𝑪𝒉𝒂𝒎𝒑𝒂𝒈𝒏𝒆 𝑫𝒐𝒎 𝑷𝒆𝒓𝒊𝒈𝒏𝒐𝒏

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

©: Nguyễn T.

𝐁ảy rưỡi tối, Suzume có mặt ở nhà hàng Aldaya, số 655 đường Dolores St, đối diện công viên lớn. Hôm qua Augenste đã nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại với hắn rằng anh thích món carbonara ở Aldaya đến nhường nào và thường xuyên dùng bữa tối ở đó vào mỗi tám giờ những ngày cuối tuần ra sao. Mặc dù người bạn cũ không nói rõ, nhưng Suzume làm sao mà quên được cái kiểu ám thị rất đỗi vụng về dễ thương ấy của anh. Em thích uống Champagne trước khi ăn tối, nhất là Champagne phục vụ ở nhà hàng Victoria vào lúc bảy giờ tối cùng món bít tết nướng chín tái ăn kèm với măng tây và bơ thảo mộc. Cứ như thế, cùng với một niềm tin mãnh liệt rằng hắn sẽ xuất hiện, Augenste luôn thành công có được những buổi hẹn mà không tốn quá nhiều công sức rào trước đón sau. Lần này cũng thế. Hắn đứng trước cửa nhà hàng một lúc, hút một hơi hai ba điếu thuốc, để khói thuốc lấp đầy cái khoảng hổng bồi hồi trong lòng hắn trước khi chỉnh trang lại quần áo rồi bước vào trong.

Nhà hàng này nhỏ, rất nhỏ, thiên về phong cách “bữa tối lãng mạn” hơn là buôn bán đại trà. Tường sơn màu xanh nhạt, bên cửa sổ trồng vài chậu nguyệt quế thơm, đèn dây chăng khắp các ô cửa sổ chớp sáng dịu dàng như mấy vì sao nhân tạo, Augenste đang đợi hắn ở một bàn ăn bên cạnh cửa sổ, nơi có treo bản mô phỏng bức tranh Nụ hôn của Gustav Klimt như sắp tan vào ánh nến vàng. Trên chiếc bàn anh chọn có đặt một lọ hoa nhỏ bằng pha lê trong suốt, bên trong cắm mấy cành cẩm chướng hồng tươi. Dưới ánh nến và ánh đèn vàng của nhà hàng, sắc hồng trên cánh hoa ngỡ chừng như đang sắp sửa hòa tan vào đại dương những sắc vàng đủ mức độ. Augenste ngẩng đầu ngắm nhìn bức tranh, trông mơ màng đến nỗi Suzume ngỡ chừng như anh đang tự đặt chính bản thân mình vào trong bức tranh đó - ôm ghì hoặc được ôm ghì lấy bởi người mình yêu, sau đó dịu dàng đặt lên má người nọ một nụ hôn. 

Đơn giản vậy thôi, nhưng đối với anh mà nói, có lẽ đó là ước mơ xa vời nhất mà anh từng mơ trong đời mình.

“Thật tình cờ quá, em cũng đi ăn ở đây à?” Suzume bước đến bên cạnh chiếc bàn đôi của người nọ, trên môi nở một nụ cười như đang trêu chọc. 

“Ồ, tình cờ quá nhỉ, anh cũng ăn ở đây à?”

“Hôm nọ tôi nghe em nói nên đâm tò mò, nhân hôm nay rảnh rỗi bèn ghé sang ăn thử. Em đang chờ ai à?”

“Chắc là vậy.” Augenste khẽ nghiêng đầu, đôi mắt xanh như sáng rực lên dưới ánh đèn mờ ảo.  “Nhưng chắc là người đó sẽ không tới đâu, anh có muốn ngồi với em không?”

“Vậy thì tốt quá, tôi vẫn chưa có đặt bàn.”

Suzume ngồi xuống, đối diện với Augenste. Bóng của họ trảo trên tường, quyện hòa vào nhau và phủ lên bức tranh Nụ hôn, tựa như đang khảm mình vào trong đó, in dấu và thay thế hai nhân vật đang ghì lấy nhau trong bức tranh. Một người phục vụ vận áo ghi lê đen và đeo chiếc nơ đỏ trước ngực đem thực đơn đến cho họ chọn món. Như mọi khi, Suzume để Augenste tự chọn món trước rồi lại gọi theo y thế. Lần này anh chọn một phần salad burrata làm khai vị, một phần cá hồi áp chảo ăn kèm salad caprese và sốt phô mai, và tráng miệng là một phần Don Papa rum tiramisu. 

“Hai vị có muốn dùng thêm chút rượu không?”

“Có chứ.” Augenste mỉm cười. “Cho chúng tôi một chai champagne, loại Dom Perignon ấy.”

Champagne Dom Perignon, thứ đồ uống sang trọng thường được dùng để đánh dấu những cột mốc quan trọng nhất đời người, được tuyển chọn từ những mùa nho ngon nhất nước Pháp, kiến thức này được Augenste cóp nhặt từ những bữa - tối - lãng - mạn - tại - gia của ông anh họ mình. Trước đây Augenste đã luôn cho rằng mấy kiến thức này với anh có hơi thừa thãi, hóa ra cũng có lúc hữu dụng ra phết.

Trái lại, Suzume đã gần như đã quên hết toàn bộ những lễ nghi thường tình của người Âu châu. Đã bao lâu rồi hắn không lại bước vào một nhà hàng đúng nghĩa? Suzume không còn nhớ nữa. Dường như trước khi xuất ngũ về nhà, hắn đã từng ao ước đến ngày lại được bước vào một tiệm ăn sang trọng, vận lên người bộ Âu phục được là ủi phẳng phiu, đeo kính gọng vàng rất mực tri thức, gọi một phần bít tết cao cấp hoặc một suất cơm lươn nóng hổi. Có thể khi ấy hắn sẽ cảm thấy hơi muốn khóc một chút khi nhận ra chiến tranh đã bào mòn hắn tới nhường nào, có thể sẽ mất một chút thời gian để lưỡi hắn lại nếm quen canh nóng và rượu ngon. Dù thế nào đi chăng nữa, Suzume đã từng tin bằng một cái niềm tin rất đỗi ngây thơ rằng hắn vẫn còn hy vọng để hồi phục về thành Suzume cái thuở còn ở Anh quốc những ngày tháng bình yên kia. 

Nhưng rồi cuộc đời đã nuốt chửng lấy hắn. Giống như hắn vừa rơi trở lại vũng nước xoáy dưới mạn tàu từng nhìn thấy khi lên tàu đi Mãn Châu, nó cứ hun hút, đen kịt, và vô vọng, hệt như cuộc đời hắn.

“Anh sao vậy? Trông anh không khỏe lắm.”

“Không hẳn… Tôi chỉ là đang… à, không sao đâu. Có một vài di chứng nhỏ, vài ba ngày nữa là sẽ hết.”

Suzume lần tay đến gần túi quần, toan rút gói thuốc đã vơi hơn nửa và cái bật lửa sắp hết ga ra như một thói quen. Thế nhưng hắn đã kịp khựng lại, sẽ thật khiếm nhã nếu hút thuốc trước mặt Augenste trong một nhà hàng sang trọng như thế này.

“Trước đây anh không hút nhiều đến thế.” Augenste bình thản rót rượu vào trong hai cái ly pha lê cao cao. “Ý em là, anh sẽ không bao giờ hút nhiều đến mức để mùi khói thuốc ám sâu lên quần áo của mình đến vậy, anh bảo như thế sẽ làm cho người anh có mùi hôi.”

“Chiến tranh ấy mà, em biết đấy.” Suzume đón lấy ly rượu, cố gắng nhớ lại cách cầm món đồ tinh tế này. “Có một số thứ, chúng ta cần phải dựa vào những biện pháp làm thư giãn thần kinh cấp tốc để sớm vượt qua cơn khủng hoảng. Có như vậy thì mới có thể tiếp tục bước tiếp được.”

“Anh có thể kể cụ thể không? Như cái cách anh từng kể về cuộc đời mình cho em nghe ấy.” Augenste hơi dừng lại một chút khi người phục vụ mang món salad burrata lên. “Có thể anh sẽ nghĩ rằng em quá mức hiếu kỳ, nhưng chúng ta đã bỏ lỡ nhau một đoạn đời quá dài rồi. Có nhiều thứ em từng nghĩ là em biết về anh, nhưng bây giờ thì không phải nữa. Tối hôm nọ, khi em ôm lấy anh, rõ ràng là anh đã ở ngay đấy, rất gần em đến vậy rồi, thế mà em vẫn có cảm tưởng như anh đang ở rất xa. Em không biết nữa, chỉ là em đột nhiên cảm thấy không cam tâm. Rõ ràng chúng ta đã từng… hiểu nhau nhiều đến thế.”

Rõ ràng chúng ta đã từng yêu nhau nhiều đến thế.

Có lẽ là vì thói quen đã hình thành từ những ngày xưa cũ còn ở Anh, trước khi chiến tranh kịp ập đến, cả Suzume lẫn Augenste không bao giờ thốt ra những từ ngữ mang hàm ý biểu đạt tình cảm quá mức rõ ràng với nhau ở nơi công cộng. Thứ tình yêu này là một tội lỗi, những kẻ cả gan phải lòng một người đồng giới sẽ không bao giờ được lên Thiên Đàng, đó là thứ mà xã hội và luật pháp đã dạy cho họ. Năm thứ ba Suzume sang Anh, một người bạn của cậu bị tố giác là người đồng tính. Ngay lập tức, chính phủ đã tước đi toàn bộ tư cách du học lẫn lưu trú của cậu ấy, tiễn thẳng về Nhật trong sự nhục nhã ê chề. Luật pháp Nhật Bản không công khai xử tội người đồng tính, nhưng danh dự của cậu ấy, danh dự của cả họ nhà cậu ấy đã bị hủy hoại hoàn toàn. Đích thân người cha đáng kính của Suzume đã biên một lá thư thật dài cho hắn, trong đó toàn là những lời miệt thị sâu cay đối với cái tên nam không ra nam nữ không ra nữ quạ mổ diều tha đó. Ông kể với hắn rằng cậu ấy đã bị bắn chết, bởi chính người cha của mình tại phòng riêng, một phát đạn thẳng vào thái dương, chấm dứt một kiếp đáng khinh của mình trong sự nhục nhã tột cùng. Ông dặn đi dặn lại là hắn phải học hành cho cẩn thận để còn quay về cống hiến cho nước nhà, cấm tiệt hắn giao du với cái phường đồng tính biến thái bệnh hoạn. Cha hắn nói, nếu như một ngày nào đó ông phát hiện ra hắn cũng là phường chơi bời lêu lổng, ông sẽ không ngần ngại chém chết hắn rồi vứt vào chuồng lợn cho chúng mặc sức xâu xé. 

Tình yêu của bọn họ có bao nhiêu tội lỗi, để mà một người cha phải đích thân ra tay giết chết con mình?

Suzume không biết.

Không phải chỉ là yêu thôi sao, vì lẽ gì lại thành ra thế này?

“Tôi không biết nữa,” Suzume rũ mắt. Cảm giác như lồng ngực của mình lại lần nữa bị lấp đầy bởi khói bom và thuốc súng. “Có đôi lúc tôi cảm thấy như mặt đất dưới chân mình hóa thành một sa mạc cát lún, mỗi một bước đi về phía trước sẽ lại khiến tôi càng lún xuống sâu hơn, em có hiểu cảm giác đó không?”

Augenste toan nói gì đó, nhưng anh nhận ra những chuyển động rất đỗi lạ lùng trong mắt Suzume. Dường như bây giờ hắn cũng đang ở trong cái sa mạc cát lún ấy, nửa cơ thể đã ngập ngụa trong biển cát đen ngòm.

“Em có còn nhớ người đầu tiên em giết trên chiến trường là ai không?”

“Một người lính Nhật.” Augenste im lặng hồi lâu, sau đó mới chậm chạp trả lời. “Lúc ấy, em đã thật sự sợ rằng người đó là anh. Đến nỗi ngay cả khi anh ta đã tắt thở, em vẫn cứ cố gắng lau đi bồ hóng và máu dính đầy trên mặt anh ta để chắc chắn rằng đó là một ai khác, một người nào đó không có chút liên hệ gì với anh.”

Dưới lớp khăn trải bàn, Suzume có thể cảm nhận được có ai đó đang âm thầm đặt tay mình lên tay hắn, từ từ siết chặt như thể để chắc chắn rằng hắn vẫn còn đây.

“Tôi không còn nhớ người đầu tiên mình giết là ai, nhưng tôi nhớ tôi đã giết một người đồng đội của mình.” Suzume khẽ lắc đầu, lơ đãng nhìn ngọn nến đang cháy dần trên giá. “Một người đồng đội, một người bạn… Tôi đã quen cậu ấy từ những năm còn học ở cao trung. Chỉ cách đó mới có ba mươi phút, cậu ấy còn đưa cho tôi một điếu thuốc và bảo rằng mọi chuyện sẽ ổn thôi. Vốn dĩ chúng tôi đang giành được thế thượng phong, nhưng rồi có gì đó không đúng xảy ra và mọi chuyện thành ra thế này đây.”

“Hẳn anh phải có lý do gì đó.”

“Một tuần trước ngày ra trận, Trưởng quan đã hạ lệnh cho tôi xử tử một gián điệp của Quốc Dân Đảng. Đó là một cô gái còn rất trẻ, tôi đã hỏi cô ấy có muốn nhắn nhủ trăn trối gì không, vốn dĩ đó cũng chỉ là một câu hỏi lấy lệ, những người như cô ấy sẽ không bao giờ nói gì nhiều hơn mấy câu nguyền rủa hoàng quân thậm tệ trước khi chết cả. Nhưng cô gái này thì khác, cô ấy nhìn tôi rất lâu, sau đó nhờ tôi giúp cô ấy để lại một lời nhắn ở nhà thờ Đức mẹ Maria ở trung tâm thành phố. Em có biết cô ấy đã nhắn gì không?”

“Em không.”

“Cô ấy nhờ tôi vẽ lên phong thư một cành hoa lưu ly màu xanh. Độ ấy đang là mùa thu, hoa lưu ly không nở, thế nên tôi chỉ có thể vẽ lại nó. Sau khi cô ấy chết, tôi mang lá thư ấy đến dán ở bảng thông cáo nhà thờ, không để lại danh tính, và em biết hai hôm sau tôi tìm được gì ở đó không? Đó là một cành hoa cẩm chướng hồng được dán đè lên phong thư. Xin đừng quên emanh sẽ không bao giờ quên em. Trong chiến tranh người ta đã bày tỏ tình cảm với nhau theo cái cách vừa lãng mạn vừa bi thương đến nhường ấy đấy.

Sau vụ đó, tôi giống như là người đi trên mây vậy. Tôi nhìn vào câu chuyện của cô gián điệp ấy và nghĩ đến chúng ta, Augenste ạ. Ở trên chiến trường, mỗi một người lính đều là người yêu của một ai đó. Nếu như sau này tôi cũng ngã xuống ở một nơi nào đó heo hút như vậy, liệu có ai vì tôi mà gửi đến em một cánh hoa lưu ly xanh mướt hay không? Có lẽ là rất khó. Tôi bắt đầu nhận ra mình dần trở nên chùn tay với mấy chuyện giết chóc. Trong lần hành quân ấy, khi nhìn đạn bom bay ngang qua đầu, bỗng dưng tôi lại thấy sợ, tôi không xông lên tuyến đầu như thường lệ nữa, tôi để mình tuột lại, ngơ ngẩn nhìn khói lửa mịt mù cả một góc trời.”

“Em hiểu.”

“Thế rồi, Sasaki bất ngờ ngã xuống bên cạnh tôi. Cậu ấy bị bắn vào bụng, vết thương nặng lắm, thiếu điều xổ cả ruột ra. Nhưng cậu ấy sẽ không chết ngay được. Không ai có thể chết ngay lập tức với kiểu vết thương ấy, nhưng cũng không một ai sống được. Cậu ấy sẽ phải nằm đó chờ chết trong sự đau đớn tột cùng. Tôi…” Suzume dùng bàn tay còn lại vuốt mặt liên tục, như thể hắn đang muốn vuốt hết đoạn ký ức ấy ra khỏi đầu mình. “Tôi đã bắn cậu ấy, Augenste ạ, tôi đã bắn cậu ấy, thẳng vào giữa trán. Cậu ấy đã chết ngay lập tức. Tôi đã chùn tay, tôi vì sợ giết nhầm người yêu của ai đó mà để cho một người đồng đội chết đi trên tay mình. Cái chết của Sasaki chính là lời nhắc nhở của riêng tôi. Nếu tôi không tiếp tục bắn giết, người phải chết sẽ là những người bạn của tôi, những đồng đội, và có khi là chính bản thân tôi nữa.”

“Khoảnh khắc ấy, Augenste ạ, tôi cảm thấy có thứ gì đó đang bắt đầu vỡ nát bên trong tôi. Sự đổ vỡ ấy ngày càng nghiêm trọng mà tôi không có cách nào ngăn cản lại được. Đó cũng là lúc tôi nhận ra, tôi sẽ không bao giờ có thể quay về là một Suzume em từng quen được nữa rồi.”

“Chiến tranh lấy đi của chúng ta quá nhiều thứ, chính em cũng đã không còn trọn vẹn là Augenste mà anh từng yêu. Nhưng Suzume ạ, dù thế nào đi chăng nữa, em thật sự biết ơn vì anh đã trở về bên cạnh em.”

“Lúc còn ở trên chiến trường, tôi đã từng nghĩ rằng cho dù cả thế giới có muốn tôi chết đi, thì chắc chắn vẫn còn có em luôn chờ tôi trở về. Tôi đã bấu víu vào cái ý nghĩ ấy để mà cố gắng sống sót. Nhưng đến tận khi tôi đã trở về được rồi, Augenste ạ, mỗi lần tôi nhìn mình trong gương, tôi lại tự hỏi không biết liệu đây có phải là cái người mà em vẫn hằng chờ đợi hay không… Augenste ạ, tôi đã sợ… sợ em rồi cũng sẽ nhìn vào tôi như bao người khác.”

Giống như mẹ tôi.

“Suzume này, anh có thể nghe em nói một chút trước đã không?” Augenste khẽ rũ mắt, anh siết chặt lấy hai bàn tay run rẩy đầy sứt sẹo của Suzume trước ánh mắt ngỡ ngàng của hắn, công khai đặt lên bàn như một lời khẳng định gửi đến toàn thế giới. “Đúng, đúng là những ngày đầu bước chân ra chiến trường, em đã không ngừng mơ đến cái ngày chúng ta tương phùng lần nữa, trở về vẹn nguyên là chúng ta trước thời tao loạn. Em sẽ lại chơi Paganini cho anh nghe và mời anh một ly rượu thay cho lời tán tỉnh, và anh cũng sẽ nguyên vẹn là chàng Suzume điển trai đã kiêu hãnh trút bỏ tấm vải che thân để ngồi lên ghế dành cho người mẫu em đã từng gặp trong lớp dạy vẽ của thầy Whitney. Anh không biết đâu Suzume ạ, lúc đó anh sáng bừng lên dưới ánh nắng như một vị thần vậy, và em nghĩ rằng mình đã yêu anh ngay từ giờ phút đó. Em đã yêu một Suzume rực rỡ đến nhường đó đấy.”

“Nhưng rồi chiến tranh cứ kéo dài ngày này qua ngày khác, một ngày nọ khi em tỉnh dậy giữa chiến hào, em chợt nhận ra rằng em đã không còn có thể quay về là em của những ngày xưa cũ nữa: em đã không còn nhớ được cái cảm giác khi em chơi nhạc cho anh lần đầu tiên nữa. Khung cảnh ấy vẫn còn đó, nhưng phần hồn thì không. Em không còn nhớ được mình đã chạm đến những phím đàn như thế nào, không còn nhớ được những rung động đã lấp đầy cõi lòng em khi đó. Thời khắc ấy, em biết mình hỏng rồi.

Mà một kẻ đã hỏng đến mức không còn sửa được như em, làm sao có thể ngưỡng vọng đến cái việc có thể gặp lại anh nguyên vẹn là một Suzume mà em yêu chứ. Đối với em mà nói, chỉ cần em có thề còn sống để quay về tìm anh, đó đã là ân điển lớn lao rồi.

Em phải thú nhận với anh một điều là lúc mới gặp lại anh, quả thật là em thấy có chút hẫng, bởi anh khác nhiều quá. Anh có thêm một vết sẹo trên mắt, sự buồn khổ tràn ra khỏi gương mặt anh, che lấp toàn bộ ánh sáng mà em đã từng thấy và từng yêu, anh đã đổi tên, anh hút thuốc và ho nhiều, nhưng trên hết thảy, em thấy mừng vì anh còn sống, vì anh còn quay lại để tìm em. Khi ấy, em đã tin rằng tình mình vẫn còn hy vọng. 

Suzume à, em biết anh đang định đi đâu. Em không muốn rời xa anh nữa, thế nên lần này, hãy để em đi theo anh đi, có được không?”

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro