũng là thầy, đời nào ta có mơ ước đi lấy nàng làm vợ. Ta tự xét lại hành động của mình xưa nay chưa bao giờ có điều chi vượt ngoài vòng lễ giáo, quá nghĩa thầy trò cả. Không hiểu tại sao những người này cứ nằng nặc buộc cho ta cái tội loạn luân đến như vậy ? Ta không làm bậy mà họ cũng không tin, cứ gán cho ta là kẻ phạm lỗi, biết tính sao đây. Thôi, họ đã gán như vậy thì ta cứ nhận bừa cho xong, khỏi phải tranh luận lôi thôi. Lòng ta tự biết việc của ta làm, và có trời đất soi xét lòng ta là đủ lắm rồi !

Nghĩ xong, chàng quả quyết đáp :

- Long cô nương chỉ dạy võ công chứ không dạy sách vở văn chương, có luật lệ nào cấm tôi lấy nàng làm vợ ? Hai bác có kề gươm vào cổ thì tôi vẫn công nhận Long cô nương là vợ của tôi mà thôi !

Câu trả lời đột ngột của Dương Qua khiến cho bao nhiêu người nghe thảy đều kinh ngạc, ai ai cũng nhìn nhau, chép miệng lắc đầu, không nói gì hết.

Cũng có những người lớn tuổi đạo mạo than rằng :

- Nước nhà đã đến hồi suy nhược, bị quân Mông Cổ xâm lăng gần hết, vỏn vẹn chỉ còn một giải đất miền Nam này, nay lai thêm chuyện gái trai bậy bạ,thầy trò loạn luân như thế này thì còn mong gì cất đầu lên được, khôi phục lại mảnh đất thân yêu miền Bắc đang nằm trong tay địch. Có thể rồi đây miếng đất nhỏ phương Nam này cũng sẽ lọt vào tay chúng. Thế hệ thanh niên chỉ mải mê câu chuyện tửu sắc vô luân thì còn ai chịu hy sinh tính toán điều đại sự cho nước nhà . Trai như thế, gái như thế, hễ quân Mông Cổ đem chút vàng bạc, vinh hoa ra nhử, thì dù cho có quật mồ ông cha lên để nộp cho chúng, họ cũng chẳng từ nan!

Xưa nay Quách Tỉnh vốn trọng chữ luân lý, kính mến sư phụ như cha mình . Nay thấy Dương Qua mở miệng thốt lên những lời nói vô luân, đồi phong bại tục, thì máu giận nổi lên đùng đùng. Ông muốn nắm cổ Dương Qua và Tiểu Long Nữ quăng phứt ra ngoài cửa sổ như một con vật đáng kinh tởm để khỏi làm bẩn mắt mọi ngừoi.

Tiểu Long Nữ hoảng sợ, muốn phi thân lánh trốn nhưng không kịp nữa, Quách Tỉnh đã túm được tóc nàng quăng luôn ra cách đó mấy trượng . Đoạn ông quay lại phía Dương Qua điểm ngay vào huyệt "Thiên Đột" rồi mắng rằng :

- Thằng súc sinh, thật ta không ngờ mày lại mở miệng thốt ra những lời vô luân thối tha như vậy !

Dương Qua bị điểm huyệt, hơi sức không còn nữa , nhưng vẫn cố cãi :

- Cô ấy yêu tôi, tôi yêu lại là chuyện thường , có hại tới ai đâu. Quách bá phụ muốn giết thì cứ giết chứ cháu không thể nào thay đổi ý kiến được đâu !

Quách Tỉnh trợn mắt hét lớn :

- Nếu mày mà là con đẻ của ta thì ta đã bóp cổ chết từ lâu rồi chứ không để nói tới giờ này nữa đâu !

Dương Qua vẫn gượng nói cố :

- Tôi cũng xét là không có lỗi gì hết. Vì tôi không hại ai, cũng không can hệ đến công việc của một người nào khác thì chuyện gì lại bắt tội tôi.

Những lời này thốt ra từ miệng Dương Qua nghe rang rảng, tất cả anh hùng đều nghe rõ mồn một. Có lắm người xúm lại bàn tán riêng :

- Cặp trai gái này yêu thương nhau như vậy, tại sao lại không tìm một nơi hoang vu xa lạ, non nước xa xôi để cùng nhau kết tóc hưởng trọn hạnh phúc , lại dẫn thân chi đến những chốn này để cho thiên hạ cười chê, đạo lý buộc tội ?

Nghe Dương Qua nói như vậy, Quách Tỉnh đưa chưởng lên cao thét lớn :

- Dương Qua , mày cũng đã biết thừa tính ta rồi. Thà ta giết mày còn hơn là để mày nói và làm những điều tồi bại như vậy. Mày nghĩ sao ?

Dương Qua thầm nghĩ, nếu không thận trọng lời nói trong lúc này thì mất mạng như chơi. Thường nhật, chàng là một người giảo hoạt tráo trở vô cùng, nhưng không hiểu sao lúc này lại nảy sinh gàn bướng. Mặc dù biết như vậy nhưng vẫn nói càn :

- Tôi tự xét lương tâm không làm diều chi có lỗi. Còn bá bá muốn giết hay muốn tha thì tuỳ lượng bá bá !

Quách Tỉnh không dằn được nữa, đưa tay phải lên cao , vận chưởng lực định đập vào thiên linh cái Dương Qua cho rồi .

Quần hùng đứng xung quanh thảy đều thất kinh, ai ai cũng đinh ninh là thế nào Dương Qua cũng bị đập vỡ sọ mà chết. Lắm người không nỡ nhìn, nhắm tịt mắt lại.

Khi đinh đánh xuống, Quách Tỉnh nhìn vào mặt Dương Qua, thấy chàng mím môi nhắm mắt cam tâm chịu đòn, giống hệt nghĩa đệ mình Dương Khang ngày nào như tạc thì ông bỗng thở dài không đành dạ, rút tay lại ,thở dài bảo :

- Dương Qua con hãy suy xét hành động như vậy có đáng mặt nam nhi hay không ?

Nói xong, ông buồn buồn bước về bàn tiệc , ngồi lặng thinh không nói gì nữa.

Tiểu Long Nữ đứng ngoài vẫy tay gọi Dương Qua :

- Qua nhi, thôi chúng ta đi cho rồi . Không hơi đâu lý luận mãi với mấy ông già ngang như cua ấy được .

Dương Qua nghe nàng bảo, thấy chữ ngang như cua của Tiểu Long Nữ diễn tả rất hợp ý mình , bèn lồm cồm bò dậy, nắm tay nàng cũng đi về phía trang viện, tìm con ngựa ốm đang ăn cỏ gần đâu đó rồi cả hai cũng nhảy lên cưỡi.

Toàn thể anh hùng cùng đưa mắt nhìn theo , kẻ phục tài, người khinh bỉ, có kẻ thì xuýt xoa thương hại, mỗi người suy nghĩ và nhận xét theo một cách khác nhau.

Ngựa chạy gập ghềnh được một quãng xa thì trời vừa tối. Dương Qua, Tiểu Long Nữ cùng bước xuống đi bộ dắt ngựa theo sau vì đường xá vừa đen tối, vừa gập ghềnh khó đi. Nhờ công phu luyện tập nhiều,cả hai đều có cặp mắt nhìn trong đêm tối rõ như ban ngày cho nên bước đi cũng không có khó khắn vất vả mấy. Cả hai sánh vai nhau cùng nhẹ bước trên con đường đá sạn, không nói một lời, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng.

Kể từ khi gặp được nhau, chưa chuyện trò được mấy chốc đã phải đánh nhau, có khi gần mất mạng. Hết đánh nhau thì lại tới hổi tranh luận gay go, ai cũng đè ép mình làm nên tội lỗi. Trong thời gian rất ngắn mà đã tiếp xúc không biết bao nhiêu là hạng người, vương tôn công tử có, cao tăng đạo sĩ có, anh hùng hào kiệt có, chúa ăn mày và bọn hành khất ,... thành phần nào cũng có. Thế nhưng không có kẻ nào thành thực và trung tín cho đúng cái ý nghĩa của nó. Họ chỉ bám lấy cái hư danh bên ngoài để vơ lấy danh lợi, và rốt cuộc ai ai cũng dối mình, khách sáo để dối cả đời. Trong xã hội không thấy gì tinh tuý mà chỉ toàn là cảnh trái tai gai mắt, quả đúng với hai chữ "tục luỵ" không sai !

Suy nghĩ miên man, không bao lâu hai người đã đi tới một gốc cây tùng khá lớn . Cả hai cùng ngồi lại nghỉ chân, thả cho con ngựa đi lại tự do gặm cỏ .

Gió đêm thổi nhè nhẹ xung quanh tĩnh mịch không một bóng người , chẳng một tiếng động . Vì mỏi mệt,cả hai cùng tựa vào gốc tùng ngủ quên lúc nào không biết.

Bỗng tiếng ngựa hý vang rân, hai người chợt tỉnh giấc thì vầng thái dương đã lên cao lắm rồi.

Hai người cũng nhìn nhau mỉm cười. Qua một đêm ngủ ngon giữa chốn núi rừng hoang vu thanh tịnh, không vướng mùi tục luỵ, không mảy may lo chuyện đời, cả hai cùng cảm thấy trong tâm hồn thư thái , chẳng còn tý buồn lo .

Dương Qua hỏi :

- Cô nương, bây giờ chúng ta nên đi về đâu ?

Tiểu Long Nữ trầm ngâm suy nghĩ một lúc rồi ngước mắt lên đáp :

- Thôi , chúng ta hãy về Cổ Mộ trước đã.

Sở dĩ nàng bảo thế là vì nàng đã đắn đo suy nghĩ kỹ.

Kể từ lúc hạ sơn , đặt gót chân qua không biết bao nhiêu làng mạc thị trấn mà người ta gọi là chốn phồn hoa đô hội, nhưng đâu đâu cũng chỉ gặp những chuyện bận tâm buồn phiền, không chỗ nào thanh cao như như Cổ Mộ.

Nàng tự nghĩ :

- Gọi là chốn phồn hoa đô hội nhưng tại sao có những người quá giàu sang phú quý, món ngon vật lạ bỏ đi không hết, nhưng trái lại có những người đầu tắt mặt tối mà vẫn không có bữa cháo no lòng. Có kẻ mập mập như trâu trương, một bước ra đường là võng kiệu, kẻ hầu người hạ, có người thì ốm tong chỉ còn bộ xương bọc da, không đủ miếng cơm manh áo.Cùng sinh ra con người, xã hội lại đặt ra những điều quy định trói buộc người hèn hạ ngu dại, suốt đời chỉ đóng vai trò nô bộc nuôi thân. CHi bằng hãy trở lại Cổ Mộ, tháng ngày tiêu dao với rừng núi , ung dung tự tại, khỏi phải đụng chạm với những gì rắc rối phiền toái ở đời !

Nghĩ lại nhà Tống,từ khi Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn sáng nghiệp, được đức Thế Tông nhà Chu truyền ngôi, đã trải qua cả thảy chín đời nối nghiệp,tính đến nay đã được đến một trăm sáu mười lăm năm, suốt thời gian ấy, biết bao nhiêu là kẻ hưởng ơn vua, lộc nước , mũ cao áo dài, thế mà từ khi Mông Cổ xâm chiếm hết một nửa giang sơn gấm vóc , nào có kẻ nào đứng lên dựng cờ kháng Mông đương nhiên chống lại giặc ? Nếu có chăng, chỉ có một vài môn phái mượn danh Tống chống Mông, thống nhất san hà, để lập nên môn nọ phái kia, ăn trên ngồi trước. Ngay như Quách Tỉnh xưng là đại hiệp, Hoàng Dung là chúa ăn mày, nhưng cho đến nay vẫn chưa thấy có công nghiệp thực tế gì với núi sông.

Dương Qua thấy Tiểu Long Nữ trầm ngâm lo lắng thì đoán rằng :

- Có lẽ cô nương mình muốn trở về sống lại với cảnh đời thiên nhiên trong sạch, lánh xa thế tục con người, để khỏi trông thấy những chuyện trái tai gai mắt cười gượng khóc thầm của nhân thế.

Nghĩ thế rồi, chàng tự nhủ :

- Còn riêng ta, cũng không mong gì hơn là được sống mãn đời trong Cổ Mộ với con người thực dạ yêu ta. Từ khi ta rời Cổ Mộ dấn thân vào cuộc đời chỉ gặp toàn những chuyện giả dối và ngán nhất là những lý thuyết cổ điển về những luân lý lỗi thời và câu chấp, luôn ràng buộc con người một cách vô lý và bất công.

Lòng nghĩ mông lung, nhưng chân vẫn bước đi đều đều. Cả hai đi bộ một chặp rồi cùng lên ngựa cho sải nước kiệu chạy về hướng Bắc.

Trên đường đi xa, hai người mải chuyện trò, nhắc lại những chuyện vui trong dĩ vãng hoặc kể lại những mẩu chuyện trong lúc xa nhau, nhớ nhung và gặp lại nhau.

Trong hành trình chỉ có hai người và con ngựa, trên có trời, dưới có đất, nhưng hai người vẫn xưng hô theo đúng lễ phép, nghĩa là lúc nào Dương Qua cũng gọi Tiểu Long Nữ là cô nương, mà Tiểu Long Nữ vẫn gọi Dương Qua là Qua nhi hay anh Qua chứ không bao giờ dùng danh từ nào khác nữa.

Đi mãi, mặt trời đã đứng bóng. Hai người bắt đầu bàn lại về võ công của thầy trò Kim Luân Pháp Vương.

Khi bàn tới thầy trò Kim Luân Pháp Vương, cả hai người trầm trồ khen ngợi ông ta đã đạt tới cảnh giới "siêu quần tuyệt luân" , trên thiên hạ không ai sánh kịp.

Trong khi đang chuyện trò, Tiểu Long Nữ bỗng nhớ lại một chuyện rồi vội kêu với Dương Qua :

- Qua này, chương cuối cùng của Ngọc Nữ Tâm Kinh còn một đoạn cuối cùng đã lâu quá chúng mình không luyện tập rồi, bây giờ Qua còn nhớ không ?

Dương Qua đáp :

- Cũng còn nhớ, nhưng mấy lúc nay tôi tập chỗ ấy có vẻ hững hờ sao ấy, không thấy hứng thú tí nào cả. Hay là vì chỉ tập một mình nên buồn tẻ như vậy chăng ?

Tiểu Long Nữ nói :

- Chính ta cũng không nhớ hết được. Nhưng hôm qua khi chiến đấu cùng lão đạo cô đó mấy đường, thấy kiếm pháp của bà ta , đối chiếu lại mới thấy phần luyện tập của mình có chỗ không đúng lắm !

Dương Qua sốt sắng hỏi :

- A, phải rồi, hôm qua thấy lão bà Tôn Bất Nhị múa mấy đường kiếm pháp giống như đoạn cuối trong Ngọc Nữ Tâm Kinh.Họ là ngưòi của Toàn Chân giáo mà còn thạo biết mấy ngón này, huống chi là mình lại không lo luyện cho chu đáo .

Nguyên trước kia sư tổ của phái Cổ Mộ là Lâm Triều Anh đối với Vương Trùng Dương giáo chủ Toàn Chân giáo có một mối tình rất tha thiết. Trong khi sống trong Cổ Mộ, soạn ra Ngọc Nữ Tâm Kinh , Lâm Triều Anh luôn luôn tưởng nhớ tới Vương Trùng Dương, vì vậy cho nên trong đoạn chót của thiên võ công này, bà có sáng chế ra một đoạn "song vũ", nghĩa là một trai một gái cùng nhau song đấu. Trong khi ấy, bà vẫn nuôi hy vọng sau này hai ngưòi kết hợp thành vợ chồng sẽ cùng tập pho võ công này để sát cánh cùng nhau chống lại bao nhiêu tay võ công kỳ tài trong thiên hạ . Vì vậy nên chương này gồm có tất cả các thế võ cao siêu nhất của Trùng Dương Cung , pha trộn với những đường gươm bí truyền trong Ngọc Nữ Tâm Kinh. Cứ hai người cùng nhau sát vai chiến đấu thì một người đánh một người đỡ, phối hợp cả thế thủ lẫn thế công , khiến cho địch thủ dù tài ba đến đâu cũng không tài nào chống lại nổi.

Ngay sau đó, Dương Qua và Tiểu Long Nữ mỗi ngưòi bẻ một nhánh đào cùng nhau luyện lối đánh "song vũ" . Tiểu Long Nữ đánh theo Ngọc Nữ Tâm Kinh, còn Dương Qua đánh theo kiếm pháp Toàn Chân giáo.

Nhưng lạ một điều là hai người đánh võ có vẻ quá rời rạc, không ăn khớp vào đâu hết.

Tiểu Long Nữ nói :

- Có lẽ chúng ta đã quên lý thuyết nên tập không thấy hào hứng chút nào cả. Để lúc trở về Cổ Mộ xem lại các bài khắc trên vách đá để học cho thật thuần rồi mới cùng múa xem sao!

Dương Qua chưa kịp đáp, bỗng nghe có tiếng vó ngựa dồn dập. Một con ngựa phi vút tới nơi rồi thoáng một cái đã bay vút qua rất lẹ ....

Đó là một con ngựa màu lông đỏ như máu, trên lưng, một nữ lang cỡi mặc y phục cũng màu hồng. Vừa trông thoáng qua cả người và ngựa đã biến dạng trong đám cát bụi mù mịt đàng xa như một ánh lửa đỏ đang tắt dần trên không.

Dương-Qua nghĩ bụng:

- Con thần mã này chính là Tiểu-Hồng mã của Hoàng-Dung đây rồi.

Vì không muốn gặp lại vợ chồng Quách-Tỉnh và những người trong gia đình của ông ta nên Dương-Qua bèn bàn cùng Tiểu-Long-Nữ:

- Con ngựa hồng vừa rồi chính là bảo câu tiểu hồng mã của Hoàng-Dung. Không hiểu tại sao có người cỡi tới chốn này, hay là để tìm kiếm bọn mình chăng? Tốt hơn là chúng mình tìm cách lánh mặt để khỏi phải gặp họ. Cô nương có bằng lòng chăng?

Lúc bấy giờ Tiểu-Long-Nữ chỉ đóng vai thầy dạy võ nghệ còn bao nhiêu việc khác đều do theo ý kiến của Dương-Qua cả. Vì vậy nên đề nghị này được nàng tán thành ngay. Cả hai dẹp ngay chuyện luyện kiếm đi xuyên vào rừng rậm để tránh mặt những người trong gia đình Quách, Hoàng có thể đuổi theo tìm kiếm.

Hai người đang vẩn vơ giữa rừng xanh, bỗng nghe văng vẳng có tiếng chuông thu không của một ngôi chùa nào gần đây.

Tiểu-Long-Nữ mừng rỡ nói:

- May quá, phía đàng kia có tiếng chuông chùa, chắc đêm nay chúng ta khỏi nằm rừng rồi đấy. Vậy nên tìm lẹ lên kẻo trời sắp tối rồi.

Dương-Qua cười nói:

- Cô chán cảnh phồn hoa rộn rịp, muốn ẩn thân vào chốn cô tịch hoang vu, há lại ngại chuyện ngủ rừng nằm núi hay sao?

Tiểu-Long-Nữ nói:

- Rừng núi là chốn dung thân của cọp beo rắn rết. chúng mình không nên tranh chỗ với chúng làm gì. Ngoài ra chúng ta cũng không nên khiến cho chúng nghi kỵ rằng mình là bọn thợ rừng săn bắn phá hại bọn chúng.

Dương-Qua lại cười dòn hơn:

- Nếu vậy thì chùa là nơi trú ngụ của các nhà sư, chúng mình cũng không nên làm bận rộn làm gì. Mình không nên làm mất cảnh thanh tịch của Phật đường, huống chi sự hiện diện của Cô nương có thể khiến cho một vài vị sư kém đường tu nghĩ tới chuyện phá giới, hoặc biết đâu cũng có vài vị ni cô, vì Dương-Qua này mà để tóc trở về trần tục.

Tiểu-Long-Nữ thấy ý kiến này cũng ngồ ngộ nên cười xòa rồi hỏi:

- Thế ra cậu muốn ngủ rừng hay sao? Ngủ rừng có thú vị chi mà ao ước. Mà hễ ao ước thì có ngay chứ có khó chi đâu. Bọn chúng ta đang đứng tại trung tâm rừng già đây mà. Hèn chi mấy ông sư Tây-Tạng thảy đều ngán cậu là tay láu cá thật quả không sai.

Cô nương quả thật Mán rừng về thành thị, nên chả hiểu gì hết thảy. Đố cô nương có đoán được vì sao tôi đề nghị ngủ rừng đêm nay không?

Tiểu-Long-Nữ nói:

- Có lẽ cậu muốn tìm một vài cặp nhung nai hay phô trương tài bắn cọp chứ gì?

Dương-Qua cười nói:

- Không đúng rồi. Nếu Cô nương đáp được, em nguyện cõng Cô nương từ đây về tận Cổ mộ, dù phải đi hàng tháng hay hàng tuần cũng không bao giờ than thở.

Tiểu-Long-Nữ nói:

- Chịu thôi ai mà đoán được thâm tâm của anh chàng láu cá!

Dương-Qua cũng cười lớn nói đùa lại;

- Người ta láu cá còn hơn những kẻ hay hờn mát và nhõng nhẽo.

Tiểu-Long-Nữ nói:

- Người ta hay hờn mát là bản chất của người ta. Còn nhõng nhẽo cũng là quyền tự do của con người, biết vậy sao còn đi tìm người ta làm gì? Này, hãy coi chừng đàng này vẫn còn uy quyền của một vị sư phụ, nghĩa là lúc cần có thể dùng roi để dạy chú học trò vô lễ đây nhé.

Dương-Qua nói:

- Làm thầy cũng sướng thiệt, đối với học trò có thể sử dụng được hai quyền.

Tiểu-Long-Nữ đỏ mặt hỏi:

- Quyền chi vậy, kể ta nghe thử xem chú láu cá?

Dương-Qua cười cười đáp:

- Cô nương chịu nhận tôi là Sư phụ thì tôi mới giải thích.

Tiểu-Long-Nữ nói:

- Sao lại đòi làm sư-phụ? Người bắt bẻ những cái sai của mình mà lại đòi làm sư phụ.

Dương-Qua đáp:

- Cô nương há quên câu "nhất tự vi sự" rồi sao? Thánh nhân còn công nhận nguyên tắc một chức cũng thầy, nửa chữ cũng thầy, huống chi tôi dạy cho Cô nương thêm được một lẽ khôn ngoan ở đời, lại không đáng gọi là thầy hay sao?

Tiểu-Long-Nữ gật đầu nói:

- ừ, thôi giảng đi, nếu xuôi nghĩa ta nhận là sư phụ, nếu không xuôi sẽ bị phạt đấy nhé. Làm thầy có hai quyền gì mà vinh hạnh lắm vậy?

Dương-Qua nói:

- Này nhé: người đời thường nói "yêu thương thì cho roi cho vọt" khi cô nương yêu thương tôi Cô nương mới đánh. Nhưng lòng tôi tin rằng một người đẹp như cô nương thì dù đánh mạnh cũng không thấy đau.

Tiểu-Long-Nữ hỏi:

- Còn chuyện thứ hai ra sao?

Dương-Qua giải thích tiếp:

- Quyền thứ hai thì trái lại. Phàm ghét thì cứ để mặc. Khi cô nương ghét tôi thì cô nương cho tôi được chơi. Chơi thích thật, nhưng cũng hại lắm, nếu quá say mê thì có thể hỏng cả cuộc đời phải như vậy không? Chịu chưa?

Tiểu-Long-Nữ lắc đầu nói:

- Trước kia, khi còn sống trong Cổ-mộ, cậu chỉ xảo quyệt một phần, nhưng từ khi lìa khỏi Cổ-mộ, mức xảo quyệt và láu cá của cậu đã tăng lên gấp trăm phần. Thế mới biết trường đời là chỗ dạy khôn dạy láu cá và dạy ba xạo cả.

Dương-Qua thừa biết Tiểu-Long-Nữ bản chất rất ghét tánh láu cá và dối trá như ghét của dơ, nên vội vàng bào chữa bằng cách pha trò:

- Thôi trăm chuyện xin Cô nương đại xá cho để vui vẻ cùng nhau. Nếu Cô nương nổi nóng lại tách bước ra đi phen nữa thì chim trời cá nước biết đâu em tìm. Chung quy cũng khổ cái thân em mà thôi.

Tiểu-Long-Nữ nghiêm giọng hỏi:

- Nếu cậu không nói nguyên nhân vì sao cậu thích ngủ rừng thì trời sập ta cũng không cho cậu đi theo hay là cùng đi với cậu nữa đâu.

Dương-Qua thích chí cười hề hà và nói cù lần:

- Có khó chi đâu mà không tìm ra nguyên nhân. Chẳng qua... là vì... như thế cả...

Tiểu-Long-Nữ gay gắt hỏi:

- Là gì nữa? Trời đã tối rồi còn đứng đó mà kê với cà. Mau mau giải thích để rồi còn tìm nơi trú ngụ chứ, chẳng lẽ cứ đứng đóng trò giữa rừng già như thế mãi sao?

Dương-Qua nín cười chậm rãi đáp:

- Em muốn sống trong cảnh thiên nhiên của núi rừng để tìm chân lý của tình yêu. Có chi mà Cô nương lại nóng nảy lắm vậy.

Tiểu-Long-Nữ nói gằn lại gay gắt hơn:

- Chân lý tình yêu đâu cần phải tìm kiếm trong rừng già này. Cậu đã tiếp xúc với cuộc đời giả dối quá nhiều, nên ý nghĩ có nhiều chuyện rắc rối phức tạp, lúc nào cũng bao hàm những chuyện xa xôi xảo quyệt. Biết như thế này ta cứ sống yên thân trong Cổ mộ, đâu có hoại công đi tìm những cái bực mình vào thân nữa.

Nói xong, nàng quay mình định chạy.

Nhưng Dương-Qua đã nắn lấy tay nàng kéo lại năn nỉ:

- Xin Cô nương đừng bỏ em bơ vơ một mình lẻ bóng nơi góc biển chân trời như xưa nữa, tội nghiệp mà.

Tiểu-Long-Nữ giật tay ra nói:

- Thôi, cứ buông tôi ra cho yên thân. Tôi đi đâu mặc kệ thân tôi. Chỉ có cái lý do vì sao thích ngủ rừng mà không nói. Như vậy làm sao gọi là tình thày trò bè bạn nữa chứ?

Tuy giật ta, nhưng nàng không kéo về hẳn lại đặt trên vai Dương-Qua. Chợt để ý đến cử chỉ ấy, nàng tự trách mình:

- Chính ta cũng lẩn thẩn thật. Đã giật tay rồi còn đặt trên vai hắn, thì làm sao hắn không lớn mình được?

Trong khi ấy cả hai cùng đứng lặng yên trong rừng thẳm, không nói năng một lời nào, mỗi người đeo đuổi một cảm nghĩ khác nhau.

Tiểu-Long-Nữ băn khoăn suy nghĩ tự trách mình không dứt khoát thái độ để cho Dương-Qua đùa cợt, xem như người cùng vai vế chứ không còn thái độ trọng vọng của một người đệ tử đối với Sư phụ như những ngày trước nữa.

Phần Dương-Qua cũng tự trách mình sao không có đủ can đảm và nghị lực để bày tỏ tình yêu mà cứ bày chuyện viển vông như vấn đề ngủ trong rừng để giằng co cãi lẫy nữa. Dù sao nơi đây cũng chỉ có hai người có ai xen vào đâu mà hòng e lệ nữa.

Suy nghĩ tới đó, chàng quả quyết, vỗ nhẹ vai Tiểu-Long-Nữ nói:

- Bây giờ xin cô nương vui lòng cho phép tôi trình bày lý do vì sao muốn ngủ lại trong rừng nhé.

Tiểu-Long-Nữ đáp:

- Thì cứ nói ra đi xem nào. Ta cũng đang chờ nghe có chừng ấy thôi. Việc gì mà phải xin phép tắc lắm chuyện thế?

Dương-Qua nghiêm giọng nói tiếp:

- Tuy ngày còn nhỏ tôi có học và nghe được nhiều câu ca dao bóng bẩy. Nhưng khi còn sống trong Cổ mộ tôi chẳng hề quan tâm hay hiểu tý gì về ý nghĩa của các câu ấy. Nhưng kể từ ngày xa cách Cô nương vì lòng mong tưởng nhớ thương, và sau khi trải qua nhiều gian nan nguy hiểm cùng nhau tôi mới thấm thía đến ý nghĩa xa xôi bóng bẩy nhưng rất thâm thúy của các câu ấy, đại khái như hai câu này:

"Yêu nhau chẳng nại chiếu giường,

Chỉ cần mảnh lá che sương cũng tình".

Vì vậy tôi mong muốn sao đêm nay thực hiện thử, giữa chốn rừng hoang thâm u này, chúng ta hãy ngủ thử một đêm để xem kẻ đặt ra câu ca trên có sành về tâm lý Nam Nữ hay không?

Nói tới đây, Dương-Qua hứng chí cất tiếng cười rang rảng, âm thanh vang vội trong rừng vắng khiến mấy con chim đang ngủ trên cành cây gần bên giật mình thức dậy dập dình kêu quang quác như tỏ lời oán trách hai người đi phá đám cảnh yên tĩnh của chúng.

Tiểu-Long-Nữ nói:

- Đó, cũng vì mình muốn tìm chân lý mà làm động chạm đến cuộc sống êm đềm của bao con chim rừng trong tổ ấm. Chúng ta không nên vì thú riêng của mình mà phạm tới tự do của bao sinh vật khác mà đắc tội. Thôi, hãy cố đi về phía trước xem có nhà ai xin tạm nghỉ đỡ một đêm vậy.

Hai người mò mẫm giắt nhau đi trong đêm tối. Một chập sau thấy phía trước xa thấp thoáng ánh đèn le lói. Cả hai mừng rỡ và chắc rằng có ánh lửa tất nhiên phải có nhà người ở.

Khi tới nơi thì thấy rằng nơi đây là một xóm nhỏ, rải rác có đôi nóc nhà của những người thợ rừng hay thợ săn. Dương-Qua bước vào một nhà nhỏ ở đầu thôn xin tá túc. Khi được chủ nhà nhận lời rồi, chàng chạy ra sau rửa mặt mày sạch sẽ rồi trèo lên một chõng nhỏ nơi nhà cầu. Còn Tiểu-Long-Nữ tạm nằm trên chiếc võng mắc ngoài mái hiên.

Mặc dù cả hai đinh ninh sau này sẽ cùng nhau kết nghĩa vợ chồng nhưng trong khi còn trôi nổi đó đây, vẫn giữ theo nếp sống như ngày nào còn trong Cổ mộ. Dù sao cả hai cũng đã vui mừng và yên tâm về câu chuyện trăm năm, và từ đây chỉ chuyên lo trau dồi về võ nghệ mà thôi, khỏi bận lòng điều chi nữa.

Ngủ qua đêm ấy hai người sáng sớm thức dậy trả tiền trọ cho chủ nhà. Trước khi đi chủ nhà đem dọn mấy củ khoai cho hai người lót dạ. Trong khi đang ăn, Tiểu-Long-Nữ bảo Dương-Qua:

- Phen này chúng ta cứ theo đại lộ màđi, khỏi cần đi theo đường mòn làm chi cho vất vả nhé.

Hai người sánh vai nhau đi mãi tới trưa vừa gặp một thị trấn khá náo nhiệt đông đúc.

Dương-Qua đem Tiểu-Long-Nữ vào một khách trọ lớn để ăn cơm.

Khi vừa bước khỏi thang lầu, cả hai đều giật mình trông thấy Hoàng-Dung cùng hai anh em họ Võ đang ngồi ăn uống nơi một chiếc bàn phía trong.

Dương-Qua nghĩ rằng, chẳng lẽ quen nhau mà lại đi lánh mặt.

Vì vậy nên chàng tự nhiên bước lại trước mặt Hoàng-Dung chào hỏi:

- Chẳng hay Quách Bá Mẫu sang đây có chuyện chi cần thiết?

Hoàng-Dung rầu rầu đáp:

- Con có thấy Quách-Phù đi ngang qua đây không?

Dương-Qua ngạc nhiên đáp:

- Thưa không ạ. Con tưởng Quách tiểu thư lúc nào cũng ở cạnh Quách Bá-Mẫu chứ tại sao lại mất tích như vậy?

Hoàng-Dung chưa kịp trả lời, bỗng nghe từ phía dưới có tiếng chân người bước đi rầm rập, tiếp tới có mấy người cao lớn đi vào. Nhìn kỹ người đi đầu chính là Kim-Luân Pháp-Vương chứ không ai xa lạ.

Dương-Qua lẹ làng ra hiệu cho Hoàng-Dung đừng nói và bước mau lại phía Tiểu-Long-Nữ khẽ bảo:

- Cô nương hãy quay mặt vào phía kia cho bọn chúng đừng trông thấy phiền phức.

Nhưng đã muộn rồi, Kim-Luân Pháp-Vương, mắt sáng như điện, ngay từ lúc mới bước vào quan sát quanh một vòng đã nhận diện ra tất cả mọi người không sót một ai.

Vừa trông thấy xong, ông ta cười hề hề rồi kéo ghế ngồi lại một bàn cách đó không xa.

Dương-Qua giả bộ không trông thấy, ngồi ngay mặt đi hướng khác.

Nhưng bỗng nhiên Hoàng-Dung nghẹn ngào cất tiếng gọi:

- Phù nhi, con đi đâu khiến mẹ tìm mãi không ra.

Chàng quay đầu nhìn lại thì thấy quả nhiên Quách-Phù đang ngồi cùng bàn với bọn Kim-Luân. Nàng sửng sốt nhìn mẹ nhưng không dám bỏ chỗ chạy lại.

Nguyên từ khi bị thảm bại Kim-Luân Pháp-Vương bực tức bỏ ra đi, trong bụng đinh ninh thế nào cũng tìm cơ hội chuyển bại thành thắng.

Không ngờ Hoắc-Đô Vương-Tử bị trúng ngọc phong châm vết thương càng sưng nhẩy lên, hành hạ mãi không thuốc nào chữa được. Vì vậy nên qua mấy hôm sau các thầy trò vẫn còn quanh quẩn mãi gần Lục-gia-trang.

Rủi thay hôm ấy Quách-Phù cỡi con Tiểu hồng mã đi dạo bỗng tình cờ gặp lại Kim-Luân Pháp-Vương, không khác nào gà tìm tới miệng chồn.

Kim-Luân đời nào bỏ qua một dịp may hiếm có nên thừa cơ hội Quách-Phù đi một mình, ông bắt ngay để làm con tin. Công con Tiểu hồng mã vốn loại ngựa thần, khôn ngoan đúng mức, nên khi tiểu chủ bị bắt rồi, nó phi ngay về trang trại đứng ngay cổng hý vang để báo tin bất thường.

Quách-Tỉnh biết con mình lâm nạn nên vội phân bổ người đi khắp tứ phương tìm kiếm.

Mặc dù đang có mang gần ngày, nhưng vì tình mẹ thương con quá nặng Hoàng-Dung không thể ở nhà, vội cỡi con Tiểu-Hồng-mã đi tìm con. Giữa đường bà gặp hai anh em nhà họ Võ, đưa nhau vào khách sạn ăn cơm kể gặp Dương-Qua và Tiểu-Long-Nữ rồi tình cờ run rủi gặp Kim-Luân Pháp-Vương cũng dẫn Quách-Phù đi vào luôn.

Vừa thấy mặt con gái yêu, Hoàng-Dung mừng mừng tủi tủi vội cất tiếng kêu. Nhưng khi thấy Quách-Phù chỉ nhìn lên chứ không đáp và không chạy lại, bà đã biết rõ con mình đang bị địch quản thúc. Vốn người nhiều mưu trí, nên Hoàng-Dung điềm tĩnh ngồi chống tay trên bàn cố tìm cách giải thoát cho con gái, khỏi tay bọn ác tăng Mông-cổ.

Trong lúc bà đang phân vân đắn đo tìm kế, hai tay gõ chiếc đũa trên mặt bàn thì Kim-Luân bỗng cất tiếng gọi lớn:

- Hoàng bang-chúa, nàng này có phải là lệnh ái hay không. Hôm nào đấu võ nơi Lục gia trang, tôi để ý tháy nàng đứng bên cạnh Hoàng Bang-chúa, mặt mày vô cùng xinh đẹp.

Hoàng-Dung làm thinh thở dài không đáp lại.

Võ-tu-Văn đứng lên đáp lời:

- Tôi không ngờ một người như ông, dù sao cũng một vị Pháp vương Tây-Tạng, lại đi ra tay bắt cóc con gái người ta, thật không biết thẹn.

Hình như không cần đếm xỉa tới những lời trách móc của Võ-tu-Văn Kim-Luân lớn tiếng nói cùng Hoàng-Dung:

- Thưa bang chúa, xin người vui lòng cho người giải độc hộ cho Hoắc-Đô Vương-Tử để chúng có dịp thử lại tài nghệ xem bên nào cao thấp. Chừng ấy mới sáng tỏ kẻ nào xứng đáng giữ ngôi Minh chủ Võ-Lâm.

Nghe lão nói xong, Hoàng-Dung chỉ "hừ" một tiếng chứ không trả lời.

Võ-tu-Văn lại nói:

Trước hết xin ông hãy giao trả Quách Cô nương lại cho chúng tôi. Sau đó chúng tôi sẽ xin giao thuốc giải độc cứu Vương-Tử, còn chuyện tỷ thí tranh tài cao thấp sau này sẽ bàn lại cũng không muộn, Hoàng-Dung liếc mặt nhìn Dương-Qua và Tiểu-Long-Nữ trong dạ băn khoăn suy nghĩ:

- Thuốc giải độc chỉ có hai người kia mới có. Nhưng kông biết họ có bằng lòng cho giúp nếu Kim-Luân nhận lời đề nghị của Tu-Văn hay không.

Nhưng Kim-Luân cười khà khà đáp lại:

- Thuốc độc thì ai lại không có. Nếu đàng ấy không giao ra thì ta cũng có thuốc độc để khiến cho gái cưng của người cũng nếm thử cho biết mùi. Nếu bên ấy giao thuốc thì ta sẽ chữa cho cô bé này khỏi đau khổ. Còn câu chuyện trao trả người đâu có thể đơn giản như thế được.

Hoàng-Dung nhìn qua sắc diện con gái biết Quách-Phù chưa bị thuốc độc, tuy nhiên tình mẫu tử vô cùng sâu đậm, bà không thể nào ngồi yên trong khi con gái mình còn đang ở trong tay quân địch. Bà cố tìm mưu kế nhưng nghĩ mãi chưa ra.

Vừa lúc đó nhà hàng bưng đồ ăn ra dọn không biết bao nhiêu là món ngon vật lạ. Bọn Kim-Luân ung dung đánh chén, riêng Quách-Phù không ăn chỉ ngồi lặng yên nhìn mẹ mà rưng rưng hai hàng nước mắt.

Trước cảnh tượng đau lòng ấy, Hoàng-Dung cũng nước mắt chạy quanh, lòng đau như cắt. Và cũng trong lúc ấy bà cảm thấy trong bụng quặn đau từng cơn dữ dội. Thật là phước bất trùng lai họa vô đơn chí! Có lẽ vì đi ngựa nhiều nên bị động thai.

Ăn uống xong, Kim-Luân chạy lại gần Hoàng-Dung nói:

- Kính mời Hoàng Bang chúa hãy đi theo chúng tôi.

Hoàng-Dung nghe nói hoảng kinh nghĩ bụng:

- Tại sao hắn mời ta đi? Đã bắt cóc con gái ta, nay hắn còn muốn bắt ta đi nữa sao? Một mình ta, lại lên cơn đau bụng làm sao chống cự bây giờ. Còn hai anh em họ Võ thì võ nghệ còn non kém đối với Kim-Luân đâu có nghĩa lý gì.

Nghĩ tới đây Hoàng-Dung hoảng sợ lộ ra nét mặt tái xanh.

Kim-Luân nhìn bà nói tiếp:

- Xin Hoàng-Bang chúa đừng lo sợ, Hoàng-Bang chúa là người có địa vị quan trọng trong Võ lâm Trung nguyên, không bao giờ chúng tôi dám bạc đãi cùng Bang chúa đâu. Miễn sau khi chúng ta bàn cãi xong câu chuyện Minh-chủ Võ-Lâm rồi, thì có xin đưa Bang-chúa trở về Nam ngay.

Nguyên từ khi bước vào trong tiệm, trông thấy Hoàng-Dung ngồi đó Kim-Luân lòng mừng vô hạn nghĩ thầm rằng:

- Thật rõ ràng là may mắn hết sức. Mụ này có một địa vị quá ư quan trọng trong võ lâm Trung-nguyên. Chỉ cần bắt cóc được mụ thì bao nhiêu anh hùng Trung quốc thảy đầu khoanh tay không dám bạo động chừng ấy ta muốn chi không được. Được mụ này còn quan trọng gấp mấy mươi lần cô Quách-Phù.

Hai anh em họ Võ thấy Kim-Luân bức sách và nhục mạ sư phụ mình thì trong lòng căm tức vô hồi, nhưng xét lại bọn mình chưa phải là đối thủ của hắn. Hơn nữa trước mặt hai người ý trung nhân là Quách Phù đang ngồi nét hoa ủ đột, khiến cho hai anh em càng thêm bối rối.

Tuy nhiên vì sĩ diện hai anh em cũng phải đứng lên tuốt kiếm định xông ra liều mạng.

Nhưng Hoàng-Dung vội bảo nhỏ:

- Không được đâu, hãy vượt qua cửa sổ, chạy gấp về báo tin cho sư phụ biết. Các con không đánh lại hắn đâu.

Hai anh em họ Võ lấm lét nhìn sau không ai dám nhảy ra trước, sau lại lén nhìn Quách-Phù, mãi hồi lâu mới chạy ra khỏi quán.

Hoàng-Dung bực mình lẩm bẩm:

- Thứ gì mà hèn nhát và chậm chạp quá rùa, cứ như thế thì biết chừng nào đi về tới nơi để báo tin cho kịp.

Không ngờ hai người vừa bước ra khỏi cửa, Kim-Luân chỉ phóng ra một cái đưa tay tóm ngay lại cặp hai bên hông như diều hâu cặp đôi gà giò.

Hai anh em hoảng kinh vội buông gươm để khỏi đâm trúng vào người nhau.

Kim-Luân nhấc bổng hai người lên ném tung ra ngoài xa hơn mấy trượng miệng quát:

- Thứ vô dụng này, đừng hòng làm vướng chân bản Sư.

Quăng hai anh em họ Võ xong, Kim Luân quay sang phía Dương-Qua và Tiểu-Long-Nữ bảo lớn:

- Chúng bây không phải bà con giòng họ chỉ với Hoằng-Bang chủ và Quách-Tỉnh, hãy đi cho rồi, không nên chen tay vào công việc của ta.

Thật ra không phải Kim-Luân có thiện ý gì với bọn Tiểu-Long-Nữ nhưng y muốn dùng thủ đoạn ly gián để phân tán lực lượng của đối phương. Ông cũng khôn ranh mà biết rằng:

- Trong ba người Hoàng-Dung, Dương-Qua, và Tiểu-Long-Nữ, nếu đấu một sáp một thì không thể bằng mình, nhưng nếu cả ba cùng hợp sức chống lại thì e mình khó thoát tay bọn chúng chứ không mong gì bắt cóc Hoàng-Dung.

Kim-Luân muốn dùng mưu cơ này mở lối thoát cho Dương-Qua và Tiểu-Long-Nữ thoát đi cho rồi. Còn Hoàng-Dung hiện nay có mang gần ngày, chỉ trong mấy hiệp ông cũng có thể áp đảo được ngay không khó.

Tiểu-Long-Nữ lúc này chỉ mong sao sớm về tới Cổ-mộ để cùng Dương-Qua sống cuộc đời bình thản vô tư và tránh hết những cái gì trái tai gai mắt của xã hội loài người cho nên nàng quay sang bảo Dương-Qua:

- Lão Trọc này cũng vô cùng lợi hại, không hơi đâu mình trêu tay cho mất công. Thôi chúng ta đi đi cho rồi.

Thấy Dương-Qua do dự, nàng thúc thêm:

- Hơi đâu ách giữa đàng đem mang vào cổ. Chúng mình về Cổ-mộ càng sớm càng hay.

Dương-Qua đáp:

- Xin Cô-nương chờ em tính tiền ăn rồi sẽ hay.

Trả tiền xong, Dương-Qua đứng lên cùng đi ra.

Bước chân xuống thang lầu chàng nghĩ bụng:

- Chuyến nầy về tới Cổ-mộ, chắc không bao giờ ta gặp lại Quách Bá-mẫu.

Nghĩ xong, chàng lấm lét đưa mắt nhìn Hoàng-Dung.

Chàng trông thấy Hoàng-Dung một tay ôm bụng dưới, một tay vỗ ngực, mặt mày nhăn nhó, mồ hôi hột chảy ròng ròng, có lẽ đang lên cơn đau lắm.

Xưa nay Dương-Qua có tánh thích làm theo ý mình hơn nữa trong quyết quản có sẵn giòng máu hiệp nghĩa, nay trông thấy tình cảnh Hoàng-Dung như vậy chàng bỗng nghĩ:

- Tuy Quách Bá-mẫu không bằng lòng cho ta yêu Long Cô-Nương là vì theo đạo lý cổ hủ của Trung-nguyên, điều đó ta không thể trách bà được. Ngày nay thấy Quách Bá-mẫu đang bị nạn mà ta nỡ nào làm ngơ bỏ đi sao đành. Xem bản lãnh lão này ta không đấu lại, nhưng ta cũng có thể đi báo tin cùng Quách bá bá tới để giải cứu kịp thời. Như vậy có lẽ đắc sách hơn.

Nghĩ xong chàng đưa mắt láy Hoàng-Dung tỏ ý kiến ấy. Hoàng-Dung gật đầu tỏ vẻ ưng ý.

Chàng liền giắt Tiểu-Long-Nữ khoan thai đi xuống thang lầu.

Bỗng một tên Võ sĩ Mông-Cổ nhảy xổ tới trước mặt Hoàng-Dung trợn mắt thét lớn:

- Này, hãy đứng dậy đi ngay.

Nói xong hắn chộp vai bà lôi đi như một tên tử tội.

Suốt mười năm nay giữ ngôi vị Bang-Chúa Cái-Bang, Hoàng-Dung dù có bị sa cơ cũng không khi nào chịu để cho một tên vũ phu man rợn làm nhục như thế được. Cho nên khi tên Mông-Cổ vừa đưa cánh tay thô lỗ đầu lộng ra chộp lấy vai, bà né sang một bên, dùng vạt áo lót tay rồi nắm cánh tay hắn vặn trái một cái xách bổng lên ném tuốt qua cửa sổ như một gói giẻ rách. Tên võ sĩ Mông-Cổ bị ném té dài trên mặt đất, mặt mày đầy máu, nửa chết nửa sống không còn cục cựa nữa.

Bao nhiêu quan khách trên lầu theo dõi sự việc thấy hai bên lúc đầu đấu khẩu kết tới tên Võ sĩ Mông-Cổ bị tóm cổ quăng tuốt khỏi lầu thì ai nấy đều hốt hoảng đứng lên nhốn nháo cả lên.

Kim-Luân Pháp-Vương trông thấy cười nhạt nói:

- Hoàng Bang-chúa quả là tay võ nghệ tuyệt luân.

Nói xong lão vận nội công trầm trầm bước tới. Hoàng-Dung biết trước thế nào hắn cũng dùng đòn độc hạ mình nên bước lùi sau thủ thế chống cự lại.

Dương-Qua đang bước xuống lầu, bỗng thấy tiếng khách hàng xôn xao nhốn nháo thì biết rằng bọn Mông-Cổ đang làm nhục Hoàng-Dung. Máu anh hùng trong tim chàng sôi lên sùng sục không chịu được nữa, chàng bèn quay lại, quên cả hiểm nguy chết sống, rút thanh gươm trong lưng Võ-Đôn-Nho đâm thẳng vào lưng Kim-Luân, miệng mắng lớn:

- Quân mọi rợ, thừa lúc người ta đau bệnh cô thế mà bức sát thì đâu phải anh hùng. Sao mi không biết nhục?

Kim-Luân quả là tay võ nghệ tuyệt luân; mặc dù không quay đầu nhìn lại nhưng cũng đoán biết được làn gươm, chỉ cần kim chặt mạnh nghe "choang" một tiếng lớn, thanh gươm Dương-Qua gãy hai rơi xuống đất.

Dương-Qua cảm thấy cả cánh tay tê buốt do sự đụng chạm này, vội vàng phóng mình ra sau mấy bước để tránh đòn thủ thế.

Kim-Luân nhìn chàng mắng lớn:

- Súc sinh, tài nghệ của mi còn non kém lắm chưa đủ tranh đấu cùng ta đâu. Hãy chịu khó về tập luyện thêm một vài năm nữa rồi sẽ tính tới chuyện ăn thua. Nếu bây giờ liều mạng vào đây sẽ bỏ mạng dưới chiếc vòng vàng của ta, chừng ấy trách ta sao không nói trước.

Thật ra, trong thâm tâm Kim-Luân Pháp-Vương ghét Tiểu-Long-Nữ và Dương-Qua như điếu đổ vì Dương-Qua đã đánh chiếc vòng vàng và làm mất ngôi Minh-chủ của ông trước hàng ngàn anh hùng Trung-nguyên. Tuy nhiên lúc này Kim-Luân Pháp-Vương phải giả ơn giả nghĩa dùng đủ mọi lẽ phải chăng để Dương-Qua đi cho rồi vì chính ông không muốn đâú với hai địch thủ trong khi chưa bắt được Hoàng-Dung chắc chắn. Cứ một việc này cũng đủ chứng tỏ Kim-Luân Pháp-Vương là một lợi hại, ngoài bản lĩnh kinh người, cũng có mọi thủ đoạn của người mưu sĩ, chứ không phải là loại vũ phu chỉ chuyên dùng sức mạnh hiếp người.

Câu nói của Kim-Luân vừa có vẻ bề trên ngạo mạn, lại có vẻ khuyên răn nữa. Dương-Qua nghe nói tươi cười bảo:

- Pháp-Vương cũng không nên quá khách khí và lưu tâm tới tiểu sinh lắm như vậy. Học được thành tài như Pháp-Vương đâu phải chuyện dễ, mà cũng không phải vấn đề một vài năm mà được. Tuy nhiên, Hoàng Bang-chúa đối với tiểu sinh có công lao dưỡng nuôi từ tấm bé, hôm nay mà bị tai nạn, không thể nào tiểu sinh lại đành lòng bỏ đi cho được. Nếu lúc này Bà không đau bụng thì võ công của Pháp-Vương chưa chắc đã thắng được bà đâu. Nếu Pháp-Vương không tin xin cứ chờ một vài ngày, Bà khỏe mạnh rồi sẽ biết.

Trong khi thốt ra câu này, Dương-Qua muốn khích khí Kim-Luân Pháp-Vương. Nếu ông ta có tinh thần thượng võ chắc không mặt mũi nào đi bức sách Hoàng-Dung nữa.

Nhưng trong thâm tâm Kim-Luân thì nghĩ khác. Ông ta sợ cả ba người Hoàng-Dung, Tiểu-Long-Nữ

và Dương-Qua cùng tấn công mình thì không thể nào chống lại nổi, vì vậy nên cố tình tìm cách nói cho cặp trẻ đi cho rồi. Không ngờ nghe Dương-Qua nói vậy, lão chú ý xem lại Hoàng-Dung thấy quả thật sắc khí bà bơ phờ, mặt mày tái xanh đang đứng nhăn nhó thì biết là bà đang đau thật, nên nghĩ thầm:

- Nếu con người đầu não đã mang bệnh thì hai đứa kia đâu có nghĩa gì mà phải sợ.

Nghĩ xong, ông bĩu môi bảo:

- Thế ra bọn bay cũng muốn ở lại đây chiến đấu phải không?

Ngay lúc đó, Tiểu-Long-Nữ đang đứng tại cầu thang chờ Dương-Qua, thấy Kim-Luân Pháp-Vương đang ngăn trở chàng thì nói với lên:

- Này lão Hòa-thượng, hãy tránh đường cho người ta đi, sao gây khó dễ như vậy?

Kim-Luân nhìn xuống hai mặt lộ xung quanh, vung tay đánh xuống một chưởng mạnh như trời giáng. Với lợi thế từ trên đánh xuống lão chắc chắn thế nào Tiểu-Long-Nữ cũng bị bể đầu ngay, hoặc có giỏi nó cũng phải nhào lăng xuống tầng dưới gãy tay hay cụt cẳng. Thấy đối phương từ trên cao giáng xuống một đòn lén, nàng vận dụng khinh công thượng thặng của phái Cổ-mộ tung người bay vọt lên trên, lòn qua đường chưởng lực, đứng ngay cạnh Kim-Luân. Trong khi thân hình nàng đang bay lơ lửng qua đầu: Kim-Luân thừa dịp đánh theo một đòn quét mạnh vào chân, nhưng cũng trật luôn. Kim-Luân phải buộc miệng khen thầm:

- Con Bé này khinh công tuyệt diệu, ta cũng không sánh kịp tài lanh lẹ của hắn.

Dương-Qua trao lưỡi gươm của Võ-Tu-Văn bỏ rơi trên sàn lầu và nói khẽ:

- Lão Hòa-thượng này vô lễ và khinh thường thiên hạ quá chúng ta hãy cùng nhau cho nó một trận nên thân.

Bỗng nghe tiếng leng keng vang lên. Kim-Luân rút trong bọc một chiếc vòng khác, kích tấc y như cái vòng vàng hôm trước, chỉ khác một điều là chiếc vòng này đen nhánh như huyền.

Nguyên Kim-Luân Pháp-Vương xử dụng cả thảy năm chiếc vòng làm bằng đủ loại kim khí vàng, bạc, đồng, sắc và chì. Khi nào gặp tay lợi hại ông tung hết năm chiếc một lần, nhưng gặp tay tầm thường thì chỉ cần dùng một hay hai chiếc mà thôi.

Xưa nay chỉ một chiếc vòng vàng, Kim-Luân đã hạ sát không biết bao nhiêu là anh hùng cao thủ võ lâm. Do đó, ông được thiên hạ suy tôn biệt danh là Kim-Luân Pháp-Vương cũng vì lẽ đó (nghĩa là ông vua có biệt tài dùng vòng vàng), bốn chiếc vòng khác bằng bạc, đồng, chì và sắt, chưa thấy ông đem ra sử dụng khi nào.

Trong khi tranh tài tại Lục-Trang-Viện, chiếc vòng vàng đã bị Dương-Qua dùng chày kim cương đánh rơi và méo mó chưa thể chữa lại được nên hôm nay Kim-Luân mới mang chiếc vòng sắt ra giao chiến.

Trong tay nắm sẵn chiếc vòng đen, Kim-Luân hướng về hai người rồi nhìn Hoàng-Dung hỏi lớn:

- Thưa Hoàng Bang-chủ, ngài có bằng lòng chiến đấu hay không?

Kim-Luân biết Hoàng-Dung tuy bị bệnh nhưng ngại bà cũng còn đủ sức chống đỡ và gây rắc rối cho mình nên mới dùng lời nói khích Lão muốn trịnh trọng nêu chữ "Hoàng Bang-chủ" ra để nhắc khéo Hoàng-Dung nhớ rằng: nếu không đầy đủ sức khỏe, đừng đánh gượng làm gì, rủi bị thất bại mang tiếng xấu với đời và làm ô danh Chúa tể của Cái-Bang. Nếu Hoàng-Dung hội ý không đánh, thì còn hai người Dương-Qua Tiểu-Long-Nữ sẽ dễ thủ thắng hơn.

Nhưng Dương-Qua đã cướp lời nói:

- Hoàng Bang-chúa đâu thèm đánh cùng ngươi mà hòng hỏi lại.

Nói xong chàng quay sang phía Hoàng-Dung thưa lớn:

- Xin Quách bá-mẫu cứ tự ý đưa em Phù về nhà đi, cho thằng Trọc ngã mặn này, cứ để cho con xử trí.

Thật ra Dương-Qua cũng thừa hiểu dù cả hai người, mình và Tiểu-Long-Nữ cũng không đấu lại Kim-Luân, cho nên chàng muốn Hoàng-Dung đem Quách-Phù để báo tin cho Quách-Tỉnh biết, còn mình và Tiểu-Long-Nữ ở lại cầm cự trong thời gian rồi cũng tìm cách chuồn luôn cho tiện.

Nói xong, chàng vung tròn cây trường kiếm như một vòng bạch quang lóe lên, xong vào tấn công Kim-Luân. Tiểu-Long-Nữ cũng múa gươm tiếp sức.

Kim-Luân Pháp-Vương tung chiếc vòng đen ra chống cự lại với hai đường gươm lợi hại. Vì thân hình to lớn dềnh dàng, dụng võ trong nhà có nhiều bàn ghế đồ đạc vướng víu tay chân nên Kim-Luân xoay trở có phần khó khăn. Ông vừa múa móc đánh đỡ, vừa tung cước đá bay các bàn ghế dồn dập vào một xó cho rộng chỗ để hoạt động hơn.

Dương-Qua vừa đánh vừa suy nghĩ:

- Kể về dòng lực thì mi thắng ta, nhưng tính theo mưu mô thì ta có thể hơn mi lắm. Phen này ta thử cho mi nếm mùi thủ đoạn của tuổi trẻ và ngã mặn một chuyến cho đã đời.

Trong khi hai bên quyết đấu, Dương-Qua và Tiểu-Long-Nữ nhờ thân hình bé nhỏ, nhẹ nhàng lẩn tránh lanh như cặp sóc khi bay sang Đông lúc phóng sang Tây, cùng tấn công tới tấp, Kim-Luân thân hình to lớn thêm chỗ đấu chật hẹp xoay trở có phần khó khăn nên chống đỡ cũng chật vật.

Dương-Qua vừa né vừa đâm vừa nhảy nhót xung quanh, vớ được thứ gì trên bàn, bất cứ bình mắm, xì dầu, lọ tương, bình rượu hoặc bát thị cũng đem ném tưới vào người Kim-Luân. Mặc dù giỏi tránh né, nhưng các thức ăn, mắm muói văng tung tóe không tài nào tránh cho xuể. Thành thử không bao lâu, từ đầu tới chân Kim-Luân chỗ nào cũng bê bết cả tương, mắm, dầu mỡ các thứ. Dương-Qua luôn mồm nói thêm:

- Xin thành tâm cung phụng cho Hòa-thượng những món ăn mặn của thế gian để ra sức giúp quân Mông-Cổ xâm lược giết dân vô tội của chúng tôi.

Kim-Luân giận không thể tả, trợn mắt bậm môi cố bám theo Dương-Qua để đánh.

Nhưng khi hắn quay sang Dương-Qua thì làn gươm của Tiểu-Long-Nữ loang loáng tấn công liền, buộc lòng phải xoay lại chống đỡ.

Dương-Qua rảnh tay liếng thoắng chế nhạo:

- à, nhà sư này có lẽ lâu ngày không gần phụ nữ nên dẻo dai và bền sức lắm. Từ trước tới nay tôi cũng gặp nhiều nhà Sư, miệng thì niệm Phật nhưng sức lực lại đem vung phí khắp nơi, vì vậy nên đấu chỉ vài hiệp mà đã thở dốc như bò rống. Những bọn nhà Sư ấy, dầu giết chết cũng đáng đời lắm lắm. Trong thời buổi loạn ly này, biết bao nhiêu người khoác áo nhà Sư nhưng lúc thử thách mới rõ chỉ là bề ngoài mà thôi.

Tiểu-Long-Nữ cũng góp ý thêm:

- Sư chính hay tà, việc ấy ta không biết, ta chỉ tìm bọn nhà Sư chuyên đánh giặc mướn cho bọn Mông-cổ xâm-lược mà thôi.

Lúc ấy Hoàng-Dung đã lại bên bàn đưa tay giắt Quách-Phù trở lại chốn cũ. Trong khi ấy thì bên Mông-Cổ cũng có mấy tên cao thủ như Hoắc-Đô đang bị độc ngọc phong châm, nằm rên la trăn trở, Đạt-nhĩ-Ma bị thuật di hồn chưa hóa giải còn ngơ ngác như kẻ mất trí ngoài ra một số võ sĩ hầu cận thì bản lãnh không bao nhiêu nên Bà đưa Quách-Phù đi không bị trở ngại. Nhìn tháy xương một tên bị bà nắm quăng qua cửa lầu lúc nãy, không còn tên nào dám hó hé cản ngăn.

Dương-Qua trông thấy Hoàng-Dung đã giắt được Quách-Phù về ngồi chỗ cũ bèn lên tiếng nói:

- Quách bá-mẫu nên về ngay đi, tại sao còn chần chờ mãi như vậy?

Hoàng-Dung liếc mắt thấy hai người tuy nhờ sức lanh lẹ nhảy tránh được tuy nhiên lực lượng giữa đôi bên còn chênh lệch quá nhiều, nếu trận đấu kéo dài mà Kim-Luân dùng độc thủ, đôi trai gái sẽ thất bại ngay. Vì vậy nên bà nghĩ thầm:

- Họ còn trẻ tuổi nhưng không ngại gian nguy xả thân cứu mẹ con ta, thì ta là người lớn lẽ nào bỏ họ mà đi sao đành.

Vì vậy nên bà đứng ngoài hiên nhìn cuộc đấu, không bỏ đi.

Anh em họ Võ thấy vậy giục:

- Xin bá-mẫu hãy trọng lấy quý thể mau mau đem Cô Phù lánh khỏi chốn này sớm chừng nào hay chừng ấy. Nếu lỡ ra có...

Hoàng-Dung bực mình gắt:

- Làm người phải hiểu chữ nghĩa. Đã học võ phải có tánh khí nghĩa hiệp, nếu không thì biết võ làm chi? Như thế không còn xứng đáng sống trên cõi đời nữa. Các con hãy xem anh Dương-Qua còn trẻ tuổi mà hào khí phi thường, gan liều nghĩa lớn, sao không theo đó mà bắt chước, chỉ bo bo giữ lấy phần lợi cho mình. Các con còn kém xa quá.

Thấy Hoàng-Dung chỉnh khéo và xem thường bọn mình, hai anh em họ Võ hổ thẹn nín thinh.

Quách-Phù bẻ một chân bàn khá lớn rồi đưa mắt bảo hai anh em họ Võ:

- Chúng ta nên xông vào tiếp chiến đánh cho hắn một trận.

Hoàng-Dung đưa tay cản lại nói:

- Tài cán con còn thấp kém lắm, xông vào sẽ mất mạng mà thôi.

Quách-Phù tuy tuân lời mẹ nhưng trong bụng vẫn không tin vì nàng nhìn xem Tiểu-Long-Nữ và Dương-Qua đánh đỡ cũng không có ngọn đòn nào kỳ diệu lắm. Nhưng Quách-Phù đâu biết Tiểu-Long-Nữ và Dương-Qua tài nghệ hơn nàng có mười lần, trong lúc này cả hai đang vận dụng hết những ngón tuyệt kỷ trong Ngọc-nữ Tâm-kinh ra chống đỡ lại những đòn ác liệt của Kim-Luân.

Kim-Luân Pháp-Vương bị bao nhiêu bàn ghế do Dương-Qua đẩy ra ngổn ngang khắp phòng trở ngại, thấy hai người nhảy nhót thoăn thoắt né tránh như đôi chim cắt thì căm tức vô cùng. Ông bèn vận dụng công lực vào cặp chân xuống tấn như đôi chày sắt dẫm mạnh trên số bàn ghế gãy nghe răng rắc. Bước chân ông bước tới đâu, bàn ghế bị đạp nhẹp xuống thành những mảnh gỗ vụn. Không bao lâu tất cả số bàn ghế chỉ còn là đống gỗ vụn, lẫn lộn với số ly chén văng khắp nơi thành thử trong phòng không còn bừa bãi như trước, đấu trường trở nên dễ xoay trở hơn.

Kim-Luân Pháp-Vương bắt đầu trổ tài tấn công mãnh liệt. Tiểu-Long-Nữ và Dương-Qua buộc lòng phải đâu lưng vào nhau để chống đỡ vừa bảo vệ lẫn nhau.

Hai người bèn áp dụng phương pháp "song-vũ" ra đánh. Hễ Dương-Qua chém trên thì Tiểu-Long-Nữ tấn công phía dưới, hễ người này thủ thì người nọ tấn công ngay, theo đúng phương thức đã dạy trong đoạn chót của Ngọc-nữ Tâm-kinh mà hai người vừa luyện xong trong thời gian gần đây.

Kim-Luân Pháp-Vương thấy hai người bỗng nhiên đổi thế đánh bình tĩnh chiến đấu có quy củ không còn hấp tấp như trước mà những đòn đưa ra ngón nào cũng vô cùng ác liệt, nếu không khéo tránh né sẽ bị mất mạng như không. Xung quanh ông lúc nào cũng có một màn gươm vô cùng chặt chẽ phủ vây từ trên xuống dưới. Ông bèn nhảy sang bên trái tung cước đạp Tiểu-Long-Nữ một đòn rồi tung vòng đen định tròng vào cổ Dương-Qua giật tới.

Dương-Qua sụp đầu xuống phía trước, cầm gươm chĩa thẳng ra rồi lao mạnh về phía trước ngay vào bụng đối thủ.

Lưỡi gươm ghim ngay vào giữa ngực Kim-Luân, nhưng lạ quá hình bên trong có mang sẵn giáp sắt nên lưỡi gươm vừa chạm vào bị trượt qua một bên.

Thấy đâm không thủng được bụng địch thủ, Dương-Qua vội nhảy lùi ra phía sau để né đòn. Nhưng Kim-Luân đã hự lên một tiếng, tung cái vòng tròn ra xoay tít trên đầu chàng rồi từ từ ép xuống nặng như tảng đá ngàn cân, còn hai tay rảnh không thì Kim-Luân vung ra túm lấy Tiểu-Long-Nữ lẹ như chớp giật.

Cùng một lúc vừa tung vòng đè người, vừa phóng tay chộp đối phương đây là một thế đánh vô cùng thần diệu xưa nay chưa hề thấy.

Thấy cả hai đang lâm nguy, Hoàng-Dung thất kinh định nhảy xông vào tiếp chiến để giải thoát, nhưng Dương-Qua đã lẹ làng tránh sang một bên rồi quay ngược lưỡi gươm đâm thẳng vào lưng Kim Luân, khiến lão phải quay mình nhảy vọt qua một bên, không chộp được Tiểu-Long-Nữ. Đây là một thế kỳ áo "Vây Tề cứu Triệu" trong Ngọc-nữ Tâm-kinh, giúp Dương-Qua vừa tránh được đến mình, vừa giải thoát cho đồng bọn. Thế này phối hợp với thế "én hồng đớp mồi", lao mình là trên mặt đất để đâm địch, là một thế lợi hại của Toàn-Chân phái.

Bị đòn bất ngờ, Kim-Luân kêu "à" một tiếng, nhảy qua một bên, đưa mắt nhìn theo chiếc vòng đen đang xoay tít còn đang lơ lửng trên không trung.

Thấy chiếc vòng đen quay tít phát ra những tiếng vu vu ghê rợn ập ngay đầu mình, Dương-Qua không chút ngán sợ, đưa thế "bạch hồng kình thiên" (nghĩa là cầu vòng trắng vắt ngang trời) của Toàn-Chân phái ra phá.

Bị đánh bất ngờ, chiếc vòng sắc vẫn xoay tít đảo lại về hướng Kim-Luân, luôn luôn phát ra gió vù vù nhắm ngay đầu chủ chộp xuống.

Quách-Phù đứng ngoài nhìn thấy thích chí quá vỗ tay hoan hô om sòm.

Sở dĩ Kim-Luân Pháp-Vương quá chủ quan, tin tưởng vào tài nghệ của mình, đinh ninh một đòn này có thể hạ sát được cả hai địch thủ nên mới mạo hiểm quăng vũ khí ra đánh, chỉ còn hai tay không mà thôi. Không ngờ bị Dương-Qua đập lại quá mạnh, chiếc vòng phản chủ quay lại tấn công ông suýt nữa bị nguy biến tới thân.

Kim-Luân điên tiết, vận dụng công lực vào cách tay nắm chiếc vòng sắc ném mạnh một cái. Cái ném nào quá ư mãnh liệt, sức nặng ngót ngàn cân, khiến chiếc vòng quay tít mau quá, các viên đạn bên trong không, kịp phát ra tiếng kêu leng keng mà chỉ nghe rít "vút" một cái như chiếc đĩa bay.

Dương-Qua vội vàng đưa gươm đỡ bật lại một cái, nghe choeng thật lớn, cây gươm cong vòng như một cánh cung rơi ngay xuống đất.

Thấy đối phương đã mất vũ khí, Kim-Luân xông tới vung hai tay định bắt sống. Tiểu-Long-Nữ thấy Dương-Qua bị nguy, bèn xoay người lại vung ra một đường gươm. Nhát gươm bay không có vẻ hấp tấp, chỉ tà tà như chiếc hoa rơi, tư thái của nàng vô cùng khoáng đạt, đứng xa nhìn vào không khác nào một nàng tiên. Đây là một trong những tuyệt thế trong đời của Ngọc-nữ Tâm-kinh.

Hoàng-Dung cũng như Quách-Phù trông thấy phải cùng luôn miệng khen lớn:

- Tuyệt quá, đẹp quá, đường gươm kỳ ảo này thật tuyệt vời có một không hai.

Kim-Luân Pháp-Vương buộc lòng phải nắm thật chặt chiếc vòng sắc để chống đỡ lại đường gươm kỳ ảo lợi hại của Tiểu-Long-Nữ.

Dương-Qua nhân cơ hội này, cúi xuống lượm thanh gươm lên và thoát qua tai nạn.

Tuy thoát chết rồi, nhưng Dương-Qua vẫn không mất bình tĩnh chút nào. Chàng đứng yên suy nghĩ:

- Vừa rồi chúng ta chỉ đánh theo Ngọc-Nữ Tâm-Kinh kiếm pháp thành thử không thắng nổi nó. Bây giờ cần phải thay đổi chiến thuật bằng cách phối hợp giữa hai lối kiếm pháp. Ta thì đánh theo Toàn chân phái còn Cô-nương thì theo các thuật trong Ngọc-Nữ Tâm-Kinh, may ra mới áp đảo được lão Hòa-thượng này.

Suy nghĩ xong tự cho là hữu lý nên chàng gọi lớn:

- Cô nương, chúng mình mãi lo luyện tập mà quên hết việc quan trọng. Bây giờ tôi đã trực nhớ lại rồi. Từ lúc này cô tấn công theo thuật "lãng tích thiên nhai" đi nhé?

Tiểu-Long-Nữ đang băn khoăn chưa biết nên đối phó bằng cách nào, bỗng nghe Dương-Qua nhắc tới bốn chữ "lãng tích yên nhai" thì sực nhớ lại như ánh chớp trong đêm đông, nàng yên chí vung rộng đường kiếm đánh đúng theo phương thức đã dạy trong đoạn chót của Ngọc-Nữ Tâm-Kinh.

Còn Dương-Qua thì bình tĩnh áp dụng theo đúng kiếm pháp của Toàn-chân phái.

Lúc bấy giờ hai người mới bắt đầu thực hiện đúng đắn phép "song kiếm hợp bích". Hai đường gươm thi đua nhau múa loang loáng như điện nháng, lanh lẹ và nguy hiểm phi thường, khiến cho Kim-Luân Pháp-Vương phải đem hết sức lực đỡ gạt mà cũng không xuể, phải nhảy lùi ra sau mấy bước.

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 39 : Bày thạch trận vây khốn Kim-Luân.

Hai đường gươm xuống qua rất mạnh, nhưng nhờ có mã giáp sắt hộ thân nên mũi kiếm chỉ trượt qua đứt sơ sơ, tuy có ra máu nhưng không nguy hiểm mấy.

Mặc dù không bị trọng thương nhưng Kim-Luân Pháp-Vương cũng đã kinh hồn hoảng vía vì hai đường gươm ấy, lật đật nhào lộn ra sau tránh các đòn khác, đang dồn dập phóng mạnh vào người ông.

Dương-Qua thừa thế reo to:

- Cô nương, lúc bấy giờ nen đánh theo thế "nguyệt hạ hoa tiền" (dưới trăng trước hoa) thì hơn.

Miệng hò reo, tay vung gươm lia lịa chém trên đâm dưới vun vút, đứng ngoài nhìn vào không khác chi một luồng bạch tuyết đang bao vây cả thân hình Kim-Luân.

Lúc bấy giờ lưỡi gươm của Tiểu-Long-Nữ cũng rít lên xào xạt, xé gió ào ào lộng lên kết thành những đốm trắng linh động, không khác nào muôn ngàn đóa bạch hoa đang bay trước gió, có lúc uốn khúc như hàng đàn rắn bạc, làm cho Kim-Luân hoa cả mặt không còn biết nơi nào né tránh nữa. Ngay chỗ địch thủ đứng cũng không phân biệt được rõ ràng, thì làm sao còn chống cự cho được. Vì vậy e phải lùi ra sau múa vòng chống đỡ cầm chừng, thái độ vô cùng lúng túng.

Thấy địch thủ đang lùi dần để tìm một lối thoát, Dương-Qua lại thét lớn:

- Bây giờ nên theo thế "thanh ẩm tiểu chước" (vừa rót uống) để tấn công thì vừa.

Nói vừa dứt lời, chàng chống gươm như người đang say rượu còn Tiểu-Long-Nữ lại quay ngược mũi gươm lên tựa như người đang bưng ly rượu để uống vậy.

Kim-Luân trông thấy hai người vừa đánh vừa đỡ ăn khớp cùng nhau chặt chẽ không khác gì hai người máy, mà đường gươm nào cũng rất lợi hại, vừa kỳ ảo vừa biến hóa phi thường không thể nào chống đỡ cho kịp thì trong lòng đã hoảng sợ, nghĩ bụng:

- Trời đất mênh mông, anh tài phát sinh ngày càng lắm. Hai người còn trẻ măng mà kiếm pháp lợi hại dường này, thật bên Tây Tạng chưa có ai bì kịp. Không ngờ đất Trung-nguyên lại lắm nhân tài như thế. Xưa nay ta chẳng khác nào ếch ngồi đáy giếng, coi trời bằng vung, không chịu mở mắt nhìn hết anh hùng trên thiên hạ. Bây giờ sáng mắt ra thì kể cũng hơi muộn.

Thật ra, với tài nghệ của Kim-Luân Pháp-Vương, có thể gọi được là thiên hạ vô địch. Ngay như cả hai người Dương-Qua và Tiểu-Long-Nữ cùng hiệp sức chiến đấu cũng không thắng nổi. Tuy nhiên nhờ cả hai đã biết khéo léo áp dụng kiếm pháp "song kiếm hợp bích" của bà Lâm-Triều-Anh sáng chế nên ông mới chịu thua sút và tránh đỡ không kịp. Kiếm pháp này tưởng trên thế gian cũng chưa có môn phái nào cao siêu bằng.

Theo kiếm pháp này, cứ mỗi chiêu số phải có một đường thuận và một đường nghịch cho trai đánh gái đỡ, hoặc gái đánh trai đỡ ăn khớp lạ thường, đối phương không thể nào dự đoán trước được. Hơn nữa, mỗi thế đều có đặc một cái tên vô cùng bóng bẩy khả ái như "cầm sắc tương hòa" (sắc cầm cùng hòa tấu), "tùng hạ đối địch" (đánh cờ dưới bóng cây tùng), "tảo tuyết phanh trà" (quét tuyết mở trà) hay "tri biện điệu hạc" (giặc hạc bên hồ). Tên gọi càng êm tai thì lối đánh đỡ càng đẹp mắt bấy nhiêu.

Nguyên Lâm-Triều-Anh là một bậc thiên tài, âm thạo cả cầm kỳ thi họa, từ ngày bị thất tình vì Vương-Trùng-Dương trở về ẩn thân trong Cổ-mộ đài đã đem hết tài năng sở trường ra sáng chế nên pho võ công này. Thật ra, Lâm-Triều-Anh biên soạn và sáng chế ra không ngoài mục đích tiêu khiển để quên những nỗi buồn lắng đọng trong tâm tư. Chính bà cũng không ngờ rằng kiếm thuật này, mười năm sau đã giúp cho một đôi nam nữ thiếu niên của phái Cổ-mộ đã áp đảo được một cường địch lợi hại nhất võ lâm hiện thời.

Có một điểm đặc biệt là, cũng đồng thời song đấu, nhưng phải là một đôi nam nữ đang yêu nhau tha thiết, có thể sống chết cùng nhau thì cuộc đấu mới thêm phần lợi hại và tuyệt diệu, diễn tả được tất cả sự huyền diệu của cặp thư hùng. Lúc đầu vì chưa hiểu hết những sự thâm thúy của kiếm thuật, hai người tập luyện có vẻ hời hợt ít hứng thú, nhưng khi gặp một kình địch lợi hại, càng đẩy càng thấy những cái hay ho tuyệt diệu của các thế kiếm đã dạy.

Dương-Qua và Tiểu-Long-Nữ là đôi bạn tình mới bắt đầu yêu thương nhau tuy chưa chung chăn gối, nhưng hai tâm hồn như một, cùng hòa hợp một niềm rung cảm như nhau, không khác nào Lâm-Triều-Anh trong lúc đang cảm xúc ngồi soạn thảo ra Ngọc-nữ Tâm-kinh. Cho nên cả hai càng đấu càng nhớ thêm kiếm quyết, càng đánh càng thông suốt thêm những cái tinh diệu của đường gươm, không khác gì người xe tơ đã gỡ dần ra sợi rối.

Hoàng-Dung đứng ngoài nhìn xem trận đấu, vừa chú ý theo dõi thái độ của hai người. Bà thấy Tiểu-Long-Nữ đôi má đỏ hây hây, chốc chốc nhoẻn một nụ cười e lệ liếc sang. Dương-Qua thì mắt đưa mày liếc mỗi cử chỉ đều quan tâm tới dáng điệu và cảm xúc của người yêu, hình như lúc nào cũng muốn chứng tỏ cho cô nương mình biết rằng, dù cho biển cạn non mòn, gươm dao kề cổ cũng không quên nàng.

- Mặc dù chống cự với một cường địch vô cùng hung ác, nhưng hai người vẫn không hề nao núng và luôn luôn giữ một thái độ dịu dàng của một trai gái đang biển hạn non thề, bất chấp cả đến thiên hạ.

Hình ảnh của hai người khiến cho Hoàng-Dung chợt nhớ lại hồi nào mình cùng Quách-Tỉnh quen nhau, yêu nhau rồi cùng sánh nhau bao nhiêu năm trường trên cuộc đời gian nguy gió bụi. Bao nhiêu đó cũng đủ sưởi ấm được cõi lòng bà đang chua xót vì hoàn cảnh đang lâm nguy của thực tại.

Nhờ phúc chí tâm linh, Dương-Qua cùng Tiểu-Long-Nữ càng đấu càng nhớ ra những thế hay và cùng sáng chế ra lắm thế kỳ diệu ác liệt hơn nữa, khiến Kim-Luân Pháp-Vương đánh đỡ gần muốn đứt hơi.

Bị dồn vào thế bí, lúc bấy giờ Kim-Luân Pháp-Vương mới hối tiếc:

- Phải chi lúc nãy ta đừng dẫm nát các bàn ghế thì bây giờ đã có nơi ẩn nấp thuận tiện rồi. Thôi, không còn cách nào hơn là tìm cách nhảy theo cầu thang xuống phía dưới thoát nạn cho rồi.

Nghĩ vậy rồi ông lùi dần lại phía cầu thang. Khi tới nơi, ông vừa đánh vừa bước xuống từng bước một.

Dương-Qua và Tiểu-Long-Nữ tự nhiên được chiếm ưu thế từ trên đánh xuống. Cả hai cùng có một ý nghĩ:

- Chuyến này chúng ta đã có thể trục xuất mày ra khỏi khách sạn cho mà xem.

Hoàng-Dung đứng nhìn trận đấu, thấy Dương-Qua và Tiểu-Long-Nữ đã khéo phối hợp lối đánh "song kiếm hợp bích" trong ngọc nữ-tâm kinh đuổi được Kim-Luân Pháp-Vương thì trong lòng rất mừng. Nhưng khi thấy lão tìm cách rút lui dần thì bà ngại rằng, nếu để hắn thoát khỏi và tìm được cách đối phó thì nguy hiểm lắm. Phải chi hai người cố gắng diệt được hắn thì quân Mông-Cổ không khác nào rắn đã mất đầu đỡ được một gánh nặng cho anh hùng Trung-nguyên và đỡ được hậu họa.

Vì vậy nên bà vội nói vọng xuống cho hai người cùng nghe:

- Qua nhi, trừ cỏ phải bứng sạch gốc, không nên để sau này nó mọc lại thì nguy hiểm lắm nhé.

Dương-Qua cũng muốn làm theo lời dạy của Hoàng-Dung. Nhưng có một điều đáng tiếc là khi sáng chế ra kiếm pháp này, Bà Lâm-Triều-Anh chỉ có dụng ý phô trương những ngón lợi hại của võ công mình chứ không có ý sát hại ai. Vì vậy nên hai người chỉ có thể làm cho đối phương lúng túng chịu thua chứ không có những đòn hiểm yếu hạ sát được địch thủ.

Kim-Luân càng ngày càng bị áp lực của hai đường kiếm, vừa đánh vừa rút lui, trong bụng lo lắng không thoát khỏi chết. Gần tới đất, ông co gio đạp mạnh gãy luôn ba nấc thang rồi phóng luôn xuống đất.

Dương-Qua muốn nhảy theo nhưng không kịp.

Đặt chân xuống đất, Kim-Luân đưa chiếc vòng ra thủ thế phía trước rồi nói lớn:

- Hôm nay được nếm mùi võ công của Trung-nguyên, tôi rất lấy làm thán phục. Vậy xin liệt vị vui lòng cho biết môn kiếm kỳ diệu này mệnh danh là chi?

Dương-Qua vừa cười vừa đáp lại với giọng đùa cợt:

- Võ nghệ Trung-nguyên chỉ có hai môn võ tuyệt tác, ấy là "dùng bổng đánh chó" và "dùng gươm đâm lừa".

Kim-Luân nghe lạ tai quá, lập lại:

- Dùng gươm đâm lừa! Môn võ công có cái tên cũng ngồ ngộ nhỉ?

Dương-Qua ngước mặt cười to và nói luôn:

- Lừa trọc ấy chứ còn thứ nào nữa? Ngộ lắm phải không?

Lúc bấy giờ Kim-Luân mới biết ra là chàng mượn cớ để mắng mình, xem như đồ lừa đồ chó! Tụi này không bao nhiêu tuổi mà xấc láo thật!

Nghĩ đến đây, Kim-Luân giận điên lên mắng lớn:

- Súc sinh miệng còn hôi sữa. Một ngày gần đây ta sẽ cho mi nếm đòn của ta.

Nói xong ông tung vòng kêu leng keng rồi phi thân biết mất.

Dương-Qua có biết đâu rằng chỉ vì những phút bồng bột nóng nổi nói những câu châm biếm móc họng đến nỗi gây thành thù hận. Về sau biết bao nhiêu thù hận liên tiếp xảy ra nguyên do cũng vì hậu quả của lối đối xử vô lễ ngày hôm nay.

Thấy Kim-Luân Pháp-Vương chỉ nhún vai một cái đã bay đi mất dạng thì biết rằng muốn đuổi theo cũng không kịp nữa nên quay mình trở lại lên lầu.

Lúc bấy giờ Đạt-nhĩ-Ma đang ôm Hoắc-Đô ngồi trên lầu cạnh bàn ăn trông thấy Dương-Qua xách kiếm bước vào đứng ngay dậy hỏi nhỏ:

- Sao, tiểu huynh định hạ sát anh em tôi chăng?

Xưa nay Dương-Qua có tánh ưa đùa cợt ngạo nghễ người lớn hơn, chứ không có ác ý hay muốn sát hại người. Nay thấy tình cảnh hai người đang ở trong vòng nguy biến đáng thương hại thì lòng không nỡ, nên quay sang thưa cùng Hoàng-Dung:

- Thưa Quách Bá Mẫu, ý con muốn tha bọn này, bá mẫu có bằng lòng chăng?

Hoàng-Dung gật đầu tán thành.

Dương-Qua rút trong người ra một cái ống nhỏ đặt vào vết thương của Hoắc-Đô cho hút hết nọc ong ra rồi đưa thuốc bảo xoa vào chỗ ấy.

Hoắc-Đô và Đạt-nhĩ-Ma mừng quá vội dùng tiếng Mông-cổ tỏ lòng cám ơn. Sau đó, Hoắc-Đô vội lấy ra một gói thuốc bột trao cho Dương-Qua mà nói rằng:

- Vị tiền bối hôm nọ múa bút bị mấy mũi đinh độc của tôi chắc nay chưa hết. Xin cứ dùng thuốc này mà thoa tự nhiên khỏi ngay.

Xong đâu đấy, Đạt-nhĩ-Ma nghiêng mình tạ ơn Dương-Qua một lần nữa rồi cõng sư đệ lên lung bước ra khỏi khách sạn.

Quả nhiên y có sức khỏe như thần, tuy cõng một người to lớn trên lưng nhưng bước đi không thấy tỏ ý gì là nặng nhọc hay lán cấn.

Cả bọn võ sĩ Mông-cổ cũng lẳng lặng theo hai người bước xuống lầu.

Dương-Qua cầm gói thuốc giải độc trước mặt Hoàng-Dung rồi lễ phép thưa rằng:

- Kính thưa Quách Bá-mẫu, cháu xin gửi thuốc chữa cho Chu lão tiền bối và kính lời từ biệt. Cháu nhờ Bá-mẫu chuyển lời của cháu kính thăm Quách bá bá.

Hoàng-Dung hỏi:

- Cháu định đi đâu bây giờ?

Dương-Qua đáp nho nhỏ:

- Thưa bá mẫu, cháu định cùng Cô nương đây tìm nơi hoang vắng xa xôi ẩn dật, nguyện không bao giờ chung đụng với đời để làm hại đến thanh danh của bá mẫu.

Hoàng-Dung suy nghĩ:

- Dương-Qua không nệ tử sanh, liều mình giải cứu mẹ con ta thì ơn này rất trọng. Nay vì tuổi trẻ để cho chữ tình làm mê muội mai một cuộc đời anh kiệt. Ta lẽ nào làm ngơ mà không tìm cách giác ngộ được nó ra khỏi bến mê?

Nghĩ xong bà nói lớn:

- Đi một ngày một đi, làm chi mà tội thế cháu? Hôm nay là ngày đoàn tụ vui mừng của bác cháu và anh em trong gia đình. Vậy cháu hãy ráng ở lại với bác một vài hôm rồi sẽ đi không muộn.

Thấy Hoàng-Dung đã lùng lời lẽ thắm thiết để lưu mình, chẳng lẽ chối từ mãi, nên đành phải nhận lời.

Hoàng-Dung lấy tiền ra bồi thường cho khách sạn về chi phí ăn uống cùng những đồ đạc bàn ghế bị hư hao trong cuộc chiến đấu vừa qua, rồi bảo dọn phòng nơi quán trọ gần đó tạm nghỉ.

Cơm chiều vừa xong, bà sai Quách-Phù và hai anh em họ Võ mời Tiểu-Long-Nữ sang trò chuyện.

Khi Tiểu-Long-Nữ vừa tới bà tươi cười nói:

- Tôi có vật này, muốn tặng Cô em để lưu làm kỷ niệm của buổi gặp gỡ hôm nay.

Tiểu-Long-Nữ hỏi:

- Bà có lòng thương tặng món gì vậy?

Hoàng-Dung kéo Tiểu-Long-Nữ lại sát bên mình, lấy lược chải tóc cho nàng như một người em gái.

Mái tóc nhung của nàng xõa xuống ngang vai óng ánh như tơ trông vừa ngây thơ vừa ngộ nghĩnh.

Sau khi chải chuốt xong xuôi bới tóc gọn gàng, bà lấy một chiếc trâm bằng vàng đem cài lên mái tóc của nàng rồi nói:

- Chị muốn tặng cô em chiếc trâm này dùng để cài tóc nhé.

Chiếc trâm này là một món bảo vật quý giá vô cùng. Toàn thân giống như một cành hoa hòa chạm trổ rất tinh xảo, có những đóa hoa hàm tiêu dính ở đầu trâm, khiến ai mới trông qua cũng phải trầm trồ là mỹ thuật. Càng xem lâu càng thấy những cái quý giá trong nét chạm và lối trình bày.

Chiếc trâm này nguyên lai do phụ thân Bà là Hoàng-Dược-Sư, Chúa đảo Đào-Hoa, chuyên môn sưu tầm những bảo vật của thiên hạ, sau này lựa những viên ngọc thật quý và vàng ròng đem chạm thành chiếc trâm này cho con gái. Xem thế cũng đủ biết trâm này giá trị là dường nào.

Từ lúc nhỏ, Tiểu-Long-Nữ chỉ cài bằng nữ trang tầm thường, bằng sừng hoặc xương hoặc kết bằng cỏ. Nay được Hoàng-Dung tặng một chiếc trâm bằng vàng dát ngọc quý báu thì mừng lắm, cám ơn luôn mồm.

Sau khi cài trâm trên tóc nàng rồi, Hoàng-Dung thủ thỉ nói chuyện luôn mồm ra chiều tương đắc lắm.

Qua những câu chuyện hàn huyên, Hoàng-Dung nhận thấy Tiểu-Long-Nữ bản chất thành thật, thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy và cuộc đời chẳng có một tý kinh nghiệm nào hết. Mặt nàng tươi như hoa phù dung buổi sáng, thân hình óng ả kiều diễm, càng ngó càng đẹp.

Thấy nàng quá xinh, Hoàng-Dung suy nghĩ:

- Nếu như nàng cùng Dương-Qua không có nghĩa thầy trò, hai đứa lấy nhau quả xứng đôi vừa lứa, gái sắc trai tài, thế gian chắc không đôi nào sánh kịp.

Suy nghĩ xong bà dịu giọng hỏi nhỏ:

- Này cô em, quả em có thật tình yêu thương Dương-Qua hay chỉ nói đùa cho vừa lòng nó?

Tiểu-Long-Nữ cười tươi như hoa và nói:

- Dạ thương thật chứ. Nhưng tại sao bà lại hỏi như vậy, chẳng hay có điều gì can hệ chăng?

Nghe Tiểu-Long-Nữ trả lời một cách thẳng thắn và hồn nhiên. Hoàng-Dung bỗng chạnh lòng nhớ lại ngày còn niên thiếu. Hồi ấy bà và Quách-Tỉnh yêu thương nhau tha thiết, nhưng cha mình lại không chịu gả cho chàng, ngoài ra bọn Giang nam Thất quái, sư phụ của Quách-Tỉnh cũng không bằng, lòng họ xem nàng là yêu nữ và buộc Quách-Tỉnh phải xa lánh nhất thiết không cho gần mình. Cả hai người phải trải qua trăm cay ngàn đắng, vào tử ra sinh, nhưng rốt cuộc rồi cũng lấy nhau làm chồng vợ có con có cái cho tới ngày nay.

Liên hệ tới cặp này bà suy nghĩ:

- Dương-Qua và Tiểu-Long-Nữ đã thật tình yêu nhau tha thiết, có khác nào chúng mình xưa kia. Vậy thì mình nỡ nào đi chia rẽ họ cho đành lòng. Ngặt một nỗi là hai đứa đã mang danh thày trò quá rõ rệt trên dưới phân minh, nếu để xảy ra chuyện bướm ong bậy bạ sao khỏi mang tiếng loạn luân. Cả hai đều tài nghệ tuyệt vời, tương lai đầy hứa hẹn, nếu vương phải tội lỗi này thì cũng như chôn cả cuộc đời rồi còn mặt mũi nào nhìn anh hùng trong thiên hạ nữa.

Suy đi nghĩ lại xong, bất giác Bà chiếp miệng thở dài não ruột, rồi quay sang Tiểu-Long-Nữ nhỏ nhẹ nói:

- Long cô-nương này, em còn thiếu kinh nghiệm chưa hiểu việc đời mấy. Chị dù sao cũng đã từng trải hơn nhiều, tuy không tài chỉ hơn em nhưng cũng có thể thấy được nhiều chuyện lạ, cái hay thì theo, cái bậy nên tránh. Sở dĩ con người hơn được thú vật là vì biết điều phải trái và không để ái tình làm ngu muội. Nếu làm người mà mải mê theo tình ái quên cả lý chí thì thiên hạ cho là "thú tính" nghĩa là không hơn chi loài súc vật. Chị chỉ ngại rằng, nếu sau này em lấy Dương-Qua sẽ bị thiên hạ chê cười khinh khi và không ai thèm nhìn tới mặt hai người nữa đấy.

Tiểu-Long-Nữ nghe nói đã buồn lòng, nhưng vẫn cười gượng đáp:

- Thiên hạ nhìn hay không, đối với chúng tôi có can hại gì đâu.

Nghe nói như vậy, Hoàng-Dung suy nghĩ:

- Cô bé này không phải hạng muốn xem thường dư luận, nhưng có lẽ từ bé chí lớn, sống trong Cổ-mộ, không giao thiệp với xã hội bên ngoài, chỉ chuyên về võ nghệ nhưng không am hiểu mấy về lễ nghi, đạo đức. Cũng như ngày nay, tại các nhà trường, mấy thầy giáo chỉ chú trọng dạy viết chữ thật đẹp, làm văn cho thật hay, chứ mấy ai lưu tâm tới chuyện luân thường đạo lý, đào luyện đạo đức cho con em? Thật đáng ngán thay cho những hạng thày giáo chỉ nhắm về bát gạo nồi cơm. Nếu thiên hạ chỉ toàn những hạng như thế này thì xã hội còn nhiều sự đảo lộn xấu xa hơn nữa.

Suy nghĩ xong bà nói tiếp:

- Cô em không cần tới họ đã đành, nhưng còn Dương-Qua chẳng lẽ cũng như thế sao?

Tiểu-Long-Nữ đáp:

- Xin bà chị chớ lo điều đó. Nay mai hai chúng em sẽ trở về Cổ-mộ, sống ẩn tích mai danh, xa rời xã hội loài người, có cần gặp gỡ hay tiếp xúc với ai nữa đâu?

Hoàng-Dung giả bộ ngơ ngác hỏi tiếp:

- Thế ra một khi đã về Cổ-mộ rồi cả hai sẽ vĩnh viễn ly khai với xã hội loài người hay sao?

Tiểu-Long-Nữ quả quyết đáp:

- Dạ đúng như vậy. Bà chị cũng thừa hiểu trong xã hội không biết bao nhiêu là hạng người điêu ngoa xảo trá, tiếp xúc với họ chỉ thêm bực mình mà thôi.

Nàng vừa nói vừa lăng xăng đi đi lại lại trong phòng hình như để cởi mở bớt những nỗi bực trí đang tràn ngập trong tâm hồn.

Hoàng-Dung bắt đầu gợi lại câu chuyện:

Dương-Qua sống cuộc đời phiêu bạt từ thuở bé, nay đây mai đó không khác nào cánh chim trời tung mây lướt gió.

Tiểu-Long-Nữ cười xòa đáp với giọng đầy tin tưởng:

- Bà chị không cần phải lo nghĩ về điểm đó. Một khi đã có em bên cạnh tự nhiên anh ấy sẽ thấy yêu đời, quên cả bao nhiêu cảnh xảo trá phiền phức bên ngoài ngay. Chừng ấy em chắc chắn anh ấy không buồn chán đâu.

Hoàng-Dung thở dài than nhỏ:

- Lòng người đâu phải sắt đá mà cứ mãi mãi trơ trơ đến muôn đời không thay đổi. Chị ngại rằng trong thời gian ba năm Dương-Qua chưa buồn chán, nhưng sau đó khi cuộc đời vắng lạnh trong Cổ-mộ đã thấy buồn tẻ, thế nào y cũng nhớ lại những cảnh phồn hoa vui vẻ ngoài đời, chừng ấy, em có đủ sức giữ chân y nữa hay không? Chừng ấy, em sẽ đóng vai một góa phụ sống với chuỗi ngày vò võ một thân một bóng trong rừng sâu, và trong những phút cô độc, suy nghĩ lại những lời hôm nay, em sẽ thấy chị là kẻ sành đời, có tài đoán trước được mọi việc. Chừng ấy dù có hối tiếc thì cũng đã muộn rồi. Chi bằng ngay bây giờ, khi bàn tay chưa nhúng phải chàm, em nên đắn đo suy nghĩ lại trước khi hành động.

Nói tới đây bà đổi lại giọng thân mật hơn trước:

- Tục ngữ có nói: "Đàn ông năm bảy tấm lòng, lòng yêu thương vợ, lòng yêu người ngoài". Một khi hoa đã biết bướm thì dù ai có mãnh lực gì đi nữa cũng không thể nào giữ mãi không cho bướm rời hoa đâu nhé.

Nghe Hoàng-Dung nói, dần dần thấy cũng có lý. Tiểu-Long-Nữ đứng lặng yên cắn môi suy nghĩ, bao nhiêu ý nghĩ trái ngược nhau đã bắt đầu tranh chấp và gây sóng gió trong lòng nàng. Một chập sau nàng mới nói:

- Vậy để em tìm cách dò xét ý tứ Dương-Qua xem sao?

Nói xong nàng lẳng lặng bước lanh ra ngoài.

Hoàng-Dung đưa mắt nhìn theo miệng lẩm bẩm khen vùi:

- Con người như nàng quả nhiên xinh đẹp, mặt như hoa phù dung, thân hình mảnh mai như cành liễu yếu. Dáng bước đi không khác gì nàng tiên đang lả lướt bên cánh hoa soi hình dưới bóng nguyệt! Một con người dễ thương như thế này đáng lẽ phải được hưởng chữ hạnh phúc hoàn toàn mới phải. Vì chữ luân lý và lễ nghĩa ta buộc lòng xen vào, làm phá vỡ cuộc tình duyên của hai đứa thật cũng quá tội. Nhưng thôi, thà rằng cực lòng trước để khỏi đau lòng sau.

Nghĩ tới đây bà bỗng chợt nghĩ:

- Tánh nàng thiệt tình như đếm, không biết sẽ dùng lời lẽ chi để dò ý Dương-Qua đây? Ta phải rình nghe cho biết.

Nghĩ xong bà rón rén bước lại cạnh phòng Dương-Qua, áp tai vào vách tường nghe thử.

Lúc ấy phía trong, Tiểu-Long-Nữ đã hỏi Dương-Qua:

- Này Qua nhi, hiện tôi cũng nhận rằng cậu hết tình yêu thương tôi. Nhưng một thời gian qua, mối tình này sẽ chán chê rồi phai lạt đi, chừng ấy cậu sẽ nghĩ sao nhỉ?

Bỗng nhiên thấy Cô nương có ý nghĩ lạ đời như vậy, Dương-Qua lạ lùng vô cùng không biết nguyên nhân vì đâu, nhưng cũng đáp:

- Tại sao cô nương bỗng cố ý tưởng khác đời như thế? Hễ yêu nhau thì yêu mãi cho tới khi đầu bạc răng long, chứ đâu có chuyện nửa chừng rồi chán nản được.

Câu trả lời này khiến cho Tiểu-Long-Nữ cảm động đến ứa lệ, nàng bồi hồi đứng lặng một hồi rồi nói tiếp:

- Được vậy thì có gì hơn. Tôi chỉ sợ nói thì dễ nhưng không giữ được thủy chung đó thôi.

Nói xong nàng rút chiếc trâm trên đầu xuống móc lên tường rồi bảo nhỏ:

- Khuya rồi, chúng ta ngủ đi, sáng sẽ hay.

Dương-Qua nói:

- Vừa rồi nghe Quách bá-mẫu nói đêm nay Cô nương cùng ngủ chung phòng với mẹ con bà, còn tôi ngủ với anh em nhà họ Võ, thế sao cô nương lại về đây để ngủ?

Tiểu-Long-Nữ gay gắt đáp:

- Mặc kệ! Ai lại để cho hai người đàn ông lạ hoắc ngủ chung trong phòng cậu cho được. Ta cứ ngủ đây chứ không đi đâu hết có sao không?

Nàng nói xong thổi ngay ngọn đèn.

- Té ra Triệu-chí-Kính đã nói đúng sự thật. Thì ra hai thầy trò hắn đã bậy bạ cùng nhau lâu rồi. Thôi, trai gái nó ngủ chung phòng nói chuyện nhảm nhí ta hơi đâu nghe ngóng cho mệt và mất thể giá.

Nghĩ xong bà định cất bước đi nơi khác. Nhưng bỗng nhiên trong phòng có tiếng mở cửa kêu kẹt một cái. Bà liền nán lại lắng tai nghe nữa.

Tiếng kẹt đó là do Dương-Qua mở cửa cho gió thổi vào trong phòng. ánh trăng từ cánh cửa lùa vào trong phòng trông rõ hết mọi vật. Bà định thần nhìn lại thì thấy Tiểu-Long-Nữ nằm trên chiếc võng treo tận nóc nhà, còn Dương-Qua thì nằm trên giường kê phía đàng xa. Té ra mặc dù hai người cùng ngủ một phòng nhưng vẫn phân biệt và giữ đúng lễ nghi khuôn phép, không có điều gì tà dạy.

Hoàng-Dung làm thinh, chấp tay sau đích thủng thẳng bước đi ra ngoài, trong lòng phân vân quyết làm sao cho đúng tâm trạng và hành động của cặp này.

Khi bà về tới phòng ngủ bỗng gặp Quách-Phù và hai anh em họ Võ cũng vừa đi lại.

Bà bèn bảo nhỏ:

- Tu-Văn, Đôn-Nho, hai con nên về phòng mà ngủ, không cần phải tới phòng Dương-Qua nữa nhé.

Hai anh em họ Võ cuối đầu tuân lệnh.

Quách-Phù ngạc nhiên hỏi:

- Vì sao thế mẫu thân?

Hoàng-Dung chỉ trả lời suông một câu:

- Việc không can hệ tới con, chớ hỏi vô ích.

Võ-Tu-Văn đứng gần hơn, nghe nói chế nhạo với một giọng vừa pha trò vừa mỉa mai.

- Có gì mà không hiểu? Bọn này trò không ra trò, thầy chẳng nên thầy, lúc nào cũng có thể ăn chung ngủ lộn, có khác chi đồ súc vật đâu?

Hoàng-Dung hừ một tiếng rồi nghiêm giọng bảo nhỏ:

- Ta cấm không được có những lời lẽ như thế nữa.

Võ-Đôn-Nho nói thêm:

- Nước này mà Sư mẫu còn bên chúng làm chi nữa. Đối với những hạng người vô liêm sỉ, thiếu luân thường như chúng nó, con không thèm trò chuyện cho uổng miệng.

Quách-Phù gạt ngang hỏi:

- Thôi đừng nói nữa. Dù sao họ cũng có công cứu mạng chúng ta. Phải xem họ như những người có ơn lớn và cư xử cho phải phép. Còn chuyện riêng của họ làm sao mặc kệ, chúng ta không nên đinh dự vào mà phê phán. Để có trời đất chừng trị.

Võ-Tu-Văn bỉu bôi ra vẻ anh hùng:

- Ân nghĩa làm chi với bọn người vô luân. Thà để tôi chết về tay của Pháp-Vương Mông-Cổ còn hơn bắt phải chịu ơn cái thằng súc sinh ấy.

Hoàng-Dung không bằng lòng bảo nhỏ:

- Thôi chớ khá lắm lời, hãy đi ngủ cho rồi.

Câu chuyện đối đáp giữa Hoàng-Dung và ba người, trong phòng Dương-Qua và Tiểu-Long-Nữ nghe rõ mồn một, không sót một câu.

Ngay từ lúc nhỏ, Dương-Qua và hai anh em họ Võ đã đối với nhau không hạp ý, và lúc nào chàng cũng xem hai người như hạng tiểu nhân dưới tay, nên tuy nghe nói xấu mình, vẫn không thèm chấp nhặt. Nhưng Tiểu-Long-Nữ thì trái lại. Nàng luôn luôn thắc mắc tự hỏi:

- Tại sao ta cùng Dương-Qua yêu nhau mà họ lại tỏ ý khinh miệt và oán ghét như thế ấy. Tại sao họ dám bảo chúng ta như đồ súc vật?

Nàng suy nghĩ mãi không tìm ra nguyên nhân, và đêm ấy cứ chập chờn mãi không ngủ được.

Đêm càng khuya, tư bề càng tịch mịch. Tiếng dế dun kêu ri ri hòa lẫn với tiếng gió đưa cành lá ngoài hè thành một âm thanh não ruột, càng nghe càng buồn thêm. Tiểu-Long-Nữ trằn trọc mãi không ngủ được, bèn gọi Dương-Qua dậy nói:

- Qua-nhi, ta có câu chuyện muốn hỏi ý kiến cậu. Nên thành thực trả lời cho ta nhé. Đừng nói dối mà đắc tội đấy.

Đang ngủ mơ màng bị đánh thức dậy, Dương-Qua vội hỏi ngay:

- Chuyện gì Cô nương cứ hỏi, không khi nào tôi có điều gì man trá đối với cô nương đâu.

(Xin lỗi bạn đọc, truyện bị thiếu 2 trang)

Nghĩ tới đây, chàng đau đớn quá ngất xỉu trên đất.

Một chặp sau, chợt tỉnh dậy, tâm thần thác loạn, Dương-Qua lồng lộng như ác thú bị thương, xô cửa ầm ầm, miệng kêu thảm thiết:

- Cô nương, cô nương ơi!

Vừa nghe kêu, tiểu nhị vội chạy vào hỏi tự sự. Vừa trông thấy tên Tiểu-nhị, Dương-Qua mếu máo hỏi:

- Cô gái áo trắng đã đi ra từ lúc nào và đi ngõ nào rồi. Chú có biết xin làm ơn chỉ dùm.

Tiểu-nhị nào biết ất giáp chi, chỉ đứng lặng thinh, không đáp được.

Lòng rối như tơ vò, Dương-Qua nghĩ bụng:

- Nếu chuyến này không tìm ra thì ngàn đời xa cách mãi.

Nghĩ xong, chàng đi xâm xui ra chuồng ngựa dắt ngựa ra, leo vội lên lưng phóng càn về hướng Bắc.

Khi ấy Quách-Phù vừa thức dậy từ trong bước ra, thấy Dương-Qua phi ngựa chạy đi vội gọi lớn:

- Dương ca ca, đi đâu sớm vậy. Có chuyện gì gấp rút thế?

Dương-Qua không thèm nghe cũng không buồn đáp lại, giơ roi cho ngựa phi mau như gió thổi, chỉ trong nháy mắt đã vượt ra ngoài hai mươi dặm rồi.

Ngồi trên mình ngựa chạy bất kể phương hướng. Dương-Qua kêu gọi như một người tuyệt vọng:

- Cô nương ơi, cô nương! Cô nương đi ngã nào rồi?

Thấy bóng nữ lang nào mặc áo trắng chàng cũng tưởng là Tiểu-Long-Nữ vội vàng chạy tới ngay, khi tới gần nhìn lại không phải. Rồi chàng lại lủi thủi bỏ đi nơi khác.

Lầm lũi chạy thêm một quãng nữa bỗng gặp Kim-Luân Pháp-Vương và bọn tùy tùng đang cỡi ngựa đi về hướng Tây.

Kim-Luân Pháp-Vương nhìn thấy Dương-Qua một người một ngựa chạy như điên không có định hướng, thì ngạc nhiên lắm, vội vàng quay ngựa chạy qua chận đầu.

Trong khi ấy Dương-Qua không một tấc sắc trong tay, lại gặp đại cường địch đón đầu, thật vô cùng nguy hiểm. Tuy nhiên vì đang bận tâm tìm kiếm Tiểu-Long-Nữ không có, chàng bất chấp mọi việc nào khác, và dù thần chết đứng kề bên lưng cũng không thèm đếm xỉa.

Thấy Kim-Luân Pháp-Vương giục ngựa lại chận đường, Dương-Qua đã không lẩn tránh lại còn dừng lại hỏi lớn:

- Này, ông có gặp Sư phụ tôi đi về hướng này hay không?

Kim-Luân Pháp-Vương thấy Dương-Qua không lánh mặt mình đã cho một chuyện lạ lùng, nay thấy chàng hỏi như vậy lại càng ngạc nhiên hơn nữa, bèn đáp lại:

- Không gặp. Vậy cô ấy không đi cùng lối với người sao?

Vốn là tay thông minh xuất chúng, nên sau mấy câu nói chuyện, Dương-Qua chợt tỉnh ngộ và nhận xét ngay cục diện đã xảy ra như thế nào rồi. Chàng bỗng nghĩ bụng:

- Mình tới đây, trong tay không có binh khí tùy thân, tại sao còn đứng lại nộp mạng cho nó?

Kim-Luân Pháp-Vương thì mừng rỡ nghĩ:

- Nó tới đây một mình, ta không thừa dịp bắt cổ đi, còn chờ khi nào nữa chứ?

Ông bèn xông tới, đưa tay chộp lấy. Ngay khi đó Dương-Qua đã cho ngựa bước lùi ra sau nên chộp không trúng.

Kim-Luân bèn thúc ngựa tiến thêm lên cố bắt cho được.

Lời tục có nói "đường dài biết sức ngựa, nước loạn biết trung thần! Trong lúc này mới biết con ngựa ốm của Dương-Qua là một thần mã.

Vừa thấy Kim-Luân phi tới trước thì nó đã tung bốn vó nhảy vụt qua đầu rồi phi thân phóng xa gần mười trượng mới đặt chân xuống đất lao vút tới như tên bắn. Kim-Luân tuy có ngựa cũng khá hay nhưng cũng không tài nào đuổi theo kịp nữa.

Chạy theo một chặp nhưng không theo kịp, Kim-Luân nghĩ bụng:

- Thầy trò nó đã thất lạc rã rời, ta cần chi phải đuổi theo cho nhọc sức.

Bỗng nhiên ông nghĩ thêm chuyện khác:

- Hắn còn đây, có lẽ mẹ con Hoàng Bang-Chủ cũng còn lẩn quẩn đâu đây chứ chưa đi xa. Chi bằng ta quay lại đi tìm cầu may xem sao.

Nghĩ xong, ông dẫn bọn tùy tùng quay trở lại.

Dương-Qua phi ngựa như bay, chạy hơn hai chục dặm mà không thấy bóng dáng Tiểu-Long-Nữ đâu hết.

Trong lòng nôn nóng hơn lửa đốt, chàng phi ngựa chạy tán loạn, mấy lần suýt té nhà xuống ngựa.

Chàng ôm chặt lấy cổ ngựa, miệng la lớn như nói trong mơ:

- Cô nương ơi, nỡ lòng nào bỏ tôi cho đành? Tôi đã làm gì nên tội mà Cô nương lại đối xử tình tệ như vậy, Cô nương ơi?

Tiếng chàng kêu thật bi ai tha thiết, miệng thì la mà hai hàng nước mắt chảy ra không ngớt.

La một chập mệt quá, chàng ôm cổ ngựa suy nghĩ:

- Hay là tại mình bảo nếu chán Cổ-mộ thì cùng ra ngoài, nên Cô nương cho mình là người không chung thủy nên tức bực ra đi lần nữa chăng?

Nghĩ vậy, chàng lau nước mắt rồi tự nhủ:

- Cô nương nhất định trở về Cổ-mộ chứ không đâu xa. Ta cứ trở về tự nhiên sẽ gặp ngay.

Nghĩ xong chàng giục ngựa nhắm hướng về Cổ-mộ chạy như gió cuốn.

Đường về phương Bắc xa cách nghìn trùng, nhưng trong lòng nôn nóng gặp lại người yêu, nên Dương-Qua bền chí cho ngựa chạy mãi mà không thấy ngán.

Để đỡ buồn, chàng ngồi trên mình ngựa hát nghêu ngao.

Vừa đi vừa hát, không bao lâu đã đúng ngọ. Lúc bấy giờ trong bụng Dương-Qua đã thấy đói. Chàng dừng ngựa ghé lại cái quán nhỏ bên đường mua vài tô mì ăn đỡ dạ.

Khi ăn xong, thò tay vào túi thấy không còn một xu nhỏ. Dương-Qua vừa lo vừa thẹn không biết tính làm sao đây. Cuối cùng chàng đánh liều chờ khi chủ tiệm vô ý nhảy phóc lên ngựa chạy như tên bắn.

Vừa chạy chàng vừa nghe văng vẳng tiếng chủ tiệm chưởi bới om cả lên. Dương-Qua nghĩ thầm:

- Họ chửi cũng đáng lắm.

Chạy mãi mặt trời đã xế bóng và ánh tà dương cũng dần dần sắp tắt. Phía trước mặt là một khu rừng cây cối rậm rạp, có vẻ vắng vẻ hoang vu.

Khi đến cạnh ven rừng, bỗng nhiên từ bên trong có tiếng bình khí chạm nhau leng keng rang rảng, xen vào là tiếng quát tháo om sòm.

Lạ quá, chàng vội giục ngựa tới gần, lắng tai nghe ngóng.

Rõ ràng là tiếng nói của Quách-Phù và Kim-Luân Pháp-Vương.

Dương-Qua đoán chắc thế nào cũng có việc không lành xảy ra cho mẹ con Hoàng-Dung rồi.

Chàng liền buộc ngựa vào gốc cây, len lén bước vào, nhón gót nghểnh cổ nhìn vào. Cách đó hơn mười trượng, ngay phía trước mặt dưới mấy cây cổ thụ cành lá sum suê, hai mẹ con Hoàng-Dung và anh em họ Võ đang chống đối cùng Kim-Luân Pháp-Vương, cạnh nhiều đống đá chập chồng lởm chởm.

Hai anh em họ Võ đã bị thương, mình mẩy đầm đìa cả máu. Hoàng-Dung đầu tóc bơ phờ, quần áo, xốc xếch, tinh thần bối rối trông thấy rõ ràng.

Dương-Qua nghĩ bụng:

- Nếu cục diện kéo dài, bốn người này nếu không bị bắt sống, nhất định cũng phải tán mạng dưới chiếc vòng ác nghiệt của Kim-Luân.

Chàng nghĩ thêm:

- Không có cô-nương, nếu một mình ta nhảy vào chẳng những không đối lại hắn mà nhiều khi còn phải nguy hiểm là khác nữa. Tuy nhiên, trông thấy người quen bị nạn thì cũng không thể làm ngơ cho được.

Trong lúc đang phân vân suy nghĩ chưa biết nên làm gì, thì Kim-Luân đã vung vòng sắt tấn công kịch liệt.

Hoàng-Dung không dám chống đỡ, vội nhảy lùi ra trốn sau một đống đá gần bên.

Dương-Qua nhìn thấy lấy làm lạ vô cùng. Anh chú ý thử Quách-Phù và hai anh em họ Võ làm gì. Khi thấy Kim-Luân Pháp-Vương tung vòng ra đánh, thì cả ba ngồi xuống nấp vào các mô đá chập chùng nhấp nhô.

Bọn Đạt-nhĩ-Ma cùng đứng vây vòng tròn xung quanh đó chứ không chịu xông vào để bắt.

Cứ nhìn thần sắc Quách-Phù và hai anh em họ Võ thì thấy cả ba đều có vẻ tin tưởng và yên chí ở phía sau các đống đá ấy lắm.

Dương-Qua ngạc nhiên vô cùng. Chàng không thể tưởng tượng được những chồng đá tầm thường như thế kia mà lại có phép mầu nhiệm ngăn cản Kim-Luân Pháp-Vương không xâm phạm tới bọn Hoàng-Dung và khiến Bà đã chuyển nguy thành yên.

Suy nghĩ một chập chàng bỗng chợt nhớ ra:

- à, hay là "loạn thạch trận" đây chăng? Như vậy sao anh em họ Võ không nhân cơ hội nầy tẩu thoát đi cho rồi?

Kim-Luân Pháp-Vương cứ đánh mãi nhưng không hạ được hai mẹ con Hoàng-Dung. Còn bao nhiêu bọn võ sĩ Mông-Cổ hễ tên nào hại dân đều bị Quách-Phù đâm chết hết cả. Kim-Luân đoán chắc trong đống đá ngổn ngang này thế nào cũng có điều huyền bí hay Hoàng-Dung đã bố trí mưu thần chước quỷ chi đây. Muốn khỏi lầm mẹo địch, cần phải thận trọng xem xét cho kỹ rồi mới hành động được, lần này làm sao cũng phải tóm cổ cả bọn cho hết mới xong.

Mặc dù không xông ra trận địa, nhưng Kim-Luân vốn là một kẻ nhiều mưu lược, ý nghĩ rằng:

- Mặc dù chúng có chỗ lánh thân, nhưng thân chung không khác gì chim lòng cá chậu, không thể nào trốn thoát đi đâu cho được. Mình cứ bình tĩnh xem xét thật kỹ để hiểu rõ những bí ẩn của nơi này rồi tấn công luôn.

Nghĩ xong cho là đắc sách, Kim-Luân ra lệnh cho đồng bọn rút lui ra sau, và chính bản thân ông cũng lùi xa trận địa mấy trượng.

Bọn Đạt-Nhĩ-Ma và tu võ sĩ Mông-Cổ lùi ra xa hơn, đứng phía sau Pháp-Vương chờ lệnh.

Đứng ngoài nhìn vào Kim-Luân Pháp-Vương suy nghĩ:

- Nếu đây là một trận đồ thì nhất định phải bố trí theo hình "thái cực" biến hóa theo "lưỡng nghi" và "ngũ hành bát quái". Chi bằng ta áp dụng theo phương thức "ngũ hành tương khắc" để phá thì nhất định phải thành công.

Suy nghĩ lại một chặp ông nhìn lại lần nữa, xem hai bên tả chi và hữu dực lại thấy biến hóa khác rồi, thật là kỳ khu, nên ông không biết tính sau cứ đứng nhìn trân như tượng gỗ.

Dương-Qua đứng đàng xa chú mục nhìn theo, thấy Kim-Luân đứng đờ người suy nghĩ. Bỗng nhiên trong ánh mắt của ông lóe lên luồng hào quang sáng rực, hình như ông vừa tìm được cách phá trận này rồi.

Bỗng nhiên Kim-Luân nhún mình phi thân vào giữa trận, đưa tay chộp Quách-Phù kéo ra.

Hoàng-Dung và anh em họ võ kinh hồn hoảng vía, vì ai ai cũng đinh ninh Quách-Phù thế nào cũng bị hạ. Muốn xông ra cứu thì nguy hiểm tới tánh mạng ngay, còn làm ngơ không cứu, thì tình mẫu tử phải cắt đứt phen này.

Thật ra trong lúc chưa nghĩ được cách phá trận, Kim-Luân bèn giả bộ đứng đờ người ra nhìn sững, mục đích đánh lừa mọi người.

Quách-Phù tuổi trẻ thiếu kinh nghiệm, thấy y đứng nhìn sững, tưởng không nguy hiểm nên mon men ra ngoài bìa trận để theo dõi hành động ra sao. Bất ngờ Kim-Luân triển thi khinh công tối thượng, phóng mình lại bắt nàng không thể nào thoát khỏi. Nắm được Quách-Phù rồi. Kim-Luân đã điểm huyệt ngay. Nhưng y dụng ý điểm vào huyệt khiến cho nàng bị tê liệt cả người nhưng vẫn biết đau đớn và kêu la, khiến cho Hoàng-Dung nóng lòng xông ra cho y bắt luôn thể.

Quả nhiên nghe tiếng con gái la khóc, Hoàng-Dung quá đau lòng không thể nào dằn được, bèn phi thân nhảy ra khỏi trận, ôm lấy Quách-Phù, định nhảy trở vào trận đá.

Mừng quá, Kim-Luân lập tức tung vòng sắt ra đập tới. Lúc ấy Dương-Qua đứng ngoài theo dõi thấy Hoàng-Dung vì nóng lòng mắc kế Kim-Luân, trong bụng đã hoảng hốt muốn la lên nhưng không còn kịp nữa. Khi Hoàng-Dung vừa dợm chân nhảy vào thì chiếc vòng sắt đã tung lên và đập tới như núi sập. Dương-Qua lập tức phi thân tới ngay vừa lúc chiếc vòng đánh xuống.

Vì trong tay không có sẵn võ khí, Dương-Qua bèn cúi xuống bê một tảng đá to tướng, sức nặng non ngàn cân, ném mạnh vào chiếc vòng, nghe choang một tiếng điếc ráy. Chiếc vòng bị táng quá mạnh, sút khỏi tay Kim-Luân rơi xuống đất, Hoàng-Dung thừa cơ hội bồng Quách-Phù nhảy vào trận loạn thạch.

Kim-Luân thấy Dương-Qua lại xuất hiện, bất ngờ đánh rơi vũ khí mình thì nổi giận, nhưng mỉm cười bảo:

- Hay lắm, hôm nay lại gặp chú mi. Như thế khỏi nhọc công tìm đâu xa nữa.

Thật ra lần này tay không xông vào vòng chiến, chẳng qua cũng vì lòng nghĩa hiệp, chứ thật tình Dương-Qua đâu có muốn, và chàng cũng chẳng thiết một việc gì hết. Khi đã đứng vào thạch trận, chàng bỗng giật mình suy nghĩ:

- Phen này lâm trận, tức nhiên đã đem thân vào cõi chết. Thôi còn hy vọng nào được tái ngộ cùng Cô nương nữa.

Thấy Dương-Qua đột nhiên cứu được hai mẹ con mình, Hoàng-Dung chép miệng than nhỏ:

- Qua con, đây là lần thứ mấy, con đã liều thân cứu mạng của ta và em Phù?

Dương-Qua thưa:

- Sao bá mẫu lại nói chỉ lời đó. Chẳng qua là bổn phận của con đó thôi, có gì mà ơn đức. Nếu gặp bá mẫu bi nạn mà làm ngơ thì còn đâu là khí tiết của con người hiệp nghĩa.

Hoàng-Dung than tiếp:

- Sao con giàu lòng hiệp nghĩa thế. Mà sao cha con thì... trái lại? Nói tới đây bà bỗng nín bặt.

Dương-Qua cảm động hỏi qua giọng nói run run:

- Thưa bá mẫu, lúc sanh tiền cha con như thế nào? Người có làm hại những ai, và hại nhiều lắm không?

Hoàng-Dung lắc đầu nói:

- Bảo hai nhiều thì khong đúng đâu, nếu con thích nghe bác sẽ kể lại cho.

Nhưng nói tới đây, bà bỗng rú lên thật lớn:

- Con xem chừng, hãy nấp vào đống đá, lão Hòa-thượng Kim-Luân đang đánh lén kia kìa.

Dương-Qua nghe theo ngồi ngay xuống phía sau một đống đá.

Ngồi yên, chàng nhìn lại trận đá thấy huyền bí lạ lùng, trong lòng hết sức thán phục bèn hỏi Hoàng-Dung:

- Bá mẫu, như thế này thì tài trí của bá-mẫu thật thiên hạ ít kẻ dám bì.

Hoàng-Dung chỉ mỉm cười không đáp, bà cúi xuống giải huyệt cho Quách-Phù. Được mẹ giải huyệt xong, Quách-Phù nói:

- Anh biết không? Trận pháp này mẹ em học của ông ngoại em đấy anh có nghe nói về ông ngoại của em chưa?

Khi còn ở Đào-Hoa đảo, Dương-Qua cũng có biết qua Hoàng Dược-sư và chứng kiến tài lực siêu phàm của ông. Ngặt vì lúc ấy hãy còn quá nhỏ nên chàng biết và nhớ chuyện chi. Bây giờ nghe hỏi chàng có vẻ tiếc rẻ nói nhỏ:

- Đời tôi chỉ mong được gặp lại lão trượng. Nếu không thật cũng uổng một đời thanh niên.

Chàng nói vừa dứt lời, thì Kim-Luân Pháp-Vương đã phóng tới, vung vòng sắt tấn công mãnh liệt.

Trong tay không có sẵn binh khí, Dương-Qua vội mượn cây gậy trúc "đả cẩu của Hoàng-Dung để ứng chiến.

Chàng áp dụng theo phép "loạn đả tàn vân" múa tít cây gậy trúc như gió táp mưa sa khắp người như có một đám tường vân bao phủ.

Hai người đang đánh nhau độ vài chục hiệp bỗng nhiên đá chạy cát bay ầm ầm như động đất. Kim-Luân sợ hãi vội vàng tung mình nhảy ra khỏi trận.

Hoàng-Dung bảo con gái và hai anh em họ Võ khiên đá bày lại trận, rồi gọi Dương-Qua lại gần hỏi nhỏ:

- Ai đã dạy con phép đánh theo thuật đả cẩu bổng đấy?

Dương-Qua bèn đem câu chuyện gặp gỡ Hồng-Thất-Công trên Hoa-Sơn, khi chứng kiến cuộc tranh tài giữa Tây độc và Bắc-Cái, được hai người truyền dạy võ nghệ như thế nào thảy đều tường thuật tỷ mỷ không thiếu một chi tiêts, duy có chuyện Hồng-Thất-Công đã chết chàng chưa thuật lại vì sợ khiến bà đau lòng trong lúc này có hại cho sức khỏe.

Nghe thuật lại mọi việc, Hoàng-Dung thở dài nói:

- Được như con thật là thế gian hãn hữu. Trên đời có mấy ai gặp những trường hợp may mắn lạ lùng như thế?

Hình như chợt nghĩ ra điều gì, bà bỗng nói lớn:

- Qua con, con đã có tài thông minh lanh lẹ như vậy, nhân hôm nay chúng ta sẽ nhờ cái tài của con mà thoát được đại nạn nơi đây. Dương-Qua thấy bà nói mà nét mặt tươi hẳn lên, thì chàng vẫn giả bộ ngơ ngác hỏi lại:

- Nếu Bá mẫu được đầy đủ sức khỏe thì hai bác cháu mình hợp sức cũng có thể đánh bại được lão này. Khổ nỗi lúc này Bá mẫu chưa được khỏe lắm, nên để cháu đi tìm Quách Bá phụ tới giải cứu nhé...?

Hoàng-Dung đáp:

- Không được đâu, ta đang đau, đâu phải cảm nóng đâu mà có thể hết ngay trong chốc lát. Hiện nay Bá phụ con đang ở xa, mà cô nương của con cũng đang ở phương nào không biết, làm sao tìm ra ngay cho được. Chi bằng ta có một mẹo hay, để chỉ cho con biết thì có lợi thực tế hơn. Vậy để bác nói nhỏ cháu nghe nhé?

Dương-Qua đáp:

- Có mẹo gì hay, xin bá mẫu cứ nói, nếu làm được, cháu không dám từ thác một việc gì hết.

Hoàng-Dung từ tốn nói:

- Nguyên loạn thạch trận này do phụ thân ta dạy lại, tuy chỉ có chừng ấy đống đá, nhưng sức biến hóa kỳ ảo khôn lường nổi. Bây giờ cháu cứ nghe theo những điều do bác chỉ lại thì thế nào cũng dành phần thắng lợi về mình.

Dương-Qua nghe nói nghĩ thầm trong bụng:

- Học lực của Hoàng Đạo-chúa thật vô cùng cao rộng, thế gian ai ai cũng phải phục. Hôm nay ta lại học thêm một tuyệt kỷ của Võ lâm.

Hoàng-Dung kể tiếp:

- Hồng Sư-phụ của ta chỉ truyền cho con mấy thế cơ bản trong đả cẩu bổng pháp, và sau này, tuy con ngồi trên cây học lén được một mớ nữa nhưng chưa đầy đủ đâu. Hơn nữa đấy chỉ là những phép lạ chứ không phải là phương thế ra áp dụng lúc chiến đấu. Nhân tiện hôm nay Bác muốn dạy lại cho cháu tất cả diệu pháp tinh vi của pháp thụat đả cẩu, vậy cháu có bằng lòng không?

Dương-Qua tuy mừng không chỗ để, nhưng vẫn giả vờ thoái thác nói rằng:

- Phép đả cẩu chỉ ai truyền từ Bang-chủ qua Bang-chủ của Cái-Bang. Tuy Bá-mẫu có lòng thương tưởng, cháu rất đội ơn, nhưng cháu chỉ sợ như thế sẽ có lỗi với quy luật Cái-Bang đi chăng?

Hoàng-Dung thừa biết chàng chối từ lấy lệ, bèn cười bảo:

- Thôi, cháu khỏi cần khách sáo nữa. Phép đả cẩu bổng này, tuy là thuật pháp trấn môn của Cái-Bang, tuy nhiên sư-phụ ta đã đem truyền cho cháu hết ba phần. Cháu nấp trên cây học lóm được hai phần nữa. Nay ta dạy thêm cho cháu ba phần. Còn lại ba phần nữa đủ mười, sau này, nhờ tài lanh lẹ trí thông minh, cháu cũng có thể suy nghiệm mà tìm ra cho hết những bí quyết của nó được.

Theo quy luật Cái-Bang, phép này không thể truyền lại cho một ai ngoài vị Bang-Chủ kế vị. Tuy nhiên trong hoàn cảnh này chúng ta cũng cần phải quyền biện mới được. Nếu ta câu chấp không truyền lại cho cháu, rủi ta chết đi có phải đả cẩu bổng pháp sẽ bị thất truyền đi chăng?

Dương-Qua mừng quá sụp xuống lạy luôn hai lạy rồi thưa:

- Giá khi cháu còn bé mà Quách Bá-Mẫu dạy cho cháu một vài tuyệt nghệ thì lúc này cháu tiến bộ biết mấy? Mà Bác cũng được tiếng tốt nữa.

Hoàng-Dung mỉm cười hỏi:

- Đến nay cháu có còn oán hận bác nữa không?

Dương-Qua đáp:

- Có khi nào cháu lại dám oán bá-mẫu.

Hoàng-Dung lần lượt đem hết các bí quyết đánh đỡ trong đả cẩu bổng pháp ra giảng giải và dạy lại cho Dương-Qua.

Kim-Luân Pháp-Vương, đứng ngoài loạn thạch trận nhìn vào, thấy Hoàng-Dung và Dương-Qua chuyện trò nho nhỏ, sau đó, bà cầm cây gậy trúc đưa ngang đưa dọc, thỉnh thoảng lại cười xòa, hình như tin tưởng vào phép biến hóa của thạch trận không đếm xỉa gì tới mình cả.

Càng nghĩ, Kim-Luân càng tấm tức. Ông bèn cố ý theo dõi và chờ xem hành động của họ ra sao để tìm biện pháp đối phó.

Hoàng-Dung và Dương-Qua được rảnh tay ngồi bàn bạc, thảo luận kỹ càng về một pháp trong đả cẩu bổng pháp, từ giờ Thìn qua giờ Tỵ đã bầy đủ mọi thế không còn sót một đường nào.

Kim-Luân đứng ngoài theo dõi, không biết hai người đang làm gì, ông trông thấy Hoàng-Dung cứ nói nho nhỏ, nét mặt nghiêm nghị, hình như đang giảng giải một võ thuật gì đây. Còn Dương-Qua trái lại thì tươi tỉnh và đem hết tinh thần, chăm chú nghe. Thấy vậy, Kim-Luân e ngại suy nghĩ:

- Có lẽ họ truyền thụ cho nhau những ngón gì hay để hại ta chứ gì. Phen này nếu chiến đấu lại ta cần phải thận trọng cho lắm mới được.

Dương-Qua ôn lại những đoạn sau và hỏi thêm vài điểm khúc chiếc. Hỏi tới đâu, Hoàng-Dung giảng giải thêm rất rành mạch. Khi thấy chàng không còn gì thắc mắc nữa, Hoàng-Dung khen lớn:

- Cháu thật là thông minh đúng mức. Ngay trí nhớ của bác cũng phải thua sút cháu nhiều. Bây giờ cháu đã đủ sức kềm chế và thắng được Kim-Luân rồi. Vậy cháu hãy ra dụ hắn vào đây đánh bắt cho rồi.

Dương-Qua lạ lùng hỏi:

- Làm sao bắt hắn được, mà Bá mẫu lại bảo cháu như thế?

Hoàng-Dung từ tốn giải thích:

- Có khó chi điều đấy. Lúc bấy giờ hai bác cháu mình cùng quyết đấu thì hắn chống cự sao nổi. Chúng ta đã hơn tài mà còn vượt hẳn lão ấy về mưu chước và địa thế nữa.

Bây giờ, bác dạy cho cháu biết qua về sự mầu nhiệm và biến hóa của trận loạn thạch. Vậy cháu hãy nghe và chú ý nhớ kỹ ba mươi sáu chước biến hóa của trận đồ nhé.

Nói xong bà lièn chỉ vẽ cho Dương-Qua thế nào là Thanh-Long biến sang Bạch-hổ, và huyền võ trở thành Châu-tước.

Nguyên trận loạn thạch này chế biến theo đúng cách thức và phương pháp của Gia-Cát Võ hầu. Khi ông vào đất Tây-xuyên đã lập trận bày trên bờ sông để lừa Đại-Tướng Đông-Ngô là Lục-Tốn. Hôm nay Hoàng-Dung cũng theo nguyên tắc ấy để chống lại Kim-Luân Pháp-Vương. Mặc dù sắp đặt hấp tấp nhưng quy tắc không sai chút nào, vì vậy nên Kim-Luân lo sợ không dám xông vào chỉ đứng ngoài lừa thế theo dõi năm người đang ẩn trong trận, cách xa nhau như hai thế giới.

Với ba mươi sáu phép biến hóa vô cùng tinh diệu khiến cho một người thông minh như Dương-Qua mà nghe giảng hai lần cũng chỉ có thể nhớ được hai chục phép mà thôi.

Lúc bấy giờ trời đã xế chiều, ánh mặt trời gần chen sau núi. Kim-Luân đứng ngoài thách đố các người đánh nhau. Hoàng-Dung bảo Dương-Qua:

- Tuy cháu mới học được hai chục thế, nhưng bao nhiêu đó cũng đủ để vây bắt Kim-Luân rồi. Vậy cháu hãy chờ đây, bác ra ngoài này dụ lão vào đây cho cháu nhé. Cháu cứ theo đúng phép biến hóa của đồ trận mà vây bắt hắn.

Dương-Qua mừng rỡ nói:

- Bá-mẫu, sau này về đảo Đào hoa, có thì giờ rồi, bá-mẫu hãy dạy tiếp cho cháu những thế chưa thạo nhé. Việc dẫn dụ Kim-Luân, xin để mặc cháu.

Hoàng-Dung cười xòa bảo:

- ồ, nếu cháu bằng lòng theo bác về Đào hoa đảo, chẳng những bác dạy cho những chỗ thiếu mà ngoài ra còn nhiều phép ly kỳ hơn nữa. Thời gian gần đây cháu đã hai lần xả thân cứu mạng bác và em Phù thì khi về đảo không khi nào bác nỡ lạnh nhạt với cháu như ngày trước nữa đâu. Cháu cứ tin nơi lòng bác.

Nghe Hoàng-Dung an ủi mấy câu, Dương-Qua cởi mở tấc lòng, trong lúc này, giá Hoàng-Dung bảo chàng nhảy vào lửa, chàng cũng không từ chối.

Riêng anh em họ Võ thì chửi thầm trong bụng:

- Thằng súc sinh báo đời, sao không chạy theo con yêu nữ cho rồi còn quay lại làm chi nữa phá rối chúng ta mãi như vậy?

Võ-Tu-Văn, nghe hai người nói chuyện cùng nhau bỗng nói bông lông một mình:

- Phàm người còn nhỏ, điều căn bản và quan hệ nhất là văn chương chữ nghĩa, cần phải lấy đó mà làm căn bản cho việc lập thân về sau, nếu không cần chữ nghĩa mà chỉ lo việc kiếm đao thì cũng có thể sẽ chết về nghiệp lao kiếm.

Đôn-Nho dèm thêm:

- Xưa kia, Quan-Vân-Trường là bậc võ nghệ tuyệt luân của đời nhà Hán, rốt cuộc rồi cũng bị chém bêu đầu. Khỏe mạnh như hạng Võ rồi cùng phải tự cắt đầu trên bến Ô-Giang, làm cho người yêu là Ngu-Cơ phải vì mình mà tử tiết. Trông gương người đời xưa, anh em chúng ta xem thường việc học Võ cũng phải.

Quách-Phù thấy hai anh em nhà này cứ tìm lời châm biếm đay nghiến Dương-Qua thì tức giận quá bèn hỏi lại:

- Các anh xưng như vậy, thế đến nay hai anh đã đọc văn chương tới mức nào rồi?

Tu-Văn đáp:

- Tam giáo, Cửu-Lưu, Bách gia Chư tử sách nào cũng đã học rồi.

Quách-Phù khinh khỉnh nói:

- Thứ học mót mà cũng nói. Phận mình sút kém thì cam chịu cho rồi, chuyện gì cứ đâm thọc, châm biếm người ta mãi vậy?

Trong khi ấy, Dương-Qua đã xách gậy trúc nhảy ra khỏi trận gọi Kim-Luân Pháp-Vương bảo:

- Pháp-Vương, người có dám cùng ta đấu chơi ba trăm hiệp hay không?

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 40 : Nữ lang thanh y cứu Dương-Qua.

Kim-Luân Pháp-Vương đang đứng ngoài trông ngóng vào thạch trận suy nghĩ một mình. Bỗng nghe Dương-Qua gọi lớn và xách bổng nhảy ra khỏi trận thách đấu thì ông đáp ngay:

- Ta sẵn sàng chờ mi đây.

Vừa nói dứt lời, ông đã vung chiếc vòng đen tiếng reo leng keng nhảy lại, trong lòng suy nghĩ:

- Nếu Dương-Qua đánh chẳng lại ta, nhảy trở lại vào trận thì làm sao đuổi theo được. Chi bằng ta phải tìm cách chận đứng hắn trước.

Nghĩ xong, ông chỉ đánh hờ đòn rồi bước lùi ra sau nhử Dương-Qua tiến tới. Khi hai người tránh xa loạn thạch trận được hơn hai trượng, Kim Luân lao mình nhảy vút tới chận ngay phía sau lưng không cho Dương-Qua trở vào trận được nữa.

Nhưng lúc này, Dương-Qua đã tiến bộ hơn chứ không kém sút như trước nữa.

Sau khi đã am thạo tất cả những bí quyết trong đả cẩu bổng pháp, cây gậy trúc trong tay Dương-Qua vũ lộng vù vù như rồng thiêng uốn khúc kỳ ảo biến hóa phi thường, khiến Kim-Luân chỉ còn cách đỡ gạt mà đã tối tăm mặt mày rồi.

Trong lúc lúng túng, Kim-Luân bỗng bị trúng một gậy bên đùi trái.

Nhờ công phu luyện tập lâu năm nên gậy này không thể làm ông bị thương, nhưng cũng đau nhói tận xương tủy. Kim-Luân phải xuýt xoa một hồi lâu mới bớt.

Sau khi nếm một đòn, Kim-Luân không còn dám khinh thường nữa, luôn luôn tung vòng sắt ra tấn công kịch liệt, mong chiếm thế thượng phong.

Thật mỉa mai thay, đường đường một đại võ sư, danh vang thiên hạ nay chỉ đấu với một thiếu niên chưa đầy hai mươi tuổi mà không dám sơ hở phút nào, tới lui xông xáo không nổi. Kim-Luân vừa thẹn vừa giận thật xưa nay chưa khi nào ông gặp một địch thủ lợi hại dường ấy.

Dương-Qua cố áp dụng theo đúng bí quyết của đả cẩu bổng pháp, tuy nhiên vì mới học tập luyện chưa được thuần thục lắm, nên không thể nào tránh hết những sơ hở, và cũng vì đó nên chàng chưa dồn được Kim-Luân vào thế bí được.

Hoàng-Dung đứng trong trận nhìn ra thấy vậy bèn nhắc khéo:

- Hãy đưa thế chữ "phong" ra áp dụng.

Dương-Qua sực nhớ lại hai chân nhảy lìa khi qua đông lúc sang Tây, không tiến không lùi, chiến chiếc vòng sắt trở thành vô hiệu lực vì khinh thân chàng kỳ diệu quá.

Kim-Luân Pháp-Vương thấy chàng di động nhiều quá thì mừng thầm và nghĩ bụng:

- Cho mi nhảy nhót cho đã sức. Dù tài giỏi đến đâu, nhảy nhiều lắm rồi cũng phải bét chứ. Chừng ấy ta chẳng cần nhọc sức cũng có thể chộp được dễ dàng.

Nhưng ông có ngờ đâu Dương-Qua luôn luôn nhảy nhót theo hình chữ thổ lệch, cứ mỗi lúc lùi ra sau một chút thì lại kéo sang một bên. Kim-Luân mãi mê sấn tới đuổi theo mà quên cả phương hướng, đến khi bước chân vấp phải mô đá mới giật mình chợt nghĩ:

- Ta đã đi lạc vào trong thạch trận rồi sao?

Thật ra, Dương-Qua đã nghe lời Hoàng-Dung, lừa ông tiến sâu vào cửa kỳ môn của trận loạn thạch. Khi thấy đối thủ bước vào rồi, Dương-Qua chỉ cần thối lui mấy bước, thế trận đã biến hóa ngay, bao nhiêu phương vị đều đổi thay hết, Kim-Luân càng lùi ra bao nhiêu thì trái lại càng đi sâu vào giữa trận bấy nhiêu. Trong trận lúc này tự nhiên tiền biến thành hậu, và hậu đã trở thành tiền. Đến lúc biết mình đã sa cơ, Kim-Luân càng thêm phần hoảng sợ, nhưng biết giải quyết bằng cách nào hơn nữa.

Khi ấy, Hoàng-Dung lanh lảnh ra hiệu lệnh:

- Chu tước tiến về thanh long, Quẻ tôn chuyển sang quẻ Ly, Bất phương trở thành Qui-phương cho mau.

Quách-Phù và hai anh em họ Võ, cứ theo khẩu hiệu của bà, tự khuân những tảng đá đem trấn các nơi, làm bịt lối và vây chặt Kim-Luân vào giữa.

Kim-Luân sợ hãi rụng rời, chỉ nắm chặt chiếc giòng sắt trong tay đưa mắt nhìn khắp bốn phía để nhận lại phương hướng.

Ngay lúc ấy, Dương-Qua, múa tít cây gậy trúc xông vào giáp chiến.

Đối với Kim-Luân, những đòn đả cẩu không có gì đáng sợ. Nhưng lạ một nỗi hai chân ông hình như bị những ống đá bày loạn xạ hút phải mấy lần suýt té vì đứng không vững và bước chẳng ngay đường nữa.

Ông gượng gạo chống đỡ lấy lệ. Xung quanh hình như có không biết cơ man nào là địch thủ đang lâm le chiếm đoạt vũ khí, nếu sơ ý một tý sẽ nhào bất tử ngay.

Trong lúc thập phần nguy biến, ông chẳng biết tính sao, bèn hét lên một tiếng vang trời rồi dẫm bừa trên các đống đá mà chạy càn không kể phương hướng nữa.

Nhưng thế trận biến đổi vô cùng phức tạp, không thể nào chạy được. Càng chạy càng thấy những đống đá ngang dọc bao phủ khắp nơi và sau cùng tâm thần mê loạn, cứ chạy loanh quanh trong trận, và bị giam hãm trong một bức thành đá vô cùng kiên cố.

Trong khi thần hồn nát thần tính tay chân rã rời, bao nhiêu sáng suốt bay hết, Kim-Luân suy nghĩ:

- Thôi phen này nguy hiểm quá, biết làm sao thoát khỏi nơi này được? Có lẽ phải bó tay chờ chết mà thôi.

Đang khi còn than thầm trong bụng, bỗng Dương-Qua lại xuất hiện theo tư thế "vạch cỏ tìm rắn, phang mạnh một gậy phía hạ bàn. Giá Kim-Luân không lanh mắt nhảy vọt lên né tránh thì có lẽ đã gảy tiện ống chân rồi.

Trong lúc thập phần nguy biến Kim-Luân đâm liều, vung chiếc vòng loan tròn dưới chân để tránh đỡ đồng thời bặm môi phóng mạnh ra phía trước, húc đầu vào ngực Dương-Qua tấn công.

Dương-Qua khẽ lách mình qua một bên né tránh. Hai người cùng nhau tranh đấu không bao lâu đã trên hai chục hiệp. Bỗng nhiên trong trận trời đất tối tăm mù mịt, gió lộng ào ào, phi xa tẩu thạch, xung quanh tiếng rít lên từng hồi rùng rợn, như quỷ khóc ma hờn, âm khí vô cùng rùng rợn.

Nếu không phải là một tay nhiều kinh nghiệm và gan liều như Kim-Luân Pháp-Vương, thì bao nhiêu đó cũng khiến cho phải ngất đi vì khiếp đảm. Nhưng Kim-Luân là một kẻ tu hành, tinh thần lúc nào cũng được bình tĩnh, nên dù trong trận có thay đổi cũng không đến nỗi nào. Ông định thần nhìn lại xung quanh, rồi vận dụng nội công vào hai bàn chân đánh mạnh thêm mấy tảng đá tung bổng lên trời hơn mấy trượng. Khi mấy tản đá tung lên cao thì mây đen tan hết, gió lạnh cũng yên ngay.

Hoàng-Dung và đồng bọn kinh hãi vô cùng, vội vàng đưa nhau nấp vào chỗ khác để tránh khỏi bị đá văng đè trúng.

Giá lúc này, Kim-Luân biết thừa cơ nhảy luôn ra trận thì dễ như chơi. Nhưng vì ông muốn thừa dịp tấn công nên không chịu rút lui mà còn đưa tay chộp lấy Hoàng-Dung.

Tức thì Dương-Qua điểm mạch phía sau lưng để giải cứu cho Bà. Hoàng-Dung muốn lùi ra sau để tránh nhưng bỗng nghe có tiếng rít từ không trung lao xuống. Bà lại sợ đá rơi trúng phải nên đánh liều nhảy tới tóm chặt tay Kim-Luân.

Kim-Luân phải buột miệng khen lớn:

- Chà, tài lắm, và can đảm lắm.

Nói vừa dứt lời ông tung chưởng đánh mạnh vào ngực Hoàng-Dung. Nếu là lúc thường thì đòn này đối với Hoàng-Dung không có nghĩa lý gì hết. Nhưng mặt lúc này bà có thai nghén gần ngày, sức khỏe giảm sút quá nhiều nên không gượng nổi, bị té nhào ra đất.

Thấy Hoàng-Dung bị đánh nhào, Dương-Qua thất kinh, không còn kể gì hết, vội vàng nhảy chồm lại ôm chặt lấy cặp giò Kim-Luân vật lộn. Hai người cùng ngã lăn ra đất vật nhau túi bụi. Nhưng Kim-Luân khỏe hơn Dương-Qua gấp mấy lần, nên vừa nhào xuống đã gượng dậy được ngay và tiếp theo một đấm khiến chàng văng ngược ra xa như bó giẻ.

Trong lúc đang bực mình, Kim-Luân đưa chân hất mạnh một tản đá nặng độ vài trăm cân, định xáng vào đầu Dương-Qua. Nhưng vì trong lúc hấp tấp, vích quá mạnh tản đá lộn ngược ra sau rồi rơi thẳng đứng xuống, nhằm ngay đầu Kim-Luân đang lồm cồm chờ dậy.

Bị khối đá gần hai trăm cân rơi trúng đầu, Kim-Luân đau quá nằm vật ra bất tỉnh. Giá người tầm thường thì cũng đủ bể sọ rồi. Nhưng Kim-Luân nhờ tập luyện công phu nội công vững vàng, chỉ bị ngất xỉu mà thôi.

Ba người chủ chốt trong trận đều bất tỉnh nằm liệt, cho nên thạch trận cũng vỡ tan ngay.

Đạt-nhĩ-Ma và bọn võ sĩ Mông-Cổ đứng ngoài trận trông thấy các người nhào lăng bất tỉnh thì hồn vía không còn. Huống bên cạnh còn lại Quách-Phù và hai anh em họ Võ đều thuộc phe địch, nên bọn này lo sợ cho tánh mạng Kim-Luân, vội vàng xông vào để giải cứu.

Với sức khỏe như sư tử của Đạt-nhĩ-Ma lại thêm một số đông tùy tùng Mông-Cổ vạm vỡ giúp đỡ, Quách-Phù và hai anh em họ Võ không làm sao chống cự lại nổi. Vì vậy nên cả hai bên mạnh ai nấy lo giải cứu người phe mình.

Bỗng nhiên Kim-Luân Pháp-Vương lồm cồm tỉnh dậy, ném chiếc vòng sắt xuống đất nghe leng keng rùng rợn cả người. Sau đó, ông ngửa mắt lên trời cười ngất.

Tiếng cười của Kim-Luân Pháp-Vương bao hàm cả niềm bi thương và uất hận.

Bọn người hai phe nghe cười đều ngạc nhiên, trố mắt đứng nhìn, cười xong Kim-Luân nhìn trời than rằng:

- Bình sinh ta chưa khi nào bị ngất xỉu bao giờ. Hôm nay chính tự ta lại đả thương ta, nghĩ cũng đáng buồn cười thật. Nhưng cũng đáng căm hận thật.

Nói xong, ông đưa tay túm lấy chân Hoàng-Dung kéo xềnh xệch về phía mình. Dương-Qua tuy bị thương nặng nơi ngực vừa mới tỉnh dậy nhưng thấy Hoàng-Dung bị bắt và kéo trên đất như một con vật thì uất hận vô cùng, cố gượng tung gậy đả cẩu ra đánh mạnh. Nhưng không ngờ chàng mới bị thương lại dùng sức quá độ nên gượng không nổi nữa ngã vật ra sau, mồm hộc ra một đống máu tươi.

Hoàng-Dung buồn rầu nói:

- Qua con, không nên cố sức lắm có hại. Việc ta làm ta có gan chịu đựng, con nên bảo vệ lấy sức khỏe, liều mạng chẳng ích chi trong lúc này.

Quách-Phù, vung gươm nhảy lại định bảo vệ cho mẫu thân.

Dương-Qua khẽ bảo:

- Phù muội, đừng liều mạng làm gì, hãy đi tìm Quách Bá-Bá mau lên.

Mặc dù tự biết sức yếu tài hèn, nhưng tình mẫu tử quá đậm đà, khi nào nàng nỡ bỏ chạy đi trong lúc mẹ mình đang ở trong tay địch.

Kim-Luân chỉ khẽ chiếc vòng sắc nghe leng keng mấy tiếng thanh trường kiếm của Quách-Phù đã bị đánh văng vào rừng xa lắc.

Kim-Luân định gạt Quách-Phù qua một bên để bắt Hoàng-Dung bỗng có tiếng lảnh lót của một cô gái nạt lớn:

- Hãy khoan, thong thả đã.

Ngay lúc đó từ trong rừng tối một cô gái mặc áo xanh phi thân bay lại lanh như điện chớp.

Kim-Luân định thần nhìn kỹ thấy cô gái thanh y mặt mày xấu xa gớm ghiếc, có lẽ xưa nay chưa có người đàn bà nào xấu xa ghê tởm hơn nữa. Mặt cô ta nửa giống người nửa giống quỷ. Từ bé tới lớn Kim-Luân chưa hề gặp người nào như thế.

Ông hất hàm hỏi lớn:

- Này, cô là ai?

Cô ta điềm nhiên ko trả lời, cúi xuống nhặt lấy mấy tảng đá đặt chắn ngang giữa Hoàng Dung và Kim luân, và hỏi lại:

- Ngài có phải là Kim Luân Pháp Vương bên Tây Tạng ạ?

Tuy mặt mày gớm ghiếc như quỷ dạ xoa nhưng giọng trong như ngọc, dịu dàng ấm áp vô cùng khiến cho Kim Luân nghe qua đã có cảm tình ngay, và hỏi lại:

-Vâng, đúng lắm. Còn cô nương là ai mà bần tăng chưa hề quen biết.

Cô gái thản nhiên đáp:

- Tôi chỉ là đứa bé nơi chốn hoang vu thon dã đâu đáng được giới thiệu ra hôm nay, dù ngài có biết cũn chẳng ích chi đâu.

Miệng nói ta càng sắp một tảng đá thật dài nằm ngay trước mặt. Khi ấy ánh dương đã gác non đoài, chim rừng đã rủ nhau về tổ, gió núi thổi lộng ào ào, nhiều hiện tượng nổi lên hình như động rừng và thoáng như có beo kêu, cọp rống. Thấy hành động cô gái có vẻ khác thường, Kim luân pháp vương hỏi:

- Này cô bé, cô định làm gì đó? Xin cứ để yên các tảng đá, đừng di chuyển đi nơi khác.

Người con gái như ko đếm xỉa tới lời của Kim Luân, chỉ lẩm bẩm 1 mình:

- Phương "Mộc giao" biến sang "Kim Long"...

Quách Phù và 2 anh em họ Võ ngạc nhiên tự hỏi:

-ủa, sao nàng này nói giống y như sư mẫu đã ra lệnh đáp trận loạn thạch vậy nhỉ?

Nghe nàng ra lệnh, tự nhiên cả ba thảy ríu ríu tuân lệnh khiêng đá đặt theo các vị trí đã định. Sau khi vận chuyển mấy phiến đá mà trận pháp đã hoàn toàn biến đổi. Đang chơ vơ vắng lạnh như cảnh rừng hoang, bỗng nhiên trong trận đã có đằng đằng sát khí. Theo dõi tình hình bỗng nhiên có sự thay đổi quá ư đột ngột, Kim Luân vừa giật mình, vừa hoảng sợ vội vàng quát lớn:

- Con bé không được phá rối công chuyện nơi đây. Muốn sống cút ngay lập tức.

Nhưng ng con gái áo xanh vẫn thản nhiên như ko hề nghe tiếng, rồi trầm trầm ra lệnh:

- "Tâm nguyệt hồ" chuyển lại phương vị " phòng nguyệt thố" .

Rồi nói tiếp:

- " Nữ thổ bức" tiến sang " thất hỏa chư" !

Đây là những khẩu lệnh di chuyển phương vị trong nhị thập bát tú của trận bát quái loạn thạch. Những thế này, nếu ko phải là tay tinh tường về thiên văn am thạo ngũ hành thì làm sao mà bố trí cho đúng được?

Thấy nữ lang ra lệnh giống như Hoàng Dung, nên cả ba người Quách phù và 2 anh em họ Võ tin tưởng và tuân lệnh theo răm rắp. Không bao lâu trận loạn thạch đã chuyển động và sát khí phát ra ngùn ngụt, vân vụ lờ mờ, bao vây Kim Luân vào chính giữa. Vừa rồi Kim Luân bị viên đá lớn chọi vào đầu kế bị mấy đòn vào lưng khá nặng, nếu ko phải là tay nội công tinh thục thì ko thể nào đứng vững được nữa. Vì thế nên ông ta rất e dè bảo vệ thân thể ko còn xông xáo như trước đây nữa. Ông chỉ thận trọng đứng ẩn mình sau mấy đống đá lớn. cố tìm cách phá trận. Tuy nhiên ông vẫn cố giữ vẻ bình tĩnh, vì ông biết rằng, rộn ràng trong lúc này là nguy tới tánh mạng như chơi. Chừng ấy ko bắt được Hoàng Dung mà chính bản thân mình sẽ bị chừng tóm cổ. Ngó trước thấy Hoàng Dung nằm mê man trên mặt đất, nếu cần, chỉ bước tới 2 bước là bắt được ngay. Nhưng lúc này Kim Luân ko còn bụng dạ nào nữa, chỉ lo tìm lối thoát thân mà thôi. Ông bèn tung chiếc vòng sắt ra tấn công Võ tu Văn để y hoảng sợ tránh né rồi tìm thế thoát thân. Tu Văn đã bị thương, toàn thân ê ẩm như dần. Lúc này chàng chỉ dùng sức khẽ gạt sơ một cái thì chiếc vòng sắt cũng đủ lìa tay Kim Luân văng đi nơi khác liền. Nhưng vì diện mạo Kim Luân quá ư hùng dũng, hơn nữa Tu Văn ko khác nào con chim đã bị tên, cho nên Kim Luân chỉ cần đưa vòng ra là chàng lẫn trốn ngay.

Thấy vậy, Kim Luan tự nghĩ than thầm:

- Nếu bỏ thoát cơ hội này ta biết chừng nào gặp được dịp tốt. Có lẽ Hoàng Thiên còn phù hộ cho Đại Tống nên khiến ta bại phen này. Than ôi, anh hùng hào kiệt Trung Nguyên càng ngày càng nhiều, toàn là những hạng trai gái mới lớn lên tương lai rực rỡ, bọn hào kiệt Mông Cổ thật ko xứng vào đâu hết.

Nghĩ xong, ông vuốt ngực thở dài rồi quay đầu bỏ chạy. Nhưng chạy chưa mấy bước bỗng nhiên chiếc vòng sắt đã rời tay rơi xuống đất kêu leng keng, và Kim Luân loạng choạng mấy cái rồi ngã sấp phía trước. Đạt nhĩ Ma thấy vậy hoảng hốt vội gọi lớn:

- Sư phụ, sư phụ làm sao thế?

Y vừa gọi vừa chạy lại đỡ Kim Luân dậy và nói gấp:

- Sư phụ có hề chi ko? Tại sao như vậy?

Kim Luân đưa tay vỗ trán thều thào nói:

Tiếc quá, thật đáng tiếc phải bỏ lỡ dịp này. Thôi chúng mình trốn thoát chỗ này đi thôi.

Vì quá kiệt sức nên Kim Luân bị ngất xỉu luôn chặp nữa. Một tên võ sĩ Mông cổ dắt ngựa xáp lại gần, nhưng Kim Luân mệt quá ko còn đủ sức leo lên mình ngựa.. Đạt nhỉ Ma vội vàng bồng sư phụ đặt lên mình ngựa, rồi cả bọn kéo nhau đi về hướng Đông.

Sau khi sắp lại trận thế giải nguy cho bọn Hoàng Dung rồi, nữ lang thanh y vội vàng chạy lại gần Dương Qua. Thấy chàng nhắm mắt nằm mê man ko hay biết gì hết, nàng bèn nắm tay xem mạch và vạch áo tìm thương tích. Đêm đã khuya, tuy nhiên nhờ cặp mắt luyện nhìn trong đêm tối rất tinh vi, nên nào áo xanh trông thấy Dương Qua bị trúng một chưởng nơi ngực, hai mắt trợn ngược, hơi thở khò khè như lợn cắt tiết. Xem xong nàng chép miệng nói:

- Nặng lắm, thương tích nặng vô cùng.

Lúc này Dương Qua đang mê chợt tỉnh. Chàng thấy một cặp mắt sáng quắt mà dịu hiền đang âu yếu chiếu thẳng vào mặt mình đầy vẻ trìu mến thương yêu, thì tưởng rằng đâu là Tiểu long Nữ. Bất giác chàng đưa hai tay ôm lấy cổ nàng miệng rên rỉ:

- Cô nương ơi, Dương Qua đã bị thương nặng lắm. Tại sao cô nương nở bỏ em như vậy?

Bị chàng ôm cổ bất ngờ, nữ lang thanh y vừa thẹn vừa thương hại vội vàng gỡ mạnh tay ra. Bị nàng hất tay quá mạnh, Dương Qua đau quá chịu ko nổi nhăn mặt than lớn:

- Trời ơi! đau quá, sao cô nương nỡ đánh em như vậy?

Nàng áo xanh dịu giọng nói nhỏ:

- Tôi đâu phải cô nương của anh, xin hãy buông cổ tôi ra.

Dương Qua nhìn sững vào đôi mắt dịu hiền sáng quắt của nàng và rên khẻ:

- Cô nương ơi! Dương Qua đang thương nhớ cô nương mà bị bệnh. Cô nương hãy che chở cho em và đừng hất hủi em tội nghiệp nhé.

Cô áo xanh phải phân trần thêm:

- Anh nhìn sai rồi, tôi đây, chứ ko phải cô nương của anh đâu?

Trong khi trời tối quá, nên Dương Qua ko còn trông thấy rõ nét mặt xấu xí của nàng mà chỉ thấy đôi mắt sáng quắt đầy vẻ dịu hiền thiết tha, giống hệt đôi mắt đẹp của Tiểu long Nữ, nên chàng cố giữ lấy tay nàng miệng năn nỉ.

- Đúng rồi, cô nương đừng giấu tôi làm chi nữa. Cô nương còn hờn giận Dương Qua sao?

Bị chàng trai níu kéo cô gái áo xanh thẹn đỏ mặt và toàn thân cảm thấy nóng rực, như có một luồng điện lạ chuyền vào sưởi ấm. Nàng muốn để tay lại thì thẹn, mà giằng ra thì luyến tiếc, vì vậy nàng cứ ngỡ ngàng đứng yên một chỗ ko cử động hay nói nên lời nào. Một chập sau, Dương Qua định thần nhìn kỹ lại thấy ko phải Tiểu long Nữ, thì đã thất vọng bèn buông tay ra rồi ngã vật xuống, ngất xỉu luôn...

Nàng hãi kinh quay về phía sau, thấy hai anh em họ Võ và Quách-Phù đang lo lắng lăng xăng chạy chữa cho Hoàng-Dung, tuyệt nhiên không một người nào quan tâm đến Dương-Qua hết.

Thấy vậy nàng chép miệng than rằng:

- Thương thế trầm trọng quá, nếu không kíp chạy chữa tận tình e không qua khỏi. Nếu ta câu chấp không cứu chữa chàng đúng theo bí quyết của sư phụ đã dạy thì nguy hiểm lắm. Trong lúc quá nguy nan cũng cần sư quyền biến, hơi đâu câu chấp câu "nam nữ thụ thụ bất thân".

Than xong, nàng do dự một chút rồi đứng thẳng dậy, bồng Dương-Qua bước ra khỏi thạch trận.

Thật ra Quách-Phù không đến nỗi thờ ơ với Dương-Qua. Nhưng ngặt vì mẹ nàng là Hoàng-Dung bị Kim-Luân đánh mấy đòn khá nặng đang bất tình không khác gì Dương-Qua, vì vậy nên mẫu tử tinh thâm nàng phải lo lắng cho mẹ trước. Còn hai anh em họ Võ, thì lẽ cố nhiên không bao giờ quan tâm tới Dương-Qua mà họ xem như một tình địch đáng ghét. Nếu Dương-Qua chết đi họ vui mừng là khác nữa.

Nữ lang thanh y bồng Dương-Qua ra khỏi rừng đến chỗ con ngựa ốm đang đứng gặm cỏ. Thấy chủ mình bị nạn, con ngựa hí lên lớn thật rồi bứt giây chạy lại bên cạnh, hai chân đâm liền hồi trên mặt đất tỏ vẻ băn khoăn trìu mến. Cô gái áo xanh đặt Dương-Qua trên lưng ngựa, rồi ngại việc trai gái, nàng không leo lên ngồi chung, mà chỉ đi bộ tay giắt con ngựa chầm chậm, để khỏi làm kinh động tới người bệnh.

Dương-Qua nằm trên lưng ngựa khi tỉnh khi mê. Chàng mơ màng hình như kẻ đi trước giắt ngựa là Tiểu-Long-Nữ nên luôn miệng gọi "cô nương", nhưng trong chốc lát lại mê ngay, thân hình giá lạnh như băng.

Hết mê tới tỉnh, trên hành trình diễn đi diễn lại không biết bao nhiêu lần.

Sau cùng Dương-Qua nghe thoảng qua một mùi thơm nhẹ nhàng dễ chịu khiến cho đầu óc sáng suốt dần và ngũ quan tứ chi cũng thấy khoan khoái thơi thới dần dần. Chàng bèn từ từ mở mắt nhìn quanh. Một khung cảnh lạ hường khiến chàng vô cùng kinh ngạc và tự hỏi:

- Tại sao ta được nằm trên chiếc giường như thế này nhỉ?

Thấy trong người lân lân nhẹ nhõm, chàng muốn chống tay ngồi dậy nhưng vì tay chân đau mỏi như dần, không thể nào ngồi dậy nổi.

Chàng đưa mắt nhìn về phía cửa sổ thấy một nàng áo xanh đang ngồi cạnh bàn, tay cầm bút hình như đang hý hoáy viết chi đó, nhưng vì nàng quay lưng ra phía chàng nằm nên không nhìn thấy mặt và chẳng hiểu nàng đang làm chi.

Tuy nhiên cứ nhìn tấm lưng ong thon thon mảnh mai xinh xắn, chiếc cổ tròn trịa trắng ngần, chàng cũng có thể đoán ra kẻ này rất xinh đẹp, nếu không phải một hoa khôi, ít cũng một tiểu thư con nhà khuê các.

Nhìn lại căn nhà thấy vách đất, mái lợp cỏ, kiến trúc rất sơ sài nhưng trông lối bài trí thật thanh tao trang nhã.

Nơi tường phía đông, có treo một bức ảnh của một thiếu nữ đang hái hoa, hai bên có mấy bức họa sơn thủy rất đẹp.

Trên tường phía Tây có treo một bức liễn chữ viết rất đẹp và hai bên có hai câu đối khác kèm theo.

Trên bức giữa vì chữ nhỏ và tháu quá chàng không đọc được, còn hai câu hai bên có viết:

"Nhứt đẳng nhân, trung thần hiến tử"

"Lưỡng kiện sư, độc thư cánh diều".

Tạm dịch: Con hiếu tôi trung danh tột bực,

Đi cày đọc sách há thua ai.

Đọc xong câu đối, Dương-Qua ngạc nhiên suy nghĩ:

- Chưa biết chủ nhân nhà này là ai nhưng cứ theo khí tiết trong hai câu này theo nhất định cũng là bậc cao nhân ẩn sĩ. Thật không có gì vinh dự cho bằng một người dân trung với nước, một người con hiếu với phu mẫu, còn có gì thanh cao bằng đọc sách và tự do cho bằng cày ruộng. Biết bao nhiêu kẻ lầu son vách tía, chức phận cao sang nhưng anh em chửi bới lẫn nhau, đối với người trên thì nịnh nọt, đối với kẻ dưới lại khinh khi, xem người nửa mắt!

Bỗng nhiên chàng liên tưởng tới cảnh đời trung hiếu, canh độc thật là thanh cao, khí tiết!

Trong khi chàng đang suy nghĩ miên man bỗng đâu đó bốc lên uyển chuyển nhẹ nhàng, tỏa một mùi hương thơm ngào ngạt, rõ ràng là mùi trầm hương quý giá.

Dương-Qua lại suy nghĩ:

- Té ra xưa nay bao nhiêu tao nhân mặc khách mỗi khi gảy đàn đọc sách đều xông trầm để tỏ lòng thanh cao và tưởng nhớ lại các bậc thánh hiền ngày xưa. Thật chẳng bù với những bọn phàm phu tục tử bao nhiêu sách đem ra gói đồ, và hòa nhạc trong một chỗ sặc đầy mùi rượu thịt.

Rồi chàng nghĩ tiếp:

- Tuy nhiên sách hay đàn cũng có nhiều hạng, và tùy theo sở thích của mỗi người mà đánh giá nhân phẩm của họ. Trong thời buổi loạn lỵ không hiếm chi người cố đọc sách để mưu cầu chút lợi danh hoặc tìm phương kế để hãm hại người khác, làm đường tiến thân cho riêng mình. Còn nhạc thì không hiếm chi loại nhạc dâm ô hoặc những điệu đàn ủy mị vong quốc. Nếu bạ sách nào cũng đọc, bạ bản nào cũng đàn thì có lẽ còn hại hơn những người không bao giờ biết đánh đàn đọc sách nữa.

Suy nghĩ vơ vẩn về lối bài trí trong phòng, Dương-Qua sực nhớ lại chuyện riêng mình và ngẫm nghĩ:

- Ta nhớ kỹ đang đánh cùng Kim-Luân Pháp-Vương trong loạn thạch trận tại giữa rừng, bị thương ngất xỉu rồi, thế tại sao lại về được nơi đây? Hay là cô gái áo xanh kia đã cứu ta và đem lên ngựa chở mình về đây chăng?

Trong khi đang trầm ngâm suy nghĩ chưa biết ra sao, bỗng thấy cô gái xoay mình, trông hình dáng thật vô tình thanh tao xinh đẹp.

Trong căn phòng nhỏ mùi trầm hương tỏa ra ngào ngạt, trái hẳn với cái không khí chết chóc sát hại lẫn nhau ngoài thạch trận, khiến Dương-Qua chép miệng than nhỏ:

- Chỉ trong một vòm trời mà đã phân biệt hẳn thành hai thế giới khác nhau.

Chàng dự đoán có lẽ nàng áo xanh đang mãng suy tư theo ý văn hay câu sách nên mặc dù đã tỉnh vẫn nằm im không cử động và cất tiếng hỏi e làm phiền tới nàng chăng? Chàng nằm vắt tay lên trán nín thinh. Trong phòng vắng lặng như tờ, dù con ruồi bay qua cũng nghe tiếng đập cánh.

Chàng ngẫm nghĩ:

- Nàng cùng ta không quen biết họ hàng chi, chẳng hiểu vì sao lại đối xử tốt cùng ta như thế ấy?

Thình lình chàng gọi lớn:

- Chị ơi, có phải chị đã có lòng tốt ra tay cứu giúp cho tôi không, thật quý hóa quá.

Nghe chàng hỏi, người con gái vẫn không ngước lên, tay cứ viết mà miệng đáp nho nhỏ:

- Chính anh đã có lòng nghĩa hiệp xả thân cứu người, vì vậy nếu tôi có cứu được anh cũng không có gì đáng kể.

Dương-Qua nói nhỏ như để phân trần:

- Quách Bá-mẫu đối với tôi có công dày nuôi dưỡng. Vì vậy nên khi bà lâm nạn, bổn phận tôi là phải xả thân cứu Bà để đáp lại một phần nào ăn đức cũ. Nhưng cô nương, quả thật là... là...

Nhưng người con gái đã cắt lời chàng:

- Tôi đâu nói tới chuyện Quách Bá-mẫu mà chỉ nhắc lại câu chuyện xưa kia anh cứu Lục-vô-Song.

Đã lâu ngày, ba tiếng Lục-vô-Song hầu như đã xóa nhòa trong ký ức Dương-Qua, nay bỗng nhiên được nàng nhắc lại Dương-Qua vội hỏi:

- à, hiện nay cô Lục-vô-Song vẫn còn mạnh giỏi chứ. Vết thương của nàng đã lành hết chưa?

Cô gái tươi cười đáp:

- Cảm ơn anh, nàng đã lành mạnh hẳn rồi. Anh có nhớ tới nàng hay không?

Thấy cô ta có vẻ thân mật hẳn rồi với Lục-Vô-Song Dương-Qua hỏi lại:

- Giữa cô và Lục-vô-Song có họ hàng hay bè bạn hay không?

Cô gái nghe chàng nói mỉm cười và suy nghĩ:

- Cái anh chàng này cũng kỳ lạ lắm, ai ai cũng xưng chị với cô, lúc mê sảng thì lại gọi người ta là cô nương mãi. Mình đâu có già bao nhiêu mà chàng cứ xưng hô theo lối ấy mãi?

Nghĩ xong nàng cười nụ hỏi chàng:

- Sao anh không gọi tôi bằng cô nương nữa đi?

Nghe nàng hỏi, Dương-Qua thẹn đỏ mặt và đoán có lẽ trong khi mê sảng hay mơ tới cô nương, cho nên trước mặt mình ai ai cũng là cô nương hết.

Chàng lén nhìn lên một tý rồi nghĩ thêm:

- Cô nàng cũng hay bắt bẻ và nhõng nhẽo lắm, không muốn mình gọi chị hay cô thì muốn mình gọi bằng chị đây cho vừa ý?

Nghĩ thế nhưng không nói ra, chàng chỉ khẽ đáp:

- Trong lúc đau yếu; nếu có điều gì không phải xin chị vui ông châm chước cho.

Nàng cười lớn và đáp:

- Có chi đâu mà lỗi với phải. Thôi xin cứ nằm yên cho chóng mạnh, để rồi còn đi tìm cô nương chứ.

Dương-Qua lắng tai nghe nàng nói một giọng hết sức ngọt ngào êm ái nghĩ bụng:

- Từ xưa tới nay ta chưa hề tiếp xúc với một cô gái nào nói năng êm dịu bằng nàng này. Lục-vô-Song không được hoạt bát, chỉ đóng vai cô vợ hay ghen là giỏi. Quách-Phù nói năng hoạt bát nhưng lại có cánh tay hay nhõng nhẽo. Gia-Luật-Yên là người Mông Cổ, miệng nói có duyên, nhưng giọng nói ồ ề lại có lúc the thé nghe gắt quá, đây chỉ là giọng của loài đàn bà sát phu. Hoàng-nhan-Bình nói năng cũng thanh nhã nhưng thân hình lại thô kệch. Cô-nương Tiểu-Long-Nữ lúc đầu thờ ơ lạnh nhạt không đếm xỉa tới tình ta. Sau này tuy có tỏ ý yêu thương nặng lời thề thốt, nhưng không hiểu bỗng vì sao lại trái chứng như những hạng cực đoan rồi bỏ ta đi biền biệt?

Còn cô gái áo xanh này thì được cả thanh lẫn dáng điệu, tiếng nói êm dịu thân hình khá xinh, tánh ý có vẻ đoan trang duyên dáng, nhưng rất tiếc không hiểu diện mạo ra sao? Có lạ một điều là tại sao nàng biết rõ ta cần tĩnh dưỡng cho mạnh để rồi đi tìm Cô nương?

Suy nghĩ mãi, tánh tò mò thúc đẩy khiến chàng không nín được nữa. Trong khi cô gái mãi mê viết, chàng vùng gọi lớn:

- Chị ơi, xin chị vui lòng cho biết rõ tên họ để tiện xưng hô.

Nàng vẫn cặm cụi viết không ngừng nhìn lên, miệng nói:

- Xin để cho tôi viết xong đã, mà hỏi có ích chi đâu?

Dương-Qua trách:

- Thật cô khinh tôi quá nên không thèm cho tôi biết tên cũng không cho thấy mặt. Tôi tuy quê mùa dốt nát nhưng cũng là kẻ biết ơn nghĩa chút ít. Trong lúc hoạn nạn gặp nhau, tôi mong sự quen biết này sẽ lưu lại nhiều kỷ niệm êm đẹp về sau, và xin chị đừng cho đó chỉ là cuộc gặp gỡ qua đường rồi quên lãng mất.

Nàng đáp:

- Tên tôi chẳng đẹp gì, mà mặt mày tôi càng xấu xa hơn nữa, không nên xem anh à.

Dương-Qua cãi:

- Tôi biết rồi. Chính chị muốn đeo mặt nạ cho xấu đi chứ kỳ thiệt diện mạo củ chị phải hoa nhường nguyệt thẹn.

Nàng cười đáp:

- Nếu trời cho tôi được hoa nhường nguyệt thẹn, hay xinh tươi như Cô-nương của anh, thì việc gì tôi phải dùng mặt nạ mà che đi.

Dương-Qua ngạc nhiên hỏi:

- ủa, sao chị biết Cô-nương tôi xinh đẹp. Chị gặp cô ấy tại chỗ nào thế?

Nàng đáp:

- Tôi làm gì có hân hạnh gặp cô ấy. Nhưng trong khi anh mê man lúc nào cũng mơ tới cô ấy. Vì vậy tôi đoán một người con gái phải hết sức xinh đẹp mới được người ta thiết tha thương nhớ đến thế. Nàng phải đẹp lắm để lúc tỉnh anh không quên, lúc mê anh mơ tới hoài.

Dương-Qua thờ thẫn nói:

- Nếu chị gặp cô nương tôi, chắc chắn chị phải khen là xinh đẹp.

Nàng cười dòn:

- Đã hẳn thế rồi.

Nói xong nàng cặm cụi viết nữa.

Dương-Qua hỏi nữa:

- Cô vẽ gì đấy?

Nàng đáp:

- Tôi đâu biết vẽ. Tôi đang tập viết đấy mà!

Dương-Qua cười nói:

- Thôi, xin chị đừng khiêm nhường thái quá. Cứ xem lối múa bút của chị tôi cũng đoán biết tài viết của chị như thế nào rồi.

Cô gái cười ngoặc ngoẽo nói:

- Thật sao, anh nói sao mà tài lắm vậy? Hay là anh ngạo tôi đó?

Dương-Qua đáp:

- Có gì lạ đâu. Cứ xem mặt đoán được tài người. Thân hình chị đẹp đẽ mảnh mai, thì nhất định nét chữ của chị cũng phải bay bướm và sắc sảo lắm. Chị có cho tôi xem các tác phẩm vừa rồi có được hay không?

Nàng áo xanh đáp:

- Xin thú thật chữ tôi vụng về xấu xí lắm. Tôi đang chờ khi nào anh khỏi sẽ nhờ anh chỉ thêm đây mà. Hôm nay tôi còn đang tô theo dấu chữ phóng bằng son đỏ chứ đã viết được một mình đâu.

Nghe nàng nói, Dương-Qua thấy hổ thẹn và tự nghĩ:

- Khi còn trên đào hoa đảo giá mình nghe lời Hoàng-Dung tập chữ nghĩa cho khá thì bây giờ cũng có dịp phô trương với người. Tài nghệ mình không đầy lá mít thì còn mong gì dạy lại ai nữa.

Trong lòng chàng đang phân vân tự trách, bỗng nhiên thấy ruột quặn đau. Dương-Qua vội vàng nín hơi vận dụng nội công cho khí huyết chuyển động chống lại cơn đau, rồi chợp ngủ từ lúc nào không hay biết.

Đến khi giật mình chợt tỉnh thì trời đã tối rồi. Cô nàng áo xanh đang loay hoay lo dọn cơm cho chàng ăn.

Chàng gượng ngồi lại bàn ăn, thấy không có cá thịt mà đơn sơ chỉ có mấy đĩa rau tươi, đậu phụng và mấy trứng vịt luộc, tuy nhiên mùi gạo đồng mới gặt, mùi hương thơm ngát, chén bát sạch sẽ tươm tất và gặp lúc đang đói bụng, nên ăn rất ngon lành.

Chàng ăn luôn một hơi bốn năm bát lớn, miệng khen:

- Cơm sốt canh nóng, rau tươi và được bàn tay cô nương nấu nên ăn thật ngon miệng.

Vì có mang nạ da người bên ngoài nên không thể nào đoán được nét mặt của nàng áo xanh cảm xúc ra sao. Tuy nhiên cứ xem qua đôi mắt sáng rực và chớp lia lịa của nàng, Dương-Qua cũng đoán được nàng đang vui vẻ lắm.

Qua ngày hôm sau, thương tích của Dương-Qua đã giảm hết bảy tám phần. Nàng áo xanh bèn nhắc ghế lại ngồi cạnh giường, lấy kim chỉ vá lại những mảnh áo rách cho chàng.

Vá xong các lỗ rách, nàng cầm lên ngắm nghía rồi cười nói:

- Mặt mày anh trông sáng sủa như thế kia, tại sao ăn mặc áo rách rưới như vậy?

Nói xong, chẳng cần Dương-Qua trả lời, nàng chạy luôn vào buồng đem ra một cuộn vải xanh, ướm cắt cho chàng một cái áo mới để thay đổi.

Nhìn nữ lang thanh y nói năng dịu hiền, thái độ thanh nhã từ tốn tuổi chỉ vào khoản mười tám mười chín, nhưng đối với mình hết sức ân cần chu đáo, không khác nào bà chị hiền săn sóc cho đứa em cưng. Từ nhỏ sớm mồ côi cha mẹ, Dương-Qua cảm thấy cuộc đời cô độc không ai âu yếm chăm nom, đến nay thấy nàng áo xanh tận tình chăm sóc mình, nên Dương-Qua cảm động quá, nhỏ nhẹ nói:

- Chị đối với em tốt quá, em biết lấy gì bồi đáp lại cho xứng đáng với tấm thạnh tình này?

Nàng mỉm cười đáp:

- Một mảnh áo vải đâu có gì đáng kể. Biết quên tánh mạng mình, xả thân cứu người khác, đó mới là một hành động đáng kính và đáng quý chứ.

Dương-Qua không biết nói gì hơn, chỉ nhìn nàng, trong lòng thấy dìu dịu và hân hoan khôn tả.

Suốt buổi sáng, trong phòng vắng lặng như tờ, mãi tới trưa, cơm nước vừa xong, nàng áo xanh lại tới bàn cặm cụi viết nữa.

Dương-Qua tò mò muốn biết nàng viết những gì, nhưng hỏi đã nhiều lần nàng vẫn không chịu nói thật.

Cứ mỗi bận viết xong, nàng chăm chú xem lại, và sau một hồi thẫn thờ suy nghĩ, hình như không vừa ý nên vò nát vứt đi. Hết viết rồi xem, hết xem lại vẽ, sau hình như quá chán nàng khẽ thở dài, dẹp đi không viết nữa và hỏi Dương-Qua:

- Anh thích ăn món gì cứ nói thật, tôi sẽ mua về nấu cho mà dùng nhé. Dương-Qua cảm động quá vội đáp:

- ối, ăn uống thề nào cũng được, miễn no bụng thì thôi, cô đừng quan tâm đến chuyện ấy làm gì cho mệt trí.

Nàng đáp:

- Có chi mà mệt. Anh muốn ăn chi cứ nói nhé, chúng ta đừng quá khách sáo không hay và mất vẻ thân mật đi.

Thấy nàng thật tình cùng mình nên Dương-Qua cười bảo:

- Lâu ngày không được ăn xôi cũng thèm thèm. Nếu chị có nếp thổi ít xôi ăn chắc thú vị lắm.

Nàng cười xòa hỏi:

- Tưởng gì chứ xôi thì dễ lắm. Nhưng anh thích xôi ăn với đậu hay với đường?

Dương-Qua đáp:

- Xôi nào cũng được, miễn có ăn thì thôi, đậu cũng ngon mà đường cũng tốt.

Chiều ấy, Dương-Qua được ăn xôi và tráng miệng bằng chè đậu nấu đường. Đặc biệt là món xôi kèm thêm thịt nướng. Lâu ngày ăn lạ miệng Dương-Qua thấy ngon lạ lùng, vừa ăn vừa khen không ngớt.

Thấy chàng ăn uống thật tình, cô gái khen:

- Tình cờ mà tánh anh lại hạp với tánh tôi quá.

Dương-Qua ngạc nhiên hỏi:

- Hạp nơi chỗ nào?

Nàng đáp:

- Tôi vốn sanh trưởng tại Hồ châu, xứ này có nếp ngon nên nấu xôi dẻo và thơm nhất hạng. Tôi thích ăn xôi nên thỉnh thoảng lại nấu một bữa ăn trừ cơm.

Nghe nàng nhắc lại Hồ-Châu, Dương-Qua bỗng sực nhớ lại ngày nào Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung có đấu với Lý-mạc-Thu tại xứ này, và sau đó gặp Âu-Dương-Phong. Không biết cô gái này là ai, thế nào cũng có gặp qua một lần, và nhất định thế nào nàng cũng biết mình nhưng nghĩ hoài không tìm ra tông tích.

Ăn uống xong, thừa dịp lúc nàng lo thu xếp chén đĩa mang xuống bếp rửa, Dương-Qua bước ngang qua bàn, hết xem mảnh giấy thử nàng ta viết gì. Ngại nàng lên bất ngờ, chàng vội lấy đại một tờ bỏ vào túi đem về giường xem lại.

Ngồi trên giường mở mảnh giấy ra xem, chàng rất ngạc nhiên thấy chỉ vỏn vẹn tám chữ:

Ký kiến quân tử, vân hồ bất hỉ"

(Nghĩa là: Đã gặp người quân tử, có chi vui hơn).

Xem lại hai ba lần, Dương-Qua suy nghĩ:

Lạ nhỉ! Đây là một câu trong kinh Thi, nhưng không biết cô ta định nói gì, hay có dụng ý chi đây. Quân tử này là ai? có lẽ là mình chăng?

Suy nghĩ mãi không ra, chàng bèn lại bàn lấy thêm mấy tờ nữa, nhưng tờ nào cũng vỏn vẹn có tám chữ như vậy mà thôi.

Không biết dụng ý của nàng thế nào, Dương-Qua cứ ngồi lặng thinh suy nghĩ mãi.

Bỗng có người đi lên, Dương-Qua lật đật vò nát mấy mảnh giấy rồi vội nhét vào túi cất dấu.

Nàng cũng lượm tất cả các mảnh giấy còn trên bàn và rơi dưới đất đem đốt đi.

Trong lúc nàng đốt giấy ngoài hiên, thì trong giường Dương-Qua suy nghĩ mãi:

- Đã gặp người Quân tử! Quân tử này là ai đây? Hay là nàng muốn nó là mình. Nhưng cũng vô lý thật. Nàng đã nói chuyện với ta câu nào đâu mà nhận định như vậy được. Nếu không thì cũng vô lý. Vì tại chốn này, ngoài ta ra thì không còn một kẻ thứ ba nào nữa.

Lòng vẩn vơ suy nghĩ chàng thấy người con gái lại trở vào, đến bàn tắt phụt ngọn đèn dầu rồi lững thững đến cạnh cửa sổ ngắm nhìn ánh trăng.

Trăng lên cao. ánh trăng xuyên qua cánh cửa mở hé hé, nhìn trông như một giải lụa bạch trải từ ngoài hiên vào trong phòng.

Cảnh vật đẹp đẽ nên thơ làm sao! Chợt Dương-Qua gọi lớn:

- Chị này.

Nhưng nữ lang điềm nhiên như không hay biết bỏ đứng dậy rồi lững thững bước ra ngoài hiên.

Một chặp sau, từ bên ngoài, một giọng tiên sầu lảnh lót réo rắt trong đêm thâu, vọng từ không gian vô tận, lọt qua song cửa, khiến cho tâm hồn Dương-Qua lâng lâng nửa mê nửa tỉnh.

Chàng suy nghĩ:

- Xưa kia ta gặp nàng cầm ống tiêu đánh cùng Lý mạc Thu, nhưng tưởng nàng chỉ có tài múa tiêu chứ ko ngờ nàng lại có biệt tài thổi tiêu hay như vậy?

Khi còn sống trong cổ mộ, Dương Qua đã được Tiểu long Nữ dạy cho đánh đàn vì vậy nên chàng cũng hiểu qua 1 ít về âm điệu của nhạc khí. Hôm nay ngồi lắng nghe nàng áo xanh thổi bài " Vô xạ thương" theo điệu "kù úc" nguyên văn như sau:

" Chim bỉ kỳ úc,

Lục trúc y y

Hữu phỉ quân tử

Như thiết như tha

Như trác như ma"

Đay là 5 câu trich trong đoạn Kinh thi đại ý nói "nhìn 1 bãi sông kỳ trúc xanh tươi đẹp, khen thay cho ng quân tử đức thẳng như ngọc phải năng giũa năng mài. Và muốn gầy dựng nên nghiệp mai sau, việc đầu tiên của ng quân tử là phải gầy đựng nên vợ chồng"

Tiếng tiêu réo rắt cao vút từng mây, khi trầm trầm như lặng tận đáy biển, khi thoảng qua như ngọn gió thu, dồn dập như sấm gào sóng vỗ.

Tiếng tiêu không phải để rửa sầu cho ng lữ khách, mà hình như nhắc ai rằng ngọc lành em đang treo giá, chỉ mong ng quân tử đừng quá hững hờ!

Nghe tiếng tiêu dìu dặt, Dương Qua cảm thấy hứng thú, bèn đứng dậy vói tay lên tường lấy cây đàn bảy dây đã mắc sẵn, so dây thử phiếm rồi tiện tay khảy luôn 1 bài hoà theo đúng âm diệu của tiếng tiêu đang vũ lộng từ mấy tần mây.

Tiêu đàn cùng hoà nhịp , như đôi chim loan cùng gáy, như đôi uyên ương cùng kêu, Rõ ràng ng thục nữ muốn mượn tiếng tiêu gợi lòng quân tử đang lấy dây tơ đáp lại mối thâm tình.

Trong lúc hai bên cùng hoà điệu réo rắt, bỗng nhiên từ bên ngoài tiếng tiêu im bặt. Dương Qua trong phòng cũng ngừng hẵn tiếng đàn, Chàng ngẫm nghĩ:

- Cô nàng mượn tiếng tiêu bày giãi nỗi lòng. Nay thấy mình dùng tiếng đàn đáp lại nên nàng tạm thấy phỉ nguyền, không thổi nữa chăng?

Khi tiếng đàn lẫn giọng tiêu cùng ngừng tấu, im lặng lại bao trùm cả không gian, căn phòng không trở lại nét hoang tịch cô liêu và khu rừng cũng đắm chìm trong hư vô trầm mình dưới ánh trăng bàn bạc.

Nhưng chờ mãi không thấy nàng về chàng nằm mãi 1 mình nóng lòng trong đợi, trằn trọc thâu canh. Mảnh trăng le lói cứ rọ sáng trần gian, và từng tiếng côn trùng rả rít vang lên xé màn đêm tịch mịch...

Dương Qua bực trí nghĩ vẫn vơ và cứ phe phẩy mãi chiếc quạt mo đưởi muỗi.

Đêm khuya lắm, chàng thiếp đi hồi nào không biết.

Bình minh bừng lên, tiếng oanh vàng đã ríu rít ngoài hiên làm chàng chợt tỉnh giấc, vội đưa mắt nhìn ánh chiêu dương đang bao phủ khắp quanh nhà, từng đợt gió ban mai thoảng qua, làm tâm hồn thêm khoái sảng.

Dương Qua lẩm bẩm:

- ồ, không ngờ đêm qua mình ngủ 1 giấc ngon quá.

Rửa mặt xong, chàng lấy chiếc mawt nạ da người đeo vào. Cô gái áo xanh vừa bưng thức ăn điểm tâm lên, trông thấy, lúc đàu hơi bỡ ngỡ, nhưng một lát nàng nghĩ:

- Định nhát ai mà đeo cái thư nợ ấy vào mặt như vậy?

Tuy hỏi vậy, nhưng trong thâm tâm nàng đoán rằng Dương Qua định mang mặt nạ như nàng, để rồi sau này buộc phải gỡ của mình trước rồi mới gỡ của chàng sau. Kể như thế cũng thủ đoạn đấy chứ. Nhưng tánh ta đâu dễ cho kẻ khác bắt bí được.

Hai người cùng ăn xong, nàng thu dọn chén bát, bưng mâm ra ngoài, và suốt ngày ấy 2 người ko nói với nhau 1 câu chuyện gì hết.

Dương qua cảm thấy trong lòng áy náy và suy nghĩ "Hay là nàng giận lây ta chăng? Tại sao ta có thể gây buồn phiền hờn giận cho ng ơn nhu thế được. Chiều nay phải xin lỗi nàng mới phải."

Chiều tối, nàng thu dọn chén dĩa của bữa cơm tối xong, hình như dự tính bỏ đi đâu đấy. Dương qua vội vàng ân cần nói:

- Cô nương thổi tiêu hay quá, xin cho nghe thêm vài khúc nữa được chăng?

Nàng ngập ngừng 1 chút rồi đáp ngay:

- Nếu anh muốn thì cũng được vậy.

Nói xong, nàng đặt mâm chén bát xuống bàn, đi lấy chiếc tiêu bằng ngọc đem ra rồi lại ngồi ngay bên giường Dương Qua thổi.

Nghe giọng điệu vừa trỗi lên, Dương Qua gật gù trầm trồ và hỏi:

- Đây có phải là điệu "nghênh tiên" không?

Nàng vừa thổi vừa gật đầ, và tiếng cứ lảnh lót vọng ra như nỉ non như ai oán. Dù có mặt nạ, nhưng cứ theo âm điệu mê ly của tiếng tiêu, ai cũng có thể đoán được bên sau chiếc mặt nạ có một khuôn mặt xinh xắn tuyệt vời, không thua chi nàng Lộng Ngọc hay Tây Thi tiên tử.

Nàng mải mê sau nắn từng ngoán tay trên ống tiêu, theo đúng cung bậc tuyệt vời, chàng thì lắng tai nghe đê mê, mắt đắm đuối nhìn những ngón tay thon thon trắng nuột như búp măng nhảy tung tăng trên ống ngọc, tâm hồn như chìm đắm trong 1 khung cảnh thần tiên. Lúc bấy giờ trăng đã lên cao, chênh chếch rọi vào nhà sáng rõ như tấm lụa bạch giăng ngang...

Thình lình cô gái áo xanh buông tiêu trợn mắt kêu "ồ" một tiếng đày vẻ kinh ngạc!

Thấy thái độ nàng bỗng nhiên thay đổi quá đột ngột từ mê ly đến rùng rợn thì Dương Qua thắc mawc chưa hiểu vì sao? Chàng quay đầu nhìn theo phía nàng đang dán mắt trân trối, thì thấy trên tường có in đành rành 3 chiếc bàn tay máu đỏ nhu son.

3 bàn bay lại in hẳn trên cao, nếu không phải hạng có khinh công cao kỳ thì không thể nào vói lên để in tới được.

Chàng ngạc nhiên tự hỏi:

- Tại sao trăng sáng như ban ngày mà lại xảy ra hiện tượng lạ lùng dường ấy?

Dương qua lạ lùng hỏi nàng:

Chị biết ai đã in các bàn tay này không?

Cô gái rầu rầu đáp nhỏ:

- Anh ko hiểu kẻ ấy là Xích luyện Tiên tử sao?

Dương qua trố mắt hỏi:

- Lý Mạc Thu à, chết chửa! Vậy hắn tới từ lúc nào vậy?

Nàng đáp luôn:

- Không biết. Nhưng một khi bà đã in dấu ba bàn tay máu là ngụ ý báo trước sẽ giết đủ ba mạng trong nhà này.

Dương Qua hiểu tường tận, nhưng buột miệng hỏi :

- Ba người sao? ai vậy? Tại sao lại ba người?

Nàng điềm nhiêm đáp:

- Quả đúng vậy. Cứ in 3 bàn tay máu là sẽ có ba người chết.

Dương qua hỏi:

- Trong nhà này, trừ 2 chúng ta ra còn người thứ ba nào nữa?

Nàng chưa kịp đáp, bỗng từ ngoài có tiếng con gái vọng vào:

- Người thứ ba là tôi đây.

Ngay lúc đó từ ngoài mái hiên một ng con gái mặc áo màu hoàng yến vừa bước vào. Ng này mới trông qua thấy thân hình mảnh dẻ.. Dương Qua nhìn kỹ rõ ràng con ng quen thuộc cũ: " Lục vô Song".

Lục vô Song tươi cười nhìn chàng hỏi:

- Anh ngốc của em ơi, tại sao bị thương nặng như vậy?

Ngại sự hiềm nghi của nàng áo xanh, Dương Qua dùng giọng nghiêm chỉnh đáp:

- à, té ra là chị dâu của tôi. Chị dâu đi đâu bấy lâu nay mà biệt tin như vậy?

Chàng cố dùng 2 chữ " chị dâu" để giới thiệu cho nàng áo xanh biết giữa 2 người ko hề có chuyện tà tâm, tình ái.

Lục vô Song quay sang nàng áo xanh nói lớn:

- Này dì, vừa tiếp được thư dì, tôi đã vội đến ngay đây để dì bớt chờ mong.

Rồi ngó Dương Qua, nàng nói tiếp:

- Còn chú ngốc, vì sao mà bị thương như vậy?

Dương Qua chưa kịp trả lời, nàng áo xanh đã đưa tay chỉ 3 dấu bàn tay màu đỏ chói in trên tường trước mặt.

Lục vô Song vừa nhìn thấy đã" ối" lên một tiếng hãi hùng như trẻ nhỏ đi đường gặp ma, mặt mày tái mét. Đến đây, Lục vô Song hồi tưởng lại ngày còn thơ ấu, Lý mạc Thu cũng từng in vết tay máu trên tường nhà ở Lăng Hồ thuộc phủ Hồ Châu và ngay đêm đó Lý mạc Thu đã hạ sát toàn gia ko chừa 1 con vật nào, kể cả gà chó.. Nghĩ tới cảnh rùng rợn đẫm máu ấy, nàng sụt sùi muốn troà nước mắt. Nghĩ đi nghĩ lại 1 chập bỗng nhiên nàng đưa tay giật phăng chiếc mặt nạ trên 2 người quăng mất và nói lớn:

- Trong khi đang lâm vào tình trạng nguy biến, thần chết cận kề mà ko biết lo toan giải nguy cơ, cứ lo đeo thứ này vào để nhát ai vậy?

Khi chiếc mặt nạ vừa rớt xuống. Dương Qua liếc nhìn thiếu nữa áo xanh thấy mặt mày nàng vô cùng xinh đẹp, nước da trắng như tuyết, mũi dọc dừa, đôi mắt đen láy, vừa có duyên vừa đằm thắm, tuy sánh với Tiểu long Nữ ko nổi, nhưng cũng là một hạng quốc sắc thiên hương, trên thiên hạ hiếm ng bì nổi.

Cô gái áo xanh, vốn là em họ của Lục vô Song tên gọi Trình Anh. Trước kia Trình Anh bị Lý mạc Thu bắt cóc suýt nữa nguy tới tính mạng, thời may được chúa đảo Đào Hoa là Hoàng dược Sư cứu thoát. Nguyên thân phụ của Hoàng Dung là Hoàng dược Sư về già bèn đi chu du khắp thiên hạ để thưởng thức cho hết những cảnh đẹp của hoá công, lấy bốn bể làm nhà, khi lên rừng khi dạo núi, lê gót khắp sông hồ, cũng có khi về tận hương thôn viếng thăm những ngôi chùa cổ kính. Khi gặp Trình Anh bị bàn tay độc thủ của Lý mạc Thu, ông ra tay giải cứu rồi thương tình mang về Đào Hoa đảo làm đồ đệ. Thấy nàng xinh đẹp ngoan ngoãn thông minh, nên ông thương yêu không khác gì con gái là Hoàng Dung.

Tuy Trình Anh không thông minh bằng Hoàng Dung nhưng lanh lẹ và khôn ngoan cũng hiếm người bì kịp. Hoàng dược Sư bèn đem truyền thụ nhiều môn võ công thượng thặng và chỉ dạy cách bày binh bố trận nữa. Sau một năm trời học tập, thấy bãn lãnh cũng kha khá, Trình Anh bèn xin phép ông hạ sơn tìm người em cô cậu là Lục Vô Song đã lưu lạc từ thuở bé. Sau khi gặp nhau, Lục vô Song và Trình Anh bèn đưa nhau vào cạnh ven rừng lập nên một ngôi nhà nhỏ xinh xinh, tạm trú qua ngày tháng đồng thời cũng để chạy chữa vết thương trong khi cùng đấu với Lý mạc Thu trong quán độ nọ. ít lâu sau Lục vô Song đi theo một người bạn gái ngao du ở cánh rừng bên cạnh rồi mãi không thấy trở về. Trình Anh đi tìm, bất ngờ lại gặp Hoàng Dung đang bị Kim Luân Pháp Vương áp đảo trong trạn loạn thạch. Nhờ trước kia được sư phụ dạy cho những bí quyết lập trận ngũ hành, nên Trình Anh đã trổ tài thiếp lập lại trận loạn thạch, biến nguy thành an, đuổi Khi Luân cứu được mẹ con Hoàng Dung và Dương Qua đem về đây cứu chữa. Âu cũng là một chuyện nhân quả do con tạo đã xếp bày.. Giá trước khi Dương Qua ko giải cứu cho Vô Song thì chuyến này đời nào Trình Anh lại chịu cứu chàng và tận tâm chạy chữa! Thế rồi cả ba người ngồi quây quần trên giường bàn về chuyện Lý Mạc Thu. Sau khi nhắc lại gốc tích ngày xưa, ba người mới rằng xưa kia người nào cũng có sống trên Đào Hoa đảo và Hồ Châu. Sở dĩ Lý mạc Thu bị đui một con mắt và vì con chim hoả điêu của Dương Qua mổ trúng. Sau này vì dám chống đối cùng Hoàng dược Sư nên bị Trình Anh đánh cho bốn bạt tai thật mạnh. Còn Lục vô Song thì bị Lý mạc Thu buộc tội phản sư môn và ăn cắp cuốn " Ngũ độc kỳ thư".

Thế là cả ba đều là những kẻ tử thù của Xích luyện Tiên Tử. Hôm nay gặp nhau lại, tất nhiên phải tận diệt, việc trả thù không thể nào tránh thoát nữa. Sở dĩ Lý mạc Thu gặp Dương Qua bị trọng thương nơi đây như ko chịu giết ngay mà còn giả ơn, giả nghĩa ra dấu hiệu bàn tay máu cảnh cáo trước khi hạ sát vì nàng nghĩ rằng:" Dương Qua đang bị trọng thương ko còn chiến đấu nổi nữa. Lục vô Song với Trình Anh bản lãnh còn non nớt, đối với ta đâu có nghĩa lý gì. Chi bằng ta cứ đương nhiên hành động như trước khia cho ra vẻ anh hùng nghĩa hiệp. Dù sao ba người cũng không thể nào trốn thoát được nổi nữa. Như thế thù xưa đã rửa mà hành động của mình lại có vẻ cao thượng và kể cả hơn.

Trình Anh lo ngại nói:

- Tôi nhớ lại ngày trước hắn vào giết phá nhà chị ngay lúc ban ngày. Lần này có lẽ hắn cũng đến trong buổi sớm mai, vào khoảng cuối giờ mão mà thôi. Hay hơn là chúng ta lợi dụng con ngựa của Dương ca chạy hay cùng nhau tẩu thoát trước cho rồi.

Lục vô Song lắc đầu nói:

- Làm sao được, trong khi anh ngốc đang đau nặng, ko đi được đâu.

Dương Qua than nhỏ:

- Cỡi ngựa mà còn ko đủ sức thì làm sao có thể đánh nhau được nữa. Phen này có lẽ khó thoát khỏi tay Lý mạc Thu.

Lục vô Song đề nghị:

- Hay là em chịu khó cõng Dương huynh chạy về một phía, còn chị thì tìm cách đánh lừa dụ nó đuổi theo đường khác. Như vậy may ra cứu được mạng anh chàng. Trong ba đứa mình chắc nó ít quan tâm đến chị, nên nếu rủi bị bắt chắc có lẽ cũng không đến nỗi nào đâu. Chứ em và Dương huynh mà bị bắt thì đừng hòng còn sống sót với Lý mạc Thu

Thế là 2 chị em cứ bàn qua tán lại, ai cũng muốn lãnh phần hy sinh chận giặc và nhường cho người kia đem Dương Qua đi trốn. Thấy hai người tuy ít tuổi nhưng có thâm tình cùng mình, Dương Qua cảm động vô cùng và nghĩ bụng:

- Họ tuy nhỏ nhưng nghĩa khí lớn nên trong lúc thập tử nhất sinh mới tranh nhau mạo hiểm vì mình. Như vậy dù ta phải chết vì tay Lý mạc Thu cũng vui dạ, nỡ nào để phiền tới 2 ng mà tìm phương trốn thoát.

Khi ấy Lục vô Song nhìn Dương Qua nói:

- Anh ngốc ơi, sao anh lặng thinh như vậy? Bây giờ anh muốn tôi hay em tôi cõng anh, xin cứ nói thật ra xem sao? Mau lên chứ sắp xếp không còn kịp nữa đấy.

Dương Qua đang ngập ngừng chưa đáp thì Trình Anh đã cướp lời:

- Chị này kỳ quá, lúc này mà còn gọi anh ấy là chàng Ngốc mãi, không sợ anh buồn lòng sao?

Lục vô Song xì một tiếng đáp:

- Dì đã dùng thư từ tỏ ý cùng chàng nên cứ bênh chầm chập. Ta đã biết rõ lắm rồi. Anh Ngốc là người của dì đấy chứ ai có tranh mất đi đâu? Vậy bây giờ dì nhận cõng anh ấy trốn đi nhá.

Trình Anh mắc cỡ hai má ửng hồng, sau mới nói được mấy lời chữa thẹn:

- Anh ấy đã gọi chị là chị dâu, thì bổn phận của chị dâu phải cứu em chứ còn đùa cho ai nữa? Xưa kia Quan Công phò nhị tẩu quá ngũ quan, thì ngày nay nhất tẩu không phò Dương thúc thúc lánh nạn được hay sao?

Lục vô Song nghe Trình Anh nói câu này thẹn quá, mặt mày đỏ như gấc. Nàng dùng tay đẩy mạnh Trình Anh ra xa, nhưng nàng đã lanh chân né được. Cảnh tượng giữa ba người trong phòng lúc này có vẻ hồn nhiên vui nhộn chứ ko có gì là nặng nề nguy hiểm hết. Hai cô gái cứ đùa nhau cười khúc khích mãi, khiến Dương Qua thầm nghĩ:

- Bất tiện quá, nếu để Trình cô nương đem ta đi thì Lục vô Song sẽ nguy khốn, trái lại nếu để Lục cô nương đem ta trốn thì Trình Anh làm sao khỏi chết vì Lý mạc Thu? Đằng nào cũng có một nàng hy sinh vì mình. Như thế không được đâu.

Nghĩ vậy chàng cất tiếng nói:

- Hai cô đối với toi tốt quá, ơn này tôi không dám quên. Vậy bây giờ hai cô cứ tìm đường thoát thân đi, để một mình tôi ở lại đối địch cùng hắn. Lý mạc Thu cùng sư phụ tôi vốn có tình đồng môn, chẳng lẻ y lại ko nghĩ tình sư muội mà giết tôi hay sao?

Nghe chàng nói, Lục vô Song lắc đầu gạt ngay:

- Tôi ko trốn đi đâu hết.

Dương Qua biết cả hai đều có lòng khí khái, nhất định ko người nào bằng lòng bỏ mình lại để thoát thân một mình nên nghiêm giọng nói:

- Thôi, đã thế thì chúng ta cùng ở lại hết, hoặc cùng chạy trốn một lần luôn thể. Nếu hắn đuổi theo, chúng ta sẽ quay lại cùng chiến đấu, sống chết tuỳ số mạng, có chi mà lo.

Lục vô Song tán thành ngay:

- Hay lắm, hay lắm, thà chết cùng nhau còn hơn là sống riêng một mình.

Trình Anh trầm ngâm một lúc rồi đáp:

- Không tiện đâu, Lý mạc Thu chạy mau như gió, mình ko thể nào chạy thoát khỏi tay nó. Nếu bỏ đi, rủi nó bắt gặp dọc đường thì thật là bất tiện, chi bằng chúng ta cứ dưỡng sức nơi đây, chờ nó tới. Như thế thì mình khỏe mà chờ người mệt, chẳng lợi hơn sao?

Dương Qua vỗ tay khen vùi:

- Cô có kiến hay lắm. Cô có tài về ngũ hành độn pháp, ngay Kim Luân Pháp Vương mà còn thua huống hồ chi Lý mạc Thu.

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 41 : Lại gặp lại nhau

Câu nói của Dương Qua làm cho 2 nàng thấy rõ ràng trước mặt một đường đối phó rất kiến hiệu. Cả 2 bằng lòng ở lại đối phó chứ ko đi đâu hết.

Trình Anh nói:

- Trận loạn thạch mà Quách phu nhân đã bày ra giúp cho tôi dựa theo mà bổ cứu nhưng chỗ cần thiết. Chứ nếu một mình tôi mà đem ra bày thì ko làm nổi. Tuy nhiên chúng ta cũng cứ làm thử xem sao? ơn trời phù hộ tới đâu hay tới đó. Bây giờ chị giúp em một tay nhé.

Thế rồi cả 2 nàng đi tìm cuốc xẻng chạy ra khỏi căn nhà, cùng đào đá súc đất làm theo sơ đồ của Trình Anh phát hoạ. Hì hục không bao lâu, tiếng gà đã bắt đầu gáy sáng. Hai người mồ hôi nhễ nhãi, quần áo lấm lem, nhưng thế trận cũng đã bày xong rồi. Trong qua đã thấy huyền diệu lạ thường không khác gì trận loạn thạch của Hoàng Dung hôm nọ.

Xem qua ngắm lại một chặp, Trình Anh nghĩ bụng:

- Tài hiểu biết của Hoàng Dung hơn mình gấp bội, nhưng nếu có bà ở đây, xem trận này, chắc cũng phục ta ít nhiều chứ chẳng không đâu.

Bụng nghĩ thế, nhưng bên ngoài vẫn điềm nhiêm ko dám thố lộ cho Dương Qua và Lục vô Song biết vì ngại 2 người chê cười mình là ng tự cao tự đại.

Dưới ánh trăng sáng rõ, Lục vô Song nhìn thấy vẻ mặt của Trình Anh có vẻ tự mãn và vui vẻ thì cũng mừng thầm, tuy nhiên nàng cảm thấy e ngại cho mình, nên vội bước vào nhà lục bọc lấy ra một cuốn sách, cầm giao cho Dương Qua và nói:

- Cậu Ngốc, hãy xem , đây là cuốn Ngũ độc kỳ thư của sư phụ tôi đấy. Dương Qua thấy cuốn sách ấy bao bằng một cái bìa đỏ như màu huyết. Chàng đang ngẫm nghĩ chưa nói gì thì Lục vô Song nói tiếp:

- Tôi nói dối cùng sư phụ là bọn Cái Bang đã cướp mất cuốn sách này mất rồi. Nay muốn khỏi trở về tay bà ấy, thì anh nên đọc xong rồi đem đốt đi cho xong chuyện...

Dương Qua thấy nàng buồn, cũng ko nói gì hơn, chỉ gật đầu rồi đưa tay nhận

cuốn sách. Lục vô Song lại lấy trong bọc ra một vuông lụa rồi dặn nhỏ Dương

Qua: Nếu chẳng may bị sa vào tay Lý mạc Thu, thì khi nào hắn định giết anh,

hãy trao tấm lụa này cho hắn may ra khỏi chết." Dương Qua cầm tấm lụa xem kỹ,

thấy một mặt tơ sù lông chứ ko được láng như lụa dệt trong nước. Có lẽ đay là

một thứ lụa của nước ngoài. Trên mặt lụa có thêu một đoá bông hồng rất đẹp,

nhưng bông hồng bị cắt làm đôi, chỉ còn vỏn vẹn có một nữa mà thôi.

Dương Qua ko chịu nhận, vì chẳng hiểu đây là vật gì. Chàng trả lại cho Vô

Song và nói: -Vật chi đây, tôi ko hiểu gì hết.

Lục vô song đáp: Nhờ anh trao vật này cho Lý mạc Thu, được ko?

Dương Qua gật đàu, đưa tay tiếp nhận rồi để bên gối cạnh đầu giường.

Lục vô Sông ko chịu. Nàng lấy miếng lụa rồi vạch áo Dương Qua nhét vào

bụng. Khi tay nàng chạm vào thịt của Dương Qua, nàng bỗng có cảm giác khác

hẳn, trong ng thấy nóng bừng bừng những cảm giác hồi 2 người "tiếp cốt" trên

quãng đường Quan Thiểm, cùng chung chăn chung gối, bỗng gợi lại trong ký ức

nàng, khiến nàng cảm thấy cõi lòng dào dạt, và tim đập mạnh. Nhưng vì hoàn

cảnh bất tiện, nàng ko còn cách nào hơn là đắm đuối nhìn chàng rồi từ từ bước

ra khỏi cửa. Chờ một chặp cho sóng lòng lắng dịu, Dương Qua mở cuốn Ngũ độc

kỳ thư ra xem, thấy sách cũ quá, bao nhiêu tranh dính với nhau và giấy đã ngã

màu vàng sậm. Trong các tờ đầu, sách có chép nhiều phương thuốc khắc chế và

trừ các loại thứ độc, chế ra hơi độc, và luyện thuốc chữa độc kể cả nọc rắn

nữa.

Xem hết cuốn sách từ đầu chí cuối, Dương Qua chép miệng than thầm:

Mẹ ta đã chết vì nọc rắn. Giá lúc trước ta xem được sách này thì mẹ ta ko

bị chết, và ngày nay ta đâu đến nỗi trở thành một đứa con mồ côi mồ cút, tứ

cố vô thân như thế này. Càng nghĩ càng chua xót cho thân phận mình, chàng cảm

xúc quá, sục sùi khóc, nước mắt rơi xuống làm nhoè cả mấy trang giấy cũ. Bỗng

có tiếng kẹt nơi cửa, Dương Qua giật mình ngó lên. Trình Anh bước vào, mặt

mày tiều tuỵ, hai gò má hãy còn ngấn lệ đến gần giường, rút trong bọc ra một

miếng lụa đưa cho chàng và bảo nhỏ:

Anh hãy giữ kỹ tấm lụa này. Khi nào bị Lý mạc Thu bắt anh chỉ cần đưa

mảnh lụa này ra thì tự nhiên thoát nạn. Dương Qua ngạc nhiên thấy miếng lụa

này giống hệt như nửa mảnh của Lục vô Song vừa trao cho mình. Tuy ngạc nhiên,

nhưng chàng cũng cầm lấy. Trình Anh hình như bẽn lẽn lắm, bèn ghé miệng gần

tai chàng dặn nhỏ:" Chàng đừng nói cho chị tôi biết chuyện này nhé." Nói dứt

lời, nàng đi thẳng ra ngoài. Dương Qua lấy hai mảnh lụa của 2 người vừa giao

cho mình đem ướm thử thì đây chỉ là một miếng xé làm đôi. Nhìn 2 mảnh lụa

gấm, chàng bâng khuâng dự đoán:" Một mảnh bông hồng thêu trên lụa gấm, mảnh

lụa lại xé làm đôi do mỗi người giữ một nửa. Khi 2 người cầm giao cho mình

thì ai cũng có vẻ bẽn lẽn và căn dặn mình ko nên cho người kia biết. Lạ một

nổi là họ cam đoan khi đưa mảnh lụa gấm cho Lý mạc Thu thì nhất định ko bị

giết? Như vậy là sao? Thật là kỳ dị và vô cùng bí mật. Chàng cứ ngồi lặng yên

trên giường suy nghĩ mãi, bỗng đâu tiếng gà đã gáy tan canh, ngoài trời ánh

bình minh đã bắt đầu le lói. Sau tiếng gà gáy lại có tiếng tiêu của ai văng

vẳng lên khiến Dương Qua suy nghĩ:

Chắc nàng Trình Anh đã bài trí xong bố trận địa, nên mới đem tiêu ra thổi

giải sầu đây chăng?

Chàng lắng tai nghe kỹ thì đó là bài " lưu ba", tiếng tiêu nghe mềm mại

uyển chuyển, nhưng bên trong ko có tý gì sầu bi, hình như kể thổi tiêu ko gợn

tí ưu phiền. Lập tức chàng cũng lấy cây thất huyền cầm ra hoà theo, tiếng

tiêu hoà lẫn giọng đàn hợp thành một nhạc điệu mê ly, khi thoảng qua như gió

lướt, khi dồn dập như sóng ba đào. Người sành âm điệu nghe tiếng tiêu đàn hoà

điệu cũng phải tấm tắc khen thầm, 2 kẻ tri âm, càng hoà càng thêm hứng thú.

Lục vô Song đang ngồi trong các mô đất trong thổ trận, lắng tai nghe em cùng

Dương Qua hoà tấu. Mặt trời đã lên dần, phương Đông đỏ rực như nhuộm màu, Lục

vô Song nghĩ bụng:

-Lát nữa đây Lý mạc Thu sẽ tới, mạng ta ắt ko còn, nhờ vuông lụa gấm

Dương Qua và em ta sẽ sống sót được. Âu cũng là một niềm an ủi cho ta nếu Lý

mạc Thu nhìn thấy kỹ vật cũ mà tha cho 2 người.

Bản tính của Lục vô Song xưa nay hay ganh tỵ, thế mà đối với cô em Trình

Anh nàng lại hết lòng hy sinh nhường nhịn, lúc nào cũng mong cho em được cùng

Dương Qua kết duyên chồng vợ, còn nàng dù có thác cũng vui lòng, không lời

oán trách. Nàng đang suy nghĩ viển vông, bỗng có tiếng động từ phía ngoài,

nàng ngước mặt nhìn ra phía thổ trận thì có một bóng thoáng qua, một đạo cô

mặc bào trắng, tay cầm phất trần đứng sừng sững tà áo theo gió mai thổi tung

phần phật.

Lục vô Song " ồ" lên một tiếng khẽ rồi từ từ rút trường kiếm đứng dậy.

Lúc ấy Dương Qua đang mãi mê trong cuộc hoà đàn. Tiếng tiêu hoà lẫn giọng đàn

khi bổng khi trầm như suối reo như nước chảy, bỗng nhiên giọng tiêu nín bặt,

vì Trình Anh bị tiếng đàn của chàng cám dỗ, phải dừng tiếng tiêu lắng nghe.

Ngoài tiếng đàn, nàng ko còn biết đến việc gì khác nữa. Vì vậy mà khi Lục vô

Song" ồ" lớn và đứng dậy tiếp chiến, nàng cũng ko ngờ hay biết.

Lý mạc Thu vừa đến cũng hấp dẫn vì tiếng đàn, đứng lặng yên lắng tai

nghe, không cử động. Ngày còn son trẻ, Lý mạc Thu đã từng cùng người yêu là

Lục Triển Nguyên hoà nhạc với những âm điệu tương tợ, cho nên ngày nay mỗi

khi nghe tiếng tiêu tiếng đàn trong nhạc điệu" lưu ba" thì nàng cũng cảm thấy

tâm hồn say sưa ngây ngất và hồi tưởng lại những thú say sưa của mười năm cũ đã khiến cho con tim rào rạt bao niềm yêu thương của buổi hoa niên.Tiếng đàn quả có một mãnh lực vô cùng huyền diệu, người đang vui nghe đàn, thấy tâm hồn thư thái hân hoan, người đang buồn nghe tiếng đàn lại sinh ra sầu đau yếu thế. Lý mạc Thu đang chán đời, nên khi nghe tiếng đàn ko cầm được cảm xúc,

bỗng ôm mặt oà lên khóc mùi. Quả là một điều ngoài sức tưởng tượng của Lục vô

Song. Nàng ko ngờ một con người háo sát, xem mạng người không bằng con vật

như Lý mạc Thu lại bị tiếng thất huyền cầm của Dương Qua lôi cuốn đến nổi

khóc nức nở như vậy. Lý mạc Thu tới đây ko ngoài mục đích tìm kẻ thù để hạ

sát, không ngờ bị tiếng tiêu giọng đàn lôi cuốn, nàng trở thành như người

sương phụ trông chồng, mãng ngóng trông không thấy chồng đâu đành phải khóc

lớn để trút bớt nỗi ưu tư đang dồn dập trong lòng. Thái độ của Lý mạc Thu

khiến Lục vô Song liên tưởng tới phận mình cũng cảm thấy lòng đau như cắt.

Lý mạc Thu cứ khóc, Dương Qua cùng Trình Anh cùng trỗi khúc" hành vân"

rồi sang " lưu thủy", nghe như tiếng ngọc reo, sắt, vàng va chạm. Thình lình

Lý mạc Thu nín im ko khóc nữa và cất tiếng ca:

- Vấn thế gian,

Tình thị hà vật

Trực giáo sinh tử tương hứa

Thiên Nam địa bắc song phi khách

Lão si kỷ hồi hàn thử

Hoan lạc thú

Ly biệt khổ

Tựu trung canh hữu si nhi nữ

Quân ưng hữu ngữ

Diểu vạn bạch từng vân,

Thiên Sơn một tuyết,

Trích ảnh hướng thuỳ khứ"

Tạm dịch:

" Hỏi thế gian

Tình ái là gì nhỉ?

Sống chết một lời hứa luỵ

Nam bắc phân chia hai đàng

Mưa dầm nắng dãi quan san

Cánh chim bạt gió muôn ngàn khổ đau

Chung qui một kiếp tình sầu

Khi vui gang tấc

Ngàn sầu biệt ly

Biết cùng ai biết ai

Biết nói gì?

Chỉ trông mây núi, người đi không về"

Tiếng đàn giọng tiêu đang hợp tấu những bản đầy hoan lạc, đôi trai gái

đang mãi mê trong giấc mộng mê ly, ko ngờ Lý mạc Thu lai xen vào những lời ca

ngâm vô cùng bi đát, với giọng sầu bi ai oán khiến cho cung điệuvà ý nghĩa

trái hẳn với khúc nhạc Lưu ba thu thuỷ. Giọng hát của Lý mạc Thu cũng hấp dẫn

được Trình Anh, khiến nàng cũng chuyển theo âm điệu ấy. Dương Qua không thể

cưỡng được cũng nắn giây so phiếm hoà theo. Lý mạc Thu càng hát giọng càng

cao vút, khiến cho Dương Qua cảm xúc quá không còn theo được nữa. Chàng buộc

miệng nói lớn:

Em hãy tấu những khúc vui tươi chứ ko nên tấu những bản nhạc ai bi sầu

não quá. buồn quá ko chịu được. Trình anh nghe nói ngừng tiêu tìm lại âm điệu

cho thích hợp. Vừa nghe tiếng tiêu nín bặt, Lý mạc Thu mỉm cười hãnh diện và

nghĩ thầm:

Thấy chưa, khi cô nương đã ra tay thì dù chúng bây có vui cũng hoá ra

buồn, và hễ buồn thì cứ khoanh tay ngồi đó cho ta nắm cổ đem đi cho rồi,

khỏi phải nhọc công phí sức. Suy nghĩ xong, nàng cảm thấy trong lòng cũng vui

vui và hát những khúc hào hứng hơn trước. Dương Qua so giây nắng phiếm đàn

những bài hát vui tươi như ngọc reo, đẹp như hoa nở, êm dịu như oanh hót, và

Trình Anh cũng thổi những điệu khác, bao nhiêu khúc tiêu sầu đều không còn

nữa. Thấy 2 người tấu lại những khúc hoan lạc như cũ, Lý mạc Thu nổi nóng cất

tiếng hát vang, như hò như hét, nghe chát cả màng tai. Dương Qua bị âm thanh

hỗn loạn làm rối trí không đàn được mà Trình Anh cũng ngưng bặt tiếng tiêu.

Cả 2 cùng hồi hộp chờ giờ phút quyết liệt.

Trong bọn có Lục vô Song là kém nhất. Nàng ko biết vì sao Lý sư phụ đang

khóc bỗng cất tiếng hát. Sau khi nghe hát nửa chừng nàng dự đoán:

-Có lẽ bà định dùng giọng hát vừa khóc vừa cười để lung lạc tinh thần đối

phương dây chăng?

Cuối cùng thấy Dương Qua và Trình Anh cố sức hoà tấu mà ko át nổi giọng

ca của Lý mạc Thu, Lục vô Song lại nghĩ khác:

-Có lẽ sư phụ thấy thổ trận quá ư lợi hại, muốn dùng lời ca làm thác loạn

tinh thần kẻ địch, khiến cho 2 người ko còn tinh thần chiến đấu, lơ là việc

phòng thủ để thừa cơ xông vào hay chăng?

Rồi nàng lại tự trách:

-Tiếc rằng ta còn kém quá, âm nhạc lại chẳng biết tý gì để giúp được 2 ng

trong muôn một.

Lý mạc Thu thấy đã dùng thủ đoạn " bi hoan kinh cụ" mà ko khắc phục nổi

đối phương, bèn chuyển dần ra " sân si" để mê hoặc. Quả nhiên trong khi nàng

dùng tiếng hò như ra lệnh, tiếng hét như thét vào tai khiến cho 2 người mất

hẳn bình tĩnh, cả Dương Qua và Trình Anh đều ko thể nào chủ động được nhịp

điệu. Thế là tiếng tiêu loạn vận, tiếng đàn ngang giây. Dương Qua cố chăm chú

tập trung ý chí để so lại giây lựa phiếm. Lý mạc Thu thừa dịp này tiến tới

sát vách, tung một chưởng dập bể tấm vách nhảy vào nhà. Trình Anh bày thổ

trận cốt để án ngữ hai chữ Đông Tây là hai cửa chính ra vào căn nhà, chứ ko

nghĩ tới việc đề phòng vách hậu. Khi thấy Lý mạc Thu tung chưởng phá vách

xông vào nhà cả hai nàng đều nhất tề rút kiếm xông vào tiếp vận cho Dương

Qua. Thấy Lý mạc Thu phá vách xông vào, Dương Qua giật mình hãi sợ nhưng vì

còn đau nặng ko chống đỡ nổi, chàng suy nghĩ:

- Thôi đành liều vậy chứ sao. Trời sanh mỗi ng đều có số mạng hơi nào lo

lắng cho nhọc trí.

Nghĩ xong chàng điềm nhiên ngồi trên giường so giây đàn bản " Đào yêu"

Tiếng đàn chàng gãy nghe rõ ràng như giọng hát, cung điệu tha thiết, ý tứ dồi

dào, từ đường tơ phát ra những thanh âm véo von réo rắt như giọng oanh reo:

" Đào chi yêu yêu

Thược thược kỳ hoa

Chi tử vu qui

Kỳ nghi gia thất"

Tạm dịch:

Hoa đào thắm sắc

Thược được mỹ miều

Ai đi, tìm lấy chữ yêu

Xây niềm hạnh phúc, vui chiều vu qui"

Đó là bài" từ" phỏ theo đàn để hoà tấu trong khi trai gái kết hôn. Chàng đánh

liều với thần chết và đàn. Vừa đàn vừa suy nghĩ:

-Nếu phen này thoát chết, ta nguyền tìm Tiểu long Nữ quay về cổ mộ vui

với nếp sống trong rừng xanh sớm hôm chuông mỏ ngày thánh sắt cầm tiêu dao tự

toại. Cảnh sống như vậy kể ra cũng thần tiên lắm rồi.

Xúc động tâm linh, tiếng đàn chàng đang gãy bỗng nhiên đổi giọng hình như

có lẫn tiếng chuông mõ đâu đây, khiến cho kẻ đứng ngoài có cảm giác hình như

đây là đêm hợp cẩn của đôi trai tài gái sắc và chinhs nhạc công đang tấu

khúc" Yến hỉ tân hôn" ( hãy vui duyên mới)

Lý mạc Thu nhìn thấy Dương Qua bình tỉnh đàng hoàng, vui vẻ ngồi gãy đàn,

hình như ko có việc gì đã xãy ra, và cũng ko hề lưu tâm tới mình là kẻ đại

thù đang đứng ngay trước mặt. Vì vậy bỗng nhiên Mạc Thu cảm phục lòng can đảm

của chàng tuổi trẻ, rồi say mê với nhịp đàn mê ly, ngây ngất với vẻ mặt xinh

trai của chàng, nên trong lòng nàng cũng cảm thấy một mối yêu đương dào dạt

như đang bừng dậy trong lòng.

Dương Qua càng hân hoan, tiếng đàn càng tươi, khiến bao nhiêu nét u buồn

giận dữ trên mặt Lý mạc Thu bỗng nhiên biến hết. và nàng đã biến thành 1 bạn

tri âm của cây thất huyền cầm. Lục vô Song đứng ngoài trông thấy cảnh tượng

bỗng nhiên biến đổi một cách quá lạ kỳ thì cất tiêngs thưa để xin lỗi, mà

cũng vậy để giảng hoà:

-Kính thưa sư phụ, cuốn Ngũ độc kỳ thư do bọn Cái bang cướp mất chưa tìm

ra được.

Dương Qua tay trái nhấn trên phím đàn, tay phải cầm cuốn Ngũ độc kỳ thư

trao cho Lý mạc Thu, miệng nói:

-Hoàng bang chủ là ng trượng nghĩa, thấy sách này chép những tà thuật hại

ng nên cấm trong Cái bang ko cho ai đọc lấy chữ nào, và sai tôi trao lại cho

cô hôm nay đây.

Lý mạc Thu run run mở ra xem thấy ko rách một tờ, ko hư 1 chữ. Bấy giờ

nàng mới tin rằng kỷ luật của Cái bang quả thật nghiêm mình và hành động của

Cái Bang là chính đại, y như thiên hạ đồn xưa nay. Mối hờn căm của nàng đối

với 3 ng đã giảm hết bảy phần. Ngay lúc đó, Dương Qua lại lấy trong bọc ra

một gói nhỏ trải ra hai mảnh lụa gấm trên bàn và nói tiếp:

-Xin cô nhận lấy 2 thứ này nữa là được việc.

Lý mạc Thu mặt đi, cầm cây phất trần khều hai miếng gấm lại, rồi đưa tay

ra lượm. Trong lòng nàng lúc nầy đang rào rạt nhiều nỗi niềm bí ẩn. Trình

Anh, Lục vô Song hai ng cùng nhìn nhau, gượng đỏ mặt trong lòng thầm trách:

" Thế mà giấu mãi, ko ngờ cũng say mê chàng như tôi"

Cả hai chị em cô cũng đều mê Dương Qua, nhưng chưa ai dám thó lọ tâm

tình. Nay bị Dương Qua đem phơi bày ra giữa thanh thiên bạch nhật, có bằng cớ

rõ ràng cả hai, nên ng nọ nhìn ng kia lườm nguýt nhau, nhưng mắt cô nào cũng

tràn đầy vẻ yêu thương. Trong căn nhà lúc này thật đượm màu gió trăng, tình

tự, ko có gì cà oán thù, chém giết như lúc ban sơ bị Mạc Thu phá phách. Trình

Anh và Lục vô Song tuốt gươm định chống. Dương Qua lúc này lại gảy khúc" Đào

yêu" nghe rất vui tai xứng ý.

Bỗng nhiên Lý mạc Thu xé làm ba tư mảnh gấm, rồi nói:

Chuyện này đã qua rồi, đừng nói đến làm chi !

Nàng tung những mảnh gấm vụn bay toả ra, như vườn hoa lệ gặp cơn gió bay

rơi xuống.

Dương Qua nhìn lên, nghe "phạch" một tiếng. Một dây đờn bị đứt lúc đó. Lý

mạc Thu cất tiếng nói:

-Dương Qua, ta muốn giết mi lúc này, dễ như trở bàn tay, nhưng mi đã bị

thương, ta ko nỡ đến võ nghệ hạ sát, vì chết như thế mi sẽ ko phục ta !

Nàng vừa dứt tiếng là nghe" phựt phựt" cả năm dây đờn đều đứt cả!

Lý mạc Thu mỉm cười , nói:

-Lúc này ta cho phép bọn bay cứ thoả thích vui đùa, rồi để lát nữa ta sẽ

cho ba đứa chụm đầu lại cùng khóc.

Trên mặt đàn lúc này chỉ còn trơ lại một dậy, Dương Qua tuy đờn thạo

nhưng gảy sao được nữa.

Lý mạc Thu giục: Gảy đi, dù thế nào cũng phải gảy đi, để tạ lòng tri kỷ

trước khi về âm phủ. Dương Qua đưa tay bầp bành, chỉ nghe được 2 tiếng " tiên

ông" Lý mạc Thu nói tiếp": Tiên ông hay tục khách chi chăng nữa, ta cũng giết

mi trước. Thật lạ! Nàng vừa dứt câu là dây đàn cũng dứt nốt.

Nàng vung phất trần định đập vào đầu Lục vô Song.. Trình Anh thấy thế liền

giơ gươm lên gạt đỡ định liều chết với Lý mạc Thu. Dương Qua biết tánh mạng

mình chưa đến ngày tận số, nên cất tiếng vừa cười vừa nói:

-Ba chúng ta được chết chung một ngày giờ với nhau, còn hơn cô ta sống lẻ

loi một mình trên thế gian!

Đoạn chàng cất tiếng gọi lớn: - Hai nàng lại cả đây để cùng tôi chết một

chổ.

Trình Anh và Lục vô Song chạy lại đứng gần Dương Qua. Dương Qua tay trái

nắm Trình Anh, tay phải đỡ Lục vô Song và nói: Ba đứa mình cùng chết như vậy,

được xuống suối vàng thiệt là vui vẻ. Cần gì phải chống với con ác phụ chi

cho dơ dáy."

Lục vô Song cười nói: -Chú ngốc nói mà phải đấy. Bây giờ chúng ta thử làm

anh em Lưu bị, thực hiện lời thề: " Nguyện đồng tử, bất nguyện đồng sanh" xem

sao!

Trình Anh cũng tươi cười, rồi hai chị em dang tay ôm lấy Dương Qua. Ba

tâm hồn lúc này như thư thái, ko còn lo sợ gì cả.

Riêng Dương Qua thấy ng ấm hẳn lên, hình như được bồi thêm sinh lực.

Chàng thầm tiếc: "giá được Long cô nương cùng ở đây nữa thì hay!". Tuy nghĩ vậy, mà bề ngoài chàng làm ra vẻ âu yếm, thân mật với Trình Anh và Lục vô Song. Mặt của Lý mạc Thu lúc này lạnh như tiền, nàng thầm nghỉ:

- Tui này nói có lý lắm. Yêu nhau mà được chết bên nhau, còn sung sướng gấp trăm lần sống cô độc trên thế gian.

- Ta quyết làm cho chúng bây trước khi chết phải đau khổ ko thể để cho chúng bây thoả mãn với cái chết đó.

Nghĩ vậy, nàng dùng phất trần phát nhẹ một cái rồi hát.

- Hỡi thế gian!

Chữ tình là lụy..!

Tiếng hát nghe sao buồn như tiếng cú kêu đêm, thảm như hồn ma bơ vơ ngoài nghĩa địa, nhiều lúc tiếng nấc của nàng như đứt ruột gan, ko khác gì tiếng khóc của ng đàn bà khi thấy xác chồng bỏ vào hòm, như tiếng oan hồn gào trong cảnh khuya rừng vắng.

Dương Qua và hai cô gái đang chung vai sát cánh âu yếm nhau để chờ chết, bỗng nghe đến tiếng hát ai cũng buồn rười rượi. Tuy nhiên, Dương Qua bản lĩnh cao hơn, chàng cố nén buồn cười đắc ý. Trình Anh và Lục vô Song khi nghe tiếng hát lòng buồn rười rượi, và mắt dầm dề ngấn lệ. Tiếng hát Lý mạc Thu mỗi lúc một buồn, gợi những âm thanh áo não, như gợi vào lòng ng một cái gì xót xa, oán hận. Ngay như Dương Qua là kẻ có được con tim cứng rắn, cũng ko sao chịu nổi nhịp điệu, và dòng lệ rướm rướm chảy. Lý mạc Thu dụng ý làm cho ba ng đau khổ trước khi chết, cho nên nàng đợi đến khi nào ba con tim kia mềm nhũn, nàng sẽ vung phất trần kết liễu con con " Ma tình ấy". Trong lúc đó tiếng hát của Lý mạc Thu, bỗng nghe có tiếng cười lanh lảnh từ ngoài vọng vào. Tiếng đó, một ng vừa vỗ tay vừa hát. Tiếng hát nghe rõ là tiếng của đàn bà còn ít tuổi, đặc biệt là nhịp và giọng rất đúng điệu, chẳng khác một ca nhi:

- Bói xem chồng có yêu ta ko nào?

Thầy rằng: hai má hồng đào,

Lộn chồng, chồng đánh lộn nhào suốt đêm.

ối chao nào muốn chồng hiền

Lấy chồng, chồng dữ, là tiên trên trời.

Tiếng hát nghe lảnh lót, giọng rất lẳng lơ, lãng mạn, làm át cả giọng bi ai, sầu thảm của Lý mạc Thu. Vừa lúc người ấy bước ra cửa, mọi ng nhìn ra, thì đó là một cô gái đầu tóc bù xù, đôi mắt tròn to như mắt sư tử, hăm hở cười như một con đười ươi, tay cầm bó đuốc vung ve, vung vẩy. Người hình dáng kỳ quái, mà lại vượt qua thổ trận đi vào giữa nhà, Lý mạc Thu quá kinh ngạc thầm nghỉ:

-Con nầy có lẽ là cùng bọn với 3 đứa trong nhà nầy chăng? Nếu ko phải, sao hắn biết lối vượt vào được kỳ môn độn giáp của thổ trận.

Nghĩ như thế, Mạc Thu tự nhủ:

- Câu hát đúng là người lẳng lơ, đâu phải con nhà lễ giáo, còn mặt mũi xấu như Chung vô Diệm ai thèm lấy mà gọi lộn chồng chứ!

Nàng tự nhủ xong định cất tiếng mắng, thì Trình Anh đã lẹ miệng nói trước:

- Sư muội ơi! Người này định hại chúng tôi, xin sư muội cứu cho.

Cô gái đầu bù, mắt lồi nầy chính là học trò của Hoàng dược Sư có biệt hiệu là "cô ngốc". Nghe Trình Anh yêu cầu, cô đầu bù ko nói, lại tiếp tục vỗ tay hát:

- Trên trời sao mọc lung linh.

Dưới trời sương trắng mông mênh trải đường!

ối chao! Tài nghệ phi thường,

Chống trời, trời đổ tuyết sương lạnh lùng...

Lý mạc Thu định cất tiếng hát sầu thảm, để áp đảo những câu hát vui, lãng mạn đang lảnh lót. Nhưng ko hiểu tại sao, tâm trí Lý mạc Thu rối loạn như tơ vò, ko còn nhớ một câu hát nào, mà chính lòng nào bối rối, chứ ko có chút gì sầu não, nên ko tài nào hát những câu buồn theo ý định. Thông minh đến đâu mà lúc ruột gan rối loạn, thì ko thể nào phản ứng được những ngoại cảm, dù chỉ là một câu hát, chứ đừng nói đến mưu lược cao xa! Lý mạc Thu thấy mình ko áp đảo được giọng lãng mạn, đùa cợt của cô gái kỳ quặc, mà còn Dương Qua, và hai cô gái kia cũng nhởn nhơ trước mặt.

Nàng giận lắm nghỉ thầm:

- Ta hãy kết liễu đời con quỉ nầy trước, rồi tính ba mạng kia chả muộn gì.

Nghỉ thế nàng đưa phất trần đến đạp cho tan xác cô Ngốc.

Nguyên trước khi Hoàng dược Sư có giết lầm một để tử yêu quý của ông là Khúc linh Phong, sau lão hối hận, đem cô gái của Linh Phong là cô Ngốc về nuôi. Hoàng dược Sư tự thề: Ta phải dốc túi dạy cho con bé nên người. Nhưng ác thay! Cô ngốc thấy cha chết, nên quá sợ hãi, thường nhớ rồi sinh ra bệnh loạn óc, tinh thần ko còn minh mẫn nữa, cho nên Hoàng dược Sư dạy bảo công phu, nhưng đối với nàng cũng như " nước đổ lá môn"..

Hoàng dược Sư cố công dạy nàng hơn mười năm, mà cô Ngốc chỉ học được có ba phép"tát bằng tay" và ba cách"đánh tréo" bằng đuốc. Lão nhận thấy nàng quá khùng, nên ko dạy nhiều chỉ luyện kỹ sáu đòn độc, cũng đáng sợ rồi. Cô ngốc thấy Mạc Thu giơ phất trần đập vào đầu mình, cô ko hề để ý , chỉ dùng bó đuốc đánh tréo một đòn. Ngọc đuốc phất tréo hai cái, mà cả phòng chuyển động, Lý mạc Thu quá kinh hãi thầm nghĩ

- Con nhỏ này mà lại có sức mạnh thế nầy ư?

Nghĩ thế, nàng nhảy sang một bên, đă phất trần đập tạt ngang vào thái dương cô Ngốc. Cô Ngốc cúi đầu xuống, liền đánh lên một đòn tréo nữa, chớp mắt, bó đuốc đâm thẳng vào ngực Mạc Thu. Lý mạc Thu quá sợ, vội dùng phép chuyển thân" thất tinh bộ" mới tránh được. Thừa thắng cô Ngốc dùng tay trái tạt sang những đòn mạnh như vũ bão.

Lý mạc Thu đưa phất trần gạt, sợ lửa ở cây đuốc cháy, nhưng đánh bằng quyền cước ko tài nào đỡ được cái tát tai mạnh như núi sụp, Mạc Thu hoảng hốt, nhảy qua lỗ tường trống chạy thoát thân. Vừa nhảy qua lỗ hổng đã bị một đòn tê cả người, làm cho Lý mạc Thu sợ hãi. Thật ra cô Ngốc chỉ có ba đòn vỏn vẹn đầu tiên là lợi hại, cũng như Trình giảo Kim chỉ đánh ba búa đầu là mạnh, nếu có ai chịu nổi ba búa, thì búa thứ tư chỉ là phủi bụi. Cô ngốc cũng vậy từ phép đánh tát tay và đánh tréo bằng đuốc, chỉ có ba đòn đầu tiên mới đánh kinh sợ, nhưng đến đòn thứ tư cũng như trò chơi trẻ nít.

Lý mạc Thu mới bị hai đòn đã sợ bỏ chạy, tưởng đay cũng là một vinh dự cho Hoàng dược Sư. Mạc Thu chợt thấy bên trong chỗ tường thủng, có một lão râu daìi chấm rố, bận áo bào xanh đang ngồi khảy đàn trên ghế. Ông lão này chính là Hoàng dược Sư, chúa đảo Đào Hoa, người đã cứu Trình Anh trước đây.

Lý mạc Thu là tay tinh tế, nên khi giao chiến, mà vẫn trông thấy xa tứ phía, tai nghe tám phương, phòng hờ sợ địch đánh bất ngờ. Nàng tự nghĩ:

- Tại sao Hoàng dược Sư vào trong nhà này lúc nào mà ta ko hay.

Nghĩ như thế nàng rùng mình sơ hãi, miệng lẩm bẩm:

- Nếu lão dùng ám khí giết ta, dễ như trở bàn tay! Quái thật! Sao lão lại quân tử đến thế?

Trong khi đánh với cô Ngốc, Lý mạc Thu sơ Dương Qua và đồng bọn xông vào vòng chiến, nên tay đánh và miệng vẫn hát những âm điệu buồn rầu để mê hoặc ba người. Khi nàng quay nhìn thấy ông già, đang dạo đàn, nàng vội ngừng ko hát nữa. Tiếng đàn Hoàng dược Sư khảy văng vẳng những câu mà nàng đã hát để mê hoặc bọn Dương Qua. Nhưng giọng đàn còn thảm thiết, bi ai gấp trăm lần giọng hát của nàng. Thấy vậy nàng liều mạng đứng lại nghe. Mạc Thu thắc mắc:

- Hoàng dược Sư là một tôn sư trong một võ phái, không ngờ âm nhạc lại tài tình như thế này.

Khúc đàn đang dạo, những âm hát do Mạc Thu sáng tác, cho nên tâm linh nàng, lúc này quá cảm xúc, nàng còn say mê bằng mười bọn Dương Qua, nên đi ko dứt, chỉ đứng đờ ng ra mà nghe. Hoàng dược Sư biết ý Lý mạc Thu, từ trước đến giờ đã từng nhúng tay vào việc ác, nên ông định " hôm nay phải dùng nhạc, trừ mạng mày cho rồi". Nghĩ như thế, Hoàng dược Sư phối hợp cả tiếng ngọc tiêu của lão và tiếng đờn tranh của Âu dương Phong cùng với tiếng sáo của Hồng thất Công thành một nhạc điệu rồi gảy trên đường tơ.

Lý mạc Thu nghe đến đây, lòng nao nao ko thể nào kiềm chế được nữa. Hoàng dược Sư thấy Lý mạc Thu đang say mê nghe, lão tay đàn, miệng hát, khi thì lại thảm thiết, lúc lại vui vẻ chợt biến ra như giận dữ, khi cao khi thấp, làm cho người nghe lúc vui lúc buồn rồi dồn dập quá như điên như dại.

Hoàng dược Sư đoán:

- Mi nghe hết khúc này, tự nhiên sẽ biến thành con điên.

Cô ngốc giờ mới thấy Dương Qua, dưới ánh sáng của đèn đuốc nàng thấy chàng giống Dương Khang như hai giọt nước. Cô ngốc tính hay sợ ma, nhất là nàng đã chứng kiến trong cảnh chết thê thảm của Dương Khang ở miếu đường Gia hưng Vương nên nàng ko lúc nào quên được. Chợt thấy Dương Qua ngồi trên ghế, nàng cho là hồn của Dương Khang hiện lên, nên nhảy thót một cái run lẩy bẩy, lập bập:

- A..! Anh, anh! Anh...! Dương..! Anh đừng! Có hại tôi! Ôi tôi ko phải là ng giết anh! Anh đừng hại tôi.

Hoàng dược Sư lúc này đang mê say, cao hứng gảy những tiếng đàn nghe như oán, như hờn, như than như khóc. Bổng nhiên cô Ngốc nói làm náo động cả lên, rồi tiếp theo đàn lại đứt một dây.

Cô ngốc chạy lại sau lưng Hoàng dược Sư kêu lên:

- ái..! có ma.. ! ma hiện lên.. ! sư phụ ơi! . hồn Dương huynh hiện lên kia kìa.!

Nhờ cô hội đó Lý mạc Thu bình tĩnh lại. Nàng dương phất trần phẩy tắt ngọn đèn, rồi lủi qua vách trống tẩu thoát.

Hoàng dược Sư lỡ mất cơ hội, ám hại Lý mạc Thu bằng âm nhạc, nhưng ông vẫn ko đuổi theo.

Còn cô Ngốc càng gào to:

- Sư phụ ơi! Ma dữ lắm..! Cứu!..Cứu con sư phụ ơi!

Trình Anh vỗi vã thắp đèn, rồi chạy lại sụp lạy trước mặt Hoàng dược Sư, và kể sự tình Lục vô Song và Dương Qua cho lão nghe.

Hoàng dược Sư quắc mắt nhìn cô Ngốc la lớn:

-Nín im đi!

Lão quay sang nhìn Dương Qua nói:

- Nó biết mặt thân phụ cháu, mà cháu giống ba cháu như đúc hèn chi nó lầm là phải!

Dương Qua nằm trên giường ngẩng đầu lên nói:

-Xin đạo sư tha lỗi cho, vì cháu bị thương nên ko thi lễ được.

Hoàng dược Sư vui vẻ đáp:

- Cháu thật đáng khen! còn nhỏ mà đã có lòng hào hiệp xả thân mình để cứu ng khác.

Nguyên trước đây, Hoàng dược Sư có gặp con gái mình là Hoàng Dung kể hết đầu đuôi cho ông nghe nguyên do, nên công việc xảy ra trước đây ông đã tường tận.

Sau khi nghe Trình Anh cứu Dương Qua đem đi nơi khác, Hoàng dược Sư vội vàng đem cô Ngốc đi tìm kiếm chàng. May sao đúng lúc.

Hoàng dược Sư lấy viên linh đơn đưa cho Dương Qua uống và vận nội lực giúp chàng chóng bình phục.

Dương Qua uống xong mấy viên thuốc và được Hoàng dược Sư vận công giúp sức, cảm thấy toàng thân nóng ran, bớt đau.

Hoàng dược Sư thấy da thịt Dương Qua nổi mụn và dựt, lão vội vàng dùng thuốc thoa bóp trên da và nắm lấy đầu xương cửa chàng. Chỉ độ ba tiếng đồng hồ, thì Dương Qua trở lại khoan khoái hơn trước. Chàng ngủ thiếp đi lúc nào ko biết.

Sáng hôm sau, khi chàng thức dậy đã thấy Hoàng dược Sư ngồi trên đầu giường. Chàng vội vàng tụt xuống giường thi lễ.

Hoàng dược Sư đõ chàng dậy, vui vẻ nói:

- Cháu có biết trên khắp giang hồ người đời gọi ta là gì ko?

Vì còn bệnh nên chàng cất tiếng run run nói:

- Dạ cháu có nghe ng ta gọi bác là Hoàng dược Sư chúa đảo Đào Hoa.

Hoàng dược Sư lại hỏi:

- Còn tên chi nữa?

Dương Qua toan đáp "Đông Tà", nhưng chàng kịp nghĩ lại:

- Nếu mình gọi" Đông Tà" sợ phật ý ông chăng?

Chàng ko dám gọi nhưng anh lại nghĩ tên "Đông Tà" người đời vẫn thường gọi có chi mình phải sợ, chàng bạo dạn đáp:

- Còn danh hiệu của bác là "Đông Tà"

Hoàng dược Sư cười khà khà có vẻ đắc chí nói:

- Cháu nói đúng đấy.

Bỗng đôi mắt ông sáng quắc lên, hình như nhớ lại một chuyện gì, ông cất tiếng sang sảng nói:

-Ta nghe ng đời đồn con võ công thâm hậu; chỉ vì con có tình ko chánh đáng muốn lấy cô thầy của con làm vợ phải ko? Có đúng như lời đồn ko? Hay ng ta đồn bậy.

Dương Qua chắp tay thưa:

-Thưa bác!Đúng vậy! Mà cháu ko biết vì sao ng đời cứ cản trở việc đó. Nhưng con quyết định dù sao con vẫn ko đổi ý. Hoàng dược Sư nghe Dương Qua nói quả quyết như định đóng cột, liếc mắt nhìn chàng từ đầu đến chân, rồi ngửa mặt lên trời cười ha hả... Tiếng cười của ông như sấm sét, làm rung động cả không khí yên tỉnh, mái ngói đổ xuống lảng cảng.

Dương Qua thấy cử chỉ của ông, nổi giận nói:

- Sao bác lại cười ngặt nghẹo như vậy! Con tưởng bác là một ng thông minh nếu ko giải quyết việc này cho cháu thì thôi, sao bác lại cười?

Hoàng dược Sư cất tiếng khen lớn:

- Tốt lắm! Tốt ko thể tả! Không ngờ trên đời này lại có ng tốt như vậy!

Vừa nói , ông vừa quay mình đi ra khỏi cửa.

Dương Qua đưa mắt nhìn theo, lòng hối hận và đã quá lời, làm cho Hoàng dược Sư bỏ ra đi, nhưng sao vẫn vui vẻ thế..!

Hoàng dược Sư vốn từ trước đến nay là ng dọc ngang, ko một nơi nào ko đặt

chân đến, khắp thiên hạ ai cũng biết lão. Ông nhận thấy lễ giáo trong đời chỉ

là tuồng giả dối. Vì bọn được mệnh là vua và qua thì lại tham lam, nói một

đường làm một nẻo, miệng hô hào những câu yêu dân mến nước, nhưng rốt cuộc

đục khoét dân đến xương tuỷ. Bọn sĩ phu miệng hô trung thành, mà rồi làm việc

gian lận nịnh bợ. Những kẻ trí thức khoe mình đầy chữ nghĩa, thế mà chỉ biết

đi năn nỉ cầu xin tước lộc, để tự đại với thiên hạ là mình liêm khiết thanh

cao. Nhưng rồi bóc lột thằng nghèo đến trơ xương mà chúng vẫn rêu rao là

nhân nghĩa, nhân từ bác ai. Vì thế nên ông tự nhận biệt hiệu "Đông Tà" để răn

mình đừng làm bậy, và cũng gián tiếp khuyên đời, cứ nhận là "Tà" rồi sau

thành " chính" mới là hay. Chứ còn tự hào là " chính" mà sau trở thành "Tà"

thì ko sao chữa nổi. Bởi tính kỳ lạ ấy, mà đương thời ông ko vừa ý ai, ko

nhận ai là tri kỷ. Ngay như con gái và rể, ông cũng ko mấy vừa ý, tuy Hoàng

Dung được ng đời kêu là hiền thục và Quách Tỉnh đã nổi tiếng trung hậu và

chất phác.

Hoàng dược Sư được nghe thiên hạ nói đến Dương Qua, từ trước đến nay là

phản bội giáo phái, bạc nghĩa đối với thầy học và bạn bè. Nhưng nay ông được

gặp Dương Qua và đã trò chuyện với chàng, ông công nhận Dương Qua hơn đời ở

chỗ nghĩ sao nói vậy, rất hợp ý với ông, chứ ko dối trá che đậy như những ng

từ trước đến nay, ông đã từng tiếp xúc.

Cảnh rừng bát ngát, đồng cỏ xanh rì. Dược lão một mình đứng ngắm cỏ cây

đến chán, rồi mới bước đến dưới bóng mát ngồi nghỉ, nhìn đàn trâu, ngựa đang

gặm cỏ dưới mé rừng. Ông miên man nghĩ đến luật thừa trừ của tạo hoá, rồi

thầm nói:

-Con trâu có sừng như thế lại bớt mất hàm răng, con ngựa đủ hai hàm răng

lại ko có sừng. Còn con người ta cứ tự hào là thông minh ra giúp đời như

trâu, ngựa. Phần đông chỉ dùng cái thông minh để hại kẻ khác, phụng sự riêng

cho bản thân, gia đình. Rồi nếu ngày nào đó, họ được ng ta xu phù, họ trở nên

tự cao tự đại, tự thần thánh hoá lấy mình, yêu kẻ nịnh bợ, ghét kẻ thật thà,

xui nguyên giục bị, để thiên hạ chém giết lẫn nhau, gây tang tóc cho đời, thế

mà họ đâu có biết.

Nghĩ đến đây, Hoàng dược Sư thở dài lẩm bẩm:

-Có kẻ cho rằng:" Loài vật ở chung với nhau lâu ngày thân thiện, còn loài

ng sống chung với nhau lâu ngày sinh ra thù oán." Câu lý luận ấy quả thật ko

sai. Chỉ vì loài ng cậy mình thông minh, và cũng đem cái thông minh ấy phụng

sự bản thân. Có lúc họ đi đến chỗ vị kỷ một cách độc ác! Ôi! Nguy thay! Ngắm

trời mây một lúc đã chán, Hoàng dược Sư đứng dậy quay gót trở về nhà.

Dương Qua bỗng thấy ông ta, vội ra đón chào, muốn tỏ lời xin lỗi. Nhưng

chưa kịp mở miệng thì Hoàng dược Sư đã cười bảo:

-Dương nhi! cháu ko cần trở về cổ mộ làm gì! Cháu có bằng lòng bái ta làm

sư phụ ko?

Dương Qua ko hiểu ý ngơ ngác hỏi lại:

-Để làm chi?

Hoàng dược Sư cười lớn:

-Để lấy vợ chứ còn chi nữa. Ngươi bái nhận ta làm sư phụ tức ko còn thừa

nhận Tiểu long Nữ là sư phụ nữa. Chừng ấy ngươi có thể kết duyên với Tiểu

long Nữ một cách danh chánh ngôn thuận.

Dương Qua nghĩ thầm:

" Sao pháp luật lại cấm trò ko được lấy thầy làm vợ? Ai đặt ra pháp luật

ấy?

Nghĩ như thế, Dương Qua bạo dạn đáp:

-Tôi muốn gọi cô ấy là sư phụ và lấy cô làm vợ là quyền riêng của tôi sao

xã hội lại cấm đoán tôi làm việc ấy? Vả lại, khi mà tình thân đến cực độ, yêu

thương nhau như một, thì họ sống chung như vợ chồng, hại gì cho xã hội chứ?

Hoàng dược Sư cười ha hả nói:

-ái! Mày ko có biệt hiệu Đông Tà, song tư tưởng của mày cũng chẳng kém

"Đông tà", coi thiên hạ làm mặt trái, giả dối. Như thế thì mày rất hợp ý ta.

Ta sẽ tính mưu giúp cho mày.

Ông liền lấy thuốc ra thoa vết thương cho chàng và nói như van lơn:

-Bác muốn được gần cháu để truyền dạy các điều Y Bác" rồi sau này cháu

đem truyền lại cho kẻ khác. Bác muốn cho cái thuyết của bác sau này khỏi thất

truyền và cũng để cho đời biết lão"Đông tà" lại còn có thêm chàng Dương Qua

" tiểu tà" nữa. Cháu ko nhận là học trò là uổng lắm! Cháu nghĩ cho kỹ coi!

Dương Qua hiểu rõ Hoàng dược Sư là ng ngay thẳng, chứ ko hay bắt bẻ như

mọi ng khác, nên chàng vừa lòng lắm, vui vẻ nói:

-Cần gì làm thầy cho thêm phiền phức. Bác muốn dạy thì cứ dạy, con xin

thụ giáo.

Ngừng một lúc, Dương Qua lại nói:

-Hay là thế này: Tôi tuổi nhỏ, võ nghệ còn kém, vậy bác cứ dạy cho tôi,

rồi kết bạn vong niên với nhau có tiện hơn ko?

Hoàng dược Sư quắc mắt nói lớn:

-Vô lễ! Mày coi trời như cái vung nhưng xem ta cũng như thằng già ngoan

cố Châu bá Thông hả? Đừng trở giọng" cá mè một lứa" như thế!

Dương Qua bỡ ngỡ hỏi:

-Bẩm lão trượng, Châu bá Thông ngoan cố là ai? Cháu chưa biết?

Dược Sư liền kể chuyện Châu bá Thông kết bạn " chí lan" với Quách Tỉnh.

Bấy giờ một già, một trẻ say sưa kể chuyện bàn luận thời thế, và võ nghệ. Hai

ng rất vừa lòng, hợp ý, đúng là cảnh:

Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiều.

Thoại bất đầu cơ bán cú đa.

nghĩa là:

Tri kỷ ngàn ly chưa thấy mấy.

Bạc tình nữa tiếng đã chán rồi.

Dương Qua lanh mồn, tính nến lại được Hoàng dược Sư thương mến, nên chàng

bàn việc gì cũng được lão hết lòng khen ngợi:

-Lý luận của cháu y hệt của bác.

Vì thế mới gặp lần đầu, Hoàng dược Sư đã coi như ng quen thân cũ. Lão ân

hận mình gặp thằng này hơi muộn. Tuy ngoài miệng lão chưa nhận Dương Qua là

bạn "vong niên" nhưng trong bụng ông đã có ý kiến làm bạn với Dương Qua là

đúng.

Tối đến lão sai Trình Anh kê thêm một cái giường nữa ở phòng Dương Qua để

lão nằm trò chuyện cho vui.

Mấy hôm sau Dương Qua hết bịnh, khoẻ mạnh như thường. Chàng với Hoàng

dược Sư như tình keo sơn, ko lúc nào rời nhau nữa bước.

Trước đây Hoàng dược Sư đã có ý định đưa cô Ngốc đi chu du phương Nam,

nhưng nay vì quyến luyến Dương Qua, nên ko còn nghĩ đến việc ngao du sơn thuỷ

nữa.

Trình Anh và Lục vô Song thấy Hoàng dược Sư quá mến Dương Qua ngày thì

đối ẩm bàn luận thời sự, đêm lại chong đèn giảng tập võ nghệ, nên hai người

cười thầm:

-Sao một già một trẻ lại có thể quyến luyến nhau như cặp vợ chồng mới

cưới vậy? Thế thì già trẻ ko phải là một duyên cớ làm cho ng ta có cảm giác

cách biệt sao?

Lúc hai ng đàm luận về văn chương, Dương Qua nhiều chữ ko biết, Hoàng

dược Sư lại chỉ vẽ rất rành rẽ, Dương Qua có tính mau nhớ, vì thế Hoàng dược

Sư càng mến coi như : " bình sanh đệ nhất tri kỷ".

Trong thời gian hai ng ở chung, Hoàng dược Sư đã dốc túi dạy cho Dương

Qua về võ thuật cũng như văn chương.

Tuy hai người chưa chính thức công nhận làm thầy trò, nhưng Hoàng dược Sư

coi như chàng là một đồ đệ trung tín nhất, nên dạy ko thiếu môn nào.

Ngoài việc học văn luyện võ, Dương Qua có một thắc mắc trong lòng: "Sao

cô Ngốc kia lại nhận mình là kẻ khác nhỉ. Tại sao nó lại nói với mình rằng:

-Không phải tôi giết anh đâu!

Chắc cô Ngốc ấy biết ng nào đã giết thân phụ ta! Nếu ta hỏi ng khác ắt họ tìm lời dối gạt, còn cô Ngốc này có lẽ thấy sao nói vậy.

Trưa hôm đó, sau khi cơm nước xong, mọi ng đi nghỉ cả. Dương Qua muốn làm quen với cô Ngốc gợi chuyện:

-Cô Ngốc ơi! Lại đây tôi cho cô một cái này đẹp lắm.

Cô Ngốc thấy chàng giống Dương Khang như đúc, nên lúc nào cũng ớn sợ.

Nghe chàng kêu, cô lắc đầu nói:

-Đẹp chi cũng mặc anh, tôi ko thèm coi đâu!

Chàng nhỏ nhẹ nói:

-Tôi có nhiều cái đẹp lắm! Cô ko coi à?

Cô Ngốc lắc đầu xua tay luôn miệng nói:

-Nhiều ít, đẹp đến đâu tôi cũng không coi cả?

Dương Qua liền nghĩ ra một trò vui. Chàng nhảy lộn đầu xuống đất chổng hai chân lên trời chạy đi chạy lại.

Cô Ngốc thấy thích quá vỗ tay reo hò:

-Chạy lại coi! Chạy coi..! Đúng rồi.

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 42 : Cô ngốc say giữa người hay trên Đảo Đào Hoa.

Dương Qua thấy cô Ngốc cố chạy theo xem. Chàng bèn ra ngoài nhử cho cô Ngốc theo ra. Lúc đến giữa rừng, cách xa nhà, chàng nghĩ không đi nữa, đứng lên ngay ngắn rồi hỏi:

- Cô Ngốc! Xem tôi làm trò có hay không?

Cô Ngốc từ hồi nhỏ đến lớn thích xem người làm trò, nhiều khi cũng muốn làm trò. Ngặt vì mấy năm theo Hoàng Dược Sư lo tập võ công không bắt chước ai được trò gì. Nhiều lúc nàng muốn múa hát nhưng bị Hoàng Dược Sư rầy la.

Ngốc nghe Dương Qua hổi liền vỗ tay reo lên:

- Hay lắm! Người anh em làm trò hay ghê! Còn trò gì lạ mà vui nữa không?

Chính trước kia cô Ngốc gọi Dương Khang bằng anh nên lúc này nàng cũng gọi Dương Qua là anh em.

Dương Qua thò tay rút một chiếc khăn vung ra giao hẹn:

- Bây giờ ta chơi trò bịt mắt bắt dê, tôi bịt mắt cô bằng một chiếc khăn nầy, rồi tôi trốn quanh gần đây. Nếu cô bắt được tôi, cô hỏi gì tôi phải nói thật, còn tôi bắt được cô, tôi hỏi điều gì cô cũng không nói láo nghe chưa?

Cô Ngốc được trò chơi mừng quá, liến thoắng nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Anh bịt mắt em đi!

Dương Qua bịt mắt nàng xong, chàng chạy cách chừng mười bước liền gọi lớn:

- Tôi ở đây, lại bắt mau lên!

Cô Ngốc đưa hai tay ra trước sờ soạng chạy về phía có tiếng gọi.

Dương Qua là tay vỗ nghệ, tài khinh công có hạng của phái Cổ Mộ, nhảy lẹ như chim, biến hiện như chớp, như thế cô Ngốc bỏ khăn ra chưa chắc đã bắt được huống hồ hai mắt bị bịt kín.

Cô ta quờ quạng hết phía này đến phía khác. Dương Qua chạy gọi khắp nơi, làm cho cô Ngốc cứ xoay qua xoay lại mệt lả người.

Sau đó cô Ngốc sờ soạng đụng vào một gốc cây to té huỵch xuống. Dương Qua nhìn thấy trên trán nổi lên một xụ bướu như quả trứng.

Chàng sợ cô Ngốc đau rồi nổi cáu, xảy ra việc không hay cho mình nên ho lên mấy tiếng rồi ngồi im một chỗ. Cô Ngốc nghe tiếng ho gần bên, liền chạy lại ôm choàng lấy lưng chàng rồi kêu lên:

- Đây rồi! Chạy đàng nào cho khỏi!

Nói xong nàng trật khăn ra, cười nói:

- Thế này là em được cuộc rồi phải không?

Dương Qua nói:

- Đúng rồi! Tôi chịu thua, vậy cô hỏi gì thì hỏi đi.

Cô Ngốc lúc đó không biết hỏi gì, vì nàng thích được chơi, chớ có ý định hỏi gì đâu?

Cô Ngốc ngơ ngác nhìn trời đất mông lung một lúc lâu rồi hỏi:

- Anh ăn cơm chưa?

Dương Qua thấy cô Ngốc nghĩ cả giờ rồi hỏi một câu ngớ ngẩn như vậy, nhưng chàng không dám cười, liền nhỏ nhẹ đáp:

- Tôi ăn rồi.

Cô Ngốc gật đầu không nói nữa.

Dương Qua giục:

- Cô còn hỏi gì nữa không?

Cô Ngốc lắc đầu đáp:

- Không, giờ mình làm trò lại.

Dương Qua nói:

- Được, bây giờ đến lượt cô bịt mắt tôi.

Nghe thế, cô Ngốc liền lấy khăn bịt mắt Dương Qua lại rấy cẩn thận, rồi chạy trốn mất.

Thực là ngoài ý tưởng tượng của Dương Qua. Lúc này cô không ngốc chút nào cả! Cô gọi ở trước mặt rồi chạy sau lưng, tiếp nghe cô ho bên tả, mà thân cô lại vụt về bên hữu. Dương Qua không sao bắt được.

Chạy đuổi mãi không thể vớ được, Dương Qua giả vờ đụng vào một thân cây, cố ý cho miếng vải tụt xuống một chút, nhờ thế chàng nhìn thấy cô Ngốc đang đứng núp sau gốc cây, chàng xoay nơi khác hỏi:

- Cô ở đâu?

Dứt lời, chàng xoay mình vung tay ra túm được áo cô rồi cười nói:

- Bây giờ đến lượt tôi hỏi cô phải không?

Cô Ngốc gật đầu nói:

- Tôi ăn cơm rồi.

Dương Qua nghe nàng nói phì cười bảo:

-Tôi đâu có định hỏi cô ăn rồi hay chưa! Tôi hỏi câu khác kia.

Đoạn chàng ngọt ngào hỏi:

- Cha anh, mặt cha anh ra sao? Cái người mà cô thường nói giống tôi như đúc đó.

Cô Ngốc ngơ ngác đáp:

- à! Người đó hả, thế là anh Dương mà!

Dương Qua hỏi nhỏ, như dụ dỗ:

- Phải rồi, cái anh Dương mà cô đã thấy chết đó.

Cô Ngốc mặt mày tái ngắt, ngập ngừng nói:

- ồ! Nửa đêm hôm đó, có biết bao là chim quạ, chúng kêu thế nầy: "Qua... Qua... Qua!". Chúng đậu đen hết trên các cành cây, trong khu rừng âm u thanh vắng, thấy khiếp sợ lắm!

Dương Qua sốt ruột quá, mà cô ta thì cứ nói dài dòng mãi, chàng bèn hỏi:

- Tôi muốn cô nói cái chết của anh Dương như thế nào, chớ đừng nói tiếng quạ kêu làm chi!

Cô Ngốc liền đáp:

- Nhưng cô nương cấm không cho nói! Mà anh Dương cũng không cho nói. Lúc đó anh Dương tát cô nương một cái rồi cười "hô hố".

Nói đến đấy cô Ngốc giả tiếng cười trước khi chết của Dương Khang nghe rùng rợn

làm sao.

Dương Qua không hiểu được, liền gằn giọng hỏi:

- Cô nương đó là ai?

Cô Ngốc thản nhiên nói:

- Cô nương là cô nương chứ ai nữa?

Dương Qua tự nghĩ:

- Việc nầy ra phải bình tĩnh, mới khám phá ra được.

Nghĩ như thế chàng vội vã hỏi tiếp:

- Cô nương đó hiện giờ ở đâu?

Vừa dứt tiếng, bỗng nghe phía sau có người hỏi:

- Hai đứa bây chơi giỡn gì ở đây?

Nghe tiếng sư phụ, cô Ngốc vội vàng thưa:

- Dạ, anh Dương rủ con ra đây chơi trò bịt mắt bắt dê, tức là đứa trốn đứa bắt.

Dược Sư nghe xong cười thầm rồi nhìn Dương Qua. Trông thấy sắc mặt chàng, lão đoán biết Dương Qua đang suy nghĩ nhiều việc.

Dương Qua lòng đang nóng nảy, vì bị Hoàng Dược Sư phá mất cuộc điều tra riêng của chàng, nên chàng định nói mấy câu cho hả giận, nhưng chưa kịp nói đã nghe tiếng chân dồn dập từ phía ngoài bước vào.

Đó là Trình Anh và Lục Vô Song chạy đến, họ vừa chạy vừa thở hổn hển như người sắp chết muốn trăn trối điều gì.

- Sư... phụ... nó đấy.

Miệng nói ú ớ, tay chỉ ra sau ngọn núi phía Tây.

Dương Qua hỏi:

- Ai thế?

Trình Anh nói:

- Xích luyện tiên tử Lý Mạc Thu chứ ai!

Dương Qua nghe tin Lý Mạc Thu đã đến sau núi, kinh ngạc nghĩ thầm:

- Con bé thế mà to gan.

Chàng nhìn Hoàng Dược Sư định hỏi ý kiến.

Hoàng Dược Sư cười lớn bảo mọi người:

- Các con đi với thầy đến đó xem sao. Đã có lão đây, mấy con còn sợ gì nữa?

Cả bọn cùng đi về phía sau đồi núi hướng Tây.

Trình Anh nói nhỏ với Dương Qua:

- Lý Mạc Thu đã không giết chúng mình trong căn nhà cổ, và hắn tự phụ không giết người bị thương. Phen này chắc hẳn kinh khủng lắm.

Dương Qua kinh hãi nói:

- Lần nầy Lý Mạc Thu định giết ba đứa mình. May thay nếu không có Hoàng đảo chúa Đào Hoa đảo, thì chúng mình chỉ có nước tìm đường trốn cho sớm.

Trình Anh cười, gật đầu đồng ý.

Lục Vô Song nhìn Dương Qua nói mỉa mai:

- Đã từng tự phụ thông minh hơn người, tài ba ngang với chúa đảo, sao bây giờ hèn thế?

Dương Qua cười pha trò:

- Tôi là Ngốc mà! Cô mới là người thông minh chớ!

Vừa đi vừa chuyện trò, không bao lâu đã đến sau núi. Cả bọn đều bám sát theo Dược Sư.

Dưới bóng cây to rườm rà, có một căn nhà cỏ đã xiêu vẹo, cửa đóng kín, trên nóc có một tờ giấy bay phấp phới, trên mặt giấy có đề bón hàng chữ lớn, gồm có mười sáu chữ viết như sau:

Đào Hoa đảo chúa

Đệ tử tối đa

Dĩ ngũ địch nhất

Dĩ tiếu giang hồ.

dịch:

Đào Hoa đảo chúa

Rất đông học trò

Năm người đánh một

Thiên hạ cười cho.

Hoàng Dược Sư đọc xong bốn câu thơ cười khà khà rồi cúi xuống lượm hai viên sỏi đặt lên ngón tay cái, thổi một cái.

Hai viên sỏi bay vút vào đánh bật cả hai cánh cửa của căn nhà cỏ.

Thuật bắn đạn sỏi trên ngón tay là công phu độc nhất của chúa đảo Đào Hoa.

Trước đây Dương Qua đã được Quách Phù cho biết ông ngoại nàng có tài bắn đạn sỏi đến quỷ khiếp thần kinh. Nay chàng được thấy tận mắt, lòng rất khâm phục, tưởng tượng người đời chưa ai có.

Hai cánh cửa bị bắn toang ra. Cả bọn nhìn vào trong, thấy Lý Mạc Thu đang ngồi nghiêm chỉnh, tay cầm phất trần, hai mắt nhắm nghiền như một hoà thượng ngồi niệm Phật.

Người nào chưa biết Lý Mạc Thu, thấy như thế cũng cho nàng là người đạo đức. Có ngờ đâu nàng giết người không biết ghê tay, lòng độc hiểm hơn ma chúa, quỷ vương.

Lục Vô Song nghĩ đến mối thù Lý Mạc Thu đã giết cha mẹ nàng mấy năm trước, nàng không thể làm ngơ được, liền rút trường kiếm ra lăm le trong tay, miệng thét lớn:

- Dì Trình, cô Ngốc! Khỏi cần đến đảo chúa, ba chúng ta tiến vào đi.

Cô Ngốc vỗ tay reo lên, rồi nói:

- Có tôi đây!

Lý Mạc Thu hé mắt nhìn cử chỉ năm người, rồi thản nhiên nhắm mắt lại, ngồi nhập định, hình như coi thường cả năm người không có gì lưu ý đến.

Trình Anh nhìn Hoàng Dược Sư xin lệnh.

Hoàng lão than:

- Lão có nhiều đệ tử thật, nhưng rất tiếc là: Trần, Mai, Khúc, Lục, bốn đệ tử khá không có đứa nào ở đây. Nếu được một trong bốn đứa đó thì mi đâu có nhiều lời như vậy được.

Than xong, lão phẩy tay ra hiệu và nói:

- Chạy lẹ đi.

Cả bốn người chạy về căn nhà cỏ của Trình Anh. Cả bọn thấy Hoàng Dược Sư lo lắng nhiều và chiều đó không ăn cơm, hơn nữa ông lại đi ngủ sớm hơn mọi bữa, cho nên không hiểu ra sao.

Trình Anh tuy được bái nhận Hoàng Dược Sư làm sư phụ, nhưng nàng không biết chuyện trước đây lão đã đuổi học trò, nay thấy thế thầm nghĩ:

- Có lẽ Lý Mạc Thu đã dùng bốn câu thơ để chọc tức sư phụ ta, cho nên sư phụ đã buồn như vậy.

Nghĩ như thế, nàng quá bực tức và tiếc mình võ nghệ còn kém quá, không thể làm vừa lòng sư phụ được, để cho Lý Mạc Thu chọc tức thầy như vậy.

Thực ra Hoàng Dược Sư buồn nhớ đến ba người học trò có tài cao là: Trần Huyền Phong, Mai Siêu Phong và Khúc Linh Phong. Họ đều đã chết cả, chỉ còn có Lục Thừa Phong, hiện nay bị tàn phế. Nếu may còn được một trong bốn người đó thì Lý Mạc Thu đâu dám lộng hành được.

Hoàng Dược Sư nghĩ đến câu "Năm người đánh một thiên hạ cười cho". Biết Mạc Thu chê mình nên lão quá buồn rầu, vì việc trước đây lão đã nông nổi để cho học trò của lão đã bị mai một và tàn phế!

Lão tử nhụ: "Thiệt mình làm hại cho mình".

Dương Qua đêm đó trằn trọc, thao thức mãi trên giường không ngủ được, vì chàng thắc mắc những lời nói của cô Ngốc, hành động tinh quái của Lý Mạc Thu. Chàng thầm nghĩ:

- Như thế là Lý Mạc Thu chê năm người đánh một, Nhưng hiện nay mình đã hết bịnh rồi thì cứ một mình đánh với Lý Mạc Thu cũng được, để dẹp bớt tức khí cho chúa đảo Đào Hoa và rửa hận cho Lục Vô Song.

Chàng bèn rón rén bước xuống giường, sửa áo gọn gàng và ngồi xuống luyện thêm sức, bồi thêm tinh thần. Chàng quyết định phải tử chiến với Mạc Thu đêm nay.

Dương Qua vừa vận công một lúc, cảm thấy đôi mắt sáng lên, chân tay cứng như sắt, toàn thân da thịt như đồng. Miệng chàng gầm lên một tiếng rền cả một góc trời, như tiếng cọp rống trong hang, vang lên bốn hướng.

Lúc nầy Hoàng Dược Sư đã thức dậy, định thay áo, chợt thấy Dương Qua đang kuyện khí, rồi bỗng phát ra một tiếng lạ lùng, lão kinh ngạc về sức nội công của chàng, vừa mừng vừa sợ.

Tiếng thở của Dương Qua vang ra, làm cho Trình Anh, Lục Vô Song và cả bọn đều khủng khiếp. Lý Mạc Thu ở bên kia nghe cũng phải giật mình. Nàng cho đấy là Hoàng Dược Sư đang thở hút khí lực của "Nam Tào, Bắc Đẩu".

Nàng định chắc Hoàng Dược Sư không dám đánh mình, nên bỏ qua không đề phòng.

Dương Qua có sức mạnh như vậy, là chàng đã được luyện trên giường "Hàn ngọc", lại học được bí quyết trong Cửu âm chân kinh và Ngọc Nữ tâm kinh nên lúc này nội lực tinh thần của chàng mới dồi dào như thế.

Đợi cho Dương Qua đứng lên, Hoàng Dược Sư hỏi:

- Dương Qua, cháu coi Lý Mạc Thu lợi hại về thuật gì?

Dương Qua đáp:

- Theo cháu biết thì hắn có "Ngũ độc thần chưởng" và cây phất trần là lợi hại nhất.

Hoàng Dược Sư nói:

- Không lo gì, cháu có nội công mạnh như vậy, ta dạy cho cách phá nó dễ lắm.

Dương Qua nghe nói mừng quá, liền xụp xuống đất lạy như tế trời.

Trước kia tuy Dương Qua nhận Hoàng Dược Sư là tiền bối, nhưng chàng vẫn tự kiêu chưa phục vì chưa thấy lão có tài nghệ gì hơn chàng.

Nay nghe lão nói có phép đánh bại Lý Mạc Thu, là một tay ngang dọc, coi thiên hạ trước mắt không ra gì, nên chàng lại cầu xin chỉ giáo.

Hoàng Dược Sư liền nâng chàng dậy và truyền phép nầy có thể chống với "Ngũ độc thần chưởng" của Lý Mạc Thu.

Sau lão dạy cho chàng phép "Ngọc tiêu kiếm pháp" để chống với cây phất trần thần diệu.

Dương Qua hết sức chú ý nghe giảng cả hai thuật pháp, từ hình thức đến nội dung, chàng thấy phải cố sức rèn luyện từ một đến ba năm mới thành thạo được.

Chàng thấy thế bèn hỏi:

- Thư Hoàng lão, như thế nầy không có phép gì để hạ ngay Lý Mạc Thu hay sao?

Hoàng Dược Sư thở dài than:

- Ba năm là bao. Thì giờ như thoi đưa không lâu đâu. Cháu mới có hăm mốt, hăm hai tuổi mà luyện được hai phép thuật trên là sớm lắm! Có người theo nghề võ đến ba, bốn mươi tuổi vẫn chưa biết gì cả. Cháu đừng hấp tấp!

Dương Qua nói:

- Việc làm của cháu đâu có phải "vị ngã"..., chẳng qua là "vị tha" cả.

Hoàng Dược Sư vỗ vai chàng và nói:

- Sau ba năm, cháu nên vì bác mà giết nó đi, như thế bác cảm ơn cháu nhiều lắm. Còn hiện nay lão bị tai nạn, đó là tội lão phải gánh. Vì trước đây, lão đã huỷ hoại những người học trò tốt, nên nay lão phải chịu luật "báo ứng" của trời đất.

Dương Qua nghe Hoàng Dược Sư nói hết tâm sự với mình, vội quỳ xuống bái lễ và kêu lên:

- Sư phụ!

Cả hai người đều thong minh, đã đoán được thâm ý của nhau.

Dương Qua nghĩ: Lão truyền cho mình võ thuật này là để rửa cái nhục bốn câu thơ của Lý Mạc Thu, nhưng mình học là phải nhận lão làm thầy.

Hoàng Dược Sư nghĩ: Chàng đối với mọi người trong Cổ Mộ tình nghĩa nặng lắm, nên chàng không muốn nhận ai làm sư phụ thứ hai nữa!

Lão liền đưa tay nâng chàng lên và nói:

- Lúc nào cháu đánh với con yêu nữ ấy, thì cháu là đệ tử của bác, còn ngoài ra cháu với bác chỉ là "bạn vong niên". Người anh em đã hiểu nhau rõ chưa?

Dương Qua vừa cười vừa nói:

- Thưa sư huynh, tiểu đệ được cho vào hạng bạn bè, kẻ tiểu sinh như đệ rất cảm động và được nhờ vả nhiều lắm!

Hoàng Dược Sư tươi cười nói:

- Anh em ta được hạnh ngộ thế này, là duyên nợ "ba sinh" từ kiếp trước đây.

Lúc này hai người cùng vui vẻ đàm đạo say sưa.

Tiếp đó, Hoàng Dược Sư giảng lại cái bí quyết về phép "bắn đạn bằng ngón tay" và "Ngọc tiêu kiếm pháp" dạy ôn lại rất tỉ mỉ.

Dương Qua thấy Hoàng Dược Sư quá kỹ lưỡng như vậy, chàng đoán có lẽ lão sắp xa mình chăng?

Nghĩ như thế, chàng liền hỏi:

- Sư huynh, đệ với sư huynh vừa mới quen nhau, rồi đây chia tay biết bao lâu lại được tái ngộ.

Hoàng Dược Sư nói:

- Sư đệ đã rõ, thôi từ đây phương trời đôi ngả, nhưng lòng dạ lúc nào cũng gần nhau là được. Nếu mai sau có điều gì ngăn trở tình duyên của sư đệ, là lão huynh này đến can thiệp ngay, dầu có xa muôn dặm huynh cũng đến.

Dương Qua nghe nói đúng với ước nguyện của chàng, nên cười nói tiếp:

- Người cản trở đó không phải ai xa lạ, nếu sư huynh can thiệp e bất tiện lắm không?

Hoàng Dược Sư hiểu ý nói:

- Xưa kia, chính nó cũng muốn chọn một người chồng vừa ý nó, sao lúc này nó lại muốn phá kẻ khác.

Ngẫm nghĩ một lúc, ông thò tay vào túi lấy giấy bút ra viết một phong thư giao cho Dương Qua rồi dặn:

- Nếu con gái lão còn cản trở, sư đệ cứ đưa bức thư này cho nó.

Dặn xong lão cười vang lên, rồi phảy tay bước ra khỏi cửa.

Chỉ trong nháy mắt tiếng cười đã xa tít ngoài mười trượng rồi biến mất, tựa như con thần long ra biển, không còn thấy tăm hơi.

Dương Qua đứng ngẩn người nhìn theo một hồi lâu, chàng quay vào nhà ôn lại những bí quyết võ thuật vừa được truyền thụ.

Không bao lâu trời đã sáng. Chàng nhìn lên bàn giấy thấy cây chân tuyến đao của Trình Anh để đó, chàng cầm lên ngắm nghía, thực là một con đao bén và tuyệt đẹp ít có.

Bỗng có tiếng động ở ngoài. Trình Anh mở cửa bước vào, tay cầm một chiếc áo màu xanh, nàng tủm tỉm cười nói với Dương Qua:

- Anh mặc thử chiếc áo này coi có vừa không nào!

Dương Qua cảm động quá, hai tay đỡ lấy chiếc áo.

Trong khi chàng đưa tay ra đỡ, tay Dương Qua và tay Trình Anh chạm sát vào nhau, như hai luồng điện bắt lại, cả hai người đều mắt liếc mày đưa, lòng đều rạo rực.

Chàng mở áo ra mặc thử, từ cổ đến gối đều vừa khít cả.

Dương Qua cảm động run giọng nói:

- Tôi...! Tôi đa tạ tấm lòng chiếu cố của Trình muội đối với tôi.

Trình Anh nhoẻn miệng cười với cặp mắt đầy yêu thương, tình tứ. Chợt nét mặt nàng buồn rầu, than:

- Lão sư phụ đi rồi! Biết bao giờ được hội ngộ.

Nàng cố tìm cớ để được ngồi lại nói chuyện với Dương Qua, nhưng chợt thấy màu áo tím lướt thướt ngoài cửa, nàng biết đó là Lục Vô Song. Nàng giận lắm, trách thầm:

- Con người gì mà tò mò đến thế, mình ở đâu là dòm nom đến đó.

Nàng liền quay ra.

Dương Qua ngắm cái áo mới thấy đường kim mũi chỉ rất khéo, chàng động lòng tự nhủ:

- Cô ta đối với mình như vợ với chồng, nhưng mình đã định có nơi chốn, không thể có nơi mới được nữa. Nếu mình quyến luyến mãi ở đây, chỉ thêm luyến ái và đưa sự đau khổ đến cho cô ta! Thôi mình phải thoát sớm đi là hơn.

Chàng nghĩ lại:

- Ta bỏ đi, Lý Mạc Thu đến quấy phá, ai sẽ bênh vực cho nàng? Phải rồi, bây giờ mình đi ra sau núi xem tình hình Lý Mạc Thu ra thế nào.

Chàng chạy ra phía sau núi đến căn nhà bữa qua, thấy chỉ có một đống tro tàn trên nền. Như vậy Lý Mạc Thu đã đốt nhà đi rồi.

Chàng quay về với ý định:

- Chiều nay, mình viết thư từ biệt, để lại cho Trình Anh và Lục Vô Song rồi mình đi.

Tối hôm đó, Dương Qua cầm bút viết, ngồi trước đèn viết thư, nhưng mới viết được mấy hàng, bỗng nhiên tâm trí chàng quá cảm động, nghĩ đến Trình Anh và Lục Vô Song sẽ đau khổ biết chừng nào lúc ta bỏ ra đi.

Đầu óc chàng không nghĩ được một ý gì để chia tay, tay chàng cầm bút viết, mà bút rơI lúc nào không hay. Chàng đứng dậy, tóm mảnh giấy viết lỡ, vo tròn đút vào túi rồi lên giường nằm yên. Chàng cố nhắm mắt để ngủ.

Dương Qua đang nằm thiêm thiếp, bỗng nghe có tiếng gọi thất thanh bên ngoài:

- Cô... Ngốc ơi! Sao thế này...! Mau đây!

Dương Qua giật mình ngồi dậy, khoác áo chạy ra. Bên ngoài gió thổi ào ào, trời vừa sáng, chàng thấy Lục Vô Song mặt tái ngắt, đưa tay chỉ tấm phên trước cửa.

Dương Qua nhìn theo tay nàng cũng thất kinh, khi thấy bốn ngón tay máu tươi còn rành rành.

Đêm rồi, Lý Mạc Thu đã đến đây, đoán biết Hoàng Dược Sư đã đi rồi, nên tính số người còn thêm cô Ngốc, cộng là bốn, vào số "bị giết"

Dương Qua và Lục Vô Song còn đứng tần ngần, chưa nói lên câu nào, thì Trình Anh đã chạy đến hỏi:

- Chị Vô Song nhìn thấy bao giờ thế?

Lục Vô Song ngơ ngác trả lời:

- Trời chưa sáng tôi đã thấy rồi.

Nói xong, Lục Vô Song hơi thẹn, hai má ửng hồng, vì nàng đã tự thú chuyện suốt đêm chờ đợi, nghe ngóng ngoài phòng Dương Qua.

Trình Anh giả vờ như không biết, nói tiếp:

- Mặt trời đã lên cao rồi, chúng mình lo bàn kế hoạch gì cho kịp thời đối phó với Lý Mạc Thu, sớm muộn gì hắn cũng đến đây.

Ba người cùng đi vào nhà bàn tính.

Lục Vô Song nói:

- Hôm kia Lý Mạc Thu bị cô Ngốc đánh mấy ngọn đuốc mà hắn không sợ sao?

Trình Anh nói tiếp:

- Thuật đánh đuốc của cô Ngốc lợi hại thật, nhưng đối với ai, chứ con Lý Mạc Thu coi thường nên mới khinh dễ thế này.

Lục Vô Song nói pha trò:

- Được anh Ngốc nhà ta không bị thương thì cả hai Ngốc cùng hợp sức đánh Lý Mạc Thu chắc Lý Mạc Thu sợ lắm đấy.

Dương Qua cười nói:

- Đã một cô Ngốc lại thêm chú Ngốc nữa, thì làm ăn ra trò trống gì?

Trình Anh cười, nói:

- Thôi, bây giờ chúng mình phải lo sắp đặt cách chống lại với Lý Mạc Thu, chứ sắp nguy rồi đấy, đừng pha trò gì nữa.

Lục Vô Song nói:

- Cả bốn người mình phối hợp lại, đánh cũng chưa chắc thắng được con ma cái đó!

Dương Qua nói:

- Biết thế, nhưng Lý Mạc Thu đến là phải đánh dầu thắng hay bại.

Lục Vô Song hỏi:

- Anh đánh cách gì?

Dương Qua nói:

- Tôi định cách này: cô Ngốc và tôi ở phái chính diện ứng chiến, còn hai chị em cô đánh bên tả.

Trình Anh nói:

- Để em đi gọi cô Ngốc lại tập thử coi!

Trình Anh đến phòng cô Ngốc kêukhông thấy đâu cả, liền trở lại cho Dương Qua và Lục Vô Song hay. Cả ba người chạy ngược chạy xuôi đi kiếm.

Trình Anh chạy ra phía sau núi, thấy bên cạnh mô đá, cô Ngốc đang nằm im như đống sỏi. Nàng liền cúi xuống cởi áo cô Ngốc ra xem, thấy trên lưng còn in vết tay tím bầm. Nàng đoán biết cô bị "Ngũ độc thần chưởng" liền gọi Dương Qua và Lục Vô Song lại, và nàng lấy thuốc thánh "Cửu hoa ngọc lộ hoàn" thoa cho cô Ngốc.

Dương Qua chạy đến thấy vết thương cô Ngốc, chàng nhớ phép độc đã ghi trong "Ngũ độc kỳ thư", chàng liền vận nội công tiếp sức vào các đường huyệt chính.

Chỉ trong giây lát cô Ngốc đã hồi tỉnh, nàng cười và nói:

- Không biết con đạo cô mắc dịch đó trói tôi bằng gì mà chặt thế này.

Lý Mạc Thu đã dùng "Ngũ độc thần chưởng" đánh cô Ngốc bị thương, rồi dùng dây tơ trói lại, nhưng không dám hại mạng cô Ngốc vì Lý Mạc Thu còn sợ Hoàng Dược Sư.

Lúc cô Ngốc tỉnh lại, Dương Qua, Trình Anh và Lục Vô Song lo mở dây trói mà không được. Nên ba người khiêng cô Ngốc vào nhà, đặt nằm trên giường rồi nhìn nhau lo lắng. Trong bốn người mà một người bị thương, rồi Lý Mạc Thu đến đây, làm sao đánh cho được.

Dương Qua nhìn Trình Anh và Lục Vô Song nói:

- Thử lấy cây chân tuyến đao cắt dây xem có đứt không?

Nhưng khi đưa ra cắt sợi tơ vàng đứt, lưỡi dao vừa qua khỏi, sợi tơ đứt lại dính nguyên như cũ.

Lúc này cô Ngốc nằm trên giường giãy dụa, miệng kêu lên:

- Cắt dây cho tôi! Nó tung phất trần trói tôi đấy.

Dương Qua thầm nghĩ:

- Sợi dây vàng này đao gươm cắt không đứt, có lẽ nhờ thợ rèn thổi bễ, rồi dùng âm dương háo thổi cho chảy tan ra mới được.

Chàng liền hỏi:

- Gần đây có lò rèn nào không?

Trình Anh nói:

- Cách đây chừng bảy, tám dặm có nhà rèn.

Lục Vô Song tiếp lời:

- à hay anh phi ngựa sang bên đó kêu người thợ ấy.

Dương Qua nói:

- Không được, nếu tôi đi thì Lý Mạc Thu trở lại đây rầy rà lắm. Chi bằng tôi bồng cô Ngốc ngồi phía trước, hai cô ngồi sau yên ngựa cùng đi đến đó tiện hơn.

Cả ba người đồng ý, Dương Qua bồng cô Ngốc lên trước yên ngựa, Lục Vô Song và Trình Anh nhảy lên ngồi sau yên.

Sau khi ngồi vững vàng trên yên ngựa, Dương Qua cười nói:

- Cái thằng Dương Qua nầy, không biết kiếp trước nó mắc cái nợ gì lớn của Tây Vương Mẫu, nên kiếp nầy nó phải gánh vác như vầy.

Lục Vô Song nói:

- Ngốc sao nay văn thơ dồi dào thế! Chắc nhị ngốc thành hai chứ gì?

Trình Anh nói:

- Đi mau, kẻo Lý Mạc Thu nó đến là nguy.

Dương Qua cho ngựa chạy nhanh, và nói đùa:

- Có nguy thì cũng thằng Dương Qua gánh chịu chứ các cô lo gì! Thôi, tôi để cho cô Lý Mạc Thu bắt tôi về làm đầy tớ, còn hơn đi với các cô đóng vai một ngựa ba yên thế này. Sức như Lữ Bố cũng phải một, còn nếu trung như Vân Trường thì cũng phải nản. Vì Vân Trường chỉ phò có hai chị, mà cái thằng Dương Qua nầy phải phò đến ba chị, thế mà người đời lại gọi nó là Ngốc mới khổ!

Ngựa chạy như bay, Trình Anh khen:

- Con ngựa của anh vừa khoẻ vừa lanh ghê. Thật đúng là "thiên lý mã". Suy việc này ta thấy người nói thật đúng.

Lục Vô Song hỏi:

- Đúng cái gì! Đường dài mới biết sức ngựa, lúc nguy mới thấy lòng người. Đó là cảnh hôm nay, cho chị em mình thấy người và ngựa.

Dương Qua cười, nói:

- Thì hai người đã cho đóng vai "người ngựa" là quý quá!

Đường rừng lối hẹp, đất đá lô nhô, càng đi càng thấy âm u, quanh co mãi mới đến một căn nhà xiêu vẹo, than củi chất ngổn ngang trước sân, trên tường treo ba thanh gươm và tấm da thú. Cảnh vật đìu hiu, tỏ ra đây là căn nhà hoang trong rừng hẻo lánh.

Dương Qua cất tiếng gọi:

- Sư phó có ở nhà không?

Tiếng gọi của Dương Qua như vô hiệu. Cả bọn đều thất vọng.

Ba người chăm chú nhìn vào trong nhà một hồi lâu, chợt thấy một ông lão từ trong nhà bước ra, râu tóc bạc phơ, tuổi độ năm mươi, mình mặc áo da lạc đà, chân đi guốc sắt, mắt lem nhem, chân trái bị què, chống nạng liểng khiểng, hỏi:

- Khách có việc gì truyền dạy?

Dương Qua định tiếp lời, bỗng có tiếng chân ngựa dồn dập phía trước, liền đó có hai người ngồi trên lưng ngựa xông vào trước sân.

Đó là hai tên đầu mục Mông Cổ. Một trong hai tên có vẻ mặt vênh vang với bộ râu lồm xồm, cất tiếng hỏi lớn:

- Nhà nầy có phải là nhà của lão thợ rèn họ Phùng không?

Ông lão khập khễnh bước lại cúi đầu nói:

- Dạ, tôi đây!

Viên đầu mục lớn tiếng nói:

- Quan trên ra lệnh: nội trong ba ngày các thợ rèn trong huyện phải lên huyện đường để lo việc đúc khí giới. Nghe rõ chưa?

Ông lão ngập ngừng nói:

- Tôi tàn phế, già nua...

Tên đầu mục cầm roi ngựa quất vào đầu lão một cái, miệng la lớn:

- Im mồm, đừng nói dông dài, sáng mai mà không lên trình diện thì chớ trách.

Nói xong, cả hai quày ngựa cùng đồng bọn đi mất.

Lão thợ rèn đứng ngây người nhìn theo và thở dài, mặt buồn rười rượi.

Trình Anh thấy thấy tình cảnh của ông lão quá động lòng thương xót bèn thò tay vào túi, lấy ra hai chục lạng bạc để trên bàn và nói:

- Phùng sư phó, sư phó tuổi đã cao, lại thêm chân tàn phế, nếu lên trình diện với tụi Mông Cổ, không chết trước, cũng chết sau. Xin lão cầm tạm chỗ bạc này, trốn đi nơi khác lánh thân.

Ông lão run giọng, nói:

- Đa tạ lòng tốt của cô nương, tuổi tôi cũng đã già, chết sống không quan hệ, chỉ đáng thương mấy trăm vạn sinh linh ở Giang Nam phải lâm vào cảnh chém giết, tàn sát nay mai!

Dương Qua nghe nói, kinh ngạc hỏi:

- Sao lão biết? Vì sao vậy?

Ông già nói:

- Bọn Mông Cổ định bắt hết thợ rèn để đúc khí giới cho chúng chuẩn bị tiến đến xâm chiếm Giang Nam của nhà Đại Tống. Việc đó rõ ràng còn ai không biết.

Dương Qua, Lục Vô Song và Trình Anh nghe lão nói, cả ba đều cho là đúng. Dương Qua toan hỏi tiếp, nhưng Phùng lão đã hỏi:

- Ba vị tính làm binh khí gì chăng?

Dương Qua nói:

- Ba anh em tôi đến nhờ Phùng sư phó có cách nào mở trói cho cô bạn của chúng tôi không.

Chàng vừa nói tay vừa chỉ vào cô Ngốc.

Lão Phùng chỉ tay vào cô Ngốc và nói:

- Việc này không khó lắm, để tôi đốt lò rồi đánh một con dao là cắt được.

Dương Qua vui vẻ nói:

- Nội ngày nay xong không?

Lão Phùng đáp:

- Nếu làm gấp chừng hai giờ thì xong.

Lão lo tiếp tục thổi bễ, nung sắt.

Dương Qua, Lục Vô Song và Trình Anh đều sinh quán ở Giang Nam, tuy không phải con nhà quan quyền, phú quý, nhưng lúc nghe Phùng lão nói đến chuyện "sinh linh Giang Nam sắp lâm vào cảnh chém giết rùng rợn nay mai" ai cũng lo lắng cho những người thân thuộc mình.

Trong lúc ba người ngồi chăm chú nhìn Phùng sư phó nung thanh sắt thì cô Ngốc nằm trên giường, thỉnh thoảng giãy giụa đành đạch, kêu la:

Mở trói tay tôi chứ... Đau quá này!

Không bao lâu Phùng sư phó nung xong thanh sắt, đập thành hình con dao.

Phùng lão tuy già nhưng gân sức còn mạnh lắm nên đập những nhát búa như thần giáng mà không có mệt nhọc, khó khăn gì cả.

Trong nhà lúc nầy vang dội những tiếng đì đành làm chấn động cả khu rừng bên ngoài. Những bầy chim rừng tranh nhau bay, kêu ríu rít như để thi nhau phá tan cảnh rừng âm u tịch mịch.

Cô Ngốc lúc nầy quá sợ hãi, miệng không ngớt kêu la:

- Các người không mở trói cho tôi mà làm gì thế? Trời ơi, kinh quá!

Vì cô Ngốc nghe tiếng búa đe chát chúa và những tia sáng nhấp nhoáng khắp nhà nên quá sợ hãi.

Dương Qua, Lục Vô Song và Trình Anh thấy con dao đã thành hình, chỉ cần nung tráng nước thép nữa là xong, ba người vui vẻ khen. Lục Vô Song reo lên:

- Cô Ngốc ơi, sắp có cái mở trói cho cô rồi đấy, đừng la nữa!

Bỗng có giọng nói lanh lảnh ở phía sau nhà, tiếp đó có người hỏi:

- Rèn làm chi con dao to tướng thế, định dùng nó để làm phất trần chăng?

Dương Qua, Lục Vô Song và Trình Anh kinh hãi quay lại, nhìn thấy Lý Mạc Thu đang cầm phất trần đứng tần ngần ngoài cửa nhìn vào.

Dao quý rèn chưa xong mà địch đã đến bên lưng. Trình Anh và Lục Vô Song tuốt gươm thủ thế. Dương Qua cũng vớ lấy thanh sắt đứng chờ Lý Mạc Thu xông vào thì đánh.

Lý Mạc Thu cười khanh khách, nói:

Các người định dùng dao để chống cây phất trần của ta. Được rồi, các người cứ yên trí đi, ta ngồi đây chờ, khi nào xong dao sẽ đánh cũng không muộn gì.

Nói xong Mạc Thu ngồi trên đống củi trước cửa, thản nhiên coi Dương Qua, Lục Vô Song và Trình Anh như không đáng ngại.

Dương Qua bực mình nói vọng ra:

- Nay nàng có đòn gì cứ đưa ra, chứ cây phất trần không ai sợ đâu.

Mạc Thu nhìn vào thấy cô Ngốc nằm trên giường, vẫn còn cử động như thường, thầm nghĩ:

- Con bé bị mình tát một cái như trời giáng đã thiệt mạng rồi sao vẫn còn sống nằm kia?

Nghĩ thế, Mạc Thu cười, rồi hỏi:

- Hoàng Dược Sư có trong nhà không?

Phùng sư phó nghe nói đến Hoàng Dược Sư, giật nẩy người nhìn Lý Mạc Thu nhanh như chớp và cúi xuống nung lại con dao.

Trình Anh cất tiếng nói vọng ra:

- Người đã biết sư phụ không có ở đây, còn hỏi lôi thôi gì nữa? Nừu người biết sư phụ ta có ở đây, thì dẫu lớn mật đến đâu cũng chẳng dám mò đến.

Lý Mạc Thu cười ha hả như nhạo báng, rồi thò tay vào túi lấy ra một tờ giấy trắng, miệng nói:

- Hoàng Dược Sư là một tay mạo danh lừa đời, cậy có nhiều đệ tử để đi hiếp đáp người khác, chớ tài gì. Trong bọn đệ tử của Dược Sư chỉ có một người đáng kể thôi.

Nói xong Mạc Thu lấy tờ giấy cài vào cây kim rồi phóng vào.

Cây kim bay vút vào cửa, cắm phập giữa cột nhà, Mạc Thu cất tiếng hỏi:

- Ta đưa bằng chứng cho đấy, khi nào Dược Sư về, tự đoán biết ai đã dùng "bửu bối" giết học trò giỏi của lão.

Đoạn nàng quay lại nói với Phùng sư phó:

- Lão thợ rèn, hãy nghỉ tay một chút, tôi làm phiền lão như thế này được không?

Phùng sư phó gượng đôi mắt đỏ ngầu nhìn lên tờ giấy có bốn câu thơ:

Đào Hoa đảo chúa

Đệ tử tối đa

Dĩ ngũ địch nhất

Dĩ tiếu giang hồ.

dịch:

Đào Hoa đảo chúa

Rất đông học trò

Năm người đánh một

Thiên hạ cười cho.

Phùng lão đọc xong bốn câu thơ, ngơ ngác.

Lý Mạc Thu nói tiếp:

- Lão hiểu chưa?

Phùng lão nói:

- Hiểu rồi, có gì mà không hiểu.

Vừa nói lão vừa giơ kềm lên kẹp cả tờ giấy lẫn kim, giật xuống nhét vào lò lửa cháy vèo vèo.

Thấy thế Lý Mạc Thu quá giận, cầm cây phất trần đứng phắt lên, định chạy xông vào đánh Phùng sư phó cho vỡ sọ ra.

Nhưng chạy được vài bước, Mạc Thu dừng chân ngay, vì nàng là người giang hồ lão luyện, thầm nghĩ:

- Một người trông rất kỳ dị, mà làm nghề thợ rèn, chắc gan dạ lắm mới dám ngang nhiên chọc tức mình như vậy!

Nàng bước lùi lại ngồi nguyên chỗ cũ, ôn tồn hỏi:

- Tôi nóng nảy quá nhỉ! Lão là ai thế?

Phùng lão cau mày đáp:

- Mi không trông thấy đây sao? Ta là lão thợ rèn, chớ còn là ai nữa?

Lý Mạc Thu gắt gỏng hỏi:

- Tại sao lão lại đốt tờ giấy của tôi?

Tờ giấy viết không đúng thì đốt chớ sao?

Mạc Thu quá tức, hét lên:

- ông biết thế nào mà không đúng?

Phùng lão nghiêm giọng nói:

- Đào Hoa đảo chúa có tài năng biết cả việc trời đất; đệ tử của ngài mỗi người chỉ học được trong một phần trăm, phần ngàn nghệ thuật của ngài mà đã ngang dọc thiên hạ, thế thì trong đời ai còn dám chê ngài?

Lý Mạc Thu cười rang rảng nói:

- ông lão ơi, như thế là ông đã lầm Hoàng Dược Sư rồi, vì Dược Sư chỉ có tài lừa đời. ông cũng như thiên hạ đời này, đều bị mắc lừa Hoàng Dược Sư cả!

Phùng sư phó vẫn bình tĩnh nói:

- Mi nói không đúng sự thật. Để ta kể cho mi nghe. Người đệ nhất đệ tử của ngài là Trần Huyền Phong, một tay da đồng, gan chì, xương sắt, gươm đao chém không thủng. Mi đã nghe danh ông ta chứ?

Miệng nói, Phùng lão vẫn trăn trở thanh sắt trong lửa.

Nghe nói đến Trần Huyền Phong, Lý Mạc Thu sợ hãi. Còn Dương Qua, Lục Vô Song và Trình Anh đều kinh ngạc thầm nghĩ:

- Một lão thợ rèn già nua, ở nơi rừng rú thế này mà biết được những tay anh hùng trong giới võ lâm, lạ thật?

Lý Mạc Thu bỡ ngỡ hỏi:

- Hình như Trần Huyền Phong bị một đứa trẻ nít đâm chết, như thế thì giỏi cái gì?

Phùng lão điềm nhiên kể tiếp:

- Người đệ nhị đệ tử của Hoàng Dược Sư là Mai Siêu Phong có tài đi lẹ như gió, mi có biết không?

Lý Mạc Thu tiếp lời:

- à phải rồi; người đó bị "Thất quái" ở Giang Nam đâm lủng hai mắt, rồi sau bị Âu Dương Phong đánh bể ruột đó phải không?

Phùng lão bồng ngây người buồn bã, khi nghe Lý Mạc Thu nhắc đến chuyện bi đát của bạn đồng môn thuở xưa.

Qua một lúc, ông ta buông tiếng thở dài rồi nói:

- Có thể xảy ra việc đó à? Sao ta không hay? Nhưng người học trò thứ ba của ngài, chắc mi không lạ gì, đó là Khúc Linh Phong võ nghệ siêu quần. Nhất là thuật "tát tay" thì trong thiên hạ không có người địch nổi.

Lý Mạc Thu không suy nghĩ liền đáp:

- Trong làng giang hồ, có kể chuyện Khúc Linh Phong. ông ấy leo vào Hoàng cung trộm báu vật, bị lính cận vệ bắt được đánh chết. Có phải ông ấy là Khúc Linh Phong có tài "tát tay" siêu quần tuyệt luân không?

Phùng lão giả lơ cúi vào lò lửa ho mấy tiếng, đôi mắt đẫm lệ rơi xuống thanh sắt đỏ, nghe "xèo xèo" hai luồng khói trắng bốc lên.

Lục Vô Song đứng chăm chú nhìn từng cử chỉ, lời nói của Phùng lão, thấy rõ nước mắt của lão trào ra. Lòng nàng nghĩ ngợi không hiểu vì sao? Chỉ thấy tay lão giưo cao lên và đập lưỡi búa xuống chan chát, miệng thở dài nghe não nuột.

Một lúc lâu Phùng lão mới nói:

- Môn đệ của Hoàng Dược Sư chúa đảo Đào Hoa có Trần Huyền Phong, Mai Siêu Phong, Khúc Linh Phong và Lục Thừa Phong, bốn người thuộc vào hàng đệ tử ưu hạng. Lục Thừa Phong là tay võ nghệ cao cường lại thông tính cả nhâm cầm độn toán, nếu mi gặp ông ta là mi không còn.

Lý Mạc Thu cười kha khá, nói:

- ô! Nhâm cầm độn toán thì ăn nhằm gì. Có phải người ấy đã dựng một toà nhà ở bên Thái Hồ, gọi là "Quy vân trang" để đoán số cho khách giang hồ, sau bị người ta đốt cháy tiêu cả nhà cửa, từ đó đến nay không thấy ông ta đâu cả. Có lẽ đã bị chết thiêu rồi!

Phùng sư phó nghe đến đó giận lắm, la lên:

- Con đạo cô kia, không được nói bậy như thế. Các đệ tử của Hoàng Dược Sư đều là tay võ nghệ siêu quần. Nhắc đến người nào mi cũng nói là bị giết cả. Mi đừng khinh ta ở xó rừng nầy, không hiểu được thiên hạ đời nay cố kiếm lời xuyên tạc.

Lục Vô Song buồn bã nói với Phùng lão:

- ông muốn biết rõ sự việc đó để ba chúng tôi nói lại coi có đúng không?

Nói đến đó, Lục Vô Song đôi mắt ngấn lệ và nghẹn lời không nói được nữa.

Phùng lão đưa mắt nhìn Trình Anh rồi nói:

- Cô nương có thể cho tôi biết tin về các đệ tử của Hoàng Dược Sư không?

Trình Anh thấp giọng nói:

- Trong môn phái của Hoàng Dược Sư mấy năm nay không được hưng thịnh, và các người tài giỏi tản lạc, điêu linh hết cả. Tôi là kẻ sinh sau đẻ muộn, vừa mới được vào đảo Đào Hoa học ít lâu nay, không dám đem lời bênh vực cho sư phụ. Tôi thấy thẹn vô cùng. Như thế lão có quen với các người kể trên sao?

Phùng sư phó không đáp, chỉ trừng mắt nhìn Trình Anh hồi lâu, rồi có vẻ nghi ngờ hỏi:

- Gần đây chúa đảo có nhận thêm đệ tử nữa à?

Trình Anh thấy lão luôn luôn bênh vực cho sư phụ nàng, nên hết lòng kính mến, bèn kể thật:

- Gia sư tôi lúc nầy tuổi đã cao, ưa sống nơi tịch mịch, nên thu nhận tôi để ngài sai việc nhỏ mọn, còn nói học trò thì không đúng, vì tôi còn nhỏ chưa học được gì. Tôi không dám nhận là đệ tử của chúa đảo Đào Hoa.

Nghe đến đấy, Phùng sư phó đôi mắt hiền dịu lại,như có thâm tình đối với Trình Anh. Nhưng lão không nói gì nữa, chỉ cúi đầu đưa tay trở qua trở lại thanh sắt.

Trình Anh chợt thấy cặp nạng của lão, trên đầu có hình bán nguyệt giống y "Lạc anh chưởng pháp" của Hoàng Dược Sư. Nàng đoán được nguyên do liền hỏi:

- Tôi nhiều lúc nhàn rỗi được hầu chuyện với gia sư ở trên đảo Đào Hoa. Gia sư thường nhắc cho nghe về chuyện của mấy vị đệ tử như thế này: "Ngày tao đuổi các đệ tử đi khỏi đảo, chỉ có Trần Huyền Phong và Mai Siêu Phong là hai người đáng tội, vì chúng tự hại chúng. Còn ba người họ Khúc, họ Lục và họ Phùng đều bị tội oan. Đáng thương nhất là Phùng Mạc Phong tuổi còn nhỏ, không biết nay lưu lạc phương nào. Lúc nào nghĩ đến, lòng ta lại thương chúng đệ tử lúc ấy!"

Hoàng Dược Sư quả có ý thương học trò, nhưng ông rất kín đáo không bao giờ để lộ ra. Lúc này Trình Anh bịa chuyện để dò ý Phùng sư phó.

Lý Mạc Thu đứng ngoài nhìn thấy hai người chuyện trò thân mật, rồi sau Phùng lão có vẻ buồn bực, nước mắt chảy tầm tã rơi xuống thanh sắt đang nung trong lò nghe "xèo xèo" bốc lên hơi trắng, Mạc Thu nghĩ thầm:

- Tụi nầy có chung sức nhau cũng không đi đến đâu, chỉ thêm có một thằng què, làm nên trò trống gì?

Nàng gọi lớn:

- Phùng Mạc Phong, ta có ý mừng cho sư huynh, sư muội nhà ngươi đã nhận được nhau.

Phùng sư phó đây chính là Phùng Mạc Phong. Khi còn ở trên đảo Đào Hoa, Trần Huyền Phong và Mai Siêu Phong, hai người đã lấy trộm "Cửu âm chân kinh" định trốn đi. Hoàng Dược Sư bắt được, lòng quá giận, bèn đánh què cẳng hai người, đuổi khỏi đảo. Cả Khúc Linh Phong và Lục Thừa Phong cũng bị trừng phạt như hai người kia. Chỉ có Phùng Mạc Phong tuổi còn nhỏ nên chỉ đánh què một cẳng, nhưng cũng bị đuổi ra khỏi đảo Đào Hoa.

Khi ra khỏi đảo, mỗi người lưu lạc mỗi nơi trên hai xứ Quan trung, Lục dương.

Phùng Mạc Phong lạc đến Lục dương học nghề rèn, sau khi thành nghề, tìm đến một thôn trang hẻo lánh hành nghề sinh sống. Phùng Mạc Phong tuy có võ nhưng đã gần ba chục năm nay chưa hề đánh nhau với ai, vì thế mà trong giới giang hồ chưa ai biết danh.

Ngày nay tình cờ nghe chuyện các sư huynh qua đời cả, còn sư phụ như bóng chim tăm cá. Tình thầy trò ân thâm nghĩa trọng, Phùng Mạc Phong tự nhủ:

- Dù sư phụ đối với ta tàn ác mặc lòng, bổn phận ta bao giờ cũng giữ nghĩa cho trọn đạo trời đất.

Vì vậy, nên khi nghe Trình Anh kể, Phùng Mạc Phong ruột đau như cắt, thương thầy nhớ bạn, xót xa trong lòng.

Dương Qua, Lục Vô Song thấy Phùng lão và Trình Anh nhận là sư huynh sư muội, tất cả đều vui mừng. Dương Qua thầm nghĩ:

- Lão nầy nếu đúng là Phùng Mạc Phong, đệ tử của Hoàng Dược Sư thì võ nghệ chắc hẳn phải là tay chọc trời khuấy nước chứ không vừa.

Lý Mạc Thu ở ngoài cất tiếng lanh lảnh nói:

- Sư phụ nhà ngươi đã đuổi ngươi ra khỏi cửa mà vẫn còn quyến luyến thế kia à? Thôi ngươi để ta giết ba đứa này đi, đừng can thiệp nhé!

Phùng Mạc Phong bình tĩnh đáp:

- Ta tuy có học chút đỉnh võ nghệ, nhưng chưa có đánh ai lần nào. Vả lại nay đã bị tàn phế một chân như vầy, thì đánh đá chi mà nói.

Lý Mạc Thu nói:

- Được rồi, không có can chi tới nhà ngươi, cứ để yên ta làm việc của ta.

Phùng Mạc Phong quắc mắt nói:

- Đâu có được, ta cấm ngươi không được động đến mấy người nầy.

Lý Mạc Thu cả giận to tiếng:

- Ta thấy nhà ngươi tật nguyền, đã tha cho lại muốn lên mặt.

Phùng lão thản nhiên như không nghe, cứ cầm búa đập mạnh trên đe mãi.

Mạc Thu liền thách đố:

- Ta chấp cả bốn đứa đấy. Đứng lên hết đi, ta đưa về âm phủ cho rồi!

Phùng Mạc Phong ôn tồn đáp:

- Ta bỏ học đã ba mươi năm nay, không luyện tập gì cả, hôm nay thử ôn lại vài đường xem sao!

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 43 : Nạng sắt mà trừ được thần chưởngDương Qua lại tặng áo cho kẻ thù

Lý Mạc Thu cười khanh khách, nói:

- Con Lý Mạc Thu nầy đã từng ngang dọc thiên hạ bao lâu nay, đánh biết bao nhiêu trận, chưa hề thấy một người nào tàn phế như nhà ngươi mà dám chống ta. Nay Phùng Mạc Phong, ông chưa hề giao đấu với ai thật ư?

Phùng Mạc Phong đáp:

- Ta có trêu chọc ai đâu, nên có người nào ganh ghét gì mà phải đấu với ta?

Lý Mạc Thu nheo mày nhìn Phùng lão cười lớn:

- ôi chao! Đệ tử của chúa đảo Đào Hoa toàn là những kẻ mang hư danh, chết một cách rẻ mạt, làm trò cười cho thiên hạ mà thôi! Ta đây đã thừa hiểu rồi!

Phùng Mạc Phong nghiêm giọng nói:

- Này Lý đạo trưởng, đừng có nói động đến ân sư của ta!

- Ai là người nhận chú làm đệ tử, mà chú bô bô nói mãi, hết ân sư đến sư phụ, không sợ người ta cười sao?

Phùng Mạc Phong cầm cây nạng sắt từ từ đứng lên, rồi nói:

- Suốt đời ta chỉ chịu khổ sở điêu linh, chỉ có một mình Hoàng Dược Sư là vị ân sư duy nhất của đời ta. Không kính trọng ngài, thì còn kính trọng ai?

Nói xong Phùng lão quay qua hỏi Trình Anh:

- Sư muội, lâu nay ân sư vẫn được mạnh khoẻ luôn chứ?

Trình Anh lễ phép đáp:

- Thưa sư huynh, gia sư cũng được bình yên luôn!

Câu nói của Trình Anh làm cho Phùng Mạc Phong nét vui mừng hiện rõ trên nét mặt.

Lý Mạc Thu thấy Phùng lão có lòng chân thành đối với Hoàng Dược Sư, thầm khen: "Hoàng Dược Sư cũng đáng bậc tôn sư, mà thiên hạ cũng ít ai bì kịp. Đánh học trò đến què chân, nhưng học trò vẫn một lòng tôn kính khi vắng mặt!"

Hoàng Dược Sư hành động quái đản, nhưng lương tâm của ông rất trung trực, rất ghét kẻ tà gian, nịnh bợ. Cho nên Lục Thừa Phong, Khúc Linh Phong và Phùng Mạc Phong tuy bị hình phạt như vậy, vẫn ghi ơn ông chứ không oán trách. Đến kẻ đại gian ác như Mai Siêu Phong, mà khi gặp việc gian nan cũng quên mình để cứu ông; ai cũng nghĩ rằng miễn sao báo nghĩa được với ân sư, là họ thoả mãn rồi.

Phùng Mạc Phong ngồi xuống đưa nạng sắt vào lò nung lên.

Lý Mạc Thu cười rồi hỏi tiếp:

- Thế nào? Phùng Mạc Phong nghĩ ân nghĩa của sư phụ thế nào mà chân tay đến rời rạc vậy?

Phùng lão không trả lời, chỉ chăm chú vào ngọn lửa, hai tay lo trăn trở thanh sắt và cây nạng cho đỏ lên.

Dương Qua, Lục Vô Song và Trình Anh thấy thế đều lo sợ, kêu lên:

- Sao lão lại nung cả cây nạng như vậy, lấy gì đi lại?

Nhưng Phùng Mạc Phong không đáp một lời nào, chỉ chăm chú nhìn vào ngọn lửa ngùn ngụt như đang nung nấu bầu căm tức trong lòng.

Đến lúc thấy cây nạng đã đỏ như than lửa hồng, ba người kia sợ hãi, tưởng cây nạng ấy sẽ cháy ra, không còn dùng được. Ngờ đâu, Phùng Mạc Phong vẫn điềm nhiên đưa tay nắm lấy cây nạng nung đỏ, như không biết nóng là gì.

Lý Mạc Thu trông thấy thất kinh, thầm nghĩ:

- ôi chao! Nếu thế bản lĩnh người nầy không phải vừa. Ta liệu cách ra tay sớm thì hơn.

Nàng liền bước lui ra khỏi cửa, mồm gọi Phùng lão:

- Lão già kia! Có giỏi ra đây!

Phùng Mạc Phong mặt đầy giận dữ, đứng dậy. Một tay chống nạng, một tay cầm búa, phóng mình ra lanh như chớp chẳng có chút gì gọi là tàn phế cả.

Lão nói:

- Xin đạo trưởng chớ mắng nhiếc sư phụ tôi, đừng làm khó dễ sư muội tôi, và tha cho kẻ tàn phế này thì hay biết bao.

Lý Mạc Thu không ngờ Phùng lão đã đem thân ứng chiến, còn nói câu khiêm tốn có vẻ xin xỏ, nàng ngạo nghễ bảo:

- A! Ra ngươi đã biết sợ ư? Này lão thợ rèn! Nếu thế mi phải quỳ xuống xin lỗi ta mới được.

Phùng Mạc Phong quắc mắt nhìn Lý Mạc Thu rồi quát lớn:

- Con ma cái kia, thế là mi đã trêu chọc ta phải không? Ta sợ mi mà ra đây à?

Lý Mạc Thu liền vung phất trần vụt ngang qua đầu Phùng lão.

Phùng Mạc Phong tuy có một cẳng, nhưng nhảy qua nhảy lại nhanh như chớp. Lý Mạc Thu dương phất trần đánh tiếp ba cái đều trật cả.

Phùng Mạc Phong tuy né lanh như vậy, nhưng tuyệt nhiên không đánh trả.

Dương Qua, Trình Anh, Lục Vô Song đứng ngoài hết lòng lo ngại, bảo nhau:

- Chúng mình phải giúp lão một tay.

Dương Qua thấy Phùng lão càng đánh càng hăng sức. Chàng quá thích chí, nên tìm lời chọc Lý Mạc Thu:

- Lý Mạc Thu ơi! Bữa nọ mi vừa đánh vừa cười. Sao nay lại im bặt như thế?

Lý Mạc Thu thở hổn hển hét lớn:

- Im đi, thằng ranh con kia! Mày thích lắm sao?

Dương Qua được dịp nói tiếp:

- Lý Mạc Thu, mi còn dám nhắc những lời buộc tội đảo chúa Đào Hoa là đồ bất trung bất hiếu, vô nhân đạo, cướp vợ người, bắt cóc con nhỏ nhà khác nữa chăng? Mi nói toàn là những việc không bằng chứng gì cả.

Lý Mạc Thu nghĩ bụng:

- Ta mắng như thế bao giờ mà mày dám đặt điều nói vậy?

Nàng vừa cãi lại Dương Qua, nàng vừa đánh với Phùng lão những đòn quá nguy hiểm.

Lục Vô Song và Trình Anh, không hiểu tại sao Dương Qua lại bịa chuyện như vậy!

Phùng Mạc Phong nghe Dương Qua bịa chuyện mắng Lý Mạc Thu, lòng bốc giận, vì nghĩ rằng Lý Mạc Thu là kẻ hậu sanh lại dám mắng sư phụ mình. ông dùng thế "Kim kê độc lập" vững vàng, tay búa tay nạng vung lên đánh vun vút vào Lý Mạc Thu.

Lý Mạc Thu lúc nầy chỉ lo lui, né, chờ khi Phùng lão sơ hở mới dám đánh trả vài đòn.

Dương Qua cười ha hả, nói rang rảng:

- Lý Mạc Thu! Mày là đứa láo khoét, mày bảo Hoàng Dược Sư là kẻ bất nhân vô liêm sỉ, nhưng ta thấy mày còn bất nhân và vô liêm sỉ hơn ông ta nhiều.

Giọng nói của Dương Qua như mũi dùi nhoi nhói vào tai. Dương Qua càng nhắc đến, càng châm biếm Lý Mạc Thu bao nhiêu thì Phùng lão càng nổi giận bấy nhiêu, đánh ra toàn những đòn ác hiểm.

Do đó ban đầu Lý Mạc Thu còn chống trả được, nhưng sau nàng chỉ còn có cách thủ thế, miệng thở hổn hển, không biết đường nào phản công.

Luận về võ công thì hai bên chỉ suýt soát nhau một chín một mười. Nhưng nói về kinh nghiệm chiến đấu thì Lý Mạc Thu là tay từng trải giang hồ, một mình đã dự chiến hàng mấy trăm trận. Vì vậy, tuy có hơi kém sức, nhưng nàng không bị bối rối và còn nghĩ:

- Lão chỉ có một chân, sức mạnh bình thường đã giảm mất nhiều. Nếu lão hăng sức chẳng qua vì nóng giận nhất thời. Ta chờ lão mệt sức sẽ phản công thì thế nào cũng thắng.

Quả vậy, qua một hồi giao đấu, Phùng lão đánh một lúc một yếu dần, và các chiêu thế rời rạc, không ác liệt như lúc đầu.

Lý Mạc Thu mừng rỡ vội vung phất trần đánh tạt một đòn vào ngực lão.

Phùng lão giơ nạng ra đỡ, thì Lý Mạc Thu đã lẹ như chớp, vung cây phất trần vụt tới, định quấn cây sắt của Phùng lão thu về. Đây là một tư thế đặc biệt của Lý Mạc Thu đã thường dùng để đoạt vũ khí của đối phương. Không ngờ nàng vừa vung cây phất trần đã nghe tiếng "xèo xèo". Một làn khói toả ra khét lẹt. Cây phất trần bị cháy trụi lông, chỉ còn trơ cái cán.

Bấy giờ Lý Mạc Thu mới biết cây nạng của lão còn đang nóng đỏ.

Lý Mạc Thu đã không thu được vũ khí của đối phương, mà binh khí của nàng bây giờ cũng thành vô dụng. Nàng vẫn bình tĩnh giơ "Ngũ độc thần chưởng" ra tấn công tiếp.

Thần chưởng là đòn lợi hại, nhưng phải đứng gần đối phương thì mới hiệu quả được.

Phùng Mạc Phong thừa thắng, tay búa tay nạng đánh đỡ không ngớt. Với đòn ác liệt "Ngũ độc thần chưởng" của Lý Mạc Thu, lúc nầy chỉ còn nghe tiếng vo vo như sáo diều gặp gió.

Dương Qua, Trình Anh và Lục Vô Song sửng sốt nhìn Lý Mạc Thu và Phùng Mạc Phong đang giáp chiến hăng say, và Dương Qua cũng quên không còn châm biếm Lý Mạc Thu nữa!

Bỗng có lằn khói trắng xanh ở chỗ trận chiến ác liệt tung ra, khét lẹt như mùi đốt giẻ.

Lý Mạc Thu quyết dùng "Ngũ độc thần chưởng" đánh Phùng Mạc Phong nhưng không ngờ cây nạng của Phùng lão còn nóng đỏ, đánh vào đâu cháy đến đó, nên "Ngũ độc thần chưởng" của Lý Mạc Thu trở nên vô hiệu, hai bàn tay của nàng suýt bị cháy cả, nếu không lanh lẹ tránh đòn.

Lý Mạc Thu đang căm giận vì nạng ác ôn của lão thợ rèn, chưa biết tìm đòn gì để phá, chợt nghe Phùng Mạc Phong kêu lên:

- Ta không thèm đánh nữa. Người mi loã lồ thế kia, thì còn đánh đấm gì!

Lý Mạc Thu quá hăng say chiến đấu, nghe Phùng lão kêu lên như vậy, nàng không hiểu duyên cớ gì cả. Chợt nghe gió thổi lành lạnh, nàng nhìn xuống thân mình từ ngực đến chân, áo quần rách hở để lộ da thịt.

Nàng thẹn thùng không thể tả, vội vã quay đầu chạy trốn.

Vừa quay mình chạy nàng nghe lạnh toát cả người, không biết chạy trốn nơi nào, chỉ có cách độn thổ mới che được cặp mắt người đời. Nhưng nàng đâu biết độn thổ mà nghĩ đến chuyện ấy.

Nguyên vì cây gậy của Phùng Mạc Phong đang nóng đỏ, nhưng Lý Mạc Thu quyết xông sát vào để đánh "Ngũ độc thần chưởng" nên áo quần bị cháy hết, sanh ra tai nạn ấy.

Dương Qua thấy Lý Mạc Thu đang luống cuống và xấu hổ, vội vã cởi áo dài ra, vận nội công ném vào người Mạc Thu.

Lý Mạc Thu như người sắp chết đuối vớ được cọc, vội đưa tay hớt lấy cái áo của Dương Qua vừa ném đến mặc vội vào. Nàng thấy sợ, vì từ trước đến nay chưa bị người nào dùng đòn phép đánh đến trần truồng như vậy!

Mặc áo xong nàng toan xông vào đánh nữa để chữa thẹn, nhưng lại nghĩ:

- May có cái áo Dương Qua cho mượn mới che được thân, nếu đánh nữa, rủi bị cháy thì lấy gì mặc.

Lý Mạc Thu cố nén giận, nhìn Dương Qua có ý cảm ơn. Đoạn nàng quay sang nói với Phùng Mạc Phong:

- Khí giới kỳ quái của ngươi vừa dùng, ta nhận cũng là của lão "Đông Tà" Hoàng Dược Sư ban truyền. Nếu ngươi dùng thuật chân chính đánh với ta, thì không bao giờ có thể thắng ta được.

Phùng Mạc Phong thản nhiên đáp:

- Tại cô rủi cháy khí giới, nếu không cháy là lão thua từ lâu rồi.

Lý Mạc Thu ngạo nghễ nói:

- Như thế lão xem ta viết câu "Đào Hoa chúa đảo, năm người đánh một" như vậy có đúng không?

Phùng lão đáp:

- Không đúng, nếu chỉ có một người trong bốn sư huynh của ta có mặt ở đây là Lý Mạc Thu không còn xác.

Lý Mạc Thu cười ha hả, nói:

- Mấy người đó còn sống hay đã chết cũng chẳng ăn nhằm gì, ngươi đừng nói tới làm chi. Ngay như lão "Đông Tà" ta cũng chưa phục. Ta muốn đấu ngay với Hoàng Dung, con gái của "Đông Tà" đó, nhưng chưa gặp.

Dứt lời, Lý Mạc Thu toan nhảy đi thì Dương Qua kéo lại:

- Lý Mạc Thu ơi, thong thả đã chứ, đi đâu mà vội thế?

Nàng liền quay lại nhìn Dương Qua hỏi:

- Có chuyện gì không?

Dương Qua nói:

- Cô chê đảo chúa Đào Hoa võ công không đáng kể, như vậy là sai lầm. Thế mà cô cứ ngạo nghễ mãi. Tôi đã được Hoàng Dược Sư dạy về "Ngọc Tiêu kiếm pháp". Ngài có dặn tôi rằng "Ngọc Tiêu kiếm pháp" có thể phá tan được cây phát trần của Lý Mạc Thu. Vậy cô ở nán lại, để tôi vạch đồ hình trên mặt đất giảng giải cho cô nghe.

Lý Mạc Thu nghe Dương Qua có "Ngọc Tiêu kiếm pháp" liền bước lại đứng trước mặt Dương Qua, bảo:

- Được, ngươi cứ vẽ đi cho ta xem thử.

Dương Qua liền đưa tay vẽ, miệng giảng cách đánh ngang, đánh dọc rồi điểm vào yếu huyệt, tiếp theo quay thế "cọp nhổm vồ nai" để cướp ngang cây phất trần.

Miệng chàng nói thao thao không vấp một điểm nào.

Lý Mạc Thu quá kinh ngạc. Nàng thầm nhìn nhận ""Ngọc Tiêu kiếm pháp" quá nguy hiểm, cây phất trần không đủ tác dụng để chống đối.

Được thế, Dương Qua nói tiếp:

- Còn "Ngũ độc thần chưởng" của cô cũng chưa đi đến đâu. Hoàng Dược Sư cũng dạy tôi công phu "bắn đạn bằng ngón tay" chống lại "Ngũ độc thần chưởng" của cô một cách dễ dàng. Dẫu cô có khôn lanh tài giỏi đến đâu cũng không thoát khỏi được.

Tiếp đó chàng lại vẽ và giảng rất ăn khớp với các bí quyết của "Ngũ độc thần chưởng".

Lý Mạc Thu mặt xám đen, thầm nghĩ:

- Nó đã biết hai môn đó, nếu ta giao chiến tất bị bại, không thể tránh thoát được.

Dương Qua đoán được nét mặt kinh sợ của Lý Mạc Thu, chàng liền nói:

- Đảo chúa có dặn tôi "thế nào con Lý Mạc Thu nó cũng nói vô lễ với ta, nhưng ta đường đường một đấng tôn sư, không lẽ lại so tài với nó." Cho nên ngài dạy cho tôi thuật pháp và dặn "con phải thay ta để bắt sống nó", nhưng tôi nghĩ: cũng chả ai đâu đó, giữa cô và sư phụ tôi chỉ là tình đồng môn, nên tôi nói riêng cho cô hay. Để mai mốt nếu có gặp học trò của đảo chúa, cô phải nên tẩu thoát đi là hơn."

Lý Mạc Thu tái mặt, đứng ngẫm nghĩ hồi lâu mới nói:

- Được rồi... Được rồi...

Miệng nói, chân nàng chạy như tên bay, trong chớp mắt bóng hình Lý Mạc Thu đã biến vào sau đồi núi hướng Tây.

Phùng Mạc Phong thấy thế, thầm khen Dương Qua:

- Lý Mạc Thu đúng là một tay lợi hại. Nhưng thật ra hai thuật trên, sư phụ ta có truyền cho Dương Qua thì ít nhất cũng phải luyện tập hai năm mới sử dụng được với địch thủ.

Thế mà Dương Qua chỉ thuộc có lời giảng dạy, đã làm cho Lý Mạc Thu kinh sợ, không dám khinh thường học trò của Hoàng Dược Sư nữa. Thật là một lối "đánh giặc miệng" tài tình.

Lục Vô Song và Trình Anh đứng phập phồng lo sợ, vì biết Dương Qua lập kế hăm doạ Lý Mạc Thu. Đến khi thấy Lý Mạc Thu bỏ chạy, Lục Vô Song và Trình Anh mới hồi tâm như vừa trải qua một cơn ác mộng. Lục Vô Song vỗ tay reo lên:

- Anh Ngốc khéo mồm mép quá, khuếch trương thanh danh của sư phụ tài tình ghê!

Cả bốn cùng vui vẻ cười cười nói nói không ngớt tiếng.

Trình Anh sực nhớ đến cô Ngốc, liền nói với Phùng lão:

- Thưa sư huynh, bây giờ chúng ta vào tiếp tục mở trói cho cô Ngốc chứ.

Bốn người quay bước về nhà. Trình Anh vừa đi vừa nghĩ:

- Tại sao Dương Qua lại cởi áo mình may cho chàng để trao cho Lý Mạc Thu? Tại sao chàng không cởi chiếc áo của Tiểu Long Nữ tặng cho chàng trước kia? Chiếc áo ấy đã cũ rồi kia mà! Chẳng biết trong lúc hối hả có phải chàng đã vô tình quý món kỷ niệm của Tiểu Long Nữ hơn tặng vật của mình. Nếu quả như vậy thì chàng không phải là người "mới chuộng cũ vong" rồi.

Càng nghĩ Trình Anh càng buồn. Nàng nói theo mọi người. Trong lúc ba người đi trước chuyện trò vui vẻ, nhưng nàng vẫn làm thinh.

Cả bọn vừa đến sân, bỗng nghe có tiếng vó ngựa dồn dập ở sau núi, ai cũng ngơ ngác không biết việc gì xảy đến.

Dương Qua nói:

- Để tôi ra đó xem có việc gì.

Dương Qua nhảy lên lưng ngựa, rẽ cương chạy quanh sang mỏm núi thì thấy trên đại lộ hướng Đông bụi bay mù mịt, cờ xí rợp trời, quân lính reo hò lẫn với tiếng ngựa hý vang rền. Đó là một cánh quân hùng hậu của Mông Cổ đang kéo đến xâm lược phương Nam.

Dương Qua từ trước đến nay chưa bao giờ được thấy quân mã đông đảo như thế, nên chàng cho ngựa tiến qua lề đường để xem cho rõ. Chàng đang say sưa nhìn đoàn người ngựa oai hùng, gươm giáo sáng choang, chợt thấy hai tên lính tiền phong phóng ngựa đến gần hét lớn:

- Thằng kia mi đứng đây làm gì?

Dương Qua thất kinh, nhìn thấy hai ngọn giáo đang chỉ thẳng vào mặt. Chàng biết thế nguy liền quay ngựa bỏ chạy.

Hai tên lính Mông Cổ liền phóng ngựa đuổi theo, tay giương cung bắn vào lưng Dương Qua và gọi lớn:

- Thằng khốn kia đứng lại.

Tiếng gọi vừa dứt, tiếp theo hai lằn tên bay tới vèo vèo. Dương Qua liền quay lại hớt trọn hai mũi tên.

Nếu Dương Qua không có võ nghệ siêu quần thì không tài nào hớt được hai mũi tên ác độc này.

Hai chú lính thấy Dương Qua hớt hai mũi tên quá dễ dàng, kinh hãi không dám đuổi theo nữa.

Dương Qua cho ngựa chạy đế nhà Phùng Mạc Phong và kể chuyện đoàn quân Mông Cổ đã đến phương Nam.

Phùng Mạc Phong thở dài than:

- Thôi, từ nay sinh linh Trung Quốc sẽ điêu đứng, thống khổ biết chừng nào! Trời ơi! Dưới bàn tay khát máu của quân Mông Cổ thì còn gì nữa!

Dương Qua nói:

- Thuật cưỡi ngựa bắn tên của quân Mông Cổ hay lắm, sợ quân nhà Tống không thể chống nổi. Thật là một tai hại lớn cho triều đình nhà Tống.

Phùng Mạc Phong nói:

- Dương công tử đang tuổi thanh niên, lại có tài nghệ siêu quần, sao không về Giang Nam đầu quân để chống giặc giúp nước?

Dương Qua ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:

- Không, tôi không đầu quân đầu quan gì cả. Tôi chỉ định lên phương Bắc tìm cô nương của tôi. Vả lại, hiện giờ thanh thế quân Mông Cổ đang mạnh lắm, mà có một mình tôi thì làm được việc gì!

Phùng Mạc Phong lắc đầu có ý chê trách, nói:

- Vẫn biết sức mình không thấm vào đâu, nhưng cũng nhờ sức mọi người họp lại mới thành đông người được chứ! Nếu mọi người đều có ý nghĩ như Dương công tử thì còn có ai là kẻ ra chống ngoại xâm? Thử nghĩ người ta sinh ra ở đời, điểm cao quý nhất là lòng yêu nước thương dân. Làm người hơn nhau là do cái chí khí, nhờ đó mới tạo được hai chữ "anh hùng". Nếu con người sống mà không biết đến tổ quốc thì khác nào cây cỏ? Còn hiện giờ nước nhà đang lúc hiểm nguy, sao Dương công tử lại chỉ mong tìm "cô nương"? Trong sử chỉ ghi chép những bậc anh hùng, đâu có ghi những người đi tìm "cô nương"?

Dương Qua nghe những lời Phùng lão phân trần, liền nói:

- Lão dạy đúng lắm! Nhưng muốn chống xâm lăng, phải có một tiêu chuẩn đúng đắn cho dân chúng biết. Sự xâm lăng của ngoại bang sẽ làm cơ cực như thế nào. Rồi những người đem thân ra giúp nước phải được quyền lợi công bằng như thế nào. Chứ còn vua quan chỉ biết vơ vét đầy túi tham, gặp giặc thì đầu hàng xu nịnh. Dẫu người dân đem thân hy sinh để cứu nước, đến khi hết giặc xâm lăng, lại phải làm nô lệ cho bọn nịnh thần nữa à? Còn những người có lòng trung thực, ngay thẳng, lại bị bọn quan ô, tham lại dèm pha kết tội để dâng lên vua cho được công trạng. Do đó, người dân phải thủ phận theo câu "con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa". Bắt dân hy sinh chỉ cho bọn vua quan hưởng cái sung sướng là nghĩa làm sao?

Phùng Mạc Phong nghe Dương Qua lý luận nhiều quá, liền nói:

- Bây giờ, theo ý công tử định thế nào?

Dương Qua cười nói:

- Lão đã phải ẩn thân vào nơi rừng sâu núi thẳm này, mà còn muốn tặng cho tôi hai tiếng "công tử" là có ý định gì vậy? Tôi là con nhà nghèo, lúc nhỏ phải lưu lạc ở Giang Nam, đã cơ cực biết chừng nào với bọn quan ô tham lại, nên nay tôi nghĩ bọn xâm lăng Mông Cổ may ra còn có lòng nhân đạo hơn bọn quan lại nhà Tống. Vả lại Hoàng đế nhà Đại Tống lại cũng không tốt gì, nên tôi không thể đầu quân được.

Thấy Dương Qua đã có ý định dứt khoát như vậy, Phùng Mạc Phong không nói nữa. ông thu xếp đồ đạc vào một cái bị, mang lên vai rồi nói với Trình Anh:

- Sư muội! Nếu mai sau có gặp sư phụ, nhờ sư muội nói lại giùm với ngài là Phùng Mạc Phong đệ tử của ngài không bao giờ quên lời dạy dỗ. Lúc này tôi phải trà trộn vào trong quân Mông Cổ để tìm cách may giết được tên nào, sẽ trừ bớt hại cho dân. Đến lúc hết giặc Mông Cổ trên đất Giang Nam, tôi mới trở về.

Lão liền cầm nạng sắt bứt ra đi, không hề nói đến Dương Qua một lời nào nữa.

Dương Qua nói với Lục Vô Song và Trình Anh:

- Chúng ta không ngờ lại gặp được một vĩ nhân ở nơi nầy, nhưng chưa kịp tỏ lời tạ ơn thì lão đã ra đi rồi.

Lục Vô Song cười nói:

- Uổng quá hả anh Dương Qua! Nếu khi sáng mà không có lão thì anh đã có dịp trổ tài với Lý Mạc Thu rồi, chứ đâu phải mất công giảng giải khổ sở như vậy!

Dương Qua cười ha hả đáp:

- Đúng rồi, nếu không có lão là ba đứa mình bây giờ đã được về thế giới mới rồi, chớ đâu còn khổ thế nầy!

Trình Anh nói:

- Lão đi mất rồi, vui gì mà pha trò! Như thế này là chúng ta đã quá vô tình với lão rồi. Thôi bây giờ chúng ta vào nhà lo cho cô Ngốc chứ.

Ba người đi vào nhà. Vào đến nơi ai cũng đều ngơ ngác vì không còn thấy cô Ngốc đâu cả. Trình Anh chạy kiếm khắp nhà, chợt thấy cô Ngốc nằm còng queo sau xó cửa, vôi kêu lên:

- Cô Ngốc! Sao nằm trong xó cửa vậy?

Dương Qua và Lục Vô Song vội vã chạy lại, thấy cô Ngốc đã mê man, tay đút vào bọc. Cả ba người đều kinh ngạc, xúm nhau khiêng cô Ngốc lên giường.

Mặt cô Ngốc lúc này đỏ bầm, đôi mắt trợn ngược lên. Trình Anh lấy thuốc xoa, Dương Qua lo giải huyệt đạo chính cho huyết mạch lưu thông.

Trong giây lát cô Ngốc đã tỉnh lại, mắt nhắm mắt mở nhìn mọi người.

Thình lình cô Ngốc lại tái mặt, kêu lên:

- Trời ơi! Anh Dương... anh đừng hiện lên bắt tôi. Không phải tôi giết anh mà!

Trình Anh liền nhỏ nhẹ nói:

- Chị ơi, đừng có sợ mà nói lầm lộn như vậy. Đâu có anh ấy ở đây?

Dương Qua định ý:

- Phải rồi, trong lúc tâm hồn nó mê sảng, mình doạ nó, may ra nó mới nói sự thật được.

Chàng liền nắm tay cô Ngốc, đôi mắt trợn lên la lớn:

- Bữa nọ đứa nào giết ta, mày nói mau lên không ta giết mày bây giờ.

Cô Ngốc khóc mếu máo, run rẩy nói:

- Anh Dương... Tôi đâu có giết, tôi đâu dám giết anh...

Dương Qua nóng lòng quá quát lớn:

- Mày có nói hay không? Tao giết mày!

Vừa nói tay chàng vừa bóp cổ cô Ngốc nghe ằng ặc. Cô Ngốc giãy dụa kêu không ra tiếng.

Trình Anh và Lục Vô Song biết Dương Qua định doạ để biết sự thật, nhưng chàng lại quá nóng, bóp cổ cô Ngốc hơi chặt. Trình Anh nói:

- Anh Dương nhẹ tay một chút.

Lục Vô Song nói:

- Cô Ngốc ơi, biết sao cứ nói thật hết đi.

Dương Qua trợn mắt, mặt cau lại, răng nghiến chặt, hỏi:

- Ta đã hiện hồn ma về đây để hỏi mày là ai đã giết tao. Mày phải nói thật ra thì ta tha cho, nếu mày không nói thật thì tao vặn cổ mày chết!

Miệng nói tay chàng hơi nới cổ cô Ngốc.

Cô Ngốc thở khò khè nói:

- Tôi biết anh chết... Hồi anh chết... nhiều quạ lắm! Nó ăn thịt anh.

Nghe đến đấy, Dương Qua lòng đau như cắt, đoán biết cha chàng đã bị chết về dao búa của một kẻ bạo tàn rồi. Nhưng sau khi chết, tại sao không được vùi thân tử tế, mà để quạ phân thây thảm thương như vậy! Mặt chàng xám ngắt, nghiến răng hét lớn:

- Đứa nào giết ta, nói mau lên!

Cô Ngốc ú ớ run sợ, đáp:

- Tại hồi anh đánh cô nương, nên trúng phải kim thuốc độc trong người cô nương mà anh chết.

Cô Ngốc có hiểu được sự thật khi Dương Khang bị trúng độc chết. Trước kia Âu Dương Phong đã dùng nọc rắn ám hại Nam Hi Nhân trên đảo Đào Hoa. Nam Hi Nhân gần chết đã mê man, không còn biết gì nữa, nên đánh một đòn vào vai Hoàng Dung, máu độc trong người Nam Hi Nhân dính vào chiếc áo lông nhím của Hoàng Dung mà Hoàng Dung vô tình đâu có biết được, nên cứ để như vậy. Đến khi gặp Dương Khang ở trong miếu, Dương Khang đưa tay đánh vào vai Hoàng Dung trúng vào chỗ có chất độc, nên bị chất độc nhiễm vào mà chết. Lúc đó Hoàng Dung vẫn tưởng Âu Dương Phong giết Dương Khang, nàng đâu có ngờ cái chuyện nọc rắn sang chuyển liên miên như vậy.

Đương nóng lòng, nhưng không hiểu được tên người giết cha mình, Dương Qua liền la lớn:

- Cô nương là ai?

Cô Ngốc bị nghẹt thở vì chàng vừa hỏi vừa bóp cổ, nên chỉ khò khè được mấy tiếng:

- Cô nương... là cô nương.

Dương Qua gằn giọng hỏi:

- Tên cô nương là gì?

Cô Ngốc èn ẹt rồi im bặt như hết thở.

Lục Vô Song thấy cô Ngốc không nói được, vội bước lại gỡ tay Dương Qua ra. Dương Qua liền túm hai tay Lục Vô Song đẩy mạnh một cái, Lục Vô Song thất thế té nhào xuống đất, văng xa hơn ba trượng. Nàng đau quá, nằm khóc sướt mướt.

Trình Anh tái mặt, bủn rủn cả tay chân, không dám nói năng gì, vội bước lại đỡ Lục Vô Song và nói:

- Dương Qua thường ngày rất hiền lành ôn hoà, sao nay lại dữ hơn cọp, chắc anh ấy đang tức bực lắm đấy!

Lục Vô Song đôi mắt đẫm lệ, thút thít nói:

- Tôi có chuyện gì đâu mà anh ấy giận tôi! Con người gì khi tỉnh khi say như vậy.

Dương Qua thầm nghĩ: "Nếu hôm nay mình không tìm được tên kẻ giết cha mình thì ức chết đi được." Chàng luôn mồm hỏi tiếp:

- Cô nương ấy họ Khúc hay họ Mai gì đó phải không?

Chàng hỏi như vậy là có ý nghi ngờ cho Mai Siêu Phong, còn Hoàng Dung coi chàng như con cháu trong nhà, chàng không hề nghĩ rằng Hoàng Dung đã động thủ.

Cô Ngốc giãy dụa mãi định gỡ tay ra chạy, nhưng bị Dương Qua nắm trúng huyệt đạo không tung dậy được, chỉ "a á" lên mấy tiếng rồi nói:

- Anh đến trước mặt cô nương mà đòi mạng chứ, tôi có giết anh đâu mà anh định giết tôi?

Dương Qua liền hỏi:

- Cô nương ấy ở đâu? Chỉ mau lên!

Cô Ngốc phều phào đáp:

- Bữa nọ tôi theo sư phụ đến, thấy cô nương và chồng cô ở trên đảo đó.

Dương Qua vừa mừng vừa chậm rãi hỏi:

- Cô nương kêu sư phụ cô là gì?

Cô Ngốc khò khè đáp:

- Là cha chứ còn là gì nữa.

Trình Anh và Lục Vô Song nghe cô Ngốc nói, cả hai đều kinh ngạc, ngơ ngác nhìn Dương Qua và cô Ngốc.

Dương Qua luôn miệng hỏi tiếp:

- Có phải chồng cô nương là Quách Tỉnh không?

Cô Ngốc run rẩy đáp:

- Đúng đấy, chớ anh không biết sao?

Dương Qua biết rõ Hoàng Dung là thủ phạm giết cha chàng. Lòng chàng lúc này như tơ vò, nên hai tay không còn nắm chặt cô Ngốc nữa.

Dương Qua ngồi sững sờ, đầu óc cố suy nghĩ lại cuộc đời từ thuở nhỏ đến nay:

- Lúc ta còn nhỏ phải chịu biết bao nhiêu cơ cực, mấy mươi phen bị đời hắt hủi tàn nhẫn. Hoàn cảnh đó chưa phai mờ trước mắt. Nay ta lại biết được người đã giết cha ta. Nừu cha ta không bị người giết, thì mẹ ta đâu có phải sống bằng cái nghề bắt rắn, và bị rắn độc cắn chết như thế! Để đời ta phải chịu cảnh cô đơn không cha không mẹ, đi ăn nhờ ở đợ đổi bát mồ hôi mới được chén cơm thừa cá cặn. Thế mà vẫn bị đời khinh rẻ như kiếp trâu ngựa.

Nghĩ đến đó, chàng hồi tưởng lại lúc chàng còn ở với vợ chồng Quách Tỉnh trên đảo Đào Hoa. Phải rồi, lúc đó Hoàng Dung rất nuông chiều anh em họ Võ, hai đứa nó muốn gì cũng được, còn mình bà mắng chửi bất cứ lúc nào. Tuy bà cũng có vẻ hiền từ, nhân hậu thật, nhưng cái hiền từ nhân hậu đó chỉ là cái lúc hối hận đã nhẫn tâm giết người. Chàng nói lớn như để hả giận:

- Ta không ngờ hai vợ chồng con người, bề ngoài có vẻ hiền từ như Quách Tỉnh và Hoàng Dung mà lại manh tâm giết cha ta!

Cô Ngốc nghe Dương Qua la to tiếng, liền vùng dậy nhảy xuống giường kêu thất thanh:

- Cứu giùm tôi... các người ơi!

Trình Anh bước lại đứng gần Dương Qua nhỏ nhẹ nói:

- Anh Dương Qua, anh đừng giận, cô Ngốc có tánh lừng khừng nói không đâu vào đâu cả. Mà nhất là lúc cô Ngốc lên cơn, lại càng nói bậy bạ lắm! Anh đừng tin cô Ngốc làm gì!

Dương Qua vẫn giữ vẻ mặt căm hờn không thèm trả lời. Chàng chỉ ngồi thừ trên giường, nét mặt luôn luôn thay đổi qua nhiều trạng thái buồn đau lẫn lộn.

Chàng đăm chiêu suy nghĩ một hồi lâu, bỗng đứng phắt dậy bước ra cửa nhảy lên lưng ngựa chạy như bay. Nháy mắt chàng đã cách xa hơn hai mươi trượng, nhưng đằng sau, chàng còn nghe tiếng Trình Anh gọi nheo nhéo:

- Anh Dương! Anh Dương ơi! Trở lại cho em nói chuyện cần đã.

Dương Qua nghe còn rõ, nhưng chàng không thèm đáp một tiếng. Chàng chỉ hậm hực là "Ta phải trả thù cho cha... Ta phải trả thù cho cha ta bằng được."

Chàng đưa tay dùng roi quật ngựa không ngớt. Chẳng bao lâu chàng đã đi quá một trăm dặm. Cảm thấy trên môi hơi đau, chàng đưa bàn tay xoa thử, thấy máu tươi dính cả bàn tay. Thật ra khi chàng quá giận, đã cắn môi nghiến lại, làm máu chảy mà không hay.

Dương Qua lúc nầy càng nghĩ nhiều càng thấy chán ghét cõi đời. Chàng cho rằng dưới bầu trời này, không có người nào tốt cả, toàn là hạng người điêu ngoa xảo quyệt mà thôi.

Nhưng đến khi cơn giận đã lắng xuống, chàng lại có vẻ hối hận thầm nhủ:

- Ta vì quá nóng mà quên cả ân nghĩa sao? Quách bá mẫu tuy đối với ta không tốt, nhưng Quách bá bá vẫn coi ta như con như cháu, và ta cũng một lòng sùng bái kính trọng người "võ nghệ siêu phàm, đức hạnh quán thế".

Nghĩ đến đấy, chàng quá thương tâm, đầu óc nghe choáng váng, đôi mắt hoa lên, không thể nào đi được nữa. Chàng xuống ngựa ngồi nghỉ ở bên lề đường.

Dương Qua ôm đầu khóc! Khóc vì thương cha bị giết tàn nhẫn, khóc vì thương mẹ bạc mệnh phải chịu cảnh cơ hàn, khóc vì thân chàng bị bạc đãi lừa dối.

Lúc nầy trời đất đối với chàng chỉ là một bức tranh sầu thảm, xã hội đối với chàng chỉ là những ảo ảnh. Nhưng cái đau khổ nhất, là khi ra đời chàng đã mất cha, người cha với cái tên "Dương Khang". Chàng nghĩ sao mà tốt đủ điều. Chàng tưởng với cái tên ấy, trên đời này không có ai tốt được như cha chàng cả.

Dương Qua đâu có biết Dương Khang , thân phụ chàng, là người bán nước để cầu danh, nhận giặc làm cha, cậy thế sát hại dân lành của xứ sở, phụ thầy phản bạn, lừa tình. Biết bao nhiêu điều bỉ ổi. Do cái ngang tàng bạo ngược đó mà tự hại lấy thân.

Chàng đang ngồi khóc nức nở, chợt nghe có tiếng vó ngựa dồn dập từ phương Bắc chạy đến. Chàng vội đứng lên nhìn ra xa thì thấy bốn tên kỵ mã, trên tay lăm lăm những cây đoản đao sáng lập loè theo nhịp ngựa, phi đến phía chàng. Hai tên đi đầu trước mũi giáo có găm hai đứa trẻ chưa chết hẳn, còn giãy dụa cất tiếng khóc vang.

Chúng là những tên lính Mông Cổ. Vừa thấy Dương Qua một mình đứng bên đường, một tên trong bọn quát hỏi:

- Thằng nghịch nầy, mày muốn chặn đầu ngựa chúng ông hả?

Miệng nói tay hắn đã đâm đoản đao vào ngực chàng.

Đang trong lúc buồn chán, lại bị người đâm một cách vô cớ, Dương Qua giơ tay nắm chặt lấy đoản đao giật mạnh một cái, tên Mông Cổ té nhào xuống chân chàng. Chàng luôn tiện bồi thêm một đá, tên lính văng ra hơn năm trượng, gãy xương, bể óc chết tốt nằm trên mặt đất.

Cả bọn võ sĩ Mông Cổ thấy chàng có sức mạnh như thần, không tên nào dám chống cự, vất cả khí giới rồi chạy mất hết.

Chàng nghe tiếng khóc oe oe trên mặt đường, liền chạy đến xem, thì ra đó là hai đứa trẻ Trung Quốc bị Mông Cổ đâm vào bụng nhưng chưa chết hẳn. Miệng chúng còn mấp máy như cố kêu "Mẹ ơi!... Mẹ!"

Dương Qua trong lòng đang đau khổ, lại còn gặp chuyện thảm thiết xảy ra trước mắt. Chàng bùi ngùi nhìn hai đứa trẻ bị quân Mông Cổ hành hạ một cách tàn nhẫn, giở sống giở chết như vậy thật quá dã tâm, nên đôi mày chàng cau lại.

Đôi mắt đẫm lệ, chàng biết hai đứa trẻ không thể nào sống được, nếu để lâu chỉ thêm đau khổ, nên nén lòng khẽ dùng chưởng lực giải thoát cho hai bé.

Đoạn, chàng dùng đoản đao của tên lính Mông Cổ đào hầm chôn hai đứa trẻ.

Chàng mới đào được nửa chừng, chợt nghe tiếng ngựa hí và quân hò reo chuyển đất, cát bụi mù trời, gươm giáo lập loè tung lên tứ phía. Đoàn quân Mông Cổ đang rầm rập kéo đến.

Dương Qua chưa kịp chôn, vội vã cầm đoản đao phi lên lưng ngựa và gói xác hai đứa trẻ mang theo.

Con ngựa của chàng đã quen xông pha xa trường, nên khi chàng vừa nhảy lên lưng, nó đã tung vó xông vào trận địa quân Mông Cổ, rồi hí lên những tiếng rùng rợn trợ oai cho chủ.

Dương Qua cầm đoản đao múa tít lên, vừa gạt vừa đâm, trong chốc lát chàng đã giết chết mấy chục tên Mông Cổ. Nhưng quân Mông Cổ lúc bấy giờ càng lúc càng đông. Chàng thấy chúng như một rừng người, liệu không thể nào chống nổi với chúng nên phải quay ngựa chạy.

Phía sau quân Mông Cổ ồ ạt đuổi theo nghe như vũ bão. Chúng giương cung bắn tên theo như mưa. Chàng dùng đao múa tít sau lưng để gạt tên. Lằn tên bị cản lại rớt sau ngựa nghe rào rào như trận mưa lớn rơi trên đá.

Con ngựa của chàng tuy đi nhiều, nhưng chạy rất dài và hay tuyệt đỉnh, nên chẳng bao lâu chàng đã bỏ rơi đám quân Mông Cổ.

Dương Qua lúc này một mình một ngựa lạc loài giữa rừng hoang bát ngát, mà mặt trời đã khuất về phía Tây trong cảnh đìu hiu, u tối. Chàng trông tứ phía đều là cây cối um tùm không có lối bước, lại thêm những núi cao chọc trời, sương chiều đã buông xuống, khí núi như khói bay, chàng lắng tai nghe không còn nơi nào có tiếng người, cả đến tiếng chim chóc cũng vắng! Thật là cảnh hãi hùng của rừng sâu, trong lúc hoàng hôn cô tịch.

Dương Qua xuống ngựa, mở tấm vải lấy thi hài hai đứa bé ra coi, thấy mặt mũi chúng vẫn tươi tỉnh như lúc còn sống, nhưng nét đau khổ của hai đứa bé vẫn còn hiện rõ trên hai khuôn mặt non tơ của chúng.

Nhìn xác hai đứa trẻ, Dương Qua buồn buồn:

- Chắc cha mẹ hai em nuông chiều hai em lắm đây. Nay hai em lại bị quân Mông Cổ tàn bạo đâm lủng bụng. Hai em chết là hết, nhưng cha mẹ phải đứt ruột héo gan, biết bao giờ hết sầu hận

Nhìn hai đứa trẻ chàng lo lắng:

- Xem tình thế lúc này, chắc quân Mông Cổ sẽ kéo xuống xâm lăng miền Nam, thì biết bao nhiêu trẻ nít vô tội sẽ bị chết thảm thương như thế này nữa!

Chàng sầu liên miên, rồi đào một huyệt dưới bóng cây to mai táng hai đứa hài nhi.

Mai táng xong, chàng nhớ đến cử chỉ sợ hãi của cô Ngốc khi kể lại cái chết của cha chàng nên chép miệng than:

- Hai đứa trẻ này chết được ta chôn như thế này, thế mà khi cha ta chết lại phải phơi thây cho quạ rúc thịt rỉa xương! Trời ơi! Bọn tàn ác vô kể, mi đã giết người, sao còn nỡ tàn nhẫn đến thế! Bọn mi đành để xác người ta làm mồi cho quạ như thế?

Chàng buồn bã thả ngựa cho đi ăn cỏ, còn chàng thì đi tìm chỗ nghỉ ngơi.

Con ngựa của Dương Qua đã mấy ngày liền phải rong ruổi đường rừng, nó cũng nhọc mệt, nên chỉ ăn quanh quẩn gần đấy, chứ không đi ăn xa như mọi ngày.

Dương Qua thẫn thờ đi lại dưới gốc cây, định nằm dưới đất nghỉ, nhưng lại sợ rắn độc cắn lúc ngủ quên. Chàng bèn thò tay vào túi lấy cuộn dây tơ, đem dăng hai đầu dây vào hai cây to, theo đúng cách Tiểu Long Nữ đã dạy, gọi là phép "ngủ dây khi băng qua rừng".

Chàng liên tiếp mấy ngày lo nghĩ, lại phải khó nhọc nên mệt mỏi. Vừa nằm xuống chàng đã chìm vào một giấc ngủ ngon lành.

Khoảng nửa đêm chàng thức giấc, chợt ngửi có mùi hôi tanh nồng nặc theo luồng gió đưa đến, thỉnh thoảng có tiếng gầm gừ và những tiếng rào rào như thứ gì đang rẽ cỏ mà đi.

Dương Qua biết có chuyện lạ, chàng ngồi dậy nhìn về phía có tiếng gầm gừ.

Đêm cuối tháng, không trăng, bốn bề tối đen như mực, nhưng Dương Qua sống trong Cổ Mộ đã quen, nên trong đêm tối mà cặp mắt chàng vẫn trông rõ được mọi vật.

Chàng thấy hình thù như bốn cây đèn lắc lư từ xa tiến đến.

Dương Qua định thần nhìn kỹ thì thấy đúng là hai con cọp, lông đen từ đầu đến chân. Cặp mãnh hổ này vừa cao vừa dài, từ trước đến nay chàng cũng đã từng thấy cọp, nhưng không có con nào to như hai con hổ đen này.

Hai mãnh hổ vừa đi vừa đánh hơi, tiến dần đến chỗ chàng chôn thi hài hai đứa bé lúc chiều. Khi đến mộ hai đứa bé, con nào cũng khì khịt và giương nanh vuốt chực đào bới.

Dương Qua nóng lòng, định nhảy xuống đánh hai con hổ nhưng ác nghiệt thay, lúc nầy chàng không có vũ khí trong tay. Cả đến ngọn đoản đao của tên Mông Cổ chàng cũng để dưới đất.

Chàng thấy hai con cọp nanh vuốt quá dị thường, nếu chàng dùng chân tay không mà đánh với nó thì chắc không nổi, mà sẽ còn bị thương là khác.

Chàng đang lưỡng lự, chợt nghe phía Tây có tiếng "lịch kịch... lịch kịch" vọng lại. Trong chốc lát, tiếng "lịch kịch" tiến đến gần gốc cây chỗ chàng ngồi.

Dương Qua thấy chuyện quái dị liền chăm chú nhìn, thì thấy một cỗ quan tài từ đâu lù lù tiến đến phía chàng.

Chàng cố nhìn xem có người đẩy đi không. Nhưng không thấy một bóng người nào. Tại sao có chuyện lạ lùng, cỗ quan tài tự động biết di chuyển ư? Từ xưa đến nay chưa bao giờ có, mà chàng cũng chưa nghe ai kể đến chuyện lạ như thế này.

Dương Qua lúc nầy ngồi trên dây vừa sợ vừa thắc mắc. Chàng không dám cả thở mạnh.

Nháy mắt, cỗ quan tài đã đến dưới gốc cây trước mặt chàng và đứng yên tại đây.

Hai con cọp thấy thế liền chạy đến rồi lượn quanh cỗ quan tài, dí mũi vào ngửi, nghe rõ tiếng phì phò phì phò... Ngửi một lúc, cả hai đưa chân cào nắp cỗ quan tài.

Bỗng nghe "binh" một tiếng, nắp quan tài tung lên, văng ra xa hơn ba trượng, liền đó có một thây ma nhảy vọt ra, đá con cọp bên phía trái lộn nhào. Con cọp bên hữu phóng ngang qua, vồ trên đầu thây ma. Thây ma lanh như chớp, lách sang một bên, giương tay nắm chặt lấy gáy con cọp, rồi ấn mạnh xuống đất như ta đè đầu con mèo vậy.

Dương Qua kinh sợ nhìn thấy bóng ma ấy ốm nhom, cao lêu nghêu mà có sức mạnh như thần. Chàng sợ quá, mồ hôi ra ướt cả người.

Hai con cọp đen đau quá không dám làm dữ nữa, con nào cũng nằm bẹp xuống đất như đầu phục.

Chợt nghe có tiếng eng éc như tiếng chim mèo từ trong hang núi vọng ra. Dương Qua ngẩng đầu nhìn vào phía núi thấy vô số đom đóm nhấp nháy tiến ra chỗ cỗ quan tài. Hai con cọp đen thấy thế vội nằm mọp, xoãi chân trước kê mõm lên, còn đuôi phe phẩy như chào đón.

Sau đàn đom đóm có một bóng đen. Dương Qua tưởng mình quá sợ nên hoa mắt, chứ không phải sự thật. Chàng bậm gan lấy lại bình tĩnh, thò tay vào túi lấy khăn lau mặt cho kỹ lưỡng.

Chàng từ trên cây chăm chú nhìn về hướng rừng thấy đàn đom đóm rọi sáng cả một góc rừng, và người đi sau đàn đom đóm là một lão già, da mặt đen bóng, râu tóc đen kịt, mặc quần áo đen, đầu đội mũ đen, trên vai trái có một con chim cú đen ngời ngợi đậu, thỉnh thoảng kêu lên như báo hiệu gì.

Bây giờ ánh sáng của đàn đom đóm đã tiến đến chỗ quan tài, nên chàng nhìn đôi cọp đen, chiếc quan tài và thây ma rõ mồn một như dưới bóng trăng tỏ. Tiếp đến lão già lùn cất tiếng hỏi thây ma:

- Cha chả, không nhớ câu "đánh chó phải ngó chủ nhà" sao? Tiểu Tương Tử dám vô lễ thế nầy? Đánh hai con mèo của ta à?

Người lùn, cao không được một thước hai mà tiếng nói nghe như sấm sét, làm cho Dương Qua hai lỗ tai ù ù, nhức cả óc.

Thây ma cười nói:

- Ni Ma Tinh nhân huynh, tôi vô ý đụng phải hai con mèo của nhân huynh, để tôi xin tạ tội vậy.

Thây ma nói rồi chấp hai tay vái trước mặt người lùn một cái.

Dương Qua nhìn kỹ thấy thây ma cao lêu nghêu đó chính là người thật chứ không phải thây ma.

Chàng mỉm cười, thầm bảo:

- Mặt mũi trắng trẻo, vận y phục trắng phau, lại ở trong một cỗ quan tài chui ra, ai không cho đó là một thây ma xuất hiện.

Suy luận một lúc, Dương Qua lẩm bẩm nói:

- Dùng hai tay không mà đánh bại hai con cọp to như thế nầy, phải là một tay cao thủ nhất nhì trong võ phái nào mới được. Con người quê kệch kỳ dị thế kia sao lại có cái hiệu "Tiểu Tương Tử", thế đã kỳ cục rồi, mà cả hai người lại gọi cọp dữ là mèo, thật là một việc lạ lùng ngoài sức tưởng tượng của người đời.

Chàng đang suy nghĩ và cũng chưa biết phải xử trí thế nào, bỗng giật mình khi nghe người lùn nói:

- Tiểu Tương Tử, công việc của Kim Luân Pháp Vương thế nào?

Bốn tiếng "Kim Luân Pháp Vương" làm cho Dương Qua nghe nhởn cả người.

Tiểu Tương Tử cười nhạt, rồi ngồi trên quan tài đáp:

- Thôi, nhân huynh ơi! Nói đến ông ta thêm làm trò cười cho nhân huynh chứ ích gì?

Ni Ma Tinh nói:

- Tiểu Tương Tử nói cho ta nghe với.

Tương Tử nói:

- ông ta đã ỷ tài đơn thương độc mã, chịu tranh hùng với cả tụi võ sư ở Trung nguyên, nên bị thảm bại. Thực đáng buồn cười.

Lão lùn cất tiếng cười hô hố, vang cả khu rừng. Con chim mèo đậu trên vai lão cũng cất tiếng kêu ríu rít.

Lão lùn vừa cười xong, đắc ý nói:

- Thằng Ni Ma Tinh nầy đã lặn lội muôn dặn đèo, băng suối từ Thiên Trúc đến đây. Ngờ đâu bị Kim Luân Pháp Vương lẹ chân hơn, để được lãnh chức "đệ nhất võ sư" do Vương gia Mông Cổ phong cho. Chà chà! Võ công như vậy đã đáng vào đâu mà đòi đệ nhất với đệ nhị chứ!

Tiểu Tương Tử đáp:

- Đúng thế, thiên hạ hiện nay trừ Ni Ma Tinh nhân huynh ra nào ai dám nhận chức ấy!

Ma Tinh có vẻ đắc ý lắm, bèn cất tiếng cười khá khá.

Tiểu Tương Tử cũng cười theo rất tương đắc.

Rừng núi lúc nầy nghe như lung linh, sập đổ trước hai giọng cười như gió thổi mưa sa đó.

Dương Qua nghe chát tai, liền cúi đầu lấy hai tay bụm chặt tai lại.

Lão lùn không cười nữa, hỏi:

- Tiểu Tương Tử! Gần đây nghe tin anh ở Tây Sơn, sao không ra tranh tài với Kim Luân?

Tiểu Tương Tử đáp:

- Mông Cổ Vương gia Hốt Tất Liệt có đem thư lại mời, nhưng lúc đó tiểu đệ còn đang luyện phép "Thọ mộc trường sanh" không thể bỏ đi được. Vì thế, đành chịu để ông ta xưng hùng xưng bá một mình.

Ni Ma Tinh hỏi:

- Hiện nay anh luyện xong rồi, sao không sang đó để tranh tài với ông ta? Hay anh cũng sợ hoà thượng Kim Luân là tay lợi hại mà không dám?

Tương Tử khiêm nhường nói:

- Đúng vậy, tiểu đệ tài hèn đâu dám tranh tài với hoà thượng Kim Luân.

Lão lùn nghe thích chí, nên ngửa mặt lên trời cười một hồi dài, rồi lão lại gằn giọng nói:

- Tiểu Tương Tử, anh có ý cho tôi là sợ hoà thượng Kim Luân đó hả? Như vậy tôi và anh ngay bây giờ thử sức xem sao? Để tôi coi công trình luyện tập "Thọ mộc trường sanh" của anh đã đến đâu rồi, có gì đáng kể không.

Tương Tử liền đáp:

- Muốn thử thì thử, ngại gì.

Tương Tử nói dứt câu, liền phả ra một làn khói đen nghịt bay về phía đối phương. Ni Ma Tinh không còn thấy gì nữa.

Tương Tử nhanh như chớp đẩy nắp quan tài, nhảy vào trong rồi dùng tay kéo nắp đậy kín lại, rồi dùng cả chiếc quan tài đánh vào Ni Ma Tinh.

Lão lùn thấy làn khói đen liền ngồi xuống. Con chim mèo bay lên kêu "chao cháo". Tức thì có những đàn đom đóm từ trong rừng tua tủa bay ra soi sáng, đánh tan luồng khói đen đi mất. Hai con cọp đen quật mạnh đuôi xuống đất rồi phóng mình về sau lưng lão lùn, đứng trụ bốn chân thủ thế.

Lão lùn mới ngồi xuống, đã thấy chiếc quan tài phóng mạnh đè lên đầu. Lão liền dùng thuật "Thích Ca xua voi" ngửa mình ra tung mạnh hai chân và hai tay lên một lượt. Chiếc quan tài bị sức cản của lão lùn quá mạnh, bay bổng lên cao, văng lùi lại hai trượng. Nhưng chiếc quan tài vẫn nguyên vẹn và vẫn tiếp tục phóng lại đánh vào người lão lùn. Cứ như thế, chiếc quan tài phóng qua phóng lại, không khác gì một người đánh trái banh đập vào tường thối ra dội lại.

Hai bên đang đấu nhau hăng hái như thế, bỗng không ai bảo ai, cả hai đều lui ra hơn hai trượng.

Lúc này hai con cọp đen và con chim mèo đều gầm gừ hét lên.

Thử tài đến đó, cả hai đều biết rõ bản lĩnh của nhau. Ni Ma Tinh cất tiếng nói:

- Tiểu Tương Tử tu luyện khá lắm đấy! Hơn ta nhiều lắm!

Tiểu Tương Tử cười khá khá, đáp:

- Tiểu đệ xin bái phục tài nghệ pháp thuật của sư huynh, mới thụ lãnh mấy đòn đã lĩnh hội được thuật huyền ảo tuyệt chúng.

Ni Ma Tinh bình tĩnh nói:

- Đây mới cho sư đệ thấy sơ qua thuật pháp "Thích Ca xua voi" đó, còn có nhiều đòn lạ hơn nữa kia.!

Tiểu Tương Tử luôn miệng khen:

- Nhân huynh qua bên nước của lão Ta Đạt Ma, hèn chi học được nhiều pháp thuật thần thông như vậy.

Ni Ma Tinh quay người, trong nháy mắt đã mất dạng. Hai con cọp đen cũng tung chân nhảy theo như tên bay.

Tiểu Tương Tử cũng chui vào quan tài, lịch kịch biến về phía Tây.

Dương Qua tình cờ, như một người mạo hiểm, được chứng kiến một màn kịch như ảo ảnh, quá quái gở rùng rợn như vậy. Vừa khiếp sợ vừa khâm phục, chàng phải yên lặng một hồi lâu mới hồi phục được tâm trí.

Dương Qua chờ cho hai người đi thật xa, chàng mới tự nhủ:

- Thật là thất phách hồn kinh! Bầu trời bao la, thiên hạ khắp nơi, đâu đâu cũng có những bậc vĩ nhân lạ thường. May phước nếu ta không nằm trên đây như vầy thì mạng ta cũng đi đời rồi.

Tất cả những ảo thuật kỳ quái kia bây giờ đang chen lẫn nhau, chờn quờn mãi trong đầu óc Dương Qua. Chàng cứ thao thức mãi không tài nào ngủ lại được nữa. Chàng lúc này đã hết phần lo sợ, suy nghĩ về võ công của hai kỳ nhân vừa rồi:

- Tuy hai người mới đấu sơ vài đòn, nhưng ta xem cũng được rành rẽ. Những đòn mà lão Ni Ma Tinh gọi là "Thích Ca xua voi" trong đó có cương lẫn nhu, gặp cứng rắn, to lớn thế nào xô cũng được, đến lúc gặp mềm mỏng có thể quấn được như dây. Nhưng không biết tại sao thân hình lão vừa lùn vừa nhỏ mà được một thần bí gì có thể chứa đựng được một nguồn nội công mạnh đến thế.

Còn như Tiểu Tương Tử luyện được thuật "Thọ mộc trường sanh" cũng thật là kỳ quái! Người gì mà lại chịu chui vào trong quan tài rồi dùng cái quan tài ấy để làm thành trì ẩn núp, đến khi giao đấu lại dùng làm khí giới. Thật là tự cổ chí kim chưa thấy ai có thuật kỳ lạ như vậy.

Nằm suy tư, nghĩ ngợi đã quá nửa đêm nhưng Dương Qua không tài nào ngủ được. Chàng cố nhắm mắt để quên bớt sự suy nghĩ. Bỗng nghe có tiếng ngựa hý vang lên, chàng đoán:

- Chắc lại có sự gì đây!

Con ngựa của Dương Qua là một ngựa khôn hết sức. Khi nó nghe hơi hai con cọp đen tiến đến, liền chạy sang khu rừng cách xa đó để tránh. Lúc nầy, khi hai cọp đã đi rồi, nó lại trở về tìm chủ.

Dương Qua thấy trời chưa sáng mà ngựa lại hý, chàng liền nhảy xuống xem có chuyện gì xảy ra. Chàng cúi xuống đất lượm cây đoản đao bỏ dưới gốc cây chiều hôm qua rồi lo vạch bụi rẽ cỏ một lúc mới thấy ngựa chạy lại. Bấy giờ trời đã tảng sáng.

Chàng liền lên ngựa đi về hướng Đông. Chưa đầy một dặm đường, chợt thấy xa xa về phía trước một người nhảy lên hái trái cây, chàng nghĩ:

- Trong rừng hoang núi vắng nầy, sao lại có người giờ nầy vô đây hái trái cây? Mình đến xem thử người đó là ai.

Khi đến gần, chàng thấy đó không phải là ai xa lạ mà chính là đệ tử của Kim Luân Pháp Vương là Đạt Nhĩ Ma đang hái táo. Đạt Nhĩ Ma mỗi lần nhảy lên chỉ hái được ba trái, nên hắn không nhảy nữa mà đưa tay quất ngang một cái, cây táo đứt làm hai, ngọn cành ngã xuống đất, Nhĩ Ma lo hái bỏ vào túi. Dương Qua thấy thế, thầm nghĩ có lẽ Kim Luân Pháp Vương ở gần đâu đây. Chàng nghĩ:

- Mình đối với Kim Luân Pháp Vương không có thù oán gì cả. Chỉ vì Hoàng Dung mà mình cãi vã với ông ta. Hiện nay mình đã biết được Hoàng Dung và Quách Tỉnh là kẻ giết cha mình, thì nay mình đâu có gây sự với ông ta để giúp Hoàng Dung nữa.

Chàng bước lại định làm quen với Đạt Nhĩ Ma. Nhưng lúc này Đạt Nhĩ Ma hái táo đã đầy túi, chạy như bay về hang núi ở phía Tây. Dương Qua thấy Đạt Nhĩ Ma cũng là tay võ công có hạng nên không dám chạy theo sát, sợ Nhĩ Ma tưởng mình khiêu khích. Chàng lẽo đẽo theo sau cầm chừng.

Chợt thấy Nhĩ Ma quay sang nẻo rừng rậm mà đường đi càng lúc càng cao như lên dốc. Dương Qua vẫn cố lòng rượt theo. Sau mãi đến ngọn núi cao nhất, trên đỉnh núi có một túp lều cỏ, bốn bề không phên vách. Trong lều Kim Luân Pháp Vương đang ngồi nhắm nghiền đôi mắt như một vị pháp sư tịnh niệm trên nệm cỏ.

Đạt Nhĩ Ma bày túi táo lên, niệm xong, xoay ra thì nhìn thấy Dương Qua đang leo dốc tiến đến. Nhĩ Ma tái mặt, lo sợ kẻ thù đến ám hại sư phụ mình.

Hắn gọi lớn:

- Đại sư huynh! Sư huynh cố đến đây để hại sư phụ tôi chăng?

Dương Qua trầm tĩnh tỏ ý cho Đạt Nhĩ Ma biết chàng đến đây để giao hảo chứ không gây sự.

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 44 : Thủy tiên U Cốc

Đạt-nhĩ-Ba vẫn không tin, nhảy xổ đến nắm lấy vạt áo Dương-Qua.

Võ công Đạt-nhĩ-Ba giỏi hơn Dương-Qua nhưng vì trong lúc sư-phụ hắn đang tại bệnh, nên hắn bối rối tinh thần thì Dương-Qua đã dùng một thế tầm thường gạt hắn sang một bên, té nhủi xuống đất.

Trước đây đã nhiều lần Đạt-nhĩ-Ba e ngại Dương-Qua, còn Dương-Qua thì đã rõ tài nghệ của đối phương nên vừa đánh xong một thế lại phải lui về một bước.

Chẳng biết lúc ấy do đâu hai đầu gối của Đạt-nhĩ-Ba run lên, hắn té sụm xuống đất, ngẩng mặt nhìn Dương-Qua nói với giọng nghẹn nghẹn:

- Xin đại sư-huynh hãy nghĩ đến ân nghĩa đối với sư phụ tôi. Nay sư-phụ tôi về đây dưỡng bệnh mà sư-phụ động thủ thì...

Chỉ nói đến, hai dòng lệ Đạt-nhĩ-Ba đã tuôn trào, rồi ngất nghẹn.

Dương-Qua tuy chưa hiểu Đạt-nhĩ-Ba muốn nói gì, nhưng nhìn qua vẻ mặt ảo não của hắn, và thấy sư-phụ hắn rũ rượi, đang ngồi tham thiền, thì biết ngay hoàn cảnh của hai người đang gặp lúc nguy biến, nên chàng vội cúi xuống, đưa tay đỡ Đạt-nhĩ-Ba dậy ôn tồn nói:

- Ta không làm hại sư-phụ ngươi đâu! Ngươi cứ an lòng.

Đạt-nhĩ-Ba nhìn thấy nét mặt ôn hòa của Dương-Qua lòng mừng khấp khởi. Mặc dù ngôn ngữ cách biệt, tâm hồn chưa được giao cảm cho mấy. Đạt-nhĩ-Ba cũng rõ Dương-Qua không có ác ý gì.

Giữa lúc đó Kim-luân Pháp-Vương hé mắt nhìn thấy Dương-Qua. Ông ta sợ hãi vô cùng. Vì nãy giờ, ông ta không hề hay biết gì việc Dương-Qua và Đạt-nhĩ-Ba. Giờ đây ông thấy kẻ thù tự nhiên xuất hiện trước mặt, làm sao ông khỏi bối rối.

Qua một tiếng thở dài não nuột, Kim-luân Pháp-Vương lẩm bẩm:

- Uổng công ta tập luyện bao năm, nay lại phải bỏ mình trên đất Trung-Nguyên nầy.

Thật vậy, Kim-luân Pháp-Vương vừa bị một hòn đá lớn đập vào mình, ngũ tạng đến thọ thương, phải ẩn trong chốn rừng sâu nầy để điều trị. Nếu Dương-Qua kẻ thù ông, tìm gặp, ông chỉ còn có cái chết mà thôi.

Lạ thay! Bây giờ ông ta lại thấy Dương-Qua với vẻ mặt hồn nhiên, đầy thiện cảm, bước đến trước mặt ông.

Trong lúc ông ta còn đang ngơ ngác, thì Dương-Qua đã cúi đầu nói:

- Kẻ hèn này đến đây không phải để trả thù, xin chớ "ngại".

Pháp-Vương bối rối, không hiểu gì cả nên lắc đầu lia lịa, mà trống ngực tim đập thình thịch.

Ông ta lập tức vận công lên năm đầu ngón tay để phòng gặp chuyện trắc trở.

Dương-Qua liền nắm lấy đầu ngón tay ông ta, bấm vào huyệt Dương! Đạt-nhĩ-Ba sợ quá, bước tới xô Dương-Qua lùi lại.

Dương-Qua quắc mắt, đưa tay trái gạt Đạt-nhĩ-Ba ra một bên, rồi nghiêm mặt bảo:

- Hãy đứng yên.

Đạt-nhĩ-Ba bị văng ra một bên, liền quay lại nhìn sư phụ, thấy nét mặt ông lại tươi hẳn lên, và trong miệng lại điểm một nụ cười, lòng chàng quá đỗi mừng, và cũng hết sức kinh ngạc như có phép mầu nhiệm huyền diệu gì!

Chàng Nhĩ-Ba đứng sững nhìn Dương-Qua vận nội công truyền khí lực của chàng vào Thông-linh-đài của thầy mình làm rung chuyển tám huyệt trong người của Kim-luân Pháp-Vương phục hồi chẳng mấy chốc, và vết thương trên ngực Kim-luân Pháp-Vương cũng khỏi hẳn, hai gò má của lão trở nên hồng hào khác thường.

Kim-Luân Pháp-Vương đôi mắt như van lơn, cảm tạ Dương-Qua, lão chắp tay nói:

- Cám ơn ngài đã đến đây giúp tôi.

Dương-Qua bình tĩnh đáp:

- Thưa ngài, đây là bổn phận của tôi phải đến tạ ngài. Vì trước kia tôi đã hiểu lầm Hoàng-Dung và Quách-Tỉnh là ân nhân của tôi, nên đã có nhiều lời oán trách ngài. Nhưng ngày nay tôi đã biết được Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung là kẻ đã giết cha tôi trước kia. Nên nay quyết đi tìm kẻ thù để báo cứu. Không ngờ lại gặp Đạt-nhĩ-Ba, tôi theo đến đây để giãi bày sự lầm lẫn trước đây.

Kim-luân Pháp-Vương chắp tay thưa:

- Tôi không ngờ tráng-sĩ lại mang oan nghiệt như vậy, nhưng tôi nhận thấy vợ chồng đại hiệp họ Quách võ nghệ rất cao siêu, nay Dương tráng sĩ muốn báo thù thì e cũng khó lắm.

Dương-Qua trầm ngâm một hồi lâu, rồi nói:

- Như thế thì hai đời họ nhà tôi, phải đành chịu chết dưới bàn tay họ Quách vậy.

Pháp-Vương buồn bã nói:

- Ban đầu tôi cứ ngờ mình là vô địch trong thiên hạ, nên muốn đem sức mình ra áp đảo quần hùng, tranh thủ địa vị trong đám võ hiệp. Chẳng ngờ sau trận ở Kinh-Sài-Quan tôi đã bị đám người võ nghệ ở đó kéo đến chừng bảy tám người, áp đảo quá mạnh, làm tôi phải chịu khuất phục.

Dương-Qua ân cần hỏi:

- Ngày nay có thể giúp tôi để báo thù cha được không?

Pháp-Vương nói:

- Hiện nay tôi vẫn còn muốn tranh hùng với bọn đại-hiệp võ nghệ Trung-Nguyên. Vậy tráng sĩ cứ chịu cùng tôi, tham dự cuộc tranh hùng sắp đến được không?

Dương-Qua định gật đầu nhận, nhưng liền nghĩ đến thảm cảnh quân Mông-cổ sẽ tàn sát dân tộc Trung-nguyên, nên đáp:

- Tôi không thể giúp quân Mông-cổ được.

Pháp-Vương lắc đầu nói:

- Như vậy là tráng sĩ định đương độc một mình để báo thù vợ chồng Quách-Tỉnh sao? Quả thật như thế là khó lắm.

Dương-Qua nghĩ ngợi một lúc rồi nói:

- Tôi bằng lòng giúp ngài trong việc đoạt chức minh chủ, nhưng điều kiện là ngài phải giúp tôi báo thù cho cha tôi.

Kim-luân Pháp-Vương vui vẻ, ngửa bàn tay ra nói:

- Chúng ta là bậc trượng phu chỉ nói một lời, xin tráng sĩ cùng tôi đập bàn tay ăn thề.

Kim-luân Pháp-Vương và Dương-Qua đập bàn tay ba lần giao ước với nhau:

Dương-Qua nói tiếp:

- Tôi chỉ chịu giúp ngài trong ngôi minh chủ, nếu như sau này ngài giúp quân Mông-cổ tàn ác thì tôi bỏ lời giao ước nầy.

Kim-luân Pháp-Vương cười hô hô nói:

- Mỗi người đều có chí hướng riêng, không thể cưỡng ép nhau. Nhưng này Dương tráng sĩ ơi! ông bạn đã sống qua rất nhiều môn phái, mỗi môn phái đều có một nền võ tuyệt đỉnh. Thế mà ông bạn không chuyên một phái nào, võ công tạp nham như vậy, thử hỏi nếu muốn tranh hùng với vợ chồng Quách-Tỉnh, kẻ đã vang danh thiên hạ, ông bạn sẽ lấy đâu ra ngón sở trường để ứng đối.

Câu nói của Pháp-Vương làm cho Dương-Qua lúng túng, chẳng biết trả lời ra sao. Chàng tuy có tính tham học, đã tập luyện được nhiều môn, trải qua nhiều phái võ, nào là Toàn-chân, Âu-dương-Phong, Ngọc-nữ Tâm-kinh, Cửu âm chân kinh, Hồng-thất-Công v.v... Nhưng xét cho kỹ thì môn phái nào chàng cũng chỉ mới nghiên cứu tạp nhạp, chưa luyện đến độ trác tuyệt. Vì vậy, nếu gặp phải đối thủ tầm thường, thì chàng có thể làm hoa mắt họ để thủ thắng; còn như gặp phải kẻ chân truyền, chàng rất lúng túng, không sao tránh nổi.

Dương-Qua thấy lời Kim-luân Pháp-Vương vừa nói chẳng khác nào như nhát búa đánh vào đầu, rung chuyển đến tim óc, khiến chàng tỉnh ngộ và tự nhủ:

- Võ công ta chẳng khác tâm hồn của ta, chỉ có bề rộng mà không có bề sâu, thay đổi tùy hoàn ảnh của thời gian. Ví như ta đã cùng ước hẹn với Trình Anh và Lục-vô-Song, yêu nhau suốt đời, thế mà đến lúc gặp Hoàng-nhan-Bình, cô gái mỹ miều kia, lòng ta cũng không khỏi xao xuyến.

Chàng buông một tiếng thở dài, đưa mắt nhìn phía trời xa, lẩm bẩm:

- Hoàng-dược-Sư, Âu-dương-Phong, Hồng-thất-Công sở dĩ họ nổi danh trên đời là vì họ chuyên chú rèn luyện theo một môn phái, nghiên cứu đến chỗ uyên thâm. Còn ta, chỉ vì quá ham muốn mà ta đã bao làm môn nầy chưa thông đã bước sang môn khác. Rốt cuộc, không món nào có căn bản! Ôi! Khổ thay! Ta đang học Ngọc-Nữ tâm kinh, thấy "Ngọc tiêu kiếm pháp" của Hoàng-dược-Sư và đả cẩu bổng của Hồng-thất-Công cho là tuyệt diệu, vội bỏ qua Ngọc-Nữ tâm-kinh không học nữa.

Càng nghĩ, gan ruột Dương-Qua càng nóng như lửa đốt.

Qua một lúc chàng tự nhủ:

- Ta phải tập hợp các sở trường của mọi môn phái để tạo ra một phái mới, riêng biệt của ta mới được.

Nghĩ như thế, Dương-Qua mừng khôn xiết. Đôi mắt sáng lên. Mới biết con người muốn sáng tạo sự nghiệp mới, lẽ tất nhiên không nên dựa vào nơi nầy, nơi khác để bắt chước được. Dù sao có giỏi cho lắm, suốt đời con người cũng chỉ ở vào hạng hai, hạng ba là cùng.

Hơn ba ngày trời, cứ từ sáng đến trưa, từ trưa đến tối, Dương-Qua chỉ gặp những chuyện khó nhọc không ăn không ngủ được. Nên lúc nầy chàng đuối sức, và tâm thần bấn loạn lên. Vì các phái võ lâm lần lượt thay phiên nhau xâm chiếm vào đầu óc chàng. Chân tay chàng tự động quay cuồng qua nhiều thứ võ, cứ như thế múa mãi như người điên.

Quá mệt mỏi lại thêm uất ức, nên chàng ngã vật xuống đất bắt tỉnh.

Đạt-nhĩ-Ba từ nãy giờ đứng đàng xa trông lại, thấy cử chỉ Dương-Qua điên điên khùng khùng lấy làm ngạc nhiên. Bây giờ thấy Dương-Qua còn ngã xuống đất, Nhĩ-Ba lại càng kinh hãi hơn, định chạy lại đỡ chàng dậy. Nhưng Kim-luân Pháp-Vương đưa tay cản Đạt-nhĩ-Ba lại nói:

- Con chớ hấp tấp làm loạn tâm của Dương tráng sĩ, để cho tráng sĩ nằm nghỉ cho khỏe.

Dương-Qua nằm thiêm thiếp đến nửa đêm mới tỉnh lại. Nhưng chàng tỉnh lại là vung tay chân, múa võ đến mệt rồi lại ngất xỉu xuống đất nằm thiếp đi. Cứ như thế mà chàng say, tỉnh hơn bảy ngày trời không ăn uống gì cả.

Trong lúc say mê, quyền võ của chàng càng thêm ác hiểm, nên một quả đấm vung ra như muốn xẻ đôi thân, một cái đá bung lên có thể bay một hòn đá lớn Đạt-nhĩ-Ba sợ quá không dám mon men lại gần.

Sang ngày thứ tám, thì quyền cước Dương-Qua đã yếu dần, nên quả đấm hôm trước như trời giáng, nay đụng vào thân cây cũng chả làm cho chiếc lá lay động.

Dương-Qua cảm thấy như tất cả võ công của chàng đã thuần chính rồi, tâm trí của chàng lúc nầy phân định được rõ ràng. Từ từ chàng ngồi thu hình lại, dụng vận hết tâm não, gân mạnh khiến cho cơ thể được hồi phục lại.

Dương-Qua ngồi dậy, nghe bụng đói như cào. Chàng nhớ lại đã hơn mười ngày rồi, chưa có ăn uống gì cả, nên định đi tìm món ăn cho đỡ dạ. Chợt nhìn thấy giỏ trái táo trên nệm cỏ, chàng vội bước lại ăn hết giỏ táo, mà Đạt-nhĩ-Ba đã hái về cho Kim-luân pháp-Vương.

Kim-luân Pháp-Vương mừng rỡ kêu lên:

- Dương tráng sĩ ơi! Tôi xin chúc mừng vũ học của tráng sĩ đã thành công.

Pháp-Vương vừa nói, vừa uốn cong mình như con rắn, rồi thở mạnh một luồng khí lạnh. Dương-Qua vội né mình sang một bên, vung tay gạt mạnh luồng khí lạnh bay tạt ra xa. Pháp-Vương lại phóng thêm một chưởng phong nữa. Dương-Qua lại dùng năm đầu ngón tay chận lại. Chưởng phong của Kim-luân Pháp-Vương gặp năm đầu ngón tay liền quấn lại. Dương-Qua thấy rõ tài nghệ của chàng lúc nầy đã khá hẳn rồi, nên hiểu rõ được Kim-luân Pháp-Vương muốn tỏ cho mình biết vết thương của ông đã lành... Chàng liền nói lớn:

Tôi rất mừng cho vết thương của ngài đã khỏi. Vì những người trong lòng có văn thơ thì hơi thở cũng thơm tho.

Dương-Qua từ lúc phát hiện ra võ phái mới, tuy vóc dáng của chàng còn trẻ, mà đã có vẻ am hiểu rất thấu đáo. Kim-luân Pháp-Vương ngắm nghía Dương-Qua thầm nghĩ:

- Mình được người nầy giúp sức thì hay biết mấy!

Lão nghĩ một lúc rồi nói:

- Dương tráng sĩ ơi! Tôi định dẫn tráng sĩ đến gặp một người tài đại lược, tâm trí cao thượng.

Dương-Qua liền hỏi:

- Thưa ngài, người đấy là ai?

Pháp-vương đáp:

- Người ấy là Vương-tử Hốt-tất-Liệt, cháu trai của Thành-cát Tư-Hãn, con của Hoàng thái-tử Đà-Lôi xứ Mông-cổ.

Dương-Qua từ ngày biết những hành động, tàn ác của quân Mông-cổ, mỗi khi nghe đâu tiếng Mông-cổ là ghét cay ghét đắng, nên chau mày nói:

- Tôi đang nóng lòng muốn báo thù cho cha tôi, nên việc Mông-cổ tôi thấy chưa cần thiết gì mấy.

Pháp-Vương cười nói:

- Tôi đã hứa giúp cho Dương tráng sĩ, thì đâu có dám thất tín. Nhưng hiềm vì Vương-tử Mông-Cổ mời đến không thể nào từ thác được. Vả lại binh tướng của Hốt-tất-Liệt không cách xa đây là mấy, chúng ta có thể cùng đi.

Dương-Qua không biết nói thế nào, để từ thác được, nên thầm nghĩ:

Đơn độc một mình khó mà đánh lại vợ chồng Quách-Tỉnh, chi bằng ta chiều lòng Kim-luân Pháp-Vương, rồi sẽ định liệu sau.

Pháp-Vương thấy Dương-Qua làm thinh, liền nói:

- Thôi bây giờ chúng mình cùng đi.

Kim-luân Pháp-Vương và Dương-Qua cùng băng đèo, vượt suối hơn nửa ngày trời đến Mông-Cổ.

Lúc đến doanh trại Mông-Cổ, quân cảnh vào bẩm với chủ tướng, hai người được mời vào.

Doanh trại Mông-Cổ là những túp lều tuy làm đơn giản, nhưng rất đẹp. Vua quân Mông-Cổ không thích ở cung điện, bởi vì họ đã quen với đời sống chinh chiến.

Dương-Qua thấy nơi ở của Hốt-tất-Liệt rất trang nghiêm, tuy với lối bày biện giản dị không xa hoa. Một vị Vương-tử tuổi trạc hai mươi lăm đang ngồi đọc sách, vừa thoáng thấy hai người, Hốt-tất-Liệt vội chạy ra đón chào niềm nở, mời vào trại.

Kim-luân Pháp-Vương chỉ vào Dương-Qua nói:

- Hôm nay tôi xin giới thiệu với vương tử một vị thiếu niên đại anh hùng, là Dương tráng-sĩ, một người tuổi trẻ lỗi lạc nhất trên đời.

Dương-Qua quá ngạc nhiên, từ trước tới giờ chàng vẫn đinh ninh dòng họ Thành-cát Tư-Hãn rất hung dữ. Không ngờ Hốt-tất-Liệt đứng trước mặt chàng, lại là một thư sinh giống người Hán, mà lại đọc sách chữ Hán. Thật kỳ lạ vô cùng.

Dương-Qua đang mải mê nghĩ ngợi, bị Hốt-tất-Liệt vỗ vào vai làm cho chàng giật mình. Vương-tử vui vẻ mời Dương-Qua uống rượu "mã nhủ". Miệng mời tay cầm một hồ rượu rót vào chén lớn.

Ngày thường Dương-Qua vốn không phải là người thích rượu. Nhưng lần nầy vào chốn vương-gia không lẽ từ chối cách nào được. Chàng nhìn qua thấy Kim-luân Pháp-vương đã uống cạn chén. Không thể ngần ngại gì nữa, chàng cung kính đỡ chén rượu trên tay Hốt-tất-Liệt, rồi uống một hơi. Rượu vào miệng chàng nghe cay sè cả cuống họng. Chưa bao giờ Dương-Qua gặp rượu nặng đến thế, nhưng chàng vãn cố giữ cho vẻ mặt tự nhiên.

Hốt-tất-Liệt cười hỏi:

- Rượu có ngon không, thưa tráng sĩ?

Dương-Qua đáp:

- Thưa Vương-tử, rượu ngon lắm, uống vào như dao cứa cổ, cay đắng lạ thường. Nhưng thế mới thật là rượu của nam tử, người con trai Hán-tộc ai cũng ưa dùng thứ rượu nặng.

Hốt-tất-Liệt quá sung sướng, gọi quân lính bưng thêm rượu ra. Phút chốc mỗi người đã uống tới năm chén lớn, Hốt-tất-Liệt quay sang Kim-luân Pháp-Vương nói:

- Quốc sư tìm được vị đại nhân nầy ở đâu thế? Thật là may mắn cho nước Mông-cổ lắm.

Kim-luân Pháp-Vương liền đem tình đầu câu chuyện, thuật lại cho vương-tử Mông-cổ nghe, và hết lời xưng tụng Dương-Qua.

Nếu như gặp người khác, thì chắc khó tin ngay lời của Kim-luân Pháp-Vương xưng tụng quá mức một người trẻ tuổi như Dương-Qua. Nhưng Hốt-tất-Liệt cũng là một thần đồng, trẻ mà tài trí cao xa xuất chúng, khí độ rộng rãi, nên không chút nghi ngờ lời của Pháp-Vương.

Hốt-tất-Liệt ra lịnh cho quân lính làm tiệc thiết đãi, và nói với Kim-luân Pháp-Vương:

- Đợi hội đây cho đông đủ, tôi sẽ giới thiệu với quốc-sư mấy vị cao nhân khác.

Hiện thời Hốt-tất-Liệt trở thành một vị vương tử Mông-cổ. Tuy nhiên đó là một việc khó khăn, trắc trở vô cùng. Vì Thành-cát Tư-Hãn lúc mang quân đi thôn tính các nước phía Tây, gặp cuộc chinh chiến quá gay go dằng dai cho nên Thành-cát Tư-Hãn luôn luôn vắng mặt ở triều đình, khiến cho triều đình xục rục giữa con trưởng và con thứ tranh nhau chức vị, đến nỗi họ mưu hại nhau. Lúc đó con thứ ba là Oa-khoát-Đài với con thứ tư là Đà-Lôi thì liên kết nhau.

Thành-cát Tư-Hãn lại ghét tính hung bạo của người con trưởng và người con thứ hai, nên trước khi chết, ông lưu lại chiếu phong cho Oa-khoát-Đài kế vị. Sở dĩ Oa-khoát-Đài được lên ngai vàng cũng là nhờ Đà-Lôi một phần lớn.

Năm Tân-Mão, Oa-khoát-Đài thân chinh đánh nước Kim, bỗng nhiên bị cấm khẩu. Đà-Lôi vì quá thương anh nên nguyện với trời Phật chịu chết thô. Khi đó có một vị pháp-sư đến cứu Oa-khoát-Đài, nhưng buộc phải có người trong anh em thế mạng mới được. Thái-Tử Đà-Lôi nghe cứu được anh nên mừng quá, nhận uống ly rượu độc do Pháp sư ban phép. Lạ thay Đà-Lôi uống xong ngã vật xuống chết, thì bệnh của Oa-khoát-Đài cũng khỏi.

Vì vậy Oa-khoát-Đài suốt đời cảm kính ân sâu của Đà-Lôi, đã chịu chết thay cho mình, nên đối với vợ con Đà-Lôi rất ân hậu. Đến lúc Oa-khoát-Đài chết đã di chiếu lập con của Đà-Lôi là Mông-Ca lên kế vị.

Khốn thay lúc đó, quyền hành lại rơi vào tay Hoàng-hậu. Bà nầy không nghe theo di chiếu của chồng, đã dùng mưu lung lạc một vị đại thần trong triều, gạt bỏ di chiếu tiên vương, tự mình lên chấp chánh bốn năm. Sau bốn năm truyền ngôi cho con bà là Quý-Do. Quý-Do lên ngôi chưa đầy một năm bị mất quyền hành lại trở về tay Hoàng-hậu.

Trong triều thần không chịu cho Hoàng-hậu giữ việc triều đình, vị họ nhớ đến công đức của Đà-Lôi. Nhờ mưu kế của Hốt-tất-Liệt, Mông-Ca được tôn lên vương-vị. Để trả ơn cho Hốt-tất-Liệt, Mông-Ca phong cho Hốt-tất-Liệt làm hoàng-thất-đệ, sau nầy sẽ được nối ngôi mình.

Như vậy, sau Mông-Ca thì đến quyền hành của Hốt-tất-Liệt. Hốt-tất-Liệt đã từng ở Trung-Nguyên lâu ngày, rất khâm phục nền văn minh Trung-Nguyên, nên đã thường cùng với đám nho-sĩ học hỏi đàm đạo thi thơ, lại luôn luôn tìm tòi các vị võ nghệ cao cường làm vây cánh, để xâm chiếm nhà Tống.

Yến tiệc bày ra, Hốt-tất-Liệt mời các quan khách an tọa, Hốt-tất-Liệt ngồi bên Dương-Qua. Uống lưng chén rượu, bỗng Hốt-tất-Liệt gọi lớn:

- Nào, xin mời các tiên sinh ở Chiêu-hiền ra mắt.

Rồi quay sang Dương-Qua nói nhỏ:

- Tôi được gặp mấy vị cao nhân tại Chiêu-Hiền, mấy vị hợop ý tôi lắm, tuy nhiên cũng ngại không vừa lòng quốc-sư và tráng-sĩ.

Vừa lúc, quân hầu vào bẩm:

- Thưa Vương-tử khách đã vào.

Tấm màn kéo lên, xuất hiện bốn người. Dương-Qua ngạc nhiên, khi nhìn thấy bốn người vừa bước vào.

Người thứ nhất thân thể như một xác chết khô.

Người thứ hai vừa lùn, vừa đen.

Hai người này không ai xa lạ, chính là Tiêu-tương-Tử và Ni-ma-Tinh mà Dương-Qua đã thấy ở Sơn-cốc-Trung, trong một đêm tối trời bữa nọ.

Người thứ ba thân cao chừng tám thước, tay to, chân lớn, hai mắt trắng đục như khu tộ.

Người thứ tư mũi cao, mắt sâu hoáy, râu vàng khè, dáng điệu người Hô, nhưng ăn mặc theo kiểu người Hán, cổ đeo hai viên ngọc sáng, tay có vòng chuỗi đá quý, trông không ra nam, mà cũng không ra nữ.

Hốt-tất-Liệt đưa tay mời bốn vị an tọa, rồi giới thiệu với tân khách. Người cao, lớn thuộc giống Hối-cương, tên là Mã-quang-Tổ, từ nhỏ đã có sức khỏe lạ thường, tay không vật chết voi, cọp như chơi. Lớn lên lại được tập võ nghệ.

Mã-quang-Tồ người to lớn, nhưng tay, chân quá thô kệch, nên võ nghệ không đến mức siêu đẳng. Tuy vậy, mà nhờ sức khỏe hơn người, nên chỉ thua bậc anh hùng siêu thế, chớ người nào võ tầm thường gặp phải Mã-quang-Tổ khó mà thoát chết.

Hốt-tất-Liệt chỉ vào người đeo ngọc sáng ở cổ, nói:

- Người này là vợ Hồ tên là Doãn khắc Tây, chuyên nghề buôn ngọc. Doãn-khắc-Tây từng giang hồ đi khắp nơi, nên học khá nhiều võ nghệ đặc biệt, được phái võ chân truyền ở xứ Ba-Tư thu dụng làm đồ đệ. Doãn-y-khắc-Tây sắp tu luyện "thành tài", nhưng nghe tin Hốt-tất-Liệt thu dụng hiền tài, không quản đường xa tìm đến ra mắt.

Ni-ma-Tinh và Tiểu-tương-Tử đến đưa mắt nhìn Dương-Qua, thấy chàng còn non trẻ nên có vẻ coi thường. Hai người chỉ chăm chú nhìn Kim-luân Pháp-Vương, thấy lão tỏ vẻ khinh thường không coi hai người vào đâu cả.

Rượu chừng vài ba tuần, Ni-ma-Tinh có tính nóng nảy, ngồi yên không chịu được nữa, liền đứng dậy thưa với Hốt-tất-Liệt:

- Kính vương-gia, nhà Đại-Mông quơ lưới quét hiền tài anh liệt. Chắc hẳn anh hùng tứ xứ qui tụ nơi đây cũng khá đông đảo.

Rồi lão lùn đưa tay chỉ vào Kim-luân Pháp-vương nói:

- Vị hòa thượng được vương-gia phong cho làm đệ nhất quốc sư, có lẽ tài nghệ phải siêu thế lắm! Anh em chúng tôi muốn cho hòa thượng chỉ dạy vài điều hay.

Hốt-tất-Liệt nghe Ni-ma-Tinh nói thế, chỉ mỉm cười làm thinh Tiểu-tương-Tử đứng dậy tiếp lời:

- Ni-ma-Tinh từ ngày ở Tây-Trúc về đây, nhưng nghề võ Tây-Tạng do Tây-Trúc truyền tới. Lẽ nào màu xanh lại có thể đậm hơn màu tím được.

Tiểu-tương-Tử dụng ý khiêu khích, để được xem một trận đấu thử thách giữa Kim-luân Pháp-vương với Ni-ma-Tinh. Tiểu-tương-Tử sẽ thủ vai ngư ông đắc lợi.

Kim-luân Pháp-Vương chú ý nhìn Tiểu-tương-Tử, thấy hai gò má có ánh xanh, thì biết ngay, Tương-Tử có sức nội công tu luyện cũng đã đến mức phi thường, Pháp-vương trông thấy ở đây, chỉ có Tương-Tử có dáng lợi hại hơn hết.

Pháp-vương tuy nghe lời khiêu khích, nhưng nét mặt vẫn bình thản. Bỗng trong bàn tiệc có tiếng cười ré lên. Mọi người chăm chú nhìn về phía tiếng cười, thì đúng là tên buôn ngọc.

Doãn-khắc-Tây vừa cười đắc ý, vừa nói:

- Chà làm tới quốc sư, chẳng qua cũng nhờ ân-sư vương-gia thôi! Chắc gì đã xứng đáng thế.

Rồi hắn ngoảnh mặt nhìn Ni-ma Tinh với vẻ khiêu khích.

Kim-luân Pháp-Vương vẫn bình thản, đưa đũa ra gắp một miếng thịt lớn giơ lên nói:

- Miếng thịt này lớn nhất ngư-phủ tôi không dám ăn, chỉ vì sự ngẫu nhiên gặp phải nó, nhà Phật gọi sự ngẫu nhiên ấy là pháp duyên. Vậy tôi xin nhường chư vị gắp lấy.

Trong bàn tiệc có Mã-quang-Tổ tâm địa còn khờ dại, nên không hiểu được ý định của Kim-luân Pháp-Vương. Chỉ thấy Pháp-Vương gắp miếng thịt dơ lên, tưởng là quốc sư tự nhận lão không đủ tài với chức quốc sư, nên tự ví mình như miếng thịt kia, nhường cho khách.

Mã-quang-Tổ liền đưa đũa ra tiếp, nào ngờ đầu đũa của Mã-quang-Tổ vừa chạm đũa Kim-Luân Pháp-Vương thì tay Quang-Tổ như bị điện giật tê cứng. Vì nội công của Kim-Luân Pháp-Vương truyền ra đũa, nhập vào mạch máu của Quang-Tổ tê điếng người. Quang-Tồ nhào xuống đất, mắt méo xẹo. Quan khách trong bữa tiệc, ai nấy đều kinh ngạc, luôn miệng trầm trồ:

- Quốc sư làm gì hay thế?

Mã-quan-Tổ ngượng quá, nói lớn:

- Đó chẳng qua là một yêu thuật! Vậy có dám cùng ta đấu võ chăng?

Hốt-tất-Liệt cả cười, la lớn:

- Mã-tráng-Sĩ, đừng nóng thế! Chúng ta muốn tranh hùng đâu có muộn gì? Để ăn xong tiệc rồi sẽ trổ tài có hay hơn không?

Mã-quang-Tổ nín thinh ngồi dậy.

Ni-ma-Tinh lúc nầy vẫn khinh thường Kim-Luân Pháp-Vương, bây giờ thấy quang cảnh trước mắt hết lòng lo nghĩ. Nhưng chẳng lẽ trước mắt chư anh hùng lại ép mình chịu nhục nhã thế nầy sao?

Ni-ma-Tinh vốn gốc người ở Tây-Trúc, nên ăn bốc, không ăn bằng đũa, thấy Mã-Quang-Tồ không giật nổi miếng thịt trong đôi đũa của Kim-Luân Pháp-Vương. Ni-ma-Tinh mái ôn tồn nói với Mã-quang-Tổ:

- Mã-huynh, hãy nhìn đệ lấy miếng thịt đó?

Vừa nói, vừa dùng năm đầu ngón tay cứng như năm thanh sắt, vụt ra chụp lấy miếng thịt.

Kim-Luân Pháp-Vương lanh như cắt, dùng hai ngón tay tách đôi chiếc đũa, chặn vào năm đầu ngón tay của Ni-ma-Tinh. Năm ngón tay của Ni-ma-Tinh bị đũa gài vào, ngồi chết khựng không cử động được.

Kim-Luân Pháp-Vương dùng nửa chiếc đũa để chặn đòn Ni-ma-Tinh, nên vận dụng được hai đầu đũa để giữ chặt miếng thịt lại. Ni-ma-Tinh cũng chẳng vừa, lão liền vận dụng hết nội lực vào năm đường gân ngón tay, gân nổi lên cồm cộp búng mảnh đũa ra ngoài. Thế là lão lùn gỡ được đũa gài, bớt sự thẹn mặt, nhưng vẫn ngồi yên không dám dành miếng thịt nữa.

Ngồi xem các anh-hùng hiệp khách đấu thuật với nhau, Dương-Qua từ lúc đầu đến giờ chỉ mỉm cười. Đột nhiên nghe có tiếng vọng vào!

- Quách-Tỉnh, Quách-Tỉnh ở trong đó mau ra đây!

Tiếng hô nghe từ hướng Đông dội đến. Nhưng thoáng qua lại nghe từ hướng Tây vang lại. Lạ thật! Đông và Tây cách xa nhau, ai đâu mà nhanh đến thế, chắc là có hai ba người gì đó? Nhưng giọng nói vẫn một giọng!

Trong lúc nầy cuộc dành thịt, tiếp tục giữa Kim-Luân Pháp-Vương với Tiểu-tương-Tử bắt đầu. Kẻ nửa cân người tám lạng. Rốt cục miếng thịt phân làm ba mảnh tung lên, Dương-Qua lanh mắt liền vung đũa ra kẹp lấy một mảnh. Cả ba người cùng nhìn nhau cười ngất. Mỗi người định đưa mảnh thịt phần mình lên miệng, thì thoáng một cái, một bóng đen xuất hiện và một người bay vèo ra, giơ tay thu cả ba miếng thịt cho vào miệng, nhai tóp tép, đưa mắt trừng trừng nhìn chung quanh như chẳng thèm coi ai ra gì hết.

Tất cả đều thất kinh, ngơ ngác nhìn nhau. Kim-luân Pháp-Vương, Dương-Qua và Tiểu-tương-Tử đâu phải tài nghệ tầm thường, thế mà miếng thịt bị giật mất một cách trắng trợn, không ai chống đỡ nổi. Người nào cũng lo định thần, nhìn theo bóng người ngang ngược là ai! Chỉ thấy một cụ già, râu tóc bạc phơ, hai má đỏ hồng, miệng tươi cười, đôi mắt sáng quắc, tuổi tác khó mà đoán được là bao nhiêu.

Bọn quân canh ồ ạt tứ phía chạy vào, vây quanh dùng gươm, giáo chĩa tua tủa vào ông lão, đồng thanh hô to:

- Tiến nhanh bắt người quái khách.

Cụ già ung dung khẽ đưa nhẹ hai ngón tay quét qua, hơn hai chục ngọn giáo văng vào một góc. Lũ quân canh nhào sắp lớp. Ngoảnh mặt nhìn về phía Dương-Qua cụ già gọi:

- Chú em! Hãy đưa thêm rượu thịt ra đây, bụng lão kiến đang bò nhiều quá.

Kim-luân Pháp-Vương, Ni-ma-Tinh, Tiểu-tương-Tử và Mã-Quang-Tổ liền liên kết nhau chống lại để trổ tài cho vui lòng Hốt-tất-Liệt.

Bốn vị Mông-cổ nhất tề xông lại áp đảo cụ già. Chống trả sự áp đảo của bốn vị dũng sĩ, cụ già đánh như dỡn cợt, mà bốn dũng sĩ mồ hôi đã ra nhễ nhại. Họ không thể tiến đến cụ già được nửa tấc.

Dương-Qua nghe lời cụ già đưa đĩa thịt lên mời. Lạ thay! Thịt trong đĩa cứ tự động bay tòn tọt vào miệng cụ già.

Kim-Luân Pháp-Vương thấy thế quá sức kinh ngạc, nên hết lòng thán phục sức nội công của khách lạ đã đến mức tuyệt diệu với lối vận công ra miệng tạo thành sức hút kỳ dị ấy.

Hốt-tất-Liệt đã từng dự nhiều cuộc chơi lạ thường, nhưng chưa bao giờ được thấy một quang cảnh lạ thường như thế! Vương-Tử cũng ngây người như gỗ, miệng luôn luôn tấm tắc khen ngợi:

- Thường thường người nào có nội công giỏi lắm, cũng phải thêm sức gió của bàn tay vụt qua mới thâu vật bày trên đĩa được. Đằng này lại không cần gì đến tay cả, mà tự nhiên các vật ở đĩa cứ lần lượt bay tuột vào miệng, thật chân nhán, kỳ tài trong thiên hạ chưa từng có.

Trong chúng anh hùng bắt đầu run sợ, cụ già vẫn khoan thai nuốt hết miếng này, đến miếng khác. Phút chốc trên bàn tiệc hết trơn thức ăn.

Ăn xong, cụ già nhảy vọt lên đứng sững trên bàn, đưa tay phải vẽ trên không trung một vòng cánh cung. Bàn tay vẽ nhanh và mạnh đến nỗi mọi người trông thấy cả vệt sáng. Thuật nầy gọi là "Thái cực hình". Bàn tay càng lúc, càng nhanh, càng mạnh, khiến cho chén đũa trên bàn bị sức hút nhổm lên, nối đuôi nhau bay vun vút. Trong nháy mắ trên bàn tiệc sạch trơn.

Tiêu-tương-Tử nhìn từ lúc đầu đến giờ mới hỏi:

- Dám hỏi tiền bối, như tiểu đệ không lầm ngài có phải là họ Châu không?

Cụ già cười khanh khách, nói:

- Đúng đó, ngươi cũng nhận ra ta ư?

Tiêu-tương-Tử chắp tay lạy chào:

- Thật không ngờ Lão Ngoan-Đồng Châu-bá-Thông tiền bối lại có mặt nơi đây!

Kim-Luân Pháp-Vương và Ni-ma-tinh biết rất ít về các cao thủ ở Trung-Nguyên, nhưng nghe lời Tiêu-Tương-Tử gọi lão Ngoan-Đồng so với tánh ương ngạnh ban nãy cũng hiểu rõ người rồi.

Thấy cụ già có quen biết với Tiêu-tương-Tử, nên ai nấy đều bỏ ý tưởng tỵ hiềm đổi bộ mặt ganh tỵ ra vẻ mừng vui thân ái.

Kim-luân Pháp-Vương đứng lên, khẩn khoản nói:

- Xin tiền bối lượng thứ lỗi vô lễ. Tiện đây, kính mời tiền-bối vui lòng dùng bữa cùng Vương-gia, mong hiền tài chấp thuận cho! Vương-tử trông thấy cao-nhân, chắc lòng hoan hỉ.

Hốt-tất-Liệt cũng đứng lên thi lễ.

- Thật may mắn trăm phần, xin tiền bối vui lòng dùng bữa cùng chúng tôi và nhờ tiền bối chỉ dạy cho tôi vài điều.

Châu-bá-Thông chỉ lắc đầu lia lịa, nói:

- Ta ăn đã đủ lắm rồi! Chẳng dám nài thêm. Nhưng Quách-Tỉnh người ấy có đây không?

Dương-Qua nghe nói đến Quách-Tỉnh, lòng rộn ràng không yên, liền hỏi:

- Hỏi Quách-Tỉnh có việc gì?

Châu-bá-Thông xưa nay rất quý mến đám thanh niên trẻ tuổi thấy Dương-Qua không cung kính gọi mình là lão tiền-bối, chỉ gọi trống không, thật lấy làm lạ. Ông ta đáp:

- Quách-Tỉnh là anh em kết nghĩa với ta. Chú em có biết hắn không? Tính hắn rất thích giao du với người Mông-cổ cho nên ta mới đến đây tìm.

Dương-Qua nhíu đôi mày, hỏi gạn:

- Nhưng hỏi Quách-Tỉnh để làm gì mới được chứ?

Châu-bá-Thông đâu biết được tâm sự của Dương-Qua, nên cứ bình tĩnh trả lời:

- Quách-Tỉnh gửi thư thăm ta mời đi dự anh hùng yến, nhưng cách xa hàng ngàn dặm. Đi dọc đường vì gặp nhiều chuyện cản trở, nên đến chậm trễ mất một ngày. Ta tới đó anh hùng yến đã giải tán, ta luôn tiện đến đây.

Dương-Qua nói:

- Vậy Quách-Tỉnh không để thư lại sao?

Nghe Dương-Qua tra vấn mãi, Châu-bá-Thông ngạc nhiên hỏi:

- Chú em! Tại sao chú cật vấn ta nhiều vậy? Chú em có biết Quách-Tỉnh không?

Dương-Qua hằn học trả lời:

- Sao tôi không biết? Có phải vợ Quách-Tỉnh là Hoàng-Dung không? Có phải con gái Quách-Tỉnh là Quách-Phù không?

Châu-bá-Thông đập hai tay vào nhau chan chát, cười khà khà nói:

- Sai rồi, lầm rồi! Hoàng-Dung là một con bé con, làm gì có con gái lớn.

Châu-bá-Thông nói làm cho Dương-Qua ngẩn người. Nhưng chàng cố bình tĩnh hỏi lại:

- Ông không gặp vợ chồng Quách-Tỉnh đã bao lâu rồi?

Châu-bá-Thông giơ tay ra tính lẩm nhẩm, rồi đáp:

- Ta cách vợ chồng hắn đến nay gần hai chục năm.

Dương-Qua cười khúc khích, nói:

- Không gặp đã hai chục năm, mà không tin Hoàng-Dung có thể có con gái. Thật đúng với cái tên Lão Ngoan-Đồng.

Châu-bá-Thông cười khà khà, nói:

- ừ, thì chú em đúng! Chú em đúng hơn ta! Nhưng lão muốn chú em kể thử đứa con gái đó như thế nào?

Dương-Qua nói:

- Đứa bé đó giống Hoàng-Dung nhiều hơn giống Quách-Tỉnh.

Châu-bá-Thông lại cười hô hố nói:

- Chú em định cho con gái hơi giống Quách-Tỉnh để nhát ai, với đôi lông mày đinh ngược, với hai gò má vừa đen vừa cao đó?

Dương-Qua thấy Châu-bá-Thông có ý tin nên nói tiếp:

- Tôi với cha ruột Hoàng-Dung, là Hoàng-dược-Sư chúa đảo Đào-Hoa là bạn thân với nhau.

Châu-bá-Thông nghe nói lạ lùng nghĩ thầm:

- Thằng nầy tuổi nó là bao nhiêu, mà nói là bạn Hoàng-dược-Sư.

Nghĩ thế ông liền hỏi:

- Như vậy sư phụ của chú là ai?

Dương-Qua đáp:

- Tên sư phụ tôi lớn lắm! Nói ra chỉ làm cho ông run sợ thôi!

Châu-bá-Thông quá giận, nói:

- Chú em đừng lo.

Dứt lời Châu-bá-Thông dừng tay trái quất mạnh vào cái bàn, cái bàn bay vút vào mặt Dương-Qua.

Dương-Qua không chút nao núng xòe năm ngón tay trái ra đỡ. Chỉ nghe tiếng răn rắc, cái bàn đã bể vụn ra từng mảnh rơi lã chã.

Châu-bá-Thông thấy người thiếu niên dùng võ công của phái Toàn-Chân, đỡ nổi đòn lợi hại, lòng rất thích thú.

Còn Kim-luân Pháp-Vương, Tiêu-tương-Tử, Mã-quang-Tồ người nào, người nấy ngồi nhìn sững sờ.

Thứ nhứt là Tiêu-tương-Tử và Ni-ma-tinh từ lúc đầu mới đến, thấy Dương-Qua, coi chàng không được nửa con mắt. Lúc nầy thấy cảnh ấy, lòng tự bảo:

- Cái bàn vụt mạnh như thế, chỉ có nước né, chứ ai nào dám đỡ, nếu như sơ ý một chút là bị gãy xương ngay; thế mà người trẻ tuổi này chỉ cần dùng năm ngón tay thôi! Chẳng hiểu ở nơi đâu lại sinh ra bậc kỳ nhân sơn như vậy?

Châu-bá-Thông lòng thầm khen ngợi, và đoán biết Dương-Qua đã tinh luyện được võ công của phái Toàn-Chân, bèn hỏi:

- Chú em quen với Mã-Ngọc, Khưu-xứ-Cơ chăng?

Dương-Qua nói:

- Hai tên hèn ấy quen làm gì?

Châu-bá-Thông lại càng thích! Sở dĩ Châu-bá-Thông thích ý là vì được gặp người tri kỷ, Bá-Thông đã từng làm đệ tử của phái Toàn-Chân, nhưng Bá-Thông là con người phóng đạt, không ưa giới luật câu nệ, nên không được trong môn phái mến chuộng.

Châu-bá-Thông bình tĩnh rất khâm phục Vương-trùng-Dương và Cửu-chỉ Thần-Cái Hồng-thất-Công, nên ghét lối câu nệ quá của Mã-Ngọc và Khưu-xứ-Cơ. Nay lại nghe Dương-Qua gọi Mã-ngọc và Xứ-Cơ là kẻ hèn thật là hiệp ý.

Châu-bá-Thông tiếp:

- Còn Xích-đại-Thông chú em nghĩ sao:

Dương-Qua nghe đến "Xích-đại-Thông" đôi mày dựng ngược tỏ vẻ giận dữ, nói:

- Thằng khốn ấy, có lần tôi đã cho nó bị khốn.

Châu-bá-Thông liền hỏi:

- Cho nó khốn khổ bằng cách nào?

Dương-Qua nói:

- Tôi đã trói chặt nó, rồi đạp vào cầu tiêu, nhốt mấy ngày đêm.

Châu-bá-Thông thở dài, nói:

- Ta là sư thúc của Xích-đại-Thông đó!

Trong cuộc nói chuyện với Châu-bá-Thông, Dương-Qua nẩy ra một ý nghĩ:

- Lão này võ nghệ cao kỳ lắm, dụ lão để cùng ta diệt vợ chồng Quách-Tỉnh, chắc không thể nào được: nhưng không dụ được thì lão sẽ giúp Quách-Tỉnh thêm một sự khó cho mình. Chi bằng ta lập mưu giết lão rảnh.

Dương-Qua bản tâm không phải con người gian ác, nhưng chàng quá nóng lòng báo thù cha, dù phải làm gì khó khăn, nguy hiểm đến đâu cũng không sờn lòng. Bởi vậy chàng quên nghĩ việc làm có độc ác hay không?

Còn Châu-bá-Thông đâu có biết tâm sự đau khổ, hận thù của Dương-Qua, đã phát hiện một ác ý như vậy? Nên Châu-bá-Thông vẫn thực thà hỏi:

- Bây giờ chú em có đi bắt thằng Xích-đại-Thông nữa không?

Dương-Qua hỏi lại:

- Nếu tôi đi ông có cùng đi với tôi không?

Châu-bá-Thông ngẫm nghĩ hồi lâu, nói:

- Ta có nhận được bức thư của Quách-Tỉnh, lưu lại ở Lục-gia-Trang, có lời dặn là quân Mông-Cổ sắp tràn xuống phía Nam để hạ thành Tương-Dương. Phần Quách sẽ xuất lãnh hào kiệt Trung-Nguyên để bảo vệ Tương-Dương, nên có lời mời ta giúp hắn. Nay đến đây tìm hắn không có, chắc bây giờ đến Tương-Dương sẽ gặp.

Hốt-tất-Liệt, Kim-luân Pháp-Vương nghe câu chuyện Châu-bá-Thông nói với Dương-Qua, nét mặt không vui. Hốt-tất-Liệt khẽ bảo Pháp-Vương:

- Lúc này họ tụ tập nhiều tay anh kiệt ở Trung-Nguyên bảo vệ Tương-Dương, thì làm sao hạ được thành ấy theo dự định hả quốc sư?

Giữa lúc mọi người đang suy tư định lại võ công, chợt thấy tấm da trước doanh trại tung ra, một vị hòa thượng hiến đến, vội vàng đi vào.

Hòa thượng trạc hơn bốn mươi tuổi, dung mạo nho nhã, thần sắc như một thư sinh. Hòa thượng đi thẳng đến trước mặt Hốt-tất-Liệt khẽ cúi chào, rồi ghé miệng sát vào tai Vương-tử nói nhỏ một hồi lâu.

Sự thật, hòa thượng vừa vào vốn là người Hán, pháp danh Tử Thông, chính là mưu sĩ của Hốt-tất-Liệt.

Tử-Thông lúc cha mẹ sinh ra đặt tên là Lưu-Khâm, khi còn nhỏ làm viên đại sứ tại một huyện, về sau mới xuất gia đi tu. Theo nhiều người ca tụng thì Tử-Thông hiểu biết rộng, sách nào cũng đã đọc qua, lại rất thâm thúy kinh dịch, có tài thiên văn, giỏi tướng số. Nói chuyện thiên hạ dễ dàng như đọc trên bàn tay, được Hốt-tất-Liệt yêu quý lắm.

Châu-bá-Thông thấy vị Hòa-Thượng đứng cạnh Hốt-tất-Liệt, che khuất Dương-Qua làm Bá-Thông nói chuyện không được với Dương-Qua, nên nói:

- Xin hòa thượng xích sang một bên, để cho lão nói chuyện với chú em. à còn chú tên là gì?

Dương-Qua nói:

- Tôi họ Dương tên Qua.

Bá-Thông vồn vã hỏi tiếp:

- Sư phụ của chú em là ai?

Dương-Qua bình tĩnh nói:

- Sư phụ của tôi là một người đàn bà đẹp tuyệt trần, võ nghệ huyền diệu vô song. Nhưng tên của người tôi không được phép nói cho ai rõ.

Châu-bá-Thông nghe đến người đàn bà đẹp, mồ hôi toát ra như tắm, hồi tưởng lại một người tình cũ là nàng Anh-Cô, Châu-bá-Thông đứng nín lặng hồi lâu, rồi phất tay áo một cái bụi cát bay tung, miệng cười khà khà, nói:

- Ta đi đây...

Hòa-thượng Tử-Thông lễ phép nói:

- Kính xin lão trượng hãy khoan bước. Tài nghệ lão trượng khiến anh em chúng tôi thán phục vô cùng, vậy tiện đây bần tăng kính dâng lão trượng một ly rượu.

Vừa nói Tử-Thông vừa nâng ly rượu cao khỏi đầu.

Châu-bá-Thông cười, nói:

- Tốt lắm, tốt lắm!

Miệng nói tay đốp lấy ly rượu uống tọt vào miệng. Tử-Thông liền nâng ly rượu nữa, nói:

- Đây là ly rượu của vương-gia.

Châu-bá-Thông cũng uống luôn. Tử-Thông toan rót ly khác, thì nghe Châu-bá-Thông kêu lên:

- á, á ta đau bụng, buồn tiểu tiện quá!

Kêu xong ngồi sụp xuống cởi quần "bịch" luôn ra trước mặt quan khách, khiến mọi người ngơ ngác. Châu-bá-Thông nói tiếp:

- Đau bụng quá! Chịu không nổi, chịu không nổi!

Dương-Qua đưa mắt nhìn Tử-Thông, chàng thấy cử chỉ và nét mặt nham hiểm của Tử-Thông, đoán biết trong rượu Tử-Thông có pha chất độc. Nhưng chàng thấy Châu-bá-Thông là người chất phác và đối với chàng rất có cảm tình, nên ý hại Châu-bá-Thông lúc này chàng không còn nữa. Và khi thấy Châu-bá-Thông bị trúng độc, lòng thương hại không nỡ để cho Châu-bá-Thông chết thảm thương, vô lý như thế.

Dương-Qua liền ghé miệng nói nhỏ vào tai Châu-bá-Thông:

- Hãy tóm lấy Hốt-tất-Liệt, buộc hắn phải bắt Tử-Thông mang ngay thuốc giải độc.

Châu-bá-Thông lắc đầu cười hô hố, nói:

- Không phải, tự rượu độc uống có ít quá, nên làm ta sinh đau bụng. Hòa thượng hãy rót nhiều nữa đi cho ta uống.

Cả mọi người lấy làm lạ ngơ ngác nhìn nhau. Còn Tử-Thông lo sợ Châu-bá-Thông trước khi chết sẽ tác uy mạnh, nên nghe Châu-bá-Thông gọi, mà không dám mon men bước đến.

Trông thấy Tử-Thông không rót rượu nữa, Châu-bá-Thông đứng bật dậy. Kim-luân Pháp-Vương sợ Bá-Thông hãm hại Hốt-tất-Liệt, nên phóng mình lại đỡ cho Vương-tử.

Nhưng không! Châu-bá-Thông chỉ vươn tay chợp cả vò rượu, mà Tử-Thông đặt ở góc bàn uống ừng ực. Một lúc vò rượu cạn khô.

Ai nấy đều thất-phách hồn kinh, mặt mày xám ngắt.

Châu-bá-Thông cười khà khà, nói:

- Trong bụng ta đã chứa nhiều chất độc, nên phải lấy độc khử độc. Nói xong ông ta há miệng thật lớn rượu từ trong bụng phụt mạnh ra miệng, thành luồng sáng sắc như hai lưỡi kiếm.

Châu-bá-Thông đã vận khí toàn thân, để đưa rượu ra thành một chưởng khí. Bá-Thông hướng rượu vào phía Tử-Thông. Tử- thông trúng luồng chưởng khí rượu té nhào xuống đất bất tỉnh, Kim-luân Pháp-Vương lẹ tay đưa chiếc bàn sắat che cho Tử-Thông. Luồng rượu làm cho chiếc bàn sắt thủng một lỗ như cái bát.

Châu-bá-Thông lại quay sang phía khác, luồng rượu đập mạnh vào cột gỗ giữa doanh trại. "Rầm" một cái, cột gãy ngang làm đôi, tiếp theo tiếng ào ào, răn rắc, cả tấm bạt da căng doanh trại ngã ầm xuống, úp đè lên đầu Hốt-tất-Liệt, Kim-luân Pháp-Vương cùng bao nhiêu anh hùng hiệp khách trong doanh trại.

Mọi người lại thất thanh, lính quýnh tìm chỗ thoát.

Châu-bá-Thông thấy cả bọn bò lổm ngổm, khoái chí cười hô hố, rồi nhảy lên trên doanh trại chạy đạp lung tung. Không ngờ Kim-luân Pháp-Vương dùng một ngọn cưới phóng lên làm Châu-bá-Thông sơ ý ngã nhào. Kim-luân Pháp-Vương liền cất tiếng cười khanh khách, kêu lớn:

- Thú quá! Thú quá!

Kim-luân Pháp-Vương đưa Hốt-tất-Liệt ra khỏi doanh trại. Hốt-tất-Liệt vẫy tay gọi hơn trăm lính hầu, dựng doanh trại lại để tiếp tục bày tiệc.

Mọi người quay nhìn tứ phía tìm kiếm Châu-bá-Thông, nhưng chỉ thấy bốn bề vắng lặng. Châu-bá-Thông đã cao bay xa chạy mất.

Bọn Kim-luân Pháp-Vương, Tiêu-tương-Tử quá xấu hổ vì sự phòng vệ sơ sót của mình, nên đến trước mặt Hốt-tất-Liệt tạ tội.

Hốt-tất-Liệt vốn là người quảng đại, nên nét mặt chẳng lộ chút gì giận dữ, trái lại còn rất tán thưởng cái trò chơi quái gở của Châu-bá-Thông.

Vương-Tử vui vẻ, nói:

- Tôi rất tiếc là gặp được người hào kiệt tuyệt vời như Châu-bá-Thông, mà mình không đủ sức giữ người ấy ở bên cạnh, thật là uổng!

Sau đó tiệc rượu tiếp tục. Hốt-tất-Liệt đứng lên nghiêm nghị, nói:

- Đại quân Mông-Cổ đánh Tương-Dương nhiều lần, mà không thể hạ được thành chỉ vì đồn Tương-Dương là nơi tụ hội nhiều hào kiệt, anh tài, nay lại có thêm Châu-bá-Thông thì mong gì chiếm được. Chẳng biết chư vị ở đây có kế hoạch gì hay hơn không?

Ni-ma-Tinh quá nóng, không nghĩ ngợi hơn, kém gì cả, liền nói:

- Thưa Vương-tử. Châu-bá-Thông tuy võ nghệ giỏi nhưng bọn ở đây chưa chắc đã kém hắn. Vương-Tử cứ việc lo lệnh tấn công Tương-Dương, có gì là quân đổi quân, tướng đổi tướng, nếu Trung-Nguyên có lắm hiền tài thì Tây-vực ta thiếu chi hào kiệt?

Hốt-tất-Liệt khoan thai giảng giải:

- Lời Ni-ma-Tinh nói cũng đúng, nhưng từ xưa đến nay về chiến trận muốn thắng cần phải nhờ mưu lược. Mà muốn có mưu lược, trước nhất phải biết được địch tình. Nếu bên nào tính giỏi hơn là bên đó thắng.

Tử-Thông cung kính đứng dậy, nói:

- Vương-gia thật là một vị thánh minh.

Tử-Thông vừa dứt lời, thì bên ngoài có tiếng vọng vào:

- Ta đã bảo đừng đi, là đừng đi! Đồ vô dụng!

Mọi người nghe rõ tiếng Châu-bá-Thông, nhưng không hiểu được lý do gì, mà Châu-bá-Thông còn trở lại dùng lời ngạo nghễ.

Hốt-tất-Liệt hối hả, nói:

- Chư vị hãy mau đi tìm Châu-bá-Thông về đây cho ta.

Mọi người đều chạy ra ngoài tìm Châu-bá-Thông, nhìn khắp tứ phía chợt thấy Châu-bá-Thông từ nơi xa tít trên gò bằng phẳng hướng Đông, với bốn người lạ mặt.

Kim-luân Pháp-Vương gọi lớn:

- Chúng ta cùng đến đó.

Kim-luân Pháp-Vương, Ni-ma-Tinh, Tiêu-tương-Tử, Mã-quang-Tổ, và Y-khắc-Tây cùng chạy như bay về hướng bốn người lạ mặt và Châu-bá-Thông. Thấy bốn người kia đều mặc áo màu xanh rườm-rà, cổ lỗ. Trong đó có ba người nam, đội mũ cao lêu nghêu, một người giữa bụng thắt chiếc giải xanh bay phất phới trước gió. Cả bốn người trông rất hiền hậu, trông có vẻ thanh nhã. Một người trong bốn người nói:

- Chúng tôi không muốn làm khó dễ đâu chỉ vì tôn huynh đã đạp bể nồi linh đơn, bẻ gãy linh chi, xé nát đạo thư của thầy chúng tôi, nên chúng tôi muốn mời tôn huynh về cho thầy tôi rõ nếu không chúng tôi sẽ bị rầy la.

Châu-bá-Thông vỗ đùi, cười lớn:

- Mày là thằng quê mùa, xấc láo! Như vậy là mầy không may đã gặp phải tao.

Người kia bình tĩnh trả lời:

- Tôn huynh nhất định không theo chúng tôi sao?

Châu-bá-Thông lắc đầu lia lịa, la lớn:

- Lui ra kẻo toi mạng hết!

Người kia bỗng reo lên:

- A cho mau, chớ bọn họ đến kia rồi!

Chớp mắt, bốn người mặc áo xanh tung ra một cái lưới phủ trùm Châu-bá-Thông vào trong rồi gút lại. Châu-bá-Thông như cọp mắc bẫy, nằm cong queo trong lưới. Bốn người kia hai người khiêng Châu-bá-Thông, còn một nam một nữ theo sau. Họ chạy đi như bay.

Sự biến chuyển không thể nào lường được. Không ai ngờ tài nghệ như Châu-bá-Thông mà bị bắt một cách dễ dàng như thế.

Dương-Qua thấy Châu-bá-Thông vô cớ bị bắt, nên quá thương tâm liền vận lực để khí, tung mình lên cao đuổi theo bọn áo xanh, và gọi lớn:

- Các ngươi đem Châu-bá-Thông đi đâu?

Bọn Pháp-vương cũng nối theo Dương-Qua. Trong nháy mắt đã đuổi theo hơn hai chục dặm đến bờ một dòng suối lớn. Bốn người đưa Châu-bá-Thông xuống thuyền thả dây xuôi dòng. Tức khắc chiếc thuyền đã biết mất dạng.

Ni-ma-Tinh nhảy vọt lên ngọn cây để chạy theo bọn áo xanh. Còn năm người trong bọn, nhảy sang bờ suối về hướng Nam, đoạt một chiếc thuyền vô chủ xuôi theo lối của Ni-ma-Tinh chỉ.

Bốn người áo xanh cho thuyền vào một lạch nhỏ phía Tây. Con lạch nhỏ bị nhiều cây lớn sum sê che lấp mất, phải nhờ Ni-ma-Tinh đi trên đọt cây cao chỉ lối, bọn Dương-Qua mới khám phá được con rạch và gọi đồng bọn đuổi theo. Tất cả đều quay thuyền theo hướng Ni-ma-Tinh hướng dẫn. Chèo đi một khoảng xa thì đá hai bên lỏm chởm, khiến cho lối xuôi thuyền bị nghẹt lần lại. Bầu trời đối với họ chỉ còn là một vệt trắng như lưỡi kiếm.

Mã-quang-Tử kêu lên:

- Hỏng rồi, hỏng rồi! Hết lối chèo rồi!

Mọi người nhìn về hướng trước mũi thuyền, thấy chín mỏm đá trông tựa bức bình phong, đứng sừng sững chận hết lối qua lại.

Tiêu-Tương-Tử liền nói:

- Hoàn cảnh này phải nhờ Mã-quang-Tổ đem thuyền lên mới được.

Mã-quang-Tổ nói: - Tôi làm sao cho có đủ sức lực, mời đại-ca thử xem.

Kim-luân Pháp-Vương đang trầm tĩnh tìm kế đưa thuyền qua, miệng lẩm bẩm:

- Tấm bình phong cao, rộng như thế nầy, làm sao có thể đem thuyền qua được.

Dương-Qua thấy mọi người lo nghĩ, liền nói lớn:

- Quốc sư ơi! Chúng ta cùng họp sức nhấc thuyền qua.

Pháp-Vương mừng quá, nói lớn:

- Hay lắm! Tôi và Tráng-sĩ ở bên nầy, còn ở bên kia do bốn người mau cùng nâng lên!

Mọi người đồng tình đáp ứng lại lời của Pháp-Vương vang dội cả khu rừng. Mười hai cánh tay nâng bổng chiếc thuyền lên, lao qua chín tảng đá. Chỉ nghe tiếng véo thuyền bay lên không trung, cả sáu người đều dùng thuật khinh thân phi theo thuyền, rồi dịu dàng để thuyền xuống nước, như một chiếc lá rụng.

Sáu người ban đầu mới gặp nhau có nhiều điều khích bác tị hiềm nhau, nhưng bây giờ cùng chung sức làm một việc, tự nhiên họ có tình đoàn kết.

Tiêu-tương-Tử ngồi trước mũi thuyền, nói:

- Chuyện trước mặt chúng ta cần thiết nhất là tìm cứu cho được vị cao thủ Châu-bá-Thông mới là giỏi. Còn như hành động chúng ta trước đây không có gì đáng ngợi khen cả.

Ni-ma-Tinh tiếp lời:

- Lời Tiêu đại-ca nói đúng lắm, nếu đem so với bọn áo xanh ban nãy, chúng chỉ có bốn người lại còn đèo thêm một nhân mạng nữa, mà cũng làm nổi việc một cách dễ dàng. Còn chúng ta đến sáu người, nhưng theo không kịp chúng thì chưa đáng gọi là anh tài.

Nghe Ni-ma-Tinh nói mọi người đều lấy làm lạ, chỉ có bốn người mà có thể đem thuyền lại còn khiêng được Châu-bá-Thông nữa thì thật là một hành động kỳ lạ.

Ma-Tinh nói:

- Hay chúng nó ẩn núp đâu đây, chứ bọn nó có bốn người, trong đó lại có một cô gái mới mười bảy, mười tám tuổi, còn đèo thêm một mạng phải khiêng nữa thì tài nào đi mau như thế.

Pháp-Vương cười nói:

- Chớ nên nhìn bề ngoài mà đánh giá tài nghệ. Như Dương-Qua đây với số tuổi chừng ấy trên đầu, ai nhìn thấy bề ngoài có thể biết là kẻ siêu nhân. Nếu không có con mắt tinh đời như Kim-luân Pháp-Vương nầy, chắc khó lòng nhận thấy.

Dương-Qua khiêm tốn nói:

- Tiểu đệ chỉ là một kẻ hậu tiến không đáng kể. Xin chư vị hãy lưu ý đến bọn áo xanh đó, chúng đã bắt Châu-bá-Thông một cách rất dễ dàng, như thò tay lấy một vật trong túi!

Mọi người đã tán thưởng nghệ thuật của Dương-Qua, nhưng nghe chàng nói như vậy, lòng thắc mắc lo nghĩ lại càng tăng gấp bội.

Trong sáu người, chỉ có Dương-Qua là ít tuổi, nhưng tài nghệ được mọi người mến phục nhất.

Pháp-Vương, Mã-quang-Tổ, Ni-ma-Tinh đều là người ở Tây-vực Tiêu-tương-Tử thì chỉ lo luyện tập ở rừng sâu, nên chỉ có một mình Doãn-y-khắc-Tây là hiểu biết rõ các giang hồ, về tông tích lai lịch các võ phái Trung-nguyên. Thế mà Doãn-y-khắc-Tây chỉ vò đầu, không thể tìm ra người con gái trong bọn áo xanh là ai.

Cùng nhau chuyện trò chưa bao xa, thuyền đã đi được một quãng xa, lạch nước đã cùng đường, thuyền hết lối. Sáu người đi sâu tiến vào rừng, vượt qua những hố sâu, đèo cao, băng qua rừng lá rậm rạp. Bỗng trước mặt sáu người hiện ra một con đường hẹp chạy thẳng lên núi.

Cả bọn không chút ngần ngại, vận sức tiến nhanh. Càng đi lên càng thấy cao chót vót, cuối cùng ai nấy đều lạc lối, tựa hồ như ma đưa lối, quỉ dẫn đường cứ quanh co mãi.

Pháp-Vương vốn võ nghệ cao cường, nên cứ vững tâm, không tỏ vẻ sợ sệt. Chỉ có Mã-quang-Tổ võ công chưa đến mức chân truyền nên thở hồng hộc, loạng choạng, vấp ngã như người say rượu, nhờ có Ni-ma-Tinh dìu đi, mới khỏi lao đầu xuống vực thẳm.

Mã-quang-Tổ trong lòng quá thẹn. Gặp việc gian nan, nguy hiểm mới biết sức vóc mình chả thấm vào đâu.

Quanh quẩn một lúc, bóng chiều đã tắt. Màn đêm bắt đầu hiện xuống núi rừng, bọn áo xanh vẫn biệt tăm biệt dạng.

Mọi người đang lo ngại, thì chợt đàng xa có ánh lửa lập lòe làm cả bọn mừng rỡ, nghĩ thầm:

- Trong rừng sâu núi thảm thế này mà có người ở cũng lạ, nếu quả là bọn áo xanh thì chắc chúng là ma mị lắm đấy.

Kim-luân Pháp-Vương chăm chú nhìn về hướng ánh lửa, nói:

- Anh em, hãy vận khinh công tiến nhanh đến đó xem thế nào?

Trong chớp mắt họ đã bay đến bốn đống lửa. Mã-quang-Tổ vì đuối sức phải lểnh mểnh theo sau.

Lúc đến nơi, thấy một khoảng đất trồng. Trên đỉnh núi chỉ có bốn đống lửa đỏ rực, giữa mỗi đống lại có một ngôi nhà bằng đá.

Ni-ma-Tinh đã từng học đạo "Du già" ở Tây-Trúc nên thấy lửa không chút gì e sợ, liền vận sức phóng mạnh vào đống lửa, tông mạnh cánh cửa đá của tòa nhà phía Đông.

Cửa mở toang! bên trong vắng vẻ! Giữa nhà một thanh niên hai tay chắp lại, nét mặt đượm vẻ u buồn. Ni-ma-Tinh lấy làm lạ, không hiểu người nầy ngồi chịu cực hình gì đây, hay luyện nội công?

Ni-ma-Tinh bước lại nhìn kỹ, thấy những dây sắt quấn kín hai chân của người thanh niên chừng hai mươi lăm tuổi.

Ni-ma-Tinh lần lượt đi sang nhà thứ hai, thứ ba, thứ tư: người nào cũng đều có chung một cảnh tượng như vậy.

Duy có nhà thứ tư, người ngồi chịu cực hình lại là một cô gái chừng mười bảy mười tám tuổi. Đúng là bọn bắt Châu-bá-Thông. Nhưng Châu-bá-Thông hiện ở đâu?

Năm người trong bọn cùng nối gót theo Ni-ma-Tinh, đi luôn vào các gian nhà đá, nhưng không thấy Châu-bá-Thông. Họ chỉ thấy những thanh niên ngồi trong đống lửa đỏ hừng hực cháy, ai nấy đều tỏ vẻ thương hại, sợ những người thanh niên ấy cháy thành than.

Dương-Qua tính từ xưa nay, làm một việc không cần biết đến hậu quả. Nay lòng lại chất chứa mối tình sầu nên không dè dặt trong mỗi hành động nữa. Chàng đi qua nhà đá nhìn mặt ba gã thanh niên không tỏ vẻ gì thương hại. Nhưng đến nhà đá thứ tư, chàng thấy một thiếu nữ yêu kiều lộng lẫy, bỗng thở một hơi dài não ruột. Chàng phóng mình nhảy lên một cây cao gần đó bẻ mấy cành lá đập đống lửa đang cháy xung quanh thiếu nữ áo xanh. Giữa lúc đập túi bụi thì Mã-quang-Tổ vừa đến nơi, cũng lăng xăng giựt các cành lá đập giúp. Tức khắc đống lửa tắt ngóm.

Đập xong đống lửa thứ nhứt, Dương-Qua toan bước sang đập đống lửa khác, chợt nghe thiếu nữ lảnh lót nói:

- Xin quý khách hãy dừng tay, để chúng tôi khỏi bị trách phạt.

Dương-Qua nghe nói, ngạc nhiên nhìn. Chàng định cất tiếng hỏi lại, thì có một người nói vọng ra giọng sang sảng:

Động chúa ra lệnh cho các đệ tử biết nếu có viễn khách đến thì hình phạt ngưng, bốn trò hãy tiếp đón viễn khách cho ân cần.

Thiếu nữ áo xanh dịu dàng nói:

- Xin đa tạ động chúa.

Người kia truyền lệnh xong, liền tung mình lộn tròn như quả bóng, nhào qua các đống lửa, dùng chìa khóa mở trói cho bốn người áo xanh.

Dương-Qua định thần, nhìn thấy người này mặc áo màu xám khác với ba chàng áo xanh và cô thiếu nữ đang bị hành hạ.

Hình phạt được hoãn lại, bốn người áo xanh chắp tay chào khách, nói:

Chúng tôi xin mừng viễn khách, và mời viễn khách tạm ngồi nơi nệm cỏ nghỉ, vì trong nhà bị đốt lửa nóng không được vào.

Xin cứ an lòng, anh em chúng tôi thấy lửa nóng càng thích.

Ni-ma-Tinh miệng nói chân đi thẳng vào trong ngôi nhà đá nóng bỏng ấy, ngồi chễm trệ trên chiếc ghế đá tròn, nhìn ra các bạn đồng hành cười sằng sặc, tỏ ý thích chí lắm:

Tiêu-tương-Tử không chịu được cũng hô vài tiếng rồi bước thẳng vào nhà, Doãn-y-khắc-Tây cười nói:

- Xin các anh chớ lo đến tôi, đối với lửa tôi đã từng tự thiêu nhiều lần rồi.

Kim-luân Pháp-Vương thấy vậy sợ mất uy quyền quốc sư, nên cũng bay tọt vào.

Còn Mã-quang-Tổ lểnh mểnh vừa đến nơi, hơi nóng tạt ra cháy tóc khét nghẹt, đành ôm đầu lui ra, nói vài câu đỡ gượng:

- Ôi Mã-quang-Tồ này xin chịu thua quí huynh.

Nói xong, chàng tập tễnh trèo lên cây bẻ cành đậy lửa.

Dương-Qua vừa bước vào chợt nghe tiếng trêu cợt:

- Nếu quí khách có sợ nóng xin mời lên cây.

Nàng vừa nói vừa cười trong trẻo khiến cho Dương-Qua lính quýnh.

Từ lúc Dương-Qua đập tắt lửa, lòng thiếu nữ áo xanh đã thấy cảm mến Dương-Qua. Vì chàng đã tỏ lòng lo sợ cho nàng. Bây giờ thâm tâm nàng cũng sợ Dương-Qua bị nóng. Chẳng ngờ Dương-Qua không tỏ vẻ gì sợ sệt, bình tĩnh bước vào nhà, khiến nàng quá cảm phục.

Một người thanh niên trong bọn áo xanh nói:

- Chính tôi không dám đường đột hỏi quí tinh cao danh!

Doãn-y-khắc-Tây chưa nghe hết câu đã hấp tấp nói:

- Tôi chính là người Hồ nước Ba-Tư, tên là Doãn-y-khắc-Tây. Ngoài việc ăn chơi hàng ngày, chỉ còn biết nghề buôn ngọc quí. Còn về phần võ nghệ tôi không dám sánh với anh em tôi.

Người áo xanh đáp:

- Chúng tôi ở nơi hang sâu núi thẳm, hầu như xa cách hẳn với nhân thế, nên không có lúc nào được tiếp đón với bạn hữu đông vui như thế này. Chẳng hay quí khách đến đây có điều chỉ dạy bảo.

Doãn-y-khắc-Tây cười nói:

- Anh em chúng tôi đến đây với mục đích tìm lão Ngoan-Đồng Châu-bá-Thông, chẳng ngờ gặp nhiều chuyện kỳ quái thế này.

Hai người chủ khách say sưa chuyện trò, thì khí nóng trong tòa nhà mỗi lúc một tăng. Tiêu-tương-Tử, Ni-ma-Tinh, vì phải vận hết sức nội công để chống lại áp độ của nhiệt khí, đến nổi phải quỳ gối xuống.

Doãn-y-khắc-Tây lúc nầy thở hổn hển, miệng khô như đốt, đôi mắt nhắm lại. Trong lúc đó bọn áo xanh vẫn tươi cười vui vẻ như ngồi trong gió mát, và tiếp tục hỏi Doãn-y-khắc-Tây:

- Thế thì quý vị là kẻ cùng môn phái với lão sao?

Doãn-y-khắc-Tây mệt quá cố sức đáp lời nhưng không đáp được hết câu:

- Chúng... tôi... với...!

Tuy Kim-luân Pháp-Vương cố giữ được vẻ đĩnh đạc, nhưng thật ra đã quá sức mệt. Ông ta thầm trách Ni-ma-Tinh tài nghệ tu luyện chưa được đến bao nhiêu, mà phách lối đưa cả bọn vào thế khó xử.

Pháp-Vương bực quá đưa mắt nhìn Ni-ma-Tinh, té ra Ni-ma-Tinh đôi mắt đã nhắm nghiền, miệng thở phì phào.

Riêng Dương-Qua vì trước đây, đã nằm liền mấy năm trên Hàn-ngọc-Sàn, nên đã có phép điều tiết nóng lạnh trong khi gặp nóng đến mức nào, chàng cũng chẳng cần phải vận nội công, cho nên cả bọn đều mệt nhừ mà Dương-Qua vẫn như thường.

Người áo xanh nói:

- Lão ta quá lắm, đã đến tận đây phá phách.

Dương-Qua nói:

- Có phá phách gì nhiều không? Tôi nghe hình như tôn chủ đây trách ông ta đốt sách, đập bể cái gì đó?

Ngay từ lúc đầu thấy sự bình thản của Dương-Qua trong nóng bức, ai nấy đều khen ngợi, giờ lại thấy chàng nói rất thản nhiên âm thanh không hề bị xao động tí nào, nên mọi người càng khâm phục hơn.

Người áo xanh nói tiếp:

- Mấy hôm trước, lão ta đến đây giả điên giả cuồng, trêu chọc đủ điều, rồi lại đá bể nổi thuốc linh đơn của thầy chúng tôi.

Thiếu nữ áo xanh cũng xen vào:

- Không phải như thế thôi đâu! Lão nghịch đó còn đạp rụi mất hai cây lan thảo thần nữa chứ!

Dương-Qua lắc đầu có vẻ than phiền nói:

- Cái lão Ngoan-Đồng đó quấy phá! Lan thảo thần phải trồng mất đến bốn trăm năm mà lão nỡ đưa chân ra đạp rụi như thế!

Đoạn Dương-Qua nói sang chuyện khác:

- à! Thật chúng tôi quá sơ suất. Vào nhà người mà quên hỏi danh tánh chủ nhân. Vậy tiện đây xin cho biết đại danh của quí nương.

Thiếu nữ đôi má ửng hồng, ngập ngượng muốn đáp, nhưng một người áo xanh rước lời:

- Điều ấy rất khó lòng, vì chúng tôi chưa được thầy cho phép xưng danh. Mong quí khách tha thứ cho!

Dương-Qua ngẫm nghĩ:

- Bọn nầy là ai mà cố ý ẩn dật, không muốn xưng tên cho ai biết. Nếu như thế cũng không có gì lạ lắm.

Chàng liền hỏi:

- Vậy bây giờ thân phận của Châu-bá-Thông ra sao rồi?

Câu chuyện đang hỏi han, lễ nghĩa thì Doãn-y-khắc-Tây lại hét lên, rồi hổn hển chạy ra ngoài, vì hắn không thể chịu nổi sức nóng quá cao trong nhà đá ấy nữa.

Người áo xanh thứ ba vẫn tự nhiên, như không lưu ý đến tiếng hét của Khắc-Tây, chỉ theo dõi lời nói của Dương-Qua, rồi đáp:

- Châu-bá-Thông còn phải chịu thêm một tội lớn nữa là đã đốt nhiều sách quý trong động, làm cho sư phụ và các huynh trưởng chúng tôi quá giận đuổi theo đánh, nhưng lão đã cao bay xa chạy, trốn mất rồi, nên sư-phụ chúng tôi tức giận lão lắm!

Người áo xanh nói chưa dứt lời, đã nghe tiếng hét của Tiêu-tương-Tử. Tiêu-tương-Tử không chịu nổi nên phải chạy ra ngoài.

Dương-Qua tiếp lời người áo xanh nói:

- Châu-bá-Thông võ nghệ siêu quần, hành động cổ quái, khó mà bắt lão lắm!

Bọn áo xanh rất thích nói chuyện với Dương-Qua, vì chàng với bọn áo xanh như cùng một lứa tuổi, và chàng cũng chịu nóng như họ.

Trong lúc Dương-Qua và bọn áo xanh đang nói chuyện về Châu-bá-Thông, dùng tài thuật kỳ quái chống lại với động-chúa, thì Kim-luân Pháp-Vương bỗng gọi lớn:

- Dương tráng-sĩ mau mau ra khỏi nơi nầy. Nhiệt độ nầy sẽ làm hại đến sức khỏe không ít. Chớ nên ở lại nữa.

Nói xong, Pháp-Vương thu mình lại như cánh cung, vọt ra ngoài như một vệt khói.

Thiếu nữ thấy đồng bọn Dương-Qua lần lần thoát ra ngoài hết, nàng hơi e thẹn nói:

- Thưa tôn khách, các bạn của tôn khách đã ra ngoài hết cả. Xin tôn khách chớ lưu lại nơi nầy, hãy ra bóng mát nghỉ ngơi cho đỡ mệt.

Dương-Qua quá bối rối, cúi đầu đáp:

- Đa tạ cô nương.

Dương-Qua quay sang phía Ni-ma-Tinh gọi:

- Ni-ma-Tinh! Thôi chúng mình đi ra.

Ni-ma-Tinh từ lâu vẫn nhắm nghiền đôi mắt, tham thiền nhập định không còn nghe ai nói chi nữa. Dương-Qua thấy vậy bước lại vỗ vào vai, thì lão lùi đã ngã ngửa ra như pho tượng gỗ. Chàng thất kinh vội ôm xốc Ni-ma-Tinh lên.

Người áo xanh nói:

- Sức nóng đã làm ông lão choáng váng, hôn mê rồi. Vậy tôn khách hãy mang ra nơi có không khí mát mẻ, hòa diệu là lão tỉnh lại.

Dương-Qua bồng Ni-ma-Tinh, vận sức nhảy vọt ra khỏi tòa nhà quái dị đó.

Cả bọn áo xanh trông thấy đều tỏ lời thán phục Dương-Qua không ngớt.

Một người áo xanh nói:

- Bốn anh em mình ở đây chưa gặp người nào võ công như người nầy.

Một người áo xanh nữa nói tiếp:

- Nội công của Dương-Qua chắc không kém gì nội công của sư-mẫu chúng ta.

Dương-Qua nghe nói sư mẫu, liền hỏi lại:

- Sư-mẫu của chư vị là ai thế?

Ba người áo xanh thấy bọn mình lỡ lời nhắc đến chuyện kín, trố mắt nhìn nhau sợ hãi.

Tiếp đó cả bọn cố tìm cách nói sang chuyện khác để cho Dương-Qua quên mất hai tiếng sư mẫu. Một người áo xanh cung kính nói:

- Chắc quý khách từ phương xa đến chưa dùng bữa, vậy tiện đây mới chư vị sang phòng bên này dùng cơm thường với anh em chúng tôi.

Mã-quang-Tổ đang đói, nghe nói đến ăn uống lòng mừng khấp khởi, đôi mắt sáng lên.

- Quý chủ có lòng tốt đối với chúng tôi quá!

Ni-ma-Tinh ra ngoài gió mát tỉnh lại, bụng cảm thấy nhột nhạt, xốn xang như kiến bò. Chợt nghe bọn áo xanh mời ăn, vội đứng dậy tay đấm vào lưng thụi thụi, chân bước theo hướng chỉ của chủ nhân.

Nơi ăn cũng là một tòa nhà bằng đá, bên trong bày biện rất sơ sài. Trên bàn ăn toàn là một màu xanh, gồm đủ các thứ rau không có món xào, món mặn nào lộn vào.

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 45 : Thiếu nữ áo xanh

Mã-quang-Tổ vào mâm cơm không có thịt, cá chi cả, mặt này buồn xo.

Người áo xanh thứ nhất nói:

- Chúng tôi ở đây chỉ ăn chay trường, nên không có trữ sẵn thịt, cá mong chư vị lượng tình.

Mã-quang-Tổ lẩm bẩm nói:

- Sợ lửa hay sao mà phải ăn rau sống như vậy? Nếu sợ lửa thì việc gì ban nãy lại đốt lửa dữ như thế.

Người áo xanh thứ hai mỉm cười nói nhỏ:

- Sở dĩ đốt lửa như vậy, chính là một cực hình để sư phụ phạt chúng tôi.

Người áo xanh thứ ba lễ phép mời:

- Xin chư vị dùng bữa!

Miệng nói tay cầm một chiếc bình rót vào chén mỗi vị khách. Mã-quang-Tổ tưởng rượu nhưng không thấy hơi rượu, lại càng chán ngán nghĩ bụng:

- Đã không cá, thịt bây giờ rượu cũng không hơi, chủ nhân gì mà hà tiện như vậy.

Người áo xanh thứ nhất thấy vẻ mặt của Mã-quang-Tổ lộ vẻ bất bình, nên nhỏ nhẹ hỏi:

- Thưa chư vị! ở đây chỉ dùng có thanh thủy, chớ tuyệt đối không được dùng rượu. Đó là phép tắc của tiên tổ từ mấy trăm năm về trước. Xin quý khách cảm phiền cho.

Thiếu nữ áo xanh nói tiếp:

- Anh em chúng tôi ở đây không bao giờ được nói đến tiếng rượu, chứ đừng nói đến việc uống rượu nữa. Vì rượu sẽ làm cho tính tình con người bấn loạn, sanh ra cuồng nhiệt không tốt.

Bọn Kim-luân Pháp-Vương đều là những tay giang hồ, phóng đãng đã quen, nay thấy bọn áo xanh tuổi còn măng trẻ, mà miệng ít nở những nụ cười tự do, thái độ quá câu nệ, lễ độ quá cổ kính, nên ông ta cũng không dám nói nhiều.

Bữa cơm qua một lúc yên lặng. Món ăn toàn là hoa quả, rau dưa không được ngon miệng, nên cả bọn ăn qua loa cho rồi. Riêng Mã-quang-Tổ tuy chê thiếu thịt, rượu nhưng ăn hơn hai chục chén mà vẫn nghe chưa thấm vào đâu.

Ăn cơm xong, Mã-quang-Tổ ghé mồm nói nhỏ với đồng bọn:

- Chúng ta nên thừa lúc trời tối mát mẻ trở về nhà!

Nhưng năm người kia không đồng ý, vì người nào cũng muốn lưu lại để xem xét những bí mật trong động nầy.

Doãn-y-khắc-Tây nói:

- Mã-huynh ơi, lẽ nào chúng ta lại bỏ về thình lình quá như vầy đâu có được. Cần phải yết kiến động chúa đã.

Mã-quang-Tổ cằn nhằn:

Ăn không được bao nhiêu cơm, còn đói quá, có thịt rượu gì nữa mà ở nán lại.

Tiêu-tương-Tử nghiêm nghị nói với Quang-Tổ:

- Sao anh nhỏ mọn quá vậy? Anh không sợ người ta cười hay sao?

Quang-Tổ vì sợ cái "thây ma" của Tiêu-tương-Tử nên làm thinh.

Đêm khuya mọi người chưa gặp được chúa động, tất cả ra nằm trên phiến đá lớn lạnh buốt cả lưng. Nhìn cảnh đìu hiu cô tịch của núi rừng, ai cũng có ý lạ chẳng hiểu bọn nầy là ai, tuổi còn trẻ mà đã xa lánh nhân thế!

Ni-ma-Tinh cất tiếng hỏi:

- Kim-Luân tiên sinh! Ngài là người hiểu rộng biết xa, bây giờ ngài dạy chúng tôi thế nào, để đối phó với chủ bang. Theo ngài thì chúa động là người hiền hay ác? Ngày mai chúng ta gặp chúa động phải đối đãi thế nào? Thân thiện hay chống đối.

Kim-luân Pháp-Vương nói:

- Chưa thấy mặt người ta mà biết thế nào được? Ngày mai chúng mình sẽ tùy cơ ứng biến!

Doãn-y-khắc-Tây nói nhỏ:

- Bốn đứa học trò của hắn, mà đã giỏi giang như vậy, huống hồ là sư phụ. Vậy ngày mai chúng mình phải hết sức thận trọng đừng để mắc mưu bọn nầy, bỏ mạng nơi đây thì thật là uổng đời. Doãn-y-khắc-Tây bề ngoài tuy có vẻ sợ sệt, nhưng trong thâm tâm có nhiều mưu mẹo, rất chín chắn.

Mã-quang-Tổ thì đang mải tưởng tượng đến thịt, rượu, không muốn nói gì.

Dương-Qua nhìn nét mặt buồn rười rượi của Quang-Tổ, vỗ vai nói đùa:

- Này Mã-huynh! Ngày mai nên trổ hết tài lực đối phó với bọn chúng, chứ không để bọn chúng bắt nhốt chúng ta vào cho ăn lối nầy thì nguy lắm đấy!

Mã-quang-Tổ nghe nói đến chuyện bắt nhốt cho ăn rau muối thì thất kinh, nói cuống cuồng:

- Dạ dạ tôi nghe lời Dương-huynh!

Đêm đã khuya, nhưng mọi người ái ngại lo nghĩ khó ngủ được. Riêng có Mã-quang-Tổ vô tư, chỉ chốc lát đã ngáy như sấm rền.

Dương-Qua rón rén ngồi dậy, lặng lẽ đi ra ngoài vườn, đứng ngắm trời đất. Đêm khuya canh vắng, bốn bề mờ mịt, lá hoa trên cây tỏa ra một mùi thơm ngát, dưới vòm trời đầy sao.

Chàng mải mê, lững thững ngắm cảnh, nhìn theo những cánh hoa trắng phau bay tung theo luồng gió lạnh của đêm khuya, như cơn mưa nặng hạt, chợt thấy xa xa phía trước có một bóng người lả lướt đi tới.

Dương-Qua liền tiến đến thì thấy thiếu nữ áo xanh, đang hái hoa miệng hát nho nhỏ.

Gặp Dương-Qua thiếu nữ bẽn lẽn cúi chào:

- Quý khách không ngủ được ư? Có việc gì mà quí khách lo lắng?

Nàng nói xong có vẻ luống cuống bứt vội hai búp hoa đưa cho Dương-Qua để đỡ ngượng.

Dương-Qua đưa tay nâng hoa, lòng ngây ngất. Chàng bâng khuâng nói:

- Hoa ăn chắc ngon lắm phải không nương nương?

Nàng thẹn thùng nói trống:

- Dạ, ăn được.

Rồi nàng lặng lẽ, đưa mấy ngón tay búp măng uyển chuyển bẻ từng cánh hoa, đưa lên ăn. Mùi hoa làm dịu cả không gian.

Dương-Qua cũng bắt chước nàng đưa hoa lên miệng ăn ngon lành.

Mới đầu chàng nhai thì nghe ngọt dịu, sau dần nuốt vào thấy đắng đắng, chát chát. Nhưng trước mặt mỹ nhân, dầu có đắng chát thế nào cũng cố nuốt đi cho xong. Chàng chăm chú nhìn thì thấy đây là một thứ hoa rất lạ, cành đều có hoa nhọn hoắc, lá to hơn lá hồng, còn hoa thì tuyệt đẹp, đẹp hơn cả hoa hồng là chúa của loài hoa nữa.

Dương-Qua liền hỏi:

- Nương nương! Hoa nầy là hoa gì thế? Tôi chưa từng thấy bao giờ?

Cô gái mỉm cười đáp:

- Thưa quý khách đây là hoa "Tình hoa". Chốn nhân gian rất hiếm. Chẳng hay quí khách có ưa mùi vị nó không?

Dương-Qua đáp:

- Mới ăn thì ngọt, sau lại đắng.

Nói rồi chàng đưa tay ngắt một hoa thấy cây có gai, chàng hái cẩn thận. Nào ngờ không tránh khỏi, vì dưới cánh hoa lại còn có gai nhọn nữa. Chàng mới để tay vào thì một mũi nhọn đã đâm vào tay chàng rớm máu.

Thiếu nữ áo xanh nói:

- Tôi nghe thầy tôi thường nói: "Thứ "Tình hoa" này rất ưa máu người. Chắc mấy giọt máu của quí khách sẽ làm cho hoa nở thêm diễm kiều. Còn động này tục gọi là động "Tuyệt tình".

Dương-Qua cười nói:

- Là động "Tuyệt tình" mà ở đây lại có nhiều bông "tình hoa" kể cũng kỳ lạ, phải không nương nương!

Hai người mải mê trò chuyện, bước thong dong trên nệm cỏ vai sát vai lúc nào không hay.

Dương-Qua say sưa nói:

- Trong chốn u tịch này lại có cái động gọi là "Tuyệt tình cốc" nghe thoát tục quá nhỉ!

Thiếu nữ lắc đầu nói:

- Thưa tôn khách, tôi không hiểu tại sao lại gọi như thế. Chỉ có thầy tôi mới rõ lai lịch tên ấy.

Vườn hoa càng khuya càng tiết hương thơm ngào ngạt, cả bầu trời lung linh,

thỉnh thoảng có cơn gió thổi qua, những đám cây xạc xào như những tiếng thì

thầm của đôi trai gái đang sánh vai bước nhẹ trong chốn"tuyệt tình".

Dương Qua miệng ko ngớt chuyện trò, nhưng đầu óc vẫn quay cuồng trong

mộng ảo.

-Đáng yêu lắm!Đáng yêu biết là bao! Nếu ta có ng yêu bên cạnh, cùng đi

với nhau tay trong tay, ta sẽ thề cho đến trăm năm đầu bạc ko rời nàng nữa.

Bỗng nhiên chàng cảm thấy dau nhói và buốt tới xương sống và bị cành gai

vừa chích. Chàng khẽ kêu:

-ối chao!

Rồi đưa tay lên miệng, cắn chặt lấy vết gai đâm.

Thiếu nữ áo xanh vẫn điềm nhiên cười duyên dáng nói:

-Tại tôn khách mơ tới ý trung nhân.

Dương Qua thấy nàng đoán đúng tâm sự của chàng, hai tai nóng bừng lên,

chàng nói:

-Làm sao cô nương biết?

Thiếu nữ phá lên cười sang sảng nói:

-Tôn khách ko biết đó? Phàn đã bị gai của "Tình hoa" châm vào thì tuyệt

đối cấm tương tư trong ba ngày. Nếu trong vòng ba ngày ấy mà nghĩ đến tình

nhân thì tay sẽ bị đau buốt ko chịu nỗi.

Dương Qua nghe nói lạ liền hỏi:

-Lại có thứ gai kỳ dị đến thế ư?

Thiếu nữ đáp:

-Thưa tôn khasck! Đúng như vậy! Thầy tôi có dạy"Tình Hoa" có gai độc thế!

Mới ăn thì ngọt dịu, nhưng sau đắng cay, toàn thân như bị gai châm đau buốt.

Dù với tình nào, dầu có đề phòng đến đâu đi nữa cũng khó lòng tránh khỏi

thương đau. Bởi vậy nên thứ hoa này mới đặt tên "tình hoa"

Dương Qua nói:

-Như thế tức tôi ko được nghĩ đến ng yêu của tôi trong ba ngày hay sao?

Khổ lòng tôi lắm! Tôi chịu thôi!..

Chàng nói một hơi dài, trong lúc thiếu nữ nhìn chàng với đôi mắt đen lay

láy. Mặt chàng ngơ ngác như ng mê mới tỉnh, hổ thẹn vì đã lỡ lời bày tỏ tâm

hồn mình trước ng đẹp. Thiếu nữ vẫn tự nhiên kể tiếp:

-Thầy tôi bảo gai của tình hoa độc lắm! Ai bị nó châm phải nén lòng đừng

nghĩ đến tình yêu, để cho tình thần được vô tư thì ko sao, bằng để dục vọng

nổi lên, là chất độc sẽ biến theo chất máu làm cho toàn thân nhức nhối. Dương

Qua nửa tin nửa ngờ. Phút chốc thái dương chói loà ánh bình minh rực rỡ.

Chàng nhìn lại cây tình hoa, thấy hoa đã kết thành quả, lòng rất ngạc nhiên.

Tại sao mới thấy trong chốc lát đã trở thành quả? Còn hoa thì đẹp thế kia,

bây giờ quả nó xấu xí như vậy. Màu xanh, màu đỏ, màu đen lẫn lộn, lại có lông

tua tủa. Dương Qua nói:

-Sao hoa đẹp đến thế kia mà quả xấu như thế? Chắc ăn ko được hả cô nương?

Thiếu nữ đáp:

-Thưa tôn khách, quả ko ăn được, vì nó vừa chua, vừa chát vừa hôi.

Dương Qua cười nói:

-Không có thứ quả nào ăn được hả cô nương?

Thiếu nữ áo xanh đáp:

-Cũng có quả rất ngọt, rất bùi, nhưng rất khó chọn, bở chúng ta chỉ trông

thấy bề ngoài của quả, nên ko biết được. Có nhiều quả ngoài đẹp nhưng ăn lại

đắng. Có quả xấu xí mà ăn lại ngon ngọt.

Dương Qua thầm nghĩ:

Loài hoa mà cũng hàm ý của đời! Trời ơi! Tình hoa mà cũng hàm chứa đủ mùi

như vậy! Mùi vị ái tình ban đầu thì trước ngọt sau cay, như hai kẻ yêu nhau

rồi khi xa cách cũng đau khổ biết chừng nào. Trời ơi! Ta cũng sẽ như tình

hoa? Hỡi những ng yêu của ta! Tương lai rồi đây sẽ ra sao?

Chàng thầm than thở như vậy, lại càng tưởng nhớ đến Tiểu long Nữ. Đột

nhiên ngón tay chàng nổi lên đau buốt đến xương, làm cho cánh tay như rồi rã.

Bây giờ chàng mới tin lời thiếu nữ áo xanh nói là đúng. Thiếu nữ nhìn thấy

mặt Dương Qua cảm thấy thương xót, nhoẻn một nụ cười an ủi! ánh nắng ban mai

chiếu lên gò má nàng đỏ hây hây. Đôi làn mi thanh nhã làm sao! Bao nhiêu nét

thanh nhã ấy cũng đủ gợi cho nàng một nhan sắc lộng lẫy. Dương Qua ngây ngất

nói:

-Ngày xưa vua U Vương đời Chu mất nước chỉ để đổi lấy một nụ cười của Bao

Tự. Nay được thấy nụ cười của cô nương thì bị đau khổ là phải.

Nàng nhìn chàn cố nhịn cười, nhưng tiếng cười vẫn thốt ra trên đôi môi đỏ

mọng như gieo vào cảnh núi rừng một tiếng ngọc thanh tao. Từ trước, Dương Qua

tưởng nàng lạnh nhạt với tình, cho nên chàng rất e dè. Nay thấy nàng cười nói

thân mật quá, khiến tâm tình ko ngăn cách nữa. Chàng mừng rỡ tiếp lời: -Người

đời cho nụ cười nghiêng nước nghiêng thành. Nhưng tôi cho rằng nụ cười của

nương nương còn khó kiếm hơn.

Thiếu nữ áo xanh nghe nói quá thẹn thùng. Nét mặt ngây thơ đôi mắt lay

láy như hai viên ngọc quý, nàng mỉm cười nói:

-Tôi khách nói nụ cười nghiêng nước nghiên thành là thế nào?

Dương Qua vui vẻ nói:

-Đó là nụ cười mà có thể làm cho ng say mê đắm đuối, quên cả sự nghiệp to

tát, chỉ mong được theo nuông chiều mỹ nhân.

Thiếu nữ nghe Dương Qua nói vui vẻ quá nên cười khúc khich mãi. Dương Qua

được trổ tài du thuyết.

-Cũng như tôi muốn được mỹ nhân thân mật trao đổi nụ cười tươi tắn thì

cũng hải quên mình chịu đau đớn vì thứ gai "tình hoa"

Thiếu nữ áo xanh thỏ thẻ:

-Thưa tôn khách, tôi đâu phải là một mỹ nhân, vì chưa một ai ở đây khen

tôi đẹp. Vậy tôi xin tôn khách đừng nhọc lòng nghĩ đến tiếng cười của tôi.

Dương Qua thở dài nói:

-Không hiểu ai đã đặt tên chốn này là động "Tuyệt tình".Theo ý tôi muốn

đặt tên khác mới phải.

Thiếu nữ nói: - Tôn khách muốn gọi động này là gì?

Dương Qua đáp: - Nên gọi là động "mù".

Thiếu nữ nhìn Dương Qua hỏi lớn: -Sao vậy?

Dương Qua bình tỉnh nói:

-Tại vì kẻ nào ko biết Tây thi đẹp đều coi là mù.. Cũng như ở đây ko ai

khen nương nương là đẹp, thì bọn ng ở đây đều mù mắt hết cả.

Thiếu nữ áo xanh cười dòn. Dung mạo nàng nếu đem so với Tiểu long Nữ thì

chưa bằng. So với vẻ ẻo lả của Trình Anh thì còn thua sút, so với kẻ sắc nước

hương trời như Lục vô Song thì chưa phải là đối thủ. Nhưng thiếu nữ áo xanh

có điểm đặc sắc là vẻ đẹp thoát tục với dáng điệu thanh lịch siêu phàm, nực

mùi tiên phong đạo cốt. Nàng lớn lên ở đây chưa hề được ai ca tụng đến nhan

sắc nàng mà chỉ có lời răn dạy phải tiết dục gần như kẻ tu hành. Cho nên

những ng sống chung với nàng ở đây cũng đều theo một giáo lý như những kẻ nhà

tu trong một tu viện. Họ chỉ nhìn nhau với vẻ tự nhiên, ko hề biết rung cảm.

Có đôi lúc lòng họ trở về trần tục nhưng họ cũng chẳng hé môi. Nay gặp Dương

Qua ca tụng đủ điều làm cho nàng thấy hứng thú quá! Con ng của Dương Qua vốn

là con ng linh nghiệm chốn nhân gian, gần gũi với tình đời, cho nên những lời

ca tụng của chàng rất thần tình. Chàng lại có một dáng điệu của một thiếu

niên phong nhã, khiến cho thiếu nữ áo xanh cảm thấy trong lòng hoan hỉ lạ

thường.

Dương Qua thấy nét mặt đoan trang nghiêm chỉnh của nàng, cũng muốn tìm

hiểu tâ lý, vì đâu đã xa cách với nhân thế!

Thiếu nữ nghiêm trang nói:

-Tôi chỉ sợ tôn khách mắt ko được sáng, trước ng xấu xí tưởng là mỷ nhân.

Dương Qua nói: - Tôi tin chắc ko lầm! Rồi đây cô nương sẽ thấy! Động này

tuy yên tĩnh, nhưng khi có nụ cười cô nương, thì trước sau cũng phải nổi

phong ba bão táp, cảnh yên lành ko thể tồn tại được nữa.

Đôi mắt ngọc tròn xoe, thiếu nữ tỏ vẻ lạnh lùng hỏi:

-Tại sao như vậy hả tôn khách?

Dương Qua bình tỉnh giảng giải:

-Xưa nay sắc đẹp đã làm nghiêng thành đổ nước, thì sắc đẹp của cô nương

cũng phải làm nghiêng ngửa động này chứ sao?

Thiếu nữ cười ngặt nghẹo nói:

-Xin đa tạ tôn khách đã quá khen! Tôi chẳng dám nghĩ đến đại hoạ như thế.

Dương Qua say sưa nhìn những nét uyển chuyển trên thân nàng! Chao ôi! sao

mà kiều diễm như thế. Chàng tưởng tượng kẻ nào chiếm được tấm thân ngà ngọc

ấy thì hạnh phúc biết chừng nào? Lòng chàng rào rạt tình yêu dâng lên!Tay

chàng bỗng đau buốt tận xương khiến chàng buột mồm kêu:

-ối chao! Đau quá.

Nghe tiếng kêu đau, nàng tỏ ý hờn giận nói:

-Tôn khách hình như ko muốn nói chuyện với tôi nữa là phải? Tôn khách

đang nghĩ mãi đến tâm tình cùng kẻ khác kia mà!

Dương Qua tỏ lời thanh minh:

-Oan uổng cho tôi quá cô nương ơi! Cái cơn đau vừa rồi chính là tại cô

nương đấy!

Thiếu nữ mặt ửng hồng, sung sướng chạy vút đi.

Dương Qua đứng một mình bâng khuâng ngơ ngác, chàng cảm thấy hối hận tự

trách:

Sao ta lại quên hẳn lời hứa với Tiểu long Nữ! à! thế ta phải cương quyết

xua đuổi sắc đẹp con bé này ra khỏi đầu óc ta mới được.

Kể ra Dương Qua ko phải bạc tình, lãnh đạm với ng yêu. Nhưng bẩm sinh

chàng đã mang sẵn dòng máu kinh bạt giang hồ của cha chàng, và di lưu tâm

tính đa tình, đa cảm của mẹ chàng, làm sao chàng có thể như Quách Tỉnh chất

phác si mê Hoàng Dung. Chàng là con người thích đi vào những cuộc phiêu lưu tình ái, để thoả mản lòng rung cảm và vơi bớt nỗi đau khổ của đời chàng.

Thiếu nữ áo xanh chạy vài chục bước bỗng dừng chân đứng tựa vào một tình

hoa, nét mặt ngây ngất nhìn lại phía Dương Qua nói:

-Tôn khách có muốn ta ko?

Dương Qua ko ngờ mình được dịp may như vậy nên vội vã chạy đến bên nàng

nói như van lơn:

-Xin cô nương tha cho! Tôi đã khổ lắm rồi!

Thiếu nữ ko hiểu gì, nói tiếp:

-Tôi xin một điều, tôn khách phải hứa ko được gọi tên tôi trước mọi ng,

và ko lọ tên tôi cho một ng thứ ba nào biết.

Dương Qua thấy hay hay gật đầu lia lịa nói:

-Tôi xin giữ theo lời dawajn của cô nương.

Thiếu nữ áo xanh nói:

-Cha tôi tức là sư phụ tôi, họ Công Tôn...

Rồi nàng kể loanh quanh mãi mà chưa nói đến tên nàng, Dương Qua sốt ruột

hỏi vặn:

-Vậy tên của nương nương là gì?

Thiếu nữ đáp:

-Tên tôi là Lục Ngạc.

Dương Qua thẩn thờ, bấc giác thầm khen:

-Tên với ng cùng đẹp ngang nhau.

Công tôn Lục Ngạc đã xưng danh nàng cho Dương Qua biết nên nàng e dè dặn

Dương Qua:

-Tôn khách đừng quên lời tôi dặn. Nếu cha tôi rõ được, thì tôi phải chịu

những hình phạt đớn đau nữa.

Dương Qua nói:

Tôi hiểu lắm! Công tôn Lục Ngạc ơi, tôi chưa từng thấy trên thế gian này

có ng nào như thân phụ của Lục Ngạc. Ai đã nỡ trừng phạt con gái thân yêu

bằng cách nướng sống trên lò lửa như thế.

Rồi mắt nàng bỗng dưng đẫm lệ ngập cả làn mi. Nàng thổn thức:

-Cha tôi xưa kia cũng nuông chiều tôi lắm. Nhưng từ ngày mẹ tôi mất, cha

tôi trở nên cực kỳ nghiêm khắc. Ko biết hôm nay cha tôi lấy vợ khác sẽ đối xử

với tôi như thế nào. Lòng tôi quả lo ngại sợ có những cực hình cay nghiệt hơn

nữa!

Dương Qua vỗ về an ủi:

Lục Nương đừng lo! Thân phụ lấy vợ sẽ vui lên mà nuông chiều Lục Nương

hơn trước chứ.

Nàng lắc đầu thở một hơi dài não ruột nói:

-Tôi thấy cha tôi còn hung dữ hơn khi chưa có vợ mới..

Dương Qua đã từng trãi cảnh côi cút, nên chàng rất thông cảm với ng bạn

gái bị đau khổ. Chàng muốn khơi thêm tâm sự với nàng:

- Tôi đoán chắc người mẹ mới của cô nương, không đẹp bằng một nửa vẻ đẹp của cô nương.

Nàng lắc đầu nói:

- Tôn khách lầm. Mẹ mới của tôi đẹp lắm! Và còn giỏi cả võ nghệ nữa. Hôm qua bắt được Châu-bá-Thông, nếu cha tôi và mẹ mới của tôi không mãi lo tranh tài cao thấp, thì chắc là Châu-bá-Thông không tài nào trốn thoát được.

Dương-Qua liền hỏi:

- Cuộc so tài ấy ai thắng?

Lục-Ngạc trả lời:

- Tất nhiên cha tôi phải thắng, nếu thua thì đời nào người ấy chịu làm mẹ mới của tôi được.

Ngưng một lát, nàng nói tiếp:

- Ngày mai là ngày lễ thành hôn của cha tôi với người đàn bà đẹp ấy, cho nên cha tôi muốn mời chư vị lưu lại để dự tiệc.

Hai người đang say mê đàm đạo thì mặt trời ngả sang trưa lúc nào không hay. Lục-Ngạc hoảng hốt nói:

- Xin tôn khách lui gót, để lỡ ai trông thấy về mách lại với cha tôi thì nguy hại lắm đấy!

Dương-Qua hiểu được tình cảnh đau khổ của nàng, lòng quá xót xa thương hại. Chàng đưa tay nắm chặt lấy tay nàng, như thầm hứa hẹn sẽ luôn luôn che chở.

Chưa vào đến cửa, Dương-Qua đã nghe tiếng Mã-quang-Tổ phàn nàn ngọt với đắng. Vào đến nơi chàng nhìn thấy trên bàn có bày mấy đĩa "Tình hoa". Người nào người nấy nét mặt buồn xo không muốn nói Dương-Qua niềm vui buồn lẫn lộn, chàng bước đến toàn đàm chuyện với Kim-luân Pháp-Vương. Đột nhiên, có người thanh niên áo xanh bước vào cung kính, nói:

- Thưa chư vị động chủ muốn gặp chư vị.

Bọn Kim-luân Pháp-Vương đương là những vị tôn-sư của một phái, đi đến đâu cũng được đón rước trọng hậu, ngay cả đến Hốt-tất-Liệt là một vị Vương-tử mà đối với họ cũng rất kính nể. Còn lão chúa động ở nơi thuận sơn nầy, sao lại vô lễ thế. Cả bọn tỏ vẻ hậm hực bảo nhau:

- Chúng mình cứ đến xem mặt mũi hắn, rồi cho hắn một bài học đích đáng là hơn.

Sáu người lần lượt theo chân người áo xanh. Đi được vài chục bước thấy một khu trúc mọc xanh um, ai nấy đều chăm chú nhìn. Lúc đi khỏi khúc rừng trúc lạ nghe phưởng phất mùi hương cả trăm hoa ở đâu tỏa đến làm cho tất cả lâng lâng như thấy tâm hồn mình thoát tục. Rồi tiếp đến mấy chục mẫu đất toàn là hoa thủy tiên hiện ra trước mắt. Mọi người đều ngơ ngác nhìn cảnh vật vô cùng ngoạn mục.

Kim-luân Pháp-Vương luôn miệng khen:

- Thật như cảnh tiên! Hoa thủy tiên mọc dưới nước như thế nầy chưa từng có!

Muốn đi đến phòng chủ động phải vượt qua mấy cây trầm hương quí, thả trên mặt nước những người đi qua được phải là tay khinh công siêu-phàm mới khỏi gãy.

Sáu người đến đó đều phải để khi cho thân mình nhẹ. Duy có Mã-quang-Tổ kém tài nên bị ngã nhào xuống nước làm cho từng cụm hoa thủy tiền ngã nát.

Qua khỏi hố thủy tiên thấy sừng sững một tòa nhà đá. Ngoài cổng có hai chú tiểu đồng, mỗi chú trong tay cầm cây phất trần.

Trông thấy khách, một chú vội vã chạy vào, còn một chú mở cổng đón khách.

Dương-Qua thầm nghĩ:

- Chẳng hiểu chúa động bận việc chi mà không ra đón tiếp?

Lòng chàng có ý không vui. Đột nhiên có một tia chớp xanh hiện đến như một luồng khói, và trước mặt mọi người hiện ra một ông lão hình dung cổ quái. Ông ta cũng mặc áo xanh, nhưng màu xanh hơi thâm đen, thân hình cao chừng một thước ba, râu lại dài hơn ba thước. Thân hình lùn tịt như thế lại thêm khuôn mặt rất kỳ dị.

Hai gò má nhô lên, đôi mắt xếch ngược.

Dương-Qua nghĩ bụng:

- Con gái ông ta dung nhan đẹp đến thế mà chúa động lại cổ quái như vậy sao?

Ông lão cúi đầu chào sáu vị khách, nói:

- Quý khách giáng lâm, thật muôn vàn hân hạnh! Xin mời quý khách vào nhà đàm đạo.

Ni-ma-Tinh khoan khoái gặp được người lùn như mình, nói lẩm bẩm:

- Thật hạnh ngộ!

Nói rồi sấn đến cầm tay ông lão bước vào.

Thực tình Ni-ma-Tinh muốn thử tài ông lão nên vận gân cốt nội công nắm tay ông lão thật mạnh. Nếu người thường bị Ni-ma-Tinh vận "tam kinh" nắm lấy, chắc tay sẽ bị nát nghiền, nhưng lão ta vẫn như không.

Ni-ma-Tinh lại quá vận thêm "tam kinh" cộng là "lục kinh" mà tay lão ta vẫn trơ trơ như gỗ đá. Ni-ma-Tinh quá tức vận thêm tam kinh" cộng là "cửu kinh" chỉ thấy mặt lão có ánh xanh thoáng qua rồi tay lão vung cao như thanh sắt.

Ni-ma-Tinh toát mồ hôi, nhưng sức lực chỉ còn có một kinh lực. Ma Tinh không dám vận công thêm vì sợ đối phương đánh trả lại thì sẽ hết lực, và bị thương tới lục phủ ngũ tạng.

Hắn vôi đổi thái độ, cười ha hả rút tay về trông rất hiền hậu.

Việc thử sức nầy, những người bên ngoài, tưởng như không ai hơn kém. Nhưng với Ni-ma-Tinh thì nghĩ khác. Hắn không biết lão đó có ý nhượng bộ hay không đủ khả năng phản công.

Vì vậy hắn suy tính:

- Xưa nay ta chỉ dùng đến công "tam kinh" rờ đến tay địch thủ thì biết được sức lực đối thủ thế nào rồi.

Nay tay của chúa động không có phản ứng rõ rệt, nên khó lòng phân biệt được tài nghệ cao hay thấp.

Kim-luân Pháp-Vương rất tinh ý, biết ngay Ni-ma-Tinh thất bại nên Pháp-Vương không tiến lên thử sức với lão già đó.

Mã-quang-Tổ lầm lì đi sau đang tức bực, vì không được uống rượu, ăn thịt, chợt thấy râu chúa động kéo lê thê dưới đất, hắn rình rình bước tới dậm lên một cái.

Lão già vẫn dịu dàng quay lại nói:

- Xin quý khách lưu ý.

Mã-quang-Tổ giả vờ không biết, hỏi:

- Ông bảo sao?

Ông lão làm thinh lắc đầu một cái, sợi râu ở dưới chân Mã-quang-Tổ bị giật mạnh khiến Quang-Tổ té lộn ngược ra sau.

Dương-Qua thấy Mã-quang-Tổ bị té ngược liền tung ra một chưởng đỡ vào lưng Quang-Tổ. Nếu Dương-Qua không đỡ kịp thì Quang-Tổ đã ngã xuống vỡ sọ rồi!

Lão già vẫn điềm nhiên như không có việc gì xảy ra, hướng vào trong nói lớn:

- Quý khách đã đến, kính mời động chúa ra tiếp khách.

Dương-Qua lấy làm lạ thầm nghĩ:

- Ta đã tưởng lầm rồi! Lão lùn nầy không phải là chúa động.

Tiếng mời vừa dứt, từ bên trong hơn hai mươi nam nữ áo xanh kéo ra đứng sắp thành hàng hai. Chỉ phút chốc sau bình phong rung động, một người oai nghi bước ra vui vẻ nói:

- Mời quý vịi an tọa.

Dương-Qua trông lên, thấy chúa động trạc độ bốn mươi tuổi, mặt hào hoa tuấn nhã. Chàng thầm nói:

- Hai mươi năm về trước với dong mạo ấy người nầy đã làm tan nát bao nhiêu con tim của thiếu nữ. Tuy bây giờ tuổi cao tác lớn song nét hào hoa vẫn chưa phai.

Chúa động ngó xuống! mười cặp nam nữ áo xanh, người nào việc ấy dâng trà lên mời khách.

Chúa động cũng mặc áo xanh, nhưng màu xanh loang loáng làm cho mắt người trông vào phải bị lòa đi.

Mã-quang-Tổ nhìn chén trà, thấy không có hơi nóng bốc lên liền đưa tay sờ vào chén. Nước lạnh như băng! Trên mặt chén nổi lều phều vài bông trà. Hắn buột miệng nói:

- Thưa chủ nhân! Thịt không ăn, rượu không uống, lại thêm trà nguội, như thế tài nào chủ nhân nét mặt không đượm màu bệnh khí?

Chúa động điềm nhiên nói:

- Trà nầy uống không cần đến lửa.

Mã-quang-Tổ cười, hỏi:

- Vậy trà nầy là nước trường sinh à?

Chúa động đáp:

- Tổ tông tôi đến đây từ đời Đường-huyền-Tôn tính đến nay đã mấy trăn năm, lề lối đã thành tục lệ con cháu không dám bỏ.

Kim-luân Pháp-Vương đứng lên, nói:

- Thưa chủ nhân. Đến bây giờ chúng tôi mới được biết thể phủ thiên cư vào đây đã nhiều lời. Nhưng phong thái vẫn như xưa, thật là thế trạch miên trường.

Chúa động nói:

- Đa tạ quý khách! Chúng tôi đâu dám nghĩ thế!

Tiêu-tương-Tử xen vào nói:

- Tổ tông chủ nhân đã nhìn thấy Dương quý-phi chưa?

Mọi người đều kinh ngạc nhìn Tiêu-tương-Tử. Không phải vì lời nói buồn cười mà vì tiếng nói của Tiêu-tương-Tử có vẻ khác thường! Lạ thay cả mặt mày Tiêu-tương-Tử biến đổi. Tiêu-tương-Tử dung mạo vốn đã như một xác chết, bây giờ lại còn hơn một bóng ma rõ rệt.

Chúa động từ tốn nói:

- Tổ tông tôi, trước làm quan dưới triều vua Đường-huyền-Tôn. Vì lúc đế Vương-quốc-Trung bị khốn loạn nơi triều đình nên phải mang toàn gia đi ẩn náo.

Tiêu-tương-Tử phá lên cười:

- Thế thì tổ tông ông chắc đã được hưởng biết bao nhiêu của phi nghĩa Dương-quý-Phi?

Mọi người đều thất sắc trước câu nói của Tiêu-tương-Tử. Vì câu nói ấy khác nào như một chiến thư, mà ai nấy đều phải đề phòng.

Pháp-Vương cau mày lo nghĩ:

- Quái thật! Tiêu-tương-Tử xưa nay vẫn là người am hiểu, sao hôm nay hắn lại ngạo nghễ đến thế!

Tuy vậy, chúa động thanh sắc vẫn điềm tĩnh, chỉ khẽ đưa mắt nhìn lão lùn râu dài. Lão râu dài liền quắc mắt nhìn Tiêu-tương-Tử, rồi nói lớn:

- Chúa chúng tôi đãi khách kính trọng, xin người đừng ăn nói hồ đồ.

Tiêu-tương-Tử liền cười hô hố, nói:

- Ta tin chắc là tổ tông ông đã được hưởng nhiều của phi nghĩa của Dương-quý-Phi!

Tiêu-tương-Tử càng nói dáng điệu lại càng kiêu hãnh hơn nữa. Giọng nói hắn oang oang lên:

- Hà hà. Đã được hưởng của phi nghĩa của Dương-quý-Phi mới ăn năn hối hận không dám ăn thịt chứ gì?

Kim-luân Pháp-Vương quá áy náy, nên quay lại nói nhỏ với Tiêu-tương-Tử:

- Sao Tiêu-huynh nói vậy? Ăn uống là theo thói quen.

Lão lùn râu dài không nhịn được liền nhảy lên bực đá, nói lớn:

- Tiêu-tương-Tử! Hãy cùng ta quyết đấu.

- Tương-Tử cười, nói:

- A ha! Tốt lắm! Nhưng lão đã biết tánh danh ta, vậy hãy xưng danh cho rõ thì cuộc đấu mới công bằng.

Lão lùn râu dài quá giận, nhưng thấy Tiêu-tương-Tử không phải hạng thường, liền quay nhìn chúa động.

Chúa động bảo:

- Ngươi hãy xưng danh cho Tiêu-tương-Tử rõ.

Lão lùn râu dài nói:

- Ngươi hãy nghe ta xưng danh, tên ta là Phàn-Nhất-Ông.

Tiêu-tương-Tử liền hỏi:

- Ngươi dùng binh khí chi? Mang ra đây ta xem.

Phàn-nhất-Ông nói:

- Ngươi muốn đấu bằng binh khí hả? Điều đó đâu có khó gì?

Rồi Phàn-nhất-Ông hô lớn:

- Chưa hầu hãy mang binh khí ra đây.

Phút chốc thấy mươi thanh niên áo xanh lễ mễ khiêng ra ngọn bổng. Phàn-nhất-Ông chỉ vào ngọn bổng nói:

- Ta dùng binh khí kêu là "Long đầu cương trượng"

Dương-Qua nhìn cây trượng thấy dài gấp ba lần người Phàn-nhất-Ông, ngạc nhiên thầm nói:

- Ông lão lùn chừng ấy làm sao sử dụng cây trượng dài gấp ba thân mình?

Tiêu-tương-Tử đưa tay vào túi rút ra một cái kéo lớn, nói:

Mọi người thấy Tiêu-tương-Tử rút kéo ra đều kinh hãi lo sợ cho Tương-Tử.

Dương-Qua lại ngạc nhiên hơn. Chàng đưa tay sờ vào túi, cái kéo đã mất, mới biết cái kéo của chàng đã về tay Tiêu-tương-Tử lúc nào rồi. Nguyên nhân đó là do Phùng-mặc-Phong rèn cho Dương-Qua, dùng để lấy chiếc phất trần của Lý-mạc-Thu. Nhưng Tiêu-tương-Tử đánh cắp của chàng trong đêm vừa rồi.

Tiêu-tương-Tử vận công sử dụng cái kéo, tiếng sèn sẹt vang lên chát chúa.

Tương-Tử quát lớn:

- Tên lùn râu dài kia! Ngươi chắc chưa biết tên vũ khí của ta, đây cho người rõ đây?

Phàn-Nhất-Ông bĩu môi, nói:

- Binh khí ư? Binh khí của bọn tà đạo nhà người làm gì có tên cao nhã.

Tiêu-tương-Tử cười hô hố nói:

- Ngươi đoán đúng lắm! Vì tên của nó là "cẩu mạo tiêu".

Dương-Qua nghe Tương-Tử tự đặt tên cho cái kéo của mình, mỉm cười không nói.

Tiêu-tương-Tử nói tiếp:

- Ta biết ở đây có quái vật râu dài, nên ta mới mang kéo đến để xén bộ râu dài đó.

Mã-quang-Tổ, Ni-ma-Tinh và Doãn-khắc-Tây bụm miệng cười sằng sặc.

Riêng Kim-luân Pháp-Vương với chúa động vẫn nghiêm trang ngồi nhìn như chẳng để ý lời cãi vã gì.

Phàn-nhất-Ông cử "Long đầu cương trượng" lên quay tròn vù vù, và quát mắng Tương-Tử:

- Râu ta dài thật, nhưng ngươi là đứa hèn hạ, đâu đủ khả năng để làm cái việc sửa râu cho ta. Hãy cúi đầu xin lỗi tội vô lễ trước đã.

Tiêu-tương-Tử không thèm nói, chỉ để khí giương thẳng cái kéo lao vèo tới Phàn-nhất-Ông.

Nghe tiếng kéo xắp sựt sựt, Phàn-nhất-Ông không kịp đỡ, vội đánh mạnh một chưởng vào vai Tương-Tử. Tiêu-tương-Tử né qua một bên, nhưng chưa có một sợi râu nào rụng, và cứ như thế người cố cắt râu, người cố đánh liên tiếp.

Lúc này trong nhà chỉ nghe tiếng vun vút, sèn sẹt, thỉnh thoảng kéo chạm cương trượng tóe lửa.

Trận giáo đầu hơn một tiếng đồng hồ, thì Phàn-nhất-Ông bị sơ hở một chút nên cái kéo của Tiêu-tương-Tử đã vút thẳng vào hàm râu, cắt đứt ba sợi râu.

Ba sợi râu bay vụt qua bàn, cuốn quấn mấy chén dĩa trên bàn rơi xuống đất

bể sạch.

Dương Qua biết ngay là Tiêu tương Tử dùng phép "lộng huyền" thổi khí đi

mạnh làm rơi bát, dĩa xuống đất, chớ ko phải do ba sợi râu cuốn mạnh đến thế.

Mã quang Tổ chẳng biết gì, vỗ tay đôm đốp miệng ko ngớt tiếng khen:

-Hay quá! Hay quá Tiêu huynh ơi! Mấy cái râu quèn đó mà Tiêu huynh cũng

biến nó trở nên lợi hại thế? Thật là kỳ tài!

Tiêu tương Tử nghe khoái chí cười khà khà, vung kéo xắp sừng sực, miệng

nói lớn:

-Lão râu dài kia lại đây.

Tuy nhiên, ai cũng thấy nét mặt của Tiêu tương Tử lúc này đã tái mét, vì

nội công chỉ luyện đến thế là cùng.

Phàn nhất Ông bị khinh miệt, nên mặt nóng phừng phừng, quay lại phía chúa

động, nói:

-Thưa sư phụ, thứ lỗi cho đệ tử hôm nay về tội thất kính với khách.

Dương Qua lấy làm lạ! Phàn nhất Ông đáng tuoir cha của chúa động, sao lại

gọi ng trẻ tuổi như con bằng sư phụ?

Chúa động nhìn Phàn nhất Ông khẽ gật đầu. Lập tức cây thiết trượng Phàn

nhất Ông vút thẳng vào đầu Tiêu tương Tử. Rất may, Tiêu tương Tử né kịp,

thiết trượng giáng xuống kệ đá vẹt ra một tia lửa sáng loè.

Thiết trượng vút ngược lên, Tiêu tương Tử lao mình qua đưa tay cướp lấy thiết trượng.

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 46 : Kinh thiên động địa

Phàn-nhất-Ông thấy đối thủ cướp thất trượng, liền giật mạnh xuống, phất ngang chân đối thủ.

Đòn ấy tưởng Tiêu-tương-Tử phải gãy hai chân té úp xuống đất bể mặt rồi.

Không ngờ Tiêu-tương-Tử lao mình qua thiết trượng phất ngang dưới chân, liền lao đầu xuống chống hai tay dưới đất, quật ngược hai chân lên cao, lộn ngửa người ra đứng dậy.

Phàn-nhất-Ông được trớn vận sức xoay người vút thiết trượng vào đầu địch thủ. Tiêu-tương-Tử vừa đứng lên, thấy thiết trượng đã đến ngay đầu, liền né sang bên phải.

Tiêu-tương-Tử cố ý trêu cợt nên nhảy vọt lên cao hơn một trượng, phóng qua khỏi Phàn-nhất-Ông.

Mọi người thấy thế, vỗ tay rầm rập, khen ngợi:

- Tiêu-Huynh hay quá! Hay tuyệt!...

Phàn-nhất-Ông mặt nóng phừng phừng, nhưng thấy đối thủ võ công cao cường nên cố sức bình tĩnh vận thêm sức, múa thiết trượng vút như gió lộng.

Lão thầm nhủ: Ta đánh trúng đối thủ không dễ, nhưng ta có thể đập nát vũ khí của đối phương, để chiếm phần thắng.

Tiêu-tương-Tử lúc này dùng vũ công "thần xuất quỷ nhập". Tay phải cầm dao chém tới, tay trái trổ phép "tầm mã" chờ lúc đối thủ hở cơ, đoạt lấy thiết trượng.

Hai người lao sát vào nhau, xoắn xuýt giữa đại sảnh, chớp mắt đã đấu mấy mươi hiệp. Nhưng vẫn không phân thắng bại Tiêu-tương-Tử vừa đánh vừa ngồi trên ghế, nhưng không coi Phàn-nhất-Ông ra gì.

Bọn Kim-luân Pháp-Vương lấy làm lạ nghĩ thầm:

- Tiêu-tương-Tử thân mình hình như chết khổ! Thế mà lại có thủ đoạn cao cường đến thế?

Hai người đấu tiếp mấy hiệp, cây thiết trượng của Phàn-nhất-Ông phất qua dưới hai chân đối phương. Nhưng Tiêu-tương-Tử cứ nhảy chập chờn đôi chân lên xuống, mỗi lúc một lẹ hơn.

Chúa động chợt kêu lớn:

- Đừng đánh chân ghế nữa! Nếu ngươi đánh như thế không đánh được đâu!

Phàn-nhất-Ông giật mình tỉnh ngộ:

- à! Hắn ngồi trên ghế! Thế mà mình tưởng hắn đứng dưới đất, nên nãy giờ cứ đánh dưới chân ghế mãi. Nếu hắn để ý nhảy xuống đã hớt được râu mình rồi.

Phàn-nhất-Ông liền đổi chiến thuật, vung thiết trượng múa tít mù, loang loáng như một vùng ánh sáng.

Mọi người chỉ còn trông thấy một người lùn râu dài, mặc áo màu xanh lục, được lớp ánh sáng trắng như bạc bao bọc.

Bên ngoài vòng ánh sáng bạc ấy là một hình nhân mặt như xác chết, nhảy lòm chòm trông thật lạ mắt.

Doãn-khắc-Tây rất thông hiểu các võ phái, nhưng xem thuật phép sư trượng Phàn-nhất-Ông và Tiêu-tương-Tử, cũng ngơ ngác không hiểu được. Theo trượng pháp đại khai đại hợp, môn hộ được phép giữ kín đáo lạ thường. Khác hẳn với các nhà võ công nội ngoại, không hiểu lão râu dài thuộc môn phái nào!

Chúa động thấy rõ Tiêu-tương-Tử có ý trêu lừa Phàn-nhất-Ông cho mỏi mệt, thầm nghĩ:

- Nếu để đấu nữa, nhất định Phàn-nhất-Ông phải bại.

Lão ung dung đứng dậy bước ra bảo:

- Nhất-Ông và Tiêu-tương khách! Hãy tạm nghỉ đã! Đánh lâu rồi, mà không thể phân thắng bại được. Thôi, Nhất-Ông lui ra.

Phàn-nhất-Ông nghe lệnh chúa Động truyền, nên cất tiếng nói:

- Xin tuân lời sư phụ.

Nhất-Ông đập mạnh thiết trượng xuống đất một cái, nhảy tung lên, toan chạy ra khỏi phòng đấu.

Nhưng Tiêu-tương-Tử lại kêu lên:

- Không! Không được!

Liền nhúng mình vọt ra khỏi ghế, bay lên đập vào cây thiết trượng. Chỉ nghe một tiếng "bốp" cái ghế bự, bị thiết trượng đập nát vụn ra. Nhưng cây thiết trượng đã bị Tiêu-tương-Tử dùng tay trái chộp giữ và lấy chân trái đạp lên trên, đồng thời tay phải đưa thẳng cái kéo xấp mạnh hàm râu Phàn-nhất-Ông.

Vừa phát ra một tiếng sẹt. Nhất-Ông lanh như chớp, né hàm râu qua bên phải, rồi phát hàm râu qua bên trái, quấn chặt vào cán kéo của đối thủ một cách dễ dàng.

Tiêu-tương-Tử thấy râu lão quấn chặt vào kéo không thể chuyển được, thầm khen:

- Bộ râu lão nầy đã được tập luyện công phu, lợi hại thay.

Tiếp đó Tiêu-tương-Tử lại nói lớn:

- A! Lão già lùn! Bộ râu của ngươi lợi hại lắm đấy! Tiêu-tương-Tử nầy khen ngươi đó.

Lúc này mọi người chỉ trông thấy hai người đứng sát vào nhau, không còn đánh gì nữa. Nhất-ÔNg dùng râu và tay trái giữ chặt cán kéo. Còn tay trái và chân trái của Tiêu-tương-Tử lại bám lấy thiết trượng, giằng qua giật lại một hồi, nhưng không ai giật được của ai cả. Tiêu-tương-Tử phá lên cười ha hả, nói:

- Thú quá! Thú quá! A ha! Thú quá!

Đột nhiên một bóng người áo xanh ngoài cửa chạy vào nhanh như tên, đưa hai tay chụp vào cổ Tiêu-tương-Tử giật ra:

Chúa động quát hỏi:

- Ai đó! Làm gì thế?

Mọi người đều đứng lên nhìn. Mã-quang-Tổ nói lớn:

- Không được! Một người đánh với một người chứ? Đừng chơi vậy xấu lắm!

Tiêu-tương-Tử đưa tay trái phát mạnh vào bụng người lạ mặt và dùng chưởng lực gỡ thoát mình ra. Người lạ nổi giận quát lớn:

- Thằng khốn kiếp! Mau ra sức cùng tao đấu một sống một chết.

Bọn Dương-Qua nhìn ra ai nấy đều thầm đoán:

- Người mới chạy vào mặt mũi đúng là Tiêu-tương-Tử, sao lại mặc quần áo, mũ giầy theo người trong động này? Có lý nào một biến ra thành hai? Mà dù có biến hóa "phân thân" của hắn? Tương-Tử có thuật lừa dối thế nào?

Phàn-nhất-Ông thoáng thấy có người xông vào giúp mình, chưa biết là ai, nhưng thấy hắn mặc đồng phục với trong động, liền thu thiết trượng lui lại phía sau, tránh ra một bên để người ấy đánh với Tương-Tử.

Lúc ấy, người mới vào xòe mười ngón tay nhọn hoắt, quấp lấy Tương-Tử lôi lại, miệng quát mắng:

- Mày dùng lối lừa gạt đánh người sao đáng mặt anh hùng?

Bấy giờ Dương-Qua đã nhận ra:

Người cầm kéo ấy là kẻ đã lấy trộm mặt nạ của mình để đeo lên mặt, rồi lấy áo quần của Tương-Tử mặc vào, đề giả Tương-Tử mà vào địa sảnh quấy động này. Vì vẻ mặt của Tiêu-tương-Tử thường ngày giống vẻ mặt người chết. Vả lại từ lúc hắn giao đấu Phàn-nhất-Ông, thuật pháp cao cường khác hẳn Tiêu-tương-Tử nhiều.

Dương-Qua định thần nhìn kỹ kẻ đeo mặt nạ đang cầm kéo, rồi gọi lớn:

- Này! Lão-ngoan-Đồng Châu-bá-Thông! Hãy trả mặt nạ và cái kéo cho tôi.

Dứt lời, nhảy vọt tới nơi, đoạt chiếc mặt nạ và cái kéo trên tay người ấy.

Sự thật người mà ai cũng tưởng là Tiêu-tương-Tử, đánh với Phàn-nhất-Ông từ lúc mới vào đại sảnh đến bây giờ, chính là Châu-bá-Thông. Vì trong lúc vô ý, Châu-bá-Thông bị bốn đệ tử của động "Thủy tiên" dùng lưới phủ bắt đem về động. Lão ta vốn có tính bướng bỉnh, diễu cợt, nhưng rất thần thông quảng đại. Cho nên lão điềm nhiên, để cho bọn đệ tử trong động khiêng về đến nơi thì lão phá lưới thoát ra đi mất. Bốn vị đệ tử bị chúa Động phạt ngồi vào lửa.

Châu-bá-Thông thoát được lưới, ra núp sau núi đá, định ý phá động Thủy-tiên cho kinh thiên động địa.

Bỗng lão thấy bọn Kim-luân Pháp-Vương tìm đến nơi nên chiều hôm ấy, lão ngầm ra tay đánh trộm, điểm trung huyệt đạo của Tiêu-tương-Tử, làm cho Tiêu-tương-Tử bất tỉnh, rồi đem xác Tiêu-tương-Tử ra khỏi nhà đá, lột hết áo quần mặc vào, giả dạng Tiêu-tương-Tử.

Xong, Châu-bá-Thông lại trở vô nhà đá, nằm bên Dương-Qua. Chưa thôi, lão còn mò vào túi Dương-Qua lấy trộm chiếc mặt nạ và cái kéo. Sáng hôm sau, mọi người thức dậy, vô tình không ai để ý cứ gọi lão là Tiêu-tương-Tử.

Còn Tiêu-tương-Tử bị Châu-bá-Thông điểm huyệt bất ngờ, cố vận ngầm nội lực để tự vệ, nhưng vì phép điểm huyệt của Châu-bá-Thông quá lợi hại, nhưng mãi đến năm giờ sau, tay chân Tiêu-tương-Tử mới vận chuyển được. Lúc ấy Tiêu-tương-Tử chỉ mặc một chiếc quần ngắn, nên lão vừa thẹn vừa giận, đưa mắt ra nhìn thất đệ tử trong động mặc quần áo xanh đi qua. Tương-Tử liền chận đánh người áo xanh ngã xuống, lột hết quần áo, mặc vào mình. Cho đến lúc này Tiêu-tương-Tử cũng tưởng người trong động "Thủy tiên".

Tương-Tử vừa bước vào đại-sảnh, đã thấy Châu-bá-Thông mặc bộ quần áo của mình, đang ác đấu với lão lùn râu dài.

Hắn giận điên người, vận gân cốt hai tay, cố chộp lấy Bá-Thông quật chết. Nhưng Bá-Thông gỡ ra được, và hai người trở lại đánh nhau quyết liệt. Đánh được mấy hiệp, thì Dương-Qua xông vào giúp sức Tiêu-tương-Tử đánh Châu-bá-Thông.

Châu-bá-Thông vốn rất giỏi lối đánh "phân thân" ông đã tập luyện công phu hơn mấy chục năm. Đến khi gặp Quách-Tỉnh trên đảo Đào hoa ông lại tiến bộ hơn trước kia nữa.

Lão thấy Dương-Qua cũng xông vào đánh mình, liền vung tay trái đối phó với Dương-Qua, tay mặt phải cầm kéo, khi mở khi thu khiến cho Tiêu-tương-Tử không dám xông vào. Tiêu-tương-Tử căm giận, nhưng xưa nay rất sợ tài nghệ của Châu-bá-Thông, nên không dám kinh công xuất thủ.

Dòng dõi vị chúa đảng đã mười mấy đời truyền lưu sống nơi đây, kể từ lúc gặp dị nhân truyền đến nay kể đã mấy đời, từ đời nọ sang đời kia, song trong giới võ lâm có tục lệ hẹp hòi "Thầy truyền cho trò như có ý lo sợ học trò mai sau gian ác, sẽ phản thầy, ngạo bạn, hại đời, nên thầy nào cũng giữ lại vài ngón bí hiểm, không dạy hết cho trò. Do đó võ công tuyệt kỹ, lần lần thất truyền.

Chỉ có võ công gia truyền là tồn tại hơn cả.

Tỉ như ông bà truyền cho cha mẹ, cha mẹ truyền cho con cháu thì mới truyền hết cái hay. Có nhiều con cháu thông minh, lại có thể cải tiến thêm những ngón võ độc đáo hơn đời trước.

Chúa động "Thủy tiên" ngày nay là một người thông minh, lại được võ công gia truyền, nên võ công của chúa động có thể hơn những bậc tiền nhân trong phái ông.

Vì vậy Chúa động có lúc tự bảo rằng:

- Nếu ta ra khỏi động, chu du trên khắp thiên hạ, thì không thể có một ai dám đem võ công so với ta nữa.

Nhưng hôm nay Châu-bá-Thông từ phương nào đến làm rung chuyển cả động.

Khi Châu-bá-Thông đấu với Phàn-nhất-Ông, chúa động đã thầm lo ngại. Kế đến Châu-bá-Thông đấu với hai người một cách dễ dàng, lại càng làm cho chúa động thầm phục hơn.

Bọn Kim-luân Pháp-Vương khi biết được Châu-bá-Thông ai nấy đều lo nghĩ:

- Thật đúng với tên Lão-ngoan-Đồng! Mưu mẹo đủ điều, không ai đoán được! Bây giờ bắt lão chưa chắc đã được mà còn sợ lầm mưu lão nữa là khác.

Chúa động thấy Tiêu-tương-Tử hai bàn tay xòe ra mười ngón tay như mười mũi sắt xông vào, nhưng không tài nào đụng được Châu-bá-Thông. Còn Dương-Qua thì lanh lẹ, tiến lui rất nhanh, đôi tay loang loáng, nhưng cũng không áp đảo được ai, ông thầm lo:

- Trời đất bao la, nhân tài không thiếu gì. Nay ta mới biết. Nếu cứ để chúng đánh nhau mãi, e thiệt hại đến động nầy. Lão bèn đứng lên gọi lớn:

- Xin tam vị hãy ngừng tay; để tôi biện minh điều này đã.

Dương-Qua cùng Tiêu-tương-Tử cùng nhảy lùi ra sau một bước.

Châu-bá-Thông giở mặt nạ ra cột vào cái kéo ném trả cho Dương-Qua và nói:

- Thôi chơi thế đủ rồi! Ta đi đây!

Dứt lời Châu-bá-Thông nhún một cái, toan thân bay vút lên xà nhà cao hơn năm trượng.

Công-tôn Lục-Ngạci và bọn đệ tử sợ hãi, kêu lên:

- Lão già! Lão già thoát lưới hôm qua!

Châu-bá-Thông ngồi vắt trên xà, cười ha hả nhìn mọi người như đùa cợt.

Tuy trong nhà lúc này có nhiều tay cao thủ, nhưng không ai nhảy lên trên đó được.

Trong động "Thủy tiên" chỉ có Phàn-nhất-Ông là tay đệ tử tuổi đã cao hơn cả chúa động, nhưng tài nghệ thì ngoài chúa động, ai ai cũng nhận rõ võ công của lão là đệ nhất. Thế mà bị Châu-bá-Thông chọc tức, nên lão quá giận, quay sang nhìn chúa động xin lệnh:

- Xin sư phụ cho phép đệ tử bắt thằng nghịch đó?

Chúa động không nói gì chỉ khẽ gật đầu.

Phàn-nhất-Ông vươn mình lên, ôm chầm lấy cây cột, rồi thoăn thoắt trèo lên như con vượn.

Châu-bá-Thông trông thấy rất thích chí, vì được dịp nô đùa để phá phách trong thạch động. Lão nhìn xuống cười lớn:

- Bộ mầy lùn tịt, thân không cao quá ba thước, sao lại ì ạch như vậy.

Phàn-nhất-Ông bò lên gần tới thì Châu-bá-Thông đã đưa tay ra đón.

Phàn-nhất-Ông tưởng địch khinh mình nên lúc Bá-Thông vừa đưa tay ra. Nhất-Ông đã vận sức chọc ngón tay điểm vào khủy tay, đã đóng kinh huyệt đạo, làm cho bắp thịt cứng lại.

Phàn-nhất-Ông vội thụt tay lại, tưởng mình thò tay vào lửa. Châu-bá-Thông với tay đập vào mu bàn tay của Nhất-Ông một cái "bép" rồi phá lên cười khà khà nói:

- Ta đã đưa tay cho ngươi vịn leo lên, sao lại thụt đi?

Phàn-nhất-Ông nén giận, vận kình lực, phun lên một làn khói vào mặt địch thủ, rồi tiếp quất mạnh bộ râu quấn vào ngực Châu-bá-Thông. Châu-bá-Thông thấy làn khói và tiếng gió vút mạnh, biết là thuật lợi hại, vội đưa chân trái đạp mạnh một cái, tay trái nắm vững xà ngang, toàn thân treo lơ lửng.

Bá-Thông lại cười khà khà nói:

- Lão lùn ơi! Người dùng bộ râu đó không làm gì ta được đâu.

Tiêu-tương-Tử nhìn lên thấy thế biết Phàn-nhất-Ông không thể nào đánh nổi Châu-bá-Thông, và nếu có hắn xông lên giúp sức, cũng không thể thắng nữa. Hắn quay lại nhìn đồng bọn nói:

- Các đại huynh ơi, thằng già kia khinh rẽ sáu anh em mình! Thật quá lắm! Bây giờ chúng ta cho nó một trận đi!

Ni-ma-Tinh vốn tính táo bạo, nghe nói khích không nén giận được, còn Mã-quang-Tổ thì khờ khạo, không rõ phải trái, nên khi nghe Tương-Tử nói, cả hai đều nổi giận đùng đùng đứng dậy, thét lên:

- Thằng già kia! Mày đã tới số rồi!

Hai người phóng mình lên cây xà ngang, bốn tay quắp lấy Châu-bá-Thông.

Bá-Thông liền vung hai tay đánh mạnh ra. Ma-Tinh văng ra bấu lấy đầu cột, còn Quang-Tổ văng luôn xuống đất, lòm khòm đứng dậy nhưng chưa dám leo lên.

Tiêu-tương-Tử nói với Doãn-khắc-Tây:

- Doãn huynh ơi! Doãn huynh khoanh tay đứng nhìn vậy sao?

Doãn-khắc-Tây bình tĩnh nói:

- Huynh lên trước rồi đệ xin giúp sức.

Tiêu-tương-Tử rú lên một tiếng đột nhiên vọt thẳng lên cao hơn bốn trượng. Chỉ thấy thân minh Tương-Tử thẳng đứng như khúc gỗ, đâm thẳng vào bụng Châu-bá-Thông. Bá-Thông liền thu mình lại như con mèo nên hai tay Tương-Tử đâm hụt, cả thân mình vụt lửng lơ trên không, nháy mắt đã rơi xuống đất. Nhưng giận chưa thôi, vừa rơi xuống Tương-Tử lại phóng lên như một chày giã gạo vậy.

Bấy giờ Phàn-nhất-Ông đã bám chặt vào xà ngang, vội quất bộ râu để quấn địch thủ. Còn Ni-ma-Tinh, Mã-quang-Tổ và Tương-Tử cứ nhảy vọt lên, rớt xuống, cố hết sức để đánh Châu-bá-Thông.

Doãn-khắc-Tây mỉm cười nói:

- Lão già này thật phi thường! Ta cũng hợp sức đánh thử một phen coi.

Miệng nói tay thô vào mình rút ra một vật sáng lấp lánh. Đó là con roi Nhiễu tiên. Roi này kết bởi những sợi vàng sợi bạc và gắn nhiều ngọc quí.

Thật ra, Doãn-khắc-Tây võ nghệ chưa có gì đặc biệt mấy, chỉ là một tay phóng lãng giang hồ, đi đâu cũng mang theo của quí để lòe thiên hạ.

Doãn-khắc-Tây nhảy lên quấn vun vút. Dương-Qua thấy thích mắt thầm nghĩ:

Nắm tay này đều trổ thần thông vây đánh một lão bướng bỉnh, nhưng lão vẫn coi thường. Nếu ta không xuất thủ giúp sức thì lão khinh khi cả bọn chúng ta.

Chàng lấy mặt nạ, đeo lên, rồi thét một tiếng, lượm cây thiết trượng của Phàn-nhất-Ông bỏ dưới đất, quặp vào chân, nhún mình nhảy vọt lên cao, ngang với Châu-bá-Thông, và nói:

- Lão già bướng bỉnh hãy xem cái kéo này!

Chàng ngồi trên xà nhà trước mặt Châu-bá-Thông, đưa kéo xắp bộ râu bạc của ông. Bá-Thông bình tĩnh né đầu qua một bên, và bảo:

- Chú em ơi! Phép nầy của chú cũng khá đấy! có thể dùng được việc!

Dương-Qua gắng giọng nói:

- Lão già bướng bỉnh kia! Ta có gì vô lễ mà lão lại đem bọn ta ra làm trò cười.

Châu-bá-Thông cười hà hà nói:

- Chú em ơi! Hãy dùng cây kéo vào việc khác. Thuật hớt râu của chú không thua ta đâu. Chú em có món vũ khí đó mà không biết dùng.

- Dương-Qua ngạc nhiên hỏi:

- Sao lại không biết sử dụng.

Bá-Thông cười ha ha:

- A! Chú em chưa hiểu ư? Nhưng rồi sẽ biết.

Châu-bá-Thông chợt thấy cái roi vàng của Doãn-khắc-Tây vút tới, liền vung tay đập mạnh. Roi quật ngược vào lưng Khắc-Tây, cả người lẫn roi đều rơi xuống đất. Bá-Thông gọi lớn:

- Cái roi lòe loẹt của ngươi, thế mà thú đấy!

Dứt lời, Phàn-nhất-Ông bay vút tới, Bá-Thông liền nhích qua một bên rồi cười, nói:

- Bộ râu rậm rạp kia thỉnh thoảng cũng quấy rầy kẻ khác được đấy chứ?

Đoạn lão đưa tay vút hàm râu của lão, cười ngạo nghễ:

- Râu ta để vuốt chơi cho thanh nhã, chứ không phải như ngươi dùng râu để làm cái chổi đánh người.

Nói chưa dứt, đã bị bộ râu Nhất-Ông quật trúng vào má, Bá-Thông cảm thấy ran rát, chứ không đau đớn mấy.

Nếu Châu-bá-Thông có võ công vững chắc thì bị một cái vụt râu của Phàn-nhất-Ông đã choáng váng, mà rơi xuống đất rồi, nhưng lão vẫn bình thản, nét mặt tươi vui, không tỏ một cử chỉ nào tức giận, cười lớn:

- Này, chú râu dài! Râu ta ngắn hơn râu chú, thì chúng ta đừng đọ nữa nhé!

Nhất-Ông vừa quất trúng địch một đòn lòng hiu hiu tự đắc không thèm nghe lời diễu cợt của Châu-bá-Thông, lão quất tiếp một lần nữa. Bá-Thông không dám khinh thường tung một trái dùng "Không minh quyền" đấm ra một cái. Râu lão lùn bị gió quá mạnh, đẩy tạt trở lại. Vừa lúc Mã-quang-Tổ tung mình lên đánh Bá-Thông thì râu Nhất-Ông lại quất mạnh vào mặt Quang-Tổ, mù cả mắt. Hắn liền đưa hai tay chợp lấy bộ râu.

Râu Nhất-Ông xưa nay có mãnh lực phi thường, nhưng lúc ấy vừa bị cái đâm "Không minh quyền" của Bá-Thông tống ra, lại gặp bàn tay Quang-Tổ dùng sức kinh công vớ chặt, Nhất-Ông giật mình, dùng sức đoạt lại, nhưng bị Mã-quang-Tổ nắm cứng. Thế là Mã-quang-Tổ và Phàn-nhất-Ông dính chung một đùm, nhào xuống đất. Hai người đều tức giận, quắc mắt nhìn nhau.

Nhất-Ông gắng giọng nói:

- Sao ngươi tóm râu ta, lại không chịu thả?

Mã-quang-Tổ đã bị chân lão lùn đạp trúng vào bụng đau quá, lại bị lão lùn mắng nữa, liền quát lại:

- Ta không thả thì ngươi làm gì?

Vừa quát hắn vừa luồn tay phải vào bộ râu xoay mấy vòng. Nhất-Ông đánh vào mặt một chưởng. Hắn nghiêng đầu tránh, nào ngờ tay trái lão lùn đánh một quyền ngay vào sống mũi, Mã-quang-Tổ đau quá hét lên:

- ái! Lão quái nầy!

Tuy bị đánh Quang-Tổ vẫn không thả hàm râu, dùng tay trái đấm trả lại cho hả giận. Thực ra võ công của Mã-quang-Tổ kém hơn Nhất-Ông, nhưng khốn nổi bộ râu của lão bị quấn chặt vào tay Quang-Tổ, thành thử đầu cổ lão không cựa được, đành để cho Quang-Tổ đấm đá thình thịch.

Lúc ấy, hai đấu thủ một cao một lùn, thoi đấm nhau huỳnh huỵch dưới đất. Lão lùn tay đè trên mình Quang-Tổ, nhưng không rút bộ râu ra được.

Kim-Luân pháp-vương thấy đại sảnh náo động, và sáu người cùng bọn không đánh nổi lão già bướng bỉnh, nên quá thẹn lo nghĩ:

Lão bướng bỉnh nầy ta phải lừa dịp hại lão cho xong, chứ không có tài nào bắt sống được.

Định ý như vậy, Pháp-vương thò tay vào túi, lấy ra hai vòng tròn một vòng đồng, một vòng bạc, như hai cái đĩa, ném tung lên mặt Châu-bá-Thông. Hai vòng kim khí bay thành hai vòng cung, kêu rít nghe rợn người. Bá-Thông không biết vũ khí lợi hại, kêu hỏi:

- A! Vật gì quái thế?

Vừa hỏi lão vừa đưa tay ra toan bắt.

Dương-Qua thấy Kim-luân Pháp-Vương cố dùng vũ khí giết Châu-bá-Thông, trong lúc vô ý, chàng cảm thấy thương hại, vội la lớn:

- Tránh đi đừng có bắt!

Đồng thời chàng dùng thiết trượng lên gạt hai vòng kim khí. Nghe "choang" một tiếng, hai vòng ấy tạc ngang vô tường, tung ra những tia lửa sáng lòe, rồi lại vút bay lên trần nhà. Lúc đó Châu-bá-Thông mới biết Kim-luân Pháp-Vương võ nghệ cao cường, thầm nghĩ.

- Thôi, bây giờ mình đã mệt rồi mà trêu ghẹo lâu, họ đồng tâm hợp lực lại, thì mình không thoát được.

Bá-Thông liền nhảy xuống đất kêu:

- Kính chào quí vị! Hôm nay lão chưa có dịp gặp quý khách. Thôi, để ngày mai chúng ta chơi lại.

Dứt lời lão chạy vút ra cửa. Nhưng ngoài cửa đã có bốn người áo xanh giăng lưới rồi. Châu-bá-Thông đã bị mắc lưới ấy một lần, nên hoảng hốt la lên:

- A! Nguy thay!

Lão chạy vụt về phía Đông, toan nhảy ra cửa sổ. Nhưng phía ấy cũng thấy căng lưới sẵn có bốn người mặc áo xanh đứng rình. Lão chạy vô giữa nhà, đảo mắt nhìn tứ phía, thấy cửa nào cũng có bốn đệ tử áo xanh, và lưới đã căng sẵn hết.

Hết lối đi, lão lại vọt lên xà nhà, dùng tay đánh tống lên định chui lên nóc.

Vừa mới lô đầu lên, tấm lưới đã phủ lên đầu! Lão phải nhảy xuống đất, chỉ tay vào mặt chúa động, cười nói:

- Ông giữ lão già nầy lại để làm gì? Ngày nào cũng ăn rau, uống nước lã, thì nuôi ta sao được?

Chúa động nghiêm nghị nói:

- Ngươi đã lấy sách đạo của ta. Bây giờ ngươi muốn ra khỏi động nầy, thì phải trả các vật ấy cho ta lại đây?

Châu-bá-Thông ngạc nhiên nói:

- Ta lấy sách đạo của các ngươi để làm gì? Về bản lĩnh của ta đâu có kém hơn người, mà phải cần các thứ đó?

Lão chúa động thong thả bước lại gần Châu-bá-Thông nói:

- Nếu hôm nay không có ngày vui của ta, thì ngươi đã lãnh giáo ít đòn rồi! Nếu biết điều trả lại đây, rồi thong thả ra về.

Châu-bá-Thông nổi giận hét lớn:

- Ngươi dám nói thế sao? Ta mà đi trộm của ngươi à? Ngươi nói thế thì coi cho kỹ đây, có cái gì của nhà ngươi thì lấy lại.

Lão vừa nói, vừa đưa tay cởi áo tháo quần. Chỉ trong nháy mắt lão đứng trần trục. Chúa động luôn miệng quát:

- Thôi...! Đi... đi...!

Nhưng lão không nghe, cứ cầm áo cầm quần dũ thật kỹ, quả nhiên không có vật gì rơi xuống.

Bọn đệ tử trong động hoảng quá, vội vã quay đầu bịt mặt. Thật là một việc quá sỗ sàng, không ai làm được.

Chúa động cúi đầu suy nghĩ:

- Thật là! lão nầy không có lấy những vật ấy! Vậy thì có một tay nào lợi hại lắm, mới dám vào phòng ta lấy sách được. Nếu ta không tìm được thủ phạm, thì động ta sẽ có điều quan hệ đây?

Châu-bá-Thông vỗ tay nói:

- Xem ngươi đã cũng đúng tuổi, sao không biết kính nể người già, bịt mặt những chuyện vô lý, để làm xấu ta trước mặt mọi người. Ngươi không sợ người đời chê cười sao?

Lão chúa động không biết nói sao cả, chợt nghe có tiếng thình thịch, quay đầu nhìn lại thì thấy Phàn-nhất-Ông và Mã-quang-Tổ còn vật đánh nhau. Lão bèn quát:

- Nhất-Ông! Hãy đứng dậy!

Châu-bá-Thông cười nói:

- Người ta bỏ việc nầy thì không nói, để đi la cái chuyện họ không hỏi đến.

Chúa động cau mày nói:

- Lão bảo rằng giữa chỗ đại sảnh đông người, mà làm việc xấu xa, như thế đâu có can hệ gì đến ta. Câu nói ấy chính ngươi tự trách ngươi đấy thôi.

Châu-bá-Thông cười nói:

- Khi lọt lòng mẹ ta, ta cũng không áo quần, thì lúc nầy ta bỏ áo quần ra, tấm thân thiên nhiên của ta cũng trong sạch đường hoàng có gì là xấu. Chứ ông đã già rồi, muốn giữ vẻ nghiêm trang của bề ngoài, mà lương tâm lại muốn cưới con gái đáng con cháu mình thì thật khó coi! Hà! Hà... Như thế là thân hình ông đẹp lắm đấy!

Câu nói như mũi dùi chít vào tai. Chúa động đôi mắt đỏ ngầu, mặt xám lại, miệng như không nói được.

Phàn-nhất-Ông và Mã-quang-Tổ vẫn cứ đè vật nhau mãi. Nhất-Ông nghe chúa động gọi, muốn đứng dậy, nhưng khốn nỗi bộ râu bị Quang-Tổ quấn chặt, không cách nào rứt ra được. Còn Mã-quang-Tổ bị lão đè lên trên, và đánh thùi thụi, hắn ỷ sức mạnh nên cứ việc quấn ghì chặt bộ râu xuống đất, không cho lão đứng dậy.

Mọi người chưa biết phải làm sao để chữa hai người thì Châu-bá-Thông kêu lên:

- Ôi chao! Ta quên mặc quần áo lạnh quá!

Chưa dứt lời, lão chạy vụt ra cửa. Bốn đệ tử vừa thấy bóng người chạy ra cửa, vội tung lưới chụp xuống gút miệng rất nhanh. Người mắc vào lưới dãy quá mạnh. Bốn người áo xanh túm bốn đầu dây lại cột thật kỹ, để khiêng đến trình chúa động.

Thứ lưới này rất bền, nhờ kết bằng sợi kim khí, nên dao chém cũng không rách. Lại thêm bốn tay căng lưới, đã được tập luyện rành rẽ, họ tung giật nhanh như chớp, dẫu cho tay cao thủ cũng không kịp đối phó, để thoát thân.

Bấy giờ bốn tay bắt được địch thủ, ai nấy đều hớn hở, lo khiêng vào để trước mặt chúa động. Một người áo xanh đứng cúi đầu thưa:

- Thưa sư phụ, bốn đệ tử cửa chánh đã bắt được lão già trốn thoát bữa qua.

Chủ động chăm chú nhìn vào lưới. Bỗng nhiên biến sắc mặt, quát lớn:

- Bọn mi không có mắt hay sao?

Bốn đệ tử vội nhìn vào lưới, người nào, người nấy, thất vía hồn kinh, mặt không còn chút máu. Họ luống cuống xúm nhau lại mở lưới, thả hai người trong lưới ra. Thì đó là Phàn-nhất-Ông và Mã-quang-Tổ!

Sự thật Châu-bá-Thông tuột quần áo, đứng tần ngần, để mọi người mắc cỡ không để ý đến, lại tiếp nói những câu sách hạch để cho chúa động xấu hổ không còn tinh thần sáng suốt đề phòng được.

Mọi người đều nghĩ rằng lão đang còn nói nhiều với chúa động và có ra đi cũng phải mặc quần đã.

Nhưng Châu-bá-Thông đã dự định sẵn. Lão vừa nói với chúa động vừa xem xét tứ phía. Khi nói gần hết lời lão lướt qua phía gần Phàn-nhất-Ông và Mã-quang-Tổ, nắm gáy hai người quăng vào lưới và thừa lúc gã đệ tử phủ lưới xuống, lo túm cột lưới, lão phóng mình qua, không ai hay biết. Thật là một lối thoát thân "Dương đông kích tây".

Chúa động quá thẹn mặt trước mọi người. Vì chỉ có một lão ương ngạnh đó mà đã dùng mưu đánh Phàn-nhất-Ông, làm cho Nhất-Ông bị đồng bọn đánh rồi bị mắc vào lưới. Còn chúa động cũng phải chịu những lời xỉ mạ quá đau đớn.

Bọn Kim-luân Pháp-Vương cũng không khỏi hổ thầm:

- Mình cũng là tay giỏi trong võ lâm, mà nay đến bao nhiêu người họp sức đánh bắt không được một lão điên điên, khùng khùng, mà lại còn bị lão làm trò cười, thì thật là bất tài!

Riêng Dương-Qua là không buồn. Chàng thầm nghĩ:

- May là lão bị bắt, thì bây giờ mình lo cứu giúp cũng khổ.

Kim-luân Pháp-Vương ý muốn dò hỏi lai lịch của vị chúa động, nhưng lúc nầy lão thấy chúa động dồn dập nhiều việc buồn khổ, nên tỏ ý hỏi dò đồng bọn và muốn rút lui khỏi động. Thấy năm người cũng đồng ý, Kim-luân Pháp-Vương đứng dậy chắp tay, nói với động chủ:

- Rất cảm thịnh tình động chủ hậu đãi chúng tôi, đăng ký nên ở để được lãnh giáo nhiều nữa. Nhưng mọi người chúng tôi đi đây, đều có việc cần riêng. Vậy xin được cáo biệt.

Lúc đầu, chúa động có ý nghi ngờ sáu người nầy cũng một bọn với Châu-bá-Thông, nhưng sau thấy Tiêu-tương-Tử, và cả bọn Pháp-Vương đều lăng vào ác đấu với Châu-bá-Thông, nên ông ta có phần lưu luyến.

Chúa động bèn đứng dậy chắp tay nói:

- Tiểu đệ có một chút việc muốn nói, chẳng hiểu chư vị có thể nhận lời cho chăng?

Pháp-Vương nói:

- Nếu điều đó chúng tôi có thể làm được, thì chẳng dám từ chối.

Chúa động nói:

- Chiều hôm nay, tiểu đệ làm lễ tục huyền, muốn mời chư vị ở lại chia vui. Nơi đây là núi hẻm thôn cùng, đã mấy trăm năm nay ít có bóng người tìm đến.

Hôm nay lục vị quý khách chu du đến đây thăm, thật là hắn mạnh vô cùng cho tiểu đệ!

Mã-quang-Tổ nói:

- Động chủ có uống rượu không?

Chúa động chưa kịp trả lời, đột nhiên thoáng thấy bóng người ngoài cửa.

Liền lúc đó một cô gái áo trắng thoăn thoắt bước vào hỏi:

- Kẻ nào gây náo loạn ở đây, và đã tẩu thoát rồi sao?

Dương-Qua trông thấy vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Chàng đứng dậy bước vội ra nắm tay kêu lớn:

- Kìa! Cô! Không ngờ cô đến đây! Tiểu đệ đi tìm cô đã khổ cực nhiều lắm!

Cô gái ngơ ngác, nhìn Dương-Qua tỏ vẻ lạnh lùng nói:

- Người này là ai mà dám xưng hô với tôi như thế?

Dương-Qua giật mình, chăm chăm nhìn vào mặt thiếu nữ áo trắng. Chàng thấy dáng người đẹp đẽ, nét mặt quen thuộc không khác Tiểu-long-Nữ.

Chàng liền hỏi lại:

- Thưa cô, em là Dương-Qua đây mà! Sao cô không nhận em?

Cô gái ngơ ngác nhìn chàng, khẽ lắc đầu:

- Xưa nay tôi chưa hề gặp ông lần nào, sao ông lại xưng hô với trịnh trọng như thế?

Dứt lời nàng bước lên ngồi bên chúa động.

Chúa động vui vẻ đứng dậy, trỏ tay vào nàng giới thiệu với bọn Pháp-Vương:

- Tiểu đệ xin giới thiệu cùng quý khách rõ. Đây chính là vị tân hôn của tôi. Tôi đã chọn được giờ tốt là chiều nay làm lễ thành thân.

Tuy lời nói có vẻ ôn hòa, nhưng đôi mắt của chúa động nhìn Dương-Qua có vẻ bất bình.

Có lẽ lão giận Dương-Qua vừa rồi đã ăn nói sỗ sàng, nhận lầm làm người tân phu nhân của lão một cách quá đường đột.

Nhưng Dương-Qua vẫn đinh ninh thiếu nữ áo trắng đó nhất định là Tiểu-long-Nữ. Chàng nóng lòng không thể chịu nổi, liền nói lớn:

- Thưa cô! Cô không phải là Tiểu-long-Nữ, thì còn là ai? Cô là thầy của tôi mà!

Cô gái áo trắng nghiêm nghị nhìn thẳng vào mặt chàng, lạnh lùng lắc đầu nói:

- Tôi không hiểu Tiểu-long-Nữ mà ông hỏi đó là ai vậy?

Dương-Qua hai hàm răng cắn chặt, đôi mắt không ngớt nhìn cô gái áo trắng, đầu óc rối loạn, suy nghĩ miên man:

- Cô giận ta chăng? Tại sao không nhìn nhận ta? Hay cả hai cùng lạc vào hiểm địa nên cô giả cách làm ngơ? Lẽ nào trên đời lại có một người thứ hai giống hệt cô được.

Chàng tuy rất thông minh, có tài tùy cơ ứng biến, song một khi trái tim đã rối loạn lên vì động đến chân tình, tay chạm phải "đóa hoa tình" thì không thể nào đè nén nổi!

Chàng khẽ kêu lên một tiếng "ái".

Công-tôn Động-chủ thấy vẻ mặt chàng hơi rối loạn, khẽ nhíu mày hỏi nhỏ em gái:

- Em Liễu! Hôm nay gặp rất nhiều dị nhân nhỉ!

Cô gái không đáp, rót một chén nước trong, đưa lên, môi nốc cạn, rồi liếc mắt nhìn qua từng người. Nhưng nàng không nhìn Dương-Qua.

Nếu là kẻ ngoại cuộc, Dương-Qua lặng lẽ dò xét tình hình, đàng nầy chàng vốn có tính nóng, hơn nữa đã nghe rõ động chủ tuyên bố chiều hôm ấy sẽ làm lễ thành hôn, nên chàng cuống quít quay lại hỏi Kim-luân Pháp-Vương:

- Thầy tôi có một lần tỉ võ với ngài, hẳn ngài còn nhớ. Điều nầy ngài có bảo là tôi nhận lầm nữa chăng?

Thực ra từ lúc thiếu nữ mới bước vào. Pháp-Vương đã nhận ra là Tiểu-long-Nữ. Nhưng lão thấy Dương-Qua gọi nàng mà nàng không hề để ý đến, nên Pháp-Vương đoán biết cặp trai gái bên trong hẳn có điều gì rắc rối. Lão mỉm cười đáp:

- Ta không nhớ rõ điều đó.

Sở dĩ Pháp-Vương nói như vậy là có một dụng ý riêng. Trước đây Tiểu-long-Nữ đã dùng Dương-Qua tiếp tay sử dụng kiếm pháp khiến cho lão phải thảm bại. Nay võ công của Dương-Qua đã đến độ siêu việt rồi, nếu đôi trai gái nầy họp sức thì thật khó lòng. Nếu lão vụng về để cho cặp trai gái ấy tiếp tay nhau thì lão không thể nào thủ thắng được, nên lão phải lập kế để ly gián.

Dương-Qua nghe lão đáp ngạc nhiên nghĩ thầm:

- Ôi! Lòng người xảo trá khôn lường! Đã cùng đến chỗ nầy, trong lúc hắn bị thương nguy khốn, ta ra sức cứu hắn, mà giờ hắn lại toan hại ta.

Pháp-Vương thấy nét mặt Dương-Qua có vẻ giận hờn, thần sắc đổi khác, lòng thầm nhủ:

- Nó đã trở mặt hiềm thù với ta, nếu ta để cho nó sống ắt sau nầy mang họa! Hãy thừa dịp nầy mà trừ đi cho sớm.

Định ý như vậy, lão liền vung tay nói với Bang-chủ và cô gái áo trắng:

- Hôm nay chúng tôi hân hạnh được dự ngày đại hội của nhị vị, ngặt vì chúng tôi không có chút lễ mọn nào gọi là lưu chút hậu tình, chúng tôi lấy làm áy náy.

Động chủ thấy Pháp-Vương chịu ở lại dự lễ cưới của mình, niềm vui lai láng, quay lại nói với cô gái áo trắng:

- Quí vị đây đều là những vật cao siêu trong giới võ lâm. Chúng ta được một vị đến dự cũng đủ vinh dự lắm rồi, huống hồ có cả...

Nói đến đây, động chủ vội dừng lại. Vì ông chợt nghĩ đến Dương-Qua, một chàng trẻ tuổi, võ công lại tầm thường, cứ như vừa rồi chàng đấu thử với Châu-bá-Thông chưa đầy một hiệp đã loi nhoi nhảy xuống đất, như thế võ công chàng kể vào đâu? Thật không đáng mặt liệt vào hạng cao nhân trong giới Võ-lâm. Tuy nhiên nếu bỏ chàng ra, chỉ nói đến "năm vị" e lại có điều bất lịch sự, do đó, động chủ ngập ngừng một lúc rồi lựa lời nói tiếp:

- Huống hồ chi nhiều vị anh hùng chiếu cố thế này.

Tiếp đó, Lão bô bô giới thiệu uy danh từng người, rất khách sáo. Cuối cùng đến Dương-Qua lão chỉ giới thiệu vắn tắt:

- Còn vị nầy là người họ Dương.

Pháp Vương cười thầm, gật gù nghĩ:

- Động chủ nầy khéo léo, mưu kế lại cao siêu, cứ xem lão tung lưới bắt Châu-bá-Thông cũng đủ biết mưu lược thế nào rồi. Tuy nhiên, tánh lão hơi hẹp hòi. Dương-Qua mới nói với Tiểu-Long-Nữ vài câu lão đã canh cánh để bụng.

Cô gái áo trắng nghe động chủ giới thiệu đến danh hiệu người nào cũng gật đầu, nhưng nàng luôn luôn với thái độ lạnh nhạt. Cho đến lúc Động chủ giới thiệu Dương-Qua, nàng cũng với vẻ mặt ấy, không hề thay đổi.

Dương-Qua đỏ bừng đôi má, lòng nôn nao như đợt sóng thủy triều. Động chủ nói gì chàng cũng không nghe được.

Na-mi-Tinh và Doãn-khắc-Tây vốn không hiểu rõ tâm trạng, cứ tưởng chàng vì nhận lầm người nên e thẹn áy náy, và họ không để ý đến.

Duy có Công-tôn Lục-Ngạc, con gái Động chủ, bấy giờ đứng sau lưng cha, mắt luôn luôn theo dõi Dương-Qua không bỏ sót một cử chỉ.

Nàng nghĩ thầm:

- Hồi sáng "Tình hoa" đã chạm vào đầu ngón tay hắn, khiến hắn bị đau, gây thảm não vào tâm hồn hắn, cứ xem bộ điệu là bà dì ghẻ của ta tất phải là ý trung nhân của hắn rồi! Sao lại có chuyện tình cờ như vậy? Biết đâu bọn người nầy kéo đến động ta cũng chỉ vì bà dì ghẻ của ta đó thôi.

Nàng khẽ nghiêng đầu nhìn cô gái áo trắng, thấy nét mặt cô nầy không có vẻ vui mà cũng không có vẻ thẹn thùng gì cả. Thật không phải dáng điệu người sắp làm dâu, khiến cho nàng càng nghi ngờ hơn nữa.

Dương-Qua tuy có tánh nóng nảy bồng bột, nhưng lại có một chút thông minh, nên cố lòng nén giận, thầm đoán:

- Cô mình cố ý làm lơ, không nhìn nhận mình, có lẽ cô mình đã sắp sẵn mưu kế gì đây chăng? Vậy mình cứ yên lặng dò xét xem sao.

Chàng đứng dậy, chắp tay vái động chủ một cái, rồi cất giọng nói:

- Thưa động chủ, vì tôi có một người bề trên, dung nhan giống hệt tân phu nhân đây, do đó, lúc nẫy tôi vội vã tưởng lầm, xin động chủ thứ lỗi cho.

Giọng chàng rất thanh tao và lễ độ, khiến động chủ đang giận cũng phải vui lòng. Ông ta đáp lễ, nói:

- Nhận lầm người quen đó là một việc thường, không có gì khinh mạng, xin lệnh tôn cứ an tâm.

Ngừng một lúc, Động chủ lại vui vẻ nói tiếp:

- Chỉ có điều tại sao trong đời lại có hai người giống hệt nhau để kẻ khác phải lầm lẫn nhỉ. Thật là chuyện lạ lùng.

Câu nói ấy, Động chủ tỏ ý tự đắc khen vợ sắp cưới của ông là một tuyệt thế giai nhân, trong đời không có một người thứ hai như vậy.

Dương-Qua nói:

- Thật vậy, Tiểu-tử cũng lấy làm lạ. Tại sao trong đời lại có hai sắc đẹp của hai người như một... Vậy tiểu-tử xin phép được biết tôn phu nhân danh hiệu là gì?

Theo tục lệ ở xứ Trung-Nguyên, người con gái không bao giờ ra chào khách một cách dễ dàng như vậy. Nhưng ở đây bọn Kim-luân Pháp-Vương vốn là người rợ miền Tây-vực, nên lễ nghi đều không cố chấp.

Khi thấy cô gái áo trắng bước ra chào không ai ngạc nhiên cả. Họ chỉ lấy làm lạ tại sao đã gần ngày cưới mà cô ta lại còn mặc đồ trắng mà thôi.

Bây giờ Dương-Qua hỏi tên vợ mình, Công tôn động chủ mỉm cười dùng lời nhỏ nhẹ đáp:

- Nàng họ Liễu! Vậy người quen của lệnh tôn có phải họ Liễu chăng?

Dương-Qua lắc đầu đáp:

- Không phải.

Nhưng chàng lại thắc mắc nghĩ thầm:

- Cô ta lại để ra họ Liễu để làm gì? Tại sao phải dấu tên họ. Bỗng nhiên chàng hiểu ra, lẩm bẩm một mình:

- A! Phải rồi! Vì ta là họ Dương nên cô ta đổi ra họ Liễu. Dương Liễu đấy mà!

Nghĩ như thế, chàng lại cảm thấy đau nhói ở cái đầu ngón tay, mày cau lại, mặt hơi tái.

Nàng Lục Ngạc thấy chàng tỏ vẻ đau đớn lấy làm thương hại, đôi mắt nàng vẫn đăm đăm nhìn vào Dương-Qua không bỏ sót một cử chỉ nào.

Dương-Qua cố nén lòng, nhưng bỗng vụt miệng hỏi Động chủ:

- Thưa động chủ! Tôn phu-nhân có phải là người con gái thứ hai không?

Công tôn động chủ ngạc nhiên không hiểu ý gì mà Dương-Qua lại hỏi như thế, nên nói:

- Tại sao lệnh tôn biết?

Dương-Qua mỉm cười nói:

- Tôi chỉ đoán chừng như thế chẳng biết có đúng hay không?

Mọi người đều im lặng, trầm lặng qua phút suy tư.

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 47 : Động Phòng Hoa Chúc

Sở dĩ Dương-Qua hỏi câu đó là vì chàng nhớ lại một tiểu thuyết đời Đường do Liễu-Nghi sáng tác, trong đó có câu chuyện "Long-Nữ chăn dê" chàng nghĩ rằng Long-Nữ với họ Liễu vốn có nguồn gốc sâu xa, và chàng đinh ninh cô gái áo trắng trước mặt chàng chắc chắn là thầy võ của chàng. Đó là họ Liễu tất phải có liên quan đến Tiểu-Long-Nữ.

Công-tôn Động-chủ thấy Dương-Qua hỏi như vậy, có ý nghi ngờ, đưa mắt nhìn Dương-Qua, rồi lại nhìn cô gái áo trắng. Thấy cô gái áo trắng vẫn cúi đầu không nói một lời, làm cho ông ta khó chịu, muốn hỏi xem sao. Nhưng ông lại nghĩ:

- Việc đó không nên hỏi trước mặt mọi người, cứ để động phòng hoa chúc rồi sẽ hỏi cũng chẳng muộn.

Nhưng thấy Dương-Qua miệng cứ mấp máy mãi, làm cho ông không chịu nổi toan cất lời hỏi Dương-Qua thì chàng đã ứng tiếng hỏi tiếp:

- Liễu cô nương ấy không phải là người sinh đẻ nơi đây, vậy chẳng hay vì đâu Động chủ lại quen biết với nàng?

Câu hỏi của Dương-Qua làm cho Động chủ muốn biết lai lịch của nàng, người vợ mới cưới của mình, nên thầm nghĩ:

- Có lẽ thằng nầy biết rõ lai lịch cô gái nầy chăng? Thế thì ra không nên giấu giếm làm chi.

Ông ta bèn đáp:

- Dương Tráng-sĩ nhận xét quả không lầm! Cách đây nửa tháng tôi có ra ngoài núi hái thuốc, gặp nàng bị trọng thương nằm dưới chân núi, hơi thở thoi thóp. Xem qua tôi biết nàng vì luyện công quá sức, nên nguyên khí bị thoát ra ngoài hết. Tôi liền cứu chữa, và đem nàng về đây bàn tính chuyện xe duyên. Thực ra, việc nầy cũng là chuyện ngẫu nhiên, do tơ hồng khéo buộc.

Kim-luân Pháp-Vương cười ha hả xen vào:

- Đó thật là đúng "Duyên trời định". Cô nương vì muốn đem thân đền đáp nhân nghĩa, nên gởi má hồng vào động chủ. Như thế đẹp duyên biết là bao. Còn gì vui sướng cho bằng khi tình yêu thông cảm giữa đôi gái sắc trai tài.

Pháp-Vương nói thế mục đích tán nịnh động chủ, và cũng để chọc tức Dương-Qua đau buồn mà chơi.

Quả nhiên mặt Dương-Qua biến sắc thở dài nói:

- Té ra trên đời này lại có thứ linh đơn cứu khỏi bệnh cô nương. Tôi cứ tưởng bệnh ấy phải dùng máu tươi mới cứu nổi.

Cô gái áo trắng nghe Dương-Qua nói như vậy bỗng rú lên một tiếng, máu tươi trong miệng vọt ra đỏ ối, nhuộm đỏ cả một vạt áo trông rất ghê rợn.

Mọi người hoảng sợ, không ai bảo ai, nhất loạt đứng dậy rời khỏi chỗ ngồi.

Nguyên Liễu cô nương nầy chính là Tiểu-Long-Nữ, chẳng phải ai khác.

Sau khi nghe câu chuyện của Hoàng-Dung, nàng nghĩ đi nghĩ lại tính toán đủ điều. Nếu nàng kết duyên với Dương-Qua thì làm nàng trọn đời bị người ta khinh bỉ, thóa mạ. Bằng cứ cùng chàng sống mãi trong cổ mộ thì lâu ngày chàng cũng phải mang mối sầu muộn ai bi.

Suốt mấy đêm dài, nàng vẩn vơ suy nghĩ mãi không sao chợp mắt được.

Kế đó trong một lúc cương quyết, nàng ngầm bỏ đi, nhưng trong tim nàng vẫn còn mang nặng mối tình yêu với Dương-Qua, một tình yêu quá nặng khắc ghi vào tâm khảm không thể phai mờ được.

Cho nên, sau những giờ phút phải vận hết lý trí để thắng tâm hồn, nàng đã thêm bơ vơ trong bụi đời hoang lạnh.

Nàng ra đi! Đi mãi không định hướng, mang theo một nỗi u buồn không bờ bến.

Rồi một ngày kia, vì buồn khổ quá, nàng phải đến một chân núi quạnh vắng để trấn nhiếp tâm hồn.

Nhưng tình yêu của nàng như dồn đầy tâm khảm, không còn có một sức nào có thể đè ép được nữa.

Trong lúc nàng vận nội công chế ngự, thì nhớ thương rào rạt tuông trào như sóng trùng dương, các kinh mạch đều bị xung phá, bệnh cũ tái phát dữ dội.

Nếu không gặp được Công-Tôn Động-chủ qua đường bắt gặp, và gia tâm cứu chữa, thì tấm thân ngà ngọc của nàng đã tan rã nơi núi vắng rừng hoang rồi!

Công-Tôn động chủ góa vợ đã lâu, đường tình ái đã phai nhạt, bỗng một sớm gặp Tiểu-Long-Nữ, một đóa hoa sắc nước hương trời, thật là một việc không thể tưởng tượng trong đời lão. Do đó, lòng hào hiệp của người không khỏi len lỏi vào một tình luyến ái. Lửa tình lại nổi dậy sưởi ấm lòng người cô quạnh kia.

Còn Tiểu-Long-Nữ bấy giờ đã có một tâm trạng chán đời. Lại sợ nếu mình sống cô độc lẻ loi thì không thể tự quản chế đau buồn. Mà lặn suối trèo non đi tìm kiếm Dương-Qua thì không khỏi di hại cho chàng.

Do đó, khi thấy Công-Tôn động chủ thổ lộ tâm tình, nàng cũng bằng lòng, và thầm nhủ:

- Một khi đã làm vợ người ta rồi thì mối dây oan nghiệt giữa nàng và Dương-Qua sẽ cắt đứt. Vả lại động thủy-tiên là chỗ u tịch, hoang vu, ai tìm đến. Tấm thân nàng đã được Công-Tôn động-chủ cứu sống thì kiếp sống thừa ấy cũng chẳng tiếc gì mà không đền đáp cho người ân. Kiếp nầy đã mong chẳng trọn còn mong gì cuộc lương duyên với chàng nữa.

Nàng có ý định như thế, nhưng trời chẳng chiều lòng người khiến Châu-bá-Thông chạy đến đại náo, khiến Dương-Qua tìm vào thủy tiên động. Và, hôm ấy bất ngờ trông thấy mặt chàng, nàng choáng váng cả đầu óc, ruột rối như tơ vò không còn biết tính làm sao nữa.

Nhưng Tiểu-Long-Nữ là kẻ điềm tĩnh, chỉ chốc lát nàng đã quyết định ngay:

- Mình đã hứa đính hôn với người khác, thế thì cũng nên làm mặt lạ đối với chàng cho xong. Thế nào chàng cũng giận và bỏ ra đi. Nhưng như vậy nàng an lòng hơn, vì một chàng trai tài năng tuấn tú chàng lo gì chẳng tìm được một người vợ xứng đáng? Nếu chàng có buồn bực đôi chút thì ngày kia chàng lấy được vợ chàng sẽ vui vẻ hơn, khỏi phải bị ràng buộc bởi hoàn cảnh khó xử của nàng, và chàng sẽ khỏi ôm hận suốt đời.

Vì thế, khi trông thấy Dương-Qua nàng đã cố giữ vẻ lãnh đạm, giả như không quen biết, mặc dù lòng nàng nóng như lửa bỏng.

Nhưng bản lĩnh con người không đủ để chế ngự bản năng. Dương-Qua đến, như đem đến cho nàng bao nhiêu hình ảnh xa xưa, những kỷ niệm êm đềm gợi ra trước mắt, và tình yêu dần dần xâm chiếm cả tâm hồn nàng mỗi lúc một xao động, đau khổ dày vò nàng ghê gớm.

Cho đến lúc nàng chợt nghe câu nói của Dương-Qua: "Tôi tưởng bệnh ấy phải dùng máu mới cứu nổi" thì nàng nghĩ ngay đến chuyện cũ trước kia ở trong cổ mộ, khi chàng cưu mang nàng.

Hồi đó, nàng bị Triệu-chí-Kinh và Doãn-chí-Bình chọc tức đến tức giận thổ huyết. Trong cơn nguy cấp chàng đã không nghĩ đến tánh mạng chàng, liền chích máu tươi của chàng, tiếp vào thân thể của nàng cho nàng được hồi sinh. Cái cảnh thân ái với mối tình tha thiết ấy nàng đã khắc vào tâm khảm, dấu kín trong tim. Nay bị khơi ra, nàng xúc động quá, máu nóng bốc lên mãnh liệt, và nàng bị thổ huyết rất ghê rợn.

Mặt nàng tái nhợt, nàng lảo đảo toan bước vào nhà trong nhưng Công-Tôn Động-chủ vốn giỏi về y lý, nên vội bảo:

- Không không! Em cứ đứng im đừng gượng bước, làm động đậy các gân mạch.

Đoạn lão quay lại nói với Dương-Qua:

- Ngươi hãy ra khỏi nơi nầy, và đừng bao giờ trở lại đây nữa.

Dương-Qua mắt đẫm lệ, không đáp lời Động chủ, quay lại nói với Tiểu-Long-Nữ:

- Thưa cô! Nếu tôi có lầm lỗi gì xin cô nương đánh tôi, mắng tôi hay giết tôi đi, tôi cũng cam lòng, sao cô nương lại nỡ làm lơ không nhìn đến tôi?

Tiểu-Long-Nữ cúi đầu không nói, chỉ ho vài tiếng, máu bắn ra xối xả.

Công-Tôn Động-chủ thấy Dương-Qua dùng lời nói khích đến nỗi vị hôn thê của ông thổ huyết, ông đã có ý giận. Nhưng ông vốn người có tánh kiên nhẫn, mặc dầu giận dữ cũng nén được.

Bây giờ lại nghe Dương-Qua nói nữa, lão cúi gầm mặt dằn mạnh từng tiếng:

- Nếu ngươi lấn khấn không chịu ra khỏi nơi đây thì đừng trách ta vô tình.

Dương-Qua lúc nầy đâu thèm để ý đến sắc mặt và lời nói của Động chủ. Chàng chăm chăm nhìn Tiểu-Long-Nữ, nói như van lơn, kêu cứu:

- Cô nương ơi! Tôi xin thề giữ trọn kiếp sống trong cổ mộ để hầu cô-nương quyết không hối tiếc sau nầy! Hai ta nên đi đi thôi.

Tiểu-Long-Nữ ngẩng đầu lên, nhìn thẳng vào mặt Dương-Qua, thấy mặt chàng đầy vẻ thâm tình. Tim nàng đau nhói không sao chịu nổi:

- Nàng lẩm bẩm không ra tiếng:

- Ta theo chàng về thôi!

Nhưng nàng kịp nghĩ lại:

- Không, không! Lúc ra đi ta đã đắn đo suy nghĩ kỹ càng không phải bồng bột trong chốc lát. Chính giờ phút nầy mới là giờ phút cõi lòng ta nông cạn. Nếu ta không đủ sức đè nén thì sau nầy ta lại bị khổ tâm bằng mười trước kia.

Nghĩ như thế, nàng liền quay mặt đi nơi khác, miệng nói thì thào:

- Tôi không biết ông là ai! Ông nói gì tôi chẳng hiểu! Xin ông làm ơn đi ra khỏi nơi nầy, đừng quấy rầy tôi nữa!

Giọng nói nàng thều thào trong cổ họng như cố gắng lắm mới thốt ra được.

Tuy là lời từ chối, song bên trong chứa đựng cái gì tha thiết mến yêu.

Chỉ trừ Mã-quang-Tổ là người thật thà chất phác, không hiểu xa, còn hầu hết mọi người trong đại sảnh ai cũng thấy được lòng nàng còn lưu luyến Dương-Qua lắm!

Giọng nói của nàng như tiếng khóc, chứng tỏ lời nói trái ngược với lời nàng, và là một lời bất đắc dĩ.

Công-Tôn động chủ cảm thấy ghen tức, nhủ thầm:

- Liễu! Cô nương đã nhận lời thành thân với ta, nhưng từ trước tới nay chưa hề mở miệng nói với ta một câu nào âu yếm như thế.

Lão đưa mắt trừng Dương-Qua một cái, nhưng thấy Dương-Qua mặt mũi sáng sủa, tướng mạo khôi ngô, hùng khí hiên ngang, sánh với Tiểu-Long-Nữ thì đúng một đôi gái sắc trai tài trên đời có một.

Ông ta suy nghĩ:

- Xem như thế thì biết hai đứa nầy đã có một tâm hồn yêu thương mãnh liệt, chỉ vì một phút giận hờn nào đó, ả Liễu nầy bỏ đi, rồi gặp ta và nhận lời kết hôn, nhưng trong thâm tâm vẫn không quên được tình xưa nghĩa cũ.

Nghĩ như thế, đôi mắt lão long lanh, nực mùi ghen tức.

Phàn-nhất-Ông vốn trung thành với sư phụ, từ ngày sư-mẫu mất đi, hắn thấy sư phụ của hắn buồn bã không khuây. Thời nay, sư phụ hắn vào rừng hái thuốc, gặp được nàng hoa, bao nhiêu buồn bã như biến đi đâu mất. Do đó, thầy vui thì trò cũng vui lây.

Nào ngờ, hôm nay sư phụ hắn gần đến lúc làm tiệc cưới, động lòng hoa chúc thì Dương-Qua lại xen vào, dùng lời khiêu khích, xảy ra cớ sự lẽ ra sư-phụ hắn phải tỏ rõ thái độ, nhưng thấy sư phụ hắn cứ cắn răn nhịn nhục mãi, nên hắn nổi giận, chỉ vào mặt Dương-Qua hét lớn:

- Này, gã họ Dương! Mày dám vô lễ phạm đến vị sư mẫu của ta sao. Nếu biết điều mau bước ra khỏi động nầy. Sư phụ của ta không thích hạng khách vô lễ như mi.

Dương-Qua đang đau đớn trong lòng, còn để ý gì đến lời nói của kẻ xung quanh. Tuy có tai nhưng chàng không nghe thấy tiếng quát của Phàn-nhất-Ông, chàng vẫn với vẻ mặt đăm chiêu, nhìn Tiểu-Long-Nữ nói:

- Cô nương! Thật cô nương đã quên mất đứa em nầy chăng?

Phàn-nhất-Ông nổi nóng không còn nhịn nhục được nữa, dùng tư thế lợi hại, chụp vào cổ của Dương-Qua lôi tuốt ra ngoài.

Ai cũng tưởng với sự bất ngờ của Dương-Qua, Phàn-nhất-Ông sẽ nắm cổ dễ như chơi. Nào ngờ tay Phàn-nhất-Ông vừa động tới, Dương-Qua đã giật mình vội vận gân cốt chống lại. Chỉ nghe một tiếng "xoạc" bàn tay Phàn-nhất-Ông tuột xuống, nắm trúng vạt áo của Dương-Qua xé rách một lỗ rất lớn.

Tuy vậy, Dương-Qua cũng không thèm quay lại phản ứng. Chàng vẫn tiếp tục dùng lời van vỉ Tiểu-Long-Nữ.

Thấy Tiểu-Long-Nữ không nhìn nhận chàng, lòng chàng nóng như lửa đốt. Giá như lúc ở trong cổ-mộ, hay lúc gặp nàng một nơi nào khác có lẽ Dương-Qua còn năn nỉ nhiều hơn. Nhưng ở đây nơi trang viên của Công-Tôn Động-chủ, trước mặt đông người. Chàng cũng dè dặt phần nào.

Giữa lúc đó, Phàn-nhất-Ông thấy mình nắm hụt Dương-Qua, tức giận chờn vờn toan làm lại một lần nữa.

Dương-Qua tức giận, quay lại gây gổ cho hả giận:

- Khốn nạn! Ta đang nói chuyện với thầy ta, can chi đến thằng lùn mà mi lắm chuyện thế.

Phàn-nhất-Ông phùng má, trợn mắt hét lại:

- Ai cho phép mày phá rối sư mẫu tao? Mày dám nhận sư mẫu tao là thầy mày à? Thằng điên! Mau cút ra khỏi động, nếu đứng đó đừng trách tao khiếm nhã.

Dương-Qua vùng vằng nói:

- Ta không đi! Cô nương ta còn ở đây thì ta cũng ở đây mãi. Dẫu bọn bây có bằm xương xé thịt tao cũng quyết ở gần cô nương tao mà thôi.

Lời nói nầy chính Dương-Qua muốn nói với Tiểu-Long-Nữ hơn là nói với lão Phàn lùn kia.

Công-Tôn động chủ liếc nhìn Tiểu-Long-Nữ thấy mặt nàng đổi khác, vẻ lãnh đạm không còn nữa, hai hàng nước mắt chảy ròng ròng, rơi xuống từng giọt hòa với vọt máu ướt đẫm trên ngực. Ông ta vừa lo ngại, vừa chua chát trong lòng, vội đưa mắt ra hiệu cho Phàn-nhất-Ông thầm bảo hạ độc thủ, kết liễu sinh mạng Dương-Qua để dứt mối tình lưu luyến giữa hai người.

Phàn-nhất-Ông nhận được lệnh của sư phụ rất ngạc nhiên. Nãy giờ lão tướng Công-Tôn Động chủ chỉ có ý đuổi Dương-Qua ra khỏi động mà thôi, nào ngờ ông ta lại có ý giết Dương-Qua một cách đột ngột như vậy.

Phàn-nhất-Ông nói lớn:

- Hôm nay là ngày vui của sư-phụ chẳng lẽ tôi lại giết người ư?

Dứt lời, Phàn-nhất-Ông đưa mặt nhìn Công-Tôn-Động chủ một lần nữa. Nhưng Công-Tôn Động-chủ lại ra dấu bảo không kiêng cữ gì cả.

Ông ta tỏ ý:

- Muốn cho cuộc vui được hoàn toàn phải hy sinh một vài phút buồn bã.

Phàn-nhất-Ông liền đưa cao cây thiết trượng, đập xuống đất một cái làm rung chuyển cả trang viện, và hét lớn:

- Thằng oắc con này! Mày không sợ chết hả!

Dương-Qua bây giờ trong lòng ngực nóng như đốt. Máu họng như chực trào ra. Bởi vì theo phái Cổ-Mộ đài, đã luyện ngọc-nữ tâm kinh, muốn giữ nội công phải triệt để khắc kỹ nén dục.

Cũng vì thế mà trước đây sư phụ của Tiểu-long-Nữ muốn cho nàng dứt bỏ hẳn mọi thất tình: ai, lạc, hỉ, nộ, ái, ố, dục, để trở nên một người đầy đủ nội công, truyền kế phái Cổ-Mộ đài. Nhưng sau đó, vì Tiểu-long-Nữ động chạm với đời, không dứt bỏ mối thất tình nên đã mấy phen thổ quyết.

Dương-Qua được nàng truyền lại phép nội công của phái Cổ-Mộ thì cũng như nàng, mỗi khi tâm hồn căng thẳng nội tạng bị tổn thương, tay chân chàng lạnh toát, và máu trong người muốn chảy ngược lên.

Chàng lẩm bẩm:

- Ta mửa máu ra trước mặt cô nương xem cô có còn nhẫn tâm không?

Nhưng chàng lại chợt nghĩ:

- Từ trước đến nay cô nương đối xử với mình rất luyến ái, hôm nay bỗng nhiên cô nương có thái độ lạnh nhạt như vậy chắc nội tình có gì rắc rối đây! Có lẽ lão động chúa đã dùng một quyền lực nào ép buộc cô nương, cô nương không dám nhìn nhận ta chăng? Nếu ta không nén lòng, để bị thương thì lấy ai giải cứu cho cô nương thoát khỏi tay chúng nó trong lúc này. Ta cần chiến thắng bọn chúng rồi sẽ liệu.

Nghĩ như vậy Dương-Qua không còn đau đớn vì cử chỉ của Tiểu-Long-Nữ nữa. Chàng trấn tĩnh tinh thần ngay, khí nóng chìm xuống đau điến.

Chàng mỉm cười nhìn Phàn-nhất-Ông nói:

- Cái hẻm núi nầy thật chán ngấy! Lúc ta đến không ai đón mời, giờ ta muốn đi thì cũng không ai van xin ta ở nán lại.

Mọi người thấy Dương-Qua đang bị kích động, thần sắc tiều tụy, bỗng nhiên trở lại bình thường, mặt mày thanh thản, lấy làm lạ trố mắt nhìn nhau.

Phàn-nhất-Ông không có tánh hiểm hóc, giết người như Nãi sư âm chí, nên lão chỉ dọa nạt, không cố ý giết Dương-Qua.

Lão vung thiết trượng lên. Một làn gió thổi tới vùn vụt, làm áo Dương-Qua tung lên phơi phới. Lão hét:

- Mày có chịu ra khỏi chỗ này hay không?

Công-Tôn Động chủ thấy thế nhíu đôi mày, nói với Nhất-Ông:

- Sao mi làm ồn ào như thế mà chưa được việc gì.

Nhất-Ông nghe lời nói sư phụ nửa trách phạt, nửa truyền lệnh, liền vung thiết trượng phất ngang qua đôi giò của Dương-Qua với một tư thế rất mãnh liệt.

Nàng Công-Tôn Lục-Ngạc vốn biết Nhất-Ông vị sư huynh của nàng được truyền hết võ công, nên cây thiết trượng ấy đã vung ra mạng người khó sống. Nhất-Ông đã dùng cây trượng ấy đập chết không biết bao nhiêu mãnh thú trong rừng hoang. Hôm trước tuy chính mắt nàng đã trông thấy Dương-Qua vận nội công chịu đựng với sức lửa trong nhà đá, với sức nội công ấy cũng gọi là độc đáo lắm, song tuổi Dương-Qua còn trẻ, căn bản tập luyện chưa uyên thâm, làm sao chịu nổi cây thiết trượng của sư huynh nàng. Nếu hai người đã giao đấu thì thất bại tất về phần Dương-Qua, mà nàng không thể nào cứu vãn nổi.

Nghĩ thế nàng đánh liều đứng dậy, phóng mình đến bên Dương-Qua, mặc dầu trong lúc đó vẻ mặt cha nàng đang căm giận không thể tả.

Nàng cất tiếng trong như ngọc gọi Dương-Qua nói:

- Dương công tử ơi! Chớ đa đoan làm gì. Lẽ nào không xem sinh mang mình là nặng?

Bọn Kim-luân Pháp-Vương ai nấy đều quay mặt nhìn về phía nàng Lục-Ngạc. Họ ngạc nhiên không hiểu tại sao nàng có cử chỉ ấy đối với Dương-Qua.

Có người nghĩ thầm:

- Thằng bé này vừa vào đây với chúng mình một lúc chẳng biết hắn ta thừa dịp nào tán tỉnh con gái kia, mà coi mòi cô gái kia đã có tình ý với nó?

Nghe Lục-Ngạc nói, Dương-Qua mỉm cười, gật đầu đáp:

- Đa tạ cô nương hảo ý. Vậy tôi xin hỏi cô nương có muốn dùng bộ râu dài kết làm sợi dây buộc lưng mà chơi không?

Lục-Ngạc bỡ ngỡ, không hiểu, hỏi lại:

- Sao? Công tử muốn nói gì vậy?

Dương-Qua đáp:

- Nghĩa là tôi sẽ bứt hết bộ râu của lão lùn nầy tặng cô nương làm món đồ chơi. Cô bằng lòng chứ?

Lục-Ngạc cả người run lên! Nàng không ngờ Dương-Qua lại dám ăn nói lỗ mãn và khinh người như thế. Trong động nầy kỷ luật rất nghiêm, nàng dám đến khuyên Dương-Qua một cầu như thế cũng là mạo hiểm lắm rồi, huống hồ Dương-Qua kẻ được nàng khuyên nhủ lại buông lời thóa mạ, làm nhục Nhất-Ông vị sư-huynh khét tiếng của nàng.

Nàng đỏ mặt, đứng im, không dám nói thêm lời nào.

Phàn-nhất-Ông tuy thân người lùn tịt, cao không quá một thước ba, nhưng bộ râu dài, xưa nay đã nhờ nó làm oai với thiên-hạ, nay nghe Dương-Qua đòi bứt râu mình, lão giận quá, động cây thiết trượng xuống đất một tiếng "bùng" rồi phóng mình nhảy tới một bước, hét:

- Thằng con nít! Ta cho mày biết bộ râu này.

Hàm râu của lão bây giờ cũng tung tăng như đang giận dữ, quật qua quật lại trước mặt Dương-Qua.

Dương-Qua không lùi bước, chỏ miệng vào Nhất-Ông, nói:

- A! Thế ra ông muốn tôi bứt giùm bộ râu của ông phải không? Nào, thử xem?

Vừa nói, Dương-Qua vừa đưa tay ra đằng sau rút một cái kéo lớn lướt tới như muốn xẻo râu địch thủ.

Lão Phàn vội quật ngược bộ râu về đằng sau, rồi bất thần đập xuống đầu Dương-Qua một trượng.

Dương-Qua lẹ làng né khỏi và thừa cơ nhảy phóng tới dùng lưỡi kéo nhắp một cái. Một tiếng "soẹt" nghe rợn người, lão Phàn vội nhảy ra đằng sau mới tránh khỏi. Nếu chậm một chút bộ râu kia đã rơi xuống đất rồi.

Lão Phàn tức giận vô cùng, nói:

- Ta sẽ dùng bộ râu nầy đánh mày cho mà biết tay.

Thật ra, bộ râu của lão Phàn đã có công lực trên ba mươi năm nay lại thêm đôi bàn tay giúp sức, râu ấy thành ra một thứ nhuyễn tiên (roi mềm) vân tráo (chổi mây) lợi hại vô cùng. Lão cứ lắc đầu, vận cổ, dùng tay điều khiển bộ râu quất qua quất lại nghe vun vút, đánh thẳng vào đầu vào mặt Dương-Qua.

Dương-Qua vận hết sức mình vào lưỡi kéo, chân nhảy chập chờn tay nhắp lia lịa, phát ra những tiếng "xoẹt xoẹt" liên hồi.

Nguyên lưỡi kéo này trước kia Dương-Qua đã nhờ Phùng-mặc-Ông rèn cho dùng để đối phó với cây phất trầ của Lý-mạc-Thu.

Dương-Qua nghĩ rằng Lý-mạc-Thu có đôi bàn tay "ngũ độc thần chưởng" lại cầm cây phất trần lợi hại, vung vẩy dọc ngang khắp chốn giang hồ. Công phu "vận trảo" (chổi mây) đã khiến cho Lý-mạc-Thu nổi tiếng, nên Dương-Qua muốn dùng cây kéo lớn để trị Lý-mạc-Thu.

Chàng đã nghiên cứu kỹ về thuật "vận trảo" của Lý-mạc-Thu và dự liệu cây phất trần của Lý-mạc-Thu sẽ đánh cách nào và chàng sẽ dùng kéo cách nào để có thể cắt đứt cây phất trần của Lý-mạc-Thu được.

Nào ngờ cây kéo của chàng chưa đấu với Lý-mạc-Thu lần nào thì hôm nay vào động Thủy-Tiên, chàng đã phải đem ra để đấu với bộ râu dài của lão lùn nầy.

Chàng vừa đánh vừa lẩm bẩm:

- Bộ râu của mày dẫu có lợi hại đến đâu cũng không bằng cây phất trần của Lý-mạc-Thu được.

Tuy là cái kéo và bộ râu hai bên đấu nhau kịch liệt, bộ râu quất vun vút, trong lúc cây kéo xoẹt xoẹt nhắp mãi không ngừng.

Mọi người không ai bảo ai đều quan niệm một cuộc đấu hào hứng, trố mắt nhìn vào hai đối thủ với vẻ thích thú vô cùng.

Hồi sáng, Châu-bá-Thông cũng dùng kéo cắt râu lão lùn, nhưng cắt đã chẳng được còn bị lão lùn cuốn râu quấn chặt kéo, làm cho Châu-bá-Thông phải bỏ kéo đi. Nào ngờ lúc này, Dương-Qua lại sử dụng cây kéo để cắt râu lão nữa.

Tuy nhiên, cây kéo của Dương-Qua khác hẳn với cây kéo của Châu-bá-Thông. Chàng đưa ngang đâm dọc, khi múa khi thu, cứ đuổi theo bộ râu như bám sát vào địch thủ. Trông đó đủ biết cây kéo Dương-Qua lợi hại hơn cây kéo của Châu-bá-Thông nhiều.

Thật ra, xét về vũ thuật và nội lực thì Dương-Qua tuy đã tự mình nghiên cứu thành một phái riêng, song chàng chỉ mới có tập luyện mấy năm, làm sao bì được Châu-bá-Thông. Sở dĩ chàng có nhiều kinh nghiệm thuật dùng kéo là vì chàng đã được đụng độ với Lý-mạc-Thu nhiều lần. Trông vào lối đánh phất trần của Lý-mạc-Thu, Dương-Qua đã học được một bài học về "vận trảo", do đó chàng nghiên cứu cách đả phá rất hữu hiệu.

Chỉ chốc lát, ngọn kéo của Dương-Qua lanh lẹ phi thường, và lão Phàn không còn dùng bộ râu để trấn áp cây kéo của chàng nữa.

Bộ râu của lão Phàn công lực cũng na ná như cây phất trần của Lý-mạc-Thu, chỉ khác chút ít về chi tiết, nên lối đánh râu của lão cũng khá lợi hại.

Lúc đầu lão khinh thường Dương-Qua nên đã mấy lần suýt bị hớt râu, sau đó lão phải dè dặt, đổi phép quật râu, múa lên trên quay, và tung hoành như vũ bão.

Có lúc bộ râu chỉ quật nhẹ để nhử địch, rồi dùng chưởng phong đánh tới, đôi tay lão chỉ đưa lên, rồi dùng bộ râu quất ngang rất mạnh. Nói chung là lối sử dụng "vận trảo" hư hư, thực thực, không thể nào lường được. Thật là một công phu kỳ diệu chưa từng thấy trong giới võ lâm.

Dương-Qua cố hạ bộ râu, nhưng mãi không sao hớt được, chàng tự nhủ:

- Lão nầy là đồ đệ của động chủ mà công phu thâm hậu đến thế nầy, nếu ta không thắng được đồ đệ thì mong gì đánh được thầy.

Chàng cảm thấy sốt ruột, dồn hết tinh thần vào cây kéo, bám sát vào bộ râu.

Nhưng bộ râu lão Phàn còn dài và rậm hơn cây phất trần của Lý-mạc-Thu. Lão quất tới quất lui rất kín đáo, không hề sơ hở tí nào.

Dương-Qua liệu thế không thắn nổi, liền nhảy lui ra đàng sau ba trượng, định thần nhìn lại lối quất râu của lão Phàn để tìm kế thủ thắng.

Chàng thấy lão lắc lư cái đầu nhỏ xíu, đánh ngược, đánh xuôi để điều khiển hàm râu. Bỗng chàng hớn hở reo lên như tìm một bí quyết gì vậy.

- A! Hãy khoan! Này lão Phàn, ta rất tiếc!

Lão Phàn dừng lại hỏi:

- Mày đã không thắng nổi ta, tại sao không chịu ra khỏi nơi đây.

Dương-Qua trợn mắt cười hì hì nói:

- Nãy giờ ta chưa hớt bộ râu của mi là vì ta tiếc cho mi đó thôi. Bộ râu của mi phải săn sóc bảo vệ hơn mấy mươi năm trời mới được như vậy. Bây giờ ta chỉ nhắp một cái là rụng sạch. Như thế có làm cho mi đau đớn chăng?

Lão Phàn thấy Dương-Qua làm bộ mặt quái gở, nói khích như thế, tức giận bước tới, nói:

- Thằng con nít! Đã đánh không lại ta mà không chịu thua còn nói dóc.

Dương-Qua nói:

- Ta chỉ đánh với ngươi trong ba hiệp nữa thì hàm râu ngươi rụng mất.

Lão-Phàn cười hề hề:

- Thật mày là con ếch dưới đáy giếng, nhìn trời không lớn bằng cái vung. Mày cứ hớt thử bộ râu tao xem?

Dương-Qua vừa cầm kéo xông vào vừa nói:

- Đáng tiếc! Đáng tiếc!

Lão Phàn vội tung ra một chưởng, Dương-Qua đưa tay trái gạt ra, tay mặt chìa mũi kéo đâm vào má lão. Lão Phàn vội nghiêng đầu toan tránh, không ngờ Dương-Qua lại lẹ làng dùng tay trái đánh vào má bên phải của lão.

Đòn nầy rất lẹ làng và độc hiểm, nhưng lão né tránh, rất nhanh. Chẳng ngờ trong lúc lão phải lo dùng đầu né tránh mấy đòn của Dương-Qua, bộ râu không còn điều khiển được nữa. Một làn gió phất bộ râu lão tung lên, Dương-Qua lẹ tay đưa kéo hớt một cái.

Một tiếng "xoẹt" phát ra, cả bộ râu dài của lão bay phơi phới, rơi nhẹ xuống đất như một bó chổi sổ.

Ai nấy đều ngạc nhiên không hiểu tại sao Dương-Qua đánh hơn năm mươi hiệp đầu không thắng, mà chỉ có ba hiệp sau chàng lại hớt đứt bộ râu.

Thực ra không có gì là khó hiểu. Dương-Qua là một kẻ khôn ngoan lanh lợi. Trong lúc nhảy ra ngoài, Dương-Qua đã nắm được nhược điểm trong thuật đánh râu: Trước khi râu lão phất về bên trái thì đầu nghiêng về phía tay phải, trước khi tung ngược thì đầu lão phải cúi xuống. Nói chung là lão đã dùng đầu để điều khiển bộ râu.

Biết được yếu tố ấy, Dương-Qua tự nghĩ:

- Hàm râu lão đánh mình được là nhờ ở cái đầu của lão, thế là mình không đánh vào chỗ gốc lại cứ đấu chọi với cái đuôi râu thì thật ngu ngốc quá.

Thế là chàng trực tiếp tấn công vào cái đầu. Và chỉ trong ba hiệp chàng đã cắt được bộ râu như chơi.

Bấy giờ lão Phàn bị cụt râu, mặt mày như chết điếng, đôi mắt thao láo, đau đớn nhìn từng sợi râu bay phất phơ trên mặt đất. Lão vừa căm giận vừa hối tiếc, vung tay cầm lấy cây thiết trượng gầm lên như thú dữ:

- Hôm nay ta quyết một sống một chết với mày. Mày đừng hòng thoát ra khỏi nơi đây.

Dương-Qua cười ha hả đáp:

- Thì ta đâu có nghĩ đến chuyện bỏ động ra đi.

Câu nói kinh khủng của Dương-Qua, làm cho lão Phàn càng tức giận thêm. Trong lúc đó Mã-quang-Tổ đứng một bên, thấy hàm râu lão Phàn trong chốc lát đã cụt lủn, không nhịn cười được, nói lớn:

- Bớ lão Phàn! Tướng ngươi đã lùn mà còn cụt râu nữa thì khó coi quá.

Lão Phàn cúi mặt xuống, cắn môi vận hết nội lực, quất cây thiết trượng vào lưng Dương-Qua một đòn rất mạnh.

Dương-Qua tuy nãy giờ đã đấu với lão nhiều hiệp, song chỉ mới đấu bằng nhu lực của bộ râu, chứ chưa rõ sức gân cốt của lão như thế nào.

Giờ đây bị lão dùng thiết trượng đánh tới, Dương-Qua vội vàng kéo ra đỡ.

Tức thì, một tiếng "choang" rất lớn, như muốn chát tai, cánh tay chàng tê đi, cây kéo bị cây thiết trượng đập trúng trông chẳng còn hình dạng gì nữa. Trên tay chàng chỉ còn một lõi sắt vô dụng.

Mọi người thất kinh không dám chế riễu lão Phàn nữa, vì biết nội lực của lão phi thường, và nghĩ rằng Dương-Qua không sớm thì muộn cũng phải bị nát thây dưới cây thiết trượng của lão.

Nàng Lục-Ngạc thấy vậy vội nhảy đến kêu lên:

- Dương công tử! Công tử không thể nào chống lại với sức nội công của sư huynh tôi đâu, xin chớ đấu nữa.

Công-Tôn Động chủ thấy con gái mình một lần nữa lo lắng cho kẻ thù, mặt hầm hầm sát khí. Ông liếc mắt nhìn về Tiểu-Long-Nữ thì thấy nàng vẫn thản nhiên không chút lo âu.

Hai thái độ ấy làm Động chủ buồn vui lẫn lộn. Ông buồn cho đứa con gái của ông ít , nhưng vui với Tiểu-Long-Nữ thì nhiều.

Ông nhủ thầm:

- Té ra nàng chẳng có gì tình với thằng đó cả. Nếu đã có tình thì trong lúc hắn lâm nguy, mặt nàng không thể giấu được nỗi lo âu.

Thật ra động chủ đã lầm! Tiểu-Long-Nữ dư biết Dương-Qua mưu trí có thừa, mà võ nghệ cũng chẳng đến nỗi thua sút lão Phàn. Hai bên đấu nhau, chàng chỉ có thắng chứ không thể bại. Vì vậy nàng chẳng cần phải để tâm lo ngại.

Bỗng thấy Dương-Qua ném cây kéo vô dụng xuống đất, gọi lão phàn nàn:

- Này Phàn-huynh! Ông thật không phải là đối thủ của tôi. Hãy quăng thiết trượng đi mà chịu thua cho sớm.

Lão Phàn căm giận hét lớn:

Mày thắng nổi cây trượng nầy tao sẽ húc đầu vào đá mà chết.

Dương-Qua cười lớn:

- Thật sao? Xin Phàn-huynh chớ nói thế mà hối hận không kịp.

Chàng nói chưa dứt thì cây thiết trượng của lão Phàn đã nhắm ngay đầu Dương-Qua đánh xuống một cái "vút". Đó là ngón "Thái sơn áo đỉnh" rất lợi hại.

Dương-Qua né mình qua một bên tránh khỏi, rồi lại dùng chân đạp cây thiết trượng.

Phàn lão dùng hết sức mạnh giơ cây trượng lên thì cả thân mình Dương-Qua cũng tung lên theo cây thiết trượng. Tuy nhiên chân chàng vẫn dính vào đó không rơi.

Phàn lão nổi giận giơ lên giơ xuống, thì thân mình Dương-Qua cũng tung lên, hạ xuống theo cây thiết trượng không rời.

Lão giận quá, toan trở đầu thiết trượng lại cho Dương-Qua xuống đất thì Dương-Qua đã lẹ làng đạp luôn chân mặt lên thiết trượng, rồi bước tới tung chân đá phóc vào mặt lão.

Phàn lão bối rối, nếu bỏ thiết trượng xuống thì xấu hổ, còn về đàng sau tránh né thì đồng thời lối đích theo, làm sao tránh được?

Trường hợp nầy nếu còn bộ râu thì lão có thể sử dụng, lắc đầu đét ngang một cái, quất vào chân Dương-Qua. Nhưng bộ râu lão đã cụt lủn rồi, còn dùng sao được nữa.

Cuối cùng, lão đành phải chịu buông thiết trượng.

Một tiếng huỵch" nặng nề, cây thiết trượng rơi xuống đất, và Dương-Qua cũng đáp xuống nhẹ nhàng.

Thừa cơ hội, Dương-Qua đớp lấy thiết trượng cầm tay.

Bọn Mã-quang-Tổ, Ni-ma-Tinh, Tiêu-tương-Tử cùng reo lên một lúc. Dương-Qua động đầu trượng xuống đất, hất hàm cười lớn:

- Thế nào đây?

Lão Phàn thẹn đỏ mặt nói:

- Vì sơ ý chốc lát, ta mắc quỉ kế của mi! Ta đâu chịu phục.

Dương-Qua nói:

- Thế thì đấu lại?

Dứt lời, Dương-Qua nhẹ nhàng ném cây thiết trượng về phía Phàn. Nhưng còn cách lão độ ba thước thì Dương-Qua đã phóng mình đến đoạt lại trong lúc lão Phàn chưa kịp đớp lấy.

Bọn Mã-quang-Tổ thấy thế reo hò ầm ĩ.

Mặt lão Phàn sắc đỏ đổi qua sắc tía, rồi lần lần thâm lại vì xấu hổ.

Kim-luân Pháp-Vương và Doãn-khắc-Tây nhìn nhau mỉm cười, thầm khen Dương-Qua người trẻ tuổi mà có nhiều mưu lược.

Hôm trước, Châu-bá-Thông đã dùng mâu, lao người dùng hết sức giật mạnh, khi ngọn mâu đến nửa chừng ông ta bỗng quay sang hướng khác. Có lẽ Dương-Qua đã học được lối "gấp khúc" nầy.

Công tôn động chủ và bọn đồ đệ thấy Dương-Qua ranh mãnh như vậy đều có ý lo sợ.

Dương-Qua lại hỏi lão Phàn:

- Thế nào? Có muốn thử lần nữa hay thôi?

Lão Phàn nghĩ rằng râu lão bị cắt, thiết trượng của lão đoạt chỉ vì thua trí chứ không phải thua sức nên lão vẫn tự quát lớn:

- Nếu ngươi dùng lực thắng nổi ta thì ta mới chịu phục.

Dương-Qua cười nhạt, nói:

- Đạo học võ lấy xảo" làm đâu. Sư-phụ của ngươi ngu xuẩn chẳng ra chi, nên đào tạo một lũ đồ-đệ dốt nát; Ta khuyên ngươi đi tìm một ông thầy khác học thêm là hơn!

Câu nói nầy chính Dương-Qua muốn khiêu khích Công tôn động chủ. Nhưng lão Phàn căm tức, thầm nghĩ:

- Mình học võ nghệ không còn cách gì thắng nổi nó thì nên tự vận mà chết để tạ tội với sư phụ.

Nghĩ như thế, lão nghiến răng ken két trợn mắt nhìn Dương-Qua như muốn nuốt sống ăn tươi.

Dương-Qua trao cây gậy tận tay lão Phàn, và nói:

- Lần nầy phải giữ gìn cẩn thận, nếu để ta đoạt nữa thì oán trách ta nhé.

Lão Phàn không đáp đưa tay nhận lấy thiết trượng, nghĩ thầm:

- Lần nầy nó muốn đoạt thiết trượng thì chỉ có cách nó chặt cánh tay ta trước mới có thể đoạt nổi.

Lão cầm thiết trượng thủ thế, rồi thuận tay vút mạnh vào người Dương-Qua.

Nhưng vừa loáng một cái, đã nghe Dương-Qua gọi lớn:

- Coi chừng!

Dứt tiếng, người chàng xông về phía trước tay trái chộp được đầu trượng, tay mặt dùng hai ngón tay xỉ vào mặt lão Phàn. Đó là một tư thế "Ngạo khẩn đoạt trượng" một thế tuyệt diệu "đả cẩu bổn pháp".

Năm xưa, tại đại hội cái bang, Hoàng-Dung đã dùng thế nầy đoạt lấy cây gậy trúc trong tay Dương-Khang, lúc Dương-Khang mạo danh làm bang chủ phá rối ở động đình.

Dương-Qua đoạt thiết trượng của lão Phàn hai lần trước, người trông thấy tuy cảm phục thủ pháp kỳ diệu độc đáo, nhưng vẫn chưa kinh khủng bằng lần này, vì lần này không ai trông thấy Dương-Qua làm cách nào mà lại đoạt cây thiết trượng một chớp nhoáng như vậy. Ngay như lão Phàn cũng không thể thấy cái ảo diệu ở trong, chỉ thấy chớp mắt một cái, thiết trượng đã về tay Dương-Qua rồi!

Mã-quang-Tổ vỗ tay la lên:

- Lão lùn trụi râu! Lần nầy hẳn lão đã phục tùng rồi chứ?

Dương-Qua thấy mặt lão Phàn đỏ ngầu, chàng cười ha hả, quăng trả cây thiết trượng lại cho lão, và nói:

- Thôi được cứ thử chơi vài "keo" nữa xem sao?

Mọi người thấy Dương-Qua có nhiều điêu thuật, tay không đoạt gậy như chơi, nên cũng muốn để cho chàng biểu diễn thêm vài môn nữa cho ngoạn mục.

Nhưng lão Phàn thị lại nghĩ khác. Lão thấy Dương-Qua lanh lẹ có nhiều ngón độc, dù lão cố giữ gậy cũng chẳng được nào, nên đáp:

- Ta sử dụng vũ khí dài và nặng, nếu thắng ngươi chẳng có gì là danh dự.

Dương-Qua cười lớn đáp:

- A! Thế ra ngươi đã sợ cái công lực dùng tay không đoạt vũ khí của ta rồi. Vậy thì để ta cũng dùng thứ vũ khí đấu với ngươi.

Dứt lời, chàng quắc mắt nhìn quanh đại sảnh, thấy trống trơn chẳng có một món nào có thể dùng làm binh khí được. Chàng lại nhìn ra sân thấy gần đó có hai cây liễu, thân cây và cành khá lớn, lá xanh rũ xuống rợp màu.

Chàng quay lại nhìn Tiểu-Long-Nữ, nói:

- Ngày xưa cành tốt biết nay có còn? Cô nương muốn dùng họ Liễu thì em cũng xin dùng cành liễu làm binh khí để đánh chúng nó vậy.

Nói câu nầy, Dương-Qua đã lấy ý ở trong câu thơ của Hàn-Hoành ở đời Đường gởi về cho vợ là Liễu thị.

Trong bài thơ ấy có câu.

Chương đài liễu, chương đài liễu

Tích nhật thanh thanh, kim tại phủ

Tùng sử trướng điều tự cựu thùy

Dã ứng phan chiết tha nhân thủ.

Nghĩa là:

Liễu chương đài, liễu chương đài,

Ngày xưa xanh tốt, biết nay có còn?

Tơ dài, như vẫn còn buông

Ngại rằng ai bẻ cành non mất rồi!

Dứt lời, chàng không cần nhìn lại vẻ mặt Tiểu-Long-Nữ, phóng mình chạy về phía trước sân, bẻ một cành liễu lớn, đường kính hơn một tấc, dài đến bốn thước, đầu đuôi trơn tru, giống như cây đả cẩu bổng ở tổng hội ăn mày Cái Bang vậy.

Tiểu-Long-Nữ xôn xao trong lòng, không biết sự việc sau này sẽ đi đến đâu, và nàng sẽ phải quyết định ra làm sao nếu, Dương-Qua cứ lầy dầy ở đó mãi. Dương-Qua càng ở lâu trước mặt nàng bao nhiêu thì nàng càng khó chịu bấy nhiêu. Bởi vì, dự tính của nàng là cắt đứt mối tình giữa nàng và Dương-Qua, tìm một hoàn cảnh khác để khuây khỏa, mặc dầu hoàn cảnh ấy không tốt đẹp gì.

Nàng nghĩ thầm:

- Nếu cứ đứng đây nhìn chàng mãi, mỗi cử động, mỗi lời nói của chàng chẳng khác gì một đốm lửa nung vào lòng ta, chi bằng ta ra đàng sau cho khuất mắt là hay hơn.

Tuy nghĩ thế, nhưng chân nàng không sao bước đi được. Chẳng biết sức mạnh vô hình nào đã giữ nàng mãi ở đây để chịu cảnh khổ đau.

Phàn-nhất-Ông thấy Dương-Qua không dùng binh khí sắc bén chỉ dùng cành liễu như đồ chơi trẻ con, thì lão cho là chàng có ý khinh lão lắm. Lão có ngờ đâu chính cây gậy trúc đánh chó của ăn mày cũng chỉ chừng đó thôi, mà có thể đánh bạt mọi dáo to, kiếm sắc! Cái ào diệu ở chỗ là biết dùng gậy mà thôi.

Cành liễu của Dương-Qua tuy không bằng cây gậy trúc của Hồng-thất-Công song cũng đủ áp đảo cây thiết trượng của lão Phàn rồi.

Mã-quang-Tổ thấy Dương-Qua không tìm được vũ khí, phải dùng tạm cành trúc làm gậy, nên gọi lớn, nói:

- Này chú Dương! Ta cho chú mượn cây đao của ta đây.

Vừa nói, Mã-quang-Tổ vừa rút đao ra khỏi vỏ. Lưỡi đao chiếu sáng ngời chứng tỏ đó là một bảo đao hiếm có.

Nhưng Dương-Qua chắp hai tay từ chối:

- Cám ơn anh! Lão lùn nay chưa được thầy giỏi dạy dỗ, võ nghệ còn kém quá! Cành liễu nầy cũng đủ cho lão ăn đòn rồi.

Dứt lời, chàng tung cành liễu lên, đập vào thiết trượng của lão Phàn một tiếng "chát".

Lão Phàn thấy Dương-Qua ăn nói vô lễ, nhục mạ đến sư phụ lão, nên lão quyết sống chết với Dương-Qua để bảo tôn thanh danh của lão.

Lão gầm lên một tiếng, triển khai chín chiêu biến ra mười một thế "bát thủy trượng pháp".

Phép đánh cương trượng nầy gọi là "bát thủy" có nghĩa là khí trượng múa lên thì tạt nước vào cũng không lọt. Như thế đủ rõ đường trượng của lão kín đáo đến bực nào.

Lúc đầu tiếng trượng rít lên vun vút, nhắm vào Dương-Qua tấn công dữ dội. Nhưng dần dần về sau người ta thấy phương của cây trượng mỗi lúc một lệch lạc đi. Đầu ngọn trượng chênh lệch thì tiếng gió nghe càng yếu dần.

Sở dĩ như thế là vì Dương Qua đã áp dụng theo thế"đả bổng pháp" bắt đầu dùng chữ "triển" chế ngự vũ khí của đối thủ. Đầu cành liễu cứ xoắng lấy đầu gậy tiếp thép. Trượng xoay về đông thì cành liễu cũng xoay về đông, trượng xoay về tây thì cành liễu cũng xoay về tây. Đầu trượng tung lên thì đầu cành cũng tung lên cao. Sức mạnh cành liễu mỗi lúc một tăng, kiềm chế thiết trượng không còn hoạt đông nỏi. Công phu lợi hại này chính là phương pháp "chỉ gậy đẩy ngàn cân" mà chữ "triển" mới chỉ là một trong năm chữ theo phép "tứ lương bát thiên cân" rất tinh vi ả diệu của phép"đả cẩu bổng pháp" vậy.

Công tôn động chủ vàng trong cuộc đấu càng lấy làm lạ. Không ngờ một cậu thiếu niên trẻ măng như Dương Qua mà lại có một võ công thần diệu đến thế.

Chỉ thấy trượng pháp của lão Phàn mỗi lúc một suy yếu, còn cành liễu của Dương Qua thì kình lực mỗi lúc một tăng lên. Sau ba mươi hiệp, người ta nhận thấy mức tăng giảm giữa hai bên rõ rệt.

Toàn thân lão Phàn bị cành liễu khống chế. Lão càng tăng thêm sức mạnh thì thân mình càng lảo đảo, không thể tự chủ được.

Sau cùng, thân lão như cuốn theo một cơn gió lốc mãnh liệt, tay chân lão mỏi rũ, mắt hoa mặt tối, chẳng còn biết phương hướng nào nữa.

Động chủ đập tay lên bàn một cái cất tiếng gọi:

Phàn-nhất-Ông, hãy lui lại mau!

Bàn tay Động chủ đập lên đá, tiếng kêu nghe rợn người. Ngay đến Dương Qua cũng phải giật mình thầm nhủ:

- Lão này công lực không vừa. Vậy ta phải trấn áp tên đệ tử của lão một hồi để cho lão thất kinh, làm giảm nhuệ khí của lão đã.

Chàng vội vàng chuyển tay một cái, đầu gậy bắt đầu múa sang chữ "chuyển".

Chỉ thấy chàng đứng yên một chỗ, tay múa lia lia, xoay tròn đầu gậy đẩy lão: Phàn từ tả sang hữu, rồi từ hữu sang tả giống như môt cậu bé dùng dây đánh chơi con"vụ". Tay chàng càng múa nhanh thì lão phàn càng chuyển lẹ.

Chàng cất tiếng nói lớn:

-A! Bây giờ nếu ngươi đứng im được mà không ngã thì ta, ngươi là hảo hán anh hùng.

Từ cành liễu tròn, lão Phàn không còn đủ sức tự chủ được chân bước loạng choạng như say rượu. Chẳng mấy chốc, lão té nhào xuống đất.

Công Tôn chủ thấy vậy, lẹ làng nhảy tới, tung mình lên không đưa tay nhắm đầu cây thiết trượng của lão Phàn đập xuống một tiếng "Bốp" và uốn mình nhảy trái trở về.

Hành động chớp mắt! Cây thiết trượng của lão Phàn bị cái đập ấy cắm sâu xuống đất hơn hai thước. Thật là một sức mạnh lạ đời, Dương Qua cũng phải chắc lưỡi khen thầm.

Cây thiết trượng cắm xuống như một cây cột sắt, lão Phàn nhân đó bấu chặt vào cây cột mới khỏi ngã. Mình lão như một con ếch, đầu lắc lư, hai chân còn dãy bần bật, trông rất thảm hại. Qua một lúc lâu, lão mới định thần, đứng vững được.

Bọn Tiểu tương tử và Doãn khắc Tây hết nhình Dương Qua lại nhình Động Chủ, đinh ninh là hai người này không thể nhường nhau. Họ sẵn sàng đón xem một trận sống mái mà thắng phu chưa thể nào định trước được. Mã- Quang-Tổ tánh tình thẳng thắn, muốn ủng hộ Dương Qua nhưng thấy nội lực siêu nhân của Công Tôn Động chủ cũng e ngại vô cùng.

Sau khi định thần, lão Phàn vụt chạy đến trước mặt Động chủ quỳ gối chắp tay lạy, nhưng mắt lão vẫn trừng trừng, hai hàm răng nghiến chặt không lên một tiếng nào.

Động-Chủ chưa kịp mở miệng, thì đã thấy lão Phàn vụt chạy đến một cây đá, húc đầu vào tự tử.

Hành động của lão bất ngờ và chớp nhoáng không ai kịp nghĩ đến.

Sao lão lại nóng tánh đến thế nhỉ? Tỉ võ hơn thua là việc thường đối với những hiệp khách giang hồ, có gì mà phải liều mình tự sát?

Công-Tôn động chủ kêu lên một tiếng:

- Ôi chao!

Rồi tức khắc rời khỏi chỗ ngồi, phóng tới như tên bay, chồm tay túm lấy lão đồ đệ. Nhưng chậm mất rồi, lão Phàn đã lao mình tới quá nhanh làm cho Động-chủ chụp hụt mất.

Lão Phàn nhắm mắt, lao đầu vào cột rất nhanh, định đập vỡ sọ cho mau để khỏi phải cái chết đau đớn. Nhưng khi lão húc vào cột đá thì cảm thấy cột đá mềm nhũn, như lão đã húc phải một cái nệm bông vậy.

Lão ngạc nhiên, mở mắt nhìn. Thì ra Dương-Qua đã nhảy đến kịp đưa tay chận chiếc đầu của lão lại.

Chàng gọi to:

- Lão Phàn, đời còn thiếu gì chuyện tím ruột bầm gan! Việc nầy có gì đến nỗi phải hủy mình?

Thì ra Dương-Qua là kẻ tinh tế phi thường. Lúc lão Phàn quỳ lạy động chủ, chàng nhìn vào đôi mắt lão đã biết được phần nào ý định của lão. Dương-Qua đứng gần lão hơn hết, nên lúc lão lao mình đến cột đá, chàng đã dự ý trước nên nhảy đến kịp, đưa tay chận đầu lão.

Thấy Dương-Qua không để lão được chết, lão gầm lên:

- Mày cản tao để làm gì?

Dương-Qua với giọng đau đớn, nói:

- Tôi cần nói rõ với ông là tôi hiện còn đau đớn gấp mấy lần hơn ông. Nhưng tôi vẫn không muốn hủy mình như ông.

Lão Phàn nghe giọng rên rỉ của Dương-Qua, lấy làm lạ, hỏi:

- Mi đánh thắng ta không phải là một vinh dự hay sao lại đau đớn?

Dương-Qua buồn bã, lắc đầu, nói:

- Đấu võ hơn thua là chuyện thường. Các tay hào kiệt không lấy thắng làm vinh, không lấy thua làm nhục. Trong đời tôi, tôi đã chiến bại biết bao nhiêu lần rồi. Ông thua tôi mà tự tử thì sư phụ của ông đau đớn xót xa, chứ như tôi thua ông mà tự tử thì thầy tôi chẳng chút đoái hoài. Điều đó mới là chuyện đau lòng.

Lão Phàn không hiểu ý Dương-Qua muốn nói gì, đứng ngơ ngác, thì Công-tôn Động-chủ đã gọi lớn:

- Nhất-Ông! Nếu ngươi còn có ý nghĩ điên rồ như vậy tức là ngươi đã trái mệnh ta. Ngươi hãy đứng sang một bên để xem bọn đàn em của ngươi trị tên láo khoét ấy.

Bình sinh, lão Phàn rất tôn kính sư phụ không bao giờ dám trái ý. Nay nghe sư phụ lão truyền dạy như thế, lão liền đưa mắt lườm Dương-Qua một cái, rồi đứng lui ra đàng sau, không dám mở miệng.

Về phần Tiểu-Long-Nữ, tuy muốn tỏ cử chỉ lãnh đạm đối với Dương-Qua, nhưng khi nghe Dương-Qua nói câu thống thiết "... thầy tôi chẳng chút đoái hoài" nàng cảm thấy xốn xang vô cùng. Đôi dòng lệ lã chã chảy xuống hai gò má trắng nhợt.

Nàng thầm nhủ:

- Nếu chàng chết đi thì ta sống được sao?

Công-tôn Động-chủ cứ chốc chốc lại liếc nhìn Tiểu-Long-Nữ để dò xét. Ông ta thấy Tiểu-Long-Nữ

rơi lệ, lấy làm tức giận, đập tay xuống bàn thạch hét to:

- Hãy bắt lấy thằng bé đó cho ta.

Đó là mệnh lệnh của lão truyền cho bọn đệ tử bắt người. Lão tự coi mình là Động-chủ, bậc sư phụ, không hạ mình xuống tranh tài với Dương-Qua.

Bấy giờ hai hàng đệ tử áo xanh nhất tề dạ ran. Mười sáu người cầm bốn tấm lưới chia ra bốn mặt, hô lên một lượt phủ vây Dương-Qua.

Đáng lý ra, bọn Kim-luân Pháp-Vương đã cùng đi với Dương-Qua đến đây, thì trong lúc Dương-Qua lâm nạn, họ phải đứng ra phân giải hòa mới phải, nhưng bọn chúng cứ đứng cười nhạt, tự cho mình như kẻ ngoại cuộc, không hề tỏ ý gì cả.

Tiếp đó, Động-chủ lại đưa tay vỗ lên bàn thạch ba lần, tức thì mười sáu tên đệ tử áo xanh, mỗi người chiếm một phương vị từ từ bước tới đón hẹp vòng vây.

Dương-Qua thấy bốn cái lưới mỗi lúc một khép dần lại, lòng bối rối, chẳng biết phải dùng cách nào để thoát thân, thầm nghĩ:

- Đến như Châu-bá-Thông võ nghệ trùm đời mà còn bị mảnh lưới này bắt chụp được huống hồ ta tài hèn thì sao thoát khỏi? Hơn nữa, Bá-Thông chỉ cần thoát thân, bế xốc được hai gã Phàn, Mã ném vào lưới, rồi thừa cơ nhảy tọt đi. Chứ ta, hiện nay cần phải ở lại động nầy chết sống với cô nương ta thì đâu được rảnh rang như Châu-bá-Thông mà bỏ trốn?

Chàng đang nghĩ ngợi, thì chợt nghe mấy tiếng "tinh tinh" bốn mảnh lưới lại chéo đầu chuyển vị, đưa ngang đưa dọc, lúc ngửa lúc nghiêng, biến đổi hình thể như muốn chụp lấy chàng.

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 48 : Phong Ba Chưa Ráo Nợ Hồng

Dương Qua đã được trông thấy bọn đệ tử động Thủy Tiên bủa lưới chụp Châu bá Thông, nên chàng biết đó là một môn pháp kỳ diệu khó thoát được. Lối bủa lưới này là một trận pháp, chẳng kém trận "Bắc đẩu thiên cang" của giáo phái Toàn Chân. Tấm lưới khi thẳng khi chùng, khi thu hẹp, khi nới rộng ra mỗi bề dài hơn một trượng, người cầm lưới lại núp kín sau mành. Muốn phá trận lưới tất phải giết cho được người cầm lưới, khốn nỗi, khi tiến đến bên người cầm lưới thì bị mảnh lưới chụp ngay, không để cho đối thủ kịp ra tay. Dương Qua đành thúc thủ, chẳng phải biết dùng cách nào được. Trong lúc đó thì mười sáu lên đệ tử áo xanh cứ dần dần tiến đến, mảnh lưới mỗi lúc một khép thêm. Chàng bí lối, chỉ còn cách phóng chân chạy từ đầu nầy sang đầu nọ để tránh né. Lối khinh công của chàng theo lối Cổ mộ, lanh lẹ phi thường. Tuy nhiên chàng chỉ là một con cá đã vào trong lưới dầu có nhảy lung tung cũng chỉ chờ người ta khép hẹp mành lưới lại đề bắt lấy mà thôi. Do đó mặc cho chàng bay lượn, bọn đệ tử áo xanh kia vẫn không đuổi theo chàng, cứ lần lần thu hẹp mành lưới mà thôi.

Trong lúc chạy nhảy tung tăng, Dương Qua để mắt quan sát, tìm xem có chỗ hở nào để thoát thân được chăng, nhưng thấy bốn bề kín mít. Mỗi lần bọn chúng dời đổi phương vị là mỗi lầ n mành lưới thu hẹp thêm hai bước. Tuy không tìm được kẽ hở, nhưng Dương Qua cũng hiểu được trận lưới này bắt chước theo kiểu lưới nhện. Con nhện rình bắt mồi thế nào thì kẻ bố trận cũng rình như thế. Con nhện ẩn mình thật kín, đợi con mồi vướng vào lưới tơ rồi mới chồm ra bắt lấy. Chàng nghĩ bụng: "Không thể đến gần chúng nó được thế thì ta dùng ám khí giết chúng ắt xong. Chàng tung chân nhảy phóc lên mấy cái nữa, rồi thò tay lần vào túi rút ra mấy chiếc "Ngọc phong châm" tung ra một lượt. Bốn mũi phong châm phóng tới bốn người ở phía nam. Loại phong châm nầy rất lợi hại phóng ra tất chết người hoặc bị thương nghìn lần không sai một. Cách xa chàng mấy trượng, chàng vẫn phóng trúng phong phóc thì bốn người nầy đứng gần, làm sao khỏi chết?

Chàng đinh ninh như thế, nào ngờ thấy chàng động thủ, bốn tên giăng lưới đã giơ mành lưới lên án ngữ. Bốn tiếng "tinh, tinh tinh, tinh" vang lên và bốn cây phong châm dính ngay trên mành lưới. Thì ra những sợi thép vàng dùng đan lưới ấy lại có một từ tính nam châm có thể hút được ám khí. Một cái lưới rộng như thế thì bất cứ ám khí của kẻ địch nào tung vào cũng vô hiệu. Dương Qua biết không thể dùng ám khí được nên còn mấy mũi phong châm nơi tay mặt chàng, chưa kịp phóng ra, vội cất ngay vào túi.

Chàng cau mày nhìn vào mặt Công Tôn động chủ tỏ ý khâm phục tài sáng chế của lão. Lúc này ai cũng thấy Dương Qua đang đứng trong tình trạng hiểm nghèo, mà tánh mạng như ở trong tay động chủ rồi.

Người chỉ huy trận pháp lưới hô to một tiếng, cả bọn từ từ lướt tới. Trước mặt chàng ánh kim khí chói lòa. Một tấm lưới tung lên cao đang đổ nghiêng xuống để chụp lấy chàng.

Chàng nhún mình một cái, toan chạy đến hướng tây bắc, thì hai tấm lưới phía nầy đã dồn lại khít nhau, bít ngay mất lối. Chàng hoảng sợ kêu lên:

- Hỏng rồi! Thôi ta đã lọt vào tay động chủ gian manh này, không hiểu sẽ chịu nhục nhã đến thế nào?

Đang lúc nguy khốn. Bỗng nghe một tiếng kêu rất lớn:

- Ôi!

Tiếng kêu như ngọc vỡ và nhẹ nhàng như giọng oanh, phát ra từ chỗ bốn người cầm lưới ở phía Nam. Dương Qua quay đầu nhìn lại thì thấy nàng Lục Ngạc vừa ngã lăn xuống đất, kéo theo một góc lưới sa xuống. Tức thì nghe một tiến "véo" toàn thân Dương Qua đã phóng lọt ra kẻ hở của mành lưới nhanh như một mũi tên. Thật lanh lẹ! Lối phi thân của Dương Qua như điện chớp.

Ai nấy đều kinh ngạc trố mắt nhìn, họ ngạc nhiên trước tài năng Dương Qua thì ít, mà lạ lùng trước hành động của con gái động chủ nhiều hơn. Tuy miệng Công tôn Lục Ngạc kêu đau nhưng mắt nàng lại đảo rất nhanh, liếc nhìn Dương Qua ra dấu, tỏ ý thầm bảo:

- Dương công tử hãy trốn đi khỏi động này lập tức, đừng dấn thân trong chốn hiểm nguy.

Đôi mắt nàng như van lơn, cầu khẩn làm cho Dương Qua cũng phải xúc động. Nhưng chàng dẫu chết cũng không thể nào bỏ trốn khi Tiểu long Nữ còn sờ sờ ra đó. Chàng nhủ thầm: "A! Nàng liều mạng cứu ta, tình ý thật vô cùng nhã cảm. Nhưng nếu ta chạy trốn thì cô ta phải thành hôn với lão chúa động này. Hôm nay dù bị nát thây ta cũng đành chịu, quyết không rời bỏ nơi đây được".

Quả thật, chàng vì nặng tình xưa không kể đến tính mệnh. Đôi mắt chàng đăm đăm nhìn Tiểu long Nữ không chớp. Chẳng lẽ chàng bị khốn nguy như thế mà Tiểu long Nữ không chút động lòng sao?

Thật ra, Tiểu long Nữ lúc này tuy cúi đầu không nói tiếng nào nhưng lòng nàng còn đau khổ hơn Dương Qua gấp bội. Dương Qua đau nhưng còn nói ra được, chàng không nể sợ, thẳng thắn thổ lộ can trường, còn Tiểu long Nữ phải dằn mọi đau đớn trong lòng, nhốt kín trong thâm tâm, để phải chịu đựng một sức giày xéo không bờ bến.

Bị hỏng việc, động chủ đập tay xuống bàn hai cái, bốn tấm lưới rẽ ra. Lão nhìn mặt nàng Lục Ngạc lạnh nhạt hỏi:

- Mày làm gì thế?

Lục Ngạc nhăn nhó thưa:

- Phụ thân! Chân con bỗng nhiên bị xụi gân, đau quá không đứng vững nổi.

Vốn là kẻ tinh đời Công Tôn động chủ còn lạ lùng gì cử chỉ yêu đương say tình của đứa con gái lão. Nếu ngày thường thì lão sẽ làm cái nhiệm vụ "nghiêm huấn". Nhưng hôm nay trước mặt một số đông khách lạ, lão không tiện làm mặt giận quát mắng con gái mình, nên cười nhạt bảo:

- A? thật thế sao? Thôi, hãy vào nhà trong mau!

Đoạn ông ta quay lại gọi một đệ tử nữa:

- Số mười bốn đâu? Hãy thay vào vị trí của nó.

Nàng Lục Ngạc cúi đầu, lủi thủi bước vào trong. Một thiếu nữ bước đến, đầu có hai bím tóc kết thành dây vải xanh. Trong khi thiếu nữ ấy nắm một góc lưới thì nàng Lục Ngạc lại đưa mắt nhìn trộm Dương Qua. Trong ánh mắt bao hàm một cái gì thiết tha sầu não.

Dương Qua hiểu ý thầm nhủ:

- Cô nương ơi! Tấm thịnh tình của cô đối với tôi kiếp này thực không sao báo đáp được. Nhưng cô buộc tôi đi khỏi nơi này, tôi không thể nào nghe theo lời cô được.

Bỗng động chủ vỗ tay xuống bàn bốn cái, tức thì mười sáu tên đệ tử lại lui vào nhà trong.

Dương Qua thấy thế nghĩ thầm:

- Lẽ nào lại chịu thua ta?

Chàng quay lại nhìn Lục Ngạc thì thấy mặt nàng tái mét. Nàng ra dấu giục Dương Qua phải mau mau rời khỏi động tức khắc. Cứ nhìn vào ánh mắt kinh hoàng và thái độ sợ hãi của nàng cũng đủ biết sắp có một việc đại biến xảy đến cho Dương Qua. Nhưng chàng vẫn mỉm cười đưa tay kéo chiếc ghế ngồi xuống giữa đại sảnh.

Chợt từ phía sau nhà phát ra những tiếng kêu lanh lảnh rợn người. Đó là tiếng sắt chạm vào nhau. Chỉ loáng mắt, mười sáu người đệ tử của động chúa lại tiến ra, tay cầm lưới chụp. Trông thấy mành lưới nầy ai nấy đều khủng khiếp. Thì ra động chủ đã truyền đổi bốn tấm lưới khác, trong lưới có treo những lưỡi câu chĩa nhọn sáng lòa cái nào cũng rùng rợn.

Mã quang Tổ la lớn:

- Ôi chao! Động chủ lão huynh ơi! ông dùng cái vật tối độc này để giết người ư? ông không còn nể mặt, nể tình với khách nữa à?

Động chủ lườm mắt nhìn Dương Qua dằn từng tiếng:

- Không phải ta muốn giết người. Đã mấy lần ta yêu cầu ngươi rời khỏi nơi nầy, thế mà ngươi cố tình không chịu nghe theo, cứ ở mãi nơi đây quấy rối. Bây giờ ta bảo cho một lần chót nếu muốn toàn mạng mi hãy đi ngay.

Mã quang Tổ vốn là kẻ già gan lớn mật, nhưng khi trông thấy bốn tấm lưới dị thường ấy cũng phải lè lưỡi rợn người. Nhất là khi nghe những móc câu trong lưới rung lên, hắn không còn giữ được bình tĩnh nữa, bèn đứng phắt dậy, bước tới nắm tay Dương Qua nói:

- Chú Dương ơi! Vật kia hại người ghê gớm quá, nên tránh xa đi là hơn, ăn thua với bọn họ làm gì?

Dương Qua không đáp, quay nhìn Tiểu long Nữ, xem nàng có nói gì không. Nhưng nét mặt nàng vẫn trầm lặng như không.

Thật ra, trước đây Tiểu long Nữ đã quyết định lập trường của nàng rồi, nên nàng mới có thái độ ấy. Nàng mang ơn động chủ cứu mạng lại thấy trong động vắng thâm u, nàng có thể chôn vùi cuộc sống thừa của nàng mà khỏi gặp mặt Dương Qua. Bởi lẽ đó nàng mới nhận lời thành thân với động chúa. Vả lại, nàng thấy động chủ là người ôn hòa, kiến thức uyên bác, thật không phải kẻ tầm thường, nàng có thể gởi thân được. Ngờ đâu, Dương Qua đột nhiên tìm đến, khiến cho nàng không còn tránh né vào đâu được. Bây giờ thấy động chủ đem loại vũ khí độc ác ra, định hại mạng Dương Qua nàng đã nghĩ sẵn đến cái "chết". Nàng định bụng sẵn, hễ mành lưới kia chụp Dương Qua, nàng sẽ lao đầu vào chết theo. Vì đã quyết định như thế, nên mặt nàng vẫn thản nhiên, chờ đến phút lâm chung. Nàng tin rằng chỉ có cái chết bên chàng mới tiêu tan được oan nghiệt mà thôi.

Nỗi u uẩn trong lòng nàng như thế, Dương Qua làm sao biết được. Chàng cứ nghĩ rằng trong lúc mình lâm nạn như thế mà cô mình vẫn thản nhiên, không có một chút đau lòng, xót ruột thì tình nghĩa xa xưa nay còn đâu? Trong lúc đầu óc rối loạn, bỗng Dương Qua nẩy ra một ý nghĩ. Chàng chạy đến trước mặt Tiểu long Nữ, vòng tay lễ phép nói:

- Thưa cô! Nay em Qua rủi mắc nạn, xin cô nương cho em mượn giải lụa và tất tay.

Tiểu long Nữ đang nghĩ đến việc sẽ ôm nhau cùng chết trong mành lưới thì còn thiết gì nữa. Nàng lạnh lùng thò tay vào bọc rút giải lụa và hai chiếc bọc tay màu trắng trao cho Dương Qua.

Đó là hai thứ vũ khí độc đáo nhất của nàng. Chiếc bao tay kia mang vào thì vũ khí đâm không lủng. Còn giải lụa kia ở đầu có một cái chuông nhỏ, dùng tung ra kình địch thủ rất lợi hại.

Dương Qua đưa tay tiếp nhận, và đăm đăm nhìn vào mặt nàng hỏi:

- Thế thì lúc nầy cô nương đã nhận ra em chưa?

Tiểu long Nữ thấy xốn xang trong lòng, không thể nào làm mặt lạnh nhạt được nữa, vì nàng đã quyết định cùng chết với Dương Qua nên nàng mỉm cười bảo:

- Ngay từ lúc thấy mặt, lòng tôi đã nhận anh rồi!

Nét mặt Dương Qua bỗng nhiên hớn hở thần sắc uy nghi, chẳng khác nào vừa uống một viên thần dược. Chàng hỏi với giọng hối hả:

- Thế là cô nương đã nhất định theo em ra đi, không kết hôn với động chủ nầy nữa chứ?

Nàng tươi cười gật đầu:

- Tôi quyết theo anh đến cùng, và không còn lấy ai nữa!

Câu nói của nàng hàm ý là sẽ chết theo Dương Qua. Chí quyết theo nhau dưới tuyền đài mà thôi. Nhưng Dương Qua đâu hiểu được ý ấy. Chàng tưởng Tiểu long Nữ đã hết giận chàng, chàng sung sướng quá sức. Trong lúc đó mọi người đứng xung quanh đều ngạc nhiên trố mắt nhìn nàng. Công Tôn động chủ đau đớn ra mặt, buồn giận tuôn ra một lúc, vung tay đập mạnh lên thạch bàn, giục bọn đệ tử ra tay sớm.

Mười sáu tên đệ tử chuyển bước theo phương vị, bủa lưới vây quanh. Dương Qua lúc nầy đã được Tiểu long Nữ nói mấy lời nên tâm hồn chàng thanh sảng, sức mạnh tăng gấp bội và gan dạ có thừa, dẫu trong dầu sôi lửa bỏng chàng cũng chẳng coi ra gì huống hồ tấm lưới sắt này. Chàng lồng hai chiếc tất vào hai bàn tay rồi cầm giải lụa tung ra, đầu giải lụa tiếng chuông chạm nhau kêu lanh lảnh. Sợi dây lụa bạch phóng ra ngoằn nghèo như con rắn, co giãn, tới lui rất lanh lẹ. Chàng phóng về phía nam, một tiếng "tinh" phát ra, tiếp đó chàng phóng về hướng Bắc, hai tiếng "tinh tinh" phát ra. Cứ mỗi tiếng "tinh" là một tên đồ đệ của Động chủ bị điểm vào trọng huyệt. Chỉ loáng mắt, chàng đã điểm vào ba huyệt "Khúc thạch" của ba tên giăng lưới. Chúng không chịu nổi phải quỵ xuống đất. Những đứa còn lại, thấy vậy trố mắt nhìn nhau và tâm thần dao động, chỉ còn biết tiến đánh, một cách yếu ớt. Thế là trận lưới bị vỡ. Dương Qua thừa thế, vung giải lụa tiếp đánh hai cái nữa. Hai tiếng "tinh tinh" phát ra, tiếp theo hai đứa của Động chủ lăn nhào. Nhưng lúc ấy tấm lưới sắt phía Bắc đã thấp xuống quá gần. Cố nhiên chàng không thể dùng giải lụa để quật được nữa, trong lúc nguy cấp, chàng vội tung bàn tay trái chụp ngay mành lưới hất mạnh trở ra. Vì tay chàng có bọc "chưởng táo" nên các móc câu trong mành lưới sắt như gươm vẫn không nào đâm lủng nổi!

Tiếp dó, chàng lại tung chân nhảy vọt về hướng khác. Thân hình chàng rất dẻo, vì trước đây chàng đã từng nằm trong núi vắng, rừng sâu khổ công ôn lại võ nghệ. Sự luyện tập ấy đã đưa chàng đến một công phu kỳ diệu vô cùng.

Bọn đệ tử không ngờ chàng có thể túm được mành lưới, đẩy ngược bất ngờ, các móc câu quay ngược lại, móc lên đầu chúng đau quá, la ôi ối!

Uy mãnh của Dương Qưa mỗi lúc một tăng. Chàng tung giải lụa đánh tiếp vào huyệt đạo của những đứa còn lại. Chúng sợ quá, không còn dám đến gần, bước lui về phía vách đá thủ thế, và dùng mành lưới làm vật hộ thân, che chở cho nhau, không còn dám tiến đến chụp lưới nữa.

Mã quang Tổ thấy thế, giậm chân múa may khen Dương Qua inh ỏi. Trong lúc đó thì Kim Luân Pháp Vương vẫn đứng nguyên một chỗ, trầm ngâm không nói một lời nào.

Mã quang Tổ quay lại hỏi lớn:

- Pháp vương Hòa thượng! Chú Dương bản lãnh cao cường như thế không đáng cho ngài khen ngợi nửa lời sao?

Kim Luân Pháp Vương mỉm cười đáp:

- Khá lắm! Khá lắm! Nhưng còn có nhiều nguy hiểm hơn, chớ nên vội mừng.

Mã quang Tổ nói:

- Cái nguy hiểm là mành lưới độc ác đó mà đã bị tê liệt thì còn cái nào đáng ngại nữa?

Pháp Vương không đáp, đưa mắt nhìn Công Tôn động chủ.

Bấy giờ Công Tôn động chủ đôi mày dựng ngược lên, chậm rãi bước đến giữa nhà với vẻ mặt đầy sát khí. Trong lúc Công tôn Động chủ nghe Tiểu

long Nữ nói với Dương Qua câu "Tôi nhất quyết theo anh đến cùng" thì lão cảm thấy như lão đã sống trong mộng suốt nửa tháng nay, bao nhiêu mộng đẹp đều đổ vỡ như mây khói. Vì quá căm tức, nên lão đã thầm nhủ: "Nếu không chiếm được lòng nàng thì cũng quyết không để tấm thân nàng lọt vào tay kẻ khác. Giờ ta đập thằng oắt con nầy một chưởng không nát thây thì nàng dẫu không yêu ta cũng không dám trái mệnh ta. Ta sẽ dùng thời gian chinh phục nàng sau". Công Tôn động chủ vốn là kẻ biết xử sự không nóng nẩy, bừa bãi như những kẻ khác. Tuy nhiên, Tiểu long Nữ, một tuyệt sắc giai nhân, đã chung sống với lão hơn tuần nay, nàng đã hứa thành thân với lão, trong lúc hôn lễ sắp thành thì Dương Qua đã đến phá hỏng làm sao có thể chịu nổi. Bất đắc dĩ lão mới có ý định giết Dương Qua.

Dương Qua thấy lão ung dung bước tới, nét mặt hầm hầm, không biết võ công lão đến mức nào, nên chàng cũng e ngại, lui về hai bước, tay nắm chặt giải lụa thủ thế. Chàng biết mạng của chàng chết hay sống, vinh hay nhục, đời Tiểu long Nữ vui hay sầu là do cuộc chiến đấu này định đoạt cả.

Bấy giờ động chủ đưa chân bước từng bước một, dạo quanh trong phòng, còn Dương Qua thì tay nắm chặt giải lụa đứng một chỗ thủ thế đôi mắt chàng không rời Công Tôn động chủ một giây phút nào. Tuy Công Tôn động chủ chưa ra tay song Dương Qua đã biết trước đòn đánh đầu tiên của lão phải là một đòn rất khủng khiếp có thể vong mạng. Bỗng thấy hai tay của lão đưa về phía đằng trước ba lần, rồi đập vào nhau một tiếng

"bốp".

Mọi người thực không ngờ. Đôi tay bằng xương bằng thịt sao vỗ lên nghe chan chát như hai tảng đá đập vào nhau vậy.

Dương Qua rợn người, chưa kịp thối lui thì nhanh như chớp, bàn tay Công Tôn động chủ đã vươn tới nắm lấy mảnh lưới, giật mạnh một cái, hất tung ra đằng sau. Tay Dương Qua đang giữ mảnh lưới, bị cái giật ấy thốn đến xương đau nhói.

Lão quăng lưới vào góc phòng cho bốn đệ tử đỡ lấy và quát:

- Hãy lui mau!

Bốn đệ tử tuân lệnh đem mành lưới vào nhà trong.

Quan khách đứng xem đều thất kinh, khi thấy động chủ diễn ra những tác uy cực kỳ dũng mãnh, chứng tỏ bên trong hàm chứa một công lực phi thường. Ngay như nàng Lục Ngạc cũng chỉ biết cha nàng có một võ công tuyệt tác chứ chưa hề nghĩ đến một nội lực vô cùng thâm hậu như vậy Trong bọn đồ đệ của lão, chỉ riêng Phàn nhất Ông biết được chân lực của lão mà thôi.

Lão đưa mắt nhìn nét mặt còn non trong của Dương Qua, nhủ thầm: "Mày muốn chết thì sẽ được chết! Nhưng có điều ta phải ân hận là ta đã giết một kẻ hậu sinh!".

Dương Qua không dám để động chủ ra tay trước, chàng vội tung giải lụa điểm vào huyệt "Cự cất" trên đầu vai lão và quật luôn vào huyệt "Thiên đỉnh" ở cổ.

Nhưng Công Tôn động chủ là người sáng lập ra một môn phái võ lâm, công lực thâm hậu, lão còn coi giải lụa kia ra gì và việc điểm huyệt đối với lão là điều vô dụng. Lão vẫn đứng trơ ra đấy, hai tay mở rộng để trống cả bụng, ngực có ý khích Dương Qua.

Dương Qua thất kinh nghĩ thầm: "Cô nương ta thường nói, trên đời này chỉ có Âu dương Phong, Hồng thất Công, Hoàng dược Sư, là những kẻ có võ công tuyệt thế, khi trông thấy địch sắp tấn công có thể kịp thời khép kín đạo huyệt. Riêng Âu dương Phong môn nầy còn kỳ ảo hơn, có thể di chuyển các đạo huyệt trật đi chỗ khác, khiến cho địch thủ không tìm ra. Nhưng nội công ấy còn có thể bị người cao thủ dò tìm ra được chứ Công Tôn động chủ thì bị điểm huyệt liên tiếp mà không hề phản ứng, tựa hồ như trên mình lão không có huyệt đạo nào vậy. Công phu nầy thật hiếm thấy trên đời". Nghĩ như thế, Dương Qua đâm ra lo lắng, không dám dùng giải lụa điểm huyệt Công Tôn động chủ nữa.

Công Tôn động chủ thấy Dương Qua ngơ ngác, bèn vung tay đánh tới một chưởng. Bàn tay của động chủ mỗi lúc một vung tới là một luồng hắc khí xông ra, sức gió vùn vụt ép vào người chàng. Chàng biết chưởng lực ấy vô cùng lợi hại, nên không dám dùng sức chống đối phải nghiêng mình sang một bên để tránh. Chỉ trong láy mắt, hai bên đã đánh nhau hơn mười mấy chiêu. Dương Qua để hết tinh thần vào việc chiến đấu. Bỗng như chàng nghĩ ra điều gì lẩm bẩm: "Lạ thật! phương pháp của lão nầy hình như không có gì độc đáo? Mình đã thấy kẻ nào diễn qua rồi!". Thấy lão tung ra một lúc hai chưởng lực, một nhu một cương chàng vội né tránh và la lớn:

- Này! ông biết Hoàng nhan Bình chăng?

Chàng đột nhiên hỏi đến câu ấy, vì chàng nhận ra chưởng pháp của lão động chủ giống hệt chưởng pháp của Hoàng nhan Bình. Có lẽ Hoàng nhan Bình và lão ta cùng một môn phái chăng? Mặc dù công lực lão thâm hậu hơn Hoàng nhan Bình nhiều lắm.

Bấy giờ động chủ vẫn đưa bàn tay lên không, và vụt qua cái lão đã vọt tới trước mặt chàng.

Theo nguyên tắc thông thường, người đấm quyền phát chưởng, ai cũng dùng cánh tay đưa nắm đấm tay vung ra thì nắm đánh sang, nhưng Công Tôn động chủ thì không thế, ông ta dùng toàn thân đưa chưởng phong tới cánh tay không hề co duỗi, tức là lão đã dùng sức mạnh toàn thân. Chính Hoàng nhan Bình cũng có dùng lối đánh nầy. Lối đánh này mạnh hơn lối đánh bằng sức cánh tay, nhưng thường bị chậm hơn, thế mà Công Tôn động chủ đã sử dụng rất lanh lẹ. Lão đánh nhanh như chớp nhoáng, khiến cho Dương Qua không thể lường trước được. Dương Qua không kịp tránh né, phải đưa bàn tay trái liều lĩnh đỡ đòn. Một tiếng "bùng" phát ra, hai luồng chưởng phong đập vào nhau. Dương Qua bị lật ra đằng sau ba bước, trong lúc đó động chủ chỉ đứng nguyên một chỗ, toàn thân hơi rung chuyển chút ít mà thôi. Dương Qua cảm thấy như nóng ran cả người từ bàn tay lên đến cánh tay trái như muốn tê buốt. Chàng nghĩ thầm: "Cái bọc của cô mình kiếm đâm không lủng, chém cũng chẳng đau tay, thế mà chưởng lực của lão này đánh đau thấu đến xương tủy, thật lạ lùng".

Công Tôn động chủ tuy đứng vững một chỗ, có vẻ thắng thế, nhưng thực ra lão bị chưởng lực của Dương Qua phấn kích ác liệt, và lão cảm thấy đau nhói tâm can, thất kinh nhủ thầm: "Hừ! Thằng bé chưa ráo máu đầu vì đâu lại được công lực uyên thâm đến thế. Hắn đã đỡ được đòn chưởng của ta, nếu ta không đem hết sức ra thì khó bề hạ được hắn. Nếu không hạ được hắn thì còn gì danh tiếng của ta tự bấy lâu nay đối với giang hồ hảo hán?". Nghĩ như thế, lão liền đập hai bàn tay một lượt, tung ra song chưởng.

Dương Qua thất kinh nhảy vọt ra đằng sau hơn ba bước. Thực ra, nếu động chủ dùng công lực đánh tiếp thì Dương Qua không thể nào thoát khỏi nguy. Chàng cũng cảm thấy sức chàng không đủ để đương đầu với lão được. Tuy nhiên trước mặt mọi người, trước tình thế chàng không thể lánh mình bỏ Tiểu long Nữ rơi vào tay kẻ khác, nên chàng quên cả hiểm nguy, cố tìm cách đánh vào tâm lý lão động chủ. Chàng nói:

- Chúa động! Người quyết tranh thắng bại với ta để làm gì? Mi đánh thắng ta liệu cô ta có chịu thành thân với ngươi chăng còn ngươi đánh thua ta, cô ta tất không chịu lấy ngươi rồi. Đàng nào ngươi cũng thiệt thòi, nếu ngươi cứ dùng vũ lực.

Câu nói ấy quả đã đánh trúng vào mối lo âu của Chúa động. Tuy đánh trúng song lão nghĩ rằng Dương Qua là người yêu của nàng, nếu giết Dương Qua đi thì nàng sẽ buồn bã, chắc gì nàng đã chịu thành thân, khi vết thương lòng đă in sâu vào con tim sầu khổ kia. Còn nếu không giết Dương Qua để hắn phá đám mãi, lão cũng chẳng làm gì được. Lão thấy mình quả đang ở trong thế bí, không lối thoát. Đôi bàn tay lão đánh vào nhau chan chát, tỏ ra giận dữ phi thường. Bỗng lão nghĩ ra một cách, gọi bọn đồ đệ, bảo lớn:

- Hãy đem binh khí của ta ra đây.

Nàng Công Tôn Lục Ngạc biết rõ binh khí của cha nàng là một món giết người nguy hiểm, Dương Qua không thể nào thoát chết được. Đôi mắt nàng lặng lờ, nhìn Dương Qua như van lơn chàng hãy nhịn cha nàng mà đi nơi khác cho xong.

Thấy nàng rụt rè chưa vào lấy vũ khí, động chủ hét lên:

- Mày không nghe lời tao nói gì hay sao?

Mặt nàng Lục Ngạc tái mét. Nàng "dạ" một tràng nhỏ rồi quay gót vào trong. Dương Qua liếc nhìn trạng thái tâm hồn diễn biến qua hai cha con động chủ, rồi mím môi thầm nghĩ: "Chỉ một đôi tay không của lão cũng đủ đánh ta tan xác rồi, bây giờ lão còn bảo đem vũ khí ra làm gì nhỉ?".

Thật vậy, động chủ thừa hiểu sức lực lão đánh Dương Qua không khó, nhưng lão không muốn giết Dương Qua, gây đau khổ cho Tiểu long Nữ, lão chỉ muốn đem những vũ khí cổ quái của lão để dọa cho Dương Qua sợ, bỏ động này không dám bén mảng đến mà thôi.

Dương Qua biết cơn nguy đã đến, nếu không bỏ chạy còn đợi lúc nào. Chàng bước đến Tiểu long Nữ thỏ thẻ:

- Cô ơi! Thôi chúng ta cùng đi nơi khác, ở đây nguy mất!

Công Tôn động chủ cau mày, nghiến răng, hai bàn tay nắm chặt, chờ cho Tiểu long Nữ đứng dậy là lão đấm cho Dương Qua một chưởng nát xương.

Tiêu long Nữ đã thấy được dự tính của lão, nên vẫn ngồi im, nói với Dương Qua:

- Lúc này chưa phải lúc ra đi với nhau. Em Qua ơi! Mấy hôm nay trong người em có khỏe không?

Câu nói của nàng như chứa đựng một niềm mến yêu tha thiết. Dương Qua sung sướng quá, không còn nghĩ đến nguy hiểm sắp đến, chàng nhìn vào mặt Tiểu long Nữ hỏi:

- Cô ơi! Cô không giận em nữa chứ?

Nàng khẽ mỉm cười, đáp:

- Cô đâu có biết giận em bao giờ. Lòng cô cũng như tự thuở nào!

Đoạn nàng đưa tay ra dấu bảo Dương Qua:

- Em hãy ngồi xuống đây! Quay lưng lại cho cô xem.

Dương Qua không hiểu nàng làm gì nhưng cũng tuân lời, ngồi xuống quay lưng lại. Tiểu long Nữ thò tay vào túi lấy ra cây kim sợi chỉ, khâu áo rách cho Dương Qua. Chỗ áo này vừa rồi do động chủ đánh toẹt một miếng. Nàng vừa vá vừa nói:

- Mấy hôm nay cô định may cho em chiếc áo mới, nhưng lại nghĩ từ nay chúng ta vĩnh biệt không còn gặp nhau nữa thì may làm gì. Ôi, có ngờ đâu em lại đến đây.

Cử chỉ của nàng gợi cho bao kỷ niệm êm đềm tự xa xưa, lúc còn ở nơi Cổ mộ, mỗi lần áo Dương Qua bị rách, chính nàng đã tự tay vá lấy và lúc nầy, cả hai đều trìu mến trong dĩ vãng, quên hẳn trước mặt họ có đông đảo quan khách trố mắt nhìn vào. Đặc biệt là đôi mắt động chủ trao tráo nhìn hai người như nẩy lửa.

Dương Qua nói:

- Cô ơi! Lúc nãy em đã làm cho cô bị tức đến thổ huyết! Em thật có tội.

Tiểu long Nữ mỉm cười, khẽ nói:

- Đó không phải tại em! bệnh cũ của cô đã nhiều lần tái phát. Hôm nay chỉ là một trong những lần thổ huyết mà lúc vắng em, em không trông thấy.

Dương Qua thổn thức:

- Sao cô nỡ bỏ em? Cô không chịu để em được hầu hạ bên cô mà chăm sóc?

Tiểu long Nữ thở dài, nói:

- Xa cách em chẳng bao lâu mà võ nghệ của em đã tiến bộ quá chóng. Hiện nay cô không đáng là sư phụ của em nữa, mà chính cô tôn em làm sư phụ mới đáng.

Lời khen của Tiểu long Nữ làm cho chàng sung sướng quá. Chàng ước được bay liệng không trung, la lên cho rung chuyển cả không gian mới thỏa lòng.

Hai bên chuyện trò, kẻ hỏi người đáp, tuy chỉ là những câu nói, những ý tứ thường tình song ai cũng cảm thấy một mối tình sầu thảm không giới hạn giữa hai con tim trẻ măng đó. Bọn Kim Luân Pháp Vương trố mắt nhìn nhau từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên kia. Trong lúc đó, động chủ như một khúc gỗ, đứng trân trân như kẻ mất hồn, không còn biết đâu nữa. Trong phòng vì vậy vắng lặng như tờ.

Dương Qua cất tiếng nói:

- Cô ơi! Trong những ngày gần đây, em được gặp nhiều dị nhân quá! Cô có biết cái kéo lớn của em vừa rồi do đâu mà có không?

Tiểu long Nữ mỉm cười:

- à! Thật kỳ quặc! Chẳng lẽ em biết trước ở đây có lão lùn râu dài nên đem sẵn kéo đến hớt râu sao? Ôi! Em thật nghịch ngợm quá. Bộ râu của lão ta khổ công nâng niu hàng mấy mươi năm mà em nhẫn tâm hớt trụi như vậy còn gì!

Nụ cười của nàng mỹ miều làm sao, khiến ai trông thấy cũng cảm mến. Riêng động chủ không sao dằn được nữa. Lão vươn tay nắm ngay ngực Dương Qua kéo lôi ra, gào lên:

- Súc sanh! Mày xem trong đời nầy không còn có người hay sao?

Tiếng thét của lão vang lên, làm vang cả căn nhà đá. Nhưng Dương Qua không hề để ý, đưa tay gạt lão ra, và nói:

- Khoan, khoan! Ngươi hãy chờ một chút, đợi cô ta vá áo xong ta sẽ tái đấu.

Bỗng nghe có tiếng nàng Lục Ngạc nói:

- Thưa cha, binh khí đây ạ!

Lão không quay đầu lại, bước lui về đàng sau một bước, quàng tay đỡ lấy khí giới. Đó là hai thứ vũ khí lạ đời. Tay mặt lão cầm một con dao to bản, lưỡi có răng cưa, ánh thép chói lòa chẳng biết đúc bằng kim loại gì mà đen thui thui, có một sức nặng kinh người, còn tay trái lão cầm một cây lao nhọn, vừa dài vừa nhỏ, trông mềm mại và nhẹ nhàng. Hai thứ vũ khí tính cách trái ngược nhau. Một bên thì cứng và nặng một bên thì mềm và nhẹ. Cứ xem hai thứ vũ khí ấy thì biết lối sử dụng của lão phải là một nghệ thuật lạ đời rồi.

Dương Qua chỉ liếc nhìn sơ qua hai thứ vũ khí quái dị ấy, rồi lại quay qua Tiểu long Nữ tiếp tục nói chuyện:

- Cô ạ! Cách đây mấy ngày em có gặp một cô gái ngây ngô. Cô ấy nói cho em biết kẻ đã giết cha em.

Tiểu long Nữ giật mình hỏi:

- Kẻ thù giết cha em là ai?

Dương Qua nghiến răng nói:

- Hạng người ấy cô nương có thể nào đoán nổi. Chính họ là kẻ đối xử với em rất tử tế.

Tiểu long Nữ nóng lòng vặn hỏi:

- Họ là ai thế?

Dương Qua toan đáp thì đằng sau một tiếng "choang" nổi lên làm chói tai chát óc. Đó là tiếng chạm nhau giữa hai thứ binh khí trong tay lão Động chủ. Lão muốn kéo cổ Dương Qua ra giết phứt cho rồi, nhưng Dương Qua cứ mãi ngồi bên Tiểu long Nữ trò chuyện, nên lão muốn giết

lúc nào cũng được không cần phải lợi dụng cơ hội nào hết. Lão nghĩ thầm: "Những cao thủ trong đời này, chỉ có thể đấu với ta bằng đôi bàn tay sắt mà thôi, còn như "ngư võng trân" thì không có ai phá rối nổi, trừ khi bọn Thất tử Toàn Chân dùng "Thiên cang bắc đẩu" lấy trận đấu trận, thì công lực bên nào mạnh bên ấy sẽ thắng. Đến như cặp "âm dương song đao" nầy, ta đem hết sức ra sử dụng có lẽ trong thế gian không còn ai dám địch ta nữa.

Với Dương Qua, lão chỉ cần đánh trong mười chiêu là đã kết thúc tánh mạng ngay. Nhưng lão giết Dương Qua sợ làm cho Tiểu long Nữ buồn lòng, nên lão muốn dùng vũ khí để dọa cho Dương Qua sợ mà thôi. Thấy Dương Qua cứ ngồi lì ở đấy, không chịu ra đấu, lão liền hét lên một tiếng:

- Hãy coi cây gươm đây nầy!

Mũi gươm của lão nhắm ngay ngực Dương Qua đâm tới! Có điều lạ là gươm đâm tới không đâm thẳng mũi gươm cứ xoay tròn múa tít trước ngực chàng. Chàng giựt mình nhẩy lui ra sau một bước để tránh.

Thực ra, động chủ không có ý giết Dương Qua, chứ mũi gươm ấy đâm thẳng tới thì dù Dương Qua có lanh như điện cũng không còn tránh nổi. Mũi gươm cứ tròn xoe quay tít. Dương Qua không còn nhận rõ đường đi của mũi kiếm là đường nào nữa. Chàng né qua bên tả, thì sợ gươm kia đâm bên hữu, né qua bên hữu sợ gươm đâm bên tả, né trên sợ gươm đâm phía dưới, vì vậy chàng chỉ còn có cách lùi lại là an toàn hơn. Nhưng Dương Qua vừa nhảy lùi ra thì ngọn hắc kiếm đã áp tới xoay tròn trước mặt. Vòng xoay mỗi lúc một mở rộng hơn, lúc sau chỉ khoanh trước ngực chàng, về sau cả ngực và bụng chàng đều nằm vào tâm quay của mũi kiếm đó.

Bọn Kim Luân Pháp Vương, Doãn khắc Tây, Tiêu tương Tử, đều là những tay võ công có hạng, hiểu biết sâu xa về võ học, nhưng chưa từng thấy lối kiếm pháp nào lạ lùng như thế. Ai nấy đều đứng ngẩn ngơ nhìn vào đôi tay của động chủ cứ vò tròn trước mặt Dương Qua. Dương Qua cứ lùi tránh mãi, nhưng thuật khinh công của động chủ thật tài tình. Hễ Dương Qua lùi lại ba bước thì động chủ đã tiến tới hai bước, dính liền với Dương Qua, không một phút giây sơ hở.

Chỉ trong loáng mắt, Dương Qua đã nhảy lùi hơn ba mươi lần, vòng quanh trong căn nhà đá. Dương Qua thầm nghĩ: "Lão chỉ mới sử dụng một cây hắc kiếm mà còn lợi hại như vậy, nếu lão dùng cả cây kim đao kia nữa thì ai địch nổi?". Vừa nghĩ chàng vừa tiếp tục thụt lùi để tránh né. Nhưng chỉ thấy lão múa gươm mà không có ý hạ sát mình nên Dương Qua đâm ra bạo dạn, vung giải lụa trắng đánh vào các huyệt đạo của lão. Nhưng vô ích, giải lụa trắng như con rắn dài, cứ điểm trên mình lão những tiếng "tinh tinh" nghe rởn ốc, mà lão vẫn như thường ngang nhiên múa đao xe xóe. Thấy điểm huyệt lão chẳng ăn thua gì Dương Qua liền sinh ra một kế, vụt giải lụa dài quấn vào chân lão rồi giật mạnh một cái, cốt làm cho lão quýnh chân ngã xuống.

Nhưng giải lụa vừa quấn vào chân, lão đã dưa đao xuống dứt ngang một cái. Nghe "vèo" một tiếng, giải lụa Dương Qua đã đứt ra làm hai khúc. ôi! Lưỡi hắc kiếm của lão quả là một vũ khí sắc bén nhất đời.

Mọi người đứng xem thấy thế cùng hét lên một tiếng "á". Và tiếp theo đó, gió rít vèo vèo, động chủ đã vung hắc đao lên tiếp tục tấn công Dương Qua như vũ bão. Dương Qua vươn mình nằm rạp xuống, tức thì một tiếng "xoảng" vang lên chói tai nhức óc. Bốn vách tường như chuyển động, thì ra Dương Qua bị hắc kiếm chặt đứt dây "Kim linh sách" nên phải nhoài mình xuống lượm cây thiết trượng của lão Phàn bỏ rơi lúc này để đối phó. Chàng vừa tung thiết trượng lên đã bị hắc kiếm chém tới một nhát kêu chan chát. Sức chém và sức đỡ rất mãnh liệt. Động chủ giật mình, nghĩ thầm: "Thằng nầy nội lực quả ghê gớm! Nó dám chống lại nhát chém của ta". Liền đó, tay lão động chủ vung ra, cả kim đao và hắc kiếm đều sử dụng một lượt. Tính cách hai thứ vũ khí nầy tương phản. Hắc kiếm mạnh và cứng, đánh chém vù vù, lanh lẹ phi thường, thì kim đao của lão lại đâm tới từ từ lòn lỏi theo một thế yếu, nhưng nhắm vào các nhược điểm của đối phương mà tấn công.

Dương Qua biết lão đã dùng hai vũ khí cổ quái ấy một lúc thì không còn tài nào tranh né được nữa, chàng sực nhớ ra môn "Đả cẩu bổng pháp" nghĩ thầm: "Ta dùng cây trượng nầy làm cây "đả cẩu bổng" may ra mới ngăn trở nổi làn vũ khí ác liệt".

Chàng liền múa đầu thiết trượng thành hình chữ "Phong". Mũi trượng quay tít và bảo vệ trước ngực Dương Qua rất kín đáo.

Công Tôn động chủ tay chém tay thâu, tư thế rất độc, nhưng vì môn "Đả cẩu là một môn võ tuyệt kỹ tử xưa nay, biến hóa khôn lường, nên thật khó mà áp đảo nổi nữa.

Dương Qua tuy dùng thuật "Đã cẩu bổng" chống lại cặp gươm "Âm dương" của động chủ, nhưng phép "Đả cẩu bổng" cốt lanh lẹ dùng loại cây nhẹ mới có thể biến đổi được các tuyệt chiêu trong pháp thuật, đàng này chàng lại dùng cây thiết trượng quá nặng, nên ban đầu có lẹ làng thật, nhưng sau thì dần dần yếu đuối và đầu trượng không còn linh động được nữa.

Công Tôn động chủ thừa thế chém xuống một gươm, một tràng "cắt" vang ra, tức thì cây thiết trượng của Dượng Qua gãy làm hai đoạn.

Tưởng thế là một bất lợi cho Dương Qua, nào ngờ chàng mừng rỡ, reo lên:

- A ha! Tốt lắm! Ta đang bực mình vì cái gậy sắt quá nặng đây. Ngươi chặt đi một khúc thì còn gì hay hơn?

Chàng vừa nói vừa múa tít khúc trượng còn lại, áp dụng phép "Đả cẩu bổng" biến đổi vô cùng lợi hại.

Động chủ gầm lên một tiếng:

- Được! Giỏi lắm! Mày hãy xem đây.

Dứt lời, lão vung tay chém xuống một nhát kiếm. Dao nầy chém từ trên xuống đỉnh đầu, nhưng có điều lạ là lão chém rất chậm, như vướng mắc cái gì vậy. Dương Qua toan nói thì lại bị mũi kim đao của lão tung ra xoáy tròn về phía ấy. Thất kinh, Dương Qua đưa thiết trượng lên đỡ hắc đao thì "choang" một tiếng, đao trượng chạm nhau ánh lửa tóe sáng ra, dưới sức đao mạnh quá làm cả mình Dương Qua rung động đứng liểng xiểng.

Dương Qua vừa định thần thì Công Tôn động chủ lại chém xuống một đao nữa cũng như lần trước. Dương Qua tuy nghiên cứu về đao pháp rất nhiều, nhưng cũng không biết cách gì để giải phá ngón ấy. Vì nếu né tránh nhát đao đó tức khắc sẽ bị mũi nhọn của kim đao đâm phải ngay. Chàng đành vận hết nội công vào cây thiết trượng để chịu dội đòn thứ hai nữa.

Lần nầy mình mẩy Dương Qua còn rung động hơn lần trước. Chàng thầm nghĩ: "Nếu lão chém thêm một nhát nữa thì cả thân thể ta phải rã rời mất".

Quả nhiên chàng đang lúng túng thì lão lại bổ xuống một nhát thứ ba nữa. Nhát này khí thế lại càng hung hăng hơn hai nhát trước.

Nguyên về môn đao này, động chủ gồm có mười chín đòn, cứ mỗi đòn chiêu số lại khác, và mỗi đòn công lực lại gia tăng gấp bội. Công lực đó lợi hại vô cùng, không ai địch nổi. Dương Qua cố gắng đỡ nhát thứ ba thì cây thiết trượng trong tay chàng đã bể đi mấy miếng nữa, nơi hổ khẩu bàn tay mặt bị rướm máu chảy ra từng giọt. Tuy nhiên vì đã có ý định liều chết, Dương Qua không chút gì sợ hãi, nét mặt vẫn tươi vui".

Công Tôn động chủ thấy nét mặt Dương Qua vẫn tươi cười, nổi giận nói:

- Mày liệu có thể đỡ đến nhát đao thứ mấy mà chưa chịu quỳ xuống xin tha mạng?

Vừa nói, lão vừa chém xuống nhát đao thứ tư mạnh tăng đến như sấm sét.

Dương Qua lúc đó bị dồn đến chân tường, không còn nhảy lùi được nữa. Còn né tránh qua một bên thì lại sợ mũi nhọn của kim đao đâm phải. Tuy nhiên lần này nếu đưa thiết trượng ra đỡ một nhát nữa thì toàn thân tê liệt mất.

Trong lúc nguy khốn, nhưng không thể đứng đó chờ cho mũi kiếm kết thúc mạng người. Chàng liều nhảy vọt sang một bên, đưa bàn tay trái hất mũi kim đao qua một phía. Mũi kim đao đâm thẳng vào bàn tay chàng. May thay, chàng nhờ có đeo cái bọc tay của Tiểu long Nữ, bọc nầy rất chắc, nên kim đao dẫu nhọn cũng đâm trượt ra ngoài. Dương Qua thấy bọc tay lợi hại như vậy thì yên tâm, không sợ hắc kiếm nữa. Chàng vội đưa tay sang chộp lấy đầu kiếm. Bất ngờ động chủ giật tay một cái, rồi đâm liều sang một mũi trúng cánh tay của chàng, máu đỏ phun ra ướt áo.

Chàng giật mình, nhảy tránh sang một bên, lùi lại đằng xa. Động chủ nhanh như chớp đã tiến đến trước mặt như bóng với hình. Nếu lão chỉ dùng một kim đao, hay hắc kiếm thì Dường Qua có thể tìm cách thoát nguy, đằng nầy lão dùng hai thứ binh khí cổ quái ấy cùng một lúc, thực khó mà trừ được.

Tuy chàng bị động chủ khốn quẫn, nhưng bọn Kim Luân Pháp Vương đứng bên ngoài cũng khai phục tài chàng. Vì nếu là một người khác trong bọn đấu với động chủ không thể nào né tránh được cặp "âm dương đao" ấy ngay ở phút đầu.

Bấy giờ, lão động chủ lại đâm thêm một đao chém thêm một kiếm nữa, làm cho Dương Qua thêm một vết thương ở bả vai hữu, máu chảy xối xả.

Dù vậy, nét mặt Dương Qua vẫn tươi vui, không chút gì đau đớn. Chàng coi vết thương đó không liên can gì đến định mạng chăng?

Động chủ giận dữ hỏi:

- Mày bị liên tiếp mấy vết thương mà vẫn chưa chịu phục sao? Hay mày đợi ta lấy mạng mày?

Dương Qua cười ha hả nói:

- Ngươi bảo ta phục ngươi thế nào được? Ngươi chiếm cả một ưu thế đến trấn áp ta, mà còn hỏi ta phục hay không? Này lão động chủ, sao mi mặt dạn mày dày quá vậy?

Động chủ thu đao về, trợn mắt hỏi:

- Mi bảota chiếm ưu thế gì?

Dương Qua vừa cười, vừa nói:

- Ngươi dùng cặp kiếm cổ quái ấy tay trái một quái đao, tay mặt một kỳ kiếm. Hai mũi kiếm kia thử hỏi trong gầm trời này chắc gì ngươi đã tìm đâu ra?

Động chủ hỏi:

- Dĩ nhiên ta cố công rèn luyện hai món vũ khí lợi hại nầy để trị các tay đối thủ. Còn ngươi, chiếc bao tay và cây thiết trượng mà không phải là vật quý trên đời nầy sao?

Dương Qua ném cây thiết trượng xuống đất nói:

- Thiết trượng là của lão râu dài, đồ đệ của nhà ngươi đâu phải của ta?

Chàng lại lột bao tay và cuốn giải lụa bị đứt làm hai đoạn, quăng trả cho Tiểu long Nữ và nói:

- Còn cái nầy là của cô ta.

Rồi chàng lại phủi hai bàn tay không, cười hà hà nói:

- Ta đem hai bàn tay không vào đây đâu có dụng ý đánh ai? Người đã dùng các binh khí của ngươi để hiếp ta, bảo ta phải phục tùng ngươi thì thật không chút anh hùng.

Động chủ nghe chàng nói quá khí phách, phong thái hiên ngang, tuy bị mấy vết thương mà chàng vẫn tươi cười như kẻ đắc thắng, nên lão nén lòng suy nghĩ:

- Thằng này tuấn tú hơn mình nếu để nó sống trên đời, thì con Liễu phải say mê đắm đuối nó.

Nghĩ như vậy lão gật đầu kêu lên:

- Được rồi!

Liền vung tay đâm mạnh một kiếm vào ngực Dương Qua. Nhưng Dương Qua đã có ý định dứt khoát:

- Mình không thể nào chống lại với hắn, thôi cứ để hắn giết cho xong.

Cho nên mũi kiếm sáng choang đâm vào ngực, chàng vẫn tự nhiên không đỡ, chỉ chăm chú nhìn Tiểu long Nữ. Chàng thầm nhủ:

- Mình nhìn nàng mà chết, thì chết không ân hận gì.

Tiểu long Nữ thấy thế mỉm cười âu yếm, ung dung bước tới bên chàng. Bốn mắt nhìn nhau trong hoan lạc, chẳng hề lưu ý đến lưỡi kiếm sát hại của lão động chủ một tí nào.

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 50 : Cứu nhau rời đầm cá sấu

Dương Qua nhìn Tiểu Long Nữ qua một hồi đau khổ, rồi bảo nàng:

- Cô ơi! Tôi đã được cô thật lòng yêu thương thì nay thân này có chết xuống suối vàng

cũng được sung sớng lắm rồi. Vậy cô hãy đánh vào đầu tôi một chưởng cho sớm

thoát cảnh cực hình này! Sau đó cô hãy tìm cách xa lánh nơi đây!

Nàng thầm nhủ:

- à! Mình đánh chàng chết, rồi mình tự tử luôn và hết đau khổ!

Nàng liền nghiến răng giơ cao tay, vận hết nội công để đánh. Dương Qua mặt ửng

hồng, mỉm cười, ánh mắt nhu hòa, hân hoan nhìn nàng hạ thủ, và nói:

- Cô ơi! Sung sướng lắm! Giờ khắc này mới chính là giờ động phòng hoa chúc của đời

ta.

Nàng thấy chàng sao lại vui vẻ, không hề sợ chết, thì nàng lại nghĩ:

- Ôi chao! Một người chồng thanh niên tuấn tú thế này, sao trời già trớ trêu, cay

nghiệt bắt phải chết oan uổng?

Lập tức, tim nàng đau nhói lên, máu uất như trào nghẹn cả cổ họng. Bỗng nhiên sức

nội công bay đi đâu mất, làm cho tay chân nàng rã rời! Nàng run rẩy ngã nhào đè sấp

trên mình chàng. Hai tấm thân chỉ cách nhau một mành lưới rỗng lỗ, trăm ngàn mũi

gai tình hoa châm chích vào da thịt nàng. Nàng kêu lên:

- Anh Qua! Thôi hai ta cùng chịu đau đớn với nhau.

Chợt nghe sau lưng có tiếng nói khàn khàn:

- Sao lại khổ thân như thế? cô có gì mà phải chịu đau đớn? Như thế này là giảm bớt

đau đớn của hắn rồi.

Đó là tiếng nói của lão động chủ. Tiểu long Nữ đắm đuối nhìn Dương Qua một lúc,

rồi từ từ quay lại, lầm lũi đi ra khỏi nhà đá không hề nhìn lại.

Lão động chủ bảo chàng:

- Này em Dương, nằm yên đi! Qua sáu tiếng đồng hồ nữa ta sẽ đem linh dược đến

cứu. Nhưng nên nhớ kỹ điều này: Trong lúc em chờ đợi phải giữ lòng trong trắng,

đừng nghĩ đến mảy may tình dục, là cơn đau bớt đi không có gì thiệt hại.

Nói rồi lão bước chân ra khỏi cửa, gài kín cửa lại đi thẳng.

Dương Qua lúc nầy da thịt đau rã rời, ruột như đứt từng khúc. Chàng tự hỏi:

- Sao lúc nãy nàng lại ngừng tay không đánh cho ta chết để tránh đau khổ?

Càng nghĩ chàng càng thấy đau khổ, nhục nhã hơn: Thật ra bao nhiêu đau khổ trước

kia cũng không đáng kể gì. Chỉ có tiếng lão động chủ hiểm độc như lang sói nầy là

đáng hận. Không lẽ ta chết đi bỏ mặc cho nàng sa vào tay hắn? Nàng sẽ chọn đời đau

khổ với hắn ? Hơn nữa, thù cha ta cũng cha trả được, ta há vì đau khổ mà phải liều

chết, rồi để cho bọn giả nhân, giả nghĩa vợ chồng Quách Tỉnh và Hoàng Dung ược

vui mãi trên đời sao?

Nghĩ đến đây chàng như trút hết nỗi đau đớn, đầu óc sáng lên: Không chết được! Dù

gặp nguy biến đến mức nào cũng cương quyết chịu đựng để thoát chết. Nếu như nàng

bị lão bắt buộc phải làm vợ thì ta cũng cần phải sống để tìm cách cứu nàng về với ta

mới được. Ta cần phải cố công luyện võ thề để báo thù cha mẹ ta.

Chàng cắn răng ngồi nhỏm dậy, xếp bằng trong lới. Tuy ngồi không được thong thả

nhưng cũng dồn được khí tức xuống đáy lòng.

Độ hai giờ sau, chợt có người mở cửa, chàng nhìn ra thì thấy gã đệ tử áo xanh bưng

mâm bước vào phòng chàng. Trên mâm có bốn cái bánh bao, hắn nói:

- Hôm nay là ngày tân hôn của động chủ. Ngài gởi tặng cho ngươi ăn một bữa thật

no.

Rồi hắn cầm từng cái bánh đưa qua lỗ lưới cho Dương Qua. Tay hắn được bao mấy

lớp vải rất cẩn thận, vì sợ chạm vào gai "tình hoa". Dương Qua không thèm nói gì cả,

chỉ đưa tay nhận lấy bốn chiếc bánh ăn hết một lúc. ăn hết bánh, chàng bình tĩnh nói:

- Ta đã nhất định ra tay với lão nầy thì dại gì phải đau khổ mà nhịn ăn cho thiệt?

Gã đệ tử lại nói:

- Không ngờ người lại ăn khỏe quá. Thế là tì vị tốt lắm đấy.

Chợt một bóng xanh thoáng qua cửa. Một gã đệ tử khác bước nhẹ vào, không nghe

một tiếng động. Hắn đứng sau lưng gã đệ tử vừa vào trước, rồi xuất quyền đánh bất

thần một đòn như chớp. Gã vào trước kịp nhận ra ai thì đã bị nhào xuống đất ngất

lịm!

Dương Qua ngạc nhiên trố mắt nhìn kỹ, thì té ra ngời đánh trộm lại là nàng Công

Tôn Lục Ngạc, con gái của động chủ! Chàng kinh hãi kêu lên:

- Cô! Cô!

Lục Ngạc vội quay ra gài chốt cửa cẩn thận, rồi quay vào thì thào:

- Anh Dương! Nói khẽ chứ! Tôi vào cứu anh đây.

Dứt lời, Lục Ngạc đã mở lưới, tha Dương Qua ra ngoài. Chàng đứng dậy khẽ nói:

- Nếu Công Tôn động chủ biết, thì...

Nàng không để cho chàng nói hết câu, vội nói:

- Thì tôi phải chịu hình phạt là cùng.

Nàng lượm một bó "Tình hoa" nhỏ đem đặt trên miệng gã đệ tử áo xanh, để khi hắn

tỉnh dậy không thể kêu la được, rồi lấy lưưới bao hắn lại, lượm hoa rắc lên mình.

Nàng hạ giọng bảo chàng:

- Anh Dương ơi! Anh ở đây, nếu có ai vào anh núp sau cánh cửa nhé! Vì lúc này anh

đã bị gai "Tình hoa" truyền chất độc vào mình dữ lắm. Để tôi đi lấy thuốc cho anh

dùng.

Chàng quá cám động, thấy nàng mạo hiểm liều thân như vậy, nên thầm nghĩ: "Mình

với nàng gặp nhau cha đầy một ngày, mà nàng đã phản cha nàng để cứu mình ?".

Chàng ấp úng:

- Thưa cô nương. Tôi làm phản cô nương nhiều... sợ...cô...

Lòng chàng quá xúc động, không thể nói hết câu đứng lặng thinh với đôi mắt ngấn lệ.

Nàng Lục Ngạc đang lo âu, sợ sệt, bỗng nhiên trở nên vui tơi hớn hở, thầm nhủ:

- Anh có lòng với em nh thế, thì em có rủi ro bị cha em hành phạt đến đâu, em cũng

nhắm mắt cam lòng...

Đoạn nàng dặn tiếp:

- Anh ở đây đợi em một chút nhé? Em trở lại ngay với anh.

Nàng nhẹ bước thoăn thoắt ra khỏi phòng. Dương Qua ngẩn người như trong cơn

mộng:

- Sao ta lại được nàng đối đãi như thế này?... ôi! Lạ thật! nàng là con gái của lão gian

ác kia mà! Ôi! Từ nhỏ bị khinh khi nhục nhã, tưởng trên đời không ai là người nhân

từ đạo đức nữa, nào ngờ lại có nhiều người đem chân tâm đối với ta. Nhu cô Tiểu

Long Nữ, thầy dạy học của ta đã đành, còn Tôn Bà, Hồng thất Công, nghĩa phụ Âu dương Phong, Hoàng dược Sư và nay còn có những thiếu nữ chịu liều thân sống chết với ta trong cơn nguy biến như Trình Anh, Lục Vô Song, và Lục Ngạc nữa. Thật những người đối với ta hết lòng hết dạ. Giá đừng có những kẻ đối với ta quá ác độc như chúa động, thì đâu thấy những cái quý hóa của người có chân tâm, hy sinh đau đớn lo cho ta như cô Tiểu long Nữ và nàng Lục- Ngạc?

Thực ra, những cuộc tương ngộ trên đời Dương Qua đều thấy cả hai thái cực. Nếu

không phải là người yêu mến giúp đỡ chàng thật lòng, thì là kẻ cực ác, làm cho chàng

thiệt hại một cách tàn nhẫn. Đó không phài là tại người mà chính là thiên tính của

chàng đã gây nên. Khi gặp ai hợp tình là chàng dốc hết lòng thành đối với họ, nếu ai

không hợp ý hợp lời, thì chàng đối xử như kẻ thù. Bởi chàng đối với người như thế,

nên người ta cũng đối xử lại chàng như vậy...

Chàng đứng sau cánh cửa chờ đợi đã lâu mà chẳng thấy bóng Lục Ngạc trở vào. Thời

giờ cứ lặng lẽ trôi qua trong cảnh hồi hộp. Dần dần gã đệ tử nằm trong lưới tỉnh lại,

mắt hắn trắng nhợt, toàn thân run run. Hắn quá đau đớn nhưng không thể nói ra lời.

Dương Qua thấy quá lâu, lòng lo ngại. Lúc đầu chàng nghĩ rằng vì trong phòng thuốc

có người nên nàng chưa tiện lấy trộm được. Nhưng rồi mỗi lúc một biệt tăm chàng lại

nghĩ: - Nếu nàng không thể lấy được thuốc thì nàng cũng trở lại nói một lời cho ta

biết, lẽ nào nàng để mình đứng chờ lâu thế này sao? Có lẽ nàng gặp điều gì không

may đâu! Nàng đã vì mình mắc vạ to thì mình phải đi tìm cứu ân nhân chứ?

Chàng bèn đẩy hé cánh cửa đa mắt nhìn ra ngoài không thấy một bóng người. Chàng

vội nhón chân bước ra. Nhng chàng không biết, Lục Ngạc bị hành phạt ở phòng

nào?

Chàng đang bối rối, chợt nghe có tiếng chân bước rầm rập. Chàng vội nép mình vào

góc tường sau thấy hai gã đệ từ áo xanh sánh vai đi tới, tay cầm một cây tua tủa

những gai. Đó là loại binh khí đặc biệt làm cho chàng thầm nghĩ: có lẽ nào động chủ

lại hành hạ đứa con gái ông ta bằng hình phạt ghê gớm nầy!

Chàng liền nhón chân theo hai gã đệ tử, mà họ vẫn không biết. Đi loanh quanh qua

các ngạch đá một lúc, thì đến trước một căn nhà. Họ cất tiếng thưa:

- Bẩm động chủ, chúng con đã đem trượng gai đến.

Rồi hai gã đẩy cửa bước vào. Tim của Dương Qua nh muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.

Lão động chủ khốn kiếp quả đang ngồi trong phòng nầy. Chàng đảo mắt nhìn quanh,

thấy phía đông căn phòng đá có một cửa sổ, bèn nhón chân bước tới đó, nhìn trộm

vào trong, thì y hệt như chàng đã đoán: Nàng Lục Ngạc bị bắt dẫn vào phòng. Cha

nàng ngồi giữa, hai gã đệ tử cầm trượng gai đứng hai bên. Động chủ thấy trượng gai

đã đem đến, liền đưa tay nắm lấy, hằn học bảo con gái:

- Con Ngạc! Mày là máu mủ của tao, sao mầy lại phản cha mày như thế?

Nàng Lục Ngạc chỉ cúi đầu không đáp. Lão mắng tiếp:

- Mày đã mê cái thằng họ Dương ấy rồi, lý nào tao không biết? Nhưng tao đã bảo là

tao phải hành phạt nó, rồi đến ngày mai tao tha cho nó đi, sao mày dám vội vàng như

vậy? Thôi để ngày mai tao hỏi ý kiến rồi tao gả cho nó là xong.

Dương Qua đâu phải là kẻ ngây ngốc gì mà không hiểu ý Lục Ngạc. Chàng vẫn biết

rằng nàng có lòng dạ yêu chàng. Song vì lòng chàng đang bấn loạn đắm đuối Tiểu

long Nữ, nên chàng phải quên đi, không nghĩ đến. Nhưng lúc này, nghe lão động chủ

nói trắng trợn ra, chàng giật mình hồi hộp, hai má nóng rần... Chợt thấy nàng Lục

Ngạc ngẩng đầu cất tiếng lanh lảnh:

- Thưa cha! Lúc nầy cha đang bận tâm lo ba việc thành hôn của cha, thì đâu còn để ý

gì đến con?

Động chủ quắc mắt "hừ" một tiếng không thèm nói. Nàng lại tiếp:

- Thưa cha, điều đó không sai. Con quả khâm phục Dương công tử là người đường

đường chính chính, chí nghĩa, chí tình. Nhưng con đã thấy rõ lòng chàng lúc nào cũng

chỉ biết có Long cô nương mà thôi! Sỡ dĩ con phải cứu chàng là vì... con thấy việc

làm của cha thật quá chứ con không có ý gì khác.

Dương Qua núp bên ngoài nghe rõ, lòng vô cùng kính phục:

- Lão động chủ là một tay gian xảo, bạc ác ai ngờ lại sanh một cô gái đầy đủ đức

hạnh, cao thượng thế này!

Công Tôn động chủ mặt hầm hầm, trơ trơ như tượng gỗ. Lão lạnh lùng đáp:

- Mày nói như thế tức là mày mắng cha mày vô nhân, bất nghĩa hả?

- Lục Ngạc ngơ ngác nói:

- Con đâu dám nghĩ nh thế! chỉ có điều...

Lão gắt giọng, hỏi:

- Điều gì?

Nàng bối rối nói:

- Dạ, chỉ có điều Dương công tử đã bị Tình hoa châm chích muôn ngàn mũi, thì

chàng chịu đau đớn sao nổi? Cha ơi! Cha hãy ban ân đức thả chàng ra!...

Động chủ cười nhạt:

- Cứ để đến ngày mai tao hãy cứu nó, thả nó việc gì mầy phải xen vào cho lôi thôi?

Lục Ngạc cúi đầu suy nghĩ:

- Cha ta làm sao có được hảo ý với chàng. Nếu chàng còn sống thì Long Nữ không

thể thuận lời cha ta. Hơn nữa tình yêu nồng thắm của họ chỉ tạo cho cha ta một ý căm

hờn làm sao cha ta có thể đối với chàng như cha ta vừa nói?

- Thưa cha, con mang ơn dưỡng dục từ bé đến giờ, có lẽ nào con lại vì Dương công tử

là người xa lạ bên ngoài mới đến? Nếu con biết chắc ngày mai cha sẽ cho thuốc và

thả hắn đi thì con đâu dám bước vào phòng đàn ông.

Lão gằn giọng hỏi:

- Mày biết thế sao còn lẻn vào đây?

Nàng bạo dạn tiếp:

- Vì con biết ý cha không tốt với hắn. Đêm nay, sau khi thành thân với Long cô

nương rồi, ngày mai cha sẽ có độc mưu trừ mạng hắn, để cho tình duyên giữa hắn và

Long cô nương không còn nữa.

Công Tôn động chủ thường ngày dù giận dù mừng, không mất vẻ bình thân, nên

những lúc phân xử mọi việc lớn nhỏ trong động lão xét đoán được công minh đối xử

với đệ tử, cho nên trong động ai ai cũng một lòng khâm phục. Nhưng Lục Ngạc lần

này đã thầm biểu tình ý cũa lão nên lão nổi giận gầm gừ:

- Hừm? Đúng là sanh con hoang rước họa vào mình! Tao nuôi mày khôn lớn chừng

nầy, không ngờ nay mày lại kết tội tao!

Lão tóm lấy vạt áo Lục Ngạc lôi mạnh một cái. Lục Ngạc hỏi:

- Cha làm gì thế?

- Mày còn giả ngơ ngẩn ? Đừng chối nữa! Viên thuốc "tuyệt tình" trị chất độc đâu

rồi?

Nàng thản nhiên đáp:

- Con không hề lấy.

Lão đứng phắt dậy lớn tiếng:

- Thế thì nó biến đi đâu?

Bấy giờ, Dương Qua nhìn vào phòng, thấy các hộp mở nắp, đặt trên bàn la liệt. Trên

tường treo đầy các thứ cỏ, lá, rễ... không biết được là thuốc gì. Bàn phía Tây để ba cái

lò luyện thuốc trước cửa phòng có đề hai chữ "đơn phòng". Chàng nhìn vẻ mặt động

chủ thầm lo:

- Hôm nay dù thế nào nàng Lục Ngạc cũng không thể tránh khỏi trọng hình:

Bỗng có tiếng nàng nói:

- Thưa cha! con tự tiện vào đơn phòng, quả có ác ý muốn lấy thuốc, để cứu Dương

công tử, nhưng con tìm hơn nửa ngày mà chẳng kiếm được. Nếu con tìm được thì con đã đi rồi, đâu đến nỗi lại bị cha bắt được?

Động chủ hét:

- Chỗ cất thuốc bí mật vô cùng. Những quan khách hiện còn ngồi ở đại sảnh, chưa ai

rời đi một bước thế mà viên thuốc "Tuyệt tình" đã biến đâu mất tích? lẽ nào nó có

cánh?

Nàng quỳ xuống khóc sụt sùi:

- Lạy cha! Cha rộng lượng tha cho Dương công tử, để hắn được toàn mạng ra khỏi

động, vĩnh viễn không cho vào nữa thế là yên.

Động chủ cười nhạt:

- Nếu không may tính mạng tao lâm nguy chưa chắc mày đã chịu quỳ khóc để cầu

cứu.

Nàng không nói nữa, cứ ôm lấy hai chân cha nàng. Lão động chủ nói:

- Mày lấy mất viên thuốc "tuyệt tình đơn" rồi, tao lấy gì mà cứu nó? Được! Mày

không nhận thì mặc mày. Để cho mày cứ ngồi đây trọn ngày thâu đêm. Mày lấy

thuốc mà không cho thằng họ Dương ấy uống, thì để hai ngày tao mới thả nó ra.

Nói rồi lão ra cửa. Nàng biết rõ một gai tình hoa chỉ châm sơ vào da một cái cũng đã

gây độc đau đớn mãi đến ba ngày. Thế mà

(*** mất 10 trang ***)

Dù có đau đớn thế nào cũng phải cố sống để cứu nàng mới được. Lão động chủ kia dù

có ác độc đến đâu đi nữa, cũng phải có tình cha con. Thế nào rồi lão cũng sẽ hồi tâm

đổi ý, khi gặp con gái lão thoát nạn.

Chàng miên man suy nghĩ nhiều chuyện. Trong chốc lát quên hẳn cả Tiểu Long Nữ,

rồi cơn đau được dịu dần. Chàng nói:

- Công Tôn cô nương ơi! Đừng sợ nữa. Tôi tin chắc thế nào Công Tôn động chủ cũng

cứu cô lên. Người chỉ giận một mình tôi thôi, chứ cô dù thế nào cũng là nguời thương

yêu của người. Và lúc này nhất định thân phụ cô đang hối hận.

Nàng Lục Ngạc nghe qua lòng xúc động ứa lệ nói:

- Hồi em còn nhỏ, quả thật cha em thương em lắm. Nhưng sau khi mẹ em mất, tình

thương của cha em đối với em trở nên khe khắt. Tuy thế, em cũng hiểu là trong thâm

tâm cha em không hề ghét em.

Nàng ngừng một lúc, để hồi tưởng lại bao nhiêu chuyện kỳ lạ lúc trước, rồi bảo

chàng:

- Anh Dương ơi? Em vừa nhớ lại hình như cha em có ý sợ em vậy. Anh ạ!

Dương Qua ngạc nhiên hỏi:

- Tại sao người lại sợ cô? Điều nầy thật kỳ lạ.

Nàng nói tiếp:

- Thật vậy. Trước đây em nhận thấy nhiều lúc sắc mặt cha em đổi khác, mất hẳn vẻ tự

nhiên, tựa như trong lòng có giấu giếm một ẩn tình gì đó, sợ em hiểu được. Thật ra từ

trước đến nay mỗi lúc thấy vẻ mặt người cha đổi khác nàng Lục Ngạc vẫn lấy làm lạ.

Nhưng rồi lần nào cũng quên đi. Vì cho rằng cha nàng quá thương mẹ nàng, nên khi

nhìn thấy con thì xúc động, đau buồn biến sắc. Nhưng đến lúc nầy nàng không cho là

thế nữa. Vì cha nàng đã xô nàng rơi xuống hầm cá sấu rõ ràng là một mưu mô cố ý,

chứ không phải trong cơn nóng giận mà lỡ tay. Trong lúc cha nàng đổi chỗ ba cái lò

luyện đơn trong "đan phòng" chính là ông ta đã mở then chốt của bộ máy giết người

vậy. Nếu nói rằng lão căm giận Dương Qua nên tống nàng xuống chỗ chết, thì không

đúng, vì lão cần gì phải làm nh thế? Trên mình chàng đã bị châm muôn ngàn mũi

gai "tình hoa", chất độc đã ngấm nhiều lắm rồi! Lão cứ việc làm ngơ không cứu, là

chàng phải chết! Cần gì phải xô xuống vực sâu? Mà nếu lão muốn giết chàng xuống,

sao lại nắm vai nàng thúc một chưởng cho rớt xuống luôn?

Bàn tay lão đã tàn nhẫn như thế thì đâu còn tình cha con!

Nàng càng nghĩ càng băn khoăn, lại càng nhớ nhung hành vi ngôn ngữ của cha nàng

trước đây. Khi nãy nàng không hiểu, vì không lưu ý tìm hiểu, chỉ cho rằng đó chỉ là

những hành vi cùa một người tu luyện, nên khác với người thường. Nhưng lúc này

nàng không thể nghĩ như thế được nữa. Bây giờ cá sấu đã quây quần nhau lại một

chỗ. Chúng tranh nhau xé thây một con đồng loại bị Dương Qua giết chết. Thấy

chúng không bò lên đá nữa, Dương Qua nhìn mặt Lục Ngạc, thấy nàng ngơ ngẩn, liền

hỏi:

- Phải chăng thân phụ cô có điều gì bí ẩn, vô ý để cô bắt gặp?

Nàng lắc đầu nói:

- Không! Cha tôi vốn đoan nghiêm đường hoàng, xử sự công minh chính trực nên mọi

người trong động đều kính trọng. Cho đến hôm nay, cha tôi mới đối xử với anh như

thế nầy.

Dương Qua mới bước chân vào động "Thủy Tiên" lần đầu, chưa hiểu gì về lai lịch nên

khó mà đoán giúp cho nàng về ẩn ý của cha nàng được. Dưới vực thẳm, bên đám cá

sấu khí lạnh như băng, hai người lại bị ướt cả mình mẩy. Vê phần Dương Qua, trước

kia đã luyện nội công trên giường "ngọc hàn" nên khí lạnh lúc nầy đối với chàng

không ra gì. Còn nàng Lục Ngạc thì đã tái tê, run lập cập, phải nằm gọn vào lòng

chàng để chờ khí ấm. Dương Qua lo lắng:

- Sức nàng không thể chịu nổi cảnh rét buốt nầy.

Chàng vừa thương vừa sợ, định kiếm vài câu chuyện nói cho nàng vui, nhưng chợt

nhìn xuống bầy cá sấu lố nhố dưới hầm, thấy chúng xâu xé cướp giật con vật đồng

loại bị chết, chàng mỉm cười bảo nàng:

- Công Tôn cô nương ơi! Hôm nay chúng ta cùng chết, thì sau này cô định làm kiếp

gì? Phần tôi, nhất định không bao giờ tôi làm cá sấu kia! Nàng khẽ mỉm cười:

- à! Thế anh biến làm một đóa hoa "Thủy Tiên" nhé! Vừa đẹp vừa thơm, ai trông thấy

cũng yêu mến.

Chàng vui vẻ nói:

- Nếu biến làm kiếp hoa thì chỉ có người như cô mới hợp. Chứ như tôi có quý lắm là

biến đực cây gai ngạc đầu là cùng.

Nàng bật cười:

- Nếu nh Diêm Vương bắt anh phải biến thành một đóa hoa "Tình hoa" anh có bằng

lòng không?

Chàng im lặng không đáp, lòng hối tiếc thầm nghĩ:

- Nếu cứ dùng gươm tiếp tay "Ngọc nữ tố tâm" với cô ta, thì lão động chủ làm gì

chống nổi. Tuy lão võ công cao cường, nhưng vị tất đã hơn Kim Luân Pháp Vương.

Nhưng rủi cho cô ta đã phải gai "tình hoa" trong phòng kiếm mà phép đánh kiếm "tố

tâm" lại buộc hai người phải cảm thông tâm linh như nhau mới phát xuất được uy lực.

ôi! Như thế nầy cũng là số trời đã định, ta không nói làm chi nữa! Nhưng không hiểu

lúc này số phận cô ta ra sao?

Nghĩ đến Tiểu Long Nữ, các vết thương trong người chàng ngấm ngầm đau nhói lên.

Nàng Lục Ngạc thấy chàng không đáp, biết mình lỡ lời nhắc đến "Tình hoa" bèn nói

lảng sang chuyện khác:

- Anh Dương ơi! Trong bóng tối đen mò thế nầy, mà mắt anh kịp thời nhận ra cá sấu.

Em thì như mù tịt chẳng trông thấy gì cả.

Chàng cười nói:

- Thôi, mấy ông cá sấu kia xấu và tồi quá, đừng nhìn các ông ấy nữa.

Dứt lời chàng nhè nhẹ vỗ vai nàng, tỏ ý an ủi. Nào ngờ toàn thân nàng cảm thấy mát

rợi, đê mê cả tâm hồn. Chàng thầm nghĩ: "à! Lúc nàng ở trong phòng thuốc, bị tra

khảo gắt gao, lão già đó đã khăng khăng kết tội nàng lấy cắp thuốc cho nên nàng đã

phải thoát cả xiêm y thanh minh. Bây giờ mình nàng chỉ còn có chiếc áo lót nhỏ nầy

?

Chàng giật mình vội co tay lại. Nàng nghĩ đến thần lực của đôi mắt chàng có thể nhìn

rõ trong bóng tối như chỗ sáng thì nàng vô cùng thẹn thùng. Vì toàn thân ngọc ngà

của nàng đã đi lộ trước mặt chàng.

Lúc đầu, cả hai đều hoảng hốt trước lưỡi kiếm của lão già, kế đến lại điên đầu trước

cuộc chống với lũ cá sấu, cho nên cả hai sát lấy nhau mà tuyệt nhiên không hề nghĩ

đến việc nam nữ tiếp xúc quá thân. Đến lúc này, một đàng giật mình rụt tay một đàng

cùng đường hết cách, chỉ có thăng thiên độn thổ mới thoát được.

Dương Qua vội ngồi nhích ra xa, rồi cởi áo ngoài khoác lên mình nàng. Trong lúc cởi

áo chàng không những chỉ tưởng đến Tiểu long Nữ, mà còn liên tương đến nàng Trình

Anh, người đã tự tay may áo tặng cho chàng. Chàng lại còn nghĩ đến nàng Lục vô

Song đã tự nguyện chết thế cho chàng nữa. Chàng cảm thấy một đời chàng đã mang

lấy ơn bao nhiêu người đẹp mà thẹn là cha báo đáp được ai, nên quá xúc động thở

một hơi dài não ruột!

Nàng Lục Ngạc lấy chiếc áo chàng mặc vào rồi thắt dây lưng lại. Bỗng nhận thấy

trong túi áo chàng có vật gì nhỏ. Nàng lần tay ra móc trả cho chàng và hỏi:

- Cái gói gì đây hả anh? ậ trong túi áo anh đây nầy.

Dương Qua đưa tay cầm lấy và lạ lùng nói:

- ủa cái gì thế này?

Nàng càng ngạc nhiên hơn, vội nói:

- Vật nầy, ở trong túi áo anh, sao anh lại hỏi em?

Chàng định thần nhìn kỹ thì thấy một gói có bọc vải xanh từ trước đến nay chàng

chưa trông thấy bao giờ. Chàng liền mở ra xem, thì lập tức có một tia sáng từ trong

gói lóe ra, và thấy bốn lọ tròn nhỏ xíu, trong lọ có ánh sáng tỏa ra, hình như ánh sáng

của loại ngọc quí.

Lục Ngạc bỗng kêu lên:

- Ôi này!

Nàng đưa tay lấy mấy lọ thuốc trong tay chàng rối rít bảo:

- Thuốc "Tuyệt tình đan" đây rồi anh ơi?

Dương Qua vừa giật mình vừa mừng rỡ, vội hỏi:

- Có phải là thuốc chữa vết thuơng bị "Tình hoa" đâm chăng?

Nàng vui mừng đáp:

- Đúng là thuốc chữa bệnh cho anh đấy!

Hồi nãy em vào đan phòng tìm cả nửa ngày trời mà không thấy. Làm sao lại lọt vào

túi anh thế này? đã lấy được sao anh không uống đi? anh không biết đó là thuốc chữa

độc "Tình hoa" ?

Quá vui sướng, Lục Ngạc hỏi dồn dập làm cho Dương Qua không kịp trả lời, chàng

đưa tay ra trước mặt, nói:

- Tôi không hiểu gì cả, đây là lọ đan dược ? Tại sao nó lại lọt vào túi tôi thế này?

Thật là chẳng hiểu đầu đuôi ra sao!

Viên ngọc gắn trên đầu thìa tỏa ánh sáng lờ mờ, nhờ đó Lục Ngạc thấy được những

vật xung quanh. Nàng bắt gặp một cái gói, một lọ thuốc một mảnh giấy và một nửa

tai nấm tía Linh Chi.

Nàng lầm bầm:

- Nửa tai nấm Linh Chi nầy là do lão già quỷ quái đã bẻ gãy...

Dương Qua hỏi:

- Lão già nào? Có phải lão họ Châu?

Lục Ngạc đáp:

- Phải, chính lão đó đã đại náo nơi thư phòng, kiếm phòng, đan phòng, bẻ gãy cây

nấm Linh Chi nầy đây! Một tay lão gây ra bao nhiêu chuyện. Bấy giờ Dương Qua mới

chợt nhớ ra, gãi đầu gãi tai nói:

- Phải rồi! Chắc là thế.

Lục Ngạc hỏi lại:

- Cái gì mà phải? Mà chắc?

Dương Qua không đáp, nghĩ thầm: "Cái túi nhỏ xíu này là chính tay lão Châu đã nhét vào túi mình!

Thì ra đến lúc đó Dương Qua mới hiểu Châu bá Thông có ý thân giúp chàng. Chàng

đổi thái độ, không gọi Bá Thông là lão già nữa mà bằng "cụ Châu".

Nàng Lục Ngạc đoán biết phần nào, liền hỏi:

- Thế ra ông ấy trao cho anh?

Duơng Qua vừa cười vừa nói:

- Quả vậy! Vị tiền bối đó là một tay cao thủ đệ nhất võ lâm, đã từng đi đó đi đây quấy

phá mọi ngời để làm vui. Ông ta lấy cây kéo và chiếc mặt nạ của tôi mà tôi không

biết đã đành, ông ta lại còn bỏ gói thuốc nầy vào ngời tôi nữa? Ôi chao! Thật chẳng

khác nào một bậc thần thánh. Võ công của tôi so với ông ta kém xa một trời một vực.

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 51 : Thoát hầm cá sấu Lục Ngạc gặp thân mẫu

Dương Qua nhìn Tiểu Long Nữ qua một hồi đau khổ, rồi bảo nàng:

- Cô ơi! Tôi đã được cô thật lòng yêu thương thì nay thân này có chết xuống suối vàng

cũng được sung sớng lắm rồi. Vậy cô hãy đánh vào đầu tôi một chưởng cho sớm

thoát cảnh cực hình này! Sau đó cô hãy tìm cách xa lánh nơi đây!

Nàng thầm nhủ:

- à! Mình đánh chàng chết, rồi mình tự tử luôn và hết đau khổ!

Nàng liền nghiến răng giơ cao tay, vận hết nội công để đánh. Dương Qua mặt ửng

hồng, mỉm cười, ánh mắt nhu hòa, hân hoan nhìn nàng hạ thủ, và nói:

- Cô ơi! Sung sướng lắm! Giờ khắc này mới chính là giờ động phòng hoa chúc của đời

ta.

Nàng thấy chàng sao lại vui vẻ, không hề sợ chết, thì nàng lại nghĩ:

- Ôi chao! Một người chồng thanh niên tuấn tú thế này, sao trời già trớ trêu, cay

nghiệt bắt phải chết oan uổng?

Lập tức, tim nàng đau nhói lên, máu uất như trào nghẹn cả cổ họng. Bỗng nhiên sức

nội công bay đi đâu mất, làm cho tay chân nàng rã rời! Nàng run rẩy ngã nhào đè sấp

trên mình chàng. Hai tấm thân chỉ cách nhau một mành lưới rỗng lỗ, trăm ngàn mũi

gai tình hoa châm chích vào da thịt nàng. Nàng kêu lên:

- Anh Qua! Thôi hai ta cùng chịu đau đớn với nhau.

Chợt nghe sau lưng có tiếng nói khàn khàn:

- Sao lại khổ thân như thế? cô có gì mà phải chịu đau đớn? Như thế này là giảm bớt

đau đớn của hắn rồi.

Đó là tiếng nói của lão động chủ. Tiểu long Nữ đắm đuối nhìn Dương Qua một lúc,

rồi từ từ quay lại, lầm lũi đi ra khỏi nhà đá không hề nhìn lại.

Lão động chủ bảo chàng:

- Này em Dương, nằm yên đi! Qua sáu tiếng đồng hồ nữa ta sẽ đem linh dược đến

cứu. Nhưng nên nhớ kỹ điều này: Trong lúc em chờ đợi phải giữ lòng trong trắng,

đừng nghĩ đến mảy may tình dục, là cơn đau bớt đi không có gì thiệt hại.

Nói rồi lão bước chân ra khỏi cửa, gài kín cửa lại đi thẳng.

Dương Qua lúc nầy da thịt đau rã rời, ruột như đứt từng khúc. Chàng tự hỏi:

- Sao lúc nãy nàng lại ngừng tay không đánh cho ta chết để tránh đau khổ?

Càng nghĩ chàng càng thấy đau khổ, nhục nhã hơn: Thật ra bao nhiêu đau khổ trước

kia cũng không đáng kể gì. Chỉ có tiếng lão động chủ hiểm độc như lang sói nầy là

đáng hận. Không lẽ ta chết đi bỏ mặc cho nàng sa vào tay hắn? Nàng sẽ chọn đời đau

khổ với hắn ? Hơn nữa, thù cha ta cũng cha trả được, ta há vì đau khổ mà phải liều

chết, rồi để cho bọn giả nhân, giả nghĩa vợ chồng Quách Tỉnh và Hoàng Dung ược

vui mãi trên đời sao?

Nghĩ đến đây chàng như trút hết nỗi đau đớn, đầu óc sáng lên: Không chết được! Dù

gặp nguy biến đến mức nào cũng cương quyết chịu đựng để thoát chết. Nếu như nàng

bị lão bắt buộc phải làm vợ thì ta cũng cần phải sống để tìm cách cứu nàng về với ta

mới được. Ta cần phải cố công luyện võ thề để báo thù cha mẹ ta.

Chàng cắn răng ngồi nhỏm dậy, xếp bằng trong lới. Tuy ngồi không được thong thả

nhưng cũng dồn được khí tức xuống đáy lòng.

Độ hai giờ sau, chợt có người mở cửa, chàng nhìn ra thì thấy gã đệ tử áo xanh bưng

mâm bước vào phòng chàng. Trên mâm có bốn cái bánh bao, hắn nói:

- Hôm nay là ngày tân hôn của động chủ. Ngài gởi tặng cho ngươi ăn một bữa thật

no.

Rồi hắn cầm từng cái bánh đưa qua lỗ lưới cho Dương Qua. Tay hắn được bao mấy

lớp vải rất cẩn thận, vì sợ chạm vào gai "tình hoa". Dương Qua không thèm nói gì cả,

chỉ đưa tay nhận lấy bốn chiếc bánh ăn hết một lúc. ăn hết bánh, chàng bình tĩnh nói:

- Ta đã nhất định ra tay với lão nầy thì dại gì phải đau khổ mà nhịn ăn cho thiệt?

Gã đệ tử lại nói:

- Không ngờ người lại ăn khỏe quá. Thế là tì vị tốt lắm đấy.

Chợt một bóng xanh thoáng qua cửa. Một gã đệ tử khác bước nhẹ vào, không nghe

một tiếng động. Hắn đứng sau lưng gã đệ tử vừa vào trước, rồi xuất quyền đánh bất

thần một đòn như chớp. Gã vào trước kịp nhận ra ai thì đã bị nhào xuống đất ngất

lịm!

Dương Qua ngạc nhiên trố mắt nhìn kỹ, thì té ra ngời đánh trộm lại là nàng Công

Tôn Lục Ngạc, con gái của động chủ! Chàng kinh hãi kêu lên:

- Cô! Cô!

Lục Ngạc vội quay ra gài chốt cửa cẩn thận, rồi quay vào thì thào:

- Anh Dương! Nói khẽ chứ! Tôi vào cứu anh đây.

Dứt lời, Lục Ngạc đã mở lưới, tha Dương Qua ra ngoài. Chàng đứng dậy khẽ nói:

- Nếu Công Tôn động chủ biết, thì...

Nàng không để cho chàng nói hết câu, vội nói:

- Thì tôi phải chịu hình phạt là cùng.

Nàng lượm một bó "Tình hoa" nhỏ đem đặt trên miệng gã đệ tử áo xanh, để khi hắn

tỉnh dậy không thể kêu la được, rồi lấy lưưới bao hắn lại, lượm hoa rắc lên mình.

Nàng hạ giọng bảo chàng:

- Anh Dương ơi! Anh ở đây, nếu có ai vào anh núp sau cánh cửa nhé! Vì lúc này anh

đã bị gai "Tình hoa" truyền chất độc vào mình dữ lắm. Để tôi đi lấy thuốc cho anh

dùng.

Chàng quá cám động, thấy nàng mạo hiểm liều thân như vậy, nên thầm nghĩ: "Mình

với nàng gặp nhau cha đầy một ngày, mà nàng đã phản cha nàng để cứu mình ?".

Chàng ấp úng:

- Thưa cô nương. Tôi làm phản cô nương nhiều... sợ...cô...

Lòng chàng quá xúc động, không thể nói hết câu đứng lặng thinh với đôi mắt ngấn lệ.

Nàng Lục Ngạc đang lo âu, sợ sệt, bỗng nhiên trở nên vui tơi hớn hở, thầm nhủ:

- Anh có lòng với em nh thế, thì em có rủi ro bị cha em hành phạt đến đâu, em cũng

nhắm mắt cam lòng...

Đoạn nàng dặn tiếp:

- Anh ở đây đợi em một chút nhé? Em trở lại ngay với anh.

Nàng nhẹ bước thoăn thoắt ra khỏi phòng. Dương Qua ngẩn người như trong cơn

mộng:

- Sao ta lại được nàng đối đãi như thế này?... ôi! Lạ thật! nàng là con gái của lão gian

ác kia mà! Ôi! Từ nhỏ bị khinh khi nhục nhã, tưởng trên đời không ai là người nhân

từ đạo đức nữa, nào ngờ lại có nhiều người đem chân tâm đối với ta. Nhu cô Tiểu

Long Nữ, thầy dạy học của ta đã đành, còn Tôn Bà, Hồng thất Công, nghĩa phụ Âu dương Phong, Hoàng dược Sư và nay còn có những thiếu nữ chịu liều thân sống chết với ta trong cơn nguy biến như Trình Anh, Lục Vô Song, và Lục Ngạc nữa. Thật những người đối với ta hết lòng hết dạ. Giá đừng có những kẻ đối với ta quá ác độc như chúa động, thì đâu thấy những cái quý hóa của người có chân tâm, hy sinh đau đớn lo cho ta như cô Tiểu long Nữ và nàng Lục- Ngạc?

Thực ra, những cuộc tương ngộ trên đời Dương Qua đều thấy cả hai thái cực. Nếu

không phải là người yêu mến giúp đỡ chàng thật lòng, thì là kẻ cực ác, làm cho chàng

thiệt hại một cách tàn nhẫn. Đó không phài là tại người mà chính là thiên tính của

chàng đã gây nên. Khi gặp ai hợp tình là chàng dốc hết lòng thành đối với họ, nếu ai

không hợp ý hợp lời, thì chàng đối xử như kẻ thù. Bởi chàng đối với người như thế,

nên người ta cũng đối xử lại chàng như vậy...

Chàng đứng sau cánh cửa chờ đợi đã lâu mà chẳng thấy bóng Lục Ngạc trở vào. Thời

giờ cứ lặng lẽ trôi qua trong cảnh hồi hộp. Dần dần gã đệ tử nằm trong lưới tỉnh lại,

mắt hắn trắng nhợt, toàn thân run run. Hắn quá đau đớn nhưng không thể nói ra lời.

Dương Qua thấy quá lâu, lòng lo ngại. Lúc đầu chàng nghĩ rằng vì trong phòng thuốc

có người nên nàng chưa tiện lấy trộm được. Nhưng rồi mỗi lúc một biệt tăm chàng lại

nghĩ: - Nếu nàng không thể lấy được thuốc thì nàng cũng trở lại nói một lời cho ta

biết, lẽ nào nàng để mình đứng chờ lâu thế này sao? Có lẽ nàng gặp điều gì không

may đâu! Nàng đã vì mình mắc vạ to thì mình phải đi tìm cứu ân nhân chứ?

Chàng bèn đẩy hé cánh cửa đa mắt nhìn ra ngoài không thấy một bóng người. Chàng

vội nhón chân bước ra. Nhng chàng không biết, Lục Ngạc bị hành phạt ở phòng

nào?

Chàng đang bối rối, chợt nghe có tiếng chân bước rầm rập. Chàng vội nép mình vào

góc tường sau thấy hai gã đệ từ áo xanh sánh vai đi tới, tay cầm một cây tua tủa

những gai. Đó là loại binh khí đặc biệt làm cho chàng thầm nghĩ: có lẽ nào động chủ

lại hành hạ đứa con gái ông ta bằng hình phạt ghê gớm nầy!

Chàng liền nhón chân theo hai gã đệ tử, mà họ vẫn không biết. Đi loanh quanh qua

các ngạch đá một lúc, thì đến trước một căn nhà. Họ cất tiếng thưa:

- Bẩm động chủ, chúng con đã đem trượng gai đến.

Rồi hai gã đẩy cửa bước vào. Tim của Dương Qua nh muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.

Lão động chủ khốn kiếp quả đang ngồi trong phòng nầy. Chàng đảo mắt nhìn quanh,

thấy phía đông căn phòng đá có một cửa sổ, bèn nhón chân bước tới đó, nhìn trộm

vào trong, thì y hệt như chàng đã đoán: Nàng Lục Ngạc bị bắt dẫn vào phòng. Cha

nàng ngồi giữa, hai gã đệ tử cầm trượng gai đứng hai bên. Động chủ thấy trượng gai

đã đem đến, liền đưa tay nắm lấy, hằn học bảo con gái:

- Con Ngạc! Mày là máu mủ của tao, sao mầy lại phản cha mày như thế?

Nàng Lục Ngạc chỉ cúi đầu không đáp. Lão mắng tiếp:

- Mày đã mê cái thằng họ Dương ấy rồi, lý nào tao không biết? Nhưng tao đã bảo là

tao phải hành phạt nó, rồi đến ngày mai tao tha cho nó đi, sao mày dám vội vàng như

vậy? Thôi để ngày mai tao hỏi ý kiến rồi tao gả cho nó là xong.

Dương Qua đâu phải là kẻ ngây ngốc gì mà không hiểu ý Lục Ngạc. Chàng vẫn biết

rằng nàng có lòng dạ yêu chàng. Song vì lòng chàng đang bấn loạn đắm đuối Tiểu

long Nữ, nên chàng phải quên đi, không nghĩ đến. Nhưng lúc này, nghe lão động chủ

nói trắng trợn ra, chàng giật mình hồi hộp, hai má nóng rần... Chợt thấy nàng Lục

Ngạc ngẩng đầu cất tiếng lanh lảnh:

- Thưa cha! Lúc nầy cha đang bận tâm lo ba việc thành hôn của cha, thì đâu còn để ý

gì đến con?

Động chủ quắc mắt "hừ" một tiếng không thèm nói. Nàng lại tiếp:

- Thưa cha, điều đó không sai. Con quả khâm phục Dương công tử là người đường

đường chính chính, chí nghĩa, chí tình. Nhưng con đã thấy rõ lòng chàng lúc nào cũng

chỉ biết có Long cô nương mà thôi! Sỡ dĩ con phải cứu chàng là vì... con thấy việc

làm của cha thật quá chứ con không có ý gì khác.

Dương Qua núp bên ngoài nghe rõ, lòng vô cùng kính phục:

- Lão động chủ là một tay gian xảo, bạc ác ai ngờ lại sanh một cô gái đầy đủ đức

hạnh, cao thượng thế này!

Công Tôn động chủ mặt hầm hầm, trơ trơ như tượng gỗ. Lão lạnh lùng đáp:

- Mày nói như thế tức là mày mắng cha mày vô nhân, bất nghĩa hả?

- Lục Ngạc ngơ ngác nói:

- Con đâu dám nghĩ nh thế! chỉ có điều...

Lão gắt giọng, hỏi:

- Điều gì?

Nàng bối rối nói:

- Dạ, chỉ có điều Dương công tử đã bị Tình hoa châm chích muôn ngàn mũi, thì

chàng chịu đau đớn sao nổi? Cha ơi! Cha hãy ban ân đức thả chàng ra!...

Động chủ cười nhạt:

- Cứ để đến ngày mai tao hãy cứu nó, thả nó việc gì mầy phải xen vào cho lôi thôi?

Lục Ngạc cúi đầu suy nghĩ:

- Cha ta làm sao có được hảo ý với chàng. Nếu chàng còn sống thì Long Nữ không

thể thuận lời cha ta. Hơn nữa tình yêu nồng thắm của họ chỉ tạo cho cha ta một ý căm

hờn làm sao cha ta có thể đối với chàng như cha ta vừa nói?

- Thưa cha, con mang ơn dưỡng dục từ bé đến giờ, có lẽ nào con lại vì Dương công tử

là người xa lạ bên ngoài mới đến? Nếu con biết chắc ngày mai cha sẽ cho thuốc và

thả hắn đi thì con đâu dám bước vào phòng đàn ông.

Lão gằn giọng hỏi:

- Mày biết thế sao còn lẻn vào đây?

Nàng bạo dạn tiếp:

- Vì con biết ý cha không tốt với hắn. Đêm nay, sau khi thành thân với Long cô

nương rồi, ngày mai cha sẽ có độc mưu trừ mạng hắn, để cho tình duyên giữa hắn và

Long cô nương không còn nữa.

Công Tôn động chủ thường ngày dù giận dù mừng, không mất vẻ bình thân, nên

những lúc phân xử mọi việc lớn nhỏ trong động lão xét đoán được công minh đối xử

với đệ tử, cho nên trong động ai ai cũng một lòng khâm phục. Nhưng Lục Ngạc lần

này đã thầm biểu tình ý cũa lão nên lão nổi giận gầm gừ:

- Hừm? Đúng là sanh con hoang rước họa vào mình! Tao nuôi mày khôn lớn chừng

nầy, không ngờ nay mày lại kết tội tao!

Lão tóm lấy vạt áo Lục Ngạc lôi mạnh một cái. Lục Ngạc hỏi:

- Cha làm gì thế?

- Mày còn giả ngơ ngẩn ? Đừng chối nữa! Viên thuốc "tuyệt tình" trị chất độc đâu

rồi?

Nàng thản nhiên đáp:

- Con không hề lấy.

Lão đứng phắt dậy lớn tiếng:

- Thế thì nó biến đi đâu?

Bấy giờ, Dương Qua nhìn vào phòng, thấy các hộp mở nắp, đặt trên bàn la liệt. Trên

tường treo đầy các thứ cỏ, lá, rễ... không biết được là thuốc gì. Bàn phía Tây để ba cái

lò luyện thuốc trước cửa phòng có đề hai chữ "đơn phòng". Chàng nhìn vẻ mặt động

chủ thầm lo:

- Hôm nay dù thế nào nàng Lục Ngạc cũng không thể tránh khỏi trọng hình:

Bỗng có tiếng nàng nói:

- Thưa cha! con tự tiện vào đơn phòng, quả có ác ý muốn lấy thuốc, để cứu Dương

công tử, nhưng con tìm hơn nửa ngày mà chẳng kiếm được. Nếu con tìm được thì con đã đi rồi, đâu đến nỗi lại bị cha bắt được?

Động chủ hét:

- Chỗ cất thuốc bí mật vô cùng. Những quan khách hiện còn ngồi ở đại sảnh, chưa ai

rời đi một bước thế mà viên thuốc "Tuyệt tình" đã biến đâu mất tích? lẽ nào nó có

cánh?

Nàng quỳ xuống khóc sụt sùi:

- Lạy cha! Cha rộng lượng tha cho Dương công tử, để hắn được toàn mạng ra khỏi

động, vĩnh viễn không cho vào nữa thế là yên.

Động chủ cười nhạt:

- Nếu không may tính mạng tao lâm nguy chưa chắc mày đã chịu quỳ khóc để cầu

cứu.

Nàng không nói nữa, cứ ôm lấy hai chân cha nàng. Lão động chủ nói:

- Mày lấy mất viên thuốc "tuyệt tình đơn" rồi, tao lấy gì mà cứu nó? Được! Mày

không nhận thì mặc mày. Để cho mày cứ ngồi đây trọn ngày thâu đêm. Mày lấy

thuốc mà không cho thằng họ Dương ấy uống, thì để hai ngày tao mới thả nó ra.

Nói rồi lão ra cửa. Nàng biết rõ một gai tình hoa chỉ châm sơ vào da một cái cũng đã

gây độc đau đớn mãi đến ba ngày. Thế mà

(*** mất 10 trang ***)

Dù có đau đớn thế nào cũng phải cố sống để cứu nàng mới được. Lão động chủ kia dù

có ác độc đến đâu đi nữa, cũng phải có tình cha con. Thế nào rồi lão cũng sẽ hồi tâm

đổi ý, khi gặp con gái lão thoát nạn.

Chàng miên man suy nghĩ nhiều chuyện. Trong chốc lát quên hẳn cả Tiểu Long Nữ,

rồi cơn đau được dịu dần. Chàng nói:

- Công Tôn cô nương ơi! Đừng sợ nữa. Tôi tin chắc thế nào Công Tôn động chủ cũng

cứu cô lên. Người chỉ giận một mình tôi thôi, chứ cô dù thế nào cũng là nguời thương

yêu của người. Và lúc này nhất định thân phụ cô đang hối hận.

Nàng Lục Ngạc nghe qua lòng xúc động ứa lệ nói:

- Hồi em còn nhỏ, quả thật cha em thương em lắm. Nhưng sau khi mẹ em mất, tình

thương của cha em đối với em trở nên khe khắt. Tuy thế, em cũng hiểu là trong thâm

tâm cha em không hề ghét em.

Nàng ngừng một lúc, để hồi tưởng lại bao nhiêu chuyện kỳ lạ lúc trước, rồi bảo

chàng:

- Anh Dương ơi? Em vừa nhớ lại hình như cha em có ý sợ em vậy. Anh ạ!

Dương Qua ngạc nhiên hỏi:

- Tại sao người lại sợ cô? Điều nầy thật kỳ lạ.

Nàng nói tiếp:

- Thật vậy. Trước đây em nhận thấy nhiều lúc sắc mặt cha em đổi khác, mất hẳn vẻ tự

nhiên, tựa như trong lòng có giấu giếm một ẩn tình gì đó, sợ em hiểu được. Thật ra từ

trước đến nay mỗi lúc thấy vẻ mặt người cha đổi khác nàng Lục Ngạc vẫn lấy làm lạ.

Nhưng rồi lần nào cũng quên đi. Vì cho rằng cha nàng quá thương mẹ nàng, nên khi

nhìn thấy con thì xúc động, đau buồn biến sắc. Nhưng đến lúc nầy nàng không cho là

thế nữa. Vì cha nàng đã xô nàng rơi xuống hầm cá sấu rõ ràng là một mưu mô cố ý,

chứ không phải trong cơn nóng giận mà lỡ tay. Trong lúc cha nàng đổi chỗ ba cái lò

luyện đơn trong "đan phòng" chính là ông ta đã mở then chốt của bộ máy giết người

vậy. Nếu nói rằng lão căm giận Dương Qua nên tống nàng xuống chỗ chết, thì không

đúng, vì lão cần gì phải làm nh thế? Trên mình chàng đã bị châm muôn ngàn mũi

gai "tình hoa", chất độc đã ngấm nhiều lắm rồi! Lão cứ việc làm ngơ không cứu, là

chàng phải chết! Cần gì phải xô xuống vực sâu? Mà nếu lão muốn giết chàng xuống,

sao lại nắm vai nàng thúc một chưởng cho rớt xuống luôn?

Bàn tay lão đã tàn nhẫn như thế thì đâu còn tình cha con!

Nàng càng nghĩ càng băn khoăn, lại càng nhớ nhung hành vi ngôn ngữ của cha nàng

trước đây. Khi nãy nàng không hiểu, vì không lưu ý tìm hiểu, chỉ cho rằng đó chỉ là

những hành vi cùa một người tu luyện, nên khác với người thường. Nhưng lúc này

nàng không thể nghĩ như thế được nữa. Bây giờ cá sấu đã quây quần nhau lại một

chỗ. Chúng tranh nhau xé thây một con đồng loại bị Dương Qua giết chết. Thấy

chúng không bò lên đá nữa, Dương Qua nhìn mặt Lục Ngạc, thấy nàng ngơ ngẩn, liền

hỏi:

- Phải chăng thân phụ cô có điều gì bí ẩn, vô ý để cô bắt gặp?

Nàng lắc đầu nói:

- Không! Cha tôi vốn đoan nghiêm đường hoàng, xử sự công minh chính trực nên mọi

người trong động đều kính trọng. Cho đến hôm nay, cha tôi mới đối xử với anh như

thế nầy.

Dương Qua mới bước chân vào động "Thủy Tiên" lần đầu, chưa hiểu gì về lai lịch nên

khó mà đoán giúp cho nàng về ẩn ý của cha nàng được. Dưới vực thẳm, bên đám cá

sấu khí lạnh như băng, hai người lại bị ướt cả mình mẩy. Vê phần Dương Qua, trước

kia đã luyện nội công trên giường "ngọc hàn" nên khí lạnh lúc nầy đối với chàng

không ra gì. Còn nàng Lục Ngạc thì đã tái tê, run lập cập, phải nằm gọn vào lòng

chàng để chờ khí ấm. Dương Qua lo lắng:

- Sức nàng không thể chịu nổi cảnh rét buốt nầy.

Chàng vừa thương vừa sợ, định kiếm vài câu chuyện nói cho nàng vui, nhưng chợt

nhìn xuống bầy cá sấu lố nhố dưới hầm, thấy chúng xâu xé cướp giật con vật đồng

loại bị chết, chàng mỉm cười bảo nàng:

- Công Tôn cô nương ơi! Hôm nay chúng ta cùng chết, thì sau này cô định làm kiếp

gì? Phần tôi, nhất định không bao giờ tôi làm cá sấu kia! Nàng khẽ mỉm cười:

- à! Thế anh biến làm một đóa hoa "Thủy Tiên" nhé! Vừa đẹp vừa thơm, ai trông thấy

cũng yêu mến.

Chàng vui vẻ nói:

- Nếu biến làm kiếp hoa thì chỉ có người như cô mới hợp. Chứ như tôi có quý lắm là

biến đực cây gai ngạc đầu là cùng.

Nàng bật cười:

- Nếu nh Diêm Vương bắt anh phải biến thành một đóa hoa "Tình hoa" anh có bằng

lòng không?

Chàng im lặng không đáp, lòng hối tiếc thầm nghĩ:

- Nếu cứ dùng gươm tiếp tay "Ngọc nữ tố tâm" với cô ta, thì lão động chủ làm gì

chống nổi. Tuy lão võ công cao cường, nhưng vị tất đã hơn Kim Luân Pháp Vương.

Nhưng rủi cho cô ta đã phải gai "tình hoa" trong phòng kiếm mà phép đánh kiếm "tố

tâm" lại buộc hai người phải cảm thông tâm linh như nhau mới phát xuất được uy lực.

ôi! Như thế nầy cũng là số trời đã định, ta không nói làm chi nữa! Nhưng không hiểu

lúc này số phận cô ta ra sao?

Nghĩ đến Tiểu Long Nữ, các vết thương trong người chàng ngấm ngầm đau nhói lên.

Nàng Lục Ngạc thấy chàng không đáp, biết mình lỡ lời nhắc đến "Tình hoa" bèn nói

lảng sang chuyện khác:

- Anh Dương ơi! Trong bóng tối đen mò thế nầy, mà mắt anh kịp thời nhận ra cá sấu.

Em thì như mù tịt chẳng trông thấy gì cả.

Chàng cười nói:

- Thôi, mấy ông cá sấu kia xấu và tồi quá, đừng nhìn các ông ấy nữa.

Dứt lời chàng nhè nhẹ vỗ vai nàng, tỏ ý an ủi. Nào ngờ toàn thân nàng cảm thấy mát

rợi, đê mê cả tâm hồn. Chàng thầm nghĩ: "à! Lúc nàng ở trong phòng thuốc, bị tra

khảo gắt gao, lão già đó đã khăng khăng kết tội nàng lấy cắp thuốc cho nên nàng đã

phải thoát cả xiêm y thanh minh. Bây giờ mình nàng chỉ còn có chiếc áo lót nhỏ nầy

?

Chàng giật mình vội co tay lại. Nàng nghĩ đến thần lực của đôi mắt chàng có thể nhìn

rõ trong bóng tối như chỗ sáng thì nàng vô cùng thẹn thùng. Vì toàn thân ngọc ngà

của nàng đã đi lộ trước mặt chàng.

Lúc đầu, cả hai đều hoảng hốt trước lưỡi kiếm của lão già, kế đến lại điên đầu trước

cuộc chống với lũ cá sấu, cho nên cả hai sát lấy nhau mà tuyệt nhiên không hề nghĩ

đến việc nam nữ tiếp xúc quá thân. Đến lúc này, một đàng giật mình rụt tay một đàng

cùng đường hết cách, chỉ có thăng thiên độn thổ mới thoát được.

Dương Qua vội ngồi nhích ra xa, rồi cởi áo ngoài khoác lên mình nàng. Trong lúc cởi

áo chàng không những chỉ tưởng đến Tiểu long Nữ, mà còn liên tương đến nàng Trình

Anh, người đã tự tay may áo tặng cho chàng. Chàng lại còn nghĩ đến nàng Lục vô

Song đã tự nguyện chết thế cho chàng nữa. Chàng cảm thấy một đời chàng đã mang

lấy ơn bao nhiêu người đẹp mà thẹn là cha báo đáp được ai, nên quá xúc động thở

một hơi dài não ruột!

Nàng Lục Ngạc lấy chiếc áo chàng mặc vào rồi thắt dây lưng lại. Bỗng nhận thấy

trong túi áo chàng có vật gì nhỏ. Nàng lần tay ra móc trả cho chàng và hỏi:

- Cái gói gì đây hả anh? ậ trong túi áo anh đây nầy.

Dương Qua đưa tay cầm lấy và lạ lùng nói:

- ủa cái gì thế này?

Nàng càng ngạc nhiên hơn, vội nói:

- Vật nầy, ở trong túi áo anh, sao anh lại hỏi em?

Chàng định thần nhìn kỹ thì thấy một gói có bọc vải xanh từ trước đến nay chàng

chưa trông thấy bao giờ. Chàng liền mở ra xem, thì lập tức có một tia sáng từ trong

gói lóe ra, và thấy bốn lọ tròn nhỏ xíu, trong lọ có ánh sáng tỏa ra, hình như ánh sáng

của loại ngọc quí.

Lục Ngạc bỗng kêu lên:

- Ôi này!

Nàng đưa tay lấy mấy lọ thuốc trong tay chàng rối rít bảo:

- Thuốc "Tuyệt tình đan" đây rồi anh ơi?

Dương Qua vừa giật mình vừa mừng rỡ, vội hỏi:

- Có phải là thuốc chữa vết thuơng bị "Tình hoa" đâm chăng?

Nàng vui mừng đáp:

- Đúng là thuốc chữa bệnh cho anh đấy!

Hồi nãy em vào đan phòng tìm cả nửa ngày trời mà không thấy. Làm sao lại lọt vào

túi anh thế này? đã lấy được sao anh không uống đi? anh không biết đó là thuốc chữa

độc "Tình hoa" ?

Quá vui sướng, Lục Ngạc hỏi dồn dập làm cho Dương Qua không kịp trả lời, chàng

đưa tay ra trước mặt, nói:

- Tôi không hiểu gì cả, đây là lọ đan dược ? Tại sao nó lại lọt vào túi tôi thế này?

Thật là chẳng hiểu đầu đuôi ra sao!

Viên ngọc gắn trên đầu thìa tỏa ánh sáng lờ mờ, nhờ đó Lục Ngạc thấy được những

vật xung quanh. Nàng bắt gặp một cái gói, một lọ thuốc một mảnh giấy và một nửa

tai nấm tía Linh Chi.

Nàng lầm bầm:

- Nửa tai nấm Linh Chi nầy là do lão già quỷ quái đã bẻ gãy...

Dương Qua hỏi:

- Lão già nào? Có phải lão họ Châu?

Lục Ngạc đáp:

- Phải, chính lão đó đã đại náo nơi thư phòng, kiếm phòng, đan phòng, bẻ gãy cây

nấm Linh Chi nầy đây! Một tay lão gây ra bao nhiêu chuyện. Bấy giờ Dương Qua mới

chợt nhớ ra, gãi đầu gãi tai nói:

- Phải rồi! Chắc là thế.

Lục Ngạc hỏi lại:

- Cái gì mà phải? Mà chắc?

Dương Qua không đáp, nghĩ thầm: "Cái túi nhỏ xíu này là chính tay lão Châu đã nhét vào túi mình!

Thì ra đến lúc đó Dương Qua mới hiểu Châu bá Thông có ý thân giúp chàng. Chàng

đổi thái độ, không gọi Bá Thông là lão già nữa mà bằng "cụ Châu".

Nàng Lục Ngạc đoán biết phần nào, liền hỏi:

- Thế ra ông ấy trao cho anh?

Duơng Qua vừa cười vừa nói:

- Quả vậy! Vị tiền bối đó là một tay cao thủ đệ nhất võ lâm, đã từng đi đó đi đây quấy

phá mọi ngời để làm vui. Ông ta lấy cây kéo và chiếc mặt nạ của tôi mà tôi không

biết đã đành, ông ta lại còn bỏ gói thuốc nầy vào ngời tôi nữa? Ôi chao! Thật chẳng

khác nào một bậc thần thánh. Võ công của tôi so với ông ta kém xa một trời một vực.

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 52 : CÂU Chuyện Rùng Rợn Của HAI MƯƠI NĂM Cũ

Bà Cừu thiên xích sực nhớ lại con gái mình mồ côi mẹ ngay từ khi còn thơ ấu, thì xúc động trong lòng muốn ứa nước mắt. Bà dịu giọng nói:

- Hai cậu con là anh em song sinh, cậu lớn tên Cừu Thiên Lý. Cậu thứ hai tên Cừu Thiên Nhận. Hai người giống nhau như hai giọt nước, từ dáng điệu mặt mày cho tới lối trang phục. Nhưng trái lại tính tình và cuộc đời lại hoàn toàn khác nhau. Cậu hai thì võ nghệ tuyệt luân cậu cả thì chỉ tầm thường mà thôi. Võ nghệ và nội công của mẹ hoàn toãn do cậu hai truyền dạy lại cả đấy. Nhưng trái lại mẹ và cậu cả lại gần nhau và hợp ý hơn. Cậu hai là Bang chủ Thiết Chưởng bang, tính tình nghiêm nghị khắc khổ lại bận rộn nhiều công việc trong Bang đâu còn đủ thì giờ để chuyện trò với mẹ. Cậu cả thương mẹ lắm, một lời cũng "em anh" hai lời cũng "anh em", mẹ cũng mến cậu ấy cho nên mỗi khi có sự xung đột về ý kiến giữa hai cậu, lúc nào mẹ cũng bệnh vực cậu cả hết.

Lục Ngạc hỏi:

- Nhưng tại sao hai cậu lại hay cãi vã xung đột lắm vậy?

Bà có vẻ tươi vui hơn, bèn cười bảo con:

- Câu chuyện này kể ra cũng không quan trọng lắm và cũng không thể gọi là nhỏ được. Tựu trung cũng vì cậu hai hơi quá đáng. Cậu hai là Bang chủ Thiết Chưởng với danh hiệu "thủy thượng phiêu" khắp sông hồ ai ai lại không nghe tiếng? Cậu cả thì tầm thường nên có ai hay nên biết hiệu được. Vì vậy nên thỉnh thoảng trong những dịp đi du ngoạn xa, cậu cả cũng thừa dịp hai người giống nhau như đúc, và cũng ỷ tình máu mủ ruột thịt, tạm mượn danh hiệu của cậu hai lòe với thiên hạ để cho nở mày nở mặt đôi chút. Việc này có lấy chi làm quan hệ, thế mà cậu hai cứ hằn học tức tối mãi về việc này, nhiều khi nặng lời cùng anh. Nhưng cậu cả được cái tính xuề xòa, dù sao cũng chỉ giả lả xin lỗi mà thôi. Có một bận, thấy cậu hai nặng lời quá đáng, mẹ đứng gần không dằn lòng được cố xen vào bênh vực cậu cả. Trong khi tức sẵn anh cả, cậu hai đem bao nhiêu nỗi uất hận trút hết lên đầu mẹ, vì vậy một cuộc cãi vã xảy ra vô cùng gay cấn. Sau đó mẹ tức quá, bỏ núi Thiết Chưởng ra đi, không trở về nữa. Một thân một bóng ngang dọc giang hồ, có một bận, mẹ theo đuổi một tên hắc đạo lạc vào động Thuỷ tiên này. âu cũng là bắt đầu của một mối tình oan nghiệt.

Bà nghỉ một chút rồi nói tiếp:

- Vào đây mẹ gặp Công Tôn Chỉ. Hai người yêu nhau rồi lấy nhau. Nếu so về tuổi tác và tài nghệ thì hắn nhỏ tuổi hơn mẹ và bản lãnh lại càng kém xa. Tuy là vợ chồng nhưng lúc nào mẹ cũng xem hắn như đứa em, mọi việc, từ miếng ăn manh áo nhất nhất thảy đều lo lắng chu toàn, hắn không mảy may lo lắng.

Bà thở dài, lắc đầu mấy cái rồi tiếp luôn:

- Mẹ không ngờ lại có hạng người lòng thú dạ lang, lấy ơn làm oán sau khi có bản lãnh cao cường không biết nhớ ơn kẻ đã truyền dạy võ công cho mình, lại đem lòng phụ bạc. Nếu không thì làm sao có cái cảnh như ngày nay?

Nói tới đây bà phẫn uất quá nổi nóng chửi rủa Công Tôn Chỉ thậm tệ, với nhưng lời lẽ thô bỉ nặng nề hết sức, khiến cho nàng Lục Ngạc ngượng quá, nhìn Dương Qua mặt mày đỏ gay vì mẹ mình ăn nói hồ đồ tục tĩu như vậy thì làm sao mình không bị ảnh hưởng lây? Nàng luôn miệng can ngăn nhưng vẫn không kết quả gì hết.

Dương Qua trong lòng nuôi sẵn một mối hận cùng Công Tôn Chỉ nên khi nghe bà chửi rủa lão ấy thì hả dạ vô cùng, cứ tìm lời tán dương thêm, thật không khác nào lửa chế thêm dầu, làm cho bà thêm hứng chí càng chửi tệ hơn nữa. Giá không có mỹ nhân bên cạnh, Dương Qua cũng muốn hùa lời chửi theo cho hả dạ. Bà Cừu Thiên Xích chửi bới mãi một hồi lâu mỏi miệng rồi mới chịu ngừng và nói tiếp:

- Hồi ấy, mẹ đang mang thai con. Một người đàn bà trong lúc bụng mang dạ chửa ai ai cũng bị mỏi mệt suy yếu, hay cau có gắt gỏng và cần được chăm sóc dịu dàng chu đáo. Hắn đối đãi với mẹ rất ân cần, nhưng không ngờ đó là việc che đậy bên ngoài mà thôi. Thật ra hắn đã lén lút thông gian với một con hầu trẻ tuổi trong động. Hắn cố dàn cảnh bên ngoài để mẹ khỏi nghi ngờ và tiếp tục hành động bỉ ổi, tồi bại đó. Khi mẹ sinh hạ con thì hắn càng tỏ ra ân cần chăm sóc hơn nữa. Công chuyện cứ tiếp diễn mãi tới mấy năm sau. Khi con đã khá lớn, biết đi biết chạy, nói năng, tình cờ một hôm mẹ nghe được câu chuyện kín đáo của đôi gian phu dâm phụ ấy. Bọn chúng bàn lén với nhau là sẽ tìm cách trốn thoát rời khỏi động Thủy Tiên này và mãi mãi không trở lại nữa. Khi Công Tôn Chỉ thủ thỉ cùng con bé kia thì mẹ nấp vào một gốc cây lớn bên cạnh nghe được rõ ràng.

Hai đứa vì hãi sợ võ nghệ của ta quá cao không thể nào chúng cự nổi, chỉ còn một cách xa lánh mà thôi. Và trốn càng xa càng bảo đảm. Bọn chúng cho rằng vì ta kiểm soát kiềm chế quá chặt chẽ nên không thể tự do luyến ái, và muốn tìm một chỗ khác để tận hưởng mọi sinh thú ở đời mà không bị áp bức của ta.

Bà chép miệng, lắc đầu mấy cái rồi kể tiếp:

- Con ạ, xưa nay mẹ vẫn đinh ninh Công Tôn Chỉ một dạ yêu thương quý mến vợ con. Hôm ấy nghe được câu chuyện này, mẹ uất ức quá suýt ngất xỉu. Giận quá, mẹ muốn xuống cho mỗi tên một chưởng xong đời, nhưng bỗng hồi tâm nghĩ lại:

- Chẳng qua hắn vì bị nữ sắc quyến rũ nhất thời, chứ xưa nay bản chất hắn cũng tốt. Hơn nữa, dù sao cũng vợ chồng chung sống gần mười năm qua, có con có cái với nhau rồi, không nên vì một câu chuyện này mà dứt đoạn tình nghĩa được, biết đâu không phải vì con bé kia dùng giọng tiếng quyền mà khiêu động dâm tình, đưa hắn vào vòng tội lỗi? Vì vậy nên ta cố nén giận núp bên gốc cây chăm chú nghe thêm cho tường tận. Hai đứa đã bàn kỹ: Sau ba ngày nhân lúc ta vào phòng riêng luyện công và ở luôn trong ấy bảy ngày đêm liên tiếp, bọn chúng thừa dịp trốn đi. Quá bảy ngày, khi ta ra khỏi phòng, dù có biết cũng không thể nào theo đuổi bắt kịp nữa! Nghe tới đây trong lòng ta như bị nung nấu, tóc tai dựng ngược, nhưng trong lòng cũng thầm cám ơn trời đất xui khiến cho ta tình cờ biết, nếu không thì trong mấy ngày nữa chúng cao bay xa chạy? trời đất mênh mông biết đâu mà tìm nữa?

Kể tới đây, bà giận quá nghiến răng kèn kẹt, mắt lộ tròng rất dữ tợn. Lục Ngạc nói thêm:

- Đứa nữ tỳ hồi ấy bao lớn, tên họ là gì, có xinh đẹp lắm không mà có sức cám dỗ mãnh liệt như vậy?

Bà "hừ" một tiếng rồi bĩu môi đáp:

- Con đó đâu có đẹp đẽ gì, nhưng nó chỉ giỏi cái chiều chuộng. Mỗi khi lão Công Tôn Chỉ thích gì thì hắn chiều chuộng thỏa mãn ngay. Con bé đòi hỏi thứ gì trái lại thằng kia cũng thật tình hết. Không biết nó có bùa ngải, phép thuật gì hay không chẳng rõ. Còn tên nó, hừ, nó tên... con Nhu!

Nghe tới đây Dương Qua cảm thấy ái ngại trong lòng và lo lắng cho Công Tôn Chỉ. Chàng nghĩ thầm :

- Có lẽ cũng vì bà ta kèm riết quá đáng, làm cho ông ta mất cả tự do hứng thú, mọi việc nhất nhất phải tuân theo quyền điều khiển của bà, và có lẽ đó là mầm mống của sự phản bội chăng?

Lục Ngạc hỏi thêm:

- Rồi sao nữa mẹ?

Bà nói :

- Trước khi chia tay nhau, hai tên khốn kiếp đã hẹn nhau đến trưa ngày thứ hai sẽ gặp nhau tại nơi đây. Chúng đã căn dặn nhau giữ kín đáo trong hai người chờ đợi, đừng lộ một cử chỉ gì có thể khiến ta nghi ngờ. Lắng nghe bọn chúng tán tỉnh nhau, ta đứng ngẩn ngơ gần như chết cứng tại chỗ, nhưng cũng nghiến răng bấm bụng đi về phòng. Đêm đó ta suy nghĩ xốn xang và trằn trọc mãi không thể nào ngủ được. Chờ tới ngày thứ ba, ta có cảm giác như thời gian kéo dài hàng năm. Sáng hôm ấy, ta giả vờ vào nhà kịp chuẩn bị luyện công, Công Tôn Chỉ rón rén đứng ngoài cửa sổ, mặt mày lấm la lấm lét nhìn trộm vào, có vẻ hả hê sung sướng lắm. Nhưng cái bản mặt đểu giả của hắn ta đã đoán được hết những cảm tưởng tiềm tàng trong ruột gan hắn. Chờ khi hắn bước đi một chập, tức thì ta thi triển thượng thặng khinh công phóng tới chỗ bọn chúng đã hò hẹn. Vừa tới nơi, đã thấy con Nhu đứng chờ từ lâu. Ta nổi giận, không thèm nói một lời, tung cước đá một chiếc nó lăn lông lốc rồi túm ngay ngực ném tuốt vào bụi tình hoa.

Dương Qua và Lục Ngạc nín nghe bà kể chuyện, đến khi nghe nàng Nhu bị quăng vào bụi tình hoa thì cảm thấy rợn người cùng "ồ" lên một tiếng vì quá hoảng hốt.

Cừu Thiên Xích nhìn hai người có vẻ kinh ngạc lắm, nhưng bà không nói gì điềm nhiên kể tiếp:

- Mấy phút sau, lão Công Tôn Chỉ tới, thấy con bé Nhu đang lăn lộn trong bụi tình hoa, lão vội vàng nhảy xổ định cứu ra, nhưng ta đã từ phía sau bụi cây phóng ra vung tay xô lão văng luôn vào đấy rồi quay mình, đi thẳng về phía phòng riêng. Ta đi rồi, lão loay hoay tìm cách chui ra và cứu con nọ ra khỏi bụi tình hoa. Theo thủ tục trong động này lưu truyền đời này sang đời khác, mỗi khi có người bị trúng gai tình hoa thì dùng thuốc tuyệt tình đan để giải cứu. Vì vậy nên Công Tôn Chỉ dìu con khốn ấy vào phòng thuốc để tìm cách cứu chữa và lấy thuốc cho uống.

Kể tới đây bà vùng dậy cười lớn và hỏi hai người:

- Ta hỏi thử các con có biết lão ấy có tìm được thuốc tuyệt tình đan cho con bé ấy không nào?

Lục Ngạc lắc đầu đáp:

- Mẹ cứ nói đi, chứ con biết làm sao được chuyện hồi ấy?

Dương Qua nghĩ bụng:

- Có lẽ bà ta đã đem lọ tuyệt tình đan giấu mất chứ còn gì nữa mà tìm cho uổng công.

Bà ta cười lớn:

- Khi lão dìu con bé vào phòng thấy bao nhiêu tuyệt tình đan đều đổ hết ra một cái bát thật to hòa lẫn với chất độc "tỳ sương", nếu uống vào chết ngay nên lão không dám cho nó uống. Nguyên phương pháp luyện chế tuyệt tình đan, do ông tổ mấy đời của lão truyền lại, nhưng việc luyện chế không phải ngày một buổi mà nên được hơn nữa, các thứ thuốc để chế cũng không dễ gì tìm có ngay đủ hết. Nhiều thứ đã có sẵn, nhưng cần phải bằng nước sương mùa thu, nước mưa mùa xuân trong suốt một năm trời mới có hiệu lực. Nản quá, lão không còn biết làm gì hơn bèn quay chạy về phòng ta quỳ xuống lạy mãi, cầu ta cứu mạng cho con bé.

Nghĩ một chặp, bà nói với giọng dịu hơn:

- Hắn cũng thừa hiểu, dù sao ta cũng nghĩ tình chồng vợ không đến nỗi nhẫn tâm lắm và thế nào cũng phải giữ lại một vài viên thuốc tuyệt tình đan. Vì vậy nên lão vừa khóc vừa thề nguyền: Nếu cứu sống cho hai mạng rồi, lão sẽ đuổi con bé đi khỏi và từ đấy về sau xin thề không còn dám mèo chuột bậy bạ với bất cứ một ai nữa. Để cho lão van xin một hồi lâu, ta đặt một viên tuyệt tình đan lên bàn rồi nghiêm giọng bảo: "Tôi chỉ còn giữ lại một hoàn mà thôi. Chắc anh cũng biết rõ một viên chỉ có thể cứu mạng cho một người mà thôi. Nếu chia đôi, cho mỗi người một nửa thì không công hiệu nữa. Vậy tùy anh liệu định, hoặc cứu lấy mạng anh, hoặc anh chịu hy sinh tánh mạng để cứu con ma đầu kia cũng được". Nghe ta nói như vậy, lão lặng thinh lấy hoàn thuốc rồi lặng lẽ đi ra không nói một lời. Ta cũng bước theo xem thử lão gỉai quyết ra sao cho biết. Khi vào tới phòng chứa thuốc, thấy con bé Nhu đang lăn lộn rên xiết thảm thiết. Thấy vậy, lão lên tiếng an ủi: "Em Nhu, cứ yên tâm. Bây giờ không còn thuốc cứu chữa nữa, vậy anh sẽ cùng chết bên em cho trọn tình". Nói dứt lời, lão tuốt gươm ra. Con bé nọ tưởng đâu lão giữ vẹn mối tình chung thủy cùng mình nên lộ vẻ hân hoan nói: "Hay lắm, anh hãy giết em rồi tự tử luôn, để chúng ta cùng xuống âm ty tiếp tục nối tình chồng vợ kiếp này". Lão không trả lời. Một tiếng "soẹt" khô khan vừa vang lên thì lưỡi gươm đã xuyên qua ngay tim con bé khốn nạn. Ta đứng ngoài cửa sổ sợ rằng lão sẽ tự vận luôn theo nó nên vội vàng lên tiếng định cản ngăn, nhưng lão điềm nhiên chùi lưỡi kiếm vào mông con Nhu, khoan thai tra gươm vào bao rồi quay lại vòng tay nói với ta: "Việc trót lỗi lầm, xin nương tử rộng lòng dung thứ một phen". Nói dứt lời, lão bỏ viên tuyệt tình đan vào miệng nuốt luôn. Thật ra ta cũng không ngờ lão xử trí như vậy nên cũng động lòng về sự hối hận của lão, không còn giận nữa. Ngay đêm đó, lão sai đặt biệt tiệc tại phòng riêng để tạ lỗi. Cứ mỗi bận nâng ly, lão lại nhắc lại lời thề chung thủy, từ đây một dạ trung thành với nghĩa vợ chồng đến trọn đời mãn kiếp.

Nghe tới đấy, nàng Lục Ngạc bỗng òa lên khóc. Bà Cừu Thiện Xích nổi giận mắng luôn:

- Con thương tiếc con bé Nhu lắm sao mà khóc lóc như vậy hử?

Nàng Lục Ngạc chỉ lắc đầu không đáp, vì trong thâm tâm nàng lúc đó xúc động quá thương cha biết hối hận ăn năn.

Bà tiếp tục kể:

- Ta vừa uống rượu vừa tươi cười sung sướng vì thấy người chồng đã thật tâm hối cải và hy vọng từ nay sẽ độc chiếm tình yêu trong hạnh phúc gia đình. Ta thò tay vào túi lấy ra hai viên tuyệt tình đan khác, đặt lên trên bàn vừa cười vừa nói:

- Hồi sáng nay anh nông nổi giết nó cũng tội nghiệp thật. Chậm lại đôi chút, cũng có thể dùng thuốc nầy lấy mạng nó.

Lục Ngạc nhìn mẹ hỏi:

- Lúc ấy mẹ đang có định ý cho giải cứu nàng ta hay quyết giết?

Bà suy nghĩ một chặp rồi đáp:

- Thật ra lòng ta cũng không nỡ hạ sát nó và dự định cứu chữa để sau này nó còn cải tà quy chánh rồi biết ơn mình mãi mãi.

Rồi bà kể thêm:

- Nửa ngày sau, Công Tôn Chỉ vui vẻ đến nâng chén, mời ta uống một chén để tạ ơn tha tội. Thấy chồng đã thật tình biết lỗi, lòng ta hân hoan sung sướng, tiếp lấy uống cạn. Ngờ đâu vừa uống khỏi miệng đã ngã xuống mê man ngay.Khi ta tỉnh dậy thì thấy bao nhiêu gân ở chân đều bị cắt đứt và bị ném trong động này. Và từ đó tới nay ta vẫn sống một mình không biết trên đó đã xảy ra những gì. Có lẽ sau khi hạ xong độc thủ, nó tin rằng ta đã bò xuống nơi chốn này rồi.

Nói tới đây bà trợn mắt tỏ vẻ vô cùng oán hận.

Lục Ngạc hỏi:

- Suốt bao nhiêu năm qua, mẹ chỉ ăn táo mà sống thôi sao?

Bà nhìn con buồn rầu đáp:

- Chứ còn gì nữa mà ăn hử con? Trong mấy ngày đầu, mỗi buổi sáng Công Tôn Chỉ có ném xuống cho một vắt cơm, nhưng chỉ có mấy ngày rồi dứt hẳn. Trong thời gian ấy, mẹ chỉ có tìm rêu rong ăn đỡ, ngoài ra còn biết lấy gì đỡ dạ nữa?

Nàng Lục Ngạc đau lòng quá vội ôm chầm lấy mẹ gào lên:

- Trời ơi khổ thân mẹ tôi quá. Có ngờ đâu mẹ lại phải chịu đựng một cực hình kéo dài mãi như thế này?

Dương Qua không muốn nghe kể chuyện dài dòng nữa, nên mới gợi ý hỏi bà:

- Thưa bá mẫu, trước khi bị vứt xuống đây, có khi nào Công Tôn Chỉ kể cho bá mẫu nghe biết có lối nào ra khỏi động này hay không?

Bà cười chua xót đáp:

- Ta với lão tuy kết nghĩa vợ chồng nhưng tình chồng vợ không khác chi Trang Tử xưa kia, cho nên chẳng có chuyện gì kín đáo mà lão chịu để cho ta nghe hết. Ngay như cái đầm cá sấu trước kia lão cũng không hề cho ta hay biết bao giờ. Còn cái động này dù có lối ra chăng nữa, nhưng tay chân ta đã bị cắt gân hết rồi, làm sao mà trèo leo đi ra cho được?

Nghe bà nói thế, Dương Qua mừng như chết đi sống lại. Chàng vội đề nghị:

- Như vậy bá mẫu cùng hai chúng tôi hợp sức lại cả ba cùng tìm cách thoát ra, dù gian nguy khó nhọc tới đâu cũng vượt qua được.

Nghe chàng đề nghị, Lục Ngạc bèn nói với mẹ:

- Bây giờ để con cõng mẹ lên lưng rồi mẹ chỉ đường cho cả ba cùng đi ra.

Nguyên trong động này có một lối bí mật để đi ra, nhưng vì đường sá quanh co khúc khuỷu lên xuống khó khăn, khi đi được vài chục trượng sẽ có một khoang rộng có mấy chục cây táo mọc, bà Cừu Thiên Xích đưa tay chỉ vào lối đó và nói:

- Nơi có táo mọc mà vừa rồi chúng ta chọi trái rụng xuống để ăn đó chỉ là một lối hờ mà thôi. Đi lối đó có nhiều thứ rắn rết thật nguy hiểm và nhiều chất nhựa độc, chạm phải chết ngay. Còn cửa hang này có thể thông thương với bên ngoài được, nhưng vức vách đá cao hàng trăm trượng, làm sao ra cho được?

Dương Qua ngước mặt nhìn lên, thấy miệng hang cao vòi vọi, không thể nhẩy hay leo lên được. Dù có leo lên đọt táo cũng không thấm thía gì hết. Vì mỗi cây táo cao nhất cũng bảy tám trượng là cùng. Như vậy chắc không phương thế nào thoát ra được nữa. Nhưng chàng lại thầm nghĩ: "Nhưng bây giờ chẳng lẽ mình khoanh tay chờ chết hay sống mãn kiếp nơi đây sao?". Nghĩ xong, chàng phi thân lên trên đọt táo cao nhất, phóng tầm mắt quan sát hết khắp nơi. Từ phía trên đọt táo, vách đá có nhiều chỗ lồi ra lõm vào chứ không thẳng đứng như dưới. Chàng bèn nín hơi vận sức nhảy phóng lên cao thêm bám vào vách đá rồi tiếp tục nhảy thêm nữa, mỗi lúc một cao. Trong bụng mừng hớn hở, Dương Qua quay đầu nhìn xuống gọi lớn:

- Có hy vọng rồi, cô nương và bá mẫu cứ yên tâm chờ một tý. Tôi lên tới miệng hang sẽ thòng dây xuống kéo lên nhé.

Thế rồi chàng cứ bám vào vách đá trèo lên như vượn, vừa leo vừa nhảy, chuyền từ mỏm này sang mỏm khác. Có nhiều chỗ quá cheo leo phải bám chặt như dơi. Nhờ tài khinh công trác tuyệt, không bao lâu Dương Qua đã vượt hơn một trăm trượng cao. Khi còn cách miệng hang tháng hai chục trượng nữa, chàng nhìn thấy vách đá trở nên

nhẵn thín, không còn một chỗ nào để bám víu được nữa. Dù có móng vuốt như hùm beo hay có nhiều chân như rết cũng chưa chắc leo được nữa. Ngắm nghía một chặp lâu thấy không thể nào leo lên nữa được, chàng bèn tuột xuống. Khi tuột xuống tới đáy hang, chàng mừng rỡ báo tin lành:

- Thôi, chuyến này có thể leo ra được rồi, nhưng trên ấy cần phải có dây tốt mới được.

Nói xong chàng dùng dao tách một số lớn vỏ táo rồi cùng Công Tôn Lục Ngạc hì hục bện được một sợi dây thật dài và khá chắc chắn.

Lúc bấy giờ trời đã bắt đầu tối. Dương Qua cầm hai mối dây giằng thử thật mạnh miệng nói:

- Dây cũng khá bền lắm, không thể nào đứt được đâu mà sợ.

Nói xong, chàng níu một cành táo khá lớn, chặt lấy một khúc đem buộc vào một đầu dây mang theo. Thế rồi chàng từ từ leo lên lần nữa. Khi leo lần tới miệng, gặp chỗ vách đá trơn trợt, chàng bèn vận sức ném thẳng khúc gỗ táo lao vút lên trên xa, miệng hét:

- Tôi lên này!

Sức chàng ném mạnh quá, cành táo lao vút lên không trung nằm bắc ngang trên miệng hầm. Chàng đưa tay khẽ giật giật mấy cái khiến cành táo ngáng vào hai hốc đá trên miệng hang, rồi nhìn xuống la lớn:

- Tôi leo lên đây này.

Nói vừa dứt lời chàng dùng hai tay thu dây leo lên thoăn thoắt như một con sóc. Không bao lâu đã tới miệng hang. Dương Qua quay đầu nhìn xuống, thấy hai mẹ con Lục Ngạc chỉ còn là hai cái bóng mờ mờ nhỏ xíu. Ngồi nghỉ trên miệng hang, chàng suy nghĩ: "Không bao lâu nữa, ta sẽ đem được thuốc trị độc tình hoa để trao tận tay Long cô nương rồi. Sung sướng quá". Chàng đem cột thật chặt hai đầu cây vào mỏm đá để khỏi lăn hay sút ra. Trong khi đó trăng đã lên khỏi đỉnh núi, chiếu ánh sáng xuống nửa hang, nhưng nhìn xuống phía dưới thì tối đen như mực. Dương Qua ngửa mặt nhìn trăng rồi trông xuống hang sâu, lòng suy nghĩ: "Ngày còn chung sống với cô nương trong Cổ Mộ, có bao giờ ta ngán cảnh thâm u của rừng núi, chẳng hiểu tại sao hôm nay chỉ vừa trông thấy hang này đã ngán lắm rồi. Té ra cảnh vui hay buồn chỉ tại lòng người mà ra chứ không phải vì cảnh". Suy nghĩ xong, chàng loay hoay tìm cách thòng dây xuống.

Trong lúc đó dưới hang bà Cừu Thiên Xích biết rõ chàng đã lên tận trên miệng hang rồi nên lớn tiếng rầy con gái:

- Sao mày ngốc vậy? Mày để nó leo lên một mình, thoát thân rồi thì còn nghĩ gì tới mẹ con mình nữa?

Lục Ngạc đáp:

- Xin mẹ cứ yên tâm. Con biết rõ bản tánh anh ấy lắm. Con người như anh ấy rất thủy chung và trọng điều tín nghĩa, không khi nào quên tình phụ nghĩa mà bỏ rơi mẹ con mình đâu.

Bà không tin, càng mắng lớn:

- Con gái tôi thật thà quá, như vậy thì còn gì là đời con gái với cái tánh quá tin người như vậy nữa? Con trai đời này có thằng nào có thể gọi là thủy chung với con gái đâu mà con tin như vậy?

Lục Ngạc đỏ mặt nói:

- Mẹ nói sao con chẳng hiểu.

Bà cười nói:

- Không hiểu sao mặt mày đỏ bừng lên như vậy? Phàm ở đời có lạ chi thứ gái gần trai như rơm gần lửa. Mày tin nó thì nó dại gì không lợi dụng. Một khi bướm đã bắt hoa thì còn thiết tha gì nữa? Mày đã lỡ rồi thì phải bám riết lấy nó chứ sao lại bỏ tuột đi như vậy? Chẳng lẽ rồi đây một mình nuôi con cho hắn hay sao? Con gái trong trắng, khôn ba năm dại một giờ, có lẽ thằng Công Tôn Chỉ đã phụ rẫy tao rồi mày là con gái phải trả nợ cho cha ư?

Hai mẹ con đương cãi vã giằng co thì đường dây của Dương Qua thòng xuống đã chạm mặt đất. Lục Ngạc mừng quá, vội vàng bẻ hai cành cây cột chữ thập thật chắc đặt mẹ ngồi lên, quấn thêm một vòng bụng cho bảo đảm rồi vừa cười vừa hỏi:

- Bây giờ mẹ tin lời con chưa? Anh Dương Qua đâu phải như mẹ tưởng. Bà Cừu Thiên Xích hử một tiếng rồi nói:

- Ta chỉ dặn cho mà xem chừng, từ nay nên bám riết nó đừng thả ra như vậy nữa nghe không. ở đời hễ tin bợm thì mất bò con ạ.

Nghe mẹ nói, nàng Lục Ngạc chạnh lòng suy nghĩ: "Mẹ mình đã nếm mùi tình phụ, nên đã thành kiến với tất cả đàn ông trên trần thế. Ai ai bà cũng cho là hạng đểu giả, lúc nào cũng chực phụ rẫy đàn bà". Nàng giật nhẹ mối dây ra hiệu. Phía trên, Dương Qua cầm dây kéo lên vùn vụt. Bà Cừu Thiên Xích tung bổng người lên cao vùn vụt như muốn bay lên mây, không mấy chốc mất dạng.

Lục Ngạc đứng dưới nhìn theo. Nàng biết chắc thế nào Dương Qua cũng thòng dây trở xuống kéo mình lên, nhưng ảnh hưởng những lời nói của Bà Cừu vừa dặn cũng khiến cho nàng ngài ngại và cảnh vắng lặng trong hang đá khiến nàng cảm thấy sờ sợ, muốn rợn gáy.

Dương Qua kéo được bà Cừu Thiên Xích lên khỏi miệng hang rồi bèn mở ra đặt bà ngồi trên một tảng đá bên cạnh, rồi thòng dây trở xuống cho Lục Ngạc. Nàng Lục Ngạc nắm được đầu dây, đem quấn vào lưng mấy vòng rồi hai tay bám thật chặt, giật giật mấy cái ra hiệu. Dây được từ từ kéo lên. Nàng quay đầu nhìn xuống thấy ngọn táo mỗi lúc một xa dần và ánh trăng càng lúc càng sáng chói lọi. Khi còn cách miệng hang độ vài chục trượng, bỗng nghe có tiếng quát thật lớn, dây lại tuột xuống. Nàng thất kinh lo sợ và nghĩ bụng:

- Trời ơi sao thế này? Nếu rơi xuống đáy thì còn gì là xương thịt nữa?

Trên miệng hầm Dương Qua đang cố phăng dây, chỉ còn chút nữa là thành công, thình lình có tiếng chân người đi rầm rập rồi có tiếng gươm khua, chàng đoán mình đang bị kẻ nào đánh lén. Chưa kịp quay đầu lại nhìn, bỗng nhiên chàng nghe có tiếng người quát lớn: "bọn bây định làm trò chi tại đây" tiếp theo một tiếng vụt như trời giáng vào lưng chàng. Trước tình thế đó Dương Qua phải buộc lỏng buông dây, để dùng hai tay đỡ đòn, chàng vừa gạt được một cây gậy sắt nặng linh trăm cân thì nhìn lại kẻ địch là Phàn Nhất ông đệ nhất đệ tử của Công Tôn động chủ. Trước đây Phàn Nhất ông bị Dương Qua xén mất bộ râu quý nên trong lòng mang mãi mối hận, hôm nay lại bị chàng gạt luôn cây gậy sắt, ông bực tức thêm bèn xông nhầu vào vụt loạn đả. Nếu Dương Qua chỉ chậm một tý cũng tan xương nát thịt. Dưới làn gậy vô cùng ác liệt, Dương Qua

không còn cách nào lẩn tránh nữa, chàng bèn nhảy liều xuống hang theo Lục Ngạc. Lục Ngạc theo đầu dây tuột gấp xuống, sợ thét hỏi ầm ĩ. Trên miệng hang, bà Cừu Thiên Xích cũng quát lớn bảo Phàn Nhất Ông:

- Mày hại con ta thì ta cũng cho mày phải cùng chết với nó luôn thể.

Nói xong bà tung đầu dây ra quấn luôn trên người họ Phàn ba vòng rồi giật mạnh.

Phàn Nhất ông hoảng quá hai tay vội nắm lấy đầu dây kéo lại. Trong lúc đang giằng co, Phàn Nhất Ông bỗng cảm thấy sau lưng đau nhói như kim

châm và Cừu Thiên Xích quát lớn:

- Huyệt linh đài đã bị ta điểm rồi, các mạch máu đều ngừng chạy, đừng hòng chống cự nữa vô ích.

Vừa nghe ba tiếng "linh đài huyệt" Phàn Nhất Ông rụng rời không hồn vía nữa. Từ trước đến nay ông thường nghe sư phụ giảng giải cho biết Linh đài huyệt đạo trọng yếu nhất trong con người hễ bị điêm trúng, tất nhiên bao nhiêu mạch máu đều ngừng chảy "Linh Đài tiểu tổn, bách mạch câu phế". Vì vậy nên khi nghe bà nói xong, ông chỉ biết đứng sửng

sốt không dám cử động hay bỏ chạy nữa. Rồi máu tươi từ miệng ra như suối.

Thấy địch thủ đă bị trọng thương. Thiên Xích yên trí, nắm lấy đầu dây giật và thét lớn:

- Các con leo lên, đừng sợ nữa.

Nhờ có võ công cao siêu và thuật khinh công tuyệt đỉnh, Dương Qua nhảy xuống hang, đứng được trên ngọn cây táo mà chàng đã đoán trước được vị trí rồi cố nắm dây cho tuột xuống từ từ để Lục Ngạc khỏi bị thương tích. Trong khi ấy Lục Ngạc hoảng sợ quá đã hôn mê bất tỉnh rồi. Dương Qua bèn dùng dây buộc ngang lưng nàng hai vòng thật bảo đảm rồi kẹp bên hông leo lên. Leo lên khỏi miệng hầm, chàng thấy Lục Ngạc còn đê mê hồn quế nên giải huyệt cho nàng. Lục Ngạc mở mắt nhìn quanh, trong tâm hồn nửa mê nửa tỉnh, vừa trông thấy Dương Qua đứng dưới ánh trăng nhìn mình cười mỉm thì nàng mừng quá chồm lên ôm chàng thổn thức:

- Dương đại ca! Có phải hai ta đã cùng chết hết rồi phải không? Đây là chốn nào, có phải âm ty chăng?

Dương Qua đỡ nàng ngồi dậy, xoa nhẹ nơi má cười nói:

- Phải đấy, cả hai chúng ta đều chết hết rồi.

Lục Ngạc thấy chàng nói đùa cùng mình, bèn liếc nhìn ra sau thấy mẫu thân đang nhìn mình miệng cười âu yếm. Nàng ngượng quá, nhảy xổ lại ôm mẹ gọi lớn:

- Mẹ ơi, chúng ta đã thoát khỏi hầm rồi, sướng quá.

Dương Qua nhìn lại thấy bà Cừu Thiên Xích tuy bị cắt đứt hết chân tay mà vẫn có thể hạ thủ dễ dàng một tay võ công lợi hại là Phàn Nhất Ông thì phục sát đất, vội hỏi:

- Lão bà đã dùng phép gì hạ được thằng cha nầy như vậy?

Bà Cừu Thiên Xích vừa cười vừa đáp:

- Chỉ dùng một viên đá nhỏ là đủ, cần chi phải dùng phép thuật đối với hắn?

Nguyên trước kia bà đã dạy cho Công Tôn Chỉ vê thuật điểm Linh đài huyệt, nên thế nào Công Tôn Chỉ cũng đem dạy lại và lòe với bọn đệ tử cho nên khi dùng mồm phóng viên đá chạm vào mình Phàn Nhất Ông mất tinh thần, không dám chống đối nữa.

Riêng Dương Qua thì bất cứ lúc nào cũng chỉ trông mong được gặp lại Tiểu Long Nữ, nay thấy hai mẹ con Lục Ngạc đã ra khỏi hang bình yên vô sự, và kẻ địch là Phàn Nhất Ông đã bị điểm huyệt nằm sóng soài trên mặt đất, thì vội lên tiếng nói:

- Xin lão bà và cô nương hãy ngồi tạm nơi đây một chút, để tôi đem tuyệt tình đan cứu cho một người bạn thân.

Cừu Thiên Xích hỏi lớn:

- Nhà ngươi cũng có tuyệt tình đan sao? Hãy đưa ta xem thử nào?

Dương Qua vui vẻ đáp:

- Dạ cháu có mấy viên, xin lão bà xem lại có chân thật tuyệt tình đan hay không?

Miệng nói, tay thò vào túi rút ra một cái bình thuỷ tinh nho nhỏ trút ra mấy viên thuốc đen hình vuông đưa cho bà.

Bà Cừu Thiên Xích mân mê mấy viên thuốc trong tay, đưa lên mũi ngửi thấy thơm ngào ngạt, gật đầu khen:

- Phải đúng là tuyệt tình đan đây. Ngươi lấy ở đâu mà được số này. Nghe ngươi cũng bị tình hoa đâm phải sao không uống đi cho rồi?

Dương Qua chắp tay đáp:

- Cám ơn lão bà, câu chuyện này hơi dài. Chờ cháu đi cứu cho người quen xong sẽ trở lại đây và kể chuyện lại cho lão bà rõ.

Nói xong chàng đưa tay cầm lại mấy viên thuốc chực bước đi. Lục Ngạc thấy vậy có ý quyến luyến vừa lo âu hỏi nhỏ:

- Dương huynh! Nếu cha em ngăn trở thì anh làm sao?

Bà Thiên Xích nổi giận thét lớn:

- Con bé này gan thật, ai cho phép mi gọi lão ấy bằng cha nữa? Nếu từ nay mi còn gọi hắn là cha thì đừng gọi ta là mẹ nữa nghe không?

Để bà khỏi la con, Dương Qua xen vào nói:

- Tôi đem thuốc cho Long cô nương thì can chi ông lại cản ngăn. Theo tôi nghĩ có lẽ ông còn mừng rỡ là khác chứ.

Lục Ngạc bảo:

- Nếu ông không can ng ăn thì ông cũng có thề dùng độc dược khác để hại mạng anh, cần phải đề phòng cho lắm.

Dương Qua cười nhạt nói:

- Sự việc tới đâu hay đó biết đâu mà đoán trước được?

Cừu Thiên Xích nghe hai người trò chuyện thì xen vào hỏi:

- Bây giờ tìm gặp Công Tôn Chỉ đấy sao?

Dương Qua gật đầu đáp:

- Dạ phải.

Bà sáng rực đôi mắt nói:

- Nếu vậy ngươi cho ta cùng theo với. Biết đâu ta sẽ giúp được nhiều việc có ích cho ngươi.

Trong khi quá nóng lòng gặp Tiểu Long Nữ, Dương Qua quên nghĩ chuyện xa gần hơn thiệt. Nay nghe bà nói vậy, chàng bỗng suy nghĩ:

- Bây giờ ta đem vợ lớn của lão tới đó, thì nhất định lão không còn dám thành thân cùng Long cô nương rồi. Hay quá, tiện quá.

Nghĩ xong chàng, mừng rỡ nhưng lại ngại chuyện khác:

- Tuyệt tình đan chỉ còn có một lọ vừa cho Long cô nương uống. Còn ta, thuốc đâu để uống nữa đây? Như thế chắc mình phải chết rồi.

Trong lòng lo ngại, nét phân vân hiện rõ ràng trên nét mặt chàng. Thấy Dương Qua mới vui mừng bỗng lo ngại buồn rầu ngay Lục Ngạc cũng thấy buồn lây và nghĩ bụng:

- Phần ta cũng còn nhiều chuyện đáng lo lắm. Khi cha mẹ giáp mặt nhau thế nào cũng xảy ra nhiều chuyện động trời và vô cùng khó xử.

Nghĩ vậy nàng càng bối rối thêm. Bà Cừu Thiên Xích lớn tiếng bảo:

- Ngạc con, hãy cõng mẹ đi con. Lẹ lên!

Lục Ngạc đáp:

- Thưa mẹ, nếu mẹ muốn đi, cũng cần phải tắm rửa cho sạch sẽ kiếm quần áo thay tử tế chẳng lẽ đễ mình mẩy lõa lồ lá cây bao phủ quanh người như vậy coi sao được?

Sở dĩ Lục Ngạc đề nghị như thế là muốn diên trì cuộc gặp gỡ của cha mẹ được chừng nào hay chừng ấy, vì nàng nghĩ nếu hai người gặp nhau thế nào cũng có sự đụng độ nẩy lửa, một mất một còn.

Bà Cừu Thiên Xích cau mày gắt lớn:

- áo quần rách hết, rồi lấy đâu mà thay? Xưa nay vẫn dùng vỏ cây che thân đã sao? Chỉ trừ phi...

Nói tới đây bà bỗng suy nghĩ:

- Hai anh mình là Cừu Thiên Nhận và Cừu Thiên Lý thường xô xát nhau vì bởi Lý hay cải trang giả làm Cừu Thiên Nhận. Hôm nay ta bị cắt hết gân chân gân tay thì làm sao đủ sức chống lại Công Tôn Chỉ? chi bằng ta

cũng noi gương anh cả giả dạng hai anh để lòe lão trước đã. Xưa nay lão chưa biết nhị ca ta và yên chí là ta đã rục xương trong động đá từ năm nào rồi nên không thể nào nghi ngờ được.

Nhưng bà lại lo lắng:

- Ta cùng lão đã cùng nhau chung sống bao năm quen mặt biết lời quá nhiều từ hôm nay làm sao lừa gạt cho được?

Dương Qua thấy sắc diện Bà quá ư phân vân lo lắng bèn hỏi nhỏ:

- Có phải lão bà ngại Công Tôn Chỉ nhận diện ra được phải không? Nếu vậy cháu đã có cách hay đây rồi, xin đừng lo nữa.

Nói xong chàng thò tay vào túi rút ra chiếc mặt nạ da người trao cho bà và nói:

- Xin lão bà cứ dùng cái mặt nạ này đeo vào người thì có trời mà biết được.

Bà Thiên Xích mừng rỡ đưa tay cầm chiếc mặt nạ rồi quay sang Lục Ngạc bảo:

- Ngạc con, con hãy cõng mẹ lại gần động Thủy tiên, tìm cho mẹ một bộ quần áo thay đỡ và một cây quạt lớn với một áo rộng nhé.

Lục Ngạc ghé vai cõng mẹ rồi theo Dương Qua bước đi. Dương Qua định thần nhìn lại phương hướng để tìm lối đi. Chàng thấy bọn mình đang đứng trên một núi cao vòi vọi, tứ bề cây mọc rậm rạp xanh um. Trông về phía Thạch trang u cốc, hình như cách xa hàng mấy dặm đường trường.

Cừu Thiê n Xích cũng đễ ý quan sát phong cảnh xung quanh rồi thở dài nói:

- Đây là ngọn núi Lệ Quỷ. Tử đời này sang đời khác, người trong động khẩu truyền cùng nhau rằng trên núi này thường có quỷ hiện và sát hại tất cả những ai vô phước gặp chúng. Vì vậy nên không có một kẻ nào dám đặt chân lên đây. Không ngờ ngày hôm nay chúng ta vừa thoát khỏi miệng hầm thì lại trúng đúng ngay chỗ núi này, hay thật.

Dương Qua quát hỏi Phàn ông:

- Nhà ngươi đến đây do lối nào?

Lúc này Phàn Nhất Ông cũng vừa tỉnh dậy, mặc dù biết mình đã rơi vào tay địch nhưng ông vẫn không sờn lòng. Khi nghe Dương Qua hỏi, ông cười gằn quát lớn:

- Mi cứ giết ta đi cho rồi, đừng nói dài dòng vô ích.

Dương Qua hỏi nữa:

- Có phải Công Tôn động chúa sai mi tới đây dò xét phải không?

Phàn Nhất Ông trợn mắt đáp:

- Phải đấy. Chính sư phụ ta sợ bọn tay sai tác yêu tác quái, nên có dặn ta phải để ý coi chừng trước sau. Quả nhiên ông đoán không sai, và ta đã bắt gặp bọn bay làm ma quỷ trên đỉnh núi này.

Miệng đáp nhưng mắt ông vẫn không rời Cừu Thiên Xích bụng nghĩ:

- Không biết lão già này là ai mà Công Tôn Cô nương lại gọi bà là mẹ?

Nguyên Phàn Nhất Ông tuổi tác không thua vợ chồng Cừu Thiên Xích là bao nhiêu nhưng lão nhận Công Tôn Chỉ làm sư phụ để học võ công. Khi lão bắt đầu về sống nơi động Thủy Tiên thì Cừu Thiên Xích đã bị hại rồi nên lão không hề biết gì về bà. Trong khi bị đau, nằm tịnh dưỡng, nghe ba người nói chuyện, ông đoán biết có ý không tốt đối với sư phụ mình nên xông ra can thiệp mà thôi.

Cừu Thiên Xích nghe qua biết lão ta rất trung thành cùng Công Tôn Chỉ nên trong lòng oán ghét vô cùng. Bà bảo Dương Qua:

- Hãy giết phứt hắn đi cho rảnh nợ.

Dương Qua liếc nhìn thấy Phàn Nhất Ông vẫn lộ vẻ khí khái, cũng có lòng mến phục, tuy nhiên vì không muốn làm phiền ý bà nên chàng nhìn lão nói:

- Vâng tôi sẽ thanh toán thằng cha này cho. Xin cô nương cứ cõng Lão bà đi trước. Xong chuyện tôi sẽ chạy theo.

Lục Ngạc xưa nay vẫn mến cái đức tính ngay thẳng khảng khái của Phàn Nhất Ông, không nỡ để ông bị chết oan uổng, bèn nhìn Dương Qua khẩn khoản nói:

- Dương đại ca...

Nhưng Cừu Thiên Xích đã quát lớn, cắt lời:

- Thôi lẹ lên chứ. Tao nói gì mày cũng chẳng nghe, thì còn mẹ con gì nữa chứ?

Lục Ngạc chẳng dám nói gì thêm lẳng lặng cõng mẹ bước đi tìm lối xuống núi.

Thấy hai người đi một đoạn khá xa, Dương Qua bước lại cạnh Phàn Nhất Ông khẽ bảo:

- Phàn đại huynh. Tôi và đại huynh không thù không oán, tôi nỡ nào giết hại đại huynh cho đành. Đùi bên trái đai huynh bị điểm huyệt, tôi đã giải cho rồi. Rán chờ vào lúc cuối giờ thìn sẽ mạnh lại như cũ, anh đừng ngại gì hết nhé.

Chàng đưa tay giải huyệt xong rồi tung mình chạy theo Lục Ngạc. Phàn Nhất Ông đang lặng thinh nhắm mắt chờ chết, không ngờ Dương Qua đã không giết còn đối xử tốt với mình như vậy thì trong lòng ngỡ ngàng và cảm động quá. Ông chưa kịp nói gì thì Dương Qua đã quay mình chạy ra rồi, nên đành ngồi dậy ngơ ngác nhìn theo ba bóng người đang khuất dần trong rặng cây rừng đang tắm ánh trăng khuya.

Dương Qua chạy một chặp đã theo kịp Lục Ngạc. Chàng nặng lòng muốn gặp Tiểu Long Nữ, thấy Lục Ngạc đi chậm quá nên cất tiếng nói:

- Lão bá, xin để tôi cõng đỡ sức cho cô nương một quãng đường nhé.

Lục Ngạc đang lo ngại tánh ý của mẹ mình và Dương Qua không hợp nhau, nay bỗng nhiên nghe chàng tự nguyện xin cõng bà thì lòng mừng vô hạn, nhưng cũng vờ từ chối:

- Có đâu lại làm phiền Dương huynh nhiều như vậy?

Nàng dịnh nói như vậy để dò ý mẹ thì bà Cừu Thiên Xích gắt:

- Ta mang thai mày mười tháng, nuông chiều quý mến mày như ngọc bây giờ mới cõng ta vài dặm đường đã muốn trao lại cho người khác sao? Hiếu lắm thế con gái?

Dương Qua chẳng nói gì, bế xốc bà lên vai rồi tung người bay lẹ như tên bắn. Bà Cừu Thiên Xích xưa nay tự hào khinh công của mình là cao diệu được chân truyền từ Thiết chưởng thủy thượng phiêu, từ Trung Nguyên đến miền Tây vực chưa mấy ai dám ra mặt so tài. Thế mà từ lúc nằm trên lưng Dương Qua thấy chàng tung người lao đi vun vút như chẳng hề đặt chân trần mặt đất thì bà hết sức kinh ngạc phải tấm tắc khen thầm:

- Thằng bé này còn ít tuổi mà khinh công cao diệu như thế này kể ra cũng hiếm có. Như vậy quả xứng đáng làm rể duy nhất của ta lắm.

Chưa bao lâu, Dương Qua đã công bà xuống tận chân núi. Chàng quay đầu nhìn lại thấy Lục Ngạc còn lẽo đẽo chạy theo trên lưng chừng núi, nên phải tạm dừng chân chờ đợi. Một lát sau nàng vừa tới nơi, mệt thở hổn hển, mồ hổi mồ kê đầm mình.

Xuống khỏi núi rồi, cả ba cùng bàn cách vào trang viện. Lục Ngạc chạy lại xóm gần mượn được một bộ áo quần, một cái áo rộng và một cây quạt khá lớn đem lại cho mẹ.

Cừu Thiên Xích mặc áo, đeo mặt nạ và cầm quạt rồi để cho Lục Ngạc và Dương Qua dìu đi dần vào trang viện. Sau khi bước qua khỏi cổng. Cừu thiên Xích cảm thấy cõi lòng rào rạt vì không ngờ sau hai chục năm gian khổ ngày nay còn hân hạnh nhìn lại cảnh này và đặt chân lại trên con đường này. Càng suy nghĩ lòng bà càng ngập một niềm bi thương, mừng mừng tủi tủi.

Ngay trước cửa trang viện có treo đèn kết hoa rực rỡ, bên trong chưng diện toàn những đồ xa hoa lộng lẫy, văng vẳng thoáng qua có tiếng nhạc dìu dặt du dương. Hình như trong trang viện có việc gì vui mừng. Bọn gia đinh nhìn ra thấy có ba ngườị đi vào thì cùng đứng lên định ngăn cản, nhưng khi trông thấy có bóng Công Tôn Lục Ngạc đi kèm một bên thì không nghi ngờ gì, để cho ba người tự do đi vào. Khi bước vào phòng khách thấy đông người, ai ai cũng lộ vẻ hân hoan vui vẻ. Công Tôn Chỉ mặc áo gấm hoa, phía bên mặt là cô dâu đầu đội mũ cánh phượng, mặt che khăn choàng thêu, không trông thấy mặt, nhưng Dương Qua đã đoán biết là Tiểu Long Nữ.

Bỗng ba hồi chuông trống vang lên, sau đó ba tràng pháo thi nhau nổ, rồi tiếng người xướng lớn:

- Giờ lành đã đến, xin mời chú rể cô dâu làm lễ bái tạ trời đất...

Cừu Thiên Xích cười lên ha hà. Tiếng cười vang lên làm bao nhiêu đèn đuốc đều chập chờn muốn tắt, rồi nghiêm giọng hỏi:

- Cô dâu chú rể bái tạ thiên địa, còn người cũ thì làm chi đây?

Tuy gân tay gân chân bị cắt đứt nhưng nội công bà vẫn còn như cũ. Hơn nữa suốt mười mấy năm bị giam hãm trong hang, bà đã dốc lòng rèn luyện chuyên cần, không kém gì kẻ khác tập trong hai mươi tám năm, vì vậy hôm nay bà vận nội công nói ra âm thanh là rung chuyển cả căn nhà, khiến mọi người phải đinh tai nhức óc. Đèn đuốc trong nhà cũng vì tiếng

nói tắt gần phân nửa. Mọi ngươi thất sắc cùng quay đầu nhìn ra.

Công Tôn Chỉ vừa nghe tiếng cười đã thấy ớn lạnh xương sống rồi. Nhìn lại thấy Dương Qua và con gái mình hãy còn sống yên lành đứng cạnh một người mặt mày như quỷ, ông vừa kinh ngạc vừa lo sợ, run run cất tiếng hỏi:

- Tôn giá là ai, xin vui lòng cho biết rõ phương danh quý tánh.

Cừu Thiên Xích cười gằn rồi đáp lớn:

- Ta với ngươi vốn cũng là họ hàng quen thuộc, thế mà ngươi nỡ làm mặt lạ, như vậy sao phải?

Xung quanh động Thủy tiên bao bọc toàn núi cao vách đá trên chu vi bốn năm dặm. Tiếng nói của bà tuy không vang rền như sấm sét nhưng tiếng vọng ra cũng thấy kinh người và vách núi dội đi dội lại mãi không dứt. Kim Luân Pháp Vương, Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây đứng ngoài dự lễ, nghe nói thảy đều thầm phục nội công ngươi này quả thiên hạ vô song. Nghĩ vậy nên ai nấy cùng chăm chú nhìn theo không chớp mắt. Công Tôn Chỉ nhìn thấy người nầy mặc áo rộng, tay phe phẩy cây quạt lông thì giật mình nghĩ bụng:

- Con người này sao có vẻ giống hệt anh vợ của ta lắm vậy?

Tuy chưa biết mặt Cừu Thiên Nhận nhưng trước đây lão thường nghe vợ tả lại hình dáng và trang phục của ông. Nghĩ xong ông thầm suy tiếp:

- Hình như người này có ý không tốt đối với ta. Vậy phải đề phòng chu đáo mới được.

Nghĩ xong, ông lễ phép hỏi:

- Tôi và ngài thật chưa hề quen biết, chẳng hiểu vì sao lại bảo có họ hàng quen thuộc, thật cũng khá buồn cười.

Trong các cao thủ có mặt hôm nay chỉ có Doãn Khắc Tây là người am thạo công chuyện trong giới võ lâm hơn cả, cho nên khi thấy Cừu Thiên Xích mặc áo rộng phe phẩy quạt lông thì bỗng nghĩ ra một người rồi cất tiếng nói:

- Các hạ có phải Thiết Chưởng thủy thượng phiêu Cừu Thiên Nhận hay chăng?

Cừu Thiên Xích ngước mặt cười lớn làm vang động cả gian nhà rồi nói lớn:

- Tôi những tưởng bao nhiêu người cũ lúc này chết cả rồi nhưng không ngờ vẫn còn một vị hề... hề...

Công Tôn Chỉ chẳng sờn lòng hỏi vặn lại:

- Lẽ ngài là Cừu Thiên Nhận? Tôi chỉ ngại có kẻ dám đội lốt hùm lắm.

Cừu Thiên Xích nghe nói chột dạ nghĩ: "Thằng già này có thể đoán ra được sự giả mạo của mình chăng?". Tuy vậy, nhưng bà chỉ cười lạt không nói gì để dò xét thêm thái độ của Công Tôn Chỉ.

Dương Qua thừa lúc hai ông bà cãi nhau, và mọi người chăm chú nhìn vào Cừu Thiên Xích, vội vàng chạy lại gần Tiểu Long Nữ, tay mặt đưa thuốc, tai trái vạch tấm lụa đỏ che mặt cô dâu nói nhỏ:

- Việc chi cô nương phải che mặt như thế?

Tiểu Long Nữ nhận ra chàng, vừa mừng vừa sợ vội hỏi:

- Cậu vẫn mạnh giỏi đấy chứ?

Tiễu Long Nữ biết rõ lòng dạ Công Tôn Chỉ ác độc vô cùng. Nếu nàng cự tuyệt nhất định lão sẽ giết Dương Qua ngay. Hôm nay bỗng nhiên thấy chàng tới đây, thì đinh ninh rằng Công Tôn Chỉ đã giứ đúng lời hứa, giải độc cho Dương Qua và tha chàng tìm tới gặp mình.

Dương Qua đưa thuốc kề miệng nàng giục:

- Cô nương hãy uống liền lẹ lên đi.

Tiểu Long Nữ không hiểu chi hết, nhưng nghe chàng giục gấp cũng nuốt ngay. Thuốc vừa chạy qua khỏi cổ, nàng thấy toàn thân mát rượi, tinh thần sảng khoái vô cùng.

Lục Ngạc thấy vậy vội gọi chàng hỏi lớn:

- Dương huynh, sao anh đưa cả cho Long cô nương mà không uống viên nào hết?

Tiểu Long nữ nghe nói hiểu ngay vội hỏi gặng lại:

- Cậu chưa uống thuốc giải độc sao?

Trong cảnh rối loạn này, Công Tôn Chỉ thấy Dương Qua lại tới phá rối, muốn tìm cách can ngăn, nhưng ngặt có người khách lạ kỳ quái này nữa nên chưa dám động thủ ra sao.

Dương Qua giật chiếc mũ thêu phượng trên đầu Tiểu Long Nữ xé nhỏ ném xuống đất, kéo nàng và nói khẽ:

- Để lát nữa cô nương xem. Hôm nay lão động chủ sẽ bị điên đầu với câu chuyện sắp xảy ra.

Lòng Tiểu Long Nữ rối beng, không biết nói gì hơn, chỉ đứng tựa bên chàng thổn thức. Mã Quang Tổ thấy Dương Qua bất ngờ lại xuất hiện, bèn chạy lại lớn tiếng hỏi thăm. Doãn Khắc Tây xưa nay vốn nghe oai danh Cừu Thiên Nhận và có lòng ngưỡng mộ từ lâu. Hôm nay tình cờ được gặp, lão mừng rỡ muốn tìm cách làm quen giao hảo, nên lễ phép chắp tay vái dài một cái thưa lớn:

- Hôm nay là ngay vui mừng nhất đời của Công Tôn động chủ, xiu Cừu lão tiền bối hãy cùng chúng tôi uống cốc rượu mừng.

Cừu Thiên Xích trỏ vào Công Tôn Chỉ hỏi:

- Ông có biết hắn có liên hệ gì với tôi không?

Doãn Khắc Tây đáp:

- Quả tình tôi không được biết.

Cừu Thiên Xích nói:

- Vậy ông cứ hỏi y tự khắc biết ngay.

Công Tôn Chỉ bực mình quá hỏi lại:

- Có phải ngài là Thiết chưởng thủy thượng phiêu thật không? Miệng hỏi ông vỗ tay và hướng về phía bọn đệ tử nói:

- Chúng bay vào phòng ở bàn phía đông mang cái hộp đem ra đây.

Lục Ngạc lúc nào tinh thần cũng dao động chẳng nói năng gì hết. Nàng thẫn thờ đứng một bên rồi kéo mẹ cùng ngồi xuống ghế.

Công Tôn Chỉ nhìn Lục Ngạc và Dương Qua lạ lùng tự hỏi:

- Hai đứa này đã sa xuống hầm cá sấu, nhưng tại sao còn sóng sót về đây? Ai cứu chúng thoát chết? Cũng lạ thiệt!

Ngay lúc ấy, bọn đệ tử áo xanh mang ra một cái hộp trình lên. Công Tôn Chỉ tiếp lấy rồi mở ra, rút một phong thư lạnh lùng nói:

- Trước đây vài năm tôi có nhận thư của Cừu Thiên Nhận gởi. Nếu ngài là Cừu Thiên Nhận thiệt, thì chẳng lẽ lá thư này là giả hay sao?

Nghe nói bà Cừu Thiên Xích bỡ ngỡ và ngạc nhiên quá, nghĩ bụng:

- Lâu quá không có tin tức gì về anh ta, chẳng hiểu tại sao lại gửi thư cho lăo mọi này? Không biết trong thư nói gì đây, rắc rối nhỉ.

Suy nghĩ một khắc bà bỗng nghiêm giọng mắng lớn:

- Ngươi chớ đặt điều nói láo. Ta chưa bao giờ có gửi thư hết.

Vừa nghe giọng nói sau, Công Tôn Chỉ bỗng nhớ lại giọng nói của một người và cảm thấy rùng mình, lạnh cả xương sống. Ông lẩm bẩm:

- Không lẽ là mụ được? Ta đã cắt hết gân, bỏ vào hang kia, bây giờ có lẽ cũng đã mục xương rồi. Nhưng tại sao tiếng nói giống quá như vậy? Nếu không phải thì là ai đây?

Tuy phân vân như vậy nhưng ông không biết giải quyết ra sao, đành lấy thư ra đọc: "Anh tin cho hai em Chỉ và Xích được rõ: Từ ngày đại ca bị chết dưới tay Quách Tỉnh trên núi Thiết Chưởng, do vợ y là Hoàng Dung giúp sức thì..."

Vì tình cốt nhục bị xúc động quá mãnh liệt nên khi nghe đọc tới đây Cừu Thiên Xích không suy nghĩ gì hết, quát lớn:

- Vô lý tại sao dám bảo đại ca ta bị giết? Vô lý!

Ngay từ khi còn thơ ấu, Cừu Thiên Xích và Cừu Thiêu Lý hợp tính tình nhau và thương yêu thắm thiết, cho nên khi nghe tin Lý chết, bà đau đớn như xé ruột banh gan quát lớn câu trên. Nhưng vì thiếu bình tĩnh, đã để lộ ra tiếng đàn bà rõ rệt.

Công Tôn Chỉ vốn con người lanh lợi man trá, khi nghe tiếng nói đàn bà thì đoán ngay nhất định kẻ này không phải là Cừu Thiên Nhận". Tuy nhiên lão vẫn tiếp tục đọc hết bức thư: "Thằng anh này rất ăn năn và xấu hổ đối với hai em về hành động của hai mươi năm trước, do sự cố chấp khiến cho huynh đệ bất hòa, tan rã tình cốt nhục. Trăm điều tội lỗi cũng tại nơi anh mà ra cả. Lắm đêm trằn trọc không ngủ được, anh thiết nghĩ đối với anh Cả, anh làm không tròn nghĩa vụ đứa em, đối với em gái anh cũng không xứng là người anh nữa. Kỳ luận kiếm Hoa sơn lần thứ hai, anh may mắn được Nhất Đăng đại sư giác ngộ, bỏ hết gươm đao, quy y tam bào. Tục duyên chưa cắt đứt, hiềm vì thời gian nương mình dưới bóng từ bi chưa bao lâu, anh tự thấy mình vẫn chưa trút hết những tham vọng vô lý của trần ai. Lắm khi thả hồn theo tiếng chuông câu kệ, anh chợt nhớ lại người anh hiền và đứa em thảo, cũng chỉ có cách gửi tình thương nỗi nhớ theo gió trăng và dĩ vãng. Anh chỉ biết cầu mong cho anh cả chóng siêu thăng miền cực lạc và em gái của anh sẽ hưởng muôn điều

hạnh phúc trong cõi trần ai".

Lắng nghe đọc thư, Cừu Thiên Xích thương anh quá không cầm được giọt lệ, và khi đọc xong bức thư, bà không còn dằn tâm được kêu lớn:

- Đại ca ơi, anh chết rồi sao? Nhị ca ơi, anh có hiểu cho em của anh bị bao điều cơ cực như thế này không?

Nói xong bà gỡ chiếc mặt nạ xuống hỏi lớn:

- Công Tôn Chỉ, mi có nhận ra ta chăng?

Câu hỏi của bà làm rung động không khí như trận cuồng phong khiến bảy tám cây đèn trong phòng phải lung linh rồi tắt ngấm. Còn mấy cây tuy còn cháy nhưng không đủ ánh sáng rọi rõ trong nhà. Trong cảnh nửa tối nửa sáng, mọi người nhìn lại kẻ này là một bà lão. Ai ai cũng đều ngơ ngác lạ lùng, vì thật ra không một ai biết bà lão ấy là ai hết. Có nghi ngờ không biết đó là người hay là ma quỷ?

Bỗng trong đám người hầu, có một lão bộc nhảy xổ tới trước mặt bà la lớn:

- Trời ơi lão mẫu. Chủ mẫu ơi, người còn sống đến nay hay sao?

Cừu Thiên Xích gật đầu đáp:

- Phải, ta đây. Té ra Trương Nhị Thúc cũng còn nhận ra được ta hay sao?

Lão bộc vốn người thẳng cương trực, thấy chủ mình còn sống mừng rỡ quá mức, chắp tay bái lia lịa rồi nói:

- Ơn trời phật phù trì lão chủ vẫn còn sống thật là điều quý hóa.

Công Tôn Chỉ lớn tiếng bảo:

- Mọi người hãy tránh ra cho ta xem lại.

Ai nấy đều ngạc nhiên nhìn lại thì thấy ông ta đưa tay chỉ vào mặt Cừu Thiên Xích hét lớn:

- Nữ tặc, mi ở đâu về đây? Ngày nay mi còn mặt mũi nào về nhìn lại mặt ta nữa?

Lục Ngạc thấy cha thịnh nộ, rón rén lại gần quỳ xuống ôm chân cha năn nỉ:

- Con xin cha tha lỗi cho mẹ con.

Công Tôn Chỉ trợn mắt thét lên một tiếng vang trời:

- Khốn kiếp, hãy cút đi.

Rồi bất thình lình, lão tung ra một ngọn cước như trời giáng, bắn tung cả thân hình ngà ngọc mảnh mai của Công Tôn Lục Ngạc bay lộn lên không và bay vút vào giữa mặt Cừu Thiên Xích.

Bị cắt đứt gân cốt, tê liệt trên mười năm trời, Cừu Thiên Xích còn hơi sức đâu chống đỡ nổi, đành hứng lấy ngọn đòn ác nghiệt rồi bật ngửa ra sau đập mặt vào tường, huyết lưu mãn địa.

Thấy cảnh thương tâm diễn ra trước mắt quá ư tàn nhẫn, Dương Qua không chịu được nữa. Chàng định ra tay can thiệp. Nhưng Tiểu Long Nữ đã rút tay mình ra khỏi tay chàng, lao vút một cái như một bóng mờ đáp tới cạnh Cừu Thiên Xích, đưa ngón tay trắng muốt như ngọc điểm nhẹ trên huyệt "ngọc chẩm" sau ót bà để cầm máu lại.

Dương Qua cũng nhảy theo, xé vạt áo ra băng bó vết thương cho bà Cừu Thiên Xích.

Thấy hai người lại xoắn xít lấy nhau, cơn ghen nổi dậy đùng đùng, định quát mắng, thì Tiểu Long Nữ đã quay lại trừng mắt nhìn ông hỏi lớn:

- Công Tôn Chỉ, bà này là vợ chính của mi mà mi nỡ đang tâm tàn nhẫn với người ta như vậy sao? Mi đã có vợ tại sao còn cưới ta nữa? Nếu ngày nay ta ưng mi thì mai hậu cũng sẽ bị mi đối xử tàn ác như thế mà thôi.

Tiêu Tương Tử ngồi tận trên hàng cao nhất, nghe nói gõ nhẹ cái thìa xuống mặt bàn tán thưởng:

- Nàng nói nghe chí lý quá!

Bị bêu xấu quá, Công Tôn Chỉ tím mặt không biết đáp ra sao. Lão thối lui vài bước. Lật phắt chiếc thảm nhung trải giữa nhà rút cặp "âm dương song đao" rồi hét lớn:

- Ta nhất định liều chết cùng bọn bay phen này.

Tiểu Long Nữ cười nhạt một tiếng rồi thò tay vào chiếc áo thêu phụng của cô dâu, rút ra một thanh kiếm đen như huyền.

Toàn thể quan khách sửng sốt thấy cả chú rể và cô dâu thảy đều có dự bị sẵn khí giới ngay trong buổi lễ hợp cẩn. Quả thật là một chuyện thế gian hi hữu. âu cũng là một chuyện ngang trái của tình đời.

Dương Qua thấy vậy reo lên mừng rỡ. Chàng mừng không phải vì gặp cặp kiếm quý mà vì được thấy cô nương quyết tâm đánh với lão già ác ôn để cứu mình.

Chàng kính cẩn tiếp lấy thanh "quân tử" kiếm từ trong tay mỹ nhân trao sang, lùi lại hai bước chuẩn bị trận thế "Song kiếm liên hoàn" để đối địch. Vì đã từng nếm qua những đường kiếm tinh diệu của kiếm pháp này nên ngay sau khi vào trận, Công Tôn Chỉ đã áp dụng ngay những thế võ hết sức hiểm độc, xưa nay chưa từng thấy để áp đảo cấp tốc đối phương trong thời gian ngắn. Quả đúng theo điều lão tiên liệu, ngay trong mấy hiệp đầu lão đã dồn ép cả Dương Qua và Tiểu Long Nữ trong thế bị động, đường kiếm lúng túng không thi thố được gì hết và đã lâm vào thế hạ phong rõ rệt. Dần dần hai người phải đấu lưng vào nhau và đứng lùi vào một góc phòng.

Trong khi hàng trăm quan khách đang mải mê theo dõi trận đấu, thình lình có một tiếng rít lên như lụa xé. Tiểu Long Nữ phi thân lao vút ra trận chiến như làn điện xẹt. Chiếc áo cô dâu đang mặc đã rách toạc một đường dài và máu tươi phun dầm dề trên vai tả.

Thấy người yêu bị thương không chiến đấu được nữa, Dương Qua đau lòng như dao cắt, chàng thét lên môt tiếng thanh thoát rồi thay đổi kiếm pháp quyết tử chiến cùng Công Tôn Chỉ.

Phía đầu phòng, Lục Ngạc dần dần tỉnh dậy. Nàng lết lại kéo một chiếc ghế cho mẹ ngồi rồi xé áo băng cho Tiểu Long Nữ. Lúc ấy Dương Qua đã bỏ hẳn kiếm pháp của Toàn Chân phái, sử dụng Ngọc nữ tâm kinh quyết chiến.

Công Tôn Chỉ thấy những đường kiếm của Dương Qua hoàn toàn đổi hẳn, mới trong mấy phút mà hình như có hai ngươi khác nhau. Nhiều thế kiếm vừa tinh kỳ vừa bóng bẩy lả lướt nhưng tựu trung có một sức mạnh phi thường, ông cũng phải thầm khen bản lãnh chàng quả đáng nể. Nhưng chỉ trong vòng mươi hiệp, Dương Qua đã dần dần núng thế, mắt nổ đom đóm, mồ hôi ra như tắm, tay chân đã bắt đầu luống cuống.

Trong lúc mười phần nguy biến, bỗng nhiên Cừu Thiên Xích nhắc lớn:

- Đao không phải đao, kiếm chẳng phải kiếm!

Câu nói ấy không khác nào một lằn chớp nhoáng đang rọi sáng trong đầu óc Dương Qua đang tối đen và bối rối. Như người vừa chợt tỉnh cơn mê, chàng đã nhận thấy võ thuật của Công Tôn Chỉ là một lối võ hư hư thực thực, tráo trở vô cùng, chỉ chuyên môn làm rối trí đối phương. Ngọn đao nặng nề của ông chỉ sử dụng toàn những ngón nhẹ nhàng lả lướt, quả là những đường gươm tuyệt diệu. Nhưng trái lại thanh kiếm mỏng manh nhẹ nhàng của ông lại luôn luôn chém ngang chặt dọc, toàn là những thế hùng mạnh và cứng nặng của môn đại đao.

Nhờ nhận thức được bí quyết này mà Dương Qua đã tránh né được dễ dàng hai thế tuyệt kỹ của Công Tôn Chỉ. Lòng hân hoan mừng rỡ, Dương Qua cảm thấy tinh thần càng phấn khởi, bắt đầu mở cuộc tấn công. Trong khi ấy bỗng tiếng quát của Cừu Thiên Xích lại nổi lên the thé:

- Tấn công đùi bên tả, mau lên, tấn công ngay tức khắc.

Dương Qua như một cái máy tuân theo lệnh của tài xế, vội hoành thân qua một bên tấn công ngay vào đùi bên trái. Tức thì Công Tôn Chỉ hạ ngang thanh đao xuống chận đòn. Trong khi ấy vai bên trái của ông ló ra vô cùng trống trải. Không chờ Cừu Thiên Xích mách nữa, Dương Qua lập tức quay ngược thanh quân tử kiếm đâm thốc từ dưới lên trên, đâm ngay bả vai, nhưng Công Tôn Chỉ đã lanh chân trốn thoát được. Tuy vậy nhưng mũi kiếm đã rạch thẳng một đường ngay trên chiếc áo rộng xanh của chàng rể. Công Tôn Chỉ nổi nóng, chửi đổng mấy câu rồi trừng mắt nhìn thẳng vào mặt Cừu Thiên Xích hình như muốn ăn gan uống máu bà mới đã. Lão hậm hực nghiến răng rít lớn:

- Con mọi già, mi hãy xem ta phen nầy. Ta không thể nào để mi sống sót nữa.

Nói xong hắn vũ lộng hai môn vũ khí tấn công Dương Qua tới tấp. Dương Qua vừa chống đỡ thêm một hiệp thì Cừu Thiên Xích lại quát to:

- Đá móc vào hậu tâm lập tức. Đá mau.

Trong khi đấu cùng một tay cao thủ tài nghệ cao hơn mình mà bảo đá vào hậu tâm thì quả là một điều mạo hiểm quá đáng. Nhưng vì Dương Qua quá tin tưởng vào bà Cừu Thiên Xích, nên khi vừa nghe xong đã áp dụng ngay thuật khinh công lòn ra sau, đá móc vào ngay hậu tâm Công Tôn Chỉ nghe vút một cái. Công Tôn Chỉ hoảng hốt vội lật lưỡi kim đao đâm ngược ra sau để bảo vệ hậu tâm, nhưng trái lại để trống phía trước mặt. Đã thất bại chuyến trước, lần nầy Dương Qua rút kinh nghiệm thận trọng hơn quay vòng mũi gươm lại thích mạnh vào ngay chỗ hở. Lần này Công Tôn Chỉ hết phương tránh né, đành nhận lấy một đòn vô cùng hiểm ác. Lưỡi gươm của Dương Qua đâm thủng qua hai lần áo, ghìm luôn vào bả vai, máu tuôn xối xả. Toàn thể cử tọa đều ngạc nhiên, cùng "ồ" lên một tiếng rất to, rồi đều đứng dậy một lúc, hình như quá ngạc nhiên về cái thảm hại của Công Tôn Chỉ.

Công Tôn Chỉ mặt mày biến sắc, mồ hôi xuất dầm dề, phải bước lùi ra sau trên năm bước, giữ vững tinh thần rồi mới tiếp đấu lại được. Lúc bấy giờ cả đôi bên đã thấm mệt, tiến thoái qua lại không còn lanh lẹ như trước nữa, cuộc tranh tài cũng gần tới giờ kết liễu. Hễ bên nào sơ hở trên đường tơ kẽ tóc sẽ nếm mùi thất bại ngay.

Nàng Lục Ngạc lo sợ quá ghé vào tai mẹ nói nhỏ:

- Mẹ ơi, nên bảo họ dừng tay lại cho rồi.

Cừu Thiên Xích hử một tiếng rồi bảo lớn:

- Hãy rót cho ta hai cốc nước, mau lên.

Lục Ngạc tuy chưa biết mục đích để làm gì nhưng trong lúc tinh thần căng thẳng vội vàng tuân lệnh ngay. Nàng chạy ra ngoài rót hai cốc nước đầy mang vào.

Cừu Thiên Xích lặng lẽ tháo chiếc băng quấn đầu, vết thương lại ứa máu tuôn ra từng giọt.

Lục Ngạc thất sắc vội gọi lớn:

- Mẹ, tại sao thế?

Nhưng Cừu Thiên Xích trợn mắt bảo:

- Hãy nín im, đừng nói gì hết.

Mặc Lục Ngạc há hốc mồm nhìn theo, mặt đầy kinh ngạc, bà lẳng lặng vắt chiếc băng máu nhỏ mấy giọt vào hai cốc nước rồi gọi lớn:

- Thôi cả hai đều có vẻ mỏi mệt lắm rồi. Xin hãy dừng tay tạm nghỉ và uống chén trà giải lao.

Nói xong bà nhìn Công Tôn Lục Ngạc bảo như ra lệnh:

- Hãy bưng trao cho hai người mỗi người một cốc trà để giải khát, mau lên.

Sau trận kịch chiến của hai đấu thủ đã mệt mỏi thở dốc, mồ hôi ướt đẫm mình, miệng khô cổ rát, khát nước quá sức. Khi nghe nói được giải khát ai ai cũng lộ vẻ vui mừng và chờ đợi.

Công Tôn Lục Ngạc bưng hai cốc trà vào giữa sảnh đường cung kính dâng lên. Công Tôn Chỉ ái ngại nhìn hai cốc trà, bụng nghĩ thầm:

- Phải xem chừng, có pha thuốc độc vào đấy rồi cũng nên.

Suy nghĩ xong, lão đưa mũi gươm khoát mấy cái rồi trỏ vào Dương Qua nói:

- Hãy mang lại cho hắn uống trước.

Dương Qua thản nhiên tiếp lấy cốc trà sắp đưa lên miệng. Công Tôn Chỉ bỗng quát lớn:

- Hãy khoan. Để lại cốc này cho ta.

Nói vừa dứt lời, y đưa tay cướp lấy cốc trà trên tay Dương Qua, sẽ liếc qua nhìn mặt Lục Ngạc thấy vẫn điềm nhiên tươi tỉnh không lộ nét nào đáng nghi ngại thì lão bưng cốc trà uống luôn một hơi cạn ráo rồi ném cái cốc không lại giữa sảnh đường thét lớn:

- Thôi, hãy đấu lại lập tức khỏi cần phải nghỉ ngơi nữa.

Nói xong tay vung binh khí, hùng hổ tấn công ngay. Nhưng Cừu Thiên Xích đã cười một tràng dài rùng rợn và thét lớn:

- Này Dương Qua cháu, phép vận công bế huyệt của lão này ta đã phá mất rồi, vậy cháu cứ tấn công vào các yếu huyệt hắn cho rồi đời.

Nghe câu nói ấy, Công Tôn Chỉ có cảm giác như tiếng sét đánh lưng trời, rồi một mùi máu tanh bỗng xông lên trong miệng, đầu lưỡi nghe tê tái, cổ họng muốn lợm mửa. Lão kinh hoàng muốn đổ mồ hôi hột, vì theo phép bế huyệt của lão thì tuyệt đối kỵ máu tươi, nếu lỡ nếm một giọt máu nhất định bao nhiêu công phu thảy tan theo mây khói hết. Cũng vì vậy mà xưa nay lão ra nghiêm lệnh cho toàn thể những người trong động Thủy Tiên phải ăn chay trường tất cả. Mặc dù đã phòng bị như vậy, nhưng không ngờ hôm nay chỉ sơ hở một chốc mà công phu khổ luyện trong mấy chục năm trường đã trôi theo dòng nước hết. Nhưng cơn giận vừa thoáng qua, xem thêm những cảm giác cả lo lắng và mến tiếc, tiếc bao công phu của mình cũng như tiếc vì kẻ hỏi mình lại là Cừu Thiên Xích. Lửa giận bốc lên ngùn ngụt, Công Tôn Chỉ liếc mắt thấy Cừu Thiên Xích đang nằm ngửa trên một cái ghế bành, tay bưng một đĩa lệ chi nhai ngấu nghiến có vẻ ngon lành lắm.

Bà thản nhiên nói:

- Ta đã truyền cho mi phép "vận công bế huyện" này, thì ngày nay chính ta phá hủy công phu ấy của mi, kể ra cũng không có gì là lạ và đáng tức cả.

Công Tôn Chỉ tức quá lịm người, đôi mắt đỏ ngầu và long lên sòng sọc nhìn thẳng vào Cừu Thiên Xích như muốn nhảy xổ lại ăn tươi nuốt sống bà ta mới hả dạ.

Lão hét lên một tiếng thật lớn, phi thân lao vút về phía ấy, quyết sống chết một lần cùng Cừu Thiên Xích.

Lục Ngạc hoảng hốt, vội vàng nhảy xổ ra chận giữa hai người để tìm cách can gián. Nhưng chân nàng chưa chạm đất đã nghe tiếng ám khí bay vút xé không khí qua cạnh tai, và tiếp theo đó là tiếng thét hãi hùng của Công Tôn Chỉ. Nàng định nhỡn nhìn lại thấy cha mình tay chân xuội lơ, buông rơi hai món vũ khí đánh choang xuống đất rồi bụm mặt chạy dài ra cửa trước. âm thanh thét dội qua các vách núi trong động Thủy Tiên chưa dứt, thì bóng của Công Tôn Chỉ đã khuất dạng sau bức màn đêm âm u của rừng thẳm.

Thấy Công Tôn Chỉ chạy đi rồi, Dương Qua bỗng sực nhớ lại một chuyện. Chàng thò tay vào túi lấy ra một viên thuốc, bảo nhỏ Tiểu Long Nữ:

- Cô nương hãy há miệng ra.

Lời nói của chàng có một ma lực rất mạnh khiến cho mỹ nhân riu ríu nghe theo. Nàng mỉm cười, từ từ hé hai làn môi thắm như hoa hồng, Dương Qua khẽ đặt viên thuốc giữa hai hàm răng trắng trong như ngọc và dịu dàng bảo:

- Nuốt đi!

Tiểu Long Nữ cũng ngoan ngoãn nghe theo và nuốt liền. Viên thuốc vừa qua cổ họng, bỗng có một mùi thơm nhè nhẹ như xạ hương xông lên tận mũi, và trong châu thân có một cảm giác mới mẻ chạy khắp nơi, khí huyết luân chuyển mạnh, và cân não trở lên khoan khoái sáng suốt vô cùng.Tiểu Long Nữ vừa mừng vừa ngạc nhiên đắm đuối nhìn chàng hỏi nhỏ:

- Thuốc gì lạ vậy?

Dương Qua đáp:

- Tuyệt tình đan đấy.

Chàng vừa nói dứt lời bỗng Lục Ngạc hoảng hốt hỏi lại:

- Trời, anh đưa hết cho nàng, chứ không chịu uống, thì làm sao giải độc cho anh được hở Dương huynh?

Tiểu Long Nữ nghe qua bao nhiêu đó đã hiểu ngay là Dương Qua đành cam tâm hy sinh phần mình để dành viên thuốc duy nhất giải độc Tình hoa cho mình. Nàng cảm động quá, không biết nói gì hơn, chỉ nhìn chàng sửng sốt rồi hai tay siết chặt lấy tay chàng, trong lòng vừa sung sướng vừa đau khổ. Nàng sung sướng vì thấy người mình yêu đã hy sinh tuyệt đối, không kể mạng sống để cứu mệnh. Nàng buồn là vì hiện nay không còn một phương thuốc nào khả dĩ trục hết nọc độc và một ngày gần đây chàng sẽ thảm tử bỏ cõi đời.

Hai người cứ lẳng lặng bước ra, tay trong tay, đầu óc bâng khuâng không định hướng. Nhưng khi Dương Qua vừa bước chân ra khỏi ngạch cửa, bà Cừu Thiên Xích đã quát lớn:

- Dương Qua, cháu đi đâu vậy?

Dương Qua từ từ quay lại, chắp tay xá bà một xá thật dài, miệng lễ phép thưa:

- Thưa lão bà và cô nương, xin cho phép cháu được đi khỏi chốn này.

Bà Cừu Thiên Xích quát lớn:

- ủa, ta đã hứa gả con gái ta cho mi rồi, sao mi chưa gọi ta là nhạc mẫu mà giờ nầy lại còn định bỏ đi đâu nữa?

Dương Qua cười thầm và nghĩ bụng:

- Bà hứa gả con cho ta, nhưng ta đã nhận lời đâu mà vội chất vấn như vậy. Bà nầy ngang thật.

Nghĩ xong, tay trái chàng cầm tay Tiểu Long Nữ, tay phải để nơi chuôi thanh "Quân tử kiếm" nghiêng mình thưa rằng:

- Thưa lão bà, cháu luôn luôn ghi nhận lòng hảo tâm của lão bà đối với cháu. Nhưng tiếc rằng tim cháu đã trót gởi cho cô nương Tiểu Long Nữ từ lâu, kính xin lão bà và cô nương thứ lỗi cho.

Lục Ngạc lòng đau như kim châm, nhưng nàng cố gắng thưa với mẹ:

- Mẹ ơi, Dương huynh và Long cô nương đã hứa hôn cùng nhau từ trước rồi, xin mẹ đừng bận tâm nữa. Ngày mai mẹ con mình sẽ lên đường đi tìm cậu của con nhé. Mẹ tính sao?

Vừa nghe con gái nhắc tới mấy chữ "đi tìm cậu con" bà Cừu Thiên Xích thấy cõi lòng quặn thắt vì tình cốt nhục phân ly. Cứ theo trong thư thì Cừu Thiên Lý đã bị vợ chồng Quách Tỉnh sát hại rồi. Bà đối với anh cả có nhiều cảm tình tha thiết hơn anh hai. Nên đối với Quách Tỉnh bà đã thấy có một mối thù không đội trời chung cần phải thanh toán. Bỗng bà nghĩ ra một kế nên cười gằn nói:

- Dương Qua, cháu có biết cháu sắp từ giã cõi đời chăng?

Nghe nói, Dương Qua sực nhớ lại mình đã bị chất độc của tình hoa xâm nhập vào cơ thể quá nhiều, chỉ trong vòng ba mươi sáu hôm phải chết nếu không được uống Tuyệt tình đan. Chàng chán nản buồn rầu, không biết nói sao chỉ thở dài và siết chặt bàn tay mềm mại của Tiểu Long Nữ hình như sợ nàng sẽ biến mất đời đời. Nhưng bà Cừu Thiên Xích đã thò tay vào túi lấy ra một viên thuốc vuông màu đen lấp lánh đưa lên cao. Dương Qua vừa trông thấy mừng quá rú lên:

- ủa, lão bà cũng còn tuyệt tình đan sao?

Cừu Thiên Xích cười hà hà đáp:

- Còn chứ, nhưng chỉ còn một viên duy nhất này mà thôi, Dương Qua, ta nhận cho cháu viên này để cứu mạng cháu nhưng trái lại cháu phải giúp tạ thực hiện được một điều...

Không khác gì người chết đuối vớ phải bè chuối, Dương Qua vội hỏi:

- Lão bà cần việc gì, xin cứ nói ra xem?

Cừu Thiên Xích nhìn thằng vào mặt chàng nói:

- Ta cần thủ cấp hai người.

Dương Qua bàng hoàng nhìn Tiểu Long Nữ không hiểu gì hết. Trong khi ấy bà Cừu Thiên Xích nói tiếp:

- Ta không hiểu nhà ngươi có liên hệ gì tới hai người ấy hay không, nhưng ta nhất định phải thanh toán tánh mạng họ để trả thù, vì họ đã nhẫn tâm giết hại anh cả của ta.

Để khích động sự thèm muốn của Dương Qua, bà mân mê viên thuốc dồi lên dồi xuống trong bàn tay rồi nói tiếp:

- Cháu có biết hai người ấy không? Họ chính là Quách Tỉnh và vợ là Hoàng Dung đó.

Dương Qua mừng rỡ nói lớn:

- ồ thế thì hay lắm. Việc này sẽ nhất cử lưỡng tiện, vì đối với họ, cháu cũng có một mối thù lớn. Họ đã sát hại cả cha và mẹ cháu.

Cừu Thiên Xích tươi hẳn nét mặt, đưa ngay viên thuốc cho Dương Qua. Chàng tiếp lấy xem lại thì thấy chỉ có nửa viên thôi. Một ý nghĩ thoáng qua trong óc, chàng mỉm cười hỏi bà với một giọng lạnh lùng chua chát:

- Phải có đủ thủ cấp của hai người mới đổi được nửa viên thuốn kia phải không?

Bà Cừu Thiên Xích cười lớn gật đầu nói:

- Đúng lắm, hay lắm cháu quả thông minh tuyệt vời, đoán trúng ý muốn của ta.

Dương Qua ngẫm nghĩ:

- Việc tới đâu hay tới đó, bây giờ ta cứ uống nửa viên này, rồi hạ hồi phân giải.

Nghĩ xong, chàng bỏ luôn nửa viên thuốc vào miệng nuốt luôn.

Bà Cừu Thiêu Xích nhìn chàng thong thả nói từng tiếng một, với một giọng nói thật trịnh trọng:

- Đây là viên thuốc giải độc tình hoa duy nhất còn sót lại trên thế gian này. Cháu đã uống được một nửa rồi. Còn một nửa ta cất kỹ nơi đây. Sau mười tám hôm, cháu cố gắng mang hai cái thủ cấp kia lại đây để đổi, nếu không có thì không thể nào nhận được thuốc đâu nhé. Bây giờ chúng ta tạm biệt nhau, mười tám hôm nữa sẽ gặp lại nhé.

Nói vừa dứt lời bà ngồi dựa người trên chiếc ghế bành hai mắt nhắm nghiền như nhập định.

Tiểu Long Nữ lạ lùng quá lẩm bẩm:

- Tại sao lại chỉ có mười tám hôm thôi?

Cừu Thiên Xích vẫn nhắm mắt nhưng miệng đáp:

- Theo lẽ thì phải ba mươi sáu ngày nọc độc mới phát. Nhưng vì Dương Qua đã uống hết nửa viên, cho nên bao nhiêu chất độc đều tụ hết về đan điền, thời gian cũng được rút ngắn lại phân nửa. Sau mười tám ngày phải

uống tiếp thêm nửa viên khác để trừ nọc, nếu không thì nọc độc sẽ phát lên công phạt, chừng ấy thì...

Nói tới đây bà ngừng bặt rồi đưa tay ra dấu tống khách. Cả hai thấy vậy biết rằng dù có nói nhiều cũng vô ích nên lặng lẽ đi ra luôn. Dương Qua tóm lại con ngưa ốm của mình, rồi cả hai cùng lên yên theo đường lớn ra khỏi động Thủy Tiên.

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 53 : Quyết Lấy Đầu Quách Tỉnh

Khi hai người cưỡi ngựa ra khỏi thung lũng thì trời vừa hửng sáng, ánh hồng đã le lói phương đông, chim rừng ríu rít bay từng đoàn và trên đường cỏ hãy còn đẫm sương mai ướt át. Quay đầu nhìn lại phía sau thấy quang cảnh lòng chảo của động Thủy Tiên tưng bừng đón nắng mai rực rỡ, Dương Qua bồi hồi nhớ lại nhứng giờ phút sống chết và nguy hiểm đã cùng người ngọc sống nơi đây suốt ba ngày qua, trong lòng thấy bàng hoàng cảm động.

Tiểu Long Nữ cảm thấy trong lòng ấm áp rộn rực, nàng áp người vào ngực Dương Qua cho hơi nóng chan hòa, không nói tiếng gì hết. Dương Qua, một tay cầm cương, một tay ôm ghì lấy tấm thân dịu dàng mảnh khảnh của người yêu, run run vì hồi hộp và sung sướng. Nhìn xuống, thấy nàng đang nhoẻn miệng cười tươi như đóa hoa hồng hé nở dưới nắng ban mai chàng khẽ gọi:

- Cô... Cô... nương!

Tiểu Long Nữ âu yếm nói:

- Thôi, từ nay khỏi gọi bằng cô nương nữa.

Dương Qua cảm thấy tâm hồn lâng lâng như muốn bay bổng lên mấy từng mây. Chàng lim dim đôi mắt như để tận hưởng giây phút say sưa bên cạnh người ngọc và thả hồn trôi về dĩ vãng, chàng lẩm bẩm:

- Trong đời tôi, những ngày rực rỡ nhất là thời gian cùng chung sống trong Cổ Mộ. Đó là những ngày đầm ấm nhất và nên thơ nhất, và cũng là những ngày đáng ghi nhớ nhất đã nuôi dưỡng và làm trưởng thành cả mối tình mãnh liệt và cao thượng nhất ngày nay. Hồi ấy tôi gọi bằng cô nương, thì về sau và mãi cho đến khi trút hơi thở cuối cùng tôi cũng thích được xưng hô bằng cô nương mà thôi. Cô nương... cô nương...

Luồng gió nhẹ thoảng qua, đem lại một mùi hương thơm của cây nội hoa ngàn, hòa lẫn với mùi thơm da thịt từ trong mình Tiều Long Nữ phát ra khiến cho chàng càng say sưa ngây ngất.

Đang đi nước kiệu, con ngựa bỗng vấp phải một viên đá nhủi tới gần té Dương Qua vội vàng ghìm cương đứng lại và nhìn xuống thấy đôi mắt nàng long lanh đẫm lệ. Chàng giật mình vội hỏi:

- ủa, tại sao cô nương lại khóc?

Nghe hỏi, Tiểu Long Nữ bỗng òa lên khóc lớn. Nàng khóc nức nở không nói được. Mãi một hồi lâu nàng rúc đầu vào vai chàng nói nhỏ:

- Chúng ta chỉ gần nhau được mười tám hôm nữa mà thôi.

Bao nhiêu câu đó đã diễn tả hết lòng nàng. Dương Qua chợt hiểu, cảm động, đưa tay đỡ nhẹ chiếc cằm thon thon, nhìn thẳng vào khuôn mặt sáng rực rỡ như ngọc và đôi mắt ướt, lóng lánh đen huyền như đôi mắt bồ câu, cương quyết nói:

- Dù thiên sơn, vạn hải, khổ nhọc tới đâu, tôi cũng quyết tâm lấy cho được hai chiếc thủ cấp của Quách Tỉnh và Hoàng Dung để đánh đổi chuỗi ngày hạnh phúc đời đời của hai ta. Cô nương đừng ngại và lo âu gì hết.

Nói xong chàng âu yếm đặt trên làn môi đỏ mọng một cái hôn đắm đuối.

Trong lúc cả hai đang chìm đắm trong những cảm giác mê ly nhất đời, bỗng đàng xa có tiếng cười ha hả và một giọng nói nổi lên rang rảng:

- Giữa ba quân thiên hạ mà các người cũng cứ tự do, không nể nang ai hết sao?

Dương Qua mắc cỡ đỏ bừng hai má, quay đầu nhìn lại thì không ai lạ, trước mặt đủ cả đoàn người của Kim Luân Pháp Vương, Doãn Khắc Tây và Tiêu Tương Tử. Lúc bấy giờ hai người mới chợt hiểu, bọn này cũng rời thung lũng Thủy Tiên bám sát theo mình từ lâu mà cả hai vô tình đâu có để ý? Vừa thẹn vừa bực trí, chàng muốn lên tiếng mắng lại, bỗng đâu đàng xa có tiếng vó câu dồn dập, hình như có một đoàn người ngựa rất đông đang tiến lại gần. Từ trong eo núi xông ra một đoàn nhân mã, đi đầu là một vị đại tướng oai phong lẫm liệt tướng mạo phi phàm, khôi giáp rực rỡ, trong tay cầm một cánh cung sắt thật lớn, rõ ràng là đương kim Thái tử Mông Cổ Hốt Tất Liệt.

Thấy Thái Tử Hốt Tất Liệt bất ngờ xuất hiện, cả bọn vội vàng chạy lại gần, xuống ngựa phủ phục thi lễ.

Hốt Tất Liệt cười ha hả nói lớn:

- Quý vị đi đâu mà suốt ba hôm không về? Ta nóng ruột quá chờ không được, phải đi tìm xem sao, không ngờ may lại gặp đây. Hiện nay chiến cuộc tại thành Tương Dương quá ư khẩn thiết, tôi ngại không gặp lại các ngài cho nên trước khi đi có viết thư đề lại căn dặn, bây giờ gặp nhau càng hay.

Nói xong nhìn qua phía Tiểu Long nữ y nghĩ bụng: "Trên đời sao có mỹ nhân xinh đẹp quá như thế này, cả tam cung lục viện chưa chắc đã có người bì nổi".

Thấy nàng cùng Dương Qua nắm tay ra vẻ trìu mến thân mật lắm, Hốt Tất Liệt nhìn chàng hỏi:

- Nàng là ai vậy?

Dương Qua đáp:

- Đây là sư phụ dạy võ nghệ cho tôi, và cũng là hôn thê của tôi nữa đấy.

Hốt Tất Liệt cười nói:

- Hai người quả thật xứng đôi vừa lứa. Trên đời khó tìm được cặp trai gái nào xứng đôi như thế này.

Kim Luân bèn hỏi qua chuyện lớn:

- Bẩm Thái tử, quân đội ta tấn công thành Tương Dương có thu được kết quả nào hay không?

Hốt Tất Liệt nhăn mặt và rầu rầu đáp:

- Viên tướng thủ thành Tương Dương là Lữ Văn Hoán, tài nghệ đâu đáng ta lưu ý. Nhưng người đáng ngán nhất là Quách Tỉnh, và cũng chỉ có một mình Quách Tỉnh là người đáng sợ nhất cho chúng ta mà thôi.

Nghe nói tới tên Quách Tỉnh, Dương Qua cảm thấy bồi hồi trong lòng, tim đập đồm độp vội hỏi:

- Hiện nay Quách Tỉnh cũng có mặt tại thành Tương Dương hay sao? Hốt Tất Liệt điềm tĩnh trả lời:

- Xưa kia Quách Tỉnh là bạn chí thân của phụ vương ta, đã từng lập những chiến công rực rỡ trong quân đoàn bách thắng của đại quân Mông Cổ. Khi phụ vương ta băng hà có trối lại rằng: "tại miền Nam hiện nay vua tôi nhà Tống không có ai đáng kể, vì vua thì ham mê tửu sắc, thì gian nịnh, binh tướng ươn hèn. Nhưng nếu gặp Quách Tỉnh thì cần phải đề phòng cho lắm. Ngày nay, gặp được Quách Tỉnh rồi ta mới biết những lời di thác của phụ vương là chí lý. Suốt mấy tháng trời nay quân ta công phá thành Tương Dương biết mấy trăm lần, nhưng có Quách Tỉnh thủ thành nên cũng đành bó tay không làm chi được".

Dương Qua vùng đứng phắt dậy thưa rằng:

- Quách Tỉnh đối với tôi có mối đại thù giết cha, vì vậy nên tuy tôi bất tài cũng tình nguyện xin đến thành Tương Dương tìm cách lấy đầu hắn.

Hốt Tất Liệt mừng rỡ nói:

- Hay lắm, lâu nay ta chỉ trông mong có chừng ấy thôi. Nhưng Quách Tỉnh là một người thao lược và võ công song toàn một mình ngươi không làm chi xuể, việc cần phải tập trung nhiều lực lượng phù trợ nữa mới mong thành công được. Khi nào công việc xong ai ai tham gia cũng đều có công lớn cả. Nhưng người nào chính tay giết được Quách Tỉnh thì ta sẽ tâu cùng Hoàng thượng phong cho chức Mông Cổ đệ nhất dũng sĩ.

Đối với bọn Doãn Khắc Tây, Tiểu Tương Tử thì chữ Công Hầu Khanh nào có nghĩa lý gì đâu. Nhưng đối với họ, chức vị "Mông cổ đệ nhất dũng sĩ" mới là điều ước vọng cao quý nhất. Khi nghe Hốt Tất Liệt công bố điều kiện này thì ai nấy đều thấy phấn khởi và hớn hở vô cùng.

Nhưng Tiểu Long Nữ lại nghĩ khác. Nàng liếc mắt nhìn Dương Qua rồi nghĩ bụng: "Công Hầu Khanh Tướng mà chi, đệ nhất dũng sĩ mà làm gì? Ta chỉ cần được một mình Dương Qua, để cùng nhau chung sống mãn đời trong Cổ Mộ là hạnh phúc lắm rồi".

Hàng chục vệ sĩ đem chiến mã lại cho bọn Dương Qua, Kim Luân, Tiêu Tương Tử... lên đường. Toàn bọn nối gót Hốt Tất Liệt buông cương nhằm Tương Dương thành trực chỉ.

Đi suốt ba ngày đêm, bọn nguời đã đi gần tới địa phận thành Tương Dương. Nghe tin Hoàng Thái Tử đích thân chỉ huy cuộc tấn công thành này, tất cả các vị quan văn võ có mặt tại đây thẩy đều tập trung cùng nhau ra cách thành ba chục dặm nghênh đón. Khi Hốt Tất Liệt tới nơi, hơn hai chục vị quan Mông Cổ cùng xuống ngựa phủ phục bên đường. Hốt Tất Liệt gò cương đứng lại nhìn mọi người gằn giọng nói:

- Tại sao đã mấy tháng trời bao vây thành Tương Dương mà không hạ được? Các ngươi muốn đem chôn vùi thanh danh của Đại Mông Cổ nơi chốn này chăng?

Mọi người thất kinh cùng đập đầu xuống đất và đồng thanh thưa lớn:

- Muôn tâu Thái Tử, tội của chúng thần thật đáng muôn thác, xin Thái Tử rộng lòng khoan dung.

Hốt Tất Liệt không nói thêm lời nào, vung roi quất mạnh vào mông ngựa giục mau tới trước. Toàn thể các quan đều gục đầu nhìn xuống đất nín im thin thít chẳng dám nói một lời. Dương Qua thấy Hốt Tất Liệt đối với bọn Kim Luân Pháp Vương, Tiêu Tương Tử thật khoan hòa nhân ái, trái lại đối với các quan binh Mông Cồ thì hết sức nghiêm nghị đanh thép, trong lòng hết sức khâm phục, nghĩ rằng: "Người Mông Cồ quân hùng tướng mạnh, kỷ luật sắc bén minh minh, họ đã nhờ vào đó xua quân nam tiến thôn tính đất nước ta. Vua quan nhà Tống ươn hèn nhu nhược như thế thì làm sao chống cự cho lại. Giang san gấm vóc của Tống trào không sớm thì muộn cũng vào tay quân địch mà thôi".

Sáng tinh sương ngày sau, quân Mông Cổ đã cử toàn lực tấn công. Tiếng tù và rúc từng hồi một, tên bắn như mưa rào, ngựa hí vang rân, quân Mông Cổ thừa thế xông tới bên chân thành vác thang leo lên như kiến cỏ. Thình lình một tiếng pháo nổ vang, mõ đánh liên miên vang dội, từ trên đầu tường một đoàn quân cung nỏ thủ, dùng toàn cung cứng tên bén, cùng buông ra một lượt, chận đứng ngay cuộc tấn công ào ạt của địch quân. Tiếp theo đó từ trong thành xông ra một đoàn quân dùng toàn đoản đao đánh xáp lá cà với quân Mông Cổ. Trong đoàn quân ấy ai cũng thấy một vị tướng quân tạc độ trung niên, mình mặc áo dài màu nâu, trong tay không có vũ khí, chỉ múa hai quyền xông xáo, tung hoành trong rừng người, đi tới đâu quan tướng Mông Cổ nhào như rạ. Hốt Tất Liệt đang đứng lược trận phía xa xa trông thấy người ấy quá ư dũng mãnh thì bất giác thở dài than nhỏ:

- Thật bao nhiêu dũng sĩ trên thế gian nầy, chưa một người nào qua mặt được vị anh hùng này. Chẳng hay vị ấy là ai?

Dương Qua đứng cạnh nghe hỏi vội nói:

- Vương gia không biết nguời ấy là ai sao?

Hốt Tất Liệt sửng sốt một chặp và chợt nghĩ lại hỏi gấp:

- Người ấy có phải là... Quách Tỉnh chăng?

Dương Qua đáp:

- Thưa chính là Quách Tỉnh đấy.

Nói tới đây thì mấy trăm quân Mông Cổ đang leo lên thang đã bị đánh bật trở xuống hết, chỉ còn vẻn vẹn có ba viên Bách phu trưởng tay trái cầm khiên, tay phải cầm giáo dài dựa lưng vào vách thành tử chiến cùng binh Tống.

Viên vạn phu trưởng bèn rúc lên mấy hồi (mất 4 trang)

Tiểu nhân này tuy bất tài, nhưng xin phép Vương gia cho tới thành Tương Dương lấy được thủ cấp Quách Tỉnh mang về cho Vương gia.

Hốt Tất Liệt ngẫm nghĩ một chặp rồi nhìn Dương Qua ân cần nói:

- Quách Tỉnh là người dũng lược song toàn, người có đi, xin khá cẩn thận cho lắm mới được, chớ có xem thường mà nguy hiểm lắm đấy.

Dương Qua lãnh ý lui ra.

Chiều hôm ấy Dương Qua và Tiểu long Nữ giả dạng thường dân đến trước thành Tương Dương gọi lính trong thành nói lớn:

- Tôi là họ Dương tên Qua, có việc muốn đến xin ra mắt Quách Tỉnh đại hiệp, nhờ các ông vào trình lại.

Quân vào thông báo giây lâu mới thấy trên mặt thành hiện ra hai người thanh niên mặt mày tuấn tú, nhìn lại không ai khác hơn là hai anh em Võ tu Văn và Võ đôn Nho. Vừa trông thấy Dương Qua, Võ tu Văn mừng rỡ gọi lớn:

- Quả thật là anh Dương Qua đây rồi.

Đôn Nho cũng reo lớn:

- Kính mời chư vị vào thành.

Nói xong truyền lính bỏ cần treo, rước hai người vào thành.

Dương Qua và Tiểu long Nữ bước theo hai anh em họ Võ đến trước một ngôi dinh thự khá đồ sộ. Quách Tỉnh vừa trông thấy, mừng rỡ từ trong chạy ra niềm nở đón tiếp và bái Tiểu long Nữ một cái. Đoạn ông nắm tay Dương Qua thân mật nói:

- Hôm nay quân Mông Cổ công thành rất gắt, thời nay con và Cô nương tới đây thật là phải lúc vô cùng. Thật là một hồng phúc cho nước nhà mà cũng là một cái hên cho bá tánh thành này lắm lắm. Hai người có thể giúp cho chúng tôi một lực lượng mới.

Dương Qua và Tiểu long Nữ muốn vào trong xin ra mắt Hoàng Dung. Quách Tỉnh tươi cười gật đầu nhưng sau cản lại nói:

- Hiện nay bác gái của con đã tới gần ngày sanh đẻ nên không được mạnh lắm, để vài hôm sau sẽ gặp nhau không muộn gì.

Nói rồi truyền lệnh dọn tiệc đãi dằng cho hai người. Dương Qua và Tiểu long Nữ ăn tiệc xong đã quá canh ba, Quách Tỉnh bảo Quách Phù đưa Tiểu long Nữ vào phòng trong an nghỉ, còn mình thì nắm tay Dương Qua đưa vào nằm chung một giường. Dắt Dương Qua về giường, Quách Tỉnh luôn mồm ca ngợi Dương Qua đã can đảm xả thân đánh Kim Luân Pháp Vương và đã biết dùng cơ mưu cứu được Hoàng Dung ra khỏi trận loạn thạch. Rồi ông bắt chuyện hỏi thăm sức khoẻ của chàng và Tiểu long nữ trong những ngày gần đây ra sao?

Dương Qua ranh mãnh không cho biết những cuộc gặp gỡ Trình Anh, Lục vô Song, bà già điên và Hoàng dược Sư mà chỉ trả lời có một câu vắn tắt như sau:

- Sau khi bị thương cháu lẩn trốn, nằm dưỡng bệnh trong một hốc núi, bất ngờ gặp cô nương của cháu đây rồi hai người cùng đưa nhau tới để gặp Quách bá bá.

Quách Tỉnh vừa cởi áo dài vừa hỏi:

- Hiện nay cơ đồ nhà Tống thật bấp bênh như chuông reo chỉ mảnh, như trứng để đầu gậy. Thành Tương Dương là vị trí yết hầu của Tống Bang, nếu một mai thành này thất thủ thì bao nhiêu dân Hán sẽ trở thành nô lệ cho bọn rợ Mông Cổ cả thẩy. Người nào có chút tinh thần vì Quốc gia dân tộc, nếu được chứng kiến cái cảnh quân Mông Cổ sát hại dân lành cũng không thể nào chịu đựng nổi.

Ngừng một chặp, ông nói tiếp:

- Chúng ta là con nhà võ tất nhiên phải đem hết tài năng sở trường ra làm việc nghĩa, cứu nước giúp dân qua cơn nguy biến. Tuy nhiên đó cũng chỉ là một việc nhỏ mà thôi. Xưa nay thiên hạ thường tôn ta làm đại hiệp là vì ta biết xả thân đền nợ nước chứ không phải vì ta tài giỏi hơn ai. Nhưng tuy vậy ta vẫn suy nghĩ mà thẹn với lương tâm, vì sức mình không đủ tài sức lo cho tròn nghĩa vụ với quốc gia dân tộc để xứng đáng với cái mỹ danh "đại hiệp". Ta nhận thấy cháu thông minh, trí tuệ sáng suốt hơn ta nhiều lắm, tuy còn nhỏ tuổi mà bản lãnh cũng khá cao cường, hơn nữa chí khí cũng đáng khen, vậy tương lai của cháu nhất định sẽ rạng rỡ hơn ta. Ngày nay ta chỉ có một ước vọng là cháu ghi tạc trong tâm khảm tám chữ "vị dân vị quốc hiệp chi đại giả" và lấy đó làm phương châm rèn tâm dưỡng tánh hầu trở nên một vị "đại hiệp" bốn biển lừng danh, nêu gương muôn thuở. Đó là kỳ vọng duy nhất của ta nơi cháu đó.

Nghe những lời nói nghiêm trang, đầy lòng nghĩa khí, chính đại quang minh, Dương Qua hết sức cảm động. Mặc dù Quách Tỉnh là kẻ tử thù đã giết chết cha mình, nhưng trong giờ phút này trước những câu nói bao hàm bao nhiêu ý nghĩa cao cả, đáng kính khiến cho chàng thấy vô cùng mến phục. Chàng trả lời với giọng run run vì cảm động:

- Thưa Bá bá, những lời nói đáng giá nghìn vàng của Bá bá, cháu xin ghi tạc trong tim, dù biển cạn sông mòn cháu cũng không quên.

Quách Tỉnh thấy cháu biết nghe thì hể hả lắm, nhìn Dương Qua mỉm cười rồi đặt lưng xuống chiếu ngủ ngay. Dương Qua thấy Quách Tỉnh đã ngủ vùi thì mối phụ thù trong thâm tâm lại nổi dậy bừng bừng. Chàng mân mê chiếc đoản đao đã giấu trong mình đề phòng hành thích và nghĩ bụng: "Thật là dịp may hiếm có. Thôi đêm nay ta thừa lúc xuất kỳ bất ý, cắt đầu ông ta rồi tìm luôn Hoàng Dung thanh toán cho rồi. Bà ấy tuy tài cao, võ giỏi tới đâu, nhưng đã tới gần ngày sinh đẻ cũng không tài nào chống cự nổi. Đem hai chiếc thủ cấp này về động Thủy Tiên để đổi lấy nửa viên thuốc tuyệt tình đan giải độc. Xong đâu đấy rồi, ta cùng Tiểu long Nữ trở về cổ mộ sống một cuộc đời ẩn dật tự tại an nhàn, mặc cho giang sơn nhà Tống ra sao thì ra, mặc cho người đời sâu xé chém giết nhau muốn sao thì muốn...".

Nghĩ tới đây chàng phấn khởi vô cùng lẳng lặng rút chiếc đoản đao sắc như nước định ra tay hạ sát. Bỗng nhiên bên phòng kế đó có tiếng trẻ con khóc oa oa và tiếp theo đó là tiếng hát à ơi của người mẹ ru nho nhỏ với giọng hát ngái ngủ. Tiếng khóc nhỏ dần và dứt hẳn, và mẹ cũng thôi ru khi đứa con ngủ kỹ. Tiếng trẻ con khóc gợi lại trong lòng Dương Qua hình ảnh ngày nào bọn lính Mông Cổ tàn sát dân chúng. Chàng tưởng tượng lại hình ảnh một tên Mông Cổ đang say rượu dùng một thanh dáo thật dài xe vào bụng một đứa con nít mới lên ba, vung lên không trung rồi vác đi cùng đường để thị uy. Tiếng rên rỉ của đứa trẻ con khốn nạn ấy bây giờ còn văng vẳng bên tai chàng, khiến Dương Qua lại suy nghĩ: "Ta giết Quách Tỉnh rồi, thành Tương Dương nhất định sẽ mất, chừng ấy bao nhiêu vạn dân chúng, nam phụ lão ấu trong thành này sẽ làm mồi cho lửa đạn, hàng ngàn trẻ con sẽ chết thê thảm như độ nào. Ta chỉ vì báo thù riêng mà gieo tang tóc lại cho muôn dân lành thì quả là điều không nên làm. Bây giờ phải xử sao đây?".

Trong tâm hồn chàng bỗng nổi lên một cuộc tranh chấp kịch liệt giữa hai ý kiến mâu thuẫn. Nhưng bỗng chốc thêm một ý kiến thứ ba lại xẩy ra:

- Đêm nay là một dịp may ngàn năm có một, nếu ta không giết được Quách Tỉnh thì làm sao nhận được viên thuốc giải độc của Cừu thiên Xích? Ta chết rồi thì Tiều long Nữ sẽ ra sao? Chắc chắn nàng không thể nào sống được nữa... Trời ơi, làm sao đây? Thôi, mặc cho bá tánh thành Tương Dương, mặc cho giang sơn nhà Tống... Ta từ nhỏ tới lớn nếm biết bao nhiêu điều cay đắng gian lao, có kẻ nào đoái hoài tới ta đâu? Như thế chuyện gì ta phải lo cho họ để đến nỗi cả hai đều chết yểu một cách âm thầm và bi thương như thế này?

Nghĩ xong, chàng quả quyết nắm chặt thanh đoản đao, trừng mắt nhìn Quách Tỉnh định ra tay. Dưới ánh đèn lờ mờ, Quách Tỉnh nằm ngửa mặt ngáy pho pho, vô cùng nhân hậu, khiến Dương Qua chạnh lòng nghĩ lại: "Quách Bá bá một đời quanh minh chính trực, hánh động hết sức quân tử đại lượng, chẳng lẽ vô cớ đi giết cha mình sao? Câu chuyện này thế nào cũng có sự bí ẩn đây, cần phải tìm biết mới được". Thần trí đang phân vân rối loạn, bỗng nhiên có tiếng gõ cửa nhè nhẹ.

Vừa nghe tiếng gõ cửa, Quách Tỉnh trở mình hỏi:

- Ai đó, bà phải không?

Dương Qua hoảng hồn vội dấu đao nằm xuống không dám cục cựa. Bên ngoài vẫn lặng yên không ai lên tiếng cả. Quách Tỉnh lạ lùng quá vùng dậy bước ra mở cửa, đưa mắt nhìn quanh, thấy Hoàng Dung đứng tận ngoài xa, đưa tay vẫy. Quách Tỉnh bước theo ra, lạ lùng hỏi nhỏ:

- Chuyện chi mà có vẻ bí mật lắm vậy?

Hoàng Dung không đáp, nắm tay Quách Tỉnh kéo đi cách nhà khá xa, nhìn quanh quất một chặp, không có ai mới khẽ bảo chàng:

- Hồi chiều em nghe Quách Phù thuật lại, lần này Dương Qua đột nhiên trở lại thành Tương Dương nhưng thần sắc có vẻ bất thường, nên ngại có chuyện gì bên trong chưa biết. Lại nghe anh cùng ngủ chung một giường với hắn thì em lo quá. Vì vậy nên em trằn trọc mãi không ngủ được, cứ quanh quẩn xem chừng trước phòng để đề phòng nếu có gì không hay sẽ xẩy ra chăng? Theo ý em thì hình như nó tình nghi chúng mình giết cha nó trước kia, vì vậy nên anh không nên ngủ chung một giường cùng nó nữa.

Quách Tỉnh nghe xong đứng lặng người suy nghĩ một chập rồi gật đầu đáp:

- Em nói cũng có lý. Thôi ngày mai ta sẽ vào trong dinh ngủ cũng được.

Quách Tỉnh đưa vợ về phòng riêng rồi trở lại chỗ cũ, thấy Dương Qua đang nằm ngáy vang xem chừng ngủ mê lắm. Quách Tỉnh vô tình không biết rằng trong lúc hai vợ chồng ra ngoài nói chuyện thầm Dương Qua đã rón rén đi theo lắng tai nghe trộm hết mọi việc. Khi hai người bàn xong, Quách Tỉnh đưa vợ về nhà trong, chàng vội trở về giường giả vờ nằm ngủ mê man. Thật ra trong khi đó chàng đã nghĩ ra một chuyện táo bạo: "Nếu để ngày mai hai vợ chồng lão vào trong dinh ngủ riêng thì còn cơ hội nào hạ thủ nữa? Nhất định trong đêm nay phải thi hành cho xong ý định, nếu không thì không bao giờ còn gặp dịp này nữa...". Rồi nằm ngáy vang nhưng tâm thần Dương Qua vẫn tỉnh táo và đang lẳng lặng theo dõi mọi hành động của Quách Tỉnh. Chàng thấy Quách Tỉnh sẽ kéo chăn đắp ngực cho mình, miệng lẩm bẩm:

- Chú bé này ngủ ngon quá!

Quách Tỉnh vừa đặt lưng xuống chiếu định ngủ, bỗng thấy Dương Qua cựa mình lăn qua một vòng, nhưng miệng vẫn ngáy đều không gián đoạn. Ông giật mình suy nghĩ: "Phàm người nào đang ngủ mà cựa mình thì hơi thở và tiếng ngáy phải gián đoạn, cớ sao tiếng ngáy của Dương Qua vẫn cứ đều đều một cách lạ lùng như vậy? Hắn bị bệnh gì chăng?". Suy nghĩ vậy, ông bỗng lo lắng cho Dương Qua vô cùng, và từ đó ông không ngủ nữa, cứ nằm lặng yên theo dõi hơi thở và tiếng ngáy của chàng. Dương Qua trở mình hai ba lần thấy Quách Tỉnh vẫn nằm mê không cục cựa. Chàng vẫn giữ hơi ngáy đều đặn rồi se sẽ ngồi dậy, bò dần xuống giường. Chàng dự định đứng cạnh thành giường, đâm mạnh vào ngực Quách Tỉnh rồi thoát ra ngoài cửa sổ. Tuy nhắm mắt nhưng bao nhiêu hành động, cử chỉ của Dương Qua Quách Tỉnh thẩy đều biết rõ. Ông đinh ninh có lẽ chú bé này vì ham mê luyện công quá nhiều cho nên tâm thần thác loạn. Ông không nỡ làm trở ngại giấc ngủ của chàng, chỉ lẳng lặng theo dõi xem sao. Dương Qua se sẽ rút mũi đao găm giấu trong tay áo, nắm chặt lấy chuôi vận sức đưa lên cao, định đâm phập xuống một nhát. Bỗng nhiên Quách Tỉnh hỏi một cách êm ái ngọt ngào:

- Qua con! con nằm chiêm bao thấy gì đó?

Nghe câu hỏi như tiếng sét đánh ngang đầu, Dương Qua lạnh cả xương sống, rồi không biết xử trí ra sao cho tiện, chỉ khẽ nhún mình nhảy tung ra ngoài khung cửa sổ. Nhưng khi thân hình chàng vừa ra khỏi cửa, chân chưa chạm đất thì đã bị Quách Tỉnh chộp đứng trên lưng xách bổng trở vô phòng. Tinh thần giao động đến cực độ, Dương Qua bi quan quá, biết thế nào cũng bị chết, nên lẳng lặng chờ đợi một cực hình ghê gớm. Không ngờ Quách Tỉnh chỉ đặt nhẹ nhàng lên giường rồi ngồi ngay ngắn, nhắm mắt như đang nhập định than thiền. Dương Qua ngạc nhiên quá sức, chẳng hiểu Quách Tỉnh định dùng thủ đoạn lạ lùng như thế nào để hành tội mình đây? Chàng bỗng nhớ tới Tiểu long Nữ rồi vận sức hít một hơi thật dài gọi lớn:

- Cô nương, mau cứu tôi với, tôi đã sa cơ bị bắt rồi...

Không ngờ Quách Tỉnh vừa trông thấy chàng mấy hơi hít mạnh lại sợ dùm cho sức khoẻ của chàng nên vội vàng đưa bàn tay chặn ngay trên đan điền, khiến chàng không gọi ra tiếng nữa. Dương Qua đang hoang mang chưa biết số mạng sẽ ra sao, bỗng Quách Tỉnh từ tốn bảo:

- Dương Qua cháu, vì cháu nôn nóng luyện công quá sức, khiến thần kinh thác loạn, thường mơ tưởng những mộng mị viển vông, tinh thần không định được, có hại cho sức khỏe lắm. âu cũng là một bài học về câu "giục tốc bất đạt" đấy nhá, hãy lấy đó mà làm gương về sau. Bây giờ cháu hãy ngồi yên, để ta giúp cháu điều hành lại khí huyết trong người cho.

Ông nói chưa dứt lời đã thấy một luồng hơi ấm truyền từ bàn tay Quách Tỉnh, qua khắp cơ thể, khiến tinh thần trở nên khoan khoái dễ chịu vô cùng. Vốn con người thông minh tuyệt mức, nên bao nhiêu đó cũng đủ cho Dương Qua hiểu hết tự sự. Chàng bèn tương kế tựu kế, lập tức vận dụng nội công, khiến cho huyết mạch chạy lộn xộn để lừa Quách Tỉnh. Quách Tỉnh tính thật đâu biết, ông cố đem hết sức mình truyền vào thân thể Dương Qua để giúp chàng chỉnh đốn lại kinh mạch đang bị xáo trộn. Mãi tới hết canh năm, huyết mạch của Dương Qua mới điều hòa lại bình thường. Vì dùng sức chọi nhau nên cả hai đều mệt nhoài. Mỗi người phải ngồi tĩnh tọa mãi tới rạng đông mới phục hồi lại công lực đầy đủ như trước. Quách Tỉnh vui mừng bảo Dương Qua:

- Cháu đã thấy khoẻ và đỡ hơn trước chưa? Thật ra không ngờ cháu có một công lực cao siêu như vậy?

Dương Qua chắp tay tạ ơn, đáp:

- Cháu cám ơn Quách Bá bá đã có lòng cứu giúp, nếu không có Bá bá chuyển sức phù trợ cho thì mạng cháu đã nguy rồi.

Ngay lúc đó có người mang thức ăn điểm tâm tới. Cả hai người cùng ăn xong, Quách Tỉnh bảo Dương Qua:

- Cháu sắp sửa yên cương cùng theo ta ra ngoài thành thị sát một chặp nhé.

Nừa giờ sau hai bác cháu so cương sát cánh nhau cùng ra ngoài thành. Nhưng khi vừa ra khỏi cửa tây đã gặp một con sông đang uốn khúc chảy vòng quanh theo chân đồi, nước trong leo lẻo. Quách Tỉnh nói:

- Con sông tuy bé nhỏ nhưng đã được ghi tên vào lịch sử Trung Quốc, cháu có biết nó tên chi không? Đó là con sông "Đàn khê" đấy.

Nghe tiếng "Đàn khê" Dương Qua ô một tiếng vì ngạc nhiên và nói:

- Xưa kia Lưu hoàng Thúc giục ngựa nhảy Đàn khê, không ngờ lại là con sông này!

Quách Tỉnh cười nói:

- Thiên hạ hồi ấy đồn rằng con ngựa Đích Lô sát chủ, nhưng không, chính con Đích Lô đã nhảy khỏi dòng sông, cứu được Lưu hoàng Thúc là chủ nó.

Hai người vừa nói vừa đi mãi, một chập sau đã lên tận đỉnh đồi. Đứng trên đồi cao nhìn xuống, thấy dòng sông Hán Thuỷ cuồn cuộn chảy siết về phía Nam. Nhìn lại bốn phía, trong đồng nội bao la, chỗ nào cũng đầy cả dân chúng đang bồng bế nhau lũ lượt kéo về thành Tương Dương tỵ nạn. Quách Tỉnh cầm roi chỉ vào đám dân đi lánh nạn bảo Dương Qua:

- Có lẽ quân Mông Cổ tới đâu tàn sát dân lành tới đó, nên bao nhiêu người phải đành bỏ nhà chạy trốn về thành Tương Dương hết thảy.

Rồi ông lại chỉ về bên kia triền đồi phía hữu thấy có dựng một tấm bia lớn có khắc hàng chữ:

"Đường Công Bộ lang, Đỗ Phủ cố lý"

Dương Qua chắc lưỡi nói:

- Không ngờ thành Tương Dương bé nhỏ như thế này mà lại có lai lịch nổi danh như vậy. Thì ra đây là quê hương của đại thi hào Đỗ Phủ đây mà.

Quách Tỉnh không nói gì, chỉ quất mạnh chiếc roi ngựa trong không khí nghe vun vút rồi khẽ ngâm mấy dòng thơ của nhà thi hào Đỗ Phủ đã quá cố:

"Hồ lại đang tự phủ,

Khái phục ưu tây đô

Gian nan phấn trường kích

Vạn cổ dụng nhất phu"

Câu thơ ngâm chưa dứt, bỗng thấy bao nhiêu dân chúng đang xúm xít trước cửa thành chạy thối lui trở lại rần rần, khóc lóc vang dậy.

Tuy phía trước thối lui, nhưng làn sóng người phía sau vẫn ào ạt tiến tới như nước vỡ bờ. Quách Tỉnh giật mình tự hỏi:

- ủa, tại sao lại cản ngăn không cho dân chúng vào thành ty nạn?

Nói rồi giục ngưa chạy xuống phía trước thành. Bỗng đâu một Đám quân cung thủ đang lắp tên sẵn, ở trên thành chĩa thẳng vào đám dân, Quách Tỉnh thấy vậy nạt lớn:

- Bọn bây làm gì lạ vậy? hãy mở cửa thành cho dân chúng vào ty nạn chứ?

Viên trưởng chi huy chỗ này trông thấy Quách Tỉnh và Dương Qua bèn vội vàng mở cửa thành cho vào và thưa rằng:

- Lữ đại nhân vừa cho biết bọn gian tế Mông Cổ đang trà trộn vào số dân này, nên người ra lệnh đóng chặt cửa thành lại không cho ai được vào hết.

Quách Tỉnh hét lớn:

- Cứ mở cửa cho dân vào.

Quách Tỉnh đối với quan binh trong thành rất có uy tín, cho nên khi ông bảo lập tức viên thủ thành tuân theo ngay, mở cửa cho dân chúng tuôn vào như thác lũ, đồng thời sai người cấp báọ với Lữ Văn Hoán biết.

Dân chúng vừa dắt nhau vào thành thì bỗng thấy cát bụi rợp trời, một quân đoàn Mông Cổ đã từ hướng Bắc kéo tới tấn công ngay. Đứng trên cao nhìn xuống, thấy đoàn hùng binh Mông Cổ đi sau và chặn trước có một đám đông người ăn mặc rách rưới, tay cầm gậy gộc vừa chạy vừa la hét:

- Chúng tôi đều là dân chúng của Đại Tống cả, xin trên thành dừng bắn xuống tội nghiệp.

Kể từ triều đại Thành Cát Tư Hãn, bọn Mông Cổ áp dụng một chiến thuật vô cùng dã man là bắt dân lành đi trước đỡ tên cho chúng, và cũng nhờ kế hoạch này mà bọn chúng đã đoạt được rất nhiêu thành địch. Thấy đoàn kỵ binh Mông Cô binh khí tuốt trần, đi thẳng vào lương dân lương thiện, thúc đẩy tiến tới sát thành, không còn bao nhiêu bước nữa là tới sát bên thang. Lữ văn Hoán thấy nguy quá bèn ra lệnh buông tên, xạ thủ. Tức thì từng loạt tên bay xuống thành như mưa bấc, khiến đoàn bá tánh phải chạy đều trở lại. Đoàn kỵ binh Mông Cổ đi sau thấy vậy, huy động binh khí chém giết không tiếc tay. Bá tánh đã lọt vào tình thế tiến không được mà lùi cũng chết nên kêu khóc vang trời. Thấy rõ âm mưu thâm độc của Mông Cổ, Lữ văn Hoán đứng trên thành ra lệnh tiếp tục bắn mãi. Quách Tỉnh bất nhẫn quá luôn miệng gào thét:

- Dừng tay, đừng giết dân vô tội.

Mặc dù Quách Tỉnh quát tháo, nhưng trên thành tên vẫn thi nhau bay như mưa bấc. Quách Tỉnh thấy tình thế có phần gay cấn, bèn đốc suất một đội quân tinh nhuệ, toàn là những phần tử có bản lãnh trong Cái Bang xông ra ngoài thành cản bước tiến của quân giặc.

Dương Qua muốn đi theo, nhưng Quách Tỉnh bảo:

- Cháu chưa được mạnh lắm, hãy ở trên thành lược trận cũng được, không nên ỷ sức xông xáo ra trận tiền.

Dương Qua vâng lời bèn leo lên mặt thành nhìn xuống. Quách Tỉnh dẫn đoàn quân mở cửa thành xông ra đánh thốc vào mặt tả của cánh quân Mông Cổ. Hai bên vừa chạm nhau thì ngót một trăm quân Mông Cổ đã ngã gục ngay. Đoàn quân của Quách Tỉnh quá ư dũng mãnh và thiện chiến, tiến lên như vũ bão, như vào chỗ không người. Bá tánh thấy trong thành có đoàn quân xông ra ứng chiến, quân Mông Cô đang chống đỡ, bèn thừa dịp chạy toán loạn hết. Bỗng nhiên có từng hồi tù và rúc lên liên tục, và từ hướng Đông có hai thiên nhân đội, mỗi đội ngàn người, xông ra. Kế đó ở phía Tây cũng có hai thiên nhân đội nữa. Bốn thiên nhân đội cùng ào ra một lượt phủ vây cánh quân Quách Tỉnh vào giữa. Dương Qua đứng trên mặt thành tuy mắt nhìn xem trận đấu nhưng trong lòng vẫn nhớ lại mấy câu nói nhân đạo của Quách Tỉnh "dừng tay, đừng giết dân vô tội" mà lòng tràn ngập một niềm cảm xúc vô biên.

Thấy vòng vây của bốn đội quân Mông Cổ mỗi lúc một siết chặt thêm Dương Qua chợt nghĩ: "Nếu trên thành cứ buông tên bắn mãi thì quân Mông Cổ không thể nào đến sát bên tường để tấn công được nhưng sở dĩ Quách bá bá đã liều thân đem quân ra tiếp chiến với Mông Cổ là vì người không muốn giết người vô tội. Ôi những người dân ấy đối với ông nào có bà con ruột thịt chi đâu? Thế mà Bác đã không nghĩ thân mình xông ra cứu họ. Một người lòng dạ rộng rãi nhân đạo như thế, lẽ nào đi đang tâm giết hại cha ta là một người anh em kết nghĩa?".

Chàng đang phân vân suy nghĩ thì dưới thành tiếng trống trận thúc liên hồi, tiếng quân reo tở mở. Đoàn quân của Quách Tỉnh cố liều mạng mở một đường máu nhưng đánh mãi không phùng nổi. Chu tử Liễu thấy vậy bèn cùng hai anh em họ Võ thống lãnh một đoàn quân khác xông ra để giải vây. Bỗng tiếng tù và lại rít lên từng hồi nữa. Thêm bốn ngàn quân tinh nhuệ của Mông Cổ từ xa xông lại chờ sẵn bên thành, hễ trong này mở cửa thì cướp đường xông vào chiếm thành ngay lập tức.

Lữ văn Hoán thấy thế giặc như vậy thất kinh, hạ lệnh không cho ai được phép mở cửa thành nữa. Rồi ông ra lệnh cho mấy trăm tên lính lực lưỡng, hờm sẵn đại đao đứng gác cửa, hễ ai đến gần chém ngay tức khắc.

Trong thành cũng như ngoài thành, tiếng quân hòa lẫn với tiếng trống thúc liên hồi. Trong lòng Dương Qua cũng đã xẩy một trận tranh chấp kịch liệt giữa hai luồng tư tưởng trái ngược nhau. Có khi chàng cầu mong cho Quách Tỉnh đắc thắng khải hoàn, cũng có lúc chàng lại muốn ông bỏ thây nơi chiến địa. Bỗng nhiên hàng ngũ quân Mông Cổ bắt đầu rung động và lộn xộn hẳn lên. Quách Tỉnh tay cầm giáo dài múa tít xông khỏi trùng vây, phía sau lưng ông, đoàn quân tinh nhuệ can trường cũng nối theo không xa một bước, bao nhiêu con người đó đã hợp thành một lực lượng vô cùng vững chắc. Lực lượng này vừa đánh vừa lui dần vào gần cửa thành. Mặc dù quân Mông Cổ cố đánh thốc mũi dùi để phá vỡ, nhưng mặt trận vẫn giữ vững như vách sắt tường đồng không hề lay chuyển. Khi rút lui lại gần chân thành rồi, bỗng nhiên Quách Tỉnh quất ngựa lao vút ra sau cản hậu, nhường cho đoàn quân mình cướp đường đi trước vào thành. Thấy thắng thế, Lữ văn Hoán, cả mừng ra lệnh khai thành tiếp đón Quách Tỉnh và đoàn quân.

Nhưng Quách Tỉnh không chịu vào, cứ một mình một ngựa một giáo cản hết muôn quân Mông Cổ cho quân lính của mình vào thành trước.

Quân Mông Cổ thấy mưu kế của mình sắp hỏng bèn huy động cờ vàng, tức thì cả vạn quân đùng đùng tràn tới như nước vỡ bờ. Quách Tỉnh dù tài năng xuất chúng cũng không thể nào một mình cản nổi vạn người ngựa đang liều chết tấn công. Cả một biển người lũ lượt tràn gần chân thành, càng lúc càng thêm hùng hậu. Trên thành Lữ Văn Hoán trông thấy nguy cơ, sợ quá vội kêu lớn:

- Quách đại hiệp, xin hãy vào thành ngay, chúng tôi không thể nào chờ đợi nữa.

Quách Tỉnh nghe gọi bèn liếc mắt nhìn xung quanh thấy bộ hạ của mình chưa vào hết nên chưa chịu vào. Trái lại ông còn vung giáo xông ra sau đâm luôn một hơi cả chục viên kiện tướng Mông Cổ đang ở gần nhất.

Chu tử Liễu đứng trên thành cũng gọi thật lớn:

- Quách ca, hãy níu đầu dây này để tôi kéo lên mau.

Quách Tỉnh đưa mắt nhìn lại thấy một tên bộ hạ cuối cùng của mình vừa lọt vào cửa thành đã có trên mười tên Mông Cổ xông tới bám sát để tấn công. Hai trăm tên cầm đầu đao gác thành một mặt chống cự lại bọn này, một mặt lo đóng cửa thành lại.

Quách Tỉnh hét to một tiếng, vung giáo đâm chết luôn một tên thập phụ trưởng rồi tung mình lao vút lên không, nắm lấy đầu dây của Chu tử Liễu. Chu Tư Liễu vận sức rút mạnh chiếc dây lên. Thân hình Quách Tỉnh như con diều gặp gió vụt thẳng lên cao hơn hai trượng.

Tên vạn phu trưởng đang chỉ huy tại mặt trận này bỗng hô lớn:

- Bắn ngay!

Tức thì hàng vạn mũi tên nhọn thi nhau nhắm vào thân hình Quách Tỉnh lao tới. Nhưng trong khi lao mình nắm lấy đầu dây, Quách Tỉnh đã dùng thế "thoát bào nhượng vị" cởi chiếc áo dài mặc ngoài rồi một tay nắm dây, một tay vung chiếc áo như một cái khiên che chở khắp thân mình khiến cho muôn ngàn mũi tên thảy đều rơi xuống đất cả. Chu tử Liễu lanh tay rút thẳng lên, không bao lâu chỉ còn độ vài trượng thì Quách Tỉnh đã tới mặt thành.

Bỗng nhiên từ trong rừng người Mông Cổ một người xông ra, đó là Kim Luân Pháp Vương. Lão liền giật lấy một cánh cung cứng trong tay tướng Mông Cổ gần nhất, lắp tên kéo thẳng và buông đi một cái vụt, nhắm ngay vào sợi dây đang kéo Quách Tỉnh lên thành. Còn sợ hai người tìm cách đối phó nên bắn luôn liên tiếp hai mũi tên khác, một mũi Quách Tỉnh và một mũi ngay Chu tử Liễu. Tài bắn của Kim luân pháp Vương thật là tuyệt diệu. Trong khi mũi tên đầu vừa cắt đứt sợi dây khiến thân hình Quách Tỉnh từ từ rơi thì hai mũi kia cũng vừa bay tới, và thân hình mũi thứ ba vẫn lao vun vút tới ngay cổ họng Chu tử Liễu.

Nhưng Chu tử Liễu đâu phải tầm thường? Khi thấy tên xé gió bay tới đã khẽ đưa hai ngón tay kẹp ngay thật chặt. Thấy dây đã đứt, Quách Tỉnh lo ngại vô cùng, vì nếu rơi ngay vào cái rừng người ấy thì còn gì mà nói nữa, cho nên trong lúc vô cùng nguy hiểm, ông vẫn giữ được bình tĩnh để tìm cách thoát hiểm. Ông bèn hét lên một tiếng thánh thót rồi dập mạnh chân vào bờ tường, toàn thân bỗng bắn vọt trở lên hơn một trượng. Tiếp theo đó ông phóng chân khác đạp luôn một chiếc nữa, thân hình lại tung cao thêm một trượng nữa. Đây là thuật "bắc thang lên trời" xưa nay ít người luyện được. Hàng trăm ngàn quân binh Mông Cổ và Tống đang giao chiến bỗng đứng im phăng phắc, muôn vạn cặp mắt dán chặt vào chỗ Quách Tỉnh để tán thưởng tài nghệ tuyệt luân do ông ta đang thi thố trên vách thành cheo leo cao vòi vọi.

Kim Luân Pháp Vương cũng vô cùng ngạc nhiên về tài ba tột chúng của Quách Tỉnh. Ông suy nghĩ: "Muốn phá thuật bắc thang lên trời này, chỉ có cách là làm sao cho hơi thở của hắn bị gián đoạn mới được". Nghĩ thế, y liền giương cung nhắm ngay Quách Tỉnh bắn ra một phát, ngay vào phía hậu tâm.

Quách Tỉnh tung người bay lên, bỗng nghe tiếng xé gió ào ào thì biết có kẻ bắn tên, nên lắc đầu than nhỏ:

- Nguy rồi!

Miệng than, tay với ra sau bắt đầu mũi tên. Hàng vạn tiếng hoan hô từ miệng binh sĩ đôi bên reo hò vang dậy, nhưng thân hình của Quách Tỉnh cũng vì vậy mà tụt xuống thấp gần một trượng.

Trong thời gian ấy, trong đầu Dương Qua cũng nổi lên một cuộc tranh chấp mãnh liệt. Chàng suy nghĩ: "Lão đã giết cha mình, lẽ nào ta đi cứu?

Tại sao không thừa cơ hội này giết phứt đi cho rồi, để thanh toán hận thù?". Nghĩ tới đó, bỗng mũi tên của Kim Luân làm gián đoạn hơi thở khiến Quách Tỉnh đề khí không được, tụt xuống non một trượng sâu. Lòng Dương Qua rối ren như tơ vò, không còn suy nghĩ gì nữa. Tức thì chàng vung tay trái chụp lấy đầu dây của Chủ tử Liễu nhảy phóc xuống thành còn tay mặt chộp vào vai Quách Tỉnh.

Trong thời gian ấy, Chu tử Liễu cũng lanh trí bèn nhún đầu dây xuống một chút để lấy trớn rồi rút mạnh trở lên. Quách Tỉnh và Dương Qua như hai con chim bằng cất cánh vọt thẳng lên trên cao, quay luôn một vòng rồi là là đáp xuống yên lành trên mặt thành giữa tiếng hoan hô vang dậy của hàng vạn hùng binh đôi bên. Trong khi thân thể còn bay lơ lửng giữa không trung, Quách Tỉnh nghĩ giận những mũi tên phá đám của Kim Luân vừa rồi nên cũng muốn thi thố tài năng cho hắn thấy và kiêng oai một mẻ. Ngay khi ngón chân trái vừa điểm trên đầu thành. Quách Tỉnh đã giật phắt cánh cung của tên quân đứng canh, tra tên phóng ra một mũi lao vút về phía Kim Luân Pháp Vương. Vừa khi ấy, Kim Luân Pháp Vương cũng bắn ra một mũi. Hai mũi tên gặp nhau giữa chừng trời nghe xoạc một tiếng khô khan và mũi tên của Kim Luân Pháp Vương gãy làm hai. Kim Luân đang ngẩn ngờ thì mũi thứ hai đã bay tới chạm đúng ngay cung y đang cầm trong tay gãy tiêu. Loay hoay chưa biết đối phó ra sao, bỗng mũi thứ ba của Quách Tỉnh bắn ngay cột cờ Hốt tất Liệt. Cây soái kỳ đang sừng sững oai nghiêm, phía trên một lá cờ tung bay phất phới bỗng nhiên bi bắn đứt dây tuột ngay xuống đất.

Hốt tất Liệt thấy Quách Tỉnh thần võ quá khiếp thì buồn rầu lo sợ, bèn ra lệnh gióng chiêng thu quân.

Quách Tỉnh trên đầu thành nhìn xuống thấy Mông Cổ rút quân có trật tự quy củ, hàng ngũ chỉnh tề, trước không lộn xộn, sau chẳng xôn xao, không lộ vẻ gì hấp tấp sợ sệt liền thở dài than rằng:

- Mông Cổ hành quân đúng phép, tiến thoái đàng hoàng, kỷ luật nghiêm minh như thế này Tống quân địch làm sao nổi?

Than xong mặt mày buồn bực, không nói một lời. Dương Qua và Chu tử Liễu thấy Quách Tỉnh biểu lộ thần oai trước trận tiền, xông vào chỗ muôn binh như vào chốn không người, thua không hoảng sợ, thắng không kiêu hãnh nên trong lòng ai nấy đều thán phục vô cùng. Khi đội quân Mông Cổ rút lui cách xa thành Tương Dương rồi thì Lữ văn Hoán truyền mở tiệc khao quân ăn mừng chiến thắng.

Trong tiệc Dương Qua được xem như là thượng khách, vì ai ai cũng khen ngợi chàng có dũng lực và can đảm đã một mình phi thân xuống thành cứu được Quách Tỉnh khỏl rơi vào tay địch.

Tiệc xong đã quá canh hai. Đêm nay, Quách Tỉnh và Dương Qua ngủ riêng. Vừa ngủ ngon giấc, Dương Qua nghe tiếng gõ cửa thật gấp. Chàng ngồi dậy mới hay có lệnh của Quách Tỉnh mời ra trung quân bàn chuyện khẩn cấp.

Vừa vào tới trung quân, chàng đã thấy Hoàng Dung mặc áo rộng ngồi chống tay lên án thư mặt buồn dàu dàu, thân hình tiều tụy. Quách Tỉnh đang chắp tay sau lưng đi qua đi lại trong phòng tỏ vẻ suy nghĩ lung lắm. Cạnh đó Quách Phù ngồi làm thinh, đôi mắt còn ngấn lệ, có lẽ đã khóc nhiều rồi. Trên án thư có đặt hai thanh gươm dài, dằn trên một tờ giấy có viết chữ bị gió thổi tung bay phần phật. Nhìn đôi trường kiếm, Dương Qua ngạc nhiên vô cùng vì chàng đoán rõ là hai thanh gươm của hai anh em họ Võ.

Thấy Dương Qua tới nơi Quách Tỉnh nói ngay:

- Cháu có đoán biết hai anh em họ Võ đang đêm đột nhập vào trại giặc để làm chi không?

Dương Qua điềm nhiên đáp:

- Thưa Quách bá bá, cháu không biết rõ lắm, tuy nhiên cháu cũng có thể đoán rằng vì thấy quân giặc vây thành quá ngặt, hai người mạo hiểm qua đấy để hành thích tướng địch, may ra thành công thì sẽ được vang danh với thiên hạ.

Quách Tỉnh thở dài, đưa tay sờ vào thanh trường kiếm mà nói:

- Hai đứa nó thật không tự lượng sức mình, để đến nỗi bị người ta vây bắt đoạt khí giới gửi trả lại đây nầy.

Nói xong, ông rút tờ giấy dằn dưới hai thanh gươm trao cho Dương Qua xem.

Dương Qua tiếp lấy tờ giấy, kê gần đèn đọc nhỏ:

- Đệ nhất Quốc Sư đại Mông Cổ là Kim Luân Pháp Vương cung kính gởi thư này cho Quách đại hiệp tường lãm:

"Đêm nay nhân lúc đi săn về, tôi có bắt gặp hai đệ tử của Đại hiệp là hai chàng họ Võ đến viếng trại bất ngờ. Vì ngưỡng mộ uy danh của đại hiệp tôi không nỡ sát hại mà tạm giữ chúng nơi đây. Với thư nầy, tôi trân trọng kính mời Đại hiệp quá bộ sang dinh chúng tôi dùng chén rượu lạt và tỏ chút tâm tình, sau đó sẽ dẫn hai cháu trở về trại Tống bình yên vô sự".

Kim Luân Pháp Vương bái bút.

Lời lẽ trong thư tuy hết sức khiêm nhường, từ tốn, nhưng nội dung không ngoài mục đích muốn giữ hai anh em họ Võ làm con tin để buộc Quách Tỉnh thân hành sang trại giặc. Họ chỉ nêu điều kiện là Quách Tỉnh phải dấn thân vào miệng cọp để cứu cháu về.

Thấy Dương Qua đọc thư, Quách Tỉnh liền hỏi:

- Cháu nghĩ sao?

Dương Qua cũng thừa hiểu dụng ý của Hoàng Dung muốn với mình tới đây để nhờ tháp tùng theo Quách Tỉnh sang trại Mông Cổ, nên chàng trả lời ngay một cách vui vẻ:

- Thưa bá bá và bá mẫu, tôi và cô nương tôi sẽ giả dạng tùy tùng đi theo Quách bá bá qua trại giặc. Nếu bọn chúng trở mặt đánh nhau, hai tôi sẽ dùng song kiếm hợp bích để đối địch. Như thế cũng có thể giải quyết được phần nào tình trạng nguy biến. Với ba người, chắc chắn họ sẽ không làm hại chúng ta nổi đâu.

Quách Tỉnh thấy Dương Qua có lòng sốt sắng thì mừng lắm vội nói:

- Như vậy thì hay lắm, vậy xin cho mời Long cô nương sang đây cùng đi cho kịp.

Nhưng Hoàng Dung đã can thiệp nói:

- Không nên đâu, theo ý tôi thì một mình cháu Qua cũng đủ rồi. Long cô nương là đàn bà con gái, không nên để mạo hiểm vào hang hùm làm chi. Tôi không muốn thế.

Dương Qua giật mình, suy nghĩ: "hèn chi thiên hạ đồn Hoàng Dung đa mưu túc trí, quả không sai. Bà sợ ta phản bội không về nên muốn giữ Tiểu long Nữ lại đây để làm con tin và cầm chân mình chứ gì. Bà này cao kiến thật". Nghĩ xong, để Hoàng Dung khỏi ngờ vực chi về mình Dương Qua vui vẻ nói luôn:

- Quách bá mẫu nói như vậy cũng phải, thôi một mình cháu và Quách bá bá cũng đủ rồi.

Lập tức hai người cùng nai nịt gọn gàng, lên yên giục ngựa nhắm trại giặc trực chỉ. Không đầy nửa giờ sau, hai bác cháu đã tới trại Mông Cổ.

Hốt Tất Liệt nghe quân phi báo có Quách Tỉnh sang dinh thì nửa sợ nửa mừng, vội truyền cho mời vào trong dinh đàm đạo.

Quách Tỉnh bước vào căn lều to nhất ở giữa, nhìn thấy một thiếu niên ngồi ngay chính giữa, mặt vuông tai lớn, đôi mắt sâu sáng quắc, diện mạo uy nghi đường bệ, bỗng giật mình nghĩ bụng:

- Hốt tất Liệt quả giống y cha nó là Đà Lôi như tạc.

Hình ảnh bao nhiêu ngày còn thiếu thời bỗng diễn ra trong ký ức. Quách Tỉnh nhớ lại mối tình bè bạn thắm thiết giữa mình và Đà Lôi khi còn thơ ấu cùng chung sống tại sa mạc Mông Cổ, bất giác chạnh lòng cảm động rưng rưng hai dòng nước mắt.

Hốt tất Liệt vội vã đứng lên bước ra tận cửa nghênh tiếp, chắp tay xá dài Quách Tỉnh và thưa rằng:

- Kính chào Quách đại hiệp. Ngày phụ vương tôi còn sanh tiền vẫn thường nhắc tới bác luôn luôn. Ngày nay được diện kiến cùng bác quả thật là một điều vinh hạnh cho kẻ hậu sinh này.

Quách Tỉnh chắp tay đáp lễ rồi ung dung nói:

- Đà Lôi nghĩa huynh cùng tôi kết tình "ân đáp" thân tình hơn cốt nhục. Ngày tôi còn thiếu thời đã sống bao năm nương nhờ dưới trướng của Thái Tổ Đại Hãn. Không ngờ ngày nay tôi còn sống sót mà bạn thiết đã qua đời khiến tôi rất đau lòng xót dạ.

Hốt tất Liệt thấy Quách Tỉnh ăn nói thành thực, đã có cảm tình ngay và nhớ đến cha mình, cũng muốn ra nước mắt. Sau đó Hốt tất Liệt giới thiệu Quách Tỉnh cùng Doãn khắc Tây và bọn Tiêu tương Tử...

Quách Tỉnh uống xong một ly sữa tươi rồi vẫn chưa thấy hai anh em họ Võ thì đã có bụng lo muốn cất tiếng hỏi thăm nhưng Hốt tất Liệt đã gọi lính hầu ra lệnh:

- Quân bay mau mời hai vị thiếu niên họ Võ ra đây.

Bọn vệ sĩ lãnh mạng lui ra, một chập sau hai anh em họ Võ được dẫn vào. Hai người bị trói thúc hai cánh tay ra sau lưng, quần áo tả tơi, mặt mày tiều tụy. Khi vừa thấy Quách Tỉnh, cả hai xấu hổ và lo sợ, cúi mặt chẳng dám nhìn lên, miệng sẽ gọi:

- Sư phụ!

Hốt tất Liệt nạt tả hữu:

- Ta đã dặn bay đối đãi tử tế với hai vị này, tại sao bây lại đem trói người ta như vậy? Hãy mau mau mở trói lập tức.

Bọn vệ sĩ thất thanh dạ ran và vội vàng chạy lại mở trói. Nhưng vì dây gân bò cột chặt, nút bị gút cứng, chúng mở mãi không ra. Tức thì Quách Tỉnh đứng dậy, bước lại gần, đưa tay bấm vào mất nút dây. Ngón tay của ông sờ tới đâu thì mối dây gân bò đều đứt tiện rơi xuống đất hết.

Hốt tất Liệt truyền mang rượu ra đãi anh em họ Võ. Nhưng Quách Tỉnh nóng lòng muốn cho hai người sớm thoát khỏi hang hùm nên đứng dậy chắp tay vái dài và nói:

- Hai tên súc sinh này vì còn nhỏ tuổi lau chau chưa biết oai hùm lớn nhờ quí vị thương tình và đã cho chúng một bài học đích đáng để ngày sau xử mình, tôi rất lấy làm cám ơn lắm lắm. Bây giờ xin các lỗi cùng quí vị cho chúng nó được về trước.

Rồi không cần ý kiến bên này, ông xua tay sang hai anh em họ Võ khoát tay bảo:

- Hãy làm lễ tạ ơn rồi về ngay, thông báo cho Lữ Đại Nhân biết rằng cần phải canh phòng nghiêm ngặt, bất cứ có một biến cố nào xảy ra cũng không được khai hành, và để phòng địch quân đánh úp nghe chưa.

Lời nói của Quách Tỉnh uy nghiêm khiến cho Hốt tất Liệt cũng hiểu dụng ý của Quách Tỉnh muốn bảo rằng dù sao thành Tương Dương vẫn liều chết phòng thủ chứ không bao giờ chịu đầu hàng giặc.

Võ Tu Văn và Đôn Nho bái tạ rồi lui ra.

Hốt tất Liệt cười nói:

- Chắc bác không biết gì về chuyện hai anh em người này đến đây để hành thích cháu.

Quách Tỉnh gật đầu đáp:

- Vâng, quả tình tôi không hề hay biết gì hết. Bọn này còn trẻ người, cạn nghĩ đã hành động điên rồ, gây nhiều sự rắc rối quá.

Hốt tất Liệt cười ha hả nói luôn:

- Giữa bác và cháu, chúng ta đã quen biết thân tình cùng nhau ba đời rồi, chắc không bao giờ bác nỡ dùng thủ đoạn ấy đối với nhau.

Quách Tỉnh nghiêm giọng đáp:

- Cũng đúng mà cũng có thể không. Phàm gặp việc công phải gác việc tư lại. Xưa kia nghĩa huynh Đà Lôi đem quân vây đánh thành Tương Dương, tôi đã có ý hành thích nghĩa huynh để lui binh địch và cứu nguy cho xã tắc. Cũng may khi chưa thi hành kịp mưu này thì nghe tin Thái Tổ đau nặng, truyền Mông Cổ rút quân về nước lập tức. Nhờ vậy nên tôi mới giữ trọn danh tiết. Ngày xưa cố nhân có dạy "đại nghĩa diệt thân" nếu gặp đại nghĩa cũng có thể giết cả người thân để làm tròn sứ mạng, huống chi là tình bằng hữu?

Ông nói với một giọng rộn ràng uy nghi, khiến cho bao nhiêu kẻ như Kim Luân, Doãn khắc Tây thẩy đều nhìn nhau biến sắc.

Mấy câu nói này khiến Dương Qua rung động cả cõi lòng và suy nghĩ: "Phải rồi. Vì đại nghĩa mà giết nghĩa huynh nghĩa đệ. Việc đây đã trở thành ngón sở trường của mi rồi. Không rõ xưa kia cha ta đã làm chi nên tội mà khiến cho mi phải dứt tình bằng hữu để hạ thủ ông ấy?". Nghĩ đến đây, máu phục thù này sùng sục trong huyết quản.

Quách Tỉnh tuy nói trắng ra như vậy nhưng Hốt tất Liệt không giận mà tươi cười hỏi:

- Nếu vậy sao bác bảo hai anh em họ Võ làm việc này để gây thêm điều rắc rối?

Quách Tỉnh đáp luôn:

- Gây rắc rối là vì chúng không biết lượng sức, đi hành thích bất thành khiến cho địch đề phòng chặt chẽ và gây rắc rối cùng khó khăn cho công việc những kẻ làm sau.

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 55 : Vì Nứớc Quên Tình Nhà

Ngay lúc đó có tiếng người cười ha hả trên mái ngói, rồi nói lớn:

- Tôi là người mang thơ của Quốc Sư Mông Cổ đến đây, nhưng không ngờ quý vị lại tiếp khách trong bóng tối như thế này, lạ thực.

Nghe giọng nói, mọi người đoán biết tên này là Hà Đô một đệ tử của Kim Luân Pháp Vương. Hoàng Dung đâu có chịu nhịn, bèn nói khích lại:

- Chúng ta tùy theo người mà tiếp đãi. Giữa thanh thiên bạch nhật thì tiếp người quang minh lỗi lạc, còn trong bóng tối lại tiếp những phường chuột nhắt ăn sương.

Hà Đô cứng họng không biết đối đáp ra sao, vội phi thân nhảy xuống sân và nói lớn:

- Kim Luân Pháp Vương sai tôi mang thư kính dâng Quánh đại hiệp.

Hoàng Dung đưa tay mở rộng cánh cửa phòng bảo lớn:

- Vậy xin mời vào trong.

Hà Đô ái ngại nhìn vào trong bóng tối đen, không dám vào, cứ đứng lẩn quẩn ngoài phòng mãi, rồi nói tiếp:

- Thư đây này, xin nhận lấy.

Hoàng Dung cười lớn bảo:

- Đã tự xưng là khách tại sao người ta mời vào mà không dám vào?

Hà Đô đáp:

- Người quân tử không khi nào vào nơi ám địa, sợ có kẻ tiểu nhân dụng kế ám hại bất ngờ.

Hoàng Dung mắng lại ngay:

- Tự xưng là quân tử mà lấy dạ tiểu nhơn để độ lòng người sao không biết nhục?

Hà Đô thẹn quá đỏ mặt, chỉ ấp úng không biết trả lời làm sao. Hắn cố đem hết tinh thần vào đôi mắt nhìn thử vào trong, nhưng mọi vật đều nhuộm một màu đen tối, hắn bèn dùng hai tay cầm thư chìa vào ngưỡng cửa. Ngay lúc ấy, Hoàng Dung thọc gậy ngay vào giữa mặt khiến hắn giật mình hết vía, muốn ngã ngửa ra sau, nhìn lại thì phong thư đã biến đâu mất rồi. Té ra Hoàng Dung dùng gậy lấy phong thư chứ không phải dụng ý đâm hắn như hắn đã lầm tưởng. Thẹn quá, Hà Đô chẳng biết làm gì hơn nữa, chắp tay nói:

- Xin kính chào Hoàng Bang chủ.

Nói vừa dứt lời y quay quả lui ra. Nhưng Hoàng Dung thầm nghĩ: "Thành Tương Dương của chúng ta đâu phải chỗ xuất nhập tự do như mi hòng tưởng? Hôm nay ta phải cho mi nếm một bài học đích đáng để mi biết thân nhé". Vừa nghĩ xong, bà bèn chụp lấy bình trà trên mặt bàn hất mạnh ra ngoài cửa một cái. Một dòng nước từ trong vòi trà bắn mạnh ra ngoài xẹt một đường xối mạnh vào người Hà Đô rát lạt, khiến cho từ đầu tới lưng hắn ướt mèm. Vì chất nước nóng và bắn quá mạnh, khiến cho y thất kinh nghi ngại không biết chất độc gì nên vội vàng lộn mình một vòng nhào đại ra sau để né tránh, nhưng đã muộn rồi.

Hoàng Dung thừa thế tung gạy gạt ngang, khi chân hắn vừa chạm trên mặt đất đã bị gậy quẹt té lăn cù nằm dài trên mặt đất. Ngay khi đó hai anh em họ Võ nghe tiếng nói cùng nhau chạy tới. Hoàng Dung ra lệnh trói Hà Đô lại tức thì. Hai người tuân lệnh, cùng xông lại. Nhưng khi chưa đụng tới người hắn thì thảy đều bị điểm trúng huyệt mình mẩy cứng đơ. Thừa dịp có hai anh họ Võ che trước mặt, Hà Đô lanh chân tung mình nhảy trái ra ngoài tẩu thoát. Nhưng khi chân hắn vừa đặt trên đầu tường thì Hoàng Dung đã cảnh cáo:

- Mi đã trúng độc của ta rồi mà chưa biết thân còn tìm đường trốn tránh làm chi nữa cho thiệt thân?

Hà Đô nghe nói hoảng kinh hồn vía nên nghĩ thầm:

- Trời ơi thuốc độc hèn chi nóng bỏng cả da thịt. Không biết đây thuộc loại thuốc độc gì?

Nhìn vẻ mặt ngơ ngác lo âu của hắn, Hoàng Dung đã thừa đoán rõ tim đen của hắn rồi nói thêm để áp đảo tinh thần hắn đang dao động:

- Mi trúng thuốc độc nhưng chưa biết tên của nó thành thử dù có chết cũng không yên lòng. Để mi khỏi ức lòng lúc nhắm mắt, ta cũng làm ơn báo cho mi biết nhé. Độc dược này tên gọi là "Tý ngọ kiến cốt".

Hà Đô ngơ ngác nói nhỏ:

- Tý ngọ kiến cốt ư?

Hoàng Dung cười lớn và nói thêm:

- Phải đấy, Kẻ nào trúng phải thuốc độc này vào người hồi giờ Tý thì qua giờ Ngọ không còn hồn nữa. Như thế thì trong vòng mười hai tiếng đồng hồ nữa thôi thì mi sẽ theo ông bà về chầu Diêm chúa.

Hà Đô nghe nói rụng rời tay chân, xửng lửng đứng trên bờ tường tâm thần ngơ ngác, không biết nên xuống hay nhảy ra ngoài. Nhưng Hoàng Dung đoán thấy y cũng là người lanh lẹ, nếu để kéo dài e phát giác ra sự thật, nên mở lời:

- Ta với mi vốn không thù không oán, nếu mi không tỏ lời vô lễ ngạo mạn thì đâu đến nỗi chết tức tối như thế này. Thật cũng đáng tiếc.

Hà Đô nghe nói có vẻ ít gắng thì trong bụng hy vọng còn có cơ cứu vãn. Hắn cố dìm lòng tự ái từ trên tường vọt xuống, phủ phục trước mặt Hoàng Dung thưa lớn:

- Kẻ tiểu nhân trót dại khờ xúc phạm đến bề trên, xin Hoàng Bang chúa niệm tình nhất thứ.

Từ trong phòng tối, Hoàng Dung búng ra một viên "cửu hoa ngọc lộ" và bảo lớn:

- Hãy uống ngay đi.

Hà Đô mừng quá hai tay chộp lấy viên thuốc bỏ ngay vào miệng nuốt liền. Thuốc vừa qua khỏi cổ bỗng nghe thấy thơm tho và mát rượi, khiến toàn thân cảm thấy sảng khoái vô cùng. Một luồng sình khí từ đan điền xông ra tỏa khắp châu thân, cả tứ chi đêu thấy nhẹ nhàng thư thái. Hắn vái dài một cái và nói:

- Thành thật cảm tạ Hoàng Bang chúa thương tình cứu mạng.

Nói rồi khép nép thụt lùi sân ra tận vách tường rồi mới nhảy lên đi mất.

Hà Đô đi khỏi, Hoàng Dung thở ra một hơi dài rồi ngồi lên chiếc ghế nghỉ cho bớt mệt. Một chập sau Tiểu long Nữ đốt đèn lên, bà bóc thư ra đọc:

"Đệ nhất quốc sư Mông Cổ là Kinh Luân Pháp Vương kính gửi Quách đại hiệp.

Thật hân hạnh được tiếp xúc hôm nay cùng Quách đại hiệp, nhưng rất tiêc là Quách đại hiệp lại vội ra đi. Để phỉ tình mong ước, xin kính báo trước là ngày mai tôi sẽ tới tận quý phủ để viếng đại hiệp. Mong đại hiệp đừng để cho kẻ này bị thất vọng".

Đọc xong bức thư Hoàng Dung thấy đổ mồ hôi hột. Bà bèn trao cho Tiểu long Nữ và Dương Qua cùng xem và nói thêm:

- Thành Tương Dương tuy kiên cố nhưng làm sao cản được những tay cao thủ võ lâm? Hiện nay Quách bá phụ của cháu hoang mang, bệnh chưa khá, ta lại gần ngày sinh đẻ. Nếu công khai nghênh chiến thì phần thất bại chắc về phần ta. Cháu nghĩ sao?

Dương Qua ấp úng nói:

- Quách bá phụ...

Nhưng Tiểu long Nữ đã cắt ngang câu nói của chàng:

- Anh cứ lo toàn những chuyện viển vông của thiên hạ đến nỗi mang thương tích và trọng bệnh như thế hoài.

Hoàng Dung nghe nói có bụng nghi ngờ nên nói dò:

- Long cô nương, hiện nay Dương Qua và Quách bá phụ đang đau nặng, nơi đây chỉ còn một mình Chu tử Liễu may ra có thể giúp sức được mà thôi. Cô có thể giúp cho chúng tôi không?

Tiểu long Nữ tánh tình chân thật nghĩ sao nói vậy không biết lời lẽ môi miếng gì hết:

- Hiện nay tôi chỉ biết lo cho Dương Qua lành bệnh mà thôi ngoài ra không còn điều gì phải bận tâm nữa.

Câu nói cộc lốc càng khiến Hoàng Dung nghi ngờ hơn nữa. Bà bèn mời nàng về phòng riêng gạn hỏi. Con người của Tiểu long Nữ thành thật thẳng thắn đã quen không thể giấu giếm ai được một điều gì cho nên nàng đã nói rõ đầu đuôi câu chuyện cho Hoàng Dung nghe. Từ khi gặp lại Dương Qua tại động Thủy tiên, trúng độc Tình hoa, nào là cuộc mưu sát hại vợ chồng Quách Tỉnh để đổi thuốc độc, mọi việc ra sao nàng đều thuật lại rõ ràng không thiếu một chi tiết.

Hoàng Dung nghe nói vô cùng ngạc nhiên. Lúc đầu bà ngờ Dương Qua muốn giết hại Quách Tỉnh là để trả thù cha mà thôi, nhưng thật không dè lại có câu chuyện bí ẩn như thế nữa. Bà không ngờ Cừu thiên Lý còn người em gái là Cừu thiên Xích, nên không thể tưởng tượng đến mối thù rắc rối này thêm. Mặc dù có những nguyên nhân này mà Dương Qua vẫn tận tình cứu giúp Quách Tỉnh cho đến mang trọng bệnh, thì quả là một tấm lòng hào hiệp đáng kính vô cùng. Hành động này không khác chi là một cuộc tự sát.

Hoàng Dung thở dài đứng dậy đi đi lại lại trong phòng không biết bao nhiêu bận, cố tìm cách đối phó với Kim luân Pháp vương. Thình lình từ phía ngoài có tiếng chân người chạy vào và có tiếng Quách Phù gọi rối rít:

- Mẹ ơi, mẹ...

Hoàng Dung đứng lại hỏi:

- Chuyện gì thế?

Quách Phù vừa khóc vừa nói:

- Hai anh em họ Võ đã đem nhau ra ngoài thành quyết đấu một trận sống còn. Họ thề một còn một mất mới trở về đây. Làm thế nào hở mẹ?

Hoàng Dung bực mình gắt:

- Chuyện quốc gia đã rối ren còn lắm chuyện trẻ con nữa? Mặc kệ chúng nó, đừng có bận rộn nữa.

Nói xong bà ngồi xuống ghế lặng thinh. Trong khi ấy Quách Tỉnh cựa mình, và ngoài kia trời đã rạng sáng. Quách Tỉnh nói khẽ:

- Em nhớ dặn hai anh em họ Võ phải canh phòng cẩn mật nhé. Quân địch biết anh đang trọng bệnh thế nào cũng thừa dịp đánh úp bất ngờ, nếu hở cơ sẽ trở tay không kịp đấy.

Hoàng Dung gật đầu vâng dạ. Bà không dám nói chuyện hai anh em họ Võ ra ngoài và cũng không hề thổ lộ việc Kim Luân hẹn tới đây, vì sợ Quách Tỉnh lo lắng có hại cho sức khỏe.

Quách Tỉnh lại hỏi thêm:

- Cháu Qua bệnh tình ra sao? Có khá hơn chút nào không?

Ngay lúc ấy, Dương Qua vừa tới trước cửa phòng, nghe nói liền lên tiếng đáp:

- Thưa Quách bá bá, cháu chỉ bị ngoại thương nhẹ, sau khi được bá mẫu cho uống "Cửu hoa ngọc lộ" đã bình phục lại rồi. Bá bá đừng lo ngại làm chi.

Từ khi Quách Phù vào phòng, Tiểu long Nữ bỏ đi ra ngoài Dương Qua nhìn quanh quất không thấy bóng Tiểu long Nữ đâu mới hỏi:

- Quách bá mẫu, cô nương tôi không vào đây sao?

Hoàng Dung đáp:

- Cô mới vừa nói chuyện cùng ta đó. Có lẽ mới bước ra ngoài chăng.

Dương Qua muốn rút lui ra ngoài để tìm Tiểu long Nữ, thì bỗng từ trần mái nhà tận đàng xa một chuỗi cười nổi lên theo gió sớm dội vào tận tai mọi người. Tiếp theo tiếng cười là những tiếng leng keng từ các vòng sắt phát ra nghe rùng rợn. Kim Luân Pháp Vương đã tới rồi.

Quách Tỉnh biến sắc, nắm tay Hoàng Dung kéo ra phía sau lưng mình để che giấu. Nhưng Hoàng Dung đã bình tĩnh nói:

- Tỉnh ca, anh hãy nghĩ lại xem thành Tương Dương quan trọng hay mối tình hai ta quan trọng? Mạng em và mạng anh, mạng nào hệ trọng hơn?

Nghe nói, Quách Tỉnh buông tay vợ ra đáp:

- Phải đó, việc nước trên việc nhà, tình chung hơn tình riêng chứ.

Hoàng Dung rút cây gậy trúc ra đứng ngay giữa nhà chờ đợi.

Nghe hai vợ chồng Quách Tỉnh đối đáp cùng nhau. Dương Qua bàng hoàng như sét nổ bên tai. Chàng lẩm bẩm:

- Phải, nợ nước trước tình nhà, việc chung lên việc riêng, đúng lắm.

Bao lần qua, chàng chẳng ngại gian nguy xả thân cứu Quách Tỉnh vì cảm kích bởi tấm lòng đại nghĩa của ông. Chàng muốn liều chết để xứng đáng với một tâm hồn cao thượng thanh cao ấy. Hôm nay được nghe thêm câu "việc nước trên tình nhà". Dương Qua bỗng sực nhớ lại câu nói của Quách Tỉnh đã thoát ra ngoài thành Tương Dương hôm nọ: "vị quốc, vị dân, hiệp chí đại giả". Bao nhiêu đó đã cởi mở tất cả những khúc chiết và gúc mắc từ lâu trong lòng chàng. Dương Qua suy nghĩ: "vợ chồng Quách bá bá tình thâm nghĩa trọng, nhưng gặp lúc nước nhà nguy biến, đã vì đại cuộc gác tình riêng qua một bên, huống chi ta đây, lúc nào cũng chỉ hẹp hòi trong việc báo thù riêng và vì mối tình cùng Tiểu long Nữ, đến nỗi quên cả cái cảnh nhà tan, hàng triệu bá tánh sanh linh đồ thán vì bàn chân quân giặc, so với tâm hồn Quách Tỉnh, mình còn thấp thỏi hèn hạ quá". Trong giây phút ấy, Dương Qua cảm thấy tâm tư cởi mở, đầu óc sáng suốt thanh thản vô cùng.

Ngày còn trên Đào Hoa đảo, Hoàng Dung thường dạy chàng mấy câu "sát nhân thành nhân, xá sinh thù nghĩa", bây giờ các câu ấy hiện lại rành rành trong trí óc, khiến chàng cảm thấy thẹn thùng, muốn làm một việc gì cao thượng để bù lại với những cử chỉ và tư tưởng hẹp hòi và vị kỷ của mình. Với những ý nghĩ ấy, Dương Qua tự thấy cõi lòng phấn khởi và xem thường tất cả mọi nguy hiểm.

Hoàng Dung liếc mắt theo dõi thái độ Dương Qua. Bà thấy chàng có vẻ thẫn thờ như hổ thẹn, dần dần đôi mắt sáng lên như có điều gì kích động, và sau cùng trở nên bình tĩnh, nên không hiểu trong thâm tâm chàng đang suy nghĩ những gì. Bà đang suy nghiệm thì Dương Qua đã rút phăng thanh Quân tử kiếm nhảy lại đứng cạnh Hoàng Dung, miệng nói:

- Xin bá mẫu cứ bình tĩnh, tôi xin hết lòng cùng bá mẫu để đối phó với bọn dã man này.

Ngay lúc đó, Kim Luân Pháp Vương, hai tay cầm hai chiếc vòng đang đứng trên mái ngói, cười lớn, nói:

- Dương Qua, con người như mi phản phúc không chừng, sớm đầu tối đánh, quả không bằng một đứa tiểu nhân. Mày có tự thấy hổ thẹn không?

Dương Qua vẫn điềm tĩnh tươi cười đáp lại ngay:

- Kim Luân, lời mi nói chí lý lắm đấy. Nhưng mi có biết tại sao ta đổi ý giúp sức Quách Tỉnh về tới thành Tương Dương rồi trốn ở xó nào mất tích đến nay ta chưa tìm ra được, mi có biết lão đang ở chốn nào không?

Miệng đáp, chàng đã phi thân lên nóc nhà, đứng cách Kim Luân chừng vài thước mà thôi.

Kim Luân nghe Dương Qua hỏi, khẽ liếc chàng một cái trong lòng phân vân suy nghĩ: "Thằng bé này thật quỷ quyệt nhiều mưu kế, không biết nó nói thật hay nói đùa nữa dây?

Y mỉm cười nhìn Dương Qua hỏi lại:

- Nếu mi gặp hắn thì sao?

Dương Qua đáp ngay:

- Thì ta sẽ vung kiếm lên...

Miệng đáp, tay đưa kiếm lên cao làm ra vẻ muốn đâm xuống.

Kim Luân ngạc nhiên hỏi:

- Sao, mi dám đâm Quách Tinh ư?

(mất 2 trang)

Nghĩ xong chàng cất tiếng gọi lớn:

- Cô nương, có tôi tiếp chiến đây này.

Nói xong vũ lộng thanh kiếm tấn công thật mạnh khiến Kim Luân phải thối lui mấy bước rồi tung mình chạy tới chỗ Tiểu long Nữ. Thấy Dương Qua chạy đi rồi, Kim Luán không đuổi theo mà chỉ lo băng bó vết thương rồi cúi xuống phía dưới nhà thét lớn:

- Quách Tỉnh đã trốn xó nào, có giỏi hãy ra đây xem thử?

Kêu gọi nói khích hồi lâu không thấy Quách Tỉnh đáp lại, y nổi nóng nghĩ ra rồi nhảy xuống dưới châm mồi phóng hỏa. Hắn chạy một vòng đốt luôn năm sáu chỗ, lửa bốc ngất trời. Thấy lửa cháy ngùn ngụt Kim Luân đắc chí nghĩ bụng: "Lửa cháy như vầy, xem mi trốn đàng nào cho biết".

Dương Qua thấy lửa đỏ rực trời thất kinh nghĩ bụng: "Quách bá bá đang mang bệnh, Quách bá mẫu lại gần ngày sanh nếu vì lửa cháy chạy ra gặp Kim Luân thì làm sao chống cự lại". Nghĩ xong, chàng xách kiếm trở vào phòng tìm Quách Tỉnh. Khi tới gần giường, thấy Hoàng Dung đang ngồi cạnh Quách Tỉnh nằm mê man, nhưng nét mặt bà vô cùng bình tĩnh, không lộ chút gì là rối loạn, hình như xung quanh không có điều gì xảy ra hết. Dương Qua bước lại gần khẽ bảo:

- Quách bá mẫu. Để cháu dụ địch ra ngoài rồi bá mẫu dìu Quách bá phụ lánh đi nơi khác tỵ nạn nhé.

Nói xong, chàng giật chiếc mũ của Quách Tỉnh đang đội rồi vọt ra ngoài đi mất. Hoàng Dung đang bỡ ngỡ chưa biết chàng toan tính việc chi, nhưng thấy khói lửa rợp trời, trong phòng cũng tràn ngập những lửa thì đứng dậy đỡ Quách Tỉnh nói nhỏ:

- Thôi, chúng mình đi nơi khác.

Vừa định rời đi thì bỗng nhiên trong bụng đau quặn từng cơn, tay chân rời rã đứng không vững nữa. Bà liền ngồi trở xuống, nghiến răng nói thầm:

- Tại sao không để khi khác, lại lựa khi nguy ngập như thế này mà đẻ, ác thật!

Bụng càng đau gắt và sắp sanh.

Dương Qua chạy ra khỏi cửa, nhìn qua làn khói lửa mịt mù thấy quân lính xôn xao tấp nập, tiếng la hét vang trời. Kẻ lo chữa lửa, người lo đánh nhau và bắn lên mái ngói. Trong khi ấy những người đang đánh nhau chia thành ba toán rõ rệt. Tiểu long Nữ cự với Tiêu tương Tử và Ni ma Tinh, Chu tử Liễu chống với Đạt nhĩ Ma và Hà Đô. Phía gần đấy, Kim Luân pháp Vương múa tít đôi vòng bao phủ khắp mình Quách Phù, tuy không cố giết hại nàng nhưng muốn bức bách nàng phải khai chỗ ẩn nấp của cha mẹ để tới bắt.

Quách Phù đầu tóc rối bời, nghiến răng trợn mắt quyết tử chiến với Kim Luân chứ không chịu khai.

Dương Qua thoát ra khỏi cửa thấy một tên quân thân hình vạm vỡ đang cầm cung bắn lên mái nhà. Chàng đưa tay điểm huyệt cho nó mê man, đem chụp cái mũ Quách Tỉnh lên đâu rồi cõng lên vai, phi thân bay lên nóc nhà bên cạnh. Kim Luân đang bức bách Quách Phù, trông thấy Dương Qua cõng một người đầu đội mũ chạy trên mái ngói, bèn bỏ nàng, phi thân đuổi theo bén gót. Tiêu tương Tử, Ni ma Tinh và Đạt nhĩ Ma cũng vừa trông thấy, ai ai cũng bỏ cuộc đấu, băng mình đuổi theo tới tấp.

Dương Qua chạy ngang qua mặt Tiểu long Nữ, đưa mắt nhìn nàng nhoẻn một nụ cười hóm hỉnh, chưa biết dụng ý gì. Tiểu long Nữ thấy vậy biết chàng đã có mưu mô chi đây nên trong bụng cũng đỡ lo.

Ngay lúc ấy, từ phía dưới, giữa đám khói lửa có tiếng con nít khóc oa oa. Quách Phù lắng tai nghe rồi vỗ tay nói:

- Đẻ rồi, mẹ em đã đẻ em bé rồi!

Reo xong nàng phi thân xuống dưới chạy tìm. Tiểu long Nữ cũng động tính hiếu kỳ, bèn chạy theo Quách Phù xem thử em bé ra sao.

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 56 : Chiếm Đoạt Hài Nhi

Kim Luân nhắm theo Dương Qua đuổi riết, mỗi lúc khoảng cách càng gần thêm, khiến lão càng phấn khởi đuổi nhanh hơn nữa, lòng thầm nghĩ: "Phen này bọn bây không thể nào thoát khỏi tay ta được nữa".

Dương Qua vừa chạy vừa lắng tai nghe tiếng chân dồn dập đuổi theo. Bỗng nhiên chàng sa mình xuống đường cái rồi cứ theo những ngõ phố khúc khuỷu chạy quanh co mãi. Chạy vòng quanh được một chặp thì bọn Tiêu tương Tử và Chu tử Liễu cũng vừa theo kịp. Vừa trông thấy Dương Qua chui vào một ngõ hẻm. Kim Luân Pháp Vương bảo Ni ma Tinh:

- Nhờ ngươi đứng chận đầu ngõ này chờ tôi vào trong lùa hắn chạy ra nhé.

Nhưng Na ma Tinh quắc mắt nhìn lại thét:

- Việc ai nấy làm, chuyện chi ngươi điều khiển cả ta nữa?

Kim Luân vừa tức vừa thẹn, không đáp lại, phi thân vọt lên cao phóng tầm con mắt nhìn vào phía trong, thấy Dương Qua đang cõng Quách Tỉnh đứng nép mình vào góc tường nghỉ mệt, há miệng thở hổn hển. Kim Luân Pháp Vương mừng quá sức, vừa định sa xuống để bắt thì Dương Qua bỗng quay mình chui thẳng vào một khoảng nhà đang bốc khói mù mịt, không trông thấy gì nữa hết. Kim Luân đang nhướng mắt cố tâm tìm

kiếm, bỗng có tiếng Đạt nhĩ Ma rú lên mừng rỡ:

- Đây rồi, hắn nấp đây rồi.

Kim Luân Pháp Vương như mở cờ trong bụng, bất chấp lửa khói tung mình sà tới nơi, thì thấy Dương Qua đang dồn Đạt nhĩ Ma vào trong một góc hẻm, có phần lúng túng, ông vội vàng ném một chiếc vòng đề giải nguy cho đồ đệ, không ngờ chiếc vòng lại đúng vào lưng Quách Tỉnh. Kim Luân mừng quá la lớn:

- Trúng rồi, đã đánh trúng Quách Tỉnh rồi.

Miệng la, chân nhảy, toàn thân lão chồm hẳn về phía trước, vươn cánh tay thật dài định thộp vào lưng Quách Tỉnh. Nhưng ngay lúc đó Dương Qua thoáng nghe gió thổi tạt tới vội phi thân đánh mạnh vào ngực Đạt nhĩ Ma một đòn như trời giáng để cướp đường chạy tới. Nhưng chàng vừa thoát qua một ngõ hẻm, ló đầu ra một khúc quanh đã nghe tiếng cười đắc chí bảo:

- Chạy đi đâu, ta chờ đã lâu rồi. Phen này con chỉ phải đầu hàng thôi con ạ.

Dương Qua ngước mặt nhìn lên, thấy Tiêu tương Tử hoành gậy đứng chặn giữa đường, hiu hiu tự đắc. Sau lưng có người đuổi, trước mặt lại có kẻ địch đón đường, Dương Qua liếc mắt nhìn xa một tý thấy trên đầu tường, Ni ma Tinh cũng cầm roi chực sẵn từ lúc nào. Dương Qua không chút suy nghĩ, phi thân phóng đại lên đầu tường ném Quách Tỉnh vào giữa mặt Ni ma Tinh, miệng hô lớn:

- Tặng mi lão Quách Tỉnh đấy.

Ni ma Tinh mừng quá, đưa tay ôm chầm lấy Quách Tỉnh, trong lòng hân hoan với kết quả bất ngờ, nhưng ngay lúc đó Dương Qua đã vọt thẳng lên cao phóng chân tặng luôn một ngọn cước lọt tuột xuống đường. Mặc dù bị đá văng lộn nhào mấy vòng nhưng Ni ma Tinh vẫn ôm chặt lấy Quách Tỉnh, miệng la không ngớt:

- Được rồi, chính ta đã bắt được Quách Tỉnh đây rồi.

Nhưng Đạt Nhĩ Ma và Tiêu Tương Tử đâu để cho hắn được yên thân với thành tích bất ngờ ấy, cả hai cùng nhào tới để đoạt lại. Thế rồi mỗi người túm được một cánh tay, ra sức kéo mạnh về phía mình. Cuộc giằng co giữa ba người khiến cho tên lính khốn nạn bị toét thành ba mảnh, mỗi người nắm một phần. Khi chiếc nón trên đầu hắn vừa văng xuống đất, mọi người nhìn lại thấy mặt mày hắn ốm nhom không phải là Quách Tỉnh. Ba người vừa mắc cỡ vừa bực tức, thảy đều bàng hoàng đứng trân như ba pho tượng.

Kim Luân thấy Dương Qua phóng Quách Tỉnh...

(mất 2 trang)

Năm chiếc vòng lộng lên như gió cuốn, cố áp đảo đối phương như bị kiếm quang của hai người dệt thành một bức tường thành kiên cố chận đứnglại. Kim Luân thở dài than rằng:

- Mặc dù ta đã khai triển hết tài năng vào năm chiếc vòng này nhưng cũng không thể nào qua được lối "lưỡng kiếm liên hoàn" này.

Trong khi còn lo lắng phân vân chưa biết đối phó ra sao cho ổn, bỗng nhiên có tiếng trẻ nít khóc oa oa từ trong bụng Tiểu long Nữ phát ra, khi khiến ai nấy vừa ngạc nhiên vừa buồn cười.

Tiểu long Nữ đưa tay xoa nhẹ vào bụng dỗ:

- Em hãy nín đi và nằm yên xem chị hạ sát thằng cha trọc đầu này.

Không ngờ, nàng càng dỗ đứa bé càng khóc to hơn. Dương Qua hỏi nhỏ:

- Có phải con của Quách bá mẫu không?

Nàng khẽ gật đầu rồi thuận tay đâm vút một gươm vào bụng Kim Luân. Ông tung vòng đỡ nghe "choang" một tiếng, xẹt lửa sáng ngời.

Dương Qua hỏi thêm:

- Bà vẫn mạnh khoẻ chứ? Cả bá bá cũng vậy phải không?

Nàng kể:

- Hoàng bang chủ vừa đỡ Quách đại hiệp bước ra khỏi căn nhà cháy...

Nàng vừa nói tới đây bỗng chiếc vòng sắt của Kim Luân vừa giáng xuống, phải ngừng nói để đỡ và nói tiếp:

- Bà đã đẻ trong khi nhà sắp sập thì tôi bồng được đứa bé này.

Dương Qua vừa tung gươm tấn công Kim Luân vừa hỏi tiếp:

- Con gái phải không?

Nàng đáp:

- Vâng, con gái. Cậu hãy ẵm lấy nó đi.

Miệng nói tay thò vào bọc lôi đứa bé ra trao cho Dương Qua. Nhưng đứa bé la khóc om sòm và ba chiếc vòng của Kim luân cứ loang loáng trên đầu hai người, chực hở cơ là đánh xuống. Vì ông tấn công quá gắt nên Dương Qua không còn cách nào tiếp nhận đứa trẻ cho được.

Tiểu long Nữ nóng ruột giục:

- Cậu hãy bồng đứa bé này, cưỡi con tiểu hồng mã gấp rút đi.

Chiếc vòng của Kim Luân lại xẹt xuống lanh như chớp làm đứt ngang lời nói của nàng.

Đánh thêm mấy hiệp nữa, vì bận phải đứa bé nên hai người bị lúng túng, dần dần yếu thế. Tiểu long Nữ kinh hãi nói:

- Lần này chúng ta khó thắng được lão. Thôi! cậu bồng đứa bé này phi ngựa vào động tuyệt tình cho mau...

Nghe tới đây, Dương Qua bỗng hiểu được thâm ý của Tiểu long Nữ. Trong thời gian bảy ngày, với tốc lực của tiểu hồng mã cũng có thể về kịp động thủy tiên. Nàng muốn ta mang đứa bé này thay thế đầu lâu của Quách Tỉnh và Hoàng Dung. Vì mặc dù không giết hai người nhưng bắt con họ mang đi thì thế nào họ cũng tự tìm đến, chừng đó mặc cho bà Cừu thiên Xích đối phó. Trong khi bà Cừu thiên Xích bị cắt hết gân không thể chiến đấu đàng hoàng, tất nhiên bà phải giao luôn nửa viên thuốc kia cho ta uống để lành bệnh và đủ sức đối phó lại với vợ chồng Quách Tỉnh. Giá hai ngày trước đây thì thế nào Dương Qua cũng vui vẻ thi hành kế này. Nhưng thời gian qua vì đã quá cảm kích về tấm lòng tha thiết yêu nước của Quách Tỉnh nên chàng không thể nào làm được một chuyện thiếu minh bạch như thế. Chàng dứt khoát không đồng ý nên trả lời ngay:

- Tôi không làm được việc như thế đâu.

Tiểu long Nữ thất sắc hỏi lớn:

- Sao, ngươi nói sao?

Ngay lúc ấy, Kim Luân đánh trúng tay nàng khiến đứa bé bị sút khỏi tay rơi ngay xuống đất. Cả Dương Qua cùng Tiều long Nữ, hai người thất thanh rú lên một tiếng cúi xuống bồng lên, nhưng đã muộn rồi. Qua cuộc nói chuyện vừa rồi, Kim Luân cũng thừa hiểu đứa hài nhi này là con của Quách Tỉnh, đã có lòng muốn chiếm đoạt làm con tin. Khi thấy đứa bé sút khỏi tay Tiểu long Nữ sắp rơi xuống đất ông bèn vung ra một chiếc vòng xoay tròn đỡ nhẹ dưới lưng đứa bé.

Cả ba người cùng lanh như ba cái bóng ma bay vút theo định cướp lấy đứa bé. Dương Qua nhờ đứng gần nhất lại có tài khinh công cao diệu nên nhảy đến gần quay luôn mấy vòng, lòn ngay xuống dưới đỡ vào đứa bé. Bỗng đâu có một cánh tay hiện ra hất nhẹ chiếc vòng qua một bên đỡ nhẹ đứa bé rồi quay mình chạy mất.

Dương Qua đang lồm cồm ngồi dậy, Tiểu Long Nữ và Kim Luân cùng tới một lượt nhưng thảy đều trật hết. Vừa thoáng thấy bóng người ấy, Tiểu long Nữ la lớn:

- Sư tỷ!

Dương Qua thoáng thấy người ấy mặc áo vàng, tay cầm chiếc phất trần, rõ ràng là Lý mạc Thu không sai.

Tiều long Nữ gọi lớn:

- Sư tỷ! Chị mang đứa nhỏ đi đâu thế? Hãy trả lại đây.

Lý mạc Thu mỉa mai đáp:

- Tất cả các đệ tử trong Cổ mộ đều là xử nữ, chỉ riêng ngươi lại có con, thật không biết xấu hổ.

Tiểu long Nữ nổi nóng thét lớn:

- Nói xàm, đứa bé này không phải con ta, hãy trả lại lập tức.

Nàng hít một hơi dài lấy sức rồi định dùng khinh công đuổi theo bắt lại, bỗng nhiên có một cái bóng xam xám lờ mờ từ đâu lao đến cản ngay trước mặt, và hỏi nhỏ:

- Cô nương vẫn bình an đấy chứ?

Tiểu long Nữ không thèm nhìn lại người ấy, chỉ né qua một bên định bước lên chạy về phía trước đuổi theo Lý mạc Thu, nhưng người ấy dùng quạt khẽ điểm vào vai nàng hỏi nhỏ:

- Sao cô nương nỡ vô tình đối với tôi lắm vậy?

Tiểu long Nữ nhìn ra phía trước, tràn sang một bên miệng đáp:

- Ta đang bận lắm.

Người ấy lại dùng quạt điểm nhẹ vào vai bên kia của nàng và nói thêm:

- Dù sao cô nương cũng cảm phiền dừng lại một giây cho tôi giãi bày câu chuyện.

Trong lúc ấy Lý mạc Thu. Kim luân Pháp Vương và Dương Qua đã chạy quá xa nên Tiểu long Nữ dừng chân lại, liếc mắt nhìn qua thấy kẻ đó chính là Hoắc Đô Vương Tử. Hắn đang nhăn nhó cười tình, tay phe phẩy chiếc quạt to tướng. Nàng bỗng xuay mình dùng kiếm đâm nhanh vào vai mặt hắn một nhát. Khi mũi kiếm sắp chạm tới vai, nàng thu ngay lại và đảo sang vai trái lẹ như chớp nhoáng. Vì ngón đòn tráo trở bất ngờ nên Hoắc Đô tránh né không kịp lãnh một vết thương bên vai máu chảy đỏ áo.

Tiểu long Nữ nhân cơ hội này lòn sang một bên rồi triển khai khinh công đuổi theo bọn Dương Qua như mũi tên xẹt. Lúc bấy giờ từ trong đến ngoài thành, đâu đâu cũng đầy tiếng quân hò ngựa hí vang trời. Tiểu long Nữ chạy tới đây vừa gặp Lỗ hữu Cước đang đốc xuất bộ hạ chữa cháy. Vừa gặp Tiểu long Nữ ông đã hỏi ngay:

- Long cô nương, có thấy Hoàng Bang chúa và Quách đại hiệp đâu không Hai người chắc cũng mạnh giỏi cả chứ?

Tiểu long Nữ không trả lời mà hỏi vặn lại:

- ông có gặp Dương Qua, Kim Luân Pháp Vương và một người đàn bà bồng một đứa bé mới đẻ chạy về hướng này không?

Lỗ hữu Cước chỉ ra ngoài thành nói lớn:

- Ba người ấy đang chạy về hướng này và nhảy xuống thành này. Tiểu long Nữ ngạc nhiên nhìn về phía tay chỉ, thấy thành cao vòi vọi nên nghĩ thầm:

- ủa, bờ thành quá cao như thế, sao họ nhảy xuống được kia?

Còn đang đứng ngẩn người suy nghĩ, bỗng thấy một tên thân binh đang tắm cho con Tiểu Hồng mã cạnh đó. Nàng chợt nghĩ:

- Nếu Dương Qua đoạt lại đứa bé chắc cũng không thể nào chạy về hang tuyệt Tình kịp hạn định vì thiếu con Tiểu Hồng mã.

Vừa nghĩ xong, nàng phi thân tới nắm lấy cương ngựa quay lại nói với Lỗ hữu Cước:

- Ta tạm mượn con ngựa hồng này có chút việc cần nhé.

Miệng nói, chân thúc vào hông con Tiểu Hồng mã vọt đi như tên.

Lỗ hữu Cước quá lo âu cho tánh mạng Hoàng Dung và Quách Tỉnh, vội hỏi với theo:

- Còn Quách, Hoàng, nhị vị ra sao cô nương?

Tiểu long Nữ quay đầu lại đáp vội:

- Cả hai người thẩy đều mạnh giỏi bình an, chỉ có đứa bé mới sinh ra bị người đàn bà vừa rồi đoạt mất. Bây giờ ta cần con ngựa này để đuổi theo giật lại.

Lỗ hữu Cước vội vàng thét quân thả cầu xuống. Cầu treo đang quay xuống, thòng chưa tới mặt đất thì Tiểu long Nữ đã giục ngựa sải tới. Con Tiểu Hồng mã qủa thật ngựa thần nó chỉ cần phóng mạnh hai chân sau, chở Tiểu long Nữ tung mình lao vút qua khỏi hào thành, trong những tràng hoan hô và vỗ tay vang dậy của hàng ngàn binh sĩ. Ngựa vừa lướt qua, Tiểu long Nữ đưa mắt nhìn xuống hào thành, thấy có hai tên quân và một con Chiến mã đang nằm chết vắt ngang bờ hào đổ ruột lòi gan trông thật rùng rợn. Nàng gia roi thúc ngựa phi hết nước, nhắm hướng Đông Bắc trực chỉ.

Nhắc lại Dương Qua và Kim Luân đuổi theo Lý mạc Thu khi tới đầu tường, Lý mạc Thu thấy bờ thành quá cao không tiện vọt qua. Nhưng vì quá túng, nàng bèn chộp lấy một tên quân ném thẳng ra ngoài rồi bất thần lao vút theo như chớp. Khi thi thể tên quân rơi gần tới ngáng chân hào, nàng bèn đặt chân lên lưng hắn dùng làm điểm tựa rồi nhún một cái vượt thêm mấy trượng nữa, vượt khỏi ra ngoài, rồi mau chân chạy nữa.

Kim Luân thấy nàng mạo hiểm tài tình quá, cũng phải lắc đầu thở dài vì thán phục. Nhưng lão nào chịu sút, nên cũng chộp một tên quân khác làm y như vậy qua khỏi thành rất dễ dàng. Dương Qua tới sau thấy vậy, bèn tung chưởng hất bay một con ngựa già đang ăn cỏ gần đấy tung bắn lên cao, rơi khỏi bờ thành rồi bước chân lên vọt theo sát nút.

Lý mạc Thu cắm đầu chạy mãi. Một chặp sau nàng quay đầu nhìn lại thấy Kim Luân và Dương Qua đuổi đã cận kề. Nàng nhìn quanh đấy thấy rừng núi hiểm trở, đá dựng chập chồng, cố chạy mau hơn nữa, định bụng rẽ vào rừng ẩn nấp. Tuy Tiểu long Nữ bảo rằng đứa bé này không phải con nàng, nhưng thấy Dương Qua cố đuổi theo bắt lại, Lý mạc Thu nghĩ rằng nhất định là con của hai người nhưng sư muội vì xấu hổ tìm cách chối quanh. Nàng định tâm bắt được đứa bé này để sau buộc hai người đem Ngọc nữ tâm kinh đổi lại. Như thế thì ước nguyện của nàng trong bao năm qua sẽ thực hiện được.

Cả ba càng chạy, rừng càng hiểm trở, lên dốc xuống đèo nguy nan vất vả, đường sá quanh co khúc khuỷu. Kim Luân Pháp Vương nghĩ rằng nếu

không bắt lại sớm, để cho địch lọt vào rừng thì không thể nào tìm lại được nữa. Vì vậy ông bèn ném theo một chiếc vòng. Chiếc vòng từ tay ông thoát ra xoay tít như chong chóng, xé gió rít vù vù lướt qua đầu Lý mạc Thu nghe cái vụt. Nhưng khi qua khỏi rồi, bỗng nhiên nó quay trở lại tấn công khiến nàng buộc lòng phài dừng chân lại. Nhờ vậy mà Kim Luân đã theo kịp bên chân. Lý mạc Thu bèn đứng lại rồi vung mạnh chiếc phất trần khiến bao nhiêu sợi lông trên ấy xỉa thẳng ra như muôn ngàn mũi dùi nhọn xuyên thẳng vào chiếc đầu trọc của Kim Luân. Kim Luân vội vàng dùng tay phải múa vòng chống cự lại còn tay trái đưa ra thu hồi chiếc vòng khi nãy vừa bay trở về.

Tên sách Tác giả Tất cả Truyện kiếm hiệp Truyện cổ tích Tuổi học trò

Truyện kiếm hiệpTruyện tranhTruyện cổ tíchTuổi học tròKết quả bóng đá trực tuyến

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 57 : Vào Hang Núi Dùng Quỷ Kế Gạt KIM LUÂN

Chiếc phất trần và vòng sắt chạm nhau một tiếng "ầm" dữ dội khiến cả hai cùng thấy tê buốt cả cánh tay. Thấy gặp phải tay địch thủ xứng đáng, Lý mạc Thu càng thêm phấn khởi, đem hết sở trường học lực ra tranh đấu, càng lúc càng quyết liệt. Hai người vừa đánh vùi hơn hai mươi hiệp,

Dương Qua đứng ngoài vừa xem vừa vận dụng nội công hít hơi lấy sức lại. Lý mạc Thu tuy là một tay kiệt hiệp giang hồ, nhưng đối với Kim Luân về võ công lẫn sức mạnh vẫn còn thua một bậc, nên sau gần trăm hiệp nàng đã kém thế dần trông thấy rõ. Tuy nhiên Lý mạc Thu để ý thấy mặc dù Kim Luân Pháp Vương thắng thế, nhưng mỗi khi chiếc vòng sắp chạm tới thân hình đứa nhỏ thì lão vội vàng thu lại ngay vì sợ chạm trúng nó bị thương. Nàng chợt nhớ ra một kế:

- Lão này đã muốn cướp đứa bé, lẽ tất nhiên không khi nào muốn nó bị thương tích, vậy ta phải dùng đứa bé làm bình phong để chống lại lão thì tiện lợi lắm.

Sau khi nắm trúng nhược điểm của Kim Luân thì cứ mỗi bận lâm nguy. Lý mạc Thu lại dùng đứa bé đưa ra chống đỡ khiến cho Kim Luân không dám đánh mạnh đòn. Kim Luân Pháp Vương tuy thắng thế và nóng ruột muốn giải quyết chóng mau nhưng cũng không thể làm chi được. Kim Luân tấn công luôn ba thế vô cùng ác liệt Lý mạc Thu đưa đứa bé ra đỡ. Dương Qua trông thấy hoảng sợ vì nếu một trong hai người sơ ý một tý là đứa bé vô tội mất mạng ngay. Chàng đang băn khoăn suy nghĩ cách đối phó, bỗng nhiên Kim Luân tung hai chiếc vòng từ ngoài đánh thốc vào như muốn ôm choàng lấy đối phương vào lòng, khiến Lý mạc Thu giận mặt, mắng thầm một kẻ tu hành lạì dùng một thế võ thiếu lễ độ và kỳ cục đối với một phụ nữ. Nàng vội vung chiếc phất trần một vòng rộng đánh bật đôi vòng ra rồi dùng đứa bé lên án ngữ trước ngực.

Nhưng lúc đánh ra thế này, Kim Luân đã có dự liệu trước, nên thình lình vụt một chiếc vòng bay khỏi bàn tay xắn vào đầu đối phương. Lý mạc Thu không còn cách nào hơn để tránh đỡ, phải ngã bật người ra phía sau, tay vẫn đập cây phất trần vào vai Kim Luân. Kim Luân lách vai hữu tránh đòn ấy, dùng tay tả chém thật mạnh vào cánh tay mặt của Lý mạc Thu nghe "bịch" một tiếng khiến toàn cánh tay nàng phải rủ riệt và tê rần như không còn cảm giác nữa. Đứa bé lại bị Kim Luân đoạt mất. Kim Luân đang hân hoan, bỗng nghe một luồng gió mát xướt qua mang tai, Dương Qua đã bất thần phóng tới giật lại đứa bé rồi múa kiếm thành một vòng tròn che chở khắp mình nó, đoạn dùng thế "đẩy thuyền theo nước" chận hậu rồi tung người đứng dậy nhìn Kim Luân mỉm cười đắc chí.

Đó là một đòn liều mạng mà Dương Qua đã bất ngờ tung ra để đoạt lại đứa bé trước sự căm giận sôi gan của Kim Luân.

Chỉ trong khoảnh khắc mà đứa bé đã chuyền trong tay ba người mau như chớp nhoáng. Lý mạc Thu phải buột miệng khen lớn:

- Hay quá, Dương Qua đã sử dụng thế võ hay lắm đáng khen thật. Kim Luân nổi khí xung thiện, tung vòng tấn công ngay Dương Qua múa kiếm chống lại và quay mình định bỏ chạy nhưng Lý mạc Thu đã vung phất trần chận lại khẽ bảo:

- Khoan chạy đã, hãy ở lại chống cự với lão hòa thượng này rồi sẽ đi.

Ngay lúc đó chiếc vòng của Kim Luân vù vù ập tới như núi sập khiến Dương Qua phải lo chống đỡ.

Suốt mấy ngày cùng nhau giao đấu, ai ai cũng đã hiểu các ngón sở trường của nhau rồi, nên trong giờ phút này người nào cũng quyết đem hết tài nghệ đánh gấp để giải quyết mau lẹ. Dương Qua vì phải bồng thêm một đứa bé, nên chỉ trong vòng năm chục hiệp đã núng thế dần. Cứ so sánh trong ba đối thủ này thì Kim Luân có bản lãnh cao nhất, Lý mạc Thu lại hiểm độc ác nghiệt, nhưng Dương Qua lại nhiều cơ mưu xảo quyệt nhất. Trong khi bị đối phương đẩy vào thế bị động, Dương Qua bèn cố tìm mọi cách để cải thiện tình hình, lợi dụng cơ hội thoát thân, chàng nghĩ bụng:

- Ngày xưa, trong thời kỳ Tam quốc, vì nước Nguỵ mạnh mẽ nhất nên Lưu Bị phải liên kết với Tôn Quyền mới chống cự lại nổi với Tào Tháo. Hôm nay nếu Lý mạc Thu không chịu giúp ta thì ta phải giúp bá bá mới chống nổi với lão hòa thượng này.

Nghĩ xong, chàng vung kiếm chém luôn hai nhát thật mạnh, khiến Kim Luân phải thối lui ra sau rồi chàng đưa đứa bé cho Lý mạc Thu miệng bảo:

- Sư bá hãy bồng lấy.

Hành động quá ư bất ngờ khiến Lý mạc Thu tuy mừng rỡ nhưng không biết dụng ý của Dương Qua ra sao hết. Tuy nhiên nàng cũng đưa tay nhận lấy đứa nhỏ.

Dương qua lại la lớn:

- Sư bá hãy bồng nó thoát đi, phía sau đã có tôi cản hậu đừng lo gì hết.

Nói xong, chàng vận sức vào tay, chém lên vùn vụt, tung ra liên tiếp những thế ác liệt vô cùng, khiến cho Kim Luân phải ngán mà không dám xáp lại gần.

Lý mạc Thu nghĩ thầm:

- Có lẽ trong lúc cùng nguy ngập, hắn nghĩ tình đồng môn giúp đỡ ta chăng? Chắc hắn biết rằng ta không khi nào nỡ hại tới đứa bé nên mới trao cho ta bồng để thoát thân.

Nhưng Lý mạc Thu không ngờ Dương Qua đã cố đẩy đại họa về mình. Khi thấy đứa bé đã lọt vào tay họ Lý, Kim Luân đã bỏ Dương Qua vung

chiếc vòng tấn công mạnh vào hậu tâm nàng ngay.

Đây là một miếng đòn vô cùng lanh lẹ và hiểm yếu. Lý mạc Thu vừa nhún chân nhảy đi thời chiếc vòng đã xoắn tít theo sau như bóng với hình, khiến cho nàng buộc lòng phải dừng chân lại để đối địch.

Dương Qua thấy mưu kế đã thành, thở phào một tiếng như trút hết gánh nặng rồi đứng yên một chỗ hô hấp để điều hòa công lực, rồi múa gươm xông vào trợ chiến nữa.

Khi ấy mặt trời đã đứng lên đỉnh đầu, ánh nắng xuyên qua rừng rậm sáng choang, khiến cho Dương Qua cảm thấy tinh thần thêm phấn chấn càng đấu càng hăng thêm. Bỗng nhiên một tiếng "choang" vang động cả khu rừng, chiếc vòng của Kim Luân đã bị thanh quân tử kiếm của Dương Qua chặt đứt mất một mảng lớn. Dương Qua nghĩ thêm một kế nên gọi lớn:

- Lý sư bá khá cẩn thận, đừng chạm tới chiếc vòng này vì nó đã bị nhiễm độc rồi đấy nhé.

Lý mạc Thu lạ lùng quá hỏi lớn:

- Vì sao vậy?

Dương Qua đáp:

- Vì thanh gươm tôi có ngâm thuốc rất mạnh.

Lúc nãy Kim Luân bị thanh gươm chém một vết khá sâu, trong lòng đang sợ trúng độc. Đã lâu chưa thấy đau nhức gì, hắn đang nghi ngại chưa biết ra sao thì Dương Qua bỗng nhắc thêm lần nữa, khiến y lại suy nghĩ: "Công Tôn Chỉ là đứa hiểm ác, gươm của hắn có tẩm độc cũng nên".

Vì phân tâm bởi ý nghĩ nhiễm độc, y sơ hở bị Lý mạc Thu đập một phát trúng vào lưng và gọi lớn:

- Dương Qua hãy dùng kiếm độc và đâm hắn đi cho rồi.

Nàng nói xong liền vung bàn tay phải như để quăng ám khí khiến Kim Luân giật mình nhảy vọt qua một bên. Nhưng thật ra đó chỉ là một hư thế đánh lừa đối phương để tìm cách thoát khỏi áp lực quá mạnh của mấy chiếc vòng.

Thấy nàng vừa nhún mình thoát thân, Kim Luân vẫn không chịu bỏ cứ cố bám theo mãi. Dương Qua thấy trận đấu cứ tiếp diễn mãi như thế này thì biết chừng nào mới kết liễu. Nếu để kéo dài e đứa bé nhiễm lạnh hoặc bị thương, chi bằng liên kết với Mạc Thu để đối phó với lão này, rồi sau đó sẽ hay.

Nghĩ xong, chàng hô lớn:

- Sư bá hãy chạy mau, tên ác tăng đã nhiễm độc rồi mạng sống của hắn không còn bao lâu nữa đâu.

Nói chưa dứt lời thì Lý mạc Thu đã bồng đứa nhỏ chui tọt vào một hang đá gần đó mất dạng. Kim Luân Pháp Vương ngơ ngác nhìn quanh chưa dám đuổi theo vì trong đó chật hẹp khó xoay trở, nếu hắn dùng ám khí thì nguy lắm. Dương Qua tuy trao đứa bé cho Lý mạc Thu nhưng chàng chưa đoán ra nàng muốn bắt nó để làm gì, nên khi thấy nàng lọt vào hang núi rồi cũng cảm thấy hoảng sợ, e rằng sẽ có điều gì bất trắc.

Chàng vội cầm kiếm án ngữ phía trước rồi xông luôn vào hang. Bỗng nghe ba tiếng "choang, choang, choang" lảnh lót, ba ngọn "băng phách ngân châm" đã chạm phải thanh gươm rơi xuống đất. Dương Qua hoảng hốt la lớn:

- Sư bá hãy dừng tay, cháu đây mà.

Mặc dù trong hang đá tối mò, nhưng mắt chàng có thể nhìn được trong tối nên Dương Qua trông thấy Lý mạc Thu một tay bồng đứa nhỏ, một tay cầm sẵn ba mũi băng phách ngân châm khác định phóng ra.

Để gây thiện cảm cùng họ Lý, Dương Qua quay lưng vào trong, mặt nhìn ra cửa nói khẽ:

- Chúng ta phải liên kết cùng nhau mới giết được tên ác tăng này.

Miệng nói, tay chàng nắm chặt đốc gươm chặn ngay cửa hang. Trong khi đó Kim Luân Pháp Vương dự đoán hai người chưa dám chạy ra liền dừng chân lại ngồi xếp bằng phía xa, cởi áo soát lại vết thương.

Thấy vết thương chỉ có máu tươi chay ri rỉ, không có hiện tượng gì bị nhiễm độc, đè thử thấy đau chứ không tê tái, vận nội công thì huyết mạch vẫn lưu thông đều đặn bình thường. Kim Luân mới mừng rỡ nghĩ thầm: "Thằng ranh con đã gạt ta, khiến mình lo sợ mãi từ sáng tới giờ qủa vô lý quá".

Lúc bấy giờ Kim Luân mới để ý quan sát phía trước cửa động thấy tứ bề cỏ mọc rậm và cao. Miệng hang vừa thấp vừa chật, xét lại thân hình mình thì phốp pháp đẫy đà, chen vào bất tiện vừa nguy hiểm nên Kim Luân chỉ đứng ngoài tìm cách khác.

Trong lúc đang phân vân tìm chưa ra mưu kế gì cả thì từ phía sau trên núi có tiếng người hỏi:

- Pháp Vương làm chi ngẩn người đứng đó?

Nghe giọng nói, Kim Luân biết Ni ma Tinh, nhưng đôi mắt ông vẫn không ngó lên cứ chăm chú vào cửa hang và đáp:

- Ta đang tìm cách đuổi ba con thỏ vừa chạy vào hang này.

Nguyên Ni ma Tinh sau khi chiến đấu tại thành Tương Dương không kết quả thì mình buồn lòng định trơ về bản trại, bỗng nghe tiếng vòng kêu leng keng về phía núi thì đoán chắc Kim Luân Pháp Vương đang chiến đấu cùng kẻ địch nên vội tìm đến xem sao. Khi Ni ma Tinh đến nơi thì hai người đã chui vào hang rồi chỉ còn một mình Kim Luân đứng ngoài chăm chú nhìn vào, thì vui vẻ hỏi:

- Sao, Quách Tỉnh đã trốn trong hang này phải không?

Kim Luân thờ ơ đáp:

- Không phải đâu, chỉ có một con thỏ cái, một con thỏ đực còn tơ và một con thỏ con mà thôi.

Ni ma Tinh hân hoan nói:

- à phài rồi, nhất định là vợ chồng Quách Tỉnh và Dương Qua rồi chứ không còn ai nữa hết.

Kim Luân không đáp, đưa mắt nhìn xung quanh rồi vùng nghĩ ra một kế. Ông bèn chạy đi lượm một số cỏ khô và cành cây chất trước miệng hang rồi đánh lửa đốt lên. Ngọn lửa vừa bốc lên, gặp gió đang thổi mạnh càng cháy rần rật, khói tuôn mù mịt, luồn vào tận trong hang.

Dương Qua vừa thấy Kim Luân chất củi đã đoán biết được mưu toan của ông, đồng thời thấy thêm một địch thủ lợi hại nữa là Ni ma Tinh nên chàng quay sang nói nhỏ cùng Lý mạc Thu:

- Sư bá xem chừng, tôi đi quan sát lại coi hang này có ngách nào trốn đi nơi khác chăng nhé.

Nói dứt lời chàng xông xáo đi khắp các nơi để xem xét. Hang này vào trong độ non một trượng nữa là bí lối, ngoài ra không còn một hẻm ngách nào khác nữa.

Dương Qua hỏi nhỏ Lý mạc Thu:

- Sư bá, bọn chúng quyết đốt lửa xông bọn ta, bây giờ nên đối phó làm sao đây?

Lý mạc Thu suy nghĩ: "Nếu bây giờ chạy ra chắc không thoát tay của lão hòa thượng. Trái lại nếu cứ ở lỳ trong hang thì làm sao chịu khói cho nổi. Thôi đến đâu hay đấy chứ sao. Tới phút chót cùng lắm là ném đứa bé cho lão là xong. Ta với lão đâu có thù oán gì mà cố lòng hại nhau. Lão cố tình bức bách ta chẳng qua là vì muốn dành lấy đứa bé. Khi đã giao cho hắn rồi, tất nhiên hắn sẽ không còn lý do làm khó dễ mình nữa".

Nghĩ vậy nên Lý mạc Thu yên trí không lo ngại gì hết, nét mặt thản nhiên như không có gì nguy hiểm đang diễn ra trước mặt. Chốc chốc trên môi lại nở một nụ cười nham hiểm.

Theo gió thổi lồng ngày càng mạnh, khói xông vào hang ngày một nhiều thêm. Dương Qua và Lý mạc Thu nhờ nội công cao cường, có thể nín thở để chịu đựng, nhưng đứa bé bị ngộp khói khóc lạc giọng.

Thấy Dương Qua đưa mắt nhìn đứa bé ra chiều thương xót, Lý mạc Thu cười gằn hỏi:

- Mi có đau lòng và thương xót hắn không?

Dương Qua đã trải bao nhiêu vất vả gian nguy với đứa bé trong tay, nên đã thấy mến thương nó nhiều lắm. Thấy nó khóc nhiều quá, chàng cũng nóng ruột đưa tay bảo:

- Sư bá hãy đưa nó cho tôi bồng hộ một lát.

Lý mạc Thu lườm chàng một cái, cầm phất trần quất luôn lên lưng và thét lớn:

- Dang ra chỗ khác, mi không sợ Băng phách ngân châm sao?

Dương Qua hoảng hốt vội lùi xa ra mấy bước. Khi nghe Lý mạc Thu nhắc tới bốn tiếng "Băng phách ngân châm" chàng bỗng nhớ ra một kế cúi ngay xuống, xé vạt áo bọc tay lượm ba cái ngân châm vừa rơi lúc nãy đem cắm trên mặt đất ngay trước cửa hang để làm bẫy. Làm xong, chàng nói nhỏ cùng Lý mạc Thu:

- Sư bá hãy ráng dỗ cho nó nín đi, tôi đã có kế hoạch đối phó với chúng rồi.

Nói xong chàng thét lớn ai nấy cùng nghe:

- Sư bá, tôi đã tìm được ngách đi ngang rồi, chúng ta cứ theo lối ấy cho rồi...

Thấy chàng nói có vẻ quả quyết và tự nhiên quá Lý mạc Thu vừa mừng rỡ vừa ngạc nhiên, bèn đáo mắt nhìn quanh tìm lối đi ngang. Nhưng Dương Qua lại gần nói nhỏ:

- Không phải đâu, đó là kế nghi binh để dụ địch đó mà!

Phía ngoài Kim Luân và Ni ma Tinh vừa nghe Dương Qua bảo có lối trổ đi nơi khác thì hoảng hốt, vội lắng tai nghe động tịnh. Trong hang trở nên lặng yên và tiếng trẻ con khóc cũng dần dần chìm mất nơi xa. Bọn họ nghĩ rằng hai người đã bồng đứa bé đi ra chỗ ấy chứ có ngờ đâu Dương Qua đã dùng vải bịt miệng đứa bé lại không cho khóc nữa. Ni ma Tinh có tánh nông nổi và nóng nảy vô cùng, nên khi nghe nói chẳng cần đắn đo bèn phi thân chạy vòng ra phía sau núi để đón chận ngõ ra!

Nhưng Kim Luân thì cẩn thận hơn, ông đứng lại lắng tai nghe kỹ và nhận thấy tiếng đứa trẻ khóc nhỏ dần là vì bịt miệng lại chứ không phải vì bồng đi xa. Ông thừa hiểu Dương Qua dùng quỷ kế gạt mình, nếu nông nổi chạy ra phía sau núi, hắn sẽ thừa cơ tẩu thoát ngay. Ông mỉm cười tự đắc lẩm bẩm:

- Mi khôn lanh lừa được ai chứ gạt ta sao nổi?

Nói xong nắm chặt hai chiếc vòng tay, nín thở nép mình dưới bụi cỏ cao trước miệng hang, kiên nhẫn chờ đợi, hễ hai người ló đầu ra là tấn công liền. Ngay lúc đó Dương Qua nói lớn:

- Hai thằng ác ôn đã đi xa rồi, chúng ta đi ra thôi sư bá.

Nói xong chàng ghé tai Lý mạc Thu dặn nhỏ:

- Chúng ta cùng rú lớn để dụ hắn chạy vào nhé.

Lý mạc Thu chẳng biết sự định của Dương Qua ra sao nhưng nàng thừa biết cậu ta là một người lắm mưu nhiều kế nên cũng gật đầu đồng ý. Thế rồi hai người cùng rú lên một tiếng não nề như vừa bị thương nặng. Dương Qua rên rỉ nói:

- Mi nỡ nào gạt ta để hạ độc thủ như vậy?

Lý mạc Thu cũng mắng lại:

- à thằng ranh con, dù ta bị chết về tay mi, nhưng ta cũng quyết phanh thây mi từng mảnh trước khi nhắm mắt.

Kim Luân đứng ngoài cửa hang nghe hai người rú lên và đối thoại như thế thì mừng húm va suy nghĩ: "Té ra chúng bây đã giành đứa nhỏ mà sát

hại lẫn nhau. Cứ như giọng nói thì nhất định cả hai đều mang trọng thương hết".

Rồi sợ đứa bé bị hại lây, chừng ấy mình không có thứ gì làm con tin uy hiếp vợ chồng Quách Tỉnh nên ông vội vẹt bụi, lách cỏ xăm xăm bước vào. Cửa hang đã tối lại chật nên Kim Luân cứ bước, hầu như không trông thấy gì hết. Chỉ bước được năm bước, bỗng nhiên chân trái bị thốn mạnh một cái và tê rần. Kim Luân vội vàng nhấn mạnh chân phải tung mình nhảy vọt trở ra gọn gàng.

Khi bàn chân trái vừa chấm đất đã thấy không còn cảm giác nữa, vì trong thời gian này, thuốc độc của Băng phách ngân châm đã thấm vào máu và bắt đầu công phạt rồi.

Kim Luân Pháp Vương biến sắc lo ngại:

- Thói thường, nếu bị chém hay đâm vào thịt chỉ thấy đau chứ không bao giờ tê buốt như thế này. Có lẽ ta đã chạm phải một thứ ám khí gì đó âm độc nặng lắm.

Suy nghĩ xong, muốn cởi giày ra xem thử nhưng ngay lúc đó Ni ma Tinh đã từ phía sau núi chạy ra lẩm bẩm:

- Qủa là thằng nhỏ nói khoác. Nào thấy ngõ ngách nào đâu mà trốn ra? Có lẽ Quách Tỉnh vẫn còn ẩn nấp trong hang chứ chưa đi đâu hết.

Nghe y nói, Kim Luân ngừng tay không cởi giày nữa, cố giữ giọng bình tĩnh nói:

- Ngươi đoán có lẽ không sai. Hang này không có ngõ nào khác nữa. Hồi lâu bị xông khói có lẽ chúng đã hôn mê vì ngộp thở rồi.

Vừa nghe nói, Ni ma Tinh mừng quýnh, chắc bụng phen này chức "đệ nhất dũng sĩ" phải về mình. Rồi quá hấp tấp không chịu suy nghĩ vì sao Kim Luân lại ngồi ngoài này chẳng chịu vào để lập kỳ công, Ni ma Tinh vung cây gậy ra phía trước thủ thế phòng bị tấn công bất ngờ rồi khom người chui luôn vào hang. Đang hăm hở bước vào độ năm bước bỗng đạp phải một mũi ngân châm chưa kịp phản ứng thì chân kia cũng lãnh thêm một mũi nữa.

Vốn bản chất hung hăng và liều lĩnh, nên mặc dù biết đạp phải ám khí nhưng Ni ma Tinh vẫn không chịu rút lui, cứ vung gậy quét mạnh phía dưới rồi phi thân chạy xông vào quyết bắt cho được Quách Tỉnh. Nhưng khi vừa bước được năm ba bước nọc đã thấm vào máu, công phạt lẹ làng, khiến toàn thân rúng động, cả hai chân bị tê liệt không cử động nổi, té dài dưới đất. Lúc ấy, Ni ma Tinh biết mình rủi đạp trúng một thứ kim có tẩm thuốc quá độc, vội vàng chống tay bò gấp trở ra. Vừa tới miệng hang đã thấy Kim Luân Pháp Vương cởi giày tay ôm bàn chân sưng vù như cái bắp chuối, xung quanh bầm tím cả và ông ta đang vận nội công bế huyệt để cản chất độc, không cho rút vào tim. Ni ma Tinh vừa sợ vừa giận, mặt mày tái mét thét lớn:

- Lão già trọc quả nhiên hiểm ác! Tại sao mi đã trúng kim độc mà không báo trước cho ta biết để đến nỗi này?

Kim Luân nhăn nhở cười hề hề và nói:

- Ta đã trúng kế bọn chúng thì cũng để cho mi nếm mùi một tý cho có bạn và khỏi phải phân bì chứ.

Ni ma Tinh tức giận, gầm lên như cọp rống:

- Thôi hôm nay ta không cần bắt Quách Tỉnh nữa, chi quyết liều sống chết cùng mi mà thôi.

Bởi hai chân đã tê liệt mất rồi không thể cử động được, hắn dùng tay trái chống xuống đất phóng ngược lên trên, đáp ngay vào người Kim Luân rồi dùng tay mặt vụt một gậy vào mặt Kim Luân.

Kim Luân tung chiếc vòng chận gậy rồi thốc một cùi chỏ vào ngực Ni ma Tinh trả miếng tức thời.

Vì thân hình đang lơ lửng trên không, chân lại tê chết rồi, nên Ni ma Tinh không thể nào tránh né nổi, đành nhận một đòn thật nặng ngay giữa ngực, đau thấu ruột gan. Đau quá sanh liều, Ni ma Tinh xông ào tới chụp đại Kim Luân, kê miệng cắn nhầu, bất ngờ cắn trúng ngay huyệt "khí xá" ở dưới cổ Kim Luân.

Với tài nghệ của Kim Luân, thì không khi nào Ni ma Tinh có thể nhập nội và phạm được vào yếu huyệt của Kim Luân như vậy, nhưng hôm nay vì đang bị nọc độc công phạt, bao nhiêu công lực phải dồn hết vào huyệt "khúc tuyền" nơi đầu gối, ngăn chặn nọc độc chạy về tim, nên Kim Luân đành để cho Ni ma Tinh hành hung và cắn trúng huyệt nơi cổ. Kim Luân chỉ có cách đưa ngược chân lên đạp mạnh vào chân Ni ma Tinh, khiến cả hai cùng mất thăng bằng nhào lăn trên mặt đất. Kim Luân cố sức vẫy vùng để thoát khỏi vòng tay của Ni ma Tinh, nhưng vì trong huyệt đã bị cắn không làm sao xuể. Cùng cực ông mới cố lòn tay xuống dưới chặt khóa huyệt "Đại xuy" của hắn. Thế rồi hai người quấn chặt lấy nhau lăn lộn đùng đùng trên đất, không bao lâu đã lăn ra xa, suýt rơi xuống vực đá thật sâu trước mặt. Trong khi bị nguy biến muôn phần, Kim Luân bỗng nghĩ ra một kế, bèn la lớn:

- Quách Tỉnh, bây giờ mi mới tới sao?

Ni ma Tỉnh sợ quá vội hỏi:

- Quách Tỉnh đâu rồi?

Vì há miệng hỏi nên Ni ma Tinh đã vô tình rời khỏi huyệt "khí xá" cho Kim Luân. Khi biết mình bị lừa, Ni la Tinh tức quá lại lăn xả vào ôm nữa. Kim Luân tống luôn ra một quyền ác liệt, nhưng trong lúc liều mạng Ni ma Tinh không kể chết, cứ bám chặt lấy ông. Thế là cả hai lại tiếp tục vật nhau một keo nữa. Bất ngờ cả hai cùng hụt chân cùng lăn tòm xuống hố sâu thăm thẳm.

Trong hang Lý mạc Thu lặng thinh theo dõi thấy mưu kế Dương Qua có hiệu lực thì bất giác khen:

- Thắng bé quả có nhiều mưu cao.

Ngoài hang, hai người đánh và vật nhau huỳnh huỵch vang động cả vách đá. Hai người muốn thừa cơ tẩu thoát ra ngoài, nhưng ngay lúc đó Kim Luân và Ni ma Tinh cùng rú lên một tiếng hãi hùng rồi nín bặt luôn, không nghe gì nữa. Lý mạc Thu ngạc nhiên hỏi:

- Tại sao chúng nín thinh như thế?

Dương Qua cũng không ngờ hai tay bản lãnh tuyệt vời lại có thể nhào lăn xuống vực thắm như thế nên ngơ ngúc một chặp rồi nói:

Lão hòa thượng này lắm mưu nhiều kế lắm, không chừng bắt chước mình làm kế dụ địch để bọn ta đi ra mà bắt cũng nên. Lý mạc Thu thấy chàng đoán có lý nên gật đầu bảo:

- ừ đúng đấy, thế nào chúng cũng lừa chúng mình ra để ép trao thuốc trừ độc chứ gì.

Nhưng chờ mãi hàng giờ vẫn không thấy động tĩnh, Lý mạc Thu bảo Dương Qua:

- Thôi, nhổ hết kim lên rồi ra ngoài xem sao, chả lẽ cứ rú trong này mãi sao?

Dương Qua đáp:

- Cần gì nôn nóng. Chúng ta cứ đứng lỳ đây một chặp nữa, chờ nọc độc ngấm vào tim chúng chết hết sẽ ra cho bảo đảm.

Nghe chàng nói, Lý mạc Thu cũng ngán cho...

(*** Mat 2 trang ***)

Dương Qua nghe nói hết hồn, mồ hôi nhỏ giọt khắp mình, nhưng chàng vẫn giả bộ nói cứng:

- Nếu mi không nói xấu cô nương ta thĩ ta mới nghe lời mi được.

Lý mạc Thu dịu giọng nói:

- Thôi, ta không nói xấu hắn nữa đâu. Bây giờ mi hãy ra ngoài xem thử bọn chúng đang làm gì?

Dương Qua vâng lời rón rén bước nhẹ ra ngoài hang xem động tĩnh. Chàng nhìn khắp xung quanh không thấy Kim Luân và Ni ma tinh đâu hết, trong lòng nghi hoặc vô cùng, một chặp mới nói vọng vào trong:

- Không biết chúng đã đi ngả nào mất cả rồi.

Vừa nghe xong Lý mạc Thu chạy thẳng ra khỏi cửa hang rồi lao mình chạy luôn, không nhìn trở lại.

Dương Qua hỏi theo:

- Mi bồng đứa bé đi đâu vậy?

Lý mạc Thu không dừng chân, trả lời luôn:

- Về nhà ta chứ còn đi đâu nữa.

Chàng hoảng hốt hỏi:

- ủa, hắn đâu phải con mi mà mi bồng về nhà?

Lý mạc Thu thẹn đỏ mặt mắng:

- Đừng có nói nhảm. Mi hãy đưa tập Ngọc Nữ Tâm Kinh cho ta thì ta trao đứa bé này lại ngay.

Nói xong, nàng dùng khinh công bay vút về phía Bắc. Dương Qua không chịu bỏ, phi thân chạy theo thét lớn:

- Khoan đã, mi hãy cho nó bú tí đi nó đã khát sữa lắm rồi.

Lý mạc Thu vừa giận vừa mắc cỡ, mặt mày đỏ gay, quay lại nạt lớn:

- Thằng chết băm chỉ chuyên môn nói bậy nói bạ, không biết nể nang ai hết. Ta thưởng cho một mũi ngân châm mất mạng bây giờ.

Dương Qua tuy buồn cười trong bụng, nhưng cố làm nghiêm đáp:

- Quả thật nó đang khát sữa chứ ta đâu có nói gàn. Nếu mi không cho bú nó sống sao nổi?

Lý mạc Thu nổi nóng quát lớn:

- Nói bậy! Con người ta trong trắng như tuyết băng, làm sao có sữa mà cho hắn bú được?

Dương Qua nở một nụ cười đắc chí đáp:

- Sư bá! Tôi đâu có bảo thế. Tôi chỉ muốn sư bá tìm sữa cho nó bú đấy thôi. Nào phải buộc sư bá tự mình...

Lý mạc Thu đang phi thân vùn vụt, bỗng đứng phắt lại bảo lớn:

- Câm mồm.

Dương Qua dịu lời nói:

- Sư bá hãy chịu khó vào xóm xem có người đàn bà nào có sữa, nhờ họ cho hắn bú tý kẻo tội.

Lý mạc Thu đồng ý, bèn phi thân chạy thẳng trên chóp núi, đưa mắt quan sát tận đằng xa. Bỗng thấy đằng phía Đông có làn khói xám đang bốc lên trời. Nàng cả mừng phi thân chạy về hướng đó.

Không mấy chốc hai người đã gặp một xóm nghèo nàn nhỏ bé, chỉ lưa thưa có năm ba túp lều tranh xơ xác. Hai người đến từng nhà xem có ai để nhờ cậy mãi tới nhà thứ tư mới gặp một thiếu phụ đang bồng một đứa con độ sáu bảy tháng, ngồi cho bú trên đầu giường.

Lý mạc Thu mừng rỡ, đưa tay kéo đứa bé ném ra đầu giường ra lệnh:

- Hãy cho đứa bé này bú đi, hắn đang đói lắm.

Nàng vừa nói vừa nhét đứa con Quách Tỉnh vào lòng thiếu phụ ấy. Đứa nhỏ kia bị ném ra giường khóc ngất. Thiếu phụ đau lòng, vội vàng đưa tay bồng lên. Nhưng Lý mạc Thu thét lớn:

- Ta ra lệnh ngươi phải cho đứa bé này bú ngay, tại sao ngươi chẳng vâng lời mà cứ cho con ngươi bú mãi?

Nói vừa dứt lời bỗng nghe "bịch" một tiếng. Dương Qua nhìn lại thấy Lý mạc Thu đã dùng phất trần cuốn đứa bé, ném vào một góc nhà. Thiếu phụ nóng ruột vì quá thương con, vội chồm theo, miệng òa lên khóc ngất. Lý mạc Thu nổi nóng, dùng phất trần đập vào lưng nàng nọ. Dương Qua bất nhẫn quá, bèn rút thanh Quân tử kiếm ra can, trong bụng nghĩ:

- Trên đời không có ngươi đàn bà nào ác độc bằng con mẹ này!

Tuy trong bụng rủa thầm, nhưng ngoài miệng vẫn ngọt ngào nói:

Nếu sư bá giết nó thì lấy đâu ra sữa đâu cho đứa bé bú nữa?

Lý mạc Thu trợn mắt thét lớn:

- Cấm ngươi dạy khôn ta nữa. Sở dĩ ta phải làm như thế là vì muốn con mi no bụng.

Dương Qua cười giả lả nói:

- Nó đói quá, cho nó bú tý kẻo tội nghiệp.

Vừa nói, chàng đưa tay định bồng. Nhưng Lý mạc Thu đưa phất trần ngăn lại nói:

- Cấm mi không được sờ tới nó.

Dương Qua phải rút lui ra xa miệng cười đáp:

- Thôi, tôi không ẵm đâu.

Lý mạc Thu bồng đứa bé lên định trao cho thiếu phụ, nhưng nàng đã thừa lúc hai người không để ý bồng con chạy mất.

Lý mạc Thu nổi nóng, phi thân lên nóc nhà nhìn ra xa, thấy người thiếu phụ đang bồng con cắm đầu chạy đằng xa. Tức thì nàng phi thân đuổi theo, dùng phất trần đập mạnh một cái cả hai mẹ con thiếu phụ nát bấy như tương. Rồi trong lúc cơn giận chưa nguôi, Lý mạc Thu nổi lửa đốt luôn mấy gian nhà tranh của vùng này, xong mới bỏ ra ngoài đầu xóm.

Dương Qua ngao ngán, nhưng cũng lẽo đẽo bước theo. Hai người lẳng lặng bước đi, không ai nói câu nào. Sau khi vượt qua trên mười dặm đường xóm rừng núi, thì đứa bé đã khóc đã cả người nằm thiếp trên tay Lý mạc Thu.

Trong khi đang đi bỗng nhiên Lý mạc Thu ồ lên một tiếng rồi đứng phắt ngay lại. Trước mặt nàng có hai con beo con rất mụ mẫm đang nô đùa trong mấy bụi cỏ. Lý mạc Thu tiến tới mấy bước, định gạt chúng tránh qua một bên, bỗng có tiếng gầm gừ từ trong gộc đá bên cạnh đó, rồi một con beo rất lớn nhe răng đập đuôi phóng vút lại chụp nàng, lanh như chớp.

Lý mạc Thu lẹ làng né sang một bên, rồi dùng chiếc phất trần đánh tạt vào mặt nó. Con beo gầm lên một tiếng rồi ngồi sụp xuống thủ thế, hai mắt muốn phát ra điện, chỉ chờ cơ hội là nhảy lại tấn công ngay.

Lý mạc Thu vung tay áo, tức thì hai mũi ngân châm lao thẳng về cặp mắt beo. Dương Qua lẹ làng nhảy tới dùng gươm gạt phắt hai mũi ngân châm rớt xuống đất miệng thét:

- Khoan đã!

Nhưng ngay lúc đó con beo đã tung mình nhảy vút lên cao rồi chụp xuống ngay đầu Dương Qua.

Dương Qua vừa gạt rớt hai mũi ám khí thuận tay dùng sống kiếm đánh tạt ngang cổ con beo khiến hắn mất thăng bằng ngã lăn ra đất, bốn vó chổng lên trời.

Lý mạc Thu ngạc nhiên không hiểu vì sao Dương Qua lại hất mấy mũi ngân châm của mình không cho hạ sát con ác thú. Nàng đang suy nghĩ tìm nguyên do của hành động này thì con beo đã đập đuôi lồm cồm đứng dậy. Nhưng nó chưa đứng vững đã bị Dương Qua tấn công luôn một chưởng ngã quay ra, và liên tiếp thêm mười chưởng nữa, khiến con ác thú không chịu đựng nổi quay đầu chạy trốn.

Dương Qua dự định hễ con beo quay mình lại sẽ nắm đuôi để bắt nó. Nhưng vì bị liên tiếp mấy đòn quá đau, beo ta đã cụp đuôi mất thành thử không nắm được vào đâu cả và đành phải để nó chạy thoát vậy.

Chàng đang lẩm bẩm tiếc rẻ thì con beo chạy được mấy trượng bỗng dừng lại gọi hai con chạy theo.

Dương Qua chợt nghĩ ra một kế. Chàng túm lấy hai con beo con đưa cao lên không giả bộ như sắp vật chứng xuống đá.

Con beo mẹ nóng lòng vì sợ hai con bị hại, vừa rống lên một tiếng vang lừng nhảy xổ tới tấn công Dương Qua. Dương Qua lẹ tay trao hai con beo nhỏ cho Lý mạc Thu rồi tunh mình bay bổng lên cao. Khi chàng rơi xuống ngồi đúng trên lưng con beo mẹ. Lập tức chàng nắm luôn hai tai nó lôi vật mạnh xuống, miệng bảo Lý mạc Thu:

- Lý sư bá hãy bóc một số vỏ cây trói bốn cẳng nó lại có việc cần dùng bây giờ.

Lý mạc Thu hứ một tiếng rồi lạnh lùng đáp:

- Thôi, ta không thì giờ đâu đùa việc trẻ con với mi nữa.

Nói xong, nàng quay lưng định bước đi. Nhưng Dương Qua thét lớn:

- Tôi đâu có đùa với sư bá! Con beo này có nhiều sữa tốt lắm mà.

Lý mạc Thu bỗng sực nhớ lại gật gù nói:

- Phải, thằng bé này quả lanh thiệt.

Nói xong, nàng chạy lại mấy cây gần tước một số vỏ kết thành một sợi dây khá chắc buộc chặt bốn chân beo bỏ nằm dưới đất.

Công việc xông xuôi, Lý mạc Thu bồng đứa nhỏ lại kê miệng nó vào vú beo cho bú. Vì khát sữa quá lâu, vừa đánh được hơi sữa là bú ngay. Một chặp sau đứa bé bú đã no nê, rời vú nằm thiêm thiếp ngủ yên lành trong lòng Lý mạc Thu.

Khi ấy hai con beo con cũng xáp lại rúc vào lòng beo mẹ để bú. Bóng chiều đã rơi xuống, rừng núi thâm u, tứ bề vắng lặng như tờ.

Lý mạc Thu ngước mặt nhìn trời lẩm bẩm:

- Trời tối rồi, đêm nay ta ngủ nơi nào đây?

Dương Qua nói:

- Chị vú này lôi thôi lắm, chúng ta không tiện dẫn hắn đi theo được. Vậy để tôi đi tìm một hang đá tạm trú một đêm rồi ngày mai sẽ hay. Nói rồi chàng rảo bước đi quan sát khắp vùng, tìm được một cái hang đá khá kín đáo. Chàng lại đi quơ thêm một mớ cỏ khô đem bện thành một cái ổ cho Lý mạc Thu và nói:

- Đêm nay sư bá tạm nghỉ trên cái giường cỏ này vậy. Tôi đi ra ngoài tìm món gì ăn đỡ dạ.

Miệng nói, chân thoăn thoắt bước lanh ra ngoài. Độ một giờ sau Dương Qua trở về trên tay xách ba con thỏ rừng thật mập, đèo thêm một xách trái cây chín đỏ rất ngon lành.

Chàng xé thịt thỏ cho con beo mẹ ăn, đoạn nổi lửa nướng hai con kia cho mình và Lý mạc Thu. ăn thịt thỏ, tráng miệng trái cây no nê, thì đêm cũng đã khuya. Dương Qua rút trong mình một sợi dây, nói với Lý mạc Thu:

- Lý sư bá cứ yên chí ngủ ngon, tôi sẽ gác bên ngoài hang cho.

Nói rồi bước thẳng ra ngoài, đem sợi dây buộc ngang qua hai cây tùng thật to rồi phi thân leo lên nằm nghỉ.

Dương Qua ngủ một chập khá lâu, bỗng từ phía Đông Nam có tiếng chim gáy lảnh lót. Tiếng chim gáy rất thanh tao, nghe rất êm tai, nghe không biết chán. Chàng lắng tai nghe một hồi lâu trong bụng suy nghĩ không biết đây là loại chim gì mà có tiếng gáy lạ lùng lảnh lót quá. Rồi vì tính hiếu kỳ, chàng rón rén ngồi dậy mon men đi dần về hướng ấy.

Tiếng chim lạ gáy mỗi lúc một gần, khi mau khi chậm, lúc bổng lúc trầm, không khác nào một nhạc công đang đánh đàn. Dương Qua bỗng nảy ra ý muốn tìm bắt con chim ấy để nuôi.

Chàng cứ lẳng lặng dò từng bước một đi tới. Đường đi xuống thấp dần. Không bao lâu, Dương Qua đã lọt vào một cái thung lũng khá rộng và tiếng chim gáy đã phát hiện ngay trước mặt không xa.

Chàng sợ con chim thấy bóng người sẽ bay mất nên cố kìm hơi thở nhè nhẹ dò từng bước một rón rén đi tới, vừa đi vừa vạch lá nhìn những bỗng nhiên chàng suýt bật cười thành tiếng khi vừa trông thấy con chim.

Thật một chuyện không ngờ, đáng buồn cười thật. Tiếng gáy càng thanh tao lảnh lót bao nhiêu thì thân hình và điệu bộ con chim lại, thô kịch xấu xí bấy nhiêu. Thân chim vừa cao vừa lớn, đứng cao hơn Dương Qua cả một cái đầu, lông lá lơ thơ dường như bị ai vặt bớt một nửa. Mỏ chim vừa to vừa quặp vào như cái càng cua, trên đầu thêm một cái mồng sù sì to tướng. Con chim đang đi lại, lúc đứng im khi quạt cánh, cái đầu không ngớt cử động thỉnh thoảng nghiêng tai có vẻ hiên ngang mạnh mẽ. Con chim vừa gáy ó o, bỗng đổi sang giọng khác từ chỗ điềm đạm êm thấm bỗng biến sang hùng hổ và gay gắt hình như sắp gây sự đánh nhau. Ngay lúc ấy, từ trong bụi rậm bên cạnh cũng phát ra những tràng rít vo vo nghe rợn người. Vốn chuyên làm nghề bắt rắn từ còn bé thơ nên Dương Qua biết ngay là nơi đó có một bầy rắn độc đang bò tới.

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 58 : Thanh tử vi bảo kiếm

Dương Qua cố nhón gót cao hơn để nhìn thử, thì bỗng từ trong bụi có ánh rằn rì

loang loáng một lần có tám con rắn mai hoa, trên mình bông dơm rực rỡ đang bò lại

mau như chớp, hìn như để tấn công con chim lạ.

Nhưng con chim điêu không hề lộ vẻ hoảng sợ, lập tức xù lông há mỏ mổ lia lịa một

hơi, nuốt chửng cả tám con rắn trong nháy mắt, trước cặp mắt ngỡ ngàng thán phục

của Dương Qua.

Chàng đang ngẩn người suy nghĩ thình lình có một mùi hôi tanh xông lên khó chịu

vô cùng. Đánh hơi đó, Dương Qua đoán chắc thế nào cũng có một con mãng xà thật

to đang bò lại, cách đấy không xa.

Con chim điêu cũng đoán biết có kẻ địch đến nên đập cánh gáy luôn ba tiếng.

Thình lình một tiếng áo não thật to nổi lên, một luồng gió mạnh làm cả vùng này rung

động, từ trên cây cổ thụ, một con mãng xà cực lớn quăng mình lao vút về phía chim

điêu tấn công liền.

Chim điêu vẫn không di chuyển, hai cánh xòe ra, đầu lách sang một bên rồi bất ngờ

mổ vút vào mắt con mãng xà và nuốt luôn cả tròng, lanh như điện chớp.

Mãng xà bị đau quá, văng mình lồng lộng quật đuôi ầm ầm rồi chồm lại cất cổ thật

cao mổ ngay vào chiếc mồng đầu chim điêu.

- Cái mổ quá ư bất ngờ mau lẹ, khiến cho Dương Qua cũng giật mình "a " lớn một

tiếng, trợn mắt nhìn sững sốt.

Cái mổ của mãng xà đã trúng đích và tiếp theo đó nó uốn cả khúc mình vĩ đại quấn

khắp mình con chim điêu rồi từ từ siết lại.

Dương Qua vốn có cảm tình cùng con chim điêu, hơn nữa vì mẹ chàng chết vì rắn

độc nên trong thâm tâm chàn oán ghét loại này lắm. Sợ chậm chim điêu sẽ chết nên

chàng không nghĩ ngợi tuốt thanh quân tử kiếm chém một nhát thật mạnh vào mình

con mãng xà.

Một tiếng "keng" thật to vang lên, lửa xẹt sáng lòa và hổ khẩu của Dương Qua tê

rần cả, thanh quân tử kiếm dội ngược trở lên.

Dương Qua vừa sợ vừa ngạc nhiên, nghĩ bụng:

- Thanh quân tử kiếm chém sắt như chém bùn, thế sao không chém đứt nổi mình

con rắn và còn dội lại như thế này? Quả điều quái gở thật.

Chàng nghiến răng, nắm chặt đốc gươm thẳng tay chém luôn ba tiếng nữa. Ba

tiếng "keng, keng, keng" lại vang lên. Rõ ràng là tiếng thép chạm nhau chứ không

phải chém vào da thịt con rắn.

Dương Qua ngạc nhiên đưa kiếm lên xem. Lưỡi quân tử kiếm đẫm máu đỏ lòm và

mẻ luôn ba miếng thật to. Có lẽ con mãng xà bị trọng thương, nhưng không hiểu vì

sao lại có tiếng keng keng như vậy mà thân hình nó không đứt ra?

Cuộc chiến đấu giữa chim điêu và mãng xà ngày càng thêm khốc liệt, con mãng xà

mỗi lúc càng siết chặt thêm vào, chim điêu tuy có cố gắng vùng vẫy, nhưng dần dần

đã yếu thế. Nếu không có một cứu tinh nào cứu vãn tình thế, có lẽ chim điêu sẽ làm

mồi cho con rắn lớn.

Dương Qua thấy nếu mình không ra tay ngay lúc này thì chim điêu sẽ chết ngay,

nên chàng vận sức vung kiếm chém thêm một nhát nữa.

Vì chém quá mạnh nên sau một tiếng "choeng" vang dậy, thanh quân tử kiếm đã

gẫy đôi, và máu từ thân hình con mãng xà cũng tuôn ra xối xả.

Bị thương bất ngờ, con mãng xà vùng lên một cái, khúc giữa nới ra một chút.

Chim điêu nhân cơ hội ấy thoát thân, bay thẳng lên không trung, rồi từ trên cao lao

xuống mổ luôn vào con mắt thứ hai khiến mãng xà đui luôn.

Vừa bị đau, vừa bị đui, con mãng xà nổi xung, đập mạnh ầm ầm, cất cổ mổ loạn xạ

nhưng không trúng vào đâu hết.

Nhưng bỗng có một việc lạ lùng hơn hết là chim điêu lại đưa chiếc mồng đến ngay

miệng con mãng xà mổ xuống.

Vừa trông thấy vậy, Dương Qua lạ quá, nghĩ bụng:

- Có lẽ trong mồng chim điêu có chất độc ghê lắm. Đối với con mãng xà, bảo kiếm

chém không đứt thì chỉ có thể chế ngự bằng độc dược mà thôi.

Khi đớp trúng mồng chim rồi, con mãng xà bèn quấn ngay thân chim lại như lần

trước. Lần này đã kinh nghiệm bản thân, nên chim điêu giữ riêng hai vấu ở ngoài

vòng siết của thân hình con rắn. Khi mãng xà b¡t đầu siết mạnh thì chim điêu dùng

hai vấu chộp lấy đuôi rắn bẻ mạnh một cái gãy làm hai khúc.

Lúc bấy giờ hình như chất độc trên mồng đã thấm vào cơ thể, nên mãng xà lơi dần,

nằm giãy giụa chờ chết chứ không tấn công hay lồng lộng như trước nữa.

Khi mãng xà chết rồi, chim điêu cất cao cổ gáy lớn hình như để mừng chiến thắng,

đoạn nhìn về phía Dương Qua cục cục mấy tiếng như đón chàng lại gần.

Dương Qua cả mừng bước lại bên mình chim tỏ ý thân thiện. Bỗng nhiên chim điêu

mổ mạnh vào tay chàng và cướp phăng nữa thanh quân tử kiếm. Dương Qua là một

tay kiếm khác bản lãnh cao siêu quần. Muốn cướp được thanh kiếm trong tay chàng

không phải là việc dễ.

Thế mà chim điêu chỉ mổ nhẹ một cái đoạt được ngay. Chàng

hoảng sợ vội tung người lộn ngược ra sau né tránh và đứng xa hơn một tý.

Chim điêu gặp được thanh kiếm, vung mỏ ném vút xuống suối rồi ngẩn đầu nhìn

Dương Qua, không có vẻ gì ác ý.

Dương Qua chợt nhớ lại lẩm bẩm:

- Phải rồi, té ra anh không muốn tôi cầm vũ khí đứng gần anh chứ gì ? Anh đừng

quá lo xa và hiểu lầm vì tôi không bao giờ có ý nghĩ hãm hại anh đâu.

Chim điêu kêu khẽ và tiếng rồi rão bước lại gần chàng, dùng cánh vỗ nhẹ trên hai

vai tỏ tình thân thiện.

Dương Qua cũng đưa tay vuốt lông nó một cách trìu mến lắm. Chàng cúi xuống

nhìn con mãng xà mình dính đầy máu đang nằm chết sóng sượt trên mặt đất thì ngạc

nhiên không hiểu vì sao thân mình nó có thể chống lại và làm gẫy đôi thanh quân tử

kiếm?

Chàng bước lại bẽ gẫy một nhánh cây, đè nhẹ trên thân mình con rắn thấy da thịt

vẫn mềm chứ không có gì đặc biệt. Chàng dùng đầu nhánh cây khiều nhẹ vào vết

thương thì chạm phải một vật cứng hình như không phải là xương. Vì vậy Dương

Qua quyết tâm tìm ra sự bí ẩn này xem sao?

Chàng dùng đầu cây ấn mạnh vào chổ ấy rồi rút ra xem thử thì thấy nhánh cây bị

chẻ làm hai. Như thế thì vật này, trong mình con rắn phải là một thứ đao kiếm gì vô

cùng sắt bén.

Chàng cúi đầu nhìn kỹ thêm, thì thấy dưới làn máu đỏ có bốc lên một làn hơi lạnh,

thoang thoáng như sương mù.

Mặt chàng ở cách xa thân con mãng xà chừng ba tấc nhưng cũng cảm thấy có một

hơi lạnh tạt vào má, càng nhích lại gần, hơi lạnh càng gia tăng thêm.

Chàng lượm khúc mũi thanh quân tử kiếm gãy rơi bên cạnh, rạch dọc theo vật cứng

này thì thấy hơi lạnh càng nhiều hơn và có tỏa một ánh sáng xanh biếc.

Sợ trong ấy có độc, chàng dùng mũi kiếm gãy chém mạnh lên một nhát, bỗng nghe

keng một cái và mũi kiếm bị bể

thêm một mãnh khá nữa khá lớn. Lúc bấy giờ Dương

Qua nhất định trong bụng mãng xà có một thanh đao hay kiếm gì vô cùng sắt bén,

nên có bụng mừng. Chàng từ từ dùng mũi kiếm rọc xuôi theo chiều dài, vật ấy nằm

sâu dưới các thớ thịt của mãng xà.

Khi lớp thịt và mỡ được xẻo đi rồi, bỗng lộ ra một thanh kiếm dài chừng ba thước.

Chàng mừng lắm, dùng mũi kiếm thọc xuống dưới nạy ngược trở lên.

Chỉ veo một tiếng lảnh lót, thanh kiếm bật tung lên, lao vút vào thân cây cổ thụ gần

đấy, ngập tới cáng. Quả là một thanh kiếm báu sắt như nước.

Nãy giờ chim điêu điềm nhiên đứng nhìn theo Dương Qua xẻ thịt rắn khi thấy thanh

kiếm văng ra ghim vào cây, h¡n bèn rảo bước chạy lại dùng mỏ rút ra rồi ngậm luôn

đem lại bờ suối. Dương Qua cũng lật đật bước theo. Chàng thấy chim điêu dùng mỏ

gắpkiếm rửa qua rửa lại rất lâu trong nước suối đến khi thật sạch mới thôi. Chàng

nghĩ thầm:

- Anh này quả nhiên chu đáo. Vì thấy kiếm nằm trong mình rắn quá lâu ngày, sợ

nhắm độc, nên anh mới đem rửa kỹ trước khi dùng.

Khi thanh kiếm thật sạch, chim điêu khẻ dùng mỏ vung một cái, thanh kiếm như

một chiếc cầu vồng sáng xanh lao vút về phía Dương Qua.

Chàng vội vàng đưa tay tiếp lấy chuôi kiếm, miệng nói:

- Cám ơn Điêu huynh.

Chàng cúi xuống nhìn kỹ thấy trên chuôi kiếm có hai chữ triện "Tử Vi" rất sắt

sảo.

Dương Qua cầm kiếm loang mấy vòng nghe tiếng xé không khí vo vo thật êm tai.

Lưỡi kiếm mềm mại và bền vô cùng. Chính nhờ sự mềm mại này mà thanh kiếm có

thể lượn theo thân hình con rắn không rạch đứt thịt da để bật ra ngoài. Thuận tay,

chàng chém ngang một nhát vào thân cây cổ thụ, nghe soạt một tiếng, đứt lìa thành

hai đoạn.

Chim điêu khẻ kêu vài tiếng rồi dùng mỏ gắp vạt áo Dương Qua kéo đi. Chàng

đoán biết chim điêu có dụng ý chi đây, nên lẳng lặng bước theo. Bước đi của chim

điêu ung dung thong thả nhưng mau vô cùng. Dương Qua đã khai triển hết tài khinh

công nhưng vẫn không theo kịp. Thỉnh thoảng chim điêu phải dừng lại chờ đợi.

Càng đi, đường càng dốc thật thấp. Không bao lâu, chàng nhìn thấy phía trước

mặt có một thung lũng thật sâu. Cứ đi mãi thêm một giờ đã tới trước một miệng hang

thăm thẳm.

Chim điêu dừng lại trước hang cung kính gật đầu ba cái để làm lễ.

Dương Qua trông thấy thái độ lạ lùng này liền suy nghĩ:

- Trong hang này thế nào cũng có bậc dị nhân tu luyện, và chim điêu này hẳn là

thần vật của người, ta không nên thất lễ

Nghĩ xong chàng cung kính sụp quỳ trước động lạy luôn bốn lạy và nói lớn:

- Đệ tử Dương Qua xin kính yết kiến tiền bối.

Nói xong chàng lắng tai nghe, nhưng mãi không có tiếng người trả lời. Chim điêu

lại cắn áo chàng kéo đi nữa.

Vào trong hang tối đen như mực, hai bên vừa chật lại thêm mùi xú uế xông nồng

nặc khó thở quá. Dương Qua nắm chặt thanh tử vi kiếm lầm lũi bước theo chim điêu.

Nhưng chỉ đi chừng ba trượng thì đã đến cùng ngõ. Trong hang chỉ có một cái bàn

và một cái ghế đá. Chim điêu nhìn vào góc hang gáy lên ba tiếng. Dương Qua chú

mục về phía đó thấy có một đống đá chất cao nghiệu hình như một ngôi mộ. Chàng

thầm nghĩ:

- Có lẽ đây là ngôi mộ của dị nhân tiền bối nào đây. Rất tiếc thần điêu không biết

nói để hỏi biết lai lịch của vị này.

Ngẩng nhìn lên trán vách thấy có dạng lờ mờ như khắcchữ, chàng bèn xẹt lửa đốt

một cành thông khô làm đuốc soi sáng, đưa tay xóa hết lớp bụi dày bám trên vách đá,

quả nhiên lộ những hàng chữ đại ý như sau:

"Suốt ba mươi năm ngang dọc giang hồ, giết không biết bao nhiêu quân địch cường

hào ác bá, đánh bại không biết bao nhiêu hào kiệt võ lâm, rất tiếc ta chưa hề gặp tay

đối thủ. Ta buồn lòng lùi về động này, lấy thanh tử vi kiếm làm vợ, cùng thần điêu bè

bạn sớm hôm. Hỡi ôi, đời ta chỉ mong gặp được người xứng sức nhưng vẫn chưa toại

nguyện. Đáng buồn thay!"

Kiếm ma Độc Cô Cầu Bại ký tên.

Dương Qua nghiền ngẫm mãi thấy hàng chữ, càng lâu càng thấm thía bất giác

chàng nghĩ thầm:

- Vị này đã xưng là "kiếm ma" thì nhất định là kiếm pháp đã tới chỗ tuyệt diệu tinh

vi rồi. Còn "Cầu bại" có lẽ mong gặp người giỏi hơn để đánh bại được mình chăng ?

Không biết vị này tên chi, sống vào thời đại nào ?

Chàng cầm đuốc cẩn thận soi khắp các nơi nhưng chẳng tìm thấy dấu vết gì khác

lạ, ngoài đống đá lù lù như nấm mộ, nên trong bụng nghĩ:

- Có lẽ sau khi dị nhân này tạ thế, thần điêu đã dùng mỏ gắptừng viên đá đ¡p lên

ngôi mộ để an tán người bạn già đây chăng ? Còn thanh tử vi kiếm, không hiểu tại

sao lại lọt vào bụng rắn. Đây cũng là một chuyện bí ẩn khó nghĩ, tiếc vì thần điêu

không biết nói để giải thích cho rành.

Dương Qua đứng ngẩn người trong giây lát, rồi thổi t¡t luôn cây đuốc, trong hang

lại chìm đ¡m trong bóng tối thâm u. Thanh Tử Vi kiếm tỏa ra một luồng ánh sáng

xanh lè đủ soi thấy lờ mờ những vật gần trong vài thước.

Chàng chạnh lòng nghĩ tới vị kỳ nhân "Kiếm Ma Độc Cô", trước kia với một thanh

Tử Vi kiếm tung hoàng trong thiên hạ không gặp đối thủ, tình cờ ngày nay báu kiếm

lại về tay mình thật cũng là điều ba sinh vạn hạnh.

Nghĩ đến đó, chàng vội sụp xuống lạy luôn ba lạy trước mộ phần. Thần điêu đứng

bên, trông thấy Dương Qua hết lòng cung kính đối với ngôi mộ chủ mình, có vẽ mừng

rỡ lắm, bèn tới gần chàng dùng cánh vỗ nhẹ trên vai tỏ ý trìu mến.

Dương Qua buồn rầu nhìn nó nói lớn:

- Điêu huynh, hai ta điều có duyên hạnh ngộ từ tiền kiếp nên mới gặp được nhau

đây. Ngặt vì hiện nay tôi còn chút việc riêng cần kíp phải đi ngay không thể lưu luyến

lại thêm nhiều ngày giờ nữa. Vậy Điêu huynh muốn cùng đi với tôi hay ở lại giữ mộ

phần lão tiền bối ?

Chim điêu ngước cổ kêu lên mấy tiếng rồi bước lại đứng bên ngôi mộ. Dương Qua

cảm động hiểu rằng nó muốn ở lại giữ mộ nên ôm cổ nó vuốt ve một hồi rồi đứng dậy

lầm lũi bước ra khỏi hang.

Chân bước đi nhưng lòng còn quyến luyến, thỉnh thoảng chàng quay đầu nhìn lại.

Cứ mỗi lần nhìn lại, chàng b¡t gặp chim điêu cũng đưa mắt ngó theo và kêu lên mấy

tiếng, hình như không muốn xa nhau. Dương Qua chạnh lòng nói:

- Điêu huynh, thân tôi không còn sống bao nhiêu lâu nữa. Nhưng tôi cần phải lo liệu

cho đứa con của Quách bá phụ tôi cho xong, rồi sẽ giã từ cô nương tôi trở lại đây chết

bên cạnh ngôi mộ của Độc Cô lão tiền bối. Được vậy, đời tôi cũng hả hê lắm rồi.

Nói dứt lời, chàng tra thanh Tử Vi bảo kiếm vào chiếc bao của Quân Tử kiếm rồi đi

luôn. Trên con đường đi gập ghền trong thung lũng, chàng miên man suy nghĩ tới

cuộc kỳ ngộ lạ lùng đêm nay, rồi chợt nhớ tới Tiểu long Nữ và đôi bảo kiếm khiến

chàng bâng khuâng lo l¡ng:

- Ta và Tiểu long Nữ cùng chia nhau hai thanh bảo kiếm Quân Tử và Thục Nữ, kể

ra cũng là một điềm tốt. Nhưng hôm nay thanh quân tử kiếm gãy mất rồi. Tuy thanh

tử vi kiếm tốt hơn nhiều, nhưng phải chăng đây là một triệu chứng cho biết trước

rằng duyên nợ giữa ta và nàng không thể nào thành tựu được? Nếu hai ta không được

cùng nhau kết tóc tới lúc bạc đầu, thì quả là một điều bạc hạnh. Nghĩ tới đây, Dương

Qua cảm thấy cõi lòng xót xa, bất giác hai hàng nước mắt đã rưng rưng lưng tròng.

Đang mãi miết bước đi thình lình có một tiếng gậy đen từ trong bụi rậm bên mặt

tung ra, và ngay lúc đó phía bên trái cũng có tiếng xé không khí của một môn võ khí

tấn công bất ngờ.

Dương Qua không thể tưởng tượng nơi chốn hoang vu này lại có kẻ địch dánh lén

nên chẳng để ý đề phòng. Vì cả hai đòn cũng đánh một lần rất nhanh và mạnh, nếu

tránh được bên mặt tất nhiên phải lãnh đòn bên trái, nếu tránh bên trái tất nhiên phải

bị đòn bên mặt. Trong lúc quá nguy khốn, chàng chỉ còn cách tung mình nhảy vút lên

không trung, loang thanh Tử Vi kiếm mấy vòng để bảo vệ toàn thân rồi là là rơi

xuống.

Chân vừa chấm đất bỗng từ phía sau thần điêu bay vù tới dùng mỏ mổ ngay vào

bụi rậm, nhưng một chiếc vòng sắt đã tung ra chận lại.

Từ bụi bên kia Kim Luân Pháp Vương xuất hiện, hai tay múa tít hai chiếc vòng.

Dương Qua ngại Kim Luân sát hại thần điêu vội vàng gọi lớn:

- Điêu huynh hãy lui ra để một mình tôi đối phó cùng bọn nó cũng được.

Nhưng thần điêu xòe cánh tả ra cản Dương Qua lại rồi bất thình lình, dùng cánh

phải đập mạnh vào vai Kim Luân đúng theo tư thế "Bạch Hạc Xuyên Vân" mà các

cao thủ võ lâm thường sử dụng nhưng khí thế và công lực hùng hậu hơn nhiều.

Thì ra trong cuộc đấu chí tử hồi trước, Kim Luân và Ni ma Tinh đã ôm nhau cùng

lăn tòm xuống vực thẳm. Thời may cả hai vướng vào một nhánh cây mọc chìa ra trên

bờ vực, do đó hai người chỉ bị xây xát nặng chứ không thiệt hại đến tánh mạng.

Mặc dù trong hoàn cảnh thật tử nhất sinh, Ni ma Tinh vẫn bám chặt lấy Kim Luân

như nam châm hút thép. Kim Luân phải cố dùng "cầm nã thủ" cố đẩy ra và hét lớn:

- Hãy buông ta ra ngay.

Nhưng Ni ma Tinh vẫn cố bám mãi không chịu buông.

Kim Luân cười gằn nói:

- Hai chân mi điều trúng độc, không lo tìm cách trục ra cho rồi, chẵng lẽ chờ chết

mới tha nhau ra sao ?

Ni ma Tinh nghe nói chợt nhớ lại, bèn nhìn xuống dưới thấy cả hai chân điều sưng

vù như hai khúc gỗ. Lão bèn rút ph¡t chiếc gậy cắnrăng, vận dụng cả công lực giáng

một gậy hết sức mạnh vào hai đầu gối, nghe rốp một tiếng khô khan, cả hai chân đứt

lìa, máu tươi tràn ra như suối, và Ni ma Tinh cũng lăn ra bất tỉnh.

Kim Luân thấy gã can trường như vậy đã có lòng thán phục, hơn nữa với hai chân

đã gãy rồi, Ni ma Tinh không thế nào hại được mình nữa, nên ông bước lại gần, đưa

tay điểm luôn vào các huyệt cầm bớt máu lại, đoạn dùng thuốc kim thương buộc kỹ.

Một chặp sau Ni ma Tinh tỉnh lại, nhìn thấy Kim Luân đang ngồi bên cạnh, cất

tiếng thều thào nói nhỏ:

- Anh có lòng tốt cứu tôi, từ nay oán thù xí xóa, chúng ta nên làm lành với nhau thì

hơn.

Kim Luân cười chua chát, nghĩ bụng:

- Tuy mi đã mất cả hai chân, nhưng bao nhiêu nọc độc điều trục hết rồi, ta đây mặc

dù thân thể còn nguyên vẹn, nhưng chưa biết tính sao để tống hết chất độc ra khỏi

người được. Phần ta đáng còn đáng lo âu hơn mi nhiều lắm.

Nghĩ xong ông ngồi xếp bàn tròn, hai mắt nh¡m nghiền cố vận khít trục độc ra

ngoài, nhưng suốt mấy tiếng đồng hồ nội lực hao tổn rất nhiều cũng chỉ mới trục được

một phần ít mà thôi.

Hai người cứ ngồi lỳ nơi đó suốt một ngày để lo luyện khí trục độc và dưỡng thần.

Mãi tới nữa đêm, bỗng có tiếng chân người từ xa bước lại. Kim Luân nhẹ ẵm Ni ma

Tinh giấu vào bụi rậm gần đất rồi bản thân nấp sau một gốc cây lớn rình xem.

Trong bóng đêm mờ mờ, Kim Luân thấy Dương Qua đang dùng khinh công chạy

theo một con chim điêu hình dung cổ quái, lướt qua trước mặt mình không xa.

Kim Luân suy nghĩ:

- Ta bị nọc độc nhắm

đầy thân thể, tại sao không lợi dụng cơ hội này b¡t sống

thằng o¡t con buộc nó đưa thuốc giải độc có hay hơn không ?

Sau khi cùng nhau bàn tán kỹ càng, Kim Luân và Ni ma Tinh cùng phục tại đây

chờ Dương Qua trở lại để bất thần đánh úp.

Thời may cho Dương Qua, vì hai người điều bị nọc độc công phạt yếu sức quá

nhiều, nếu không thì chàng không thể nào thoát chết được.

Sau khi lanh chân né được hai đòn phục kích, Dương Qua quay đầu nhìn lại thấy

Thần điêu và Kim Luân đang cùng nhau chiến đấu vô cùng ác liệt.

Cứ như lời tiến thoái và đánh đỡ của thần điêu, dúng theo quy củ trong võ lâm cũng

đủ thấy rõ ràng đã được một kỳ nhân chỉ điểm và luyện tới một mức siêu phàm rồi.

Nhờ vậy mà mặc dù Kim Luân, một cao thủ võ lâm Mông Cổ đánh mãi vẫn không

sao nao núng được.

Kim Luân vừa đấu vừa nghi ngờ sợ hãi:

- Con thần điêu này của ai mà tài nghệ quá cao cường, nếu Dương Qua nhảy vào

tiếp chiến nữa thì mình chịu sao nổi. Trận chiến kéo dài thêm lát nữa, chủ nó thế nào

cũng tới đây, thì tánh mạng mình không còn bảo đảm nữa.

Nghĩ xong, ông tấn công hai đòn liên tiếp rồi nhảy lùi ra sau hổn hển hỏi Dương

Qua:

- Dương Qua, con thần điêu quái gở này ở đâu mà mày dẫn tới đây như vậy?

Dương Qua đưa tay vuốt ve thần điêu ra chiều trìu mến rồi mỉm cười bảo Kim

Luân:

- Đây là bạn thiết của ta, nếu mi vô l

thì nó sẽ bay bổng lên cao tấn công xuống mi

sẽ đui mắt hoặc bỏ mạng ngay.

Kim Luân nghe nói giật mình hoảng sợ, nghĩ thầm:

- Chỉ đánh tay đôi trên đất mà ta còn vất vả như thế này, nếu h¡n bay lên cao nữa

thì nguy hiểm không kể hết.

Nghĩ xong lão đứng yên một chỗ không dám khiêu khích nữa.

Dương Qua ân cần nói với thần điêu:

- Điêu huynh, cám ơn anh đã hộ tống tôi tới đây, và chỉ bao nhiêu đó cũng đủ làm

cho bọn này khiếp sợ lắm rồi, khỏi phải làm phiền anh nhiều nữa. Giờ tôi xin tạm biệt.

Thấy thần điêu lườm lườm nhìn Kim Luân, Dương Qua vui vẻ nói:

- Phiền điêu huynh chịu khó quản thúc hộ bọn này trong thời gian. Bây giờ tôi xin

bái biệt.

Nói xong, chàng chấp tay cúi đầu chào rồi băng mình chạy vào trong hang đá để

xem tình hình đứa hài nhi của Quách Tỉnh ra sao.

Vừa trông thấy chàng, Lý mạc Thu đã càu nhàu nói:

- Mi đi đâu suốt cả đêm nay, có con ma nào vừa hiện ra kêu khóc suốt đêm chịu

không nổi nữa.

Dương Qua ngạc nhiên hỏi:

- Làm gì lại có ma ?

Chàng hỏi chưa dứt lời, bỗng từ phía xa đưa lại một giọng khóc và kể lể vô cùng

thiết tha ai oán.

Dương Qua tuốt thanh Tử Vi kiếm ra khỏi vỏ, nói nhỏ với Lý mạc Thu:

- Sư bá đừng lo, xin cứ coi chừng đứa bé, để tôi lo đối phó với con ma trù này cho.

Lưỡi Tử Vi kiếm vừa rút ra khỏi vỏ đã có một luồng lãnh khí toát ra cùng với một

luồng thanh quang lập lòe trong hang tối. Lý mạc Thu lạ lùng hỏi:

- Mi tìm ở đâu ra thanh báu kiếm như thế này?

Dương Qua chưa kịp đáp, bỗng bên ngoài vang lên một giọng khóc than kể lể vô

cùng bi thiết:

- Sao mà khổ thân tôi thế này hỡi trời ? Vợ tôi đã bị kẻ thù giết, chỉ còn lại hai đứa

con, ngày nay chúng lại nhất định đánh nhau cho tới chết...

Nghe tới đây Dương Qua biết ngay là người chứ không phải ma quỷ gì hết.

Chàng đưa mắt nhìn về hướng ấy, bỗng thấy một người đầu bù tóc rối đang sờ

soạng như kẻ mất hồn, vừa khóc than kể lể.

Lý mạc Thu bảo:

- Té ra là một thằng điên. Mi hãy đuổi nói đi cho rảnh.

Người ấy lại kể lể tiếp qua những tiếng khóc nức nở:

- Đời ta chỉ còn hai đứa con là kẻ thân yêu. Bây giờ chúng cố giết nhau nữa thì ta

sống sao cho nổi ?

Dương Qua chợt nghĩ ra và lẩm bẩm:

- Phải rồi, quả đúng là ông ta rồi.

Nghĩ xong, chàng tuốt kiếm chạy ra tới gần hỏi nhỏ:

- Xin người cho biết có phải Võ lão tiền bối đấy không ?

Người ấy vừa nghe hỏi ngạc nhiên trợn mắt nhìn chàng quát:

- Ngươi là ai ?

Dương Qua l

phép đáp:

- Cháu là Dương Qua. Xin hỏi lão tiền bối có phải là họ Võ quý danh làm Tam

Thông không ? Vì sao ra nông nỗi này?

Người ấy đúng là Võ tam Thông. Trước kia ông bị Lý mạc Thu dùng ngân châm

đã thương, nhào lăn ra bất tỉnh. Thời gian bị mê man không rõ bao lâu, nhưng khi

chợt tỉnh thấy vợ mình là Võ tam Nương đang quỳ chân dưới đất hút máu bầm chổ

vết thương ra. Ông thất kinh vội xô vợ ra hét lớn:

- Trong máu có nhắm

nọc độc, tại sao dùng miệng mà hút, nguy hiểm quá?

Võ tam Nương nhổ máu xuống đất, tươi cười nói:

- Hết rồi, chất độc đã hút ra hết, bây giờ chỉ còn máu tươi không hề chi đâu.

Võ tam Thông nhìn mặt vợ thấy đã sưng vù và b¡t đầu bầm tím thì hoảng hốt bắp

bắp không ra lời:

- Trời ơi, Tam nương.....em.....tại sao....

Trong lúc xả thân cứu chồng, Võ tam Nương cũng thừa biết mình sắp chết, bèn

vuốt đầu hai đứa con trai, trăn trối:

- Chúng ta cùng nhau chung sống bao ngày chưa từng hưởng được tròn hạnh phúc.

Ngày nay em ra đi, xin anh ở lại nuôi con, thay em chăm sóc chúng nó nên người, anh

nhé...

Nói đến đây nàng đã ngã ra chết tốt. Đôi mắt còn cố nhìn Võ tam Thông ghi lại

hình ảnh chồng để mang theo về bên kia thế giới.

Võ tam Thông nhìn hai đứa con thơ ôm xác mẹ khóc than thảm thiết mà gan ruột

cũng rã rời. Vì quá căng thẳng về thần kinh, ông đã phát điên, bỏ hai đứa con thơ lạc

lõng giữa đời, dấn thân lưu lạc rày đây mai đó, mặc cho số mạng trôi giạt về đâu.

Sau này Nhất Đăng đại sư hay tin cho người dẫn về núi chữa bệnh. Khi tâm bệnh

đã lành, Võ tam Thông nghe hai đứa con mình đang sống với Quách Tỉnh nơi thành

Tương Dương, mới lặn lội đi tìm kiếm.

oOo

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 59 : Huynh đệ tương tàn

Nhưng khi ông đặt chân tới thành Tương Dương thì nơi đây khói lửa ngụt trời. Nhờ

gặp Chu tử Liễu

với Quách Phù, ông mới biết hai đứa con của mình đã quyết cùng

nhau tử chiến để tranh đoạt Quách Phù.

Nghe được câu chuyện, Võ tam Thông cố tìm hai con để lấy lời khuyên nhủ. Sau

một thời gian tìm kiếm khá lâu, ông đã gặp cả hai trong một tòa miếu cổ, nhưng dù

ông năn nỉ khuyên can thế nào cũng không được. Hai người nằng nằn quyết một mất

một còn, để tranh lấy người đẹp.

Ông rình nghe biết được chổ hẹn để cùng nhau thanh toán, nên nửa đêm nay quyết

tìm tới nơi để khuyên một lần chót.

Quá đau khổ và tủi thân, ông đã vừa đi vừa khóc như một kẻ điên rồ. Bất ngờ khi

vừa qua khỏi miệng hang bỗng gặp một thanh niên tuấn tú ra chận hỏi và nói đúng tên

mình thì ngạc nhiên vô cùng bèn quát hỏi:

-Ngươi là người nào, vì sao biết rõ danh tánh ta được ?

Dương Qua vòng tay cung kính đáp:

-Thưa tiền bối, cháu họ Dương tên Qua, hồi còn bé có cùng hai anh ấy sống chung

trên đảo Đào Hoa, cho nên mới biết rõ được tên họ của lão tiền bối.

Võ tam Thông l¡c đầu nói lớn:

-Chỉ là láo khoét cả. Nếu mi là bạn của hai con ta, vì sao không có lời khuyên ngăn

để đến nỗi gây nên cớ sự. Hai là chính mi đã xúi giục chúng thêm và đứng ra làm

trọng tài cho chuyện chém giết này chăng ?

Dương Qua định mở miệng phân trần, nhưng Võ tam Thông đã quá nóng nảy, liềng

sử dụng "nhất dương chỉ" tấn công liền.

Nguyên "nhất dương chỉ" là một môn học bí truyền và danh tiếng nhất trong nghiệp

võ. Vì vậy nên khi Võ tam Thông xuất thủ, Dương Qua cảm thấy uy lực tỏa ra bốn

mặt, chổ nào cũng thấy đàn áp nặng nề không không biết sẽ tấn công và đâu để tránh

né nữa.

Trong lúc loay hoay chưa biết phương kế nào cứu vãn, chàng bỗng sực nhớ lại

dùng ngay "đạn chỉ thần công" búng ngay vào ngón tay của đối phương.

Võ tam Thông giật mình "ối" một tiếng nói lớn:

-À đúng là ngươi có sống tại Đào Hoa đảo rồi nên mới sử dụng được ngón này.

Vậy hãy rán đỡ thêm ngón thứ hai đây nhé.

Nói xong ông liền đổi thế, tung một ngón vào ngay đơn điền của chàng. Tức thì

bao nhiêu trọng huyệt ở gần bụng Dương Qua điều bị uy hiếp trầm trọng. Thấy thế

này quá mạnh, Dương Qua không dám dùng "đạn chỉ thần công" vì sợ không đủ sức

chống lại, mà nhiều khi hỏng cả ngón tay là khác nữa. Chàng bèn áp dụng phép, "cầm

tâm ám thông" rút ngay thanh Tử Vi kiếm ra khỏi vỏ, loang tít lên che kín trước bụng

và ngực. Lưỡi kiếm tuy nhỏ, bề rộng không quá một tất, nhưng toát ra một luồng lãnh

khí rợn người, thanh quang sáng chói, khiến cả một vùng xung quanh điều rúng động.

Mặc dù ngón tay Võ tam Thông cách xa luồng kiếm quang trên sáu bảy tất, nhưng

đã thấy đau buốt chịu không nổi vội rút ngay về.

Nhưng ngay sau đó, ông tung ra một ngón thứ ba lanh như điện nhoáng, nh¡m

thẳng giữa mày Dương Qua, dùng chàng có lanh lẹ tới đâu cũng không rút kiếm về

bảo vệ kịp. Trong khi ấy Dương Qua bỗng nảy ra một kế, đưa ngón tay búng vào

chuôi kiếm khiến lưỡi kiếm bay ngược trở lại, nh¡m ngay ngực mình đâm vào.

Vừa trông thấy Dương Qua sử dụng một thế hiểm độc để tự sát, Võ tam Thông

hoảng hốt chỉ kịp thét lên một tiếng "ối" rồi trầm cánh tay mặt thấp xuống, toan giật

cáng kiếm để cứu mạng chàng.

Nhưng thật ra đó chỉ là một hư thế của Dương Qua mà thôi.

Khi mũi kiếm vừa đến gần ngực, chàng đã dùng hai ngón tay kẹp chặt cán kiếm

lại, rồi theo lối "Hoa kiếm" múa tít như chong chóng để che chở kh¡p thân mình.

Tuy Võ tam Thông xuất thủ thật lẹ làng, nhưng cũng hơi muộn rồi. Chỉ còn một tý

nữa là cả năm đầu ngón tay của ông đã bị kiếm quang gọt đứt tiện hết.

Nhìn Dương Qua múa kiếm theo lối "Hoa kiếm", Võ tam Thông có cảm tưởng như

một luồng khí xâm nhập vào tận cơ thể, buốt cả xương tủy, muốn phát rung.

Nhất dương chỉ tuy lợi hại, nhưng không thể nào đẩy bạt được ánh kiếm ra xa. Lão

đứng sửng sốt nhìn chàng, rồi buông tay than lớn:

-Quả thật là niên thiếu anh hùng, hậu sinh khả úy! Hay quá, từ nay lão đã thành

vô dụng.

Dương Qua cảm động dừng tay cúi đầu thưa:

- Nếu lão bá không vì thương cháu ra tay giật kiếm, chỉ dùng ngón thứ ba đâm vào

chân mày thì cháu đâu còn sống sót nổi.

Võ tam Thông cảm thấy tâm tư nhẹ nhàng thư thái, vui vẻ đáp:

-Xưa kia, một lần Hoàng Dung đã dùng kế th¡ng được lão, ngày nay lại bị thua

cháu một lần nữa cũng vì mưu kế. Các cháu tuy tuổi trẻ nhưng tài cao. Chúng ta tuy

cao niên nhưng còn dại dột thiếu kinh nghiệm.

Vừa nói tới đây, bỗng có tiếng chân động trên đất, phía trước có hai người sánh vai

nhau đang đi tới. Dương Qua vội kéo Võ tam Thông nấp sau bụi cây khá rậm rạp để

nhìn xem.

Tiếng chân tiến lại gần, nhìn kỹ rõ ràng là hai anh em họ Võ. Khi vừa tới gần chỗ

hai người nấp, Võ tu Văn dừng chân đưa m¡t quan sát xung quanh một lượt rồi cất

tiếng nói:

-Đại ca, chỗ này thuận tiện l¡m rồi, nào chúng ta ra tay đi thôi.

Võ đôn Nho gật đầu đồng ý. Hai thanh trường kiếm đã tuốt ra khỏi vỏ. Nhưng Võ

tu Văn chưa động thủ, nói rằng:

-Đại ca, hôm nay nếu em bại trận, ch¡c anh không nỡ xuống tay, nhưng em không

thể nào sống được nữa. Sau khi chết rồi còn lại ba gánh nặng nề là báo thù cho mẫu

thân, phụng dưỡng cha già, và che chở đùm bọc cho Quách muội, xin nhờ anh niệm

tình chu toàn hết cho nhé.

Võ tu Văn tiến thêm mấy bước nhỏ nhẹ nói:

-Đại ca, chúng ta mồ côi từ tấm bé. Cha già lại đi xa, phải nương nhau mà sống.

Nay xảy ra việc này, ch¡c anh không trách em chứ?

Võ tam Thông nghe nói chạnh lòng rơi lệ. Võ đôn Nho cũng thiết tha nói:

- Số trời đã định, ta chẵng thế nào cãi được đâu.

Võ tu Văn nói:

-Dù ai sống, ai chết cũng mặc, kẻ nào sống sót nhất định suốt đời không được tiết

lộ câu chuyện này cho cha và Quách Phù phải đau khổ đấy nhé.

Võ đôn Nho không nói gì thêm, chỉ khe khẽ gật đầu, rồi siết mạnh tay trái của Tu

Văn. Hai anh em lặng nhìn nhau, không khí có vẻ l¡ng dịu.

Võ tam Thông nhận thấy hai người có vẻ yêu thương hòa hoãn cùng nhau, trong

bụng đã mừng, muốn bước lại khuyên hai con không nên quá ngu xuẩn và bồng bột

nhất thời như vậy. Nhưng bỗng một trong hai người thét lớn:

-Chúng ta b¡t đầu nào ?

Hai người cùng rút kiếm, soạt soạt liền liền, ánh kiếm nháng lên, Tu Văn tấn công

liên tiếp lẹ như sao băng. Đôn Nho đỡ được ba nhát ấy và trả lại liền hai nhát nữa

ngay vào chỗ nhược của Tu Văn. Mỗi nhát kiếm vung ra là một nhát trống dội vào

ngực Võ tam Thông, tim ông đập liên hồi, tâm hồn tán loạn không biết trong hai đứa

con trai đứa nào sẽ bị thương hay bỏ mạng. Tiếng thép chạm nhau choang choang

liên miên giữa chốn rừng sâu hoang v¡ng. Là anh em ruột một cha một mẹ, nhưng giờ

phút này họ đâm chém nhau không chút nương tay. Võ tam Thông sợ hãi xanh máu

mặt theo dõi trận đấu, không biết giờ phút nào sẽ chứng kiến giòng máu thân yêu phải

vọt ra. Ông nghĩ bụng:

-Nếu bây giờ mình xuất hiện thì cũng có thể ngừng được trận đấu ngay, nhưng như

thế không phải là một cách dứt khoát, vì tuy ngừng hôm nay nhưng họ sẽ hẹn nhau

một nơi khác mà ta không thể biết được trước. Chả lẻ ta cứ bám sát theo bên chân

hai người để giám sát và ngăn ngừa mãi hay sao ?

Thấy việc làm của hai đứa con trai yêu quý, Võ tam Thông lại nghĩ tới cái thân thế

long đong bầm dập của mình, bất giác cõi lòng thổn thức, giọt lệ chan hòa.

Hồi còn thơ ấu, Dương Qua và hai anh em họ Võ không ưa nhau nay nhìn thấy

cảnh huynh đệ tương tàn, lúc đầu chàng cảm thấy khoái trá, nhưng nhìn lại thái độ

thiểu não buồn đau của Võ tam Thông lại chạnh lòng. Nhớ lại đời mình không còn

sống bao nhiêu ngày nữa bỗng một hảo ý hiện ra trong trí óc, chàng nghĩ bụng:

-Đời mình chưa làm đượcmột việc thiện, thì sau khi chết ch¡c cô mình cũng đau xót.

Kiểm điểm lại những người có thiện cảm cùng ta cũng chỉ quanh quẫn giữa cô Trình

Anh, Lục vô Song một số hồng nhan tri kỹ mà thôi. Tại sao nhân cơ hội này ta không

ra ơn một chuyến đ

cho lão bá nghĩ tới mình và khi ta không còn sống nữa, ít ra cũng

được thêm một người nh¡c nhở tới ta.

Nghĩ xong, chàng ghé miệng vào tai Võ tam Thông nói nhỏ:

-Lão bá, cháu có một cách giúp bác khiến cho hai anh em không quyết đấu nhau

nữa.

Võ tam Thông như người chết đuối túm được phao, quay lại nhìn sững Dương Qua

lòng tràn ngập niềm cảm kích. Ông cảm động quá chỉ biết n¡m chặt hai tay Dương

Qua, mà nói chẵng nên lời.

Suốt đời ông, từ lúc thiếu thời đã bị chữ tình ràng buộc. Khi người vợ đã hy sinh

cứu mình mà bỏ mạng, ông dồn hết tình thương vào hai đứa con thơ, chỉ mong sao

chúng nó sẽ cùng nhau chung sống trong tình thân mật thuận hòa, không ngờ lại có

cái cảnh như ngày nay, càng nghĩ chừng nào ruột gan ông hình như bị ai c¡t đứt.

Trong cái cảnh tuyệt vọng này, ông thấy Dương Qua không khác nào là một vị cứu

tinh đã mang hạnh phúc lại cho đời mình, nỗi hân hoan lộ ra quá rõ ràng trên nét mặt.

Thấy nét mặt quá cảm xúc của Võ tam Thông, lòng Dương Qua như quặn th¡t và

nghĩ thầm:

-Nếu cha mình còn sống, có lẽ ông cũng thương mình như vậy chẳng khác nào.

Chàng ghé tai Võ tam Thông bảo nhỏ:

-Lão bá đừng cho họ thấy mặt, nếu không thì hỏng cả đấy.

Trong khi đó trận đấu của hai anh em họ Võ ngày càng quyết liệt. Hai người đem

ra áp dụng toàn là Việt Nữ kiếm pháp do Hàn Tiểu Oanh truyền dạy kỳ trước, nhưng

ngọn nào cũng có vẻ điêu luyện và già dặn hơn hồi luyện tập.

Võ tu Văn nhẹ nhàn lanh lẹ, thân pháp uyển chuyển, luôn luôn nhảy nhót nhẹ

nhàng, cố tìm chỗ hở mà tấn công. Võ đôn Nho thì trầm hùng điềm tĩnh, lúc nào cũng

nhiệm nhặt giữ thế, thỉnh thoảng trả lại một vài đòn ch¡t nụi.

Dương Qua đứng xem hồi lâu rồi cười ha hả từ từ bước ra. Vừa trông thấy chàng,

cả hai anh em giật mình ngừng tay nhìn sửng rồi hỏi gấp:

-Mi tới đây có việc chi ?

Dương Qua hất hàm hỏi lại:

-Còn bọn bây ở đây làm gì ?

Tu Văn nói:

-Chúng ta nhân thời giờ nhàn rỗi ra đây dượt kiếm cùng nhau.

Dương Qua cười lại bĩu môi nói:

-Chà, siêng năng chăm chỉ quá nhỉ? Luyện kiếm cung tới nỗi quyết liều sống chết,

chưa thấy ai tích cực như các người.

Võ đôn Nho nổi nóng nạt lớn:

-Mặc chúng ta, mỗi người có quyền tự do và công việc riêng, khỏi cần mi xen vào.

Hãy cút đi cho rảnh.

Dương Qua cười gằn:

-Nếu quả thật bọn bây luyện kiếm thì không bao giờ ta lại can dự vào làm chi.

Đàng này chú bây chẳng những quyết đấu má còn can dự tới em Phù của ta nữa, thì

bảo ta làm lơ sao được.

Vừa nghe mấy chữ "em Phù của ta" thì hai anh em họ Võ bỗng thấy nóng tai tái

mặt, cùng hét lớn:

-Sao, mày bảo sao ? Láo thật !

Dương Qua điềm tĩnh nói:

-Quách Phù là con gái cưng của Quách Bá Phụ và Quách Bá Mẫu, lẽ cố nhiên việc

dựng vợ gả chồng thảy điều do kẻ bề trên quyết định. Hai ông bà Quách bá bá và bá

mẫu đã hứa hôn nàng cho ta từ lâu nào phải bây không hay biết. Thế mà hôm nay

chúng bây dám ra đấu kiếm hòng cướp giựt hôn thê của ta, như vậy chúng bây có

xem ta ra gì đâu ? Dương Qua này không bao giờ chịu đ

yên được.

Hai anh em họ Võ không biết lấy lời gì đối đáp trước những câu nói quá bất ngờ và

rành rẽ của Dương Qua, vì cả hai điều biết rõ Quách Tỉnh đã nhận Dương Qua làm r.

Hôm nay ý nghĩ của mình bị lột trần quá tr¡n trợn, nên cả hai đứa chưa biết nên xử trí

như thế nào.

Một chập sau Tu Văn cười nhạt hỏi:

-Mi gọi "hôn thê" sao không biết ngượng mồm ? Ta cũng phục mi là con người lì

lợm và mạnh miệng đấy. Chẵng hay mi đã cậy ai làm mai mối và đã trình sính l

hồi

nào mà đã gọi là "hôn thê".

Dương Qua cười ha hả hỏi lại:

-Nếu như vậy thì ch¡c bọn bây đã có sính l

hay cha mẹ tán thành cả rồi sao ?

Theo phong tục đời Tống, việc hôn nhân do quyền cha mẹ quyết định và cần phải

có mai mối. Trong việc tranh chấp của hai anh em họ Võ, kẻ nào bại sẽ tự vận mà

chết. Người còn sống sẽ cầu hôn với Quách Phù chừng ấy nàng sẽ không còn lẽ gì

chọn lựa nữa và nhất định nàng phải ưng thuận.

Nghe Dương Qua hỏi quá đột ngột và hóc búa, cả hai không biết trả lời thế nào.

Mãi một hồi Tu Văn mới nói:

-Chúng ta biết rõ Sư Phụ đồng ý gả Quách Phù cho mi. Nhưng Sư Mẫu lại hứa gả

cho một trong hai anh em chúng ta rồi. Giữa ba đứa mình ngày nay danh phận chưa

có, việc tương lai sẽ giải quyết ra sao bây giờ làm sao đoán trước được ?

Dương Qua không nói, chỉ ngước mặt nhìn trời cười sằng sặc mãi. Tu Văn bực trí

quát nạt lớn:

-Tại sao mi cười ? Ta nói không phải hay sao ?

Dương Qua nói:

-Lời ta nói mới đúng, mi nói sai rồi. Quách Bá Phụ thương ta thì Quách Bá Mẫu

cũng vậy. Anh em bây những gì đặc biệt dám đem so sánh cùng ta xem thử ?

Tu Văn cười gằn đáp:

-Sự thật còn đó, ngươi muốn che giấu cũng không được nữa. Đừng hòng gạt người.

Dương Qua gằn giọng nói:

-Chuyện gì mà phải đi lừa gạt bọn bây ? Quách bá mẫu cũng đồng ý hứa hôn từ lâu

rồi. Nếu không, chuyện gì ta phải xả thân cứu cả nhạc phụ và nhạc mẫu trong mấy

lần liên tiếp ? Hành động hy sinh ấy cũng chỉ vì mối tình cùng em Phù mà thôi. Bây

nói vậy thì ta xin hỏi: Sư mẫu đã hứa với bây, có bằng chứng chi không ?

Hai anh em chỉ nhìn nhau chưa biết đối phó và trả lời ra sao cả. Lời Dương Qua

cũng có lý l¡m. Vì tranh chấp mối tình của Quách Phù mà anh em đã quyết tâm một

mất một còn. Chưa giải quyết xong, nay lại thêm một tình địch lợi hại xen vào thật

quả r¡c rối. Để đối phó hai người cần phải gác bỏ mọi hiềm khích nội bộ để hợp sức

nương tựa lẫn nhau mới được.

Vì có lần lé nghe được lời Quách Phù nói cùng hai anh em họ Võ nên chàng dụng ý

gợi cho hai người ghen cho bỏ ghét:

- Em Phù đã l¡m lần nói với ta rằng vì chúng bây đeo đuổi nàng mãi nàng cũng

không tiện công nhiên từ chối, thành thử phải nói bằng lòng cả hai. Chúng bây há

không nghĩ rằng, một người đoan trang hiền thục như Quách Phù, lại là con nhà trâm

anh thế phiệt, lẽ nào lại một lúc thích cả hai người đàn ông sao ? Có thể nói tr¡ng ra

rằng "thích cả hai là không thích một người nào hết". Phải không ?

Rồi chàng giả bộ nũng nịu nhái lại lời nói của Quách Phù độ nọ:

-Anh hai, sao anh cứ đeo đuổi tôi mãi làm gì ? Anh không hiểu lòng tôi đang phân

vân ái ngại sao ? Còn anh cả cũng vậy, thôi thà chết phức cho rảnh nợ !

Chàng nói cả hai anh em họ Võ thất s¡c, mồ hôi chảy ướt mình cả hai cùng bàng

hoàng suy nghĩ:

-Quả đúng lời nói của Quách Phù nói riêng với ta trong bữa nọ. Nếu nàng không

thuật lại thì sao h¡n biết được câu chuyện tâm tình này ? Té ra nàng thoái thác không

chịu nhận lời với người nào cũng chỉ vì thế. Quả là điều bẽ bàng và sỉ nhục.

Nhìn qua thần s¡c của hai người, Dương Qua đã đoán biết hết những ý nghĩ trong

lòng họ. Thấy cả hai đã lầm kế mình, chàng từ tốn và nghiêm nghị bảo:

-Như vậy Quách Phù là hôn thê của ta rồi. Mai hậu ta với nàng sẽ là vợ chồng,

cùng nhau nối tóc tới già, xây dựng gia đình hạnh phúc, con cháu nối nghiệp đời đời.

Vừa nói tới đây bỗng có tiếng thở dài của ai rất não ruột, hình như là Tiểu long Nữ.

Dương Qua vừa nghe choáng váng cả người, muốn buộc miệng gọi Cô Nương, nhưng

đã kịp thời dằn được, vì chàng đoán biết kẻ ấy là Lý mạc Thu. Con người ấy, nhất

định không nên giáp mặt được cùng cha con nhà họ Võ.

Rồi chàng lớn tiếng bảo:

-Chúng bây chỉ si tình, nuôi hy vọng hảo huyền vô ích quá. Ta vì tình nhạc phụ,

nhạc mẫu nên bỏ qua hết mọi chuyện, bây giờ khá mau về thành Tương Dương giúp

đỡ nhạc phụ, nhạc mẫu ta đ

thủ thành thì hơn.

Hai anh em họ Võ ngao ngán và chán nản quá, siết tay nhau cảm thông trong số

phận hẩm hiu chung.

Võ tu Văn từ tốn nói:

-Dương huynh, xin kính chúc anh và Quách cô nương đặng tròn dim

phúc trăm

năm cầm s¡c hòa hợp. Từ nay xin cứ xem hai anh em chúng tôi như không còn trên

cõi đời này nữa.

Nói xong hai người n¡m tay nhau bước đi. Dương Qua mừng rỡ thấy kế hoạch

mình đã thành tựu mỹ mãn. Võ tam Thông dang nấp người sau khóm trúc, thấy hai

con mình nói lời từ biệt và định đem nhau đi ẩn dật xứ xa thì trong lòng bất nhẫn, vội

nhảy ra gọi lớn:

-Văn nhi, Nho nhi, hai con đi đâu đấy ? Chờ ta theo cùng.

Hai anh em vừa nghe tiếng Võ tam Thông đã ngạc nhiên, quay mình nhìn lại thấy

quả cha mình, cùng thốt lên một tiếng "cha". Võ tam Thông ch¡p tay xá Dương Qua

nói:

-Lão đây nguyện suốt đời ghi ơn tiểu đệ.

Dương Qua bực mình vì thấy Tam Thông đã nông nỗi làm lộ công chuyện, định

kiếm lời nói át đi, nhưng Võ tu Văn đã nghe được, quay sang bảo anh:

-Đại ca, có lẽ chúng ta đã bị gạt rồi.

Võ đôn Nho tuy không lanh miệng khéo mồm, nhưng cũng có óc thông minh lanh

lợi. Chàng nghe nói, quay sang nhìn cha rồi nhìn em gật đầu.

Võ tam Thông thấy mình đã làm hỏng chuyện, vội tìm lời đính chính:

-Con chớ hiểu lầm. Cha không có nhờ Dương huynh khuyên bảo hay dàn xếp gì về

chuyện này hết.

Câu cải chính này xác nhận thêm một lần nữa sự việc mà hai anh em đa nghi hoặc.

Bấy giờ Tu Văn và Đôn Nho mới tin rằng những chuyện vừa rồi Dương Qua bày đặt

hết, vì vậy hai người chợt nghĩ:

-Xưa nay Dương Qua và Quách Phù thường hục hặc cùng nhau có ai ưa ai đâu.

Huống chi Dương Qua đã có tình thiết tha cùng Tiểu long Nữ thì làm sao hứa hôn

cùng Quách Phù được ?

Tu Văn bảo anh:

- Đại ca, chúng ta cứ về thành Tương Dương hỏi lại Phù muội để nàng trực tiếp trả

lời thì ch¡c hơn.

Đôn Nho gật đầu đáp:

-Phải rồi, hơi đâu đi tin những lời xảo ngữ được.

Tu Văn ngó cha nói:

-Thưa cha, nhân tiện cha hãy cùng chúng con về thành Tương Dương thăm vợ

chồng Quách bá phụ luôn thể, hai người cùng cha là bạn cũ mà.

Võ tam Thông thấy công chuyện lở hỏng bét thì không biết đối phó sao cho phải.

Ông muốn đem quyền làm cha ra răn dạy hai con, nhưng lại sợ, kho không có mình

chúng nó trở lại thanh toán nhau như cũ thì càng nguy nữa.

Ông đang ú ớ chưa biết nên nói gì thì Dương Qua đã cười lạt nói:

-Võ nhị ca, tôi cấm anh không được nh¡c đến hai chữ "Phù muội" và ngay cả trong

lòng cũng không được nghĩ tới nữa đấy.

Võ tu Văn trợn m¡t quát lớn:

-Trên đời chưa có kẻ nào ngang ngược và vô lý như mi. Chữ "Phù muội", ta đã

dùng trên bảy tám năm rồi, không những vậy ta vẫn tiếp tục dùng ngày nay và cả

trong tương lai nữa. Phù muội ta kêu mãi đã sao đâu ?

Thình lình có một tiếng bốp chát chúa nổi lên, má Tu Văn đã in dấu năm ngón tay

của Dương Qua đỏ ửng.

Tu Văn tuốt thanh trường kiếm gầm lên:

-Thằng Dương Qua đáng trị thật. Xưa nay ta với mi chưa từng so kiếm xem sao ?

Võ tam Thông nạt lớn:

-Văn nhi, không được động thủ.

Dương Qua quay sang nhìn Tam Thông hỏi lại:

-Võ lão bá, trong hai người bác bênh ai.

Theo lẽ thường thì Tam Thông phải bênh con mình mới phải. Nhưng ông đã rõ sở

dĩ Dương Qua muốn hành động cũng chỉ vì muốn giúp mình giải quyết một chuyện

r¡c rối mà mình đành bất lực, khiến cho hai con mình khỏi tàn sát lẫn nhau.

Vì vậy cho nên ông đứng yên, cứng miệng chẵng biết nói làm sao.

Dương Qua bèn nói:

-Tôi xin bác cứ ngồi yên trên tảng đá để thưởng thức cuộc tranh tài này. Tôi xin

hứa không giết họ đâu mà lo.

Mặc dù Dương Qua còn nhỏ tuổi nhưng xử thế như thần, huống hồ chi chuyện này

chàng lo cho mình, nên Võ tam Thông phải nghe theo lời chàng đề nghị, đến ngồi trên

tảng đá lớn bên cạnh đó.

Dương Qua tuốt phăng Tử Vi bảo kiếm, chém soạt luôn hai nhát thành hình chử

thập trên một tảng đá khá nặng trên ngàn cân đang lù lù trước mặt rồi phi cước đá

văng ra thành bốn mảnh bằng nhau. Chổ bị kiếm chém bằng phẳng như cưa.

Anh em họ Võ thấy thanh bảo kiếm bén quá thất kinh nhìn sửng.

Dương Qua cài kiếm vào vỏ rồi nói:

-Với hai người, ta chẳng cần phải dùng tới kiếm này đâu mà lo.

Nói xong chàng bước lại cây lớn gần đó bẻ một cành, tuốt hết lá biến thành một cây

đoản côn chừng ba thước, nói lớn:

-Ta đã nói mà chúng bây chưa tin rằng nhạc Mẫu thương ta hơn. Bây giờ ta sẽ

chứng minh cho xem. Ta chỉ dùng chiếc cây này, cho hai anh em bây cùng tấn công

một lượt tất cả những ngón nhạc phụ ta đã truyền và cũng có thể dùng Nhứt dương

Chỉ học của Chu tử Liu

nữa. Ta chỉ dùng toàn thế võ của nhạc mẫu truyền dạy để

đối phó mà thôi, nếu có dùng thứ võ nào khác thì xem như thua bây.

Võ đôn Nho thấy vậy cho rằng nếu theo các điều kiện này thì dù anh em mình

th¡ng cũng chẳng danh dự gì, định nói lại, nhưng Võ tu Văn đã lanh miệng nói:

-Hay l¡m, đó là do mi đề nghị chứ anh em ta không buộc. Nhưng nếu mi dùng các

thế võ của Toàn Chân phái hay trong Ngọc Nữ tâm kinh thì sao ?

Dương Qua bình tĩnh đáp:

-Thì xem như ta thua chứ sao. Hôm nay chúng ta đánh nhau không phải là vì thù

oán mà chỉ để tranh lấy Phù muội mà thôi. Nếu ta thua thì nhất định phải đi xa, vĩnh

vin

không được nhìn tới nàng nữa. Còn hai người thì sao ?

Câu hỏi của Dương Qua đã dồn hai anh em vào thế bí nhưng không còn cách nào

chống chế nữa, Tu Văn đành nói:

-Thì chúng ta cũng vậy chứ sao. Nếu hai ta bị thua, sẽ mãi mãi không gặp nàng

nữa.

Dương Qua nhìn Đôn Nho hỏi lại:

-Đó là ý kiến của h¡n thôi, còn mi thì sao ?

Võ đôn Nho trừng m¡t quát:

-Em ta sao thì ta vậy, anh em chúng ta cùng chung một ý kiến thôi.

Dương Qua đ¡c chí cười vang:

-Hôm nay nếu kẻ nào bị bại mà không giữ đúng lời hứa thì quả là đồ vô liêm sĩ, thua

cả loài chó lợn đấy nhé.

Tu Văn đáp ngay:

-Đúng như vậy. Bây giờ hãy đỡ kiếm ta đây, thằng mọi.

Nói dứt lời, chàng vung trường kiếm chém vụt vào chân Dương Qua đồng thời Đôn

Nho cũng chém thẳng vào chân bên kia, khiến Dương Qua phải phi thân nhảy vọt lên

cao để tránh né và buột miệng khen:

-Hay l¡m, huynh đệ nhứt tâm, sức mạnh có thể xô thành đổ núi, lợi hại l¡m.

Võ đôn Nho tung kiếm chém nữa, Dương Qua cầm côn nhưng không thèm đỡ

nghiên mình né tránh, miệng đọc bốn câu:

-"Vợ chồng như quần với áo,

"Anh em như tay với chân,

"Áo quần rách, có thể thay,

"Tay chân gãy, làm sao chấp nối?

Hai anh em bây đã biết bốn câu thơ này chưa ?

Tu Văn quát lớn:

-Hãy đánh đi đừng ba xạo. Võ công của sư mẫu truyền dạy cho đâu sao chẳng đem

ra thi thố, cứ tránh né hoài như vậy?

Đôn Nho không nói lời nào, cứ bặm môi múa kiếm chém ngay vào các chỗ nhược.

Dương Qua cười lớn bảo:

-Hay đấy, bây giờ hãy cẩn thận nhé, rán mà đỡ những ngón võ tinh kỳ của Nhạc

mẫu ta dạy đây nè.

Nói dứt lời, chàng dùng gậy đập thẳng theo thế "quất" trong phép đánh chó, đồng

thời đưa ngón tay điểm vào huyệt của Đôn Nho. Đôn Nho vội vàng nhảy lên tránh

khỏi, nhưng khúc cây lại đánh trúng vào giò Tu Văn té lăn ra đất.

Thấy em bị nhào, Đôn Nho vội hoành thân tu kiếm chém mạnh như bảo táp, Dương

Qua chép miệng khen lớn:

-Hay l¡m, phàm thấy em lâm nạn, liều thân giải cứu như vậy mới đúng đạo làm

anh chứ.

Chàng vừa nói xong thì khúc cây đã xoay lại nện trên lưng Đôn Nho. Tuy bị một

đòn không đau l¡m nhưng Đôn Nho cũng thừa biết phần thất bại đã về phần mình rồi.

Ngay khi đó Tu Văn lồm cồm ngồi dậy, nói lớn:

-Đó là phép đánh chó, nào võ công của sư mẫu dạy mi. Khi bà dạy cho Lỗ hữu

Cước, chính mi và chúng ta đã nấp xem và học lóm thế mà cũng đưa ra lòe, đâu có gì

là giỏi?

Y nói chưa dứt lời đã lãnh thêm một đòn té xấp xuống đất. Dương Qua chờ chàng

lồm cồm ngồi dậy rồi mới nói:

-Phép đánh chó là một môn võ công tuyệt diệu và khó học vô cùng. Nếu chỉ học lóm

mà biết, tại sao anh em bây lại không biết. Quách bá mẫu chỉ dạy cho Lỗ trưởng lão

những khẩu quyết thông thường, còn các thế đánh thì bà chỉ ngầm dạy riêng ta mà

thôi. Cả Phù muội cũng chưa hề học được, thì bọn bây làm sao học được mà mong.

Tu Văn nào biết được câu chuyện Dương Qua đã gặp Hồng thất Công, nên nghe lời

chàng nói, đối với sự hiểu biết của mình, đã tin là hợp lẽ, tuy nhiên ngoài miệng chàng

vẫn cứng cỏi nói:

-Mi biết được chẵng qua nhờ trời phú cho có thiên tư đặc biệt mà thôi. Chúng ta

tuy vô tình nghe sư mẫu giảng giải chứ đâu có để tâm học lén. Chỉ có những thứ vô

liêm sĩ mới dụng ý này mà thôi.

Dương Qua há miệng cười lớn, rồi bỗng nhiên xoay côn lẹ như chớp nghe "bốp,

bốp" hai tiếng, mỗi người lãnh thêm một đòn trên lưng tuy không đau l¡m nhưng mặt

đã có vẻ thẹn thuồng.

Dương Qua vừa cười vừa nói:

- Bây giờ có nói ra cũng không có gì làm chứng và bảo đảm cho, dù ta dùng đả

bổng pháp hạ bây nhưng lòng không phục cũng chẵng thích gì. Thôi ta dùng một võ

công của nhạc mẫu do ai đích truyền hay không?

Tu Văn hằn học nói lớn:

-Dẹp đi mi, cứ mỗi chút là nhạc mẫu với nhạc phụ mà không biết ngượng mồm.

Khỏi nói chuyện với mi nữa!

Dương Qua cười hè hè nói:

-Cậu này quả hẹp lượng và câu chấp. Thôi cũng được, vậy hãy cho ta biết, võ công

của sư mẫu do ai truyền dạy ?

Tu Văn nghênh mặt tỏ ý tự phụ đáp:

-Sư mẫu ta là con gái duy nhất của Hoàng Đảo Chúa. Võ công của bà do Hoàng

đảo chúa truyền dạy chứ còn ai nữa?

Dương Qua gật đầu nói:

-Phải đấy, nhưng sau khi chung sống nhiều năm trên đảo Đào Hoa các người có

biết sở trường tuyệt kỷ của Hoàng đảo chúa là môn nào không ?

Võ tu Văn đáp:

-Hoàng đảo chúa là một dị nhân tài kiêm văn võ. Con người như ông thì ngón võ

nào cũng tuyệt diệu cả không phân biệt ngón nào sở trường cả.

Dương Qua gật gù nói:

- Lời mi nói cũng chí lý, tuy nhiên về kiếm pháp, mi có biết Hoàng đảo chúa sở

trường kiếm pháp nào hay không ?

Võ tu Văn đáp:

-Nếu mày biết sao còn hỏi nữa. Trên giang hồ ai lại không biết Hoàng đảo chúa sở

trường về "Ngọc Tiêu Kiếm Pháp", oai trấn võ lâm, không ai bì nổi.

Dương Qua lại hỏi nữa:

-Anh em bây đã gặp Hoàng đảo chúa lần nào chưa ?

Võ tu Văn thấy chàng hỏi mãi bực mình, nhăn mặt xẵng giọng:

-Mi hỏi dai quá cỡ, lẽ cố nhiên không gặp rồi. Vì Hoàng đảo chúa trên mười mấy

năm nay đi chu du thiên hạ có bao giờ về đảo đâu. Cả sư phụ sư mẫu còn hiếm khi

gặp gỡ huống chi bọn này.

Dương Qua nói:

- Vậy thì ch¡c hai người cũng chỉ nghe nói chứ chưa bao giờ được thưởng thức

Ngọc tiêu kiếm pháp phải không?

Võ tu Văn đáp:

-Trong dịp kỷ niệm sinh nhật của Hoàng đảo chủ, sư mẫu thiết tiệc ăn mừng, ngay

trong tiệc bà có biểu din

Ngọc Tiêu kiếm pháp, ta đã được xem, nhưng anh ta khi đó

bận lên Trùng Dương cung học nghệ nên không xem được.

Dương Qua cười lớn nói:

-Hay l¡m, mi đã xem được rồi thì càng hay l¡m. Môn này sư mẫu đã truyền lại cho

ta rồi.

Hai anh em họ Võ nghe nói nhìn nhau trong lòng ngờ vực:

-Ngọc tiêu kiếm pháp là một kiếm thuật kỳ diệu vô cùng, ngay như Quách Phù là

con gái cưng mà chưa được Hoàng Dung truyền lại, huống hồ Dương Qua. Từ ngày

rời Chung Nam sơn, Dương Qua có mấy khi được dịp gần Hoàng Dung lâu? Nếu có

gặp nhau cũng chỉ trong vài giờ rồi lại chia tay ngay, như thế làm sao có đủ điều kiện

để học cho được?

Đang suy nghĩ nửa tin nửa ngờ, chưa biết nói sao, bỗng Dương Qua thét lớn:

-Đây là thế Tiên Ông Cỡi Rồng!

Miệng nói tay đâm ngọn roi về phía trước nghe bộp một tiếng trúng ngay ngực Đôn

Nho. Nếu là mủi kiếm thật thì ngực Đôn Nho đã thủng rồi.

Tu Văn vung kiếm thọc vào hông Dương Qua, nhưng chàng đã thu roi về điểm

trúng vào Tu Văn.

Tu Văn hoảng hốt thu kiếm, rùn mình thấp xuống để né roi rồi tung cước đá vụt ra

một đá. Khi ấy, ngọn roi của Dương Qua đã đỗi chiều, điểm ngay vào huyệt "Thái

Dương" của Tu Văn, vừa công vừa thủ lợi hại phi thường. Tu Văn đá hụt vào không

khí. Đôn Nho cũng đứng vào tình trạng nguy biến, phải dùng hết sức loang kiếm

kh¡p người mới tạm tránh được những thế tấn công vô cùng ác liệt của Dương Qua.

Sau năm hiệp, hai anh em họ Võ đã yếu sức dần dần, không đủ sức để chống đỡ

chứ đừng nói đến chuyện tấn công.

Dương Qua thì miệng đọc các khẩu quyết, chân tay tu ra liên hồi, hết thế nàng sang

thế khác như nước chảy mây trôi khiến cho hai anh em họ Võ tối tăm mặt mũi chẵng

biết ứng phó đánh đỡ ra làm sao nữa, tay chân rụng rời, mồ hôi ra như t¡m.

Xưa kia Tu Văn có dịp xem Hoàng Dung biểu din

Ngọc Tiêu kiếm pháp, tuy thấy

hay nhưng cũng không tưởng tượng được lối đánh bay bướm, uyển chuyển và lợi hại

thế này.

Vừa đánh đỡ hai người cảm thấy trong lòng xốn xang, vì tin rằng Hoàng Dung đã

truyền cho Dương Qua thật. Hai người nào biết được Dương Qua có dịp may chung

sống với Hoàng Dược Sư thời gian khá lâu và trong khi ấy, chàng đã được ông ta

thân truyền cho hai môn tuyệt kỹ của Đào Hoa kiếm pháp là "Ngọc Tiêu kiếm thuật"

và "Đàn chỉ thần công".

Càng đấu chừng nào Đôn Nho và Tu Văn càng cảm thấy áp lực của Dương Qua

càng thêm trầm trọng. Ngọn roi chàng múa tuy mềm mại ẻo lả nhưng có một sức

mạnh vô cùng hùng hậu hút cả đôi trường kiếm khiến hai người điều khiển khá khó

khăn và thường chém sai đích.

Thấy hai người đã xanh mặt, thở lên hồng hộc, Dương Qua lại cười lớn nói thêm:

-Ngọc tiêu kiếm pháp không phải chỉ bao nhiêu mà còn l¡m chổ kỳ diệu hơn nữa.

Hãy xem đây nhé.

Chàng nói vừa dứt lời bỗng nghe "bập" một tiếng, ngọn roi và thanh kiếm của Đôn

Nho đã g¡n chặt vào nhau, đồng thời Đôn Nho cảm thấy một luồng kình lực hút mạnh

thanh kiếm như muốn sút khỏi tay bay đi. Chàng phải bậm môi cố sức n¡m chặt lại

để khỏi mất kiếm.

Dương Qua tiến thêm một bước, nương theo áp lực của địch hướng ngọn roi lại hút

chặt luôn cây kiếm của Tu Văn luôn.

Tức thì chàng quát lên một tiếng lớn, vận sức truyền lực vào roi, đè hai ngọn trường

kiếm chúi mũi xuống đất.

Hai anh em họ Võ cố sức bình sinh định rút nhanh kiếm ra khỏi vòng áp lực của

Dương Qua, nhưng chàng bỗng tiến thêm hai bước dùng bàn chân giậm lên hai thanh

kiếm rồi bật ngược đầu roi trở lên chỉ thẳng vào yết hầu hai người miệng tủm tỉm cười

hỏi:

-Đã phục và chịu thua chưa?

Nếu cây roi này là thanh kiếm thì hai anh em đứt họng rồi, nên cả hai thất s¡c, đứng

lặng thinh, mặt mày tái mét.

Dương Qua thấy anh em họ Võ đã khuất phục và kinh hoàng như vậy thì cũng thấy

hả hê vì đã báo được mối thù ngày trước trên Đào Hoa đảo họ đã hiếp đáp mình.

Chàng lùi mấy bước, qu¡t m¡t nhìn, hãnh diện.

Đôn Nho và Tu Văn thật không ngờ Hoàng Dung đã thương yêu Dương Qua và

truyền cả tuyệt nghệ võ công cho chàng như vậy.

Nhưng cả hai đã trót yêu Quách Phù quá nặng, nếu bây giờ giữ lời hứa, không nhìn

mặt nàng nữa thì làm sao chịu nỗi ?

Đôn Nho thở dài não nuột, rồi muốn bỏ kiếm chịu thua cho rồi, nhưng Tu Văn nói:

-Đại ca, chúng ta chưa thể chịu thua h¡n, quyết đấu một keo nữa xem sao.

Đôn Nho gật đầu đồng ý.

Cả hai xách trường kiếm chém nhầu. Lần này người nào cũng quyết đem hết tài

nghệ tuyệt học thí mạng cùng Dương Qua để đánh đổi một mối tình mà họ không thể

nào tự ý rời bỏ cho được.

Dương Qua cười rộ nói:

-Có đánh hăng như vậy mới thấy hứng thú chứ.

Nói xong chàng ném ph¡t ngọn roi, xoay mình lòn qua hai ánh kiếm hình như không

xem hai người ra chi hết. Chàng đùa một hồi bỗng đứng yên lặng, rú lên một tiếng,

dùng ngón tay búng mạnh vào hai sống kiếm.

Hai người cảm thấy tê rần rần cả hổ khẩu, không còn đủ sức giữ được, để hai

thanh trường kiếm thoát khỏi tay bay vút lên không trung như hai chiếc pháo thăng

thiên.

Dương Qua phi thân nhảy theo đưa tay xớt lấy cả hai thanh kiếm như một trò chơi,

rồi nhìn hai anh em nói:

-Còn đấy là "đạn chỉ thần công", biết chưa?

Thấy hai anh em cùng tái mặt không miệng nào đáp lại, Dương Qua trao hai thanh

kiếm trả lại và nói:

-Tôi xin hai vị thứ lỗi cho.

Tu Văn tiếp lấy thanh trường kiếm nghẹn ngào nói:

-Thôi rồi, tôi đành vĩnh biệt cùng Phù muội đời đời.

Nói vừa dứt lời chàng trở ngược lưỡi kiếm thọc vào yết hầu.

Ngay lúc đó, Võ đôn Nho cũng xoay lưỡi kiếm cứa mạnh vào cổ.

Dương Qua thất s¡c nhảy luôn tới trước đưa tay búng mạnh vào hai sống kiếm

nghe "choang, choang" hai ngọn kiếm chạm vào nhau gãy làm bốn đoạn rơi xuống

đất.

Ngay lúc đó Võ tam Thông đã nhảy ra n¡m áo hai con thét lớn:

-Trời ơi, hai anh em chúng bây chỉ vì một đứa con gái màm đi liều mình tự tử, quả

là điều đê hèn quá đáng.

Tu Văn ngẩn lên nhìn cha, mặt đầy nước m¡t:

-Cha, cha cũng suốt một đời đau khổ vì một người đàn bà. Chúng con... con...

Chàng nói chưa hết lời, nhưng thoáng trong bóng sao đêm thấy nét mặt cha già

chứa đựng đầy đau khổ, nước m¡t chan hòa, chàng cảm thấy chúng mình đã đi tàn sát

lẫn nhau, đem mối âu lo cho cha già, đã chừng này tuổi mà không tròn quả phúc.

Niềm hối hận tràn ngập như ánh chớp trong những bóng tối giữa đêm đông, hai người

ôm chầm lấy nhau khóc lớn.

Võ tam Thông buông áo, kéo hai con trai vào lòng, ba cha con ôm nhau thổn thức

vì bị xúc động mãnh liệt.

Trong giây phút đau đớn này, Tu Văn nghĩ bụng:

-Ta đã yêu Quách Phù với một mối tình chân thật, không ngờ nàng lại thương mến

Dương Qua. Thậm chí một người như sư mẫu cũng lừa dối anh em mình, đem hết võ

công truyền riêng cho rể tương lai bao nhiêu đó cũng đủ chứng minh rằng thiên hạ

chẳng qua là giả dối bề ngoài chỉ toàn là xảo trá. Chỉ có tình cha mẹ và anh em ruột

thịt mới là thành thật mà thôi.

Càng nghĩ chàng càng thấy thấm thía hối hận gục đầu vào lòng cha nức nở nghẹn

ngào thổn thức mãi.

oOo

Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 60 : Quách Phù hài tội dương Qua

Mặc dù Dương Qua có tâm hồn phóng khoáng, vì lòng nghĩa hiệp giúp Võ tam Thông bằng cách quyền biến, nhưng đã khiến cho anh em họ Võ mang một mối hận lòng, không thiết đến mạng sống nữa. Nếu là Quách Tỉnh chắc không bao giờ ông chịu làm được những thủ đoạn xáo trá như vậy, dầu các thủ đoạn ấy chỉ nhằm một múc đích tốt.

Nhìn thấy anh em họ Võ đã hối hận làm lành với nhau và ba cha con ôm nhau khóc lóc, Dương Qua cảm thấý hân hoan và hãnh diện về việc mình làm. Chàng nghĩ thầm:

- Trước giờ từ giã cõi đời, ta đã làm thêm được một điều thiện. Âu cũng là một niềm an ủi cho số phận hẩm hiu của chàng Dương Qua này.

Bỗng Võ Tam Thông bảo hai con:

- Phàm làm trai không bao giờ thiếu vợ. Đứa con gái nhà họ Quách đã không có lòng đoái tưởng đến thì chuyện gì hai con còn lưu luyến làm gì nữa. Công chuyện đầu tiên hiện nay mà hai con cần làm là chi, có biết không?

Võ Tu Văn đáp:

- Chúng con cần rửa thù cho thân mẫu.

Võ tam Thông gật đầu rồi cao tiếng nói:

- Phải đấy, dù phải đi khắp chân mây mặt nước, chúng ta cũng phải tìm cho ra Xích Luyện tiên tử Lý mạc Thu để trả thù.

Vừa nghe câu này, Dương Qua chột dạ nghĩ: "ủa chết, ta cần đưa họ đi một chỗ khác, nếu để lọt vào tai Lý Mạc Thu trong lúc này thì rắc rối lắm".

Chàng vừa nghĩ tới đó, chưa kịp nói ra thì đã có giọng cười lảnh lót trong hang vọng ra, một người đàn bà thét lớn:

- Cần chi phải đi tìm đâu xa nữa. Xích luyện tiên tử Lý Mạc Thu ta chờ bây tại đây lâu rồi.

Từ trong hang nàng tiến ra từng bước một, trên tay trái bồng đứa hài nhi, tay phải nắm phất trần, hai tà áo bào bay phần phật trước ngọn gió rừng trông vô cùng hống hách.

Cha con họ Võ không ngờ gặp kẻ tử thù nơi đây. Võ tam Thông rít lên một tiếng, chồm tới tấn công ngay. Võ Đôn Nho và Võ tu Văn cũng lượm hai thanh kiếm gẫy tấn công hai bên tả hữu.

Dương Qua gọi lớn:

- Xin chư vị tạm dừng tay, tôi có điều muốn thưa lại.

Võ tam Thông hậm hực nói:

- Dương tiểu huynh, xin hãy chờ tôi giết con ác tặc này rồi sẽ nói chuyện sau.

Nói xong lão dùng tả chưởng đánh liền ba đòn liên tiếp. Nhờ xáp lá cà nên tuy kiếm gãy cũng lợi hại không khác gì đoản đao trủy thủ.

Dương Qua thừa biết họ đối với nhau có một mối đại thù, chưa chắc gì nghe mình mà dừng tay được. Ngặt vì có hại tới đứa bé nên chàng hướng về Lý mạc Thu nói:

- Lý sư bá hãy giao đứa bé cho tôi bồng.

Võ tam Thông trố mắt hỏi:

- ủa, sao mi gọi con ác phụ này là sư bá?

Lý Mạc Thu cười bảo Dương Qua:

- Dương sư điệt, cháu hãy tấn công vào mặt sau bọn chúng còn đứa bé này để mặc ta không hề chi đâu.

Lý Mạc Thu nhận xét qua ba thế võ vừa rồi, thấy Võ Tam Thông đã có một bản lãnh cao cường hơn ngày xưa nhiêu lắm. Hơn nữa thêm hai anh thanh niên giúp sức nữa thì quả là một chuyện rắc rối, khó mà đối phó. Vì vậy nàng gọi Dương Qua bằng sư điệt để gây kế ly gián, uy hiếp tinh thần ba cha con họ Võ.

Không ngờ Võ Tam Thông đã trúng kế. Ông bèn bảo hai con:

- Nho và Văn, hai con hãy đề phòng tên họ Dương, còn con ác phụ này một mình cha liều mạng với nó cũng được.

Dương Qua dừng tay không đánh nói lớn:

- Cả hai bên, tôi không tiếp ai cả, nhưng xin chớ làm tổn thương tới đứa hài nhi đấy nhé.

Võ Tam Thông thấy Dương Qua đã rút lui ra ngoại cuộc thì trong dạ bớt lo phần nào. Ông bèn múa chưởng tấn công Lý Mạc thu liên tiếp. Mạc Thu cũng múa phất trần bình tĩnh kháng cự vừa đánh vừa gọi lớn:

- Nhị vị công tử, theo hành động của nhị vị vừa rồi, tuy có vẻ đa tình lãng mạn, nhưng còn hơn bao nhiêu bọn đàn ông vong ân bội nghĩa đáng ghét khác. Nể tình hôm nay, ta rộng dung cho hai vị khỏi chết, vậy hãy mau rời khỏi chốn này cho rồi.

Võ tu Văn nổi xung thét lớn:

- Mi quả là một con đàn bà lòng lang dạ thú, độc ác hơn hùm beo, mi dám lấy tư cách gì mà bảo rằng bọn ta là đa tình được?

Miệng nói tay tấn công tới tấp. Lý Mạc Thu nổi xung thét:

- Quả đồ súc sinh không biết thân còn dám lớn lối.

Nói rồi múa phất trần thành một vòng tròn gạt luôn mấy thanh kiếm gãy của hai anh em. Khi hai thanh kiếm vừa chạm phải phất trần, anh em họ Võ thấy tê rần cùi tay, toàn thân rúng động, ngực đau nhói. Nhờ Võ tam Thông đẩy tới ba chưởng cứu nguy hiểm Lý Mạc Thu phải thu phất trần về chống đỡ, hai anh em mới rảnh tay để thở.

Dương Qua sẽ tiến lại gần phía sau Lý Mạc Thu chờ lúc nàng hở cơ sẽ xông vào giật đại đứa bé. Nhưng vì ba cha con họ Võ đánh gắt quá khiến nàng phải vũ lộng cây phất trần bao phủ khắp thân mình không một chỗ nào hở thành thử chàng không thi hành được mưu kế. Thấy cha con họ Võ chẳng chút nể nang gì đến đứa bé. Dương Qua hoảng quá, chỉ sợ nếu có bề nào gây thương tích cho hắn thì biết ăn làm sao nói làm sao với vợ chồng Quách Tỉnh về sau cho tiện. Chàng lại cất tiếng gọi lớn:

- Sư bá, hãy giao đứa bé tôi bồng cho.

Miệng vừa gọi, hai tay tung ra hai chưởng đẩy cây phất trần qua một bên rồi thình lình nhập nội sát bên mình nàng giật đứa bé. Vì đang đứng giữa bốn người, Lý Mạc Thu không thể nào hở tay để giành lại. Nhưng nếu để mặc chàng giật đứa bé đem đi thì chẳng đành lòng nên nàng trợn mắt hét

lớn:

- Nếu mi cố giật nó, ta sẽ kẹp mạnh cho nát thây, chừng đó đừng có trách nhé.

Dương Qua hoảng kinh thối lui không dám giật nữa.

Thừa lúc Lý Mạc Thu bị phân tâm, Võ Tam Thông dùng tay trái đẩy ra một chưởng còn tay phải luồn xuống phía dưới điểm thẳng vào hông Lý Mạc Thu.

Bị điểm trúng yếu huyệt đau nhói, hai chân bủn rủn muốn sụn, Lý Mạc Thu vội vàng thu hết tàn lực đá mạnh vào tay Võ Đôn Nho làm bắn thanh kiếm gãy đi xa lắc, rồi múa cây phất trần thành một cơn gió lốc đàn áp Võ Tu Văn.

Võ Tam Thông lật đật nắm áo Tu Văn kéo mạnh sang một bên tránh được đòn này.

Lý Mạc Thu tự thấy mình mang trọng thương e khó cầm cự lâu dài, nên múa tít cây phất trần mở đường phi thân chui vào hang núi.

Võ Tam Thông mừng quá la lớn:

- Con ma đầu đã bị một đòn rất nặng, e khó sống nổi.

Hai người con định cầm thanh kiếm gãy xông vào truy kích, nhưng Võ Tam Thông ngăn lại bảo:

- Hãy khoan, chớ hành động hấp tấp mà trúng nhầm độc kế của con tiện tỳ. Hãy đứng canh phòng nơi đây, chờ hắn chui ra sẽ đánh.

Hai anh em vừa cất kiếm lui ra thì bỗng có một tiếng gầm vang dội cả hang đá, rồi từ bên trong phóng ra một con mãnh thú, mắt sáng như đèn. Võ Tam Thông giật mình hoảng sợ và suy nghĩ:

- Lý Mạc Thu đã nấp trong hang, sao còn thú dữ, còn hắn đâu rồi?

Ông vừa thối lui vài bước, bỗng thấy ánh sáng lấp lánh phía dưới bụng ác thú. Võ Tam Thông biết có ám khí vội vàng phi thân lên cao tránh né. Nhưng hai anh em họ Võ vô tình tránh né không kịp mỗi người lãnh một mũi ngân châm cùng thét lên thất thanh lùi ra loạng choạng, Võ Tam Thông hoảng sợ, tim muốn vọt ra khỏi lồng ngực.

Lý Mạc Thu từ dưới bụng con beo lộn người lên, tay trái ôm đứa trẻ, tay phải vung phất trần, miệng cười ngạo mạn, rồi thúc con beo nhảy khỏi miệng hang, sải một lúc rồi nhảy xuống dòng suối cạnh sườn núi.

Dương Qua không tưởng tượng rằng Lý Mạc Thu cưỡi beo thoát nạn nên khi thấy con beo chạy khá xa chàng vội gọi lớn:

- sư bá... Lý sư bá...

Nhìn hai con nằm bất động trên mặt đất, Võ Tam Thông lòng đau như cắt, nổi giận xung thiên, chụp lấy Dương Qua miệng hét:

- Ta quyết liều thân cùng mi phen này.

Dương Qua không ngờ ông trở mặt, không đề phòng trước nên bị Võ Tam Thông ôm chặt. Chàng lính quýnh la lớn:

- Hãy bỏ tôi ra để tôi theo đoạt dứa bé về cho kịp.

Nhưng Võ Tam Thông như một con thú điên, đôi mắt đỏ ngầu, la lớn:

- Phen này hai đứa cùng chết cho rồi. Ta không thiết sống nữa đâu.

Dương Qua cuống quít, dùng thế "tiểu cầm nã thủ" để gỡ tay Võ Tam Thông nhưng Võ Tam Thông như một kẻ điên đang liều mạng, tay trái bám chặt lưng chàng, tay mặt dùng thế chống lại. Dương Qua nhìn theo bóng con beo và Lý Mạc Thu khuất trong dòng suối thì thở dài than rằng:

- Võ lão bá, bác giữ cháu làm gì cho hư hết mọi việc. Sao không lo cứu hai người kia cho rồi?

Tam Thông như người mê chợt tỉnh, mừng rỡ đáp:

- Phải đấy, nhưng người có chữa đặng vết thương độc này không?

Nói xong lão buông ra, chạy lại phía hai con. Dương Qua cúi xuống nhìn hai anh em họ Võ thấy có hai cây kim bạc ghim sâu vào vai trái và đùi phải của Đôn Nho và Tu Văn. Thời gian chưa bao lâu mà chất độc đã nhiễm vào huyết, hai người thở đã yếu, nằm lim dim bất tỉnh.

Chàng xé một miếng vải lót tay nắm rút hai cây kim ra.

Võ Tam Thông hỏi gấp:

- Ngươi có thuốc giải độc không, hãy nói mau?

Khi cùng sống chung với Trình Anh và Lục Vô Song, Dương Qua đã học thuộc sách ngũ độc kỳ thư của Lý Mạc Thu, biết được cách chưa các loại nhưng tìm cho đủ các thứ thuốc trong hoàn cảnh này đâu phải chuyện dễ? Chàng đành thờ thẫn nhìn hai người đang nằm rên rỉ vì thuốc độc hành hạ thân thể và lắc đầu trở ra.

Tình cha con nặng như núi, Võ Tam Thông nhìn hai đứa con thân yêu mà đôi mắt mờ lệ. Ông sực nhớ lại hồi nào vợ mình đã hy sinh hút máu độc trên vết thương của mình, nên vội cúi xuống kề miệng trên đùi Tu Văn để hút.

Dương Qua hoảng kinh la lớn:

- Lão bá, không nên đâu.

Nói xong, chàng đưa tay điểm vào huyệt "đại thôi" trên lưng Võ Tam Thông, khiến ông ngã sấp tới trước nằm không cử động, nhìn sững hai con đang vật lộn với tử thần, hai hàng lệ thảm từ từ lăn dài trên má.

Trong khi ấy Dương Qua suy nghĩ:

- Ta chỉ còn năm hôm nữa là chất độc Tình hoa bột phát mà chết. Còn sống thêm hay chết sớm đi năm ngày đâu có nghĩa lý gì. Hai anh em họ Võ tuy là hạng tầm thường, không đáng kể nhưng Võ bá bá là một bậc có hào khí rất đáng mến phục, đời người đã đau khổ nhiều vì vợ con. Bây giờ ta cũng không còn thiết gì nữa, đành hy sinh năm ngày sống sót để giúp cho gia đình người được đoàn tụ, xây đắp phần nào hạnh phúc cho Võ lão bá lúc về già.

Nghĩ xong, chàng không do dự, kề miệng vào đùi Tu Văn hút hết chất độc và máu bầm nhổ ra rồi hút luôn chất độc nơi vai Võ Đôn Nho.

Võ Tam Thông nằm thấy chàng hút hết chất độc cho hai con, lòng mừng rỡ nhưng cảm động xót xa vì quá cảm kích. Ông chỉ tức vì mình đã bị điểm trúng huyệt không thể can ngăn hoặc đích thân hút máu độc cứu con. Dương Qua hút mãi cho đến khi chất đắng trong miệng trở nên mặn. Lúc ấy óc chàng đã hoa, đầu choáng váng. Chàng biết mình cũng bị nhiễm độc quá nhiều, cố sức hút thêm mấy miếng nữa nhổ đi rồi ngã vật ra hôn mê bất tỉnh.

Thiếp đi một hồi lâu, không biết mấy giờ, đến khi chợt tỉnh lại, Dương Qua thấy hình như có nhiều bóng người đang qua lại rất đông. Chàng cố nhướn mắt nhìn xem nhưng càng nhìn càng mờ rất khó phân biệt. Một chập sau chàng hôn mê trở lại.

Không biết bao lâu, Dương Qua mở mắt nhìn quanh, thấy Võ Tam Thông đang ngồi trước mặt, hớn hở nói:

- Tỉnh lại rồi! May quá, quý quá!

Nói xong ông sụp quỳ xuống mọp đầu lạy luôn mười lạy, miệng nói rối rít:

- Dương huynh người đã xả thân cứu mạng hai con và cũng đã cứu cả già này... ơn này không biết để đâu cho hết, thật ngàn đời già không dám quên.

Nói xong, lão lại đứng dậy rồi phủ phục lạy một người khác đang ngồi bên, miệng nói:

- Muôn đội ơn sư thúc...

Quay sang nhìn người ấy, Dương Qua thấy không khác gì Ni Ma Tinh, mặt mày đen đủi, mũi cao mắt sâu hóm, tóc quấn từng nùi, nhưng chỉ khác có một điều là tuổi già nên tóc trắng phau.

Dương Qua biết Võ Tam Thông là đồ đệ của Nhất Đăng đại sư, nhưng không biết ông có một vị sư thúc ở Thiên Trúc nữa. Chàng muốn nghiêng mình nhìn lại thật kỹ nhưng vì quá mệt, tứ chi rũ riệt không thể nào cử động được. Đưa mắt nhìn quanh một chặp, chàng thấy mình đang nằm trên một chiếc giường, ngay tại căn phòng của chàng đã ở trước kia tại thành Tương Dương. Chàng có cảm giác rằng mình vẫn còn sống. Khi thấy thoáng bóng người đàn bà gần đó, chàng mừng quá vội kêu lớn:

- Cô... cô nương.

Một người bỗng bước lại ấn nhẹ tay trên trán bảo:

- Qua nhi, hãy nằm yên tĩnh dưỡng, cô nương của con đang đi có việc cần bên ngoài rồi.

Dương Qua nhìn kỹ lại thì kẻ ấy là Quách Tỉnh. Chàng mừng quá nhưng bỗng nhớ lại:

- Theo căn bệnh của Quách bá bá phải trải qua đúng bảy ngày bảy đêm mới lành được. Nay người có vẻ mạnh khỏe, chẳng lẽ ta cũng mê man quá lâu như vậy sao? Nếu vậy thì chất độc Tình hoa trong mình ta sao chưa hoành hành?

Chàng suy nghĩ một chút đầu óc choáng váng, ngủ mê lúc nào không hay. Khi chàng tỉnh lại lần thứ ba thì nhằm vào lúc giữa đêm, tứ bế vắng lặng, chỉ có một ngọn đèn hong leo lét trên đầu giường. Võ Tam Thông vẫn ngồi yên một bên canh chừng không biết mỏi, mắt nhìn chàng đăm đăm.

Dương Qua nhoẻn miệng cười nói:

- Bá bá, tôi không hề chi đâu! Võ bá bá đừng lo ngại. Hai anh em kia có bình yên không?

Võ Tam Thông quá cảm kích chỉ nhìn chàng gật đầu, mắt đẫm lệ chứ không nói nên lời. Xưa nay hình như chưa bao giờ ông biết qua những giây phút quá cảm động như vậy.

Dương Qua ái ngạ quá, bèn nói qua chuyện khác:

- Làm sao chúng mình về được thành Tương Dương như thế này, bá bá?

Võ Tam Thông gạt lệ nói:

- Long cô nương nhờ Chu sư đệ của tôi đem con Hãn huyết thần mã tới hoang sơn tặng Dương huynh, khi tới nơi thấy chúng ta nằm lăn dưới đất nên mới vực đem về đây.

Dương Qua ngạc nhiên hỏi:

- ủa, tại sao Long cô nương biết tôi đang ở chốn đó mà nhờ đem ngựa tới được. Người có việc chi cần kíp đến nỗi không đích thân đi được phải nhờ đến bác Chu?

Võ Tam Thông lắc đầu tỏ ý không biết và nói:

- Tôi về tới thành cũng chưa được gặp Long cô nương. Tôi chỉ nghe Chu sư đệ cho biết nàng còn nhỏ tuổi, nhan sắc tuyệt vời mà bản lãnh rất cao cường, trong giang hồ ít người dám sánh. Tôi chỉ tiếc là chưa có hân hạnh được yết kiến mà thôi.

Nghe Võ Tam Thông ca tụng cô nương mình, Dương Qua rất vui lòng và càng thêm cảm tình của ông hơn nữa. Nếu cứ tính theo tuổi tác thì Tiểu Long Nữ chỉ đáng là hạng con cháu, nhưng ông đã dùng tới danh từ "tiếp kiến", cũng vì mến phục học trò mà kính trọng lây tới thầy như vậy.

Chàng nói nhỏ:

- Cháu chỉ bị thương mà thôi.

Nhưng Tam Thông đã chặn ngang nói:

- Dương đệ, lão trong võ lâm ra tay cứu người bị nạn là chuyện thường tình. Nhưng có gan xả mạng sống của mình vì một kẻ khác, đó mới là một hành động vô cùng cao quý. Huống chi Dương đệ lại đi hy sinh cho hai đứa con tôi trong lúc chúng tôi đã thất lễ cùng Dương đệ cách đó không bao lâu. Việc này, tôi dám chắc trên đời này, trừ sư phụ tôi ra, chẳng có kẻ nào làm nổi. Như vậy mà...

Dương Qua khoát tay tỏ ý bảo ông thôi nói, nhưng Võ tam Thông vẫn nói:

- Nếu tôi gọi Dương đệ, là ân công thì chắc không bằng lòng, nhưng nếu Dương đệ cứ tiếp tục gọi tôi là Lão bá thì đã đánh giá Tam Thông này quá thấp.

Dương Qua vốn con người thực tế, không thích những lễ nghi và tiểu tiết tầm thường. Chàng đã thầm xem Tiểu Long Nữ là vợ chưa cưới của mình, nên thích làm những chuyện khác các tập quán thường tình trong xã hội, nên vui vẻ đáp:

- Thôi, từ này tôi xin gọi người là đại ca vậy.

Nhưng nếu gặp hai anh em Đôn Nho và Tu Văn thì cũng hơi khó xưng hô một tý.

Võ Tam Thông nói:

- Đâu có gì mà phân vân về bọn nó. Hai đứa ấy đã nhờ Dương đệ cứu sống, dù phải làm thân trâu ngựa cũng chưa thể đền nổi.

Dương Qua nói:

- Võ đại ca người không nên cám ơn tôi quá vậy. Hiện nay trong người tôi đã nhiễm độc tình hoa, chẳng còn sống bao nhiêu nữa, vì vậy việc tôi hút chất độc trong người hai anh em kia cũng không có gì đáng ca tụng cho lắm.

Võ Tam Thông quả quyết cãi:

- Dương đệ không nên nói như vậy. Đừng nói chất độc đang hoành hành cho tới ngày nào, phàm con người ai cũng tham sống sợ chết, hễ sống được giờ phút nào cũng bám lấy để nuôi hy vọng được cứu thoát. Theo quy luật thiên nhiên, con người trước sau cũng trở về với cát bụi, nhưng kẻ nào dám bỏ cái mạng sống của mình, mặc dù chỉ trong giây phút, mới là điều hiếm có.

Dương Qua cười nói trở qua chuyện khác:

- Chúng mình về đây đã mấy ngày rồi nhỉ?

Võ Tam Thông đáp:

- Tính tới nay vừa đúng bảy ngày.

Dương Qua ngạc nhiên quá nói:

- Nếu vậy thì tôi đã đến thời hạn phải bị chết vì chất độc của Tình hoa, tại sao vẫn còn sống như thế này? Lạ quá?

Võ Tam Thông vui vẻ nói:

- Sư thúc tôi là một bậc đệ nhất danh y thiên hạ, nổi danh về việc chuyên trị các chất độc tại Thiên Trúc. Xưa kia chính cũng nhờ sư thúc tôi chữa cho sư phụ tôi thoát chết bởi chất độc do Quách Phu nhân vô tình mang tới. Để tôi đi mời người vào đây nhé.

Nói xong ông đứng dậy bước ra khỏi phòng.

Dương Qua mừng thầm nghĩ bụng:

- Có lẽ trong khi mình đang mê man vị Thiên Trúc thần tăng đã chẩn mạch cho uống linh đơn giải hết chất độc tình hoa trong người đi chăng? Lạ quá không hiểu Long cô nương đi đâu mà đến nỗi ta bị đau nặng cũng không vào thăm được? Nếu nàng biết ta không chết, chắc hẳn phải mừng lắm lắm.

Chàng hồi tưởng lại những giây phút tâm tình âu yếm cùng Tiểu Long Nữ, nghe thấy cõi lòng rạo rực hân hoan, nhưng bỗng nhiên từ trong ngực bị đau nhói lên một cái như ai dùng dùi lửa nung vào, chịu không xuể thét lên một tiếng.

Từ ngày uống nửa viên thuốc của Cừu Thiên Xích cho đến nay, chưa khi nào Dương Qua bị một cơn đau dữ dội như thế này. Chàng nghĩ có lẽ chất độc trong người chưa hết, nay nghĩ tới Tiểu Long Nữ nên chất độc lại bộc phát cũng nên.

Chàng ôm ngực chịu đau và mồ hôi đổ ra dầm dề ướt áo. Khi sắp ngất xỉu vì quá đau, bỗng nghe có tiếng niệm "Nam Mô A di đà Phật" từ bên ngoài vọng lại. Vị thần tăng xứ Thiên Trúc lững thững bước vào, Võ Tam thông chắp tay bước theo sau.

Thấy Dưung Qua đang nằm lăn lộn vì quá đau đớn, Võ Tam Thông hoảng hốt vội hỏi:

- Dương đệ làm sao thế, thấy trong người hiện giờ ra sao?

Rồi quay sang phía vị sư Thiên Trúc, ông khẽ thưa:

- Thưa sư thúc y đang bị chất độc hành hạ, xin sư thúc thương tình cứu chữa, cho được uống thuốc giải độc để khỏi kéo dài sự đau đớn.

Vị thần tăng không hiểu Tam Thông nói gì lẳng lặng tới nắm tay Dương Qua chẩn mạch.

Võ Tam Thông sực nhớ lại cho người đi mời Chu Tử Liễu vì chỉ có ông mới hiểu và nói được tiếng Thiên Trúc mà thôi. Chặp sau Chu Tử Liễu tới.

Dương Qua cố đem hết tinh thần chịu đựng ra chống chọi với cơn đau, một lát mới có thể thuật lại cho vị thần tăng Thiên trúc nghe rõ về câu chuyện trúng độc tình hoa.

- Sau khi gạn hỏi tỷ mỷ về hình dáng của loại tình hoa, vị thần tăng tỏ ý vô cùng ngạc nhiên bảo:

- Tình hoa là một loại thuộc đời Thượng cổ, đã mất giống từ lâu rồi. Cứ theo sách Phật thì xưa kia loại hoa này đã giết hại không biết bao nhiêu sanh linh, Phật Thích ca mới hóa phép tiêu diệt loài hoa này để bớt một di họa cho nhân loại. Không ngờ ngày nay loại ấy còn sót lại Trung Nguyên này. Bần tăng chưa tận mắt nhìn thấy hoa ấy thì chưa thể tìm được thuốc trừ độc dược.

Ai nấy nghe nói đều lộ vẻ buồn rầu thất vọng. Nghe Chu Tử Liễu dịch lại, Võ Tam Thông chấp tay thưa với vị Thần tăng:

- Thưa sư thúc, xin sư thúc từ bi cứu chữa cho Dương đệ phen này.

Thần tăng chắp tay niệm Phật, nhắm mắt cúi đầu suy nghĩ. Mọi người trong phòng lẳng lặng theo dõi, không ai dám nói lời nào. Chặp sau vị Thần tăng mở mắt nói:

- Cứ như chất độc trên người hai sư điệt, chỉ cần hút vài cái là chết ngay. Thế mà Dương cư sĩ đã hút hết chất độc cho hai người mà không bị hại, đến nay bổn mạng vẫn không hề chi. Còn chất độc của tinh hoa, tới nay qua hạn vẫn chưa hại được mạng cư sĩ, có lẽ đây là một trường hợp tình cờ may mắn nhờ độc trị độc chăng? Hai chất độc này đã công phạt và đối phó lẫn nhau khiến cho cư sĩ khỏi chết, âu cũng là một trường hợp khá hy hữu.

Dương Qua và Chu Tư Liễu là những người thông minh lanh lợi, vừa nghe nói đã hội ý ngay, gật gù cho phải. Thần tăng nói tiếp:

- Phàm con người làm thiện sẽ gặp thiện, Dương cư sĩ đã xả thân cứu người thì Phật trời cũng phù hộ xui khiến cho có cách giải được độc.

Võ Tam Thông mừng quá nói:

- Vậy xin sư thúc rộng lòng chữa cho.

Thần tăng đáp:

- Ta phải tới động Thủy tiên nơi Tuyệt Tình cốc một phen để nhìn được tận mắt loại hoa này.

Cả ba người ngạc nhiên suy nghĩ:

- Đường đi từ đây tới Tuyệt tình cốc xa xôi ngàn dặm, vừa đi vừa về trong ngày làm sao kịp?

Vị thần tăng nói thêm:

- Muốn tìm phương pháp cứu chữa, bần tăng cần phải nhìn tận mắt hoa này. Trong khi chờ đợi, Dương cư sĩ đừng suy nghĩ hay mơ tưởng tới ý trung nhân, để cho chất độc khỏi bộc phát, làm tổn thương tới chân khí, sau này khó chạy chữa lắm đấy.

???Dương Qua chưa kịp nói. Hay là chúng ta cùng tới Tuyệt Tình cốc, buộc con mẹ già nọ giao thuốc giải độc cứu Dương đệ cho tiện.

Chu Tử Liễu vẫn còn nhớ ơn Dương Qua trước kia đã lập mưu ép buộc Hoắc đô vương tử toa thuốc giải độc cứu mạng mình thoát khỏi độc châm, nên cũng muốn nhân dịp này đền đáp. Vì vậy ông gật gù ưng thuận ngay.

- Phải đó, chúng ta cần theo hầu sư thúc, và tìm mọi cách để lấy thuốc giải độc.

Khi hai người hăng hái bàn bạc thì vị Thiên Trúc thần tăng đứng trầm ngâm nhìn Dương Qua ra chiều lo lắng. Dương Qua thấy trong tia mắt của Thần tăng có vẻ buồn buồn thì suy nghĩ:

- Có lẽ loại độc dược này khó trị lắm cho nên một vị đệ nhất thần y trong thiên hạ cũng phải e dè suy nghĩ.

Chàng gượng gạo hỏi:

- Đại sư có điều chi dặn bảo xin cứ nói!

Thần tăng nghiêm trang nói:

- Cái độc của Tình hoa khác hẳn với bao nhiêu độc dược khác, vì chất độc lại liên hệ đến cái tình, cái hại dính liền với tâm tư. Trường hợp cư sĩ rất có thể giải thoát nếu không vương vấn cái tình. Trái lại ví dụ đem được nửa viên thuốc nữa về cũng chưa chắc trục được hết chất độc. Tôi cần tới Tuyệt tình cốc là để chứng tỏ hết lòng cứu chữa mà thôi, còn sự thành tựu hay chăng là do phần cư sĩ quyết định. Nếu cư sĩ có gan cắt đứt được mối tình, đừng bận tâm suy tưởng tới nữa thì độc này tự nhiên dứt hết, khỏi cần thuốc thang gì hết.

Dương Qua thầm nghĩ:

- Tình của Tiểu Long Nữ là lẽ sống của ta mà bảo ta dứt đi thì dù có sống sót cũng còn nghĩa lý gì nữa. Thà để cho chất độc hành hạ đến chết

còn hơn.

Tuy vậy nhưng chàng vẫn lễ phép đáp:

- Đa tạ đại sư đã chỉ dạy. Tôi xin cố gắng tuân theo.

Chàng muốn khuyên họ không nên tới Tuyệt Tình cốc làm gì vô ích nhưng biết rằng lời khuyên can đối với những người trọng tín nghĩa cũng chẳng ích chi cho nên chàng đành làm thinh luôn.

Võ Tam Thông an ủi:

- Dương đệ, người hãy yên tâm dưỡng bệnh, đừng lo lắng chi hết. Sáng mai này chúng tôi sẽ khởi hành và ráng về càng sớm càng hay. Chừng nào Dương đệ hoàn toàn hết bệnh, chúng tôi sẽ hân hạnh uống chén rượu mừng hôn lễ giữa Dương đệ và Quách cô nương tại đây.

Dương Qua nghe nói rất bực mình, tuy nhiên trong thời gian ngắn ngủi quá không thể nào giãi bày cho được, vì vậy chàng chỉ ấm ớ lấy lệ cho qua chuyện. Khi mọi người ra ngoài rồi, chàng nằm trên giường nhắm mắt cố ru giấc ngủ.

Ngủ được một giấc khá dài, hồi chợt tỉnh lại thì gà đà gáy sáng. Qua bao nhiêu ngày không có món gì vào bụng Dương Qua cảm thấy đói cồn cào cả ruột gan. Trên đầu giường có để sẵn mấy đĩa để đầy bánh và trái cây. Chàng đưa tay với lấy một chiếc bánh đưa lên miệng cắn ăn đỡ. Ngay khi đó phía ngoài có tiếng gõ cửa khe khẽ. Cánh cửa kêu kẹt một tiếng rồi từ từ hé rộng. Nhờ ánh sáng lờ mờ của cây bạch lạp, Dương Qua thấy một nàng mặc áo hồng, đẩy cửa bước vào, mặt mày hậm hực hình như đang giận dữ một chuyện gì. Người đó là Quách Phù.

Dương Qua sững sờ vì quá đột ngột, nhưng cũng cất tiếng chào:

- Xin chào Quách cô nương.

Quách Phù chỉ "hừ" một tiếng, không nói gì thêm, xắm xúi lại ngồi trên chiếc ghế cạnh giường, quắc mắt nhìn Dương Qua, giận dữ. Nàng cứ nhìn một hồi lâu, nhưng không nói thêm lời nào.

Không chịu được dưới cái nhìn soi mói đó, Dương Qua giả lả hỏi trước:

- Quách bá bá sai cô nương đến đây có việc chi cần dặn tôi không?

Quách Phù chỉ đáp gọn:

- Không!

Bị luôn hai lần tấn công có vẻ thiếu lịch sự nếu là những lần khác thì khóe mắt Quách Phù có nhiều nét khác thường, hơn nữa chẳng biết nàng tìm mình quá sớm chắc có dụng ý chi đây, nên chàng cười nói:

- Quách bá mẫu sanh xong cũng khỏe mạnh chứ?

Quách Phù vẫn giữ vẻ mặt lạnh lùng khó chịu và nói xẵng:

- Mẹ tôl mạnh hay yếu cũng không cần anh phải bận tâm đến!

Trong đời chàng, trừ Tiểu Long Nữ, Dương Qua không chịu nhường nhịn một người nào khác, vì vậy nên hôm nay bị Quách Phù đối xử tàn nhẫn như thế chàng thấy khó chịu vô cùng, nghĩ thầm:

- Cha nàng là đại hiệp, mẹ nàng là Bang chủ, chắc nàng tự cho mình là cao quý lắm rồi?

Nghĩ xong, chàng chỉ "hứ" một tiếng lớn rồi nhắm mắt lại như người ngủ.

Quách Phù hỏi:

- Vì sao anh hứ?

Dương Qua chán quá nhưng trong lòng khinh không thèm đáp lại, "hứ" thêm một tiếng nữa.

Quách Phù nổi nóng hỏi lớn:

- Ta hỏi hứ cái gì?

Dương Qua cười hồn nhiên:

- Đàn bà là phải! Mình chỉ hứ một tiếng mà đã nóng nảy sừng sộ lên rồi!

Chàng điềm tĩnh đáp:

- Vì trong người không được khỏe, tôi "hứ" vài tiếng cho xả hơi bớt mệt.

Quách Phù lẩm bẩm:

- Nghĩ một nơi nói một nẻo, quả là hạng tiểu nhân hèn hạ!

Bỗng nhiên bị mắng thình lình, chàng giật mình, ái ngại: "Chẳng lẽ nàng đã biết những lời ta bịa đặt ra để gạt hai anh em họ Võ rồi sao?

Thấy nàng nổi giận và nặng lời cùng mình, nhưng trên khuôn mặt mỹ miều cũng có nhiều nét đáng thương, hơn nữa Dương Qua vốn có sãn tính phong lưu thương người, nên dịu dàng hỏi:

- Quách cô nương, có phải cô muốn nói về những lời tôi đối đáp cùng anh em họ Võ chăng?

Quách Phù nhìn thẳng vào mặt chàng nói:

- Người đã nói với họ những gì, cứ thuật lại thử xem nghe được chăng?

Dương Qua cười giả lả nói:

- ấy chẳng qua vì tôi muốn khỏi có cuộc tương tàn đáng tiếc trong hai anh em họ Võ, tránh sự đau lòng cho lão bá trong lúc tuồi già, chứ thật tình lòng tôi đâu muốn vậy. Có lẽ lão bá đã thuật cho cô nương nghe rồi thì phải.

Quách Phù nghiến răng nói:

- Lão vừa gặp ta đã chúc mừng rối rít và ca tụng mi như thần như thánh. Ta dù sao cũng là một nữ nhi thanh bạch đâu phải hạng người để chúng bây đặt điều nói nhảm như vậy được?

Nói tới đây nàng nghẹn ngào không nói được nữa, hai hàng nước mắt tuôn ra ướt đầm đôi má.

Dương Qua hối hận, cúi đầu không đáp. Trong lúc cao hứng chàng đã nói ba hoa cùng anh em họ Võ, không ngờ đã vô tình làm thương tổn tới danh dự Quách Phù. Hậu quả này cũng khó mà hàn gắn cho được.

Thấy chàng làm thinh không đáp, Quách Phù càng tức giận, khóc tức tởi nói:

- Và lão bá có biết hai anh em họ Võ đánh thua mi nên đã bị mi buộc không được gặp mặt ta nữa phải không?

Dương Qua rất bực tức Võ Tam Thông đã lớn tuồi rồi mà không nhận định được sự thật hơn để đi nói toẹt hết cho Quách phù nghe khiến cho chàng còn miệng mà không thể biện luận được. Chàng phải gật đầu nhận:

- Tôi có đặt điều nói lừa họ nhưng đây là vì để dàn xếp công chuyện cho họ, hoàn toàn không có một dụng ý nào tà hết. Xin nàng niệm tình châm chước cho.

Quách Phù lau nước mắt hỏi lớn:

- Đêm qua, mi còn nói gì nữa?

Dương Qua giật mình ngơ ngác hỏi:

- Đêm qua tôi có nói gì đâu?

Quách Phù nói:

- Trước khi đi, Võ lão bá có bảo khi nào mi lành bệnh sẽ uống rượu mừng hôn lễ giữa mi và ta, cớ sao mi dám gật đầu nhìn nhận mà không biết xấu?

Dương Qua mới hoảng hồn vì biết rằng đêm qua Quách Phù đã nấp nghe hết mọi việc rồi. Chàng vội tìm cách chống chế:

- Khi ấy đau quá tôi đang mê man nào có nói được gì nhiều, ngoài ra cũng không hiểu hết những gì người ta nói.

Quách Phù biết chàng trớ trêu nên giận quá hét lớn:

- Ngươi bảo rằng mẹ ta đã vừa lòng ngươi, nhận ngươi làm rể rồi còn lén dạy ngươi võ nghệ nữa phải không?

Bị nàng hạch hỏi tới tấp Dương Qua không biết đối đáp sao nữa, lúng túng nghĩ bụng:

- Ta nói đùa về chuyện Quách cô nương, dù sao cũng có thể xem là một chuyện nói dóc để tán gái thông thường mà thôi. Nhưng nó động tới Quách bá mẫu, quả là một điều phạm thượng, lỗi nặng vô cùng. Phải làm sao để Quách bá bá đừng hay biết tới chuyện này mới được.

Nghĩ xong chàng năn nỉ:

- Quách cô nương, trong lúc nông nổi, tôi có nói vài điều thiếu thận trọng có lỗi với cô nương và bề trên, tôi cũng thấy hối hận rồi. Xin cô nương đừng để lệnh tôn biết.

Quách Phù cười gằn nói:

- Nếu đã thấy sai, biết sợ, sao còn đặt chuyện nói bậy làm gì?

Dương Qua nói:

- Tôi xem Quách bá phụ như cha, lúc nào cũng một niềm kính mến. Ngặt vì trong lúc nóng lòng, muốn dàn xếp cho hai anh em họ Võ đừng tàn sát lẫn nhau nên nỗi như vậy mà quên suy nghĩ.

Dù sao Quách Phù và hai anh em họ Võ đã chung sống và nhiều cảm tình mật thiết từ thuở nhỏ, bây giờ nghe Dương Qua buộc họ không được nhìn mặt mình nữa thì tức giận phừng phừng, trợn mắt thét lớn:

- Thôi việc này sau sẽ thanh toán, bây giờ mi hãy cho ta biết rõ em bé của ta đâu rồi?

Dương Qua đáp:

- Xin mời lệnh tôn đến đây, tôi muốn thưa cùng người đôi lời về chuyện này.

Quách Phù đáp:

- Giờ đây cha ta đã ra thành tìm em bé rồi. Ngưòi thật là một kẻ táng tận lương tâm, nỡ bắt em ta đi đổi lấy thuốc giải độc. Ha... ha... trên đời chỉ có mạng ngươi là quí, còn mạng em ta là cỏ rác hay sao?

Dương Qua đang tủi thân về câu chuyện trước, còn vấn đề của đứa bé thì dù sao chàng cũng chưa hề có việc gì làm trái với lương tâm cho nên chàng mạnh dạn nói:

- Lúc nào tôi cũng có lòng muốn giật được em bé đem về cho lệnh tôn thế mà bảo Dương Qua này cố ý đem lệnh muội đổi thuốc giải độc thì quả là oan quá. Tôi cam đoan là không bao giờ có ý nghĩ đen tối như vậy.

Quách Phù hỏi thêm:

- Vậy em ta đâu rồi?

Dương Qua đáp:

- Lệnh muội đã bị Lý Mạc Thu bắt đem đi, tôi kém tài không đoạt lại được, thật đáng hổ thẹn. Nếu tôi không bị chết giấc thì đã đuổi theo để cướp cho kỳ được mang về rồi.

Quách Phù cười gằn hỏi thêm:

- Vậy Lý Mạc Thu có phải là sư bá của mi chăng. Đêm nọ cả bọn bây cùng trú chung một hang đá phải không?

Dương Qua đáp:

- Vâng, Lý mạc Thu là sư bá tôi . Nhưng giữa bà và cô nương tôi không thuận nhau từ lâu rồi.

Quách Phù xì một tiếng rồi hỏi:

- Không thuận nhau, tại sao bà ấy nghe theo ngươi đem em ta đi đổi thuốc giải độc?

Dương Qua nôn nóng vùng ngồi dậy nói:

- Quách cô nương hãy thận trọng lời nói. Xin đừng vu khống như thế. Tôi tuy còn ít tuổi nhưng không bao giờ làm điều xằng bậy như vậy đâu.

Quách Phù bĩu môi đáp:

- Thôi đừng lãnh phần phải nữa! Nếu mi không có ý đó tại sao cô nương mi lại như vậy. Chẳng lẽ nào đặt điều nói láo ư?

Dương Qua ngơ ngác hỏi:

- Sư phụ ta bảo sao?

Quách Phù đứng thẳng người dậy, đưa tay chỉ vào mặt Qương Qua dằn từng tiếng:

- Chính sư phụ ngươi đích thân cho Chu thúc thúc biết hiện ngươi và Lý Mạc Thu đang ở trong hang đá, nàng yêu cầu Chu thúc thúc đem con Tiểu hồng mã tới cho mi để mang em ta đến Tuyệt Tình cốc cho sớm. Thế mà...

Dương Qua nghe nói vô cùng kinh ngạc, bèn phân trần:

- Phải đấy. Chính sư phụ tôi có bàn định như thế. Tôi có nhiệm vụ bồng lệnh muội tới Tuyệt Tình cốc trước để đổi lấy nửa viên tuyệt tình đan rồi sẽ liệu lại. Đây chẳng là một chiến thuật tạm thời lúc đầu sau đó sẽ tùy cơ ứng biến, thật tình chúng tôi không có ý gì làm hại lệnh muội cả.

Quách Phù ngắt lời chàng:

- Em ta mới chào đời chưa được một ngày, mà nỡ đem đi hàng ngàn dặm để mưu toan đổi thuốc cho mình, như thế mà dám bảo không có lòng hãm hại, quả là giọng nói của con người thiếu lương tâm. Ngày còn thơ ấu, mi mồ côi cha mẹ, phụ thân ta đã đối xử với mi như thế nào? Nếu ngươi không thương tình đem mi về Đào Hoa đảo để nuôi thì làm sao mi được sống sót tới hôm nay được? Không ngờ ngươi nỡ thừa lúc cha mẹ ta đau bệnh, âm mưu cùng kẻ địch đánh cắp em ta để làm chuyện bất lương.

Nàng càng nói càng hăng, cứ xỉ vả như tát nước vào mặt, Dương Qua không còn cách nào biện bạch nên tức giận vô cùng, máu nóng xông lên xây xẩm cả mặt mày, thét lớn một tiếng, ngã quay ra bất tỉnh.

Mãi một chập sau chàng lần lần tỉnh. Quách Phù vẫn còn ngồi một chỗ cũ, lạnh lùng đưa mắt nhìn chàng, miệng không ngớt xỉ vả đay nghiến:

- Té ra mi cũng còn chút lương tri để hối hận với hành vi đen tối hèn hạ của mình sao?

Dương Qua rầu rầu đáp:

- Nếu tôi quả có lòng dạ như vậy chuyện gì tôi không bồng thẳng lệnh muội tới tuyệt tình cốc cho rồi?

Quách Phù nói:

- Tại vì chất độc trong người mi bộc phát, hành hạ thể xác mi đến nỗi chết giấc bên đường, làm sao còn đủ sức để bồng cho được? Cũng may trời xanh chẳng giúp đứa gian, khiến cho cơ mưu chúng bay không thành tịu được.

Tình ngay lý gian, Dương Qua thấy không còn cách nào biện hộ được nữa, đành phải xuống nước đáp:

- Nàng muốn nói sao tùy ý, tôi khỏi cần biện bạch nữa, sau này trắng đen nàng sẽ biết. Bây giờ thì sư phụ tôi đâu rồi?

Quách Phù nổi nóng đỏ hồng đôi má trừng mắt nói:

- Trò nào thầy nấy, thế thường vẫn như vậy cả Cô nương mi cũng chẳng tốt gì đâu.

Dương Qua nộ khí xung thiên, vùng ngồi dậy nói lớn:

- Nàng chửi mắng tôi thậm tệ, nhưng tôi đã vị tình cha mẹ nàng tha thứ hết. Nhưng tôi cấm nàng không được nói xấu tới sư phụ tôi.

Quách Phù cũng không vừa, nạt lại:

- Ta cứ nói, mi dám làm chi ta. Ai khiến sư phụ mi cũng hay nói năng càn dở?

Dương Qua thầm nghĩ:

- Cô nương là con người trầm tĩnh, đứng đắn, đời nào đi nói năng càn dở được.

Nghĩ xong, chàng mỉa mai:

- Trong lúc mình nghĩ chuyện xấu, rồi cứ tưởng ai cũng xấu xa bừa bãi cả.

Quách Phù dự định không nói lại những câu nói của Tiểu Long Nữ, nhưng bị chàng nói móc, bỗng nổi giận tuôn ra hết:

- Sư phụ của mi bảo rằng: Quách cô nương, Dương Qua vốn là một kẻ thuần lương thành thực, mồ côi cha mẹ từ ngày còn tấm bé, tình cảnh đáng thương hãy nên tử tế với hắn. Hai người xứng đôi, lại được cha mẹ bằng lòng hãy cùng nhau sống chung xây dựng hạnh phúc lâu dài. Cố chuyển lời bảo hắn hãy quên ta đi, ta không bao giờ trách móc gì đâu! Rồi nàng trao cho ta thanh "Thục nữ kiếm" bảo để cùng "quân tử kiếm" thành một đôi, cùng với ngươi. Như vậy không phải là nói năng càn dở hay sao?

Trong lúc vừa thẹn vừa giận, Quách phù thuật lại đúng những lời của Tiểu Long Nữ, nhưng với một giọng khác hẳn.

Mỗi lời nói của nàng như một mũi kiếm chọc thẳng vào tim óc Dương Qua. Chàng bối rối không hiểu vì sao cô nương mình lại có ý nghĩ như vậy?

Chờ Quách Phù nói hết câu, Dương Qua trợn mắt nhìn nàng trừng trừng quát lớn:

- Nàng đừng đặt chuyện nói bậy. Vậy Thục nữ kiếm đâu rồi, sao không đưa ra đây để chứng minh sự thật? Đã nói mà không đưa bằng chứng tất nhiên là dối trá rồi .

Quách Phù điềm nhiên đưa tay ra sau rút ra một thanh kiếm đen huyền, quả là thanh Thục nữ kiếm, lúc trước hai người đã chọn trong động Thủy tiên và giữ làm binh khí tùy thân.

Sự thật quá bẽ bàng, Dương Qua không biết nói gì hơn, mắng đùa:

- Ai thèm đi hết hợp cùng nàng? Thanh quân tử kiếm của ta đã gẫy từ lâu rồi. Chính nàng đã lén lấy thanh kiếm này của cô nương ta rồi về đây đặt điều nói bậy.

Quách Phù từ bé đến lớn được cha mẹ nuông chiều, xung quanh ai ai cũng chỉ tâng bốc nàng chứ không ai nói xẵng lời nào. Anh em họ Võ lúc nào cũng tìm mọi cách làm hài lòng nàng, hễ nàng nói sao cũng cho là phải, vì vậy nên chưa khi nào nàng nghe một câu nói nào trái ý bao giờ.

Vì tức những lời nói móc của Dương Qua nên nàng cố nén lòng tự ái và thẹn thuồng thuật lại những lời Tiểu Long Nữ, không ngờ chàng lại phản ứng như vậy, cho nàng nói lát và lén cắp thanh kiếm này thì quả là một chuyện không thể chịu đựng nổi. Nàng xếch đôi mày liễu, tay nắm chặt chuôi kiếm định hành hung nhưng chợt nghĩ:

- Hắn ta lúc nào cũng kính trọng sư phụ, vậy ta nên kể luôn chuyện này cho hắn ứa gan luôn thể!

Trong lúc quá giận dữ, Quách Phù không còn suy nghĩ gì đến hậu quả của câu chuyện nữa. Thanh Thục nữ kiếm vừa định rút ra đã đẩy lại vào bao. Nàng từ từ ngồi xuống ghế nói:

- Cô nương mi quả có sắc đẹp tuyệt vời, tài cao tột đỉnh. Rất tiếc nàng đã làm một việc không đúng tí nào.

Dương Qua hỏi ngay:

- Việc gì vậy?

Quách Phù đáp:

- Rất tiếc nàng thiếu đứng đắn, thỉnh thoảng qua lại có chuyện tâm tình cùng bọn đạo sĩ phái Toàn Chân.

Dương Qua gạt ngang:

- Đừng nói xàm. Sư phụ ta cùng bọn Toàn Chân phái có một mối thù sâu như biển, làm gì có chuyện như thế được.

Quách Phù cười mỉa mai nói:

- Ta muốn nói chuyện qua lại tâm tình là để có một danh từ cho tao nhã mà thôi. Thật ra câu chuyện của nàng đã làm một người con gái như ta không thể diễn tả cho đúng sự thật được.

Dương Qua bốc giận điên đầu nạt lớn:

- Hãy câm mồm. Sư phụ ta trong trắng như băng tuyết, ta cấm mi nói hồ đồ như vậy. Nếu còn nói bậy ta sẽ vả tét miệng ngay.

Quách Phù lạnh lùng nói:

- Phải rồi, việc ấy nàng làm được chứ ta không thể nào làm được, còn việc trong trắng hay không có lẽ chỉ có mi là biết rõ. Nếu là một người đàn bà trong trắng tại sao lại lân la cùng một tên đạo sĩ được?

Dương Qua tức quá tái cả mặt, rít lên:

- Nàng hãy nói rõ thêm.

Quách Phù nói:

- Một khi chính ta, ta đã nghe thì không thể bảo là lầm được nữa. Có hai tên đạo sĩ phái Toàn Chân đến thăm cha ta, trong lúc ông đang bận việc ngoài thành Tương Dương nên ta phải tiếp thay.

Dương Qua bồi hồi hỏi gấp:

- Rồi sao nữa, nói mau lên.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro