1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Ngày hôm trước em gặp một con thỏ, ngày hôm qua là một con nai, và ngày hôm nay, là anh.


Cô gái trên đồi khiến Mark nghĩ đến Edna St. Vincent Millay(1). Có lẽ bởi vì cái cách nàng đứng đó trong ánh chiều tà, mái tóc nhạt màu bồ công anh nhảy múa trong gió; có lẽ bởi vì cái cách tà váy trắng lỗi thời nàng mặc đang xoay tròn trên đôi chân dài và mảnh khảnh. Trông kiểu nào đi nữa, anh cũng đều có cái ấn tượng nàng bằng cách nào đó đã từ trong quá khứ nhảy đến hiện tại; và thật là kì lạ, vì hóa ra, nàng không bước ra từ quá khứ, nàng đến từ tương lai.



(1) một nữ thi sĩ người Mỹ, bà là người đã dịch tập thơ Les Fleurs du Mal ("Những bông hoa ác") của Charles Baudelaire ra tiếng Anh



Anh dừng lại cách xa một quãng sau lưng nàng, thở khó nhọc vì việc leo bộ. Nàng vẫn chưa nhận thấy anh, anh tìm cách khiến nàng biết sự có mặt của mình mà không làm nàng hoảng. Trong khi cố suy nghĩ, anh lấy ra một cái tẩu, cho thuốc vào và châm lửa, khum tay quanh phần phễu và rít cho đến khi thuốc lá bắt khói. Khi anh nhìn nàng lần nữa, nàng quay lại dán mắt vào anh đầy vẻ tò mò.



Anh đi chậm rãi về phía nàng, tinh tế nhận ra sự gần gụi của bầu trời, tận hưởng cảm giác gió lùa vào mặt. Anh nên đi cuốc bộ thường xuyên hơn, anh tự dặn mình thế. Anh đã bước đi rất khó nhọc qua khu rừng để lên đến ngọn đồi, và giờ rừng cây nằm sau anh, làm bùng lên nhẹ nhàng một ngọn lửa âm ỉ của thu sang, và xa xăm bên rừng cây là một cái hồ nhỏ bổ sung thêm cái cabin và chiếc cầu nổi trên hồ. Khi vợ anh bất đắc dĩ bị triệu hồi vào bồi thẩm đoàn, anh buộc phải đi nghỉ mát một mình trong hai tuần mà anh đã cố sắp xếp trong đợt nghỉ du lịch hè của mình và phải gắng gượng tiếp tục với tình trạng cô đơn, câu cá trên chiếc cầu nổi qua ngày và đọc sách cho qua những tối mát mẻ trước lò sưởi, và anh đã đi bộ vào rừng chẳng vì mục đích hay lối dẫn nào để rồi cuối cùng anh đến được ngọn đồi và trèo lên và gặp cô gái.



Đôi mắt nàng xanh biếc, anh thấy khi anh tiến đến gần nàng – xanh như màu trời đã in đậm bóng hình nàng. Khuôn mặt nàng hình trái xoan và trẻ trung và mềm mại và ngọt ngào. Điều ấy gợi lên trong anh một xúc cảm quen thuộc từng trải khiến anh phải đè nén một sự thôi thúc với tay chạm vào đôi gò má được mơn man bởi làn gió của nàng, và dù bàn tay không vươn ra, anh cảm thấy đầu ngón tay ngứa ran.



Tại sao, mình bốn mươi tư rồi, anh nghĩ đầy nghi hoặc, và nàng ấy thậm chí chưa tới hai mươi. Chuyện trời thần gì xảy ra với mình thế này? "Cô đang tận hưởng khung cảnh sao?" anh hỏi lớn.



"Ồ, vâng," nàng đáp và quay lại và xoay cánh tay theo một vòng bán nguyệt đầy phấn khởi. "Không phải đơn giản là quá diệu kì sao!"



Anh hướng theo tầm mắt cô. "Đúng," anh nói "đúng thế." Bên dưới họ rừng cây trải dài lần nữa, lan rộng đến những vùng thấp trong những dải màu trầm ấm tháng Chín, ôm ấp những thôn nhỏ vài dặm đường xa xa, cuối cùng ngừng hẳn trước khi chạm đến những đồn điền đầu tiên của vùng ngoại ô biên giới. Ở nơi tít tắp đằng xa, sương mù vẽ nét mềm mại cho bóng hình khúc khuỷu của Cove City, cho nó vay mượn diện mạo một lâu dài thời Trung cổ nằm sóng soài, khiến nó trông ít thực tế hơn là một giấc mơ. "Cô cũng đến từ Cove City à?" anh hỏi.



"Theo một cách nào đó thì có," nàng nói. Nàng mỉm cười với anh. "Em đến từ Cove City của hai trăm bốn mươi năm sau kể từ thời điểm này."



Nụ cười nói với anh rằng nàng không mong anh tin nàng, nhưng hi vọng anh đủ tử tế để giả vờ là anh tin. Anh cười đáp. "Nghĩa là hai nghìn hai trăm lẻ một năm sau Công nguyên phải không nhỉ?" anh nói. "Tôi tưởng tượng vùng này khi ấy hẳn là trù phú lắm."



"Vâng, đúng vậy," nàng đáp. "Bây giờ nó là một phần của khu siêu đô thị và trải dài mọi nẻo đến tận đó." Nàng chỉ vào bìa rừng dưới chân họ. "Đường Thứ Hai Ngàn Bốn Mươi chạy xuyên thẳng qua lùm cây thích ngọt đằng kia," nàng tiếp tục, "và anh có thấy những hàng bồ kết đằng kia không?"



"Có," anh nói, "Tôi thấy rồi."



"Đó là nơi đặt khu thương mại. Siêu thị của nó lớn đến nỗi mất tới nửa ngày tham quan, và anh có thể sắm gần như bất kì cái gì từ thuốc viên cho tới xe hơi bay. Và kế bên siêu thị, nơi những hàng sồi kia mọc, là một cửa hàng bán váy lớn vừa tung ra những mẫu sáng tạo mới nhất từ những nhà tạo mẫu hàng đầu. Em mua chiếc váy đang mặc ở đó mới sáng nay thôi. Nó đẹp một cách giản dị phải không anh?"



Nếu chiếc váy có đẹp là cũng nhờ nàng. Dù nghĩ thế, anh cũng ngắm nó với vẻ lịch sự. Chiếc váy được cắt may từ một loại vật liệu anh chưa từng biết đến, loại vật liệu có vẻ là một phức hợp của kẹo bông gòn, bọt biển, và tuyết. "Tôi cho là cô du hành đến đây bằng máy thời gian," anh nói.



"Vâng. Cha em sáng chế ra một cái."



Anh nhìn nàng với khoảng cách gần. Anh chưa từng ngắm một biểu cảm ngây thơ nhường ấy. "Và cô có đến đây thường xuyên không?"



"Ồ, vâng. Đây là khoảng không-thời gian phối hợp ưa thích của em. Em thỉnh thoảng đứng đây hàng giờ chỉ để ngắm và ngắm và ngắm. Ngày hôm trước em gặp một con thỏ, ngày hôm qua là một con nai, và ngày hôm nay, là anh."



"Nhưng sao có thể có ngày hôm qua," Mark hỏi, "nếu cô luôn luôn trở về trong một mốc thời gian duy nhất?"



"Ồ, em hiểu ý anh rồi," nàng nói. "Nguyên nhân là vì cỗ máy cũng chịu ảnh hưởng bời dòng chảy thời gian như bất kì thứ gì khác, và anh phải điều chỉnh nó lại mỗi hai mươi bốn tiếng để trở về chính xác khoảng phối hợp cũ. Em chưa từng làm thế vì em thích mỗi ngày hoàn toàn khác nhau khi em trở về."



"Cha cô chưa từng đi cùng cô sao?"



Trên đầu họ, đàn ngỗng trôi dạt lười biếng theo hình chữ V, và nàng nhìn chúng một lúc trước khi cất tiếng. "Cha em giờ là người tàn tật rồi," nàng cuối cùng cũng nói. "Ông rất muốn đến nếu ông có thể. Nhưng em tả lại hết cho ông những gì em thấy," nàng thêm vào nhanh chóng, "và ông nói rằng nó giống hệt như khi ông đến. Anh cũng sẽ nói thế đúng không?"



Có một sự hăm hở trong cái cách nàng trông đợi ở anh đã thật sự khiến anh cảm động. "Tôi chắc chắn thế," anh nói – rồi, "Việc sở hữu một cỗ máy thời gian hẳn là tuyệt vời lắm."



Nàng rầu rĩ gật đầu. "Chúng đem lại sự thoải mái cho những con người thích đứng trên những cánh đồng cỏ dễ chịu. Ở thế kỉ hai mươi ba chẳng còn sót lại mấy cánh đồng dễ chịu."



Anh cười. "Chúng cũng chẳng còn lại mấy ở thế kỉ hai mươi đâu. Tôi đoán cô có thể gọi cánh đồng đây là một mẫu vật của nhà sưu tầm. Tôi phải đến đây thường xuyên hơn mới được."



"Anh sống ở gần đây à?" nàng hỏi.



"Tôi đang trú trong một cái cabin cách đây ba dặm đường. Tôi cố sắp xếp một chuyến nghỉ mát, nhưng nó thành ra hỏng bét. Vợ tôi bị triệu hồi vào bồi thẩm đoàn, và khi tôi không thể trì hoãn nữa, tôi đành phải trở thành chàng Thoreau(2) bất đắc dĩ. Tôi tên là Mark Randolph."



(2) Henry David Thoreau: là nhà văn, nhà thơ, nhà tự nhiên học, nhà sử học, nhà triết học, nhà địa hình học người Mỹ. Ông nổi tiếng về việc xây dựng và sống trong một ngôi nhà trong rừng. Tác phẩm "Walden - Một mình sống trong rừng" của ông đã được dịch và xuất bản ở Việt Nam.



"Em là Julie," nàng nói. "Julie Danvers."



Cái tên thật hợp với nàng. Cũng như cái cách chiếc váy trắng hợp với nàng – cái cách bầu trời xanh hợp với nàng, và ngọn đồi và gió tháng Chín. Hẳn nàng sống trong thôn nhỏ trong rừng cây, nhưng chuyện đó hoàn toàn không thành vấn đề. Nếu nàng muốn giả vờ nàng đến từ tương lai, thì cũng ổn với anh. Vấn đề thực sự là cái cách anh cảm thấy khi anh thấy nàng lần đầu, và sự êm ái lan tỏa quanh anh mỗi khi anh ngắm gương mặt dịu dàng của nàng. "Cô làm công việc gì nhỉ, Julie?" anh hỏi. "Hay cô vẫn còn đang đi học?"



"Em đang học để sau này làm thư kí," nàng đáp. Nàng bước nửa bước và làm một động tác xoay vòng tuyệt đẹp trên đầu ngón chân và vỗ hai tay trước ngực. "Em yêu cái ý tưởng trở thành thư kí," nàng tiếp tục. "Nó đơn giản thật là tuyệt diệu khi làm việc trong một văn phòng to lớn, quan trọng và nuốt trôi từng lời những người quan trọng thốt ra. Ngài có muốn tôi trở thành thư kí riêng của ngài không, thưa ngài Randolph?"



"Tôi sẽ rất hài lòng," anh đáp. "Vợ tôi từng làm thư kí cho tôi – trước chiến tranh. Đó là cách chúng tôi gặp nhau." Sao bây giờ anh lại nói chuyện đó nhỉ? Anh tự hỏi.



"Chị ấy có phải là một thư kí giỏi không anh?"



"Người giỏi nhất. Tôi đã vô cùng đau khổ khi để mất cô ấy; nhưng khi tôi đánh mất cô ấy ở mặt này, tôi lại có được cô ấy ở mặt khác, nên tôi đoán cô khó có thể nói tôi mất cô ấy được."



"Không, em nghĩ anh không thể. Ừm, em phải trở về rồi, ngài Randolph. Cha hẳn sẽ muốn nghe về tất cả những gì em nhìn thấy, và em phải hâm lại bữa tối cho ông."



"Liệu ngày mai cô sẽ đến chứ?"



"Chắc chắn rồi. Em đến đây mỗi ngày. Giờ thì tạm biệt nhé, ngài Randolph."



"Tạm biệt, Julie." anh nói.



Anh nhìn nàng chạy nhẹ nhàng xuống đồi và mất dạng vào những lùm thích ngọt, nơi mà, trong hai trăm bốn mươi năm kể từ đây, sẽ là đường Thứ Hai Ngàn Bốn Mươi. Anh mỉm cười. Thật là một đứa trẻ dễ mến, anh nghĩ. Hẳn sẽ hấp dẫn lắm khi có một tính cách ưa khám phá không thể kìm nén đến vậy, một sự nồng nhiệt đến thế với cuộc sống. Anh trân trọng hai khả năng ấy đến vậy vì anh luôn phải chối bỏ chúng. Ở lứa hai mươi anh luôn là một chàng trai trẻ u sầu vật lộn với con đường vẽ ra ở trường luật; ở tuổi hai mươi tư anh đã hành nghề, dù nhỏ thôi nhưng nó cũng khiến anh bận rộn liên tục - ừm, cũng không hẳn là hoàn toàn. Khi anh cưới Anne, đã có một khoảng chuyển tiếp ngắn ngủi khiến cho cuộc sống mất dần sự liên tục của nó. Và sau đó, chiến tranh đến cùng, lại có khoảng chuyển tiếp nữa – lần này là một khoảng dài hơn – khi việc mưu sinh trở nên xa vời và thỉnh thoảng là những mưu cầu đáng khinh khác. Sau khi anh trở về cuộc sống thường nhật, dù vậy, sự liên tục đã quay về như để báo thù, phần nhiều là vì giờ đây anh đã có một cậu con trai cũng như một người vợ để hỗ trợ, và anh trở nên bận rộn hơn bao giờ hết, ngoại trừ bốn tuần du lịch anh thường xuyên tự thưởng cho mình mỗi năm, hai tuần anh dành cho Anne và Jeff ở một khu nghỉ dưỡng do họ chọn và hai tuần anh nghỉ mát cùng Anne, sau khi Jeff trở về trường đại học, trong cái cabin bên hồ. Năm nay, dù vậy, anh đành dành hai tuần cuối cùng một mình. Ừm, có thể không hẳn là một mình.



Cái tẩu của anh đã cháy hết được một lúc, và anh thậm chí còn chẳng để ý. Anh châm lửa lần nữa, vẽ những làn sâu thẳm vào gió, rồi anh xuống đồi và bắt đầu đi ngược vào rừng để đến cabin. Ngày thu phân sắp đến và những ngày quý giá càng ngắn ngủi hơn. Ngày đã sắp tàn lắm rồi, và sự ẩm ướt của buổi chiều tối bắt đầu lan tỏa vào khí trời mờ sương.



Anh bước chậm rãi, và mặt trời đã lặn khi anh tới được hồ. Đó là một hồ nước nhỏ, nhưng sâu, và những cái cây ngả rạp xuống rìa hồ. Cabin dựng cách ra xa một quãng phía sau bờ hồ nơi những cây thông mọc, và một lối nhỏ lộng gió gắn liền với cây cầu nổi. Đằng sau nó là một con đường lái xe rải sỏi dẫn tới một con đường đầy bụi nối liền đến đường cao tốc. Trạm ga nơi chiếc mui trần của anh đặt ngay cửa sau, sẵn sàng vẫy gọi anh trở về cuộc sống thường nhật chỉ với một khoảng khắc lưu ý.



Anh chuẩn bị và ăn một bữa tối đạm bạc trong căn bếp, rồi đi vào phòng khách để đọc sách. Sự rung động trong túp lều rền rĩ to nhỏ, nhưng dù vậy buổi tối vẫn không bị vấy bẩn bởi những thanh âm quen thuộc với đôi tai của một người hiện đại được thừa kế(3). Lựa chọn một tuyển tập thơ Mỹ từ chiếc kệ sách được đóng chắc chắn bên lò sưởi, anh ngồi xuống và lần giở đến bài Chiều tà bên đồi(4). Anh đọc bài thơ quý báu ba lần, và mỗi lần đọc anh đều nhìn thấy nàng đứng trong nắng, mái tóc nhảy múa trong gió, chiếc váy xoay tròn như tuyết rơi dịu dàng quanh đôi chân thon dài đáng yêu; và một cục nghẹn dâng lên trong cổ họng anh, và anh không nuốt trôi nổi.



(3) Ý tác giả chắc là người hiện đại quá quen thuộc với những tiếng ồn đến nỗi thành di truyền luôn

(4) Afternoon on a Hill: một bài thơ của Edna St. Vincent Millay




Anh đặt sách trở vào kệ và ra ngoài và đứng dưới mái vòm thô kệch và được lấp đầy và châm lửa cái tẩu. Anh bắt mình nghĩ về Anne, và như thường lệ khuôn mặt cô nổi bật hẳn lên – cái cằm cương nghị nhưng dịu dàng, đôi mắt ấm áp đầy nhân ái với dấu hiệu kì lạ của một nỗi sợ trong chúng mà anh không bao giờ cắt nghĩa nổi, gò má vẫn mềm mại, nụ cười hiền dịu – và mỗi điều tượng trưng ấy càng làm hấp dẫn hơn bởi những kí ức về mái tóc nâu sáng rung động và vẻ đẹp cao ráo uyển chuyển của cô. Luôn luôn trong những khi anh nghĩ về cô, anh thấy mình thán phục bởi vẻ đẹp không có tuổi của cô, kinh ngạc bởi cái cách cô lặn lộn qua bao nhiêu năm tháng mà vẫn luôn đáng yêu như cô đã từng cái buổi sáng rất lâu về trước ấy khi anh ngước lên, giật thót, và thấy cô đứng đó rụt rè trước bàn làm việc của anh. Thế nên không thể hiểu được là chỉ trong vòng hai mươi năm sau anh lại nồng nhiệt mong đợi một cuộc hẹn gặp với một cô gái quá sức tưởng tượng, đủ trẻ để đáng tuổi làm con gái anh. Ừm, anh không hề - mà thật ra cũng không hẳn. Anh có rung động trong một khoảnh khắc – tất cả chỉ có thế. Trong một khoảnh khắc sự cân bằng mẫn cảm đã rời bỏ anh, anh đã dao động. Giờ chân anh đã trở về vị trí nơi nó thuộc về, và thế giới đã trở lại quỹ đạo đúng đắn và hợp lý.



Anh gõ sạch cái tẩu và đi vào trong. Trong phòng ngủ anh thay đồ và chui vào đống chăn nệm và tắt đèn. Giấc ngủ sẵn sàng đến, nhưng không hề; và khi nó cuối cùng cũng đến, nó thành những mảnh vỡ rải rác với những giấc mơ đầy châm chọc



"Ngày hôm trước em gặp một con thỏ," nàng đã nói thế, "ngày hôm qua là một con nai, và ngày hôm nay, là anh."



~o~


(còn tiếp)


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro