1-10

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Nhung tuyết. Tôi ngửi thấy mùi hương nhung tuyết, nên từ từ nhớ lại cánh đồng hoa trắng xóa. Tôi... chúng tôi đã chạy băng qua cánh đồng ấy trong đêm trăng tròn. Dù ánh trăng mát dịu nhưng cũng không đủ sức lấn át bóng tối trên nền trời cao trong lúc tôi lôi Würther chạy theo mình. Chúng tôi đã tới gần biên giới. Tiếng súng nổ đuổi theo phía sau mỗi lúc một gần. Bỗng dưng tôi cảm thấy lo sợ.

Sợ ? Tôi mà sợ ư ?

Không thể tin được.

Thật phi lý.

Dứt khoát không thể tin được. Lại càng hoàn toàn phi lý. Mắt tôi trừng trừng, cố không để cơn buồn ngủ kéo đến.

Bỏ trốn cái gì ?

Tôi nhấc tay này rồi tay kia. Sau đó thử nhúc nhích hai chân. Tất cả những thứ trên người tôi còn nguyên vẹn, liền lạc.

Vậy mình trốn cái gì ? Tôi đâm ra thắc mắc vì ý nghĩ chợt đến. Nằm trên nền đá, tôi có thể cảm giảm giác cái lạnh giá và thô cứng sau lưng. Tôi ngóc đầu dậy, cánh mũi va vào vách đá.

Tôi đưa tay sờ mặt. Sau đó rờ rẫm quanh vách đá hai bên. Đều là vách đá. Thử duỗi chân, tôi mới nghiệm ra được chỗ tôi đang ở : Tôi đang nằm trong một cái hốc đá chỉ rộng hơn khổ người tôi một chút. Một nấm mộ.

Tôi cố thư giãn, để tìm kiếm những hồi ức trong đầu, xem chuyện gì xảy ra với mình.

Würther và tôi đang chạy, đang chạy trốn thì phải. Những gì trong ký ức chỉ bấy nhiêu, nhưng không có gì hơn thế nữa.

Trong lúc suy nghĩ, cổ tôi cảm thấy khát khô.

Đói. Cái đói đến cồn cào ruột gan.

Bây giờ thì tôi hiểu tại sao trí nhớ của mình lại tồi tệ như thế, chẳng có gì rõ ràng hết. Tôi đang lả dần vì đói. Phải chăng cơn đói đã lôi tôi ra khỏi tình trạng vô thức ?

Người ta đã phát hiện ra chúng tôi. Tôi lại rơi vào bóng tối một cách tuyệt vọng. Phát hiện cái gì ở chúng tôi ?

Chúng tôi chạy trốn khỏi bọn SS (1), Würther và tôi. Chúng tôi đã giúp những người Do Thái bỏ trốn khỏi Vienna, từ nhà tôi băng qua Akademiestraße, giúp họ vượt biên giới sang tỉnh Slovene thuộc Nam Tư, ở đó họ tự tìm đường trốn sang Hy Lạp, rồi sang Palestine thuộc Anh.

Họ đã trốn thoát. Bọn lính SS đuổi theo chúng tôi từ Vienna, theo chúng tôi băng qua vùng đông nam nước Áo, qua Klagenfurt để vào những dãy núi trắng đầy tuyết mùa Đông. Bọn SS là một lũ khốn kiếp chỉ một mục đích duy nhất là đánh hơi săn người.

Rõ ràng là tôi đã vào đây. Hầm mộ bằng đá này giúp tôi có thể khẳng định điều ấy. Còn Würther ở đâu ? Còn số vàng mà chúng tôi mang theo từ Vienna nữa ?

Cuối cùng, ký ức những chuyện đã qua chợt hiện ra, như gáo nước lạnh tạt vào mặt.

Würther là cha phó nhà thờ Thánh Peter, là người đẹp trai không thể tưởng mà tôi đưa theo cùng. Cậu ấy và tôi mang theo 3 túi đầy tiền vàng. Những đồng tiền vàng này là bộ sưu tập của cha tôi – những đồng si-linh kỷ niệm lễ đăng quang của hoàng đế Franz Josef, một năm sau ngày sinh của tôi vào năm 1847.

Chúng tôi tiến sâu vào dãy núi Carpathian – đi xuyên qua các suối nước, đường mòn, kể cả lối bò đi. Cuối cùng chúng tôi đã tới cánh đồng nhung tuyết, chỉ còn cách Yugoslavia tự do chưa đầy một cây số.

Nhưng chúng tôi không bao giờ có thể tiến thêm một bước nào nữa vì bọn lính SS.

Würther bị bong gân ở chân, tôi giúp chàng trai, vừa chạy vừa lôi Würther theo. Tiếng gầm rú của xe mô tô vang rền đang đuổi theo sau chúng tôi.

"Đi đi, Karli !", Würther thều thào nói, "Cứ để em ở lại".

"Không được", tôi gào lên cố lôi cậu ấy chạy xuyên qua cánh đồng nhung tuyết trắng xóa của dãy Alpine.

Phải mất một lúc khá lâu tôi mới hồi phục tri giác. Vì cậu ấy. Tôi đã không nổi cơn lôi đình và tìm cách hủy diệt kẻ thù đang truy đuổi trong suốt hành trình trốn chạy.

Tôi hiểu rõ sự sợ hãi của một phàm nhân mà tôi có thể cảm nhận được. Và vì thế, tôi không làm gì dù chỉ một lần mặc dù tôi có thừa khả năng để làm việc ấy, biết đâu chúng tôi có thể thoát được. Mà đó cũng chính là điều Würther mong đợi nơi tôi, và trong ba năm qua, tôi đã khuất phục trước ý muốn của chàng trai.

Tôi nghe tiếng súng mô-de. Đạn bay vù vù trên đầu. Năm mươi mét, không hơn. Würther bỗng như bị vấp chân, người khựng lại và ngã chúi vào người tôi, một sức nặng của một người sắp chết cộng thêm ba túi vàng mang theo bên người.

Tôi đặt cậu ấy nằm trên thảm hoa, xé toạc chiếc áo đang mặc, dùng móng tay rạch một đường dài sâu trong da thịt nơi mạn sườn. "Uống đi, em yêu". Tôi nâng mặt chàng trai kề sát ngực mình, để đôi môi cậu ấy sát tĩnh mạch đang mở rộng.

Würther quay ngoắt đầu qua một bên, "Không !", chàng trai yếu ớt nói, chỉ một tiếng và nhũn ra trong vòng tay của tôi. Tôi lặng người vì biết chàng trai đã thực sự ra đi, đi thật xa.

"Đồ chó đẻ !", tôi gầm lên và thu người biến thành một con sói xám Bắc Mỹ như thường trông thấy quanh những dãy núi này, đó là một cách biến hình mà tôi thực hiện nhiều lần trong hơn bảy mươi năm qua. Lông trên cơ thể bắt đầu mọc dài ra và hình dáng bắt đầu thay đổi. Tôi không thể làm trái ý muốn của Würther đã chọn lựa, nhưng tôi nhất định phải báo thù.

Lẩn trong cánh đồng nhung tuyết, tôi rẽ lối chạy về phía gã đàn ông mang súng trường, chiếc lưỡi dài đỏ hỏn thè ra khỏi đôi hàm lởm chởm nanh sắc. Kẻ sát hại Würther đứng bên xe đăm đăm nhìn ra đồng tìm chúng tôi. Đám lính đi theo mở thành một vòng cung lục soát theo lối chúng tôi bỏ chạy khi nãy. Tay gã đàn ông hờm sẳn bên bao da súng lục. Tôi nhảy xổ tới gã , chỉ nghe hơi gió rào rào qua mũi, qua đôi hàm sắc.

"Sói, sói !", gã chỉ huy thét lên khi nhận ra con vật trước mắt mình. Nhưng đã quá trễ. Bằng tất cả sức mạnh siêu nhiên dưới lốt sói, tôi táp đứt lìa cánh tay khi phóng qua người gã, trước cả khi gã kịp rút súng khỏi bao da. Rồi quay đầu lại nhảy chồm lên cổ gã nghiến nát khí quản và cắn đứt lìa cái đầu.

Gã chỉ huy sụm xuống bên hông chiếc xe, hẳn là gã còn chưa kịp nhận ra sự sống đã rời bỏ gã gần như cùng lúc với cánh tay đứt đoạn.

Tôi đã bỏ chạy cùng với Würther suốt hai ngày đêm không ăn, không uống, chỉ biết chạy và ẩn nấp, khắp người hôi hám và lo sợ. Không để phí phạm. Tôi hút cạn máu còn sót từ cái cơ thể hấp hối cho tới lúc no nê. Gã đã chết thật sự.

Máu vẫn rỉ ra từ lỗ đạn trên ngực Würther, nhưng gương mặt chàng trai thanh thản và bình yên. Vị cha phó điển trai mà tôi khổ công giành giật từ nhà thờ hồi mùa hè bây giờ đã trở về với nhà thờ, nơi hứa hẹn một cuộc sống vĩnh hằng trên thiên đường. Chàng trai không nghe lời tôi, đã lựa chọn con đường riêng của mình, đã chối bỏ cuộc sống bất tử.

Tôi thẫn thờ mang xác chàng trai cùng túi vàng đi tới nghĩa địa này. Khu hầm mộ này là một hang lớn trong ruột núi, mà những người Do Thái phát hiện ra, dùng để ẩn mình trên đường trốn chạy, đó là chỗ trú chân cuối cùng của họ trong chuyến đào thoát từ địa ngục của Đức quốc xã.

Tôi đặt Würther vào một cái mộ đầu tiên và lấp đá bên trên. Thân thể cha phó, người đã từ chối không muốn nhận cuộc sống bất tử trong bóng tối, được đặt nằm trong một nấm mộ vô danh cách xa nhà thờ mà chàng trai hằng yêu mến, yêu hơn cả tôi nữa.

Mấy túi vàng được đặt trong hầm mộ thứ hai cũng được lấp kín. Sau đó tôi quay lại cánh đồng hoa nhung tuyết, toàn thân rã rời. Tôi đã thề với chính mình rằng sẽ không đau khổ cho tới lúc báo thù cho Würther. Tôi đã thề trên máu người tôi yêu. Thề trước Chúa. Và tôi cũng thề rằng tôi phải cố hết sức để cho Würther yên nghỉ thanh thản.

Nhưng ngoài chuyện trả thù cho cậu ấy, tôi chẳng còn nhớ gì hết, không nhớ có một cái mộ đá tối tăm đào sâu trong núi. Cũng không nhớ bằng cách nào mình vào đây để ẩn nấp. Không nhớ gì cả.

Tôi cố sức dùng cả hai tay đẩy phiến đá bên đè trên nấm mộ, nhưng không thấy nhúc nhích. Tôi ngạc nhiên không hiểu sao mình yếu đến thế. Tôi làm lại lần nữa và nghe tiếng rào rào khi đá nghiến vào nhau.

Nếu được no bụng, tôi có sức mạnh gấp mười người đàn ông. Dù vậy, tôi đang mất sức. Tôi vẫn không đẩy nổi một phiến đá đậy trên nắp hầm mộ.

Nhưng, tôi sực nhớ ra rằng trong nhiều tháng không uống máu, tôi đã suy yếu rất nhanh.

Tôi cố đẩy lần nữa, cộng vào là nỗi căm thù biến thành sức mạnh mà tôi có được từ năm 1874, tức ba năm sau khi quân Phổ sát nhập Germany thành nước Đức thống nhất. Lần này, phiến đá đậy nắp hầm mộ rơi xuống đáy mộ. Tôi muốn điếc tai vì dường như tiếng động chát chúa lúc va chạm vào nền đá không dứt.

Đầu tôi ló ra khỏi nắp hầm, sau đó là đôi tay. Tôi đu người lên khỏi chỗ vừa nằm lúc nãy.

Nhìn lại thấy bên trong nấm mộ một màu tối đen. Tay chân tôi bủn rủn, mắt lờ mờ chỉ thấy trong một bán kính chưa đầy một mét. Tôi tập tễnh lần tới lối vào hang mà tôi nhớ lại, dựa người vào vách tường đá. Tôi đứng chết trân khi thấy tường đá bị ngăn lại bởi những tảng đá lớn nhỏ đủ cỡ, niêm kín lối vào hang.

Tảng này chồng lên tảng kia. Cảm giác sợ hãi lại ập tới. Một thứ cảm giác cũ của một con người bình thường. Tôi bị chôn sống. Có đến hàng trăm tấn đá ngăn tôi với cánh đồng nhung tuyết bên ngoài hang động. Hàng trăm tấn đá trong khi tôi đã xuống sức đến mức suy sụp, không thể dời chúng đi được. Tôi quỵ xuống và đầu hàng với nỗi lo sợ vây phủ quanh tôi, với bản ngã của mình. Nước mắt lăn dài trên má.

Sau đó, tôi dần bình tĩnh và nhận ra sự hèn yếu của mình, và có cả niềm vui mà tôi chưa từng cảm nhận được trong hơn trăm năm qua, tôi biết mình có thể tìm được lối ra thế giới bên ngoài. Chỉ nghĩ đến điều ấy thì tôi mỉm cười tự chế giễu mình rồi lấy tay áo gạt nước mắt.

Nhưng chẳng có tay áo nào cả, chỉ có da thịt lạnh lẽo. Hơi ngạc nhiên, tôi nhìn lại mình. Tả tơi. Phần lớn quần áo còn nằm lại ở cái mộ đá : quần dài, sơ mi, ngay cả quần lót cũng chỉ còn là một mớ vải mục. Cái còn lại duy nhất là cái khố mà tôi mặc trong lúc chạy trốn bọn lính SS. Đó là thứ bằng da thô cứng che phần hạ bộ và phía sau. Đôi giày ống vẫn còn trên chân. Những thứ bằng vải thì không còn thứ gì.

Chúa ơi ! Tôi ngủ bao lâu rồi ? Nhìn quanh quất khó có thể nói có sự sống ở nơi đây, trừ tôi ra.

Mà tôi đang yếu dần. Sự suy nhược đến mức nguy hiểm. Một người bất tử như tôi lại chết vì đói khát và bệnh tật hay sao ? Nhưng quả thật tôi đang đuối sức, ngay cả khi có người nào đó tấn công tôi cũng không đủ sức tự vệ. Tôi chỉ còn là một đống thịt da khô đét và mạch máu run rẩy, người ngợm lông tóc mọc dài.

Đi theo luồng không khí tươi mát, gần như tự động, tôi trèo lên vách hang cho tới chỗ dốc đứng thì dừng lại, tôi hiểu mình chẳng có cơ hội nào ở bức tường này. Nếu được no và sức khỏe hồi phục như trước, tôi có thể vượt qua vách đứng này một cách dễ dàng. Nhưng bây giờ, tôi có thể rơi xuống gãy xương mà có thể nhiều năm sau mới lành trở lại.

Tôi cố nhìn thấu qua bóng tối tới nóc hang nơi đó tôi có cơ may thoát khỏi cái hang này. Nhưng làm sao tới nóc hang được ? Dưới hình hài một con người tôi không thể nào tránh được nguy hiểm, ngay cả dưới lốt thú cũng thế, ngay cả khi là một con dơi mà không đủ sức để thoát hiểm. Tôi co người lại khi nhận ra một hình thái duy nhất mang đến cơ hội cho tôi thoát ra ngoài an toàn.

Tôi tập trung tư tưởng, thân hình tôi biến thành một làn sương mỏng, một kiểu biến hóa mà một con ma cà rồng thường tránh không bao giờ muốn biến mình theo kiểu đó. Nhưng với cách biến hình như vậy lại phù hợp trong tình trạng yếu sức, ngay cả không có khả năng di chuyển nhanh được – cách biến dạng thế này hết sức nguy hiểm. Tệ thật, nhưng đó là cứu cánh duy nhất mà tôi nhận ra và đang thực hiện. Tôi có khả năng biến thành bất cứ thứ gì, cho dù yếu hay khỏe mạnh, bằng cách đó tôi có thể thoát khỏi hang đá này mà đi kiếm ăn. Nhưng bằng tất cả sức lực còn sót lại khi biến hình, tôi e rằng không biết mình còn có cơ hội trở lại hình dáng con người trên thế giới này hay không.

Dưới hình thù một làn sương mỏng, tôi bay tới cái khe nhỏ trong vách đá trên nóc hang. Cảm giác cố gắng quá sức càng làm tôi đói dữ dội. Phải được ăn no để khôi phục sức lực, để trở lại một con ma cà rồng như trước. Cơn đói đòi hỏi một dòng máu nóng.

Chắc chắn sẽ được no lòng. Làn sương mỏng khẳng định như thế trong khi tôi còn nhận thức được. Chuột đồng, chuột cống hoặc mèo rừng – dưới hình dáng làn sương mỏng, tôi sẽ bao bọc con mồi và hút cạn sinh khí của nó, để lại một đống xương thịt phân rã thành nước. Trong lúc ấy, tôi chẳng làm gì khác ngoài những ký ức bập bềnh trong đầu.

* *

*

Vào năm 1872, tôi ngồi ở một khán phòng trong nhà hát Reichsöperhaus ở Berlin. Tôi có mặt ở đó với tư cách là người đại diện cho hoàng đế Franz Josef dự lễ hội Sedantag, lễ hội kỷ niệm thành lập đế chế Đức – Phổ. Tôi ngồi trong nhà hát opera bởi vì tôi đang cố tin rằng Richard Wagner không phải là thằng điên, trái lại là một nhà thông thái.

Tôi là Karl Josef Gustav, người đứng đầu thủ phủ Maribor. Là một hoàng tử nhưng không mang dòng máu Habsburg – một hoàng tử trung thành nhưng bị lệ thuộc từ một nước quân chủ song trùng ở phía đông nam. Tôi được kính trọng đủ để ra mắt mọi người trong ngày kỷ niệm đế chế này. Nhưng tôi không bao giờ được tôn trọng như một hoàng đế thực sự của đế quốc Áo – Hung. Huyết thống của tôi là sự pha trộn giữa những tổ tiên gốc người Slavic, và sự kết hợp tai hại của hai dòng máu Đức và Hungary.

Trên sàn diễn, Wotan đi từ núi này tới núi nọ để thị sát chiến trường và Brünhilde cưỡi ngựa từ Valhalla đến... nhưng tôi không chú ý mà lơ đãng nhìn quanh. Sự chú ý của tôi bị thu hút bởi phái đoàn của Nga đang ở trong khán phòng đối diện. Tôi nhanh chóng nhận ra một thiên thần tóc đen huyền.

Tôi bị thôi miên ngay lập tức. Những lọn lóc đen nhánh quanh khuôn mặt trắng ngần. Chiếc cổ cao và tỏa rộng xuống đôi bờ vai mạnh mẽ nam tính. Dù trong bộ trang phục lộng lẫy, tôi vẫn có thể thấy hình dáng bộ ngực vạm vỡ và cái eo thuôn nhỏ. Tôi cười thầm.

Dứt khoát phải tìm gặp người này. Tôi hiểu mọi điều tôi tưởng tượng về người này có thể trở thành sự thật trong thời gian tôi còn lưu lại ở Berlin.

* *

*

Tôi luồn qua kẽ đá hẹp trên trần hang và thoát ra mặt ngoài ngọn núi. Không khí đêm hè mát dịu khi tôi háo hức di chuyển về phía ổ chuột đồng. Mặt trăng tròn vành vạnh, vàng tươi và sáng rực, ngự trị trên bầu trời đêm. Con chuột mẹ rít lên những tiếng kêu chít chít khi tôi đến gần ổ và sau đó là sự yên lặng tuyệt đối khi tôi phủ lên con chuột mẹ cùng bầy con, ngấu nghiến hút mọi sinh khí từ bầy chuột đồng.

Vẫn thấy đói, tôi lơ lửng bay quanh sườn núi. Dù đã chén rồi nhưng chưa no. Không đủ no cho một con quỷ hút máu với trọng lượng 85 ký lô khi khoẻ mạnh.

Tâm linh tôi trải rộng hơn, đó là sức mạnh vừa mới lấy được từ loài gậm nhấm. Lập tức tôi cảm nhận có một con mèo rừng gần đó. Bản năng săn mồi trỗi dậy với những gì tôi vừa tìm thấy. Phải có đến một lít máu nóng hổi. Tuy không vừa miệng nhưng có còn hơn không.

Tôi lặng lẽ trôi về phía con mèo cái.

* *

*

Thiên thần người Nga là Đại quận công Sergei Alexandrovitch. Ban nhạc Opera rất vinh dự biểu diễn những màn đặc sắc của họ trước những vị khách tôn quý của các nước láng giềng. Vừa lúc về đến nhà, tôi cho người hầu đến tòa đại sứ Nga với tấm thiệp xin phép cho tôi được hội kiến thiên thần này.

Ông hoàng Sergei Alexandrovitch là bào đệ của Sa hoàng. Người cha qua đời khi Đại quận công còn là đứa trẻ mới biết đi chập chững, là người trực tiếp cai quản vùng Odessa, bây giờ chàng trai đã rời khỏi Petrograd một chốn đầy quyền lực và cạm bẩy nguy hiểm. Thoạt nhìn, ông hoàng trẻ tuổi này giống người Đức nhiều hơn người gốc Sla-vơ.

"Hân hạnh được tiếp đón ngài, thưa hoàng tử Maribor", Đại quận công chào tôi bằng tiếng Đức và cúi rạp người. Rất kiểu cách, nhưng lịch sự có thừa. Tôi bước vào và mỉm cười cảm kích, trong khi cánh cửa khép lại sau lưng.

Đích thân chàng trai làm cà phê mời tôi.

"Ngài là người trẻ tuổi đại diện cho Sa hoàng", tôi nói theo khuôn sáo ngoại giao, "hẳn là hoàng đế vĩ đại Alexander đã đặt trọn niềm tin nơi ngài".

Chàng trai mỉm cười, một biểu hiện của thái độ tự do, phóng khoáng trong nghi thức ngoại giao. "Có chút rắc rối ở Petrograd cho dù chúng tôi có muốn một nhà nước Đức hùng mạnh ở sát biên giới Ba Lan hay không. Gần đến tuổi mười chín, tôi càng đến gần ngai vàng đủ để nhiều người căm ghét tôi, tốt nhất là đi đâu đó cho khuất mắt họ."

Tôi cười đáp : "Người Đức thường khó tính đến nỗi họ trở nên lạnh nhạt , nhất là một người trẻ tuổi tràn đầy sức sống như ngài đây".

"Nhưng dường như ngài cũng không lớn tuổi hơn tôi bao nhiêu", chàng trai ngại ngùng dò hỏi và tôi tự hỏi không biết đây có phải là trò chơi quen thuộc của chàng trai này hay không.

"Tôi được hai mươi ba, là người đứng đầu lãnh địa Maribor và có trách nhiệm thực hiện bổn phận của mình trước hoàng đế".

Chàng trai gật đầu. "Hoàng đế Franz Josef. Ngài đã tại vị hai mươi năm điều hành nền quân chủ song trùng vừa khi tôi mới chào đời". Chàng trai đứng dậy, cặp mông lại đầy tròn, chàng trai liếc nhìn tôi ý nhị.

Tôi lắc đầu và ước gì tôi có được anh chàng này trên giường của mình.

"Hẳn là sẽ có thứ gì đó vui vẻ với những người trẻ tuổi như chúng ta ở một thành phố Đức khắc khổ như thế này", chàng trai thỏ thẻ, nhưng âm thanh chỉ vừa đủ lan rộng trong khoảng cách hai người chúng tôi.

"Quán rượu, viện bảo tàng, vườn thú không khác gì Paris, ngay cả nhà thổ cũng có, xin lỗi nếu như lời nói hơi khó nghe", tôi đáp, "Ngài có hứng thú khám phá cuộc sống ở đây không ?"

Chàng trai mỉm cười, "nếu có sự hướng dẫn của ngài ?".

"Rất vinh dự, thưa ngài", tôi đồng ý và mỉm cười tỏ vẻ hiểu biết.

"Vậy thì được, tôi có thể liên lạc với ngài tại tòa đại sứ vào bảy giờ tối nay được không ? Có lẽ ngài sẽ cho tôi thấy mọi thú vui của Berlin chứ ?", đôi mắt chàng thanh niên long lanh hứa hẹn một cuộc vui thâu đêm suốt sáng.

Tôi đứng dậy dập gót và cúi chào chàng trai. Một cử chỉ thừa nhận tước hàm của người Áo. "Sẽ như ý ngài mong muốn, thưa Đại quận công Sergei Alexandrovitch Romanov. Nhưng xin ngài hãy gọi điện cho tôi tại nhà riêng thay vì gọi đến toà đại sứ". Tôi trao danh thiếp cho ông hoàng.

* *

*

Con mèo rừng dường như có cảm giác về sự hiện diện của tôi, nhưng tôi đã trùm lên người nó rồi. Tôi hút lấy sinh lực từ còn mèo và cả bầy mèo con chưa ra khỏi bụng mẹ...

Lập tức tôi cảm thấy mạnh mẽ hơn. Nhưng tôi vẫn mở rộng tâm linh để tìm kiếm thêm những con mồi khác. Sau một giờ tìm kiếm tôi vẫn không tìm thêm được thứ gì khác ngoài bữa ăn đạm bạc vừa rồi. Chán nản vì vô vọng, tôi vẫn ở hình dáng làn sương quay trở về hang nghỉ ngơi.

* *

*

Sergei gọi đến nhà tôi ở Berlin. Tránh xa khỏi những cặp mắt tò mò của người khác, chúng tôi nhanh chóng cảm thấy có cùng sở thích trong các thú ăn chơi ở Berlin.

"Karli...này ?".

Tôi quay sang nhìn chàng trai đang nằm kế bên trong buồng ngủ tối mờ của tôi.

"Sao lại gọi anh như vậy ?", tôi hỏi, lúc ấy vẫn còn cảm thấy mệt mỏi sau cuộc ái ân.

Chàng trai cười khúc khích, tiếng cười trong như tiếng khánh bạc, chàng trai ôm lấy tôi. Cảm giác hơi ấm từ chàng trai. "Em không gọi là ngài nữa vì bây giờ em đã chinh phục được anh rồi, Karli của em".

"Hầu hết mọi người đều gọi anh theo tước hiệu và họ, Sergei...", tôi chống tay nhỏm dậy, đôi chân trần chàng trai vẫn quấn chặt chân tôi.

Những lời chàng trai khiến tôi nảy ra một ý, "Em chinh phục anh ư ?", tôi giả bộ hờ hững nói tiếp, "anh chỉ muốn xem điều em nói có đúng hay không".

"Vậy thì ai đã nằm trên ? Hơn nữa, em thích gọi Karl hơn là Gustav".

"Muốn gọi Karl cũng được với điều kiện là", tôi kề mũi vào má chàng trai, "Vậy thì, trong trò chơi này ai nằm trên thì người đó là kẻ chinh phục như người Nga thường làm thế, phải không ?". Tay tôi với tới dương vật chàng trai, bóp nắn trong bóng tối. Tôi đổi tư thế trong khi tay kia lần mò giữa hai chân chàng trai.

"Không, Karli !" chàng trai la lên tỏ ý không vừa lòng.

Tôi buông chàng trai ra, rồi ngồi dậy, cảm thấy bực tức vì sự từ chối của chàng trai, dù sự mỏi mệt ban nãy không còn. "Em đã sướng rồi còn gì, chàng trai Nga", tôi hậm hực nói.

"Em muốn...", chàng trai sử dụng một thủ thuật quý tộc cổ xưa để bắt chẹt tôi. Sau một lúc do dự, chàng trai nói tiếp, "Em muốn mình còn nguyên vẹn cho dù khi tiếp đàn ông ở đây, Karli. Em chỉ muốn giữ gìn cho tới khi gặp được người em yêu".

Chàng trai ngã người xuống gối, quay mặt sang tôi. "Chẳng có gì thiếu tôn trọng nhau cả, anh có thể hiểu được điều ấy và đó là sự thật, với những gì mình đã làm cùng nhau, những gì anh đã làm tối nay". Chàng trai hôn lên má tôi.

"Ý em là bây giờ em vẫn trung thành phục vụ anh, xem anh như là vị lãnh chúa của em chừng nào mà anh không cảm thấy lòng tự trọng bị tổn thương. Em hy vọng sẽ có lúc em trao thân cho anh như một minh chứng của sự dâng hiến – như một chàng trai tân theo ý nguyện của anh".

Tôi vẫn im lặng, trái tim tôi đòi hỏi thực tế nhiều hơn lời hứa hẹn của chàng trai, còn lý trí tôi chỉ muốn mời anh chàng này ra khỏi cửa ngay lập tức.

"Anh rất đẹp trai, Karli", chàng trai nói tiếp, "mái tóc sáng màu mặt trời, một cơ thể mà Michelangelo cũng phải hạ mình thuyết phục để được tạc tượng, một "con dao" thật to và hấp dẫn. Cái đồ nghề đàn ông người Đức của anh thật hoàn hảo..."

"Anh là người Sla-vơ, không phải là người Đức", tôi nhắc, giọng nói của tôi lãnh đạm, cố che giấu trận chiến đang diễn ra giữa trái tim và lý trí của mình.

Sergei cười như nắc nẻ : "Trời ơi, người lai, vậy mà em không biết !". Nhưng ngay lập tức, như biết đã đi quá xa, chàng trai nói với giọng bình thường. "Em là hậu duệ của một gia đình Sla-vơ nhưng lại là người Hy Lạp. Trông anh giống người Đức nhưng lại có một cái tên của người Sla-vơ, nhưng có lẽ huyết thống trong anh là người Đức thì đúng hơn. Liệu rằng những đức ngài như thế có được thần dân kính trọng khi họ trị vì hay không ?"

Tôi đờ người ra. Thấy vậy, chàng trai thay đổi đề tài.

"Anh có đồng ý với em rằng cả hai chúng ta sau này sẽ từ bỏ không được tiếp tục quan hệ với người khác hay không ?", chàng trai hỏi.

"Anh nghĩ chúng ta đáng được tôn trọng như nhau, Sergei Alexandrovitch", tôi nói và thả chân xuống đất.

"Lẽ nào anh lại từ chối em vì lòng tự ái, Karl Josef Gustav ?".

"Anh chẳng từ chối gì hết", tôi cảm thấy tức giận và đứng sững trần truồng bên giường, quay lại nhìn chàng trai tôi nói tiếp, "Chúng ta chia sẻ niềm vui. Anh chỉ mong sẽ tiến xa hơn để chia sẻ lạc thú cho nhau. Tuy nhiên, em đã chính thức từ chối việc ấy...".

"Chuyện ấy anh chưa từng trải qua hay sao ?".

"Không liên quan gì đến chuyện ấy, thưa ngài Đại công tước Odessa. Sẻ chia lạc thú là bao gồm cả "cho" lẫn "nhận". Nhưng ngài thì chỉ muốn nhận mà thôi".

"Và anh không nghĩ rằng sẽ làm em bị đau nếu em cho anh sao ?"

Tôi cười chua chát. "Đó là chuyện đàn bà", tôi nói, "sự chuẩn bị và việc âu yếm sẽ bảo đảm ngài được sung sướng".

Chúng tôi tiếp tục tranh luận về mọi khía cạnh và tôi cảm thấy bực tức. Tôi thấy chẳng còn hy vọng gì để thuyết phục chàng trai và cảm thấy bị lép vế. Tôi chộp chiếc áo choàng khoác lên người, rồi bảo chàng trai mặc quần áo vào ra về.

Trong bóng tối của gian phòng, tôi không thấy chàng trai đến gần tôi, không thấy cả khi chàng trai với tay mò vào giữa bẹn của mình nên không kịp phản ứng.

"Em muốn thưởng thức chút nữa anh, Karli", chàng trai nói nhỏ và tôi cảm nhận đôi môi chàng trai miết trên đầu khấc. Còn tay kia chàng trai kéo ghì tôi. Tôi phản kháng yếu ớt, cuối cùng thì đầu hàng.

Trong hai năm dài, tôi gặp gỡ đi lại với Sergei Alexandrovitch bất cứ nơi nào thuận tiện cho việc quan hệ luyến ái. Ở Berlin. Ở Vienna. Ở Odessa. Ở Petrograd. Ngay cả có lần ở Sofia. Tôi tiếp tục chung thủy với chàng trai, không người đàn ông nào khác, dù người lớn hay kẻ nhỏ, có thể chia cắt mối quan hệ ràng buộc giữa chúng tôi, hàng đêm chàng trai vẫn đến với tôi ở Berlin. Chàng trai đã chinh phục được tôi.

Tôi cũng hiểu rõ sở thích của chàng trai. Cậu ấy thích chơi dương cầm cũng giống như tôi. Ở Odessa chàng trai chào đón tôi bằng Khúc nhạc chiều (Eine Kleine Nachtmusik) của Mozart khi tôi có mặt trong phòng hòa nhạc của chàng trai. Tôi như đang ở thiên đường. Người đàn ông tôi yêu là một thiên tài, không thua kém gì tôi. Chúng tôi đi dạo vòng vòng ở Vienna. Chàng trai rất thích món cơm Ý; chúng tôi lang thang từng quán rượu ở Paris. Chàng trai luôn chiều chuộng tôi mọi điều, ngoại trừ việc chấp nhận thằng nhỏ tiến xa hơn mỗi khi tôi ở bên chàng trai. Quả thật tôi đã yêu chàng trai rồi.

* *

*

Tôi còn sống và hết sức cảnh giác khi tia nắng mặt trời còn chói chang. Nhưng tôi vẫn còn yếu, chưa khôi phục được như cũ, như một con ma cà rồng. Tuy nhiên, tôi cần được no, lúc này tôi vẫn thấy đói. Nhưng tôi đã khôi phục tri giác siêu nhiên của mình.

Tôi nhận ra sự an toàn khi đá tảng chất chồng đầy cửa hang. Không có con người nào có thể phát hiện hoặc có khả năng phát hiện ra tôi khi lối ra vào đã bị lấp kín. Bây giờ tôi có thể mỉm cười vì sự may mắn vốn là mối đe doạ tôi trước đây. Khi tia nắng cuối cùng tắt hẳn từ dãy núi phía tây, tôi trở lại hình dạng một làn sương mỏng chui qua khe đá trên trần.

Dưới hình dáng con người, trần truồng, tôi ngồi trên mỏm đá bên trên cánh đồng nhung tuyết, tâm linh trải rộng vượt qua khỏi cánh đồng sang tận sườn núi bên kia. Tôi phải kiếm một con dê, con cừu hay một con bò để sinh tồn. Bất kể con vật nào lớn nhỏ đều có thể khôi phục sức lực. Tôi chỉ có thể tự nuôi sống bằng thứ máu không phải là máu người, như thế thì tôi chẳng khác gì người thường. Nhưng tôi vẫn không thể quên Würther, mà tiền kiếp là Sergei.

Tôi sẽ săn lùng bọn Đức quốc xã, cái lũ người ác độc chẳng khác gì quỷ dữ, để làm món ăn cho mình. Đây chỉ mới bắt đầu cuộc phục thù. Sẽ còn nữa, còn nhiều nữa; nhưng chuyện đó sẽ đến khi tôi có thời gian sắp xếp.

Bọn quốc xã đã hủy hoại cuộc đời bình lặng, nề nếp của tôi ở Vienna. Chúng ép tôi thành một thứ người chẳng ra người, ma chẳng là ma, chỉ đơn thuần là tránh được cái chết mà tạo hóa định sẳn. Chúng đã cướp Würther khỏi tôi. Những chuyến đi săn của tôi luôn luôn vì sự sinh tồn. Tôi là loài khát máu và bọn quốc xã, theo cách nghĩ của tôi, là một sinh vật còn tệ hơn nữa, không còn nhân tính dưới lốt con người.

Phục thù luôn là điều gì đó ngọt ngào. Còn ngọt ngào hơn cả khi một kẻ như tôi có khả năng tiêu diệt cái ác như tôi thường tâm niệm. Phải, Bọn quốc xã đáng phải chịu hình phạt của tôi – và tôi sẽ phục hận mỗi khi tôi thấy đói. Một cái chết ghê rợn hơn bất cứ thứ gì tôi có thể làm được. Một kẻ từng huênh hoang, vênh váo phải run rẩy sợ hãi vì những lần săn tìm của tôi – một khi tôi đã lên kế hoạch thực hiện.

Tôi để tâm linh tìm kiếm bên dưới thung lũng. Tâm linh chạm phải một người đàn ông. Không cần đọc những tội ác có thể có, nằm trong đầu người này, tôi tập trung và tưởng tượng mình là một con dơi, thế là hình dạng của tôi đã biến đổi. Quá trình thay hình đổi dạng hoàn tất, tôi đập cánh bay vút lên không trung.

Gió vù vù qua mũi, tôi dang rộng cánh bay xuống thung lũng với niềm vui sướng được tự do và bắt đầu tìm kiếm dấu vết gã đàn ông.

* *

*

Vào năm 1874, Sergei Alexandrovitch mời tôi ghé thăm chàng trai tại Odessa.

Sau khi đóng cửa phòng ngủ và quay lại nhìn, tôi nhìn chàng trai chằm chằm. Tim tôi rộn rã những ham muốn phóng đãng. Tôi, một ông hoàng đầy quyền lực, chủ nhân cả một dải đất phía đông nam của đế chế, lại biến thành người đàn bà say đắm người đàn ông mà tôi mong ước được dâng hiến, được người đó chinh phục, sở hữu.

Sergei mỉm cười, hai đồng tiền bên má làm chàng trai duyên dáng và tươi trẻ, chàng trai nói : "Em đã mời một người khách đến với chúng ta tối nay – hy vọng anh sẽ tìm ra điều gì đó thú vị nơi người ấy".

Sự hiểu biết, khám phá đối với tôi luôn là một liều thuốc độc. Và sự hiểu biết, mong muốn khám phá thế giới ấy không xa với sự hiếu kỳ là bao.

"Loại người gì vậy ?", không dằn được sự tò mò, tôi hỏi.

"Một người đã sống cách đây 400 năm, cưng ạ", chàng trai ngập ngừng rồi nói, "Ông ấy đồng ý gặp chúng ta".

"Bốn trăm năm ư ?", tôi bật cười và dụi mắt, "Ông ấy là thứ gì vậy ? Ma ư ?"

"Cũng có thể nói như vậy, Karli".

Tôi thấy chàng trai nói với vẻ nghiêm túc. "Những sinh vật như vậy chỉ là trò dọa trẻ con của cánh phụ nữ thôi", tôi đáp và cố diễn đạt cũng bằng một vẻ nghiêm túc tương ứng trong lời lẽ của mình, dù rằng tôi chỉ muốn cười bò ra. "Các nguyên lý cơ bản của khoa học không có những thứ ấy đâu".

"Để rồi xem có đúng thế không ?". Vẻ nghiêm nghị biến mất và thay bằng một nụ cười tinh quái mà tôi hết sức yêu mến. Chàng trai chậm rãi cởi bỏ áo choàng, nhìn tôi âu yếm.

"Trong lúc chờ đợi, mình cần thực tế một chút. Và sự thật đè nặng trong lòng em bấy lâu là em nhớ anh lắm".

Chàng trai cởi cà vạt bỏ xuống sàn và tiến đến bên tôi. Được một bước, chàng trai tiếp tục cởi bỏ áo gi-lê, rồi sơ mi. Tôi tự hỏi không biết cậu ấy có thực lòng với tôi không. Cách tôi vài xăng ti mét, chàng trai thả chiếc áo sơ mi rơi xuống.

Đêm đó, chúng tôi ngồi kế bên giường, ánh đèn lung linh trong đêm của Biển Đen. Bữa tối đã xong, tôi không ngớt lời khen người đầu bếp của ông hoàng. Bọn người hầu đã xong nhiệm vụ. Chúng tôi đang ngồi đợi khách. Khách của chúng tôi, Sergei đã nghĩ rằng chàng trai và tôi sẽ cùng khám phá cái thế giới huyền bí, ma quái trong đêm nay.

Người khách mà tôi tin sẽ không bao giờ đến. Tôi liếc nhìn người tình, chỉ muốn cảm nhận cái thân thể trần truồng ấy nồng ấm trong vòng tay của mình. Chúng tôi nhích tới và hai cơ thể dán vào nhau, tôi tìm môi, chúng tôi quấn lấy nhau như một thực thể duy nhất, tay tôi lần xuống dưới hông chàng trai, chàng trai đột ngột rời ra.

"Ông ấy sẽ đến đây lúc 10 giờ đó Karl; ông ấy hứa sẽ đến đúng giờ". Chàng trai gỡ tay tôi ra và mỉm cười, "Mình sẽ phát ngượng khi ông ấy đến mà thấy chúng ta trong tình trạng thế này".

"Lẽ nào chúng ta hy vọng một con quái vật to bằng con bò bay vào phòng này hay sao", dù cằn nhằn nhưng tôi vẫn ngồi dậy. Tuy có tiếc, nhưng tôi vẫn cố thể hiện mình là một quý ông đáng được tôn trọng của hoàng đế Franz Josef.

Chàng trai dựa người vào và hôn phớt lên má tôi, ánh mắt chàng trai long lanh thật đáng yêu, chàng trai mỉm cười "Em yêu anh, Karli."

Tấm rèm bỗng lay động dù chẳng có lấy một cơn gió nhẹ từ Biển Đen trong một đêm hè như thế này. Chúng tôi chăm chú nhìn, riêng tôi một sự sợ hãi mơ hồ khiến tôi bối rối đút tay vào túi áo.

Một người đàn ông trẻ bước vào phòng. Tôi lom lom nhìn không quên để cây thánh giá truớc mặt. Tóc người này sát da đầu. Phần da mặt và tay xanh mét. Trông bề ngoài người này giống một nông dân Sla-vơ mà bạn có thể thấy ở bất kỳ nơi nào ở Trung Âu hoặc vùng Đông Nam Châu Âu – lưỡng quyền rộng, mắt tròn, mũi ngắn và cánh mũi rộng. Trông cứ như một chàng trai mới ở tuổi dậy thì, nhưng người này là một gã đàn ông. Con ma cà rồng của Sergei không phải là người tôi mong muốn nằm trong giường bên cạnh tôi.

Người này mặc toàn đen – quần áo, áo choàng, giày ống cũng thế. Trang phục dường như làm bằng những chất liệu hảo hạng và tôi không hiểu làm cách nào mà loài quỷ dữ lại có thể đủ sức chi trả cho những thứ đắt tiền như thế.

Người đàn ông bước tới, sau đó quỳ xuống và nói bằng một thứ tiếng Pháp lờ lợ, nghe cũng không đến nỗi tệ "Xin chào ngài, xin cảm ơn vì đã cho mời tôi đến".

Sergei gật gù tỏ ra hiểu biết về sự tôn kính của người đàn ông đang quỳ trước mặt chúng tôi. Người này thực ra cao hơn so với lúc mới bước vào phòng. Người đàn ông chăm chú nhìn tôi.

"Boris hiểu em muốn được trẻ mãi và bất tử như nhiều người mong muốn", Sergei bảo tôi, tỏ ra thoải mái, người đàn ông vẫn còn cách chỗ chúng tôi ngồi khoảng một mét. "Đó là lý do vì sao em mời ông ấy đến gặp chúng ta".

Sergei Alexandrovitch không muốn già và trường sinh ư ? Ai mà chẳng muốn như thế, nhưng không ai có thể ngăn cản cái chết, cho dù đó là một ông hoàng hay là một kẻ bần cùng. Tôi suýt bật cười. Người đàn ông cao lắm cũng ở cái tuổi hai mươi mốt. Liệu anh chàng biết gì về tuổi thọ ? Lớn hơn bốn tuổi, tôi đã và đang thấy tuổi tác đang lén lút cướp đi những thứ quý giá của tuổi thanh xuân.

"Ông bảo đảm rằng chúng tôi sẽ bất tử phải không, Boris?", tôi hỏi.

"Tôi cam đoan như thế", người đàn ông trả lời.

"Nhưng tại sao ?", tôi lại hỏi.

"Chúng tôi tồn tại, nhưng không nhiều và nguy hiểm luôn rình rập chúng tôi, thưa ngài. Tôi đã gặp nguy hiểm cách đây hai năm ở Paris và tôi đã phải bỏ trốn từ đấy".

"Hình như anh không phải là người Sla-vơ, có lẽ là người Nam Tư thì phải ?"

Người đàn ông tươi cười, "Vâng. Thực ra tôi ở xứ xở của ngài, thưa Hoàng tử Maribor. Tôi là người gốc Nam Tư, nhưng cuộc sống trường sinh khiến người ta có cảm giác không có gì thay đổi nơi họ. Thói quen tìm bữa ăn đòi hỏi phải luôn di chuyển rày đây mai đó, nếu chúng ta muốn có cuộc sống bất tử".

"Thói quen tìm bữa ăn là cái gì ?".

"Chúng tôi phải uống máu, thưa hoàng tử. Máu người là tốt nhất".

Tôi co rúm lại và nắm chặt cây thánh giá trong tay.

"Tại sao anh cho chúng tôi tham gia ?", Sergei hỏi, và lập tức trực giác cho tôi biết câu hỏi chẳng qua để cho tôi thấy những lợi ích mà tôi có thể có được, "Tại sao anh cho chúng tôi cái quyền năng bất tử ấy ?".

Gã đàn ông gằm mặt nhìn tay mình. "Tôi đã gặp chuyện không may ở Paris nên không còn tiền. Đó là thứ tôi đã mang theo bên mình. Tôi có mặt ở thành phố này trong khi không hề có một nguồn thu nhập nào khác".

Chúng tôi trao đổi mà chủ yếu là chất vấn người đàn ông hàng giờ trong đêm đó. Nỗi sợ hãi của tôi giảm dần khi tôi nhận Boris là nạn nhân của sự sợ hãi và căm ghét. Cuối cùng, người này run run nói với tôi.

"Thưa ngài, tôi phải ra về, nếu không khi mặt trời mọc tôi phải chịu đau đớn khủng khiếp nếu để da thịt mình cháy lên dưới ánh mặt trời. Tôi mong ngài thu xếp chuyện này, ngài có thể hài lòng vì những lợi ích đạt được xứng đáng với tiền của bỏ ra, xin hãy chuyển vào ngân hàng Thụy Sĩ để tôi có thể nhận bất cứ lúc nào khi ngài không có mặt, ngoài ra ngài có thể thu xếp cho mình một nơi ở tại những thành phố lớn để có thể sống mà không hề phải e sợ điều gì.

Cho phép tôi trở lại đây vào giờ này tuần sau. Nếu lúc đó ngài còn muốn thực hiện những lời đề nghị của tôi và vẫn còn muốn sự trường sinh, thì lúc ấy tôi sẽ trao nó cho ngài với giá thỏa thuận."

Tôi muốn cất tiếng quở trách gã vì đã tỏ thái độ láo xược như vậy, nhưng gã đã không còn ở trước mặt chúng tôi nữa.

* *

*

Một người đàn ông trung niên thấp lùn khi còn cách xa tôi vài mét, bỗng dưng tôi để tâm linh của mình tìm hiểu suy nghĩ của người đàn ông. Người này là một công nhân nước ngoài khao khát một người vợ hiền và đàn con ngoan mà tôi thấy được trong tâm tưởng của gã.

Một công nhân nước ngoài ư ? Tôi không biết cái từ ấy – công nhân nước ngoài – và không hiểu chính xác là nó nói lên điều gì.

Người này là người Thổ Nhĩ Kỳ. Điều đó khiến tôi cảm thấy bối rối khi tình cờ có được thông tin trong đầu người này. Người Thổ đã không còn chiếm đóng nước Áo gần bốn trăm năm kể từ khi họ vây hãm thành Vienna và đám người Ba Lan ngu dốt đến đánh bại họ ngay tại bản địa trong một thời gian ngắn. Rồi sau đó, người Đức đã sử dụng người Do Thái và người Sla-vơ như nô lệ cho tới khi họ chết vì kiệt sức. Lẽ nào người Thổ trở lại nước Áo ? Tôi bước tới gần và những ý tưởng của cái thứ dưới lốt người này càng rõ ràng hơn.

Người này mù chữ và cực dốt. Cả cuộc đời người này gắn chặt với một ngôi làng nhỏ ở đâu đó trên dãy Anatolian (thuộc Thổ Nhĩ Kỳ) – cho tới lúc phát hiện vợ mình lại có mang. Người đàn ông hoặc phải tìm việc mưu sinh hoặc sẽ phải đối mặt tình trạng chết đói của mọi người trong nhà. Thế là ông ta bay sang Vienna để kiếm sống.

Bay ư ? Còn nữa, kích cỡ của cái gọi là máy bay mà người này dùng để đến đây ? Không thể tin được !

Tôi không biết có nên tin vào ký ức của người đàn ông này hay không. Nếu như người Đức thực sự thắng trận như đã từng trước đây tức khi nước Pháp bại trận vào thời điểm mà tôi cùng Würther trốn khỏi Vienna, thì mới có khả năng Thổ Nhĩ Kỳ là nước khách hàng và công dân nước này được dùng như loại lao động nhập khẩu. Mặc cho những thắc mắc khác nhau, nhưng tôi chỉ biết người đàn ông này không phải là kẻ ác. Người này cần phải sống, phải có thu nhập để gởi về nuôi quá nhiều miệng ăn ở quê nhà.

Người Thổ này không phải là kẻ ác nên không đáng phải chết; nhưng tôi vẫn còn khá yếu và đang cần thức ăn. Tôi nhanh chóng tự dàn xếp tình huống khó xử này. Tôi sẽ dẫn dụ ông ta ngủ sâu và tự do làm điều mình cần. Tôi sẽ không giết ông ta.

* *

*

Ngay sau đó thì tôi quên ngay gã đàn ông mang cái tên Boris. Đêm hôm ấy, khi chúng tôi vui men say của thần Eros (thần Ái tình), Sergei – người muốn trở thành một con ma cà rồng cũng bị lãng quên. Ai mà để ý tới những chuyện huyễn hoặc trong một thời điểm nóng bỏng như thế chứ ? Tôi đã có được Sergei Alexandrovitch. Tôi đã cưỡi lên chú bò đực bizon và bắn như vải đạn. Tôi có thể bắn tới điếu xì gà trên môi một người đứng cách xa mười mét như Annie Oakley đã làm.

Ma cà rồng ư ?

Chuyện đùa. Tôi tin rằng đó chẳng qua là một màn kịch của Boris. Hẳn là Sergei Alexandrovitch muốn đặt tôi vào một tình huống khôi hài trong dịp trao món quà quý giá nhất đời chàng trai cho tôi – cái trong trắng của người đàn ông. Cuối cùng chàng trai thừa nhận đã yêu tôi.

Chia tay Sergei và Odessa sau bốn đêm không thể ngờ được, nhưng lại là điều cần thiết. Quả là ông trời muốn chơi khăm tôi. Tôi vẫn là lãnh chúa Maribor, vẫn phải cai quản lãnh địa và thần dân của mình, thế là tôi phải trở về với trách nhiệm của mình.

Chúng tôi hẹn gặp nhau ở Mayerling vào mùa thu và sẽ ở cùng nhau trọn một tháng. Nói lời chào tạm biệt, ông Hoàng xứ Odessa bật khóc ở sân ga trước mặt mọi người,

Tôi hiểu. Nhưng tôi không thích khóc lóc nơi công cộng, không muốn trở thành mục tiêu của bọn xấu và đám người ngồi lê đôi mách. Tôi biết rằng chuyện chia tay của chúng tôi sẽ thành một tin giật gân, một đề tài bàn tán xôn xao, muốn tránh cũng không thể. Tôi cảm thấy bùi ngùi khi con tàu lăn bánh, bóng chàng trai khuất dần.

Các tuyến đường sắt của Nga thời đó nhiều hơn mong đợi, nhưng con tàu tôi đi chạy dọc theo Biển Đen vào đất Rumani, ở đó tôi sẽ đi xe ngựa theo đúng quy cách hoàng tộc Áo, đúng tiêu chuẩn cho mọi nền văn minh Châu Âu. Trong năm ngày liền, tôi đi từ Odessa đến Galati, qua Bucharest, rồi Belgrade lúc bấy giờ là thủ phủ của Vương quốc Serbia, tới thủ đô Budapest ở Vương quốc Hungary quê hương tôi và cuối cùng đến Vienna nơi tôi xuất hiện với tư cách người đứng đầu vùng đất Maribor.

Hai ngày đầu trong chuyến đi thì tôi đã sụt sùi trong thương cảm. Ba ngày còn lại đã rút ngắn khoảng cách từ Odessa đến Vienna. Tôi đến Praterstern ở Vienna trong bộ dạng mệt mỏi và bẩn thỉu. Và cả chứng bệnh vàng da.

Tôi lả dần khi chiếc xe ngựa chở tôi đến Praterstraße và rồi tới Aspernbrückengasse, băng qua dòng sông Danube. Tôi sốt cao trước khi người hầu kịp cởi bỏ trang phục du lịch khỏi người tôi trong ngôi nhà ở Akademiestraße. Viên quản gia cho mời bác sĩ, tôi bắt người hầu gọi điện cho Sergei rằng tôi khó có thể qua khỏi.

Suốt đêm đó sang ngày hôm sau, toàn thân tôi đổ mồ hôi như tắm, còn tôi thì mê sảng. Tôi lả dần. Cơ hội sống sót thật mong manh.

Sergei Alexandrovitch bước vào phòng, làm tôi có cảm giác như làn gió đêm dịu mát quanh tôi, ngay cả khi tôi vẫn còn trong tình trạng toàn thân hừng hực như lửa đốt. Chàng trai cười và nắm lấy tay tôi.

Tôi có cảm giác thần chết đang cướp đi mạng sống chính mình ngay lúc ấy. Giành giật tôi khỏi công chúng thành Vienna, tước đoạt tuổi xuân hai mươi lăm phơi phới, cả tình yêu tôi dành cho Sergei.

"Tôi là bác sĩ chuyên khoa cuối cùng chữa bệnh này, nhưng cảm phiền ông tránh mặt dùm", tôi nghe Sergei nói mà không nhìn thấy rõ chuyện gì.

"Ngài là bác sĩ, thưa ngài ?" có giọng nói một người lớn tuổi hỏi, và tôi đoán ông ấy là bác sĩ mà viên quản gia của tôi mời đến.

"Phải. Và đã tốt nghiệp tại Luân Đôn. Xin ông rời khỏi nơi đây ngay cho".

"Tại sao tôi không thể xem ngài khám bệnh, thưa ngài ?", đó là giọng nói lải nhải của bác sĩ, người này tỏ ra khá ương ngạnh.

"Không dám, không dám", Sergei đáp, "Ông thấy rồi đấy", chàng trai hạ thấp giọng, ra vẻ bí ẩn, "có nhiều chuyện tôi phải làm chứ không chỉ đơn giản là lý thuyết không đâu. Tôi hứa, nếu đức ngài đây bình phục, tôi sẽ kể lại cho ông nghe những việc tôi đã làm".

"Em tới đây bằng cách nào ?", tôi cầm tay chàng trai hỏi khi chỉ còn lại chàng trai bên giường. "Chẳng phải từ chỗ em đến đây quá xa hay sao ?". Dù còn sốt cao, nhưng tôi vẫn hình dung chặng đường dài 5 ngày đường từ Odessa tới đây.

Đầu ngón tay chàng trai vuốt ve các góc cạnh lởm chởm râu ria trên gương mặt xương xẩu vì bệnh của tôi. "Không đâu, Karli, không xa lắm đâu. Anh chỉ vừa về đến đây hôm qua thôi mà".

"Làm cách nào em tới được đây ?", tôi hỏi, cố lý giải sự hiện diện của chàng trai bằng kiến thức của mình, điều đó là không tưởng, nhưng tôi đã đuối sức nên không thể hiểu được điều ấy.

"Anh có muốn sống để được em yêu không nào ?", chàng trai nhỏ nhẹ hỏi, gần như khom người sát bên tai tôi thì thầm.

"Lúc nào anh cũng muốn vậy , em yêu", tôi đáp. Ít nhất đó là điều tôi hiểu rõ. Tôi hiểu rõ điều đó trong lúc đang hấp hối.

"Karli, thời gian còn lại của anh rất ít. Anh sẽ không thể sống nổi đến ngày mai – nếu như anh từ chối không nghe lời em".

Tôi hoang mang nhìn chàng trai, và chàng trai mỉm cười. "Không ai có thể biết được giờ lâm chung của mình", tôi vừa nói, vừa mỉm cười cố gắng trấn áp nỗi sợ hãi đang trỗi dậy và sắp sửa rơi vào cơn mê sảng.

"Anh có thể ở mãi bên em, anh yêu, nếu như anh trở thành người như em". Đôi môi chàng trai đặt lên mi mắt tôi nụ hôn, cái giá lạnh từ đôi môi lên làn da đang sốt cao. "Anh sẽ cùng em sống cuộc sống vĩnh cửu chứ ?".

"Sao lại vĩnh cữu, Sergei Alexandrovitch ?", tôi cố cười nhưng thay vào đó là cơn ho rũ rượi. Tôi e rằng sẽ tuôn cả ruột gan ra ngoài trước khi cơn ho chấm dứt.

"Cách đây một tuần anh đã từ chối. Nhưng bây giờ, ở ranh giới sự sống và cái chết, anh có đồng ý không ?"

"Anh không hiểu", tôi nhìn chàng trai, cố động não nhưng bộ óc tôi giống như nòi ngựa hoang từ chối yên cương.

"Em không phải là người, Karli ạ. Đó là lý do tại sao mà em có mặt ở Vienna chỉ sau một ngay từ khi anh về đến nhà – thực ra em chỉ mất vài giờ sau khi nhận điện từ người hầu của anh". Chàng trai mở cúc áo sơ mi, để hở bộ ngực trần. "Hãy làm như em, nếu không ngày mai sẽ muộn mất. Tùy sự lựa chọn của anh, Karli ạ. Anh chỉ còn một lựa chọn duy nhất".

Chàng trai dùng móng tay rạch một đường trên bộ ngực nhẳn nhụi của mình, nhìn thấu tận xương. Tôi kinh hoàng mắt trừng trừng nhìn trong lúc đang sốt cao. Phần thịt bên trong trắng bệt, cái màu thịt tươi của một con cá vừa mang lên từ dòng suối; không thấy máu chảy từ vết thương.

* *

*

Gã đàn ông người Thổ mê mệt, gã yếu hơn tôi dự tính ban đầu, nhưng vẫn còn sống. Tôi đứng dậy sau bữa ăn và sử dụng trực giác. Tôi cảm nhận mọi sự sống khắp cả vùng đồi núi này, thậm chí còn xa hơn thế nữa. Tôi cảm nhận được nhịp đập trái tim của người đứng cách xa tôi hàng ki lô mét và nghe được những âm thanh nhỏ xíu trong suy nghĩ của họ khi họ tiếp xúc với những người khác. Cái hương vị máu người của gã đàn ông còn đọng lại trên môi tôi, cái hương vị của một ly rượu nhẹ giúp cho một người đang lả người vì khát được sảng khoái.

Đau quá. Nỗi đau từ hàng cây số chạm vào tâm thức của tôi. Cái đau của một quả đấm thụi vào quai hàm. Người vô tội bị ngờ oan; sự hiểu lầm dẫn đến trận đòn trừng phạt thật đê tiện và dã man. Tôi tập trung tư tưởng đến nơi xảy ra sự việc.

Kẻ ác đây rồi. Tim tôi reo lên sung sướng. Một gã đàn ông say rượu, to con và lông lá như khỉ, đang cười khùng khục khi lom khom trên thân thể một người đàn bà yếu đuối – vợ gã. Mặt mũi người đàn bà bị đánh đập tàn nhẫn, những vết thâm tím nơi mắt nơi cằm, trong lúc người này đã ngất lịm. Mọi việc rõ ràng trong tầm mắt của tôi khi tôi đang ở trên những vòm cây gần đó.

Một con thú đang hả hê. Tôi có cảm giác đói. Các tế bào quỷ quái trong người tôi có thể được thỏa mãn. Phải.

Tôi tìm kiếm trong tư tưởng của gã đàn ông vũ phu kia và chuyển ý chí mình vào trong đầu gã.

Gã có một cơ thể cục súc như gã nghĩ. Gã vẫn giữ chặt nắm đấm khi tôi xuất hiện từ sau lưng gã. Còn người đàn bà nằm bất động phía trước gã, trước chúng tôi. Thật hoàn hảo. Không cần phải có chỗ nấp. Cũng không có nhân chứng. Tôi có thể đường hoàng mà chén thịt gã.

Tôi bước tới từ đằng sau, dùng cả hai tay chộp vào xương đầu gã vặn mạnh đánh rắc, cái đầu lặt lìa nơi cổ. Tôi cắm hàm răng sắc vào cổ gã cho tới lúc gã co rúm và sụm xuống, tôi phải dùng tay giữ chặt để gã khỏi ngã.

Mắt gã đờ ra trong khi tôi thèm khát nuốt ừng ực dòng máu nóng từ người gã phụt ra nơi cổ. Tim gã còn đập, đập mạnh để cố sống sót. Da tôi từ từ đổi màu. Thân thể tôi ấm dần bằng hơi ấm của gã, tôi cố nhồi nhét tất cả vào người cho tới khi gã chết hẳn, trái tim đã ngừng đập.

Tôi đứng đó, hơi loạng choạng như say rượu. Cảm giác sức mạnh tràn vào từng tế bào thật mạnh mẽ làm tôi cảm thấy chếnh choáng.

* *

*

Là ma cà rồng, Sergei và tôi thường đi thật xa. Người này nhớ hình bóng người kia trong tâm tưởng. Cứ mỗi tuần hai lần chúng tôi không đi săn mồi mà gặp nhau tại một làng nhỏ vắng vẻ ở Serbia và Rumania. Chúng tôi dành một tháng trong năm để gần gũi, sống bên nhau.

Tuy nhiên, nếu là con người thì hoàng thân quốc thích cũng phải già nua theo năm tháng, chúng tôi dự kiến cho cái chết của chính mình. Chúng tôi hoạch định việc nhận những anh em họ hàng xa nhưng những người này không hề có thực để sau này sử dụng tên tuổi họ để tiếp tục cuộc sống của mình mà không ai dị nghị. Dĩ nhiên, những anh em họ ấy không chỉ thực hiện mọi nghĩa vụ mà còn được mọi quyền lợi thừa kế từ chúng tôi. Chúng tôi cũng chuyển các tài sản của mình vào ngân hàng Thụy Sĩ để bảo quản, vì tình trạng vô chính phủ hoặc cách mạng thường là mối đe dọa xã hội chúng tôi đang sống.

Cái chết đầu tiên được xếp đặt trước của tôi diễn ra vào năm 1890. Tôi chọn mùa đông, thời điểm mặt trời yếu nhất trong năm không đủ sức thiêu cháy tôi. Khi cỗ quan tài rỗng được chuyển từ Viennna, tôi trong vai người thừa kế, tiễn đưa vị hoàng tử nước Áo đến nhà mồ, nơi được xem là nơi yên nghỉ cuối cùng của cả gia tộc trong hàng thế kỷ. Sergei đứng bên tôi khi cỗ quan tài tiến sâu vào hầm mộ đá. Đêm hôm ấy, chúng tôi cùng nhau ân ái trên giường.

Trong vai trò người thừa kế, tôi trở thành Josef đối với thần dân của mình và tất cả những ai biết tôi, trừ Sergei Alexandrovitch. Tôi vẫn là Karli của chàng trai.

* *

*

Chỉ bằng một cú nhào lộn trong không trung, tôi đã đến nơi mình cần. Tôi mở cánh cửa một tiệm tạp hóa. Trần truồng và tóc dài chấm mông, vâng sau nhiều năm ngủ yên, tóc tai dài hơn tôi mong đợi. Tôi đã chọn cửa vào ở một hẻm nhỏ phía sau cửa hiệu này hơn là ra vào đường hoàng ở hai cánh cửa to phía trước. Tôi cần có quần áo, không để người khác chú ý.

Tôi tìm thấy áo lót, quần lót không khác bao nhiêu so với thời điểm tôi và Würther trốn chạy bọn SS. Nhưng có nhiều loại quần áo khác mà tôi chưa hề thấy qua – áo thun ngắn tay và quần đùi. Tuy còn nghi ngờ, nhưng tôi cũng chọn mỗi thứ vài cái để thử khi trở về hang đá an toàn.

Cửa tiệm còn có cả những chiếc quần dài có sọc hai bên không khác gì với thứ tôi đã từng mua trước kia vừa vặn với số đo lưng 80 xăng ti mét của tôi. Sau đó, tôi lấy thêm vớ và sơ mi khổ rộng. Cái túi giấy đựng hàng đã chất đầy khi tôi bước ra con hẻm và không quên khóa cửa lại như trước. Tôi thu người lại thành một con sói, dùng răng cắn túi xách chạy về nơi trú ẩn của mình.

* *

*

Mùa đông năm 1905, Sergei trở lại Petrograd để bày tỏ sự thần phục trước Sa hoàng Nicholas đệ nhị, lúc này tuyết phủ khắp châu Âu. Dù không ưa xu nịnh như Sa hoàng Nicholas, nhưng tôi hiểu Sergei thích dự tiệc tùng, thích được người khác chiêm ngưỡng người "dưới một người trên vạn người" khi Sa hoàng Nicholas chúc phúc bằng nước sông Neva. Chúng tôi thỏa thuận không hẹn hò nhau trong nhiều tuần trong khoảng thời gian chàng trai vào chầu hoàng đế của mình, nhưng chúng tôi vẫn liên lạc với nhau bằng trực giác, bằng mối tương thông tâm linh hàng đêm.

Tôi tỉnh giấc trong tấm chăn dầy, tim tôi bỗng thắt lại phập phồng lo sợ, mặt trời mùa đông đã lên cao. Những tia nắng chan hòa khắp phòng và đang phủ kín người tôi. Ánh sáng ban ngày !

Tôi nép mình lại. Hoảng hốt, tôi kéo chăn lên trùm kín mít lăn tròn ra xa, chỉ để tí xíu ánh sáng chạm vào ngón tay, không lo lắng nhiều vì bị đau nhưng đó là kinh nghiệm sống còn của tôi.

Tôi cảm thấy sức nóng, hơi khó chịu một chút. Nhưng không đau lắm. Sau đó thì tôi cười khúc khích một mình vì nỗi sợ hãi vừa trải qua, ngay cả khi ánh nắng bắt đầu lui dần khỏi gian phòng. Tôi nhớ lại lần mạo hiểm đầu tiên của mình khi đi ra ngoài nắng 15 năm về trước, ngay tại buổi tang lễ của chính mình. Cười mãi cho tới lúc tôi chợt nghĩ đến một điều.

Cái gì đã đánh thức tôi dậy ? Một sinh vật như tôi phải bị liệt giường và hôn mê nếu như ở dưới ánh nắng mặt trời hàng giờ. Điều ấy chỉ xảy ra bởi một tác động mạnh mẽ của ý chí mới có thể buộc tôi trở lại tình trạng ý thức và đi ra khỏi vùng đầy nắng. Cái gì đã khiến tôi tỉnh táo trở lại ?

Đó là ngày duy nhất mà tôi hiểu ra có cái gì đó đánh thức tôi. Sau đó thì tôi gần như quên bẳng.

Sergei Alexandrovitch không trả lời trong khi tôi đang tìm kiếm. Miên man một lúc thì tôi chạm phải những ý nghĩ của những con người ở Petrograd.

Không thể tưởng tượng được ! Chúa ơi ! Không ai có thể ngờ được điều mà đàn ông, đàn bà ở đó nghe và thấy.

Cách mạng ! Tôi đọc được niềm hân hoan vui sướng trong suy nghĩ một số người, đang dâng cao trong họ. Một số khác thì sợ hãi và chán nản. Quân đội nã súng vào công nhân tay không tấc sắt. Kỵ binh gươm tuốt trần chém giết cả quý tộc lẫn tư sản – bất kỳ ai trung thành với hoàng đế. Một cuộc tàn sát đẫm máu. Có người bị chém đầu trong cơn say chém giết. Người Nga săn đuổi, chém giết dân tộc mình. Sự việc kéo dài khoảng một ngày và hạn chế trong phạm vi Petrograd. Cách mạng còn tiếp tục chờ đợi cho tới khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc, khi mà nước Nga đói khát và suy kiệt.

Tôi đã biết điều gì xảy ra cho Sergei. Tôi không muốn tin. Suốt đêm đó tôi không muốn tin điều ấy cho dù đó là sự thật. Tôi cố để tâm linh liên lạc với chàng trai. Nhưng tôi cũng thừa hiểu kết quả như thế nào. Tờ nhật báo sáng hôm sau chỉ đưa tin vắn tắt về cái chết của Sergei; phải đến hai tuần sau tôi mới được thông tin chính thức. Đó là lúc lá thư từ người hầu của Sergei được trao tận tay tôi.

* *

*

Một trong những ưu tiên kể từ khi thức dậy chính là gặp thế giới con người. Sức mạnh thể chất và ý chí hoàn toàn hồi phục. Tôi có cả trang phục để có thể đi lại không bị phát hiện. Bây giờ, tôi cần những tin tức về thế giới mà tôi đang sống trong đó, để điều chỉnh hành vi cũng như những suy nghĩ phù hợp với thực tế cuộc sống. Nhưng, trước hết, tôi phải giải phóng chính mình thoát khỏi cái bờm vàng óng như bờm ngựa dài có hàng mét trên đầu mình.

Tôi tìm thấy chiếc kéo trong một ngôi nhà dưới thung lũng và cố bỏ qua không để ý tới đèn điện và những tiện nghi khác mà tôi mới phát hiện trong một căn nhà tầm thường như vậy. Tôi lấy một chiếc cặp trẻ con mà tôi dự định sẽ đi bộ đường dài dưới hình hài của một người bình dân. Tôi là vị khách không mời mà tới và vì thế tôi đành phải lẻn vào nhà khi mọi người đi vắng.

Nhu cầu của tôi quả thực rất lớn, lớn hơn cả những đòi hỏi thiết yếu của một con ma cà rồng. Năng lực siêu nhiên sẽ giúp tôi thu hẹp những hạn chế của mình. Tôi để lại một si- linh vàng coi như khoản tiền đền bù cho những món mà tôi lấy cắp.

Ở bên suối, tôi cắt tóc chỉ chừa đến cổ, tắm rửa thay quần áo, và đi bộ vào một ngôi làng gần đó. Bây giờ tôi mới thấm thía những giới hạn của một con ma cà rồng như tôi. Nếu mặc quần áo, tôi không thể biến hình; tôi bị lệ thuộc vào sự di chuyển chậm chạp của loài người. Tôi cười một mình. Tối nay tôi sẽ kiếm ăn. Tôi cần phải có thông tin nhiều hơn ở những chỗ tôi đánh chén.

Tôi bước vào một cửa hiệu bán báo, cũng theo cách đi cửa sau tốt hơn là đường hoàng ở cửa trước trên đường lớn.

Hầu hết những tờ báo địa phương đề cập nông nghiệp và những điều kiện thời tiết ở địa phương mình. May mắn thay, cũng có trang sự kiện trong nước và quốc tế. Lúc đầu, tôi đơn giản chỉ liếc sơ qua các tựa đề rải rác khắp trang trong số báo gần nhất. Nhưng có những bài viết và kèm theo ảnh chụp vệ tinh về dự báo thời tiết làm tôi chú ý. Tôi nghĩ cần phải xem ngày tháng phát hành.

Năm 2004.

Thật kỳ quái !

Không thể như thế được !

Tôi đã được 157 tuổi rồi ư ?

Tôi ngấu nghiến đọc nhanh những tin tức trong nước và quốc tế. Đơn vị quân đội cuối cùng của Nga đã rời khỏi Cộng hòa Dân chủ Đức cách nay 10 năm, kết thúc 49 năm chiếm đóng. Nước Đức bây giờ là Cộng hòa Liên bang Đức, một nước dân chủ. Mỹ và Nga đã đón mừng những phi hành gia Nhật trên trạm không gian. Công cuộc khôi phục nền cộng hòa tự trị ở Liên bang Xô viết. Nhật – Mỹ đe dọa lẫn nhau trong cuộc chiến tranh thương mại. Việc thành lập Liên minh Châu Âu EU và các chính sách kinh tế – tài chính của EU, kết nạp các nước có mức phát triển chậm ở Đông Nam châu Âu.

Chinh phục không gian. Một nước Đức dân chủ. Chủ nghĩa bô-sê-vich tàn lụi. Nước nga chia tách thành các nước cộng hòa độc lập. Một Châu Âu tự do không thuộc Đức cũng không lệ thuộc nước Nga, nhưng lại là một châu Âu thống nhất. Đó là mơ ước không thể tưởng của những người đang sống và là cơn ác mộng của Hitler nay đã trở thành sự thật.

Tôi đã ngủ gần sáu mươi năm dài, hơn nửa thế kỷ ! Và thế giới thay đổi hoàn toàn so với những điều mà tôi được biết trước đây.

Tôi đau lòng vì Sergei. Tôi càng đau lòng khi hoàng đế Franz Josef cuối cùng cũng băng hà và hoàng đế Charles buộc phải thoái vị sau hai năm trị vì. Nước Áo trở thành một nước cộng hòa, vươn lên từ 800 năm của một nền quân chủ chuyên chế. Tôi vừa có nghĩa vụ theo pháp luật phong kiến và vừa phải tuân theo pháp luật cộng hòa, thật nực cười cho một người sinh ra và lớn lên trong sự chuyển tiếp giữa các chế độ khác nhau. Tôi phải có trách nhiệm chăm lo cho những người làm việc trên đất đai của mình vốn trước kia là thần dân của tôi, phải tìm cách lấy lại những tài sản bị tước đoạt ở nước Áo trước chiến tranh. Dưới nền cộng hòa tôi chỉ là một hoàng tử hữu danh vô thực, nhưng tôi vẫn còn sở hữu một vùng rộng lớn đất đai ở miền đông nam. Dù vậy tôi vẫn thương nhớ Sergei.

30 năm sau khi mất chàng trai, tôi chẳng muốn sắp xếp thêm một tang lễ nào khác cho mình. Tôi trở nên hốc hác vì đau khổ. Nửa phần trong tôi vốn là ma quỷ nên tôi cần tự nuôi sống mình; nhưng tôi vẫn phải có trách nhiệm với cuộc sống bản thân, ngay cả những nghĩa vụ với người khác nay đã trở thành một phần trong cuộc đời tôi. Hàng tuần tôi phải uống máu bò. Sau đó, xác bò được cho những người trông nom tài sản của tôi để bổ sung vào những bữa ăn đạm bạc của họ.

Tiếng thì thầm của Sergei khuấy động tiềm thức của tôi. Tôi sợ mình đã bị chứng tâm thần. Nhưng những lời thì thầm ấy cứ đeo đẳng bên tôi ngày này sang ngày khác – không rõ ràng và yếu ớt. Nhưng không thể phủ nhận đó không phải là tiếng nói của Sergei.

Tôi lắng nghe, cố dùng các tri giác đặc biệt của loài ma quỷ để hiểu chàng trai. Để biết được nơi chàng trai đang ở và tôi có thể tìm kiếm. Trong khi những điều ấy trở nên vô vọng, thì tôi vẫn tiếp tục sống, vẫn tiếp tục cười cười nói nói. Và trông trẻ hơn trước, ở cái tuổi hai mươi lăm như đã từng trước kia.

Tôi sắp đặt một cái chết nữa, một tang lễ mới. Lại phải chỉ định một người họ hàng xa thừa kế. Cái mẹo này thực hiện dễ dàng hơn ở lần thứ hai. Và tôi lại tiếp tục nghe những tiếng thì thào của Sergei Alexandrovitch, để rồi lang thang khắp đất Áo, cốt để tìm chàng trai.

Nước Áo. Bọn tội phạm nhởn nhơ trong làng, ngoài phố. Tình trạng suy thoái kinh tế đã cho chúng cơ hội kiếm ăn – người nghèo sẽ sẵn sàng thừa nhận mình là bất cứ thứ gì, kể cả là một thằng đần nếu như việc đó hứa hẹn sẽ có thức ăn trong giỏ của họ. Chỉ có Dollfuß, một tên găng-xtơ – nhưng lại là người Áo – vẫn là con đại bàng béo míp ở bầu trời phương bắc từ những việc làm bất lương.

Tôi nộp thuế và bảo những người làm việc cho mình tránh xa các đảng phái chính trị. Họ có miếng ăn, có chỗ che mưa che nắng. Bọn tay sai của Dollfuß ở địa phương được trả tiền bảo kê để tôi và người của tôi được yên. Nhưng tôi vẫn có thể thấy đâu đó bóng dáng những tên Quốc xã mới trên lãnh đĩa của mình và ngay ở Vienna. Tôi, dưới vai trò của một người mới thành đạt, được chọn thừa kế tài sản tại ngân hàng Thuỵ Sĩ đều được thừa nhận hợp pháp ở tòa án cộng hòa.

Linh hồn Sergei Alexandrovitch vẫn thủ thỉ với tôi bằng những ý nghĩ rời rạc. Tôi cho rằng mình sẽ điên mất.

Vào mùa hè năm 1935, tôi tìm thấy người yêu cũ.

Người ấy không phải là Sergei Alexandrovitch Romanov. Nhưng chính là Sergei, không thể nhầm lẫn vào đâu được.

Ở ngay chính căn nhà của tôi.

Vị linh mục trong làng kêu gọi tấm lòng từ thiện nơi tôi, tự xưng là cha phó một nhà thờ trong làng. May thay, họ đến vào lúc tối, lúc này tôi đã có ruộng đất, điền sản nên tôi sẵn sàng tiếp đãi họ. Tiếng thì thầm trong đầu ngưng bặt khi người linh mục trẻ bước vào tiền sảnh. Dường như linh hồn Sergei đã nhận ra chính mình trong kiếp của vị linh mục.

Trong phòng tranh, tôi nghe tiếng thì thầm chấm dứt và sau đó là tiếng thổn thức. Tâm linh tôi cũng tiếp cận với sự nhận biết ấy. Tôi đờ người chiêm ngưỡng hình dáng người mình yêu mến một lần nữa trở lại và cảm thấy tức giận quở trách bọn người hầu sao không dẫn vị linh mục đến gặp tôi sớm hơn.

Vị linh mục già bước vào gian phòng vào cúi rạp chào vì ông nhận biết địa vị của tôi ở chốn trần tục này. Tôi khẽ nghiêng đầu chào đáp, vì cũng nhận biết địa vị của ông trong đời sống tinh thần của giáo dân. Với chúng tôi, đây chỉ là trò chơi cũ mèm, bốn mươi năm qua, vị linh mục đã tận tụy phục vụ thần dân của tôi và luôn cả tôi nếu tính luôn cái lớp vỏ hiện tại. Đó là người tôi phải đùa một chút ngay cả khi tôi đang đợi gặp mặt để xem Sergei của tôi trở thành người như thế nào mà có thể ngăn trở tôi bằng bề ngoài một vị linh mục.

Vị linh mục già là người Đức cao ráo, tóc nâu quăn. Người này không phải là Sergei Alexandrovitch. Nhưng...

Tôi cảm nhận được người tôi yêu bên trong người con trai đang cúi chào.

Ngay khi nhìn nhau, mắt chúng tôi tìm gặp nhau, những cửa sổ tâm hồn rộng mở, chỉ ngay lúc ấy, ánh mắt dẫn dắt chúng tôi vào tâm hồn của nhau. Giống như một khoảnh khắc ngừng trôi, chúng tôi sững sờ. Vâng, chúng tôi đã nhận ra nhau. Tôi cảm giác như trái tim ngừng đập và nỗi đau khổ chia lìa sau bao nhiêu năm ập về khiến tôi bủn rủn. Vị linh mục rủ xuống và chết ngất.

"Cha Würther !", vị cha xứ vừa gọi to vừa bổ nhào đến người thanh niên đang ngất. Vị cha xứ cầm tay chàng trai vừa lay lay nhẹ vừa gọi tên chàng trai.

Tôi bảo người hầu mang nước, khăn vải và muối ngửi và cùng vị cha xứ chăm sóc Cha Würther. Lúc này tôi hiểu rằng cái chết không phải là một đêm dài vô tận vì người yêu tôi cuối cùng cũng trở lại với tôi.

* *

*

Tôi buộc phải rời hang và bất cứ thứ gì còn lại của thân xác Würther đều nằm ở ngôi mộ đá gần 65 năm qua. Lúc này, tôi có y phục hợp thời và biết rõ mình đang ở thời đại nào. Tôi mạnh mẽ trở lại và kiểm soát mọi tri giác của mình. Tôi còn tin rằng Würther hẳn đã được tái sinh trong một kiếp người mới nữa để chúng tôi có thể gặp lại nhau.

Tôi tắm rửa ở dòng suối dưới thung lũng, thay quần áo và để đồ đạc và vàng trong chiếc cặp học trò, rồi thả bộ dọc theo đường đất về hướng tây dưới ánh trăng đêm huyền hoặc. Chừng nào an toàn, tôi sẽ quay lại để cho Würther có thể yên nghĩ vĩnh hằng dưới lòng đất.

Tôi bắt đầu cuộc hành trình đến Zürich, nơi cất giữ tài sản của tôi từ thế kỷ vừa qua. Tôi sẽ tìm một thương nhân buôn bán quý kim hoặc đồ cổ ở đó. Ba túi tiền vàng, những đồng tiền kỷ niệm lễ đăng quang của hoàng đế Franz Josef. Cho dù chẳng còn lại tài sản gì khác của ngài Maribor, thì tôi vẫn cứ giàu có.

HẾT PHẦN 1

—————-

(1) SS : là từ viết tắt để chỉ lực lượng cảnh vệ, là một tổ chức bán quân sự, là bộ phận chủ yếu cấu thành của Đảng Quốc xã. Lực lượng SS được đặt dưới quyền chỉ huy của Heinrich Himmler từ năm 1929 cho tới lúc giải thể vào năm 1945 bằng sự đại bại của nước Đức trong chiến tranh thế giới lần thứ hai. Bọn Quốc xã coi SS như là một lực lượng cận vệ của Đảng, với các nhân viên SS được tuyển chọn theo nền tảng chủng tộc và ý thức hệ tư tưởng thuần chủng. Lực lượng SS được phân biệt với quân đội Đức, Đảng Quốc xã và nhà nước Đức bằng hệ thống chức vụ, huy hiệu riêng và trang phục của lực lượng này. Lực lượng SS đóng vai trò chủ yếu trong hoạt động hủy diệt hàng loạt : tàn sát hơn một triệu người, hầu hết là người do thái trong các cuộc bắn giết hàng loạt; chính người đứng đầu lực lượng SS là Heinrich Himmler là người khởi xướng cái gọi là giải pháp sau cùng và những đơn vị SS đã vây bắt người do thái đưa vào các trại tập trung hoặc các trại hủy diệt mà ở đó hàng triệu người Do thái, người Ba Lan và người Ý bị sát hại. Các đơn vị chiến đấu SS, được gọi là Waffen-SS phát triển thành một hình thức quân đội Đức thứ hai ngoài tổ chức quân đội thông thường. Những đơn vị chuyên biệt của lực lượng SS mà sau này được xem là tội ác chiến tranh và tội ác chống lại nhân loại là Reichssicherheitshauptamt (RSHA, Reich Security Head), Sicherhaitsdienst (SD, Security Service), Einsatzgruppen (Special Mission Groups), các trại tập trung được biết đến dưới cái tên SS-Totenkopfverbände (SS-TV, Death's Head Formations) , và cơ quan mật vụ Gestapo (Secret State Police). – Nguồn :

PHẦN 2

ND : Đây là một truyện dài nhiều tập viết về thế giới của bóng tối, thế giới của những sức mạnh siêu nhiên từng ngự trị ở châu Âu từ lâu và kéo dài tận thế kỷ 21, thế giới của loài ma cà rồng (vampires) mà trong đó, nếu loại bỏ một số yếu tố tưởng tượng và những đoạn mô tả về đời sống của ma cà rồng, có lẽ chúng ta sẽ nhận ra tính nhân văn sâu sắc. Truyện có đề cập đến vấn đề đồng tính nhưng chỉ thoảng qua, mà đi sâu khai thác các khía cạnh lịch sử đầy kịch tính. Nhân vật chính xuất thân từ hoàng tộc mang dòng máu lai Áo – Hung đã trở thành ma cà rồng... Nguyên tác là tiếng Anh, nhưng nhiều chỗ pha trộn ngôn ngữ khác như Pháp, Đức cùng với những bối cảnh có liên quan đến lịch sử xa xưa của các quốc gia châu Âu, hoàn toàn xa lạ với người dịch. Với kiến thức giới hạn, và chỉ với mục đích giải trí nên Vũ Quốc tạm dùng những cụm từ thay thế hợp lý để diễn đạt ý tưởng, rất mong độc giả lượng thứ. Cũng cần nói rõ, nội dung truyện chỉ là sản phẩm tưởng tượng, mọi chi tiết về con người, địa danh, sự kiện đều không có thật và nếu có trùng hợp với ngoài đời cũng chỉ là sự ngẫu nhiên.

"Xin lỗi, ông là Tiến sĩ Bönner ?", tôi lên tiếng khi đứng tại cửa ra vào một văn phòng nhỏ, chỉ thấy lưng một người đàn ông đầu hói, to con đang ngồi phía trước. Tôi dập gót và trịnh trọng cúi đầu chào khi người này quay sang nhìn tôi.

Tôi cần người đàn ông này. Ông ta sẽ là chìa khóa đưa tôi vào thế kỷ thứ hai mươi mốt. Dù vậy, tôi vẫn giữ một khoảng cách đúng mực theo quan hệ địa vị xã hội cần phải có.

Cặp mắt người đàn ông nhướng lên sau tròng kính dày cộp, nhìn tôi với vẻ tò mò. Tuy không sử dụng trực giác, nhưng tôi có thể nhận biết bộ não bên trong đầu ông ta đang vận động để đánh giá con người và những nhu cầu của tôi.

Người này bước tới mỉm cười với tôi nhưng vẫn không thiếu vẻ nhã nhặn, "Thưa ngài, tôi vẫn chưa đạt học vị tiến sĩ", người đàn ông nói, "còn mất thêm hai năm nữa...". Người này nhún vai rồi tiếp tục nhìn tôi dò xét.

Tôi ngạc nhiên vì một thế giới mà ở đó những người vào độ tuổi trung niên vẫn còn cố tìm cách đạt đến những điều họ mong muốn. Không chỉ thế, cách đây hơn một tháng, tôi còn lấy làm lạ không hiểu bằng cách nào mà một người có thể lái một cái được gọi là "xe hơi" chạy ào ào trên xa lộ của một châu Âu hiện đại.

"Tôi có thể giúp được gì cho ngài, thưa ngài, tiện thể xin hỏi tôi nên gọi ngài như thế nào ?", người đàn ông hỏi.

"Karl von Maribor," tôi khẽ nghiêng người đáp.

Khi tôi nói tên, người đàn ông đờ ra vì ngạc nhiên nhưng vẫn cố che giấu phản ứng của mình. Tôi muốn đọc ý tưởng của người này để hiểu cái tên của tôi có ý nghĩa gì với ông ta hay không, nhưng người này tỏ ra cảnh giác trước mặt tôi.

"Tôi định tìm một chuyên gia máy tính", tôi tươi cười nói, "một tay phù phép trong lĩnh vực này. Và tình cờ được biết ông là người nổi tiếng nhất Thụy Sĩ ?".

"Nhất Thụy Sĩ ư ?", người này cười khùng khục, muốn chứng tỏ rằng mình không tự đề cao bản thân, không đáng được người khác tôn trọng. "Cũng hơi khó nói, thưa ngài. Có lẽ là ở đây, ngay trường đại học này...thì đúng hơn". Ông ta lại nhún vai.

Tôi được nghe kể rằng Bönner là một tay "hacker" cừ khôi nhất ở Zürich. Tôi vẫn chưa hiểu từ "hacker" nói lên điều gì. Nhưng tôi đoán từ ấy vừa có nghĩa xấu lại vừa có ý nghĩa tán dương, chuyện đó còn tùy thuộc vào từ ấy đươc áp dụng với người nào, với mục đích gì; nhưng chắc chắn nó đề cập tới một người thông thạo về máy tính có thể thâm nhập vào hệ thống máy tính vốn đã được kiểm soát chặt chẽ. Từ việc quan sát Bönner khi người này vẫn đang dò xét tôi, thì tôi có thể khẳng định rằng ông ta cũng có nguồn tài chính vững chắc cũng như nghề nghiệp của mình.

"Có chuyện gì đặc biệt khiến ông tới đây tìm tôi ?", người đàn ông hỏi.

"Có lẽ mình bàn kỹ sau khi dùng một vài ly rượu vang hoặc bia được không ?". Tôi đề nghị và liếc nhìn qua khung cửa sổ nhỏ xíu trong cái không gian vuông vức như cái hộp này. Mặt trời cuối cùng đã tắt, chỉ còn vài tia sáng yếu ớt le lói tận chân trời. Tôi cảm nhận được bên trong đầu ông là hình ảnh đang cầm vại bia Münchener trong tay, chúc mừng sự hợp tác giữa chúng tôi.

"Và tiện thể ăn tối, ông thấy có nên chăng ?", người đàn ông liếc nhìn đồng hồ trên tay.

Tôi gật đầu.

"Tôi chỉ biết mỗi một chỗ", người đàn ông vừa nói vừa mỉm cười.

Người đàn ông đứng dậy với tay khóa công tắc sau cánh cửa. Người này vốn dĩ đã to lớn mà căn phòng lại bé xíu nên bây giờ gian phòng dường như quá chật hẹp cho cả hai người chúng tôi.

Người đàn ông dẫn tôi ra khỏi tòa nhà Khoa máy tính của trường đại học, tôi nhận thấy người đàn ông tỏ ra thích tôi và hơi run. Ở thời đại tôi, những người như gã này thường ra vẻ khó chịu giả vờ không thích nhau. Bönner tỏ ra đau khổ khi kể cho tôi biết về ông. Người này không phải là người đầu tiên làm như thế kể từ khi tôi tỉnh giấc ngủ dài tới giờ, nhưng quả thật ông ta chẳng có chút gì hấp dẫn cả.

Không thể tin được ! Vâng, thực khó tin.

Tôi thầm nhắc nhở bản thân rằng mình cần ông ấy. Từ sinh viên cho tới giáo sư đều như thế, tôi đã nghe nói rằng ông Marcus Bönner này là người của trường đại học có khả năng thực hiện được điều mà tôi cần.

Bönner mỉm cười đặt ly bia xuống bàn. Người đàn ông liếc nhìn gã hầu bàn đang rót bia trong lúc không ngớt miệng nói, "Tôi vừa nghe nói có người muốn tìm một người thông thạo vi tính. Một câu chuyện thật hoang đường".

Tôi cũng hy vọng đó là chuyện hoang đường ! Cái ý nghĩ một con quỷ già 160 tuổi đối với gã quả là chuyện nực cười.

"Tôi cần ông giúp thực hiện vài việc".

Bönner tỏ ra thoải mái hơn, cái gương mặt nông dân nung núc thịt nhúc nhích khi người này ngồi đối diện với tôi. "Tôi có thể bắt đầu từ đâu, thưa hoàng tử Fürst von Maribor, ông muốn tạo cơ sở dữ liệu mới hay xóa chúng. Những thứ ấy tôi đều làm được cả, nhưng cái nào trước đây".

Tôi giật mình vì ngạc nhiên. Người đàn ông này bằng cách nào đó đã lần ra dấu vết của tôi mà tôi không hề biết – trước cả lúc tôi tìm tòi ý nghĩ trong đầu ông ta. Ông ta biết cả tước hiệu của tôi hơn 60 năm về trước.

"Tại sao lại tôn kính tôi dường ấy ?", tôi hỏi trong lúc cố giữ bình tĩnh.

"Tôi muốn hiểu rõ về người mà tôi đang giao dịch".

Từ ghế ngồi của mình, người đàn ông chồm sát tới trước mặt tôi. "Khi ngài được phong tước vào năm 1935, lúc ấy có lẽ ngài khoảng 20 tuổi", người đàn ông cười khẩy, "Phải công nhận rằng ngài đã giữ nguyên dáng vẻ tuổi tác ấy thật tài tình, thưa hoàng tử. Nhìn vào tôi đây này, tôi không nghĩ rằng ngài lớn hơn...", người đàn ông mỉm cười nói tiếp, "hoặc có lẽ, bằng tuổi tôi cũng nên".

Tôi ngồi im như khúc gỗ ở bàn ăn và tự hỏi không biết tìm chỗ nào để giết quách gã này đi cho rảnh mắt. Đối với một người bình thường, những hiểu biết như của gã chính là bản án của thần chết. "Làm cách nào ông có được những thông tin ấy ?", tôi lạnh lùng hỏi, không còn giả vờ kiểu cách như trước nữa.

Người đàn ông cười đáp. "Một bức tranh mờ nhạt mà tôi có được về ngài xuất phát từ những nhân vật mà ngài quan tâm, từ cách phát âm của người Áo, và những tư liệu cũ từ Vienna, những ảnh chụp trên những tờ báo trước thế chiến. Nhân tiện xin hỏi, người ta không đối xử công bằng với ngài hay sao ?".

"Khi đã biết chuyện này, ông vẫn còn muốn giúp tôi đấy chứ ?", tôi nghi ngại hỏi.

Có thể sinh mạng gã này chỉ kéo dài tối đa cho đến khi gã cung cấp cho tôi mọi thông tin tôi cần để xem xét và cân nhắc trong thế giới hiện đại. Ước gì tôi có thể biết được thời gian ấy là bao lâu.

Bönner cười nói tiếp "Với một cái giá, thưa hoàng tử. Một cái giá khá đắt – nhưng thế giới tôi đang sống sẽ là thế giới của ngài và ngài có thể đi bất kỳ nơi nào tùy thích".

"Bao nhiêu ?", tôi dựa ngửa vào thành ghế và trầm giọng hỏi.

"Một triệu phrăng Thụy Sĩ". Người đàn ông đan tay vào nhau, cặp môi vễnh ra.

"Với giá đó ngài sẽ trở thành lớp thừa kế thứ hai tại ngân hàng Thụy Sĩ", ông ta nói tiếp, "là người anh em họ thứ tư của vị hoàng tử cuối cùng – Fürst von Maribor, ngài sẽ là một người đã tốt nghiệp ở trường đại học này, là đứa trẻ còn sống sót duy nhất của người thừa kế sau cùng theo sự chọn lựa của hoàng tử Fürst von Maribor. Mọi thông tin sẽ được ghi nhận chính xác tại Born và Vienna", người đàn ông nhún vai, "dĩ nhiên là sẽ cung cấp cho ngài một hộ chiếu nước Áo hẳn hoi".

"Những một triệu phrăng ư ?". Đó là một số tiền lớn nhưng cũng chỉ là một khoản chi không đáng kể so với số tài sản tôi có được, một khi tôi có thể lấy lại được từ ngân hàng. "Như thế đã hết chưa ?".

"Còn một điều nữa, thưa hoàng tử. Tôi muốn có những bí quyết về thuật trường sinh của ngài truyền lại cho tôi".

Tôi vẫn giữ nét mặt thản nhiên, nhưng giá mà có thể, thì tôi đã nhảy cởn lên vì sung sướng. Marcus Bönner không đi đến kết luận phi lô gic hoặc thiếu khoa học rằng tôi là một con ma cà rồng, ngay cả gã nếu biết được sự thật chắc cũng nhảy dựng... mà bỏ chạy vì những điều gã đòi hỏi ở một người như tôi.

Tôi gật đầu, "Khi đã trở thành triệu phú ông sẽ có mọi thứ mình muốn".

"Nhưng tôi lại muốn có thời gian sống để hưởng thụ".

"Tất nhiên là như thế ! Thôi được, thỏa thuận của chúng ta là một triệu francs và bí quyết trường sinh".

Người đàn ông lại cười, "Phần tiền phải được trả trước một nửa trước khi tôi bắt đầu công việc, phần còn lại sẽ thanh toán ngay sau khi mọi cơ sở dữ liệu được đặt vào đúng chỗ của nó, thưa hoàng tử".

"Tôi phải xem trước sản phẩm quá trình lao động của ngài rồi mới trả tiền, ông Bönner", tôi cau mày đáp, khi nhớ ra rằng chỉ khi mọi việc đâu vào đó thì tôi mới có toàn quyền xử lý tài khoản của mình, mới thanh toán được cho người đàn ông này.

"Dù sao trong trường hợp này, thưa hoàng tử, tôi sẽ chấp nhận việc thanh toán từng phần sau khi dữ liệu được nạp vào ngân hàng ở Thụy Sĩ".

Tôi liếc nhìn gã – người biết rõ rằng tôi chẳng thể mó tay vào tài khoản của mình cho tới khi gã nạp dữ liệu hoàn tất.

"Ngài giao dịch với ngân hàng nào ?", người đàn ông hỏi.

"Hauptmann – nhưng sao ông lại hỏi thế ?"

Người đàn ông xòe hai bàn tay ra làm cử chỉ phân bua, "Tôi là người viết chương trình bảo mật cho họ, thưa hoàng tử. Sau giờ trưa ngày mai, ngài có thể sử dụng tài khoản của mình rồi".

"Nếu họ đòi chứng minh thư thì sao ?", tôi càu nhàu.

"Họ sẽ không làm thế sau giờ trưa ngày mai. Họ sẽ hoàn toàn hài lòng khi biết ngài là ai khi ngài tự giới thiệu".

"Cảm ơn", tôi vừa nói, vừa nhìn đôi tay trong lòng mình.

"Tôi muốn có thứ gì đó bảo đảm rõ ràng rằng không có sự hiểu nhầm nào ở đây", người đàn ông nói và nhìn ra ngoài đường, "Ngài có bí quyết trường sinh, nhưng liệu rằng bí quyết ngài giao cho tôi có ảnh hưởng gì đến sức khỏe của tôi không, chỉ e rằng tôi không có phước được được sống để hưởng".

Tôi ngẩng lên nhìn người đàn ông, cái nhìn lạnh lẽo và tiếng nói rít qua kẽ răng, "Tôi là một nhà quý tộc", tôi gầm lên, "bằng vào danh dự của mình, tôi thề rằng sẽ không làm hại ông".

"Tôi chấp nhận lời thề của ngài, thưa ngài Fürst von Maribor", Marcus Bönner nói nhanh. "Nhưng tôi sẽ cảm thấy an toàn hơn nếu tôi cài vào những dữ liệu này một loại virus hàng ngày yêu cầu nhập mã khóa, việc này sẽ được duy trì trong vòng 6 tháng tính từ hôm nay để bảo đảm rằng lời hứa của ngài phải được thực hiện".

"Tại sao lại là 6 tháng ?", cố nén giận và đơn giản chỉ vì tò mò, tôi hỏi.

"Ngài là người thông minh", người đàn ông mỉm cười, "trong khoảng thời gian sáu tháng kể từ bây giờ, ngài sẽ thấy rằng tôi sẽ không tống tiền hoặc vạch tội ngài. Nỗi lo sợ không kéo dài ở một con người thông minh. Ngài sẽ cao bay xa chạy, còn tôi sẽ được an toàn".

Có ai đó đẩy vai tôi khi cố tìm lối đi qua.

Tôi thấy Bönner khó chịu ra mặt. Bên cạnh chúng tôi, mà thực ra là ở sau lưng Bönner, tôi thấy một thằng bé tóc vàng đang vẹt đường đi qua đám người ngồi trong quán. Cậu bé mặc quần tây kaki và sơ mi trắng dài tay. Tôi thoáng thấy chiếc băng đeo trên tay – băng đen có dấu thập màu vàng. Thằng bé tới giữa quán cà phê ven đường thì có bốn cậu con trai nữa từ các hướng khác đến nhập bọn trong quán.

"Thằng nhỏ trông thật bệnh hoạn !", tôi nói.

"Vâng, một đứa trong băng Ami – trẻ đường phố, đứa nào cũng thế", Bönner rít lên, mắt vẫn không rời mấy đứa nhỏ đang nhập bọn với nhau. "Chúng đến từ NGÀY MAI !"

"NGÀY MAI là chỗ nào !?", tôi quay lại hỏi người đàn ông.

"Một nhóm theo Thiên chúa giáo người Mỹ gồm các thằng bé trai mười, mười mấy tuổi", người đàn ông giải thích, "Bọn này tụ tập ở đây và tự coi là chủ nhân của chúng ta", người đàn ông cười ngất. "Chúng kêu gọi những người tin vào Thiên Chúa – ngay cả những người đứng bên ngoài nhà thờ, cố cứu rỗi nhân loại".

Tôi nhướng mày tỏ vẻ không tin.

"Chúng làm chuyến ấy đấy. Và nếu như chúng ta không nói chuyện với chúng bằng tiếng Anh thì chúng sẽ nổi điên lên".

Tôi bật cười.

Thằng bé đẩy tôi lúc nãy và mấy đứa kia đứng theo vị trí đỉnh sao năm cánh, mặt hướng ra ngoài. Chúng bắt đầu dậm chân tại chỗ và hát

"Mặt trời trên thảo nguyên vàng tươi, ấm áp", thằng bé tóc vàng hát bằng tiếng Anh, tay đặt nơi trái tim. Tôi cố hiểu lời nó hát.

"Bầy nai trên đồng cỏ tung tăng tự do.
Hãy đến cùng chúng tôi, làm nên bão dông, hỡi người anh em"

Cả bốn đứa còn lại hợp xướng với thằng bé tóc vàng khi tới điệp khúc. Tuy nhiên, sự tham gia của bốn đứa kia làm cho từ ngữ thêm khó hiểu.

"Ngày mới thuộc về chúng ta !"
"Cho dẫu lá trên rừng úa tàn mỗi dạo thu về,
Và sương mù giăng mắc mặt biển mùa đông,
Thì vẫn còn chốn đón chờ đón vinh quang :
"Ngày mới thuộc về chúng ta !"

Một người có vẻ là người hậu thuẫn cất tiếng hát theo, rồi một người khác đứng gần đó cũng hát theo bọn trẻ. Người nào cũng nắm chắc nắm tay đặt trước ngực.

"Hãy đến với chúng con, Thiên Chúa ở trên trời, cho chúng con nhận ra Người
Cho tuổi thanh xuân chúng con không hề tàn phai.
Một sáng thức dậy, khi toàn thế giới là của ta
Và ngày mới thuộc về chúng ta !"

Tôi đã không nói tiếng Anh hàng trăm năm và cũng khó có thể hiểu hết lời nhạc. Nhưng tôi nhận ra ý tứ đằng sau lời hát – "Ngày mai thuộc về tôi". Lời hát này tôi đã nghe hầu như mỗi ngày khi tôi chuyển đến sống tại Vienna sau khi nước Đức nằm trong sự thống trị của Hitler. Tôi đã nhận ra bài hát ca ngợi Đoàn thanh niên Hitler trong những ngày chết chóc ấy.

Tôi liếc nhìn Bönner, mắt tôi trợn tròn. "Điên hết rồi !", tôi khẽ nói.

"Chúng điên thật rồi", Bönner cười nhạt, "Tôi quên là cái nhà hàng này thu hút bọn Ami. Cái bọn NGÀY MAI ấy tụ tập ở đây mỗi khi có một nhóm mới được chuyển đến các đơn vị quân đội Mỹ đang chiếm đóng ở châu Âu".

"Nhưng đó là bài hát của bọn Quốc xã...!", tôi nhìn thấy vẻ mặt hân hoan sung sướng của 5 đứa trẻ khi dậm chân nhịp nhàng theo bài hành khúc mà kết quả là có đến phân nửa số người có mặt hưởng ứng bài hát của chúng.

"Không chính xác như thế", Bönner nói, "nhưng cùng một giọng điệu cả, bọn người ấy đã soạn lại lời nhạc".

"Tôi không tin một quốc gia từng đánh bại Hitler giờ lại rơi vào vết xe đổ", tôi cảm thấy tức giận.

"Mấy ngày nay, bọn Ami đang nổi điên. Liên minh Châu Âu đã buộc Mỹ phải gấp rút di dời các căn cứ quân sự ở đó".

Tôi quay sang nhìn người đàn ông nói, "Thật là quá đáng !"

"Ngay cả nước Anh cũng thế", người đàn ông tặc lưỡi rồi đứng dậy "Chỉ mới cách đây một tháng ... "Ngài mai chúng tôi sẽ trở lại", toàn là thứ rác rưởi, thưa ngài", ông nói tiếp, "ngài nên theo dõi báo chí thường xuyên thì hơn".

"Tôi cũng mới biết chút ít thời gian gần đây thôi", tôi chống chế.

"Tôi có mở lớp dạy vào giờ này. Cứ đến theo học tại văn phòng của tôi trong khoảng 1700 tiết". Người đàn ông mỉm cười rồi nói "Hẹn gặp ngài tối mai".

Tôi nhìn theo người đàn ông ra về, sau đó tôi thanh toán tiền và rời quán, đi ngược chiều với người đàn ông đó. Trên đường về nhà tôi không thôi suy nghĩ về người ông ta.

Đầu tháng mười, tôi đến Zürich, thủ đô của mọi ngân hàng trên thế giới, 65 năm sau khi Hitler mở màn cuộc chiến tranh đẫm máu thì thế giới đã thay đổi rất nhiều. Tôi vẫn còn đang học những diễn biến của quá trình thay đổi ấy.

Zürich không phải là những ngân hàng lớn nhất, hoặc giàu có nhất thế giới. Tuy nhiên nó vẫn cứ là chỗ có nền chính trị ổn định và hệ thống pháp luật về tiền tệ cởi mở. Những chuyện như vậy đã được thực hiện hàng trăm năm qua đến giờ.

Nhà băng có quyền hạn độc lập, không lệ thuộc vào chính quyền. Khi lần đầu tiên mở tài khoản tại ngân hàng Hauptmann vào năm 1875, ngay cả chính quyền Thụy Sĩ lúc ấy cũng không được phép can thiệp vào các hoạt động giao dịch và các tài khoản do người nước ngoài nắm giữ. Một trăm hai mươi chín năm sau, chuyện ấy đã thay đổi, chỉ những tài khoản không liên quan đến hoạt động tội phạm mới được mở. Nhà cầm quyền đã chứng minh một số vụ án gây hậu quả nghiêm trọng như đã từng xảy ra trong các vụ xét xử tại Tòa án nước Anh.

Hauptmann vẫn còn giữ nguồn quỹ tiền tệ của tôi. Tôi vẫn sử dụng cùng tài khoản như trước kia. Tuy nhiên, tôi cần phải có sự xác nhận để đòi lại hơn ba trăm triệu phrăng Thụy Sĩ còn nằm ở đó.

Tôi thuê một nhà trọ bình dân ở khu phố sinh viên, nằm ven đường giữa Bolleystrasse và Huttenstrasse, cách trường đại học Zürich chưa đến một cây số. Tôi xuất hiện dưới dáng vẻ trẻ trung giống hệt như những người hàng xóm của mình. Trà trộn trong giới sinh viên, tôi cảm thấy an toàn hơn. Có quá nhiều điều tôi không hiểu về thế giới này nên chẳng có gì đáng để khoe khoang. Tôi cũng cần có chứng minh thư. Tôi cần phải học cách sống trong một thế giới mà tôi đang hiện hữu.

Tôi hài lòng với căn hộ nhỏ phải đi bộ lên tận lầu năm. Nó cho tôi sự riêng tư, cho dù tôi biết rõ rằng cánh thanh niên không khoái gì việc cuốc bộ từ tầng trệt lên căn hộ tôi ở. Căn hộ còn có một ban công mà đứng ở đó tôi có thể quan sát thấy một ngôi nhà thờ xinh đẹp cổ kính, nó gợi nhớ một quá khứ đơn giản và cho phép tôi ngắm nhìn một hiện tại rối rắm. Còn một điểm nữa là tôi có thể dùng tâm linh để kiểm soát trường đại học gần đó.

Trường đại học. Một trung tâm tích lũy và cung cấp kiến thức, xét theo cả hai khía cạnh dạy và học. Và kiến thức đó chính là điều tôi cần rất nhiều. Tôi hy vọng sẽ có được kiến thức ở Marcus Bönner.

Đi nhờ xe xuống miền nam nước Áo, tôi học để lấy bằng lái xe du lịch, cơ quan an ninh Bismarck bây giờ sẵn sàng cung cấp mọi thứ cho các cư dân ở các nước Đông Âu, một hệ thống máy tính duy trì và lưu giữ một lượng cực lớn các thông tin về người dân và du khách trong khu vực này. Nếu Himmler và tổ chức SS còn tồn tại, hẳn phải hài lòng với những thông tin ấy.

Tôi hiểu mình cần có sự chứng nhận để thuận tiện sinh hoạt mà không còn bị nghi ngờ trong thế giới này. Nhưng tôi chưa học được cách tạo ra các thông tin như vậy về bản thân mình để có thể sử dụng đồng tiền của mình và sống thoải mái.

Tôi hiểu rõ nhu cầu ấy; chỉ đơn giản là tôi không biết làm cách nào để thỏa mãn nhu cầu và che giấu con người thật của mình. Tuy nhiên, sẽ có ai đó ở trường đại học có thể làm được những chuyện như vậy. Sống trong căn hộ khá an toàn, tôi vạch kế hoạch tìm người đó, người có thể mở ra một thế giới ở thế kỷ 21 cho tôi. Tôi sẵn sàng trên chuyến xe thám hiểm trí tuệ nhân loại – nhưng theo những điều kiện do tôi đặt ra, tài xế cũng phải do tôi chỉ định.

Bây giờ, tôi đã có tài xế theo sự lựa chọn của mình, nhưng không thấy vui vẻ cho lắm.

* *

*

Về tới nhà thì tôi đã sôi máu lên. Marcus Bönner càn dỡ đã xúc phạm danh dự của tôi. Tôi sẽ giết gã. Tôi sẽ ngắt đầu gã như ngắt đầu con dế.

Còn biết bao nhiêu tay hacker khác. Tôi không cần gã. Ở Áo, Đức, Pháp – tôi có thể chọn những tài xế khác. Những người ngoan ngoãn dễ bảo.

Tôi giận, nhưng không điên. Thằng cha Bönner này đã phát hiện lai lịch của tôi. Gã đã hoặc theo tôi nghĩ gã đã biết tôi là ai. Gã sẽ lần ra dấu vết vào những năm 30; lúc ấy gã có thể biết được tôi lớn tuổi hơn con số tám mươi nhiều lắm. Chí ít, thì gã cũng tóm được tôi.

Với tôi, hiện tại không giấy tờ xác nhận, tôi nghi ngờ gã có thể làm nhiều chuyện tồi tệ hơn với tôi. Và, không giấy tờ tùy thân, tôi không thể đi đâu được – không thể tới Pháp, Đức, hoặc Áo để tìm một tay hacker khác. Tôi bị kẹt cứng với gã Bönner này.

Kẹt với gã, đúng vậy. Nhưng, hoàn toàn không thiếu cảnh giác trước gã. Tôi vẫn là một con ma cà rồng. Tôi không chỉ có khả năng đọc thấu những ý nghĩ mà còn có thể điều khiển ý chí của người khác. Tôi cũng có thể làm mất trí nhớ một người, nếu còn ở cõi trần tục, đó là những việc đơn giản. Tôi có thể khiến một người nổi lòng tham và thèm khát nhục dục; và vì thế cũng có thể khiến cho người này trở nên tính khí thất thường và hay sợ hãi. Tôi mỉm cười.

Marcus Bönner hết sức ngạc nhiên.

Gã sẽ có một triệu phrăng, tất nhiên là như thế. Đó mới là vấn đề. Gã sẽ sống huy hoàng trong nhiều năm liền. Điều gã đáp ứng cho tôi xứng đáng với cái giá như thế. Tôi chưa từng quá tham lam hay keo kiệt. Một con người mới phù hợp với dáng vẻ người ở cái tuổi hai mươi lăm xứng đáng với bất kỳ giá nào.

Tôi mỉm cười và tìm kiếm trong suy nghĩ của gã. Nếu gã ở nhà một mình, tôi sẽ cho gã một sự ngạc nhiên đến khó tin.

Tôi xụ mặt xuống ngay lập tức, vì tôi chẳng liên hệ gì được với bộ não của gã, ngoài những tiếng thì thầm văng vẳng, đây là lần đầu tiên tôi gặp trường hợp này.

Suy nghĩ của Sergei ! Đúng rồi, giống hệt như trước lúc mình tìm thấy Sergei trong hiện thân của Würther. Những âm thanh lào xào, nhưng mang đậm dấu ấn của cậu ấy.

Sergei đã trở lại, đang gọi mình tìm gặp cậu ấy.

Tôi rũ xuống chiếc ghế tựa gần đó.

Lần này, tôi nhất định phải bảo vệ cậu ấy cẩn thận, không để cậu ấy vuột mất. Sẽ có nhiều ngày chủ nhật không uống máu người nữa, không còn mộng mị lúc nửa đêm. Và cậu ấy sẽ trở lại hình hài một con ma cà rồng như tôi, chúng tôi sẽ bên nhau thoát khỏi cái thế giới con người tồi tệ này.

Tôi coi đó là một món quà. Từ lâu tôi đã cô đơn vì thiếu vắng Sergei, làm cho đời tôi càng sầu thảm.

Nhưng giờ này cậu ấy đang ở đâu ?

Vào năm 1935, lần cuối khi tôi nghe được tiếng thì thầm của Sergei, thì hiện thân của cậu ấy trong một bán kính 20 cây số, tại một nhà thờ địa phương. Còn một năm trước đó, khi lần đầu tiên nghe tiếng thì thầm này, ắt hẳn cậu ấy còn cách xa tôi hơn trăm cây số vì tiếng thì thầm hầu như không thể nhận ra được điều gì.

Lần này giọng cậu ấy không mờ nhạt, nghe rõ ràng hơn. Đó là tiếng gọi to tới chỗ tôi từ sự giao cảm. Giống như lời nói rõ ràng mạch lạc khi Würther còn là cha phó nhà thờ và tôi đang ở điền trang của mình. Tôi đoán rằng Sergei đang ở gần đây. Có thể cách nơi tôi ngồi khoảng hai mươi cây số trong buổi tối mùa thu năm 2004.

Tôi run lên khi nhận ra điều đó. Zürich là một thành phố có hơn một triệu dân, còn các khu ngoại vi phải có đến thêm hơn một triệu nữa. Hơn nữa, thành phố này có hơn 60 ngàn sinh viên đại học và cao đẳng, những người này đang sống ở các khu vực phụ cận, ngay những "ông bố" "bà mẹ" – những người cầm quyền chóp bu ở thành phố Zürich cũng không thể đếm xuể số cư dân và số người nộp thuế. Tôi biết tìm cậu ấy ở đâu ? Có gì để giúp tôi nhận ra trong khi tôi đã giam mình trong gần 60 năm qua ?

Cậu ấy là sinh viên ư ? Chỉ như thế mới có thể giải thích tại sao âm vang tiếng gọi của cậu ấy lại rõ ràng như vậy. Tiếng gọi dường như giống như tiếng ơi ới của gã hàng thịt mập ú cách đây hai dãy phố, nếu thế thì đến những hai trăm ký lô thịt đè lên mình tôi, Chúa ơi ! Tất cả những điều tôi biết được chỉ có thế, nhưng nếu tôi gặp cậu ấy hoặc cậu ấy gặp tôi, thì chúng tôi sẽ nhận ra nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên.

Đó chính là cách mà tôi nhận ra khi Cha Würther bước vào nhà tôi ở gần biên giới Nam Tư, lúc ấy tôi vẫn còn một căn nhà. Nhưng bây giờ, làm thế nào mà tôi có thể gặp đủ mọi người trong bán kính 20 cây số ? Hai triệu dân, đâu phải là con số nhỏ ? Ngay cả khi bỏ đi phân nửa dân số là phụ nữ và giả sử Sergei trở lại với hình dáng đàn ông, thì vẫn còn một triệu người đàn ông và con trai mà tôi phải tiếp chuyện, gặp mặt từng người một, cũng không phải là cách khả thi !

Không thể nào ! Chuyện đó là hoàn toàn không thể.

Tôi cố loại khỏi đầu những tiếng thì thầm. Bây giờ tôi sẽ tìm cậu ấy mà tôi biết rằng cậu ấy đang ở đâu đây, nhưng không biết phải bắt đầu từ đâu hoặc làm cái nào trước cái nào sau. Đặc biệt là thằng cha hacker phải lưu ý tìm hiểu suy nghĩ của gã, nếu không thì tôi chỉ là thằng học trò luôn là cái đuôi của gã không hơn không kém.

Và chuyện khẩn cấp trong lúc này là tôi đang đói.

Tôi vẫn chưa có gì trong bụng. Chỉ nội ý nghĩ kiếm ăn làm cho tôi rỏ dãi ngay lập tức cứ như tôi là con chó trong phòng thí nghiệm của giáo sư Pavlov. Bây giờ thì tôi không còn dám nghĩ gì khác, vì thú tính trong người tôi buộc tôi phải nhồi nhét vào bụng. Tôi mở cửa sổ và biến thành con dơi, bay vút trong đêm dài lạnh lẽo.

Tôi không phải săn mồi ở xa.

Công viên Platt trải rộng tới bờ sông Sihl và được ngăn lại trước khi vùng đất ấy trở thành tám dãy nhà trọ cho sinh viên ở trong thành phố Zürich. Ngay cả bây giờ là mùa thu thì nó vẫn còn là chỗ nương náu cho cánh trẻ tìm hoa của châu Âu.

Những chàng trai trẻ hành nghề mại dâm dọc theo các lối đi trong công viên, một số khác thì hít heroin vào cơ thể để rồi chết gục trên thảm hoa Anh túc. Chuyện ấy đã có rồi, trong một thời gian ngắn sống ở đây, tôi được biết có tới 5 trường hợp tử vong vì sử dụng heroin quá liều. Những người đàn ông trẻ, trong đó có một người khá đẹp trai, trở thành những kẻ thân tàn ma dại nằm ở đâu đó trong thành phố Zürich trong bần cùng, đói lạnh và không ai đoái hoài.

Tôi đáp xuống trên một bụi cây trường sinh. Thân thể tôi dài ra, to hơn và mạnh mẽ hơn trong lốt chó sói. Tối nay, tôi rất đói và phải nạp cho đủ để có thể tự kiểm soát bản thân khi đi gặp Bönner vào ngày mai. Sẽ có thêm một tử thi khác trong công viên khi mặt trời soi sáng trên bầu trời Zürich.

Tôi chạy lông nhông trên các lối đi trong công viên, cảm thấy sảng khoái vì không khí ẩm ướt và lạnh lẽo bên ngoài bộ lông. Một mùi thơm xộc vào mũi tôi. Mùi thơm nồng món salsas (1) hòa lẫn hương vị ngọt ngào của món kuchen (2). Những mùi thơm này nhắc tôi nhớ đến Viennna mà tôi đã từng sống ở đó và từng ăn những thứ "thức ăn chết" (3) thiếu dinh dưỡng – đủ loại mùi vị hấp dẫn, chào mời khách đến thưởng thức.

Có một chàng thanh niên đang co gối quỳ trước mặt tôi, đưa tay vuốt ve bộ lông của tôi. Tôi đánh hơi trong lòng bàn tay anh ta, rồi le lưỡi liếm. Chàng trai mỉm cười, đưa tay kia vuốt dọc trên lưng tôi. Tôi dí mũi vào trong áo khoác để hít hơi da thịt anh chàng. Suy nghĩ chàng trai lúc này cho tôi biết anh ta là một sinh viên của trường đại học, đang kiếm tiền tiêu cho tuần tới bằng cách bán thân. Chàng thanh niên rất đẹp trai, cao ráo, dáng người mềm mại, uyển chuyển, chính là mẫu đàn ông tôi ưa thích.

Mái tóc dài màu nâu sáng ánh vàng, gương mặt xương với trán và lưỡng quyền cao, nước da sáng, có thể thấy lờ mờ dưới ánh điện công viên.

Chiếc mũi tôi hít hít nơi đũng quần chàng trai, nơi đang tỏa hơi nóng ấm áp. Người thanh niên cười hinh hích và vuốt ngược lông sau hai tai tôi. Không có mùi heroin trong người chàng trai, còn suy nghĩ chàng trai thì tôi đã thấy rõ trong lúc chàng trai ngó cái đuôi ve vẫy của tôi, một tín hiệu của sự hiểu biết thông cảm.

Tôi lại mò vào suy tưởng của chàng trai.

Chàng thanh niên vừa mua cho cô bạn gái một chiếc vòng đeo tay, bây giờ anh chàng mong mình sẽ dè dặt chi tiêu món tiền còn lại của mình. Cô bạn gái ấy luôn xứng đáng với mỗi đồng phrăng của mình; chỉ tiếc là còn quá ít tiền chỉ dùng được trong một vài ngày. Chàng trai đã chẳng quan tâm tới khoản thu nhập của mình và bây giờ tới lượt nó – khoản thu nhập ấy – đang xiết chặt chàng trai đến ngạt thở. Không còn cách xoay xở, chàng trai mất tự chủ nên tìm đến công viên và thế đấy, cũng là một cách mà tiền bạc điều khiển con người.

Chàng thanh niên chẳng cảm thấy vui vẻ gì ở công viên. Cô bạn gái đã thỏa mãn những nhu cầu tình dục của chàng trai, bên cạnh cô ta chàng trai rất vui, và sống với cô ta vẫn không nguy hiểm bằng việc phiêu lưu với những gã săn trai ở chốn này.

Ký ức về chiếc lưỡi lần quanh khấc quy đầu, đôi môi mọng miết dọc theo chiều dài dương vật anh chàng. Làm cho cuộc ái ân thêm hấp dẫn. Chiếc mũi lại dí vào âm hộ, hơi thở ngắn đứt quãng làm những sợi lông rung rinh. Những thứ đó lôi kéo chàng trai ngay cả lúc chàng trai cố cưỡng lại sự cám dỗ, khiến chàng trai không biết tiếc tiền.

Chàng trai mấp mé bên bờ vực hiểm nguy mỗi khi quay trở lại đây. Anh ta không biết phải như thế nào với những người đàn ông khác, theo cách họ làm với mình. Cũng có một chút tò mò; những thứ ấy hiện rõ mồn trong ký ức chàng trai. Vì tiền và một chút hiếu kỳ đã đưa chàng trai tìm đến những gã đàn ông lắm tiền.

Thật ngạc nhiên, tôi nhận ra kế hoạch được vạch ra cẩn thận để săn mồi chẳng dính dáng gì đến nhu cầu tình dục của mình. Dù vậy, khi tìm thấy gã này thì tôi lại thấy háo hức. Phải mất ít phút tôi mới quyết định rằng sẽ bỏ tiền bao gã trai này để thỏa mãn tình dục cho tới khi gặp lại Sergei. Tôi tìm thấy tên và nơi ở chàng trai qua ký ức.

Tôi muốn người thanh niên tên Emil Paulik này. Tôi muốn ân ái với chàng trai. Để thỏa mãn tính hiếu kỳ của chàng trai. Nhưng từ tốn, dịu dàng. Tử tế nữa. Cũng không cần phải làm hại anh ta. Nhưng không phải đêm nay, mà vào lúc khác cơ. Lúc đó chúng tôi sẽ cùng nhau khám phá theo trí tưởng tượng phong phú của chàng trai.

Người thanh niên đứng dậy và tôi cảm giác có một người đàn ông trung niên đến gần. Tôi lảng ra xa để chàng trai thực hiện việc mua bán của mình. Còn tôi cũng đã tìm thấy một hợp đồng giao dịch riêng cho chính mình. Tôi nhe nanh nhìn gã trung niên đầy ác cảm.

Bữa ăn tối của tôi diễn ra trong một ngõ tối trong khu công viên cạnh bờ sông. Người này mặc sơ mi mỏng và quần vải gai, đôi giày há mõm để lộ ngón chân cái. Tóc râu lởm chởm trông rất bẩn. Ý tưởng gã này rời rạc, đang trượt dần vào cõi vô thức khi cái giá lạnh vây phủ quanh người gã.

Gã không nhúc nhích gì khi tôi chạm vào người gã, da thịt gã lạnh buốt như da thịt tôi. Tôi nhận ra gã không thể sống qua đêm nay, ngay cả khi tôi không kết thúc đời gã thì gã cũng vẫn sẽ chết. Tôi trở lại hình dạng con người, trần truồng đứng trước gã đàn ông. Tôi cảm nhận được cái không khí tối mùa thu lạnh lẽo, nhưng với tôi thì chẳng ăn thua gì – tôi có thể băng qua Bắc Băng Dương mà không hề lo sợ bị chết cóng.

Đỡ người đàn ông dậy, tôi đưa người này vào một bụi rậm xa khỏi lối đi rồi đặt gã nằm trên thảm lá cây úa vàng. Đó là thứ tốt nhất tôi có thể làm cho gã trong lúc này.

Tôi kéo trệch quần dài của gã xuống tới đầu gối và bằng cặp mắt siêu phàm của mình trong bóng tối tôi lần ra những dấu kim tí xíu dọc theo mặt trong đùi gã. Tôi cúi đầu sát xuống gần tới bìu dái. Gã đàn ông trước mặt tôi đang ở giai đoạn cuối của thói nghiện ngập, chẳng có gì khác ngoài những tĩnh mạch đầy dấu kim tiêm. Chiếc răng nanh dài ra trước khi cắm sâu trong da thịt gã.

Sau khi trái tim người đàn ông ngừng đập thì tôi cũng đã no nê, tôi kéo quần gã lên và kéo dây kéo, cài nút cẩn thận. Không thể để gã trần truồng sau khi chết, bất kể đời gã có đàng hoàng hay không.

Tiếng thì thầm gọi tôi càng lớn hơn khi tôi bay vào phòng và trở lại dáng người.

"Sergei, em ở đâu ?", tôi dùng tâm linh hỏi, ngay cả khi biết rằng cậu ấy sẽ không thể nhận được, và cũng sẽ không trả lời tôi được. Tiếng thì thầm giống như một thứ tiềm thức ngẫu nhiên của linh hồn cậu ấy, là tiếng vọng những âm thanh hỗn độn – giống như tiếng gù của chim câu và tiếng bi bô của trẻ. Cậu ấy sẽ không hồi tỉnh cho tới khi chúng tôi hội ngộ, đó là lúc cậu ấy nhận ra tôi và tôi cũng sẽ nhận ra Sergei.

Sự nhận biết lẫn nhau sẽ đánh thức linh hồn cậu ấy. Bất kể bây giờ cậu ấy là ai, thì Sergei vẫn còn tồn tại trong người ấy cho tới lúc đó. Có thể sẽ là Sergei, Würther, người này, hay bất kỳ người nào khác mà Sergei đã từng hiện hữu – một sự pha trộn giữa các cá thể.

Tôi không ganh tỵ với cậu ấy vì khả năng chuyển hóa thành các kiếp người khác nhau. Gần một trăm sáu mươi năm ký ức đối với tôi là quá nhiều; tôi có thể hiểu được tình trạng hôn mê bất tỉnh nơi cậu ấy do sự tràn ngập ký ức từ giây phút đầu tiên nhận ra tôi. Chính điều đó làm Würther suýt chết, khiến cậu ấy nằm liệt giường suốt hai ngày liền và gần một năm sau vẫn chưa hết sợ hãi.

Tôi đã đợi Würther bao lâu rồi kể từ khi nghe tiếng thì thầm đầu tiên cho tới lúc cậu ấy bước vào dinh cơ nguy nga của tôi vào chiều tối hôm ấy ? Một năm chăng ? Lâu hơn ư ?

Chúa ơi ! Lần này tôi có phải đợi lâu đến thế hay không ?

Tôi cố xua những suy nghĩ về Sergei ra khỏi đầu. Tôi đóng cửa và mặc quần áo vào để tâm tư có thể suy tưởng vui vẻ về việc nói thế nào để Emil hầu như bất ngờ nhất nhưng có sức thu hút chàng trai. Vài trăm phrăng một tuần không làm nguồn tài chính của tôi bị thâm thủng, nhưng nó sẽ làm cho chàng trai phải đắn đo. Với số tiền ấy, cả hai chúng tôi đều có thể thỏa mãn nhu cầu riêng của mình – Tôi cầm chắc phần thắng, nếu như phải đánh cược với chàng trai.

HẾT PHẦN 2

——————

(1) : Món sốt gia vị Salsas (theo MS Encatar) : là món sốt rau thái nhuyễn có gia vị, gồm có cà chua, hành, và ớt, thường dùng với những lát bánh ngô và những thứ thức ăn Mexico khác

(2) : kuchen, một thứ bánh ngọt – Ho Ngoc Duc's Dictionary –

(3) : Thức ăn chết : Theo nội dung truyện này, thức ăn hợp khẩu vị ma cà rồng là máu tươi, còn những thức ăn của con người lại là những thứ "thức ăn chết", không có tác dụng gì với ma cà rồng.

PHẦN 3

ND : Đây là một truyện dài nhiều tập viết về thế giới của bóng tối, thế giới của những sức mạnh siêu nhiên từng ngự trị ở châu Âu từ lâu và kéo dài tận thế kỷ 21, thế giới của loài ma cà rồng (vampires) mà trong đó, nếu loại bỏ một số yếu tố tưởng tượng và những đoạn mô tả về đời sống của ma cà rồng, có lẽ chúng ta sẽ nhận ra tính nhân văn sâu sắc. Truyện có đề cập đến vấn đề đồng tính nhưng chỉ thoảng qua, mà đi sâu khai thác các khía cạnh lịch sử đầy kịch tính. Nhân vật chính xuất thân từ hoàng tộc mang dòng máu lai Áo – Hung đã trở thành ma cà rồng... Nguyên tác là tiếng Anh, nhưng nhiều chỗ pha trộn ngôn ngữ khác như Pháp, Đức cùng với những bối cảnh có liên quan đến lịch sử xa xưa của các quốc gia châu Âu, hoàn toàn xa lạ với người dịch. Với kiến thức giới hạn, và chỉ với mục đích giải trí nên Vũ Quốc tạm dùng những cụm từ thay thế hợp lý để diễn đạt ý tưởng, rất mong độc giả lượng thứ. Cũng cần nói rõ, nội dung truyện chỉ là sản phẩm tưởng tượng, mọi chi tiết về con người, địa danh, sự kiện đều không có thật và nếu có trùng hợp với ngoài đời cũng chỉ là sự ngẫu nhiên.

Doris Shafly mỉm cười khi bà mở cửa căn phòng trong khách sạn Willard Hotel. "Em mừng vì anh cuối cùng cũng đến đây được, Bob", bà nói khi Giám mục Patterson lách vào phòng khách. Bà đóng cửa và ông vào phòng. Bà cảm thấy ông do dự.

"Gặp lại em quả là tốt biết mấy, Doris," người đàn ông nói, gương mặt sần sùi thoáng nụ cười với bà. Nhưng chẳng có chút ấm áp nào trong nụ cười gượng gạo ấy. "Em có biết mình gặp nhau thế này rất nguy hiểm hay không", người đàn ông nói tiếp, "Sao em cứ khăng khăng đòi gặp anh ở đây ?".

Doris cảm thấy phát bực nhưng hy vọng không ít, đấu tranh với sự ngăn cách bởi quyền lực như cả hai luôn làm như thế mỗi khi bà gần gũi Bob Patterson. Bà cố ép mình tập trung vào nhiệm vụ của mình với Reed Stephens. "Dính tới chuyện lựa chọn Phó Tổng thống, Bob à, và khi em gọi cho anh ở văn phòng thì biết là anh vẫn còn buồn rầu", bà đáp. "Chúng ta cần có những câu trả lời".

"Dạo này Reed thế nào ?", người đàn ông hỏi.

"Chẳng vui vẻ gì. Nó có nhiều thời gian, tự do hơn... để âm thầm tiến hành cuộc cách mạng thông qua vai trò một Thượng nghị sĩ. Nó cảm giác như nó đang ở trong một ngôi nhà kính mà mọi người nhìn vào... không khác gì một con khỉ ở sở thú. Nó sắp sửa thỏa thuận với Nance Gardner là chức phó tổng thống không đáng để chống đối nhau ra mặt nhưng...".

Patterson cau mặt. "Thằng cha Gardner này là ai vậy ?"

Doris nhận thấy giọng của người đàn ông gai góc. "Ổng là phó tổng thống nhưng đã bị ám sát chết rồi, Bob ạ... ông ấy một người trong dòng họ Franklin Roosevelt, tôi hiểu ... ông cũng biết lý lịch của Reed như thế nào rồi."

Patterson rõ ràng bớt căng thẳng. "Reed là con mọt sách... Tôi muốn nó phải sẵn sàng hành động. Chúng ta sẽ có quyền lực... và, khi đạt được điều đó, nó sẽ phải mau chóng thay đổi đất nước này quay lại như trước kia".

Bà đi tới đi lui trong phòng, "Nó đang bảo vệ học vị tiến sĩ ngành lịch sử Hoa Kỳ, ông cũng biết rồi đó", bà nói khi bà ngồi xuống chiếc sofa đặt giữa phòng. Bà vuốt chiếc váy cho thẳng thớm và mỉm cười khi bà quan sát người đàn ông đứng giữa gian phòng. Bob Patterson không giống một người ở tuổi 79; nhất là khi làm tình với bà thì chẳng thấy dấu hiệu già cỗi ở ông chút nào và bà tin rằng họ sẽ bên nhau mãi mãi.

Nụ cười chợt tắt khi và nghĩ người đàn ông này không còn là một người đàn ông trĩu nặng sầu muộn vì cái chết của người vợ cách đây sáu tháng. Lần này bà chỉ tự hỏi rằng bà có thể ràng buộc và giữ được người đàn ông này hay không. Bà cố xua đuổi những ý nghĩ ấy đi. Bây giờ không phải lúc nghĩ đến chuyện ấy. Cuộc cách mạng quan trọng hơn hạnh phúc của bà.

"Reed đang trông chờ cuộc bầu cử Quốc hội 2 năm sắp tới, Bob. Nó nghĩ người ta sẽ cách ly nó với chúng ta, kể cả với đảng của chúng ta. Nó đã gặp một người ủng hộ đảng cộng hòa — và anh cũng thừa biết, đó là một kiểu vận động chính trị ngầm chuẩn bị cho hai năm cuối của nhiệm kỳ tổng thống. Đảng chúng ta sẽ bị đánh bại tan tác vào năm 2008, và đó là một lời mời rộng mở cho đảng dân chủ đưa người của chúng lên nếu có cơ hội", bà thở dài, "Và nó đã không thấy mọi chuyện đang diễn ra cho cuộc cải cách từ vụ mưu sát trước cuộc bầu cử năm ngoái".

"Reed lo lắng, vì vậy bà mới nhắn gặp tôi thông qua Trung tâm công giáo ư ?".

Doris cảm thấy lời nói ấy tỏ ra bực tức. Bà lại thở dài. "Bob à, tôi đã để lại tin nhắn cho ông sau khi hội nghị Atlanta kết thúc... đến giờ đã bốn tháng rồi. Với người khác thì họ đã nhận tin từ lâu. Cứ như là ông chẳng lo gì cho Reed cả — trong lúc ông để tôi lạnh lẽo một mình. Ngoài ra, hội nghị của Trung tâm công giáo bắt đầu xuống dốc hôm nay; cho nên ông có mặt ở đây là tốt nhất".

Patterson mỉm cười với bà, "Bà nói đúng, Doris. Dù sao đi nữa thì tôi đang có mặt ở đây rồi. Trung tâm công giáo là tiếng nói duy nhất của cuộc cách mạng chúng ta. Thông qua đó, chúng ta sẽ tẩy rửa sạch sẽ nước Mỹ".

Đôi môi người đàn ông mím chặt. "Dù sao thì tôi cũng không muốn bà nghĩ rằng tôi bỏ rơi bà", người đàn ông lắc đầu, "Chuyện đó khá là.. là... Chỉ là sự tưởng tượng thôi. Doris. Chúng ta đã có những lúc vui vẻ bên nhau cách đây nhiều năm, mười lăm năm phải không ? Nhưng chuyện ấy chẳng có ý nghĩa gì cả... cứ nhìn qua bao nhiêu chức vụ bà đã nắm giữ trong nội các chính phủ cũng như trong các tổ chức của chúng ta kể từ dạo ấy thì biết. Ngay cả khi tôi khuyên bà làm nhân viên cho Reed vào thời điểm Tổng thống chỉ định nó là Phó tổng thống, thì tôi vẫn không bỏ mặc bà. Bà có thể hiểu tôi làm biết bao nhiêu chuyện cũng chỉ vì công cuộc cách mạng".

"Không đâu, Bob, em không nghĩ thế đâu". Bà một mực lắc đầu, "Chắc chắn như thế. Em chỉ biết bấy nhiêu đó cũng đủ làm cho em mệt mỏi lắm rồi. Đó là tất cả những gì em hiểu rõ hơn hết. Có quá nhiều chuyện đã, đang và sẽ thực hiện, đang là mối đe dọa to lớn đối với em nếu anh hiểu được".

Patterson liếc nhìn đồng hồ. "Đã đến giờ khai mạc phiên họp rồi, Doris", người đàn ông cười cầu hòa, "Dường như không lúc nào tôi có thể rảnh rang trò chuyện với bạn cũ được". Người đàn ông đứng dậy trông cao hơn trước.

"Hãy bảo với Reed rằng mọi việc đang tiến hành theo kế hoạch. Chúng ta đều biết chuyện gì xảy ra nếu có một cuộc bầu cử thật sự vào năm 2006... và chuyện ấy sẽ không xảy ra. Chúng ta sẽ giải quyết nguy cơ ấy trong năm tới. Mỗi nhóm trong tổ chức chúng ta sẵn sàng hoạt động theo nhiệm vụ được giao". Ông cười khoái trá và đi tới trước mặt bà. "Bảo Reed bắt đầu theo dõi báo chí là vừa thay vì dúi mũi vào mấy cuốn sử dày cộp, khô khan... từ đây về sau sẽ có một số tin tức có thật diễn ra hàng ngày".

"Ông đang nói gì vậy, Bob ?".

"Tôi đang nói rằng năm 2006 sẽ chẳng có cuộc bầu cử Quốc hội nào cả, Doris. Reed sẽ vào Nhà trắng và chúng ta sẽ xoay chuyển đất nước này trước cả cuộc bầu cử. Nhớ bảo nó như thế !" Người đàn ông nhìn ra cửa. "Bây giờ tôi phải đi rồi. Có gì tôi sẽ liên lạc với bà, Doris. Ít nhất mỗi tháng một lần. Bằng cách đó, bà có thể giúp Reed trèo cao hơn". Người đàn ông bước tới cửa và mở ra.

Bà nhìn người đàn ông đi ra hành lang. Ông ta chẳng hề quay lại nhìn.

Thở dài, bà đứng dậy ra ngoài đóng cửa, nhưng vẫn tựa cửa nhìn theo . "Bob Patterson, tôi biết ông là một thằng phỉnh phờ, bội bạc", bà gục đầu lên cánh cửa lạnh toát. "nhưng tôi vẫn hết mực yêu ông, đồ khốn !".

* *

*

Emil Paulik đang rời khỏi lớp học quản lý kinh tế vĩ mô khi tôi tìm chàng trai vào chiều hôm sau tại tòa nhà Khoa Thương mại của trường đại học. Tôi không biết chắc chàng trai đang học những gì, nhưng chàng trai trông thật đáng yêu khi từ lớp học bước ra hành lang.

"Chào cậu, Paulik", tôi chào chàng trai ngay khi Paulik vừa bước ra cửa và bước đi. Chàng trai dừng lại quay sang nhìn tôi, trên gương mặt không tỏ vẻ gì ngạc nhiên hay nghi ngờ.

"Gì ạ ?" Chàng trai đến sát bên tôi trong lúc đám sinh viên chen lấn tuôn ra hành lang.

Tôi mỉm cười và hy vọng gây được cảm tình nơi chàng trai, "Tôi muốn nói chuyện với cậu tối nay, nếu cậu không bận".

Suy nghĩ của chàng trai về cô bạn gái mà hai người đã thuê chung căn hộ và điều cần phải làm. Chàng trai cũng ngạc nhiên không biết tôi có đáng để gặp gỡ hay không và không biết bằng cách nào mà tôi biết được cậu ấy. Lúc chàng trai đến gần hơn, tôi cảm nhận được chàng trai đang đánh giá sự hiện diện của tôi để hình dung ra mối quan hệ buông thả mà trong đó chàng trai buộc phải giữ mình và làm những chuyện ấy với tôi, ngay cả khi trước đây chàng trai chưa từng làm thế bao giờ.

Tôi ra giá : "Nếu đến với tôi, cậu sẽ có một khoản thu nhập vài trăm phrăng một tuần", tôi cố nín cười để không làm chàng trai hoảng sợ, khi nhận ra trong đầu chàng trai đang tính toán.

"Lúc nào ?", chàng trai hỏi, những suy nghĩ về người bạn gái không còn nữa trong đầu anh chàng này.

"Lúc 11 giờ – tại công viên. Cậu đến được hay không ?"

Guơng mặt chàng trai nhợt nhạt.

"Ở tại công viên Platt được không ?", tôi giải thích.

Chàng trai gật đầu, mái tóc nâu lởm chởm rung rinh nhưng là mái tóc khỏe, chắc. "Tới 11 giờ tôi sẽ có mặt ở đó", chàng trai lúng búng nói và mỉm cười, rội vội quay đi, không quên vẫy tay chào tôi – chàng trai phải dự lớp học kế tiếp sau giờ kinh tế vĩ mô. Trong lúc đi chàng trai tỏ ra ngần ngại và quay lại, trong lúc ấy đang cố lục lọi trong đầu xem có thể nhớ gì về tôi hay không. "Tên anh là gì ?", không nhớ được gì, cuối cùng chàng trai hỏi.

Tôi cho Paulik biết tên và nhìn theo chàng trai đi xa dần.

Tôi đã hẹn hò. Một cái từ nghe lạ lùng. Việc sắp xếp thời gian ra ngoài gặp nhau chơi bời chính là ý nghĩa của từ này. Chàng trai trẻ hẳn là đã hiểu khung cảnh tại công viên và cả tiền nữa; chàng trai thừa biết chuyện gì sẽ xảy ra. Tất nhiên tôi là người hiểu rõ hơn hết; nhưng tôi cố xếp đặt để mọi chuyện tốt hơn những điều chàng trai nghĩ ra.

Tôi cảm thấy thích ánh nắng mặt trời khi từ khoa Kinh tế bước ra khoảng sân giữa. Khoa máy tính ở kế bên.

Bönner đang ở trong phòng. Lúc ra mở cửa, ông chẳng tỏ vẻ gì ngạc nhiên cả. "Tôi cần thêm 5 phút nữa mới xong", ông ta nói, chỉ vào màn hình máy tính. "Tôi nghĩ mình đến ăn ở chỗ cũ như chiều tối hôm qua".

"Những dữ liệu này bao lâu mới xong ?", tôi lạnh lùng hỏi.

"Một ngày, tối đa là hai ngày", người đàn ông tỏ ra thờ ơ. "Bây giờ, cho tôi thêm 5 phút nữa". Người đàn ông trở lại chiếc máy tính của mình, không thèm quan tâm tới tôi nữa, ngón tay người đàn ông thoăn thoắt trên bàn phím.

Sau đó, lúc chúng tôi đi bộ tới nhà hàng, ông ta nói : "Vào giờ này ngày mai tôi sẽ có trong tay giấy ủy quyền của chính quyền Thụy Sĩ cho ngài. Tôi nghĩ ngài có thể giao trước cho tôi phân nửa số thù lao được không, thưa hoàng tử ?"

Tôi gật đầu, "Tôi muốn thấy mọi thứ có ghi trên giấy tờ hẳn hỏi – các loại giấy tờ hợp pháp có đóng dấu", tôi nói rõ ràng hơn. Tôi có biết chút ít về máy tính; có một tờ khai sinh hợp pháp trong tay sẽ làm tôi tin ngay.

* *

*

Tôi ngồi một mình trong phòng khách. Trên màn hình ti vi, một người đàn ông đang đi về phía phòng ăn của khách sạn, hai tay vung vẫy và lẩm bẩm điều gì đó mà tôi cho rằng ông ta đang nói với các phụ tá của mình. Tôi đang xem một loạt phim video về thế giới hiện đại đầu thế kỷ 21 bằng tiếng Đức.

Người đàn ông đang làm việc trong phòng hiện ra trên màn hình là vị phó tổng thống quá cố của Hoa Kỳ. Tháng năm vừa qua, sự kiện còn lại là hai tháng trước các cuộc hội nghị chính trị, thì cuộc trưng cầu ý kiến cho thấy đảng của Phó Tổng thống đương nhiệm vượt qua các đối thủ tới 10% tổng số điểm. Tôi đang xem vụ ám sát vị phó tổng thống này bắt đầu diễn ra.

Ông ta đang bước lên bục và lưng quay lại phía nhà ăn, ông mỉm cười và vẫy tay chào công chúng. Bốn phát súng nổ vang thật nhanh, gần như cùng lúc. Thất kinh, tôi liếc nhìn thấy trước trán vị phó tổng thống bầy nhầy khi viên đạn xuyên qua hộp sọ, xé toạc da đầu để tạo ra vết thương kinh khủng như thế. Tôi nhìn chằm chằm. Trông vào cảnh đó, tôi có cảm giác ông ta bị bắn từ mọi hướng. Cái đầu vị phó tổng thống gần như muốn bay khỏi cổ trước khi gục xuống.

Tim tôi đập thình thịch trong giây phút hoảng sợ ấy, trong lúc đàn ông đàn bà nháo nhào chui xuống gầm bàn tìm chỗ nấp, tìm chỗ an toàn để tránh phải đối diện với những tên cuồng sát. Nhiều tiếng súng nổ vang. Có cái gì đó cựa quậy sau tấm màn đằng sau bục thuyết trình và khung vải màu sáng bắt đầu chuyển sang một màu đỏ thẫm khi có ai đó dùng tay chộp vào bức màn. Bàn tay từ tuột xuống tạo thành một vệt dài trên bức màn khi gã đàn ông rũ xuống vì một viên đạn kế tiếp. Cuối cùng thì tôi cảm thấy sự việc đôi phần sáng tỏ.

Có tiếng loa thông báo gần như là một tiếng thét lên vì phấn khởi khi người này thông báo những người chứng kiến rằng kẻ sát nhân đã chết. Một lát sau, giọng nói ấy xác nhận rằng người kẻ giết người là thành viên nhóm đồng tính cực đoan ở công viên Queer Nation.

Tôi chớp mắt. Người đồng tính lại làm chuyện như vậy sao ?

Tôi bấm phím trên chiếc remote tắt không xem băng video nữa. Màn hình chuyển sang màu xanh dương. Tôi đã có cuộc hẹn nên muốn tắm rửa sạch sẽ và xuất hiện trước Emil trong một hình dáng hấp dẫn. Tôi không muốn bận tâm về kẻ giết người vì mục đích chính trị.

"Ông Karl đấy phải không ?", từ một lối đi tối tăm Emil Paulik lên tiếng hỏi.

"Uống chút cà phê nhé ?", tôi hỏi và quay người về hướng chàng trai. Có tiếng rì rầm của Sergei trong đầu như đang trêu tức vì tôi bây giờ đang hò hẹn với một sinh viên trường đại học. Gần lắm, nhưng không mạch lạc. Tôi cố ép điều ấy ra khỏi cái đầu của mình. Tôi phải thỏa mãn lòng khao khát đàn ông cho bằng được trước khi nhớ đến việc quay trở về của Sergei.

Tôi cảm thấy sự lo sợ ở Emil nếu bị bắt gặp ở khu vực gần công viên khi ở bên cạnh một người đàn ông khác vào giờ này, mà bằng vào sự hiểu biết của họ, người ta có thể đoán ra chúng tôi định làm gì. Chàng trai cười gượng.

"Tôi nghĩ chúng ta cần bàn bạc cụ thể về các điều kiện theo hợp đồng mà anh nêu ra". Chàng trai chà xát đôi tay vì cái lạnh ở công viên.

"Tôi ở gần đây", tôi đề nghị khi nhận ra sự nghi ngờ của chàng trai về tôi. "Ở đó ấm áp. Chúng ta có thể uống rượu vang hay whisky trong lúc thảo luận ?". Tìm trong suy nghĩ của chàng trai, tôi nhận ra chàng trai vừa tò mò vừa mong muốn khi tôi có lời đề nghị hợp ý.

"Tôi nghĩ rằng...", Chàng trai run giọng và gật đầu, cố không liếc nhìn tôi nữa. "Chúng ta đi thôi".

Đoạn đường đi bộ tới tòa cao ốc tôi đang ở qua tám dãy phố, chúng tôi vừa đi vừa nói chuyện.

"Chiều nay đông người quá nên tôi chẳng kịp hỏi han gì", chàng trai nói khi đã yên vị trên chiếc sofa và trông chừng khi thấy tôi cởi bỏ áo choàng, găng tay. Vẫn còn đó sự dè dặt vì nhu cầu an toàn.

"Tôi hiểu", tôi đáp và tìm hiểu xem ý nghĩ của chàng trai. Tôi mỉm cười khi thấy chàng trai mỉm cười, trông có vẻ bớt căng thẳng, chàng trai duỗi chân trong chiếc quần nhung tự nhiên hơn.

Phải đấy, tôi thầm nhủ. Sự khao khát tình dục sẽ được thỏa mãn khi tôi đi ngủ. Mắt tôi chăm chú nhìn khắp người chàng trai, tưởng tượng ra những thứ bốc lửa dưới bộ trang phục.

"Anh nghĩ gì trong đầu vậy ?", chàng trai hỏi với vẻ cảnh giác và đang cố kềm chế.

"Tôi nghĩ 500 phrăng một tuần sẽ giúp cậu thoải mái sống trong mùa đông tới". Tôi rút ví từ túi quần, lấy ra 5 tờ giấy bạc đặt lên bàn bên cạnh chỗ chàng trai ngồi. Chàng trai nhìn những tờ giấy bạc, liếm môi và ước tính.

"Chúng... ơ...".

Tôi cảm nhận được sự lo lắng dâng lên trong suy tưởng chàng trai. Sự cảnh giác càng lúc càng nhiều.

"Anh không phải là sinh viên sao ?", chàng trai ngước nhìn tôi, hỏi.

Tôi gật đầu xác nhận thay cho câu trả lời.

"Tôi chưa từng gặp anh quanh khu vực này cho tới trước ngày hôm nay".

"Tôi vừa mới tới Zürich", tôi trấn an chàng trai, "Tôi có vụ làm ăn với một thầy giáo ở Khoa máy tính – nhưng tôi không thích giao tiếp rộng. Ở đây tôi không quen biết ai – nhất là không quen biết với người nào trong khu làng đại học này".

Chàng thanh niên gật đầu, "Cái gì khiến ông mua tôi với giá này, thưa ông ?".

Tôi mỉm cười đi tới quầy để rượu. "Thư thả một chút nào, Paulik, cho cả hai ta chứ".

Chàng trai tiếp tục dò xét trong khi tôi rót cho anh chàng một ly rượu mạnh. Tôi do dự trước khi rót rượu cho mình. Không giống như vi trùng và virus, chất cồn trực tiếp hòa lẫn vào máu của tôi. Một sự thẩm thấu trực tiếp ngay tức khắc khác hẳn với sự ngấm dần dần đối với cơ thể con người. Nếu say xỉn tức thì, tôi khó có thể kềm chế sự ham muốn và cũng không còn sức mạnh như bình thường.

"Anh muốn chơi kiểu gì đây ?", chàng trai cầm ly rượu hỏi khi tôi quay về ghế của mình.

"Chơi ?", tôi ngoáy lại nhìn chàng trai.

"Thích kiểu nô lệ hay khổ dâm ?".

Có thể tôi bị sốc ra mặt. Tôi cảm thấy bị sốc thật sự; người lịch thiệp quý phái như tôi không làm những chuyện như vậy trong những chuyến phiêu lưu tình ái của mình.

Emil cười hinh hích. "Thấy anh phản ứng như vậy, tôi đoán rằng anh thích làm tình dịu dàng phải không ?".

Tôi nhún vai, cố lục lọi những hiểu biết tình dục để xem có cái gì giống cái từ anh ta vừa nói và cố che giấu sự dốt nát của mình.

"Vậy tôi phải làm gì trong thời gian chúng ta thư giãn đây ?"

Chàng trai đã để lộ cả tính hiếu kỳ lẫn ý tứ lo sợ trong lời nói của mình. Tôi có thể nhận ra ý muốn mau chóng rời khỏi chỗ này trong suy nghĩ chàng trai. Tôi truyền vào suy nghĩ chàng trai bằng sự trấn an, vỗ về theo cách lý giải tôi như một cậu bé con, mọi thứ còn quá mới mẻ với tôi.

"Muốn làm gì cũng được miễn là cậu cảm thấy thoải mái là được", tôi bảo chàng trai, tôi hiểu rằng mình phải thực hiện đúng những lời vừa nói. Lẽ ra chàng trai phải làm điều tôi muốn và điều anh ta sợ phải làm. Tuy nhiên, tôi muốn chàng trai tự nguyện làm chuyện ấy trong tâm trạng thoải mái và tự nhiên.

"Năm trăm phrăng...", chàng trai lẩm bẩm một mình, lúc này chàng trai đã bớt căng thẳng và được bảo đảm. "Anh muốn mỗi tuần vui vẻ với anh như thế này mấy lần ?".

"Một, hai – bao nhiêu lần tùy thích nếu em cảm thấy thoải mái", tôi nhún vai.

Câu trả lời của tôi đã thỏa mãn chàng trai. Anh chàng đi đến quyết định.

Chàng trai đứng phắt dậy, chộp lấy mấy tờ giấy bạc bỏ vào ví mình. Chàng trai mỉm cười khi cởi áo khoác ra và ném bừa lên góc cuối sofa. Lúc ngồi xuống, chàng trai kề ly rượu lên môi, bây giờ trông tự nhiên hơn, vì chàng trai đã đoán biết được những gì trong cuộc phiêu lưu tình ái đang đợi phía trước.

Tôi lắng nghe ý tưởng của chàng trai. Chàng trai nhìn thấy một người đàn ông tóc vàng không lớn tuổi hơn mình bao nhiêu – một người có bộ ngực thật be và eo thon hẹp. Chắc chắn là người Đức với trán cao, mũi hơi mảnh. Chàng trai thích điều vừa nhìn thấy và cảm thấy tò mò về cái vật nằm trong "basket" (ND : basket, slang : quần, quần lót) của tôi.

"Basket" ư ? Cái từ này mô tả thứ gì sao nghe kỳ quái nhỉ !

Mãi một lát sau, khi quan sát nét mặt và ánh mắt chàng trai tôi mới hiểu. Tôi tác động vào suy nghĩ để biến tính hiếu kỳ thành sự thèm muốn trong chàng trai. Tôi cảm nhận chàng trai đang cương lên, tỏ ra lúng túng khi cảm giác cái vật trong quần mình ngọ ngoạy.

"Để anh dẫn em xem giường ngủ của anh, được không ?". Tôi bóng gió gợi ý, tiếp tục đánh lừa sự tự chủ của chàng trai.

Emil đứng dậy với nụ cười ý nhị, gương mặt chàng trai nói lên rằng chàng trai đã hiểu chuyện gì rồi, xúc cảm tình dục đã thấm qua hai người chúng tôi. Cái vật đàn ông dài ra dọc theo đùi làm cộm hẳn dưới lớp quần nhung.

"Chỉ cho em xem đi nào", chàng trai lắp bắp nói, dục vọng đã khiến chàng trai lạc giọng.

Chàng trai mở cúc áo và kéo chiếc áo sơ mi ra khỏi quần khi tôi cởi áo jacket máng lên móc. Emil ngồi lên mép giường lom khom tháo giày trong lúc tôi treo áo sơ mi và cởi giày xong. Lúc tôi máng quần dài lên móc thì chàng trai đá chiếc giày thứ hai văng ra sàn.

Tôi biết chàng trai đang ngắm nhìn tôi từ phía sau.

"Em sẽ gọi anh là gì đây ?", chàng trai hỏi, tiếng hỏi nhỏ như tiếng thì thầm của gió thoát qua đôi môi xinh xắn. "Em nghĩ không nên gọi anh mãi là ông hoàng Maribor theo cách xã giao khi chúng ta như thế này".

Tôi mỉm cười vì chợt nhớ tới Sergei Alexandrovitch, "Cứ gọi anh là Karl, người yêu anh trước kia cũng từng gọi như thế".

"Anh có người yêu rồi sao ?", trước khi chàng trai thốt nên lời thì tôi đã nhận thấy trong suy nghĩ chàng trai đã phản ứng mạnh mẽ.

"Cậu ấy đã đi rất xa, Emil ạ, và cho tới giờ anh cũng không biết chừng nào mới gặp lại", tôi quay sang đối diện với chàng trai "Và chúng ta đang ở đây. Với nhau. Ngay lúc này".

Ngay sau đó thì tôi nhận ra lý do về phản ứng của chàng trai. Một hình ảnh vừa vụt qua trong suy nghĩ của Emil. Cậu ấy cùng tôi tay trong tay dạo qua các phố phường Zürich – hai chúng tôi là tình nhân. Cô bạn gái bị lãng quên. Giống như một giấc mơ mà hình ảnh trong giấc mơ ấy buộc chàng trai thừa nhận cái bản chất, cái tôi và nhu cầu thực sự của chính bản thân mình. Tôi truyền vào suy nghĩ chàng trai tái hiện lại cảnh chúng tôi bên nhau, biến quan hệ chúng tôi thành một quan hệ thân mật, bình đẳng, một quan hệ mà đôi bên đều ngưỡng mộ lẫn nhau. Tôi làm cho hình ảnh đó ấm áp và cảm động hơn.

Chàng trai không tỏ ra khó chịu nữa, anh chàng đứng dậy mở khóa kéo quần dài. Dẫu sao cũng chỉ là việc mua bán chứ đâu phải là gì của nhau mà phải để ý tới chứ ! Chàng trai đẩy chiếc quần tụt xuống mắc cá và rút chân ra ngoài.

Tôi bắt đầu thấy nứng, ngay bên dưới quần lót mà lúc mới tỉnh dậy tôi đã lấy từ một cửa hàng trong làng. Tôi bước tới trước mặt chàng trai. Tay tôi rờ rẫm vuốt ve bộ ngực thịt da mượt mà, ngón tay vẽ nên những đường cong trên ngực.

"Tay anh lạnh quá", chàng trai lẩm bẩm, nhưng vẫn để tôi sờ mó.

"Biết đâu em có thể làm anh ấm lại thì sao, Emi", tôi sử dụng cách gọi tên thân mật một cách có chủ ý. Tôi muốn chàng trai đừng nghĩ tới thân phận mình như một gã điếm đực. Tôi muốn chàng trai thật sự thoải mái, không mặc cảm, không băn khoăn, để mặc cho mình khám phá niềm hoan lạc mà không bị bất kỳ một giới hạn tâm lý nào của bản thân.

Trong vòng tay tôi, háng chàng trai ép sát háng tôi, chàng trai còn mãi vuốt ve bộ ngực lưa thưa lông của tôi, môi chàng trai tìm đầu vú, chiếc lưỡi nhám rà trên đầu vú thô. Tôi để Emil nằm lên giường và khám phá đôi bờ ngực đẹp vô ngần ấy bằng lưỡi của mình, nhưng tôi cũng hết sức lưu ý không để răng nanh lộ ra hoặc ngẫu nhiên gây bất cứ xây xát nào trên làn da mịn màng ấy.

Tôi chồm lên giữa hai chân chàng trai. Tôi nhìn dọc theo cơ thể cho tới khi bắt gặp ánh mắt Emil, ánh mắt vẫn chưa hết ngạc nhiên [Em muốn tôi đụ em, muốn thật nhiều – tôi truyền ý chí của mình sang thành tư tưởng Emil].

"Làm đi", chàng trai lắp bắp nói, đầu ngã ngửa ra gối, "nhớ dùng condom đấy", chàng trai rên rỉ.

Tôi chớp chớp mi mắt. Condom ư ?

Dĩ nhiên, tôi biết đó là thứ gì. Nhưng dùng bao cao su với một người đàn ông khác ư ? Sao lại thế ? Giữa chúng tôi làm gì có thể mang thai được. Tôi len lỏi qua ký ức chàng trai để tìm một lời giải đáp.

AIDS. Một căn bệnh hiểm nghèo chưa có thuốc chữa. Một căn bệnh phá hủy hệ miễn nhiễm của con người cho tới lúc hệ miễn nhiễm hoàn toàn tê liệt để mặc cho việc nhân bản của loại vi rút này trong cơ thể người theo cấp số nhân. Và cho tới lúc chết. Một căn bệnh được gây ra bởi một loại vi rút lây truyền qua máu. Những vết xây xát dù bé xíu, cũng đủ làm cho virus thâm nhập vào cơ thể và bắt đầu công việc của kẻ phá hoại.

Tôi có thể làm cho mình chảy máu ở tĩnh mạnh và động mạch. Tôi có thể bị các vết thương giống như loài người, nhưng các vết thương sẽ tự lành lại trong vài phút. Tôi có thể xé thịt da, mở tĩnh mạch để chia sẻ cuộc sống bất tử. Nhưng liệu rằng tôi có thể mang virus trong người hay không ? Có thể làm lây truyền sang người khác hay không ? Trong hàng ngàn năm dài, loài ma cà rồng chúng tôi được nuôi sống bằng máu người. Chúng tôi uống máu cả của những người bị những căn bệnh nan y như ung thư và giang mai nhưng vẫn không bị ảnh hưởng gì.

Có thể loại virus mới này khác với những loại đã có trong quá khứ mà một con ma cà rồng hút máu có thể bị lây nhiễm hoặc truyền mầm bệnh cho người khác hay chăng ?

Nhưng tôi không nghĩ thế. Lịch sử thuộc về chúng tôi.

Tuy nhiên, tôi cũng chưa thật yên tâm. Và tốt nhất đừng để cơ hội cho những hành động sai lầm. Tôi không thể gây nguy hại cho chàng trai này bằng sự mạo hiểm, cẩu thả của mình.

Nhưng trước đây tôi chẳng dùng bao cao su để làm gì ! Tôi đã không dùng khi phải lòng Sergei Alexandrovitch. Lúc này AIDS vẫn chưa được biết đến như một mối đe dọa chết người, tôi vẫn không dùng cả khi Sergei trở lại với tôi qua cuộc đời của Würther và tôi đã làm tình như một chàng trai hai mươi bốn mà chẳng nghĩ mình là một con ma cà rồng già đến tám mươi tuổi.

Tôi chẳng quan tâm những chuyện như thế.

Với sự tôn trọng nhiều hơn là cảm tính tôi nhỏm dậy.

"Tối mai đến với anh được không, Emi ?", tôi thì thào bên tai chàng trai.

"Phải để ngày mai sao ?", giọng nói chàng trai mơ màng, môi chàng trai không rời môi tôi.

"Anh sẽ mua bao cao su", tôi lúng túng nói.

Chàng trai ngồi dậy liếc nhìn tôi rồi nói. "Em còn một cái trong ví", Emil ngượng ngùng nói, lý trí chàng trai đã đầu hàng khi phải thừa nhận sự ham muốn đang trỗi dậy như bão tố trong lòng.

"Có cần phải như thế không ?", tôi hỏi, lần này tôi cố ép chàng trai tự mình quyết định mà không có sự can thiệp vào ý chí từ phía tôi.

Chàng trai run rẩy, trườn ra mép giường nhặt chiếc quần dài. Sau đó, chàng trai tìm thấy một bao nhựa tráng bạc bề ngoài trông rất hấp dẫn. Chàng trai xé bao bạc. "Nằm yên, để em mang vào cho anh".

Chàng trai nhìn vào mắt tôi, tìm kiếm xem có gì giả dối trong ánh mắt hay không. "Em cũng không hiểu sao mình lại làm chuyện này", chàng trai nói một cách khó khăn, sau đó trèo lên giường với tôi.

Tôi đã vào sâu trong người Emil, chàng trai nhìn tôi nói "Mai anh nhớ mua nhen", chàng trai vừa nói và nẩy mông một cách háo hức, "Anh có thể đụ em, Karl, nhưng anh phải giữ gìn cho em khi anh muốn thế".

Tôi cảm thấy mệt rã rời khi cánh cửa khép lại sau lưng Emil. Tôi vừa mệt vừa đói.

Ngủ một giấc hẳn hay. Tôi hy vọng giấc ngủ sẽ giúp tôi hồi phục sức lực sau một đêm "lao động" cật lực. Dẫu sao Emil Paulik vẫn còn thiếu kinh nghiệm với mùi vị tình dục mới mẻ như thế này.

HẾT PHẦN 3

PHẦN 4

ND : Đây là một truyện dài nhiều tập viết về thế giới của bóng tối, thế giới của những sức mạnh siêu nhiên từng ngự trị ở châu Âu từ lâu và kéo dài tận thế kỷ 21, thế giới của loài ma cà rồng (vampires) mà trong đó, nếu loại bỏ một số yếu tố tưởng tượng và những đoạn mô tả về đời sống của ma cà rồng, có lẽ chúng ta sẽ nhận ra tính nhân văn sâu sắc. Truyện có đề cập đến vấn đề đồng tính nhưng chỉ thoảng qua, mà đi sâu khai thác các khía cạnh lịch sử đầy kịch tính. Nhân vật chính xuất thân từ hoàng tộc mang dòng máu lai Áo – Hung đã trở thành ma cà rồng... Nguyên tác là tiếng Anh, nhưng nhiều chỗ pha trộn ngôn ngữ khác như Pháp, Đức cùng với những bối cảnh có liên quan đến lịch sử xa xưa của các quốc gia châu Âu, hoàn toàn xa lạ với người dịch. Với kiến thức giới hạn, và chỉ với mục đích giải trí nên Vũ Quốc tạm dùng những cụm từ thay thế hợp lý để diễn đạt ý tưởng, rất mong độc giả lượng thứ. Cũng cần nói rõ, nội dung truyện chỉ là sản phẩm tưởng tượng, mọi chi tiết về con người, địa danh, sự kiện đều không có thật và nếu có trùng hợp với ngoài đời cũng chỉ là sự ngẫu nhiên.

Marcus Bönner mỉm cười, khi tôi đến vừa lúc mặt trời khuất sau đám mây dày đặc ở chân trời. "Bây giờ ngài vừa được sinh ra, thưa Hoàng tử, những thông tin cần thiết đã được đăng ký tại Born. Ngài là sinh viên tốt nghiệp hạng ưu từ trường đại học của chúng tôi cách đây ba năm".

Tôi nhướng mày hỏi, "Tôi đọc những điều ấy ở đâu ?".

"Lý lịch. Tôi nghĩ ngài nên sao lưu để nhớ cho chắc chắn", ông ta cười.

"Đồng ý", tôi dừng lại, vì đang nhận ra ông ta không đề cập đến phân nửa thông tin còn lại mà tôi cần. "Ông chưa đá động gì đến những thông tin ở Áo...?".

"Việc đăng ký tại Vienna hơi khác chút đỉnh, và tôi phải tiếp tục công việc cật lực trước khi ngài có thể sử dụng những thông tin ấy".

"Bao lâu ?".

Người đàn ông cười lớn, "Vào một ngày khác. Tôi vừa tìm thấy hồ sơ về cái chết của hoàng thân Fürst – người Đức giỏi hơn các tay quản thư của nền cộng hòa nhiều lắm".

Tôi cảm thấy hãnh diện vì lời nói của ông ta nhưng không thích thú cho lắm. Tôi đã từng sống hơn 2 năm dưới sự cai trị của bọn Quốc xã; tôi không mong tìm thấy lời bào chữa cho bọn chúng trong đầu của gã này. Tôi cũng không muốn làm tổn thương đến người dân Đức vô tội. Một số người làm việc cho Đức quốc xã, nhưng không phải là tất cả.

"Tôi chỉ muốn thiết lập mối quan hệ cho ngài với người cha ghẻ của cha ngài về mặt giấy tờ".

"Tôi có thể kiếm một bằng lái xe từ hồ sơ cá nhân tại Thụy Sĩ mà ông đã làm cho tôi không ?", tôi ngắt lời.

"Ngài lái xe được à ?", người đàn ông hỏi, một chút tò mò về quá khứ của tôi len qua tâm trí người này, điều đó khiến tôi cảm thấy khó chịu.

"Tất nhiên là được".

"Ngài cần chứng minh thư từ cơ quan đăng ký và hồ sơ thời kỳ là sinh viên đại học này thế là đủ rồi. Ngài chỉ việc mang những thứ ấy đến cơ quan cảnh sát tiểu bang gần nhất, dự thi viết và thực hành và như thế thì ngài sẽ được cấp giấy phép".

"Còn thẻ tín dụng thì sao ?".

Người đàn ông dựa ngửa ra ghế, mỉm cười với tôi, "Ngài cần có một khoản thu nhập và mở một tài khoản tại ngân hàng. Ngài sẽ tìm thấy mẫu ghi điền ở bất kỳ ngân hàng nào".

Tôi thâm nhập vào suy nghĩ của người đàn ông nhưng chẳng tìm được điều gì thú vị cả. Người đàn ông quay lại với chiếc máy tính, phớt lờ không để ý đến sự hiện diện của tôi ở đó nữa – đó là một cách đuổi khéo.

Người đàn ông chẳng thèm dòm đến tôi cứ như thể tôi là người chạy việc vặt cho ông ta. Tôi cảm thấy bị xúc phạm nhưng tôi cần ông ta ngụy tạo thông tin và làm thủ tục giấy tờ cho tôi ở nước Áo. Tôi bước ra ngoài, miệng lầm bầm giận dữ với chính mình. Nhưng, trước lúc ra ngoài, tôi nói : "Nếu ông muốn nhận tiền thanh toán của tôi vào ngày mai, thì phải có chứng minh thư và bằng tốt nghiệp ngay tại đây cùng lúc nhận tiền".

"Ngài muốn tôi chạy lăng quăng bên ngoài như một thằng sai vặt của ngài hay sao ?", gã đàn ông càu nhàu và giương mắt nhìn tôi.

"Vậy ông có muốn tiền không ?", tôi vừa hỏi vừa gằn giọng, dợm bước ra ngoài.

"Ngài sẽ có một bản sao cho từng thứ ngài cần vào ngày mai, thưa hoàng tử".

"Ông sẽ nhận một triệu phrăng", tôi nói với gã đàn ông, "tôi sẽ thanh toán đầy đủ".

"Tôi không nghi ngờ gì về chuyện ấy, thưa hoàng tử. Tôi sẽ gặp lại ngài vào ngày mai được chứ ?"

Chiều hôm ấy, tôi lại xem băng video Cuộc sống hiện đại, về các sự kiện diễn ra trong những năm đầu của thế kỷ 21. Người bình luận không cần phải kể cho tôi biết rằng đảng Cộng hòa ở Mỹ đang gặp rắc rối dẫn đến cuộc bầu cử năm 2004 sớm hơn dự định một tuần.

Người làm phim đã cung cấp đầy đủ cho tôi những kết quả cụ thể từ cuộc tham khảo ý kiến của CNN và kèm theo lời bình luận. Đảng Cộng hòa vẫn kém đảng Dân chủ 10% tổng số phiếu ở mỗi cuộc tham khảo. Nhưng, 5 tháng sau vụ ám sát phó tổng thống, đảng Cộng hòa đã chiến thắng trong cuộc bầu cử với số phiếu áp đảo – hơn 22% đến 23% tổng số phiếu bầu. Một lần nữa, đảng Cộng hòa giành đa số ghế ở Thượng nghị viện. Rõ ràng vụ ám sát đã cho đảng Cộng hòa gia tăng số phiếu so với tình hình thực tế lúc ấy.

Điều ấy cũng chứng tỏ rằng nền dân chủ Mỹ không cần đếm xỉa gì đến quyền tự do lựa chọn của cử tri. Trong ba kỳ bầu cử quốc gia gần đây, có tới phân nửa trong tổng số cử tri bị ép buộc bầu cử. Tôi tự hỏi không biết những bài học kinh nghiệm to lớn của thế giới trong nền cộng hòa đã tìm ra được thứ gì khác thay thế cho việc phổ thông đầu phiếu.

Tôi hiểu rằng mình vẫn xem các sự kiện thế giới dưới góc nhìn ở thế kỷ mười chín, cái thời mà hoàng đế Franz Josef đã điều hành mọi hoạt động kinh doanh và lao động, kẻ giàu và người nghèo để làm nên một quốc gia có nhiều nền văn hóa. Tuy nhiên, kể từ sau khi thức dậy, tôi đã học hỏi hiểu biết nhiều về những sự kiện của thế giới ngày nay.

Tôi tự hỏi không biết liệu rằng Kenedy có được tôn vinh nếu như Hoa Kỳ trở thành một xứ xở bình đẳng và hạnh phúc hơn hay không. Hoặc một tỷ phú Rockefeller. Hoặc một Cabot. Người dân cần một người hùng để dẫn dắt họ, một người lãnh đạo mà họ hy vọng, tin tưởng – điều đó chẳng có gì khác biệt cho dù là người Áo – Hung, người Mỹ hay người La Mã. Tầng lớp quý tộc đã luôn dẫn dắt con người hướng đến những điều cao thượng. Họ cũng có những vai trò nhất định như tôi chẳng hạn, cho dù ở bất kỳ thời điểm nào trong lịch sử.

Nhưng người dân không mong đợi sự phục sinh của chế độ Quốc xã hoặc phát xít tàn bạo. Chúng thực sự là những cơn ác mộng.

* *

*

Tôi vào công viên trong hình dạng con người với hy vọng tìm được bữa ăn tối. Trời vẫn còn sớm, vì vậy người qua kẻ lại vẫn chưa cần đến áo choàng chống rét. Thay vì đám con nghiện xuất hiện như thường lệ, tôi thấy lực lượng cảnh sát qua lại quanh các lối đi nơi tôi đến đây hai đêm trước. Hẳn là bọn chúng đã làm đám con nghiện và những chàng đĩ đực một phen hoảng vía.

Tôi cũng lo ngay ngáy. Tôi đành đi dọc theo bờ hồ mé đông phía dưới trường đại học, hướng về nhà hát Landungsstelle, nhưng cái lạnh ở đó đến sớm và rét đậm nên ít người dạo chơi. Ngay cả dưới bộ lông sói mà tôi vừa mới biến hình cũng không làm cho tôi thấy bớt lạnh. Tôi đơn độc trong những cơn gió lạnh, ẩm ướt từ mặt sông thổi vào, tôi phải no lòng trước cuộc hẹn gặp Paulik.

Một người đàn ông loạng choạng trên đường Sechseläutenplatz đi về phía tôi trong lúc tôi rảo bước trên đường phố vắng ngắt. Tôi co giò chạy tới khi thấy người đàn ông khuất dạng trong hẻm tối. Tôi chắc chắn rằng trong đầu gã dày đặc sương mù heroin và tôi mỉm cười hài lòng vì cỗ bàn đã dọn sẳn.

Tôi phải ăn no, cho dù miệng tôi dính đầy những giọt máu bệnh hoạn. Tôi phải được no lòng, như thế mới thỏa mãn được những đòi hỏi của Paulik mà không làm tôi mất sức, mới giúp tôi kềm chế và che giấu đôi nanh sắc khi đói mồi.

Tôi lon ton chạy tới bên con nghiện và dí mũi đánh hơi.

Tôi tròn mắt kinh ngạc vì nhận ra rằng gã này chẳng có chút mùi herion nào cả. Đơn giản là gã uống quá chén. Gã đã nốc gần một lít rượu vang loại rẻ tiền và đang say ngất. Tôi sục sạo tìm trong đầu gã và thấy một bức tranh ngỗn ngang những thùng giấy carton cuối con hẻm, đó là nhà của gã.

Một gã đàn ông vô gia cư !

Những hình ảnh khác từ ký ức người đàn ông cho tôi thấy hai năm trước gã là một người khỏe mạnh khi người này làm nghề nướng bánh tại một khách sạn dưới phố. Người vợ đã bỏ ông ấy, đúng hơn là nên nói rằng rượu đã buộc ông ấy rời khỏi nhà và xa đám con thơ.

Giống như những kẻ nghiện ngập, người đàn ông cũng không chịu nổi cú sốc trong đời mình. Ông bắt đầu nhậu nhẹt và càng về sau thì không thể kiểm soát nổi bản thân nữa. Rượu đã trở thành thượng đế của ông giúp ông rũ bỏ những ưu phiền của cuộc đời và không để ông phải nghỉ ngợi gì nhiều. Không lâu sau thì ông không còn là người thợ làm bánh số một của khách sạn. Ngay cả khi ông chấp nhận sống với mức thu nhập thấp và bắt đầu nấu món chả làm bằng thịt bò bằm nhuyễn ở một hiệu thức ăn nhanh, thì ông đã nghiện nặng.

Ông giống như những con nghiện ma túy tụ tập ở Thụy Sĩ và các nước châu Âu khác. Thay vì sử dụng heroin, thì ông đã dùng cồn; mới vừa năm ngoái ông đã tự tử nhưng không thành. Nhưng ông vẫn khác với thần dân của "tiên nâu", ông vẫn còn giữ lại được hình dáng bên ngoài trông khá hơn, nhưng rồi cũng sẽ không giữ được lâu khi sức khỏe bắt đầu tụt dốc.

"Đồ khốn", người đàn ông lẩm bẩm trong lúc cựa mình. Đó là thời khắc duy nhất mà người đàn ông còn lại với thế giới thực. Người này cũng không khác bọn nghiện ngập bệnh hoạn là bao, có thể là một bữa ăn tàm tạm.

Tôi tha người đàn ông vào hẻm sâu, kéo ông về phía căn lều đổ nát tồi tàn mà người đàn ông dựng lên. Người này sẽ chết cóng trong ngôi nhà bằng những thùng giấy carton, cũng đáng để tôi ban cho ông ta cái chết như ông từng mong muốn.

Trong ngõ cụt, tôi biến thành hình người và cởi quần dài ông ấy xuống tận gối. Những dấu răng nanh trên cổ hoặc trên cánh tay rất dễ thấy, sẽ khiến cho chính quyền lo lắng có những mầm mống tội ác là sinh vật hai chân ở Zürich. Việc khám nghiệm tử thi và các thủ tục khác sẽ nhanh chóng lần ra dấu vết. Các dấu răng nanh dọc theo đùi có thể bị nhầm lẫn với những dấu vết kim tiêm và dễ bị bỏ qua.

Đó là phương thức điều tra của cảnh sát. Nếu có điều gì đó được chứng minh rõ ràng, thì những chứng cứ đó sẽ đi đến một suy luận logic. Sẽ không cần lãng phí tiền của vào việc khám nghiệm, vào các xét nghiệm khoa học đắt tiền khác, nếu như mọi việc dễ nhìn thấy và lý giải một cách đơn giản. Viên cảnh sát sẽ viết báo cáo và cho phép chôn cất xác chết nếu như tôi có sự chuẩn bị chu đáo cho cái chết của nạn nhân mình một cách hợp lý.

Tôi cắm răng vào đùi người đàn ông, má tôi phải kê sát háng gã đàn ông dưới lớp vải bẩn thỉu lâu ngày không tắm rửa và nặc nồng hơi rượu. Tôi cảm thấy no nê trước lúc quả tim gã thoi thóp sắp ngừng đập. Lúc đầu, khi tôi mở rộng vết cắn thì tim gã run rẩy đập loạn xạ. Gã sẽ chết trong đêm nay, nhưng sẽ không chết trước khi vết cắn đóng kín. Ngày mai, người ta sẽ thấy những vết kim tiêm nếu quan sát bằng mắt thường. Tôi kéo quần gã lên, không quên cài cúc và dây kéo, rồi cẩn thận đặt gã nằm trong ngôi nhà giấy bìa để gã có thể lên đường gặp thần chết.

Tôi kịp trở về phòng mình trước giờ hẹn gặp Emil hai tiếng đồng hồ. Làm những việc như vậy với tôi không phải là điều vui sướng mà là việc làm bất đắc dĩ, tôi bèn quay lại tìm hiểu thế giới mình đang sống.

Kiến thức quả có sức mạnh khôn lường. Không có hiểu biết về thế giới này và những sự kiện đã tạo ra nó, thì tôi trở thành kẻ vô dụng. Dù vậy, tôi vẫn ráng học. Tôi ước ao phải chi tôi ngu dốt như trước đây để không thấy, không biết một thời đại phát xít mới đang hình thành, để không nhìn thấy tâm hồn lạnh nhạt hờ hững của loài người.

Dĩ nhiên là chủ nghĩa phát xít đã có mặt và một số nơi đang nắm giữ quyền lực tuyệt đối, đang hủy hoại tận gốc rễ của nhân loại. Nhưng điều mà tôi học được ở nước Mỹ và những điều tôi nhìn thấy chỉ hai đêm về trước thì đất nước này sẽ rơi vào tình trạng tương tự, tồi tệ hơn trong một tương lai không xa lắm. Một nước Mỹ sẽ trở nên tồi tệ hơn so với chế độ Hitler. Hitler không có bom khinh khí, bom nguyên tử, vũ khí sinh học hủy diệt hàng loạt như nước Mỹ ngày nay.

Hy vọng đó chỉ là sự hoang tưởng của tôi. Nhưng dù sao tôi vẫn cảm thấy khó chịu và nghi ngại.

Trong một hội nghị đảng Cộng hòa, một thượng nghị sĩ không tên tuổi ở bang Georgia được chọn để tranh cử Phó tổng thống. Reed Stephens được xem là không có vướng mắc gì theo đánh giá của ban biên tập bộ phim Lịch sử thế giới hiện đại. Một người trong sạch và hiền lành.

Tôi cảm thấy nhẹ nhõm được một lúc. Cho tới khi đoạn băng video chiếu cảnh tuần hành ủng hộ thắng lợi của Stephen được tổ chức ở Atlanta một ngày sau ngày bầu cử phó tổng thống năm 2002.

Những đội hình các thanh thiếu niên mặc đồng phục kaki hành tiến trên đường Peachtree ở thành phố quê hương của Margaret Mitchell, những dấu thập vàng trên băng đeo tay đung đưa toát lên vẻ tự hào. Khi nhóm này tới chỗ Stephens đang ngồi, các đội hình nhập lại thành một tiến tới chào Stephen theo nghi thức chào của người La mã ngày xưa, cái nghi thức mà Mussolini khôi phục lại để chào mừng chế độ phát xít của ông ta, nhóm thanh thiếu niên bắt đầu hát vang bài hát mà tôi đã từng nghe ở nhà hàng. Những người lớn cũng mặc kaki diễu hành, mỗi đội hình mang theo biểu ngữ với chữ thập vàng hiện rõ trên nền vải đen. Những cánh tay đặt trước ngực khi tiến gần Stephen, lúc này họ hát một bài hát với nội dung khác mà các nhà bình luận gọi đó là "Hành khúc cộng hòa".

Một tổ chức được mệnh danh là Trung tâm công giáo tập hợp hàng trăm ngàn người lớn và thanh thiếu niên tới để chúc mừng Reed Stephens.

Đây là phó tổng thống mới của Hoa kỳ đấy sao ? Một người được xem là trong sạch và hiền lành ?

* *

*

Davis Trellum đứng quay lưng về phía cửa sổ, ánh nắng mùa thu vàng vọt làm ông ta không khác gì một cái bóng. Doris Shafly gõ cửa và hé mở cửa phòng. Davis mỉm cười khi tướng Howell bước vào phòng.

"Cảm ơn bà, Doris" Trellum nói ngầm bảo viên thư ký riêng phó tổng thống rời phòng. Ông biết những chính trị gia và phó tổng thống có thể nói chuyện thoải mái trước mặt bà, nhưng đây là chuyện khác. Ông muốn càng ít người biết điều gì đang diễn ra ở cuộc gặp mặt này thì càng tốt. Ít nhất là ông muốn giữ bí mật cuộc nói chuyện này.

Doris Shafly tỏ ra do dự nhưng rồi cũng đóng cửa lại sau khi rời khỏi phòng.

"Xin mời vào. Tôi sẽ không giữ ông lại lâu đâu". Davis quay lưng lại, để cho vị tướng lần đầu tiên trông thấy mặt ông. Ông mỉm cười với người đàn ông người cứng đờ. Trellum là người đại diện cho Giám mục Bob Patterson mà chưa ai được biết – Đức Giám mục, kẻ cầm đầu chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Mà đúng như thế đấy. Bọn trẻ con da trắng có đầy đủ sức mạnh, chúng muốn sử dụng nó để ngự trị toàn nước Mỹ. Giám mục chẳng gặp chút rắc rối nào khi ra lệnh cho chúng tổ chức tuần hành – dù rằng chúng không phải là người có dòng máu Aryan.

"Bây giờ cuộc bầu cử đã kết thúc, chúng ta đã sẵn sàng tiến hành giai đoạn cuối của chương trình gây bạo loạn, đại tướng ạ !", Davis nói sau khi ngồi lên chiếc ghế sau bàn làm việc.

"Chương trình gây bạo loạn là thế nào ?" Howell hỏi.

Trellum cười mỉm. "Là những thứ mà ông thấy trên các tin tức hàng đêm. Ông chưa từng thả bộ trên đường Tidal Basin một mình tối này sao ?"

"Ồ không !".

"Đàn ông cũng như đàn bà, họ sẽ không làm như thế nếu họ không điên. Phải mất gần mười lăm năm mới xây dựng nên một cơ cấu điều khiển xã hội cố kết lại với nhau trong tình trạng bất ổn".

Tướng Howell gật đầu và chồm tới phía người đàn ông da đen ngồi sau bàn làm việc. "Tôi hiểu điều ngài muốn ám chỉ. Nhưng tôi chỉ chưa hề nghĩ về nó như một sự mất ổn định – không hiểu ngài định nói gì khi đề cập tới cái gọi là giai đoạn cuối, thưa ngài Trellum ?"

"Ông hiểu về lịch sử cỡ nào ?".

"Cũng khá tốt", viên tướng ngồi xuống ghế.

"Giờ cáo chung của nước Đức Weimar đã điểm khi Hitler tung lực lượng SA ra đường phố để hành hung, gây rối. Đêm nào ngoài đường cũng nghe tiếng chửi rủa, la ó kéo dài trong hai hay ba năm trước khi người Đức trao cho Hitler quyền lực".

"Chúng ta đâu có chuyện cộng sản và bọn quốc xã đánh nhau ngoài đường phố nước Mỹ, thưa ngài".

Davis Trellum cười lớn. "Chưa, chưa có".

Tướng Howell ngồi chồm tới trước.

"Chúng ta đang hình thành những đơn vị chiến đấu chọn lọc từ Liên đoàn Thanh niên công giáo. Họ tấn công bọn đồng tính biến thái và bọn buôn bán ma túy".

"Bắn họ ư ? Sao làm thế được ?".

Trellum thình lình đứng bật dậy, nhìn người đàn ông mặc quân phục. "Tôi cho rằng ông đã được xem như một thành viên xuyên suốt của cuộc cách mạng này, đại tướng ạ. Bây giờ ông lại muốn rút lui sao ?".

Mắt người đàn ông mở to. "Thưa ngài, không. Tôi trung thành với Đức Giám mục Bob Patterson và tôi làm bất cứ gì ông ấy bảo tôi phải làm".

"Và ông ấy buộc ông phải tuân theo mệnh lệnh của tôi để giúp củng cố sức mạnh của Trung tâm Công giáo. Ông có thắc mắc gì về mệnh lệnh của ngài Patterson khả kính của chúng ta hay không ?"

"Thưa ngài, không ạ".

"Thế thì tốt", người đàn ông da đen ngồi xuống, "Bây giờ, giai đoạn này sẽ tiếp tục chừng nào bọn ở công viên Queer Nation và các tay buôn thuốc phiện ra mặt chống lại các đội tuần tra. Hãy để cho sự viêc leo thang ngày càng trầm trọng. Chừng ấy thì ông nhảy vào bằng các cuộc thanh trừng".

Viên tướng gật đầu. Viên tướng lập tức hiểu rõ mọi chuyện. Tuy không thích, nhưng ông phải chấp nhận coi như đó là việc phải làm.

"Nếu ban hành thiết quân luật, thì ông có thể huy động lực lượng được bao nhiêu hả ?", Trellum hỏi khẽ.

Môi Howell cong lên tạo thành nụ cười. Đây chính là điều ông hiểu tường tận. "Ngay khi Bộ tổng tư lệnh chuyển mệnh lệnh tới tôi, thì mọi lực lượng vũ trang sẽ đặt trong tình trạng báo động. Có lẽ có khoảng 10 hoặc lên đến 15 tướng lĩnh và đô đốc sẽ bị bắt giữ. Nhưng tôi có đủ lực lượng trung thành làm chuyện ấy. Chúng ta sẽ kiểm soát toàn bộ đất nước trong vòng 48 giờ đồng hồ kể từ khi tôi nhận được lệnh, thưa ngài. Tôi bảo đảm sẽ đúng như thế".

Trellum đứng dậy, lúc này trên gương mặt ông nở nụ cười thỏa mãn. "Có lẽ là chúng ta sẽ tiến hành trước mùa hè, ông Howell – nhưng ông cần phải huấn luyện lực lượng của mình. Từ những điều do ông trình bày, thì những người này sẽ có vai trò quyết định sự thành bại của chúng ta. Hãy huấn luyện họ sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ, ông hiểu rồi chứ ?".

"Vâng, tôi đã rõ, thưa ngài Trellum", viên tướng đứng dậy tỏ ra chú ý lắng nghe như ông thường làm với cấp trên. Tay ông đặt trên ngực và dập gót giày "Xin hứa danh dự với ngài, thưa ngài".

"Cảm ơn ông", Trellum vừa nói vừa đi vòng qua bàn làm việc. "Tôi có thể hiểu tại sao Đức Giám mục lại hoàn toàn tin tưởng ông như vậy", ông bảo viên tướng, "Hãy liên lạc với Trung tâm công giáo để chúng tôi có thể theo dõi hoạt động huấn luyện của ông thường xuyên. Nhưng ông vẫn sẽ phải đến đây báo cáo trực tiếp với tôi".

HẾT PHẦN 4

PHẦN 5

ND : Đây là một truyện dài nhiều tập viết về thế giới của bóng tối, thế giới của những sức mạnh siêu nhiên từng ngự trị ở châu Âu từ lâu và kéo dài tận thế kỷ 21, thế giới của loài ma cà rồng (vampires) mà trong đó, nếu loại bỏ một số yếu tố tưởng tượng và những đoạn mô tả về đời sống của ma cà rồng, có lẽ chúng ta sẽ nhận ra tính nhân văn sâu sắc. Truyện có đề cập đến vấn đề đồng tính nhưng chỉ thoảng qua, mà đi sâu khai thác các khía cạnh lịch sử đầy kịch tính. Nhân vật chính xuất thân từ hoàng tộc mang dòng máu lai Áo – Hung đã trở thành ma cà rồng... Nguyên tác là tiếng Anh, nhưng nhiều chỗ pha trộn ngôn ngữ khác như Pháp, Đức cùng với những bối cảnh có liên quan đến lịch sử xa xưa của các quốc gia châu Âu, hoàn toàn xa lạ với người dịch. Với kiến thức giới hạn, và chỉ với mục đích giải trí nên Vũ Quốc tạm dùng những cụm từ thay thế hợp lý để diễn đạt ý tưởng, rất mong độc giả lượng thứ. Cũng cần nói rõ, nội dung truyện chỉ là sản phẩm tưởng tượng, mọi chi tiết về con người, địa danh, sự kiện đều không có thật và nếu có trùng hợp với ngoài đời cũng chỉ là sự ngẫu nhiên.

Emil đang yêu. Ít ra là theo suy nghĩ của tôi.

Tất nhiên là yêu tôi.

Tôi là ngươi đầu tiên phá trinh cậu ấy, người đầu tiên mà cậu ấy hiến dâng.

Ôi, con người ! Thật kỳ quái.

Emil là kết quả của sự pha trộn huyết thống của người Đức, Pháp và Ý. Là một người hoàn hảo – thông minh, có học thức lẫn sự điềm đạm.

Lẽ ra tôi nên quên đi Sergei và chấp nhận những gì Emil dâng hiến cho tôi. Nhưng tôi vẫn không làm được chuyện ấy.

Những tiếng thì thầm của linh hồn Sergei vẫn luôn là bạn đồng hành trong tiềm thức của tôi từ tháng 11 đến tháng chạp cuối năm nay. Tôi vẫn không quên lần đầu tiên tìm thấy cảm giác hạnh phúc khi có Đại quận công trong vòng tay ân ái của mình, lúc nào tôi cũng nhớ về quá khứ, tôi hiểu rõ quá khứ càng nhớ hiện tại. Emil chưa từng, nhưng bây giờ đã hiến dâng cho tôi trong khi tôi vẫn mơ về một Sergei Alexandrovitch của quá khứ.

"Josefina đang nghi ngờ em, Karli", Emil vừa rê ngón tay quanh đường cong trên môi tôi, vừa thủ thỉ nói.

"Em vẫn còn ngủ với cô ấy chứ ?", tôi vừa hỏi vừa mân mê hộp nhạc đang mở.

"Không nhiều. Có lẽ mỗi tuần một lần".

Tôi trợn mắt nhìn tỏ vẻ ngưỡng mộ chàng trai này, người có sức cưỡi tôi bốn lần trong tuần nếu tôi cho phép.

"Chỉ tại cô ấy ép em...", Emil bẽn lẽn cười, "Cô ấy lợi dụng những lúc em không nhận thức được... Thế là em đành đầu hàng, nhưng chẳng có gì đáng nói".

"Chúa ơi !", tôi bật cười.

"Em chỉ yêu mình anh thôi, Karli".

Tôi bỗng nhận ra vô tình chàng trai đã đặt lên người tôi một sự ràng buộc mà tôi không hề mong muốn. Tôi mỉm cười vọt miệng nói, "và cả năm trăm phrăng mỗi tuần nữa chứ ?".

Ngay lập tức tôi hiểu rằng mình không nên nói những lời như vậy. Tuy đó là sự thỏa thuận giữa hai chúng tôi, nhưng ngay vào lúc này thì điều ấy là một lời mỉa mai cay độc, xúc phạm chàng trai một cách nặng nề.

Gương mặt Emil thất sắc cứ như là tôi vừa tọng vào đây một quả đấm. Ngón tay đang mơn trớn trên bờ môi tôi bỗng run rẩy và rụt mạnh về khi Emil quay mặt đi.

"Emi...", tôi cố gắng nói điều gì đó trong lúc chàng trai quay lưng lại với tôi.

"Emil !", tôi gọi Emil. Emil lẳng lặng ngồi dậy lần ra mép giường. Tôi hốt hoảng, bằng sức mạnh siêu nhiên, tôi chộp giữ tay chàng trai vì không muốn cậu ấy bỏ tôi mà đi.

"Để tôi đi", chàng trai quay lại nhìn tôi, đôi mắt dại đi khi chạm phải ánh mắt của tôi, "Làm ơn buông tôi ra, thưa ngài".

Ôi, một thói quen tai hại ! Tôi đã quen cách cư xử hời hợt, thậm chí coi rẻ với nhiều gã trai mua vui ở Paris cách đây hàng trăm năm, tôi cho rằng đó chỉ là chuyện đùa. Nhưng chuyện ấy đã thay đổi sau một thế kỷ, lẽ nào tôi lại nhầm lẫn tai hại như vậy ?

"Xin lỗi, anh không cố ý xúc phạm em", tôi vẫn giữ chặt tay chàng trai. Dòng nước mắt lăn dài trên má Emil. "Anh chỉ nói đùa", tôi cố giải thích, "Nhưng không ngờ lại ra thế này".

"Không ngờ ư...", Emil lẩm bẩm.

"Em tha thứ cho anh được không ?".

Ánh mắt ấy vẫn còn ngây dại, chàng trai từ tốn nói, từng lời một, "Em cần tiền, Karl. Em phải trả tiền thuê phòng", vẫn nụ cười héo hắt thoáng trên môi nhưng sau đó tắt ngấm, "trừ phi anh cho phép em dọn đến ở với anh".

Tim tôi đập thình thịch, hai mắt chớp chớp.

Dọn tới đây ? Sống với tôi ? Để rồi cậu ấy nhìn thấy tôi trốn tránh ánh sáng mặt trời là thứ có thể làm tôi đến với cái chết vĩnh viễn ? Để rồi biết rõ tôi là ai, là một thứ không giống con người ư ?

Dọn tới đây ở trong lúc bóng ma của Sergei Alexandrovitch lúc nào cũng lởn vởn trong đầu tôi ư ? Sống với tôi – một người luôn mong đợi sự chuyển kiếp của Sergei lần thứ ba để chúng tôi lại được bên nhau mãi mãi ư ? Chúa ơi ! Không bao giờ.

Sergei Alexandrovitch.

Tôi cố gạt những tình cảm yêu đương khỏi đầu mình. Emil vẫn còn nhìn tôi, chờ đợi câu trả lời của tôi. Cuối cùng tôi nhận ra rằng mình đang bị kẹt cứng trong một tình thế tiến thoái lưỡng nan.

Tôi xiết chặt tay Emil, mắt tránh không nhìn vào đôi mắt cũng không dám nhìn bờ ngực trần chàng trai, nhưng tôi vẫn ngửi thấy mùi hương da thịt chàng trai. Mùi hương cám dỗ của nhục dục. Nhưng tôi chỉ thở dài.

"Anh chỉ còn ở lại đây một tháng thôi, Emil ?".

"Bốn tuần và 5 ngày mới đúng", chàng trai vẫn nhìn tôi.

"Và chúng ta đã thỏa thuận sẽ không làm gì khác..."

"Đó là anh tự nói", mắt chàng trai rơm rớm, "Vậy thì cái anh gọi là tình yêu đã vứt đi đâu rồi ?".

Chàng trai giật tay khỏi tay tôi, quay mặt vào tường, "Người ấy chính là nguyên nhân anh không muốn em đến đây sống với anh", chàng trai rít lên vì hiểu điều mình vừa mới nhận ra.

Vẫn quay lưng lại, chàng trai nói "Mọi thứ em có cho anh chỉ là cái mông này, nó chỉ giữ được anh cho tới lúc người ấy trở lại, đúng thế không ?"

Tôi nhìn thấy chàng trai trong cơn xúc động. Chàng trai làm tôi đau lòng. Phải chăng đó chỉ là cảm giác quen thuộc với sự hiện diện thường xuyên của Emil Paulik, bây giờ tôi sợ cảm thấy trống vắng nếu như chàng trai lìa bỏ tôi ?

"Tôi nghĩ tốt hơn hết là tôi nên rời khỏi chỗ này, thưa ngài Maribor", giọng chàng trai mệt mỏi vì tuyệt vọng, chàng trai đưa tay che phần thân thể trần truồng bên dưới.

"Đừng làm thế, Emil", tôi cố van nài, nhưng giọng tôi vẫn không chút tỏ ra cảm động để che lấp những tình cảm rối rắm trong lòng, tôi vẫn còn đang lúng túng trong bế tắc.

Gương mặt chàng trai thoáng nụ cười gượng gạo, "Tuần này ngài đã ba lần có tôi rồi, thưa ngài. Liệu rằng tôi được nghỉ ngơi những ngày còn lại được chứ ?". Chàng trai nhặt quần áo trên sàn.

"Emil !".

"Tuần sau tôi sẽ quay lại, thưa hoàng tử Maribor ?", giọng chàng trai lúc này đã bình lặng một cách vô cảm khi mặc quần áo vào.

"Tại sao em làm như thế ?", tôi bực tức hỏi.

"Làm gì, thưa ngài ? Chắc chắn, tôi sẽ nhận được 500 phrăng cho việc mua vui tuần này. Tôi chẳng là cái gì cả, ngoại trừ là một thằng đĩ đực không hơn không kém cho tới khi người yêu của ngài quay lại".

Chàng trai cài cúc quần và tròng chiếc áo vào người, sau đó quay lại nói, "Lúc tôi và ngài thỏa thuận, ngài chỉ nói một hay hai lân một tuần, ngài nhớ chứ ?".

Tôi lặng người, gật đầu.

"Hôm nay là thứ tư phải không ? Ngày này tuần sau tôi sẽ đến ngủ với ngài ?", chàng trai nắm chặt nắm tay, "Rất tiếc, tôi không có lý do gì nán lại lâu hơn".

Chàng trai khoác chiếc sơ mi vải thô vào người, hai tay áo vẫn lòng thòng sau mông. "Vả lại, mùa thu tới tôi sẽ phải vào học rồi".

Tôi chết cứng, trông theo cho tới lúc bóng chàng trai không còn ở trong phòng. Cánh cửa đóng sập lại nặng nề.

* *

*

Sergei vẫn kêu gọi, thôi thúc tôi trong giấc ngủ, trong bữa ăn. Ngay cả khi tôi không thể giữ chân được chàng trai bao mà tôi đã bỏ tiền mua vui một thời gian, chàng trai đã bỏ ra ngoài đêm lạnh chẳng buồn cầm xấp giấy bạc. Ngay cả khi tôi không còn thấy thân thể cậu ấy.

Đồ khốn, bây giờ em ở đâu, suốt ngày cứ thì thầm với anh, hỡi em ? Ôi, những ký ức và lời ước hẹn của Sergei đã hủy hoại mối quan hệ tuyệt vời mà tôi có được. Chắc gì Emil sẽ quay lại vào thứ tư tới ?

Tôi đã xúc phạm cậu ấy.

Tôi đã khiến cậu ấy đau lòng. Cả trái tim và danh dự người đàn ông.

Cậu ấy là một thanh niên cao ngạo từ một thế giới mà tôi không hiểu hết được.

Làm sao tôi có thể thuyết phục cho Emil Paulik tin rằng quan hệ mà chúng tôi có đươc trong hơn sáu tuần qua là thật lòng, là bao nhiêu ân ái, tình cảm trong khi tôi vẫn tiếp tục đợi chờ Sergei trở lại ? Trong suy nghĩ Emil, cậu ấy đã trao thân cho tôi vì yêu tôi. Những đêm thức khuya, những buổi sáng sớm là những giờ phút êm ái mà chúng tôi tận hưởng hương vị tình ái, nhưng cũng đồng thời là thời gian Emil khám phá bản thân mình.

Dần dần, tôi nhận ra mình đã chấp nhận tình cảm của cậu ấy. Tôi phải có trách nhiệm giúp đỡ Emil.

Tôi có thể làm cho Emil mê muội bằng những lời đường mật hoặc chính quyền năng ma quái của mình. Tôi cũng có thể tự đánh lừa mình rằng Sergei không còn tồn tại nữa, và rằng tôi đã có Emil, như thế đã quá đủ.

Nhưng lại có một Sergei Alexandrovitch, tái sinh và ở đâu đó trong thành phố Zürich này, tôi hiểu rõ điều ấy.

Và tôi chẳng thể nào để Emil sống với tôi được.

Tôi sẽ không mê hoặc Emil Paulik. Tôi không biết cách lừa dối. Cách tốt nhất để giữ cậu ấy lại chính là phải cho cậu ấy biết rõ sự thật. Tôi không cho phép cậu ấy buông thả với những người đàn ông khác, cũng không để cậu ấy quên lãng cái bản ngã vốn bị lãng quên của mình.

Hôm nay là tối thứ tư, đến rạng sáng ngày mai đã sang thứ năm rồi ? Một tuần sau chuyện tôi xúc phạm cậu ấy, vẫn không thấy Emil quay lại. Tôi đành chờ cậu ấy cho tới cuối tuần, tới tối thứ bảy. Hẳn là cậu ấy cần có thời gian, sau đó thì chúng tôi có thể gặp lại nhau.

Tôi phải làm gì để niềm đau của cậu ấy lành hẳn ? Tôi không tìm ra câu trả lời trong lúc tia nắng mặt trời le lói ở phương đông. Tôi nằm dài trên giường, cố loại bỏ những suy nghĩ không thành ra khỏi đầu.

Tôi lảng vảng kiếm mồi trên các con phố xa. Sau khi bọn cảnh sát xuất hiện trong công viên, tôi phải đi xa để kiếm ăn, tôi tìm thấy những kẻ bất đắc chí ở tuổi trung niên. Không ngờ việc đi săn lại dễ dàng đến như vậy.

Những kẻ lang thang này uống rượu cồn, những thứ rượu rẻ tiền để hủy hoại chính mình, thay vì dùng heroin như cánh thanh niên trong công viên thường dùng. Số người như vậy ở đây dồi dào hơn số thanh niên trong công viên. Nhưng, cuộc sống của họ sắp tới hồi kết thúc, không giống như cánh trẻ đã từng làm bữa cho tôi.

Cồn vào máu sẽ gây tác dụng tức thì, không giống như heroin. Nó đem lại trạng thái ngây ngất trong tôi nhưng sau khi tỉnh rượu thì khó chịu cũng như nó đã từng tác động lên con người bình thường. Lưỡi đắng ngắt giống như người đang bị bệnh.

Có quá nhiều. Nhưng tôi không giết người. Tôi có thể uống máu hai ba lần để làm dịu cơn đói. Sáng hôm sau, những nạn nhân của tôi vẫn thức dậy, đi lại, chỉ có điều trông họ yếu hơn ngày hôm trước. Không có thêm những cái chết bất ngờ nên chính quyền không chú ý hoặc nghi ngờ điều gì. Thói quen săn mồi của tôi không còn nguy hiểm nữa.

Tôi mỉm cười khi thấy một người, râu rìa, bẩn thỉu đâm bổ vào người tôi. Bữa ăn tự đến với tôi ở đây, ngay trung tâm thương mại của thành phố; tôi không cần phải đi đâu săn mồi nữa.

"Có thể cho tôi một xu không, thưa ông ?", người đàn ông lắp bắp nói.

"Một xu, chứ không phải một phrăng sao ?", tôi điềm nhiên hỏi, nhưng vẫn thấy ánh mắt người đàn ông sáng lên. Bọn người bụi đời này dễ dụ thật !

Tôi rút một tờ giấy bạc từ túi quần jeans, nhận ra đó là tờ bạc mà Emil đã bỏ lại trong tủ quần áo của tôi, tôi mỉm cười. Tôi vẫn mỉm cười khi trông thấy gã đàn ông đi xa, trong khi vẫn nghĩ đến chuyện Emil bỏ đi. Tôi là con sư tử đang trông theo chú linh dương yếu đuối.

Gã đàn ông xuất hiện gần con hẻm nhỏ. Tôi nhìn quanh, không có ai trông thấy chúng tôi. Thoắt một cái tôi xuất hiện sát bên cạnh người đàn ông trước khi người này rẽ vào hẻm, gã không đi mà bị lôi xềnh xệch vào hẻm.

"Này ! Tôi có lấy gì đâu", gã la lên, tay gã vung vẫy tờ bạc một phrăng mà tôi cho gã lúc nãy.

"Thế ông không cần tiền sao", tôi vừa nói vừa túm gã kéo sát vào người.

"Mày...!", gã giận dữ trợn mắt nhìn tôi. "Tao không quen cái lũ lại cái khốn nạn như bọn mày đâu. Đi mà kiếm người khác, để tao yên, đồ khốn !"

Tôi nhíu mày, tập trung tư tưởng lục lọi trong đầu gã, trong khi hai chiếc răng nanh trắng nhởn nhọn hoắc lộ ra. Gã lùi ra sau cho tới khi không còn lui được nữa – một con hẻm cụt. Nỗi kinh hoàng đang ngự trị cái đầu của gã mặc dù tôi đã tác động cố làm cho đầu óc gã mụ mẫm đi.

Hai chiếc răng nanh cắm vào lớp da cáu bẩn. Không quá sâu, nhưng đủ cho nhu cầu của tôi.

Gã vẫn còn vung vẫy tờ bạc khi tôi bỏ gã ngồi phịch xuống đất, mặt gã đờ đẫn, còn đầu gã lắc lư va vào tường gạch.

Lúc tôi thức dậy chiều tối thứ bảy, tôi vẫn còn nhớ Emil da diết. Tôi nhớ cậu ấy còn nhiều hơn buổi tối hôm qua. Qua tuần đầu tháng mười hai tôi đã quen thuộc với cậu ấy, thậm chí còn cảm thấy vui vẻ hơn. Tôi nhận ra rằng mình đã phải lòng chàng sinh viên đại học Zürich.

Tôi vật vã với những ý tưởng xung đột trong đầu. Tại sao tôi không đem hết chuyện quá khứ kể rõ với cậu ấy, để cậu ấy tự quyết định sẽ cư xư như thế nào với tôi ? Nếu cậu ấy yêu tôi như yêu một người đàn ông – một con người bình thường thì sao ? Có thể cậu ấy vẫn yêu một con quái vật như tôi mặc dù thế giới cậu ấy thêu dệt mọi điều kinh khủng về giống loài chúng tôi. Nếu hiểu rõ tôi là ai và vẫn còn yêu tôi thì Emil có thể sống với tôi. Lúc ấy tôi không còn gặp nguy hiểm từ phía cậu ấy.

Có lẽ tôi đã yêu cậu ấy. Tôi đã yêu cậu ấy ngay lúc đầu gặp gỡ hoặc gần như thế. Cậu ấy thật hấp dẫn đã khiến tôi phải xiêu lòng. Cậu ấy có học thức đủ trình độ thưởng thức thế giới âm nhạc cổ điển, nhạc opera. Tôi có thể đánh đàn dương cầm cho Emil thưởng thức mà không gặp bất kỳ trở ngại nào. Gia đình mà chúng tôi có thể tạo dựng nên sẽ là một chỗ dựa nâng đỡ về mặt tinh thần lẫn chuyện gối chăn.

Gia đình.

Cậu ấy luôn hiểu rằng rồi sẽ có lúc rời xa thế giới này. Để vào một nơi mà cậu ấy không hề biết được. Một thế giới mà ở đó cậu ấy sẽ già đi và sẽ chết ? Trừ phi tôi chia sẻ cuộc sống bất tử cho cậu ấy. Một gia đình mà tự thân nó trở thành bi kịch, là nỗi đau khôn nguôi, liệu rằng có nên để cậu ấy tự quyết đnh hay phải ép buộc ?

Nếu sống như tôi, Emil Paulik sẽ tận mắt chứng kiến người thân, bạn bè mình lần lượt già cỗi và rời bỏ thế giới này. Cậu ấy sẽ còn lại trong một thế giới không còn người thân nào thật sự là con người. Cái chuỗi ngày cô đơn trống vắng còn lại mới đáng sợ.

Tôi hiểu ra điều đó từ Sergei Alexandrovitch rằng hầu hết ma cà rồng chỉ muốn tự sát khi gia đình họ lần lượt ra đi. Đó là áng mây mờ bao phủ quãng đời còn lại của loài ma cà rồng.

Tôi cho rằng ngày nay ma cà rồng có sự lựa chọn thích hợp chính là lò thiêu, cũng chính là nơi tự sát lý tưởng; đó cũng là lựa chọn của riêng tôi. Nhưng, trong nhiều thế kỷ qua, lựa chọn phổ biến nhất, đó là tìm đến cái chết qua việc cho những người nông dân cuồng tín chặt đầu.

Hầu hết trong số chúng tôi không muốn sống cuộc đời bất tử khi họ nhìn thấy những người thân yêu nhất của mình lần lượt qua đời. Tôi cũng sẽ làm như thế nếu không tìm được Sergei Alexandrovitch.

Liệu rằng Emil có chấp nhận đi cùng tôi trên con đường tôi đã lựa chọn hay không khi đến với cuộc sống vĩnh cửu, có dám cùng tôi bước sang một thế giới khác mà cả hai chúng tôi hoàn toàn không biết gì ?

Trong lúc dò dẫm trong bóng tối đi lên căn hộ của Emil Paulik, tôi biết mình nên làm chuyện này. Vì cậu ấy và cũng vì tôi. Lòng tự ái riêng mình đã khiến tôi nghĩ rằng cậu ấy nhớ tôi nhiều hơn. Nhưng cũng ngay sau đó , tôi cũng biết thừa rằng ở đó vẫn còn có một người đàn bà đang thèm muốn người đàn ông của tôi.

Tôi hướng tâm linh mình đến căn hộ trước khi gõ cửa. Tôi cần tôn trọng lối sống Mỹ của Emil, tôi không muốn xâm nhập căn hộ khi chưa có sự đồng ý của người đàn ông và người đàn bà ở đấy. Đó là quyền riêng có của cậu ấy cũng giống như tôi. Do đó tôi cần biết rõ cái chỗ mà tôi sẽ bước vào, biết rõ chàng trai có hoan nghênh sự hiện diện của tôi hay không.

Có ba người bên trong ! Emil và người đàn bà đang sống với cậu ấy, còn có một người đàn ông da trắng xa lạ khác. Qua ký ức của Emil tôi biết được người thanh niên ấy là người Mỹ.

Tôi cứng người, trong lúc nắm tay sắp gõ vào cánh cửa gỗ.

Tôi lại tìm trong suy nghĩ của những người bên trong căn hộ. Emil vẫn còn buồn khi thấy tôi từ chối, nhưng đã bớt đau khổ. Thậm chí chàng trai còn cười nói vui vẻ bên trong khi nghe chàng trai người Mỹ nói chuyện, thậm chí còn hy vọng rằng đề án của mình sẽ được ứng dụng trong các quầy sách ở khuôn viên trường đại học. Họ đang uống rượu Chianti rẻ tiền và ăn món đậu hầm do người đàn bà kia nấu mang lên.

Hình như cả ba người đều quen biết nhau. Tôi lại cố gắng thâm nhập vào ký ức chàng trai người Mỹ. Không có gì cả. Người này chỉ là một người bình thường. Tôi tìm hiểu trong suy nghĩ của Josefina.

Tên anh chàng người Mỹ là Thomas MacPherson, một sinh viên trong chương trình trao đổi giữa các trường đại học, trước kia học tại đại học Maryland. Tôi sử dụng ý chí ép cô nàng nhìn vào chàng trai Mỹ để đánh giá.

Tôi nhận ra cô nàng ngượng đỏ mặt khi nghĩ rằng có thể lên giường với chàng trai kia nếu như Emil không thay đổi quá nhanh. Tôi mỉm cười khi cô nàng phỏng đoán cái vật nằm giữa cặp đùi dài của chàng trai.

Anh chàng Tom MacPherson này tóc rậm đen nhánh hơi quăn, hầu như khó mà chải xuôi được. Nhưng cô nàng có thể tưởng tượng ra cảnh lùa những ngón tay qua mái tóc ấy. Chàng trai có gương mặt hơi xương, môi dày, mũi khoằm, trán cao và đôi mắt xanh biếc. Nước da trắng ngần, hơi xanh lốm đốm tàn nhang. Đôi vai rộng, ngực nở bó chặt trong chiếc áo thun lót, cô nàng còn nhớ rằng người này là một tay bơi khá ở trường. Dù không ép cô nàng nghĩ thêm gì, nhưng cô nàng vẫn tưởng tượng ra cảnh lột trần chàng trai.

Phần còn lại e rằng óc tưởng tượng của tôi còn phong phú hơn cô nàng nhiều. Hơn rất nhiều.

Tôi suy nghĩ tìm xem vì lý do gì mà họ – ba người này – đến với nhau trong căn hộ này. Tôi nhận ra Thomas học chung hai phân môn với Emil. Josefina đang lo Emil kéo dài bữa ăn có thể say lã cò bự không đủ sức thỏa mãn cô nàng trên giường, giống như Emil đã từng làm trong suốt tuần qua. Cô nàng thích Thomas, nhưng cô chỉ mong Thomas về ngay cho.

Tôi để mặc cho cô nàng nghi ngờ không biết Emil ngủ với ai, có thể là những phụ nữ mà cô biết ở khu đại học, hoặc người Emil quen biết, hoặc là những phụ nữ mà cả hai cùng quen biết.

Tôi rút ví ra. Tôi ngẩn người khi chỉ tìm thấy 1000 phrăng trong đó. Emil xứng đáng hơn số tiền ấy vì những gì chàng trai đã trao cho tôi. Tôi lấy một mẫu giấy nhỏ đề nghị gặp tôi chiều tối thứ hai tại căn hộ của tôi, và bảo chàng trai rằng có chuyện hết sức quan trọng. Tôi nhét mẫu giấy vào kẹt cửa.

Chúng tôi sẽ gặp nhau như những người đàn ông văn minh, có lẽ cũng phải dùng vài ly whisky. Vừa văn minh vừa tỉnh táo, chúng tôi sẽ xem xét mọi khía cạnh của vấn đề như những người trưởng thành. Nếu cần, tôi sẽ an ủi vỗ về để cậu ấy quay về với Josefina. Và tôi sẽ trả cho cậu ấy một số tiền 500 phrăng mỗi tuần cho tới hết khoảng thời gian học còn lại của cậu ấy. Thứ hai, tôi sẽ rút tiền trong ngân hàng để giải quyết chuyện tiền nong giữa tôi với cậu ấy.

Ái chà ! Một dự tính hoàn hảo giữa đàn ông với nhau.

* *

*

Tôi đang ngủ ngon giấc trong ngày chủ nhật, vì biết rõ việc mình cần làm với Emil, như thế thân phận của tôi sẽ không bị tiết lộ, mà có mà có thể kiếm mồi ở Zürich an toàn. Gần sẫm tối tôi mới thức dậy. Đó là thời khắc thức giấc bình yên nhất mà tôi có được từ khi sống lại từ ngôi mộ cổ trên núi băng qua vùng biên giới Nam Tư – nguồn cội tổ tiên tôi.

Một khi cắt đứt quan hệ với Emil, thì tôi có thể toàn tâm toàn ý tìm kiếm Sergei Alexandrovitch. Một khi tìm được, cậu ấy cùng tôi sẽ sống hết quãng đời còn lại của mình trong cái thế giới phàm tục nhưng an nhàn này. Trừ phi cái lũ quái vật người Mỹ kia có đủ quyền lực làm bá chủ thế giới.

Có mùi Schubert (?) khi tôi rời khỏi giường và tránh vào góc tối của gian phòng. Vẫn còn thấy vo ve trong đầu, tôi đi vào phòng tắm mở vòi sen tắm rửa.

Tôi mặc quần áo thong thả, để tự mình cảm nhận lớp vải thô nhám lướt qua lớp da trên đùi, háng, và hai bên hông. Quần Jeans được một người Do thái ở miền Viễn Tây nước Mỹ khuếch trương dùng cho những chàng cao bồi. Tôi mỉm cười, không biết hàng ngàn chàng trai cao bồi thời xưa và hàng triệu người trên thế giới của năm 2005 đang yêu thích mẫu quần vải dày nhám của Ông Levi có biết rằng ông là người Do thái hay không.

Lớp vải dày ma sát lên cái của quý trần trụi khi tôi đi lại trong căn hộ bình thường cũng đủ khiến tôi phải cương lên. Tiếng thì thầm của Sergei Alexandrovitch ở đâu đó trong thành phố Zürich giúp tôi mãi nghĩ ngợi mà không phản ứng trước sự ma sát của vải quần.

Tôi ngồi trong phòng khách thắp đèn sáng trưng, lúc này tâm trạng bình lặng và thanh thản, tôi có thể ngồi im thưởng thức bản Eine Kleine Nachtmusik của Mozart ghi trên băng từ mà Emil đã giúp tôi chọn mua.

Tôi đang mơ màng về chàng trai trẻ phàm tục, hòa theo khúc nhạc du dương, thì lúc ấy có ai đó đập cửa rầm rầm.

Tôi trở lại thực tế, trong lòng bực tức vì bị phá đám. Chẳng khác gì có kẻ nện búa ngoài cửa. Sôi giận, tôi lắc người bay qua gian phòng rộng tới mở cửa, mắt tóe lửa như sẵn sàng ăn tươi nuốt sống kẻ phá hoại, dù đó là cảnh sát cũng mặc.

Emil đứng đó, chàng trai giơ nắm tay định đập lên cánh cửa gỗ. Tôi chỉ thấy một mình Emil, đau khổ và giận dữ hiện lên trên nét mặt. Sự sợ hãi hiện ra khi chàng trai nhận ra tôi xuất hiện đột ngột, sợ hãi chen lẫn bối rối.

"Emil đấy ư !", tôi ngạc nhiên nói, "Vào đây nào".

"Đừng vào !", có tiếng la giọng như bị nghẹt mũi từ sau lưng Emil, ở chỗ tối.

"Tại sao ông đến chỗ tôi mà còn để lại cái chó chết này ở đó ?" Emil hậm hực nói, chìa mảnh giấy ra, không nghe tiếng của người đi theo Emil nói gì.

"Anh chỉ muốn công khai giải quyết chuyện giữa hai ta", tôi đáp và bỗng nghe người đi theo Emil hét lên một tiếng rồi người này ngã xuống sàn nhà.

"Ai đi cùng em vậy ?", tôi hỏi, vừa bước ra ngoài ngạch cửa nhìn về hướng người đàn ông bị ngã.

"Cậu ấy...", Emil ngừng lại, lúng túng vì cơn giận đưa Emil tới đây nhưng không biết phải làm gì khi người bạn đi cùng lại bỗng vô cớ ngã gục xuống sàn.

Tôi đỡ người đàn ông đang bất tỉnh vào căn hộ của mình. Tôi nhận ra đó là chàng trai tóc đen Tom MacPherson đêm hôm trước tới nhà Emil.

Emil vẫn đứng ở lối vào trông chừng khi tôi đặt người bạn của cậu ấy nằm lên sofa. Tôi thâm nhập vào qua bề nổi ký ức của chàng trai. Không có gì có thể giải thích việc ngất xỉu bất ngờ này. Trong lúc quỳ bên cạnh chàng trai, tôi cố đào sâu hơn trong tâm tưởng chàng trai. Qua từng ý tưởng của não bộ.

Sergei Alexandrovitch !

Tôi ngồi bệt xuống sàn, sững sờ nhìn.

"Cậu ấy có sao không ?", Emil hỏi, bây giờ sự mâu thuẫn giữa cơn giận vì tôi và sự ngạc nhiên về cú ngã bất chợt của người bạn đã qua, Emil bước hẳn vào trong nhà.

"Đóng cửa lại đi", tôi nói nhưng không rời mắt khỏi Sergei của tôi đã trở lại.

"Cậu ấy bị làm sao vậy ?", Emil hỏi khi đóng cửa lại. Chàng trai đi vòng ra sau sofa, lo lắng vì người bạn trai.

"Sao em lại đưa anh ta tới đây ?", tôi gặng hỏi.

"Em...em...".

Tôi liếc nhìn chàng trai đứng đó mà tôi hầu như đã trao hết tình cảm của mình cho chàng trai, mà run thầm. Tôi phải cân nhắc chuyện ấy như thế nào khi Sergei của tôi quá gần ? Tôi đã gây tổn thương anh chàng Emil Paulik biết bao nhiêu ?

"Em sợ... anh...", chàng trai cố lựa lời nói, gương mặt đỏ dừ bối rối.

"Anh sao ?".

"Em yêu anh, còn anh thì sao ? Mọi thứ anh cần chỉ là muốn đụ em thôi". Chàng trai quay mặt đi, tránh ánh mắt của tôi. "Sau đó anh để lại tờ giấy này. Em sợ đến gặp anh một mình. Em sợ anh lại sẽ lôi em lên giường, em không cưỡng lại được".

Tôi đứng dậy. Không có chuyện gì sai với anh chàng Tom MacPherson này, nhưng anh ta đã nhận ra tôi. Würther trước đây cũng thế, phải một hai ngày hôn mê để đánh thức linh hồn của cậu ấy để giúp cậu ấy nhớ lại mọi chuyện trong quá khứ và nhận ra tôi.

Hình như, linh hồn Sergei Alexandrovitch đã rút kinh nghiệm từ lần ấy; anh chàng Tom MacPherson khi nhận ra tôi vẫn khỏe mạnh như một phần sự hiện hữu của người này. Người thanh niên ít nhiều cũng có sự nhận biết từ trước rồi.

"Cậu ấy có biết em và anh thân thiết với nhau không ?", tôi gieo mình lên ghế, hỏi, nhưng vẫn tiếp tục theo dõi tình trạng vô thức của người thanh niên, cố nghiên cứu hiện thân của Sergei để tôi có thể hiểu người thanh niên đây đủ cũng giống như anh ta hiểu về tôi.

Sự do dự của chàng trai khiến tôi chú ý. Tôi nhíu mày khi nhận thấy sắc diện Emil thay đổi, xanh mét.

"Cậu ấy biết, đúng thế không ?", tôi gặng hỏi.

"Karl, khi em rời khỏi nơi đây sáng thứ năm rồi em thật sự đau khổ", chàng trai lí nhí nói, "Em có đến chỗ anh ấy ?. Em không muốn Josefina biết chuyện này nhưng em cần phải nói cho ai đó cho vơi sầu".

Tôi gật đầu, nở nụ cười gượng gạo, "Ngồi đi, Emil. Uống một ly whisky nhé ?".

Chàng trai khẽ gật đầu đi vòng qua sofa, sang ngồi ở chiếc ghế đối diện với tôi trong lúc tôi ra quầy để rượu, rót một ly cho chàng trai.

"Em muốn biết chuyện em làm có gây ảnh hưởng gì không", chàng trai nói tiếp khi tôi trao ly whisky cho cậu ấy.

"Trước đây, người này có biết em đến gặp anh không ?".

"Không. Nhưng anh ấy biết em kiếm được nhiều tiền bằng cách bán thân ở công viên. Vì có lần em đã kể cho anh ấy nghe chuyện đó khi anh ấy phàn nàn về cuộc sống túng quẩn. Chuyện đó xảy ra vào mùa hè, chỉ sau khi anh ấy đến trường này".

"Và em đã kể cậu ấy nghe về những thỏa thuận của chúng ta ? về quan hệ của chúng ta phải không ?"

Emil gật đầu. "Tom không phải là người đồng tính. Đó là lý do tại sao anh ấy không ra công viên. Nhưng anh ấy hiểu hết. Anh ấy ở một thành phố khác nước Mỹ, ở đó cũng có những công viên giống như ở đây, nhiều người trong số bạn bè anh ấy cũng kiếm tiền giống như cách em làm. Vài người trong số đó là gay. Vì thế em mới tới chỗ anh ấy. Anh ấy sẽ hiểu và thông cảm hơn bất kỳ ai khác mà em quen biết".

"Có vẻ cậu ấy hiểu được. Và tối qua cậu ấy ở lại căn hộ của em".

Chàng trai giật mình nhìn tôi, "Làm sao anh biết chuyện đó ?"

Tôi thở dài. Bây giờ tôi có được Sergei Alexandrovitch của mình, người thanh niên này – người có một phần quá khứ của tôi. Dẫu sao, cậu ấy đáng được biết mọi chuyện. Cậu ấy đáng được biết sự thật. Hy vọng cậu ấy sẽ chấp nhận sự thật đó.

"Anh đọc được ý nghĩ của em và Josefina. Trước khi để lại tờ giấy đó".

"Đọc được trong đầu tụi em à ?", chàng trai nhìn tôi với vẻ nghi ngờ.

"Emil, em quen biết anh chưa đầy hai tháng. Tuy nhiên, anh vẫn hy vọng em nên hiểu rằng không bao giờ anh có ý làm hại em, ngay cả việc anh làm vừa qua", tôi lắc đầu và cảm thấy căm ghét chính mình. "Chắc là em phải khó khăn lắm mới có thể hiểu được những điều anh nói với em. Khó khăn lắm mới có thể chấp nhận sự thật. Anh sẽ bắt đầu với việc anh là loại người gì."

"Anh là thứ gì ?".

Tôi gật đầu. "Anh đã gần 160 tuổi rồi, Emil". Tôi thấy đôi chân mày chàng trai nhướng cao khi nghe tôi nói. "Anh là một con ma cà rồng", tôi nói tiếp không để cho chàng trai phản đối.

Chàng trai bật cười "Làm như là anh có thể bắt em đến đây vậy, Karl". Emil nói, câu chuyện có vẻ hài hước hơn cả nỗi đau trong lòng chàng trai.

"Anh đúng là như thế", tôi mở miệng, hai chiếc răng nanh bỗng dài ra. "Anh sẽ không làm hại em, anh hứa như thế. Nhưng em phải hiểu chuyện này từ đó mới có thể hiểu những chuyện còn lại. Em có nghe lúc anh ra mở cửa không ? Em có cảm giác không kìm được sợ hãi trước anh không ?". Chàng trai gật đầu, ánh mắt vẫn không rời hàm răng của tôi.

Chiếc mũi tôi dài ra thành chiếc mõm, lông lá mọc ra và bao phủ thân thể. Hai lỗ tai dài sọc và tôi không còn ngồi như một con người hai chân.

Tôi nhảy khỏi chiếc ghế và chạy lăng quăng trong phòng, rồi kê mõm đánh hơi chân chàng trai trong khi Emil trừng trừng nhìn tôi, cái đuôi của tôi lúc lắc vung vẫy qua lại. Tôi lè chiếc lưỡi chó sói liếm đôi giày chàng trai. Tôi sủa lên khi chàng trai rút tay khỏi đùi. Cái nhìn kinh hãi trên gương mặt chàng trai làm tôi vừa ý. Tôi quay lại chiếc ghế của mình.

Tôi trở lại hình dạng con người và khi đi ngang qua chàng trai, tôi mỉm cười. Tôi với tay lấy chiếc quần lót nằm dài trên ghế vội mặc vào. Tôi mặc quần áo với tốc độ chóng mặt – tốc độ của một con quỷ chứ không phải người thường.

"Thấy chưa ?", tôi hỏi khi quay lại đối diện với Emil.

"Chúa ơi !", chàng trai cà lăm, hớp vội một ngụm whisky. Chàng trai cứ trân trối nhìn tôi.

"Anh không làm gì hại em, trước đây không có, bây giờ không và sau này cũng không, Emil", tôi nói cố trấn an chàng trai.

"Nhưng em thấy anh đi ra ngoài giữa ban ngày ?".

"Vào cuối thu ư ? Phải, đó là lúc mặt trời yếu ớt nhất. Cho dù thế, anh vẫn phải ăn măc kín đáo. Nhưng vào hè, anh phải tránh xa ánh nắng".

"Vậy tại sao anh không cho em dọn về ở với anh ?"

Tôi lắc đầu.

"Tại sao vậy ?", chàng trai hỏi, "Sao anh không chiếm đoạt em ? Giết em cũng còn được mà ? Hoặc có thể khiến em thích anh ?".

"Anh làm chuyện ấy khi mà danh dự và trách nhiệm vẫn còn là điều hết sức có ý nghĩa", tôi giải thích, "Vì sao anh thỏa thuận với em ? Vì rằng anh muốn khi sống với nhau phải có sự đồng ý tự nguyện".

"Nhưng em lỡ yêu anh rồi. Điều ấy còn hơn cả sự thỏa thuận kia nữa. Hoàn toàn khác nhau".

"Và anh sẽ gặp nguy hiểm nếu phải lòng em. Sau khi em đi rồi, anh nghĩ phải nói rõ cho em biết mọi việc về mình, và nếu như em vẫn còn cần đến anh, thì anh sẽ giúp em".

"Nhưng em yêu anh", chàng trai chậm rãi trả lời, "Và sau này em vẫn sẽ yêu anh".

"Không được".

Lời nói như cát tát vào mặt chàng trai.

"Anh không thể", tôi hấp tấp nói tiếp, "chuyện đó không tốt cho em đâu, Emil. Hầu hết những con ma cà rồng như anh đều tự sát vì họ không thể chịu đựng nỗi cô đơn và đau khổ thường trực hàng ngày hàng giờ".

"Nhưng em có anh rồi, em không sợ gì hết".

"Không đúng đâu. Bạn bè rồi cũng già, người thân trong nhà rồi cũng phải ra đi. Em còn có những hoài bão và hy vọng trong tương lai – mọi việc rồi sẽ đâu vào đấy. Ngoài ra, anh sẽ không có mặt, buồn phiền rồi cũng qua đi".

"Tại sao em không yêu anh được chứ ?", chàng trai khăng khăng, "Em sẵn sàng làm người đồng tính vì anh, ngay cả làm ma cà rồng như anh cũng được. Anh phải đáp lại tình em. Đó là tình yêu. Rồi hai ta sẽ nương tựa nhau. Có gì phải buồn, phải khổ ?".

"Em nói không sai, Emil. Nhưng anh có người yêu rồi".

"Scheiße (đồ rác rưỡi) !", chàng trai quay lại nhìn anh chàng Tom MacPherson bất tỉnh đang lẩm bẩm, chàng trai nói, "Trước đây em có nghe câu này".

"Em nghe, nhưng chắc em không hiểu đâu".

"Người yêu anh là ai vậy ?"

"Đang nằm trên sofa đó", tôi đáp.

Chàng trai quay lại nhìn tôi, "Tom sao ? Cậu ấy đâu phải là dân gay".

"Nhưng đúng như thế đấy".

"Thôi được, cứ cho là thế. Nhưng làm thế nào mà Tom trở thành người yêu anh được chứ ?".

"Vậy em có tin anh là ma cà rồng không ?", tôi hỏi nhưng chỉ là mở đầu.

Chàng trai nhìn tôi một lúc, "Hơi hơi tin. Em chưa từng thấy người nào có răng nanh dài như răng anh. Mà em cũng không thể ngờ con người lại có thể biến thành chó rồi trở lại thành người".

"Nhưng còn một chuyện khác chắc em khó chấp nhận được, sự chuyển kiếp – luân hồi".

"Đầu thai ư ?", chàng trai cười ngất.

"Trong lễ kỷ niệm một năm ngày thành lập đế chế Đức – Phổ, anh gặp một người quý tộc Nga, lúc ấy là đại sứ của Sa hoàng. Bọn anh đã phải lòng nhau".

"Vào năm 1871 sao ?", chàng trai nhìn tôi với vẻ không tin.

"Lúc ấy, anh được hai mươi ba tuổi".

Vẻ nghi ngờ vẫn còn trên nét mặt chàng trai, "Vậy là anh sinh năm 1847 sao ?"

"Chuyện xảy ra vào cái năm trước khi có cuộc nổi dậy ở Vienna kết thúc bằng sự thu tóm quyền lực của Mitternicht và đưa Franz Josef đến ngai vàng".

"Chúa ơi !"

"Sergei Alexandrovitch cùng anh đi khắp nơi, đã qua hầu hết thủ đô các nước châu Âu suốt hai năm liền. Cậu ấy rất hiếu kỳ và là người không muốn mình già đi. Dù sao, cậu ấy cũng tìm được một con ma cà rồng chạy từ Paris đến Odessa. Cậu ấy dùng tiền bạc để đánh đổi cuộc sống bất tử".

Emil tròn xoe đôi mắt, cố không tin tôi, mặc dù trước đó đã được tôi chứng minh sự thật.

"Năm 1874, anh đến Odessa, lúc trở về anh bị bệnh nặng. Anh đã cận kề cánh cửa tử thần. Anh chỉ còn sống được vài giờ, thì cậu ấy đến. Cậu ấy cho anh máu của cậu ấy, để biến anh thành một con ma cà rồng như cậu ấy".

Emil chớp mắt tỏ ý hiểu chuyện, "Nói vậy, cái anh Sergei ấy chính là Tom nằm đây phải không ?".

Tôi gật đầu. "Cậu ấy chết lần đầu vào năm 1905 trong cuộc nổi loạn ngày chủ nhật đẫm máu ở Petrograd. Cậu ấy trở lại với anh vào năm 1935 trong hình hài một cha phó nhà thờ trên lãnh địa của anh, ở miền Nam nước Áo. Sau đó trong lúc chạy trốn bọn Quốc xã, chúng đã giết cậu ấy. Bây giờ cậu ấy trở về với anh, đang nằm trên sofa".

"Lần đầu anh ấy chết như thế nào ?"

"Một người Cô-dắc chặt đầu cậu ấy trong cuộc nổi loạn".

"Còn lần thứ hai ?"

"Bị bắn chết".

"Súng đạn có giết được anh không ?"

"Anh không nghĩ như thế", tôi nhún vai, "Anh chỉ biết có hai thứ dẫn đến cái chết : chặt đầu và sức nóng cực độ".

"Vậy sao anh ấy lại chết vì bị bắn ở lần thứ hai ?".

"Cậu ấy từ chối không muốn trở thành quỷ dữ khi bản thân đang là một cha phó".

"Nhưng anh ấy ngủ với anh chứ ?"

Tôi gật đầu.

"Lúc đó anh ấy cũng yêu anh phải không ?".

Tôi lại gật đầu.

"Chuyện gì sẽ xảy ra nếu lần này anh ấy lại không muốn trở thành ma cà rồng ?".

"Anh không biết nữa, Emil ?. Chuyện đó tùy vào quyết định của cậu ấy, nhưng anh vẫn hy vọng chứng viêm khớp và đột quỵ của người già sẽ khiến cậu ấy muốn được trẻ mãi".

Emil hiểu những điều tôi nói, chàng trai liếc mắt nhìn người thanh niên bất động trên sofa. "Tại sao anh lại kể em nghe chuyện này ?", không nhịn được, chàng trai liền hỏi.

"Để em hiểu vì sao anh không thể là người yêu của em được".

"Vậy anh tính làm gì với em đây ?".

"Không làm gì hết", tôi cười khúc khích, "Cũng có thể ngày mai anh ra nhà băng rút tiền và cho em 14.000 phrăng, coi như đó là biểu hiện của tình bạn với em".

Tôi khựng lại, vì nhớ ra chính mình đã đánh thức tính dục đồng giới nơi chàng trai này, nay vì Sergei Alexandrovitch tôi lại bỏ rơi Emil. "Anh có năng lực làm cho em quên anh đi và quên những điều chúng ta đã làm với nhau. Em có thể quay về sống với Josefina thoải mái".

"Nhưng em muốn nhớ đến anh, nhớ đến những gì chúng ta đã có với nhau, Karl", chàng trai cúi gầm mặt nhìn hai tay, lẩm bẩm, "Em cũng muốn anh nhớ em nữa. Ước gì em có cơ hội để giành lấy anh, nếu không có chuyện gì xảy ra giữa anh và Tom".

"Thật sao ?", tôi nhìn chàng trai, "Vậy em muốn giữ nguyên tình trạng giới tính như thế này mãi sao ?"

Chàng trai gật đầu. "Em chỉ mong dù anh ở bất cứ nơi đâu cũng liên lạc với em thường xuyên".

"Nếu em lớn tuổi hơn một chút, em sẽ không làm thế đâu và em cũng thừa biết rằng anh không thể mà".

"Em vẫn cứ nuôi hy vọng anh sẽ cho em một cơ hội như anh đã dành cho Tom".

"Sẽ bất tử hay tình yêu ?".

"Cả hai".

Tôi thở dài. "Anh chỉ có thể cho em cuộc sống bất tử, chờ tới khi vết thương lòng mà anh đã gây ra cho đến khi lành hẳn".

Tom bỗng rên lên, tôi thâm nhập vào đầu chàng trai. Thật ngạc nhiên, tôi thấy người thanh niên đã hồi phục nhận thức trở lại. Trong đầu Tom hiện lên những ý nghĩ rối rắm cùng với việc nhận biết tôi là ai, chúng tôi đã sống như thế nào. Nhưng tôi cũng tìm thấy sự phản kháng, phủ nhận từ ý thức chàng trai.

Người thanh niên cảm nhận sự tồn tại của tôi. Chàng trai người Mỹ cựa mình trên sofa.

Sự đồng hóa ý thức của chàng trai diễn ra trong chớp mắt nhanh hơn cả trường hợp của Würther.

"Anh nghĩ trong vài phút nữa, cậu ấy có thể đi lại bình thường, Emil. Cậu ấy đang cố phản kháng lại những hồi ức quá khứ, của hai chúng tôi", tôi mỉm cười và cảm thấy mệt mỏi, "Anh sẽ mang cậu ấy ra ngoài cửa chỗ cậu ấy ngã, nhưng em nên đưa cậu ấy về nhà".

HẾT PHẦN 5

PHẦN 6

ND : Đây là một truyện dài nhiều tập viết về thế giới của bóng tối, thế giới của những sức mạnh siêu nhiên từng ngự trị ở châu Âu từ lâu và kéo dài tận thế kỷ 21, thế giới của loài ma cà rồng (vampires) mà trong đó, nếu loại bỏ một số yếu tố tưởng tượng và những đoạn mô tả về đời sống của ma cà rồng, có lẽ chúng ta sẽ nhận ra tính nhân văn sâu sắc. Truyện có đề cập đến vấn đề đồng tính nhưng chỉ thoảng qua, mà đi sâu khai thác các khía cạnh lịch sử đầy kịch tính. Nhân vật chính xuất thân từ hoàng tộc mang dòng máu lai Áo – Hung đã trở thành ma cà rồng... Nguyên tác là tiếng Anh, nhưng nhiều chỗ pha trộn ngôn ngữ khác như Pháp, Đức cùng với những bối cảnh có liên quan đến lịch sử xa xưa của các quốc gia châu Âu, hoàn toàn xa lạ với người dịch. Với kiến thức giới hạn, và chỉ với mục đích giải trí nên Vũ Quốc tạm dùng những cụm từ thay thế hợp lý để diễn đạt ý tưởng, rất mong độc giả lượng thứ. Cũng cần nói rõ, nội dung truyện chỉ là sản phẩm tưởng tượng, mọi chi tiết về con người, địa danh, sự kiện đều không có thật và nếu có trùng hợp với ngoài đời cũng chỉ là sự ngẫu nhiên.

Tôi đứng ở góc phòng há hốc miệng vì xúc động, nhìn Emil chằm chằm. Mặt trời tháng chạp vẫn còn chiếu những tia sáng yếu ớt qua cửa sổ gian phòng. Chỉ mới hai ngày qua, lúc đó Tom MacPherson còn nằm bất tỉnh trên sofa trong lúc nội tâm chàng trai đấu tranh dữ dội với một sự thực có được qua nhiều kiếp người, như tôi từng giải thích điều ấy với chàng trai đứng trước mặt tôi bây giờ. Nhưng lúc này đây, Tom đang ở Đại Tây Dương, có lẽ đang đón ánh mặt trời.

"Karl, em xin lỗi", Emil lại xin lỗi, chàng trai cầm tay tôi an ủi, những ngón tay xiết chặt bắp cơ.

"Không thể như thế được !", tôi lẩm bẩm khi biết tin chuyến bay của Sergei Alexandrovitch.

Không thể tin được.

Würther không lẫn trốn tôi khi cậu ấy khôi phục ký ức và biết tôi là ai. Sergei Alexandrovitch trở về với tôi. Nhưng anh chàng Tom MacPherson lại lẫn trốn tôi.

"Phải chấp nhận đi, Karl", Emil nói. Tôi nhìn chàng trai – chàng trai và ly whisky đang cầm trên tay đưa cho tôi.

"Anh...".

"Uống đi", chàng trai nói, "Nó sẽ giúp anh bớt buồn". Tôi biết uống rượu sẽ tác động như thế nào với mình. Tuy nhiên, một cách máy móc, tôi cầm ly whisky nốc gần nửa ly mà chẳng để ý gì đến mùi vị của ly rượu.

Tác dụng của rượu xảy ra gần như tức khắc. Đôi chân tôi run lên vì suy yếu, trạng thái ngẩn ngơ hầu như chiếm lĩnh cả hồn tôi. Tôi đổ gục xuống chiếc ghế ngay sau lưng nhưng mắt vẫn không rời khỏi gương mặt Emil.

"Kể cho anh biết chuyện gì xảy ra, mọi chuyện kể từ lúc em đưa cậu ấy về nhà", tôi vừa nói vừa đặt ly rượu lên bàn bên cạnh.

Emil ngồi ở chiếc ghế đối diện. "Anh ấy cứ lầm bầm tiếng gì nghe lạ lắm, nghe giống như tiếng Nga thì phải".

Tôi giục, "Cứ tiếp tục".

"Về được nửa đường, thì anh ấy lại nói tiếng Đức, nghe anh ấy nói có vẻ trôi chảy lắm, nhưng chẳng ăn nhập vào đâu, Karl ạ".

"Cậu ấy trở thành Sergei Alexandrovitch và sau đó là Würther". Tôi len lỏi vào suy nghĩ chàng trai, đào bới trong ký ức và nghe lại giọng nói của Würther. Một lần nữa tôi nghe Würther bảo tôi bỏ chàng trai lại trên cánh đồng nhung tuyết. Rồi cơn đau nhói khi những viên đạn cắm vào thịt da, làm gãy xương và phá tung buồng phổi. Và cả việc cậu ấy từ chối không muốn cuộc sống bất tử. Tôi run rẩy. Có nhiều lúc khó mà quên được chuyện quá khứ.

Tôi nhếch mép cười cay đắng, "Cậu ấy bây giờ cũng đang hồi tưởng chuyện cũ trong kiếp sống của Würther", tôi bảo Emil, "Một dòng ký ức không ngừng tuôn chảy".

"Làm sao anh biết ?", chàng trai tỏ ra nghi ngờ.

"Anh vừa tìm thấy trong ký ức của em. Anh nghe cậu ấy nói lại chuyện cũ". Hình bóng Emil bỗng mờ đi khi nước mắt tôi rưng rưng.

"Anh Karl !", chàng trai nhảy bổ đến quỳ trước mặt tôi, "Anh đang chảy máu kìa !".

Nước mắt tôi rơi vì Sergei Alexandrovitch, vì Würther đang hấp hối trên cánh đồng hoa nhung tuyết. Tiếng gọi giật của chàng trai làm tôi quay về với thực tại. "Ở đâu ?".

"Xung quanh mắt anh. Anh không sao chứ ? Hay để em gọi bác sĩ ?".

Tôi lấy chiếc khăn tay trong túi trước lau mặt mình. Lúc này tôi đã thấy rõ ràng. Chiếc khăn tay một màu đỏ thẫm, màu của máu tươi. Tôi bật cười.

"Không sao cả, anh bạn".

"Chắc không ?".

Tôi gật đầu. "Nước mắt em à !".

"Nước mắt sao trông đỏ như máu ấy ?".

"Nước mắt loài ma quỷ bọn anh giống như máu, Emil ạ. Nhưng nước mắt vô hại".

Chàng trai dựa người vào ghế nhưng vẫn nhìn tôi chăm chú, "Sao không nói sớm ? Em còn tưởng anh sắp đi chết vì bị tình phụ nữa chứ ?".

"Cứ ngồi đàng hoàng và kể hết câu chuyện đi, Emi".

"Em đưa anh ấy về phòng, để anh ấy ngồi đó cho tới khi tỉnh táo hẳn thì em mới về".

"Lúc trở lại thành Tom MacPherson, cậu ấy có nói gì không ?", tôi hỏi.

Chàng trai cười, nói : "Anh ấy nói chắc là chơi hàng lạ nên bị phê dữ quá, nhiều chuyện lộn xộn trong đầu". Chàng trai để ý thấy tôi cau mày lo lắng. "Bây giờ ma túy có nhiều thứ lắm, có thứ gây ra ảo giác, nó làm cho anh thấy cả những chuyện thực tế không xảy ra và làm sai lệch cảm nhận của giác quan. LSD cũng là một trong số những thứ ấy".

"Cậu đã dùng ma túy sao ?".

"Em không biết rõ lắm. Nhưng người Mỹ thỉnh thoảng cũng có cái cách diễn đạt kỳ cục như vậy. Có lẽ đó là cách anh ấy cố giải thích chuyện xảy ra với mình chứ không có gì đâu".

Tôi gật đầu.

"Sau đó thì anh ấy cũng không nói gì nữa. Và em ra về". Emil cười gượng, "Em cũng có vài chuyện cần suy nghĩ kỹ, nhưng trông anh ấy không có gì đáng ngại đâu".

"Trước khi cậu ấy đi, em có gặp cậu ấy chứ ?".

"Em đưa anh ấy ra sân bay, Karl ạ. Chuyện ấy cách đây 4 giờ. Anh ấy bảo anh ấy phải về sớm".

"Sớm là thế nào ?".

"Tụi em còn học chung vài tuần nữa trước các ngày lễ cuối năm".

"Nói tiếp đi".

"Em hỏi anh ấy tại sao như vậy. Anh ấy nói rằng anh ấy nhận ra có quá nhiều chuyện về bản thân, những chuyện mà có nằm mơ anh ấy cũng không hề nghĩ tới, nên anh ấy cần có thời gian suy nghĩ có nên chấp nhận hay không".

"Cậu ấy có nói gì về anh không, hoặc là những chuyện có liên quan hồi đó ?".

"Anh ấy không nói thẳng ra. Em cũng cố hết sức gợi chuyện vì em biết anh cần anh ấy". Emil buồn bã cúi đầu, mân mê tay mình, mà không nhìn thẳng vào mắt tôi.

"Anh ấy nói có nhiều chuyện anh ấy không hiểu được. Những chuyện làm anh ấy sợ hãi khi nghĩ đến chúng. Anh ấy phải tránh xa Zürich, tránh xa mọi người ở đây, để anh ấy có thể bình tĩnh cân nhắc và đối diện với những chuyện đó".

"Như vậy cậu ấy không chối bỏ anh chứ ?".

"Không đâu, Karl, anh ấy không chối bỏ anh. Điều anh ấy cần là một "breathing space" ".

"Breathing space là cái gì ?", hai đầu chân mày tôi nhích lại gần. "Cậu ấy là người thường, vẫn hít thở tự nhiên đấy thôi. Các tế bào trong cơ thể người cần oxy, buồng phổi cậu ấy chẳng phải vẫn đang cung cấp oxy đấy sao ?".

Emil nhăn mặt, "Cái anh này, đó là thành ngữ; nó có nghĩa là anh ấy cần xa anh một khoảng cách nhất định để nghiền ngẫm về anh, về bản thân anh ấy".

Bây giờ thì tôi đã hiểu. May là rượu chỉ tác động lên cơ thể ma cà rồng trong một thời gian ngắn. Tôi đứng dậy đi qua đi lại trong gian phòng hẹp.

Tôi đã ngu ngốc không giữ cậu ấy lại đây và chăm sóc cậu ấy như đã từng chăm sóc Würther. Để giúp cậu ấy vượt qua những khó khăn khi thay đổi nhận thức về tiền kiếp của mình. Lòng tự trọng khiến tôi không ép buộc cậu ấy nhìn nhận mình. Ngay cả một chút liên lạc như một người bình thường cũng không có. Tôi chỉ biết tự trách mình.

Bây giờ cậu ấy đã đi rồi, đi sang tận nước Mỹ rồi. Tôi chẳng còn làm gì được cho cậu ấy. Đi bằng máy bay vượt tường âm thanh, cậu ấy hẳn đã đi qua Luân Đôn, có lẽ qua cả Iceland cũng nên. Hình ảnh bản đồ Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ cứ lởn vởn trong đầu tôi.

Đất nước ấy to quá !

Tôi đứng trước sofa, quay lại nhìn Emil, cảm thấy tuyệt vọng vì chẳng biết tìm đâu ra anh chàng Tom MacPherson trong một quãng đường dài hàng ngàn cây số.

"Cậu ấy từ đâu tới ?", tôi hỏi, đơn giản chỉ muốn biết thêm ít nhiều về người thanh niên ấy, biết đâu Emil biết được điều gì, mà qua đó tôi có thể lần ra dấu vết cậu ấy.

Chàng trai nhún vai, "Em cũng không rõ. Nghe đâu anh ấy từ đại học Maryland. Khoan đã ! Có lần em nghe anh ấy nói anh ấy ở Baltimore hoặc gần đó".

Tôi gieo mình xuống sofa, lắc đầu vì không biết phải tìm cậu ấy nơi nào. Tôi có thể xem trộm thông tin ở phòng giáo vụ nếu như tôi biết sử dụng vi tính, tôi có thể xem hồ sơ cá nhân cậu ấy ở trường đại học.

Ý nghĩ của tôi đến đây dừng lại. Tôi đã nghĩ ra cách tìm được cậu ấy. Tôi có thể tìm ra mọi thứ ở trường đại học để biết rõ về anh chàng sinh viên này. Tất cả những điều tôi phải là đi gặp Marcus Bönner.

"Anh có định tìm anh ấy không ?", Emil hỏi.

Tôi gật đầu, "Anh có thể tìm ra địa chỉ cậu ấy, gia đình cậu ấy".

"Có muốn em đi cùng với anh không ?"

Tôi nhìn Emil với vẻ ngạc nhiên.

"Em biết, nếu chúng ta tìm ra anh ấy và anh ấy cần có anh, thì anh thuộc về anh ấy, Karl. Nhưng anh cần em giúp anh ấy chấp nhận anh và chấp nhận những điều anh làm cho anh ấy. Nếu không, anh ấy cũng có thể lại bỏ đi mất và anh không bao giờ tìm anh ấy được nữa".

"Em chịu làm chuyện này sao ?", tôi hỏi nhưng không giấu được vẻ nghi ngờ.

"Em yêu anh, Karl. Bây giờ em hiểu rõ điều ấy. Nhưng anh không yêu em cũng không thành vấn đề. Anh chăm sóc cho em. Anh thích em. Anh còn muốn là bạn em. Bấy nhiêu, đối với em là đủ rồi", chàng trai cười chua xót, nước mắt long lanh khóe mắt chàng trai.

"Cái duy nhất em nhận được chính là được giúp anh. Anh không thể đi lại dễ dàng suốt từ sáng đến tối được".

"Nếu đi tìm cậu ấy chắc phải mất nhiều thời gian, lẽ nào em đành bỏ học lâu như thế ?"

Chàng trai khịt mũi, "Học phần cuối sẽ bắt đầu sau các ngày nghỉ cuối tháng. Em chỉ việc làm đơn xin phép học hàm thụ. Ở các trường đại học đều có sẳn thư viện, em sẽ nghiên cứu sau".

"Anh nghĩ rằng Baltimore chắc ở gần thủ đô. Ở Washington chắc chắn sẽ có nhiều trường đại học mà em cần".

Chàng trai thoáng cười, "Vậy anh có cho em ngủ với anh nữa không ?"

"Em muốn thế sao ?", tôi ngạc nhiên hỏi.

Chàng trai khổ sở gật đầu.

"Anh có thể cho em mọi thứ, Emil", tôi nói với chàng trai, "Nhưng còn chuyện Josefina và căn hộ thì sao ?".

"Tiền anh cho, em sẽ đưa cô ấy. Món tiền ấy sẽ đủ trả tiền thuê nhà và chi phí ăn uống cho cô ấy cả năm", chàng trai hướng ánh mắt nhìn nơi khác, "Em không còn gì vướng bận ở đây nữa".

Tôi cười, "Nhưng khi gặp lại em không ghen khi anh gặp lại người yêu chứ, anh bạn ?"

Chàng trai cười gượng, "Khi gặp lại Tom, em không ganh tỵ gì đâu".

* *

*

Tôi không bao giờ hết ngạc nhiên về những chuyện mà máy tính có thể làm được khi có ai đó thao tác trên bàn phím, ai đó biết bắt buộc máy tính làm việc.

Thông thường, nhân viên văn phòng khắp thế giới đều biết cách làm chủ máy móc thiết bị và có khả năng ngăn chặn việc truy nhập trái phép. Nhưng trong nhiều trường hợp thì người chủ chính là máy vi tính, nhân viên văn phòng chỉ làm theo những mệnh lệnh mà máy tính chỉ định.

Nhân viên phòng giáo vụ trường đại học là trường hợp như thế, và Marcus Bönner biết làm thế nào để qua mặt cô ta và cả phòng, bằng cách điều khiển trực tiếp qua máy tính để chỉ thị cho họ phải làm những điều ông cần.

Bönner ngoáy lại nhìn tôi đứng tại cửa văn phòng của ông với vẻ khó chịu, "Ngài đã xâm nhập vào người tôi, thưa hoàng tử", người đàn ông nói với tôi. Tôi thấy được nỗi sợ hãi của người này.

Tôi lặng thinh trong khi người đàn ông sờ soạng tìm trong túi quần, nỗi sợ hãi càng gia tăng. Người đàn ông mỉm cười vì cuối cùng tìm thấy, lôi ra chiếc thánh giá để giữa khoảng cách tôi và ông ta, "Làm ơn tránh xa khỏi tôi".

Tôi bước vào văn phòng đưa hai ngón tay kẹp miếng kim loại bẻ cong lại. "Món đồ chơi này không đáng đồng tiền, ông không nghĩ thế sao ?", tôi vừa cười vừa hỏi, "Ông có thừa tiền mua những thứ khác quý giá hơn thế".

Người đàn ông nhìn tôi, sự sợ hãi của ông ta giảm bớt đôi phần trước dáng vẻ hiền lành của tôi, ngay cả khi tôi chứng tỏ sự vô hiệu về câu chuyện bọn đàn bà kể về thánh giá và ma cà rồng. "Ngài muốn gì ?"

"Tôi muốn có tất cả thông tin về một sinh viên người Mỹ học ở trường này, bao gồm họ tên đầy đủ, địa chỉ nhà riêng, địa chỉ trường học, mọi thứ mà ông có được".

"Ngài phải trả tiền".

"Tôi nghĩ là không cần", tôi há miệng, những chiếc răng nanh dài ra. Người đàn ông lùi lại dựa sát bàn vi tính, run lập cập vì khiếp đảm.

"Tên người đó là gì, thưa hoàng tử ?", người đàn ông nhẫn nhục hỏi.

* *

*

Tôi có nhiều hơn thứ tôi cần trước khi đi tìm Thomas MacPherson ở trời Tây. Tôi vẫn còn ba túi tiền vàng được dấu sau lưng tủ quần áo của tôi. Những đồng tiền si-ling bằng vàng được đúc để kỷ niệm ngày đăng quang của hoàng đế Franz Josef, cách đây gần 160 năm. Những đồng tiền đúc chưa hề dùng đến, còn mới toanh.

Tôi mang ba túi tiền vàng đến ngân hàng Hauptmann và nằng nặc đòi gặp giám đốc ngân hàng. Một món tiền đáng giá hai tỷ phrăng cho tôi cái quyền đòi hỏi và ngay sau đó một người đàn ông trung niên, trông vẫn mạnh khỏe lập tức xuất hiện. Lúc người này đi tới tôi đã ngầm đánh giá, tôi phải thừa nhận ngành công nghệ ngân hàng đã tiến một bước khá dài. Người này chẳng là cái gì ngoại trừ vai trò một ông thần giữ của người Thụy sĩ.

"Tôi có thể giúp gì cho ngài, thưa hoàng tử xứ Maribor ?", người đàn ông lên tiếng hỏi.

"Tôi cần những thứ này...", tôi chỉ vào ba túi tiền vàng cổ đang giữ trong tay, bên trên quầy tiếp nhận, "được bảo đảm an toàn".

"Cất trữ ư ? Không thành vấn đề, thưa hoàng tử."

"Có lẽ chúng cần được định giá chính xác, phải không ?".

"Vâng, không thành vấn đề".

"Liệu rằng ngân hàng Hauptmann có bảo đảm được không ?".

"Dĩ nhiên là được, thưa ngài", người đàn ông liếc nhìn mấy cái túi một lúc rồi nói, "Thứ gì trong đó vậy, thưa ngài ?"

"Những đồng si-ling kỷ niệm ngày đăng quang của hoàng đế Franz Josef".

Người đàn ông nhướng mày liếc nhìn tôi tỏ ra nghi ngờ.

"Tiền vàng phải không ?", người đàn ông hỏi, không giấu được vẻ xúc động qua giọng nói run run.

Tôi gật đầu.

"Còn mới chứ ?".

Tôi hiểu gã này đang thèm muốn. Tôi gật đầu.

"Có thể mang vào văn phòng tôi được không, thưa hoàng tử ?".

Tôi xách hai túi tiền một cách nhẹ nhàng. Còn gã đàn ông chật vật với túi còn lại.

Bên trong văn phòng, mắt gã đàn ông lóe sáng và toàn thân run rẩy vì thèm khát khi ngắm nhìn từng đồng một lấy từ trong túi ra ngoài.

"Dĩ nhiên là chuyên viên giám định sẽ phải xem từng đồng một, thưa hoàng tử. Nếu toàn bộ đều đúc bằng vàng, thì bộ sưu tập này quả là vô giá".

"Vô giá là thế nào ?"

"Ít nhất là năm trăm triệu đồng tiền Thụy sĩ", người đàn ông lấy một đồng tiền khác trong túi nâng niu giống như một đứa con mới sinh của ông ta..

"Tôi chấp nhận đưa ra thị trường bán đấu giá".

Người đàn ông liếc nhìn tôi.

"Hãy bán cho tôi, thưa hoàng tử, tôi sẽ chịu trách nhiệm bán đấu giá, phần chênh lệch sẽ được chuyển vào tài khoản của tôi".

Đôi mắt người đàn ông quay lại với đồng tiền trên tay. "Có lẽ nhà bán đấu giá Sotheby... ?"

"Ông có chịu trách nhiệm thanh toán cho tôi về số vàng này không ?", tôi hỏi gặng.

Người đàn ông gật đầu mắt vẫn không rời đồng tiền.

"Nếu vậy thì xin cứ lấy 10 đồng đưa vào bộ sưu tập của ông, coi như là món quà tôi tặng ông".

"Đa tạ, thưa hoàng tử !".

"Và tất nhiên ông cứ việc khấu trừ theo tỷ lệ các chi phí định giá và chi phí ngân hàng".

Người đàn ông mừng rỡ gật đầu.

* *

*

Chúng tôi sẽ đáp chuyến bay tối tới Heathrow, ở đó chúng tôi sẽ chuyển qua đi trên một loại máy bay được gọi là Concorde, nó sẽ đưa chúng tôi băng qua Đại Tây Dương và hạ cánh tại phi trường Dulles gần Washington, DC, chỉ trong 4 giờ đồng hồ, sau đó thì mất độ 3 giờ tìm khách sạn và tránh nắng. Biết được hành trình rồi, tôi càng tin tưởng nội dung quảng cáo của công ty.

Lúc rời Luân Đôn, Emil chồm tới sát bên tôi hỏi, "Anh có định mang một cỗ quan tài đầy bụi bẩn vào nhà không đấy ?".

Tôi bật cười, cái cảm giác căng thẳng hai ngày qua biến mất. Tôi đang làm việc tôi có thể làm; và bây giờ đang nằm trong một viên đạn bằng thép bay trên quỹ đạo quả đất. "Hãy xem lại sách vở của em đi, Emil", tôi bảo chàng trai, "nó còn hữu ích gấp mấy lần cái chuyện lãng mạn vô bổ về loài ma cà rồng".

Chàng trai nhìn qua khung cửa sổ nhỏ trông ra tầng bình lưu, rồi quay lại nhìn tôi, đôi mắt chàng trai tránh không nhìn quyển sách đang đặt trên đùi. "Em không quen đọc thứ này, Karl. Nhưng nó có những thông tin gần đúng về người như anh".

"Chẳng nên tin thứ em vừa đọc".

Chàng trai cười, cầm quyển sách giơ cao cho tôi xem. "Phỏng vấn ma cà rồng" của Ann Rice. "Bà ấy là nhà văn khá nổi tiếng", chàng trai cười, "Bây giờ em chẳng có chuyện gì làm ngoại việc đọc sách cả".

"Chắc em định nói chuyện gì với anh hay sao ?", tôi ngây thơ hỏi.

"Đến khách sạn, trước khi làm bất cứ việc gì, anh phải...", Emil đỏ mặt ngập ngừng, "... ấy em trước, em không chịu nổi nữa".

Tôi chầm chậm lắc đầu. Cách đây chưa đầy hai tháng, Emil Paulik còn là một thanh niên trẻ chưa từng sống một cuộc sống thế này, một thanh niên mà một ngày nào đó sẽ cưới vợ sinh con. Vậy mà tôi đã khiến chàng trai ấy nghe lời đường mật dỗ dành và đã hiến trinh cho tôi. Không hiểu, từ ấy đến giờ không có sự tác động nào từ tôi chàng trai đã tiến xa đến đâu.

Chàng trai đã bỏ rơi bạn gái, vứt bỏ cái tương lai được làm cha. Chàng trai lại cảm thấy hài lòng với cái mình hiện có. Lại còn mơ tới chuyện bất tử nữa chứ. Người mà tôi biết trước kia, chỉ sau khi ngủ với tôi đã thật sự thay đổi.

Chàng trai thở dài, mặt ỉu xìu.

"Karl, khi mặt trời lên anh có thể đi ra ngoài được hay phải chết rũ vậy ?", chàng trai hỏi.

"Chuyện ấy còn tùy thuộc sức nóng cỡ nào", tôi đáp, "Nếu đó là ngày đầy nắng và vào mùa hè, anh sẽ bị thiêu chết trong vòng một giờ. Nếu không nóng quá sức, anh có thể chỉ mê man".

"Còn nếu bên ngoài lạnh giá thì sao ?", chàng trai ngạc nhiên hỏi.

Tôi mỉm cười, "Nếu em để anh ở trần truồng trên vùng đất Bắc cực, có lẽ anh chịu được dẫu có thể bị bỏng vài chỗ trên người khi có ánh nắng mặt trời. Dù vậy, cũng chẳng cháy da thịt đâu".

"Như vậy anh có thể chịu lạnh được sao ?", tôi hơi chú ý đến sự tò mò của chàng trai.

"Cái lạnh chẳng làm gì anh được. Ít ra là anh chẳng thấy bất kỳ ảnh hưởng nào. Anh có thể sống trên đỉnh núi tuyết phủ quanh năm như sống ở nhà mình".

"Với Sergei ư ?".

Tôi cảm nhận tâm hồn chàng trai run rẩy khi hỏi câu ấy. Tôi gật đầu. Tôi ghét chàng trai vì tính tò mò làm phiền tôi; nhưng, chàng trai muốn biết mọi thứ về tôi, chấp nhận cuộc sống của tôi.

"Anh có thể tin em được không ?", thình lình tôi lên tiếng hỏi, vì đang dấy lên sự ngờ vực về thái độ nhiệt tình tìm hiểu của chàng trai.

"Tin em ư ? Sao anh lại hỏi như vậy ?".

"Em thừa biết đang tìm Sergei Alexandrovitch, tức anh chàng Tom MacPherson này. Nhưng, em muốn có anh. Em tin rằng em yêu anh đến mức theo anh sống cuộc sống vĩnh hằng. Em không định nói với chính mình rằng nếu em không có được anh thì cũng không ai có thể có anh chứ ?"

"Anh nghĩ em là thứ người gì vậy ?", chàng trai gặng lại, giọng giận dỗi.

"Đừng tự ái. Đây là vấn đề anh cần hiểu rõ về em, vì nó rất quan trọng khi em hiểu về anh quá nhiều. Em không thể cuốc bộ về Zürich mà thoát khỏi tay anh đâu".

Tôi nhăn mặt vì không hiểu sao mình nói nhiều như thế. "Giống loài của anh dễ bị sát hại, một khi em biết cách".

Chàng trai lặng im nhìn tôi thật lâu. "Tại sao em muốn giết anh cơ chứ ?".

"Bởi vì em không thể có anh".

"Nhưng tại sao anh lo rằng em muốn giết anh ?".

"Em hỏi nhiều về sức nóng, cái lạnh, sự sống và cái chết của anh ra sao".

Chàng trai bật ngửa ra ghế, lắc đầu. "Em không bao giờ giết anh đâu Karl. Em yêu anh. Em muốn được như anh và sống trọn đời bên anh. Nhưng nếu anh Tom cần anh, thì em sẽ chấp nhận những gì anh dành cho em, sẵn sàng chia sẻ anh với Tom".

Chàng trai nhìn tôi căng thẳng, ngay cả khi đã nói dứt lời. Sự im lặng giữa hai chúng tôi kéo dài, càng làm tôi căng thẳng. Thận trọng, tôi thâm nhập vào ý nghĩ chàng trai.

[ Em mong anh vào đây ], chàng trai nghĩ thầm trong đầu. Tôi nhìn chàng trai với vẻ ngạc nhiên. [Hãy đọc ý nghĩ của em đi, nếu nghi ngờ anh cứ tha hồ tìm. Em mời anh vào đấy, Karli, bất cứ lúc nào cũng được. Em sẽ không bao giờ hại anh, thề có Chúa, em không bao giờ quên anh].

Tôi đọc thấu những suy nghĩ ấy, chàng trai không có năng lực ngoại cảm. Chàng trai không nhằm mục đích đối phó với tôi. Nhưng lời mời vẫn còn đó, cứ lập đi lập lại mãi mãi, bởi vì chàng trai có thể đoán tôi sẽ đọc suy nghĩ của cậu ấy. Tuy không có khả năng ngoại cảm, nhưng ý nghĩ Emil sắp xếp rành mạch như thế có đọc được cũng vô ích.

* *

*

Một toán người rời khỏi hai chiếc Suburbans (1) đậu thành hàng dọc liền hai chiếc trên con đường tối tăm. Ronnie Barber nhìn sang một thằng đứng ngay cửa mé bên chỗ lái xe của chiếc thứ nhất hỏi, "Mày có đem chó lửa theo không ?", người này gật đầu.

"Vậy mày cứ ở đây giữ xe". Ronnie mỉm cười, "gặp bất cứ thằng nhọ nào quanh quẩn cách mày khoảng hai mươi bộ cứ bắn chết cho tao. Nếu mày lơ đãng, chúng nó sẽ luộc một trong hai chiếc này trong vòng năm phút". Gã vỗ vỗ vào thùng xe Suburban. "Gặp thằng nào bắn vỡ sọ thằng đó, không ăn trộm, không bán heroin thì cũng hạng giết mướn. Không thế thì sao lại dẫn xác ra đường trong đêm lạnh như vầy chứ ?".

Quay sang chín thằng đàn em đang vây trước mặt, gã nói, "Được rồi mấy chú nhóc, tối nay phải làm một cú thật ngọt cho tao. Làm sao cho coi mát mắt mới được. Tụi nó sắp vô nhà tắm công cộng Washington, phải làm mấy thằng pê đê đó hiểu rằng việc chúng làm ở đó là việc làm ô uế trước mắt Chúa. Phải cho chúng thấy được sự phẫn nộ của Người tối hôm nay. Chúng ta là thành viên Liên đoàn Thanh niên công giáo, bản thân tên gọi đã nói rõ mục đích và công việc phải làm rồi. Vào trong đó nện cho chúng một trận tơi bời cho tao".

Ronnie Barber quay lại, chăm chú nhìn mé dưới đường "P", gã hình dung ra tiếng kính vỡ loảng xoảng dưới 9 đôi giày bốt của đám đàn em gã, lúc này bọn chúng đang theo sau gã đi về phía có ánh đèn cuối đường.

Gã đã vạch ra các kế hoạch hành động trong hai ngày qua, tính từ khi gã từ Brunswick tới đây. Gã biết rõ địa bàn như lòng bàn tay, phần ngoài rìa là Anacostia, còn ngay đây chính là khu nhà tắm công cộng, cũng chính là mục tiêu mong đợi của gã. Dù làm gì đi nữa gã cũng khó mà tránh được cảm giác lạnh cóng khi đứng bên ngoài.

Gã vẫn còn chưa tin nổi. Cái thằng Ronnie Barber như gã đây lại đang lãnh đạo hoạt động của Liên đoàn Thanh niên công giáo (CMUM). Gã, bất quá chỉ là một thằng đan chiếu đệm ở Brunswick Georgia. Không lâu sau gã gia nhập vào CMUM lúc đó Thượng nghị sĩ Reed Stephens còn đang kêu gọi những người có đức tin nơi Chúa hãy bỏ phiếu cho ông, chuyện cách nay ba năm rồi. Gã rất khoái khi cùng đồng đội xếp thành hàng ngũ ngay ngắn diễu hành trên đường phố Brunswick. Khi Stephens điều động tất cả thành viên CMUM về Atlanta thì gã lên chín tầng mây. Nhưng với gã thì sao ? Chỉ là một thằng nông dân nhà quê ba mươi tuổi đầu còn chưa qua hết trung học nữa là ?

Bây giờ, không chỉ có Georgia, mà CMUM còn là thứ gì đó quan trọng hơn tổ quốc, hơn quê hương của gã. Reed Stephens hiện là Phó tổng thống Hoa Kỳ. Họ có trách nhiệm bảo vệ Reed chống lại bọn đồng dâm, bọn mua bán ma túy. Và, nếu các hoạt động diễn ra đúng như kế hoạch, thì gã sẽ được giao một trọng trách trong tổ chức. Đó là những gì mà Đức Giám mục ở Towson, gần địa phận Baltimore đã nói với gã trong khi gã đang tham dự khóa huấn luyện cho chiến dịch này. Gã đang làm nhiều việc hơn thời kỳ còn ở Brunswick. Gã đang làm cái việc mà gã cho là đúng.

Bọn đàn em theo sau gã khi đã tới trước cửa Nhà tắm Washington. Rút dùi cui khỏi thắt lưng, gã cứ tưởng mình là một trong những tên cướp biển già Vikings đang chuẩn bị đánh chiếm thành trì khi tay gã đặt vào tay nắm cửa... Chỉ có điều là, gã đánh nhau vì Chúa Trời. "Xông vô, tụi bây !", gã hét lên đồng thời giật cửa.

Có một ông già mập ú, đầu hói đứng đằng sau quầy. Ronnie chạy về phía người này. Người đàn ông nhìn gã, cặp môi mấp máy định nói gì đó. Ronnie để ý thấy máu và óc phọt ra đằng lỗ tai người đàn ông khi gã nện dùi cui xuống đầu người này. Có tiếng rắc của xương sọ bị vỡ, máu tràn ra khắp nơi. Người đàn ông bật ngửa ra ghế, mắt trừng trừng nhìn Ronnie. Thấy nổi nóng, gã đập bồi thêm một gậy nữa, xác người đàn ông giật nẩy lên, nhưng mắt vẫn mở trừng trừng.

Gã chỉ hai thằng đàn em, "Tụi bây canh ở đây, nội bất xuất ngoại bất nhập", gã nhìn bảy thằng kia rồi nhe răng cười, "Coi nào, vì Chúa, hãy dọn sạch sẽ chỗ này cho tao".

Trước hết chúng xông vào dãy nhà ngủ tập thể. Chỉ có ba ông già ngủ trên giường tầng, ai nấy đều trần truồng. Nhóm người bọn họ vây kín trước khi họ kịp thức giấc. Bị đánh bất ngờ, họ hầu như không kêu được tiếng nào cho tới lúc chết ngất. Hai người đàn ông ở phòng xông hơi cũng mau chóng câm bặt.

Ronnie ngước nhìn qua ban công ở tầng hai. Gã hình dung bọn đồng dâm đang làm cái chuyện xốn mắt, bẩn thỉu trên đó, đằng sau những cánh cửa đóng kín mít. Gã cảm thấy sôi giận khi hình dung ra họ đang làm gì với nhau. "Lên lầu !", gã ra lệnh toán người của gã xông lên.

Mọi việc trôi chảy như kế hoạch đã định. Hai chiếc Suburbans giờ đang phía nam điện Capitol hướng về phía Maryland. Ronnie đoán có ít nhất vài xác chết trong nhà tắm. Đặc biệt là hai thằng gã tìm thấy đang đụ nhau ở gian phòng đầu tiên trên tầng hai. Cả hai nhảy qua lan can lầu té xuống chắc khó sống nổi.

Nhưng đó mới là hoạt động của đơn vị này. Còn mười một đơn vị khác của CMUM đang được tuyển mộ khắp nước Mỹ để hình thành cái gọi là Lực lượng xung kích của CMUM. Bọn chúng tối nay chỉ muốn chứng tỏ hoạt động tốt thế nào ở nhà tắm công cộng. Đức Giám mục ở Towson sẽ tự hào về chúng. Gã cũng hy vọng David Trellum cũng hãnh diện về chúng như thế.

Cái thằng cha Trellum đó là một thứ cá chết mà Ronnie đã gặp hai lần, thằng chả lúc nào cũng thấy im ỉm khó chịu. Nhưng thằng cha ấy lại có suy nghĩ đúng... phải đọ sức bằng nắm đấm. Và đơn vị xung kích của chúng được Chúa trao cho cái quyền hủy diệt bọn đồng dâm lẫn đám dụ dỗ, mua bán ma túy. Dẫu có vài người chết đi thì đâu hề gì. Bọn này chết càng sớm thì gã và đám đàn em càng khỏe, lại càng rạng danh Chúa.

Gã cười và quay lại nhìn đám đàn em, "Tối nay làm khá lắm, mấy chú em. Tao thật sự hãnh diện về đám tụi mày".

HẾT PHẦN 6

PHẦN 7

ND : Đây là một truyện dài nhiều tập viết về thế giới của bóng tối, thế giới của những sức mạnh siêu nhiên từng ngự trị ở châu Âu từ lâu và kéo dài tận thế kỷ 21, thế giới của loài ma cà rồng (vampires) mà trong đó, nếu loại bỏ một số yếu tố tưởng tượng và những đoạn mô tả về đời sống của ma cà rồng, có lẽ chúng ta sẽ nhận ra tính nhân văn sâu sắc. Truyện có đề cập đến vấn đề đồng tính nhưng chỉ thoảng qua, mà đi sâu khai thác các khía cạnh lịch sử đầy kịch tính. Nhân vật chính xuất thân từ hoàng tộc mang dòng máu lai Áo – Hung đã trở thành ma cà rồng... Nguyên tác là tiếng Anh, nhưng nhiều chỗ pha trộn ngôn ngữ khác như Pháp, Đức cùng với những bối cảnh có liên quan đến lịch sử xa xưa của các quốc gia châu Âu, hoàn toàn xa lạ với người dịch. Với kiến thức giới hạn, và chỉ với mục đích giải trí nên Vũ Quốc tạm dùng những cụm từ thay thế hợp lý để diễn đạt ý tưởng, rất mong độc giả lượng thứ. Cũng cần nói rõ, nội dung truyện chỉ là sản phẩm tưởng tượng, mọi chi tiết về con người, địa danh, sự kiện đều không có thật và nếu có trùng hợp với ngoài đời cũng chỉ là sự ngẫu nhiên.

Tiếng rì rầm trong đầu tôi trở lại, khi chúng tôi chạy về phía toà nhà cuối cùng của sân bay. Những tiếng thì thầm này rời rạc không giống như lúc ở Zürich trước khi linh hồn Sergei Alexandrovitch được đánh thức, nhưng lúc này nó chợt đến bất ngờ mang lại cho tôi cảm giác có nguy hiểm đang rình rập.

Cái anh chàng Tom MacPherson này không muốn tôi theo anh ta. Hẳn là chàng trai báo động cho tôi chỉ theo bản năng, dù rằng Tom không biết cách dùng tâm linh để liên lạc như Sergei hoặc ngay cả như Würther đã từng dùng. Chắc là Tom đang tập sử dụng tiềm lực sẵn có và nhớ lại tiền kiếp của mình. Sergei Alexandrovitch đã biết thế nào tôi cũng theo cậu ấy tới cùng; còn anh chàng người Mỹ lúc này báo cho tôi biết nên tránh xa anh ra, Tom muốn có thời gian suy nghĩ trước khi quyết định nên làm gì với tôi. Tôi đành phải chờ đợi.

Có thể sẽ phải không được uống máu người nữa !

Tôi chưa từng gặp một người da đen nào ngoại trừ xem trên phim ảnh trước khi Emil cùng tôi bước vào xe tắc-xi đậu ở cuối tòa nhà. Tôi nghĩ chắc là họ đen thui; nói cho cùng, cái tên dùng để chỉ chủng tộc họ có nguồn gốc từ tiếng la tinh chỉ màu sắc đó – màu đen. Nhưng người lái xe có màu da nâu như màu gỗ cây dái ngựa.

Mũi thấp hơn nếu so với những người da màu châu Âu. Mái tóc cắt sát sợi thô và xoắn tít. Nhìn bề ngoài người này cũng khá hơn nhiều so với sự tưởng tượng của tôi. Không may là anh chàng này sinh ra thuộc một chủng tộc như vậy, nhưng hình như anh ta chẳng quan tâm tới thể trạng bên ngoài. Có vẻ như anh ta được chăm sóc kỹ nên vóc dáng hơi mập mạp.

Người lái xe lịch sự có thừa khi quay lại mỉm cười chào chúng tôi. Người này nói gì đó mà tôi không hiểu, quay sang thì thấy Emil cũng ngơ ngác như tôi. Tuy anh sinh viên mắt xanh, nước da sáng nói tiếng Anh khá hơn tôi nhiều, nhưng xét cho cùng cũng là người ngoại quốc như tôi. Tuy nhiên, tôi có thể đọc được ý nghĩ. Tôi liền tiếp cận não bộ của người lái xe. Thì ra người này muốn biết chúng tôi định đi đâu.

"Khách sạn Willard", tôi nói với người lái xe rồi ngồi dựa vào thành ghế ngồi trong khi chiếc tắc xi lao vút khỏi góc tòa nhà.

Emil hỏi tôi bằng tiếng Đức : "Anh đọc ý nghĩ của anh ấy à ?". Tôi gật đầu. "Tom từng nói em nói tiếng Anh giỏi như người bản địa đó, Karl. Vậy mà người này nói em chẳng hiểu gì hết".

"Anh từng xem bộ phim "Cuốn theo chiều gió" khởi chiếu lần đầu tiên ở một rạp chiếu bóng Paris", tôi nói với Emil khi nhớ chuyến hành trình tới Paris cùng Würther hai năm trước lúc cậu ấy nằm chết trên cánh đồng nhung tuyết. Tôi lập tức ép ký ức quên ngay chuyện cũ. "Người da đen trong phim hình như nói chuyện hoàn toàn khác với người da trắng", tôi cười khúc khích, "cũng giống như người Schwabian hoặc Dutch nói tiếng Đức".

"Sao không nói luôn là giống như người Áo các anh", Emil cười.

Chúng tôi chạy qua một xa lộ lên đèn xuyên qua vùng đất Virginia tối tăm hoang vắng khoảng hơn 30 cây số, sau đó thì chạy qua khu dân cư tưởng như dài vô tận trước qua lại băng qua một khu vực hoang vắng khác. Những biển báo dọc theo con đường khiến tôi nhớ tới lúc mình còn là thằng bé 13 tuổi vào năm 1861 còn thèm thuồng đọc về cuộc nội chiến của người Mỹ – Manassas, Arlington, Alexandria.

"Ba ơi, sao người Mỹ lại đánh nhau hở ba ?"", tôi hỏi cha, là một tướng lĩnh, trong lúc bên tàu ngựa chuẩn bị cho buổi đi dạo sáng sớm.

"Các tiểu bang miền Nam không muốn Lincoln là tổng thống của họ", ông trả lời và quay lại xăm xoi con ngựa mà ông định cưỡi.

"Cũng giống như người Serb không thích hoàng đế của họ phải không ba ?", tôi hỏi cố mà hiểu một điều không dễ gì tiêu hóa cho bọn con nít chúng tôi. Ông gật đầu và chỉ con ngựa cho người hầu dẫn ra. "Tại sao không chỉ là một cuộc đảo chính ? Hoặc tổ chức ám sát ông ta như người Nga đã làm với Sa hoàng của họ ?".

"Người Mỹ là người chủ xướng dân chủ. Họ để dân chúng có quyền quyết định các vấn đề chính trị".

"Unglaublich !" Tôi không thể hiểu được tình trạng ấy như thế nào. Làm cách nào để thực hiện ? Sau đó thì tôi hiểu, với trí óc non nớt của một đứa trẻ. Một nền dân chủ không kiểm soát tạo nên một mảnh đất màu mỡ cho những mầm mống nổi loạn bất cứ lúc nào, khi có một phía không tán thành với những nhóm khác nhưng không thể thắng áp đảo bằng bầu cử, giống như anh em ruột thịt — thì người lớn tuổi nhất, kẻ mạnh nhất sẽ là ức hiếp bắt nạt đám em út nhỏ tuổi hơn. Còn những tầng lớp thấp thì cần có một trật tự để điều hành mọi hoạt động, cũng giống như một đứa trẻ cần cha nó kềm cặp trong quá trình trưởng thành của mình.

"Chúng ta sắp đi ngang qua Nhà Lee-Custis, thưa quý ông", người lái xe nói, cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi.

"Căn nhà của Tướng Robert E. Lee phải không ?", tôi hỏi, khi nhớ đến vị tướng lịch lãm này được dân chúng châu Âu quý mến trong thời kỳ chiến tranh trước đây rất lâu. Người lái xe gật đầu và tôi liếc nhìn những cây cột gắn đèn chiếu sáng của mái cổng tòa nhà, kiến trúc giống như các đền thờ người Hy Lạp mà tôi từng đến viếng ở Parthenon lúc còn trẻ.

"Đó là một phần của nghĩa trang quốc gia Arlington", người lái xe nói, "Vị trí nó nhìn ra sông Potomac và Washington". Bằng trực giác, tôi nhìn thấy những hàng thánh giá kiểu quân đội thẳng tắp kéo dài hàng héc ta về hướng đông nếu tính từ tòa nhà này. Tôi rùng mình. Có quá nhiều sinh mạng đã bỏ mình một cách vô ích, chẳng có ý nghĩa gì cả. Có quá nhiều người hoang phí tuổi thanh xuân của họ. Có quá nhiều người như Emil không còn gì để mất...

* *

*

Tôi thức giấc vì cảm giác như có ai đang rình rập. Tôi bật dậy trên giường, các bắp cơ co lại, mắt mở trừng trừng và hai răng nanh nhú ra ngoài với vẻ đe dọa.

"Bộ anh tính cắn cổ em sao vậy ?", Emil vừa cười vừa hỏi.

Tôi thấy hết lo, lắc lắc đầu. Không biết tôi ngủ ngày với người bạn đồng hành bao lâu rồi ? Chắc không phải từ khi Würther qua đời. Cũng không hơn 50 năm. Tôi bắt gặp ánh mắt Emil liếc nhìn tôi tỏ ra lúng túng.

"Em yêu anh, em yêu Karl Josef Gustav, cả hoàng tử Maribor cũng vậy".

Tôi cảm nhận sự xúc động của Emil, nó vượt qua phòng tuyến tự vệ của tôi. "Em có thể yêu tôi, Emil. Nhưng sau này để an toàn hơn, em nên ngủ phòng khác trong lúc ban ngày".

"Em muốn anh giữ lời hứa của mình tối qua", Emil đáp, tỏ ra hờn dỗi, "Em ngồi chờ gần hai tiếng đồng hồ, chờ anh thức dậy và cho em...". Emil đứng dậy và tôi thấy ngay chàng trai không mảnh vải che thân. Emil chui vào giường với tôi.

Lúc Emil kề má sát mặt tôi, tôi nói "Anh không có bao cao su".

"Anh là ma cà rồng, Karli. Ở với anh sẽ an toàn, em chẳng lo gì hết". Môi Emil tìm gặp môi tôi khi trườn sấp trên người tôi, tay Emil mò xuống bên dưới...

"Mình cần kiếm chỗ ở cái đã", tôi nói khi hai người chúng tôi nằm trên giường, đầu Emil gối lên ngực tôi.

"Mình ở đây cũng được", chàng trai đáp, sau đó đặt môi lên đầu vú tôi, chiếc lưỡi nhám cạ nhẹ, đó là điều dễ khiến tôi xao lãng nếu không tập trung. "Anh biết nhà cha mẹ Tom, biết cả trường anh ấy học. Chỉ bỏ ra một hai ngày là anh tìm được ngay".

"Ba trăm đô một đêm cho căn phòng này đó ! Gần bằng 300 phrăng một ngày của em".

Emil bật dậy sửng sốt, hai mắt tròn xoe nhìn tôi trân trối, "Sao nhiều dữ vậy ? Chúa ơi !!!"

"Tom nhận ra anh", tôi nói với Emil, "Cậu ấy cũng biết chuyện quá khứ. Cậu ấy muốn anh tránh xa, để cậu ấy có thời gian suy nghĩ mọi việc, có thể có cả khả năng không chấp nhận anh nữa. Mình đành phải đợi thôi". Tôi cau mày, "Và nếu như anh vẫn cố đi tìm, đây là xứ xở của cậu ấy, nếu cậu ấy cố tình lẫn trốn thì khó mà tìm cho ra được".

"Làm sao anh biết ?".

"Anh nghe linh hồn cậu ấy mách bảo. Một sự tương thông, nếu em muốn gọi thế cũng được. Không giống như em nghĩ đâu, mà là sự chuyển phát tần số tín hiệu đến người nhận".

"Ước gì em có thể đọc được suy nghĩ người khác được như anh".

"Em không làm được đâu. Bọn anh dùng thứ năng lực ấy để loại bỏ bớt ký ức của chính mình. Cũng có thể để giảm bớt sự lo sợ. Hầu hết suy nghĩ của những người bình thường đơn giản, họ chẳng phải lo lắng gì cả".

"Vậy mình phải kiếm chỗ ở thôi", cái con người tính toán của Emil nói, con người mộng mơ của chàng trai này giờ như biến mất không còn dấu vết, "Anh muốn thuê căn hộ hay mua nhà riêng ?".

Tôi tự cho phép mình cân nhắc câu hỏi này. Trong hai tháng tôi sống trong căn gác xép ở Zürich và sau đó kéo dài hàng tháng trời, tôi đã nếm qua mùi vị của sự gò bó, tù túng và chật chội. Một căn nhà có thể có phòng riêng cho người bình thường như Emil dọn vào ở mà không làm phiền tới tôi và ngược lại tôi cũng không gây phiền toái cho Emil trong việc đi lại riêng mình. Một căn nhà dù sao vẫn cho một cảm giác an toàn, bền vững, kể cả cho chủ nhân của nó.

Cũng vì lý do này mà cha tôi giữ lại căn nhà ở Berlin ngay cả sau khi Bismarck của đế chế Phổ ép buộc tách nước Áo ra khỏi nước Đức. Một ngôi nhà giữa thủ đô một quốc gia hùng mạnh nhất, vì vậy cũng nguy hiểm nhất sẽ gây sự chú ý của chính quyền nhất là khi có mối quan hệ nào với bên ngoài.

"Mua một căn nhà", tôi đáp.

"Ở sát bên hàng xóm là người thường hay dân gay ?".

"Có gì khác nhau sao ?", tôi ngạc nhiên hỏi.

"Ở với hàng xóm là dân gay thì tốn nhiều tiền".

"Sao kỳ vậy ?".

"Vì dân gay tiêu tiền rộng rãi cho ngôi nhà họ ở, Karl ạ", Emil cười đáp, "Những người như tụi em muốn chuyện phòng the ở những chỗ thật tiện lợi, lý tưởng và lãng mạn, và may mắn là người như tụi em lại không phải chi tiêu cho con cái..."

"Những người đồng tính sống rất xa hoa, có học vấn, có tiền... nhưng vẫn bị coi rẻ. Cả người nghèo lẫn người đồng tính đều bị coi là những kẻ có tội".

Tôi bật cười, "Nói lòng vòng nãy giờ chẳng qua là em muốn biết anh có bao nhiều tiền phải không ?".

Emil tự ái, "Không bao giờ ! Em không dính dáng gì tới quyết định chọn lựa gì của anh hết".

"Thôi được, cứ thuê đắt một chút cũng không sao, Emi. Nếu một trong những lý do tìm một ngôi nhà có điều kiện thu thập tin tức từ thủ đô, thì còn có thể tính đến một ngôi nhà đẹp gần những hàng xóm thân thiện, như vậy sẽ an toàn hơn".

Chàng trai cười : "Bây giờ mình cần tìm một người môi giới bất động sản". Ngón tay Emil mân mê đầu vú tôi rồi lần xuống bụng, "nhưng trước hết, em nghĩ, mình cần phải học một khóa".

"Khóa gì ?", tôi hỏi trong khi tay Emil tìm thấy dương vật của tôi và đang nhẩn nha nghịch ngợm bên dưới.

Tôi chạm tay vào môi chàng trai, hơi ấm từ làn da Emil khiến tôi cảm thấy ngứa ran, "chắc là khóa này phải không ?", tôi vít đầu Emil sát xuống, môi chàng trai áp vào môi tôi.

* *

*

Mua nhà cũng là một kinh nghiệm cần phải học hỏi. Lúc tôi mua căn nhà ở Paris năm 1895, tôi chỉ việc liên hệ ngân hàng ở Vienna, ở đây người ta chuyển tiền sang ngân hàng ở Paris để đặt mua nhà cho tôi. Tôi không phải làm gì cả, ngoài việc ký các giấy tờ cần thiết. Nhưng còn ở Mỹ tôi không biết phải làm thế nào, nên đành phải nhờ Emil Paulik hướng dẫn.

Ngày đầu khi tới Mỹ, tôi đã ngủ vùi trong lúc Emil bận bịu lo toan mọi thứ. Emil một mình đánh liều ra ngoài ở Washingtin, DC, tìm thư viện trung tâm ở đó, mượn về một chồng dày cộp báo gay trong đó có đủ loại quảng cáo kinh doanh liên quan tới giới đồng tính, trong số đó có ít nhất 10 nhà môi giới bất động sản.

Unglaublich ! Một cộng đồng người đồng tính lớn tới nổi có thể cung ứng đầy đủ các dịch vụ, hoạt động kinh doanh. Bản thân những người chủ các doanh nghiệp này cũng nói rõ họ là người đồng tính, rồi quảng cáo về họ trên các tuần báo phát hành rộng rãi trong cộng đồng. Nước Mỹ năm 2004 thực tình không giống với một nước Áo của Dollfuß hoặc một nước Đức chuyên chế, quân phiệt của Hitler.

Trong lúc Emil gọi điện cho nhà môi giới địa ốc để sắp xếp cuộc hẹn, thì tôi ngấu nghiến đọc tờ The Washington Blade, lấy làm ngạc nhiên khi người ta đề cập thẳng thừng vấn đề tình yêu và tình dục hàng trăm năm nay. Sau đó tôi xem qua mục quảng cáo, rồi xem phần tin tức. Trong các vấn đề thời sự nổi lên chuyện một cuộc tấn công vào nhà tắm công cộng Washington tối qua. Những kẻ tấn công phá cửa vào và giết một số khách đến tắm ở đó, bằng cách đánh đập tàn nhẫn cho tới chết. Phóng viên tường thuật phỏng đoán những kẻ sát nhân thuộc nhóm Liên đoàn Thanh niên công giáo (CMUM).

Những mục tin khác mô tả chi tiết làm cách nào mà hai đứa con trai mười mấy tuổi của cảnh sát trưởng Maryland đi vào một khu vực nổi tiếng của giới đồng tính và tấn công một người đàn ông đồng tính. Đức Giám mục Bob Patterson khả kính thuyết giảng cho rằng tình dục đồng giới là thứ ghê tởm trong con mắt của Thượng đế và việc tấn công bọn gay là việc làm đáng tha thứ. Một thượng nghị sĩ miền Nam ở tuổi tám mươi đã kêu gọi Hoa kỳ nên bắt hết bọn đồng tính đày ra một hoang đảo nào đó ở Thái Bình Dương thì đất nước mới mong hết sạch người đồng tính. Cảnh sát Arlinton mở nhiều chiến dịch bố ráp người đồng tính . Còn Bưu điện trung tâm giăng bẫy một người nào đó ở Bắc Dakota bằng cách gửi cho người này những hình ảnh trẻ em khiêu dâm, và khi người này đến nhận bưu phẩm thì bị bắt ngay lập tức.

Đây là một nước Hoa Kỳ văn minh đó sao ? Đây là nền dân chủ đó sao ?

Điên hết cả rồi ! Một kẻ trung thành với chế độ phong kiến như tôi cũng không thể có những suy nghĩ và hành động quá đáng như vậy.

Phải thừa nhận rằng vốn tiếng Anh của tôi rất tồi vì trong ngót trăm năm nay hiếm khi dùng đến; có đến hơn phân nửa thông tin mà tôi không hiểu. Ý nghĩa thật sự đằng sau những từ ngữ và câu văn khiến tôi lúng túng.

Điều mà tôi không hiểu nổi là làm thế nào một đất nước đã từng đánh bại Hitler và Axis lại gần như bắt chước các chế độ độc tài đó. Dường như những phản ứng của Hoa kỳ đang sa lầy và chủ nghĩa phát xít đang ẩn nấp ngay phía sau những phản ứng ấy. Sự điên rồ đó làm tôi không sao hiểu nổi.

Tôi vứt tờ báo ra giường khi Emil gác điện thoại, đang mỉm cười quay lại với tôi, "Nhìn anh giống như anh đang nuốt phải những món khó tiêu", Emil nhận xét.

"Em đọc báo chưa ?", tôi chỉ tờ báo trên giường.

"Rồi. Em đã đọc đến 5 lần trước khi anh thức dậy. Em đọc cả The Washington Times lẫn The Washington Post".

"Hai tờ đó là của giới đồng tính hết sao ?".

Chàng trai cười đáp "Đó là hai tờ báo chính thống". Chàng trai quỳ xuống giường tìm thêm mấy tờ báo khác.

"Chúa ơi !", tôi nhăn mặt khi Emil trao cho tôi.

"Mình có cuộc hẹn lúc 7 giờ với một nhà môi giới ở Capitol Hill".

Tôi hỏi : "Capitol Hill ở đâu ?".

"Gần tòa nhà Quốc hội Hoa Kỳ. Bây giờ mới 5 giờ, mình còn thừa thời gian ăn uống trước khi đi".

Tôi cầm một tờ báo lên xem. Tờ The Washington Times. Tôi chẳng thể chú tâm đọc được, bụng tôi cồn cào nhắc tôi nhớ rằng hai ngày nay chưa được tiếp máu. Nhưng tôi quên bẳng chuyện ấy ngay lập tức. Quan điểm biên tập tờ báo này khi tường thuật cái gọi là Liên đoàn Thanh niên Công giáo đã xông vào một ngôi nhà chứa ma túy phía Đông Bắc vùng phụ cận Washington, đánh trọng thương số người bên trong, và bây giờ tổ chức tuần tra ngăn chặn việc mua bán ma túy. Tờ báo có hàng tít lớn "Tái lập trật tự cộng đồng".

Tôi không hiểu từ ngữ người ta sử dụng như đoán đó là những thứ như heroin. Tôi không dùng những thứ hủy diệt ấy nên không hiểu cho lắm. Tuy nhiên, bài báo cũng chỉ rõ nhóm người này là những người ngoài cộng đồng, có thể dính líu tới những vụ giết người đẫm máu ở các khu vực kinh doanh – dịch vụ của giới đồng tính xảy ra từ tháng trước. Bất cứ hình thức nào của việc tuần phòng không chính thức đều sai trái. Xã hội đã có lực lượng cảnh sát bảo vệ dân chúng và có luật pháp để bảo đảm quyền lợi chính đáng của người dân không bị xâm phạm bởi cơ quan cảnh sát. Không ai có quyền tổ chức các lực lượng kiểm soát, tuần phòng ở bất kỳ khu dân cư nào.

Ghê tởm với những hành vi như vậy, nên tôi đọc lướt qua phần còn lại của tờ báo. Tôi cau mày cầm tờ báo xé làm đôi khi cơn giận bừng lên.

"Làm gì mà anh đọc nhanh thế ?", Emil hỏi, vô tình không đoán được tôi đang giận dữ.

"Ma cà rồng lúc nào cũng nhanh hơn con người", tôi rít lên, "Cái thứ rác rưởi này cũng gọi là báo sao ?".

Emil gật đầu.

"Nó không có gì hơn là một lời biện hộ phản động cho bọn này ! Nó... nó...". Bực quá, tôi lắp bắp không nói hết câu.

"Nhưng đó cũng khá chuẩn mực cho một tờ báo đó, Karl".

"Không được. Nếu là báo thì nó phải khách quan, nó cần cho người đọc thấy hết mọi mặt khác nhau của vấn đề. Còn thứ rác rưởi này không làm được chuyện đó. Nó than phiền, trách móc mọi thứ mà chẳng đưa ra được giải pháp khả dĩ nào. Von Papen cũng thế".

"Von Papen là ai vậy ?".

Tôi nhìn Emil hơi ngạc nhiên, "Chính ông ta mời Hitler tham gia vào nhà nước Đức, cũng chính ông ta thuyết phục Hindenberg rằng có thể khiển được Hitler. Chuyện tương tự cũng xảy ra ở Áo khi Dollfuß lên nắm quyền. Ở Italy có Mussolini, cũng là một giuộc cả. Ở Hungary và Rumania cũng vậy. Mỗi lần chủ nghĩa phát-xít lên nắm quyền, bao giờ cũng có một lũ phản động lót đường sẵn cho chúng".

"Chuyện xưa cũng hay đấy chứ !". Emil nín lặng khi thấy ánh mắt tôi tóe lên những tia lửa đau thương lẫn oán giận.

"Chuyện xưa ư ? Anh đã sống suốt thời kỳ đó, cứ tưởng như mới cách đây chừng một tháng. Cũng vì nó mà anh đã mất Würther. Cha em cũng tham gia không ở bên này cũng ở bên kia thời kỳ đó..."

"Ông nội em", Emil sửa lại, "Ông ở Pháp thuộc nhóm đối lập".

Bỗng dưng tôi cảm thấy mình già đi rất nhiều. Giống như con ngựa quần quật kéo xe đến già, vẫn còn lồng lên khi nhớ tới những vết roi trên lưng. Tôi cố tự thuyết phục mình rằng những thứ tôi đang chứng kiến chỉ là những bóng ma và chúng đã được chôn sâu tận đáy mồ. Đức quốc xã đã ra đi. Chủ nghĩa cộng sản cũng đi nốt. Các nước Đông Âu và cả nước Nga nữa giờ là nước dân chủ. Cũng bắt chước theo anh em ở phương Tây. Không còn một ngài Papen hoặc một ngài Thống chế Marshall Petains.

Tôi đã cố hết sức. Nhưng không thể nào tin nổi nhân loại đã tiến rất xa trong 65 năm không thể đi theo vết xe đổ của lịch sử. Trừ phi có một bàn tay quyền lực được điều khiển từ hậu trường.

"Em đói không ?", tôi hỏi, cố lấn át cảm giác sợ hãi vừa mới nhen nhóm trong lòng.

"Chắc là phải kiếm gì ăn rồi", Emil cười nói.

"Đọc báo em có để ý nhà hàng nào chưa ?".

Emil nhún vai, "Bữa nay ra ngoài thấy có nhiều nhà hàng, nhưng chẳng biết gì về chúng cả".

"Trong tờ The Blade có quảng cáo nhà hàng ăn. Kiếm thử có nhà hàng náo có món ăn Đức, không cần phải là chỗ dành cho gay đâu".

"Anh muốn ăn món ăn Đức sao ?". Tôi cảm thấy chàng trai đang cố đùa với tôi, dồn tôi vào thế bí dù Emil thừa biết điều đó.

"Anh không thể ăn "thức ăn chết", Emil".

Emil liếc nhìn tôi, trong thâm tâm chàng trai đang dấy lên những ý nghĩ kỳ quặc. "Anh định... ?". Nhận thức thực tại lôi chàng trai trở về, "Anh phải uống máu sao ?".

Tôi gật đầu.

"Ở đâu ?".

"Anh không biết. Tối nay anh sẽ đi săn".

"Tối qua anh không đi à ?"

Tôi nhún vai.

"Anh đói lắm à ?".

"Ừ, nhưng chưa đến nổi kiệt sức".

Chàng trai nhìn tôi, có vẻ lưỡng lự, "Anh có thể kềm ... ơ... kiểm soát cơn đói được không ?".

"Nói vậy là ý gì ?".

Chàng trai úp lòng bàn tay lại với nhau, nhìn xuống sàn nhà như muốn né tránh ánh mắt của tôi. "Anh có thể uống chút máu của em... trước khi đi săn", rồi Emil ngẩng lên nhìn tôi, "nhưng nhớ đừng giết em trong lúc uống. Không được uống hơn nửa lít máu. Anh phải tự kiểm soát bản thân".

"Em đang lo lắng đó phải không ?".

"Lúc anh cần thì em sẵn lòng, Karl".

Tôi bật cười. "Cám ơn, anh bạn. Nhưng anh vẫn chưa muốn biến em thành cái xác chết biết đi".

Emil nhún vai, tôi bắt gặp nét cau có thoáng qua trên gương mặt chàng trai.

"Emi, em sẽ trở thành một thứ quái vật như anh một khi để anh uống máu, hơn nữa việc ấy sẽ khiến em mất sức, thậm chí chết hẳn".

Tôi hơi sốc vì quyết định của chàng trai muốn đứng vào hàng ngũ những người bất tử mà chàng trai thừa biết tôi đang đứng đây và chàng trai tìm cách che giấu mục đích hằng khao khát của mình một cách thông minh để tôi đưa chàng trai đến đích.

* *

*

Một cơn gió lạnh quét ngang khi hai người chúng tôi đến Willard. Người giữ cửa tiến ra tận tắc-xi mở cửa cho chúng tôi. Nhà môi giới địa ốc định sắp xếp chúng tôi tại văn phòng ở Đại lộ Pennsylvania thuộc khu vực Capitol Hill ở Washington. Nhà hàng Berlin là nhà hàng duy nhất dành cho khách hàng đồng tính nằm trên đại lộ Massachusetts, cũng ở ngay góc quảng trường thành phố. Tôi chỉ đường cho người lái xe tới chỗ công ty môi giới trước, sau đó mới tới nhà hàng bằng cách đi một vòng thành phố. Tôi muốn có một cái nhìn và cảm nhận một phần thành phố nơi tôi đang sống.

Đại lộ Pennsylvania và đường số Sáu, nằm ở phía Đông Nam thành phố, rất sạch sẽ, khi chúng tôi rẽ sang đường số Sáu thì hiểu ngay cư dân ở đây là những người trong giới thượng lưu. Nhiều dãy nhà chúng tôi đi ngang qua cho thấy không chỉ tốn nhiều tiền mà cả sự nỗ lực tôn tạo nên kiến trúc ấy nữa. Cái vẻ lộng lẫy khu phố này kéo dài cho tới khi chúng tôi rẽ trái vào đường Massachusetts và ngược lên hướng Bắc. Lúc này tôi bắt đầu thấy những cặp nam nữ thanh niên đi dọc theo lề đường trước mắt mình khi xe chúng tôi bắt đầu vào một khu vực thương mại sầm uất đèn đuốc sáng choang.

Xe tắc xi ghé vào trước một kiến trúc mà tôi nghĩ là một ngôi nhà ở. Sau đó tôi bước vào mái hiên thấy những bàn trống và mùi thức ăn Đức thì mới biết là nhà hàng.

Emil ăn nhiệt tình còn tôi nhấm nháp lấy lệ, nhưng thực ra đang cảm nhận môi trường chung quanh. Tâm linh của tôi vượt qua bốn bức tường, chạm vào những suy nghĩ của hàng xóm chung quanh. Hầu hết đều chấp nhận tính đa dạng của môi trường sống, nhưng tôi cũng tìm thấy những nỗi lo sợ lẫn khuất đâu đó trong tâm tư họ, sợ bị phiền toái, sợ cả những tên giết người có thể ẩn nấp sau tường nhà họ.

Người dân xung quanh sống trong sự nghi ngờ và cảnh giác cao độ; cửa ra vào, cửa sổ đều gắn chấn song bằng sắt. Hình như có gì đó còn tồi tệ hơn thần chết đang bước vào đường phố thủ đô nước Mỹ về đêm. Sự lo ngại ấy là vấn đề chủng tộc, hình ảnh tôi tìm được trong trí nhớ của họ là những thanh niên da đen từ một khu ổ chuột phía Bắc kéo tới nơi này, phía Nam và Đông. Tôi sững sờ khi thấy hình ảnh những kẻ mặc đồng phục.

Tôi lục lọi xa hơn. Sự nghi ngờ hướng về những thanh niên da đen, hình như không phải là sự phân biệt chủng tộc như lúc đầu mới nghĩ. Nó mang dấu ấn sự phân biệt giai cấp xóa nhòa cả ranh giới chủng tộc. Tôi thu hẹp tâm linh mình trở về nhà hàng Đức nho nhỏ trên đại lộ Massachusetts thì hết sức ngạc nhiên.

Những ông chủ da trắng lương bỗng hậu hĩnh, được học hành đến nơi đến chốn giương mắt nhìn những người da đen trong kiếp sống nghèo đó, đẩy họ tới con đường trộm cướp, mua bán ma túy, chia thành băng nhóm đâm chém nhau để bảo vệ nguồn lợi, vào các khu da trắng hãm hiếp, cướp bóc và kể cả giết người chỉ để làm vui.

Loạn hết rồi. Dân nghèo châu Âu mà tôi từng biết tới thời Đức quốc xã cũng chỉ cướp của nhà giàu và tầng lớp trung lưu. Nhưng họ làm vậy không phải để mua vui. Họ không hãm hiếp, giết người vì những trò đùa ngu xuẩn.

Châu Âu nơi tôi tỉnh dậy sau giấc ngủ dài hồi tháng tám có một mạng lưới cứu tế xã hội, cung cấp lương thực và nơi ở cho người nghèo. Chỉ có những kẻ lười nhác làm việc không muốn học nghề, những người đầu hàng với số phận từng làm con mồi cho tôi, thì những kẻ đó mới lọt khỏi mạng lưới xã hội này. Nhưng dù hầu hết trong số họ trở thành kẻ lang thang vô thừa nhận chăng nữa, cũng không gây nguy hiểm cho bất kỳ ai khác, ngoại trừ chính mình. Nhiều kẻ cướp bóc nhưng không hãm hiếp, giết người.

Một xã hội phát triển như Hoa Kỳ lại là nơi đầy rẫy những kẻ sát nhân, hãm hiếp, cướp bóc mà có khi những hành vi man rợ ấy chỉ nhằm để giải khuây hay sao ?

Điều quan trọng hơn là tôi có còn muốn sống trong một xã hội như vậy nữa không ?

Emil chồm tới nhìn sát vào mặt tôi trong lúc tôi nhìn đăm đăm vào khoảng không phía trước. "Anh không sao đấy chứ ?". Emil hỏi.

Tôi mỉm cười đáp, "Không sao cả", lúc này tôi để ý mới thấy đĩa thức ăn chàng trai sạch nhẵn. "Bữa tối thế nào, ngon không ?".

Chàng trai cười nhăn nhở "Đi hơn 6000 cây số tới một đất nước có nền văn hóa hoàn toàn xa lạ chỉ để ăn món ăn quê nhà, thật buồn cười".

"Để rồi sau đó em lại cần phải giải phóng năng lượng", tôi cười khúc khích

Emil liếc nhìn đồng hồ, "Nãy giờ mất toi ba mươi phút rồi, nhưng mình có thể đi bộ tới văn phòng người môi giới địa ốc cũng không sao".

Nỗi sợ hãi con người hiếm khi có trong tôi. Tôi đang sống trong thế giới này, nhưng tôi không hề sợ hãi như cư dân ở đây. Tôi sẽ mua một căn nhà ở thành phố này, ít nhất là cho tới khi tìm ra Tom MacPherson và hỏi xem ý định cậu ấy thế nào. Có một ngôi nhà sẽ giúp một thanh niên và một con ma cà rồng an toàn hơn. Căn nhà sẽ trang hoàng rực rỡ với hàng xóm láng giềng thân thiện. Nhưng tôi chẳng e ngại gì con đường tối tăm, kể cả khi có Emil đi cùng. Tôi đủ sức bảo vệ cậu ấy trước bất kỳ nguy cơ nào từ người khác mang tới.

Bốn giờ đồng hồ kế tiếp trôi qua mau chóng. Nhà môi giới muốn bán cho tôi một căn nhà và nghĩ rằng tôi chỉ ở đó đến Giáng sinh là cùng. Với ý tưởng đó, ông ta đưa tôi đi xem những căn nhà lạnh lẽo, hết căn này tới căn khác. Lạnh lẽo không hẳn vì nhiệt độ, vì thiếu lò sưởi mà vì sự hoang vắng khiến người ở có cảm giác như một chốn hoang mồ. Tôi không chút ấn tượng về những điều ông ta trình bày, vì rằng tôi đang đói meo. Cuộc chuyện trò với người môi giới kéo dài tới tận 1 – 2 giờ khuya. Lúc này tôi đưa Emil về khách sạn, thỏa mãn tình dục đủ để làm cậu ấy phải lăn ra ngủ ít nhất cũng phải hai ba tiếng đồng hồ.

Tuy nhiên, việc đi săn không phải là chuyện gấp gáp gì với tôi. Tôi thích chọn con mồi, bữa ăn càng thịnh soạn thì tôi có thể kéo dài thời gian tìm mồi về sau. Với tôi, việc săn mồi phải mất hai hoặc ba giờ, ngoại trừ ở Zürich.

Lúc Emil đã ngủ say, tôi hóa thân thành con dơi nhỏ bay ra từ cửa sổ lầu tám hướng về phía trung tâm thành phố. May thay phía Tây Willard là khu vực các công viên. Đàn ông, đàn bà mang những điều ô trọc không thể làm ở nhà được ra đây, họ nằm ngồi la liệt trên đất bẩn, ai dám cười nhạo họ ? Có kẻ uống rượu, có kẻ hút hít, chích choác. Với họ, cái chết đang từ từ đến gần.

Tôi kiếm ăn nhưng không giết họ, và tỉnh táo hẳn khi thấy mùi vị lạ lẫm muốn buồn nôn trong miệng mình.

Sang ngày thứ tư, nhà tư vấn địa ốc làm một hợp đồng sáu tháng, lúc này tôi sẵn sàng ký bất kỳ thứ gì ông đưa cho tôi. Tôi cần không gian yên lành trong căn nhà mà tôi đã bỏ tiền ra. Tôi muốn sắp xếp thời gian để tìm hiểu thực tế ở thủ đô nước Mỹ. Tôi muốn dò tìm nơi ở của Thomas MacPherson để thúc giục cậu ấy cho một quyết định mà dựa vào đó tôi biết phải cư xử như thế nào với Emil Paulik cho phải.

Sergei Alexandrovitch, bây giờ là Tom MacPherson, thì thầm với tôi, ru tôi vào giấc ngủ mỗi lúc bình minh hé rạng trên bầu trời Washington. Càng lúc tôi càng yêu mến Emil Paulik mỗi khi chiều về lúc tôi thức dậy, thấy cậu ấy nhìn tôi mỉm cười, hoặc cảm thấy hơi ấm chàng trai bên dưới hoặc bên cạnh tôi trong nỗi đam mê ngùn ngụt.

Căn nhà rộng hơn căn nhà tôi có ở Vienna. Người ta dùng nó như một nhà nghỉ, là nơi tiếp khách hoặc bạn bè đến vui chơi. Căn nhà đứng chơ vơ một mình trên nền đất, khiến nó trở nên xa lạ với khu vực lân cận. Một hàng rào hoa văn bằng sắt bao bọc toàn bộ kiến trúc, ngăn cách ngôi nhà với đường phố bên ngoài, trước nhà là một hoa viên nho nhỏ.

Căn nhà quả thật lạnh lẽo nhưng vẫn lưu giữ được ký ức của những cuộc hoan lạc trác táng, những trận cười thâu đêm suốt sáng.

Tôi liếc nhìn Emil, chàng trai gật đầu. "Bao nhiêu ?", tôi hỏi. Giá cả không thành vấn đề. Cứ một trăm triệu Phrăng Thụy Sĩ trong tài khoản của tôi cũng trị giá ít nhất 70 triệu đô la vào thời điểm Giáng sinh năm 2004. Tôi chỉ cần gửi thư tín dụng từ ngân hàng Hauptmann tới ngân hàng quốc gia Riggs, sau đó thì có thể viết séc thanh toán cho khoản tài sản mới mua của mình.

* *

*

Davis Trellum ngồi trên phiến đá trước bồn phun nước, ông mỉm cười khi viên tướng đến gần ông. Ông có thể tước bộ quân phục vị tướng này nếu ông muốn, nhưng ông không thể cướp đi quân đội từ tay vị tướng này. Tướng Howell giống như cái thông nòng thẳng băng, ông không bước đi bình thường mà đang dập gót hành tiến. Ông vỗ nhẹ lên phiến đá ra hiệu cho viên tướng ngồi bên cạnh. Đội hợp xướng nhà thờ đâu đó đang hát vang bài hát mừng Giáng sinh. Đây là tuần lễ Giáng sinh.

"Xe cộ khiếp quá !", Howell lầm bầm, rồi liếc nhìn khách hàng mua sắm nườm nượp, qua lại trước mắt hai người.

"Tôi bảo ông ra đây vì tôi muốn biết tại sao không có tin tức gì từ ông... cái gì ? ... Gần cả tháng nay rồi ?"

"Thì ngài bảo ngài không cần đến chúng tôi cho tới tháng Tư mà, thưa ngài Trellum".

"Tôi cũng từng bảo ông lo việc huấn luyện các đơn vị. Không thể có bất kỳ sai sót nào một khi việc này bắt đầu tiến hành", ông cau mày, "Điều đó có ý nghĩa đặc biệt là không cho phép bất kỳ tướng lĩnh nào ở pháo đài Myers kháng cự lại mệnh lệnh của ngài Reed Stephens, hoặc bất kỳ hình thức dân chủ rộng rãi nào ở Washington trước lúc ông chiếm quyền điều khiển toàn bộ lực lượng vũ trang đủ mạnh để kiểm soát toàn quốc gia theo một trật tự mới".

Howell mím môi, "Vâng, thưa ngài, chắc phải mất khá nhiều thời gian hơn cả sự tính toán của tôi. Chỉ vì tôi phải che giấu hoạt động huấn luyện của mình không thấu đến tai văn phòng Thượng nghị sĩ", viên tướng cau mày, "mà có lẽ tháng sau, tôi có thể gọi là Phó tổng thống rồi", ông lẩm bẩm.

Trellum cảm thấy nhẹ nhõm. Viên tướng của Reed Stephens đang làm điều cần làm. "Ông nói đúng. Chúng tôi không muốn có bất kỳ dấu vết nào bị phản ảnh lại với chúng tôi".

"Bây giờ mọi việc đâu vào đó rồi, thưa ngài. Chúng ta sẽ bắt đầu huấn luyện các đơn vị thành từng nhóm một kéo dài cho tới cuối tháng giêng – tức vào thời điểm thích hợp".

"Ông có định dùng pháo đài Belvoir vào việc này không ?".

"Thưa có ạ. Nó đủ xa để không ai chú ý nhưng cũng đủ gần để cánh thanh niên quen với những hoạt động thực tế khi thời cơ chín muồi".

"Chỉ cần làm cho kín đáo là được".

Tướng Howell nói, "Sẽ không ai nhìn thấy gì cho tới cuối tháng ba. Chúng tôi sẽ đưa vài đơn vị vào thành phố để dân chúng quen dần với sự có mặt của các đơn vị đó. Cho dù vậy, cũng sẽ không có bất cứ hoạt động nào lộ liễu đâu, thưa ngài".

"Quân đội đủ sức đảm đương chuyện này không, ông Howell ?".

Viên tướng bật cười, "Dễ như ăn bánh, thư ngài Trellum. Chúng ta phải khiến cho Clinton hết lời cảm ơn vì chuyện này".

"Bằng cách nào ?"

"Ông ta gửi bộ binh vào Somali, thủy quân lục chiến sang Haiti. Chúng ta đã tham gia bằng cách gửi 30 ngàn người giữ gìn trật tự vùng Balkans trong 10 năm qua. Bộ binh và lính thủy đánh bộ cũng đã tích lũy nhiều kinh nghiệm trong ba mươi năm qua, cảm ơn chúng ta là đúng thôi".

Trellum đứng dậy, "Tôi không muốn giữ ông lâu hơn nữa, tướng quân". Ông mỉm cười chìa tay cho viên tướng, "Cuộc nói chuyện hôm nay khiến tôi yên tâm hơn. Chúc giáng sinh vui vẻ".

HẾT PHẦN 7

PHẦN 8

ND : Đây là một truyện dài nhiều tập viết về thế giới của bóng tối, thế giới của những sức mạnh siêu nhiên từng ngự trị ở châu Âu từ lâu và kéo dài tận thế kỷ 21, thế giới của loài ma cà rồng (vampires) mà trong đó, nếu loại bỏ một số yếu tố tưởng tượng và những đoạn mô tả về đời sống của ma cà rồng, có lẽ chúng ta sẽ nhận ra tính nhân văn sâu sắc. Truyện có đề cập đến vấn đề đồng tính nhưng chỉ thoảng qua, mà đi sâu khai thác các khía cạnh lịch sử đầy kịch tính. Nhân vật chính xuất thân từ hoàng tộc mang dòng máu lai Áo – Hung đã trở thành ma cà rồng... Nguyên tác là tiếng Anh, nhưng nhiều chỗ pha trộn ngôn ngữ khác như Pháp, Đức cùng với những bối cảnh có liên quan đến lịch sử xa xưa của các quốc gia châu Âu, hoàn toàn xa lạ với người dịch. Với kiến thức giới hạn, và chỉ với mục đích giải trí nên Vũ Quốc tạm dùng những cụm từ thay thế hợp lý để diễn đạt ý tưởng, rất mong độc giả lượng thứ. Cũng cần nói rõ, nội dung truyện chỉ là sản phẩm tưởng tượng, mọi chi tiết về con người, địa danh, sự kiện đều không có thật và nếu có trùng hợp với ngoài đời cũng chỉ là sự ngẫu nhiên.

Ba ngày trước lễ giáng sinh, lần đầu tiên trong 65 năm, tôi thức dậy trên chính giường của mình, cái giường chính tôi đã mua thay cho cái giường thuê ở cái gác xép cũ. Một cái giường bằng phẳng êm ái, nói chung không lồi lõm như trước đây. Lúc này đã vào đông chí, là lúc ngày trở nên ngắn nhất trong năm. Tôi thức dậy đã quá ngọ gần 1 giờ đồng hồ, cảm thấy dễ chịu khi chỉ trong 3 tuần lễ ngắn ngủi ở chung với một con người, mà người này không phải là mối nguy hiểm đối với tôi. Tôi mở mắt thấy Emil mặc áo thun lá, quần jean mỉm cười với tôi, đang đứng xoay lưng về phía lò sưởi mé đối diện giường tôi đang nằm để sưởi ấm.

"Ngủ trên giường mình có ngon giấc không ?", chàng trai hỏi khi thấy tôi đã tỉnh táo hẳn.

"Ngủ giường nệm, tự thân nó cũng đã nói lên điều gì đó rồi".

Chàng trai cười nhăn nhở, "Nằm chiếu mà trải nệm cũng đâu có nghe kêu !"

Tôi vươn vai, đạp tuột tấm chăn đắp xuống bên dưới "Anh nhớ trước kia em đâu có phàn nàn về chuyện ngủ nghê".

Chàng trai cười khúc khích, "Một khi có thêm kinh nghiệm mới mẻ, người ta lại hay so sánh với kinh nghiệm cũ trước đó".

"Có phải em định nói anh trở nên già cỗi, cũ kỹ như chiếc giày xỏ chân vào rồi phải không ?".

Mắt chàng trai mở to. "Không hề !", chàng trai bò lên giường quỳ trước mặt tôi, "Với em, anh sẽ không bao giờ như chiếc giày cũ đâu, anh yêu". Giọng chàng trai lạc đi khi chiếc lưỡi liếm vào đùi tôi, sau đó nhẩn nha ngược về bên trên.

"Anh yêu em, Emil", tôi lẩm bẩm khi gai thịt trên lưỡi chàng trai rê quanh đầu khấc.

Tôi nằm ngang trên nệm, để chàng trai nhóm ngọn lửa dục vọng trong tôi, ngọn lửa có từ đầu lưỡi nóng hổi đã truyền sang người tôi ngùn ngụt đam mê...

Chúng tôi nép sát vào nhau dưới tấm chăn đắp, mồ hôi tươm lấm tấm trên làn da trần trụi của Emil sau cuộc ái ân. Chàng trai ngọ ngoạy bên dưới dương vật đã xìu co của tôi.

"Em chơi sướng không Karl".

"Sướng... một người tình tuyệt vời", tôi nói trong lúc còn chưa ra khỏi cơn thỏa mãn.

Chàng trai nhìn tôi hỏi : "Em không nghĩ rằng anh nhìn em theo kiểu đó", chàng trai nói với vẻ ngại ngùng, "Không phải như thế", cuối cùng thì chàng trai nói hết ý nghĩ của mình, "Anh nghĩ về em như thế nào ?".

"Em thông minh, đẹp trai, thật thà và đáng kính trọng", tôi rê ngón tay trên má Emil, rồi lướt dọc theo sóng mũi, cười rồi nói tiếp, "Em vừa độc lập nhưng vừa lại muốn sẻ chia. Thấy việc cần làm là em làm ngay. Và em là người mà khi sống chung anh cảm thấy dễ chịu nhất trong hai tháng qua".

"Anh nói thật lòng đó chứ ?".

"Anh không lừa dối em, Emi". Tôi nhìn vào đôi mắt xanh sâu thẳm chàng trai, mỉm cười, "Anh không có cảm giác bị bắt buộc phải sống chung với em".

Emil chồm dậy, môi chàng trai ép sát môi tôi, thân thể chàng trai đè lên người tôi. Nụ hôn chàng trai không chỉ là sự thèm muốn mà còn là lời cảm ơn tự đáy lòng.

"Em cũng là người anh yêu mến trong mấy tháng nay", tôi nói sau khi chàng trai ngẩng mặt lên mỉm cười với tôi. Ngón tay tôi vuốt nhẹ trên má rồi kèo dài xuống cổ Emil.

"Rồi anh sẽ yêu em cho mà coi", chàng trai thì thầm, tay vuốt chót mũi của tôi.

Tôi cười khúc khích, "E rằng điều đó không thể vì... anh đã yêu em rồi".

Emil bật dậy như điện giật, liếc nhìn tôi hỏi, "Còn Tom thì sao ?".

"Giống như Sergei Alexandrovitch và Würther, anh cũng yêu Tom. Nhiều năm dài, nhiều kỷ niệm sẻ chia giữa hai người đã khiến tình yêu không hề phai nhạt, Emi. Chắc cậu ấy sẽ hiểu rõ như anh".

"Vậy anh yêu tới hai người cùng lúc hay sao ?".

Tôi cau mày suy nghĩ về câu hỏi chàng trai đặt ra cho mình. Cuối cùng phải thừa nhận mình đồng thời yêu hết cả hai.

Một người, dù là thanh niên hay đàn ông đều yêu cha lẫn mẹ và anh chị em ruột. Đó là tình yêu đa phương kéo dài suốt quãng đời người đó. Người có xu hướng tình dục dị giới yêu vợ, yêu con... nhưng cũng có thể yêu những người đàn bà trong những căn nhà riêng biệt khác và yêu cả những đứa trẻ do những người này sinh ra.

Tôi yêu mến Emil Paulik. Tình cảm này vượt xa hơn cả sự thỏa mãn ở con người đẹp trai và biết cách thỏa mãn tình dục cho tôi. Chưa đầy ba tháng, chúng tôi đã sẻ chia cuộc đời cho nhau từng ngày – kể từ khi Sergei Alexandrovitch thức dậy trong con người Tom MacPherson cho tới lúc tìm kiếm nhà ở tại Washington, D. C.

Yêu, hoặc ngay cả mến thương nhau, bao giờ cũng khác hơn tình dục và những thứ ngọt ngào đầu môi, sau khi hai người đã chung sống với nhau. Đó là sự chia sẻ những vui buồn trong cuộc sống của nhau. Đời người được xây dựng trên nền tảng những giây phút vui thú, sự cảm thông và sự nhất quán mục tiêu, cùng nhau làm những điều gì đó – hơn thế nữa còn là sự thỏa mãn những đòi hỏi nhục dục mang đến khoái cảm cho nhau.

Tôi có thật lòng yêu Emil Paulik hay chăng ? Tôi phải thừa nhận là có. Cuộc sống êm ấm hạnh phúc cùng những lúc đam mê cuồng nhiệt bởi sự kết hợp với nhau trong những tháng qua đều là những dấu hiệu bắt đầu của một tình yêu. Nếu chúng tôi ở với nhau lâu hơn nữa, hẳn là tôi sẽ nhức nhối tột cùng khi phải mất chàng trai này. Nếu như chúng tôi phải ngăn cách từ ngày hôm nay, ngăn không gian giữa hai đứa, hẳn là tôi sẽ sầu khổ khôn nguôi.

Phải, tôi đã yêu Emil Paulik. Mặc dù không hề có ý định như vậy lúc ban đầu.

"Phải, anh yêu cả hai người".

Emil nở nụ cười bí ẩn giống như các vị thánh chạm khắc trên tường bất kỳ thánh đường nào ở Vienna. "Mình cần phải tìm Tom và sau đó giải quyết chuyện của hai người".

"Tại sao vậy ?", tôi nhăn mặt rên lên, "Anh không muốn phải chọn một trong hai người đâu".

"Sao phải làm chuyện đó ư ?", Emil chậm rãi nói, "Ở Zürich, em coi Tom như bạn bè", chàng trai nói tiếp, như trả lời câu hỏi của chính mình.

"Anh ấy cũng đẹp trai, đúng ra là đẹp trai cực kỳ", chàng trai cười, "Em đã quen với chuyện đó".

Emil nhìn xuống đôi bàn tay mình, "Nhưng bây giờ em phải học cách chấp nhận anh ấy ở một vị trí bình đẳng trong trái tim anh, Và rồi phải chia sẻ anh ngay trên giường, nếu như đó là điều anh mong muốn".

"Còn nếu Tom không chấp nhận sự thu xếp đó ?", tôi hỏi, giọng tôi không che giấu nỗi lo sợ.

"Ngay lúc này, chúng ta vẫn còn chưa biết rõ anh ấy có chấp nhận kiếp sống vĩnh hằng của anh, kể cả tình yêu của anh hay không".

"Sao lại không chứ ?", tôi chống chế, "Bọn anh yêu nhau hơn trăm năm rồi".

"Không sai. Nhưng không phải cùng là một kiếp con người, đúng không ?".

Tôi liếc nhìn Emil, tâm trạng mơ hồ vì không biết chàng trai này sẽ dẫn tôi tới đâu.

"Trong kiếp người của Sergei, anh ấy đã trở thành ma cà rồng trước, rồi sau đó mới cứu mạng anh. Các anh ân ái với nhau khi đó anh ấy còn là Sergei, nhưng có phải luôn luôn anh là người nằm trên hay không ?".

Tôi chậm rãi gật đầu, hơi cảm thấy khó chịu khi phải chia sẻ những điều trong quan hệ riêng tư với Emil.

"Nhưng trong kiếp người của Würther, anh ấy lại từ chối không muốn trở thành ma cà rồng, ngay cả khi hấp hối phải không ?".

Tôi gật đầu.

"Khi lên giường với anh ấy, có phải lúc nào anh cũng là người chinh phục ?".

Tôi lại gật đầu.

"Cùng một linh hồn ở cả hai kiếp người, nhưng trong kiếp thứ hai, anh ấy có sự lựa chọn khác với lần đầu". Emil dừng lại, bắt đầu kết nối những mảng rời rạc thành luận điểm của mình, "Điều đó nói lên rằng một linh hồn không phải lúc nào cũng lập lại quyết định của mình sau khi thay đổi số kiếp. Cũng giống như một người đàn ông trưởng thành có những lựa chọn khác với thời kỳ còn trẻ thơ, cùng là một con người, nhưng sự phát triển thể chất và nhận thức đã thay đổi".

Tôi liếc nhìn chàng trai, đầu óc hoang mang loạn cả lên trước ý tưởng này.

"Nghe giống như giáo lý luân hồi nhà Phật vậy, Emil", cuối cùng tôi cũng nói, "Linh hồn tiếp tục trở lại đây – trở lại cái thế giới hữu hình này – để tiếp tục trả cho xong món nợ tiền kiếp. Đó là cách giải thích của tín ngưỡng tôn giáo đó".

"Có lẽ đức Phật thông tuệ còn hiểu thấy nhiều điều hơn là những người đứng ra khởi xướng thành lập các giáo phái". Chàng trai cười, "Karl, chúng ta có một người đàn ông mà anh từng nói rằng trước đây đã ít nhất hai lần sống. Em tin anh. Em từng thấy anh ấy đổ gục xuống ở Zürich. Anh ấy đã nhận ra anh, nhận ra những gì hai người từng sẻ chia cho nhau, điều đó làm tâm trí anh ấy bấn loạn. Nếu đó là sự thật, thì một lập luận có tính lô gíc là có thứ gì đó ẩn đằng sau sự việc đó. Không có gì tồn tại trong chân không cả".

Tôi ngồi dậy nhìn sững chàng trai, "Chúa ơi, em thành một Voltaire, một Rousseau hồi nào vậy ?"

"Những triết gia của thời đại suy lý", Emil lẩm bẩm một mình và nhún vai, "Thực vậy sao ?".

"Vậy thì trở lại vòng tay của anh, trở về với tình yêu mà bọn anh từng có với nhau trong nhiều năm dài chẳng phải là điều hợp lý sao ?".

"Vậy thì cái lô gíc nào đã dẫn đến quyết định của Würther không muốn thành người bất tử ? Linh hồn của Tom đang soi rọi lại những điều ấy, Karl; và chúng ta có thể đoán được đó là điều gì. Có lẽ, anh ấy cần một mình suy nghĩ một thời gian. Cũng có khi anh ấy muốn học cách yêu đàn bà và con trẻ một khi anh ấy trở thành người cha". Emil nhún vai, "nhưng em không biết chắc". Chàng trai bỗng cười nói, "Hoặc cũng có thể anh ấy cần học cách chia sẻ tình yêu cho em lúc này chẳng hạn".

Tôi rên lên.

"Vậy khi nào chúng ta bắt đầu đi tìm anh ấy ?", chàng trai vừa hỏi, vừa ngồi dậy rời khỏi giường.

Tôi liếc nhìn Emil, nỗi sợ hãi bỗng dâng lên.

Đúng ra không phải là sợ.

Đó là lo lắng, e ngại. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu như Sergei Alexandrovitch Romanov từ chối cuộc sống vĩnh hằng hoặc chối bỏ tình yêu của tôi ? Tất nhiên tôi đã có Emil, nhưng một mình chàng trai cũng không thể mang lại cho tôi những gì mà Sergei đã có cùng tôi trong hơn một thế kỷ qua. Chẳng lẽ tôi phải làm lại từ đầu với Emil. Còn với Sergei là một quá khứ được bồi đắp thêm không ngừng.

"Ý thức của cậu ấy mỗi lúc một mạnh hơn, Emil", tôi hiểu mình đang cố tình kéo dài thời gian và cảm thấy hơi xấu hổ về điều đó, "Những ý nghĩ đó lúc này tương đối rõ ràng hơn, nhưng cậu ấy vẫn muốn anh tránh xa".

Tôi ngó xuống, bối rối vì phải làm chuyện ngoài ý muốn. "Cậu ấy cần có thời gian. Cậu ấy muốn hiểu xem chuyện gì đã xảy ra với bản thân. Cậu ấy muốn chính mình quyết định mà không có sự tác động bên ngoài nào từ phía anh".

"Vậy anh cũng đồng ý cho anh ấy thêm thời gian để suy nghĩ lại chứ ?".

Tôi chậm rãi gật đầu. "Cho tới khi sang xuân. Ba hoặc bốn tháng nữa... Sao mình cứ nhắc chuyện này mãi thế nhỉ ?", tôi cố ra vẻ như không có gì. Nhưng thâm tâm tôi thừa hiểu đó là nỗi lo canh cánh trong lòng.

"Vậy anh sẽ ở cùng em cho tới lúc đó chứ ?".

Nụ cười hé nở trên môi chàng trai khi tôi ngẩng lên bắt gặp cái nhìn chằm chằm anh chàng. Tôi để ý thấy chàng trai nổi hứng trở lại.

"Anh nghĩ chúng ta sẽ tìm hiểu thêm về thủ đô của Hoa Kỳ", tôi nói với Emil, "Nhưng bây giờ anh phải đi tắm".

"Em cũng muốn đi tắm nữa", chàng trai cười vui vẻ, "anh kỳ lưng giùm em được không ?".

"Sao lại không". Tôi hiểu chàng trai muốn được thỏa mãn...

Chúng tôi xuống tắc-xi ở dãy phố mé trên quảng trường được đặt tên là Admiral DuPont. Tôi không biết vị đô đốc này đã làm điều gì tốt đẹp cho đất nước ông trong lực lượng hải quân vì cái tên đó chẳng có ý nghĩa gì với tôi hay bất kỳ công dân Áo nào. Tất nhiên chúng tôi từng sống trong một đế chế mà việc tuần tra không vượt quá khỏi ven vùng duyên hải; thanh niên ngày ấy không hề mơ mộng về biển cả, cũng không coi các sĩ quan hải quân là thần tượng của mình.

"Bây giờ mình đang ở trung tâm của một khu vực đồng tính ở Washington", Emil nói với tôi cứ như là chàng trai là hướng dẫn viên du lịch. Tôi nhìn những dãy phố hai hoặc ba tầng chung quanh, đàn ông đàn bà kéo áo khoác kín cổ rảo bước đi vội.

"Có thấy gì khác so với khu thương mại quanh Willard đâu ?", tôi nhận xét.

"Hãy còn sớm", chàng trai xắn tay áo lên xem đồng hồ, "Chỉ mới hơn 5 giờ".

"Và em cảm thấy đói bụng rồi hả ?".

Chàng trai giật mình, cứ như bị tôi đọc được ý nghĩ trong đầu. "Làm sao anh biết ?"

"Em còn trẻ, vả lại trước đó chúng ta không mua thức ăn để sẵn trong bếp".

"Đúng vậy". Chàng trai vẫn còn nhìn tôi tỏ ý nghi ngờ nhưng không nhắc lại chuyện đó, "Mình kiếm nhà hàng nào gần đây đi anh".

Chàng trai liếc nhìn tấm bảng hiệu bên trên, "Chúng tôi dời về ngã tư Connecticut và đường 'Q'...đường số 17...". Chàng trai xoay người nhìn quanh rồi la lên, "Biết đường nào mà tìm đây chứ ?".

Tôi cười khúc khích rồi bước tới trước mặt một người đàn bà đang phía trước chúng tôi.

"Bitte, gnädnige Frau", tôi nói bằng tiếng Đức, sau đó mới chuyển sang nói bằng tiếng Anh, "Vui lòng chỉ giúp cho tôi tới đường số 17 ?".

Người đàn bà dừng lại liếc nhìn hai người chúng tôi. Xác định rõ chúng tôi không phải là dân đi bụi, và qua ngôn ngữ chào hỏi biết được chúng tôi là người nước ngoài, nên người đàn bà mỉm cười, tỏ vẻ thân thiện ngay lập tức. Bà hỏi chúng tôi kiếm hiệu ăn nào. Tôi nhìn sang Emil.

"Hiệu bít tết của Annie", chàng trai đáp, gỡ rối cho tôi bằng thứ tiếng Anh phát âm không chuẩn xác. Người đàn bà gật đầu bảo chúng tôi rằng món bít tết rất ngon và khuyên chúng tôi nên dùng thử món bánh mì nướng Texas. Sau đó bà chỉ hướng cho chúng tôi đi thêm hơn hai dãy phố nữa dọc theo đường Q về phía Đông.

"Sao anh không dùng những câu xã giao lịch thiệp như "Excuse me, honoured lady" vậy Karl ?", chàng trai hỏi khi chúng tôi thả bộ về hướng đông, "Bà ấy đâu nghe được tiếng Đức".

Tôi cười đáp, "Người ta ai cũng muốn giúp đỡ người khác, chỉ khi họ cảm thấy an toàn. Anh nói tiếng Đức chỉ vì muốn họ biết chúng ta là người nước ngoài cần sự giúp đỡ".

"Sao phiền phức như thế ?", chàng trai vẫn chưa chịu thôi.

"Với một phụ nữ, có hai người đàn ông trước mặt có thể là mối hiểm nguy đe dọa tính mạng họ".

"Có phải anh lại đọc suy nghĩ của bà ấy rồi phải không ?".

Tôi lắc đầu, mỉm cười, "Có nhiều thứ mà người ta có thể hiểu được về bản chất con người qua nhiều năm tháng", tôi đáp.

Chàng trai ăn món bít tết Mỹ, gà rán và bánh mì Texas, còn tôi nhấm nháp rượu cognac mà người ta mang ra trong một cái chai nhỏ xíu cùng với cái ly cũng bé tẹo, vừa đủ rót hết rượu trong chai. Sau đó, chúng tôi đi bộ ngược về quảng trường để tìm đường P. Emil tỏ ra tỉnh táo sau khi ăn, còn tôi cố làm khuây với cơn đói của mình. Chúng tôi men theo hướng Nam quảng trường DuPont, vừa đi vừa đọc các panô quảng cáo treo bên trên, vừa ngó ngang ngó dọc tìm con đường 'P' mà Emil nói rằng ở đó đầy dân gay.

Băng qua Connecticut thì tới New Hampshire, tôi linh cảm có người quan sát chúng tôi. Hơi tò mò, tôi nhìn ra trước lối đi thì thấy ba thanh niên người vùng Cô-ca-dơ đang đứng trước một hãng dược lớn đang nhìn chúng tôi khi tới gần.

Ý chí tôi tập trung và vươn tới những ngõ ngách trong suy tưởng của ba người đó. Chẳng có gì nhiều, tôi hơi ngạc nhiên vì sao một con người khi có mặt bạn bè bên cạnh mà có quá ít suy nghĩ như thế. Người nào cũng muốn tấn công chúng tôi, nhưng họ vẫn kềm chế được bản thân. Càng tò mò hơn, tôi thâm nhập sâu hơn trong ý tưởng của họ.

Người nào cũng mặc quần jean, áo jacket bằng da, giày ống cũng bằng da dày, thắt dây. Ba thằng, thằng nào cũng cạo trọc đầu, da đỏ ửng vì cái rét ban đêm. Cả ba đều đeo khoen bên tai trái. Dường như những thứ ấy chỉ để trang điểm thêm cho bộ đồng phục chúng đang mặc.

Tới trước hãng dược phẩm, tôi nói với Emil bằng tiếng Đức, "Đừng nhìn chúng, nhưng lũ này hình như là đám côn đồ đang định hành hung chúng ta", tôi xâm nhập vào tư tưởng bọn chúng lần nữa để xem có gì thay đổi hay không, vì không muốn Emil bị đả thương.

Thằng đứng ở vị trí gần chúng tôi nhất loáng thoáng nghe lời nói của tôi, nó cau mặt rồi sau đó mỉm cười khi cho rằng chúng tôi là người Đức. "Heil, Hitler !", nó hô to, dập hai gót giày lại và đưa tay lên chào theo kiểu bọn Quốc xã khi chúng tôi đi ngang qua

Heil, Hitler ! Trong quãng thời gian hơn hai năm trời, tôi đã từng nghe lời chào ấy rất nhiều lần trong ngày trước khi trốn đi. Trả lời điện thoại cũng chào, mở cửa đón khách cũng chào lối, tạm biệt nhau cũng chào theo kiểu ấy. Gặp người qua lại trên đường cũng "Heil, Hitler !". Thậm chí chào cả bọn bồi bàn và người giao hàng. Có lúc tôi tự hỏi không biết khi lên giường trước lúc làm tình người ta có "Heil, Hitler !" hay không.

Tôi ghét cay ghét đắng lời chào ấy cho tới lúc tôi cùng Würther bỏ trốn và bị bọn SS săn đuổi.

Tôi "chui vào đầu" tên này lần nữa. Cầu trời cho gã đừng đùa với chúng tôi. May thay, chỉ thấy lòng tôn kính của gã.

Tôi nhận ra cảm giác sung sướng trong gã. Chúng tôi từ tổ quốc Hitler đến. Dù sống bất cứ nơi nào, dù là hai người đàn ông đi chơi với nhau, thì chúng tôi vẫn là người tốt. Vì người này nghĩ cứ hễ người Đức thì chắc chắn là đảng viên Quốc xã và thuần chủng, vì vậy, phải là người tốt. Bất giác tôi rùng mình.

Sao chuyện này lại xảy ra được thế nhỉ ? Nước Đức bị đánh bại năm 1945, dân Đức kiệt quệ trước quân đội Đồng minh gồm người Mỹ, người Anh và người Nga... Những kẻ bại trận trước kia vênh váo lớp bỏ mạng, lớp bị bắt, lớp bỏ trốn. Từ lúc tỉnh dậy trở lại thế giới loài người, tôi đã ngấu nghiến đọc lịch sử nên biết rõ những chuyện ấy, mối hận vẫn còn nung nấu trong lòng. Làm sao mà những thanh niên người Mỹ này, những kẻ không biết một thứ tiếng nào khác ngoài tiếng Anh, lại có thể là bè đảng bọn Quốc xã man rợ ấy được ?

"Họ nói vậy là sao hở anh ?", Emil hỏi, chàng trai bối rối khi thấy họ chào.

"Lũ chúng là tự gọi mình là bọn đầu trọc, nhưng thực chất là người của đảng Quốc xã", tôi gầm gừ khi bước dọc theo đường "P". Ba cặp mắt vẫn nhìn theo chúng tôi, ngưỡng mộ và có gì đó có vẻ thèm muốn, ganh tỵ trong suy nghĩ của họ. Bởi vì họ nghĩ hai người chúng tôi đều là người Đức thật thụ, những người cuồng nhiệt theo chủ thuyết Hitler.

Đám người đó giống như những học sinh ở Vienna khi Hitler đến thăm thành phố, tuyên bố đế chế sẽ trường tồn cả ngàn năm. Tôi nhớ hồi đó, đám học trò mặc sơ mi nâu, quần bó chẽn, chữ thập ngoặc thêu bên vai áo. Cực kỳ hãnh diện, đứa nào cũng thế và đứa nào cũng là những thằng con nít ngây thơ tôn vinh bọn Quốc xã.

Làm sao mà những thế hệ cha ông, những người hủy diệt tội ác của lũ quỷ dữ ấy, lại để con cháu mình tái lập lại chế độ tàn bạo ấy, chẳng khác nào bầy chó non hoang dại đào bới vực dậy cái xác thối rửa dưới mồ mà vẫy đuôi hãnh diện về "chiến tích" đó.

Heil, Hitler ư ? Điên hết rồi !

Bây giờ thì tôi biết chắc mình sẽ tìm bữa ăn tối ở đâu rồi. Vẫn còn có những con người hèn hạ ti tiện còn tệ hơn những kẻ thất chí tự vẫn. Chính chúng là lũ sát nhân, kẻ đã giết Würther. Tôi cố mỉm miệng cười nhưng không cười nổi, làn môi lạnh giá hơi nhếch lên bật ra một âm thanh gầm gừ oán hận, thấp thoáng đầu răng nhọn hoắc sau đôi môi tái nhợt. Bỗng dưng tôi thấy đói cồn cào ruột gan.

* *

*

Ronnie Barber cười khoái trá, tay gã nhịp nhịp trên gối lúc đang ngồi trên băng ghế sau xe Suburban. "Thằng đó đó, tụi bây", gã nói với sáu thằng đang đứng quanh gã.

"Nó cũng có vệ sĩ đó".

Một gã latin vạm vỡ xuất hiện từ chiếc Mercedes màu đỏ đậu sát lề đường và rảo bước vượt lên để đón người đàn ông nhỏ thó đi ngược chiều.

"Nhớ để ý. Tao sẽ ra ngoài, đuổi theo hướng đó. Tao sẽ lang thang trên lề đường làm bộ như dân ở quanh đây". Gã quay sang nói với người lái xe "Mày lo thằng vệ sĩ, nhớ làm cho êm đó". Người lái xe gật đầu. "Hễ thấy thằng to con gục rồi, thì đám tụi bây tóm lấy thằng cha nhỏ con mang về đây cho tao. Không còn nhiều thời gian đâu, làm được không ?". Liếc nhìn qua tấm kiếng chiếu hậu thấy bọn đàn em gật đầu, gã nói, "Vậy thì làm đi". Ronnie lầm bầm khi mở cửa bước ra khỏi xe và bách bộ trên vỉa hè.

Bàn tay gã chạm vào khẩu súng 9 ly trong túi áo choàng, mở khóa an toàn. Gã băng mình giữa cái giá lạnh, rảo bước về phía hai người đàn ông, gã chăm chú để mắt nhìn kiến trúc đổ nát trước mặt. Nhìn từ đuôi mắt, Ronnie Barber thấy gã chỉ còn cách mục tiêu có 2 căn nhà.

Chết tiệt ! Hai người bước xuống đường. Với tốc độ này thì hai người sẽ về đến chiếc Mercedes trước khi gã bắt kịp. Gã tăng tốc đủ để vượt qua mặt hai người. Gã không quay mặt lại nhìn đám đàn em mà bước thẳng, người cận vệ có thể chú ý tới gã, nhưng không việc gì vì gã đã qua khỏi hai người một khoảng cần thiết.

"Madre de Dios !" Người đàn ông nhỏ thó thét lớn.

Ronnie đang đi đứng sững và quay người lại trong lúc rút khẩu súng lục trong túi áo ra. Gã khoái trá nhìn nửa cái đầu tên cận vệ bị viên đạn gã thổi tung đi mất. Gã cười khùng khục trước sự việc diễn ra như chớp mắt ấy, còn người đàn ông nhỏ thó đang lết trên mặt đường hướng về phía căn nhà trước mặt. "Chặn nó lại, Amigo". Gã nhắm khẩu 9 ly vào giữa gáy người đàn ông trong lúc đang chạy tới. Lúc này gã đứng giữa hai chân người đàn ông, nòng súng kề sát cổ người này, gã yên tâm vì chẳng cần phải gắng sức nhiều hơn nữa.

Nghe có tiếng chân chạy, gã ngoáy lại hướng về chiếc Suburban. Gã nhe răng cười khi thấy đám đàn người của gã hầu như kéo hết ra đường, còn cái xe đón người đàn ông kia được kéo trước tòa nhà đổ. Không thể tìm bọn đàn em nào giỏi hơn thế. Hai tên trong số đó chộp lấy tay người đàn ông nhỏ thó nhấc bổng người này dậy. "Lôi nó về xe cho tao", gã nói cộc lốc rồi bước thẳng về chiếc Suburban mà không hề ngoáy đầu lại lần nào nữa.

Ronnie ngắm nghía người đàn ông qua kính chiếu hậu khi bọn chúng lái xe chạy về phía quảng trường Sheridan về phía Bắc. Thằng khốn này chắc không quá hai mươi, tướng tá giống như con gái, nhỏ thó mà xinh xắn nữa. Đó là đối với ai thích màu da màu đồng sẫm màu của người đàn ông. Nhưng gã không sao hiểu nổi sao lại có thằng lỏi trẻ thế này lại đi mua bán ma túy.

Người thanh niên nhìn gã qua kính chiếu hậu, "Ông nghĩ ông đang làm cái đếch chó gì vậy, hả ? Chán sống rồi hả ?", người thanh niên sửng cồ.

Khá lắm, có trò hay để xem rồi, Ronnie nghĩ thầm. "Chán sống mới là mày, thằng khốn", gã đáp trả. "Họ nói mày là đại gia mua bán ma túy trên đường phố. Chứng cứ rành rành ra đây. Tòa đã kêu án. Còn tao là chính là đao phủ".

Thằng nhỏ biến sắc, nước da màu đồng trên mặt nó nhợt nhạt. "Bú đít chứ làm gì được tao !", người thanh niên hét lên, nhưng Ronnie có thể nhận ra sự sợ hãi từ đôi mắt nó.

Họ tấp vào quảng trường. Ronnie trông theo năm đứa đàn em mình đang lôi thằng bé ra khỏi cửa xe. Gã mở cửa quay lại nói với người lái xe. "Cứ lái đi một vòng quảng trường. Tụi tao sẽ đợi mày". Gã bước xuống đường vượt qua mũi xe Suburban để theo kịp đám đàn em gã. Gã cười khà khà chỉ vào đám trẻ mươi mười mấy tuổi đang chơi bóng rổ.

"Đem thằng chó đẻ này tới đó", gã vừa nói với đàn em, vừa chỉ vào đám trẻ đang chơi, "để làm gương cho tụi nó".

"Này, mấy thằng lỏi con, nhìn đây nè !", gã hô lớn. Những gương mặt đen nhẻm quay sang nhìn sáu người đàn ông và nạn nhân của chúng. Đám trẻ con đứng dựa hàng rào bên ngoài tòa án, tọa lạc ngay trên quảng trường.

Chúng lôi người thanh niên tới gần bọn trẻ con. Ronnie ngắm nghía từng đứa một như đang thăm dò chúng. "Tụi mày biết ma túy là gì không hả ?", gã hỏi với giọng ôn tồn. Không đứa nào nói một lời, chỉ nhìn gã chằm chặp. "Nó là thứ hủy hoại tất cả", gã nói với chúng, giọng gã mạnh mẽ hơn. "Mang thằng khốn đó tới đây", gã hất hàm ra lệnh. "Chúa trời phán rằng để giữ cho thân thể tráng kiện, chúng mày không được chơi ma túy". Gã thấy một trong số những đứa đứng xem gật đầu.

Ronnie nhìn xuống "phạm nhân" bị đám người của gã dúi quỳ dưới đất, cạnh hàng rào sắt Tòa án. "Chúng mày nhìn đây này. Thằng trùm buôn bán ma túy mông to này từng xuôi ngược miền Nam, lại ăn mặc như đám con gái". Gã để giày ống đá một phát vào chân người thanh niên. "Mày khoái đám con trai lắm hả, lại thêm một tội nữa". Gã nhìn bọn trẻ da đen. "Nếu chúng mày hư hỏng, mẹ chúng mày sẽ làm gì ?", gã hỏi.

"Bị đòn ạ". Một đứa trẻ nói.

"Chúa trời không đánh chúng mày đâu, nhóc. Khi chúng mày làm điều tội lỗi trước mắt ngài, thì ngài sẽ hủy diệt chúng mày, đúng không ?" Gã lôi khẩu súng 9 ly từ túi áo khoác ra ngoài. Bọn trẻ da đen trợn tròn mắt vì sợ. "Khi chúng mày làm điều tội lỗi, Chúa trời sẽ trừng phạt, đúng không ?".

Cả đám gật đầu. "Đây đúng là thằng mua bán ma túy. Nó mang vào quận Columbia để anh em dòng họ chúng mày chết dần chết mòn. Vậy Chúa trời nên làm gì với nó hả ?". Ronnie chỉa súng về hướng người thanh niên la tinh.

Người thanh niên ngước lên nhìn gã, "Cho tao một phút cầu nguyện, không hơn... được không ?".

Ronnie hình dung ngay cả quỷ Satan gã cũng có thể cho 1 phút cầu nguyện. Tại sao không chứ, huống hồ ở đây chỉ có đám nhọ nồi nhóc con ?.

"Chúng mày có đồng ý là Chúa sẽ trừng phạt chúng mày nếu như đứa nào phạm lỗi với ngài không ?", gã gằn giọng hỏi đám trẻ con đứng bên hàng rào. Phần đông gật đầu, bọn chúng lom lom nhìn khẩu súng lục trong tay gã.

Gã thấy môi người thanh niên lép nhép. "Từ mai trở đi đừng mong dễ dàng mua bán ma túy. Chúng mày về nói lại với anh em dòng họ chuyện đó. Phải kéo họ ra nhà thờ và đọc kinh sám hối", gã cười rồi nói tiếp, "bằng không thì cuộc đời họ sẽ kết thúc như con chó ghẻ này".

Gã túm vai người thanh niên, gã thấy nó giật mình nhưng không thèm nhìn gã. Gã kê súng vào đầu nạn nhân. Người thanh niên làm dấu thánh giá và gương mặt trắng bệch. "Nhìn cho kỹ đi lũ nhóc. Chuyện này sẽ đến với chúng mày nếu chúng mày cãi lời Chúa Trời ở nước Mỹ tân tiến này". Đầu súng chạm sát da đầu nạn nhân, ngoáy nhìn đám trẻ con da đen, gã đưa ngón tay xiết cò.

Người thanh niên dãy dụa mấy cái rồi bất động. Nhìn xuống, gã thấy máu bắn tung tóe lên hàng rào.

Nhìn đám trẻ da đen đứng sau hàng rào, gã nói, "Chúng mày phải phụng sự, tôn thờ Chúa, nghe rõ chưa ? Bây giờ chúng mày đã biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu cãi lời rồi đó".

Gã bỏ xác người thanh niên nằm đó, quay ra chiếc Suburban đang đợi gã. Đám đàn em cũng lục tục theo sau.

* *

*

Tôi nhìn thấy cái xác đang quỳ trước hàng rào, một chiếc khăn trùm kín đầu tới vai. Ngón tay xác chết bấu chặt hàng rào. Emil và tôi đang xem tin tức lúc 11 giờ.

Nạn nhân là người em trong số hai anh em, là những người vận chuyển một khối lượng ma túy lớn nhất từ trước tới nay vào quận Columbia. Người này bị sát hại theo kiểu thanh toán trên khu vực hoạt động của các băng đảng, một viên đạn duy nhất bắn vào đầu.

Một thằng bé được coi là nhân chứng kể lại trước ống kính thu hình cách những người da trắng xuất hiện thế nào, kéo theo nạn nhân. Sau đó bắn chết anh ta. Không, nhân chứng không nhớ rõ bao nhiêu người, có lẽ là 16 hay hai mươi người gì đó. Còn thằng bé làm chứng tuổi không quá mười hai !

Tôi cho rằng thằng bé này chưa chắc đã thấy mặt nạn nhân, vì có những điều mà người lớn không muốn cho trẻ con nhìn thấy. Ở phía sau nơi thu hình, tôi thấy mẹ thằng bé bảo nó ngậm miệng lại đi về nhà.

Có phải là nước Mỹ mà tôi theo đuổi Tom MacPherson đến đây không ?

"Quân khát máu !", Emil tức giận hét lên, "Bây giờ lại thêm chuyện lãnh địa của băng đảng. Đây là Washington chứ có phải rừng rú gì đâu. ngay trong lúc em... chúng ta đang ở đây ! Lũ khốn ! Sao không để mình thấy chuyện này nhỉ ?". Không cách gì để giữ Emil bình tĩnh ngồi yên kế bên tôi được. Tôi đứng dậy vòng ra sau sofa đứng xem tiếp những tin tức khác.

"Em có thật muốn xem cảnh giết người hay không ?", tôi hỏi.

Chàng trai ngước nhìn rồi im lặng một lúc. "Chắc là không. Chuyện có thể xảy ra lúc ăn trưa hôm qua. Nhưng anh phải thừa nhận đó là một thứ công lý thô bạo và man rợ chứ ?".

"Công lý nào ở đây ?", tôi kêu lên.

"Trong chế độ độc tài của người Panama, việc làm này sẽ phải ở tù chung thân".

"Emil này, thằng bé mới 19 tuổi. Ít ra, trước công lý nước Mỹ nó vẫn được sống. Nó vẫn có thể làm điều gì đó trong đời, hoặc có cơ hội để thực hiện. Nhưng không có bất kỳ phiên tòa nào xét xử. Tội lỗi nó gây ra chưa từng được công bố trước công luận, vậy mà một số người ngang nhiên cho mình cái quyền xét xử, thậm chí là ra tay giết nó".

"Anh chưa từng giết người sao, đúng vậy không ?", Emil nhìn thẳng vào mắt tôi hỏi, "Anh chưa từng tước đi sinh mạng một ai sao ? Kể cả khi người đó có một cơ hội hối cải ?".

Tôi thở dài, "Có, dĩ nhiên là anh từng giết người. Nhưng hồi đó anh vẫn như một đứa trẻ. Anh làm vậy vì anh thấy rằng điều đó là cần thiết... với anh". Tôi bắt đầu nói nhanh hơn, "Emil, nhưng anh không nghĩ suốt đời mình đều làm như vậy".

Emil mỉm cười, "Karl, thôi được rồi. Còn cái này...", chàng trai chỉ vào ti vi, "Nó làm em xúc động giống như một phim hành động bạo hành với trẻ em. Nhưng thực sự em không muốn có mặt ở đó, hoặc chứng kiến hoặc dính dáng gì đến chuyện đó. Anh nói đúng. Đó là tội giết người".

"Đó là tội giết người có động cơ chính trị hẳn hoi, Emil. Đám trẻ da đen bị ép phải chứng kiến cảnh thằng bé bị giết chết", tôi kết luận, "Dường như những kẻ sát nhân đang bắt đầu một cuộc chiến trên đường phố. Giống như vụ có một số người vào các nhà tắm công cộng đánh đập đàn ông là gay lui tới chỗ đó cho tới chết".

"Anh nghĩ tới bọn Quốc xã phải không, Karl ?".

Tôi buồn rầu cúi đầu. Làm sao mà cậu ấy có thể kết nối các sự kiện để nhận ra điều này ?

Một phóng viên đang phỏng vấn vị chỉ huy Liên đoàn Thanh niên công giáo khu vực Washington tại văn phòng ông ta. "Có lời đồn cho rằng chính CMUM giết tay trùm buôn bán ma túy gốc người Columbia vào chiều nay", cô phóng viên cao giọng, "Có phải CMUM tuyên chiến với bọn vận chuyển ma túy không ?".

Người đàn ông mỉm cười, hai tay chắp lại để lên bàn, phía trước mặt ông ta, nhìn thẳng vào ống kính mà nói, "Có rất nhiều sự khác biệt giữa việc đánh nhau trên đường phố nước Mỹ với việc giết ai đó có sự bảo hộ của công lý".

Tôi thấy ngay lời bào chữa sẵn có trong giọng nói người này, dù không thành công, "Liên đoàn Thanh niên Công giáo không làm chuyện đó, và sẽ không bao giờ làm những việc phân biệt chủng tộc như vậy. Nhưng chúng tôi sẽ kiên quyết kiểm soát trên đường phố đối với bọn buôn lậu ma túy, các nhóm băng đảng, bọn đồng tính đồi bại và bất kỳ ai cố lôi kéo người ta ra khỏi thế giới mà Chúa đã an bày họ nơi đó".

Người phóng viên mỉm cười và đưa ra câu chất vấn kế tiếp, "Nếu không do CMUM làm, vậy thì cảnh sát sẽ truy tìm ai đây ?"

"Có thể do các băng đảng. Buôn bán ma túy là tội ác nhưng có thể kiếm được rất nhiều tiền của. Việc đụng chạm giữa những người cầm đầu các băng đảng là không tránh khỏi. Mà cũng có thể là bọn đồng tính luyến ái cũng nên".

"Tại sao cộng đồng những người đồng tính muốn giết người thanh niên này ?"

Vị chỉ huy nhún vai, cười rồi nói, "Chuyện đó thì tôi không rõ. Nhưng ở công viên Queer Nation năm ngoái đã xảy ra vụ ám sát phó tổng thống. Điều đó cũng không có ý nghĩa gì, nhưng chính họ đã làm chuyện này", viên chỉ huy tặc lưỡi, "Ai mà biết được ? Ai mà biết được chương trình hành động của bọn người đồng tính có bao gồm cả chuyện lật đổ chính quyền hay không ?".

Thế là đủ. Viên chỉ huy Liên đoàn Thanh niên Công giáo không bị mắc nghẹn, nhưng tôi lại nuốt không trôi những lời ấy. Tôi bực tức tắt ti vi.

HẾT PHẦN 8

PHẦN 9

ND : Đây là một truyện dài nhiều tập viết về thế giới của bóng tối, thế giới của những sức mạnh siêu nhiên từng ngự trị ở châu Âu từ lâu và kéo dài tận thế kỷ 21, thế giới của loài ma cà rồng (vampires) mà trong đó, nếu loại bỏ một số yếu tố tưởng tượng và những đoạn mô tả về đời sống của ma cà rồng, có lẽ chúng ta sẽ nhận ra tính nhân văn sâu sắc. Truyện có đề cập đến vấn đề đồng tính nhưng chỉ thoảng qua, mà đi sâu khai thác các khía cạnh lịch sử đầy kịch tính. Nhân vật chính xuất thân từ hoàng tộc mang dòng máu lai Áo – Hung đã trở thành ma cà rồng... Nguyên tác là tiếng Anh, nhưng nhiều chỗ pha trộn ngôn ngữ khác như Pháp, Đức cùng với những bối cảnh có liên quan đến lịch sử xa xưa của các quốc gia châu Âu, hoàn toàn xa lạ với người dịch. Với kiến thức giới hạn, và chỉ với mục đích giải trí nên Vũ Quốc tạm dùng những cụm từ thay thế hợp lý để diễn đạt ý tưởng, rất mong độc giả lượng thứ. Cũng cần nói rõ, nội dung truyện chỉ là sản phẩm tưởng tượng, mọi chi tiết về con người, địa danh, sự kiện đều không có thật và nếu có trùng hợp với ngoài đời cũng chỉ là sự ngẫu nhiên.

"Cái thứ điên rồ này là gì đây ?", tôi kêu lên khi đọc tờ Washington Blade số phát hành đầu tiên trong năm.

"Gì vậy hở, Karl?", Emil lơ đãng hỏi trong khi đang dựa lưng vào tủ áo để mang đôi giày da linh dương.

Liếc nhìn chàng trai, tôi suýt bật cười khi thấy anh chàng tỏ ra rất hãnh diện về đôi giày hiệu của mình. Bản thân đôi giày chẳng quý giá gì, vải, nhựa và da thuộc. Nhưng vì chúng được đóng tại nước Anh, nên giá cao khủng khiếp, và thành thương hiệu nổi tiếng.

Thật kỳ quái ! Hai thế hệ sau cuộc chiến tranh hủy diệt và bất hạnh, thì thế giới lại sản sinh ra một thế hệ ham chuộng vật chất. Thật không thể tin nổi.

Quay lại câu hỏi vừa rồi của Emil, tôi nói, "Ở ngoại ô Virginia có cái gọi là Trung tâm Công giáo xông vào thư viện công cộng và lấy hết các tờ báo Blade mang đi".

"Vậy à ?", chàng trai thản nhiên nói, "Chắc chỉ là một nhóm Fundies thôi".

"Fundies là gì thế ?".

Emil biết khá nhiều thành ngữ người Mỹ. Mà tôi thì lại mù tịt. Thế là Emil phải quay ra giúp tôi học hỏi thêm.

"Là những người theo một tôn giáo chính thống. Họ cho rằng tính dục đồng giới là thứ bị lên án trong Thánh kinh, vì vậy họ muốn loại bỏ những thứ gì liên quan đến tính dục đồng giới khỏi nơi công cộng".

"Emil, những chỗ này là thư viện công cộng kia mà ! Chuyện em nói chẳng khác nào việc đốt sách...", tôi liếc nhìn tờ báo trong tay, "à không, đốt báo !".

"Giống như bọn Quốc xã tiêu hủy sách vở năm 1935 trên toàn nước Đức chứ gì ?", chàng trai ngáp dài hỏi với vẻ nhẫn nhịn.

"Đúng như thế, lũ khốn kiếp !".

"Anh lại nhìn sự việc theo kiểu định kiến rồi, Karl. Khắp Đại học Georgetown, em đã từng gặp nhiều người mà sau này họ sẽ cai trị đất nước này trong vòng hai mươi năm tới. Họ không giống như anh nghĩ đâu. Những tín đồ ấy chẳng khác gì cơn hấp hối của một tôn giáo đang giãy chết để cố tránh xa nấm mồ của mình".

"Hy vọng là thế", tôi lầm bầm. Tôi không muốn tranh cãi với cậu ấy. Phân nửa con người tôi lúc này yêu chàng trai quá đỗi. Tôi muốn sống cùng chàng trai, muốn ngắm nhìn những cửa hiệu ở Georgetown, muốn khám phá thế giới. Cùng với chàng trai.

Tôi bèn thay đổi đề tài, "Tối nay em định đi đâu vậy ?".

"Tới thư viện", chàng trai nhún vai, "còn đi đâu khác được chứ ?".

"Em đã mất nhiều thời gian cố vào Đại học Georgetown, bây giờ thì chắc em đã toại nguyện rồi".

"Em muốn nâng cao trình độ. Điều đó đồng nghĩa với việc nghiên cứu sách vở".

"Chắc là không có anh chàng trẻ tuổi hấp dẫn nào lọt vào mắt xanh em đấy chứ ?", tôi hỏi, chỉ với ý đùa cợt.

Chàng trai nhìn tôi, gương mặt lạnh tanh. Tôi vội cười giả lả để chàng trai không nghĩ rằng tôi nói nghiêm túc.

Chàng trai nhún vai, tôi chỉ muốn đi vào tâm trí để hiểu xem cậu ấy nghĩ gì. Tuy nhiên, Emil Paulik đã học cách cảm nhận được việc thâm nhập ý tưởng của tôi trong đầu mình, "Có lẽ em sẽ về nhà sau 23 giờ. Anh định ra ngoài hay sao ?". Trong đầu chàng trai hiện ra câu hỏi.

"Anh muốn kiếm ăn".

Chàng trai mỉm cười với tôi, ánh mắt dạt dào yêu thương, "Anh cũng có thể lấy ít máu của em cũng không sao mà".

Tôi lắc đầu, "Chờ em về, anh sẽ lấy thứ khác... của em".

"Em muốn được làm ma cà rồng, Karl !".

"Tại sao vậy ? Để rồi em lang thang ngoài đường cắn cổ người ta à ?".

"Đồ chết giẫm ! Cái gì anh cũng đùa được hết. Em muốn suốt đời bên anh, lúc nào cũng bên anh".

"Anh sẽ nhớ kỹ chuyện này, Emil", tôi gật đầu.

"Vậy là anh chịu rồi phải không ?".

"Có thể. Nhưng việc đó không thể quay ngược trở lại được. Anh muốn em suy nghĩ kỹ. Có lẽ là sẽ để cho em gặp lại gia đình, để em cảm nhận thế giới xung quanh khi không có anh ở đó có thể gây ảnh hưởng nơi em".

"Anh chẳng ảnh hưởng gì tới quyết định của em cả".

Tôi cười, "Thôi được, anh sẽ nhớ chuyện này, đi ra thư viện đi Emil. Anh đói lắm rồi".

Emil sẽ đi chiếc Volkswagen tôi vừa mới mua ra đó. Bỗng dưng tôi cảm thấy lo ngại về chuyến đi đêm này của chàng trai. Nói cho cùng, chàng trai có thể học hành, nghiên cứu trong suốt khoảng thời gian ban ngày trong lúc tôi ngủ; nghĩ như vậy khiến tôi nửa tin nửa ngờ.

Hơn nữa, Đại học Georgetown không xa quảng trường DuPont, rồi tôi nhớ tới thái độ kính cẩn của bọn đầu trọc đối với người mang dòng máu nước Đức Quốc xã, vốn không ưa ma túy và rượu chè.

"Anh có xem tờ Washington Post hôm nay chưa ?"

Tôi quay ngoắt nhìn Emil.

"Có một nhà truyền giáo nào đó giết một bác sĩ sản khoa chuyên phá thai ở Florida ngày hôm qua".

"Người ta bắt được ông ta chứ ?".

"Tất nhiên là được. Vì ông ta đứng yên ngay bên cạnh xác nạn nhân khi cảnh sát ập tới".

"Tại sao ông ta làm như vậy ?".

"Ông ta nói Chúa trời phán bảo ông ta làm điều đó để ngăn chặn những kẻ giết người như tay bác sĩ kia".

"Phá thai là việc làm hợp pháp ở đây, phải không ?".

Emil gật đầu.

"Vì vậy, người bác sĩ đó đâu thể coi là kẻ sát nhân được. Ngược lại, nhà truyền giáo mới là hung thủ giết người".

"Ông ta đã nhận tội", Emil trả lời rồi nhặt chìa khóa, "hẹn gặp lại anh sau".

* *

*

Lúc bay trong khoảng không gian tranh sáng tranh tối bên trên khu Đại học Georgetown, tôi cảm thấy mình hơi lo xa. Chiếc Volkswagen đậu trong bãi để xe của thư viện, nhìn qua cửa sổ tôi còn thấy Emil đang lúi húi tìm sách, rồi mang ra ngoài tìm chỗ ngồi đọc.

Lúc bay đi, tôi thầm nghĩ có thể mình hơi đa nghi, nhưng tôi không hề hối hận để biết chắc sự chung thủy của chàng trai trong mối quan hệ giữa hai chúng tôi.

Cậu ấy là người và còn quá trẻ. Một khi cậu ấy dính dáng tới một người đàn ông khác – con người bằng xương bằng thịt hẳn hoi – thì sự ràng buộc trong quan hệ chúng tôi sẽ lơi lỏng dần. Chuyện ấy cũng đúng thôi, làm sao có thể buộc một con người phàm tục phải suốt đời gắn bó với tôi, khi quãng đời họ quá ngắn ngủi, ít ra là so với cuộc đời tôi hiện nay.

Nỗi ngờ vực đè nặng trong tôi cần được giải tỏa. Và bây giờ nó đã được trút bỏ. Emil đã chứng tỏ không chỉ là một sinh viên hiếu học mà còn thể hiện sự thủy chung với tôi, không làm vẩn đục mối quan hệ giữa hai chúng tôi. Tôi thấy nhẹ nhõm và nghĩ tới bữa ăn tối sắp tới.

Mới 9 giờ tối mà dường phố Georgetown vắng ngắt. Cư dân ở quận này, mà người Mỹ hay gọi là yuppies (những con người có hoài bão), đang ăn tối tại nhà họ, vui vầy cùng còn cái và hưởng thụ thành quả lao động của mình. Một cơn gió lạnh quét ngang bầu trời thành phố. Tôi bỏ qua khu thương mại sầm uất dọc theo đại lộ Wisconsin bên dưới, bay tới công viên Rock Creek rồi từ đó quay lại đường "P" và quảng trường DuPont của dân gay.

Một gã bụi đời nào đó nằm nhẹp một đống, quần áo bẩn thỉu, đầu óc trống rỗng, có lẽ những con vật quanh hắn cũng ít nhiều có thứ gì đó trong đầu chúng. Chuột nhắt, chuột cống chạy qua chạy lại lấp ló trong bụi cây bên cạnh. Ngay cả một con cú ăn đêm cũng biết mình phải làm gì cho bữa ăn.

Tôi bay tới đường "P", chỉ cách hai dãy phố, những tòa nhà chung cư cũ kỹ nhưng vẫn còn được sử dụng nằm bên phía Georgetown. Ranh giới phía Bắc là chiếc cầu nối đường "P", ranh giới phía Nam là dãy phố được dành làm một trường tiểu học công lập, đối diện với tòa nhà Tin tức quốc tế và thời sự nước Mỹ. Mé đông là đường số 31 dọc theo đó là những quán bar dân gay, những doanh nghiệp và một tòa chung cư khác.

Đường "P" là khu vực ở Washington, dân gay thường hay lai vãng. Ba dãy phố phía đông nằm trên quảng trường DuPont và hai dãy hướng Bắc là dãy các tòa đại sứ, lãnh sự kéo dài gần hết đại lộ Massachusetts thuộc mạn bên này của Connecticut.

Cánh thanh niên gốc la tinh từ Adams-Morgan tới đây để "xả láng sáng về sớm" kể cả cánh thanh niên da đen từ miền đông xa xôi cũng vậy. Đàn ông từ Maryland, Virginia tới mua dâm từ những chàng trai trẻ đẹp từ các quán bar dân gay.

Bọn đầu trọc thường đến sinh sự lẫn dọa dẫm.

Trong các quán bar dọc đường "P" kéo dài từ công viên tới quảng trường, lớp lớp đàn ông từ thành phố và ngoại ô đến gặp những người đàn ông khác từ các tòa đại sứ chủ yếu để mua vui hơn là chuyện tiền nong hay thăng quan tiến chức.

Đường "P" chứng tỏ là một khu vực săn mồi lý tưởng đối với tôi.

Tới góc phía Nam công viên, tôi đáp xuống một bụi cây trụi lá mùa đông, rồi nhào xuống đất, biến thành con sói. Tôi chạy sâu vào trong công viên, đánh hơi những chỗ trước đây đã đi qua.

Tôi nghe tiếng đấm đá trong một lùm cây dưới cây cầu bắc qua công viên.

"Tao bắt được một thằng "bóng" khốn nạn đây rồi !", có giọng đàn ông, chắc còn trẻ ré lên.

Lạ lùng về danh từ "bóng" mới nghe qua, tôi muốn biết tường tận hơn là thứ kiến thức tiếng Anh tôi có được. Tôi trải rộng tâm linh về phía trước.

Sợ hãi. Tôi cảm nhận được nỗi sợ hãi của người thanh niên đến nổi mồ hôi tươm ướt người khi anh chàng này nhìn thấy một thanh niên mặc đồ da khác đứng chặn đường.

"Tao có một thằng bóng nhọ nồi !", cũng tiếng nói ấy vang lên, có vẻ hả hê.

"Cho nó chầu tiên tổ đi chúng mày", một giọng khác thô lỗ nói, nghe gần giống giọng nói đầu tiên.

Mugging. Đó chính là từ mà tờ Washington Blade gọi để chỉ hành vi tấn công người đồng tính. Và tôi tình cờ chứng kiến từ đầu.

Thật vô lý ! Răng nanh loài sói giương lên lởm chởm khi nghĩ tới cơ hội kiếm mồi lại có thêm trò vui.

Tôi lon ton chạy tới mô đất cao dưới chân cầu.

"Này, bỏ tay ra. Mấy anh làm gì vậy ?", từ trong những hàng cây bụi lá dưới cầu phát ra một giọng nam trung.

Tôi cảm nhận nỗi sợ hãi dâng tới đỉnh cao trong giọng nói này, cách phát âm cũng giống như người lái xe tắc-xi ở phi trường.

"Thằng nhọ khốn nạn !", cái giọng như ngựa hí ban đầu lại ré lên. Tôi thâm nhập vào trí óc người chủ giọng nói ấy. Hai gã đầu trọc đang đứng trước một thanh niên da đen. "Đã xấu như quạ mà còn làm lại cái nữa. Thật là quá sai lầm !".

"Phải đấy", cái giọng thô lỗ khi nãy cất lên. Tôi đã tìm thấy lối đi giữa đám cây cối um tùm dưới cầu. Tiếng xe cộ ì ầm trên cầu át cả tiếng nói ở đây, người thường không tài nào nghe thấy được.

"Mấy anh định làm gì tôi hả ?", người thanh niên da đen lưỡng lự hỏi, cố trấn áp nỗi sợ hãi, nhìn quanh tìm đường thoát.

Gã nói giọng như ngựa hí co gối thúc vào bụng người thanh niên, người này ôm bụng oằn oại vì bị đột kích bất ngờ. Còn tên có giọng cộc cằn một tay rút dao, một tay thộp cổ lôi người thanh niên tới sát chúng.

Bây giờ thì tôi đã thấy mọi thứ ngay trước mắt. Con dao liếc qua liếc lại trên áo khoác bằng da, còn người thanh niên thiếu điều quỳ lạy bọn chúng.

Tôi gầm gừ, giương nanh trắng ởn.

Có tiếng gãy đánh rắc khi hàm răng tôi cắm ngập cánh tay kẻ cầm dao, cánh tay đứt lìa nằm trong miệng tôi khi tôi nhảy chồm tới. Hình ảnh tôi cắn đứt cánh tay tên lính SS lại hiện về trong đầu tôi. Tôi hất đầu vứt cánh tay sang một bên vừa lúc hai chân trước chạm đất.

Gã có giọng như ngựa hí ré lên nhưng mất tăm trong tiếng ồn ào của xe cộ qua lại trên đầu chúng tôi. Tôi quay lại, răng nanh cắm vào cổ gã này, lúc này tôi chỉ ngửi thấy mùi máu tanh và cơn đói ngấu nghiến.

Da, gân lẫn xương sụn gãy gập xuống khi đôi hàm sắc của tôi khép chặt cổ gã đàn ông. Có tiếng òng ọc trong cổ họng gã, tay gã chới với cố che cái đầu vốn không còn trên cổ gã nữa. Mùi máu tươi, nóng hổi kích thích khứu giác và tôi vục mõm uống ừng ực. Cho tới lúc máu đã đông lại, lúc này thì kẻ thù đừng hòng đứng dậy được.

Gã đầu trọc còn lại trừng trừng nhìn khi tôi bẻ gãy cổ tên đồng đảng, gã thối lui dọc theo con đường mòn, đầu gã lắc lắc như chưa tin chuyện xảy ra trước mắt.

"Chúa ơi !" người thanh niên da đen rúc vào bụi cây cố tránh xa cuộc tàn sát trước mặt.

"Giỏi lắm, cậu bé", gã đầu trọc run run vì sợ, "Mày là con chó ngoan. Cứ ở yên đó".

Gã ngoáy nhìn thấy trảng cỏ mở lối ra đường "P" cách đó một mét. "Cứ ở đây chờ tao một chút, bé con, tao sẽ quay lại".

Tôi kêu gừ gừ rồi chạy theo sau. Quay lại thấy tôi nhe răng, gã thối lui hụt chân rơi vào một khe hẹp, bật ngửa người ra. Sau đó lồm cồm ngồi dậy, còn tôi đứng yên ở đó thật lâu nhìn người thanh niên da đen, tôi bắt gặp ánh mắt đầy vẻ cảm kích.

Tôi theo sau gã đầu trọc cố đẩy gã vào vùng đất chết.

"Chó ngoan nào", gã xuống giọng năn nỉ.

Tôi chuyển vào đầu gã một thông điệp, chẳng cần che giấu thân phận của tôi. Hai mắt gã trợn trừng, cái mùi sợ hãi bốc qua quần áo gã đang mặc.

"Chó ngoan nào, đừng cắn !", gã càng mềm mỏng hơn.

Lúc tôi chồm lên ngực gã, trong óc gã còn hiện ra câu hỏi, "Thằng nhọ nồi đâu rồi ? Sao mày không giết nó hở chó ? Sao mày không giết thằng nhọ khốn kiếp ấy ?".

Tôi kê mõm ngửi mấy ngón tay gã đang che cổ, run lẩy bẩy. Đôi hàm tôi há to, táp vào cổ gã.

"Chúa ơi !", gã thét lên. Tôi nghiến mạnh.

Gã rũ người, máu tươi òng ọc phun qua cổ. Tôi cười thầm khi liếm láp dòng suối máu tràn ra. Gã cố vùng vẫy không để tôi lôi gã vào bụi rậm. Khi tôi xé toạc cổ họng thì gã đã không còn thở được nữa. Hai chân gã giãy đành đạch. Ngay cả khi tri giác mất hẳn thì bộ óc gã đầu trọc vẫn biết rõ là tôi đang uống máu gã. Gã biết rất rõ, không giống như gã đồng bọn bây giờ đã chết.

Ma cà rồng ! Tôi ngước nhìn bầu trời không ánh trăng mà tru lên rồi quay lại hiện trường.

"Lạy Chúa trời nhân từ !", người thanh niên da đen kêu lên, khi thấy tôi quay lại. Người này đã lôi cái xác mất đầu vào bụi rậm.

"Lạy Chúa ! Con hứa sẽ không bao giờ bú cho bất kỳ ai nữa nếu ngài để con sống sót".

Ngẫm nghĩ một hồi, tôi đi đến một quyết định. Mõm và tai tôi ngắn dần trở về khuôn mặt chính mình, lớp lông sói trên người biến mất, tay dài ra, vuốt co lại thành bàn tay. Tôi trở về với chính mình.

Người thanh niên chỉ thấy sự biến đổi ở đầu và mặt tôi, nhưng bấy nhiêu đó cũng đủ cho người này trợn tròn hai mắt, trong lòng cực kỳ hoang mang.

"Tôi không phải là Jesus cũng không phải là thánh thần đâu, anh bạn trẻ". Tôi vừa nói, vừa đưa tay đỡ người thanh niên đứng dậy.

"Tôi biết ông là ai rồi ! Ông là quỷ dữ ! Ông là Dracula !", giọng người thanh niên trầm xuống, khản đi vì sợ.

Dracula ư ? Một lãnh chúa hung bạo ? Một tên quý tộc lòng dạ hẹp hòi thời Hungary trung cổ mà Bram Stoker đã tạo nên một thiên tiểu thuyết kinh dị đó sao ?

"Tôi cũng không phải là người này, cho dù có là người cùng thời với hắn đi nữa".

Mặt người thanh niên giãn ra vì trong suy nghĩ người thanh niên nhận ra người đàn ông đang đứng nói chuyện không hề có ý giết mình. "Vậy ông là ma ca rồng, phải không ?"

"Tôi chấp nhận cách gọi này. Thôi đứng dậy đi".

"Sao vậy ? Ông định giết tôi sao ?".

"Tôi chỉ muốn cứu anh thoát chết".

Người thanh niên liếc nhìn tôi trong khi nhớ lại sự việc đã qua. "Ông cứu tôi ?", người thanh niên lẩm bẩm, rồi nhớ lại lúc gã đầu trọc lên gối mình.

Tôi gật đầu.

"Chính ông làm chuyện đó, phải không ?", người thanh niên cười toe toét vì đã tin trong khi đang đứng lên.

Nhưng... ánh mắt người thanh niên nhìn tôi trân trối, lúc đó tôi mới nhớ mình hoàn toàn trần truồng trước người thanh niên da đen này. "Chúa ơi ! Ma cà rồng mà cũng có đồ chơi ! Ông có xài tới nó không vậy ?".

Tôi thâm nhập vào suy nghĩ người này để xem anh chàng nghĩ đi đâu vậy. Lúc đầu, sợ bị đánh tới chết, kế đó thì sợ một con quỷ Satan không hiện hữu tới bắt hồn, còn bây giờ thì lại muốn làm tình với con quỷ Satan đó !

Tim chàng trai đập thình thịch cũng giống như lúc sợ mất mật ban nãy.

Thật kỳ cục !

"Tốt nhất là nên biến đi. Về nhà hay ở tạm đâu đó một thời gian".

"Sao vậy ? Tụi đầu trọc bây giờ đâu có làm gì được tôi nữa đâu ?"

"Nhưng cảnh sát sẽ thẩm vấn anh nếu thấy anh có mặt ở đây".

Người thanh niên xụ mặt xuống, "Đúng rồi !"

"Chớ nên hé môi nói lời nào về chuyện xảy ra tối nay. Họ có thể cho rằng anh bị mất trí và tống vào nhà thương điên, hoặc đổ hết tội giết người lên đầu anh".

"Chúa ơi, không có chuyện đó đâu. Nhà tù Lorton không thừa chỗ cho một thằng da đen như tôi đâu".

"Vậy thì quên những gì đã nghe, đã thấy và đi đi".

"Được, tôi đi". Người thanh niên bước đi, rồi bất chợt quay lại nhìn tôi hỏi, "Ông ở gần đây chứ ?".

"Không", tôi đáp và biến thành con dơi vỗ cánh bay đi.

"Lạy Chúa lòng lành !" Người thanh niên thảng thốt kêu lên rồi cắm đầu chạy bán sống bán chết, bất kể nhành cây, bụi cỏ hay gai góc.

* *

*

Tôi mặc bộ pyjamas bằng lụa đen ngồi trước lò sưởi, tiếng lửa reo tí tách. Những vết trầy xước trên mặt và tay trong cuộc đụng độ với bọn đầu trọc đã để lại dấu vết trên người tôi.

Mặc dù tôi hiểu rõ công lý, và tôi cố thực hiện trong suốt cuộc đời làm ma cà rồng khi lựa chọn nạn nhân, những kẻ không để lại cho tôi món nợ quá đắt phải trả khi tôi chết đi. Cuộc tranh luận chiều nay về Sergei hay Würther hay Tom cũng thế, đã cho tôi một cách nhìn mới về một thực tế toàn diện của việc nuôi sống một con ma cà rồng đặc thù.

Thành thật mà nói, tôi chẳng thấy có gì hối hận khi có ba kẻ chết vì tay tôi. Ngược lại, tôi còn thấy tinh thần phấn chấn khi cứu được một sinh mạng mà không làm điều gì đáng phải chết dưới tay những kẻ tôi giết. Chính bọn đầu trọc đã gây đau khổ cho người khác trong cuộc đời ngắn ngủi của chúng.

Tôi nhanh chóng nhận ra mình đang trở thành một hung thần phục thù, đòi phải trả những món nợ máu mà chúng đã vay trước đó. Đó là khúc dạo đầu trong tâm tưởng khi tôi nghĩ về công lý và những điều huyền hoặc mà chúng có thể nghĩ đến tôi như một con ma cà rồng. Tôi đã làm sáng tỏ công lý cho những con thú bị săn đuổi, và dùng nó như bữa ăn cho sự tồn tại của chính mình ở nước Mỹ.

Mấy tên đầu trọc đã chết, nhưng đó chỉ là bề nổi của một tảng băng chìm đang đe dọa nước Mỹ, cũng như toàn thế giới. Chẳng có gì phi lo gic để nhận ra ba đất nước hùng mạnh nhất thế giới : Mỹ, Đức và Nhật. Ngay trong nội bộ từng nước vẫn còn mầm mống phát xít khá mạnh mẽ đang mưu toan tiêu diệt nền dân chủ quốc gia.

Hoa kỳ là nước mạnh nhất trong 3 quốc gia có tiềm lực quân sự hàng đầu, cho dù chưa hẳn vượt trội về kinh tế và nền giáo dục. Vấn đề khá đơn giản chỉ là thời gian trước khi các siêu cường giáo dục và tài chính là Đức và Nhật thực hiện nô dịch hóa nước này và các nước còn lại. Đó cũng chưa phải là điều tồi tệ nhất – cả Đức và Nhật đã học được những bài học từ chiến tranh thế giới. Cuộc chiến bây giờ là những bàn tay bọc nhung chứ không còn là việc đưa các hạm đội, tàu chiến trực tiếp can thiệp.

Nước Mỹ cũng vậy, là trung tâm của tệ phân biệt chủng tộc và các hoạt động phát xít có điều kiện phát triển tốt nhất. Nhưng những kẻ phát xít ở Mỹ bây giờ đã thọc tay ra đường phố, nhưng mạnh mẽ hơn dưới vỏ bọc tôn giáo – Chính là Trung tâm Công giáo.

Và bây giờ tôi đang ở giữa lòng Hoa Kỳ, ở ngay cái trung tâm quyền lực và trung tâm của những âm mưu tranh giành quyền lực.

Một vấn đề đặt ra cho tôi. Tại sao tôi không đứng ra vạch trần âm mưu đó ? Hay phải tiêu diệt nó ?"

Phải thừa nhận rằng, đặt ra một câu hỏi như vậy là quá tự cao tự đại. Một người, đúng hơn là một con ma cà rồng lại dám chống lại các thế lực tội ác được sao ? Sao lại dám nói thế ?

Mà tại sao không chứ ?

Tôi là ma cà rồng. Điều đó có nghĩa tôi có sẵn một quyền năng nhất định hơn hẵn những con người bình thường. Tôi có thể bị bắn ngay tim, ngay cả vào đầu và, chẳng việc gì phải lo, vì sau đó tôi có thể khôi phục thể trạng nhanh chóng.

Có thể nói tổng quát là con người bình thường không thể giết được tôi. Ngược lại, tôi có thể thuyết phục con người làm những việc mà người bình thường không dám làm.

Tôi có nhiều tiền hơn bất cứ ai, ngay cả những kẻ giàu có cũng thế. Có tiền tôi có thể mua thông tin hoặc tạo dựng vỏ bọc cho mình.

Tôi là người đồng tính, hay còn gọi là gay nói theo tiếng lóng phổ biến trong thời gian này. Chắc chắn, Trung tâm Công giáo sẽ lăng mạ hoặc chống lại tôi, bọn đầu trọc sẽ đe dọa xin tí huyết của chúng tôi. Tuy nhiên, bằng vào kinh nghiệm của hơn 170 năm, tôi cũng thừa hiểu khi ai đó hùng hổ chống đối kẻ khác thì ngay bản thân người đó cũng che giấu những khuyết nhược điểm chính mình.

Tôi căm thù bọn phát xít. Chúng đã giết hại Würther và đe dọa những con người lương thiện, những người không biết làm hại người khác. Chúng tịch thu đất đai, tài sản những kẻ chống đối. Chúng gây ra chiến tranh mà vô số thường dân, binh sĩ phải ngã xuống.

Bản chất tự nhiên của tôi không chỉ tò mò tìm hiểu những nguy cơ đe dọa chính sách nước Mỹ, mà còn thỏa mãn nhu cầu đói máu đối với những kẻ chuyên khiến cho người khác nơm nớp lo sợ trước sức mạnh của chúng. Với bản chất của mình, tôi có thể khiến cho tài khoản nhà băng của mình không ngừng gia tăng. Bản chất đó đơn thuần là sự ích kỷ nữa, mà trở nên đáng quý trọng, ngay khi cả hai thứ nhu cầu tinh thần và vật chất cùng xuất hiện.

Thế đấy !

Cách giải quyết của tôi tiện lợi đôi đường, như là hôn ước của trí tò mò, cái đói và sự thỏa mãn về mặt tinh thần.

Xem tin tức buổi tối, tôi tự xem xét bản thân kỹ càng hơn. Những gương mặt da trắng hằn học, lạnh lùng xếp hàng dài trên lề đường trước một tòa nhà nhỏ ở Philadelphia, thành phố từ có lần tổ chức mít tinh tuyên bố nền độc lập tự do của nước Mỹ. Có một người đàn bà đáng thương vẹt đường qua hàng người lạnh lùng ấy.

"Quân giết người !", có tiếng người đàn bà thét lên, bỗng dưng hàng người thét lên, đàn ông lẫn đàn bà đứng sát người này. Cảnh sát dùng dùi cui cản đám đông lại.

Họ đang chống lại các bệnh viện phá thai, họ đòi quyền được sống.

Vị phó tổng thống được bầu của Hoa Kỳ mỉm cười với tôi qua camera, "Hoa Kỳ không thể tiếp tục tha thứ cho những kẻ sát nhân đã giết hàng triệu trẻ thơ vô tội mỗi năm", mắt ông ta nhìn tôi qua truyền hình, "Chúng ta cần phải một chính quyền hiểu biết về quyền căn bản của con người – quyền được sống, đó là một bài học lớn cho đất nước chúng ta".

"Quốc hội phải tiếp tục xem xét hủy bỏ các quyết định phi nhân tính đi ngược lại truyền thống gia đình Mỹ chúng ta. Đưa đất nước trở về với nhân dân. Thời điểm làm việc ấy đã tới. Đảng dân chủ người điều hành Nhà trắng phải chịu trách nhiệm về việc này".

HẾT PHẦN 9

PHẦN 10

ND : Đây là một truyện dài nhiều tập viết về thế giới của bóng tối, thế giới của những sức mạnh siêu nhiên từng ngự trị ở châu Âu từ lâu và kéo dài tận thế kỷ 21, thế giới của loài ma cà rồng (vampires) mà trong đó, nếu loại bỏ một số yếu tố tưởng tượng và những đoạn mô tả về đời sống của ma cà rồng, có lẽ chúng ta sẽ nhận ra tính nhân văn sâu sắc. Truyện có đề cập đến vấn đề đồng tính nhưng chỉ thoảng qua, mà đi sâu khai thác các khía cạnh lịch sử đầy kịch tính. Nhân vật chính xuất thân từ hoàng tộc mang dòng máu lai Áo – Hung đã trở thành ma cà rồng... Nguyên tác là tiếng Anh, nhưng nhiều chỗ pha trộn ngôn ngữ khác như Pháp, Đức cùng với những bối cảnh có liên quan đến lịch sử xa xưa của các quốc gia châu Âu, hoàn toàn xa lạ với người dịch. Với kiến thức giới hạn, và chỉ với mục đích giải trí nên Vũ Quốc tạm dùng những cụm từ thay thế hợp lý để diễn đạt ý tưởng, rất mong độc giả lượng thứ. Cũng cần nói rõ, nội dung truyện chỉ là sản phẩm tưởng tượng, mọi chi tiết về con người, địa danh, sự kiện đều không có thật và nếu có trùng hợp với ngoài đời cũng chỉ là sự ngẫu nhiên.

Lúc tôi thức dậy chiều hôm sau, thì Emil đã cởi sạch quần áo. Mắt chàng trai bốc lên ngọn lửa dục tình hừng hực, chàng trai chui vào chăn với tôi. Chỉ với hơi ấm thịt da, ngay cả khi môi Emil chưa chạm tới môi tôi, thì tôi đã nứng lên rồi.

"Sáng nay lúc thức dậy, em thèm muốn chết", chàng trai thì thào bên tai tôi, phần thịt da nóng hổi của chàng trai nằm đè bên trên, Emil vừa nhăn nhăn lỗ tai tôi, vừa nhích tới nhích lui.

"Em sung quá đấy !", tôi vừa lẩm bẩm, vừa cảm thụ nỗi đam mê mà chàng trai mang lại.

"Mấy thằng phát-xít chó chết của anh bữa nay lại lên báo làm em sợ phát khiếp", chàng trai khẽ nói, "Ôm em đi, Karl. Hãy làm tình với em, hãy cho em quên những chuyện ấy đi Karl !".

Môi chúng tôi tìm nhau, lưỡi chàng trai luồn vào trong miệng tôi.

Chàng trai lùi dần xuống bên dưới. Cái cảm giác nhồn nhột, tê tê nơi cổ và hai đầu vú khiến tôi muốn điên lên được. Chiếc lưỡi nhám, ướt đảo quanh vùng ngực. Nhục dục lại bừng bừng dậy nơi tôi. Chàng trai mỉm cười rồi ngồi dậy dạng chân qua hai bên hông, tay với ra sau cầm cặc tôi, chủ động đưa tôi vào chốn đào nguyên.

"Lúc mình làm tình, anh cắn em đi", chàng trai thì thầm.

"Em nói bậy gì thế", tôi gạt lời nói ấy ngoài tai.

Chàng trai cúi thấp xuống bên tôi : "Lúc anh đút vô hết, hãy cắn em đi".

"Tại sao ?", thực tình lúc con cặc tôi đâm vào lỗ từng phân một thì tôi chẳng còn minh mẫn để suy nghĩ thêm được điều gì khác.

"Như vậy chơi sướng hơn".

Chàng trai vẫn cúi thấp thì thầm : "Cắn em đi, Karl. Hãy uống máu em đi".

* *

*

Lúc Emil gục xuống bên cạnh tôi, háng cả hai người đều ướt nhẹp tinh dịch, chàng trai lẩm bẩm : "Sướng không thể tả !".

Giọng nói chàng trai đứt quãng như không kịp thở, lời nói rời rạc trong khi ngực phập phồng, đang cố hít không khí vào hai buồng phổi, chàng trai không nói gì thêm, nhưng ánh mắt lộ vẻ đắc ý.

Hơn trăm năm dưới kiếp ma cà rồng, tôi chưa từng cảm thấy cực kỳ khoái lạc như vừa rồi. Tinh dịch phun trào tưởng như không dứt.

Hơi thở chàng trai yếu dần làm tôi phải chú ý. Sống với nhau nhiều tháng trời, tôi chưa từng thấy Emil trong trạng thái như vậy, như thể chàng trai lao động quá sức. Tôi quan sát làn da tái mét, và dường như chàng trai đang trong cơn hấp hối.

Chắc là tôi uống khá nhiều máu. Tình dục và thỏa mãn cơn đói quyện lẫn vào nhau trong lúc ấy nên tôi khó mà kiểm soát được lý trí. Ngay khi chàng trai hạ mông cày trên người tôi thì tôi đã cắn chàng trai, tôi liếm dòng máu ngọt ngào và ừng ực nuốt vào trong cơn khoái lạc. Mình uống bao lâu nhỉ ?

Trời ơi, uống bao lâu nhỉ ? Chuyện này không thể đùa được !

Nằm bên cạnh chàng trai, tôi không còn cảm giác đói khát nữa. Nhưng... vết thâm tím của dấu răng nơi cổ chàng trai cho tôi biết mình đã đi quá xa. Hơi thở thì không có chuyện gì, thở gấp vì chàng trai bị mất nhiều máu, khả năng cung cấp ô xy cho các tế bào trong cơ thể bị thiếu hụt nghiêm trọng. Chính tôi đã lấy đi lượng máu ấy. Quá nhiều là đằng khác.

Có phải Emil rắp tâm bày ra chuyện này hay không ? Tôi tự hỏi, ý nghĩ ấy đột ngột hiện ra trong tâm trí tôi.

Chàng trai thở hổn hển, cố mang ô xy nuôi các tế bào trong cơ thể, đôi mắt đờ đẫn nhìn về phía trước không hồn. Tôi thâm nhập vào tiềm thức chàng trai, nhưng không thành công. Tư tưởng của Emil lộn xộn, rời rạc. Nhưng tôi cần phải biết. Có phải chính Emil ép tôi trao cho chàng cuộc sống bất tử hay không ?

Ý tưởng chàng trai lộn xộn bởi sự thỏa mãn dục tình. Những cũng có nỗi băn khoăn, chàng trai không hiểu tại sao mình lại mất sức mau đến thế, tình trạng ấy chưa từng gặp trong các lần giao hợp trước đó.

Phải chăng mình đang hấp hối ? Ý nghĩ ấy bị chính suy tưởng của chàng trai bác bỏ nhưng vẫn lẩn quẩn như một lời giải thích cho sự suy kiệt thể chất bất ngờ.

Tôi cảm thấy ngượng chín cả người khi biết được những cảm nhận của chàng trai với mình, những xúc cảm yêu thương chan chứa của vườn tình. Chàng trai không trù liệu trước việc ấy mà chỉ là một hành động ngẫu nhiên với ý định dâng hiến.

Mỗi lúc Emil một xanh, hơi thở ngắn và gấp gáp. Suy nghĩ chàng trai đã trở nên hỗn loạn, không có gì rõ ràng. Chàng trai đang bước dần tới cõi chết.

Emil, anh phải làm gì cho em đây ?

Tôi đã đánh cắp sự trong trắng và tuổi xuân của chàng trai. Chàng trai sẽ không bao giờ có thể dạo bước trong lối đi ngập tràn ánh nắng. Chính tôi đã đưa Emil tới đoạn cuối đời người.

Theo bản năng, tôi hiểu rõ mình cần phải làm gì. Tôi phải cho Emil một cuộc sống mới trước lúc kiếp người ra đi vĩnh viễn. Trước khi mọi suy tưởng của chàng trai tan biến vào cõi vô thức của thần chết. Tôi phải trao cho Emil điều mà chàng trai mong đợi để rồi trói buộc cả đời chàng vào kiếp sống cô quạnh của tôi.

Không nghĩ ngợi gì thêm nữa, tôi nằm xuống giường để mặt chàng trai sát ngực mình. Tôi dùng ngón tay giữa rạch một đường gần dưới bẹ sườn, đoạn dùng cánh tay phải nâng đầu chàng trai lên sát ngực. Tôi cảm nhận được làn không khí lạnh luồn qua vết cắt vào tận xương. Tôi rạch mạnh một đường cắt nơi mạch máu bên dưới, ép môi chàng trai vào vết thương. Dòng máu tràn ra ngoài, loang trên môi chàng trai.

Emil chầm chậm mút lấy, giống như một đứa trẻ sơ sinh đang uống dòng sữa ngọt của mẹ hiền.

Tôi cảm thấy đuối sức, chỉ chăm chú nhìn xem chàng trai có bớt xanh xao hay không. Đây là lần đầu tiên tôi tạo ra một con ma cà rồng khác, không biết chàng trai cần bao nhiêu máu của mình và cũng không cần biết sức lực của mình đang yếu dần đi, miễn sao cứu được Emil.

Ở Emil bằt đầu có sự thay đổi, những vết thâm tím hoặc xanh nơi da đã bớt dần, làn da phẳng mịn hơn. Tôi cảm thấy mắt hoa lên, mọi thứ trước mắt nhòa dần. Tôi nghe hơi thở chàng trai đều hòa trở lại. Tôi vít kín vết thương và ngã bật xuống giường. Emil rên khẽ trong khi bắt đầu cảm nhận những thay đổi nội tại, tôi giúp chàng trai gối đầu lên ngực mình. Ngực tôi đã lành ngay sau đó, sức lực dần dần hồi phục trong khi hơi thở Emil chậm dần và sâu hơn.

Những quyển tiểu thuyết lãng mạn của Stoker về ma cà rồng hoàn toàn nhảm nhí. Khi săn mồi, chúng tôi không thể tạo ra những con ma cà rồng mới, trừ phi dùng chính máu mình. Điều quan trọng là chúng tôi không được chết trước khi tái sinh. Vì khi cái chết đến trước, quả tim sẽ ngừng đập ngay cái thời khắc ranh giới giữa đời người và kiếp sống vĩnh hằng, nói khác đi chúng tôi sẽ chết. Và nếu ma cà rồng có năng lực khiến kẻ chết hồi sinh, thì người nằm bên cạnh tôi phải là Würther chứ không phải là chàng trai trẻ Emil.

Là ma cà rồng, chúng tôi không xanh lè như đồng bạc cũ bị ô-xit hóa hay xanh như màu ngọc bích. Chỉ đơn giản là xanh xao hơn người thường một chút vì chúng tôi không chịu được sức nóng từ tia nắng mặt trời.

Da dẻ chúng tôi nhẵn, không có lỗ chân lông, cũng không dễ hư hoại hoặc biến đổi dưới các tác động của thiên nhiên như người thường. Chúng tôi không đổ mồ hôi, và dĩ nhiên là không cần lỗ chân lông. Ở chúng tôi còn tồn tại cơ quan sinh dục như người thường, nhưng một vài bộ phận không còn tác dụng gì như tinh hoàn, hậu môn, hệ thống ruột. Nhưng may thay, những thứ ấy cũng không ảnh hưởng nhiều đến chuyện tình ái. Vi khuẩn cũng không sống nổi trong cơ thể ma cà rồng. Nhưng lạ thay, tuyến tiền liệt hoặc âm vật (nếu là nữ) vẫn còn là những cơ quan nhạy cảm.

Bao tử vẫn là một cơ quan nội tạng chúng tôi cần có, nhưng không giống người thường. Máu vào bao tử lập tức được thẩm thấu qua mao quản. Vai trò của bao tử giống như bể chứa trước khi phân bổ các nơi thiết yếu, đồng thời làm nhiệm vụ chuyển hóa máu, máu của người thường thành máu ma cà rồng. Nó còn làm luôn chức năng bộ lọc những thứ cặn bã của các nạn nhân nếu có, ngoại trừ rượu cồn. Thứ này, nếu có sẽ trực tiếp ngấm vào máu.

Phổi thì lạ lùng hơn nữa vì nó không có chức năng phân bố dưỡng khí cho các tế bào, thực ra là một cơ quan vô dụng. Nhưng chúng tôi vẫn cần vì vẫn còn phải nói chuyện, vẫn còn giúp thay đổi thanh âm và nó chỉ hữu ích trong trường hợp này thôi.

Tôi quan sát thấy cơ thể Emil thay đổi dần, trở nên hoàn hảo hơn trước. Cuối cùng tôi phải thừa nhận rằng mình đã yêu chàng trai này như đã yêu Sergei Alexandrovitch.

Tôi đứng dậy, bước vào khoảng tranh sáng tranh tối của gian phòng, tôi nhớ rằng chàng trai Thụy Sĩ này còn trần truồng và hồi tỉnh khi đang trải qua sự chuyển hóa trong cơ thể. Quay về giường, chân tôi vấp phải tờ báo mà Emil đã đọc trước đó khi ngồi đợi tôi tỉnh giấc.

Tôi nhặt tờ báo tiếp tục đến bên giường rồi kéo chăn đắp lên tận cằm chàng trai, rồi quay lại trước lò sưởi.

Ngắm nhìn chàng trai hồi lâu, tự nhiên tôi nghĩ đến khoảng thời gian bốn tháng chúng tôi sống chung với nhau. Tôi mỉm cười khi nhớ lại khoảng thời gian ngắn ngủi ấy. Phải, tôi đã yêu Emil Paulik. Không còn nghi ngờ gì nữa, chuyện ấy có ý nghĩa với cuộc đời tôi biết bao nhiêu !

Tôi mở báo ra xem mấy hàng tít lớn. Một bức hình chụp một cao ốc bị sụp đổ làm tôi chú ý. Gì nữa đây ? Kinh thật, tôi bắt đầu đọc.

Một tòa nhà liên bang ở California vừa bị đánh bom. Hàng trăm người bị chôn vùi dưới đống gạch đá đổ nát, một số người tay chân được băng bó, một số khác chân gãy lê lết. Hơn một trăm người chết... phần lớn trong số này là trẻ nhỏ đang chơi ở trung tâm giữ trẻ. Cục điều tra liên bang (FBI) cho biết đây là cuộc tấn công của bọn khủng bố. Trước đó các sở ngành về rượu, thuốc lá và buôn bán vũ khí quân dụng đã lan truyền tin đồn bị đe doạ đánh bom do một tổ chức phỉ gây ra.

Phỉ à ? Ở Mỹ, ngoài lực lượng quân đội, cảnh sát lại còn có một lực lượng vũ trang nào khác sao ? Hẳn là những kẻ vũ trang ấy đã sát hại trẻ con Mỹ vô tội trong tòa nhà của chính phủ đó rồi !

Loạn hết rồi !

Tôi rời khỏi phòng, đi thẳng xuống phòng khách lầu dưới. Tôi mở ti vi để xem tin tức gần nhất về vụ đánh bom.

* *

*

Chiều hôm sau khi thức dậy tôi nghĩ ra kế hoạch mở một cuộc dạ tiệc. Tôi sẽ gọi điện cho tòa đại sứ nước tôi tại Mỹ, để giới thiệu tôi trước chính khách Hoa Kỳ, một kế hoạch mới hình thành.

Quay lại phòng thăm chừng Emil, tôi mỉm cười khi thấy Emil ngủ yên bình. Tối nay chàng trai sẽ không đến thư viện...hoặc ngày mai cũng vậy, suốt cả ngày. Nhớ lại lúc mình thay đổi từ xác người thành ma cà rồng, tôi hiểu ngày hôm sau thức dậy sẽ thấy đói ghê gớm.

Vài giọt máu ma ca rồng chắc cũng tạm no lòng. Nó là một thứ thần dược tạm thời có thể khống chế cơn đói.

Gần 7 giờ tối cái đêm con ma cà rồng Emil được sinh ra, tôi mạnh hơn lúc nào hết... và cảm thấy đói.

Emil vẫn chưa tỉnh giấc, còn tôi quay về giường chuẩn bị đi ngủ. Bình minh còn vài giờ nữa mới đến, nhưng tôi muốn nghỉ ngơi, ngay cả không cần thiết, mà giấc ngủ chỉ thật sự cần thiết cho người bình thường.

Tôi cần phải liên hệ với Tòa đại sứ Áo và sắp xếp cuộc gặp với ngài đại sứ... hoặc ít nhất cũng phải gặp được tùy viên sứ quán... để tiến hành kế hoạch thâm nhập vào xã hội phát xít mới ở Mỹ.

Hy vọng, tôi sẽ thức giấc trước Emil. Tôi biết chắc chàng trai sẽ cần đến những kiến thức về thói quen săn mồi của tôi để không phải làm lộ dấu vết chúng tôi trước cuộc điều tra của cảnh sát.

Nhưng sao mình lại cắn cậu ấy nhỉ ? Tôi hiểu rất ít về những suy nghĩ và cảm xúc của cậu ấy khi còn là người thường, cho tới bây giờ Emil đã thành ma cà rồng thì tôi lại càng chẳng biết chút gì.

Có một điều an ủi, và cũng là niềm hy vọng, của tôi là chàng trai yêu tôi thật sự. Chàng trai đã từng yêu tôi lúc còn là người phàm và kéo dài cho tới lúc thực tế thay đổi. Tuy nhiên, giờ đây tôi cần được tin tưởng và tôn trọng đủ để chàng trai cho phép tôi giúp chàng trai học cách sinh tồn trong kiếp ma cà rồng.

Tôi nằm cạnh chàng trai, mắt nhắm lại, chỉ muốn mau ngủ thiếp đi. Tôi mỉm cười một mình khi chàng trai rúc vào người và ôm tôi trong lúc mê ngủ. Tôi rơi vào giấc ngủ trong lòng cảm thấy thanh thản hơn trước đó, Emil sẽ không làm gì phản bội tôi. Sẽ không có một cơn ác mộng nào với tôi về chàng trai Thụy Sĩ này.

* *

*

"Davis đấy hả !", Đức Giám mục Patterson tươi cười chào đón ngay khi người đàn ông vừa bước vào cửa, "Lại gần lò sưởi cho ấm đi con". Đằng sau Đức Giám mục là lò sưởi đang nổ lách tách.

Vẫn chưa cởi áo khoác ngoài, Davis Trellum bước nhanh tới bàn làm việc bắt tay Đức Giám mục. "Được gặp lại Cha thì may phúc cho con quá, luôn như thế, thưa Cha".

"Ta có xem đống đổ nát ở Califonia", Patterson hạ giọng hỏi, "Có phải người chúng ta làm không ?". Trellum lặng lẽ gật đầu. Đức Giám mục nói tiếp, "Việc ấy thật ấn tượng. Nó càng đề cao tiếng tăm của Trung tâm công giáo".

"Nhưng đó chỉ là phần nổi của tảng băng, thưa Cha".

"Nói cho ta biết. Ta muốn nghe từng chi tiết một".

"Con mang cho cha chiếc ghế nhé ?".

Patterson liếc nhìn hai cái ghế trước bàn giấy ngay giữa phòng. "Thế cũng được. Cứ ngồi nghỉ thoải mái rồi nghe sau vẫn chưa muộn".

Trellum kéo hai cái ghế sát lò sưởi và cả hai cùng ngồi.

"Nói đi, con".

Trellum mỉm cười, "Con nghĩ chắc là cha không thể kiên nhẫn được rồi, thưa Cha".

Patterson đằng hắng hơi lớn nhưng không nói gì, chờ đợi nghe Davis nói.

"Chúng con đụng độ với cộng đồng gay rất kịch liệt", cuối cùng thì người đàn ông da đen cũng lên tiếng, "Và cả bọn mua bán ma túy".

"Ta có xem thấy mấy chỗ mà CMUM đang tiến hành ở DC, đánh đuổi bọn buôn bán ma túy ra khỏi cộng đồng chúng ta. Ngay cả chính quyền địa phương cũng thừa nhận là trận đánh thật tuyệt, Davis ạ ".

"Cảm ơn Cha".

"Nhưng còn cái bọn đồng dâm kia thì sao ? Sao ta không nghe nói gì đến bọn chúng vậy ?".

"Bây giờ CMUM đã có đơn vị xung kích... chuyện ấy sẽ sớm thực hiện thôi. Dẫu sao, họ vừa xông vào các nhà tắm công cộng trong quận... giết tất cả những ai có mặt ở đấy".

"Con có nghĩ cái đám Queer Nation này sẽ đáp trả đấy chứ ?".

"Sớm muộn gì chúng cũng sẽ ra đường, thưa Cha", Trellum cười khẩy, "Chắc phải mất vài tuần nữa chúng mới học xong làm cách nào để biến bàn tay thành nắm đấm".

Patterson bật cười.

"Ngay khi chúng bắt đầu đánh trả, con sẽ rút người CMUM ra, thay thế vào đó là bọn đầu trọc".

Patterson cau mày, "Sao phải làm như thế ? Dần bọn đồng dâm một trận có lẽ làm đám người của con cảm thấy hưng phấn lên chứ. Sao lại rút chúng khỏi cuộc vui ?".

"Vì những cuộc ẩu đã như thế sẽ thu hút bọn phóng viên truyền hình. Trung tâm Công giáo và từng đơn vị bên dưới phải là những con người sạch sẽ không thể có một vết bợn nhơ trong mắt báo đài".

"Con nói đúng đấy. Nhưng cũng hơi tiếc".

"CMUM có thể sẽ điều hành các trại tập trung, chúng ta sẽ nhốt lũ đồng dâm ấy và những kẻ chống đối khác sau khi nắm quyền lực trong tay, thưa Đức Giám mục".

Patterson nghiền ngẫm ý tưởng vừa rồi một lúc. "Chuyện đó hay đấy. Nhưng đừng quên đám thổ phỉ và bọn xấu khác mà chúng ta đang cộng tác với chúng. Chúng sẽ phải biến mất một khi chúng ta củng cố thế lực vững mạnh".

"Chắc chắn như thế. Sẽ không có chỗ dung nạp bọn chuyên chế tạo bom mìn, một khi thời cơ đã tới".

"Doris có biết chuyện này chứ ?".

"Bà ấy biết quá nhiều, thưa Cha".

"Con nghĩ thế à ?".

Trellum gật đầu.

Paterson nhún vai, "Cứ yên chí và bà ấy đang cùng trên chuyến tàu do chúng ta sắp đặt".

Trellum lại gật đầu.

"Còn tướng Howell thì sao ? Có làm được việc không ?".

"Hơi chậm nhưng dường như ông ta làm có phương pháp cụ thể. Tuần sau, ông ấy bắt đầu huấn luyện các sư đoàn để chỉnh đốn quân đội. DC sẽ sẵn sàng chờ thiết quân luật theo lệnh của Reed Stephens khi đúng thời cơ".

HẾT PHẦN 10

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro