Bôi tuyết - quyển 1 - MƯA ĐÊM GÕ XUỐNG SEN VÀNG

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

 BỘ THỨ NHẤT - MƯA ĐÊM GÕ XUỐNG SEN VÀNG

 TỰA

 DG: Phúc Vũ và Phiên Vân

Nguon: NMQ

Đề kí:

 Rẽ sóng mười năm hát Sở ca

 Trường giang phân bắc nam cách biệt

 Mấy kẻ thấu lòng ta một dạ

 Chỉ thấy vời vợi trời xanh biếc

 Quay đầu lại, đã ly biệt

 Đề Kỵ bao tiếng thị phi đó

 Chén băng chung ngọc rót tràn rượu

 Cảnh tuyết năm cũ thật da diết

 ---- Vô Ưu Thảo dịch theo điệu Giá cô thiên (*)

oOo

 Năm Thiệu Hưng thứ hai mươi lăm nhà Nam Tống.

 Đối với dân cư vùng Giang Tô, Giang Tây, Phúc Kiến, Chiết Giang thì năm đó là một năm tương đối êm lắng. Những tao loạn của một thời chinh chiến dạo Tống triều mới thiên di về nam cũng đã nhoà dần trong ký ức, mọi người chỉ còn nghĩ tới mùa màng đồng áng, thiên tai sâu bệnh, nhưng chính ý nghĩ đó lại là dao mềm sát nhân, cắt dần vào da thịt mà người ta cũng quen không cảm thấy đau nữa, bọn quan cao ăn trên ngồi chốc, dân đen bên dưới gọi dạ bảo vâng, dần dần tạo nên một cảnh yên ả tạm thời. Nghe nói người Kim ở bờ Bắc sông Hoài mấy năm nay cũng đã dần dần suy nhụt nhuệ khí, không khôi phục được cái hào hùng thuở xưa. Sông ngòi mênh mang, kênh rạch dọc ngang, lại càng thêm nhiều kẻ xu phụ trục lợi mà ít đi những người anh dũng khẳng khái. Ai nấy tranh giành cấu xé chỉ vì cái mưu sinh nhỏ nhoi, cái tính mệnh đơn lẻ của chính mình, chẳng chú ý gì đến đại chí lập thân báo quốc.

 Giữa thời buổi li loạn đó, ngộ nhỡ người Kim vượt sông sang Nam thì làm thế nào? Nội bộ triều đình nhốn nháo ra sao? Vua quan mạnh ai nấy chạy... Nạn dân hoảng sợ hoang mang... Chẳng ai biết kết quả sẽ là gì nữa! Nhưng cũng chính vì thế, người ta mới càng muốn nắm bắt vẻ phồn hoa chớp nhoáng này dù chỉ được thoáng qua, thành ra khắp nơi đàn ca sáo nhị, vui thú yên hoa, lầu ngoài lầu trong nghiêng ngả, nào ai ngăn nổi dòng chảy chung. Cũng bởi cái chớp nhoáng ấy, đã có bao lục y niên thiếu, quý tộc quan lại, tăng nho danh sĩ, ẩn dật cao nhân không tiếc ngàn vàng để mua lấy chút vui tạm bợ, ngồi lầu cao hưởng niềm khoái lạc nhất thời, chẳng ai suy nghĩ, chẳng ai cân nhắc mình đã bỏ phí bao nhiêu thời gian, mài mòn đi bao hùng tâm tráng chí.

 Đó là một thời đại thái bình giả tạo, là một kẽ hở giữa những đổi thay. Triều đình vẫn còn tự ảo tưởng về cảnh thịnh thế quốc thái dân an, mơ đến ngày chấn chỉnh bốn phương, thực tế ở nơi biên tái lòng người đâu còn theo nữa? Kể từ mục đồng đến già làng, ai nấy đều thích nghe loại truyện danh hiệp hồng hồng tuyết tuyết, nhưng không biết những lắt léo u trầm, hào sảng cảm động ấy cũng đang xảy ra ngay bên cạnh mình...

oOo

 Hôm ấy, ở địa giới Giang Tô, trên dòng sông Ngô, có một chiếc thuyền con lững lờ thả xuôi dòng. Sông Ngô là một chi lưu của Thái Hồ, nước trong sóng nhẹ, nhưng mấy năm nay bởi vó ngựa chiến chinh, cũng đã mấy lần nước trơ đáy cạn. Ngồi trên thuyền nhìn ra, hai bờ đồng ruộng um tùm, cỏ mọc rậm rạp, nhà cửa thưa thớt, mưa rả rích xầm xì. Khách đi thuyền thở dài: "Bi thử li li, bi tắc chi mẫu". Câu này bắt nguồn từ Kinh Thi, ý nói nước mất thế suy bi luỵ thê thảm. Khách, xem chừng cũng là người có học, thân hình cao lớn, y phục giản dị sạch sẽ, tuy phục sức theo lối văn sinh nhưng trông rất mạnh mẽ đường bệ. Con thuyền nhỏ men bờ nam trôi xuống, dọc đường rất ít gặp người, chỉ vì gần đây tin tức đồn thổi, nghe nói nhà Kim sắp kéo quân sang Nam, ngày một ngày hai sẽ tới, vì vậy chẳng còn có mấy khách du. Người trên thuyền bất giác lại thở dài, "Lời đồn đại ấy một năm chẳng biết đưa đẩy được bao nhiêu lượt, đúng thực là thần hồn nát thần tính. " Lần này sở dĩ cũng có nguyên do, gần đây sứ giả nhà Kim là Bá Nhan lại đến triều đình Lâm An giục giã tiến cống. Dạo nọ hai nước đã đặt chế độ thần tử, mỗi năm Nam Tống phải gửi biếu rất nhiều cống phẩm cho Kim. Năm nay tự nhiên có người nào đó cương trực chống đối, Bá Nhan nổi giận, nói năng với vẻ hăm doạ, Nam triều sợ run, tin đồn thất thiệt lan ra, dân đen không còn hồn vía nào nữa.

 Khách nhìn sang bờ bắc, xa xa có một người một vật đương thong dong thả bước trên đồng. Vì khoảng cách quá xa, lại lấp nhiều bóng cây, con đường nhỏ phía bờ đối diện thoắt ẩn thoắt hiện, từ trên thuyền nhìn lên, người và vật thấp tha thấp thoáng. Có trông thấy thì cũng loà nhoà, chẳng rõ vai mặt đầu cổ thế nào, người và vật như tiệp vào nhau. Lạ một nỗi, con vật cưỡi ấy giông giống ngựa mà không phải ngựa, nó cao lạ thường, mấy hôm nay trời đất u ám, đường đất và đồng ruộng chắc hẳn lầy lội lắm, người đi bộ cũng trơn ngã oành oạch, thế nhưng con vật bước chân rất vững, khách quan sát mà giật mình. Y dõi nhìn người và con vật kia một lúc lâu, cảm thấy họ như một mảng đen mờ, trông lạ lùng và lẻ loi khôn tả dưới mưa phùn Giang Nam.

 Người chèo thuyền ngồi đằng đuôi thuyền, trời lạnh thế này mà lão đi chân đất, hai mắt nhìn chằm chằm xuống dòng nước, bộ dạng co ro khốn khổ. Tới gần Trường Kiều, lão hỏi: "Quý khách, nghỉ chứ ạ?"

 Người khách gật đầu, nhà thuyền bèn khoát một cái rồi gác mái, buộc thuyền dập dềnh bên mạn sông, bắt đầu vo gạo bắc bếp làm cơm ăn. Củi thông bị ẩm nhóm lửa mù mịt những khói, khiến nhà thuyền giàn giụa nước mắt. Một lát sau lão ngừng quạt lò, lấy một cái chảo nhỏ ra, bỏ mấy con cá muối vào, chuẩn bị làm cơm cho khách ăn.

 Trường Kiều là nơi mà du khách nhất định phải đi qua, vốn cũng là một danh thắng, nhưng vì binh hoả liên miên, đến nay chỉ còn dăm ba nếp nhà ngói, mười mấy túp lều tranh, cửa giả long tóc gáy, trông rất tang thương. Một người đàn bà đang vo gạo bên sông. Văn nhân hỏi: "Hôm nay có khách nào đi qua không?"

 Bà ta vỗ rá, nhìn văn nhân từ đầu đến chân, lắc đầu: "Từ hôm qua đến nay mới có một tốp đi sứ sang Bắc và vài tên lính triều đình hộ tống, họ định nghỉ đây ăn cơm rồi đi, nhưng chê đây nhỏ nên sang tiệm Thất Lý bên làng đối diện rồi. "

 Văn nhân nhìn sang bờ bên kia, cách bờ chưa đầy hai dặm có một ngôi làng nhỏ, khói toả lơ thơ, tuy rất xa nhưng do địa hình tương đối bằng phẳng nên có thể nhìn thấy được. Người đàn bà chép miệng nói: "Mà kể cả có nghỉ lại đây thì ai dám tiếp rước? Lần trước mấy người bên nhà Triệu Gia Kiều không biết thiếu chu đáo chỗ nào mà mắc tội với thông dịch viên, bị hắn tấu hót với người Kim xong cả nhà già trẻ lớn bé đều bị chém sạch, còn ai dám mon men nữa? Sống ở thời buổi này khổ thật thôi! "

 Văn nhân lặng người, ngoảnh đầu nhìn Trường Kiều, cầu bằng đá ghép, lan can đã vỡ mòn, trên trụ cầu chỗ neo thuyền có mấy hàng chữ rồng bay phượng múa, mực đen lóng lánh, hình như là một bài từ. Đọc hết một lượt thì đúng là một bài "Thuỷ điệu ca đầu".

 Thuở xưa trên Thái Hồ

 Chèo khua bao tà nguyệt

 Cuối cùng còn gì đây?

 Sầu nhiều như mây nước

 Giấu kín trường kiếm trong hộp

 Đổi lấy một mảnh thuyền con

 Quay về áo tơi đánh cá

 Hoạn lộ chẳng màng chi

 Núi sông không như trước.

 Thái cá lư làm nem

 Châm rượu ngon vào chén

 Cất khúc bi ca:

 Lớn lên thuở thái bình,

 Nay mới thấm sầu binh lửa.

 Muốn xua sóng tuyết ba sông

 Tẩy sạch bụi trần vạn dặm,

 Để thiên hà tự xoay vần.

 Ngẩng đầu nhìn trời cao,

 Ròng ròng đôi dòng lệ.

 Uyên Minh dịch thơ:

 Thái Hồ mấy độ ghé qua

 Mái chèo khuya nước trăng tà tan mau

 Cuối cùng còn lại gì đâu?

 Nước mây một dải buồn day dứt buồn...

 Kiếm cung đổi chiếc thuyền con

 Nửa đêm rũ áo dong buồm chơi rong

 Về quê đón ngọn cô phong

 Lưới chài trả hết vân mòng thuở xưa

 La đà khói tỏa sao thưa

 Non sông đổi khác ông ngư gác chèo

 Thái cá lư

 Châm mỹ tửu

 Hát bi ca:

 Trăm năm đẫm mộng thanh bình

 Một cơn binh lửa bất thình kéo qua

 Đã mong xoay chuyển thiên hà

 Ba con sông tuyết tẩy trần nước non...

 Dập dềnh bóng chiếc thuyền con...

 Ngoảnh đầu lệ nhỏ... một dòng sóng xô...

 Cuối bài từ không đề thự danh. Văn nhân đọc xong, bất giác cũng thấy bi phẫn khích động, liên tưởng đến thời thế ngày nay, trong lòng chan chứa bao điều muốn nói. Y đang trầm ngâm suy nghĩ, chợt nhà thuyền gọi: "Quý khách, ông nghe kìa! "

 Khách bèn nghiêng tai lắng nghe, ở làng nhỏ trên bờ bên kia loáng thoáng có tiếng huyên náo, tuy mơ hồ nhưng vẳng tới rất đều đặn. Đầu tiên là quát tháo chửi bới, dần dần chen lẫn cả tiếng rên hờ, tiếp đó là tiếng kêu cứu lõm bõm, chắc hẳn dân thôn bị đoàn sứ giả nhà Kim hiếp bức. Kế đó có tiếng cười hềnh hệch thô lỗ, tiếng vỗ tay của người Kim, tiếng dạ ran của lính tuỳ tùng nhà Tống. Khách và nhà thuyền nhìn nhau xót xa, hiểu rằng bọn Kim lại đang gây tội ác như người đàn bà vừa kể. Bỗng nhà thuyền thốt lên, người và vật lúc nãy vẫn đi thong dong đằng xa bây giờ cũng đã đến nơi, đang lững thững tiến vào ngôi làng nhỏ, như thể dê con đi vào miệng cọp. Nhà thuyền già cả tốt bụng vội gọi: "Ơ này.. " nhưng không dám lớn tiếng sợ kinh động đến quân Kim, thành ra người kia không nghe rõ. Khách và lái thuyền cùng lo âu, định đồng thanh gọi thêm lần nữa, chợt thấy trong làng bên kia ánh đỏ bừng lên, lẫn cả khói đen cuồn cuộn, cháy rồi! Lửa bốc ngùn ngụt, trong một ngày u ám thế này mà cháy được, tất là do có người cố ý phóng hoả. Nhà thuyền ngẩn người, văn nhân đập lên mạn thuyền, tức giận nói không ra tiếng. Người và vật nọ vẫn không ngừng bước, rồi thình lình gia tăng cước bộ, cuốn đi như đụn gió, chạy nhanh hơn ngựa thường nhiều, phóng thẳng vào ngôi làng nhỏ, thoáng một cái chìm lút trong màn lửa, mất dạng. Hai người trên thuyền cùng thốt "Úi", chẳng biết gã kia định làm gì, hay định hiến mạng thêm cho những kẻ khát máu? Họ đau đớn đợi nghe tiếng kêu cứu của y. Dân làng đã tắt gào thét từ lâu, ai chết chắc đã chết, ai chạy chắc đã chạy. Loáng thoáng có tràng cười sằng sặc, tàn nhẫn vô liêm sỉ, khách và lái thuyền hầu như quên bẵng mình đang ở đâu! Bỗng tiếng cười ngắt đoạn, đổi ra giọng gào giận dữ, sau đó không phải là tiếng kêu thảm của người nọ mà là liên tiếp những tiếng kêu đau đớn, lẫn cả tiếng chửi bới quát tháo của bọn Kim và tiếng lăng xăng của bọn lính Tống. Hai người trên thuyền chỉ thấy lóp ngóp dường như có cái gì xẹt qua xẹt lại trong đám lửa, nhanh như chớp nháng, mỗi lần dừng lại là một tiếng gào thê thiết vang lên, chói tai hơn, riết róng hơn tiếng cười ban nãy nhiều. Ngôi làng yên bình thoáng chốc biến thành sa trường đẫm máu, lái thuyền run lẩy bẩy, văn nhân thì kinh ngạc lẩm bẩm: "Kiếm khí tung hoành? Kiếm khí tung hoành! " Chắc chắn là người vừa rồi qua đường gặp chuyện bất bình đã tuốt kiếm giết giặc. Tiếng người láo nháo trong ánh lửa, không nhìn thấy bóng ai chạy ra được khỏi thôn. Một lúc lâu sau, tiếng rên gào cuối cùng cất lên, to vang khủng khiếp. Sau đó, ngoài ánh lửa rần rật, ngoài nước sông rì rào, trong vòng mười dặm không còn tiếng động nào nữa. Dường như chim cũng bàng hoàng quên hót, nấp kín trong cỏ bụi cây cao, thậm chí không có tiếng vỗ cánh, tiếng côn trùng kêu. Hai người trên thuyền cố gắng nghe ngóng, rất lâu sau, chỉ bắt được tiếng lộp bộp, lộp bộp truyền lại, rồi thấy con vật kia rẽ ra khỏi thôn, từ từ đi xa, dần dần hoá thành một cái bóng mờ mờ không thấy đâu nữa.

 Một lúc lâu sau, khách mới bật kêu: "Thống khoái! Thống khoái! " Y ngoảnh nhìn lại trụ cầu, bài từ với nét mực còn tươi mới, đầm đìa lóng lánh. Y đọc lại lần nữa, trăng tròn rọi trên cao, khí trời lành lạnh. Văn nhân càng đọc càng thấy mặt mày nóng lên, nhiệt huyết trảo sôi, tráng chí dâng ngập. Y lẩm bẩm: "Thôi, thôi! Đường thư sinh là lầm lạc, lầm lạc! " Nhà thuyền sợ trù trừ chậm trễ, không đợi cơm chín liền gỡ dây chèo thuyền để xuôi xuống đông. Khách ngâm nga mãi bài "Thuỷ điệu ca đầu", lòng bồi hồi cảm khái.

oOo

 Không ngờ trên bờ có người qua đường nhận ra y là Trầm Phóng, tự Ngạo Chi, danh sĩ nổi tiếng đất Trấn Giang. Tối ấy khi trú chân quán trọ chợt nghe chuyện đốt nhà giết người ở tiệm Thất Lý, chuyện đồn ra, hôm sau một đồn mười, ngày kia mười đồn trăm, cuối cùng lại thành ra là vào ngày ấy tháng ấy, Trầm Phóng một người một vật, áo vải đẫm máu giết hơn hai mươi người đi sứ và một tên Thiên phu trưởng của nước Kim cùng toán tuỳ tùng người Tống tại tiệm Thất Lý ở bờ bắc Trường Kiều, xong việc xoã tóc bẻ kiếm, vung bút đề từ rồi dong thuyền đi mất. Tin đưa đến kinh sư, thiên tử Cao Tông xem bài từ, im lặng một lúc lâu rồi chuyển cho thừa tướng xem. Tần Thừa tướng lập tức phái người đi tìm kỵ sĩ 

ấy, ngầm gọi về hỏi chuyện. Cũng từ đó bài "Thuỷ điệu ca đầu" kia vang vọng trên hai bờ nam bắc đại giang!

----------O----------

 (*) Tuyệt Tình Nương dịch thơ:

 Mười năm hát khúc Sở ca

 Bắc Nam một dải giang hà chia đôi

 Sầu bên dạ chẳng phai phôi

 Ngước nhìn trời biếc xa xôi muôn trùng

 Ngoảnh trông năm tháng mịt mùng

 Chuyện đời gánh nặng mãi trong dạ này

 Chung băng rượu ngọc nào đây

 Trông vời ngày cũ bóng đầy tuyết in.

 (*) ynp dịch thơ:

 Mười năm khúc Sở ca cao giọng,

 Bắc Nam sông dài sóng chia đôi.

 Sầu này canh cánh bồi hồi,

 Nắng kia dằng dặc, xa xôi cách rời,

 Ngoảnh đầu lại, một trời ly biệt.

 Thị phi gây nuối tiếc lỡ làng,

 Chén băng rượu ngọc đầy tràn

 Tuyết năm xưa đọng vô vàn nhớ thương

BÔI TUYẾT HỆ LIỆT

 BỘ THỨ NHẤT - MƯA ĐÊM GÕ XUỐNG SEN VÀNG

 HỒI 1 - LÁNH NẠN

 Phúc Vũ và Phiên Vân

 Dịch tặng Tay Doc đại ca

 "Ngoài thành Lâm An có Dư Hàng huyện,

 Đến Dư Hàng huyện phải lên Hảo Đăng lâu"

 Tam nương tử vừa mỉm cười vừa cất tiếng ngâm nga.

 Tửu lâu vào đời nhà Tống đã phát triển mạnh mẽ đến mức cực thịnḥ. Vào đời thứ nhất nhà Tống, ở Biện kinh có trên trăm tòa danh lâu. Nào là Bạch Phàn lâu, Hân Nhạc lâu, Ngộ Tiên lâu, Thiết Tiết lâu, Khán Ngưu lâu, Thanh Phong lâu, mỗi nơi đều có đặc sắc riêng, chế luyện ra các loại mỹ tửu như Ngọc Luyện Chùy, Tư Đường Xuân, Tuyết Du, Nội Khố Lưu Hương cạnh tranh với nhau, ai ai cũng phải tấm tắc khen ngợi. Đến thời Nam Tống, Khang vương Triệu Cấu thừa hưởng thói xấu của ông cha, chỉ lười biếng ưa hưởng lạc. Đến khi tình hình yên ổn, bên trong thành Hàng Châu hàng loạt lầu đài, đình tạ kiểu như Yên Vũ Lâu Đài, Phiên Hương Vũ Tạ được xây dựng một cách khéo léo tân kỳ.

 Hảo Đăng Lâu nằm ở địa giới Dư Hàng, là một tòa lầu cao sừng sững. Đôi câu đối liễn thật to, chắn trước cửa là hai thanh gỗ sơn đen bóng lưỡng, nhằm để cản bớt dòng người ngựa hỗn loạn. Phía dưới lầu bày khoảng ba bốn chục chỗ ngồi, trên lầu thì được chia thành hơn hai mươi gian phòng riêng biệt, nhất loạt che màn lụa màu thúy lục, trên tường treo đầy chữ viết tranh vẽ, cửa sổ bố trí hướng ra đường, có thể ngắm cảnh non xanh nước biết, phong nhã khác thường.

 Lúc này, ở gần cửa sổ bên trái có một đôi vợ chồng trung niên đang ngồi đối ẩm. Người nam nét mặt phóng khoáng, thân dài vai rộng, khoác hờ tấm trường bào màu xám. Người nữ mày cong lá liễu, mắt hạnh long lanh nhu hòa. Mọi người chú ý nhìn kỹ, thì nàng toàn thân chỉ vận bộ váy áo đơn sơ màu lam, đầu cài trâm gỗ, nhưng dáng vẻ thanh tao đẹp đẽ, cười nói như hoa như ngọc.

 Hai người này khoảng ba mươi lăm, ba mươi sáu tuổi. Chỉ nghe người nữ cười nói: "Ngạo Chi, chàng có biết vì sao Hảo Đăng Lâu này lại nổi tiếng như vậy không?"

 Người nam à lên một tiếng, quay sang nhìn Tam nương tử. Hai người này chính là đôi vợ chồng Trầm Phóng và Tam Nương Tử, bọn họ bắt được tin không lành nên phải trốn khỏi Trấn Giang Phủ. Phu nhân của Trầm Phóng thường gọi là Tam Nương Tử, nghe nói hai người bọn họ có một đoạn nhân duyên rất ly kỳ, nhưng đó là chuyện của mười năm về trước. Trầm Phóng đối với vợ rất kính trọng, liền chăm chú lắng nghe lời nàng kể.

 Chỉ nghe Tam nương tử nói: "Thiếp có nghe người kể truyện nói qua, trong thiên hạ có tổng cộng ba mươi sáu tòa danh lâu, Lâu Ngoại Lâu ở Lâm An, Nhạc Dương Lâu ở Động Đình Hồ, Ngũ Gian Lâu ở Kim Lăng, Phàn Lâu ở Biện Kinh, Tây Lâu ở Tương Dương, thêm vào tòa Hảo Đăng Lâu chúng ta đang ngồi đây, cùng xưng là sáu tòa lầu nổi tiếng nhất 'lâu trung chi lâu'. Tòa lầu này vì sao có thể liệt vào hạng danh lâu thì thiếp không biết được, nhưng Hảo Đăng Lâu vì sao trở nên nổi tiếng chỉ e là vì một đoạn cố sự. "

 Trầm Phóng à một tiếng, y biết Tam nương tuy là nữ lưu, nhưng hiểu biết rất nhiều, bản thân rất thích được nghe nàng kể chuyện, mặc dù không phải loại chuyện có thật chép trong sách sử, nhưng lại rất sống động và chân thực.

 Tam nương tử cười nói: "Đó là năm đầu tiên của Nam Tống, Tập hiền Điện Thị chiếu học sĩ Hồ Thuyên phụng mệnh xuất hành, đi qua tòa lầu này. Hồ học sĩ là một tay viết chữ đẹp, tính tình chính trực, một bụng học vấn không ai là không biết đến. Lần đó xuống ngựa lên đây, chính là lúc tòa lầu này vừa mới mở cửa làm ăn. Chưởng quầy ân cần khuyên mời, chuẩn bị sẵn rượu ngon mực tốt, muốn thỉnh ông ta viết lại vài chữ đề vịnh. Hồ học sĩ uống hai chung rượu, cũng đã đáp ứng lời thỉnh cầu của chưởng quầy, đang lúc cầm bút nghĩ ngợi, thì đột nhiên phía dưới lầu vang lên tiếng ồn ào, đi ra nhìn xuống, thì thấy một vị tướng quân râu hùm hàm én oai vệ bước vào. Hồ học sĩ vừa nhìn thấy ông ta, liền vui mừng hớn hở, lệnh cho chưởng quầy mau mời lên. Tướng quân vừa bước lên lầu, Hồ Học sĩ vung tay múa bút như nước chảy mây trôi, viết xuống hai chữ lớn 'Hạnh thậm'(may quá)! Tướng quân nhìn chữ, lại nhìn thân hình thấp bé nhưng lanh lẹ của ông ta, liền biết ngay đó chính là vị Thiết Hạng Ngự sử Hồ Thuyên nổi danh. " Dừng một lát, Tam nương tử cười hỏi: "Tướng công, chàng có đoán ra vị tướng quân đó là ai không?"

 Trầm Phóng nghĩ một lúc, Hồ Thuyên một đời danh thần, thanh liêm chính trực, chỉ vì không vừa mắt bọn quyền thế, cuối cùng đã từ quan quay về, đương thời tuy quan lại đầy triều, nhưng mắt ông ta chỉ coi trọng một vị tướng quân mà thôi, tuyệt không có đến người thứ hai. Nghĩ đến đây bèn dùng rượu viết lên trên bàn một chữ 'Phi'. Y viết chữ này chính là muốn chỉ vị tướng quân họ Nhạc tên Phi, làm quan đến chức Thái tử thiếu bảo, chỉ tiếc sau này bị gian thần Tần Cối ám hại, thiên hạ ai nấy cũng đều tiếc thương khôn cùng. Tam nương tử mỉm cười gật đầu, kể tiếp: "Hồ học sĩ nhìn thấy ông ta thì quên luôn cả việc viết chữ, hai người chào nhau rồi ngồi vào bàn, nâng chén khuyên mời, bàn chuyện thiên hạ, cực kỳ hợp ý. Đến lúc chia tay, Nhạc tướng quân thấy lão chưởng quầy mặt ủ mày chau, rất thảm thương, hỏi ra mới biết thì ra là lão buồn về chuyện chỉ xin được hai chữ thì ít ỏi quá. Nhạc tướng quân nhìn qua hai chữ đại tự Hồ học sĩ viết khi nãy, phá lên cười sảng khoái, rồi cầm bút lên viết thêm hai chữ đại tự nữa, tạo thành một câu đối hợp tình hợp cảnh tuyệt vời! Hồ học sĩ nhìn thấy, cũng phá lên cười ha hả, sau đó hai người tạm biệt nhau rồi rời đi. Tướng công, chàng đoán xem Nhạc tướng quân đã viết xuống hai chữ gì?"

 Trầm Phóng ngần ngừ nói: "Hai chữ tiếp theo ta đoán là gì đây? Hạnh thậm, hạnh thậm... "

 Tam nương tử cười nhẹ thúc giục: "Nhanh lên! "

 Trầm Phóng nghĩ một lúc rồi vỗ tay nói: "'Khoái tai'(nhanh lên)! " Dùng 'hạnh' đối với 'khoái', dùng 'thậm' đối với 'tai', một hư, một thật, đúng là một vế đối tuyệt diệu, hai người đúng là tri âm tri kỷ, bốn chữ này coi như là đánh dấu buổi rượu thống khoái giữa hai người một văn một võ. Tam nương tử nói tiếp: "Lão chưởng quầy rất thông minh, đã khắc câu đối liễn bốn chữ này ngay phía trước lầu, câu này mang khẩu khí của chủ khách khen ngợi lẫn nhau, hỏi xem có ai lại không muốn vào thử xem sao chứ. Từ đó Hảo Đăng Lâu danh tiếng ngày càng vang dội. " Nói xong liền than rằng: "Năm ấy triều đình chúng ta chẳng phải đang ở cảnh 'quan văn không tham tiền, võ tướng không tiếc mạng' hay sao. Hai câu ấy quả thực là rất phù hợp với hai người bọn họ, mọi người sau đó nghĩ lại, ai mà không khâm phục kính trọng?"

 Trầm Phóng nghe nàng kể về giai thoại thú vị ít ai biết đến này, liền rót ngay một chung rượu uống sạch, cười hỏi: "Vậy hai câu đối liễn đó giờ đang ở đâu?"

 Hồ, Nhạc hai người đều là danh gia về thư pháp thời Tống, Trầm Phóng ham mê thư họa, liền ngứa ngáy muốn xem thử. Tam nương tử thở ra một hơi: "Sau đó hai người bọn họ một người từ quan quy ẩn, một người bị định tội chém đầu, đều do Tần thừa tướng gây ra. Còn Tần thừa tướng ở đó, tửu lâu này sao mà dám treo chữ của bọn họ chứ? Không biết là đã cất đi hay đốt đi rồi. "

 Trầm Phóng sắc mặt trở nên ảm đạm. Y lần này cùng Tam nương bỏ trốn khỏi quê nhà, cũng chỉ vì nghe đồn bọn quan lại triều đình rất bất mãn về việc 2 người bọn họ đề bài từ trên cầu Trường Kiều sông Ngô, đã bí mật ra lệnh phải dò xét kỹ càng. Bài từ tuy không phải là do y viết, nhưng Trầm Phóng sợ mình không thể đối đầu được với bọn hôn quân gian thần,

谓三人市虎,百口莫辩

(ba người họp chợ, có trăm cái miệng cũng chẳng thể biện giải được), huống gì Trầm Phóng cũng không thèm giải thích. Do đó đành cùng Tam nương lặng lẽ rời khỏi Trấn giang để tránh họa sát thân. Tam nương tử thấy y không vui, cố ý kể lại một giai thoại cho y cao hứng, không ngờ lại còn làm cho tâm tình của y nặng trĩu thêm.

oOo

 Huyện Dư Hàng nằm sát cạnh Lâm An phủ, cách kinh thành chỉ khoảng ba bốn chục dặm, khoái mã truyền tin một lúc là tới. Dưới chân thiên tử cảnh vật khác hẳn, chợ búa nhộn nhịp, người qua kẻ lại áo quần hoa lệ, đường ngang ngõ dọc, cửa liễu tường hoa. Thêm vào sáng nay mưa vừa tạnh, người trong thành đều đổ ra ngoài tận hưởng cảnh trời quang mây tạnh hiếm có, trên đường người ngựa ken đặc, đúng là cảnh tượng thời thái bình.

 Trầm Phóng nhìn ra ngoài cửa sổ, quê quán của bọn họ ở Trấn giang phủ tuy cũng là một thành lớn, nhưng nằm gần biên giới, mấy năm nay binh lửa liên miên, nếu so sánh với chốn huyện lỵ nhỏ bé này, thì vẫn còn kém khá nhiều. Biên giới Tống Kim vốn ngăn cách bởi dải sông Hoài, nhưng triều đình từ lâu đã phủi tay với đất Giang Bắc, ngầm lấy Trường Giang làm ranh giới, đặt phòng tuyến trấn thủ ven sông, do đó Trấn Giang phủ đã trở thành trọng địa đóng quân. Trầm gia nguyên là một gia tộc lâu đời ở Trấn giang, tuy dòng dõi chưa suy yếu, nhưng sau cảnh loạn ly chiến sự, tình cảnh cũng đã không còn được như trước. May mà Trầm Phóng kiến giải thông suốt, không phải kẻ hủ nho thông thường, không vì gia tộc suy vi mà thất chí. Y thích đọc sách, nhưng kinh sử chỉ xem qua loa, chỉ lưu tâm đến các loại sách tạp nhạp về binh thư, toán pháp hay trồng trọt. Trước cảnh phồn hoa chốn kinh kỳ, không khỏi phải chua thêm một vài lời chú thích. Trước khi thiên di về nam, dù xa xỉ lãng phí như hai vua Huy, Khâm đã bị người Kim bắt giữ, một năm tiền thuế thu từ dân chỉ có sáu ngàn vạn quan. Không ngờ sau khi dời về nam, đất đai đã mất đi phần lớn, nhân khẩu giảm đi hơn phân nửa, thế mà triều đình một năm thu thuế đến tám ngàn vạn quan, có thể thấy được sưu cao thuế nặng đến mức nào. Cái phồn hoa này, đúng là như Tam Nương đã nói: "thỏ khôn không ăn cỏ gần ổ. "

 Tam nương lúc này đang nhìn quanh xem xét quy mô của tửu lâu này. Vì giờ này vẫn còn sớm, phía trên lầu người uống rượu không nhiều, đa số người đến đây chỉ vì muốn giết thời gian giải sầu, trên bàn chỉ bày mấy món nhắm đơn giản. Ở khúc ngoặt lên cầu thang, có đặt một băng ghế dài, ngồi tại đó là một ông lão mù cúi đầu ê a kéo hồ cầm, một cô bé đứng bên cạnh, hai người chính là đang kể truyện, giảng về nước Ngô và nước Việt thời Xuân Thu. Tam nương tử dời mắt nhìn về góc xa, chỉ thấy một lão già râu tóc bạc phơ ngồi quay mặt về phía đông, khoác tấm trường bào ngũ phúc đoàn thọ (năm chữ phúc thêu quanh chữ thọ), móng tay dài ngoằng đang gõ gõ xuống mặt bàn, lại một bàn khác, có hai tên quan quân, có vẻ như là tiến kinh làm việc, ngẫu nhiên đi qua đi lên uống một chén, còn lại thì toàn là hạng người nhàn rỗi vô sự. Tam nương tử thở nhẹ một hơi, nàng không thể không lưu ý kỹ càng. Trầm Phóng tính vốn phóng khoáng, lại chỉ là một thư sinh chỉ biết đọc sách viết chữ, chẳng hề chú ý tiểu tiết, chưa từng trải qua chuyện hiểm ác gì, y có vẻ như không coi chuyện bỏ trốn lần này có gì quan trọng, nhưng Tam nương biết rằng, bài từ trên sông Ngô có khả năng dẫn đến hậu hoạn lớn đến mức nào, do đó lần đào vong này cũng không kém phần hệ trọng. Nàng biết rõ năng lực truy đuổi của bọn ưng khuyển triều đình như thế nào. Vừa nghĩ đến chuyện này, trong tim chợt nhói đau, nghĩ thầm: sau mười năm, chẳng lẽ vận mệnh lại buộc mình một lần nữa phải dấn thân vào chốn giang hồ hay sao?

 Lúc này một tên hán tử thô hào ngồi đối diện cửa sổ đột nhiên lên tiếng: "Nếu nói đám trà dân này không phải là ngu ngốc thì là cái gì! Tạo phản cứ nói tuột ra là tạo phản đi, còn bày đặt nói cái gì là 'Phù Tống kháng Kim'. Con bà nó, bọn chúng nói câu đó mà không sợ bị phỏng lưỡi hay sao, kháng Kim là chuyện của triều đình, bọn chúng việc gì mà phải để ý tới chứ. Không cần phải nói, đám trà phỉ này chắc là muốn theo hướng Hoàng Cương vượt sông tiến lên phía bắc, xem bọn chúng đúng là mơ mộng hão huyền muốn kháng Kim thật! Bị Lữ nguyên soái phục kích đánh một trận, lớp chết lớp bỏ trốn, cũng chỉ còn được khoảng mười người qua được sông. Con bà nó, bọn họ đến binh Tống mà còn không đánh lại, nói gì đến chuyện kháng Kim chứ? Quân Kim dễ dàng chống lại lắm hay sao? Ngày đó bốn đời nguyên soái đánh suốt mười năm, cuối cùng chẳng phải cũng nhờ vào tài Tần thừa tướng giảng hòa hay sao? Kháng Kim à? Đi chết thì có! "

 Mấy câu này gã lên giọng oang oang, mọi người nghe tiếng nhìn qua, thì chính là tên quân quan ngồi cạnh cửa sổ. Tửu lâu trà quán chính là nơi tin tức linh thông nhất, mọi người từ sớm đã nghe nói vùng Hồ Bắc đã xuất hiện một tay trà phỉ lợi hại, tên gọi là Vương Hưng, lấy Trung Nghĩa làm hiệu, làm giàu nhờ việc bán trà, đã tụ tập vô số những kẻ khốn cùng, ngày càng trở thành đại họa tâm phúc của triều đình. Tên tham tướng này có vẻ là người dưới trướng Hồ Bắc Tuần phủ sứ Lữ Duy, không biết tiến kinh có công cán gì. Gã vừa mở miệng thì những người trên lầu đều dỏng tai lắng nghe, nhưng mấy lời của y đã làm cho mọi người không khỏi thầm chau mày. Lúc đó triều Tống bóc lột nhân dân đến tận xương tủy, đưa ra luật lệ quy định riêng cho việc buôn bán trà, thuế đánh cực kỳ nặng nề, đám trà phỉ ban đầu chỉ là dân đen không chịu khổ nổi, đã tự sản xuất trà rồi bí mật vận chuyển bán kiếm lời, sau đó xuất hiện một tên Vương Hưng, ấm ức vì bị quan binh đàn áp, nên đã tập hợp mọi người tạo phản. Những người trên lầu toàn là những người dân lành của triều đình, sợ nguy cầu an, nghe nói bọn trà phỉ tạo phản đã bị bình định, đương nhiên cảm thấy an tâm, nhưng nghe thấy gã này chê bai Trung Hưng Tứ tướng, xu phụ Tần Cối, cái gọi là công đạo vốn nằm trong lòng người, đa số mọi người nghe qua đều không tán thành. Gã này đúng là một tên tham tướng, dung mạo thô ráp, cử chỉ thô tục, thấy nhiều người lắng nghe lời của mình, không khỏi đắc ý. Nhìn khắp cả lầu chẳng có nhân vật xuất sắc nào, gã tha hồ mà múa mép, càng lúc càng huyênh hoang. Tên tiểu tướng ngồi cạnh lại chen miệng vào, bốc thơm gã hết lời, cái gì mà không sợ đường tên mũi đạn, nào là giết giặc vô số, tên tham tướng cũng tự khen mình một cách hào hứng, hai người nói chuyện hăng say, nước bọt văng tung tóe.

 Lại nghe gã tham tướng nói: "Đại soái lần này phái ta lên kinh, Tần thừa tướng định đích thân tâu lên hoàng thượng, nhất định sẽ thưởng rất hậu hỉ. Lữ đại soái chúng ta lần này đột ngột xuất kỳ binh, chém đầu hơn một vạn sáu ngàn tên, tưởng ngày trước Nhạc Phi đại phá Dương Yêu ở thủy trại Động Đình Hồ, giết giặc chẳng bằng một phần mười lão gia của chúng ta, vậy mà làm sao phá được giặc chớ? Lữ đại soái đã được Tào ngự sử chấm trúng, một khi đạt được công trạng, sẽ được tiến cử ngay, có vẻ lần này có hy vọng một bước lên trời rồi. Haha, huynh đệ chúng ta chắc cũng được vinh hoa phú quý mà thôi, một người đắc đạo, cả họ được nhờ! Hahahaha! "

 Mọi người trên lầu nghe thấy y chữ nghĩa không thông, vậy mà còn bày đặt dùng thành ngữ đầu ngô mình sở, không khỏi cười thầm trong bụng. Lão già ngồi bên cạnh tự nói một mình: "Chém được một vạn sáu ngàn cái đầu? Trà dân tạo phản sao lại nhiều đến mức đó? Không biết có bao nhiêu người lương dân vô tội bị chết oan dưới đao, chết không toàn thây, đầu lại còn bị giả làm trà phỉ để khai công lĩnh thưởng nữa." Người vừa nói chính là lão giả vận trường bào ngũ phúc đoàn thọ. Đa số người trên lầu đều nghe rõ mồn một, gã tham tướng nổi giận quát: "Lão... già kia, lão nói hồ đồ cái gì thế, cái gì mà giả mạo công trạng để lĩnh thưởng chứ, ngươi có chính mắt nhìn thấy không?" Gã ban đầu định gọi là "lão già chó đẻ", nhưng vì thấy lão già này thân vận trường bào bằng lụa, thái độ cao nhã, giống như một lão viên ngoại ẩn cư, nên đổi thành cách xưng hô "lão già" cho dễ nghe hơn. Gã là tham tướng, chức vụ không phải thấp, nhưng ở đây là đất kinh kỳ, không dám hành động hấp tấp.

 Lão già liếc nhìn gã ta, thở ra một hơi, hòa nhã đáp: "Là một vạn sáu ngàn cái đầu thì là một vạn sáu ngàn cái đầu, chỉ có điều vị quan gia này ở trên tửu lâu này nói bậy nói bạ, coi thường Nhạc tướng quân, đừng quên phía trên lầu có thờ chữ của Nhạc tướng quân đó. Nhớ năm đó Nhạc tướng quân đại phá thủy trại Động Đình Hồ, chính là nhờ vào mưu trí, không phải dùng sức mạnh, hơn nữa bên trong thủy trại có rất nhiều người trung nghĩa, Nhạc tướng quân vì tình thế quốc gia không thể làm khác, nhưng vẫn chiêu hàng được mãnh tướng Dương Tái Hưng, về sau đánh một trận tại Tiểu Thương hà, vang danh thiên cổ. Ngày đó Nhạc tướng quân tuy giết giặc không nhiều, nhưng chiến công cực lớn, thu thập được toàn bộ bọn giặc cỏ vào dưới trướng, thống suất toàn quân tiến ra biên cương giết giặc chống Kim, bảo quốc an dân, đưa giặc cỏ về đường chính, đó chẳng phải tốt hơn nhiều so với việc giết chết nhiều người sao? Đỗ Tử Mỹ (Đỗ Phủ) có nói: '

苟能制

敌,岂在多杀伤

' (nếu có thể chế trụ cường địch, việc gì phải giết nhiều người)?'. Câu nói của tiền nhân nói rất hay, nói rất hay! "

 Gã tham tướng thấy lão lảng sang chuyện khác, không trả lời được tiếng nào đành lầm bầm nói: "Hay cái gì? Nói ở trên tửu lầu này thì có làm sao? Lão tử xung phong lâm trận, trải nghiệm đủ mọi thứ rồi, dẫu có mắng tên họ Nhạc đó mấy câu thì hắn cũng đã chết béng rồi, đâu thể nào ngoạm quả chuối của ta nữa?"

 Mấy lời bậy bạ vớ vẩn ấy, người xung quanh chẳng ai chú ý, không ngờ có một thư sinh chưa đầy ba mươi nghe thấy chuớng tai, lạnh lùng bảo: "Ngoạm chuối của ngươi? Ha ha, chuối bẩn thế lôi ra làm gì? Ngươi nên cẩn thận cho cái đầu của ngươi thì hơn. "

 Tên tham tướng lửa giận bừng bừng, thấy một tên nho sinh khố rách áo ôm mà dám cười giễu mình như vậy, vỗ bàn quát: "Chuối của ngươi chắc gì sạch hơn chuối của lão tử? Với lại lão tử đếch phải là thỏ, chuối trắng chuối sạch để làm quái gì? Nhìn cái lưng gà toi của ngươi, chắc chuối có sạch cũng không giương lên được, không phóng ra được không bắn ra được, không gây giống được! "

 Người Giang Nam nói chuyện hay dùng từ ngữ bóng bẩy, thái độ tao nhã, nghe mấy lời mắng chửi vô lý, thô lỗ tục tằn của hắn, người trên lầu ai cũng phá lên cười. Thư sinh giận đến mức mặt đỏ bừng, cười lạnh một tiếng rồi phẫn nộ nói: "Vị quan gia này đúng là rất cương ngạnh đó, nhưng mà không biết là ỷ vào uy thế của kẻ nào? Tào ngự sử à? Lão ta thì nhằm nhò gì! Không biết so với Đề Kỵ Đô Úy 'chàng béo' họ Phùng thì thế nào đây? Haha! "

 Tên tham tướng trừng mắt định nổi cơn tam bành, nhưng một câu của thư sinh vừa nói ra, mọi người trên lầu đột nhiên nín bặt, hắn và tên ngồi cùng bàn chỉ biết đưa mắt nhìn nhau, sắc mặt từ từ tái mét không còn chút máu. Tên tham tướng này cũng đã nghe nói đến "chàng béo" họ Phùng, gã này là con trai của Phùng thị lang. Phùng Thị lang nhờ được Tần Cối che chở, quyền thế lên như diều gặp gió, gã là đồ vô dụng, chỉ giỏi ăn chơi phóng túng, nhờ phúc ấm của cha mà được vào trong Đề Kỵ Tam thập thị vệ, cũng là tên tệ hại bất tài nhất trong 32 thị vệ này. Tên Phùng béo này sở dĩ mang tên như vậy vì có đủ 3 cái nhiều và 3 cái ít: nhiều người hầu, nhiều cha nuôi, nhiều má nhỏ, và ít lông mày, ít râu, ít giáo dục. Nhà của gã lúc trước nằm ở Dư Hàng huyện, đất rộng ngàn khoảnh, đền đài lầu các vô số, cũng là một tên ác bá trong vùng, nổi tiếng là 'Vương Bát lại đầu tiện tư điểu' (

王八

癞头贱厮鸟

)(Lưu manh đầu hói như kên kên), nỗi kinh hoàng của cả huyện.

 Lão già ban nãy lại trở giọng ân cần khuyên bảo: "Ở đây nói chuyện cần phải cẩn thận một chút! Hai tháng trước, tên Phùng béo này đến lầu này uống rượu, tên này muốn náo nhiệt, đã kéo theo hơn hai mươi kỹ nữ nhạc công, cùng bọn tay chân xu nịnh, tâng bốc nịnh bợ, nói bậy nói bạ, coi trời bằng vung, đúng là bẩn cả tai. Lúc đó có người lên tiếng khuyên rằng phía trên lầu có thờ chữ của Hồ học sĩ và Nhạc tướng quân, nói chuyện phải cẩn thận chút, lưu ý khiêng kỵ, không nên làm bừa để tránh bị trừng phạt. Tên Phùng béo cười nói: 'Kiêng kị cái gì? Người thường không kiêng kỵ ta thì thôi, ta mà phải sợ tướng quân sống tướng quân chết đó à? Trên đời này hiện nay chỉ duy nhất có ba người đáng để cho ta sợ mà thôi!'"

 "Bọn tay chân xu nịnh của hắn nhân dịp liền vuốt mông ngựa, tát nước theo mưa, hỏi rằng: 'Thiếu gia nói chỉ sợ ba người thôi, vậy ba người đó là ai? Làm cho thiếu gia phải sợ, vậy chẳng phải là thiên vương lão tử hay sao?' Phùng béo cười nói: 'Ba kẻ đáng sợ này, chỉ e không phải mình ta mà ai ai cũng phải sợ cả. Người thứ nhất chính là bọn người Kim, sớm muộn gì cũng có ngày bọn chúng có dịp vượt sông đánh xuống, mọi người tính mệnh khó bảo toàn, sao lại không sợ được? Ngay cả đương kim thánh thượng còn phải sợ nữa là. Người thứ hai chính là Tần thừa tướng, ông ta chức cao quyền trọng, trên đời này có ai mà không kinh sợ chứ! Hoàng thượng cũng phải nể ông ta đến ba phần. Người thứ ba chính là Viên lão đại của chúng ta, hà hà, người thứ ba này thực ra ta chỉ sợ có nửa phần thôi, nhưng Viên lão đại một thân võ công cao cường, một tay đảm lược, được thánh thượng ban tặng danh vị Thiên hạ đệ nhất, kêu ai mà không phục chứ. Ngoại trừ ba người này, thêm vào gia phụ gia mẫu, nhìn trên dưới trước sau có ai đáng để ta sợ đây?' Nói xong nhơn nhơn đắc ý, liền cầm chung rượu phỉ thúy đứng trước cái cửa sổ này đây lớn tiếng huyênh hoang: 'Ở đất Dư Hàng này, lão tử mà sợ ai đây? Ai dám giết ta? '"

 Mọi người trên lầu cũng đều đã nghe đồn đãi chuyện này, nhưng không hiểu rõ tường tận như lão già, không hẹn đều cùng dỏng tai lắng nghe. Lão già hớp một ngụm rượu rồi kể tiếp: 'Hắn nói câu này thanh âm rất lớn, hôm đó lão hủ ở Hằng Ký trà trang đối diện nếm thử trà Vũ Tiền mà chưởng quầy vừa mới mua về, mà vẫn còn nghe rõ mồn một."

 Vừa nói vừa chỉ ra ngoài, Hằng Ký trà trang này nằm ở góc đối diện với tửu lâu, khoảng cách cũng khá xa, có thể thấy được tên Phùng béo lúc đó đắc ý phóng túng thế nào. Lão già kể tiếp: "Lúc đó Phùng béo dương dương tự đắc, cất tiếng hỏi ba lần liên tiếp, đến lần cuối cùng vừa hỏi xong, hắn vừa nâng chung rượu lên ngang cổ chưa kịp uống, thì bỗng nghe thấy một giọng nói vang lên: 'Ta dám giết ngươi!'"

 "Mọi người trên lầu giật mình kinh hãi, giọng nói này không lớn, bình đạm nhẹ nhàng, tựa như tiếng vàng chạm ngọc khua, lạnh lùng băng giá đâm thẳng vào thính nhĩ. Lầu trên lầu dưới đều nghe rõ mồn một, ngay cả những người đang đi ngoài đường cũng nghe thấy, số người tận tai nghe thấy ít ra cũng đến hai trăm người. Người trên lầu chỉ thấy một bóng người nhoáng qua, hình như là một thiếu niên gầy gò mặc áo đen vụt qua một cái rồi nhanh chóng biến mất, không có ai nhìn thấy rõ. Xong chuyện có người bảo rằng kẻ này vốn đang say rượu gục đầu trên bàn, không nhớ được tướng mạo ra sao, nhưng hình như là một thiếu niên rất tuấn tú. Đám tay chân xu phụ của Phùng béo trên lầu đồng loạt lên tiếng thóa mạ, chạy đến bên cửa sổ tìm kiếm bốn phía. Mấy người bên cạnh chỉ thấy lạ là tên Phùng béo sao lại trở nên khách khí như vậy, không hề mở miệng mắng chửi lại, cũng không kêu người đánh cho kẻ liều lĩnh không biết trời trăng này một trận, lại còn đứng đó tươi cười uống rượu nữa. Một hồi sau mọi người mới phát giác ra có chuyện không ổn, chỉ thấy đầu hắn từ từ gục xuống, sau đó, rượu từ trong chung bắt đầu rỉ ra, cuối cùng thì thấy một tia máu từ yết hầu của hắn ròng ròng chảy xuống, xem lại cho kỹ thì thấy cổ họng đã bị một thanh kiếm sắc bén đâm thủng. Một kiếm này trước tiên xuyên qua chung phỉ thúy đâm vào yết hầu rồi sau đó rút ra, trên chung vẫn còn lưu lại một lỗ thủng nhỏ, nhưng vẫn nguyên vẹn không bị vỡ. Lầu trên lầu dưới chỉ thấy một bóng người chớp động, không ai nhìn rõ được hình dạng kẻ đó. Nếu nhát kiếm này là do kẻ đó đâm ra, thì đúng là công phu tinh diệu tuyệt luân, ai mà có thể có bản lĩnh cao cường như vậy? Các người nói thử xem, có từng thấy ai có thể đâm một kiếm xuyên qua chung phỉ thúy như vậy hay không? Sau chuyện đó, cả đám bộ khoái mời thêm cả Trịnh sư phụ của Tam Nghĩa tiêu cục cũng cùng nhận định đây vốn không phải là võ công, vậy không phải là linh hồn của Nhạc tướng quân thì là cái gì đây?"

 "Cuối cùng bộ khoái bắt tất cả mọi người mục kích ra thẩm vấn từng người một, chỉ nghe người dưới lầu nói, lúc đó chỉ nghe một tiếng cười nhạt, nhìn quanh thì chẳng thấy ai. Sau đó thì quân tuần tiễu ở cửa thành nói là hình như có nhìn thấy một con vật hình dạng kỳ lạ, không biết là lừa hay ngựa chở trên lưng một người biến mất ở đằng xa, là có chút quái lạ mà thôi."

 Mọi người chăm chú lắng nghe không bỏ sót một lời. Lão già lại chiêu thêm một ngụm rượu, rồi quay qua tên tham tướng nói: "Do đó lão khuyên quan gia ngài nói chuyện phải cẩn thận một chút. Chuyện trên lầu này nửa phần cũng không phải là giả, nếu không tin ngài có thể ra ngoài hỏi xem, người trong Dư Hàng huyện không ai là không biết, nhà Phùng thị lang hiện giờ đang lo chuyện tang sự đó."

 Tên tham tướng này tuy lỗ mãng, nhưng là loại người rất kính sợ quỷ thần, há hốc miệng không nói được tiếng nào. Thư sinh lúc nãy hình như cũng còn tức giận với gã, hừ lạnh một tiếng rồi trả tiền đi về. Đi xuống cầu thang tự nói một mình: "Tào ngự sử trong kinh kết giao với phiên tướng, quả là hay lắm! Quả là hay lắm!"

oOo

 Trầm Phóng nghe lão già kể chuyện, liền thấp giọng nói với Tam nương: "Con vật mà lão ta kể hình như giống với hình ảnh ta thấy ở Trường Kiều sông Ngô." Tam nương tử khẽ gật đầu, không trả lời, chỉ bóp nhẹ tay y để ra hiệu cho y không nên nói nữa. Lão già thấy thư sinh đã đi xa, liền quay qua tên tham tướng nói: "Sao ngài lại đắc tội với ông ta, ngài không biết ông ta là ai ư?"

 Tên tham tướng biết là nguy rồi, muốn hỏi nhưng lại tự thẹn không dám, ai ngờ lão già đã nói luôn: "Ông ta là Đại Học sinh Trần Tả Nghị, tự xưng là Trần Đông tái thế, là thủ lãnh trong nhóm tranh luận chính trị, hay tụ tập gây chuyện xào xáo nhất, hiện giờ trong triều đình thế lực rất lớn, đang muốn ra tay hạ thủ Tào ngự sử, ngài cẩn thận đừng để rơi vào tay ông ta."

 Tên tham tướng lúc nãy còn cứng đầu ngang ngạnh, nghe xong mặt trắng bệch, trong lòng sầu thảm, không dám hó hé tiếng nào.

 Bên cạnh có người thấp giọng nói: "Nói chứ, tranh luận chính trị càng ngày có sức ảnh hưởng, cũng là một chuyện tốt. Ông Trần Tả Nghị đó ngày hôm trước không phải đã lật đổ Tả đô ngự sử Vương Hòe hay sao? Hừ, lão hồ ly đó đúng là đáng đời!"

 Lão già chỉ im lặng lắng nghe, hồi lâu sau đặt chung xuống cất tiếng than: "Chao ôi, thời tiết gì mà kỳ cục quá! Việc tranh luận này chẳng qua là để thỏa lòng oán giận mà thôi, tranh giành cho lắm rồi cũng hướng người Kim xưng 'cha con' hay là xưng 'chú cháu', thật là tức cười, thật là tức cười!"

 Thở dài một hơi rồi tiếp: "Cả triều đình từ trên xuống dưới vất vả mãi mới đánh đổ được một tên Vương Hòe, chẳng qua chỉ là bắt một con rận trên đầu hổ mà thôi, nhưng chẳng phải lão hổ vẫn an nhiên nằm đó hay sao? Trước tiên lẽ ra phải nên bàn chuyện bảo quốc an dân trước đã. Lão thấy Trần Tả Nghị này đắc thế nhiều lắm là hai tháng mà thôi, chẳng qua cũng chỉ là khoác áo mới lên áo cũ, nhân dân trăm họ sao mà có thể trông cậy vào bọn họ được?" Nói xong lại than dài một tiếng, rồi nói với tiểu nhị: "Tính tiền ở quầy." Sau đó đứng dậy bước ra.

 Trầm Phóng nghe thấy lời của lão già này nói rất có đạo lý, không khỏi gật gù đồng ý, nếu chỉ dựa vào bọn văn quan học sinh này, triều chính vĩnh viễn không thể nào khá nổi. Ông mù kể truyện gần đó đã kể xong truyện Ngô Việt thời Xuân Thu, chỉ nghe ông ta nói: "Nói đến Phạm Lãi thấy nước Ngô đã bị diệt, Phù Sai tự tử, Việt vương báo xong đại thù, ông ta liền tìm gặp lại Tây Thi, hai người hoan hỉ hạnh phúc thế nào không cần phải nói. Tây Thi nói: 'Đại phu, thật không ngờ chàng và thiếp lại có ngày gặp lại.' Nàng trong lòng chất chứa tâm sự, mấy năm ấy trong lòng đã phải chịu khổ quá nhiều, nói xong che mặt nhỏ lệ, rồi định nhảy xuống hồ tự vẫn. Phạm đại phu vội chặn lại, dịu giọng nói: 'Tây tử, sự nghiệp cả đời của ta đã làm xong rồi, thành bại công tội thế nào, cứ để cho hậu thế bàn luận, bâu giờ ta chỉ muốn ngao du Ngũ hồ trọn đời trọn kiếp, sao nàng lại phải tự tận chứ?'"

 Vừa nói vừa nắm chặt lấy tay của Tây Thi, một là mưu sĩ tài cao, một là giai nhân tuyệt thế, tuy vết thương trong tim còn rỉ máu, nhưng cũng đã hiểu được nỗi khổ của thế gian, không cần phải nói dài dòng với nhau làm gì. Cùng ngày hôm đó Phạm đại phu từ quan bỏ trốn, trước khi đi viết một bức thư gửi cho tể tướng Văn Chủng. Trong thư viết: 'Chim hết rồi thì cung tốt phải cất đi, thỏ hết rồi thì chó săn bị giết. Việt vương cổ dài mỏ quạ, là người nhẫn tâm mà ghét kẻ có công. Chung lưng khi hoạn nạn thì được, chứ không thể cùng ở lúc an lạc. Sao ông còn không nhanh đi?' Ý tứ rõ ràng là chim đã hết rồi, đã đến ngày cất cung giết chó săn, công cao át chủ, sao bằng công thành thân thối. Văn Chủng vẫn còn chần chừ, đóng cửa suy nghĩ. Đột nhiên ngày hôm sau, Việt Vương gọi người đem tới cho ông ta một thanh kiếm, nói là: 'Văn thừa tướng đưa cho ta bảy kế sách để diệt Ngô, ta chỉ dùng có ba kế mà đã diệt xong nước Ngô, vậy còn bốn kế dư lại để làm gì? Nếu lưu lại nhân gian chỉ sợ gây hại cho quốc gia, hay là Văn tiên sinh hãy dùng chúng mà giúp tiên vương thi hành ở âm phủ phỏng có hơn chăng?' Rõ ràng là là có ý ép Văn Chủng phải tự sát. Văn Chủng thở dài một tiếng, chỉ nói ba chữ: 'Hối đã muộn!' rồi vung kiếm tự vẫn. Tiếc thay một vị danh thần, cuối cùng hồn xuống cửu tuyền, chẳng bằng Phạm Lãi tiêu diêu tự tại! Quý vị, Phạm đại phu hùng tài đại lược, mưu kế thâm sâu, thông minh tuyệt đỉnh, ai mà không thán phục chứ? Do đó vào thời Thần Tông của bản triều, Vương An Thạch thừa tướng mỗi khi nhớ đến cách xử thế của Phạm đại phu, không nhịn được phải ngâm câu: 'Vĩnh ức giang hồ quy bạch phát , tư hồi thiên địa nhập thiên chu' (Bạc đầu mà mãi giang hồ, Muốn về, trời đất gom vào thuyền đơn), cứ ngâm nga mấy lần như thế đến khi nhỏ lệ. Hiện nay bên dòng sông Ngô có Tam Cao Đình thờ ba vị cao nhân là Phạm Lễ, Quý Ưng, Lục Quân Mông, người đứng đầu chính là Phạm Đại Phu vậy."

 Trầm Phóng nghe ông ta kể chuyện, tuy ngôn ngữ thô lậu, chẳng qua chỉ thuật chuyện sơ lược đại khái, nhưng Phạm Lãi là người trước giờ y rất hâm mộ, lúc ấy không khỏi thở ra một hơi, nghĩ là Việt Vương Câu Tiễn tuy độc ác, nhưng vẫn có thể dung được người tài cho đến khi thành sự, nhưng thời nay bọn hôn quân gian thần lại không thể dung cho Nhạc tướng quân đến lúc đắc thắng khải hoàn, thật khiến cho người ta uất ức thống hận!

 Ông lão mù tiếp tục kể đến khúc chót: "Quý vị, có ai ngờ rằng anh linh của Phạm đại phu mấy trăm năm sau, lại rơi vào cảnh không chốn nương thân!"

 Trầm Phóng nghe qua lấy làm lạ, không biết người này đang nói chuyện gì đây? Chỉ nghe ông lão mù kế tiếp: "Tam Cao Đình ven sông Ngô chính là đất Ngô trước kia, không ngờ ngày nay biến thành 'Nhị Cao Đình', không còn là 'Tam Cao Đình' nữa. Chỉ vì mấy ngày trước có một vị học sinh ở đất Ngô Khúc Ngộ Hồng viết một bài thơ, nói là 'Ngô nhân bất giải vong quốc hận, khước từ Phạm Lãi cung đại cừu', ý nói Phạm đại phu chính là đại cừu của nước Ngô, người Ngô sao lại thờ cúng ông ta chứ? Thế là đám thư sinh đất Ngô họp lại bàn tán, cuối cùng quyết định dẹp bài vị của Phạm Lãi trong đình."

 Trầm Phóng nghe vậy trong lòng lạnh toát, bọn tú tài này chỉ lo chăm chăm bới móc chuyện cũ cách đây cả ngàn năm, tiếc là tuy nhớ rõ mối thù của Phù Sai, lại quên đi mối đe dọa áp sát biên cương trước mắt của quân Kim.

 Ông già mù lại kéo một bài hồ cầm, ho khan một tiếng rồi nói: "Tức cười là linh hồn của Phạm đại phu không được thờ ở Ngô, mà cũng không được thờ ở Việt. Tần thừa tướng lúc xem xét lại danh sách đưa vào Tiên Hiền Từ, liệt kê những hiền nhân, đã bỏ tên của ngài ra. Tại sao vậy? Tần thừa tướng nói: chỉ vì lúc lá thư để lại lúc ra đi, trách giận quân vương, nói với Văn Chủng cái gì mà Việt Vương cổ dài mỏ quạ, chẳng phải là ví quân vương với loài cầm thú hay sao? Tần thừa tướng nói: vua muốn tôi chết, tôi không thể không chết, đó chính là đại nghĩa vua tôi, Phạm Lãi thân là thần tử, mà chỉ biết khư khư giữ lấy cái mạng nhỏ bé của mình, ngao du giang hồ, đẩy quân vương vào thế bất nhân, người bất trung bất nghĩa như vậy, làm sao mà có thể phối thờ vào Tiên hiền chứ? Do đó đã không cho ngài vào danh sách trong Hội Kê Tiên hiền từ. Tần thừa tướng khổ tâm như vậy, vì muốn cho hậu thế về sau phải luôn giữ đạo thần tử."

 Lời bình phẩm đầy vẻ mỉa mai của ông lão, càng cho thấy rõ tính ham danh của Tần Cối. Trầm Phóng lúc đầu không biết chuyện này, nghe xong trong lòng liền nổi giận: đây là lý lẽ gì chứ? Sao hôn quân gian thần lại có quyền để định đoạt đâu là bất trung, đâu là bất nghĩa. Nghĩ đến đây lông mày chau lại, cất tiếng mắng: "Thúi lắm!"

 Y nói hai chữ đó cực to. Khách khứa trong lầu vốn dĩ không mảy may chú ý đến vợ chồng họ, lúc này đều ngoảnh đầu lại xem ai mà to gan lớn mật dám chửi Tần Thừa tướng là rắm thối như vậy? Tam nương tử biết tình hình không ổn, vội vã cười xoa dịu Trầm Phóng: "Tướng công không muốn thì thôi, chẳng qua thiếp chỉ nói chơi ấy mà." Mọi người nghe vậy, đoán rằng người vợ đã nói gì khiến ông chồng phật ý nên hắn mới nổi cáu chửi mắng. Chỉ lạ là trông y ôn văn nho nhã mà sao lời lẽ tục tĩu đến thế. Tam nương lại cười ngượng nghịu với xung quanh một cách đáng thương, ra ý tạ lỗi vì chồng nàng đã kinh động đến mọi người. Ai nấy ngoảnh đầu đi, bụng bảo dạ: Thô lỗ thế mà cưới được người vợ hiền lành dịu dàng biết bao!

 Trầm Phóng cũng sực nhớ, trên đất kinh kỳ này chắc Tần Cối có tai mắt ở khắp nơi, huống hồ hai vợ chồng họ đi tránh nạn mà y lại vừa hành xử thất thố quá. Y cảm kích nhìn vợ, khẽ cười bảo: "Tự nhiên nàng lại biến ta thành hạng vũ phu rồi!"

----------Hồi 1 còn nữa----------

Y đang nói, dưới chân cầu thang bỗng vẳng lên tiếng động bùm bùm nặng chịch. Thực khách trên lầu cùng kinh ngạc ngoảnh nhìn ra đầu cầu thang, không hiểu nhân vật nào đi lên mà có khí thế dời non chuyển núi như vậy. Tam nương tử nghiêm mặt, cau mày nói: "Người này bị thương rồi. "

 Trầm Phóng ngạc nhiên: "Sao nàng biết?"

 Tam nương tử chỉ đáp khẽ: "Vì thiếp biết. " rồi tiếp tục nghiêng tai lắng nghe.

 Khuôn mặt nàng càng lúc càng lộ vẻ lạ lùng, theo dõi chốc lát nàng lẩm bẩm: "Bên trái nhẹ bên phải nặng, bước theo Vong ưu bộ trong Côn Luân Liễu thương Thập bát thức, phải chăng là do bị thương dưới be sườn nên gây tổn hại đến gan và lá lách? Hơi thở không đều, lúc dài lúc ngắn, chắc chắn bị tắc ở ngực, có lẽ là trúng chưởng lực nội gia. Cứ bước một bước lại ngừng một bước, cứ bước một bước lại đề khí lấy sức, xem chừng còn bị ngoại thương rất trầm trọng nữa... Kỳ quái thực đó, thương tích đầy mình thế mà chưa gục ngã, mà vẫn đi được hay sao?"

 Trầm Phóng chưa thấy vợ mình tỏ ra tinh thông y lý bao giờ, nay càng nghe càng lấy làm lạ, bèn đưa mắt ra phía cầu thang, vừa lúc trông thấy một người đi lên. Người ấy đi cực chậm, lề mề mãi mới lên tới nơi, thực đáng ngạc nhiên vì đó là một hán tử trông rất khỏe khoắn lẫm liệt!

 Trầm Phóng chăm chú quan sát. Người vừa lên lầu tuổi cỡ trung niên, diện mạo xấu xí, chân tay thô kệch, mình vận một bộ áo thô màu nâu, tướng tá dềnh dàng, kể thì cũng chẳng phải dạng cao lớn cho lắm, song từ cử chỉ cho chí vóc dạc đều toát ra một thứ uy thế mạnh mẽ khiến người ta choáng ngợp. Tuy vậy mặt y vàng ệch, hai má xanh tái, con ngươi ngầu đỏ. Trầm Phóng thoáng nhìn là biết Tam nương chẩn đoán đúng, người này bị thương thật rồi.

 Hán tử không đi một mình, bên sườn trái y còn cắp một đứa trẻ khoảng bảy tám tuổi, đứa này tương đối gầy nhỏ, đầu tóc rũ xuống nên không nhìn rõ nét mặt. Cả hai đều lấm lem bụi đất, đủ thấy họ vừa trải qua một quãng đường dài bôn ba. Hán tử nhìn quanh lầu rồi im lìm bước về phía một chiếc bàn bỏ trống kê sát vách. Y vừa quay mình đi, ai nấy cùng choáng váng, có kẻ còn buột kêu "Ối! " Thì ra ở lưng người đó có một ổ vết thương lớn lắm, máu tươi vẫn chảy dầm dề, gân da nát be bét, thịt phòi cả ra ngoài, hệt như bị ai dùng móng sắt mà cào bửa bươi vầy, không ngờ y còn chịu đựng được! Thịt nát và vải rách dính bết vào nhau trông đến khiếp, khó lòng mường tượng nổi là đau đớn tới mức nào, có kẻ phải vội vàng cúi đầu xuống không dám nhìn. Ai nấy lờ mờ đoán ra lai lịch của đại hán này, ắt chẳng phải hạng giang dương đại đạo thì cũng là bậc hảo hán giang hồ.

 Hán tử vừa ngồi xuống liền kêu "Tiểu nhị", giọng trầm thấp, khẩu âm Trung châu. Chắc là người phương bắc. Tiểu nhị thấy y lên lầu đã tim đập chân run, nay nào dám trù trừ chậm trễ, liền vội vàng lại gần thưa:

 - Xin khách quan phân phó!

 - Cho mua chịu mười lăm cân rượu nóng!

 Hán tử nói câu này với giọng rất thấp, nhưng cực chậm và rõ ràng, như sợ tên hầu bàn nghe không thủng. Điếm tiểu nhị vừa hứng lọt tai chữ "mua chịu" thì bủn rủn cả người, điều mà gã sợ nhất đấy - cái tên ôn thần này mới mở miệng đã đòi ăn quịt, gã đâu dám cho hắn nợ, mà cũng đâu dám đòi tiền hắn?

 Chần chừ một lúc lâu, tiểu nhị sợ sệt đáp:

 - Ực... quy tắc của quán chúng tôi là tiền trao cháo múc, không cho khách mua chịu. Chúng tôi dốt nát, chưa có hân hạnh được quen biết quý quan, xin chớ trách!

 Gã vừa trần tình vừa chuẩn bị sẵn một bên má đợi tát hoặc đợi chửi, bụng thì tính toán tìm kế thoát thân nếu chẳng may đại hán nổi điên lên. Nhưng người khách vẫn một mực điềm tĩnh, chỉ ngẩng đầu cao hơn đôi chút, giọng cố ý nén xuống thật thấp như sợ ảnh hưởng đến vết thương trên mình:

 - Ta bình sinh không trốn nợ ai cả, cho mua chịu đi!

 Lúc y ngẩng đầu lên, mọi người trông thấy đôi mắt trầm buồn trên khuôn mặt ấy, bất giác cùng nghĩ đến bốn chữ "anh hùng khốn khổ".

 Chút can đảm rơi rớt của tiểu nhị đã nguội hẳn, gã như chìm lấp dưới cái khí thế ồ ạt không giận mà có uy của người kia. Nếu không phải vì chưởng quầy khắc nghiệt, ắt hẳn gã đã bưng luôn cơm rượu lên cho được việc.

 Trầm Phóng nghe giọng nói điềm đạm của hán tử, nhận ra đó không phải hạng hung đồ ác sát. Tuy bị thương nặng nhưng điệu bộ vẫn hiên ngang tiêu sái, dạt dào sinh lực, khiến người ta phải giật mình. Thực tình ở y có cái gì đó giống một dị sĩ giang hồ hơn, và lạ là bị thương nặng thế mà y còn đòi uống rượu. Lúc y nói rành mạch hai chữ "mua chịu", Trầm Phóng đã ngấm ngầm tán thưởng. Cứ thử nghĩ mà xem, trông y uy vũ như thế, nếu y cứ gọi đồ ăn thức uống đánh chén thỏa thuê xong phủi mông cắp đít đi thì đố cái đám phục vụ ở quán này ngăn cản được, nhưng y không làm vậy, y nói rõ là "nợ", đủ thấy con người đường hoàng đĩnh đạc, không ưa lối khuất tất lấp liếm. Trầm Phóng những muốn đứng ra trả tiền hộ đại hán, song le còn ngại nỗi đường đột. Đúng lúc ấy Tam nương tử đã lên tiếng "Tiểu nhị! "

 Tên hầu bàn tóm ngay lấy cơ hội, vội vàng ngoảnh lại, Tam nương tử điềm tĩnh bảo: "Mang rượu lên cho họ! "

 Tiểu nhị vẫn ngập ngừng, Tam nương tử tủm tỉm, "Ta trả. " Nói rồi nàng nhìn sang hán tử nọ, mắt đọng nét cười, nhưng đại hán nhìn trả lại với ánh mắt lạnh như băng, không hề tỏ ý cảm ơn. Tiểu nhị thấy có người nhận trả tiền thì vội vàng chạy ào xuống lầu, chưa đến một khắc đã khệ nệ bưng rượu lên. Ai cũng lấy làm lạ, thương tích cùng mình mà còn dám nốc rượu! Mười lăm cân rượu nóng chắc cũng đủ chuốc say vài người! Để xem hắn uống thế nào!

 Hán tử nọ huy chưởng bật niêm đàn rượu, ghé mũi ngửi rồi cười nhạt: "Xưng xưng là rượu cất chín năm, thực ra nhiều lắm bảy năm là cùng! Xem chừng Hảo Đăng lâu cũng chỉ đến thế mà thôi. "

 Đoạn y bỏ đàn rượu đấy, quay sang nhấc đứa bé đặt lên một cái ghế đẩu. Mọi người lúc này mới nhìn rõ, thằng bé chừng bảy tám tuổi, mũi nhỏ mắt nhỏ, người đã chả xinh xẻo gì lại gày gò quá đỗi, in như một con gà nhép rụng lông. Ai nấy đâm nghi, chắc tên đại hán này đã bắt cóc nó. Đứa nhỏ bị xách đi suốt một chặng đường dài, mặt mũi toàn là đất cát, quần áo cũng rách xơ mướp chẳng khác nào ăn mày. Mặt nó trắng bệch, hơi thở rất yếu. Hán tử lộ vẻ buồn rầu. Ngập ngừng chốc lát, ánh mắt y chuyển đi chuyển lại giữa đứa nhỏ và đàn rượu, cuối cùng như đã hạ quyết tâm, y xoa bàn tay lên ngực đứa trẻ, vận kình ấn bóp một lát. Những dẻ sườn mỏng mảnh như muốn gãy tan dưới sức ép của bàn tay to lớn ấy. Sau mỗi nhịp ấn, mặt y lại xám đi, còn khuôn mặt đứa nhỏ thì hồng hào lên. Tam nương tử quan sát một lúc rồi lẩm bẩm: "À, Phản chiếu đại pháp, cách này hao tổn nguyên khí lắm. " Hán tử thao tác càng lúc càng nhanh, đứa nhỏ bắt đầu khò khè trong họng, nhưng hơi thở còn đứt đoạn rời rạc. Cuối cùng y vỗ một chưởng vào lưng nó, xem chừng dụng lực hơi nặng, thằng bé hộc lên, gan phổi trồi dậy như muốn lòi ra. Kể cũng lạ, nó vẫn không hề hấn gì. Đại hán "xuỳ" một tiếng, thằng bé liền khạc ra một cục đờm to màu xanh, mặt mày nhăn nhúm, rồi bắt đầu ho sù sụ, ho một hồi lại nôn oẹ một hồi. Đại hán đặt nó nằm sấp trên đùi mình, chỉ thoáng chốc, dưới đất đã có một đống đờm dãi xanh len lét. Mọi người đều cau mày. Đứa nhỏ khạc nôn rất lâu mới xong, những vật bẩn trong phổi đều đã bị tống ra hết, sắc mặt trở nên sống động hơn. Lần đầu tiên thấy hán tử nhếch mép cười, y gật đầu bảo nó, "Lục nhi, tỉnh lại rồi hả? Mệt nhỉ?"

 Đứa nhỏ xem chừng rất hiểu biết, mau miệng đáp ngay: "Lục nhi không mệt, bá bá mới mệt. "

 Hán tử nhẹ nhàng bảo: "Lục nhi! Bây giờ bá bá trị thương cho con, thương thế của con sẽ không kéo dài nữa. Mặc dù có thể rất đau, nhưng cha con là một anh hùng, ta tin con không ngại gì đau đớn. "

 Lục nhi gật đầu đáp: "Đúng, đúng ạ. Lão già đó nói hễ động đến chân khí là sẽ, là sẽ..." Nó không nhớ ra những từ kế tiếp, nên lắp bắp đôi chút rồi thôi. Hán tử cười cười, giúp thằng bé cởi quần áo giày dép. Sau khi thằng bé bị lột sạch sành sanh, trước mắt mọi người hiện ra một thân thể vừa nhỏ vừa bẩn, toàn xương xẩu chả thấy thịt đâu, ở các đốt và khớp xương đầy những quầng tím tái, như thể bị tra tấn khảo đả. Kẻ nhẫn tâm nào nỡ hạ thủ với một đứa nhỏ thế này? Mọi người đều sững sờ nhìn.

 Thằng cu nem nép khép hai chân lại che chỗ xấu, nó hơi ngượng, nhưng không phản kháng. Hán tử quay sang đàn rượu, thở dài nhắm mắt, sục cả hai tay vào trong. Mọi người ngạc nhiên. Hắn ta đòi mười lăm cân rượu nóng té ra chỉ để rửa tay thôi ư?

 Hán tử nọ ngâm tay chừng nửa khắc. Tam nương tử do dự thốt: "Có phải là Tam dương chân khí không nhỉ?"

 Một lúc sau, từ miệng đàn rượu có khí nóng cuồn cuộn bốc lên, rượu đã sôi sùng sục, gió đưa hương rượu tạt đi, khuếch tán khắp tầng lầu. Lúc đó hán tử mới thu tay về, quay sang nắm lấy thằng bé. Thằng bé nghiến răng, cắn môi, không nén được bật lên một tiếng hự, chắc là đau lắm. Nhưng nó gồng mình chịu đựng. Thoạt tiên không có gì lạ, dần dần ngũ quan nó đều nhăn nhúm cả lại, tuy không dám kêu, song thân hình bắt đầu rúm ró, toàn thân cũng bốc ra ngùn ngụt nhiệt khí hệt như tắm suối nước nóng. Hán tử nọ cứ nhè những chỗ bị thương ở các khớp xương nó mà xuống tay, và xuống tay rất mạnh. Không khí trong lầu sực lên mùi thiu lẫn với mùi tanh. Cứ mỗi lần bàn tay to lớn cử động, chỗ máu thịt lầy nhầy sau lưng hán tử lại quằn quại trông phát hãi, nhiều kẻ nhút nhát ngoảnh mặt không dám nhìn.

 Hơi rượu quanh mình đứa nhỏ mỗi lúc một dày, xong từ dày chuyển sang mỏng, rồi từ mỏng lại dày lên. Hán tử liên tục ngâm tay vào hũ rượu rồi ấn lên thằng bé, như thế nhiều lần, mặt y mỗi lúc một vàng ệch, lông mày cau rúm, đứa bé rên nhỏ dần, khuôn mặt từ từ tươi lên. Rượu trong đàn chắc đã sôi và bốc hơi quá nửa, bùn đất trên người đứa nhỏ rơi lả tả theo những động tác tay của đại hán, để lộ phần da thịt mịn màng, khuôn mặt nó trở nên hồng hào, các khớp xương kêu lục cục liên tục, chẳng biết là do vết thương bình phục hay do người đã ngấm rượu.

 Tam nương tử khẽ nói: "Thì ra vẫn là chân khí của phái Thanh Thành, nhưng không phải Tam dương mà là Khoái lỗi. Ngoài người đó hỏi còn ai biết vận dụng thứ đại pháp này nữa? Vậy thì, đúng là ông ta đấy ư?"

 Trầm Phóng ngạc nhiên: "Tam nương, cả ngày nay nàng lẩm bẩm những gì vậy? Ông ta là ai?"

 Tam nương sực tỉnh, mỉm cười đáp gọn: "Thiếp cũng chỉ đoán thôi, ông ta giống một dị khách thiếp đã nghe nhắc đến dạo xưa". Trầm Phóng càng ngạc nhiên, y chưa bao giờ nghĩ vợ mình lại có kiến thức giang hồ nhiều đến thế. Tam nương tử cau mày than: "Y bị thương như vậy mà còn mạo hiểm chữa trị cho người, không sợ nội thương càng nặng thêm sao?" Giọng nàng rất nhỏ chỉ đủ mình nghe, Trầm Phóng biết chưa phải lúc nàng muốn giải thích, nên cũng không hỏi gì nữa.

 Qua thời gian chừng xong nửa bữa cơm, hán tử mới dừng tay, đợi nhiệt khí quanh mình đứa nhỏ tan đi, y mặc lại quần áo cho nó. Khuôn mặt y ảm đạm kiệt quệ, áng chừng thương thế càng trầm trọng. Sau lưng lại vỡ toác thêm một vết thương mới, máu tươi phún ra. Lúc đó tiểu nhị bưng một mâm to tướng gồm màn thầu, mấy món ăn đậm phong vị phương bắc và một bát cháo thịt vịt băm nhỏ tới, đều do Tam nương tử nhằm lúc không ai để ý dặn khẽ gã chuẩn bị. Hán tử chẳng thèm nhìn xem thức ăn có những gì, đợi đứa nhỏ thở đều đặn lại, y xúc cháo vịt cho nó ăn.

 Trong lầu chợt vang lên một tiếng "khục", đó là lão già mù hắng giọng để gợi sự chú ý của mọi người. Vốn dĩ lúc kể hết truyện lão định bảo đứa cháu gái đi xin tiền quan khách thì hán tử kia lại vác xác lên làm xao lãng không khí đi. Bây giờ mà mở miệng xin tiền thì e bất tiện, lão đành tựa vào cô cháu gái dò dẫm từng bàn một mời chào: "Khách nhân có muốn chấm một bài từ không?" Còn ai tâm trí đâu mà nghe lão hát hò nữa, có người cho hai tiền, có người không thèm bận tâm, chỉ xua xua tay đuổi ông cháu lão đi. Lúc hai ông cháu gần đến bàn Trầm Phóng, trong cái giỏ của cô bé mới có chừng mười mấy tiền. Mắt ngấn lệ, cô lườm về phía hán tử nọ với vẻ oán trách. Đều tại y mà công kể truyện cả sáng của ông già đi tong hết. Lão mù nghẹn ngào van vỉ: "Khách nhân, xin chấm một bài đi. " Trầm Phóng thấy ông cháu nhà nọ quá đỗi bần hàn, trời thu tháng Chín mà cô bé gái chỉ mặc phong phanh một tấm áo hoa mỏng manh; họ nói giọng Sơn Đông, ắt hẳn là nạn dân phương bắc lưu lạc xuống đây, y đem lòng thương cảm, bèn khẽ gật đầu ra hiệu với Tam nương tử. Cô bé con cũng đã nhận ra khuôn mặt hiền hoà lương thiện của hai vợ chồng, tựa như biết hôm nay sẽ có cơm ăn no, bèn rụt rè hỏi: "Khách quan muốn nghe không ạ?"

 Tam nương hỏi: "Con biết hát gì nào?"

 Trầm Phóng ngẩn người, không ngờ Tam nương tử lại bảo cô bé hát thật. Cô bé trả lời: "Cháu chỉ có một vài bài ngăn ngắn thôi. "

 Tam nương tử cười bảo: "Vậy con cứ chọn lấy một bài con thích. "

 Cô bé ngẫm nghĩ rồi nói nhỏ với ông. Lão mù bèn dựng hồ cầm lên. Chiếc đàn đã cũ lắm, nghe hơi lạc điệu, nhưng giọng cô bé thì khá tốt, cô đợi nhạc dạo rồi uyển chuyển cất tiếng hát một bài ca dao Lạc Dương, khẩu âm không chuẩn, chắc học lỏm được trên đường chạy nạn:

 Xuân đi rồi,

 Đa tạ người thành Lạc!

 Liễu yếu phơ phất theo gió,

 Sương rủ như đẫm khăn bông,

 Ngồi một mình mặt ủ mày chau.

 Bài từ gợi tả phong cảnh Lạc Dương. Trong số thực khách trên lầu có khá nhiều người là dân vùng Giang Bắc, nhớ lại đất cố đô Trung châu nơi mẫu đơn rực rỡ khoe sắc, sinh hoạt phồn hoa sầm uất, khách du nườm nượp dập dìu, đến nay thì đã về tay nhà Kim cả, ai nấy đều ngậm ngùi. Hán tử nọ cũng phải thở dài. Cô bé giọng trong như ngọc khua, hát liền ba lượt mới ngừng. Tam nương tử vốn gốc Giang Bắc, nghe khúc ca nhớ chuyện cũ, mất một lúc mới hồi tâm lại hiện thực, nàng lấy trong đãy ra mấy chục tiền đưa cho cô bé. Cô bé tạ lấy tạ để, định rời đi, bỗng Tam nương tử vẫy tay, gọi cô bé quay lại.

 Cô bé ngẩn người. Tam nương tử ngắm kỹ khuôn mặt cô một lát rồi chạm nhẹ vào má, lắc đầu nói: "Dạo đó ta cũng ngần này tuổi đây! " nói đoạn thở dài, hồi tưởng một chuyện cũ bi thương nào đó, cuối cùng nàng gỡ chiếc trâm trên đầu mình xuống, vén tóc mai cô bé ra sau tai, dịu dàng hỏi: "Mẹ con đâu?"

 Cô bé lắc đầu, ý nói mẹ đã mất. Tam nương tử trầm ngâm chốc lát rồi thở dài: "Cũng là một kiếp khổ. " Nàng cài cây trâm vẫn cầm ở tay lên đầu cô bé và dặn: "Tóc tai con rối tung hết cả, con cài cây trâm này vào đi. Nó không đáng tiền đâu, nhưng cũng có ích. Con đừng bất cẩn đánh mất nhé. "

 Cây trâm làm bằng gỗ, dùng đã lâu nên lên nước bóng loáng, hình dáng cũng rất đơn giản, không hiểu sao Tam nương lại nâng niu nó như thế. Trầm Phóng thắc mắc nghĩ: "Một cây trâm gỗ thì đáng kể gì? Tam nương xưa nay tính tình vui vẻ phóng khoáng, sao bây giờ bỗng trở nên rắc rối lắm chuyện vậy nhỉ?" Lúc ấy đại hán ở đằng kia nửa như vô tình nửa như cố ý cũng liếc mắt về mái tóc cô bé, có dáng suy tư.

 Tam nương lại cẩn thận dặn dò lần nữa: "Trên cây trâm này có khắc mấy câu... Con biết chữ không? Nếu không thì phải xem ai biết mà theo học người ta, học cả hát nữa. Sau này... chưa chừng có ích cho con, đừng đánh mất đó. "

 Cô bé lạy tạ lần nữa rồi đi.

 Thấy đứa bé đã ăn xong bát cháo thịt, đại hán vỗ vai nó hỏi: "Tiểu Lục nhi, mệt không con? Chúng ta phải lên đường thôi. Nói cho bá bá biết, con có sợ không nào?"

 Đứa nhỏ phấn chấn hơn lúc nãy nhiều, nó lắc đầu, đáp giọng dứt khoát: "Con không sợ! "

 Hán tử gật đầu: "Đúng, đừng sợ. Nếu có kẻ xấu đuổi theo thì bá bá sẽ giết chúng. Sáng hôm nay bá bá giết mấy đứa?"

 Đứa nhỏ tươi mặt, xoè bốn ngón tay ra đáp: "Bốn ạ. "

 Đại hán nở nụ cười hiếm hoi: "Đúng rồi, bốn đứa. Con đếm rất chính xác, chứng tỏ con không sợ. " Đoạn y trở tay, cánh tay bèn đổi hướng khớp quay xuôi ra sau lưng, đó là công phu Thông châu Thông tý quyền, mà chỉ e là Chưởng môn của Thông tý quyền Hà Hiểu Dũng cũng không luyện được trình độ quặt xoè như ý đến mức thế. Tam nương tử thầm thở dài, quả nhiên danh xứng với thực. Lại nói hán tử trở hướng tay giật tung những mẩu vải rách dính vào vết thương trên lưng ra, máu vốn đã khô dính bết vào vải, vải thì như mọc từ thịt ra, y xé mạnh như thế lại tước đi từng mảng thịt nữa, đau khác nào xé gan xé phổi, thế mà mặt mày y không hề đổi sắc, vẫn nói chuyện bình thường với đứa bé. Vết thương sau lưng cứ bửa mãi ra, bắt đầu lộ cả xương trắng nhởn. Hán tử vẫn thong thả dứt cho kỳ sạch vải rách dính ở vết thương, xong xuôi mới thọc tay vào chỗ rượu còn sót lại trong đàn, ngầm vận huyền công, qua thời gian chừng tàn một cây hương, hơi rượu lại bốc lên nghi ngút, y bèn đỡ cái vò lên dốc thẳng vào vết thương. "Xèo" một tiếng. Tam nương hiểu y muốn dùng tửu kình để chống nhiễm trùng cho vết thương, nhưng đám thực khách thì rú lên, có kẻ ruột gan lộn mửa. Hán tử nọ nhúc nhích khoé mép. Mọi người còn đương kinh ngạc, y đã nhấc bổng đứa bé lên bỏ đi thẳng, không thèm nhìn ai lấy một cái.

 Trầm Phóng thấy y hành sự cương quyết gan dạ, nhất là giữa nơi đông người thế này mà dám nói thẳng là đã "giết mấy người", đủ thấy làm việc hào hùng khẳng khái không thẹn với lòng, y liền sinh lòng ngưỡng mộ. Thấy hán tử dợm bước, y vội vàng đứng dậy gọi: "Nhân huynh! "

 Người đó chẳng màng bận tâm, vẫn một mực đi phăm phăm xuống lầu, Trầm Phóng vội vàng chạy theo. Người nọ vụt xoay mình, ngoảnh đầu lại, mắt rực hàn khí, nhưng vẫn không hé răng. Trầm Phóng lạnh buốt người, y gượng mỉm cười, lẳng lặng cởi tấm trường bào của mình rồi trỏ trỏ vào vết thương của hán tử bảo: "Để người ngoài nhìn vào đỡ sợ, " nói rồi nâng hai tay đưa sang. Hán tử liếc mắt nhìn tấm áo, nhìn Trầm Phóng, rồi lại nhìn tấm áo, ngẫm nghĩ chốc lát, y nói cộc lốc: "Vốn dĩ chẳng cần, " ngừng một lúc, y vẫn nhận lấy choàng lên người, cũng chẳng bận tâm xem có vừa không, càng không hé miệng cảm ơn, y ôm đứa bé rảo bước đi mất.

------Hết hồi 1-------

Thơ từ trong truyện là do chính tác giả viết, do vậy rất khó mà dịch . Bọn tại hạ miễn cưỡng dịch tạm, mong các độc giả góp ý cho:

 Bài 1:

载披澜唱楚些

长河南北天断绝

不信此心犹梗梗

请看天日昭如揭

回眸

顾 久离别

缇骑宁有是非耶

满怀冰玉一杯酒

忆初雪旧年节

  

--

调寄《鹧鸪天》

 Thập tải phi lan xướng sở ta

 Trường hà nam bắc thiên đoạn tuyệt (1)

 Bất tín thử tâm do ngạnh ngạnh

 Thỉnh khán thiên nhật chiêu như yết (2)

 Hồi mâu cố, cửu ly biệt

 Đề kỵ (3) ninh hữu thị phi dã

 Mãn bôi băng ngọc nhất bôi tửu

 Mãnh ức sơ tuyết cựu niên tiết

 (Điệu từ "Giá cô thiên")

 Dịch nghĩa:

 Mười năm rẽ sóng hát Sở ca

 Trường giang phân đôi trời nam bắc

 Chẳng tin dạ này mãi son sắt

 Hãy nhìn xem nắng trời vời vợi

 Ngoảnh đầu, ly biệt bao năm

 Đề Kỵ gây bao chuyện thị phi

 Chung băng chén ngọc rượu đầy tràn

 Nhớ mãi buổi sơ tuyết năm xưa

 (1) Sông Trường Giang chia đôi Bắc Nam, Bắc Kim và Nam Tống

 (2) Mặt trời chiếu sáng: câu nói của Nhạc Phi trước khi bị chém, ý nói lòng trung của ông có trời đất chứng giám

 (3) Đề Kỵ: một tổ chức hùng mạnh của triều đình, thân Tần Cối, đàn áp nghĩa sĩ.

 Bài 2:

 Bình sinh Thái Hồ thượng

 Đoản trạo kỷ kinh quá,

 Ư kim trùng đáo hà sự?

 Sầu tỉ thuỷ vân đa.

 Nghĩ bá hạp trung trường kiếm,

 Hoán thủ thiên chu nhất diệp,

 Quy khứ lão ngư thoa,

 Ngân ngải phi ngô sự,

 Khâu hác dĩ tha đà.

 Quái tân lư,

 Châm mỹ tửu,

 Khởi bi ca:

 Thái bình sinh trưởng,

 Khởi vi kim nhật thức can qua!

 Dục tả tam giang tuyết lãng,

 Tịnh tẩy hồ trần thiên lý,

 Vô vi hoán thiên hà.

 Hồi thủ vọng tiêu hán,

 Song lệ truỵ thanh ba.

 Tạm dịch:

 Thuở xưa trên Thái Hồ

 Chèo khua bao tà nguyệt

 Cuối cùng còn gì đây?

 Sầu nhiều như mây nước

 Giấu kín trường kiếm trong hộp

 Đổi lấy một mảnh thuyền con

 Quay về áo tơi đánh cá

 Hoạn lộ chẳng màng chi

 Núi sông không như trước

 Thái cá lư làm nem

 Châm rượu ngon vào chén

 Cất khúc bi ca:

 Lớn lên thuở thái bình,

 Nay mới thấm sầu binh lửa.

 Muốn xua sóng tuyết ba sông

 Tẩy sạch bụi trần vạn dặm,

 Để thiên hà tự xoay vần.

 Ngẩng đầu nhìn trời cao,

 Ròng ròng đôi dòng lệ.

BÔI TUYẾT HỆ LIỆT

 BỘ THỨ NHẤT - MƯA ĐÊM GÕ XUỐNG SEN VÀNG

 HỒI 2 - CHUỶ THỦ

 Phúc Vũ và Phiên Vân

 Dịch tặng Tay Doc đại ca

 Ăn xong bữa, hai vợ chồng Trầm Phóng đi đến hàng xe trong thành để mướn một cỗ xe lừa, không chần chừ nán lại mà lập tức phân phó xa phu đánh xe thẳng đến huyện Phú Xuân. Tiền thuê cỗ xe này là hai lượng bạc. Trầm Phóng vốn là người đọc sách không quen xử lý các chuyện lặt vặt, mọi giao dịch đều do Tam Nương ra mặt lo liệu. Hai người họ lần này ra khỏi nhà là để lánh nạn, do đó đi đâu cũng chưa có ý định rõ ràng. Thêm vào Tam nương tuy là nữ lưu, nhưng tính tình phóng khoáng, hành lý gọn nhẹ, chỉ có một tay nải gói ghém y phục thay đổi hàng ngày của hai người, nên đi lại trên đường rất nhẹ nhàng thoải mái.

 Lên ngồi trên xe rồi, Trầm Phóng mới cười nói: "Đã đợi cả nửa ngày rồi mà nàng vẫn chưa mở miệng trách móc gì ta cả."

 Tam Nương à lên một tiếng, biết là y muốn nói đến chuyện tặng áo trên tửu lâu, nàng liền mở tay nải lấy ra một tấm áo lụa màu lam khoác lên người Trầm Phong, khẽ mỉm cười nói: "Chàng kết giao được với một chí sĩ chí khí lỗi lạc như vậy, thiếp làm sao mà trách chàng được chứ? Chàng coi thiếp là người nhỏ nhen vậy hay sao? Nếu không phải là chàng giành mất, không chừng thiếp mới là người đầu tiên kết giao với y đó."

 Trầm Phóng nghe vậy không khỏi cảm kích nắm lấy tay của Tam Nương. Bên ngoài thành non xanh nước biếc, hai bên đường đồng ruộng mênh mông, sau cơn mưa không khí trong lành thoáng đãng, Tam nương thấy Trầm Phóng cao hứng, tâm tình cũng nhẹ nhàng thoải mái, cảnh do tâm sinh, trời sáng nước trong, trong cỗ xe lừa vợ chồng ân ân ái ái, chẳng khác nào là đang ở trong cảnh thần tiên.

 Đang ngắm cảnh, đột nhiên có một cỗ xe khác từ phía sau sắp đuổi kịp theo xe của Trầm Phong, cỗ xe này chạy nhanh vun vút, trong chớp mắt đã vọt lên ngang hàng, tên lái xe liếc nhìn sang xe Trầm Phóng, rồi vung roi ngựa đánh lên trời đánh trót một tiếng.

 Một hồi lâu sau, cỗ xe này đã chạy mất tăm, chỉ nghe từ phía trước ẩn ẩn truyền lại tiếng roi ngựa quất chíu chíu, là do tên xa phu này đánh ra. Có thể thấy kỹ thuật đánh xe của tên này khá điêu luyện, nếu không thì tiếng roi ngựa cũng không vang xa như vậy. Tiếng vang rất đặc biệt, tên xa phu của xe Trầm Phóng nghe vậy, khóe môi chợt lộ nét cười. Tên xa phu này bề ngoài nhìn rất chất phác, đột nhiên nổi hứng cầm roi trong tay giơ cao quá đầu, ngọn roi như vươn dài ra trên không trung lần lượt quay tít ba vòng, ngọn roi theo lực cổ tay của tên xa phu quất vào không trung ba tiếng trót trót trót sắc lạnh, chim bên đường nghe thấy giật mình bay vụt đi. Con lừa kéo xe vểnh tai, bốn vó bắt đầu tăng tốc phi nhanh hơn. Trầm Phóng chợt thấy bàn tay của Tam nương run rẩy trong tay mình. Y không biết vì sao nàng lại sợ hãi, nhìn sang nàng dò hỏi thì chỉ thấy sắc mặt của nàng đã trở nên trắng bệch.

 Trầm Phóng ân cần hỏi: "Nàng sao vậy?"

 Tam nương tử lắc đầu không nói, hai mắt dán chặt vào sau lưng tên xa phu, nét mặt vụt trở lạnh lùng. Trầm Phóng nhìn quanh không thấy ai, tiện tay ôm Tam nương vào lòng an ủi. Tam Nương khẽ nghiêng đầu, mặt lộ vẻ khác lạ, kề miệng vào sát lỗ tai của y nói: "Có chuyện phiền phức rồi."

 Trầm Phóng lấy làm lạ định hỏi lại thì Tam nương tử đã lắc đầu, khẽ hất cằm ám chỉ tên xa phu đang đánh xe phía trước. Trầm Phóng vẫn còn nghi hoặc chưa hiểu gì, Tam nương thò tay vào bao quần áo rồi rút ngay về, hình như đã lấy ra thứ gì đó giấu vào tay áo không biết là vật gì. Một lúc sau, bánh xe trước vấp phải ổ gà, cỗ xe bị xóc nảy lên, Trầm Phóng ngả người qua một bên, tình cờ chạm vào người Tam nương mới phát hiện ra không biết từ lúc nào trong tay áo nàng đã giấu một vật vừa cứng vừa lạnh.

oOo

 Chưa đến một khắc sau cỗ xe đã đi vào một khu rừng rậm. Trong rừng toàn là cây tùng mọc um tùm, lúc này Trầm Phóng đã thấy có gì đó không ổn. Đây rõ ràng không phải là đường cái, chẳng có bóng người qua lại, cực kỳ hoang vu, không biết tên xa phu vì sao lại đánh xe tới đây. Y liếc mắt sang Tam Nương, mặt đầy vẻ ngờ vực, vừa định mở miệng hỏi xa phu thì Tam nương tử đã kéo tay áo y ra hiệu là không cần, nàng chỉ chăm chắm nhìn qua cửa sổ quan sát bên ngoài. Đột nhiên nghe tên xa phu kêu ô một tiếng lớn, con lừa hí lên một hồi rồi dừng lại đột ngột làm hai người giật mình ngả đổ về phía trước. Tam nương vén rèm hỏi: "Có chuyện gì?"

 Tên xa phu liền chỉ tay về phía trước, chỉ thấy có bốn người đứng chặn ngang đường. Bọn người này đứng ở giữa đường như là sợ cỗ xe của Trầm Phóng sẽ chạy mất, xa hơn một chút thì có một cỗ xe đỗ lại, trên xe treo một lá cờ nhỏ, trên lá cờ có vẽ năm vòng tròn, một vòng đỏ như máu, một đen như mực, một màu chàm, một tím, một xanh biển. Trần Phóng giật mình kinh ngạc: y chưa từng nhìn qua lá cờ trên xe nào kỳ lại như vậy. Trên cờ còn thêu thêm bốn chữ nhỏ: Luân Hành Thiên Hạ, chiếc xe này nhìn khá giống với chiếc xe đã vượt qua bọn Trầm Phóng khi nãy, nhưng lá cờ này rõ ràng tới bây giờ mới vừa được kéo lên.

 Tam Nương ngoài mặt có vẻ ngạc nhiên, nhưng không hề cất tiếng hỏi bọn người đó vì sao lại đi cản đường, chỉ nghe người đối diện cao giọng hỏi: "Trong xe có phải là phu phụ Trầm Phóng Trầm tiên sinh ở Trấn Giang phủ hay không?"

 Trầm Phóng nghe hỏi vậy, bất giác cúi người chắp tay đáp: "Không sai."

 Người đối diện mặt lộ vẻ vui mừng bước lên phía trước. Tay y mân mê hai viên bi sắt, va chạm vào nhau kêu cạch cạch. Tam nương không khỏi thở dài, Ngạo Chi chẳng có chút lịch duyệt giang hồ nào, chỉ mới nói vài câu mà đã khai ra hết lai lịch cho bọn họ.

 Mấy tên đứng đối diện nhìn qua thì biết ngay chẳng phải là kẻ hiền lương gì. Một tên mập ú trên người mặc chiếc áo choàng trắng đã ngả màu cháo lòng, một tên lông mày chổi xể, vừa cao vừa ốm, trên vai vắt một cần câu màu trắng. Ngoài ra còn có hai người giống như là anh em, sắc mặt xanh lét, thân hình vạm vỡ chẳng khác nào hung thần giữ cửa. Bốn người này đầu đều đội nón rộng vành nhìn còn rất mới, kiểu dáng không có gì đặc biệt. Bọn chúng đứng thành nửa vòng tròn, hoàn toàn chặn đứng đường phía trước.

 Trầm Phóng hạ giọng hỏi Tam Nương: "Có phải là tính cướp của hay không?"

 Tam nương lắc đầu, hạ giọng nói: "Không giống. Bất luận chuyện gì xảy ra, Ngạo Chi, lần này chàng nhất định phải nghe theo an bày của thiếp."

 Trầm Phóng nghe vậy lấy làm kinh ngạc, kết hôn mười năm, đây là lần đầu tiên Tam nương nói với y rằng nhất định phải nghe theo lời của nàng, thầm nghĩ: "Tam nương trước giờ rất là nhu thuận, sau hôm nay lại nói năng quyết đoán như vậy chứ?"

 Tên đứng giữa phía đối diện thò tay lấy ra một bức họa, rồi liếc mắt so với Trầm Phóng, Tam nương tử thấy vậy là biết ngay đã gặp phải chuyện rắc rối rồi. Người này đứng ngược sáng, xuyên qua lớp giấy có thể lờ mờ nhìn thấy nét bút, Trầm Phóng liếc qua một cái đã nhận ra người trong bức họa chính là mình. Y rất giỏi về thư họa, chỉ nhìn qua nét bút đã biết bức họa này là do một danh gia họa sĩ vẽ ra, hình như đây chính là bản gốc, có vẻ đã được sao lại thành nhiều bản. Chú ý nhìn kỹ một chút, Trầm Phóng nhận ra nét vẽ này chính là do Cố Chúc Ngạn, một hảo hữu của mình ở Trấn Giang, trong lòng không khỏi mỉm cười chua xót, thầm than: Bạn bè như thế đấy! Y vốn không nghĩ rằng triều đình lần này lại tiến hành điều tra một cách gấp rút như vậy.

 Hai người vừa bước xuống xe thì Tam Nương Tử đã mở miệng trước: "Các vị đại ca có phải là cần tiền hay không? Vợ chồng chúng tôi trên người mang không nhiều ngân lượng, nhưng xin các vị cứ tự nhiên lấy hết, chỉ cần không hại tính mạng của chúng tôi là được rồi. "

 Thấy tên đối diện im lặng chưa nói gì, Tam nương liền tiện tay lấy cây trâm bạc nạm ngọc đang giắt trên đầu xuống, vừa nhìn đối phương, vừa tháo ra hai cái vòng vàng đeo trên tay, thân hình run rẩy phảng phất như mười phần sợ hãi. Nàng hơi cúi về đằng trước, thành ra che lấp đi Trầm Phóng ở mé sau, nhìn qua thì trông như là ngơ ngác sợ hãi quá mà thế, thân hình nàng lại gầy nhỏ, cứ tiến từng bước run rẩy càng lộ rõ cái dáng nhút nhát sợ sệt. Trầm Phóng thấy nàng sợ hãi như vậy, liền đưa tay định kéo nàng lại, nhưng không với tới, đang định bước theo nàng thì thấy một tay nàng để ở sau lưng vẫy vẫy ra hiệu, rõ là có ý cản mình kéo nàng, không biết nàng định làm gì nhưng nhớ lại lời nàng dặn khi còn ở trên xe bèn đứng yên một chỗ.

 Bốn kẻ kia quả nhiên mắt chằm chằm nhìn vào hai chiếc vòng vàng, đôi vòng vàng này không nặng lắm, nhưng vốn là của gia bảo của Trấn Giang phủ Trầm gia, thủ công tinh tế, bên trên chạm trổ ngọc thạch rất tinh xảo, nhìn qua cũng biết là giá trị rất lớn. Tên đứng chính giữa thân hình cao gầy, lông mày chổi xể không khỏi nuốt nước bọt, miễn cưỡng ho khan một tiếng, cố gắng đè nén lòng tham, hắng giọng nói: "Không dám, không dám, phu nhân đã hiểu lầm rồi, bọn ta không phải là giặc cướp, không cần tiền bạc, đến đây chỉ để mời khách mà thôi."

 Lúc này Tam nương tử mặt tỏ vẻ ngạc nhiên hỏi lại: "Vợ chồng chúng tôi không biết là các vị... à từ đâu mà tới vậy? Lại ở chốn hoang dã không người này, chủ nhân của các vị là ai, sao lại đến đây mời khách chứ?"

 Tên này vẻ mặt nghiêm trọng, chắp tay trước ngực nói: "Chủ nhân của bọn ta theo lệnh của Tần lão tướng gia kêu bọn ta đến mời Trầm tiên sinh cùng gia quyến đến phủ nói chuyện một phen, vì khi nãy có nhiều tai mắt, nên phải cung kính chờ đợi ở đây."

 Trầm Phóng không ngờ rằng chuyện bài từ trên sông Ngô lại dây dưa nhiều chuyện như vậy, đã bỏ trốn khá xa rồi nhưng mà vẫn không thoát được, trong lòng không khỏi lạnh run. Tên họ Tần này móng vuốt không ngờ có thể vươn xa tới vậy, mình vừa mới tới Dư Hàng, hắn làm sao mà biết được chứ? Một mình y thì có gì phải sợ chứ, chỉ có điều, chỉ có điều là liên lụy đến Tam nương.

 Tam nương biến sắc nổi giận nói: "Tướng công của ta phạm tội lỗi gì mà bị các ngươi vẽ đồ hình để tầm nã như vậy! Lại còn dám chặn xe ngang đường, trong mắt các ngươi không có vương pháp không? Các người, các người không phải là người của nha môn sao?"

 Ở bên kia, người đứng giữa vẫn giữ vẻ mặt tươi cười bảo: "Không dám, không dám, phu nhân đừng nghĩ thế, bọn sai vặt chúng tôi đây là dân lăn lộn đánh xe kiếm cơm, chỉ biết phụng mệnh hành sự. Nếu không phải nhận được lệnh từ Tần Thừa tướng, chúng tôi cũng chẳng có được vinh hạnh này, bề trên sai bảo gì chúng tôi làm nấy. Nghe nói Trầm Phóng tiên sinh tháng trước có viết một bài từ ở Trường Kiều sông Ngô, vạn tuế gia biết được, nên Tần lão gia muốn gặp tiên sinh một lần, nên kêu bọn ta đến... đến mời tiên sinh."

 Tam nương tử thấy đối phương kiêm cung giữ lễ, sắc mặt hòa hoãn hơn gật đầu nói: "Như vậy thì còn nghe được." Rồi quay đầu lại hỏi: "Ngạo Chi, mình có đi hay không?"

 Trầm Phóng không suy nghĩ gì nói ngay: "Không đi." Nói xong nhìn lại dáng điệu của bốn tên đó thì biết hôm nay đi hay không đi cũng chẳng tự mình quyết được nữa rồi.

 Tam nương tử dịu giọng: "Nhưng chàng nghĩ xem chúng ta có quyết định được chuyện đó không?"

 Sắc mặt Trầm Phóng trở nên xanh lè, Tam nương tử thỏ thẻ khuyên: "Kỳ thật đi chuyến này, chỉ cần tướng công chịu khó nói nhỏ nhẹ phải trái, nói không chừng sẽ không gặp chuyện gì tệ hại lắm đâu. Trầm gia vẫn là vọng tộc ở Giang Tả, thêm vào tài năng của tướng công, ở chốn triều đình tất có người đã biết tới. Xét người xét việc, đây cũng không phải là chuyện không tốt lành gì. Chỉ cần tướng công hòa nhã một chút, nói không chừng Tần tướng gia này cũng thưởng thức tài hoa của tướng công, từ đó đường công danh thênh thang về sau."

 Nói xong nàng mỉm cười nhìn Trầm Phóng dò hỏi, Trầm Phóng không khỏi tức giận ra mặt, quắc mắt nhìn nàng: "Tam nương, ngay cả nàng cũng không biết lòng của ta sao? Hà hà, chỉ bất quá là một bài từ viết trên Trường Kiều sông Ngô, chẳng có gì đáng nói, thế mà lão ta đã muốn ép cả thiên hạ bá tánh phải ngậm miệng hay sao? Giết thì giết chứ không thể làm nhục. Nói cái gì mà 'mời' chứ, kêu đám phu xe này tới đây chẳng phải là bắt ép ta đi hay sao?"

 Tam nương tử gặng hỏi thêm lần nữa: "Tướng công, chàng quả thật không muốn đi sao?"

 Trầm Phóng cương quyết lắc đầu, Tam nương sắc mặt lộ vẻ vui mừng nhẹ giọng: "Thực ra cũng có một số chuyện mà mình vẫn có thể quyết định được." Vừa nói vừa quay đầu nhìn sang bốn người đối diện, mặt lộ vẻ ngạc nhiên: "Ồ, thì ra các người thích đội mũ như vậy sao, sao mà người Dư Hàng lại hay đội loại mũ thế này chứ?" Tên xa phu đánh xe cho Trầm Phóng lầm bầm cái gì đó không nghe rõ. Tam nương tử đi đến gần bốn kẻ đang chặn đường, cất tiếng van xin: "Bốn vị đại ca, tướng công của thiếp đây tính tình nóng nảy, dù có đi e rằng cũng gặp chuyện không hay, còn làm cho Tần thừa tướng tức giận nữa, các vị có thể chừa một đường sống cho chúng tôi hay không?" Nàng dường như biết nếu chỉ nói khơi khơi thì không thể lay chuyển được bọn họ, vừa nói vừa tháo đôi hoa tai đang đeo xuống tung tung trong tay. Đôi hoa tai này trên có gắn hai hạt kim cương lấp lánh, phẩm chất không tồi, thêm vào đôi vòng tay và trâm cài đầu cộng lại cũng đáng giá khá tiền.

 Nàng cầm mấy thứ đó đưa ngay trước mặt cho tên lông mày chổi xể có vẻ là người đứng đầu.

 Bốn tên này mắt dán chặt vào đống trang sức, nhưng có lẽ lệnh trên cực kỳ nghiêm ngặt, không dám không tuân, vội nói: "Không, không, nương tử, chuyện này bọn ta không thể quyết định được đâu." Bàn tay phải của Tam Nương tử đang cầm cây trâm bạc khảm ngọc đột nhiên vung mạnh, chớp mắt đã đâm thẳng vào ngực tên lông mày chổi xể, tên này rống lên đau đớn, tay của Tam Nương Tử không hề chần chừ chút nào, gia tăng lực cổ tay, đâm xuyên qua tim của hắn. Tên đồng bọn giống thần giữ cửa chưa kịp phản ứng gì, Tam nương tử đã vung tay trái lên, hai chiếc hoa tai biến thành hai đóa ám khí bay thẳng đến tấn công hai mắt của hắn, thủ pháp ném ám khí của nàng cực kỳ chính xác, khoảng cách lại khá gần, chớp mắt đã trúng ngay vào mắt của hắn, tên này la lên một tiếng thảm thiết, ngã lăn xuống đất, hai tay khua lia lịa, nhưng mà hai chiếc hoa tai đã xuyên vào trong não tủy của hắn, hắn chỉ kịp co giật được vài lần rồi lăn ra chết. Cùng lúc, Tam nương tử phảy ống tay áo phải, trong tay áo không biết có thứ gì đó rất sắc nhọn, tên vạm vỡ mắt hoa lên chợt thấy cổ họng mình chảy máu, ngã ngửa xuống đất, chỉ còn lại một mình tên béo, tên này vừa mới bước lên một bước thì cái vòng tay của Tam nương tử đã đánh trúng vào đầu gối của hắn, đó chính là điểm "quan thốn" yếu nhất ở chân, tên béo liểng xiểng, thiết tỏa trên tay rơi xuống trúng vào chân, rống lên đau đớn. Tam Nương tử phẩy tay áo vào ngực hắn, ngực hắn đã thủng lỗ chỗ, giương to mắt ra nhìn Tam nương rồi rầm một cái ngã lăn ra đất.

 Hàng loạt động tác diễn ra cực nhanh, bọn chúng chưa kịp phản ứng gì đã bị một nữ nhân liễu yếu đào tơ như Tam nương đánh bại. Trầm Phóng thấy mấy chiêu giao thủ biến hóa thần kỳ như vậy thì chỉ biết ngẩn người ra sững sờ, Tam nương nhìn lại bốn người đang nằm dưới đất, rồi đến bên cạnh Trầm Phóng cười nhẹ: "Tướng công không có gì chứ? Thiếp đã nói khi nãy, chỉ cần chúng ta không muốn, thì chẳng ai có thể cưỡng ép chúng ta được." Khóe miệng Trầm Phóng khẽ nhúc nhích như muốn mỉm cười, nhưng mặt mày vẫn còn cứng đơ như gỗ. Lúc Tam nương nói câu này thì đã chuyển thân đứng dựa vào cỗ xe, nàng vừa ra tay đã giết chết bốn người, thế mà sắc mặt thản nhiên chẳng thay đổi chút . Tên xa phu sau lưng nàng lúc nàng ra tay giết người dường như cũng đờ người ra như Trầm Phóng, bây giờ mới hoàn hồn run rẩy. Tam nương tử hướng sang Trầm Phóng nói: "Thật ra, thiếp là..."

 Nàng chưa nói dứt câu, cả nàng và tên xa phu sau lưng đồng thời phát động công kích một lượt. Tên xa phu vung cây trường tiên chụp vào cổ của Tam Nương, Tam nương không hề tránh né, dường như có mắt ở sau lưng, đúng lúc đó dùng móng tay thon dài của tay trái đâm vào mông của con lừa, con lừa giật mình phóng về phía trước, ngọn roi của tên xa phu đánh vào khoảng không, nhưng hắn ứng biến cũng rất ghê gớm, tay trái đánh xuống càng xe, cả người đã vọt lên cao, nhưng đã trễ một bước, Tam nương tử một chiêu đã chiếm được tiện nghi, sao lại cho hắn có thời gian nghỉ ngơi chứ? Thanh chủy thủ ở tay trái sớm đã đâm thẳng vào y. Tên xa phu này đã sớm nhảy lên tránh, nhưng bắp đùi trái đã bị Tam nương chém trúng một nhát. Hắn dường như không ngờ rằng Tam Nương lại biết hắn sẽ tấn công nàng, giật mình kinh hãi, vừa đáp xuống đất đã lập tức lùi lại qua phía bên kia thùng xe, để tranh thủ thở lấy hơi. Tam nương tử ra tay không chút dung tình, co người lại, thân lăn qua dưới càng xe qua bên kia. Tên xa phu loạng choạng rơi xuống đất chưa giữ được thăng bằng, không ngờ Tam nương tử là nữ lưu mà lại ra tay tàn bạo tuyệt tình như vậy, liên tiếp lùi về phía sau, Tam nương tử lần này tập trung tấn công vào hạ bàn của hắn, cây roi dài của hắn chỉ thuận lợi tấn công từ xa, đánh gần hoàn toàn vô hiệu, có quất lên quất xuống cũng không uy hiếp được Tam nương tử. Đang lúc hắn định vứt roi đi, Tam nương tử đã chụp được đầu roi của hắn, xoay người một cái, thuận chiều quấn một vòng quanh chân của hắn, tay vừa kéo mạnh thì tên xa phu đã ngã lăn ra. Tên xa phu này cũng không vừa gì, vừa chạm đất đã gỡ ngay vòng quấn ở chân, đồng thời ném roi đi, chân được tự do, hắn quét ra một cước, định đá ngã Tam nương, Tam nương nhảy qua một bên để tránh, chân đồng thời đá tung lên. Nàng mặc váy, khi đá lên một cước, váy áo quét qua mặt đất, một đám bụi tung lên mù mịt, tên xa phu hai mắt bị che khuất, đây là lần đầu tiên y gặp được một nữ nhân đánh đấm chẳng có chút nào e ngại như vậy, lúc này hắn đã rơi vào thế yếu, không dám nhắm mắt lại. Trầm Phóng chỉ thấy bụi bay mù mịt, Tam nương đá tung một cước lên như vậy, y khẩn trương nắm chặt tay lại, móng tay bấm sâu vào thịt mà vẫn không có cảm giác gì, mắt mở to chăm chăm quan sát, nhưng đám bụi cát càng lúc càng dày đặc, chỉ thấy hai bóng người, không biết đâu là tên xa phu, đâu là Tam nương.

 Y lấy Tam nương được mười năm, đây là lần đầu tiên được biết vợ mình là một cao thủ võ học. Trong chớp mắt, toàn trường đột nhiên yên tĩnh, bụi đất vẫn bay mù mịt, chỉ có thể lờ mờ nhìn thấy một bóng áo đỏ cùng một bóng màu xám đứng yên cạnh nhau như tượng đá. Tim Trầm Phóng đập thình thịch như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, chẳng rõ Tam nương thắng hay bại, có bị thương chỗ nào hay không? Thời gian tựa như dừng hẳn lại, một hồi lâu sau đám bụi đất từ từ hạ xuống, tim Trầm Phóng cũng từ từ trĩu xuống, hai bóng người đứng yên chẳng hề nhúc nhích. Thêm một hồi lâu sau, bụi đã lắng xuống gần hết thì mới thấy tên xa phu đang nằm dài trên mặt đất, Tam nương tử tựa như một người tình bé nhỏ ôn nhu đứng bên cạnh, tay áo mềm mại phất phơ, lúc này Trầm Phóng mới thở phào nhẹ nhõm. Tên xa phu nét mặt vẫn còn nghi hoặc, chậm rãi xoay mình, tuy máu không ngừng trào ra từ vết thương bên ngực trái, nhưng hắn nhờ vào nội lực cao cường cầm cự nên chưa thể chết ngay được. Tam nương tử mặt lộ vẻ thương xót nhìn y nhẹ nhàng hỏi: "Phục hay không phục? Từ lúc ngươi nhẫn tâm chém nhát đao đó, ngươi phải biết sẽ có ngày hôm nay rồi chứ." Nàng dịu dàng nói, như với đối thủ mà cũng như với chính mình.

 Tên xa phu thở hỗn hễn đáp: "Ngươi, ngươi làm sao biết được ta định ra tay với ngươi? Nếu không phải ta sơ sót lúc đầu, cuộc chiến này giữa ta và ngươi chưa chắc đã biết ai thắng ai bại."

 Tam nương tử ôn tồn nói: "Thực ra khi ngươi phất roi ta đã biết ngươi là ai rồi. Ngươi đã phạm phải điều đại kỵ của dân giang hồ, biết mình mà không biết người, ta thì lại thấm nhuần điều đó, nếu không chẳng lẽ ngốc tới mức giết người rồi mà còn chìa lưng ra trước mặt Bối Hậu Sát Nhân Diệp Lão nhị của Dư Hàng Đại xa điếm đỉnh đỉnh đại danh ở vùng Dư Hàng hay sao? Ngón nghề của ngươi dở quá, không nhận ra ta là ai, vì vậy ngươi chết cũng không oan mà. Đó là chiêu 'Một tiếng roi đanh gọn, đôi bánh xe đoạt hồn' trong ngũ môn 'Xa Thuyền Điếm Cước Nha' - tay sai của Tần Thừa tướng, lẽ nào Kinh Tam Nương ta cũng không nhận ra?

 Tên Hiệp lão nhị đột nhiên mắt sáng rực, giơ tay chỉ thẳng vào Tam nương: "Ngươi là... ngươi là..." tựa hồ như đã nhận ra được Tam nương là ai.

 Vẻ mặt dịu dàng của Tam nương chợt biến mất, trở nên cứng rắn tràn đầy hào khí, tựa hồ như đang nhớ lại ký ức hào hùng thời trẻ, nhìn thẳng vào mắt hắn gật đầu nói: "Không sai, chính là ta."

 Diệp lão nhị xịu mặt xuống, chỉ nói: "Ta không oan ức gì nữa." Nói xong câu này đã không trụ nổi, thân hình mềm nhũn nằm phục xuống, Tam nương tử khuyên nhủ: "Yên tâm đi, ta tuyệt không để cho ai biết ta là người ra tay đâu, do đó sẽ không có ai đến báo thù cho ngươi."

 Hy vọng cuối cùng của tên Diệp lão nhị này cũng đã bị đổ xuống sông xuống biển, miệng phun ra một búng máu, đầu nghẹo sang một bên tắt hơi.

 Tam nương nét mặt chẳng có chút gì vui mừng, đợi thêm một chút nữa rồi dùng tay vuốt mắt cho Diệp lão nhị rồi quay mặt đi. Nhìn thấy bộ dạng Trầm Phóng há hốc miệng, liền khẽ mỉm cười. Trầm Phóng thấy nụ cười của nàng, cũng thoải mái được một chút, nhưng đúng là vẫn còn rất ngạc nhiên. Y có nằm mộng cũng không tưởng tượng được thê tử ôn nhu hiền hòa của mình lại võ công cao cường như vậy. Chỉ thấy Tam nương tử đứng đó, qua một trận đánh sinh tử, trên y phục đã dính đầy lá cây tùng, nhưng nàng chẳng hề để ý tới, chỉ giơ cao chủy thủ nghiêng qua nghiêng lại dưới ánh mặt trời ngắm nghía một hồi, sau đó cầm thanh chủy thủ để ngay trước miệng thổi nhẹ, một giọt máu tươi theo lưỡi đao từ từ nhỏ xuống, ánh chiều tà chiếu lên khuôn mặt của nàng lộ vẻ yêu kiều vô hạn, vừa có nét trầm tư vừa có đôi chút chán chường. Trầm Phóng giật mình không nói nên lời, lắp bắp: "Nàng... nàng..."

----------Hồi 2 còn nữa----------

Tam Nương Tử chẳng để ý gì đến vẻ thất thần của y, nghẹo đầu cười nói: "Tướng công, chàng chẳng lẽ chưa bao giờ chính mắt nhìn thấy một vụ giết người nào sao?"

 Sau đó phá lên cười: "Nguy hiểm, nguy hiểm quá, nếu có tên nào chạy thoát thì chúng ta sẽ thảm rồi, nhất định sẽ bị bọn chúng bám sát theo đuổi giết mãi không thôi."

 Trầm Phóng gắng gượng mỉm cười nhưng đầu óc trống rỗng, tựa hồ như cả thế giới xung quanh mình đã biến đổi hoàn toàn, ngay cả người vợ hiền kết tóc hơn mười năm trời cũng có bao nhiêu điều bí ẩn mà mình không sao hiểu thấu, không biết đây có phải là thứ "giang hồ" mà người ta hay truyền tụng hay không?

oOo

 Chợt nghe trong rừng vang lên tiếng vỗ tay lộp bộp, một giọng nói ung dung chậm rãi lên tiếng khen ngợi: "Chủy thủ giấu thật kéo, thân thủ đánh thật nhanh."

 Hai người cực kỳ kinh hãi, quay vào nhìn ở trong rừng, chỉ nghe kẻ này cất tiếng cười vang dội: "Phong độ của Kinh tam nương vẫn duy trì chẳng kém khi xưa."

 Tam nương tử biết đối phương đã nhận ra mình, vội vã lùi lại đứng sát bên Trầm Phóng. Từ trong đám cây rừng rậm rạm, một kẻ ung dung tiêu sái bước ra, nét mặt tươi cười thân thiện, vào khoảng ba mươi bảy ba mươi tám tuổi, trên mình khoác tấm áo nho sinh xanh lạt, tay áo phất phơ, ôn nhu văn nhã thoát hẳn trần tục. Kẻ này cúi rạp người một cách tao nhã hành lễ với hai người Trầm Phóng: "Lão tướng gia khát khao muốn gặp được Trầm tiên sinh lâu lắm rồi, đặc biệt lệnh cho tiểu đệ đến đây thỉnh mời, chắc là tiên sinh sẽ không trách sự đường đột của tiểu đệ chứ?"

 Trời đã ngả về chiều, vài tia nắng sót lại rắc trên vạt rừng tùng rậm rạp, mặt đất tử thi la liệt, vốn dĩ vô cùng quỷ dị, thế mà kẻ này chẳng thèm để tâm, đứng ngay giữa đám tử thi đó mà ung dung cung kính hành lễ, thật làm cho người ta có cảm giác mơ hồ không biết là mơ hay là thật.

 Kẻ này cười dài một tiếng rồi nói: "Đúng là duyên trời sắp đặt thật khéo, học sinh vốn không biết nên đi tìm ở đâu, chợt nghe tiếng người la hét nên tiểu đệ ghé vào... Trầm huynh, hay là chúng ta mau lên đường thôi, đến bái kiến Tần tướng gia kẻo muộn."

 Tam nương tử lúc ấy chợt vụt nhớ ra một người, trái tim trĩu nặng: nếu quả chính là hắn ta, thì thật là tệ quá! Nàng từng nghe qua ở Hành tàng dụng xá của Văn gia Hồ Châu có ba vị đại cao thủ, một người trong đó là Ngọc Trúc Tú Sĩ Văn Đình Các, có thân phận là Vũ tổng quả của tướng phủ, nếu suy đoán của nàng là đúng, thì chỉ e nàng không đủ sức địch lại kẻ này. Hắn võ công cách xa một trời một vực với đám tiểu lâu la Hạ ngũ môn vừa rồi, Tam nương vừa nghĩ đến điểm này trong lòng chợt lạnh toát, nhưng thoắt cái lại nghĩ lại, rõ ràng Văn Đình Các đã nhận được thông tin của Đại Xa Điếm, dĩ nhiên là cùng đi một đường với bọn chúng, nhưng tại sao cho đến lúc này mới ló mặt ra chứ.

 Văn Đình Các đương nhiên nhìn thấu nghi vấn trong lòng nàng, cười nói: "Vốn là nghe Hiệp lão nhị của Đại Xa Điếm đến báo rằng trên Hảo Đăng Lâu đã gặp được Trầm huynh là người mà Tần tướng gia muốn gặp, tiểu đệ vội ra lệnh bọn họ nhanh chóng đến mời. Sau đó, tin tình báo mới nhất đưa đến, nói là phu nhân của Trầm huynh có điểm tương tự như Kinh tam nương, nổi danh Trủy thủ sất diễm trong giang hồ ngày trước, tiểu đệ sinh lòng hiếu kỳ, thêm vào nghĩ rằng nếu tin tình báo là thật, thì Hiệp lão nhị huynh chắc sẽ khó mà mời được hai vị, liền vội vã đuổi theo, tiếc thay đã chậm một bước, không thấy được bản lãnh giấu kín gần mười năm nay của Tam nương, thật là đáng tiếc cho tiểu đệ."

 Nói đoạn, kẻ này hướng về Tam nương khẽ gật đầu một cái, rồi chẳng để ý đến nàng nữa, quay sang Trầm Phóng nói: "Tài năng của Trầm huynh tiểu đệ khâm phục đã lâu, chỉ một bài từ trên sông Ngô đã được hàng vạn người truyền tụng, nếu không gặp được huynh một lần thì ân hận cả đời, chỉ sợ Trầm huynh chẳng bao giờ dời gót ngọc đến chốn kinh đô! Hôm nay có duyên gặp được, xin mời huynh quá bộ đến chơi."

 Tam nương tử biết hắn miệng lưỡi ngon ngọt như bôi mỡ, chuyên lừa gạt người, chỉ lạnh lùng đáp: "Vợ chồng chúng tôi chỉ là dân quê mùa, kkhông quen mấy lời giả dối, chỉ cầu xin Văn tiên sinh chừa cho một con đường sống, ngày nào có dịp tương phùng, nhất định sẽ báo đáp."

 Văn Đình Các phá lên cười, tỏ vẻ rất khinh thường kiến thức nữ nhân, chẳng thèm để ý gì đến nàng, vẫn quay sang Trầm Phóng nói: "Huynh đài không nể mặt tiểu đệ, chẳng lẽ cũng không thèm nể mặt của tướng gia hay sao?"

 Tam nương tử biết là không có cách nào nói phải trái với tên này được, cười lạnh nói dứt khoát: "Thật không ngờ Văn Đình Các Văn tiên sinh đỉnh đỉnh đại danh lại chạy vào tướng phủ làm quan lớn, dạo gần đâu không biết hoạn lộ của ngài có thuận lợi hay không vậy?"Lời nói đầy vẻ mỉa mai. Nàng ngoài miệng nói cứng, nhưng trong lòng không khỏi thầm lo lắng, võ công Văn gia ở Giang Nam hết sức nổi danh, huống gì kẻ này còn là một trong ba chưởng môn cao thủ, cửa ải này không biết có thể miễn cưỡng xông qua được hay không. Văn Đình Các quả nhiên biến hẳn sắc mặt, quay sang Trầm Phóng tức giận nói: "Tiên sinh cùng gia quyến ở ngoại thành Lâm An ban ngày ban mặt giết chết bốn năm người, chẳng lẽ không coi vương pháp ra gì hay sao?"

 Không đợi Trầm Phóng trả lời, Tam nương tử cười khẩy đáp: "Vương pháp? Tần thừa tướng mà cũng biết được hai chữ này hay sao? Lão ta có thói quen ra chỗ hoang vu để mời khách, khách đến nơi rồi thì sẽ bị kiếm đâm xuyên qua người khi nào cũng không biết nữa."

 Văn Đình Các lúc này mới quay sang Tam Nương tử, cười chế nhạo nói: "Kinh tam nương là một vị nữ anh hùng, không nhường đám mày râu, tự nhiên có thể quyết định thay cho Trầm huynh. Nhưng phu nhân để cho Trầm huynh là một vị quân tử nho nhã đọc sách phải cả đời cùng phu nhân dãi dầu chịu khổ, chui nhủi trốn tránh ở chốn giang hồ. Kinh tam nương chẳng lẽ đã quên đi mùi vị phiêu bạt giang hồ thuở trước rồi hay sao?"

 Thân hình Tam nương tử khẽ run rẩy, nhớ lại mình thuở còn trẻ giết người như ngóe, ngàn dặm trốn chạy cừu địch, gối tuyết nằm sương, mãi nghệ kiếm cơm, trái tim không khỏi lạnh toát, tự nhủ: Chẳng lẽ ta làm vậy là sai sao? Ngạo Chi, Ngạo Chi, chàng nửa đời sống cảnh an ổn, những ngày vất vả như vậy làm sao mà chàng chịu được chứ? Nàng hổ thẹn không dám nhìn qua Trầm Phóng, hai mắt chỉ chăm chăm vào đôi tay thuôn dài của Văn Đình Các, chợt cảm thấy bàn tay nóng ấm của Trầm Phóng đã nắm chặt lấy tay của mình, dịu dàng nói khẽ bên tai nàng: "Tam nương, nàng cứ quyết định đi, áo tơi một đời mưa khói cũng chẳng sao, chỉ cần nàng nói một tiếng, ta sẽ cùng đi với nàng." Nghe lời nói chân tình như vậy, mắt nàng chợt nhòa đi, lệ nóng trào dâng trên khóe mắt.

 Nàng biết trừ khi bất đắc dĩ lắm chứ không thì Văn Đình Các không hề muốn động thủ với mình, ngại đắc tội với bằng hữu thuở hàn vi, liền quay sang Văn Đình Các lạnh lùng nói: "Được, ngươi trước tiên hãy cho ta hỏi tướng công của ta một tiếng, xem chàng muốn đi với ta hay muốn đi với ngươi. Vợ chồng như chim đậu chung cành, đại nạn tới, tự tìm đường bay, không thể ép chàng không được nêu ra ý của chàng. Nếu chàng muốn đi cùng với ngươi, tính mạng của Đại Xa Điếm Hiệp lão nhị là do ta chịu trách nhiệm, chẳng có liên hệ chút nào đến chàng cả."

 Quả nhiên Văn Đình Các gật đầu chấp nhận ngay, rõ ràng không muốn vì một tên Hiệp lão nhị nhãi nhép mà chọc giận tới một địch thủ như Tam nương.

 Tam nương tử kéo Trầm Phóng lùi lại hai bước, quay đầu nhỏ giọng nói với y: "Ngạo Chi, hai người bọn ta chia nhau mà chạy, thiếp sẽ giữ chân hắn, chàng nhảy lên mình la mà chạy trước đi, không cần đợi thiếp, nên nhớ, đây không phải là bỏ thiếp lại để chạy trốn một mình, phải biết tên họ Văn này võ công cực cao, thiếp không nắm chắc phần thắng. Mười ngày sau chúng ta sẽ hẹn gặp lại tại Khốn Mã tập bên ngoài Đồng Lăng phủ, chàng đợi thiếp tối đa là ba ngày, nếu thiếp sau ba ngày vẫn không tới, chàng trước tiên hãy đến Hoài thượng, vào My Lâu ở Phượng Dương tìm một người họ Cố trên đầu cũng cài một cành mộc thoa giống như thiếp, nàng ta sẽ giúp cho chàng. Đến đó rồi... chàng nhất định sẽ được an toàn."

 Trầm Phóng phản đối: "Không..."

 Trầm Phóng vừa mở miệng, Tam nương tử đã ngăn y lại: "Nghe lời thiếp, chàng ở lại đây chỉ làm phiền thiếp thôi, nếu chàng bỏ chạy thực nhanh thì thiếp ngược lại còn có mau có cơ hội trốn thoát nữa." Trầm Phóng còn định nói thêm, nhưng thấy Tam nương tử đột nhiên nổi giận, hung hăng quát: "Ngươi tưởng Hiệp lão nhị là do ta giết thì ngươi sẽ không sao chắc? Đồ tiểu nhân, đồ chết nhát! Ngươi muốn hèn hạ quỳ gối liếm giày của tên con hoang họ Tần kia thì cứ việc đi đi, ta đời này không nhận ngươi làm trượng phu nữa, hai người chúng ta cắt đứt duyên nợ từ hôm nay, từ nay về sau có gặp lại cũng coi như người xa lạ, Kinh tam nương ta thật sai lầm khi lấy ngươi làm chồng."

 Nàng nói vậy muốn cho người khác hiểu lầm rằng Trầm Phóng nói "Không" là tỏ ý không muốn cùng đi với mình. Nói xong nàng vung chưởng ném Trầm Phóng lăn lông lốc, rơi thẳng vào vũng bùn, toàn thân bê bết bùn đất. Trầm Phóng bất ngờ, vừa ấp úng gọi Tam nương một tiếng, thì Tam nương tử đã nhanh chóng dùng đao cắt đứt một mảnh tay áo, quẳng cho Trầm Phóng: "Chúng ta hôm nay cắt áo đoạn tình." Nói xong quay lưng đi thẳng đến cỗ xe có buộc con la. Nàng biết Văn Đình Các là kẻ đa nghi, trò đóng kịch này chưa chắc qua mặt được hắn, do đó phải hành động thật nhanh, không để cho hắn có đủ thời gian phát hiện ra sơ hở. Vân Đình Các quả nhiên chỉ đứng một bên quan sát hành động của nàng, thấy nàng quả đúng đã giơ chân đá Trầm Phóng một cước, Văn Đình Các tính vốn đa nghi, không biết có phải phu phụ nàng quyết liệt như vậy là thật hay giả, đang lúc suy nghĩ, thì thấy Tam nương quay mình nhanh như chớp đã chặt đứt dây buộc giữa con la và cỗ xe, phóng thẳng lên mình la rồi xông thẳng về hướng Văn Đình Các.

 Văn Đình Các vẫn còn hoài nghi chưa rõ Tam nương muốn làm gì, thấy Trầm Phóng bị nàng đá một cước khá nặng, toàn thân lấm lem chắc không phải là giả. Hắn cũng chưa từng nghĩ có loại người thà chết trong còn còn hơn sống đục, thấy Tam nương tử nhảy lên lưng la định bỏ trốn, hắn chỉ phụng lệnh đi tìm Trầm Phóng, lại biết được thanh danh ngày trước của Kinh Tam nương trên giang hồ, nên cũng chẳng muốn gây sự thị phi với nàng làm gì, liền tránh qua một bên cho nàng vượt qua, rồi bước tới định đỡ Trầm Phóng dậy. Lúc này, Tam nương tử đã chạy ra ngoài hơn mười bước, Văn Đình Các chợt nghe Tam nương tử quát lớn ở sau lưng: "Ta thà để chàng chết còn hơn để chàng tự hủy đi danh dự của mình!" Vừa quay đầu lại, đã thấy nàng ta ngồi trên lưng con la rút ra một cây phi đao, ném thẳng về phía Trầm Phóng. Văn Đình Các cực kỳ ngạc nhiên, vẫn nghĩ là chẳng qua nàng chỉ giở trò đe dọa, dõi mắt theo thanh đao, chỉ thấy thanh đao chỉ còn cách mắt của Trầm Phóng có ba phân. Hắn muốn bắt là người sống, chứ không phải là xác chết, không kịp nghĩ nhiều vội vung chưởng đẩy chuôi đao qua một bên. Hắn vừa chạm vào đao đã biết là có chuyện rồi, cây đao này lưỡi tuy lấp lánh hàn quang, nhưng chẳng qua chỉ là do giấy bạc chế thành. Hắn không kịp suy nghĩ vung chưởng đánh bể chuôi đao, chỉ thấy một làn khói mờ tỏa ra mù mịt. Tên Văn Đình Các này cũng không phải dạng tầm thường, lâm nguy bất loạn, sợ khói có độc, tay trái vẫn thuận thế chộp lấy Trầm Phóng, miệng ngậm chặt lại nín thở, thân hình bắn vọt về phía sau, Ai ngờ tay trái của hắn chỉ chộp được vào khoảng không, thì ra Tam Nương đã dùng một sợi dây quấn lấy Trầm Phóng, vung tay kéo y bay thẳng lên trên lưng lừa. Tay trái nàng cũng không dừng lại, bắn ra liên tục ba mũi phi chăm đánh ngã con la còn dư và hai thớt ngựa của cỗ xe còn lại, để phòng Văn Đình Các đuổi theo, ngay sau đó lại phóng thêm một cây phi đao bắn thẳng vào lưng của Văn Đình Các. Văn Đình Các chỉ thấy lành lạnh sau lưng, phản ứng cực nhanh, lập tức co người lại, vươn tay ôm lấy một thân cây, lạng người qua một bên, để cây đao bay vụt qua, rồi mượn lực phi thân đuổi theo Tam nương.

 Phi đao trong tay Tam nương tử như có mắt cứ liên tục tấn công hắn, Văn Đình Các đều tránh được hết, tránh xong một lượt phi đao, thì chợt cảm thấy sau lưng lành lạnh, biết là cây đao lúc nãy đã rạch trúng một đường sau lưng, tuy không bị thương chảy máu, nhưng Văn Đình Các không khỏi lạnh sống lưng thầm nhủ thật là nguy hiểm quá, thở phào một hơi, trong lòng nổi giận.

 Tam nương tử đánh mạnh vào thân con la, con la lập tức phóng thẳng như mũi tên về phía trước, nhưng vì phải chở theo hai người nên chạy không nhanh được. Văn Đình Các thấy không đuổi kịp được, đột nhiên đứng chựng lại, đưa hai ngón tay vào miệng rồi hú lên một tiếng chấn động tâm thần. Tiếng hú vừa mới cất lên, Tam nương đã biết không ổn, đây chính là thuật Dĩ thanh khắc địch của nội gia thượng thừa, Văn Đình Các công lực không đủ, không thể đả thương người, nhưng làm con súc sinh này hoảng sợ thì lại dư sức. Quả nhiên con la nghe tiếng hú giận mình, thân hình run lên cầm cập. Tam nương tử biết Hồi Ba Khiếu của Văn gia lượt sau còn cao hơn lượt trước, tuyệt không thể để hắn giết chết con la cuối cùng này, như vậy thì chẳng có ai có thể thoát được khỏi đây cả! Nàng ngoảnh đầu lại nhìn Trầm Phóng lần chót rồi cương quyết nói: "Ngạo Chi, chàng chạy trước đi."

 Nói xong hai chân thả lỏng, tay trái biến thành trảo bấu xuống vai Trầm phóng xé ra một mảnh vải, thuận đà cúi xuống nhét vào lỗ tai của con la, tay phải ấn xuống yên cương, nhảy phắt xuống, không dừng lại chút nào mà thừa thế phóng tới tấn công Văn Đình Các, không để cho hắn hú thêm tiếng nào nữa. Nàng dùng răng giữ lấy mái tóc xổ tung ra, tay cầm đao liên tục tấn công mấy chiêu hiểm hóc, không chút khách khí nào, miệng la to: "Ngạo Chi, chạy mau." Văn Đình Các vì phải đổi hơi, mất đi tiên cơ, bị nàng ép phải lùi lại liên tục, trong nhất thời không có cách nào hoàn thủ. Trầm Phóng không chịu bỏ chạy, quay người lại cứu Tam nương tử. Tên Văn Đình Các thân thủ phi phàm, Tam nương làm sao có thể thoát khỏi tay của hắn chứ. Thấy Trầm Phóng điều khiển con la đi vòng lại cạnh mình, nàng liền cắn răng không nói tiếng nào, dùng chủy thủ chém mạnh vào mông con la một nhát, quát lên một tiếng: "Đi nào." Con la hí lên một tiếng, vừa đau vừa sợ, dựng đứng hai chân trước, rồi phóng như điên cuồng về phía trước.

 Tam nương tử giờ mới bớt căng thẳng, biết rằng Văn Đình Các không cách nào đuổi theo kịp nữa, nhưng hắn lúc này đã có thể bắt đầu phản kích lại. Hắn dùng một cây quạt gấp, tuy vẫn chưa mở quạt mà đã có thể chế trụ được hai thanh chủy thủ của Tam nương, lên tiếng khiêu khích: "Cây quạt của ta có đủ mười sáu đường biến hóa 'trừu' (kéo), 'điểm' , 'phách' (vỗ), 'đả' (đánh), 'thứ' (đâm) , 'tước' (đoạt) , 'triển' (mở) , 'mạt' (quét). Kinh Tam nương, ngươi còn chưa biết điều mà bó tay chịu trói sao?"

 Tam nương tử không thèm trả lời, vẫn ngoan cố ra sức tấn công, Văn Đình Các chẳng hề bận tâm, vẫn ung dung cười nói: "Kinh Tam nương, ta đúng là rất bội phục hành động xả thân cứu trượng phu của ngươi, nhưng đừng có nghĩ rằng Trầm huynh một thân một mình có thể chạy thoát được, ngươi chẳng lẽ nghĩ rằng chỉ có một mình ta đến đây thôi hay sao?"

 Tam nương tử nghe vậy giật mình kinh hãi, dõi mắt ra xa thì thấy Trầm Phóng cưỡi con la tưởng chừng như đã chạy thoát khỏi khu rừng, thì ở đầu rừng chợt có hai người lẳng lặng xuất hiện, một tên cầm dây xích sắt, một tên cầm gậy sắt. Tên cầm gậy sắt vung gậy đánh vào đầu của con la. Con la đau đớn hí lên một tiếng kinh hãi, đột nhiên dựng đứng hai chân trước lên, Trầm Phóng không kịp phản ứng bị hất ngay xuống đất, con la không còn người điều khiển cắm đầu chạy mất, Trầm Phóng bị ngã một cú khá nặng, cố gắng một hồi mà vẫn không đứng dậy nổi, hai tên đó đủng đỉnh bước tới gần định tóm lấy y.

 Lần này đến lượt Văn Đình Các giữ chặt lấy Tam nương, không để cho nàng xông tới cứu. Tam nương tử liên tục ra chiêu sát thủ, nhưng biết võ công của Văn Đình Các cao cường, việc cần kíp là phải cứu Trầm Phóng nhưng chỉ sợ là không có cách nào, nàng hành động quyết đoán, lập tức thu chiêu, lùi lại mười bước quỳ xuống đất lên tiếng van vỉ: "Văn tiên sinh xin hãy giơ cao đánh khẽ, tha cho chuyết phu, thiếp đây xin quay về cùng ngài phục mệnh, chàng chỉ là một thư sinh trói gà không chặt, ngài bắt chàng thì có ích lợi gì chứ?"

 Văn Đình Các lạnh lùng lắc đầu.

 Tam nương tử mặt trắng bệch, nước mắt ròng ròng nghẹn giọng nói: "Nếu ngài không nhận lời, cũng chưa chắc là hôm nay sẽ bắt được ta. Lúc ấy, chỉ cần Kinh Tam nương ta còn một hơi thở sống trên cõi đời này, thì tên gian tặc họ Tần cùng với cả nhà họ Văn của ngươi ở Hồ Châu một ngày cũng không yên ổn được!"

 Văn Đình Các thấy phe mình đã chiếm thượng phong, thì còn sợ gì mấy lời uy hiếp của nàng, lạnh lùng cười nói: "Ngươi còn nghĩ là có thể chạy thoát à? Sao mà lại dễ dàng thế được? Cho dù có chạy, chỉ e bọn người trong Hạ Ngũ Môn cũng bám chặt lấy ngươi quyết không buông tha. Hà hà, chẳng cần đến Văn mỗ ta phải ra tay đâu. Kinh tam nương giảo hoạt ra tay tàn độc như vậy, cuối cùng cũng tới lúc phải quỳ xuống van xin rồi sao? Ngươi cũng không cần phải nói nhiều mỏi miệng, ta chỉ cần kêu hai tên thủ hạ đến đây, Tam nương tử ngươi ráng giết chết hết ba người bọn ta, chẳng phải là có thể yên yên lành lành trốn thoát rồi hay sao?" Hắn nhớ lại khi nãy một đao ám toán của Tam nương tử quả thật hết sức hiểm ác, trong lòng nổi giận bừng bừng, nhưng ngoài mặt vẫn làm ra vẻ ung dung thoải mái, nheo mắt phe phẩy quạt, cất giọng ngâm nga:

"Quạt tròn gom góp dợn thu sang,

 Cớ sao người đẹp nặng lo toan

 Xin tường thế sự nào ai tránh

 Nhân tình nóng lạnh khó chu toàn." (*)

 Thần sắc đầy vẻ an nhiên tiêu sái, lời thơ ân cần khuyên nhủ.

oOo

 Hốt nhiên giữa không trung một giọng nói vang lên: "Quả thật chỉ dẫn theo hai tên thủ hạ thôi sao?" Giọng nói trầm thấp, rền vang như tiếng sấm, bọn người trong rừng đồng loạt ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy người đó chễm chệ nằm ngửa trên một cành tùng lớn mé bên trái, y vung tay một cái, hai quả tùng bắn ra, hai cây đại thụ sau lưng Văn Đình Các chợt vang lên hai tiếng ho khúc khắc, hai tên công sai lò dò bước ra, trán sưng vù. Hai trái tùng bay xéo qua cực kỳ xảo diệu, lách qua thân cây mà bắn thẳng vào đầu của người nấp đằng sau, có thể được người này võ công cao cường đến mức nào.

 Văn Đình Các quát: "Ngươi là ai?" Chợt thấy người ở trên cành cây tựa như hòn đá lăn phịch xuống đất, bắn thẳng vào vai của tên nha sai đang nắm giữ Trầm Phóng dưới gốc cây, chỉ nghe rắc một tiếng, hai chân của gã không chịu nổi lực đánh quá mạnh đã gãy làm đôi, gã đau đớn quá lăn ra hôn mê lập tức. Người này uốn mình lăn ngược trở lại dùng đầu cứng rắn như búa tạ của mình đập thẳng vào đầu của một gã nha sai khác, gã này cũng không chịu nổi liền ngất xỉu tại chỗ. Sau khi thanh toán xong hai tên nha sai, ngươi này đứng thẳng dậy, thân dài vai rộng, uy phong lẫm liệt, Tam nương nhận ra đây chính là hán tử mình đã gặp qua ở trên Hảo Đăng Lâu.

 Văn Đình Các sắc mặt tái nhợt, vỗ tay một cái, sau lưng chợt xuất hiện hai tên công sai, tạo thành thế tam giác bao vây lấy người đó. Hán tử cười lạnh một tiếng, ngẩng mặt lên trời chẳng thèm để mắt đến, hai chân đứng vững chãi tựa núi Thái sơn. Văn Đình Các nghiến răng, xếp quạt lại điểm thẳng vào hai mắt của hán tử. Người này chẳng thèm để ý đến chiêu thức của Văn Đình Các, chỉ vung thiết chưởng công thẳng vào ngực của hắn. Văn Đình Các chợt thấy ngực mình trống rỗng, dường như bốn phía đều có lực ép vào, cực kỳ mãnh liệt không thể nào cản lại được, giống như tuyệt học nghe đồn đã thất truyền từ lâu ở Trung Châu, chính là Hưởng ứng thần chưởng "chấn tay hét lớn, vang vọng ngàn non". Hắn dường như đã đoán ra người này là ai, không dám coi thường, vội vung chưởng đón đỡ. Vừa chạm vào chưởng của người này, thân hinh của Văn Đình Các lập tức chấn động, lùi lại một bước, mắt long lên sòng sọc, người này thuận tay đánh tiếp một chưởng nữa, Văn Đình Các không dám chần chừ, trầm người thủ thế, vung song chưởng ra nghênh đón, "rầm" một tiếng, lần này hắn lại bị đẩy lùi tới ba bước dài. Hán tử này không hề dung tình, chưởng thứ ba đã vụt đánh tới. Văn Đình Các lúc này lưng đã dựa sát vào cội tùng. Chỉ thấy sắc mặt của hắn từ xanh chuyển sang vàng ệch, thở phì ra một hơi, nhưng cũng miễn cưỡng đánh ra một chưởng, lần này hai chưởng chạm nhau im lặng không một tiếng động, một hồi sau chỉ thấy cội tùng sau lưng Văn Đình Các rung lên rào rạt, lá tùng rơi xuống như mưa. Văn Đình Các khóe môi rỉ máu, mười ngón tay sưng vù. Hán tử nhìn hắn một hồi rồi lạnh lùng nói: "Tiếp được ba chưởng của ta, cũng đáng mặt lắm chứ, nhường nhịn ngươi thế là đủ rồi còn không mau cút đi?" Văn Đình Các ngẩn người ra, cả đời hắn chưa lần nào chịu nhục như vậy. Hắn đứng đó mặt sưng mày sỉa một hồi rồi mới dậm chân căm thù thốt lên: "Cảnh Thương Hoài, Cảnh Thương Hoài, ngươi giỏi lắm... ngươi giỏi lắm!"

 Người mà cả hắn cùng Tam Nương đều gọi là Cảnh Thương Hoài gườm gườm nhìn hắn, lạnh lùng nói: "Còn chưa chịu đi sao?"

 Văn Đình Các mặt u ám, vẫy tay một cái, hằm hằm gọi hai tên sai dịch chưa bị thương, mỗi tên cõng theo một tên bị thương khác, quay người rút lui.

oOo

 Bọn chúng từ từ đi khuất, Tam nương tử chạy lại đỡ lấy Trầm Phóng ngồi dậy, thấy mặt y tím bầm, toàn thân dính đầy bùn đất, cỏ rác bám đầy trên tóc, thì mười phần xót xa. Hai người đồng thời quay sang Cảnh Thương Hoài, đang muốn chạy qua đa tạ ân nhân nhưng toàn thân mệt rã rời chẳng còn chút khí lực nào. Hán tử nhìn Trầm Phóng, rồi lại nhìn sang Tam nương với vẻ tán thưởng, mở miệng nói: "Áo vải chưa quên buồn non nước, các ngươi khá lắm, khá lắm." Nói đoạn thân hình khôi vĩ quay sang một bên đón lấy đứa bé mặt mày bệnh hoạn đang ngồi trên chạc cây, rồi bước đi không hề nhìn lại.

 Bọn Trầm Phóng đều biết đại ân không phải chỉ dùng lời nói mà cảm tạ suông, có muốn giữ lại hán tử cũng không giữ được. Hai người họ một hồi lâu sau mới định thần lại. Trầm Phóng ngồi trên một khúc gỗ, âu yếm dùng tay nhặt mấy sợi cỏ vương trên mặt Tam nương, xót xa nói: "Tội cho nàng quá, Tam nương à..."

 Sau đó thở dài than thở: "Chỉ sợ từ nay về sau, chúng ta phải lưu lạc giang hồ rồi..."

 Nói xong mặt y lộ vẻ thương cảm.

 Nhưng Tam nương lại lắc đầu cười nói: "Chỉ cần tướng công không hối hận, thiếp khổ có đáng gì!"

 Dừng lại một chút rồi nói tiếp: " Thiếp nghĩ nếu cả ngày ru rú ở vùng Trấn Giang, sách vở bút mực cứ đọc sách học kinh đến già, đó mới thật là phụ rẫy những ôm ấp trong lòng tướng công, sở học bình nhật của tướng công về binh pháp, toán pháp và trồng trọt làm sao mà có chỗ sử dụng." Nói đên đây mặt nàng chợt lộ vẻ phấn kích, phấn khởi nói: "Giang hồ rộng lớn như vậy, sao lại không có một hai kẻ kỳ nhân dị sĩ muốn hạ mình kết giao với chàng và thiếp, lúc đó tướng công có cơ hội thi triển tài năng thỏa chí tung hoành thiên hạ rồi."

 Trâm phóng thấy đầu mày cuối mắt Tam nương tràn đầy anh khí, trong lòng cảm thấy rất an ủi. Nắm chặt lấy tay nàng, nghĩ về tiền đồ phía trước, chỉ nghĩ là nếu quả thật được như vậy, có một người vợ như vậy, thì cần gì áo mão bạc tiền, cũng đủ sống hạnh phúc trọn kiếp này rồi.

-------Hết hồi 2-------

BÔI TUYẾT HỆ LIỆT

 BỘ THỨ NHẤT - MƯA ĐÊM GÕ XUỐNG SEN VÀNG

 HỒI 3 - QUÁN MƯA

 Phúc Vũ và Phiên Vân

 Dịch tặng Tay Doc đại ca

 Mưa phùn Giang Nam cứ mãi vô tình rơi rả rích. Đã rơi rồi thì cứ lất phơ lất phất, miên man bất tuyệt, vấn vít không nguôi. Trầm Phóng nhìn dáng Tam Nương tử cưỡi trên con lừa hoa, mới thực sự cảm nhận được được thế nào là bốn chữ "tóc mây bồng bềnh". Cơn mưa này bắt đầu rất nhẹ, như có như không, nhưng càng lúc càng ào ạt, tỏa hơi giá lạnh, khiến người ta không khỏi sầu muộn. Nhưng được cùng Tam nương ở chung một chỗ, thì trận mưa thu dai dẳng này cũng thơ mộng chẳng kém gì làn mưa xuân rả rích.

 Lúc nãy khi y cùng Tam nương tử bắt đầu khởi hành, Kinh Tam nương tìm một nơi vắng vẻ để bán con la của hãng xe Dư Hàng, mua lấy một con la và một con lừa hoa nhỏ. Hai người cưỡi lừa lên đường, thong dong yên ả, trước mắt mở ra bát ngát, quang cảnh mênh mông vô hạn.

 Khi nãy Trầm Phóng có hỏi Tam nương tử rằng bọn họ sẽ đi về đâu, Tam Nương tử không trả lời, giờ y hỏi lại lần nữa, Tam nương tử chỉ cười đáp: "Đến Hoài thượng." Hai người thẳng đường ruổi bắc, Trầm Phóng thấy Tam nương cứ thung dung đi đường thì không khỏi lấy làm lạ, chẳng lẽ lại không sợ Văn Đình Các đuổi tới hay sao? Tam nương tử cười: "Chàng không biết con người của Văn Đình Các đâu, hắn ta bên ngoài hiền lành nho nhã, nhưng bụng dạ lại rất nham hiểm. Hắn tính tình cao ngạo, đã bị bại một lần, sẽ hổ thẹn không dám thử lần thứ hai. Thiếp không biết hắn ngông nghênh ở chốn quan trường thế nào, nhưng đó chính là quy tắc làm việc của hắn ở chốn giang hồ."

 Trầm Phóng lấy làm lạ hỏi: "Nàng bảo là hắn lợi hại như vậy, sao lại vì một kẻ thân đã bị trọng thương, không nói tiếng nào mà rút lui chứ?"

 Tam nương tử lắc đầu than: "Đời nay hỏi có mấy kẻ võ công giỏi hơn Thương Hoài chứ? Có thể trước mặt ông ấy mà đi đến tự do, rút lui không bị tổn thương gì tính ra cũng không phải là tầm thường."

 Trầm Phóng gật đầu, nhớ lại hành động tràn đầy hào khí của Thương Hoài, trong lòng chợt nóng bừng lên. Lại nhớ đến Tam nương tử ngày đó đã liều mạng cứu mình trong lòng vô cùng cảm kích, chỉ lẳng lặng nhìn Tam nương một hồi lâu không nói được tiếng nào. Tam nương tử liếc mắt nhìn y một cái đã biết y đang rất cảm kích mình, liền cười duyên một tiếng, thúc lừa phóng vọt lên phía trước.

 Nói ra cũng thật tức cười, hai người họ lấy nhau mười năm, tuy rất phóng khoáng cởi mở, kính trọng nhau như khách, nhưng trong lòng chưa hề có thứ tư vị quyến luyến thiết tha như hôm nay. Cơn biến động bỗng khiến họ trẻ lại đến mấy tuổi. Tam nương tử trước giờ đối với Trầm Phóng vừa kính vừa trọng, nhưng lại rất ít khi vừa thẹn thùng vừa âu yếm với y như thế này. Riêng Trầm Phóng tuy trong lòng vốn hết lòng yêu trọng Tam Nương, nhưng giờ chỉ nhìn nàng vén tóc, nhìn nàng chau mày, trong lòng chợt dâng lên cảm giác thương yêu tha thiết đến mức trái tim nhói lên. Tình cảm quý giá thế này cũng đủ cho trọn đời trọn kiếp. Đêm qua hai người nghỉ tại khách điếm, dưới ánh đèn chỉ ngồi nhìn nhau thật lâu không nói tiếng nào. Tuy biết từ nay về sau mũi đao đã dính máu, phía trước có bao nhiêu khó khăn phiền não, nào là Đại Xa điếm truy sát, Tần Thừa tướng muốn "mời" về hỏi chuyện, chỉ e chẳng còn ngày nào yên ổn giữa chốn giang hồ nhiễu nhương này nữa. Thế nhưng, họ vẫn chỉ lẳng lặng nhìn nhau, tựa hồ như vẫn còn ngày dài tháng rộng, trọn kiếp an ổn.

 Trầm Phóng thấy Tam nương tử đã vượt lên trước thì cũng vội vỗ lưng con la, tăng tốc đuổi theo, nhưng vẫn không biết nói gì đành ấp úng cho qua chuyện: "Thật không ngờ là nàng lại thành thạo đường đi lối lại chốn này như vậy, đúng là lão luyện trên chốn giang hồ. " Tam nương tử ngoái đầu cười bảo: "Người xưa có nói: đọc vạn quyển sách, đi ngàn dặm đường chính là hai việc thống khoái nhất trong đời người, chàng đã được điều thứ nhất rồi, còn điều thứ hai thì thiếp cũng không dám khiêm tốn từ chối nữa."

oOo

 Thật chẳng ngờ con mưa thu lê thê này càng lúc càng to, hai người đến được Khốn Mã tập bên ngoài Đồng Lăng thì không đi nổi nữa. Khốn Mã tập chỉ có một căn khách sạn, có hai lối vào ở phía trước và phía sau. Nhưng phía trước dòng suối nước dâng cao chảy xiết, lại thêm vào đường xá sình lầy, ai cũng sợ thú vật bị trượt chân, nên không dám đi ở phía trước, có một con lộ nhỏ cắt ngang qua. Con lộ này không phải là đường cái quan, chỉ dành cho người dân gần đó nên vẫn có người đi qua đi lại. Khách sạn vốn nhỏ hẹp, mấy ngày nay ngày nào cũng có mấy người vừa nguyền rủa thời tiết chết tiệt đi vào, hong khô quần áo ăn cơm rồi nghỉ ngơi chốc lát đợi đến lúc mưa tạnh. Trận mưa hôm nay đúng là dai dẳng. Cả ngày buồn bực, khách nhân người phương Bắc phương Nam đủ cả, dùng đủ thứ khẩu âm mắng chửi lão thiên gia, nghe suốt cả ngày thật là líu lo như tiếng nhạc vậy.

 Trầm Phóng tới sớm còn có phòng để ở, mấy người đến muộn chỉ đành nằm lăn ra đất. Hôm nay mưa mãi vẫn chưa chịu tạnh, Trầm Phóng trong lòng phiền muộn, lúc chiều tà liền mượn của khách sạn đôi guốc gỗ và một cây dù ra ngoài đi dạo. Rời khỏi khách điếm khoảng mười bước thì gặp một cái gò nhỏ, Trầm Phóng leo lên dõi mắt nhìn ra xa. Chỉ thấy cỏ cây vàng úa, mưa không ngớt hạt, bóng chiều trải rộng, trong lòng không khỏi có chút bồi hồi xao xuyến. Chợt y nghe thấy tiếng lạc ngựa reo vang, nhìn xuống phía nam thì thấy có khoảng tám chín cỗ xe đang chật vật lăn bánh trên đường, lại có thêm khoảng hai mươi người hộ vệ theo sát phía sau giữa đám bùn lầy. Đoàn xe đi thành một hàng dài, người đánh xe rất thiện nghệ lão luyện nhưng bánh xe cứ ngập vào trong bùn. Hơn hai mươi người hộ vệ này đều mười phần tinh minh tráng kiện, chính đang vào tuổi thanh niên đẹp đẽ nhất, đang dùng hết sức để đẩy cỗ xe ra khỏi vũng bùn. Bọn thiếu niên này hình như là con nhà gia giáo, tuy gặp phải thời tiết chết tiệt như vậy nhưng không hề mở miệng mắng chửi câu nào, chỉ chăm chắm hết sức đẩy xe. Nếu quả bọn họ cũng bô bô thóa mạ như mấy khách nhân trong khách sạng, hơn hai mươi thiếu niên huyết khí phương cương cùng cất giọng quát nạt, nhất định là sẽ long trời lở đất. Đoàn xe chỉ còn cách khách điếm chẳng bao xa, thế mà trong quãng đường ngắn ngủi này đoàn xe đã bị sa lầy tới năm sáu lần, chỉ cần 1 xe sa lầy, thì xe trước xe sau đều phải dừng lại, vết bánh xe hằn lên rõ rệt chứng tỏ hành hóa trong xe rất nặng.

 Từ xa, Trầm Phóng thấy cả bọn tiến vào khách sạn, bọn họ có vẻ đã nhiều lần qua lại chốn này, đã có quen trước với chủ khách sạn, vừa đến cửa ông chủ đã chạy ra chào hỏi luôn miệng. Trầm Phóng còn đứng đó thêm một lúc, đợi tới khi bốn bề đã mờ ảo mới mang đôi guốc gỗ quay trở về.

 Vừa đến cửa điếm, đã phát hiện trụ gỗ trước cửa không biết từ lúc nào đã có buộc một con lạc đà. Con lạc đà này ốm nhom ốm nhách, hai cánh cửa khách điếm đã bạc màu, con lạc đà này bị buộc ở đó càng lộ rõ màu lông vàng khè. Từ đầu đến chân nó ướt sũng bùn đất, dơ dáy bẩn thỉu, trên lưng lủng lẳng một cái bướu, mềm oặt ngả qua một bên, không biết bao nhiêu ngày chưa được ăn no, trên mình không có yên cương. Con súc sinh này khá cao, bốn chân ốm nhom càng làm làm nổi bật bộ móng guốc to kệch. Hai mắt lờ đờ đi đứng chật vật. Giang Nam vốn không hề có loài này, thỉnh thoảng mới có người ở quan ngoại đi qua đem đến, hèn gì cả đám người xúm xít dòm ngó, hai đứa con của điếm chủ đứng ngay ngoài cửa, mưa gió tạt vào mà vẫn không chịu đi, đúng là "nhìn lạc đà giống như ngựa bị gù lưng", thật là kỳ lạ.

 Trầm Phóng cũng lần đầu tiên được nhìn thấy nên không khỏi nổi tính hiếu kỳ, bèn quay người nhìn kỹ một lúc. Tên hầu bàn trong khách điếm vốn rất lắm chuyện, thấy y dừng chân ngắm bèn cười nói: "Tiên sinh thấy có lạ hay không? Phải nói là tiểu nhân làm việc lăn lộn ở chốn này hơn hai mươi năm rồi, cũng là lần đầu tiên nhìn thấy giống vật này. Đúng là sống lâu lên lão làng, con súc sinh này bộ xương lớn như vậy, không biết có mang nổi đến một trăm cân hàng hóa hay không?"

 Trầm Phóng ước lượng thân hình của con lạc đà, nghĩ rằng tên hầu bàn nói cũng có lý.

 Tên hầu bàn vừa nói vừa chau mày: "Một vị đại ca mặc áo đen chẳng dặn dò nên cho con lạc đà này ăn cái gì cả, chẳng phải nó đói đến mềm người ra rồi sao? Chỉ nói rằng cho nó uống hai ngụm rượu có tưởng nổi không? Còn anh chàng 'khách phương xa' này, hỏi xem tiểu nhân đem cho cái gì ăn đây?"

 Trầm Phóng vừa lơ đãng nghe mấy lời phẫn nộ của gã, vừa bước vào cửa, nhìn thấy ông chủ đang tiếp đón đám người bảo tiêu, rối rít xin lỗi tiêu sư: "Thật là không phải chút nào, cơn mưa này vừa ập xuống, đến hôm nay bao nhiêu phòng đều đã ở đầy người rồi. Các đại gia định làm thế nào? Chỉ đành phải chịu thiệt thòi, một chút, cho các vị tiểu ca đây ngồi tạm tại phòng trước, rồi trải chiếu ngủ tạm thôi. Bọn tiểu nhân hai người không dám nghỉ ngơi để hầu hạ các vị, có dặn dò gì chỉ cần hô lên một tiếng, bọn tại hạ đã sắp xếp một căn phòng hẹp, xin mời Tần lão gia cùng hai vị tiêu sư vào phòng nghỉ ngơi. Tần lão gia, ngài thấy vậy có được không? Làm các ngài phải bất tiện vậy, tiểu nhân đúng là hổ thẹn quá."

 Đám võ sĩ đang ngồi rửa mặt, bà vợ chủ quán ngọt ngào chào mời, đích thân đem khăn ra cho bọn họ. Hai vị tiêu sư chẳng nói gì nhiều, chỉ nghe theo sự phân phó của Tần lão gia. Vị Tần lão gia này là một lão già gầy nhom, mặt chằng chịt vết nhăn, đầu tóc bạc phơ nhưng tinh thần vẫn còn rất hăng hái, không nhìn ra được lão ta bao nhiêu tuổi rồi. Lão vì công phu thâm hậu cùng với tinh thần sảng khoái, cho dù đã nhiều tuổi nhưng vẫn không có vẻ già yếu. Chỉ nghe lão nói: "Cứ vậy đi, ra khỏi nhà còn đòi hỏi cái gì chứ, nếu mà muốn thoải mái thì cứ nằm nhà cho khỏe. Ngươi trước tiên hãy đem đồ ăn ra trước, sau đó mang mấy cân thịt bò thật ngon ra đây, bọn ta ai cũng đói lắm rồi, ăn trước rồi tính gì thì tính."

 Điếm gia vội dạ ran, thầm nghĩ hàng hóa lần này do đích thân Tần lão gia hộ tống, đúng là không phải chuyện tầm thường. Gã là người hiểu chuyện, biết là không nên hỏi nhiều, chỉ thầm tính toán, năm năm rồi mới thấy Tần lão đầu này đích thân hộ tống tiêu ngân, có thể thấy hàng hóa kỳ này rất quan trọng, vừa nghĩ vớ vẩn vừa chạy lăng xăng lo liệu mọi việc.

oOo

 Sảnh phía trước vốn chỉ là một cái hành lang, khí thu lạnh căm căm, chủ điếm vội đốt lên một cái lò lửa. Lửa mãi vẫn không cháy bùng lên được, bởi vì gã để dành lại củi khô, nhưng mà đa số đã bị ẩm ướt, cả phòng bốc lên đầy mùi nhựa tùng. Trước cửa treo một tấm màn vải bố để ngăn lạnh. Đúng lúc thắp đèn, bọn khách nhân chẳng có việc gì làm, ngoại trừ nằm lăn ra ngủ, đa số đều ngồi chơi ở phòng trước, tự mình tán dóc hoặc nghe người khác nói chuyện để giải sầu. Đồ ăn thức uống bày la liệt trên bàn, những người không ăn uống gì thì ngồi bó gối trên ghế, hoặc dựa vào góc tường, hoặc tụ tập quanh lò sưởi nhấm nháp cái gì đó. Trầm Phóng thấy Tam nương tử ngồi ở một cái bàn nhỏ trong một góc vắng, liền bước qua cười hỏi: "Nàng làm sao mà lại ra đây rồi?"

 Trên bàn bày món món rau dưa trông rất ngon lành: một đĩa măng, một con cá, một đĩa đậu hủ, một bát canh ngũ vị hương, trong khách điếm thế này mà lại có mấy món ăn như vậy, lại đúng với những thứ Trầm Phóng rất thích ăn. Trầm Phóng vừa nhìn qua, tuy là đang ở nơi đất khách, trong lòng cũng cảm thấy ấm áp an ủi.

 Tam nương tử khẽ cười nói: "'Vị vãn tiên đầu túc, kê minh tảo khán thiên; giang hồ đa phong vũ, tử tế thính nhân ngôn' (tối đến tìm nhà trọ, gà gáy đã lên đường, giang hồ nhiều bão táp, chú ý nhớ lời răn), đó chính là khẩu quyết giang hồ mà sư phụ của thiếp ngày đó đã dạy. Từ khi chúng ta đã phạm tội, thì không thể không để ý một chút, trong phòng tuy yên tĩnh nhưng chẳng biết được chuyện gì, sao bằng ra đầy ngồi, một là có thể nghe thêm được vài tin tức gì mới, chốn nào nên tới, chốn nào không nên tới, hoặc là những lời đồn bất lợi gì, hai là, muốn gọi vị quân tử nho nhã như chàng đây thưởng thức chút mùi vị giang hồ, chàng xem thử so với vườn rộng sân sâu của nhà chàng, thì căn khách sảnh mộc mạc này thế nào?"

 Trầm Phòng biết là nàng đang trêu chọc mình, chỉ mỉm cười rồi ngồi vào bàn, vừa mới ăn được hai miếng rau, đột nhiên thấy ngay hai ông cháu đang ngồi cạnh lò sưởi là lão già mù kể chuyện và cô bé được Tam nương tử tặng cho cành mộc thoa mà mình đã gặp trên lầu mấy hôm trước. Hai người trên người quần áo mỏng manh, lại bị ướt đẫm mưa, đang ngồi bên ngọn lửa hong khô lại quần áo. Trầm Phóng lấy làm ngạc nhiên, đúng là chân trời góc biển chẳng có chỗ nào không gặp được nhau, không ngờ bọn họ cũng đến chốn này. Tam nương tử thở dài: "Chàng cũng nhận ra bọn họ rồi sao. Ôi, những người chạy nạn như thế thật đáng thương, chắc là tại Dư Hàng không có cách nào kiếm sống, nên vừa rồi phải theo đội tiêu xa đi đến đây. "

 Nói xong liền chỉ cho Trầm Phóng một thiếu niên mặt mày cục mịch, khi nãy chính cậu đã đỡ lão già đã kiệt sức tiến vào đây.

 Trầm Phóng à một tiếng, rồi thừa dịp dõi mắt quan sát xung quanh, chỉ thấy một thiếu niên ăn vận toàn đen đang gục đầu xuống một chiếc bàn bẩn thỉu ở gần cửa ra vào, trên bàn có đặt một tay nải, có vẻ rất giống với mô tả của điếm tiểu nhị về chủ nhân của con lạc đà khi nãy. Nhìn gã có vẻ như là đang say ngủ, đầu gục vào tay không thấy rõ mặt, thân hình rất là ốm yếu, ngoài ra chẳng có điểm gì đặc biệt. Trên chân bám đầy vết bùn, chắc là đi đường cũng khá xa rồi, mặc dù nhìn bề ngoài rất mệt mỏi, nhưng bên trong vẫn có thể thấy được con người vẫn còn tràn đầy sinh lực. Nhìn qua y phục thì có thể thấy người này đến từ quan ngoại, chẳng biết vì sao lại đi đến tận chốn Giang Nam này. Chất liệu bộ y phục màu đen của y rất là kỳ lạ, không phải vải gai cũng không phải vải bố nhưng cũng xù xì không kém, tay nải trên bàn cũng rất nhẹ, làm người ta không thể đoán được gã là người thế nào. Trầm Phóng cảm thấy có đôi chút kỳ lạ, khi nãy chính y đứng ở ngọn đồi đầu trấn khá lâu, nhưng không hề thấy gã tiến vào, cũng không thấy gã từ hướng nào mà tới. Y nghĩ đến đây thì thu ánh mắt về, tim đập loạn lên, cảm thấy ở người thiếu niên này có cái gì đó làm y vừa hưng phấn vừa quen thuộc như đã từng gặp ở đâu, không khỏi nhen nhúm chút bất an, nhưng không hiểu là vì đâu. Trầm Phóng quay đầu lại nhìn thêm lần nữa, chỉ thấy giữa cổ áo và gáy của y hở ra phần cổ rám nắng, mềm mại nhưng vẫn chắc nịch, màu sắc rất kỳ lạ, làn da nhìn cũng rất mịn màng, khiến người ta nhìn qua một lần là nhớ mãi. Dáng cổ của thiến niên này đầy sinh lực của tuổi trẻ, vừa đầy đặn cũng vừa chắc nịch. Tam nương tử cũng để ý đến gã, khẽ thầm thì: "Thiếp cũng nghĩ rằng chàng thiếu niên đó rất kỳ lạ. "

 Trầm Phóng cười nói: "Nhìn có vẻ là người ở quan ngoại, không hiểu vì sao lại lạc bước xuống phương Nam làm gì? Vùng biên tái chẳng phải là rất tốt sao? Nàng chưa thấy con lạc đà của gã, con súc sinh đó thật là kỳ quái... " Đang nói đến đây thì điếm chủ chạy tới cười cầu tài với bọn họ xin bọn họ chuyển bàn vào sát tường hơn một chút, để có chỗ sắp ba cái bàn lớn cho bọn người trong tiêu cục ngồi, bọn Trầm Phóng nghe vậy cũng nhường cho bọn họ. Lúc đó trong khách điếm người nhiều mà chỗ thì chật, chỉ có vài ba khách nhân ngồi ở bàn riêng rẽ, vợ chồng Trầm Phóng tuy y phục giản dị, nhưng một người thì văn vẻ nho nhã, một người dung mạo như hoa, nổi bật hẳn lên giữa đám đông hỗn tạp. Lạ ở chỗ gã thiếu niên đang nằm gục trên bàn thì chẳng ai để ý tới, có lẽ bởi vì họ chỉ thấy gã cỡi con lạc đà đi đến, chỉ tập trung vào con lạc đà mà nhìn không ra vẻ kỳ lạ của chủ nhân. Mấy cỗ xe ngựa của tiêu cục lúc này đều đã yên ổn đậu lại trong sân sau. Bốn người hộ vệ chuyên thủ bên trong xe đang ăn uống, còn nhửng người khác chỉ ngồi trong sảnh, bọn họ cũng rất đói, nhưng theo đúng quy củ, không giục giã bưng đồ ăn lên như những bàn khác, cũng chẳng để ý đến tiếng ăn uống nhồm nhoàm xung quanh.

 Trầm Phóng lấy làm tò mò muốn biết đây là tiêu cục nào. Cả đời y chẳng có mấy cơ hội được giao thiệp với những kẻ giang hồ bán mạng thế này nên chăm chú quan sát, thấy trên bàn của họ có cắm một cây cờ nhỏ, lúc ăn cơm mà cũng không quên đem theo chiêu bài. Trên lá cờ dùng chỉ kim tuyến thêu một con rồng vàng có tám móng, phía dưới dùng chỉ đỏ thêu năm đám mây đỏ rực, lại dùng chỉ đen thêu hai chữ Lâm An, mũi thêu cực kỳ khéo léo. có thể thấy uy tín của tiêu cục này không nhỏ. Tam nương tử lẩm bẩm: "Lâm An tiêu cục, Lâm An tiêu cục, đây có phải là Lâm An tiêu cục ngày trước lúc 'Nê Mã độ Khang vương' hộ giá có công, sau đó được hoàng thượng đích thân ngự bút ban cho danh hiệu Giang Nam đệ nhất tiêu cục hay sao? Chưởng quản tiêu cục hình như chính là Long lão gia tử của Ưng Hạc Song Bác Môn. Nghe nói bọn họ hơn mười năm nay chẳng hề đích thân đi làm chuyện gì nữa, lần này không biết là loại hàng hóa gì mà cần phải có nhiều người áp tải như vậy chứ?"

 Trầm Phóng biết nàng rất thông thạo chuyện trên giang hồ, cười hỏi: "Thế nào, nữ hiệp của chúng ta có ý kiến gì về bọn họ hay không?"

 Tam nương tử cười phì một tiếng: "Chàng muốn nói là nữ cường đạo chứ gì?" Vừa nói vừa để tâm quan sát kỹ mấy bàn bên cạnh. Cách nhìn của nàng có khác với Trầm Phóng, ánh mắt dường như vô ý, nhưng lại bao quát hết tất cả mọi người, không có gì lọt ra khỏi sự quan sát của nàng. Khóe môi trễ xuống cười nói: "À, tổng cộng có ba tiêu sư, tên trẻ tuổi mắt to kia chắc là mới vừa xuất sơn, chẳng thấy có gì đặc biệt, nhưng hai người còn lại một luyện Thiết chưởng công phu, một luyện Ngũ hổ đoạn hồn đao của Bành gia."

 Trầm Phóng biết nàng đang nói cho mình nghe, y vừa ngạc nhiên vừa khâm phục. Tam nương tử lại chỉ tay vào lão già đầu tóc bạc phơ nói: "Nhìn kìa, lão già đầu bạc đó có lẽ là họ Tần, chàng đừng tưởng giành lấy đồ ăn trong miệng lão là đơn giản! Lúc lão già ấy tung hoành giang hồ thì thiếp còn chưa biết là đang ở đâu nữa kia. Chắc chỉ có Long lão gia tử mới đủ tư cách mời lão ta làm phó tổng tiêu đầu mà thôi. Dẫu cho thiếp thêm mấy lá gan, thiếp cũng không dám động vào hàng hóa của bọn họ đâu."

 Trầm Phóng cười nhẹ nói: "Phó Tổng Tiêu đầu? Lâm An tiêu cục? Tiêu cục này gọi là Lâm An tiêu cục, đúng là xứng với tên. Ồ, Lâm An, Lâm An, lâm thời nhi an (an ổn tạm thời). Thật đáng thương cho bọn quan lại hiển đạt kia, đang lúc dầu sôi lửa bỏng, không nghĩ đến chuyện quân Kim uy hiếp kề bên, lang sói cạnh giường, chỉ biết thuê bọn tiêu sư bảo vệ gia đình của mình, chẳng lẽ không biết cái tổ bị rơi xuống, thì còn cái trứng nào lành lặn, bảo tiêu có giỏi cách mấy thì có tác dụng gì chứ? Đúng là lâm an lâm an, lảng tránh cầu an mà thôi!"

 Câu nói này y nói không lớn lắm, lại còn cách qua mấy người, tiếng cười nói huyên náo, nhưng vẫn thấy bên tiêu cục có hai người nhìn qua bọn họ, một chính là lão già họ Tần, người còn lại chính là tên thiếu niên mày thô mắt lớn. Tên thiếu niên mắt lộ vẻ bực mình, còn lão già họ Tần thì chẳng lộ vẻ gì, chỉ nhìn thẳng vào Trần Phóng. Trầm Phóng ngạc nhiên, Tam nương khẽ cười nói: "Bây giờ biết lợi hại của bọn họ hay chưa?"

 Vừa nói, Tam nương từ vừa cười vừa gật đầu hướng về bàn bên cạnh, nói: "Chư vị, xin đừng bắt tội, tướng công của thiếp là thư sinh đọc sách hay nghị luận nhiều chuyện, các vị lão sư xin bỏ qua cho. "

 Giọng nói của nàng trong trẻo, tuy không lớn lắm, nhưng có ý muốn cho mấy nguời đó nghe thấy, mọi người bên cạnh chẳng ai nghe thấy gì, thế mà bọn người bên kia lại nghe thấy. Lão già đứng đầu lại liếc sang Tam nương rồi khẽ rướn người nói: "Không dám không dám, lời nói của vị tiên sinh này đúng là không sai, chỉ có điều bọn ta chẳng qua chỉ là bọn thảo dân thấp hèn, bởi vì phải nuôi vợ nuôi con, nên đành chấp nhận làm mà thôi. "

 Lần này Trầm Phóng cực kỳ kinh ngạc. Cách xa như vậy nhưng Trầm Phóng cảm thấy giọng nói của lão không cao không thấp, chẳng khác nào như đang nói bên tai, tựa như mình đang ngồi bên cạnh lão vậy. Liếc mắt nhìn quanh, mấy người xung quanh dường như chẳng ai nghe thấy gì, trong lòng còn kinh hãi gấp bội. Lại thấy Kinh Tam nương chẳng hề đổi sắc, chạm mắt vào lão già rồi lập tức liếc đi chỗ khác. Khi mục quang của hai người chạm nhau, tựa như có tiếng binh khí va chạm tóe lửa, đến Trầm Phóng cũng có thể nhìn ra được. Sau đó bọn họ cùng ngoảnh mặt sang chỗ khác, tựa hồ chẳng ai để ý đến ai nữa. Một hồi sau, Tam nương mới hừ nhẹ một tiếng rồi cười nói: "Lão hiển lộ công phu như vậy là để cho thiếp coi, đúng là gừng càng già càng cay, lúc vào cửa đã nhìn thiếp chằm chằm, chẳng lẽ trên mặt thiếp có ghi chữ ăn trộm hay sao?"

 Trầm Phóng bật cười, phải biết Tam nương khí chất cao nhã, ngay cả người bình thường cũng còn chú ý đến nàng nữa là, tuy nhiên tính tình y vốn điềm tĩnh, mặc dù cùng Tam nương vợ chồng ân ái hòa hợp song không quen nói lời trêu chọc chua ngoa, do đó chỉ cười cười cho qua, không màng tìm biết phong cách của bọn giang hồ nữa.

oOo

 Hai vợ chồng đang nói chuyện chợt nghe rèm cửa soạt một cái, rồi một người sải bước tiến vào. Người này là hoà thượng, thân hình to cao vạm vỡ lắm. Gã chống một cây thuyền trượng bằng sắt, chắc là đi đường rất nóng, ngực áo phanh tanh bành, trên mình khí nóng bốc ngùn ngụt, y phục ướt sũng nước mưa, dán chặt vào người, mồm rộng mũi sư tử, lông mày sâu róm, lại mặc một bộ tăng bào vàng tươi, thứ màu vàng mà mấy cô con gái cũng không muốn mặc, gã khoác lên mình, trông chói chang kinh khiếp.

 Hoà thượng vào rồi liền gọi rượu, lại liếc sang bàn đám tiêu sư, như thể có gì đó bất mãn, gọi chủ quán om sòm. Trong lúc đợi chủ quán, gã lại nhìn đám bảo tiêu, hừ mũi vẻ khinh miệt. Lát sau điếm chủ chạy tới, hoà thượng nói:

 "Lấy cho ta ba cân rượu nóng ba cân thịt bò tái hoặc chín đều được, chỉ cần nhanh, cái chính là nhanh."

 Điếm chủ vâng lời, nghĩ phải sắp thêm một chỗ cho gã, bèn bảo:

 "Đại sư phụ muốn ăn uống không sao, nhưng phòng trọ thì đầy ắp khách rồi."

 Điếm chủ nhận ra gã hoà thượng này chẳng hiền lành gì nên phải rào giậu trước, tránh làm gã nổi giận, đó cũng là sự nhạy bén của người làm kinh doanh. Vậy mà hoà thượng có vẻ rất trầm tĩnh, chẳng hề để tâm, gã lại nhìn người bên bàn tiêu cục một lát, mới nói:

 "Có phòng ta cũng không trọ, khỏi phải nhìn mấy cái đứa con rùa cháu rùa kia." Đoạn lại lẩm bẩm vẻ thù địch rõ rệt, "Bọn cháu rùa chạy nhanh thực, lão tử uống một ngụm rượu thôi mà suýt nữa không bắt kịp, ha ha, làm lão tử cuống cả lên."

 Gã bảo tiêu trẻ trai mày rậm mắt sâu ra ý giận, áng chừng sắp lên tiếng, đám người ở bàn tiêu cục cũng cùng biến sắc. Thình lình lão già họ Tần khẽ đưa mắt cho họ, cả đám cùng cúi đầu nín chịu.

 Khách điếm thảy đều kinh ngạc: phải chăng hoà thượng này là cường đạo? Ai nấy vừa căng thẳng vừa hiếu kỳ, không hiểu hắn ta đơn độc hành tẩu hay là đi trước đồng bọn để dò đường. Trông cái bộ dạng ấy thì chỉ mình hắn ta cũng có thể gây đủ thứ rầy rà rồi, người thận trọng thì lo lắng, bất giác quờ tay vào hành lý của mình.

 Hoà thượng nhìn khắp bàn nào cũng có người, đâm bực ngoác miệng chửi:

 "Hôm nay lão tử xúi quẩy thật, gặp phải trận mưa bẩn thỉu đã đành, khó khăn lắm mới tìm được một cái quán thì lại hết sạch chỗ ngồi rồi, là sao?"

 Chợt thấy ở chỗ khuất bên ngách cửa có một thiếu niên áo đen ngồi một mình một bàn, đang gục mặt ngủ, hắn làu bàu:

 "Người đông thế này ngươi dựa vào cái gì mà chiếm riêng một bàn?" Nói rồi lại gần, chẳng nói năng gì cả đập bẹt tay xuống mặt bàn, thực khiến đồ vật ngả nghiêng nền nhà rung chuyển, mặt bàn vỡ nứt, xong xuôi hắn mới bảo rằng:

 "Thằng lởm ngươi có quyền gì ngồi hẳn một bàn?"

 Thiếu niên choàng tỉnh, ngơ ngác ngẩng đầu, mọi người vừa trông rõ mặt đều ngấm ngầm khen ngợi, chàng ta ngũ quan đoan chính, làn da rám nắng, đường nét khuôn mặt cân đối, mi mắt thanh tú, đôi má xanh xao, càng khiến bộ áo đen thêm nổi bật. Giang Nam không thiếu những người thanh tao, nhưng ít người toát lên được phong vận thần khí như chàng trai này, cũng không thể nói là chàng đẹp trai lắm, nhưng ở chàng có một thứ gì đó siêu phàm hơn tự nhiên. Hoà thượng chẳng thèm ngó ngàng nhiều, vung tay nắm luôn lấy cổ chàng nhấc lên để giành chỗ ngồi cho mình.

 Hắn vận kình rất mạnh, thiếu niên vốn đã nhẹ cân, lại không đề phòng, loáng một cái là bị lôi bật ra khỏi chỗ ngồi, lảo đảo một lúc mới đứng vững. Hoà thượng lúc ấy đã an toạ rồi, thấy chàng liểng xiểng liêu xiêu cũng hơi áy náy, lẩm bẩm trong bụng:

 "Úi con bà nó, người ngợm sao nhẹ bỗng, ta cũng chẳng nặng tay mấy mà..."

-------Còn tiếp Hồi 3-------

Nói rồi, lại nhìn chàng thiếu niên nạn nhân. Thiếu niên đứng vững thân hình, hòa thượng bỗng chốc ngây mặt ra, mọi người lúc này càng nhìn rõ thiếu niên đó hơn, cả nhà sư và các thực khách đều ngỡ ngàng. Nguyên là chàng thiếu niên vào tiệm lúc quán vắng khách, lại úp sấp xuống bàn ngủ luôn, vì vậy không ai trông thấy mặt chàng, bây giờ bị hòa thượng lôi một cái suýt ngã vào đĩa đèn dầu, ánh đèn đã soi tỏ chàng đến từng chân tơ kẽ tóc, khiến chỉ cái nhìn đầu tiên cũng khiến người ta khó quên, thân hình hoàn hảo, vai thon tay dài, eo nhỏ hông hẹp, chàng đứng đó, cao ngạo thẳng thớm, mắt-mũi-tai-miệng đều hài hòa cân xứng. Rất nhiều người chưa gặp một công tử đẹp như thế bao giờ, có kẻ còn tức giận nhìn hòa thượng, ánh mắt đầy vẻ bất bình: muốn thiên hạ phải đối xử với ngươi thế nào đây, vừa vào là suýt chút nữa hất người ta lộn cổ. Hòa thượng cũng gãi đầu lẩm nhẩm, "Thật là một người thanh tú tuấn lãng! Mẹ ơi, bần tăng lỗ mãng quá."

 Mọi người thấy y ngờ nghệch ngơ ngẩn như thế thì cũng tức cười. Tiểu nhị đã đi lấy một cái bàn khác đến, sợ sinh chuyện nên đặt thật xa hòa thượng, mời thiếu niên ngồi. Thiếu nhiên cũng ôm khăn gói sang, rồi gục mặt xuống bàn ngủ tiếp.

 Ai nấy lại quay về việc của mình. Một giọng con gái non nớt bỗng vang lên, "Ông ơi, hai cái bánh bo bo này, một của ông, một của con nhé." Đó là hai ông cháu lão mù đang ngồi gần lò bếp để hong khô quần áo. Cô bé cầm một cái bánh bao ở tay trái, tay phải giả vờ cầm một cái khác. Cô chìa tay trái kèm cái bánh ra cho ông: "Ông ơi, cái này nhỏ phần ông."

 Lão mù thắc mắc hỏi: "Hồi trưa còn có một cái thôi mà, sao giờ lại biến thành hai?"

 Cô bé cười đáp: "Lúc trưa con đếm nhầm đó, hóa ra dưới đáy túi còn một cái nữa." Nói rồi giả bộ cắn nhưng lại nhổ toẹt ngay, "Ông, cái này hơi thiu rồi." Mọi người hiểu ra cô bé không đủ lương khô, chỉ còn thừa một cái bánh bo bo, sợ ông không chịu ăn nên mới nghĩ cách để ông ăn một mình, ai nấy đều thấy cay mắt.

 Lão mù tin ngay, bắt đầu ăn phần mình, vừa ăn vừa từ tốn bảo: "Cái con bé này, đừng có khó tính nữa, trồng trọt gặt hái không đơn giản đâu, có ăn là có phước rồi, đừng nhổ ra. Hôm nay là có mà ăn đấy, mai rồi không biết ăn gì."

 Cô bé còn nhỏ mà hiếu thuận, thực khách đều cảm động, muốn nghĩ cách giúp cô một bát cơm. Hòa thượng nọ cũng trông thấy, gãi đầu lia lịa, lẩm bẩm, "Con bà nó, con bà nó," rồi vụt đập bàn đánh thình, gọi toáng lên như sấm động "Tiểu nhị!" Tên tiểu nhị nghe gọi giật thót cả mình, hòa thượng lại thét, "Mau đem mấy cái bánh bao nóng ra cho hai ông cháu cô bé! Bánh có nhân thịt ấy, thêm mấy tảng bò khô cho họ ăn đường, à hai bát súp nóng nữa, mau!"

 Tiểu nhị ngẩn người, hòa thượng nổi giận, "Sao, sợ lão tử ăn quỵt hở?" Điếm tiểu nhị vội vàng gật đầu tuân lệnh. Mọi người thấy hòa thượng tướng mạo xấu xí, hành động thô lỗ, vốn đã ghét sẵn, hóa ra y lại là một người tốt. Cô bé con không ngờ mình may mắn thế, vội đứng dậy cảm tạ, chẳng biết chua xót thương thân hay nghĩ đến việc gì khác mà nước mắt ròng ròng.

 Ngoài trời, mưa càng lúc càng mau, càng lúc càng dữ. Khá lâu sau chen lẫn nhịp mưa có tiếng người cưỡi ngựa đến rồi chửi mắng om sòm ngoài cửa. Điếm gia vội chạy ra dắt ngựa, kế đó là tiếng người nói rất to, giọng điệu huênh hoang tự đắc, vén rèm vào, đó là một người hơn ba mươi tuổi, mồm nhọn má hóp, mặc một chiếc áo khoác lụa, phục sức như người nhà quan. Đúng là "gia nhân của tể tướng cũng chẳng kém gì quan thất phẩm", người này bộ dạng kiêu ngạo, đưa mắt quét khắp quán một lượt, đúng như hắn nghĩ, trong quán không có quan cách nào cả, vậy là hắn để lộ vẻ khinh miệt rõ rệt. Lúc trông thấy bàn của đám tiêu sư, hắn hơi chững lại một chút, chừng như quen biết, giơ tay bắc loa gọi lão họ Tần: "Tần lão gia tử, ông cũng ở đây à?"

 Lão họ Tần khom mình đáp, "Lai quản gia đi công cán đấy ạ? Không ở phủ thị hầu Vạn Sĩ đại nhân ư?"

 Người đó nhìn kiểu gì cũng không giống một quản gia chính quy, Tần lão gia tử gọi như vậy có lẽ để cho dễ nghe. Viên "Lai quản gia" nọ quả nhiên tươi mặt, vừa rũ bùn vừa đáp, "Không, chỉ tại cái lão mù và đứa oắt gái sống dai của lão, Vạn Sĩ đại nhân sai tôi đến, bảo tôi thông tri cho các phủ vệ bắt lại, nên tôi mới phải đội mưa mà đi thế này."

 Hắn vẩy chân mấy phát thật mạnh, bùn nước bắn văng lên cả mặt những người ngồi trên mấy cái đôn thấp gần đó, người bị bắn thấy hắn nghênh ngang như vậy cũng không dám hé răng, chỉ nhẫn nhục lau đi.

 Lão già họ Tần gật đầu, không nói gì nữa. Hai ông cháu đằng kia từ lúc hắn vào thì đã sợ run bần bật, sợ hắn trông thấy mình, cố gắng co cụm lại. Nhưng căn phòng chẳng mấy rộng rãi, hai người ngồi lù lù ra đó, náu vào đâu cho kín được? Lai quản gia vừa xoay mình là đã nhìn thấy ngay hai ông cháu, mặt mày nở nang hẳn ra, hắn cười khẩy: "Bảo sao sục sạo chỗ nào cũng không thấy các ngươi, hai tên nô tài ngu xuẩn, hai tên ăn mày, thì ra trốn ở đây bắt bọn ông phải đi tìm! Ngoan ngoãn ngồi đó đợi ta ăn xong bữa cơm rồi theo ta đi... hành bọn ông bị lão gia bắt ra ngoài giữa hôm mưa to gió lớn thế này, phải phát lạc các ngươi mới được!"

 Cô bé con nắm chặt tay ông, nước mắt vòng quanh, kinh sợ bàng hoàng, cuối cùng bật khóc nức nở. Thịt bò bánh bao mới cắn được một miếng đã không sao nuốt trôi nổi, khuôn mặt nhỏ kinh hoàng đến trắng nhợt, hai mắt đỏ hoe, trông rất đáng thương.

 Mọi người không hiểu chuyện gì xảy ra nên không tiện xen vào. Lão già họ Tần nhìn cô bé khổ sở định can thiệp, nhưng tên "Lai quản gia" chắc cảm thấy được nên phủ đầu ngay: "Chuyện này do chính đại nhân nhà chúng tôi đích thân phân phó." Lão họ Tần thở dài, không nói năng gì nữa.

 Lai quản gia cũng đói ngấu rồi, liền gọi đưa thịt đưa gà lên, ầm ĩ một lúc lâu mới chọn món xong, hắn cầm đũa, liếc hai ông cháu, chừng như sực nhớ ra chuyện gì, lẩm bẩm, "Con ranh tinh khôn, lần trước đã chạy thoát, lần này mình phải đề phòng mới được." Nói rồi hắn móc túi ra một bộ cùm và còng rất tinh xảo, trông chỉ độ hai ba cân, nhưng chế tác rất kín kẽ, phần dưới là hai cái vòng to, trên hai vòng to có gắn một sợi xích mảnh, dây xích nối lên với hai vòng nhỏ bên trên, dùng để ràng tay ràng chân. Trầm Phóng và Tam nương tử nhìn nhau, người này câu nào câu nấy đều nhắc tới đại nhân hoặc Vạn Sĩ, chắc đó là Vạn Sĩ Oa. Rất lâu trước đây dạo còn ở Trấn Giang, hai vợ chồng họ đã nghe tin môn sinh của Vạn Sĩ Oa là Ngô Cẩn nhậm chức Đại Lý Tự Thừa xong thì chế ra rất nhiều dụng cụ tra tấn kiểu mới, tên gia nhân này chắc là đầy tớ nhà Vạn Sĩ. Hình cụ đó cũng tương đối tân kỳ chưa thấy bao giờ, gã thanh niên mày rậm mắt to của bên tiêu cục trông thấy khó chịu, chực lên tiếng, nhưng Tần lão đã lắc đầu, đánh mắt ra hiệu lên tóc cô bé.

 Cậu chàng ngẩn người, thì thào một cách gấp gáp, "Sư bá, tốt xấu gì thì họ cũng đi theo đoàn chúng ta, tình cũng đáng thương, tiểu cô nương ấy lại hiếu thảo, một cô bé con như thế thì phạm tội gì được?"

 Lão già họ Tần vẫn lắc đầu.

 Chàng trai vớt vát, "Nhưng mà..."

 Lão già trỏ đầu cô bé, nói khẽ, "Con nhìn đi."

 Gã thanh niên đưa mắt quan sát, thấy ngoài một cây trâm gỗ ra thì không có gì lạ, chàng ta lại nghi hoặc nhìn lão già, Tần lão thì thầm, "Cô ta là người của Bồng môn, cây trâm đó là tín vật của Bồng môn. Con an tâm đi, tự khắc sẽ có người ra mặt giải quyết thay cho cô ta."

 Cô bé sợ hãi lùi mãi, lùi mãi, tên kia thì cứ lừ lừ tiến tới. Hoà thượng ngứa mắt chửi, "Cẩu nô tài, mày bắt nạt một con nhỏ là thế nào?"

 Lai quản gia nổi giận - hắn ta đâu dễ nghe điều phải trái, lập tức quay sang toan vặc lại, song thấy hoà thượng vóc dáng lực lưỡng, còn hắn một thân một mình, nghĩ thầm hảo hán không ăn thua cái nhục trước mắt, chỉ nghiêm trang đáp, "Nhà ngươi là người xuất gia, cơn cớ gì xía vào chuyện thiên hạ? Nó trộm đồ vật của lão gia nhà chúng ta, ta bắt nó, không được ư?" Nói rồi hắn ngoảnh nhìn về phía bàn của Tần Ổn, nhủ thầm phải lôi kéo được một quân cứu viện, nên bảo, "Không tin ngươi hỏi Tần lão gia, ta là người ở đâu, có bao giờ biết đặt điều vu khống ai bao giờ?"

 Cô bé con tuổi nhỏ mà hiếu thảo, vừa rồi mọi người đều chứng kiến, tất nhiên không tin cô đi ăn cắp đồ của người khác. Chưa ai lên tiếng, cô bé đã khóc to hơn, "Đâu có, làm gì có chuyện đó!" và bất thình lình chạy đến nấp sau lưng hoà thượng. Hoà thượng hỏi với giọng hiền từ hiếm thấy, "Cháu nhỏ, cháu kể xem, rốt cục là xảy ra chuyện gì? Đừng sợ, bần tăng sẽ giải quyết giúp cháu."

 Lai quản gia chừng như sợ cô bé sẽ tiết lộ nên xồng xộc tiến lại bắt cô. Hoà thượng nổi trận lôi đình, giơ tay tát một cú, tên gia nhân nhảy thốc về sau, né mình tránh, nhưng vẫn lãnh gọn một cái bạt tai của nhà sư nghe khô khốc, mọi người đều nghĩ, "Đánh hay thật!" Lai quản gia không ngờ hoà thượng dám động thủ, vội lùi lại mấy bước vuốt mặt trỏ tay mắng, "Con lừa trọc mày chán sống à, dám chõ cả vào chuyện của nhà Vạn Sĩ, môn sinh lão gia ta hiện là Đại Lý Tự Thừa, mày liệu hồn kẻo bị bắt về dần cho gãy ba trăm sáu mươi cái xương đê hèn!"

 Tên này không nói còn đỡ, hắn nói ra chỉ tổ khiến hoà thượng thêm tức giận. Thời ấy Đại Lý Tự là khét tiếng xấu, đã giam cầm chôn vùi không biết bao nhiêu oan hồn, đến trung thần như Nhạc thiếu bảo còn phải mất mạng trong đó. Hoà thượng lửa giận bừng bừng, nhưng không động thủ mà lại ngồi xuống, dạng hai chân, bảo cô bé, "Đồ chó này muốn lấy cái gì của cháu, cháu cứ thực tình nói xem."

 Tiểu cô nương thấy có người chống lưng, dần dần bớt run, bắt đầu thuật lại. Cô nghe ông mình kể truyện đã lâu nên giọng điệu rất lưu loát. Lai quản gia nhăm nhăm ngăn cản, nhưng không dám đến gần. Cô bé nói, "Năm kia cháu và ông còn ở quê nhà Sơn Đông, vì cha cháu bị người ta đánh chết, mẹ cháu tái giá, quan phủ còn định đánh chết cả ông cháu, thế là ông và cháu bỏ trốn."

 Có người hỏi, "Vì sao quan phủ muốn đánh chết ông cháu?"

 Cô bé khóc, "Họ nói ông là 'Bát Tự Quân', in như cha cháu."

 Hai mươi năm trước, Bát Tự Quân đã chống Kim giết địch khắp vùng Sơn Đông, uy danh hiển hách, tiếng tăm lẫy lừng một thời. Thực khách bất giác đều nhìn sang ông lão mù, lão đang co ro rất đáng thương, hoá ra năm xưa cũng đã từng là một hảo hán, ai nấy đều dấy lên niềm tôn kính. Lão mù nghe đến ba chữ "Bát Tự Quân", bỗng nhiên ưỡn thẳng người lên như tưởng nhớ năm tháng roi vàng ngựa sắt năm nào.

 Cô bé kể tiếp, "Hai ông cháu lưu lạc đến Trung Đô, không có cơm ăn, cháu và ông đành kể truyện hát đàn để kiếm kế sinh nhai, cuộc sống vất vưởng, hôm no hôm đói, bữa cháo bữa rau. Đến một ngày, lạnh ghê lắm..." Cô bỗng run lên, đủ thấy ấn tượng ghi sâu biết chừng nào. Đất Trung đô ở phương bắc, ăn mặc phong phanh thế kia thì còn đi đến đâu được, có thể tưởng tượng nổi thảm cảnh hôm ấy của hai ông cháu. Hôm ấy ngày dài đằng đẵng, hai ông cháu không có gì ăn, trời lại đổ tuyết, cháu và ông loanh quanh bên ngoài mấy tửu lâu, xin người ta chấm bài hát, mong đổi được mấy ngụm canh húp cho ấm bụng. Cháu chỉ có một chiếc áo bông trần còn sạch, áo khoác ngoài thì đã nát quá rồi, không dám mặc, sợ khách khó chịu nên chỉ mặc mỗi áo bông. Khổ nhất là ông cháu, ông chỉ còn một cái quần sót lại từ thời đánh trận, nhất định là lạnh hơn cháu nữa. Hai ông con đến cửa một tửu lâu lớn, đi vào cười chào hết lượt quan khách đầy tớ, cười đến cứng cả miệng, chỉ mong họ gọi chúng cháu hoặc đưa chúng cháu đến chỗ chủ nhân họ để hát một bài, đợi mãi đến tối mịt, nhà hàng bắt đầu đổ cơm thừa canh cặn, cháu muốn xin đầu bếp chút ít, nhưng bác ta chửi mắng ghê quá nên cháu không dám vật nài nữa. Ông chẳng nói gì, nhưng đôi mắt mù loà ứa lệ."

 Thực khách phần lớn là dân lao động, nghe kể đều thương xót ái ngại, cô bé tiếp, "Sau đó, có một người Nữ Chân đội cái mũ lông lạc đà to tướng gọi chúng cháu vào. Trong tửu lâu lúc ấy ấm lắm, lửa bốc ngọn cao than hồng rực, ông không nhìn thấy, nhưng cháu nhớ hết. Ngồi đầu bàn tiệc đều là các quan to, hai bên là các quan nhỏ, cháu đi vào mới biết thì ra có cả mấy vị quan là người Tống chúng ta. Cháu cũng không hiểu họ mang chức trách gì, có lẽ là các sứ bộ của triều đình ở bên Nam như người ta vẫn kể bấy nay. Người đứng đầu nhóm quan Tống hôm ấy là một ông béo ú trắng nộn, không có râu..." Cô sợ sệt đưa mắt liếc tên quản gia, mọi người hiểu ngay câu chuyện có liên quan đến hắn, "có lẽ là Vạn Sĩ đại nhân. Hôm ấy cháu đã lạnh đến cứng miệng, chỉ sợ hát không ra gì lại khiến ông cháu đói thêm buổi nữa, nên cháu vừa vào cửa là cố sức xoa nắn cổ họng. Hôm ấy, người này..." cô trỏ Lai quản gia "... đứng bên cạnh viên quan Tống mặt trắng. Cháu hát một tiểu khúc Sơn Đông, chẳng hiểu sao nhớ tha thiết dạo còn chơi vui với non nước và hoa xuân quê nhà, đúng rồi, hôm ấy cháu hát hay lắm, hát nhập tâm đến nỗi quên bẵng mình đang ở đâu, lúc sực tỉnh lại thì thấy mọi người đều vỗ tay vui vẻ cười, cháu biết là có cơm ăn tối rồi đấy. Viên quan Tống mặt trắng không râu cũng cười theo. Một viên quan nhà Kim nói bằng thứ tiếng Hán rất ngọng, 'Cô bé hát hay thật, thưởng', lập tức có người thưởng cho cháu một thoi bạc nhỏ, cháu mừng rơn. Viên quan nhà Kim lại ngoảnh sang nói với ông quan Tống mặt trắng không râu, 'Chúng ta đã nghe cô bé miền Nam hát rồi, dân tình thường nói đàn ông miền Nam hát cũng hay lắm, nhưng lão mù này thì không được, nghe đồn Vạn Sĩ đại nhân đa tài đa nghệ, mời ông cũng hát một bài đi,' Ông ta nói xong, mấy viên quan nhỏ người Kim vừa vỗ tay vừa cười rộ, 'Năm xưa hoàng thượng chúng tôi cũng đã từng xem hai vua nhà các ông nhảy múa, hôm nay chúng tôi lại nghe Vạn Sĩ đại nhân hát xướng coi sao.' Cháu thấy các viên quan Tống khác đều nghiến răng im lặng, có người cúi đầu, má đỏ lựng, riêng Vạn Sĩ đại nhân vẫn giữ vẻ mặt bình thản, ông ta nói, 'Nếu hạ quan hát hay, đại nhân cũng phải thưởng cái gì đó mới được,' Viên quan Kim cười ha hả, "Được, hát đi, hát đi, hay sẽ có thưởng.'"

 Người trong quán đều biết đại thần đi sứ nhà Kim thường bị làm nhục mà về, nhưng không tưởng được có kẻ mặt dạn mày dày vô liêm sỉ đến mức độ đó, chẳng khác nào nhổ nước bọt rồi tự liếm lại. Hoà thượng cáu kỉnh, "Hắn hát ư?" Cô bé gật đầu, "Hát chứ." Hoà thượng đùng đùng nổi giận, đập tay xuống bàn chửi rủa, "Cái đồ rùa đen đớn hèn rụt cổ", lại nhớ Lai Phúc đứng xớ rớ ngay đấy, y lắc mình đến cạnh, giơ chưởng tát bộp vào mặt hắn, Lai Phúc không tránh kịp, ộc một tiếng, nhổ ra ba cái răng gãy. Con người hắn hèn hạ, ở đây không có ai bênh vực, đành chỉ giương mắt mà ngó, đố dám hé răng ỏe hoe lời nào.

 Cô bé tiếp tục câu chuyện, "Sau đó cháu và ông lui ra. Đợt sau này, hai ông cháu không sống được ở miền Bắc nữa, trời đổi sang lạnh quá đỗi, ông bèn dắt cháu đến đoạn ranh giới với miền Nam. Cuộc sống rất chật vật, nhưng ít nhất không phải thấy người Kim đánh người Hán nữa. Trước tiên hai ông cháu ở Dư Hàng một thời gian, nhưng chính người Hán lại đánh người Hán mình. Hai ông cháu đi đến đâu cũng bị ức hiếp. Một hôm ông bảo, 'Đi, ông cháu mình lên kinh,' thế là mười mấy ngày trước chúng cháu đến Lâm An. Ôi, kinh thành to ơi là to, vừa đẹp đẽ vừa sang cả, không ngờ vừa chân ướt chân ráo tới nơi lại có khách gọi ở Thính Vân Cư. Chính Lai quản gia dẫn chúng cháu vào, ông ta không nhận ra cháu, nhưng cháu nhận ra ông ta ngay tức khắc. Căn phòng hôm ấy bài trí rất nhã, bên trong chỉ có hai vị lão gia đang uống rượu và một vị thư thư đứng thị hầu. Một trong hai lão gia nọ là Vạn Sĩ đại nhân. Hôm ông ta hát, tửu lâu sáng choang đèn đuốc, mặt mũi ông ta ra sao cháu nhìn rõ mồn một. Nhìn thấy cháu vào, ông ta hơi ngẩn người, chắc chắn có nhận ra cháu, nhưng giữ thái độ tỉnh như không. Cháu cũng sợ ông ta biết cháu đã nhận ra, nên càng không dám nói năng gì, ông cháu thấy cháu run bèn hỏi, 'Tiểu Anh Tử, con sao vậy?' Cháu không dám trả lời, Vạn Sĩ đại nhân trừng mắt nhìn cháu, vẻ cảnh cáo. Cháu hát được mấy bài, Vạn Sĩ đại nhân bèn gọi Lai quản gia đưa chúng cháu ra sau nghỉ ngơi ăn uống, hai ông cháu được dẫn vào một căn phòng rất nhỏ."

 Mọi người nghe đến đây, hiểu ra Vạn Sĩ đại nhân có ác ý. Ông ta rất vênh váo nghênh ngang ở chốn kinh kỳ này, làm sao lại để một cô bé con đồn đãi chuyện xấu của mình hồi đi sứ được. Anh Tử lại kể, "Cháu và ông đợi mãi trong căn phòng nhỏ, một lúc lâu sau vị thư thư ban nãy đi vào, tỷ ấy nhìn hai ông cháu rồi thở dài, trỏ đồ ăn bảo, 'Mời ông và muội ăn nhiều vào nhé,' Tỷ không bỏ đi ngay, cứ ngồi đó nhìn cháu thở dài sườn sượt, cháu bèn khẽ hỏi tỷ làm sao vậy. Tỷ ấy nói, 'Hai người đắc tội gì với Vạn Sĩ lão gia vậy? Vừa rồi tiễn khách về xong, ta nghe lỏm ông ấy dặn Lai Phúc đưa hai người nhốt vào Đại Lý Tự. Lai Phúc hiện đang đi thắp đèn bên phòng lão gia, chắc chỉ chừng thời gian dùng xong bữa cơm nữa là sẽ đến thôi.' Cháu phát hoảng, chúng cháu tuy đến miền Nam chưa lâu, nhưng cũng đã nghe nói hễ vào Đại Lý Tự thì rất ít người còn sống trở ra. Cháu sốt sắng bảo, 'Vậy muội và ông đi trốn đây,' Thư thư lắc đầu, 'Trốn đi đâu, mất công vô ích thôi, không thể thoát khỏi bàn tay ông ấy. Hơn nữa ông ấy sai ta đến đây cũng để canh chừng ông cháu muội.' Cháu và ông nín lặng, rồi khẩn khoản cầu cứu thư thư, tỷ ấy chỉ thở dài mà không nói gì hết. Bỗng nhiên tỷ nhìn lên tóc cháu, mặt hơi đổi sắc, xong trỏ chiếc trâm gỗ và hỏi, 'Ai cho muội cái kia? Trên đó có khắc chữ phải không?' Cháu gật đầu."

 Mọi người cùng nhìn lên mái tóc cô bé, quả nhiên có một cây trâm nhỏ bằng gỗ rất đơn sơ, chẳng ai hiểu nó chứa ẩn nghĩa gì, cô bé tiếp tục, "Thư thư sáng mắt lên ngay, tỷ run giọng hỏi, 'Cho ta xem một lát nhé?' Cháu tháo cây trâm xuống, tỷ miết lên nó một lúc lâu, vẻ rất xúc động chăm chú đọc những dòng chữ trên trâm, một lát sau như đã ra quyết định, khuôn mặt bừng sáng. Khuôn mặt ấy trát rõ lắm phấn, ban đầu cháu cảm thấy không đẹp, nhưng lúc này tự dưng lại thấy nó đẹp lên nhiều lần. Tỷ dịu dàng thầm thì, 'Mười năm, mười năm tròn chưa trông thấy cây trâm gỗ tử kinh này.' Sau đó tỷ thong thả dạy cháu đọc những con chữ..."

 Liền đó cô bé mô phỏng khẩu âm của người nữ tỳ và đọc, "Nhà gianh chửa biết lụa là hương, Muốn cậy mối mai lại tự thương, Biết trọng phong lưu người mấy kẻ? Cũng buồn thời thế giảm phô trương." Trong lầu có người thông chữ nghĩa biết đó là bài thơ "Gái nhà nghèo (Bần nữ)" nổi tiếng của Tần Thao Ngọc, chỉ không biết người ta khắc lên trâm với hàm ý gì? Trầm Phóng nhìn sang vợ, thấy vẻ mặt nàng khắc khoải xa xăm, ánh mắt loáng ướt.

 Cô bé nói, "Thư thư ấy đọc xong thì hình như khoan tâm hơn, mở cửa sổ sau nhà, làm lung tung lộn xộn đồ đạc trên bàn lên, lại chạy ra đẩy cánh cổng sân sau thông ra đường. Lúc quay về thì giấu cháu và ông vào trong giường. Trên giường có rất nhiều chăn nhiễu lụa là, cháu sợ làm bẩn nên không dám lên, tỷ cứ đùn cháu và ông vẫn còn đi nguyên giày dép lên giường rồi lôi ra một đống chăn gối, tỷ bảo, 'Mau, nấp vào đi kẻo không kịp!' Cháu và ông vội nấp vào sau đống chăn. Hai ông cháu vừa ẩn kín, tỷ ấy vừa vun chăn vừa dặn, 'Mai lúc tờ mờ sáng có một cỗ tiêu xa sẽ đi qua con đường ở cổng sau, hai ông cháu hãy cầu xin họ cho đi cùng. Họ rất rộng rãi, chắc sẽ đồng ý đấy, hai ông cháu trốn được hay không phải trông vào việc này vậy!'"

-------Còn tiếp hồi 3-------

"Một lát nếu có chuyện gì xảy ra cũng đừng lên tiếng, nhớ nhé, nhớ nhé.' Rồi chị dặn cháu lời cuối cùng, 'Mai sau, nếu muội có may mắn gặp lại người đã tặng muội cây trâm, hãy nhắn rằng thư muội chúng ta đều rất nhớ cô ấy.' Ngay lúc đó, ngoài cửa có tiếng bước chân." Cô bé trỏ Lai quản gia, "Hắn ta đến!"

 Từ đầu tới giờ, cô tỏ ra rất sợ người này, thế mà đến đây giọng nói đột nhiên trở nên đanh thép như thể có mối thâm thù đại hận nào. Tam nương tử cũng hơi biến sắc. Cô bé trỏ Lai quản gia, "Hắn ta, hắn ta vừa vào liền truy hỏi thư thư xem cháu và ông đâu, thư thư bảo lúc mới đến đã không còn thấy ai cả. Hắn cau mày nhìn ra cửa sổ hậu, rồi lại ra cổng vườn sau xem, lẩm bẩm, 'Hai tên đê hèn tinh ranh thật, làm nhọc thân lão tử rồi.' Hắn định bỏ đi, chợt đổi giọng trỏ thư thư bảo, 'Nhất định là ngươi đã thả chúng,' Thư thư nghe vậy kêu lên, 'Lai Phúc, lần trước ông ép tôi, tôi đã không tố giác ông, nay ông không thể hại người như thế được.' Hắn bèn cười hềnh hệch, 'Giờ ngươi cân nhắc thì không kịp rồi, ta sẽ thưa với lão gia, để lão gia chuẩn bị cọc chuối (1) cho ngươi dùng.' "

 Mọi người nghe đến hai chữ 'cọc chuối' thảy đều nhăn mặt, đó là một hình phạt tàn khốc áp dụng với phụ nữ thời cổ, quả thực là vô nhân tính. Anh Tử rõ ràng không hiểu cọc chuối là gì, lại tiếp, "Thư thư tái mét mặt, Lai Phúc nói, 'Thế hôm nay thì tính sao đây?' Thư thư gượng cười, nhưng không cười nổi, cháu biết tỷ ấy là kỹ nữ bán nghệ chứ không bán thân. Tỷ chợt bảo, 'Ông xem, con bé kia kìa!' Cháu sợ run lên, tưởng tỷ ấy hoảng quá mà chỉ chỗ hai ông cháu, nhưng hóa ra tỷ trỏ tay về phía cửa. Lai Phúc ngoảnh đầu nhìn, còn thư thư thì ngoái sang đống chăn mỉm cười, xong vớ lấy cái kéo đâm vào ngực mình, miệng lẩm bẩm, 'Ta dẫu chết cũng không để thân này ô uế trong tay hạng nô tài như ngươi.' Cháu khiếp hãi suýt thét thành tiếng, liền vội vàng cắn lấy chăn, cắn nát cả ra. Thư thư giãy đành đạch dưới đất một lúc, máu tuôn xối xả. Hắn, hắn nhổ vào mặt thư thư, chửi rằng, 'Xướng ca vô loài, đồ xúi quẩy,' xong giẫm mạnh lên người thư thư rồi bỏ đi, cháu đoán hắn giẫm như thế để giải đen."

 Tam nương tử rớm lệ, tay cầm đũa run bần bật. Nàng nghiến răng ngẩng phắt đầu lên, nước mắt rớt xuống. Trầm Phóng nhận ra sát khí thoáng qua trên vầng trán vợ, ruột gan lạnh toát liếc Lai Phúc, biết rằng dù lên trời xuống đất, tên tiểu nhân này cũng khó thoát nhất đao đoạt mệnh của Kinh Tam nương rồi.

 Câu chuyện Anh Tử kể quả thực khiến người ta kinh hãi. Hòa thượng tức giận hơn hết thảy, y đứng phắt dậy vả bốp vào mặt Lai quản gia, xuống tay rất nặng. Mặt tên tiểu nhân sưng tướng lên, hắn hộc ra mấy cái răng nữa. Nhà sư hầm hầm mắng, "Cô nương đó tuy thân phận hạ tiện, nhưng cái hạng như mày còn chưa xứng làm con người ta kia. Mụ đàn bà nào đẻ cái thằng Vạn Sĩ súc sinh kia thực đúng là gái điếm, đang yên đang lành sao lại tòi ra thứ tạp chủng ấy làm gì!"

 Mọi người nghe hoà thượng chửi thấy rất hợp ý, ngay cả bọn tiêu sư cũng ngấm ngầm khen phải.

 Thình lình có một giọng băng giá cất lên, "Kim hoà thượng oai ghê nhỉ!"

 Người vừa nói ngồi ở một cái bàn trong góc nhà cùng năm người khác. Dứt lời hắn đứng ngay dậy, tuột áo khoác xuống để lộ sắc phục bộ khoái bên trong. Bốn người đằng sau cũng đứng lên và hành động tương tự, cởi áo khoác xong họ nhảy phốc đến chia bốn hướng dồn Kim hoà thượng vào giữa. Người lên tiếng lúc đầu lạnh lùng bảo, "Kim hoà thượng, tìm nhà ngươi vất vả quá!"

 Nhà sư cười ha hả, "Ta cứ tưởng con rùa chui lủi nào, té ra là Hà bộ khoái, ngươi khỏi cần tuyên lão tử đã phạm tội gì, ta nói hộ luôn, tên chó má họ Lưu là do ta làm thịt."

 Hà bộ khoái cười nhạt, "Chân hán tử, thẳng thắn lắm!" đoạn liếc mắt về phía bàn mình, người còn lại vẫn đang ngồi nguyên chỗ đó. Ở trong nhà mà hắn ta còn sùm sụp cái nón tre, vành rộng kéo xuống rất thấp, cộng thêm ánh sáng lù mù chẳng ai nhìn rõ diện mạo hắn ra sao cả. Tam nương tử không để ý đến Kim hoà thượng, cũng không bận tâm đến Hà bộ khoái mà chăm chăm quan sát người đó, xong khẽ bảo Trầm Phóng, "Ngạo Chi, hắn ta là một cao thủ."

 Trầm Phóng chưa kịp nói gì thì gã đội nón tre đã cất tiếng, "Ngươi làm thịt? Vậy chí ít cho ta một duyên do, đừng buộc ta phải xuất thủ, ngươi cứ nghĩ kỹ đi rồi nói!" Ý tứ tựa hồ vẫn chừa đường thoát cho Kim hoà thượng, y buông từng lời từ tốn, song ngữ khí thì mạnh mẽ như đứng trước thiên quân vạn mã, tuy thế giọng điệu vẫn có vẻ gì đó quan cách.

 Nhà sư cười ha hả, "Duyên do? Ta đây xưa nay giết người chẳng có duyên do gì cả, mà dẫu có cũng không thèm nói cho hạng chim ưng chó săn như ngươi biết. Ai làm người ấy chịu, ngươi có giỏi tới mà bắt ta, còn không có bản lĩnh thì mau cuốn xéo."

 Người đội nón tre im lặng. Hà bộ khoái đưa mắt nhìn y như dò hỏi, y cứ trầm ngâm không biểu lộ gì. Hà bộ khoái đành nghiến răng, vẫy tay, bốn tên thủ hạ cùng tuốt đơn đao dồn lên. Thực khách thấy sinh chuyện đã tránh dạt hết ra, để chừa một khoảng trống giữa nhà. Kim hoà thượng hiên ngang đứng trong. Lúc này ai nấy đều đã cảm thấy hoà thượng là một tay khẳng khái chính trực, dẫu có giết người cũng chưa chắc là một việc xấu, nhưng người nhà quan đang làm việc, ai dám can thiệp, chỉ cầu sao tai hoạ không dính đến mình là phúc đức lắm rồi.

 Hà bộ khoái cười khùng khục, "Ngươi còn dám giết cả cháu trai của Lưu Kỳ Lưu đại soái, đúng là không còn vương pháp gì nữa cả. Kim hoà thượng, lần này ngươi gặp rắc rối to rồi... Còn không mau bắt lấy!"

 Hắn vừa dứt lời, bốn tên bộ khoái lập tức xuất thủ. Chúng đã nhanh, nhà sư nọ còn nhanh hơn, y múa cây thiết trượng gẩy một cái đĩa đánh trúng vào đầu một tên sai nha, cười sảng khoái, "Lão tử bình sinh luôn giết những kẻ trọc phú lắm tiền với công tử thiếu gia, đó là hạng khiến ta căm ghét nhất, trông thấy chúng ức hiếp người tốt là ta nổi giận, giết một kẻ bớt được một kẻ, giết hai kẻ bớt được một đôi."

 Trong lúc nhà sư nói, bốn tên kia cùng đánh vào binh binh binh bang bang, chỉ khổ cho đám bàn ghế bát đĩa, bị người ta đẩy tới cản lui, rơi gãy loảng xoảng.

 Hoà thượng tuy không tấn công nhưng múa cây thiền trượng rất uy dũng. Binh khí dài như vậy khó mà thi triển trong nhà, bốn tên sai nha tấn công bằng sự khéo léo, quấn riết lấy y khiến y khó bề trở tay được. Hoà thượng càng đánh càng bực, chửi mắng xơi xơi, song không công kích nổi. Thấy quần chiến thế này chẳng biết lúc nào kết thúc, y bèn ngầm quyết định, nhân lúc có kẻ chém đao đến thì y không tránh nữa mà vung quyền trượng quật thẳng vào một tên khác. Đao chém vào bẹn nhà sư khiến máu chảy dầm dề, nhưng kẻ bị y quật trúng kia còn lao đao hơn nữa, khuỵu luôn một chân xuống nằm quay đơ. Hoà thượng cười khẩy, "Thống khoái, t-h-ố-n-g k-h-o-á-i! Công sai là loại mà lão tử thích giết nhất." Đoạn đưa mắt đánh giá, thấy mình đã chiếm được ưu thế, y chửi mắng cười cợt càng ác liệt hơn.

 Hà bộ khoái từ đầu vẫn tỉnh bơ đứng bên lược trận, lúc này thình lình vung đao nhảy vào vòng chiến, đao phạt tới như rắn khạc độc, vai hoà thượng lập tức rịn máu, y loạng choạng. Hà bộ khoái lại mau chóng rút về thản nhiên quan chiến. Nhà sư tức giận chửi, "Đồ đánh lén, còn ra cái mặt hảo hán không?"

 Hà bộ khoái lạnh lùng đáp, "Ta là bộ khoái, không phải hảo hán. Ngươi là cường đạo, tất nhiên cũng không phải hảo hán." Trong lúc nói, lại thoáng nhìn thấy cơ hội, hắn phác một cử chỉ như sắp tấn công, song lần này nhà sư đã phòng bị, vội vàng thủ kín vùng vai ngực. Hà bộ khoái bèn đứng yên, nhưng bên hông hoà thượng bỗng để lộ một khe hở, một trong mấy tên sai nha bèn lách đao vào rạch rách cả áo, suýt chút nữa là thủng bụng rồi.

 Khách trong quán không biết võ nghệ, song cũng hiểu cứ đấu mãi thế này thì nhà sư tất thua. Người đội nón tre lên tiếng, "Kim hoà thượng, niệm tình ngươi là một hán tử, mau vứt binh khí theo ta đi cho khỏi nhục nhã thêm."

 Nhà sư tức giận đáp, "Đừng có mà nói láo, đi theo ngươi mới là nhục nhã! Gia gia đây thà chết trong chiến đấu, không thèm cái lối giả nhân giả nghĩa mèo già khóc chuột của ngươi đâu." Trong lúc đấu khẩu, áo y đã kịp rách thêm hai chỗ nữa, thân mình bị trúng thương, khuôn mặt y trở nên hung ác, áo rách bay phấp phới, bộ dạng như phát cuồng.

 Bốn thanh đao vây chặt lấy nhà sư, Hà bộ khoái lại phát hiện ra chỗ sơ hở và kè đao vào vai trái đối thủ, chỉ cần đắc thủ là có thể xẻ luôn xuống sườn. Chợt có tiếng hú cất lên, trước lúc hắn xuất đao đã có ba thanh đòn gánh gác lên ba thanh đao của ba tên sai nha, hoà thượng tận dụng được lúc rảnh tay, lập tức toàn lực phản kích, quật quyền trượng phong bế chiêu thức của Hà bộ khoái. Binh khí của y to và nặng, quật mạnh xuống tức nhiên có lợi. Hà bộ khoái mất ưu thế, đao bị mẻ luôn một miếng lớn, cổ tay cũng tê dại đi, hầu như suýt mất cái cầm bát cơm ăn, trong lòng kinh hãi. Hắn nhìn tác giả của mấy cây đòn gánh, đó là ba hán tử bộ dạng chất phác như dân quê, ăn vận kiểu nông phu điển hình, tướng mạo thuần hậu, họ Hà đã nhận ra là ai, cười nhạt bảo, "Trương Nhân, Trương Nghĩa, Trương Dũng, ta cứ ngỡ đã cho các ngươi một đường sống, nhưng hôm nay các ngươi tự mình tìm vào chỗ chết rồi. Xem chừng các ngươi có liên can với vụ án này hả? Đừng tưởng cậy chút võ công mà Hỗn Giang Long truyền lại là có thể dương danh với giang hồ đâu nhé, quan gia còn đang tìm chỗ sơ hở của các ngươi đó!"

 Ba người đó hiển nhiên là thân huynh đệ, lão đại lão nhị trông rất thật thà, riêng lão tam có phần bộp chộp sôi nổi hơn, cũng là người lên tiếng trước tiên, "Dân làm ruộng chúng ta và bọn thu tô các ngươi vốn đã ở vào thế bất lưỡng lập rồi, hôm nay không thể để các ngươi giết chết ân nhân của chúng ta."

 Hà bộ khoái cười âm hiểm, "A, ân nhân cơ đấy? Các ngươi bè đảng với tên hoà thượng này, vậy là đủ cớ để mất đầu rồi. Các ngươi cũng dự phần giết Lưu công tử đúng không? Công tử là con cháu nhà công thần mà các ngươi cũng dám giết, thật ngông cuồng! Hà hà, cho dù hôm nay ta không xuất thủ, cũng có người xuất thủ thôi." Nói rồi hắn lại liếc mắt về phía người đội nón tre ngồi đằng bàn, nhận thấy Kim hoà thượng đã có thêm ba viện thủ, chắc không dễ đối phó nữa nên định dẫn dầu châm lửa. Nhưng người nọ chẳng nói chẳng rằng.

 Người trẻ nhất trong ba anh em tiến lên trước, bảo hai huynh trưởng, "Đại ca nhị ca, các huynh còn chịu đựng được ư, đệ không nhịn được nữa rồi. Để bọn đục khoét này nó từ từ cạo xương hút máu chẳng bằng đánh dứt một trận cho thống khoái."

 Nhà sư vỗ vai gã bảo, "Tốt, chú họ Trương, bần tăng tuy giúp đỡ nhưng bấy lâu nay vẫn thầm xem thường sự khờ khạo của các chú, không ngờ chú vẫn còn bầu máu nóng của hán tử."

 Gã thanh niên cười ngượng nghịu, nói to, "Nay tôi xin thuật rõ vụ kỳ án này cho mọi người nghe. Các vị trong tiệm hoàn toàn không thân không thù với tôi, hẳn sẽ có nhận định khách quan về mọi điều phải trái. Chúng tôi dù chết cũng không để Kim đại sư mang tiếng ác, nhân đây cũng bày tỏ nỗi oan khuất của chính chúng tôi."

 Lưu Dụ Bản là danh tướng trung hưng, giết địch lập công, có ơn với dân, ban nãy mọi người biết Kim hoà thượng giết cháu ông ta, đều cảm thấy hoà thượng hành xử thật hồ đồ, nay nghe những lời của chàng trai trẻ này, tựa hồ bên trong còn có điều uẩn khúc.

 Chàng trai trỏ đại ca mình bảo, "Thưa các vị, xin hãy nhìn xem! Ba huynh đệ tôi đều khoẻ mạnh cường tráng, cày bừa mười năm mẫu ruộng xấu, kể ra cũng đủ độ nhật, song sưu cao thuế nặng, đại ca tôi hơn ba mươi vẫn chưa thành thân, mãi đến năm nay mới tiết kiệm được chút chút để cưới tẩu tẩu." Mọi người không hiểu sao gã lại còn dắt mối đến tẩu tẩu nữa, tên thanh niên này nói chuyện dây cà dây muống, không bằng cô bé con vừa rồi, "Chẳng ngờ chưa bước vào Trương gia, tẩu tẩu đã lọt vào cặp mắt diều cú của tên Lưu công tử, nhưng chính tẩu tẩu cũng không biết điều đó. Tẩu tẩu là con gái một người bán đậu phụ trong thành Hồ châu, ngờ đâu bị tai hoạ giáng xuống đầu. Cạnh nhà chúng tôi có một phú ông tên là Chu Đại Hữu, nắm trong tay mấy chục khoảnh đất, là bá hộ một phương, hơn mười năm nay vẫn dòm ngó mười mấy mẫu ruộng của anh em chúng tôi, vì mua được thì đất đai của lão ấy sẽ liền lạc một khối, nên suốt ngày rắp tâm tìm kế. Cũng may nhà chúng tôi đông con trai, nên mới không bị lão ấy cướp trắng."

 Khuôn mặt chàng trai đổi sang bi thương, "Ba ngày sau hôn lễ của đại ca, huynh đệ chúng tôi đi làm ruộng trở lại như bình thường, đâu ngờ lúc trở về thì thấy tẩu tẩu đã bị giết, thân thể trần truồng, cái đầu biến đâu mất. Mấy anh em kinh hoàng khiếp vía, khuyên giải đại ca đừng khóc xong vội vàng đi báo quan. Oan tình to bằng giời như thế mà chúng tôi vừa vào phủ nha đã bị huyện lệnh bắt trói hạ ngục, bảo rằng huynh đệ chúng tôi cùng cưới một người vợ, luân phiên cưỡng dâm rồi sát nhân diệt khẩu, định vào đại tội, lập tức đày lao, đợi đông sang thì sẽ hành quyết cả ba. Trời ơi oan uổng nào bằng! Phép quan là thế, dân chúng còn sống làm sao? Ca ca sợ liên luỵ chúng tôi, đành một mình nhận tội, nói rằng huynh ấy bất hoà với tẩu tẩu nên động thủ, tôi và nhị ca hoàn toàn không biết gì, tẩu tẩu là do một mình huynh ấy giết, huyện lệnh mới phóng thích hai chúng tôi. Đại ca nằm trong lao, vệ môn đòi đút lót, bảo chúng tôi muốn cứu đại ca thì phải có ngân lượng. Nhưng tiền bạc đã tiêu sạch cho đại ca cưới vợ rồi, chỉ còn lại mảnh đất đó thôi. Chu Đại Hữu là thân thích của quan huyện, nhân cơ đục nước béo cò, mua lại mảnh đất nhà tôi với vỏn vẹn mười lượng bạc, nhưng phủ nha vẫn không thả đại ca."

 Chuyện nhà giàu bày trò chiếm đoạt ruộng đất là một việc rất thường thấy hồi đó, người nghe không lấy làm lạ. Chàng thanh niên chỉ hoà thượng bảo, "Nếu không có vị đại sư đây, ba huynh đệ chúng tôi vẫn mãi còn u mê tăm tối. Hôm ấy, hai anh em tôi đến thăm đại ca về, vừa đi vừa khóc, đúng lúc đại sư đi ngang, thấy chúng tôi thảm thương quá thì tò mò nhìn xem. Chúng tôi chẳng để ý đến huynh ấy, vào cái lúc ngàn cân treo sợi tóc, người anh em máu mủ sắp chết rục trong oan khuất, tâm trạng tránh sao khỏi rối loạn. Đại sư thấy chúng tôi khóc mãi không ngừng thì rất bực, lại gần mắng, 'Hai cái thằng này, chúng mày bị vỡ noãn trứng à, làm gì mà nức nở thút thít thế, thật chẳng ra làm sao!' "

 Lời hoà thượng chính ra thật tục tĩu, nhưng mọi người nghe mà không trách cứ, lại bật cười. Chàng nông dân kể tiếp, "Huynh đệ chúng tôi không hơi đâu cãi cự đại sư, cũng chẳng chú ý gì đến y cả. Đại sư tuy thô lỗ nhưng rất nhiệt tình, cứ một mực truy vấn, cuối cùng huynh ấy dồn hỏi gắt gao quá, chúng tôi bèn đem tình thực nhất nhất thuật lại. Y bèn ngồi ịch ra nghĩ ngợi, chẳng hiểu nghĩ gì, chỉ biết lâu ơi là lâu, mặt trời đổ lửa khiến mồ hôi đầm đìa trên đầu y, y vẫn không mảy may nhúc nhích, chúng tôi bình thời chưa gặp ai nhiệt tâm như thế bao giờ, thình lình đại sư nhảy cẫng lên nói to, 'Không đúng, không đúngggggg!' Chúng tôi hỏi cái gì không đúng, đại sư im lặng nghĩ ngợi tiếp, một lúc lâu sau thì cười ha hả, bảo rằng, 'Đừng cuống, ngươi nghĩ coi, tẩu tẩu ngươi có phải là chết thật không?'

 Chúng tôi nghe mà ngẩn người ra, chính mấy huynh đệ đã tận mắt nhìn thấy không lẽ sai? Đại sư hỏi, 'Huynh trưởng các ngươi mới cưới có ba ngày thật chứ?' Chúng tôi gật đầu, y hỏi tiếp, 'Vậy hai vợ chồng nhà ấy thường đi ngủ khi đêm xuống hay lúc ban ngày? Thắp đèn hay tối mò?' Y hỏi câu này thì chúng tôi đúng là dở khóc dở cười, huống hồ người xuất gia mà bạo mồm bạo miệng như vậy, định đùa à, chẳng phải là lừa người hay sao? Hai huynh đệ cáu điên lên, định nện cho y một trận, nhưng câu tiếp theo của đại sư quả thực chí lý, 'Cái thây ấy mất đầu đúng không? Lột sạch quần áo rồi đúng không? Không có đầu mặt, vì sao huynh đệ ngươi biết đúng là tẩu tẩu? Các ngươi đã trông thấy bao nhiêu đàn bà khoả thân? Làm sao phân biệt được thi thể tẩu tẩu ngươi hay là người khác? Đừng cuống, ta đoán nhất định không phải chị dâu các ngươi. Thủ phạm thật bày ra như thế để lấp tai che mắt mấy ngươi, khiến các ngươi lầm tưởng người chết là tẩu tẩu để chúng dễ bề giở trò, chứ bình thường giết người xong thì thôi, còn chặt đầu làm cái gì? Vui lắm hay sao? Để làm bô tiểu đêm à?' "

 Mọi người nghe tức cười quá, song cũng mang máng thấy lời lẽ tuy thô tục nhưng ẩn chứa không ít lý lẽ, vụ án này đáng nghi thực.

 Đại sư trầm ngâm một lúc lại hỏi, 'Các ngươi có oán thù với nhà ai không? Mấy ngày gần đây có nhà ai mất con gái không?' Huynh đệ chúng tôi đợt ấy cuống lên vì lo việc mình, nào còn tâm trí để ngó nghiêng? Lâu nay gia đình vẫn hoà mục với xóm giềng, chỉ lấn cấn chút ít với nhà Chu Đại Hữu về việc mua mấy mảnh đất mà thôi, ngoài ra nghe loáng thoáng con gái Vu Lão Toàn làm nha đầu cho nhà họ Chu mấy hôm trước đã bỏ đi, nhưng chúng tôi cũng không chú ý lắm. Nhà sư nghe xong những chuyện thì ngẫm nghĩ, xoa đầu bảo, "Đúng đấy, đúng là Chu Đại Hữu rồi!' đoạn im lặng bỏ đi, chúng tôi ngơ ngác định chạy theo hỏi, đại sư đã nói vọng lại, 'Ba ngày nữa ta sẽ đến giải thích cho các ngươi.'

 Ba ngày sau, hai anh em tôi đang ngồi trong ngôi nhà lợp gianh của mình, nghĩ ngợi luẩn quẩn chẳng biết đại sư có đến hay không? Chợt thấy đại sư mình mẩy đầm đìa máu me, tay cầm một cái đầu người đung đưa chạy vào. Trên lưng y cõng đại ca nhà chúng tôi, cái đầu người kia chính là đầu Chu Đại Hữu. Hai huynh đệ sửng sốt, nhưng không dám hỏi gì, vội vàng cứu tỉnh đại ca, vừa mừng vừa sợ sắp rượu mời đại sư, uống xong chuẩn bị đi trốn. Đại sư vừa uống vừa kể ngọn ngành câu chuyện. Y hỏi, 'Ngươi biết cái xác đàn bà ấy là ai không?' Đại ca rơi nước mắt, 'Là vợ tôi.' Đại sư phỉ nhổ, mắng um lên, 'Con lợn đần này, vợ mình hay không cũng không nhận ra, đáng bị bắt lắm! Ta đã tra xét rồi, tử thi là khuê nữ của Vu Lão Toàn làm nha đầu cho nhà họ Chu. Cô này đánh vỡ cái đấu ngọc nên bị Chu Đại Hữu giết, giết rồi sợ người truy cứu mới nghĩ ra kế ác, chặt đầu lột quần áo ném vào nhà các ngươi, xong cướp vợ ngươi để vu cho ngươi tội giết người, mà hắn lại còn nhân cơ đó để đoạt ruộng nhà ngươi nữa.'

 Mấy anh em đều ngẩn ra hỏi, 'Vậy tẩu tẩu đâu?' Đại sư cười, 'Đang vui chơi phè phỡn với thằng con nhà họ Lưu ấy. Chu Đại Hữu có khai rằng, các ngươi vốn không biết tẩu tẩu mình tính tình giăng gió, được tên thiếu gia họ Lưu thích từ lâu rồi. Chu Đại Hữu đem hiến cô ả cho gã họ Lưu, sự việc dây dưa là thế, chứ tiềm lực riêng nhà tên họ Chu đâu đủ khiến vụ án xét xử trơn tru vậy được?' "

 Mọi người nghe mà toát mồ hôi, tên Chu Đại Hữu này âm mưu độc thật!

 Trương Dũng lại tiếp, "Đại sư không chịu để chúng tôi khấu đầu, mắng chúng tôi đớn hèn không có ý chí, không dám lên tỉnh đòi tẩu tẩu về, rồi bực tức bỏ đi. Chắc vì thế mà huynh ấy giết Lưu công tử, Lưu Kỳ Lưu đại nhân tuy có ơn với dân chúng thiên hạ, nhưng việc giết Lưu công tử quả thực là có nguyên nhân chứ không phải đại sư làm bừa."

 Mọi người trong quán gật đầu, hoà thượng cười lớn, "Nói bừa với không bừa để làm gì chứ? Xin bọn chúng tha thứ ư? Giết người là giết người, đâu bàn được đúng sai. Vương pháp đáng kể mẹ gì, chỉ là phép tắc đặt riêng của thằng họ Triệu kia, chỉ là lưới vây giăng bắt những con sâu nhỏ cá nhỏ như huynh đệ các ngươi chứ đâu khống chế được cả bách tính thiên hạ?" Nói rồi nhìn quanh, vẻ mặt cao ngạo.

 Trầm Phóng thấy nhà sư thô lỗ cục mịch nhưng lời lẽ rất thâm trầm, càng nghĩ càng thấy sâu sắc, y liếc mắt nhìn Tam nương tử, khuôn mặt nàng cũng lộ vẻ đồng cảm.

 Đối với những người khác, ăn nói như vậy quá vô lễ, thực là công nhiên tạo phản. Hà bộ khoái cười khẩy, "Kim hoà thượng, thú thực đi, ngươi đến đây lần này là do ai sai phái? Có ngầm ý gì? Khai ra thì tránh được tội chết."

 Nhà sư đáp, "Ta ấy hả, đến là vì chuyến tiêu này; người nào sai hả, không nói được, không nói!" Xong y băng mình nhảy phốc đi, vung quyền đấm người đội nón ngồi ở bàn, thét lên, "Lão tử chơi cả buổi rồi, tiểu tử ngươi cũng phải ra chơi đi, lão tử tạm thời chưa cướp chuyến tiêu này, hẵng đấu với ngươi đã."

 Hà bộ khoái lộ nét mừng, hành động của nhà sư đúng ý hắn lắm, hắn chỉ mong Kim hoà thượng chọc kẻ đó thôi. Hắn khoát tay, sai bốn tên thủ hạ trông chừng ba huynh đệ họ Trương, còn bản thân mình thì chắp tay sau lưng, đợi người kia xuất thủ.

 Người đội nón tre không buồn đứng lên, chỉ giơ tay hoá giải chiêu thế của Kim hoà thượng, cách hoàn chiêu của kẻ đó khiến Kim hoà thượng chỉ còn nước tự cứu, mọi người thậm chí chưa nhìn rõ đã thấy Kim hoà thượng giật lui liền mấy bước, ngực phập phồng. Ai cũng nhận ra hoà thượng xuất chiêu rất nặng, song không hiểu làm sao hoàn toàn vô dụng với người này, đúng là "cờ sai một nước, rối chân rối tay". Kim hoà thượng hung hăng bảo, "Chu Phi Tác danh bất hư truyền, hạ tướng của Lưu lão nhi quả thực lợi hại!" Nói đoạn vung trượng quất tới, thi triển bản lĩnh sở trường của mình là 'Phong Ma trượng'. Người nọ ngồi im, huơ tay chiết chiêu nhưng không hề hoàn thủ. Chắc hẳn nghe xong câu chuyện vừa rồi của Trương Dũng thì trong lòng nảy sinh mâu thuẫn, không quyết được có nên bắt nhà sư này hay không, mà bắt xong rồi thì làm thế nào. Y là ái tướng của Lưu Kỳ, có quan hệ rất thân thiết với Lưu phủ, không bắt người về thực rất khó ăn khó nói, nhưng nếu bắt hoà thượng về thì lòng lại không nỡ. Từ lâu y đã biết Lưu công tử là kẻ ỷ thế làm càn, chẳng biết uý kị là gì, mọi người đều nể thần thế nhà hắn, cũng không tiện mách với Lưu Kỳ. Lúc này thấy Kim hoà thượng không hiểu ý mà tiến thoái, y rất phiền lòng. Cuối cùng, y nghiến răng, giơ một tay cản thế tấn công, tay kia khoá lấy yết hầu nhà sư, đây là chưởng chiêu 'Trường Bạch Tỏa Hầu Thủ' nổi tiếng, phát lực cổ tay dùng ngón tay chộp họng đối thủ. Ở đằng kia, Tam nương tử cau mày, bên bàn tiêu sư cũng lao xao cả lên, ai nấy đều nhận ra đó là một chiêu rất tàn độc. Kim hoà thượng kinh ngạc, liệu bề khó thoát, mặt đanh lại cười ha hả, không lùi mà lại tiến, dùng lối đánh liều mạng, không thèm để ý đến bàn tay đó, cứ đẩy song chưởng vào thẳng ngực đối thủ. Người đội nón ngạc nhiên, hơi giật về phía sau, kéo theo bát đĩa rơi loảng xoảng xuống đất, y bất giác nổi giận, y ra chiêu đó vốn dĩ chỉ muốn kiềm chế hoà thượng, không ngờ cái tên hung hãn này lại sẵn lòng một sống một chết. Y chưa để mất tiên cơ trong mỗi cuộc đấu bao giờ, lần này lại quá sơ suất, bèn lập tức chuyển trảo thành móc, chưởng hình biến thành mỏ hạc, cương quyết ra sát thủ! Xương cổ hoà thượng sắp vỡ nát, hồn sắp về cực lạc, thình lình ba huynh đệ họ Trương cùng thét lên, "Không được!" Trầm Phóng cũng khom mình, bỗng thấy một bóng người phi thẳng tới, húc đầu vào ngực người đội nón, tấn công loạn xị để cứu đỡ lúc gấp, người đội nón đang kê tay ở cổ hoà thượng, không biết làm sao đành trở tay đón lấy chưởng công, tay kia vỗ lên đầu nhà sư. Hai người va nhau đều chấn động, kẻ xuất thủ tương cứu hộc ra một bụm máu, nhưng không dừng lại mà kéo Kim hoà thượng lui ra sau một trượng, đáp xuống chỗ cửa ra vào, tiện tay gạt rơi đơn đao của một tên sai nha, bảo ba anh em họ Trương, "Đi nào!" Ba người ngây ra, phản ứng rất chậm chạp, lúc đó chỉ còn cơ hội mỏng manh này để chạy trốn, đâu có thời gian mà ngẩn ngơ? Tay viện thủ lảo đảo, lại ộc máu. Tận dụng đúng khoảnh khắc chần chừ đó, Hà bộ khoái đã dẫn bốn tên sai nha chẹn cứng lấy đường thoát của y.

 Kim hoà thượng tuy thoát hiểm, nhưng trên cái cổ to như bò mộng đã in dấu một đường tím bầm. Y thở hồng hộc một cách khó khăn, nhưng vẫn cười bảo người đội nón, "Cuối cùng ngươi cũng phải đứng lên rồi," vẻ rất khoan khoái. Người nọ hất nón ra, để lộ gương mặt vuông vức với nét mặt giận dữ, nhưng rất hiên ngang. Vừa rồi trong khoảnh khắc đường tơ kẽ tóc, y đã đẩy lui cả hai người, nhưng Kim hoà thượng đã kịp tát qua ngực y, khiến trong ngực nhộn nhạo khó chịu, y lạnh lùng bảo, "Không ngờ Hoạt đầu mộc Vương huynh cũng đến, mấy tên giang dương đại đạo hoá ra lại kết bè kết đảng đi một đường."

 Kim hoà thượng ngoảnh nhìn người vừa cứu mình, vẻ mặt hiền dịu thấy rõ, "Vương Mộc, ngươi cũng không địch nổi tên này, việc gì phải khổ vậy?"

 Người được gọi là Vương Mộc còn khá trẻ, khuôn mặt ngơ ngác, dáng điệu non nớt, gã xoa ngực đáp, "Tôi... gọi huynh đến, lẽ tất nhiên là phải cùng sống cùng chết chứ."

 Nhà sư thở dài, "Xem ra không cướp được chuyến tiêu này rồi, song cho dù chúng ta chết thì bọn nó cũng chưa chắc đã đưa được đến đích đâu. Chỉ hiềm, chỉ hiềm, ngươi nói người đó hiện tại đang cần gấp như vậy mà chúng ta không giúp y hoàn thành được việc lớn này, bần tăng chết cũng không tiếc gì, nhưng ngươi mất mạng thì việc đó để ai làm?"

 Vương Mộc đáp, "Có việc tất có người lo, huynh đệ chúng ta hôm nay liên thủ, xem ra không đối phó nổi Trường Bạch Phi Tỏa Chu tướng quân dương danh dưới cờ Lưu đại soái năm nào và mười chín ngón khóa họng của y!"

 Kim hoà thượng gật đầu, vừa nói hai người vừa áp lưng vào nhau, tuy bị thương nhưng sát khí bức nhân, thế như mãnh hổ.

 Không khí trong quán căng như dây đàn, chợt có người lên tiếng, "Chu tướng quân, xin hãy nghe một lời của tại hạ!"

 Chu tướng quân ngoảnh nhìn, thấy người vừa nói là hai lão đầu nhi. Hai người đó kể cũng không già lắm, nhưng khuôn mặt đầy nếp nhăn, cặp mắt mờ đục. Hai người cùng mặc áo gai giày cỏ, thần sắc xanh xao, ánh nhìn ảm đạm, tóc vàng, thân hình thấp nhỏ. Khi ngồi lẫn với những người khác thì không có gì nổi bật, chỉ như giọt nước trong đại dương, hoàn toàn không đặc biệt, nhưng khi đứng dậy thì khí thế lẫm lẫm, khiến người khác phải nể vì.

 Người bên trái ôm quyền, "Lão hủ Đỗ Hoài Sơn." Người bên phải cúi mình, "Tiểu lão nhi Tiêu Tứ Ẩn."

 Chu tướng quân cau mày, vị thần nể cả cây đa, nghe tên đủ biết là nhân vật nổi danh của nghĩa quân bờ Bắc sông Hoài, y cũng đáp lễ, "Hoài Tứ nhị lão, ngưỡng mộ đại danh đã lâu, chẳng hay có điều gì tứ giáo?"

 Lão già bên trái than, "Không dám, không dám. Hai lão vốn dĩ không nên lắm lời, với sức của hai lão già chúng tôi thực không dám khuyên giải Chu tướng quân. Song le, mấy kẻ hậu sinh này tuy lỗ mãng nhưng cũng nghĩa khí và nhiệt huyết, hơn nữa xét về sự việc, Lưu công tử cũng có chỗ bất toàn, bắt mấy người này về quy án kể rất đáng tiếc, triều đình vốn có luật lệnh sung quân chuộc tội, nếu họ sẵn lòng, chi bằng đưa họ đến sông Hoài chống Kim giết địch, chết tại sa trường chắc cũng đỡ tủi hổ cho họ, lại hoá giải được mối ân cừu với Lưu lão soái."

 Họ Chu cau mày, nhìn xuống vẻ suy nghĩ. Lưu Kỳ có ơn với y, y không thể bỏ dở công việc chỉ vì một lời khuyên của hai người này, song y cũng khó mà phũ mặt họ, huống hồ trong tất cả những gì đã xảy ra, hành động của Kim hoà thượng không thể nói là sai. Y trầm ngâm một lúc, hai lão già lại nói, "Chúng tôi cũng biết Chu tướng quân trở về sẽ khó ăn khó nói với cựu chủ, lời hai lão chẳng đáng gì, nhưng Chu tướng quân hãy nể mặt người ở Hoài thượng, dạo xưa người đó đã từng ký lệnh "Miễn tử" cho Lưu lão soái. Người đó hiện cũng đang thiếu nhân lực, tiểu lão thay ông ấy chiêu mộ năm mạng người này, Chu tướng quân thấy sao? Lưu lão soái mà biết chắc cũng không trách tội đâu."

 Chu tướng quân nhướng mày, "Hoài thượng ư?"

 Lão già mỉm cười, chợt giơ ngón tay trái lên vẽ một vòng tròn nhỏ trước ngực, sau đó lại đưa lên miệng, ngửa cổ như uống rượu. Kim hoà thượng vốn dĩ nghênh ngáo, bỗng vẻ mặt hung hãn biến hẳn, trở nên hiền hoà. Ông già lại rút trong ngực ra một tờ giấy da dê, chắc chính là lệnh "Miễn tử" gì đó, chìa cho Chu Đại Tỏa.

 Chu tướng quân tiếp lấy, nhìn nét chữ cúi đầu, bỗng cầm một cốc rượu lên uống cạn, bảo rằng, "Được, nể mặt ông ấy." Xong y dợm chân, lạng ra cửa lớn. Bên ngoài vang tiếng ngựa hí, chắc y đã phóng thẳng lên yên rồi. Mọi người chưa kịp có một cử động nào, tiếng y đã tan biến trong làn mưa.

Hết chương 3

 (1) Cọc chuối: tên một hình phạt dành cho phụ nữ. Khi xử phạt, người ta trồng một cọc gỗ dài nhọn đầu, sau đó treo người phụ nữ phạm tội lên cao và thả xuống sao cho cọc gỗ nhọn xuyên đúng cửa mình cô ta, trọng lực cơ thể và trọng trường sẽ kéo người phụ nữ tụt suốt thân cọc. Hình phạt này được phát minh từ thời cổ và mai một dần, đáng ngạc nhiên là thịnh hành trở lại dưới thời nhà Thanh bởi Thi Công Thi Thế Luân (một trong ba thanh quan nổi tiếng nhất của lịch sử Trung Quốc, hai người còn lại là Bao Chửng và Địch Nhân Kiệt), với mục đích ban đầu là xử tội những phụ nữ dâm đãng, thâm ý là sống đã lăng loàn thì cho chết đúng với tư thế lăng loàn ấy, về sau hình phạt này được áp dụng rộng rãi ra cho phụ nữ phạm cả các tội khác nữa. Theo Nhị Thập Tứ Sử Diễn Nghĩa và nhiều bộ dã sử của Trung Quốc thì số phụ nữ bị áp dụng hình phạt này qua các đời không dưới con số một trăm

BÔI TUYẾT HỆ LIỆT

 BỘ THỨ NHẤT - MƯA ĐÊM GÕ XUỐNG SEN VÀNG

 HỒI 4 - SEN VÀNG

 Phúc Vũ và Phiên Vân

 Dịch tặng Tay Doc đại ca

 Bên ngoài điếm, cơn mưa rả rích vẫn cứ kéo dài lê thê, từng giọt mưa buồn thảm rơi trên mái ngói. Qua một trận nhiệt náo, mấy kẻ nhát gan đã lẩn vào phòng từ sớm, ai ngồi lại đều là kẻ to gan lớn mật cả. Bọn người tiêu cục vẫn còn ở lại, Kim hòa thượng, Vương Mộc cùng ba huynh đệ họ Trương tụm lại một chỗ, có vẻ như đã có ước hẹn từ trước, hai lão Đỗ Tiêu vẫn yên vị ở một góc, thiếu niên hắc y ngủ gục trên bàn vẫn chưa tỉnh giấc. Ông lão mù cùng cháu gái không còn chỗ nào đi, đành tiếp tục ngồi thừ bên lò sưởi, thêm vào hai người Trầm Phóng, Tam Nương tử và mấy hành khách gan dạ từng trải việc đời. Chỉ có Hà bộ đầu cùng với bốn tên sai nha lừng khừng đứng đó, đi cũng dở, ở chẳng xong.

 Tam nương tử hạ giọng nói với Trầm Phóng: "Lão Đỗ Hoài Sơn này hiệu là Động Minh Thủ, còn Tiêu Tứ Ẩn phiêu bạt giang hồ mệnh danh là Hoán Luyện Đạt kiếm, chính là một đôi kiếm khách cực kỳ lợi hại, nghe nói mấy năm nay bôn ba giúp đỡ lương thảo và chiêu binh mãi mã cho nghĩa quân ở Hoài thượng. Hai người này đều là tay lão luyện, Động Minh Luyện Đạt rất ít khi giao thủ với người khác, nếu không chắc thắng thì tuyệt không ra tay, nhưng đã đánh rồi thì quyết đuổi tận giết tuyệt." Trầm Phóng khẽ gật đầu, Tam nương tử lại ngầm chỉ sang Tần lão đầu, khẽ nói: "Tổng tiêu đầu của Lâm An tiêu cục này họ Tần tên Ổn, thường gọi là Ổn Như Thái Sơn, làm nghề bảo tiểu cũng hơn ba mươi năm, binh hoang mã loạn cũng chưa từng thất thủ, tiếng tăm vang lừng tuyệt không phải là hư danh, tên Kim hòa thượng đó so với bọn họ cũng còn kém xa."

 Trầm Phóng hỏi: "Nàng sao mà biết được vậy?"

 Tam nương tử mỉm cười đáp: "Chàng quên là thiếp đây vốn là nữ cường đạo chuyên giết người phóng hỏa rồi hay sao?"

 Đèn đuốc trong điếm lúc tỏ lúc mờ, ánh lửa từ lò sưởi bập bùng nhảy múa đầy vẻ quỷ dị, nhưng lại soi rõ gương mặt yêu kiều phong tình vô hạn của Tam nương. Những người khác không khỏi lấy làm lạ, sao đôi vợ chồng nho nhã thế này lại có gan lớn đến thế.

oOo

 Tần lão gia tử đang ngồi giữa đám tiêu cục đột nhiên ngẩng mặt dỏng tai nghe ngóng, sắc mặt hơi tỏ vẻ lo lắng. Không hẹn mà cùng một lúc, Tiêu Đỗ hai người liếc nhìn nhau, mặt lộ vẻ kinh ngạc, lỗ tai trái của Tiêu Tứ Ẩn khẽ nhúc nhích, nín thở ra sức nghe ngóng. Qua một hồi lâu, mọi người mới nghe được bên ngoài trong tiếng mưa gió ẩn ước như có tiếng nhạc ngựa truyền tới, văng vẳng hòa trong tiếng mưa gió, liên tục không ngừng. Đây không phải chỉ là một thớt ngựa, mà nhất định không dưới ba mươi đến bốn mươi con ngựa tốt, tiếng vó ngựa nhộn nhạo, không biết vì sao đang đêm khuya mưa gió vẫn còn bôn tẩu không ngừng nghỉ. Vương mộc sắc mặt khẽ biến đổi, đột nhiên nói: "Đề Kỵ?"

 Kim hòa thượng không khỏi khẩn trương, dỏng tai lắng nghe một hồi rồi gật đầu trầm giọng nói: "Hình như là vậy. "

 Vương Mộc lẩm bẩm tự hỏi: "Sao mà lại nhiều đến thế?"

 Trương gia tam huynh đệ sắc mặt lộ vẻ khẩn trương, Kim hòa thượng nãy giờ luôn tỏ vẻ táo bạo cũng bất giác nắm chặt lấy cây thiền trượng, Vương Mộc mím môi, ngay cả bọn Tần Ổn cũng không còn giữ được vẻ điềm tĩnh nữa.

 Trầm Phóng rất ngạc nhiên, không hiểu vì sao mọi người trong điếm ai cũng lộ vẻ lo lắng, chỉ có mấy người bọn Hà bộ đầu là vui mừng ra mặt, một hồi sau Tần Ổn dịu mặt, nói: "Không phải đi đến hướng này."

 Đỗ Tiêu nhị lão bên canh cũng gật gù tỏ vẻ đồng ý, hai bên vốn chẳng có liên hệ quen biết gì, nhưng vì bọn Đề Kỵ bất ngờ xuất hiện đã phá vỡ bức màn ngăn cách. Mọi người nghe nói vậy ai cũng thở phào nhẹ nhõm. Tần Ổn quay sang khẽ gật đầu với Đỗ Tiêu hai người, khuôn mặt kín như bưng khẽ mỉm cười, hạ giọng hỏi: "Có phải là vi sát không?"

 Hai lão sắc mặt lộ vẻ nghiêm trọng, trầm ngâm một hồi rồi gật đầu.

 Mấy lời phán đoán của bọn lão luyện giang hồ kinh nghiệm đầy mình đưa ra, mọi người đương nhiên là tin ngay. Ba người họ sau đó im bặt không nói gì nữa, chỉ thầm suy nghĩ tính toán, chẳng biết là kẻ nào mà có thể làm cho Đề Ky giáo úy xuất động ba bốn chục thiết kỵ, đang đêm rong ruổi dốc toàn lực tiêu diệt. Cơn mưa đêm nay đúng là càng lúc càng thê lương lạnh lẽo.

 Trầm Phóng đã nghe nói chàng béo họ Phùng cũng là một trong Đề Kỵ tam thập thị vệ, từ đó nghĩ rằng chẳng qua chỉ là một đội quân gồm toàn con ông cháu cha theo hầu hoàng đế mà thôi, chỉ có hư danh chứ không có tích sự gì, nhưng khi nãy nghe mấy người này khẩu khí có vẻ rất trịnh trọng, nói chuyện cũng không dám nói lớn, có thể thấy bọn Đề kỵ này nhất định phải có không ít nhân vật phi thường, thậm chí là tuyệt đại cao thủ, hơn nữa tổ chức rất cẩn mật, nếu không làm sao có thể làm cho bọn cao thủ giang hồ này sợ run lên chứ?

 Y bèn quay sang hỏi Tam nương: "Đề Kỵ cuối cùng là người như thế nào vậy?"

 Tam nương tử sắc mặt đột nhiên trở lại nghiêm túc, nàng nghĩ một hồi rồi đáp: "Tướng công, chàng còn nhớ chuyện mười năm trước ở Cao Thăng lão điếm hay không?"

 Trầm Phóng liền gật đầu, y đương nhiên là nhớ rõ, mười năm trước y đã gặp Tam nương ở Cao Thăng lão điếm, lúc đó Tam nương dường như lâm bệnh rất nặng, trên người lại còn đầy vết thương, một nữ tử cô độc bị bệnh nằm xa nhà, Trầm Phóng từ thương hại chuyển sang yêu mến, sau đó lại từ yêu mà sinh kính phục, cuối cũng đã cùng nàng kết duyên một nhà.

 Tam nương tử ngừng một hồi, rồi nói tiếp: "Lúc đó Đề kỵ vừa mới được thành lập, thanh thế còn kém xa bây giờ, nhưng cũng đã rất là ghê gớm đáng sợ rồi. Lần đó khi thiếp gặp chàng, thiếp không phải là bị bệnh mà là bị thương, bị thương dưới tay của bọn họ. Tập Tra đô úy Nhan Kỷ Cương, thiếp có chết cũng không quên được, lợi hại, thật vô cùng lợi hại! Ngũ Bộ Sưu Hồn Thủ của hắn, đời này thiếp không dám đối địch nữa. Chàng có biết thiếp vì sao lại lấy chàng hay không? Từ lúc Đề kỵ mở rộng phạm vi hoạt động, trên giang hồ hầu như không còn kẻ lạ nào trà trộn vào được nữa, nhất là một dải Phúc Kiến, Chiết Giang, Giang Tô và Giang Tây, đến một giọt nước cũng không chui lọt. Tổ chức của bọn họ vừa hết sức nghiêm mật, lại vừa rất phức tạp, tuy cũng có con cháu của nhà quyền quý, nhưng cũng có những bọn ác tặc trên giang hồ đã được chiêu hàng, thêm vào cao thủ của các môn phái, còn có cả ngục thừa Đại Lý tự nữa. Chàng béo họ Phùng đó thế lực quan trường lớn mạnh, thế mà cũng phải lên tiếng nói là sợ Viên lão đại, người này đúng là cao thủ tuyệt đỉnh, võ lâm thiên hạ thất môn thập tam phái, chưa nghe nói có kẻ nào là đối thủ của gã. Gã lại là lão đại của Đề kỵ tam thập nhị úy, năm nay chỉ khoảng hơn ba mươi tuổi, trước khi dời về Nam đã vang danh là Nhất Kiếm tam tinh. Từ khi gã gia nhập Đề Kỵ, kỷ luật nghiêm minh, thế lực lớn mạnh. Bọn họ còn ở đó, Tần thừa tướng có thể an ổn mà ngủ yên, vô luận là quan lại hay thổ phỉ, trong triều ngoài nội, thuận ta thì sống, nghịch ta thì chết. Ai dám chống lại, giết chết không tha. "

 Trầm Phóng trước giờ chưa hề nghe Tam nương kể lại chuyện trước đây, y tôn trọng Tam nương nên cũng không hỏi gì. Không ngờ Tam nương hôm nay lại tự mình nói ra. Tam nương tử lại ngẫm nghĩ một hồi rồi kể tiếp: "Mười năm rồi, thiếp cuối cùng cũng đã tháo cành thoa bằng gỗ tử kinh này xuống."

 Mắt nàng chợt long lanh ngấn lệ, khẽ nói: "Chàng có biết không, tên của thiếp vốn là Kinh Tử."

 "Ngày đó cái tên này chắc chỉ có mấy người trong giới võ lâm Giang Triết là biết tới. Thuở nhỏ, thiếp cũng giống như cô bé hát rong kia vậy, chịu đói chịu khổ. Lúc đó đang vào thời loạn lạc, thiếp theo một đoàn tạp kỹ bán nghệ kiếm cơm. Nhưng thiếp may mắn hơn cô bé đó, thiếp gặp được một vị lão nhân đã dạy võ công cho thiếp. Thật ra thiếp chỉ theo ông ấy được ba tháng, ông ấy tặng cho thiếp một thanh chủy thủ, lại truyền cho thiếp một thân công phu, một thiên khẩu quyết, dạy xong thì ông ấy nói: 'Tư chất của con không tồi, chỉ tiếc là ta không lưu lại lâu được.' Sau đó lại hỏi thiếp: 'Về sau nếu gặp kẻ nào dám ăn hiếp tỷ muội của con, con sẽ làm sao?' Thiếp trả lời: 'Giết!' Ông ấy cười ha hả rồi khen rằng: 'Giỏi lắm, ta không chọn lầm người.' Nói đoạn rồi bỏ đi mất."

 "Những người làm nghề như bọn thiếp đây, thiên hạ gọi là nữ kỹ, gồm những việc như nhảy múa, đi trên dây, đứng trên đầu gậy, hát xướng, thêu thùa. Những gương mặt nổi bật là Trương Chân Nô giỏi đàn sáo, Trầm Cô Cô thạo đánh cờ, Lâm Tứ Cửu Nương phi ngựa bắn tên, Lại Huệ Anh diễn ca kịch, Hắc Ma Ma diễn thoại kịch... có thể nói là đạt đến đỉnh cao trong sở trường của mình, thiên hạ đều biết tiếng. Thiếp cùng bọn họ giao hảo với nhau, có người nói bọn thiếp là đồ hạ tiện, khinh bỉ bọn thiếp. Nhưng làm nghề như bọn thiếp, cũng không dám nghĩ gì nhiều, cũng chẳng quan tâm đến chuyện người khác có kính trọng mình hay không. Nhưng đã hành tẩu chốn phong trần, không thể để cho người ta khi phụ. Bọn người giàu có ấm no cứ mở miệng ra là 'vị tha khoan thứ', Kinh tam nương thiếp đây chỉ biết làm một chuyện, đó là báo thù!"

 "Bọn thiếp ban đầu có tổng cộng mười tỷ muội, cùng nhau hành động. Sau đó gặp thêm hai nàng nữa, tuy thân hình ẻo lả chẳng có chút công phu nào, nhưng có ý chí kiên cường, tâm hồn kiên định. Nếu thấy được tỷ muội bọn thiếp chỉ cần có một người gặp nạn, cho dù có phải lên núi đao, xuống bể dầu, cũng xả thân giúp đỡ, thì bọn nam nhân hay bàn chuyện đại nghĩa đâu đâu như chàng, nhất định phải tự thẹn là không bằng. Trong tỷ muội bọn thiếp, có kẻ bị chết dưới tay bọn quyền quỷ, cũng có kẻ vung đao tự vẫn trước khi bị dâm đồ hãm hại, cô nương mà cô bé đó kể khi nãy chàng cũng đã nghe rồi, thiếp không biết nàng ấy là ai, nhưng đúng là một vị hảo tỷ muội! Trong nhóm đó, thiếp giết người bị truy nã nhiều nhất, bọn tỷ muội vì bảo vệ cho thiếp đã có đến bảy người phải hy sinh."

 Tam nương tử cười khổ kể tiếp: "Do đó cành mộc thoa của thiếp chính là do máu nhuộm đỏ mà nên. Người trong giang hồ gọi bọn thiếp là Bồng Môn, cành mộc thoa đó là lệnh phù của thiếp, nhưng trên đó không phải là máu của thiếp, mà chính là máu tươi của các tỷ muội. Ngày ấy Tử Kinh thoa lệnh rất nổi tiếng trong đám nữ nhi chân yếu tay mềm Giang Nam, chẳng ai không biết, chẳng ai không hay, thập bộ sát nhân, vạn dặm tầm cừu, hễ nghe thấy chuyện bất bình là thiếp không bó tay ngồi yên, dẫu phải gây hại đến bao nhiêu tính mạng. Tuy rằng bọn thiếp sống kiếp hạ tiện, nhưng không để ai bức hiếp, hễ là vì việc nghĩa thì mọi người sẵn sàng vì nhau."

 Thở dài một hơi, tư lự một hồi rồi kể tiếp: "Năm ấy có một tỷ muội bị bọn loạn đảng dâm đồ luân phiên gian dâm, hành hạ thảm thương bên ngoài thành Vô Tích, quan bắt được bọn chúng, chỉ phán tội sung quân, bởi vì đối với bọn họ, thương hại nữ kỷ với việt sát hại phụ nữ nhà lành rất khác biệt. Tạm bỏ qua chuyện đó, thiếp còn nghe chính tỷ muội ở Vô Tích nói rằng, đám giang đồ đó đồng loạt khai rằng lúc bọn chúng cưỡng gian thì người đã chết rồi, y phục trên người không tề chỉnh, là do một tên quản gia của tri phủ Vô tích đem ra bỏ ở ngoài thành, thực ra bọn chúng chỉ cưỡng gian xác chết mà thôi. Bọn chúng vừa nói như vậy, từ tội sung quân đã bị chuyển sang tội tử hình."

 "Thiếp nghe chuyện đó, biết ngay là bên trong có điều mờ ám, thiếp biết vị tỷ muội đó trước giờ sống thanh bạch, giữ thân như ngọc, lúc đó thiếp nổi cơn tức giận, đứng ngồi không yên, lập tức đi thẳng tới Vô Tích, dò xét được thì ra tỷ muội đó đúng là hôm đó bị tri phủ gọi đến hầu tiệc, khách đến dự có Tả đô ngự sử, mấy vị quan lại trong Binh Mã ty, đều là bọn cậu ấm ăn chơi vô sỉ. Thiếp đã đoán ra cơ sự thế nào. Sau hai ngày, thiếp nghe nói Tả đô ngự sử muốn mở tiệc để đáp lễ, tỷ muội của thiếp chắc đến mười phần do hắn ta hại chết, thiếp liền nhờ người giới thiệu, giả làm người biểu diễn đi dây trà trộn vào trong."

 "Hôm đó một bàn tiệc nhỏ được bày trong một ngôi đình phía sau nhà của hắn, có mấy tên quan áo nhẹ nón nhỏ ngồi đó xem, đại khái nghe nói nhan sắc thiếp không tệ, liền truyền cho một mình thiếp tiến vào, lúc đầu còn đàng hoàng nghiêm túc, kêu thiếp chăng dây biểu diễn ở giữa đình, nhảy múa qua lại cho bọn chúng xem, thiếp liền theo lời biểu diễn. Chẳng bao lâu thiếp nghe một tên quan nhân hạ giọng nói: 'Con ả này cũng khá đấy, kêu mấy người không phải làm gì lui xuống đi, ngày hôm nay chúng ta phải đùa giỡn với ả một phen mới được.' Tên Tả đô ngự sử liền cười đểu cáng, kêu bọn hầu lui xuống, còn ra lệnh: 'Lui xuống núi hết, cho dù có nghe thấy nhìn thấy cái gì, kể cả nghe tiếng kêu cứu tiếng giết người, cũng không kẻ nào được phép lên đây.' Thiếp nghe vậy đã biết ngay là bọn chúng sắp giở trò gì rồi, đúng là còn tệ hơn cả loài cầm thú nữa, liền cười lạnh nghĩ thầm: 'Đáng chết!' Khi bọn hầu đã lui xuống hết, bọn quan nhân đó mới lộ rõ bộ mặt xấu xa, chằm chằm nhìn như muốn lột trần thiếp ra, lại hỏi thiếp còn có trò gì khác nữa không thì hãy biểu diễn luôn cho bọn chúng xem. Thiếp thấy bọn chúng bắt đầu giở trò, bèn nói: 'Tiểu nữ còn biết múa chủy thủ nữa.' Bọn chúng nghe nói một nữ nhân mà lại biết múa chủy thủ thì lấy làm thích thú, vội nói: 'Diễn nhanh lên!'"

 Thiếp buộc sợi dây một vòng quanh đình, bọn chúng thấy thế thì cười khoái trá, vì nghĩ thiếp tự mình trói mình, lại không biết rằng chính bọn chúng mới không có đường thoát. Thiếp liền bắt đầu múa chủy thủ, trong lòng nghĩ đến vị tỷ muội bị hại, trong lòng phẫn nộ, ngày đó sư phụ của thiếp từng dạy rằng cảnh giới cao nhất của chiêu thức chính là 'thâm thúy du dương, hào hiệp cảm kích', lúc trước thiếp không hiểu gì, nhưng đến hôm đó thì đã mấp mé tới sự lĩnh ngộ. Thiếp nghe bọn quan nhân vỗ tay cười nói náo loạn, nước bọt tung tóe, đúng là rất kinh tởm. Khi thiếp múa đến chiêu cuối cùng Bãi Như Giang Hải, chủy thủ theo người phóng ra ngoài, một đao chém vào cột đình đến lút cả cán, bọn chúng thấy vậy kinh hãi mặt tái mét, thiếp đứng đó lên tiếng hỏi: 'Ngày đó kẻ nào đã gian sát Như Ngọc?' Bọn chúng vẫn còn tưởng mình là bất khả xâm phạm không ai nói gì, thiếp bèn rút đao chém một nhát vào tên tiểu nhân cáo mượn oai hùm, cười nói: 'Là ai?' Bọn chúng lúc này mới thực sự hoảng sợ, vội bỏ chạy, nhưng đều bị sợi dây chặn lại, vừa định kêu lên thì thiếp đã cười nói: 'Các ngươi đã phân phó bên dưới, dù có chuyện gì cũng không được lên đây, có nghe la cứu mạng cũng không được lên. Các ngươi thử nói xem, có phải tên nào cũng có phần làm chuyện xấu xa này không?' Bọn chúng thấy thiếp vẫn tươi cười chẳng có gì hung ác, bèn từng đứa từng đứa một quỳ xuống khấu đầu nhận tội. Thiếp bèn hỏi: 'Nàng ấy hôm đó có kêu xin cứu mạng hay không?', bọn chúng mồ hôi trán nhỏ tong tong, thiếp đau lòng đến nhỏ lệ, sau đó thét lớn lên: 'Cứu mạng', bọn chúng nhất định là cho rằng thiếp bị điên rồi, thiếp kêu một tiếng thì giết một người, bọn chúng chẳng có chút gan dạ nào, kêu mà cũng không dám kêu, sợ đến cóng cả người, chỉ biết quỳ mọp ở một bên hy vọng thiếp bỏ qua cho chúng. Nhìn bọn người chó má đê tiện đó, thiếp thật sự rất vui sướng, giết luôn tên cuối cùng rồi mà phía dưới cũng chẳng có ai dám đi lên, thiếp đứng trên cao la lớn: 'Cứu mạng!'"

 Giọng nàng kể chuyện tuy vẫn nhỏ nhẹ dịu dàng, Trầm Phóng nghe qua lại kinh tâm động phách. Tam nương tử mặt đỏ bừng, lấy tay vén tóc kể tiếp: "Mọi chuyện là vậy, hôm đó thiếp tuy rút lui an toàn, nhưng chẳng phải đã phạm vào vương pháp của lão hoàng đế họ Triệu rồi sao? Đề Kỵ tam thập nhị vệ lúc đó vừa được thành lập, đại án này đương nhiên do họ nhận lãnh, thiếp thân gái yếu ớt không đấu lại bọn họ, vừa bị thương, vừa bị bệnh, nhưng bọn chúng cuối cùng cũng không tìm ra thiếp. Ai mà nghĩ ra một ma nữ xấu xí như thiếp, lại được một vị danh sĩ Trấn Giang phong lưu nho nhã chịu lấy làm vợ chứ?"

 Nói đến đây thì duyên dáng mỉm cười làm lộ rõ hai lúm đồng tiền trên má, nói: "Thiếp tàn ác độc địa như thế, chàng biết rồi nhất định là rất hối hận có phải không?"

 Trầm Phóng chỉ thấy trước giờ chưa từng yêu kính Tam nương như lúc này, y nắm chặt lấy tay nàng, cất tiếng gọi: "Tam nương..." nhưng nói đến đó thì nghẹn lời không nói thêm được gì nữa.

oOo

 Cơn mưa làm không khí ẩm thấp nặng nề, đêm đã về khuya, bên ngoài tiếng nhạc ngựa chợt vang lên hỗn loạn bốn phía đông tây nam bắc. Kim hòa thượng vỗ đùi nói: "Đụng độ nhau rồi". Chỉ nghe tiếng leng keng nhốn nháo một hồi, tựa hồ như đang bao vây một ai đó, đột nhiên có tiếng rú vang lên, rồi tiếng leng keng im bặt, Đỗ Hoài Sơn liền nhướng mày nói: "Đánh thật là mạnh, người này chết mà cũng không kịp la nữa! ", vừa nói vừa thầm tính toán xem đó là cao thủ nào. Chợt nghe thêm một tiếng rú nữa vang lên, thêm một người một ngựa nữa thảm tử, tiếng vang của lạc ngựa càng lúc càng ít đi.

 Tiêu Tứ Ẩn nói: "Bọn Đề kỵ đúng là tàn nhẫn, người thì do địch nhân giết, còn ngựa là do bọn chúng tự tay giết, thà giết chết ngựa còn hơn để lại cho địch nhân đào tẩu mất. "

 Bên ngoài tiếng mưa tiếng gió tiếng nhạc ngựa hòa lẫn vào nhau, bên trong ánh lửa ánh nến bập bùng phản chiếu trong mắt của mọi người, mấy kẻ lão luyện giang hồ dỏng tai lắng nghe, thỉnh thoảng lại bình luận một câu, rất đúng lúc và hợp lý, cũng làm chấn động tinh thần mọi người. Đột nhiên nghe tiếng lạc ngựa đổ dồn gấp gáp về phía đông, vài người mặt tươi hẳn ra, nói: "Đã trốn thoát về hướng đông rồi. "

 Mọi người ai cũng đều thống hận bọn Đề kỵ, đoán rằng kẻ bị bọn chúng đuổi giết chắc hẳn là người tốt. Đỗ Hoài Sơn nghĩ một hồi rồi quay sang Tiêu Tứ Ẩn nói: "Huynh thấy đệ so với y thế nào?" Lão muốn ám chỉ người bị bao vây, bọn họ quen biết lâu năm, do đó Tiêu Tứ Ẩn có thể nói chuyện chẳng cần vòng vo gì, chỉ thấy Tiêu Tứ Ẩn lắc đầu. Đỗ Hoài Sơn bèn hỏi tiếp: "Còn huynh?" Tiêu Tứ Ẩn vẫn lắc đầu. Đỗ Hoài Sơn lấy làm hứng thú hỏi dồn: "Vậy nếu hai chúng ta cùng nhau hợp tác thì sao?" Tiêu Tứ Ẩn nghĩ một hồi rồi đáp: "Còn kém một chút, còn kém một chút! "

 Đỗ Hoài Sơn nghe vậy càng thêm cao hứng: "Bọn Đề Kỵ phen này gặp rắc rối lớn rồi, có một nhân vật như thế đối địch với bọn chúng, cho bọn chúng bận bịu túi bụi một trận cho đáng đời."

-------Còn tiếp------

Lời chưa kịp dứt, một luồng gió thổi ào vào phòng làm tạt ngang ngọn đèn, mọi người quay đầu ra nhìn, khi ánh đèn sáng trở lại, ngoài cửa đã xuất hiện thêm một người, y sắc mặt trắng bệch, đứng cũng đứng không vững, phải dựa hẳn vào tường mới miễn cưỡng đứng vững được, trên hông còn ôm chặt lấy một đứa nhỏ, Trầm Phóng nhìn qua thì thấtyđó chính là Cảnh Thương Hoài, người đã giúp mình đẩy lui Văn Đình Các mấy hôm trước. Thương thế của y rõ ràng đã nặng thêm rất nhiều, nước mưa thấm vào người làm máu tươi lại ứa ra, mặt tái mét, càng tăng thêm phần thê thảm. Y thở gấp hai hơi dài mới có thể miễn cưỡng bình thường trở lại, đặt đứa bé xuống, trong nhất thời không nói tiếng nào. Tần Ổn đã vội đứng dậy ôm quyền chào: "Cảnh đại hiệp!" Người đó bèn lắc đầu nói ngay: "Ta đến đây không phải vì muốn cướp tiêu." Tần Ổn nghe vậy mới vững bụng. Toàn bộ cao thủ trong điếm, bị hán tử thụ thương này nhìn quét qua một lượt, trong lòng không khòi lạnh toát. Cảnh Thương Hoài nhìn mấy nhân vật trong điếm, dường như có chút an tâm, ôm quyền cung kính hành lễ: "Tại hạ vì đứa bé này mà bị Đề Kỵ truy sát, nhưng thân lại thụ trọng thương, cái mạng này của tại hạ chẳng đáng kể gì, chỉ thương cho giọt máu cuối cùng của cố nhân. Bọn Đề kỵ thiết vệ đã tưởng lầm là tại hạ chạy về phía đông, nhất thời sẽ không tìm đến đây, do đó tại hạ muốn để đứa bé này ở lại đây, hy vọng cho nó ẩn náu đến khi qua kiếp nạn này. Đó cũng là một biện pháp bất đắc dĩ mà thôi, nếu có vị nào hào hiệp trượng nghĩa mà coi chừng giùm, đó chính là phúc đức của cháu, tại hạ sẽ đánh lạc hướng bọn truy binh, tuyệt không để liên lụy đến các vị."

 Y lòng dạ rộng rãi, tuy gặp hung hiểm phải cầu người khác, nhưng lời nói vẫn rất cương quyết sắc bén, cho người ta tự chọn lấy đường đi, không muốn làm cho người ta sau này phải hối hận. Mọi người thấy Cảnh Thương Hoài công phu cao cường mà cũng bị thương nặng như vậy, có thể thấy cứu đứa bé này nhất định có liên can rất lớn. Những người ngồi tại đây cũng có kẻ có thể đảm đương được, nhưng mà nhớ tới việc vừa phải lo chuyện riêng của mình, lại vừa phải chiếu cố cho đứa bé, biết rằng trách nhiệm này rất nặng nề, đều trầm ngâm không quyết định được. Một hồi sau, Cảnh Thương Hoài thấy không có ai đứng ra nhận lãnh, chỉ biết cười khổ nói: "Đứa bé này mệnh thật là khổ! Thời gian không còn nhiều, chỉ hy vọng mọi người tuy không thể che chở, cũng xin đừng gia hại đến cháu."

 Y tuy giống như hùng sư trước lúc lâm tử, nhưng uy thế vẫn khiếp người, nhìn liếc sang đứa bé rồi lắc đầu quay người chạy ra ngoài. Đột nhiên nghe một giọng nữ nhân trong trẻo cất tiếng: "Cảnh huynh cứ đi, hài tử để muội coi chừng là được."

 Mọi người giật mình, quay đầu nhìn lại thì thấy người vừa nói câu đó chính là Kinh Tử Kinh Tam nương. Hán tử hướng về phía Tam nương gật đầu một cái, rồi dường như được cất đi gánh nặng, ngẩng đầu hít thở một hơi dài, rồi đột nhiên ra tay điểm vào Hà bộ khoái đang đứng sau lưng mình, Hà bộ khoái hết hồn, bám sau lưng y ra tay xuất thủ, nhưng làm sao mà đánh trúng y được chứ? Hán tử một tay vung sang tấn công bốn tên công sai thủ hạ của gã. Hà bộ khoái vừa bám theo y, chính mắt nhìn thấy y chế trụ bốn tên thủ hạ của mình, vậy mà vẫn không thể tiến sát đến người y thêm một bước nào, tim đập loạn lên, thò tay xuống hông rút ra một đao đâm tới, vừa thấy Cảnh Thương Hòa chộp lấy thanh đơn đao của gã, rầm một cái gã đã bị chế trụ quẳng ngay xuống đất. Mọi người biết Cảnh Thương Hoài rất tinh minh, trước khi đi còn giúp Tam nương tử quét đi bọn sâu bọ, không để cho bọn chúng bép xép ra ngoài, không khỏi vừa kính vừa phục. Cảnh Thương Hoài động thủ xong thì thở hồng hộc, chắc là vết thương trên lưng vừa bị nhói lên, nét mặt lộ vẻ đau đớn, rồi quay người chạy thẳng ra ngoài.

 Tam nương tử nhìn theo bóng y một hồi, rồi cười cười bồng đứa bé quay về chỗ ngồi, quay sang Trầm Phóng nói: "Chàng đã hài lòng chưa?"

 Trầm Phóng biết nàng nói đến chuyện cưu mang cho đứa bé, liền lắc đầu cười nói: "Nàng tự mình đi kiếm chuyện phiền phức, rồi lại đổ sang cho ta."

 Tam Nương cũng không khỏi mỉm cười. Hai người họ đều biết chuyện này rất hung hiểm, nhưng đã có kẻ tri âm bầu bạn, chết có gì đáng sợ chứ? Những năm tháng sau này, chỉ cần sống sao cho không thẹn với lòng là được. Thống khoái thống khoái, biết rằng ngày mai phải chịu thống khổ, nhưng không có nghĩa là hôm nay không được khoái lạc một phen.

 Đứa bé mười phần yếu ớt, đã bị ngất xỉu từ nãy giờ, Tam nương tử để rượu trước mũi nó một hồi, rồi lại day day nhân trung, đứa bé mới tỉnh lại được. Nhìn quanh chỉ thấy Trầm Phóng và Tam nương, lại ở trong một tiểu điếm xa lạ, không thấy Cảnh Thương Hoài, ánh mắt đầy vẻ sợ sệt. Tam nương tử tuy chưa có con, nhưng là nữ nhân vốn có thiên tính làm mẹ, vươn tay xoa nhẹ đầu của đứa bé, nói: "Cháu ngoan, đừng có sợ, Cảnh bá bá của con ra ngoài làm chút chuyện, giao con cho ta chăm sóc." Nàng định nói là Cảnh Thương Hoài "chút nữa sẽ quay về", nhưng chính mình cũng không biết được lần này Cảnh Thương Hoài có thể quay về được hay không. Đứa bé có vẻ đã bình tĩnh hơn, nó cực kỳ tín nhiệm Cảnh bá bá, nghe nói bá bá đã giao mình cho nữ nhân này, liền cảm thấy thân thiết với nàng ta hơn.

 Tam nương tử hỏi: "Hài tử, con tên là gì?"

 Đứa bé đáp: "Con tên là Tiểu Lục Nhi."

 Tam nương tử cười hỏi tiếp: "Nhà của con ở đâu? Có phải ở Lâm An không? Gia gia con là ai, họ gì?" Nàng hỏi vậy vì đã nghe được giọng Lâm An của đứa bé.

 Đứa bé không trả lời, bấu chặt tay lại, một hồi sau khóe miệng run run, rồi òa lên khóc, một hồi sau mới đáp: "Gia gia con họ Hứa, gia gia đã chết rồi." Nhìn bộ dạng của đứa bé có thể thấy gia gia nó chết cũng vừa mới đây thôi, nên mới thương tâm đến mức này.

 Tam nương ngạc nhiên hỏi lại: "Gia gia con làm gì, sao lại chết? Còn má má của con thì sao?"

 Đứa bé thút thít đáp: "Gia gia con là vệ sĩ của Minh Thành Cung, sáng sớm hôm đó gia gia ôm con nói: 'Tiểu Lục nhi, lần này gia gia đi công cán chắc không quay về được nữa, con về sau có nhớ gia gia hay không?' Con vừa định trả lời là có nhớ, thì gia gia đã nói: 'Chị có điều, chỉ sợ con không có được cái 'về sau' nữa thôi!'"

 Có thể thấy gia gia của đứa bé cực kỳ yêu thương con, vì vậy nó nhớ rất kỹ từng chuyện từng chuyện xảy ra trong ngày hôm đó: "Hôm đó, con thấy má má đưa cho gia gia một thanh đao ngắn, con không biết gia gia con phải làm chuyện gì, chỉ có điều trước giờ khi gia gia ra khỏi cửa, má má lúc nào cũng tươi cười, nhưng lần này thì mắt rưng rưng muốn khóc, nhưng ra sức nén lại. Gia gia nói: 'Vân nương, ta thật không phải với nàng, ta vốn định đợi 2 hôm nữa Cảnh đại ca đến đây, nhờ huynh ấy trông coi mẹ con nàng, rồi mới ra tay, nhưng cấp trên ra lệnh cho bọn hộ vệ phải đổi nơi đóng quân, ngày hôm nay chính là cơ hội cuối cùng.'"

 "Má má nói: 'Kính Hòa, chàng tận trung tận nghĩa, thiếp không ngăn cản chàng. Hãy nhớ rằng, đừng có chùn tay, đừng để gia đình ràng buộc.' Gia gia hôm đó lại giống như không muốn đi chút nào, nhưng cuối cùng cũng dậm chân đi nhanh ra ngoài. Gia gia đi rồi, má má òa lên khóc, rồi mặc áo hoa trắng cho tỷ tỷ, rồi lại tự mặc áo quần trắng xóa, má má hôm đó mặc đồ thật là đẹp lắm!" Nó cũng còn là một đứa bé, nhớ đến tình cảnh hôm đó, không khỏi chen vào một câu khen ngợi.

 Cả gian phòng trở nên im phăng phắc, một cây kim rớt xuống cũng nghe rõ mồn một, mọi người lúc này đã biết được phụ thân của đứa bé này là ai rồi. Vệ sĩ Minh Thành Cung Hứa Kính Hòa hành thích Tần Cối, việc không thành phải mất mạng, Tần Cối tuy ra sức che giấu, nhưng cuối cùng cả thiên hạ đều biết tới, không ai là không thở dài. Hứa Kính Hòa trước khi bị hành hình đã nói: "Không phải chỉ có mình ta là muốn giết ngươi, thiên hạ có hàng ngàn hàng vạn người đều có ý muốn giết ngươi cả, ngươi cho dù có thể thoát được báo ứng trong kiếp này, cũng không thể nào tránh được hậu thế thóa mạ." Chính nghĩa thị phi vốn ở trong lòng người, ai cũng thấy câu nói của ông ta chính là lời trong lòng mà mình không dám nói, mọi người trong điếm đối với hậu nhân của một dũng sĩ như vậy không khỏi nảy sinh lòng kính phục.

 Đứa bé kể tiếp: "Đến giữa trưa, má má thấy bên ngoài nhốn nháo, liền kêu ba vị tỷ tỷ uống canh, trong canh có ngân nhĩ táo đỏ, ngọt ơi là ngọt, con đòi uống bằng được, nhưng má má không cho con uống, con òa lên khóc, thì má má cũng khóc theo, nói: 'Bây giờ nếu cho con uống, thì sau này con sẽ không phải chịu khổ nữa, nhưng mà con phải nhớ, nam tử hán đại trượng phu từ khi sinh ra đã phải chịu khổ, người có thể vượt qua được gian khổ mới có thể trở thành nam nhân chân chính. Cảnh bá bá của con rất trọng nghĩa khí, hai ngày nữa sẽ đến đây, bá bá biết tin, nhất định sẽ tìm cách cứu con. Võ công của bá bá cực kỳ cao cường, chỉ cần ông ấy muốn cứu con, con vẫn còn có một tia cơ hội, Hứa gia của ta cũng còn lại một tia cơ hội.' Con thấy ba tỷ tỷ uống rồi thì từng người từg người một lăn ra ngủ, sau đó má má nghe bên ngoài có tiếng chân chạy rầm rập, liền uống ngay một bát, rồi cũng lăn ra ngủ."

 Mọi người đền biết đứa bé thấy má má và tỷ tỷ lăn ra ngủ, chính là đã uống độc dược tự vẫn. Tam nương tử đối với vị phu nhân họ Hứa này không khỏi nảy sinh lòng kính phục, khẽ xoa đầu đứa bé hỏi: "Sao đó con bị bọn quan quan bắt phải không? Ngày đó ta ở trên tửu lâu gặp được con, thương tích đầy người, có phải ở trong ngục bị bọn chúng đánh phải không?" Nhớ lại thân hình đứa bé đầy vết bầm tím, tim nàng không khỏi nhói lên đau đớn.

 Đứa bé gật đầu nói: "Đúng rồi, bọn chúng hỏi con, gia gia có bằng hữu gì không, con không nói, bọn chúng liền ra tay đánh con."

 Tam nương tử hỏi: "Sau đó là Cảnh bá bá cứu con ra ngoài có phải không?"

 Đứa bé gật đầu đáp: "Đúng rồi, hôm đó vào lúc nửa đêm, Cảnh bá bá giết người mở đường vào trong ngục, cúi xuống cười với con, rồi ôm lấy con chạy ra ngoài. Truy binh đuổi theo nhiều lắm, nhưng bọn chúng không chạy theo kịp Cảnh bá bá. Có một lão già cũng đuổi theo, lão ta chạy nhanh như gió, Cảnh bá bá ra tay giết cả đám đồ đệ của lão, nhưng cuối cũng lại bị thương dưới chưởng của lão, Cảnh bá bá đánh lại một chưởng, lão ta không đuổi theo nữa, con chỉ nghe Cảnh bá bá cười lạnh nói: 'Hà hà, Chiêu Nhiên Nhược Yết, Chiêu Nhiên Nhược Yết, hẹn ngày tái ngộ.'" Nó bắt chước giọng nói của Cảnh Thương Hoài lúc đó, hơi run rẩy như bị cảm lạnh, có thể thấy sau trận đụng độ đó, Cảnh Thương Hoài thụ thương không nhẹ.

 Trong phòng lại im phăng phắc, Đỗ Hoài San ở bên cạnh chợt vỗ vai Tiêu Tứ Ẩn, rồi cùng nâng chén rượu uống cạn. Chiêu Nhiên Nhược Yết chính là cao thủ đệ nhất trong cung, được xưng tụng là tông sư võ học trong thiên hạ, tên gọi là Lý Nhược Yết. Nghe đồn đãi rằng việc mưu hại Nhạc Phi trong ngục tại Phong Ba Đình cũng có phần của lão, Nhạc Phi trước khi chết có nói câu: "Thiên nhật chiêu chiêu" (ánh mặt trời sáng chói), dường như là để cho lão ta nghe. Người trong giang hồ đau lòng phẫn nộ, liền gắn vào tên của lão, trở thành "Chiêu Nhiên Nhược Yết". Cảnh Thương Hoài có thể cứu thoát người dưới tay của lão, có thể thấy trận chiến đó kịch liệt đến mức nào, sau đó bôn tẩu ngàn dăm chăm sóc cô nhi, chạy dọc theo ven sông Đồng Lăng, bị bọn Đề Kỵ bám sát theo, y đúng là người nghĩa khí võ công cao cường, ai cũng phải giơ ngón tay thán phục

oOo

 ------- Còn tiếp -------

Đột nhiên từ xa vẳng lại tiếng quát tháo, chắc là Cảnh Thương Hoài đang giao thủ với Đề Kỵ, tiếng quát tháo ở mé tây, mưa gió bão bùng, trong nhà không nghe rõ nữa. Lão già họ Tiêu dỏng tai lên lắng nghe, một hồi lâu sau vỗ đùi than: "Tiếc quá, tiếc quá, đã đánh thương hai tên, mà vẫn chưa thoát ra được! "

 Mọi người không khỏi lấy làm tiếc cho Cảnh Thương Hoài, Trầm Phóng hỏi: "Bọn họ sao rồi?"

 Tam Nương Tử đáp: "Dường như là chạy xuống phía nam." Thính lực của nàng không được xa như Tiêu Tứ Ẩn, nhưng Tiêu Tứ Ẩn nghe vậy bèn quay sang nàng gật đầu tỏ vẻ tán thưởng.

 Dỏng tai lên cố gắng theo dõi một hồi, thì nghe thấy phía nam hỗn loạn, một hồi lâu sau thì âm thanh dần dần lắng xuống, Trầm Phóng đầy vẻ hy vọng hỏi: "Phá vây được rồi phải không?" Tam Nương Tử sắc mặc đầy vẻ lo lắng, do dự không trả lời được, Tiêu Tứ Ẩn ngồi bên thở hắt ra nói: "Lại chạy lên phía bắc rồi!" Kim hòa thượng vỗ đùi nói: "Đồ hèn hạ!" Dần dần lại vẳng đến tiếng đấu đá ở phía bắc, Cảnh Thương Hoài chạy ngược chạy xuôi vẫn không phá vây thoát đi được, lại thêm vào thân mang trọng thương, từ tây chuyển xuống nam rồi ngược lên mé bắc, thật làm cho mọi người phải kính phục

 Tiếng hò hét đấu đá vẫn rất huyên náo, Tiêu Tứ Ẩn chau mày, mười phần khẩn trương, mọi người tập trung theo dõi sắc mặt của ông ta, thoắt vui thoắt buồn, chợt nghe ông ta khẽ nói: "Có hai thớt ngựa từ phía đông chạy xuống phía nam, rồi lại vòng sang mé tây, Cảnh đại hiệp nãy giờ vẫn chưa thoát ra được, có vẻ như bọn chúng đang đi càn quét, quyết không để đại hiệp lọt khỏi vòng vây." Đột nhiên nhướng mày kêu a một tiếng, rồi im lặng một hồi lâu, mọi người nóng lòng hỏi dồn: "Sao vậy, vậy người đang ở đâu?"

 Đỗ Hoài San cũng hỏi: "Bọn Đề kỵ sao rồi?" Thính lực của lão ta vẫn chưa luyện được đến mức Thiên nhĩ thính như Tiêu Tứ Ẩn.

 Tiêu Tứ Ẩn trầm ngâm một hồi rồi nói: "Bọn chúng vẫn đang đi tìm, không xong rồi, đã chạy về mé chúng ta."

 Chợt thấy màn cửa mở tung, gió mưa ào ạt luồn vào, Cảnh Thương Hoài bám chặt vào khung cửa mới đứng vững, sắc mặt trắng bệch không chút huyết sắc. Y xoay người kéo màn xuống, cử chỉ chậm chạp. Thân hình máu me bê bết nhưng nét hào khí vẫn không hề giảm sút, quay sang cười với mọi người vẻ hối lỗi vì đã dẫn lang sói vào nhà.

 Chỉ có điều y không biết rõ mọi người ở đây là hạng người gì. Bọn Đề Kỵ trước giờ vốn hung tàn, trong nhà có giang dương đại đạo, lại có cả học sĩ đào vong, bọn chúng mà tới đây chẳng phải là một mẻ vét sạch hay sao? Mọi người ai cũng nhận ra nguy cơ trùng trùng, nhưng chẳng ai muốn tỏ ra khiếp nhược cả. Tam Nương Tử mỉm cười ung dung ngâm nga: "Đêm trăng mờ là đêm giết người, Ngày gió to là ngày phóng hỏa. Đang cơn mưa gió bão bùng, mời Cảnh huynh lại đây uống một chung rượu cho ấm bụng?"

 Cảnh Thương Hoài nghe vậy không khỏi mỉm cười, dường như rất tán thưởng hào khí của Tam Nương Tử, lại nghĩ sớm muộn gì Đề Kỵ cũng sẽ truy đuổi đến đây, thôi thì cứ ngồi uống một chung vậy.

 Tam Nương Tử hỏi: "Không thể chạy thoát sao?"

 Mặt đanh lại, Cảnh Thương Hoài đáp: "Tiếc là ta đã bị trúng thương."

 Tam Nương Tử khẽ thở dài, biết rằng vết thương của y nhất định là rất trầm trọng. Cảnh Thương Hoài không muốn người khác lo lắng cho mình, liền thay đổi sắc mặt nói: "Nếu Đề Kỵ đến đây, kẻ đầu tiên không trốn được chỉ sợ lại là vợ chồng các vị, về chuyện đề bài từ trên sông Ngô đó."

 Tam Nương Tử nghe vậy liền nở nụ cười tươi như hoa: "Vậy sao?" Tay liền vung lên, một mũi đoản đao bay vút ra cắm vào ngực tên Lai Phúc, tên này vốn đang mừng thầm, tưởng rằng có cứu binh tới, không ngờ chết đến gáy còn không biết. Tam Nương Tử thấy chuyện đã như vậy, chẳng bằng giết ngay kẻ đã xúc phạm đến vị tỷ muội tốt ở Lâm An của mình cho xong chuyện. Ở chuôi thanh chủy thủ của nàng có buộc một sợi dây mảnh, vung tay một cái đã thu hồi lại, mọi người khi nãy thấy nàng khí khái hào sảng đã đủ kính trọng, nào ngờ nàng còn xuất thủ nhanh như chớp.

 Cảnh Thương Hoài nhìn qua rất cao hứng, khẽ gật đầu tán thưởng. Tam Nương Tử cười nói: "Cảnh đại ca chắc không coi tiểu muội là loại nữ nhân thi chút ân nghĩa để mua lòng người nữa chứ?"

 Ngày đó ở Lâm An tửu lâu, lúc nàng gọi người đem rượu, rồi lại trả tiền ăn, Cảnh Thương Hoài quả thật đã nghĩ như vậy, do đó đến một miếng bánh cũng không thèm động tới. Ngược lại Trầm Phóng chỉ là một tên thư sinh, rõ ràng không biết mình là ai, vừa gặp đã cởi áo tặng ngay mới lọt được vào mắt xanh của y. Y là kẻ rộng rãi khoáng đạt, chẳng thèm phủ nhận, đáp: "Thật lỗi quá, ơn tặng cơm ta đúng là không để trong lòng." Liền nâng chén nói: "Đường dài mới hay sức ngựa, hôm nay mới hiểu được lòng dạ của hiền phu phụ. Chỉ e rằng ta đây sống lâu hơn được mấy năm, đành phải giữ ngôi đại ca rồi." Ba người họ bề ngoài lạnh lùng thản nhiên, nhưng trong lòng đã thầm thề nguyện với nhau, Trầm Phóng nghe vậy cực kỳ vui sướng, y vốn muốn kết giao với vị kỳ hiệp dị sĩ này từ lâu, nhưng chưa hề mơ đến chuyện được kết làm huynh đệ.

 Tam Nương Tử nói: "Thiếp đây phải làm tam muội rồi, chỉ tiếc là không bì được với Hồng Phất mà thôi."

 Tiêu Tứ Ẩn đột nhiên gọi: "Cảnh đại hiệp." Cảnh Thương Hoài bèn quay sang. Tiêu Tứ Ẩn hỏi: "Hai tên nào tới đây?" Lão đã nghe ra chỉ có hai tên trong Tam thập nhị đô úy đuổi đến đây, chỉ không biết là hai tên nào.

 Cảnh Thương Hoài ho khan một tiếng rồi đáp: "Điền Tử Đan và Ngô Kỳ." Điền Tử Đơn xưng là Giang Nam đệ nhất khoái đao, mấy vết thương trên người Cảnh Thương Hoài, e rằng đa phần do hắn gây nên, Ngô Kỳ hiệu là Bình Bình Vô Kỳ (chẳng có gì đặc biệt), chính là nói đến Thiếu Lâm quyền pháp của hắn, Bách bộ Thần quyền đã luyện đến mức cao nhất vô thanh vô tức, có thể đả thương người ta không một dấu vết nào, cũng là chỉ trí thông minh của hắn chỉ vào loại thường thường mà thôi. Hai tên này chính là tướng tiên phong của Tam thập nhị vệ, mọi người nghe vậy nét mặt lộ vẻ ưu tư, biết ngay là Cảnh Thương Hoài khó mà thoát được.

 Chỉ nghe bên ngoài tiếng vó ngựa càng lúc càng dồn dập, vừa đến trước tiểu điếm thì chợt im bặt, chỉ nghe tiếng nhạc ngựa leng keng, tiếng mưa rơi lắc rắc trên giáp trụ. Bên ngoài một giọng nói thành thật chất phác vang lên: "Đây có phải là Khốn mã tập không?" Một giọng the thé đáp: "Hình như là vậy, cái tên này đúng là bất lợi cho bọn người ở bên trong a. Chẳng biết là kẻ nào ở trong đó, hừm, vừa nhận được tin bồ câu, mé Nam Xương có tình báo đưa đến, nói là Giang Dương Đại Đạo Kim hòa thượng có ghé qua đây, lại có thêm ba tên họ Trương giết quan tạo phản chắc cũng đã đến nơi rồi; nghe nói cả phu phụ họ Trầm mà Tần thừa tướng đang tìm cũng đi đường này, phía trước ách tắc chẳc cũng đang bị khốn ở chỗ này. Hà hà, lúc rời kinh, Vạn Sĩ đại nhân cũng có dặn dò, nếu tiện thì chém chết luôn lão già mù hát dạo, hình như bọn chúng cũng đã theo đoàn tiêu xa đến đây, mấy người trong tiêu cục này muốn tạo phản hay sao? Không biết tiêu xa vận chuyển vật gì mà nặng nề quá, chỉ có điều ta cũng nể mặt Tần lão đầu, không muốn đụng đến vật của lão, chỉ có điều mấy huynh đệ khổ cực mấy bữa nay, nếu muốn ra tay tranh doạt, ta cũng chẳng quản đến."

 Dừng lại một chút, hắn nghiến răng nói tiếp: "Còn có tên Cảnh Thương Hoài, đã đả thương sáu huynh đệ chúng ta, ta nhất định phải chém hắn ta sáu đao để trả thù mới được."

 Người vừa nói chính là Khoái đao Điền Tử Đơn, ngoại trừ giọng của hắn và Ngô Kỳ, bên ngoài ba bốn chục thiết kỵ chẳng hề thốt lên một tiếng, có thể thấy được hiệu lệnh hết sức nghiêm ngặt. Mọi người trong nhà nghe vậy trong lòng đều hết sức kinh hãi, không ngờ hắn ta chưa tiến vào mà đã biết rõ tình hình đến tận chân tơ kẽ tóc, tin tức mật báo của Đề Kỵ đúng là nhanh nhẹn phi thường. Nghe hắn có ý muốn quét sạch mọi người trong điếm, đến tiêu ngân cũng chẳng tha, trở thành miếng mồi béo bở cho bọn chúng vinh thân phì gia.

 Cảnh Thương Hoài chỉ nâng chén uống tràn, chẳng thèm để ý tới. Kim hòa thượng đang muốn mở miệng mắng chửi, không ngờ lại nghẹn họng chẳng thốt được tiếng nào, gã trước giờ tự phụ can đảm, nhưng thấy Cảnh Thương Hoài khí độ thản nhiên trước đại địch, không khỏi thầm kính phục đến sát đất. Chỉ lạ là chàng thư sinh và nữ tử bên cạnh y vẫn tươi cười trò chuyện, thản nhiên như không. Cảnh Thương Hoài nói: "Ta vốn cùng bọn heo chó súc sinh kia liều mạng một phen, nhưng trên tường của căn điếm này có một bài từ ta rất ưa thích, trước giây phút sinh tử muốn nhìn lại một chút. Ta chữ nghĩa không nhiều, ngày đó bài thơ này đã hại ta phải tra bao nhiêu là sách mệt đến chết được."

 Tam Nương Tử nghe vậy liếc mắt nhìn lên tường, chỉ thấy trên vết tường nám đen còn lại vài vết mực cũ, e là đã lâu lắm rồi, chắc là bài thơ đó. Nàng liên vẫy tay gọi cô bé Tiểu Anh Tử. Cô bé chạy lại, thân hình run rẩy sợ sệt. Tam Nương Tử cười nhẹ nói: "Hảo hài tử, đừng có sợ, ở đây có nhiều người cùng chết với con, đường xuống suối vàng cũng đỡ tịch mịch, không có ác quỷ nào dám ăn hiếp con đâu." Nàng tuy là nữ nhi, nhưng anh khí đường đường, hàng ngàn vạn nam tử hán cũng không bén gót, cô bé vốn rất bội phục nàng, nghe vậy tinh thần lập tức phấn khởi trở lại.

 Điền Tử Đơn đứng bên ngoài thấy chẳng có ai để ý đến lời nói của hắn, liền hừ lạnh một tiếng: "Cảnh Thương Hoài con sâu chết toi kia chui đầu rút cổ rồi à?"

 Hắn muốn khích tướng Cảnh Thương Hoài, thực ra trong lòng chỉ sợ có mình Cảnh Thương Hoài mà thôi, Cảnh Thương Hoài coi lời của hắn chẳng khác nào tiếng côn trùng vo ve, chẳng thèm để ý tới. Tam Nương Tử mỉm cười nói với cô bé: "Con biết chữ không?" Cô bé liền gật đầu, Tam Nương Tử trỏ Cảnh Thương Hoài, cười nói: "Hay lắm, vị bá bá này rất thích bài từ viết trên vách, con có thể ngâm lên cho chúng ta nghe được không, hai nữ nhân chúng ta, có chết cũng phải chết cho phong phong nhã nhã một chút, hơn nữa, bá bá này cũng muốn cùng xướng họa với con nữa." Nói rồi liếc nhìn sang Cảnh Thương Hoài.

 Cảnh Thương Hoài nghe vậy cười dài, đáp: "Hay lắm, muội hãy đếm số câu nhé, muội ngâm một câu ta giết một người, có bao nhiêu câu thì ta sẽ giết bấy nhiêu người để đáp tạ, coi như là món quà ra mắt với muội."

 Đột nhiên ngoài cửa đao quang lóe lên, tấm màn ướt sũng nước mưa bị chém rơi xuống đất, mọi người đưa mắt ra nhìn, chỉ thấy Điền Tử Đơn thu đao ngồi lại ngay ngắn trên ngựa, hắn chiêu này thật là nhanh nhẹn, tấm rèm sũng nước cũng khá nặng, thế mà bị chém phạt ngang chẳng khác gì một chiếc lá khô, đúng là hảo đao pháp, hảo thân thủ!

 Cô bé sợ hãi a lên một tiếng, lão già mù trước chuyện đáng sợ như vậy, không ngờ lại dịu giọng nói: "Tiểu Anh Tử, đừng sợ, nghe lời của a di đi, con thấy bài thơ trên tường là theo điệu gì vậy?" Lão binh của Bát Tự quân ngày đó, giờ trước hiểm nguy mới có dịp bộc lộ dũng khí xả thân giết địch thưở xưa. Cô bé khẽ đọc mấy chữ trên tường, lầm bầm một hồi, lão già nói: "Là Niệm Nô Kiều!", rồi ôm hồ cầm, chỉnh lại dây rồi bắt đầu kéo đàn, âm thanh réo rắt thương tâm, bốn bề ánh đèn khi mờ khi tỏ, bên ngoài cửa mưa rơi rả rích, tiếng đàn lại càng thêm thê lương ảm đạm. Dòng tựa ghi là dưới trăng ngày mười bảy tháng tám, cô bé được ông cổ vũ, liền cất giọng ca:

 "Ráng chiều mưa tạnh, thu trong trẻo, núi cao cỏ xanh ngăn ngắt."

 Tam Nương Tử vỗ bàn, nói: "Câu thứ nhất." Trầm Phóng nhâm nhi chung rượu, Cảnh Thương Hoài khẽ gật đầu, biết là Tam Nương Tử đang ám chỉ câu nói: ngâm một câu giết một người của mình khi nãy.

 "Bóng quế lưa thưa, ai đó nói, sao đêm nay trăng mờ thế nhỉ?

 Trời xanh thăm thẳm, Hằng nga đâu rồi, chỉ còn một quầng nhàn nhạt đây,

 Tỏa ánh lành lạnh, chiếu sáng cho ai thế?"

 Cô bé không nhận ra được hai chữ sau, ấp úng một hồi. Cảnh Thương Hoài cũng chẳng thúc giục, ngẩng đầu lắng nghe, tựa như hồi tưởng đêm sáng trăng ngày ấy.

 Cô bé ngẩng đầu đọc tiếp:

 "Thuở nhỏ cùng ta du ngoạn,

 Lối vắng quanh co,

 Vòng quanh cổ thụ Trương viên.

 Nhà xa quá khó hái được sen vàng

 Không thể cùng nhau chuốc chén.

 Ta đây cả đời, thích nhất khúc Lâm Phong,

 Tôn lang cười nhẹ,

 Ngồi xuống khẽ thổi tiêu trúc." (*)

 Mọi người đều biết, hát xong khúc này thì hẳn là trường tranh đấu sẽ diễn ra ác liệt. Cảnh Thương Hoài ngồi đây, bọn người ngồi trên thiết kỵ ngoài kia cũng không biết được sinh tử thế nào, đều lẳng lặng lắng nghe khúc hát.

 Tam Nương Tử lên tiếng trước: "Tám câu." Cảnh Thương Hoài gật đầu, mắt liếc xéo ra ngoài. Thiếu niên áo đen nãy giờ say sưa ngủ đứng vụt dậy, thân hình thẳng tắp mảnh dẻ như trúc Sở phong. Dưới ánh đèn mờ ảo, gã chẳng nói tiếng nào, cô bé đang hát vừa nhìn thấy gã, không hiểu sao lại ngẩn cả người ra.

 Lúc này Đỗ Hoài San ho một tiếng gọi: "Điền huynh, Ngô huynh." Hai tên này đã nhìn thấy lão từ sớm, nhưng không muốn mở lời trước, do đó giả vờ kinh ngạc đáp: "Ôi, hai vị tiền bối cũng ở đây sao? Có phải là đi quyên lương tiền cho nghĩa quân hay không? Thật là xấu hổ, bọn điêu dân cường đạo này làm loạn, Đề Kỵ phải ra sức dẹp cho xong, xong rồi sẽ quay lại thỉnh an với nhị vị." Một câu này của hắn đã chận ngay họng nhị lão, làm nhị lão chẳng nói thêm được gì, bọn họ thân là người của nghĩa quân, đành phải bó tay ngồi yên.

 Kim hòa thượng biết hôm nay nhất định phải đánh một trận, thấy Đỗ Hoài San mở miệng cầu xin đã thất bại, thân hình to béo đột nhiên nhảy vọt lên, cất tiếng mắng chửi: "Đi cái con bà nhà ngươi," thiền trượng vung lên đập thẳng vào đầu của Điền Tử Đơn, gã xưa nay đánh nhau luôn theo lối công phạt, võ công đối thủ có cao hơn nữa gã cũng không bao giờ chịu tỏ ra khiếp nhược hay thần phục. Điền Tử Đơn vung đao sáng lóe, nhảy phắt xuống ngựa. Đầu ngựa liền bị thiền trượng đập nát, hắn vẫy đao một cái, một tên thiết kỵ hộ vệ vội nhảy xuống ngựa, nhường ngựa của mình cho hắn, rồi bước lên nghênh tiếp hòa thượng, hòa thượng rống lên một tiếng đau đớn rồi lùi xuống, mọi người vừa kịp thấy tay phải của gã đã mất đi hai ngón.

 Quả nhiên là khoái đao!

 Bọn người tiêu cục từ sớm đã thầm kinh hãi, khi nãy Điền Tử Đơn tuy đã có nhắc đến bọn họ, nhưng họ chỉ có cách chú tâm đề phòng, chứ làm sao dám công nhiên giết quan lại tạo phản chứ? Lúc này thấy đao pháp của Điền Tử Đơn, trong lòng hết sức khẩn trương, biết rằng Kim hòa thượng khó mà chống lại bọn chúng nổi. Kinh Tam Nương tuy thiện dùng mộc thoa, giết người tầm cừu, nhưng nếu trực diện giết địch liều mạng, nàng dù sao cũng là nữ nhi, khó mà chống nổi. Cảnh Thương Hoài nếu mà bị đánh bại, thì tiêu ngân này chỉ sợ sẽ gặp phải tai ương, do đó trong bụng chỉ cầu cho phe Cảnh Thương Hoài thắng được trận này.

 Điền Tử Đơn vẫy tay, phía sau vài tên thị vệ chạy lên xông thẳng vào nhà, Kim hòa thượng tuy bị thương vẫn không khiếp nhược, vung trượng tử thủ trước cửa, một mình y không chống nổi địch nhân đông đảo, ba huynh đệ Trương gia cũng vung đòn gánh tiến lên tương trợ, chỉ còn lại Vương Mộc còn ngồi trơ đó, gã đột nhiên chỉ Kim hòa thượng rồi bắt đầu đếm: "Một, hai, ba..." Đếm luôn cả lão già mù, cô bé, thiếu niên áo đen và cả đứa bé bên cạnh Cảnh Thương Hoài, rồi nói: "Tổng cộng có mười bốn người, Cảnh đại hiệp lo 8 người, huynh đệ chúng ta phải giết được 6 tên thì mới đủ số." Nói xong phóng lên phía trước, thiết xích của một tên thị vệ đập trúng vai của gã, gã chau mặt lộ vẻ đau đớn nhưng trảo vẫn vươn ra bẻ gẫy cổ họng tên đó, thân hình hạ xuống, cười nói: "Một tên", rồi xoay người tung một tên địch nhân về phía đao của Kim hòa thượng, Kim hòa thượng tiện tay đập xuống một trượng, tên này đầu vỡ toang, chết ngay lập tức, Vương Mộc tuy tay máu me đầm đìa, nhưng vẫn thản nhiên đếm tiếp: "Hai tên".

 Kim hòa thượng ha hả cười lớn: "Mộc đầu, Kim hòa thượng ta không sợ trời, không sợ đất, bây giờ phải phục đệ rồi đó!" Mọi người trong ngoài điếm thấy tên họ Vương này võ công tuy không cao, nhưng tâm cơ thủ đoạn, dũng cảm tàn độc thật làm mọi người phải kinh hãi. Điền Tử Đơn lại vẫy tay lần nữa, vài tên thị vệ lại tiếng lên, vây chặt lấy mấy người bọn họ.

 Vương Mộc khi nãy đếm những người mà bọn Đề Kỵ nhất định sẽ giết chết, tuy vẫn có vài người vô tội, nhưng bọn chúng chắc chắn sẽ không bỏ qua đâu. Gã là người lục lâm, tuy biết bọn người tiêu cục chắc cũng chẳng có kết quả tốt đẹp gì, nhưng trước giờ vẫn khinh miệt bọn họ, đương nhiên chẳng thèm để bọn họ vào mắt.

 Ông chủ điếm từ sớm đã biết đây là ân oán giang hồ, đã vội trốn vào trong nhà, mấy ngọn đèn trên bàn đã gần cạn hết dầu, tỏa ánh sáng leo lắt. Cô bé nãy giờ vẫn chăm chăm nhìn vào thiếu niên áo đen, chỉ thấy gã sắc mặt trắng bệnh, cô bé quên đi nỗi sợ hãi của riêng mình, lấy làm lo lắng cho gã ta. Chợt thấy Cảnh Thương Hoài cuối cũng không nhịn được nữa phì một tiếng phun ra một búng máu, không khỏi run lên cầm cập. Điền Tử Đơn bên ngoài thấy vậy hoan hỉ, vẫy tay gọi thêm người vây chặt lấy bọn Kim hòa thượng, muốn bức Cảnh Thương Hoài ra tay xuất thủ.

oOo

 Thiếu niên áo đen đột nhiên thò tay vào trong người lấy ra một chung rượu nhỏ, chung rượu này làm toàn bằng ngọc, chỉ nhỏ bằng ngón tay, màu sắc tươi đẹp. Gã nghe khúc ca, lại cúi xuống nhìn chung rượu, như si như mê, chân mày giãn ra, dường như đang nhớ lại chuyện cũ. Bốn bề hỗn loạn nhưng gã chẳng thèm để ý tới, mà người trong điếm có ai rảnh mà chú ý đến gã nữa chứ? Ai nấy đều tập trung lo lắng đến bọn người đang tử thủ trước cửa.

 Chàng thiếu niên đột nhiên vẫy tay gọi cô bé, cô bé nãy giờ vẫn quan sát gã, thấy gã gọi mình, không khỏi e thẹn cúi đầu, chân bỗng dưng bước lại gần gã. Thiếu niên nói: "Muội hát lại khúc hát hồi nãy có được không?"

 Cô bé ngẩng đầu nhìn gương mặt trẻ trung chỉ mới khoảng gần hai mươi tuổi của thiếu niên, cô bé nãy giờ vẫn rất sợ hãi, bây giờ tưởng chừng như quên hết mọi việc, trái tim đập loạn lên, tựa hồ mọi chuyện chung quanh chẳng có liên hệ gì đến mình nữa. Cô gật gật đầu, rồi bất giác quay vào tường cất giọng khe khẽ hát lại bài từ, tiếng hát của cô mọi người cũng có kẻ nghe thấy, nhưng chẳng ai thèm chú ý, chỉ là chuyện riêng giữa cô và chàng thiếu niên mà thôi.

 Thiếu niên dường như chẳng để ý gì đến mấy câu đầu, nhưng nghe đến câu "Cộng đảo kim hà gia vạn lý, nan đắc tôn tiền tương thuộc" thì lộ vẻ xúc động vô cùng. Trên bàn có một hồ rượu, gã tiện tay cầm lấy rót vào chung rượu nhỏ. Gã dường như không quen uống rượu, vừa uống vào thì mặt đỏ hồng lên, cô bé nhìn gã đến mê mẩn cả người. Cô nhìn thấy vẻ mặt của gã, thì biết ngay gã rất thích nghe câu này, liền ca đi ca lại đến ba lần, nhưng ca lần nào cũng bị hụt hơi, sau đó thì lấy giọng khẽ ca lại lần nữa: "Cộng đảo kim hà gia vạn lý, nan đắc tôn tiền tương thuộc".

 Thiếu niên áo đen đột nhiên vỗ mạnh xuống bàn, rồi tự mình ca lớn: "Cộng đảo kim hà gia vạn lý, nan đắc tôn tiền tương thuộc", giọng của gã ta trong trẻo cao vút, dường như chọc vào lỗ tai của mọi người, giữa ánh sáng tờ mờ, chỉ thấy gã đứng thẳng người, tay thò vào bọc rút ra một thanh đoản kiếm tuốt trần dài chưa tới 2 xích, mọi người chỉ thấy gã loáng một cái đã tiến ra khỏi cửa, như ưng bay hạc múa, lại thấy kiếm quang lóe lên, không biết gã đã làm gì, thân hình chẳng dính một hạt mưa nào, đã quay lại ngồi lại chỗ cũ, câu "Cộng đảo kim hà gia vạn lý, nan đắc tôn tiền tương thuộc" cô bé vẫn chưa hát xong, trên kiếm còn vương lại một miếng vải xanh phất phới, dường như chẳng làm tổn thương gì đến ai, nhưng mọi người đều kinh ngạc trước chiêu kiếm nhanh như điện xẹt này. Ngay cả Đỗ Tiêu hai người cũng trố mắt ngạc nhiên, Tần lão gia tử nghểnh đầu, Cảnh Thương Hoài không dám tin vào mắt mình nhìn ra cửa, mọi người dõi theo tia nhìn của bọn họ, thì thấy Điền Tử Đơn khóe môi vẫn còn phảng phất nụ cười lạnh lùng, một hồi sau thì từ từ gục xuống, một tia máu rỉ ra từ cổ, dưới đất đầu người rơi lả tả, chàng thiếu niên vừa ngâm "Cộng đảo kim hà gia vạn lý", té ra là một kẻ chém đầu người như chém bắp cải, máu me khắp chốn ư? Mọi người trong lòng không rét mà run, đó, đó chẳng phải là kiếm thuật nhất kích tất sát đó sao?

Hết hồi 4

 (*) Uyên Minh dịch thơ:

 Lá hồng tan giữa mưa thu

 Sắc thu quạnh quẽ, khí thu lạnh lùng

 Nét mày núi phác mông lung

 Cành hoa quế nở giữa vùng sương tinh

 Đường nào hết gánh điêu linh?

 Đêm thanh thanh tĩnh mối tình dở dang

 Trời xanh vạn lý ngút ngàn

 Hỏi ai cho tỏ nhà nàng ở đâu?

 Xe nàng bánh ngọc chuyển luân

 Hàn quang linh lọan phân trần nơi nao?

 Thiếu thời bốn bể chơi rong

 Lối thu khúc khủy, dốc mòn vẽ quanh

 Xa xa vườn nhỏ như tranh

 Trương viên rũ xuống mấy cành cổ du

 Hòang hoa thấp thóang trong mù

 Sen vàng vạn lý thu nào hái chung?

 Nhớ người xưa chuốc chén cùng

 Khúc Lâm Phong, bỗng hát cùng trời cao

 Tôn lang thóang điểm nét cười

 Nhẹ xuy tiếng địch đãi người hái sen.

BÔI TUYẾT HỆ LIỆT

 BỘ THỨ NHẤT - MƯA ĐÊM GÕ XUỐNG SEN VÀNG

 HỒI 5 - TIÊU NGÂN

 Phúc Vũ và Phiên Vân

 Dịch tặng Tay Doc đại ca

 Phúc Vũ, Phiên Vân vô cùng cảm kích Yên Hà huynh đã hiệu đính giúp hồi 5 này.

 Đỗ Hoài San cùng Tiêu Tứ Ẩn nhìn ra thi thể Điền Tử Đơn đang nằm trước cửa, ngay trên đống bùn đất, gã chết rồi mà nét mặt vẫn đầy vẻ ngạc nhiên. Chiêu kiếm tuyệt mệnh này thì suốt đời gã chưa từng chứng kiến, Giang Nam đệ nhất khoái đao mà đến lúc chết, tay vẫn còn chưa chạm đến chuôi đao giắt ở lưng.

 Đỗ Tiêu hai người liếc nhìn nhau, bọn họ là bằng hữu lâu năm, chỉ qua ánh mắt đã có câu hỏi và câu trả lời, "Huynh có tránh được nhát kiếm này không?", " Không tránh nổi, nếu hắn đến sát bên cạnh để giết ta, chắc chắn là ta vô phương phát hiện."

 Tần Ổn tinh thần phấn chấn hẳn lên, đã hoàn toàn yên tâm về chuyện tiêu ngân, mấy tên tùy tùng ngẩn cả người, mồm miệng há hốc. Trận chiến ngoài cửa cũng đã ngưng, tất cả đều ngơ ngác, trận ác đấu liều mạng của họ vừa rồi thật chẳng khác gì trò chơi trẻ nít. Đề Kỵ đô úy Ngô Kỳ đầu óc vốn đần độn, một hồi lâu sau không nói được tiếng nào. Võ công của hắn cũng chỉ cỡ Điền Tử Đơn, làm sao tránh nổi được một kiếm hiểm ác như vậy. Thủ hạ tuy đông, nhưng đều luống cuống không biết làm sao, liều mạng đấu đá thì bọn chúng chẳng ngán, nhưng chỉ một chiêu mà xác người nằm la liệt đầy đất, khiến tất cả đều không rét mà run cầm cập. Mặc cho tình thế vẫn căng như sợi dây đàn, gã ngồi một mình trong góc, chăm chăm nhìn vào chung rượu, chìm hẳn vào nỗi suy tư, dường như đã quên mất mình vừa mới vung kiếm giết người như ngóe. Nhìn nghiêng thiếu niên áo đen từ đằng sau, gò má tái nhợt, người ta vẫn cảm nhận được sự tuấn tú lạnh lẽo, cộng thêm nét quyến rũ trẻ thơ rất kỳ lạ, hiếm ai hội tụ được cả hai loại thần sắc đối lập như thế. Một hồi sau phảng phất như đã say rượu, gã im lặng gục xuống bàn ngủ say. Thanh kiếm đã được cất vào trong bọc, tay để chặn phía trên, mười ngón thả lỏng, chẳng thèm để ý đến chuyện gì khác.

 Trong nhà im lặng như tờ, chỉ mình Tam Nương Tử còn mở miệng được, cất tiếng ngơ ngác như vừa tỉnh khỏi giấc mộng: "Chiêu đó... chiêu đó tên gì?"

 Người nàng hỏi đương nhiên là Cảnh Thương Hoài, trong đám người ở đây chỉ có Cảnh Thương Hoài mới đủ tư cách trả lời. Y giờ đã hết lo lắng, vui vẻ trả lời: "Cộng đảo kim hà gia vạn lý."

 Tam Nương Tử thắc mắc: "Cộng đảo kim hà gia vạn lý?"

 Cảnh Thương Hoài gật gù một hồi lâu: "Ta nghĩ đó là chiêu vừa mới được gã sáng tạo ra."

 Tam Nương Tử càng thêm kinh ngạc, nhìn qua thiếu niên, thật không hiểu nổi gã là hạng người gì. Kim hòa thượng lúc vừa vào điếm đã đẩy gã một cái liểng xiểng, mà gã cũng chẳng thèm chấp, không ngờ công lực của gã cao cường đến vậy. Kế tiếp bao nhiêu sinh mệnh bị đe dọa, gã cũng chẳng thèm để ý, chỉ vì cô bé Tiểu Anh Tử hát được một câu: "cộng đảo kim hà gia vạn lý...", gã động lòng mới chịu xuất thủ.

 Trầm Phóng đột nhiên thốt: "Nan đắc tôn tiền tương thuộc." Ba người cùng nâng chén một hơi uống cạn, cả trong lẫn ngoài, chỉ có ba người họ là còn cười nói nổi. Mưa đã ngớt hạt, rơi tí ta tí tách, tựa như khúc nhạc vỗ về ru ngủ gã thiếu niên. Trầm Phóng nhìn sang khoảng gáy trắng ngần của gã, tim chợt nhói khẽ, ai là bằng hữu của gã thiếu niên kiêu dũng này, ở chốn vạn dặm xa xôi có nhớ đến bóng hình của gã không? Có biết gã, trong một đêm mưa buồn như đêm nay, đang sầu não luyến thương biết dường nào không?

oOo

 Trải qua một lúc lâu, Ngô Kỳ mới rặn được một câu: "Gan dạ quá nhỉ, đến Đề Kỵ mà ngươi cũng dám giết!" Lời nói yếu xìu không có một chút hào khí, hắn hiệu là Bình Bình Vô Kỳ, trong Đề Kỵ tam thập nhị vệ, bất kể nói về gia thế, võ công, mưu kế, công lao gì cũng chỉ ở mức trung bình, mấy kẻ ác miệng còn nói hắn nhờ giỏi răm rắp theo đuôi Viên lão đại mới sống được đến ngày nay, qua cách ứng biến của hắn nãy giờ, có thể thấy lời nói này cũng có phần xác đáng.

 Gã thiếu niên dường như đã ngủ say, Ngô Kỳ phân vân không biết nên tiến tới đánh một trận, hay nên cúp đuôi chạy sớm thì hơn, cho dù bốn mươi kỵ sĩ nếu đồng thời xuất thủ chỉ e cũng khó tổn hại được đối phương.

 Cảnh Thương Hoài đột nhiên lạnh lùng nói: "Đề Kỵ quả thật là không thể giết à?"

 Bọn người ngoài cửa thấy y đã bị trọng thương gần chết mà vẫn còn nhiều chuyện, bực bội gườm gườm nhìn y, chỉ nghe y nói: "Thế thì bốn người ở Tương Âm, Qua Dương, Đồng Lư và Dư Hàng thì thế nào?"

 Ngô Kỳ giận dữ quát: "Đều là ngươi giết hết sao?" Hỏi xong thì biết là không đúng, Cảnh Thương Hoài giết người rất ít khi dùng đến kiếm, mà bốn viên đô úy này đều chết dưới kiếm, mà còn là khoái kiếm nữa.

 Mọi người nghe hai bên đối đáp, dường như trong tam thập nhị đô úy đã có 4 kẻ bị chết thảm, không khỏi lấy làm ngạc nhiên.

 Cảnh Thương Hoài uống thêm một chung rượu nữa rồi khề khà tiếp: "Tính đến hôm nay, đã có 5 tên rồi."

 Ngoài cửa có tới hơn bốn mươi người, nhưng nghe qua câu này, rồi lại nhìn sang gã thiếu niên đang yên yên ổn ổn nằm ngủ dưới ánh đèn chập chờn, trong lòng lạnh toát không nói được nên lời.

 Tam Nương Tử chợt hỏi: "Vậy lúc ở Hảo Đăng lâu, tên béo họ Phùng vừa mở miệng huênh hoang: 'Ai dám giết ta?', lập tức táng mạng dưới kiếm, chung quanh đầy người mà cũng không ai phát hiện được, người đó có phải là vị thiếu hiệp này không?"

 Cảnh Thương Hoài gật đầu đáp: "Ta nghĩ chính là y."

 Tam Nương Tử nhìn sang gã thiếu niên, thầm nghĩ gã này đúng là có đảm lược!

 Cảnh Thương Hoài nhìn qua đã biết nàng đang nghĩ gì, chậm rãi nói tiếp: " Đề Kỵ đô úy trấn thủ Qua Dương là Lỗ Hảo, hiệu xưng Tiếu Lý Tàng Đao, là đệ nhất hảo thủ chuyên về ám sát trong Đề Kỵ. Lúc nào hắn cũng đề phòng cẩn thận, bên cạnh luôn đầy hộ vệ. Vậy mà cách đây hai tháng, hắn xuống chăm sóc cho con tuấn mã yêu quý của hắn, đang nói chuyện với người khác ngay cạnh chuồng ngựa, đột nhiên mặt co giật, con tuấn mã hí lên một tiếng, rồi cả người và ngựa lăn đùng xuống đất. Sau đó mọi người mới biết rằng, có kẻ đã ẩn nấp rất lâu bên trong chuồng ngựa, một kiếm xuyên qua cổ ngựa, đâm thẳng vào tim của Lỗ Hảo. Một kiếm cực kỳ lặng lẽ, vô thanh vô tức, vô phương tránh thoát, Lỗ Hảo thiện nghệ ám sát, không ngờ lại bị người khác ám sát."

 Giọng của y không lớn, nhưng bốn bề im lặng như tờ, ai cũng nghe thấy rõ ràng. Kim hòa thượng lầm bầm: "Con bà nó, chết kiểu đó thì ta chẳng khoái chút nào." Mọi người quay sang nhìn thiếu niên vẻ kính phục, gã giết tên Phùng béo, chẳng qua chỉ là ngông cuồng của tuổi trẻ, nhưng lần thích sát Lỗ Hảo lại tính toán cẩn mật, thật khiến cho người ta bất ngờ.

 Cảnh Thương Hoài uống thêm một hớp rượu, từ từ kể tiếp: "Nghe nói Đề Kỵ đô úy các ngươi có một tên con ông cháu cha gọi là Úy Trì Cung, rất ưa sạch sẽ phải không?"

 Ngô Kỳ gật đầu. Cảnh Thương Hoài lắc đầu mỉm cười, dường như cảm thấy rất thú vị, nói tiếp: "Mỗi lần hắn ta ra ngoài, thì phải kéo theo hàng đoàn xe chở thảm, quần áo, chén dĩa, một hạt bụi cũng không dính vào người, không biết tốn biết bao nhiêu là sức người sức của. Nghe nói hắn về sau lại bị một kiếm đâm chết trong nhà xí ở Lư Lăng, áo quần dính đầy chất bẩn, phân vương vãi trên đầu, bẩn thỉu không tả xiết. Một nhát kiếm đó chẳng những nhanh hiểm tuyệt luân, mà lại còn rất là tinh quái nữa!"

 Tam Nương Tử nghe kể không khỏi phì cười, tuy là chuyện giết người vấy máu, nhưng một kiếm đó chẳng khác gì trẻ thơ chỉ muốn vui chơi đùa giỡn. Cảnh Thương Hoài liếc sang Ngô Kỳ, nói: "Do vậy, ai nói Đề Kỵ là không giết nổi chứ? Chẳng qua là chưa gặp phải người dám ra tay mà thôi. Viên lão đại của các người chọc giận đến gã, ta e rằng các ngươi sắp gặp phiền phức to rồi."

 Mọi người nghe vậy giật mình, gã thiếu niên một mình khiêu chiến với Đề Kỵ, chắc có ẩn tình gì đó bên trong. Ngô Kỳ nãy giờ sắc mặt đã tái bệch, tên Phùng béo là đồ giá áo túi cơm, chết cũng đáng, nhưng Lỗ Hảo cùng Úy Trì Cung võ công đều hơn hắn xa, vừa nghĩ đến đây thì hắn sợ đến toát mồ hôi lạnh. Nhưng để giữ thể diện, cũng để tự an ủi bản thân, hắn cũng ráng cười gượng trả đũa: "Viên lão đại chúng ta mà sợ y sao? Huynh ấy nhìn vết thương của ba người này, chỉ nói một câu." Nói đến đây thì nín bặt.

 Đề Kỵ đô úy Viên lão đại rất ít nói chuyện, nhưng mỗi khi nói, đều hết sức xác đáng, nên lúc này ai cũng muốn nghe đánh giá của y. Ngô Kỳ thấy mọi người nôn nóng chờ nghe tiếp, thì lòng tự tin tăng thêm mấy phần, kể tiếp: "Viên lão đại nói: "Kiếm pháp thế này có thể chắc chắn một chiêu đoạt mạng sao? Chưa chắc, chưa chắc đâu, nếu đụng phải cao thủ chân chính, lại tự hại lấy thân mà thôi!"" Câu này rõ ràng muốn nói kiếm pháp của thiếu niên tuy nhìn có vẻ tàn độc, nhưng lại chẳng uy hiếp nổi y.

 Mọi người tuy tuy chưa tin hẳn, nhưng danh tiếng Viên lão đại trước giờ ai cũng biết, nên nghĩ lại rằng một chiêu của thiếu niên tuy ác liệt, thế nhưng "cuồng phong không thể thổi cả ngày, mưa dầm không thể rơi suốt tối", chỉ cần tránh được chiêu kiếm đầu tiên, thì không cần lo đến những chiêu kế tiếp.

 Tam Nương Tử thấy tên Ngô Kỳ này dường như đã tăng vài phần đảm lượng, chẳng khác nào ếch ngồi đáy giếng phồng mang trợn mắt, không khỏi lấy làm tức cười. Trên đời này không ngờ có loại nô tài chỉ cần nói đến tên chủ là dũng khí tăng lên gấp bội? Cảnh Thương Hoài lạnh nhạt nói: "Không sai, không sai, lời nói của Viên lão đại rất đúng ý của ta. Có điều y đã đề cao gã khá nhiều, cao thủ mà Viên lão đại đề cập đến không biết là có tên của Cảnh Thương Hoài ta không? Đếm đi đếm lại, chẳng biết có được đến 8, 9 người xứng đáng là cao thủ không?" Nói xong thì nhìn sang Ngô Kỳ tỏ vẻ châm chọc.

 Kim hòa thượng vỗ đùi một cái, cười ha hả nói: "Không sai, kiếm pháp của vị tiểu ca này giết không nổi Viên lão đại, nhưng đối phó với ngươi à, hà hà, chỉ sợ chẳng khác gì giết gà đâu." Mọi người nghe vậy mới hiểu, Viên lão đại chê kiếm pháp của thiếu niên chỉ vào hàng nhị lưu, là so với một số ít cao thủ mà thôi.

 Cảnh Thương Hoài đột nhiên quay sang hỏi Trầm Phóng: "Huynh đệ, ta nghe người ta đồn, đệ ở Thất Lý quán, ở Ngô Giang Trường kiều giết một mạch hơn một trăm người. Xong lại viết bài từ thóa mạ triều đình, rồi chèo thuyền bỏ đi. Gặp đệ rồi thì thấy dường như đệ không biết võ công, vậy lời đồn này có phải là thật không?"

 Y gọi ngay Trầm Phóng là huynh đệ, trước giây phút sinh tử tồn vong, ba người họ tuy chưa lấy cỏ làm hương, cúi đầu làm lễ, nhưng trong lòng đã thầm thề nguyện sinh tử có nhau, nên xưng hô rất tự nhiên. Trầm Phóng nghe vậy liền mỉm cười đem mọi chuyện xảy ra kể rõ ràng rành mạch, Cảnh Thương Hoài nghe xong cũng lấy làm lạ. Trầm Phóng cười nói: "Cả 2 chuyện giết người đề thơ đều không phải là tiểu đệ làm, nhưng lúc đó đệ vô cùng bi phẫn, rất muốn ra tay giết sạch bọn chúng. Chỉ tiếc mình văn dốt võ nát, không ngờ hai việc tốt đó lại được gán cho đệ, đại ca bây giờ chắc biết rõ đệ đây chẳng có tài cán gì, chẳng qua chỉ bị lôi ra làm cái bung xung mà thôi! "

 Cảnh Thương Hoài thấy y nói chuyện thẳng thắn thoải mái như vậy, trong lòng rất hoan hỉ, cười nhẹ nói: "Đệ nói con vật đó rất là cổ quái, vừa cao vừa lớn, không biết có giống như lạc đà hay không?"

 Trầm Phóng ngày đó tuy không nhìn thấy rõ ràng, nhưng nghĩ kỹ một hồi, thì quả nhiên không sai. Vừa nãy mắt thấy gã thiếu niên vung kiếm giết người, chỉ cảm thấy kinh hồn táng đởm, nhưng nhớ đến cảnh tượng ngày đó gã vung kiếm giết hơn ba mươi tên sứ Kim và bọn Tống binh ăn hiếp dân lành thì trong lòng vô cùng thống khoái, nâng chung rượu uống cạn sạch. Tam Nương Tử tiện tay rót cho y một chung nữa, cười nói yêu kiều: "Chàng thư sinh vô dụng, uống rượu đi chứ?" Trầm Phóng uống cạn, rồi mỉm cười hỏi lại: "Nàng không phải đã cùng ta cắt áo đoạn tình rồi hay sao?" Tam Nương Tử biết y muốn nói đến chuyện ở trong rừng, ngoài thành Dư Hàng ngày nào, liền kín đáo mỉm cười, hai người trong lòng đều cảm thấy ngọt ngào vô hạn.

 Cảnh Thương Hoài lạnh lùng nhìn sang Ngô Kỳ, tỏ vẻ khinh thị: "Viên lão đại nếu biết tất cả chuyện đó cũng là do một tay gã này làm ra, không biết cảm tưởng ra sao, sẽ nói một câu hay hai ba câu nhỉ?" Nói xong bật lên cười lạnh.

 Ngô Kỳ sắc mặt biến đổi, do bọn Kim sứ vênh vang ngạo mạn, hành xử bạo ngược, triều đình đã biết không ít kẻ trong giới giang hồ thảo mãng phẫn nộ, oán hận bọn chúng đến khắc cốt ghi xương. Nên sợ họ giữa đường ám sát bọn Kim sứ, gây họa cho triều đình, nên phái đoàn hộ tống toàn là cao thủ và rất đông tinh binh đi theo. Hộ vệ ở Thất Lý quán cũng là một tay Đề Kỵ đô úy, tên gọi Tòng Vũ Dương, hiệu là Tòng Thiết Thương, xuất thân từ Nga My, chuyên sử cây ngân thương làm bằng huyền thiết nặng hơn ba mươi cân. Gã ta là cao thủ hàng đầu, giết người như lấy đồ trong túi ở chốn trận tiền, cũng là người thẳng thắn nghiêm túc nhất trong số Đề Kỵ tam thập nhị vệ. Có người từng viết bảng xếp hạng cho tam thập nhị vệ, Viên lão đại nhìn qua liền xé toạc đi, chẳng thèm nói tiếng nào. Nhưng mấy người bên cạnh kể lại rằng Viên lão đại có nói một câu như sau: người trong Đề Kỵ không thể tự đấu đá với nhau, do đó không có ai dám xưng đệ nhất đệ nhị gì cả. Đó chẳng qua là lời nói khiêm tốn của y, nhưng y còn nói thêm một câu nữa: nếu Tòng Vũ Dương nói y chỉ đáng đứng thứ tư, không biết ai dám tự xưng là đứng thứ ba đây. Viên lão đại rất ít khi khen người khác, câu nói này có thể thấy được y kính trọng võ công của Tòng Thiết Thương như thế nào. Điều đáng sợ nhất là khi kiểm nghiệm tử thi, Viên lão đại cũng đích thân đến xem xét, thấy ai ai cũng chết dưới một nhát kiếm duy nhất, ngay cả Tòng Thiết Thương cũng không phải là ngoại lệ, nhưng tựa hồ như hắn ta là kẻ chết cuối cùng. Với năng lực của Tòng Thiết Thương mà vẫn không thể cứu được một tên Kim sứ nào thoát chết, đã là một chuyện lạ; lạ hơn nữa là hắn mắt thấy người đó vung kiếm giết chết mấy chục người, vẫn không nhìn ra được sơ hở nào, với năng lực phán đoán lãnh tĩnh của hắn vậy mà vẫn phải chịu chết dưới tay của người này, thì mức độ lanh lẹ và thảm khốc của nhát kiếm này ở Trung nguyên không có ai sánh kịp. Nhưng vết kiếm này so với vết kiếm trên tử thi của ba đô úy kia không giống nhau lắm, Viên lão đại không thể xác định được, trầm tư hồi lâu, sau đó chỉ biết thở dài nói: "Nếu Tòng Thiết Thương, Phùng béo và mấy người kia đều chết dưới tay một người, nếu ta không có mặt, các ngươi về sau gặp y, chỉ cần y không có hành động gì, chuyện trước kia cứ coi như là không có, đừng dại dột đưa đầu ra tính toán với y." Một câu khó nói như vậy cuối cùng cũng được nói ra, chứng tỏ Viên lão đại úy kỵ kẻ này đến mức nào.

 Ngô Kỳ tim như ngừng đập, đột nhiên cảm thấy vô cùng kinh hãi, một hồi sau mới miễn cưỡng trấn tĩnh được chút ít, bèn vẫy tay ra hiệu, hơn ba mươi kỵ sĩ lẳng lặng xếp thành hàng định rút đi.

 Cảnh Thương Hoài đột nhiên thở hắt ra: "Không phải ta muốn giữ các ngươi lại, ta cũng muốn các ngươi cút đi cho mau, đêm nay xảy ra quá nhiều chuyện, người chết cũng đủ rồi," dừng một chút rồi liếc sang gã thiếu niên, tiếp: "nhưng y chưa cho phép các ngươi đi mà?" Mọi người trong lòng đều cảm thấy gã thiếu niên này tính tình cổ quái, có lúc giết người có chiến lược rõ ràng, có lúc dường như chỉ do cao hứng nhất thời; có lúc phảng phất như vì dân vì nước, có lúc chỉ là trả thù vặt vãnh. Mặc dù gã ta đang say ngủ hơi thở đều đều, nhưng y chưa cho phép, thì Ngô Kỳ cũng không dám rời đi. Bọn chúng tuy đông người, nhưng nhớ tới thảm cảnh của Tòng Thiết Thương cùng với bọn quan binh hộ tống Kim sứ, lòng đã sợ run, chẳng còn tinh thần đấm đá gì nữa.

oOo

 Đã quá nửa đêm, Kim hòa thượng gọi mấy tiếng liền lão chủ điếm mới run lẩy bẩy chạy ra châm dầu cho mấy ngọn đèn, đồng thời bỏ thêm ít củi vào lò lửa, cời than, lửa bùng lên reo vui. Chủ điếm thực ra cứ kêu khổ liên tục trong bụng: hôm nay sao lại có nhiều người tai to mặt lớn đến đây quá vậy, bọn họ đi rồi, sợ rằng chính mình lại không tránh khỏi nạn nhũng nhiễu của Đề Kỵ về sau mà thôi.

 Gã thiếu niên vẫn đang nằm ngủ, chỉ e rằng là ngủ say thật chứ không phải giả vờ, vẻ trầm mặc của gã làm người ta cảm thấy hết sức thần bí, thỉnh thoảng cũng có kẻ lén liếc nhìn về phía lưng gã, tư thế dáng nằm của gã dường như tràn đầy kiêu ngạo, nhưng cô bé Anh Tử chỉ cảm thấy một cảm giác khó nói thành lời, trong lòng cô vô cùng cảm kích, nghĩ rằng một kiếm khi nãy tuy không phải là vì cô, nhưng chính là vì một câu ca của cô mà xuất kiếm, không biết vì sao mà tim lại rung động. Cô bé cùng ông ngồi cạnh bếp lửa, vừa ngẫm nghĩ vừa thỉnh thoảng lén liếc sang gã thiếu niên áo đen, trái tim cứ run rẩy không biết vì lý do gì, cô còn nhỏ tuổi, chẳng hiểu được cảm giác đó từ đâu mà tới, chỉ biết lẩm nhẩm câu "Cộng đảo kim hà gia vạn lý", đọc hoài đọc mãi tưởng cả đời cả kiếp này cũng không thể nào quên được.

 Đám hộ vệ của tiêu cục nãy giờ ngáp đến sái quai hàm, chỉ muốn nằm lăn ra ngủ. Bọn tuổi trẻ ham ăn ham ngủ, Tần lão gia tử hai mắt vẫn còn lấp lánh tinh quang. Đỗ Tiêu nhị lão ngồi đó cầm tẩu hút thuốc, lẳng lặng chẳng nói tiếng nào. Kim hòa thượng cẩn thận băng lại vết thương trên tay, Vương Mộc thỉnh thoảng lại cất tiếng ho húng hắng, khổ nhất là bọn Đề Kỵ thiết vệ ngoài cửa, mưa tuy không lớn, nhưng cảm giác ẩm ướt cũng chẳng phải dễ chịu gì cho cam, khoảng một canh giờ sau, bọn chúng tuy tin là gã thiếu niên đã ngủ say, nhưng vẫn không dám bỏ đi, gã thiếu niên trong lúc chẳng ai ngủ được lại lăn ra ngủ, thì rủi lại tỉnh giấc đúng lúc không nên thức thì sao? Bọn thiết kỵ này bình thường đã chém giết biết bao nhiêu người, sau mỗi trận đánh đẫm máu, trong lòng trống rỗng, cũng có băn khoăn nghĩ đến những vấn đề cao xa như "sẽ ra sao về sau", mà lúc bình thuờng chẳng bao giờ quan tâm. Chúng tìm cách tránh né loại câu hỏi đó bằng cách bài bạc, rượu chè, đùa giỡn với nữ nhân. Giờ phải trải qua cả canh giờ chờ đợi dưới màn mưa, lòng lạnh run vì sợ, có lẻ từ đây về sau chẳng còn hứng thú trong việc ra tay giết người nữa.

 Tam Nương Tử, Trầm Phóng cùng Cảnh Thương Hoài ba người lần lượt cùng nhau nâng chén, thong thả bàn luận, càng nói càng hợp ý, chỉ tiếc là gặp nhau quá muộn. Cậu bé Tiểu Lục Nhi thấy không ai có chuyện gì, trong lòng yên ổn, mi mắt nặng trịch, nhắm mắt ngủ say. Tam Nương Tử ôm nó vào lòng, cười nói: "Một đứa bé rắc rối thế này, thì biết đi đâu đây?" Rồi quay sang mỉm cười với Trầm Phóng: "Chúng ta nhận nó làm con có được không?" Nét mặt lộ vẻ trìu mến của tình mẫu tử.

 Trầm Phóng liền nghiêng người nói thầm bên tai nàng: "Chúng ta về sau có thể có thêm con được không?"

 Tam Nương Tử mặt đỏ bừng, giả vờ giận dỗi, nhỏ giọng nói riêng với Trầm Phóng: "Chàng đừng có mơ!" Đảo mắt thấy vẻ mặt của cô bé hát dạo đang lén liếc gã thiếu niên, Tam Nương Tử nhìn cô bé một hồi lâu, rồi lại nhìn sang Trầm Phóng, trong lòng bỗng như si như mê.

oOo

 Bên ngoài chợt vang lên tiếng nổ đì đùng, trên bầu trời đêm lạnh lẽo, pháo hoa hình hoa cúc chợt bùng lên trong bóng đêm, đường kính khoảng một trượng, ánh vàng xán lạn rực rỡ giữa không trung một hồi sau mới rơi xuống, cô bé vừa nhìn thấy đã vui sướng reo lên: "Đẹp quá!" Ánh lửa chiếu sáng gương mặt của gã thiếu niên, không biết là cô khen gã hay là khen pháo hoa. Bên ngoài tiếng ngựa hí vang, bọn thiết kỵ vừa thấy pháo hoa thì lộ vẻ mừng rỡ, Ngô Kỳ vội vung tay, một tên thiết kỵ đằng sau mở bọc rút ra một ống bằng đồng đen, không ai nhận ra đó chính là ống phóng pháo hoa. Gã ta đốt cháy một cây đuốc rồi châm vào dây dẫn hỏa. Cây đuốc vừa bị dập tắt, pháo hoa trong tay gã đã bắn thẳng lên trời biến thành một dải màu đỏ rực, rồi nổ tung thành một trận mưa sao chói lọi, tuy không lớn và mỹ lệ như đóa pháo hoa khi nãy, nhưng cách mấy dặm vẫn có thể nhìn thấy rất rõ ràng.

 Chỉ nghe tiếng hú vẳng lại từ mé đông, Ngô Kỳ vui vẻ nói: "Nhị công tử tới rồi."

 Trầm Phóng nhìn pháo hoa, mười phần hiếu kỳ, bèn hỏi: "Đó là gì vậy?"

 Tam Nương Tử thở dài đáp: "Đó là cách thức thông tin của bọn họ, Đề Kỵ đúng là có tiền có quyền, cách thức liên lạc thế này người thường không sao sánh kịp."

 Cảnh Thương Hoài lại nói: "Tiết thượng nguyên năm đó, pháo hoa ở Đông Kinh còn đẹp hơn nhiều."

 Trầm Phóng biết y đang nhớ lại ngày thịnh vượng xa xưa của của đất nước, khi người Kim chưa chiếm được sơn hà, thầm nghĩ: "Bây giờ Nam triều không thiếu chi kẻ tài trí, chỉ đám Đề Kỵ này thôi cũng toàn là ngọa hổ tàng long, nếu như tất cả biết đồng tâm hiệp lực, nước nhà còn có cơ hội để cường thịnh, chỉ tiếc là bọn chúng chỉ biết tranh quyền đoạt lợi, làm quốc gia càng ngày càng thối nát." Tam Nương Tử thấy sắc mặt của hai người, biết ngay họ đang nghĩ đến chuyện gì, thở dài ôm lấy đứa bé, khe khẽ cất tiếng hát ru.

 Mọi người trong điếm đã trải qua mấy cơn kinh khiếp, chẳng còn hơi sức đâu mà ồn ào nữa, đêm đã quá khuya, lòng người cũng mệt mỏi. Vương Mộc chậm rãi: "Cây pháo hoa khi nãy thật là lớn, kẻ đến nhất định phải là một nhân vật phi thường." Kim hòa thượng vẫn còn giữ tính nóng nảy hung hãn, nghe vậy tiếp ngay: "Lợi hại thì cũng vậy thôi, đời người chỉ chết có một lần, hắn không chết, thì ta chết." Đỗ Tiêu hai người nghe lời này, không nhịn được liếc hòa thượng một cái tán thưởng, đây là khẩu khí quen thuộc của nghĩa quân đang khổ chiến tại Hoài thượng. Trong những năm tháng chiến đấu đằng đẵng ở sa trường, nghĩa quân nào thốt ra được những lời như vậy, tuy đã gác chuyện sống chết sang một bên, nhưng không hề quên trách nhiệm của bản thân. Đỗ Tiêu hai người đưa mắt nhìn nhau, cùng chợt nhớ đến một đôi mắt, đôi mắt ấy không có gì khác thường, nhưng trong sáng vô cùng khiến người ta nhớ mãi. Ánh mắt đó ẩn chứa một chút gì đó chán chường, day dứt nhưng vẫn hiện rõ ý chí: nếu một ngày còn sống ở nhân thế, thì những chuyện cần làm vẫn phải làm, nhưng hai chữ: "cầu chết!" như là tâm niệm nằm sâu thẳm trong đáy mắt.

oOo

 Ngô Kỳ đứng ngoài cửa lên tiếng dặn dò, bọn thiết kỵ lập tức phân khai, chia thành hai đội đứng đối diện, tên nào cũng lo chỉnh đốn lại y phục, xuống ngựa cầm cương. Ngô Kỳ cũng nhảy xuống ngựa, cho ngựa đứng chung lại một chỗ rồi tự mình đứng ở giữa đường cung kính chờ đợi. Đội hình nghênh tiếp gồm hai hàng nhân mã cường tráng đứng nghiêm chỉnh, trông rất long trọng và khí thế, thay vì đón chào quan khách vào chốn cung điện, lại dẫn vào một khách điếm tồi tàn, quang cảnh trông thật tức cười.

 Kim hòa thượng hừ một tiếng nói: "Màu mè quá!" Nhưng mọi người đều âm thầm chuẩn bị đối phó với biến cố. Một hồi sau, giữa đêm đen truyền lại một tiếng cười: "Mọi người khổ cực một phen rồi", giọng nói còn trẻ, người tinh mắt đã nhìn thấy từ xa có hai người đang chạy tới, đến gần mới nhận ra đó là một chủ một bộc. Chủ nhân còn trẻ tuổi, công phu hạ bàn cũng không tệ, tuy chạy không nhanh lắm, nhưng vai giữ thẳng, thân hình không nghiêng ngả, chân đạp xuống bùn như đặt trên đất bằng; người lão bộc lớn tuổi đi khập khễnh bên cạnh càng làm tôn thêm vẻ ung dung phong nhã của chủ nhân.

 Đỗ Hoài San khẽ nói: "Là Viên lão nhị."

 Tiêu Tứ Ẩn khẽ gật đầu. Ai cũng biết Viên lão nhị là em ruột của Viên lão đại thủ lĩnh Đề Kỵ, huynh đệ bọn họ trong giang hồ đều có danh vọng, người trên giang hồ thường đàm luận hai huynh đệ rất thân thiết nhưng ai cũng có sở trường khác nhau và có lực lượng riêng. Nghe nói Viên lão nhị thủ đoạn cao thâm, giao du rộng rãi, quan thương sĩ thân gì cũng không phân biệt, ngay cả đám người bán mạng trên giang hồ cũng thu nạp dưới trướng, được xưng tụng là Tiểu Mạnh Thường. Người người đều nói võ lâm Giang Nam đều nằm trong tay hai anh em họ Viên này. Nhân vật giang hồ thảo mãng nào đắc tội với Viên lão đại, không còn chỗ dung thân, thì xin đầu nhập làm môn hạ của Viên lão nhị, chỉ cần Viên lão nhị nói một tiếng, rắc rối đến mức nào cũng được bỏ qua. Chứng tỏ Viên lão nhị không chỉ dựa vào uy danh của huynh trưởng, mà còn do chính sức lực của bản thân để dương danh. Y là cao thủ Thất Xảo Môn, một thân ám khí, người thường không sao chống nổi. Đám thiết kỵ thấy một nhân vật đầu não đã đến thì tinh thân phấn chấn, đứng xem y giải quyết công chuyện.

 Viên lão nhị đến trước cửa, nhìn vào bên trong ồ một tiếng: "Không ngờ Tiêu, Đỗ nhị vị tiền bối có mặt ở đây", nhìn qua Kim hòa thượng, gật đầu: "Còn có mấy vị huynh đệ giang hồ nữa", đoạn quay sang ôm quyền chào Cảnh Thương Hoài: "Cảnh đại hiệp, đã lâu không gặp", Cảnh Thương Hoài hừ một tiếng không thèm tiếp lời, y quay sang nhìn Trầm Phóng hai người, không nhận ra bèn hỏi: "Nhân huynh thư sinh nho nhã, phu nhân xinh đẹp tựa hoa, tiểu đệ thật xấu hổ vì không biết được hai vị, xin hỏi huynh xưng hô thế nào?"

 Trầm Phóng thấy y nói chuyện thanh nhã giữ lễ, cũng không muốn thất lễ bèn vái lại một vái rồi đáp: "Trấn Giang Trầm Phóng cùng tiện nội Kinh Tử." Khi báo danh vốn không cần nói tên của vợ, nhưng Trầm Phóng kính trọng Tam nương, thuận miệng nói ra, Viên nhị công tử hiển nhiên thông thạo tin tức, cười nói: "Bài Ngô Giang Từ làm cho mọi người đều trầm trồ thán phục, tiểu đệ thật rất vinh dự", Trầm Phóng biết y nghe lời đồn đãi, nhưng cũng không muốn giải thích.

 Ngô Kỳ từ sớm đã đứng kế bên hạ giọng kể đầu đuôi chi tiết mọi chuyện cho y nghe. Ngô Kỳ tuy chức vụ không cao, nhưng cẩn thận tỉ mỉ, hai huynh đệ họ Viên vốn tín nhiệm tài quan sát của gã. Viên nhị công tử vừa lắng nghe gã thuật chuyện, vừa khẽ gật đầu, vẻ mặt tươi cười, bộ dạng ung dung chẳng có gì hấp tấp. Y ăn mặc đơn giản, cổ tay áo tuy có thêu hoa, nhưng đơn giản và thanh nhã tuyệt luân, quần áo sơ ý bị bùn bắn vào nhưng y cũng chẳng thèm để ý, coi y phục bề ngoài như rơm rác, phong thái tiêu sái thoát tục.

 Vừa nghe Ngô Kỳ kể chuyện, y quét mắt nhìn qua một lượt mấy người trong nhà, rồi dừng mắt lại trên người gã thiếu niên, chỉ thấy gã nằm ngủ gục trên bàn, không khỏi nhíu mày, biết là một kẻ khó chơi. Ngô Kỳ nói xong, y liền cười nói: "Sao Ngô huynh cứ đứng ngoài điếm hoài vậy, ở đây có bao nhiêu là anh hùng nhã sĩ, chúng ta nên bước vào nghe họ chỉ giáo mới phải." Rồi cùng Ngô Kỳ bước vào trong nhà, người lão bộc đi sát phía sau, tay cầm dù đứng phía sau lưng y.

 Y vừa đĩnh đạc tiến vào cửa, trong nhà không khí lập tức khẩn trương hẳn lên. Y thấy gã thiếu niên hắc y vẫn gục đầu nằm ngủ liền cười nhẹ nói: "Huynh đài tỉnh dậy đi, có khách đến tìm này." Thiếu niên chẳng để ý gì tới, Viên nhị công tử nhìn thấy trên mặt bàn dơ bẩn có để một chung rượu bằng ngọc. Chung rượu rất nhỏ, lại bị tay áo của thiếu niên che khuất phần lớn, y bèn xoay người đi đến trước bàn trống trơn của thiếu niên, dùng hai ngón tay gõ cốc cốc xuống bàn, cười nói: "Đêm lạnh khách đến lấy trà thay rượu, nếu huynh đài không có tiền mua rượu thì chỉ cần một bình trà là được rồi." Nói xong, tiện tay lấy một chung rượu, một bình rượu ở bàn bên cạnh, rót rượu ra chung rồi cười cười: "Huynh đài dường như đã say rồi? Dùng rượu để giải rượu là kiến hiệu nhất," ngón tay búng ra, chung rượu bay thẳng đến chung rượu mà thiếu niên đang cầm ở tay, chung rượu bay thẳng một mạch, một giọt rượu cũng lọt ra ngoài, công phu thế này làm mấy người có mặt không khỏi giật mình thán phục.

 Chung rượu bay đến trước bàn, là là đáp xuống, chưa chạm được vào chén ngọc, thì đã va vào tay áo của thiếu niên, cái chung nghiêng qua một bên, rượu đổ hết xuống tay áo, Viên lão nhị sắc mặt hơi biến đổi, biết rõ chung rượu đó là do bị ngoại lực tác động, nên bị đổ ra như vậy, nhưng đối phương rõ ràng không hề cử động, không biết phát lực bằng cách nào, nhưng sao lại không dùng lực đẩy chung rượu đi chỗ khác mà lại làm đổ rượu vào tay áo mình, chẳng lẽ có ý giả vờ che đậy điểm yếu hay sao? Gã thiếu niên nhìn như vừa mới tỉnh giấc, ngẩng đầu lên, trên má vẫn còn vết hằn, khẽ ngáp một tiếng, nhìn vẻ mặt dường như không phải là nãy giờ giả vờ ngủ.

 Gã vừa ngẩng mặt lên, ai cũng nhận thấy so với vẻ mặt thanh tú của gã, thì vẻ ung dung của Viên nhị công tử còn có mấy phần tục khí. Viên lão nhị à lên một tiếng ngạc nhiên, rồi cười nói: "Viên huynh đệ ta trước giờ đều có phần tự kiêu, hôm nay gặp được thiếu hiệp, mới hiểu được lời cảm thán của Trâu Kỵ khi gặp Từ Công ở Thành Bắc, hết sức khâm phục."

 Gã thiếu niên vẫn chẳng nói gì, cầm chung ngọc nhỏ xíu bằng ngón tay lên nhẹ nhàng lau chùi cho sạch, tay áo của y đen tuyền, đối lập hẵn với chung ngọc màu trắng muốt, vừa dễ nhìn lại vừa lộ vẻ cao ngạo khác đời. Viên nhị công tử cũng chẳng để tâm, nói tiếp: "Nghe nói khi nãy thiếu hiệp thi triển kiếm thuật tuyệt luân, vừa mỹ lệ vừa nhanh như điện chớp, chỉ tiếc Viên huynh đệ ta không có duyên được nhìn thấy," lời nói thốt ra có ẩn chút căm hờn.

 Đỗ Tiêu nhị lão nhìn nhau, thầm nghĩ: đây là lời khiêu chiến rồi. Mọi người trong nhà đều nín thở, một bên là Viên nhị công tử danh chấn Giang Nam, một bên là thiếu niên không tên tuổi ngoài biên tái, tuổi đều còn trẻ. Hôm nay may mắn được chứng kiến cảnh cao thủ ám khí của Thất xảo môn đối phó với thiếu niên. Thất xảo môn rất nổi danh trên giang hồ, ngày đó Thất Xảo nương tử không được gả vào Ám khí thế gia Đường môn, thất tình sinh hận, tự giương cờ lập môn phái, về già sáng tạo ra một loại ám khí kỳ lạ là Kim Ngọc Thoa, được xưng tụng là "Kim phong ngọc lộ nhất tương phùng, tiện thắng khước nhân giản vô sổ" (1) (Gió vàng sương ngọc gặp nhau, Nhân gian bại trận trước sau bao người), đặt tên như vậy chính là tự khen mình, nhưng hiếm ai được thấy, nghe đồn là trong đám môn hạ đệ tử, chỉ có Viên nhị công tử Viên Hàn Đình là người duy nhất luyện được tuyệt kỹ này. Võ công ám khí của Thất xảo môn thiên biến vạn hóa, kiếm thuật của thiếu niên lại đơn giản thuần phác, trận quyết chiến này đúng giang hồ khó gặp. Do đó, không chỉ Vương Mộc, Kim hòa thượng mắt mở to, thêm Tần Ổn, Đỗ, Tiêu ba người cũng hồi hộp theo dõi, Cảnh Thương Hoài cũng đặt chung rượu xuống không uống nữa.

 Nhưng không ngờ mọi người đều tính sai cả, Viên nhị công tử quay người phân phó Ngô Kỳ: "Mấy người ngồi đây đều là bằng hữu của vị thiếu hiệp này, chúng ta cũng đành mắt nhắm mắt mở bỏ qua thôi," vừa nói vừa nhìn sang bọn Kim hòa thượng: "Mấy vị huynh đệ trên giang hồ này," rồi chỉ sang bàn của Trầm Phóng: "Trầm công tử và phu nhân, và Cảnh đại hiệp", liếc sang lão già mù: "Cả hai ông cháu này nữa, cứ để cho họ đi, trong vòng một tháng không làm phiền đến bọn họ."

 Ngô Kỳ gật đầu tuân mệnh, mọi người ai cũng kinh ngạc, không ngờ y lại bụng dạ rộng rãi như vậy, mua chút ân tình với gã thiếu niên không biết vì lý do gì. Viên nhị công tử lại quay sang mọi người ôm quyền nói: "Đêm hôm khuya khoắt, mưa bão mịt mùng, chúc các vị ngày mai lên đường bình an, chỉ là Viên Huynh đệ ta ở đây phải lo chút chuyện, không thể cùng các vị hàn huyên được."

 Rõ ràng là y muốn mọi người đừng nhúng tay vào, không ai biết y nói đến chuyện gì, nhưng nhất định là cực kỳ trọng yếu, nếu không cũng chẳng cần dùng chút ân tình để mua chuộc lòng người như vậy. Kim hòa thượng lầm bầm: "Con bà ngươi lại chơi trò gì đây!" Viên nhị công tử quay sang bàn của Tần Ổn, nhẹ nhàng nói: "Tần lão gia tử, ta muốn tranh món tiêu ngân này với ông."

oOo

 Câu nói này đã vượt ra ngoài ý liệu của mọi người, không ai ngờ Viên nhị công tử làm chuyện động trời, đích thân cướp tiêu. Y lại mua chút ân tình với gã thiếu niên ngay từ đầu, để gã không nhúng tay vào chuyện này. Đỗ Tiêu nhị lão đưa mắt nhìn nhau, nghi vấn trùng trùng: Chuyến tiêu đang áp tải thứ gì vậy? Lại càng bội phục cách xử sự của Viên nhị công tử: Thái độ thận trọng của y khiến ai cũng giật mình, hèn gì có lời đồn rằng Viên nhị công tử thông minh xảo quyệt, không biết rõ thực lực của đối phương, nhất định không khai chiến. Chỉ một điểm này thôi, thêm vào võ công cao cường, sự cao ngạo của tuổi trẻ, cũng đủ để cho người ta kinh sợ.

 Đám hộ vệ của tiêu cục nghe vậy vô cùng kinh ngạc, họ chưa hề nghĩ rằng tai họa sẽ giáng xuống đầu mình như vậy. Bọn họ trước giờ là lương dân tuân thủ pháp luật, cục chủ Lâm An tiêu cục là Long lão gia??? tử tại kinh đô giao du rộng rãi, không ngờ lại có kẻ dám động đến hàng hóa của bọn họ, mà lại là quan lại của triều đình nữa.

 Tần lão gia tử ồ lên một tiếng, từ từ đứng dậy ôm quyền hỏi: "Nhị công tử, ngài nói đùa phải không?"

 Viên Hàn Đình lắc đầu.

 Tần Ổn hỏi lại: "Đây có phải là công sự của nha môn hay không?"

 Viên nhị công tử vẫn lắc đầu cười nhẹ đáp: "Chuyện này không thể tính là chuyện công được."

 Nét mặt Tần ổn lập tức lộ vẻ khẩn trương, tiếp: "Vậy là Viên nhị công tử chê lão hủ ta vô dụng rồi phải không?" Mấy từ cuối cùng lão nói rất chậm, nhịp thở giữa từng từ cũng mỗi lúc mỗi kéo dài, âm điệu càng lúc càng trầm trọng. "Ổn như Thái Sơn", bốn chữ này không phải là hư danh, chính là chiêu bài của Tần Ổn trong hơn ba mươi năm bôn ba giang hồ, người võ lâm quý danh như quý mệnh, tên Viên nhị này khinh người quá đáng, Tần Ổn có nổi giận cũng không có gì là lạ. Những người ngồi đó thấy lão lúc mở miệng nói chuyện, hơi thở có biến đổi, thì biết rẳng Tần Ổn đã vận tâm pháp chính tông của Thiếu Lâm, chuẩn bị ra tay.

 Nói đoạn, Tần lão gia tử thở hắt ra một hơi dài, lên tiếng than: "Nhị công tử, đây là lần bảo tiêu cuối cùng của lão, sau khi làm xong, lão sẽ quay về quê nhà ở Hoài Thượng dưỡng lão. Nhị công tử xin đừng quá chấp nhất, bỏ qua cho lão một lần này được không?" Lão vừa nói xong tinh thần khí cũng đã ổn định , sẵn sàng lâm chiến. Lão vốn hiểu rõ Viên nhị là một kẻ lắm mưu nhiều kế, chuyện đã nói ra thì không bao giờ rút lại. Viên nhị công tử nét mặt vẫn thản nhiên, ra vẻ ân cần: "Đây là chuyến bảo tiêu cuối cùng của Tần lão hay sao?"

 Tần Ổn gật đầu.

 Viên nhị công tử liền than: "Thật là xấu hổ, khiến lão gia phải thất bại phen này rồi."

 Y vừa thốt lên câu này, bọn hộ vệ tiêu cục liền hầm hầm nổi giận. Viên Hàn Đình nói ra tay là ra tay ngay, thân hình nhất động, lướt tới trước mặt Tần Ổn. Thở hắt ra một hơi, Tần Ổn đánh thẳng ra một chưởng, trầm ổn ngưng trọng nhưng hết sức đơn giản. Mọi người đều ồ lên khen ngợi, vì chiêu này oai lực tuy lớn nhưng vẫn còn đường để cho 2 bên rút lui. Chứng tỏ nếu không bắt buộc, Tần Ổn chẳng hề muốn đắc tội với Viên nhị công tử một chút nào. Viên nhị công tử cười nói: "Với thinh danh Tần lão, nếu tiểu điệt không mạo muội động thủ, có nói đến thế nào thì lão gia cũng chẳng chịu cho Viên nhị ta đem tiêu ngân đi, hay là chúng ta đánh cược một trận đi?"

 Tần lão trầm giọng nói: "Đánh cược thế nào? Tiêu ngân là của người khác, không phải của lão, chuyện này lão không tự chủ được."

 Gừng càng già càng cay, lời này của lão chính là có ý, bằng vào bổn sự và võ công cao cường của Viên lão nhị ngươi, dù có thắng được Tần Ổn ta, nhưng đã đụng vào chuyến tiêu này, có lên trời xuống đất, Lâm An tiêu cục sẽ bám theo đòi mãi không rời.

 Viên lão nhị tựa hồ như cũng lo lắng chuyện này, chỉ nghe y cười nói: "Cược là trong vòng mười chiêu ta có thể phá được Thập Cầm Cửu Ổn Khai Bi Thủ của lão."

 Y huênh hoang như vậy, mấy người ngồi đó chẳng ai tin, đến cả Cảnh Thương Hoài cũng ngẩn người không sao tin được. Cảnh Thương Hoài thấy rằng dựa vào thân thủ của Viên Hàn Đình, muốn thắng được Tần Ổn thì không khó, nhưng trong vòng mười chiêu mà phá được bản lĩnh trấn sơn của Tần Ổn, thì thật là khó hơn lên trời.

 Tần lão hừ một tiếng đáp: "Lão chẳng qua chỉ là một kẻ vô danh tiểu tốt, tự nhiên không thể lọt vào mắt của Viên nhị công tử được."

 Viên nhị vẫn tiếp tục khiêu khích, cười đáp: "Tần lão gia có cược hay không? Nếu mười chiêu nhiều quá, chúng ta lấy sáu chiêu làm hạn định có được không? Trong vòng sáu chiêu, nếu ta không phá được Thập Cầm Cửu Ổn Khai Bi Thủ của lão, Viên nhị ta lập tức quay đầu đi ngay, từ giờ không ló mặt ra giang hồ nữa; nhưng nếu ta may mắn đắc thủ, Tần lão phải từ bỏ chuyến tiêu này, dẫn đám hộ vệ đi khỏi đây."

 Tần Ổn máu nóng bốc lên đầu, cả đời lão chỉ kính phục cục chủ của Lâm An tiêu cục Long Tại Phóng, nhưng cả Long Tại Phóng cũng không dám coi thường Thập Cầm Cửu Ổn Khai Bi Thủ đã khổ luyện ba chục năm của lão, ngay sư phụ của lão lúc trước ở Thiếu Lâm cũng chưa nói câu này, tên tiểu tử này dựa vào cái gì chứ... Tần lão đùng đùng nổi giận, liền thuận miệng đáp ứng: "Được, lão cũng muốn xem thủ đoạn của Viên công tử, chỉ có điều, với thanh danh của Viên công tử, chắc sau này sẽ không nuốt lời chứ?"

 Lão vốn không muốn căng thẳng với Viên nhị, nhưng cũng muốn nhân cơ hội y vênh vang tự kiêu thế này dạy cho y một bài học, tránh khỏi phiền nhiễu đêm nay. Hơn nữa lão cũng không nắm chắc phần thắng với tên đệ tử Thất Xảo Môn này. Viên lão nhị gật đầu nói: "Nhất ngôn ký xuất!"

 Tần Ổn nối theo ngay: "Tứ mã nan truy!"

 Nói xong Tần lão vươn thẳng người, mái đầu bạc phơ ngả mạnh về phía sau. Thân hình vừa lùi lại, tả chưởng lật úp, hữu chưởng xoay tròn, tả chưởng là hư, hữu chưởng là thật, hai chân không đứng theo chữ đinh, cũng không đứng theo chữ bát, tạo thành thế khởi đầu Ngũ Phúc Đoàn Thọ. Thập Cầm Cửu Ổn Khai Bi Thủ này chính là tâm huyết suốt ba chục năm ròng của Tần Ổn, thoát thai từ Phục Hổ Quyền của Thiếu Lâm, Cầm Nã Cửu Thủ của Ưng Hạc Song Bác Môn cùng Đại Khai Bi của Sơn Tây Trình Cửu. Phục Hổ quyền là lão học được từ sư môn, hai môn sau là học từ hai vị bằng hữu, khổ công tu luyện suốt ba mươi năm liền không hề ngơi nghỉ. Long Tại Phóng??? lão gia tử đã nhìn qua một lượt mấy chiêu thức của lão, ba mươi năm trước thì lẳng lặng chẳng nói tiếng nào, nhưng về sau phê bình càng lúc càng nặng nề, nhưng Tần Ổn hiểu rõ bởi vì bộ chiêu thức này càng lúc càng lợi hại, do đó khi sử dụng ra càng nguy hiểm hơn, Long Tại Phóng nghiêm ngặt chê trách bộ chiêu thức của vị bằng hữu tài hoa này, chẳng qua là sợ Tần Ổn không để tâm lại tự gây ra thương tích cho mình mà thôi. Cho đến mười năm trước, Long Tại Phóng có lần nhìn lão biểu diễn chiêu thức, đã phải thốt lên một câu: "Ôi, ta chẳng bao giờ biết nói khéo, nhưng mà, lão Ổn à, bộ chiêu thức của lão vẫn còn nhiều sơ hở quá, khó mà có thể lưu truyền lại được cho hậu thế."

 Tần Ổn nghe vậy cười đáp: "Phóng ca, ta biết chứ. Ta vốn không bằng võ học danh gia như các ông, mỗi chiêu mỗi thức đều muốn truyền lại cho hậu thế, do đó công thủ đều phải luyện đến mức thập toàn thập mỹ, nhưng bộ chiêu thức này lại là tập hợp những chiêu thức phù hợp với ta nhất, tuy là không phải hoàn hảo, uy lực của nó lại còn xa mới bắt kịp uy lực của cả ba môn Phục Hổ Quyền, Cầm Nã Cửu Thù cùng với Đại Khai Bi của Trình gia cộng lại, nhưng khi do chính tay ta sử ra, thì lại có thể phát huy được toàn bộ tiềm lực trong người ta, đó là điểm mà ba môn công phu kia không bằng được."

 Long lão gia tử nghe xong câu này phải đóng cửa ngẫm nghĩ suốt ba ngày trời, câu này cũng trở thành danh ngôn một thời trong chốn võ lâm, rất nhiều minh sư đã vì câu này mà thay đổi cách thức truyền võ công cho đệ tử. Tần Ổn lúc này tuy nóng giận nhưng vẫn không khinh địch, chiêu thứ nhất của lão chính là Ưng Vũ Trường Bi, chiêu pháp nghiêm cẩn, Cảnh Thương Hoài thấy vậy an tâm thở phào, nhận định rằng với chiêu thức ổn trọng của Tần Ổn, Viên nhị không thể nào trong vòng sáu chiêu mà phá vỡ được.

 Chiêu hoàn thủ của Viên nhị cũng khá ngoạn mục, tay trái như móc câu, tay phải chụm lại, sử ra Tróc dẫn thức của nhà họ Ngôn ở Giang Tây, chiêu thức này rất hiếm thấy, có thể nhìn ra y sở học uyên bác, Đỗ Hoài San khẽ thở một hơi, thầm than tên Viên nhị này quả nhiên bất phàm, nhưng cũng là than chiêu này của y tuy cao minh, nhưng chưa đủ làm cho người khác kính phục.

 Sau đó Tần Ổn liên tục đánh ra hai thức Khai Bi và Toái Bi, Viên nhị dùng hai chiêu Đại Thùy Liêm và Tiểu Thùy Liêm ứng đối, đều là công phu của Đài Châu Hải Các. Đã quá ba chiêu, Viên lão nhị hoàn toàn vẫn chưa chiếm được thượng phong, mọi người đều lấy làm lạ, y bằng cái gì mà lớn giọng nói là trong vòng 6 chiêu có thể phá được Khai Bi thủ của Tần Ổn cơ chứ. Xem ra Tần Ổn cũng đã yên dạ, trầm ổn đánh ra thức thứ tư Dương Lệnh Chàng Bi, Viên nhị công tử tả thủ phất nhẹ, hữu thủ hạ thấp, uyển chuyển đánh ra chiêu Phân Hoa Phất Liễu mềm mại như bông để đối phó. Mọi người ai cũng giật mình, nếu y là nữ nhân, khí lực không đủ, phải dùng chiêu thức Bốn lạng đẩy ngàn cân thì cũng không có gì lạ, nhưng y là một nam nhân mà lại dùng hạ sách này thì thật là kỳ lạ, rõ ràng là đã bại dưới chiêu này rồi. Không ngờ Tần Ổn cũng giật mình, tay trái đánh tới trước ngực Viên nhị thì đã bị phất vào cổ tay. Y có thể tá lực đã lực, nhưng Tần Ổn lại không để cho y mượn lực, nương thế thoát ra, Viên nhị liền tranh tiên xuất ra chiêu Xuyên Hoa Hiệp Điệp, tư thức tuy chỉ có vẻ bề ngoài đẹp đẽ thật, nhưng dùng vào lúc này hoàn toàn không thích hợp, không ngờ Viên nhị lại thiển cận như vậy. Tuy nhiên ánh mắt của Tần Ổn như si như mê, mồ hôi rịn ra đầy trán, dường như phải dùng hết sức lực để tiếp chiêu này. Ngay cả Cảnh Thương Hoài cũng không nhìn thấy chỗ ảo diệu bên trong. Tam Nương Tử lấy làm lạ hỏi: "Tần lão này bị cái gì đây? Đến một chiêu tầm thường hạng ba như vậy cũng không nhìn ra là sao?"

 Cảnh Thương Hoài cũng lắc đầu không hiểu nổi.

 Chợt nghe Viên nhị khẽ nói: "Vẫn Tần, Yểu nương có lời hỏi thăm lão."

 Giọng nói của y cực nhỏ, trừ Tiêu Tứ Ẩn và Cảnh Thương Hoài là nghe được loáng thoáng, mọi người tại đó chẳng nghe thấy gì. Tần Ổn thân hình chấn động như bị đánh một cú thật mạnh, toàn thân khẽ run rẩy. Viên nhị tả thủ nhẹ nhàng xuất chiên Tự Tại Phi Hoa của Thanh Thành Phái đánh xuống đầu của Tần Ổn, một chiêu này tùy tiện đánh xuống chẳng khác nào trò đùa giữa cặp tình nhân, mọi người không ngờ đến Tần Ổn ngay lúc này lại đánh ra chiêu Phủ Ngưỡng Cổ Hòe, một chiêu này vừa xuất ra, Đỗ Tiêu hai người thở hắt ra thất vọng, liền đó, hữu thủ của Viên Hàn Đình nhẹ nhàng dừng lại trước ngực của Tần Ổn, tả thủ án ở trên trán của lão. Một hồi lâu, y cũng không nói gì, Tần Ổn cũng không nói gì, cuộc chiến này đánh cũng li kỳ cổ quái, kẻ bại cũng bại một cách bất ngờ khó hiểu, nhưng lại giống như một cuộc diễn tập tệ hại, mọi người trong điếm nhìn đến xuất thần, không thốt lên được tiếng nào.

 Lại một lúc lâu sau, Tần Ổn mới nhẹ giọng than: "Ta thua rồi."

 Viên Hàn Đình cười không đáp lời.

 Tần Ổn hồi lâu sau chợt hỏi: "Bà ấy vẫn khỏe chứ?"

 Viên Hàn Đình khẽ gật đầu.

 Tần Ổn cười lạnh nói: "Thì ra bà ta vốn là Thất Xảo, bà ta chuyên gạt người, dạy ra được đồ đệ cũng chuyên đi gạt người, ta đã bị lừa rồi."

 Viên Hàn Đình một mực im lặng không đáp, chỉ thấy Tần Ổn quay chưởng tát vào mặt mình, rõ ràng trong lòng vô cùng hối hận. Viên Hàn Đình lúc này mới ta tay, điểm ra một chỉ vào nách lão, không cho lão tự vả vào mặt mình, mở miệng khuyên: "Lão gia tử, lão tuy thua, nhưng không phải thua vì võ công, sao lại phải khổ như vậy? Kêu ta làm sao nói năng gì với bà ấy chứ?" Tần Ổn tả thủ vòng qua tả thủ của Viên Hàn Đình, tiếp tục tát vào mặt mình, Viên Hàn Đình sử chiêu Tiểu Chiết Chi chặn lại. Bọn họ giao thủ mấy chiêu cực nhanh, toàn dùng mấy chiêu cầm nã thủ tinh diệu tuyệt luân, ngoạn mục hơn hẳn cuộc đấu khi nãy. Qua lại được mấy chiêu, Tần Ổn đột nhiên dừng tay, tả thủ của lão đã bị hữu thủ của Viên Hàn Đình chế trụ, hữu thủ của Viên Hàn Đình đã bấu được vào vai trái của Tần Ổn. Nếu như khi nãy mọi người không phục khi Viên Hàn Đình thắng một cách đáng nghi ngờ, Tần Ổn thua một cách không rõ ràng, thì bây giờ đều sững người ra thán phục. Cảnh Thương Hoài sắc mặc lộ vẻ ưu tư, bản thân cũng không ngờ thân thủ của Viên nhị lại xuất sắc như vậy. Tần Ổn nhìn sắc mặt của Viên nhị công tử, chậm rãi nói:

 "Viên nhị công tử gia tài trăm vạn, sao còn muốn tranh tiêu ngân hàng hóa của người khác?"

 Viên Hàn Đình buông lỏng tay, lạnh nhạt nói: "Gia sản của ta cũng chỉ có mấy vạn lượng bạc, lại kêu ta buông bỏ hai mươi tám vạn lượng bạc, ta không thể nào buông tay được."

 Mọi người nghe vậy đều giật mình kinh hãi, tuy ai cũng có ý tham lam, nhưng không ngờ giá trị của tiêu ngân lại lớn đến vậy. Phải biết đây là thời Thiệu Hưng nghị hòa, nhà Tống mỗi năm cống sang Kim triều cao lắm cũng chỉ có hai mươi lăm vạn lạng, mà đã ép cho dân chúng Giang Nam thở không ra hơi rồi, chuyến tiêu ngân này còn vượt cả tiền cống nạp một năm của triều đình, hèn gì lại khiến cho Kim hòa thượng và bọn Đề Kỵ trước sau đều động lòng tham như vậy.

 Tần lão thở dài một hơi, nói: "Chẳng lẽ trong thiên hạ chẳng còn vương pháp nữa sao?"

 Viên nhị công tử cười lạnh nói: "Vương pháp à? Chuyến tiêu này của lão có hợp pháp không?"

 Mọi người thầm gật đầu đồng ý, tiền riêng nhiều đến mức này, đến mấy gia tài phú hộ gộp lại còn không đủ, chuyến tiêu ngân này của Lâm An tiêu cục chắc là cũng từ đường bất chính mà ra thôi.

 Viên nhị công tử thấy vẻ mặt hiếu kỳ của mọi người, nghĩ một lúc rồi nói: "Hay lắm, chuyện này nói rõ ra thì cũng tốt," lúc này ánh đèn lại chập chờn khi mờ khi tỏ, Kim hòa thượng lớn giọng gọi mấy câu, chủ điếm mới lọt tọt chạy ra châm thêm dầu. Viên nhị công tử chậm rãi nói: "Năm nay Chuyển Vận Sứ Lâm Trì Dân ở Phúc Kiến mãn nhiệm, hắn ta bèn dâng sớ cáo lão, muốn quay trở về quê hương, triều đình cũng đã chuẩn y rồi." Mọi người không biết vì sao lại nói đến Lâm Chuyển Vận sứ của Phúc Kiến, nhưng biết triều đình chia thiên hạ ra làm mười lăm đạo, mỗi đạo lại lập ra bốn ty, ty Chuyển vận sứ nắm rất nhiều tài phú, là một vị trí béo bở, xem ra số ngân lượng này nhất định là có liên quan đến tên Lâm chuyển vận sứ này.

 Viên nhị công tử nói tiếp: "Ai ngờ thân thích của Lâm Trì Dân tại kinh thành là Tả đô ngự sử Vương Hòe, đắc tội với người ta, làm dân chúng căm phẫn, bị một đám Đại học sinh và Gián quan hạch tội, liên lụy đến hắn ta, lục soát trong nhà Vương Hòe ra được hai chứng cớ hối lộ của Lâm Trì Dân, hắn ta là quan Chuyển vận sứ, không cần phải nói, ai cũng biết đó là tang chứng tham ô rồi."

 Y nói ra câu này đúng là sự thật, người trong điếm chẳng ai tin mấy tên Chánh phó chuyển vận sứ của triều đình là trong sạch cả.

 "Biết tin, hoàng thượng bèn hạ chỉ bắt ông ta về kinh thành hỏi cho rõ, triều đình liền phái hai vị đại quan đến Phúc kiến tra xét xem chuyện hắn ta tham ô là có thật hay không. Tên Lâm Trì Dân này dù bị bắt đem về kinh, dễ gì kết tội được hắn? Trong triều tay mắt của hắn thiếu gì, lại thêm hắn vốn là môn sinh của Tần tướng gia, vuốt mũi cũng phải nể mặt Tướng gia chứ. Hơn nữa mấy năm nay y làm ở đó, tiền kiếm được hằng năm đều đưa cho tâm phúc bí mật chuyển hết về Giang Tây rồi."

 Viên nhị công tử cười nhẹ tiếp: "Tần thừa tướng vốn cũng không muốn lo đến chuyện này, Lâm Trì Dân tuy xuất thân là môn hạ của ngài, nhưng trước giờ tính tình bần tiện, mấy năm nay tuy nói là có hiếu kính ngài, nhưng không đáng bao nhiêu, giờ hắn đã từ nhiệm, giúp hắn chẳng ích lợi gì. Nhưng Tần thừa tướng lão nhân gia có quá nhiều tiểu cữu tử (em vợ)!"

 Lúc bắt đầu y nói chuyện ra vẻ thanh nhã, nhưng càng nói dài dòng về chốn quan trường, càng lộ ra bản chất hèn hạ, mọi người không biết cái gì là cữu tử, chỉ đoán là nhất định Tần Cối lại cưới thêm một tiểu thiếp yêu quý nữa.

 "Hàn Cơ muốn tướng gia thưởng cho huynh đệ của nàng vài vạn lượng bạc, Tần tướng gia tuy gia tài vô số, nhưng mà... nhưng mà trước giờ tính tình tiết kiệm, tiền đã lọt vào kho thì thật không nỡ mở cửa đem ra. Nghe nói Lâm chuyển vận sứ vận chuyển tiền bạc đi cất giấu, nghĩ một hồi, không cần Chuyển vận sứ cầu xin, đã lãnh giải quyết cái án này. Thế là hai vị đại quan đi tra án quay về hồi đáp rằng không có chứng cứ, Lâm chuyển vận sứ khắc khổ cần kiệm, yêu dân như con, không phải tham quan, mà phải gọi là đai đại thanh quan mới đúng. Lúc này đám đại học sinh nóng máu tự xưng là Thanh nghị bị Tần thừa tướng đánh gục hoàn toàn. Vị Lâm chuyển vận sứ đã là thanh quan, đương nhiên là không có ngân lượng, vậy ngân lượng trên đường là của ai? Chính là món quà hiếu kính cho công lao vất vả quốc sự của Tần tướng gia, nhiều năm tích cóp dành dụm chỉ kiếm được chút ít, mà còn lại phải đem tặng năm sáu vạn cho đệ đệ của Hàn cơ nữa. Chuyện này vạn phần tốt đẹp, tướng gia cao hứng, Hàn Cơ cao hứng, thiên hạ vạn dân cũng cao hứng. Tần thừa tướng công bằng chấp pháp, lấy sạch của Lâm chuyển vận sứ, lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo, đó là chuyện đương nhiên." Tam Nương Tử nghe vậy cười nhạt, nghĩ thầm tên Viên nhị công tử này làm bộ thanh cao, bên trong lại đê tiện, vừa mở miệng ra đã nói toàn lời khắc bạc xảo quyệt. Cảnh Thương Hoài lạnh lùng nhíu mày: việc của thiên hạ đã bị tên thông minh như hắn lộng hành, phá hỏng hết rồi..

 Viên nhị công tử lại cười nhẹ tiếp: "Ai ngờ lại xảy ra chuyên không hay, số ngân lượng này chuyển đến Lâm Xuyên, Lâm Xuyên núi non hiểm trở, số ngân lượng này đã biến mất trên sơn đạo, đến xe cũng không tìm thấy, mấy võ quan hộ tống đều bị ngã xuống núi chết hết. Xem ra người áp tải đã gặp phải cao thủ một phái, đường núi tuy hung hiểm, nhưng cũng không đến mức trợt chân rơi xuống như vậy, hơn nữa lại toàn bộ đều rơi xuống núi, số ngân lượng này không biết lọt vào tay ai."

 Y liếc sang Cảnh Thương Hoài, tỏ vẻ bất mãn: "Kẻ cướp tiêu thủ đoạn cũng cao cường, từ Lâm Xuyên đến Lâm An hơn hai ngàn dặm, trên đường có mười mấy tiêu cục, đều được thuê làm bảo tiêu, Hà Nam, Quảng Tây nơi đến không giống nhau. Huynh đệ ta có quen biết với tiểu cữu tử của tướng gia, không thể thấy y trắng tay, lại sợ tướng gia lão nhân gia nổi giận, lại trút giận lên đầu dân chúng, làm lương dân không sống nổi, do đó trượng nghĩa ra tay đi tìm số ngân lượng này. Nghe nói có quá nhiều tiêu cục cùng lúc đi bảo tiêu, làm mấy huynh đệ bọn ta chạy đôn chạy đáo, nhân thủ điều đi khắp nơi đều trở về tay trắng, ta làm sao mà ngờ được số ngân lượng này lại gan dạ như thế, đã gửi đến Lâm An rồi, nghêng ngang ở dưới ngay chân thiên tử, lại mời Thiên hạ đệ nhất tiêu cục hộ tống, thủ đoạn quả thật là cao minh, cao minh quá."

 Kim hòa thượng hà hà cười nói: "Tần thừa tướng vừa nhếch mép, thì một tên đại tham quan đã được rửa sạch thành đại thanh quan, như vậy mới đáng gọi cao minh." Hắn nghe thấy có người làm bọn Quỷ nhân tử này chạy đôn chạy đáo, thì mười phần cao hứng, hắn vốn gan dạ đầy mình, nói chuyện chẳng chút kiêng kỵ.

 Viên nhị công tử lúc này nhìn sang Tần Ổn: "Tần lão gia, ta đã nói rõ rồi, lão đã biết nguồn gốc của số ngân lượng này, chuyến bảo tiêu này lão còn muốn đi không? An tâm đi, chuyến tiêu này tuy bị mất, tiêu chủ cũng không dám bước ra đòi đền bù đâu, trừ phi các người là đồng mưu."

 Mấy tên hộ vệ nghe vậy giương mắt há hốc miệng, không biết làm sao, Viên nhị công tử thấy Tần Ổn vẫn còn có vẻ không tin, bèn tiếp: "Trên mỗi rương bạc đều có một chữ Lâm, đấy cũng là giả sao?" Tần Ổn lúc này mới tin là thật, hậm hực nói: "Thì ra chuyến tiêu này lại cổ quái như vậy!" Lão phân vân mãi: đi tiếp thì không dám? nhưng không đi thì chiêu bài của Lâm An tiêu cục vất đi đâu. Cuối cùng, lão sợ nếu đi thì gánh chuyện đồng mưu với cướp như Viên lão nhị nói, Lâm An tiêu cục sẽ đắc tội với Tần tướng gia, ngày sau chỉ e rằng sẽ gặp phải kiếp nạn. Nhưng lão cũng chẳng thèm mua lòng của Viên nhị công tử, lạnh lùng: "Nếu nhị công tử cứ khăng khăng làm lão ê mặt, thì mọi việc cứ tùy theo ý ngài, chỉ có điều núi xanh vẫn còn đó, nước biếc vẫn còn trôi, về sau, hừ, hẹn về sau gặp lại." Lão ngồi phịch xuống, không quản đến chuyến tiêu nữa, lồng ngực phập phồng, càng nghĩ càng giận.

 Kim hòa thượng bèn mắng: "Người ta bỏ tiền ra nhờ các người, các ngươi phải đưa đến nơi về đến chốn. Con bà nó, lão tử ta không xen vào không được, các người sao lại có thể nói buông tay là buông tay chứ?" Kỳ thật Viên nhị công tử tuy nói không phải là chuyện công, nhưng thực sự không tiện làm rùm beng, chứ một Lâm An tiêu cục làm sao mà dám chống lại bọn họ? Viên nhị công tử vỗ tay, kêu thủ hạ tiến vào hậu viện tiếp lấy ngân lượng, lại quay sang Cảnh Thương Hoài nói: "Làm cho Cảnh đại hiệp phải tốn thời gian, đúng là có lỗi, nhưng Cảnh đại hiệp đem theo vật nặng nề này đi xa đến vậy, chắc cũng mệt mỏi lắm rồi."

 Cảnh Thương Hoài ngạc nhiên, lúc này mới hiểu rõ, cười hà hà đáp: "Hèn gì ta đoạt người trong tay Lý Nhược Yết mà lại bị Đề Kỵ tam thập nhị vệ các người truy sát, thì ra là vì số tiêu mà Cảnh mỗ ta cướp!" Nói đoạn cười nhẹ, y tuy người thụ thương trầm trọng, nhưng cũng chẳng để ý gì tới, lạnh giọng nói: "Họ Cảnh ta vốn không có thủ đoạn như vậy, năm nay ta có đi qua Giang Tây, nhưng chỉ là vì chuyện riêng, không có tâm cơ như vậy, không biết ai vừa có thể ra tay cướp tiêu giết người, lại kiếm ra một tên ngốc để chịu tội thay." Y biết khó mà nói ra cho rõ ràng, cũng không muốn nói ra, mình tuy bị gán tội cướp tiêu, nhưng trong lòng cũng chẳng bực gì người cướp tiêu.

 Viên nhị công tử đương nhiên nghĩ là y cố ý không thừa nhận, cũng thuận theo cười nói: "Vậy sao?" Liền vung tay, đám kỵ sĩ vừa định dắt ngựa, thì gã thiếu niên bên cạnh chợt gõ gõ xuống bàn.

 Nãy giờ gã chẳng nói tiếng nào, hiện tại tuy chỉ gõ xuống bàn, nhưng mọi người ai cũng quay lại nhìn gã. Viên nhị công tử cười nói: "Ồ, ta đã quên rồi, quy củ giang hồ, nhìn thấy thì cũng có phần, hãy để lại cho vị thiếu hiệp này một rương thôi." Một rương ngân lượng e rằng có đến hơn một vạn lượng, đã bằng gia tài của mấy gia đình trung lưu cộng lại rồi, y ra tay rộng rãi, xem ra quả thật không muốn coi gã thiếu niên là địch nhân. Nhưng mọi người đều biết y mưu kế thâm sâu, lùi một bước chẳng qua để tiến hai bước, gã thiếu niên áo đen chợt lạnh lùng nói: "Ta là tiêu chủ."

 (1) Thước kiều tiên - Tần Quán, do Yên Hà huynh dịch nghĩa

Hết hồi 5

BÔI TUYẾT HỆ LIỆT

 BỘ THỨ NHẤT - MƯA ĐÊM GÕ XUỐNG SEN VÀNG

 HỒI 6 - DẠ CHIẾN

 Phúc Vũ và Phiên Vân

 Dịch tặng Tay Doc đại ca

 Phúc Vũ, Phiên Vân vô cùng cảm kích Yên Hà huynh đã hiệu đính giúp hồi 6 này.

 Mọi người quay qua nhìn gã thiếu niên, những chuyện gã làm thực sự không một ai có thể nghĩ đến. Chuyến tiêu ngân quý giá và nặng nề như vậy, mà gã một mình một kiếm cướp đi đến thần không hay, quỷ không biết. Còn cơ mưu đảm lược đúng là phi thường, chỉ một mình gã mà tính toán mọi việc kỹ càng, không hề sơ hốt. Ngay từ đầu gã đã dùng kế "di hoa tiếp mộc, ám độ Trần thương", âm thầm ghé Giang Tây để giá họa cho Cảnh Thương Hoài, thủ đoạn quỷ quyệt đến mức bọn cướp còn phải kinh sợ. Ngay cả Viên lão nhị của Đề Kỵ tam thập nhị úy cũng bị lừa thảm hại, liên tục mất dấu vết, truy đuổi đến tận Đồng lăng mới phát hiện ra. Nhưng gã còn trẻ, lấy nhiều ngân lượng để làm gì cơ chứ? Rồi tất cả đều xem phản ứng của Cảnh Thương Hoài, thấy hắn chỉ cười nhẹ, dường như chuyện bị gã thiếu niên vu oan giá họa chẳng đáng quan tâm.

 Kim hòa thượng phá lên cười ha hả: "Việc trát bùn lên mặt tên rùa đen này đúng là chuyện đáng nghiêng mình. Bội phục, bội phục!" Viên nhị công tử lúc này mới biết gã thiếu niên không phải là vô tình ghé qua, mà chính là để đối phó với mình. Y mặt vẫn không đổi sắc, cười hỏi: "Huynh đài cần nhiều ngân lượng đến thế để làm gì?"

 Ai cũng thấy gã thiếu niên không phải là loại tham tiền, lại càng bất ngờ khi nghe tiếng gã lạnh lùng: "Hoàng đế nhà Tống mỗi năm dâng cho hoàng đế nhà Kim hai mươi lăm vạn lượng bạc, y dâng được thì ta cũng dâng được? Ta còn hơn y ba vạn lượng, thì chức quan mà Kim Quốc phong cho ta sẽ cao đến cỡ nào, mới nghĩ đến thôi mà đã thấy vui rồi?"

 Câu trả lời của gã không biết là thật hay giả, nhưng cực kỳ sắc bén. Với hai mươi mấy vạn lượng, rõ ràng quan cao chức lớn đến mức nào cũng có thể dễ dàng mua được. Thực không biết gã thuộc hạng người gì nữa.

 Viên nhị công tử cố gắng nén giận, nhẹ nhàng nói: "Một kiếm của huynh đài quả nhiên ai cũng kinh sợ, nhưng nếu hỗn chiến, chỉ e mấy vị bằng hữu khó tránh khỏi tổn thương, huynh đài khi nãy đã cứu người, bây giờ sao lại nỡ liên lụy đến bọn họ chứ?"

 Gã thiếu niên chẳng thèm trả lời, chỉ cẩn thận lau chùi chung rượu. Viên nhị công tử vừa định nói tiếp, gã đã lạnh lùng ngắt lời: "Bọn họ chẳng phải là bằng hữu của ta." Kim hòa thượng bên cạnh nghe vậy chẳng giận chút nào, chỉ thầm mong gã đánh cho Viên lão nhị một trận. Nhưng những người khác thì sắc mặt không khỏi lộ vẻ lo âu. Gã thiếu niên vẫn cẩn thận lau chùi, đột nhiên nhướng mày nói: "Hình như tổng cộng trước sau ta đã giết năm tên Đề Kỵ đô úy rồi là phải."

 Không khí trong phòng lập tức căng như sợi dây đàn, Viên lão nhị chau mày, không biết gã có ý gì, nên một hồi lâu sau mới đáp: "Nếu huynh đài bỏ qua việc hôm nay, trước mặt đại ca, ta... ta có thể lo liệu, chúng ta ngày sau sẽ là bằng hữu, chuyện cũ quên đi, vậy có được không?"

 Mọi người đều thấy Viên lão nhị đã nhượng bộ đến mức này, chứng tỏ y không nắm chắc phần thắng, nếu không cũng không cần úy kỵ gã thiếu niên như vậy. Gã thiếu niên lau chùi chung ngọc đến chán thì cẩn thận cất vào trong người, thở nhẹ một hơi, lần đầu tiên đưa mắt nhìn thẳng vào mặt Viên lão nhị: "Quên hết chuyện cũ? Ồ, vậy thì hay lắm. Chỉ vì bị đám Đề Kỵ đô úy chọc giận, nên ta đã phát thệ phải giết chết sáu tên, hiện vẫn còn thiếu một? Để ta giết thêm một mạng nữa, có được không? Giết xong tên này, tiêu ngân phần ngươi, ta phủi tay đi đường ta, ta và ngươi từ nay về sau không nợ gì nhau nữa, ngươi thấy thế nào?"

 Lời nói này đúng là ngạo mạn vô cùng, gã ra vẻ ân cần hỏi ý, không biết là thật tình hay là muốn chọc tức. Viên lão nhị xuất đạo đã nhiều năm, không một ai dám coi thường, không ngờ lần này lại bị một tên tiểu tử khinh thị đến như vậy. Nhưng gã thiếu niên này hành sự không đoán trước được, chỉ cần một lời không vừa ý là kiếm bạt máu rơi. Viên lão nhị sắc mặt xanh lè, giọng lạnh hẵn đi: "Huynh đài vẫn tự tin là giết được người trong tình cảnh này à."

 Gã thiếu niên đáp: "Chuyện đó để ta lo."

 Cặp đồng tử của Viên lão nhị lập tức thu nhỏ lại như sợi chỉ, chăm chú nhìn đôi tay của gã thiếu niên, công phu của lão đã đạt đến trình độ chỉ cần quan sát tư thế của đối phương, sẽ tiên liệu được cách đối phương xuất thủ. Gã thiếu niên vẫn ngồi yên tại chổ, mắt cũng đăm đăm nhìn vào đôi tay rám nắng của mình, các ngón thuôn dài, mềm mại nhưng mạnh mẽ và rắn chắc. Đôi tay gã thiếu niên với mùi hương trầm phảng phất, đẹp như được điêu khắc từ gỗ đàn mà ra, mười ngón co duỗi hết sức thoải mái, chẳng có vẻ gì là sắp xuất thủ, nên Viên lão nhị cũng tạm yên tâm được một chút.

 Thiếu niên chợt nhướng mắt nhìn về phía Ngô Kỳ, trong nhà hiện giờ chỉ có mình hắn là Đề Kỵ đô úy mà thôi, ánh mắt cực kỳ sắc bén làm Ngô Kỳ lạnh run, chân bất giác bước một bước về phía Viên Hàn Đình. Không khí đột nhiên ngột ngạt trĩu nặng, mọi người đến thở cũng không dám thở mạnh. Cảnh Thương Hoài thở dài, Thiếu Dương chân khí của thiếu niên này đã luyện đến mức lư hỏa thuần thanh, đạt tới cảnh giới trong tươi ngoài héo, tưởng thiếu mà lại đầy.

 Việc sống chết của Ngô Kỳ sẽ quyết định thắng bại cho cuộc chiến đêm nay, lại liên quan hệ chặt chẽ với mặt mũi của Đề Kỵ và Viên lão nhị, Nên y và bọn thiết kỵ đi theo tuyệt đối không đứng yên cho gã thiếu niên ra tay đả thương Ngô Kỳ. Viên lão nhị vẫy tay ra lệnh cho Ngô Kỳ: "Vị thiếu hiệp này xem ra không vừa mắt với ngươi, thôi thì ngươi tạm lui xuống đi." Nói xong y tự mình bước lên một bước, vừa khéo đã phong tỏa toàn bộ hướng tấn công của gã thiếu niên. Ngô Kỳ tuân lệnh, chầm chậm đi lui về phía sau, hắn sợ gã thiếu niên đến mức không dám quay đầu, mặt vẫn hướng thẳng về phía trước. Hắn vừa ra khỏi cửa thì mười mấy tên thiết kỵ ùa đến bảo vệ xung quanh.

 Đôi mắt của thiếu niên vẫn nhìn chăm chăm vào đôi bàn tay của mình, ai cũng nghĩ gã thấy khó nên buông, thì gã chợt kêu lớn: "Cộng đảo kim hà gia vạn lý!"

 Mấy tiếng này trong vắt như hạc kêu, ngân vang như vượn hú, gã đưa tay vào trong túi rút ra thanh kiếm không vỏ. Đây là lần thứ hai mọi người nhìn thấy gã xuất thủ, ai ai cũng mở to mắt nhìn cho kỹ, dường như gã chẳng hề vận lực, tả thủ vỗ vào lưng ghế, người đã phóng vọt lên không trung nhanh như điện chớp bay ra khỏi cửa. Viên nhị công tử mặt co rúm, hừ lạnh một tiếng, sàng chân qua trái một bước, tả thủ xòe ra, hữu thủ khuỳnh lại, thi triễn chiêu cao minh nhất trong Phục hổ quyền pháp là Bạo Hổ Bằng Hà, quyền phong của y bao trùm trong phạm vi ba thước, phong bế lối ra vào, gã thiếu niên muốn giết Ngô Kỳ thì trước tiên phải vượt qua y trước đã. Không ngờ ngoài dự tính của y, gã thiếu niên vẫn lao thẳng ra ngoài, chân không chạm đất, chỉ còn cách người của Viên lão nhị chưa đến ba thước, vừa đúng lúc chiêu thức của Viên lão nhị đã đến tận cùng, gã chợt cong người lại như cái cung, chọn góc độ thật chính xác, dùng tuyệt đỉnh khinh công như linh dương uốn mình, chuyển hướng giữa không trung, trong chớp mắt đã cúi người lách xuống dưới quyền đầu, bay thẳng ra ngoài cửa, vô phương ngăn cản. Bọn thiết vệ la hoảng một tiếng, lật đật vung đao rút kiếm ngăn chặn, nhưng đã chậm mất rồi. Ngô Kỳ nghiến răng, tuy hiệu xưng là Bình Bình Vô Kỳ, nhưng Bách Bộ Thần Quyền do hắn khổ luyện cả đời cũng chẳng phải là hư danh, hai tay đánh ra hai quyền, uy lực vỡ đá tan bia. Hắn bình thường nhút nhát, giờ phải liều mạng, nên chiêu nào đánh ra cũng linh hoạt phi thường, cả đời hắn chưa khi nào đánh đấm khá khẩm như bữa nay. Gã thiếu niên hữu thủ hất nhẹ, tả chưởng án xuống đỉnh đầu của Ngô Kỳ, nhưng thân hình gã hơi chấn động, dường như đã thụ thương, - ai tinh mắt mới thấy gã bị quyền phong chạm ngực - gã nhanh chóng mượn lực bay ngược trở lại, tựa như một dải cầu vồng đen xuyên qua cửa sổ, yên ổn ngồi vào chỗ cũ, lồng ngực hơi phập phồng nhưng nét mặt vẫn lạnh lùng, chẳng có chút hưng phấn nào sau khi đắc thủ.

 Mọi người quay lại nhìn, cổ họng Ngô Kỳ đã bị chém đứt, một tia máu tươi dần dần lan rộng ra. Mắt hắn lộ vẻ ngạc nhiên nhìn sang Viên lão nhị, rồi từ từ ngã xuống, không thể tin được có kẻ dễ dàng lấy mạng của mình như vậy ngay trước mũi người mà hắn tín nhiệm nhất. Gã thiếu niên quả thật rất tự phụ, trước sau hai lần giết người đều không thèm biến chiêu, vẫn dùng đúng thế Cộng đảo kim hà gia vạn lý khi nãy đã giết chết Điền Tử Đơn! Chỉ có điều lần đầu tiên gã xuất thủ, kiếm ý nhanh như sấm vang chớp giật, khiến người lóa mắt, khí thế mãnh liệt; Nhưng lần thứ hai thì bọn đề kỵ đã đề phòng, cộng thêm một tay cao thủ là Viên lão nhị, thì kiếm ý của gã từ cương mãnh biến thành khéo léo, từ trầm trọng biến thành nhẹ nhàng, từ thực hóa hư, phiêu hốt như lông hồng bay trong gió. Một người ngồi đó đột nhiên nhận ra, hốt hoảng la lớn: "Cửu Huyễn Hư Hồ, y là Hồ Kiếm Lạc Hàn, Hồ Kiếm Lạc Hàn!"

 Thực ra, từ lúc xuất kiếm ra đến lúc thu kiếm về, chân không chạm đất, biến thành cầu vồng, sát nhân ngoài mười trượng, chiêu số này chỉ có Hồ Kiếm Lạc Hàn vang danh một thời trên giang hồ tám năm trước là làm nổi. Mọi người ngồi đó trong lòng chấn động, đến Đỗ Tiêu nhị lão là người kiến văn quảng bác cũng chỉ biết đôi chút về gã thiếu niên trong truyền thuyết này. Nghe nói Lạc Hàn sống ngoài biên ải, say mê kiếm thuật, nổi danh rất sớm. Lúc mới mười ba, mười bốn tuổi đã bôn ba vạn dặm vào Trung Nguyên, chuyến đi đó đã làm gã vang danh khắp võ lâm Trung Nguyên. Tại Đằng Vương Các ở Nam Xương, với một thanh Hồ kiếm, gã một mình liên tục đấu với mười bảy vị cao thủ xuất sắc nhất trong "Tông thất song kỳ danh sĩ thảo, Giang san cửu tính mỹ nhân ma", từ sáng đến tối mịt, không ai biết kết quả. Nhưng mấy người trong "Tông thất song kỳ" và "Giang San cửu tính" cũng lâu lắm rồi không xuất hiện, theo việc mà luận, thì Lạc Hàn chắc chắn không bại. Gã tuy tuổi nhỏ, lại chỉ xuất hiện duy nhất một lần tám năm trước, nhưng chỉ cần một trận đã vang danh khắp giang hồ, tới giờ vẫn khiến người khó mà quên được.

oOo

 Tam Nương Tử chăm chăm quan sát gã thiếu niên, thầm nghĩ: gã đúng là một kỳ tài về võ học. Ai nấy đều kinh ngạc trước một kiếm của thiếu niên, nhưng trong mắt Tam nương, đấy là một vệt sáng rực rỡ phản thường, như ánh tà huy, chợt lóe chợt tắt. Nàng hạ giọng nói khẽ với Trầm Phóng: "Viên lão nhị gặp phiền phức lớn rồi, chắc lần này không nhịn nỗi đâu. Nhưng hắn cũng là tuyệt đỉnh cao thủ, không biết trận chiến này ai thắng ai bại đây?" Vừa nói, nàng vừa đưa mắt dò hỏi Cảnh Thương Hoài, ở đây chỉ Cảnh Thương Hoài là có đủ tư cách bình luận về cuộc chiến. Trong ánh mắt của nàng vẫn còn ẩn chút lo âu. Nàng cảm nhận được, đã là nữ nhân, dù lòng có phẳng lặng như mặt nước, cằn cỗi như giếng khô, thì không thể nào quên được thần thái huy hoàng xán lạn của chiêu kiếm này.

 Cảnh Thương Hoài trong mắt cũng lộ vẻ ưu tư, khẽ nói: "Tên Viên lão nhị này thâm độc thật." Tam nương giật mình không hiểu, Cảnh Thương Hoài giải thích: "Lạc Hàn khi lao ra cửa đã dùng công phu Cửu Huyễn Hư Hồ, tránh khỏi Viên Hàn Đình, nhưng hình như vẫn lộ nhược điểm ở lưng. Nhược điểm này là thật hay giả ta không dám chắc, nhưng nếu Ngô Kỳ là bằng hữu, ta sẽ mạo hiểm xuất thủ tương cứu. Đảm lược và nhãn lực của Viên Hàn Đình cũng chẳng kém ta bao nhiêu, y hoàn toàn có cơ hội xuất thủ chận Lạc Hàn lại. Thuật Hồ kiếm này, bản chất bền bỉ dẻo dai, áp lực càng lớn bao nhiêu, thì phản lực chấn động lại lớn bấy nhiêu, nhược điểm cũng có thể dụ địch, tàng ẩn sát chiêu tối hậu. Nên Viên Hàn Đình không muốn xuất thủ, thà là hy sinh một tên thủ hạ để có cơ hội dò xét thực lực của đối thủ. Viên lão nhị ơi là Viên lão nhị, ngươi thâm độc quá!"

 Tam Nương Tử khẩn trương nắm chặt tay: Vậy là Lạc Hàn gặp nguy rồi! Cảnh Thương Hoài vừa nói vừa lắc đầu, rõ ràng là rất khinh bỉ hành động của Viên nhị công tử. Viên Hàn Đình đứng gần đó mặt chẳng hề đổi sắc, thấy Ngô Kỳ lăn ra đấy cũng chẳng thèm bước lên xem thử, ngược lại còn kéo tên nô bộc co người lùi lại. Thân pháp của y cực nhanh, bước một bước đã ra khỏi cửa, chỉ nghe y hạ giọng ra lệnh: "Gọi người tới."

 Lão bộc lưng còng liền rút từ trong người ra một mũi tên pháo hoa, phất tay một cái, mũi pháo hoa đã bay thẳng lên trời, nổ bùng giữa bầu trời đêm một đóa cúc đại đóa đỏ rực chói lọi. Chứng tỏ Viên nhị công tử đã chuẩn bị kỹ càng, viện quân cũng sắp xếp sẵn trước khi đến đây. Y vẫn ung dung tươi cười như trước, nhưng lần này thì không che dấu nổi sự oán độc bên trong. Y nói với vẻ hiền hòa: "Đã nghe đại danh của Lạc huynh từ lâu, một cậu bé mà liên tiếp giao đấu với Cửu tính cao thủ, phong thái như vậy thật khiến cho người người khâm phục, tiếc tiểu đệ không có duyên đàm đạo. Đêm này gặp nhau, chúng ta phải nán lại tâm tình thêm một chút mới được."

 Ai cũng biết Viên lão nhị là loại người miệng nam mô bụng một bồ dao găm, mặt càng tươi cười hoan hỉ, thì sát cơ càng dày đặc. Lạc Hàn khi nãy ngang nhiên dùng Hồ kiếm giết chết Ngô Kỳ ngay trước mặt y, xem y không ra gì. Chuyện này mà bỏ qua thì Viên lão nhị còn mặt mũi nào mà ăn nói với bọn Đề Kỵ và đại ca của hắn.

 Viên lão nhị hạ giọng phân phó, hơn bốn mươi thiết kỵ bên ngoài nghe lệnh xong, lập tức tản ra bốn phía. Bọn chúng phân tán cũng theo đúng chương pháp, căn nhà rung rinh vì mấy tên nhảy lên nóc, cửa sổ lố nhố đầy bóng đề kỵ, trong bóng tối lấp lánh ánh mắt sáng quắc của bọn thiết vệ đang chạy qua chạy lại bố trận, vây chặt căn điếm nhỏ, cho dù có kéo sập cả căn nhà xuống đối với bọn chúng cũng là chuyện nhỏ. Bọn thiết kỵ tên nào võ công cũng thuộc loại khá, lại do Viên lão nhị điều động, uy lực còn tăng lên gấp bội so với lúc Ngô Kỳ chỉ huy. Cao thủ cở như Cảnh Thương Hoài - tuy bị thụ thương - mà còn bị bọn Điền Tử Đan, Ngô Kỳ cùng mấy chục thiết kị bao vây, thậm chí đả thương được y. Là do hơn ngàn thiết kỵ của Đề Kỵ đều được hai huynh đệ họ Viên đích thân huấn luyện, chuyên về bao vây công kích. Tuy bị gã thiếu niên làm kinh hồn táng đởm mấy lần, nhưng bọn Đề Kỵ đều hết sức tin tưởng năng lực của Viên lão nhị, nên đấu chí đã được khôi phục. Cảnh Thương Hoài nhìn qua trận thế, trong lòng thầm than, không nói chuyện mình đang bị thương, dù có hoàn toàn khỏe mạnh, e rằng cũng phải khổ chiến liều mạng một trận may ra mới trốn thoát được, nếu có thêm một hai tên cao thủ nữa, chỉ e không biết sống chết thế nào đây.

 Đột nhiên ở hướng Đông nam và Đông bắc, hai đóa pháo hoa vàng rực lóe sáng trong trời đêm, cự ly rất gần, chứng tỏ viện thủ của Viên lão nhị đã đến. Rồi hướng Đông nam chợt rầm rập tiếng ngựa phi, hướng Đông Bắc lại sầm sập nhịp bước của bộ binh tiến lại, tiếng vọng ở cả hai hướng đều rất gần tưởng chừng như sắp đến. Tiêu Tứ Ẩn nghiêng tai lắng nghe, ban đầu mặt vẫn thản nhiên, về sau càng lúc càng kinh ngạc, quay sang Cảnh Thương Hoài hỏi: "Chỉ có hai người thôi?"

 Cảnh Thương Hoài gật gật đầu.

 Tiêu Tứ Ẩn lấy làm lạ hỏi: "Mưa dầm dề cả ngày trời, đường đi bùn lầy, hai người này sao tiếng chân lại nặng nề đến vậy, chẳng khác nào như có hai đội nhân mã rầm rập tiến tới vậy."

 Cảnh Thương Hoài khẽ đáp: "Chỉ e là Đông Bách Túc và Úy Trì Hùng của Song Di Môn, sao bọn chúng lại chịu cúi đầu làm môn hạ của Viên lão nhị chứ."

 Đông Bách Túc hiệu là Ngô Công Tiên, Úy Trì Hùng tên rất hợp với người, dũng mãnh tuyệt luân, người chưa tới, tiếng bước chân đã tới nơi, rõ ràng là muốn uy hiếp tinh thần người ta. Bọn chúng đều là mấy tay đại tặc khét tiếng giang hồ, một ở Mân Nam, một ở Hồ Bắc, trước giờ nước sông không phạm nước giếng, cùng với Đề Kỵ đối nghịch như nước với lửa, do đó Cảnh Thương Hoài mới lấy làm lạ chuyện bọn họ sao lại chịu cúi đầu làm việc cho Viên lão nhị. Chợt nghe phía Đông Nam có một tiếng kêu thảm, thanh âm cực lớn, như tiếng gấu gầm rú. Viên lão nhị khẽ mỉm cười, lạnh nhạt nói: "Các vị nghĩ rằng chỉ có mấy người trong điếm là dòm ngó đến món tiêu ngân này hay sao? Ta từ sớm đã biết được Đông Bách Túc cùng Úy Trì Hùng hai tên cường tặc đã đến đây rồi. Ta vốn kêu người coi chừng bọn họ, Lạc huynh kiếm thuật cao cường vậy, ta đành gọi người trông chừng bọn họ về lại đây thôi. Ta kêu hai tên lính phóng pháo hoa báo hiệu vị trí của bọn chúng, tiếng la thảm vừa rồi xem ra là Úy Trì Hùng đã bị xử lý xong rồi." Đoạn chau mày tiếp: "Hiện tại A Phúc đã chạy qua đến mé của Đông Bách Túc rồi. Tên này còn vô dụng hơn nhiều, A Phúc sao đến giờ vẫn chưa quay về chứ?"

 Lời nói chưa dứt, chỉ nghe mé Đông bắc một tiếng rú sắc nhọn vang lên, cực kỳ thảm thiết, Viên lão nhị mặt giãn ra, cười nói: "Xem ra Đông Bách Túc đã xong đời rồi, Lạc huynh, hai người này đều có ý dòm ngó tiêu ngân của huynh, ta cho người xử lý bọn chúng rồi, huynh làm sao cảm ơn ta đây?"

 Mọi người chẳng thể ngờ được mọi chuyện lại biến đổi thế này, nghe giọng khách khí của Viên lão nhị, thật không biết người y gọi về là cao thủ thế nào nữa, đến cao thủ cỡ Đông Bách Túc, Úy Trì Hùng mà cũng bị chế trụ trong chớp mắt. Lúc này chỉ nghe một tiếng hô vang, từ xa một người hấp ta hấp tấp chạy tới, người này thân hình cực kỳ hùng vĩ, Cảnh Thương Hoài tuy cũng cao lớn, nhưng cũng chỉ đứng đến tới vai hắn mà thôi. Nhìn lại bộ dạng của hắn, trời rét căm căm như thế mà chỉ mặc một cái quần lụa màu đỏ dùng một sợi dây buộc ngang lại, phía trên có khoác một cái áo lót chỉ đỏ, trên áo lót có thêu một đóa hoa sen lớn, ngoài ra không mặc thêm gì khác, lộ rõ thân hình đen bóng, cơ bắp vạm vỡ, nét mặt thô hào nghênh ngang, đầu chải theo kiểu Quỷ kiếm sầu, dưới chân mang đôi hài đầu hổ. Người này chỉ khoảng hơn ba mươi tuổi, đen trùi trũi, cao lênh khênh, một đại hán hung hãn như thế mà lại mặc quần áo như một tiểu đồng, nhìn thật giống như đang diễn hề, nhưng mọi người nhìn thấy thì lông tóc dựng đứng cả lên, run rẩy khiếp sợ.

 Tên đại hán vừa đến trước Viên lão nhị liền quỳ gối cúi đầu, miệng hô: "A Phúc bái kiến nhị công tử." Người có thể trong chớp mắt chém chết hai tên đại đạo lục lâm Đông Bách Túc, Úy Trì Hùng không ngờ lại chỉ là một tên gia nô dưới tay của Viên lão nhị. Hắn đối với Viên Hàn Đình tựa hồ hết sức kính phục, quỳ phịch xuống đất, giữa đám bùn lầy mà vẫn chẳng do dự khấu đầu ra mắt. Viên Hàn Đình tựa hồ như biết rõ tính tình của hắn, từ sớm đã đưa tay đỡ vai hắn đứng dậy, thế nhưng A Phúc này vẫn không đổi thế, đầu gối trì xuống, khấu đầu ba cái mới chịu đứng dậy. Viên Hàn Đình chau mày nói: "Cẩn thận, đừng để dơ quần áo, tới khi về thì Vân cô nương sẽ mắng đấy. Việc đã lo xong chưa?"

 A Phúc đứng thẳng dậy, cười hề hề, vẻ mặt đần độn lộ nét cười tinh nghịch đáp: "Ta đã giết hết bọn chúng rồi, theo như lời công tử dặn, mỗi tên chỉ dùng đúng 3 chiêu công tử dạy, chứng vật của bọn chúng ta cũng đem về rồi đây."

 Nói xong liền lấy từ trong ngực ra hai vật gì đó, bên ngoài điếm tối tăm lờ mờ, mọi người ban đầu không thấy rõ, sau đó mới nhìn ra là hai bàn tay người, một gầy ốm khẳng khiu, chắc là của Đông Bách Túc, một thì mập ú lông lá, chắc là của Úy Trì Hùng. Viên Hàn Đình cười nhạt nói: "Lúc về nói Vân cô nương đem ướp muối cho ngươi, ngươi lại có thêm hai món đồ chơi rồi."

 Mọi người mặt biến sắc, cô bé hát rong a lên một tiếng rồi nhắm tịt mắt lại, không nhịn được ọe ra một tiếng. Tên A Phúc đứng kế bên Viên Hàn Đình, cao hơn hẳn y tới hai cái đầu, nhưng hắn chẳng khác nào như một đứa bé, còn Viên Hàn Đình lại là một vị đại nhân, cảnh tượng mười phần quái dị. Viên Hàn Đình đột nhiên vỗ tay nói: "Người cần đến cũng đã đến rồi. Lạc huynh, tên tiểu tử A Phúc này đã giết chết hai tên tiểu tặc định cướp tiêu, huynh không thưởng cho hắn thứ gì hay sao?"

 Câu này rõ ràng là có ý khiêu chiến, Lạc Hàn vẫn chẳng thèm đáp tiếng nào. Viên Hàn Đình đột nhiên vung tay: "Thắp đèn!" Phía sau lưng y vốn chỉ có một cây đuốc, lúc này hơn bốn mươi tên thiết kỵ đều cầm một bó đuốc sáng rực. Bọn họ trên lưng ngựa đều trang bị đầy đủ, mỗi người đều thắp một cây đuốc gỗ tùng, lập tức ngoài cửa sáng trưng như ban ngày.

 Lạc Hàn vẫn ngồi yên như cũ, ngạo mạn chẳng thèm nói tiếng nào, chỉ lạnh lạnh lùng lùng quay đầu nhìn ra ngoài cửa. Vương Hàn Đình đứng giữa đám đuốc bập bùng chiếu sáng, cười nói: "Đúng rồi, ồn ào cả nửa đêm, xem ra mọi người đều mệt rồi, A Phúc, giết một con ngựa, cắt thịt cho mọi người ăn chống lạnh đi thôi."

 A Phúc dạ vang một tiếng, rồi quay người đi đến tường phía đông, ôm một ôm đến hơn nửa đống củi khô. Củi nhiều quá, hắn ráng sức ôm nhưng cũng rơi rớt khá nhiều, đi đến cửa lớn thì cũng còn lại kha khá. Đến cửa lớn thì quăng phịch xuống đất, tiếp lấy một cây đuốc lớn rồi đốt lửa. Hôm nay trời ẩm thấp, củi cũng bị ướt khá nhiều, khó mà bắt lửa, Nhưng A Phúc chụm môi thổi phù một cái, lửa đã bùng lên, chỉ mới thổi một lần, không cần đến lần thứ hai, thì lửa đã cháy đượm. Khêu lửa xong, hắn lại quay người đi vào sân sau, tìm một xe của tiêu cục, vung chưởng đánh rầm một cái, xe đã vỡ nát. Ngựa giật mính hí lên một tiếng, hắn chọn một con ngựa to nhất mập nhất kéo ra vác lên vai. Con ngưa này chỉ e nặng tới sáu bảy trăm cân, làm sao mà hắn lại vác nổi trên vai chứ! Lúc này mọi người mới biết là hắn định giết ngựa, chỉ thấy hắn quay trở lại cửa, đặt con ngựa xuống, con ngựa hí một tiếng thê thảm, A Phúc chẳng hề dùng đến đao, thò cánh tay cứng như thép chọc thẳng vào hậu môn của con ngựa ra phía trước, tay hắn thật dài, chẳng hề ngại máu me dơ bẩn, móc ra trái tim ngựa vứt ra ngoài. Hắn hình như rất nể phục Viên nhị công tử, dặn dò thế nào làm y như thế đấy. Con ngựa nằm lăn ra đống bùn co giật một hồi rồi tắt thở. A Phúc một chưởng đánh vỡ cây cột treo bảng hiệu to bằng miệng bát, mài xoẹt một cái trên đá, rồi dùng đâm xuyên qua con ngựa từ sau ra trước, một con ngựa đang sống sờ sờ trong chớp mắt đã bị hắn xử lý xong! Sau đó hắn lấy mấy khúc cây lớn xếp thành hai giá đỡ, rồi đặt con ngựa lên phía trên đống lửa để nướng.

 Mọi người nhìn thấy đều kinh hãi mặt tái mét, riêng Viên nhị công tử vẻ mặt vẫn bình tĩnh thoải mái, ung dung vỗ tay nói: "Lạc huynh, nghe nói huynh sống lâu ở chốn biên cương, chắc rất quen với mùi vị thịt ngựa, chúng ta sẵn món thịt ngựa nướng, tiểu điếm vắng vẻ, có thêm nửa vò rượu ngon, cũng có thể tiêu khiển cho qua đêm nay, xin đừng trách ta chiêu đãi không chu toàn, không biết ý của huynh thế nào? Chỉ có điều nếu cứ giết từng con, từng con ngựa một như vậy, hơn mười mấy hai mươi chiếc xe chở ngân lượng của huynh chẳng còn đủ ngựa nào để kéo nữa đâu."

 Mọi người đến giờ mới hiểu được thâm ý của y. Y muốn chọc tức Lạc Hàn, nhưng mà trong điếm chật hẹp, cần phải dụ gã ra ngoài động thủ. Tam Nương Tử khẽ nói: "Y là cao thủ của Thất Xảo Môn, ám khí kỳ tuyệt, chỉ có điều bên ngoài điếm tối đen, y chỉ cần hạ lệnh dập tắt đuốc, chỉ sợ khó mà tránh được một thân ám khí của y, huống gì còn sức lực man rợ của A Phúc nữa."

 Nàng nói câu này chính là để nhắc gã thiếu niên phải tính toán cẩn thận. Thiếu niên thấy Viên lão nhị giết ngựa, cũng giật mình kinh ngạc, không ngờ y lại tàn nhẫn đến vậy, nét mặt lộ ra vẻ phẫn nộ, lạnh lùng nói: "Giết ngựa thì chẳng làm được việc gì, ta cũng có thể bắt vài tên Đề Kỵ ra kéo xe cho ta. Ta trước giờ ăn sống nuốt tươi, quen sống hoang dã, ăn không quen mấy món công tử thư sinh các ngươi hay ăn đâu."

 Viên Hàn Đình sa sầm nét mặt, đột nhiên phẩy tay áo, A Phúc liền rút ra một con dao nhọn cắt một tảng thịt ngựa máu me ròng ròng, xem ra muốn đem chia cho mỗi người một miếng. Bọn thiết kỵ đã quen với việc này, nhưng mọi người trong điếm, kể cả Kim hòa thượng là người lỗ mãng thấy vậy cũng cảm thấy hoang mang khó chịu.

 Kim hòa thượng lầm bầm mắng: "Lão tử trước giờ cứ tưởng là lão tử tàn độc lắm rồi, không ngờ so với tên văn nhân nho nhã này, lão tử ta lại chẳng khác gì bồ tát sống."

 Một tên thiết kỵ bên ngoài sân thấy máu tươi ròng ròng thì phấn chấn tinh thần, thò tay tóm lấy một con chó con và một lồng đầy gà trong sân, vung tay ném về phía đống lửa. Viên Hàn Đình tỏ vẻ rất hài lòng, đứng bên cạnh cười nói: "Huynh đệ đúng là xứng với câu gà chó gì cũng không tha."

oOo

 Mọi người không ngờ được gã thiếu nhiên đột nhiên nổi giận, hùng hổ quát: "Ngươi dám!" Nói đoạn vỗ vào lưng ghế, thân hình lại bay vọt lên không. Viên Hàn Đình cũng không ngờ gã lại ra tay chỉ vì vài con gà, một con chó con vậy, nhưng coi như cũng rất hợp với ý của y. Gã thiếu niên vừa động, Viên Hàn Đình cũng động theo, y lùi về phía sau, hai tay không ngừng phóng ám khí tập kích thiếu niên. Ai ngờ thiếu niên lần này chẳng hề rút kiếm, cũng chẳng phải phóng về phía Viên Hàn Đình, tốc độ của gã cực nhanh, đã vọt tới đống lửa trước cả con chó con cùng với lồng gà, một tay đón lấy con chó, một tay tiếp lấy lồng gà, đang lúc vươn tay, thân hình sựng lại, vạt áo đã bị lửa đốt cháy một mảng. Mọi người không ngờ được y không bạt kiếm mà lại đi cứu đám chó con gà con. Viên lão nhị đảo mắt quát: "Dập lửa!" Hơn bốn mươi mấy bó đuốc trong tay bọn thiết kỵ lập tức bị dúi xuống đất tắt ngúm, bên ngoài điếm chỉ còn sót lại ánh lửa từ đống củi của A Phúc.

 Viên lão nhị lại quát lớn: "A Phúc!"

 Hai người chủ bộc tâm ý tương thông, A Phúc vươn tay kéo con ngựa đã cháy thành than quăng ra vũng bùn cho ướt sũng nước rồi lại dùng thân ngựa đập đập vào đống lửa, đống lửa đang cháy đượm rầm một cái đã bị rã ra, bị cú quăng cú ném của hắn dập tắt hoàn toàn. Người trong điếm mắt chợt tối đen, không kịp làm quen, vô luận bên trong hay bên ngoài chỉ thấy tối mò mò. Một hồi lâu sao, mọi người tỉnh hồn lại, nhưng bên ngoài cửa vẫn tối tăm mịt mờ, giơ bàn tay lên cũng không thấy rõ, đêm nay trời mưa không trăng cũng không sao.

 Viên lão nhị chợt phá lên cười lớn, lẩn khuất trong tiếng cười của y là tiếng kim tiền phiêu, tụ tiễn, phi thạch, thanh trúc phiêu, thiết tật ly, đủ loại ám khí xé gió bay tới. Tên cao thủ Thất Xảo Môn này cuối cùng cũng nắm được thời cơ phát xuất cú đánh trí mệnh. Bên ngoài điếm chẳng hề nghe thấy tiếng của gã thiếu niên, tiếng chó sủa gà kêu cũng vắng bặt. Mọi người trong nhà thần kinh căng thẳng, trong lòng cảm thấy vô cùng khủng bố, mắt chằm chằm nhìn vào bóng tối mịt mùng. Sao lại thế này, cô bé Anh Tư tay níu chặt lấy tay áo của ông, khóe miệng run run, trong lòng vô cùng lo lắng cho gã thiếu niên. Kim hòa thượng hầm hừ nói: "Ta sẽ phóng ra cho tiểu huynh đệ một bó đuốc," nói đoạn thắp sáng một thanh củi rồi ném ra ngoài cửa, nhưng vừa đến cửa đã nghe A Phúc rống lên một tiếng dập tắt ngay tức khắc. Mọi người không biết làm sao, ai cũng hiểu rõ ám khí của Thất Xảo Môn, ban ngày ban mặt thấy rõ rành rành còn khó mà tránh né, huống gì là trong đêm đen mù mịt gió thổi vù vù thế này? Mọi người cũng biết Viên lão nhị đã nói là "gà chó cũng không tha", e rằng Lạc Hàn mà ngã xuống, mấy người trong điếm sớm muộn gì cũng bị bọn chúng quét sạch mà thôi. Qua thời gian uống cạn một tuần trà, tiếng ám khí vẫn bay vù vù, không biết trên người Viên lão nhị có bao nhiêu ám khí, đã phóng cả nửa ngày trời rồi mà xem ra chẳng hao hụt chút nào.

 Tam Nương Tử mặt lộ vẻ lo lắng, hỏi: "Mọi chuyện sao rồi?"

 Cảnh Thương Hoài khẽ đáp: "Ám khí phóng ra không ngừng, chứng tỏ là gã thiếu niên vẫn chưa chết, nếu không y còn phóng ám khí làm gì nữa."

 Cô bé hát rong nghe vậy, trong lòng đau xót đến muốn phát khóc. Tam Nương Tử hiểu rõ ý của Cảnh Thương Hoài: chỉ khi nào biết chắc Lạc Hàn chết thì Viên Hàn Đình mới ngừng phóng ám khí. Một hồi sau chợt nghe "đinh" một tiếng, thì ra là một thanh phi đao bắn vào trong điếm, Đỗ Hoài San kịp thời cầm một chậu hoa ném đón đỡ, bộp một cái, phi đao đã cắm thẳng vào cột nhà, ngập đến tận chuôi, tuy không làm ai bị thương, nhưng có thể thấy lực cổ tay của Viên Hàn Đình mạnh đến mức nào. Bên ngoài vẫn không hề nghe thấy tiếng của Lạc Hàn, đột nhiên nghe Lạc Hàn hừ khẽ một tiếng, rồi Viên Hàn Đình cùng lúc kêu rống lên một tiếng, xem ra cả hai người đều bị trúng thương.

 Sau đó, một bóng đen nhảy vào nhà, phóng thẳng đến ngọn đèn lớn treo ở giữa nhà. Kim hòa thượng vừa định xuất thủ, Cảnh Thương Hoài vội thò tay ra giữ y lại, khẽ nói: "Đừng có di động, là gã." Kim hòa thượng vội dừng tay. Mọi người chưa kịp định thần, đã thấy gã thiếu niên phất tay một cái, toàn bộ đèn trong điếm đã bị dập tắt, mọi người cũng không biết gã đang đứng ở chỗ nào. Nhất thời trong ngoài điếm đều tối mịt. Trong nhà vẫn còn ánh lửa bập bùng phát ra từ lò sưởi, nhưng ánh lửa đó đã gần tàn lụi, chiếu sáng chẳng được bao nhiêu, lờ mờ không thấy rõ ràng.

oOo

 Trong nhà chỉ có thể nghe thấy tiếng hô hấp, ai nấy đều nghĩ: "Thiếu niên lùi lại vào trong cửa, rõ ràng thân hình loạng choạng, không biết có bị thương hay không, không hiểu vì sao gã lại phải dập tắt lửa, xem ra chưa chắc là bị thương, sợ Đề Kỵ nhìn ra nên phải để cho địch ở ngoài sáng, ta ở trong tối."

 Bọn thiết kỵ bên ngoài nhất thời không dám xông vào, bằng vào kiếm thuật của Lạc Hàn, nếu lợi dụng bóng tối mà đả thương người, thử hỏi ai mà dám mạo hiểm tính mạng cơ chứ. Người trong nhà cũng nghĩ đến điểm này, mới minh bạch: thiếu niên nhất định đã thụ thương, nếu không sao lại không dám cho bọn Đề Kỵ tùy ý xông vào?

 Bên ngoài một lúc lâu sau chợt nghe Viên Hàn Đình phá lên cười ha hả, rồi lại ho khúc khắc, lẩm bẩm: "Lạc huynh, huynh vẫn còn sống chứ?" Giọng điệu ôn hòa, chắc khác nào như bạn cũ lâu năm hỏi thăm nhau. Rồi y ra lệnh: "Thắp đèn", xem ra y cũng bị thương không nhẹ, chỉ có điều, thiếu niên coi bộ đã bị nặng hơn cả y.

 Bên ngoài một đốm lửa lóe lên, rồi mấy chục cây đuốc cháy sáng. Viên Hàn Đình đứng dưới ánh đuốc, sắc mặt trắng nhợt nhưng vẫn tươi cười phân phó: "A Phúc, ngươi vào trước đi."

 Địch tối ta sáng, y sợ xông vào là trúng kế của thiếu niên do đó sai A Phúc vào trong nhà trước thắp đèn, hoặc để dẫn dụ thiếu niên xuất thủ. A Phúc dạ một tiếng, huỳnh huỵch cầm bó đuốc tiến vào trong nhà.

 Trong nhà cũng có người có ý muốn cản hắn, nhưng nhớ tới tuyệt kỹ giết ngựa thắp lửa của hắn đều chùn tay. A Phúc vừa tiến vào, trong nhà đã sáng choang. Mọi người lóa mắt, một hồi sau mới thấy gã thiếu niên vẫn ngồi nguyên tại chỗ cũ. Trên bàn đặt một con chó con, một lồng gà con, mấy con vật đều lặng thinh không kêu tiếng nào. Trên vai phải của gã có một vết máu, trên bàn còn một thanh đao, chắc là vừa mới nhổ ra từ vai xuống, gã thiếu niên đang ngoẹo cổ hút máu ở vết thương. Máu đen sì, xem ra là có độc, chỉ thấy gã chau mày, hút một ngụm máu, nhẹ nhàng nhổ ra một ngụm máu, rồi lại hút một ngụm máu rồi nhổ ra, nét mặt vẫn lãnh tĩnh kiêu ngạo, tựa hồ chẳng để ý gì đến vết thương, cũng chẳng lo gì đến sống chết. Nét mặt lộ vẻ khinh thường bất cần làm Tam Nương Tử trong lòng đau nhói.

 Mọi người đều tập trung quan sát gã, rồi đưa mắt nhìn nhau, ngồi yên không nhúc nhích. Tam Nương Tử trong lòng cảm thấy chua xót bèn quay đầu sang chỗ khác, nàng hiểu vì sao gã thiếu niên vừa vào nhà đã lập tức dập tắt đèn: gã không phải có ý muốn cản Đề kỵ bám theo, gã chỉ thụ thương nhẹ, nhưng lại là kẻ cô độc kiêu ngạo, bị thương cần phải chăm sóc hút máu độc, không muốn người khác nhìn thấy.

 Cô bé Anh Tử không biết vì sao chợt can đảm hẳn lên, thấy máu vẫn không ngất xỉu, dũng cảm bước lên một bước, đưa chiếc khăn lụa cũ nhưng được giặt giũ hết sức sạch sẽ cho gã, chiếc khăn lụa đó cũng là vật duy nhất đáng tiền trên người của cô. Gã thiếu niên chợt nhìn cô mỉm cười, nụ cười như ánh dương quang, tiếc là chỉ kéo dài trong chốc lát, nhưng một giây phút ngắn ngủi đó cũng đã chiếu sáng tâm linh của rất nhiều người. Lần này gã không cự tuyệt cô bé, tiếp lấy chiếc khăn, dùng miệng cắn một góc khăn, kẹp vào nách rồi dùng tay trái băng vết thương lại.

 Sau đó, gã nhấc lồng gà con cùng con chó con toàn bộ đưa hết cho cô bé, nói: "Thay ta chăm sóc cho bọn chúng."

 Cô bé mặt đỏ bừng, tựa hồ sống chết trước mắt chẳng còn quan trọng gì nữa. Mọi người trong lòng không khỏi than thở: chỉ vì đám gà con chó con đó mà đến mạng cũng không cần, vậy có đáng không? Trong mắt Cảnh Thương Hoài lại lộ nét kính phục bội phần.

 Viên Hàn Đình cũng theo tên lão bộc tiến vào trong điếm, thấy cây tiểu đao trên bàn gã thiếu niên thì lại càng bội phần hớn hở, cất tiếng gọi: "Lạc huynh nghĩ rằng đám chó con gà con này có thể sống đến lúc trời sáng sao."

 Lạc Hàn không thèm đáp, nhưng ánh mắt vẫn hết sức kiên định. Gã vươn tả thủ đặt lên bao đồ trên bàn, trong bao có giấu thanh kiếm, rồi lại nhìn thẳng vào mặt Viên Hàn Đình, không nói tiếng nào.

 Không hiểu sao, mọi người thấy gã để tay lên bao đồ, thì trong lòng lại cảm thấy đỡ lo cho gã ra hẳn.

oOo

 Viên Hàn Đình ho một tiếng, cười nhẹ nói: "Tiểu đệ còn một chiêu 'Kim phong ngọc lộ nhất tương phùng', xin thỉnh Lạc huynh xem qua."

 Tay trái của y không biết từ lúc nào đã thò vào trong bọc đeo ở vai, rõ ràng nhận ra vai phải cầm kiếm của thiếu niên đã bị thương, không cần lo lắng gì nữa. Chỉ thấy tả thủ của y vung lên, một nắm phi sa đã bay thẳng đến trước bàn của thiếu niên. Tam Nương Tử vươn tay ôm lấy cô bé kéo ra xa. Thiếu niên co người, lăn qua dưới bàn để tránh rồi lại lăn ra. Viên Hàn Đình cánh tay phải nhấc lên, hai mũi tụ tiễn bay tới nhanh như chớp, thiếu niên nhấc bổng cái bàn lên, tụ tiễn soạt một tiếng găm chặt vào mặt bàn. Viên Hàn Đình lại tung ra ba mũi liễu diệp đao chia làm ba hướng thượng trung hạ phóng tới. Lạc Hàn liên tục né tránh lùi về phía sau. Chỉ thấy Viên Hàn Đình vung ra đủ loại ám khí có tên, không tên, không ngừng ép thiếu niên vào hiểm cảnh, thiếu niên chỉ có một cái bàn vuông làm mộc che, né trái tránh phải trong gang tấc, tuy rơi vào thế hạ phong nhưng không hề rối loạn chút nào.

 Tam Nương Tử lầm bầm tự hỏi: Gã vì sao vẫn chưa hoàn thủ? Dù hữu thủ có bị thương thật, thì dùng tả thủ sử kiếm không được hay sao?

 Cảnh Thương Hoài liền khẽ ra hiệu cho nàng nhìn cho kỹ. Tam Nương Tử nhìn bốn phía, chỉ thấy Tần Ổn, Đỗ Tiêu nhị lão, sáu con mắt đang nhìn chằm chằm, không phải là Viên Hàn Đình, cũng không phải là Lạc Hàn hay A Phúc mà chính là lão bộc già nua lưng còng buông thõng tay nãy giờ theo sát Viên Hàn Đình không rời một bước. Tam Nương Tử giật mình, đầu tiên không hiểu tại sao, sau đó mới phát hiện ra, lão bộc này không phải chỉ khoanh tay đứng nhìn, hai tay của lão ẩn trong tay áo thỉnh thoảng lại lay động. Gã thiếu niên tuy né tránh ám khí của Viên Hàn Đình, nhưng chẳng thèm để mắt đến đống ám khí, tựa hồ như chỉ dùng thính giác là đủ, hai mắt của gã dán chặt vào hai tay của lão bộc, tên lão bộc dường như cũng cảm nhận được áp lực từ ánh mắt của gã, liền lùi về phía sau, Tam Nương Tử lấy làm lạ hỏi: "Cảnh đại ca, lão là ai vậy?"

 Cảnh Thương Hoài thở dài một hơi rồi nói: "Ta suýt nữa cũng nhìn lầm, người này có thể là Lão Lai Nhân Tôn Tử Hệ, đệ tử đắc ý nhất của Viên lão đại. Nghe đồn hắn vào làm môn hạ của Viên lão đại sớm nhất, khổ tâm học nghệ, cần cù luyện công, do đó chưa già mà tóc đã bạc trắng. Viên lão đại sợ tiểu đệ gặp chuyện không hay, do đó kêu đệ tử giỏi nhất của mình theo sát y để trông chừng. Người này võ công e rằng còn trên cả Viên lão nhị, hắn tuy chưa xuất thủ nhưng hai tay giấu trong tay áo nãy giờ luôn uy hiếp Lạc Hàn."

 Tam Nương Tử lúc này mới biết vì sao trong lúc ám đấu ở bên ngoài, Lạc Hàn không thốt tiếng nào mà vẫn thụ thương. Lại nghe Cảnh Thương Hoài thì thầm nói: "Ta chỉ không hiểu, hắn vì sau nãy giờ cứ lùi lại mãi?"

oOo

 Lúc này chợt nghe Viên Hàn Đình quát lớn một tiếng, một viên thiết đảm lớn bằng nắm tay bay thẳng đến trước Lạc Hàn, Lạc Hàn vừa nâng bàn lên đỡ, viên thiết đảm đột nhiên nổ tung, mặt bàn xuất hiện một lỗ hổng lớn. Tả thủ nãy giờ bất động của Lạc Hàn chợt thò vào trong bọc, cuối cùng cũng rút ra thanh kiếm không có vỏ. Lần này mọi người mới nhìn thấy rõ thanh kiếm của gã, thanh kiếm dài khoảng nửa thước, thân kiếm trong suốt như nước, rung động tạo thành hình cầu vồng. Chỉ nghe Lạc Hàn quát lên một tiếng, mọi người không nghe rõ gã quát lên câu gì, người mà gã tấn công không phải là Viên lão nhị mà là kẻ Cảnh Thương Hoài đoán là Tôn Tử Hệ. Tên này biến sắc, song thủ phóng mạnh ra khỏi tay áo, mười móng tay nhọn hoắc cứng như thép giờ mới lộ ra trước mắt mọi người. Chỉ thấy hắn dùng móng tay búng một cái vào thân kiếm của Lạc Hàn đang chém tới, xoẹt một cái móng tay của y đã bị kiếm phong chém đứt một đoạn, một chiêu này hắn rõ ràng đã bại, nhưng cũng là người đầu tiên tiếp được một chiêu của Lạc Hàn từ nãy đến giờ. Lạc Hàn đột nhiên hú lên một tiếnh lảnh lót, uốn cong mình bật ngược trở lại, kiếm phong phóng thẳng đến một tên bán rong đang đứng dựa tường đằng sau lưng, quát lớn: "Ngươi cũng ló mặt ra rồi à?"

 Cảnh Thương Hoài mắt lóe lên, tên bán rong rõ ràng không kịp phản ứng, sườn bên trái trúng phải một nhát kiếm, đau đớn rống lên một tiếng, thò tay vào người rút ra hai thanh chủy thủ, gia nhập vào vòng chiến.

 Mọi người bây giờ mới biết gã thiếu niên đã phát hiện ra một tên địch nhân khác núp trong điếm. Tên bán rong này hai ngày trước đã đến khách điếm, bình thường chẳng có gì đáng nghi, Cảnh Thương Hoài nói: "Mất mặt, thật là mất mặt quá, Vô Danh Đô úy Lô Thắng Đạo ẩn mình ngay ở đây, mà Cảnh Thương Hoài ta không nhận ra được, nếu quả định đối phó với ta, thì ta sớm đã xuống suối vàng rồi."

 Đỗ Hoài San, Tiêu Tứ Ẩn cùng Tần Ổn nhìn nhau, ai cũng lộ vẻ xấu hổ, bọn họ lão luyện giang hồ như vậy mà cũng không nhìn ra.

 Tình thế bây giờ đã biến thành một mình thiếu niên đấu với ba người, kiếm pháp tay trái gã sử ra cực kỳ chuẩn xác, Viên Hàn Đình dường như không lường được gã lại lợi hại như vậy, vượt xa sự tưởng tượng của y, khi này chẳng những không giết được gã trong bóng đêm bên ngoài điếm, ngược lại còn bị gã dụ ngược trở lại, lá bài cuối cùng trong tay cũng bị phát hiện, giờ đây sát thủ bí mật không còn, ám toán cũng hết đường sử dụng, giờ chỉ còn có nước bằng vào thực lực quyết chiến sanh tử một phen mà thôi.

 Ba người bọn chúng đều là cao thủ, nhưng gã thiếu niên lúc tiến lúc thoái, an nhiên chẳng chút rối loạn, không biết là ba người vây khốn Lạc Hàn hay Lạc Hàn một mình một kiếm khống chế bọn chúng nữa. Viên lão nhị đột nhiên quát: "A Phúc, xuất thủ." Y hướng mắt về phía cô bé ra hiệu, chiêu này quả thật ác độc, đánh cược vào tính tình của gã thiếu niên. A Phúc hiểu rõ ý của chủ nhân, bèn đưa tay chộp lấy cô bé. Cô bé lùi lại gần bàn của Tam Nương Tử, Tam Nương Tử hữu thủ vươn ra, dùng sợi tơ vàng quấn lấy cổ tay của A Phúc. Ai ngờ A Phúc hạ bàn vững chắc, trở thành kéo ngược lại Tam nương. Cảnh Thương Hoài quát lên một tiếng, một chưởng vỗ ra như có như không, A Phúc vừa vung chưởng lên đỡ, Cảnh Thương Hoài dường như chẳng cần dùng sức cũng bức A Phúc liên tục lùi lại ba bước, nhưng hắn chẳng hề sợ chết, mệnh lệnh của chủ nhân nhất định phải hoàn thành bằng được, liền lập tức đánh ra chưởng thứ hai, Cảnh Thương Hoài lần này đành phải ngạnh tiếp, y ngày đó đã bị thương không nhẹ dưới tay Lý Nhược Yết, lại bôn ba vất vả mấy bữa nay, hai luồng lực đạo chạm nhau, A Phúc chỉ bị đẩy lùi một bước, Cảnh Thương Hoài oa một tiếng rồi thổ ra một búng máu tươi.

 A Phúc mặt mày hớn hở, chưởng thứ ba chụp tới, Cảnh Thương Hoài than thầm không ổn, không dám dùng lực, tay vừa đánh ra thì lục phủ ngũ tạng đã nhộn nhạo, hoàn toàn chẳng có chút khí lực nào. A Phúc tóm lấy bím tóc của cô be, vừa định hạ thủ, Đỗ Tiêu nhị lão ở bên cạnh nãy giờ ngần ngừ không dám xuất thủ, lúc này đứng phắt dậy, nhưng có muốn xuất thủ cũng đã trễ rồi, Chỉ thấy gã thiếu niên kêu lên một tiếng trong trẻo, phóng mình ra khỏi vòng chiến, đánh thẳng tới lưng của A Phúc.

 Viên Hàn Đình đã liệu trước gã sẽ có phản ứng này, bởi vì gã nhớ tới ơn tặng khăn của cô bé, nhất thời xúc động sẽ phóng ra cứu mạng cô ta. Cao thủ giao tranh, thắng bại chỉ quyết định trong chớp mắt. Y khẽ quát: "Kim phong ngọc lộ nhất tương phùng, tiện... thắng... khước nhân gian vô sổ!"

 Câu này y thốt ra cực kỳ chậm rãi, y cuối cùng cũng đợi được thời cơ này, vận lực phóng Kim Ngọc Thoa bắn thẳng vào lưng gã thiếu niên. Kim Ngọc Thoa do Thất Xảo nương tử sáng chế, tự phụ là vô địch thiên hạ, trước giờ trong giang hồ chưa từng có ai tránh khỏi được. Tuy nhiên phóng ám khí này ra thì hao tốn rất nhiều nội lực, do đó y nếu không nắm chắc mười phần thành công thì nhất định sẽ không dám xuất thủ. Tần Ổn, Đỗ Tiêu ngồi đó đều đứng bật dậy, chỉ thấy từ tay của Viên Hàn Đình cùng lúc phóng ra một đạo hoàng quang, một đạo bạch quang, từ từ bay thẳng đến hậu tâm của Lạc Hàn, chỉ nghe Lạc Hàn lanh lảnh quát lên: "Ngươi có ám khí, còn ta không có hay sao?"

 Gã vừa nói vừa phóng thẳng đến A Phúc, còn cách A Phúc một khoảng xa, kiếm đã chỉ thẳng vào lưng A Phúc, chỉ thấy vỏ bên ngoài của thanh kiếm đột nhiên vỡ tung, tựa như một làn mưa phùn hoa kiếm rào rạt bắn thẳng vào lưng của A Phúc. A Phúc mắt trợn ngược, thân thụ trọng thương, nhưng hắn vẫn còn hết sức hung tợn, tả thủ ráng sức chộp lấy cô bé, Cảnh Thương Hoài thở dài một tiếng, một chưởng đánh thẳng vào lưng A Phúc, A Phúc lúc này toàn thân co giật, đành phải ngã lăn xuống đất.

 Chiêu đó của gã thiếu niên gọi là Cửu Ảo Hư Hồ, thân hình như vạch một vòng lớn bên cạnh A Phúc, mũi kiếm ghim vào Tôn Tử Hệ đang ăn mặc giả làm người hầu, Lúc này ánh sáng rực lên trên mặt gã, Kiếm trung chi kiếm đã hiển lộ, hai vòng kim thoa và ngọc thoa một vàng một trắng từ từ bay sát tới lưng gã, như mọc thêm một con mắt thứ ba định vồ lấy người ta mà cắn.

 Tôn Tử Hệ ban đầu định lẩn trốn, nhưng kiếm phong của Lạc Hàn vừa lanh lẹ vừa dũng mãnh, hắn nấp sau cây cột, thì kiếm đã phóng tới cây cột, nhảy sang cửa sổ gần đó thì mũi kiếm cũng điểm tới cửa sổ. Kim Ngọc Thoa do Viên Hàn Đình phóng ra giờ chỉ còn cách bối tâm của Lạc Hàn chưa đầy hai thước, Vô Danh Đô úy Lô Thắng Đạo hai tay hai thanh trủy thủ khẩn trương tấn công, xem ra thắng bại chỉ quyết định trong một khắc này mà thôi.

 Mọi người trong điếm đều đứng bật dậy, chen chúc nhau quan sát, chỉ thấy Tôn Tử Hệ bị ép đến mức không làm gì được, đột nhiên quát lớn: "Nhị công tử, phát lực." Y nghiến chặt răng, hai tay vươn ra không kể gì đến thương thế giữ chặt lấy kiếm của Lạc Hàn, Lạc Hàn cũng không lùi lại, hắn ra sức giữ chặt, nhưng kiếm thế vẫn không dừng lại, Tôn Tử Hệ thoái lui một bước thì gã tiến tới một bước, mũi kiếm chỉ còn cách ngực của Tôn Tử Hệ năm phân, ba phân, hai phân, một phân rồi đâm vào ngực hắn, Tuy một kiếm này của gã có thể giết chết được Tôn Tử hệ, nhưng bản thân gã cũng không còn đường thoát, bởi vì thanh kiếm đã bị Tôn Tử Hệ liều chết nắm giữ, gã làm sao mà tránh được hai mũi Kim Ngọc Thoa ở sau lưng cơ chứ.

 Tôn Tử Hệ không ngờ lại quyết định dùng mạng đổi mạng với gã thiếu niên.

 Tôn Tử Hệ cắn chặt răng, xem ra quyết vật lộn với gã một phen. Một bước lùi nữa của hắn thì lưng đã tựa vào một cây cột gỗ, hai tay dùng lực kẹp chặt lưỡi lại, kêu lớn: "Nhị công tử, cho nổ đi", muốn trước khi Lạc Hàn giết được hắn thì đã bị Kim Ngọc Thoa nổ chết, tệ lắm thì cũng lưỡng bại câu thương. Nhưng sắc mặt của gã đột nhiên biến đổi, chợt thấy trong tay như trống rỗng, lực đánh của Lạc Hàn đột nhiên tiêu biến mất, nhưng kiếm vẫn còn bị song chưởng của hắn giữ lại. Lạc Hàn ấn một tay lên cây cột gỗ, tay cầm kiếm lại rút một thanh kiếm khác ra khỏi mũi kiếm sắc nhọn mà Tôn Tử Hệ đang kẹp lấy, chỉ thấy thân hình y lướt đi sát đất, lật mình đâm thật nhanh vào Viên Hàn Đình. Hóa ra trong thanh kiếm này của y còn kẹp một thanh kiếm khác nữa! Tôn Tử Hệ chỉ biết giương mắt nhìn vỏ kiếm nằm trong tay, thấy Kim Ngọc Thoa bay tới, tai tưởng chừng còn nghe đùng một tiếng, biết là Kim Ngọc thoa đã nổ tung bắn thẳng vào ngực mình.

 Viên Hàn Đình thật ra đã muốn rút về, nhưng Kim Ngọc Thoa đã phóng ra thì không thể thu về lại, lần này Lạc Hàn tuy uốn người bay vọt lại rất nhanh, nhưng quần bên trái của gã cũng bị Kim Ngọc Thoa đâm xuyên qua một lỗ lớn, có vương vài giọt máu, xem ra đã bị thương rồi. Viên Hàn Đình vô cùng kinh ngạc, không ngờ rằng có người có thể toàn mạng thoát khỏi Kim Ngọc Thoa của mình. Đang lúc y ngẩn người ra, kiếm của Lạc Hàn đã đâm vào cổ tay trái, cổ tay phải, sau đó đâm vào hai đầu gối của y, liên tục đả thương tứ mạch. Viên Hàn Đình lập tức lăn đùng ngã xuống đất, thân hình của Lạc Hàn đột nhiên sựng lại, quay phắt về phía sau, trở thành mặt đối mặt với Vô Danh Đô úy Lô Thắng Đạo. Lạc Hàn lạnh lùng hỏi: "Ngươi muốn thế nào?"

 Lô Thắng Đạo run cầm cập, tay cầm chủy thủ chợt mềm nhũn ra, thanh đoản kiếm của Lạc Hàn chầm chậm đâm thẳng vào tim của hắn.

oOo

 Mọi người trong điếm nín thở im phăng phắc, thật không thể nào tin nổi gã thiếu niên lại đủ sức đánh một trận cho đối phương ba chết một bị thương. Lạc Hàn quay trở về chỗ cũ, lạnh lùng nhìn bọn thiết kỵ ngoài cửa: "Các ngươi muốn thế nào?"

 Bọn Thiết kỵ tuy đông người, nhưng chẳng ai dám hó hé gì, chỉ nghe Lạc Hàn lạnh lùng nói tiếp: "Gân tay gân chân của Viên Hàn Đình đã bị ta chém đứt, ít nhất trong vòng một năm y không thể ra tay xuất thủ động võ, nếu cố gắng thì không chết cũng bị tàn tật, các ngươi có muốn đưa y đi hay không?"

 Tên đứng đầu thiết kỵ nghiến chặt răng, biết có đánh tiếp cũng vô dụng, lúc này cần nhất là phải bảo vệ huynh đệ của Viên lão đại, liền đáp lại: "Đúng vậy!"

 Lạc Hàn nói: "Bây giờ còn chưa đi, còn đợi cái gì nữa?"

 Bọn Thiết kỵ giật mình như tử tù được đại xá. Tên chưởng kỳ vẫy tay ra hiệu, liền có hai người chạy tới đỡ lấy Viên Hàn Đình đã ngất xỉu, thêm 2 tên nữa đỡ lấy A Phúc, toàn bộ lên ngựa định quay về.

 Đột nhiên Lạc Hàn lên tiếng: "Chậm đã."

 Bọn Thiết kỵ ai ai cũng kinh hãi, không biết ý gã thế nào, chỉ hận không thể mọc thêm mấy cái chân để chạy thoát khỏi tên Ma vương này.

 Chỉ nghe Lạc Hàn nói: "Tiêu ngân các ngươi không cần nữa phải không?"

 Lại tính giở trò gì đây? Chưởng kỳ quay đầu lại, không muốn tỏ vẻ khiếp nhược, nhưng cũng không dám mở miệng tranh biện, chỉ nói: "Bọn chúng ta tài không bằng người, ngân lượng thiếu hiệp xin cứ tạm giữ lấy, về sau đợi Viên lão đại chúng ta tới gặp thiếu hiệp để bàn tính sau. Bọn ta thấp cổ bé miệng, không dám tự chủ."

 Gã thiếu niên lộ vẻ thất vọng nói: "Các ngươi cứ đem về đi, ta làm bị thương Viên Hàn Đình, thật là có lỗi, thôi thì dùng số tiêu ngân này để biểu thị sự ăn năn với Viên lão đại vậy." Bọn thiết kỵ quay lại nhìn gã, xem ra không phải là gã nhắm mắt nói bừa, người trên giang hồ có ai mà không sợ Viên lão đại cơ chứ, lời của gã cũng có thể hiểu được. Nhưng lẽ nào gã lại khờ khạo như thế? Đã giết chết bảy Đề kỵ Đô úy, làm trọng thương A Phúc, lại mượn đao giết chết ái đồ của Viên lão đại là Tôn Tử Hệ, sau đó lại còn dám làm trọng thương Viên Hàn Đình, tiểu đệ yêu quý nhất của Viên lão đại, bằng chút ngân lượng thế này, Viên lão đại làm sao mà không truy cứu nữa chứ?

 Người trong điếm cũng giật mình, bọn Đề kỵ nghĩ: nếu không đưa tiêu xa đi thì sợ chọc giận đến gã ma đầu này, tuy mưa đêm đường trơn trượt, lúc này không phải là lúc thuận tiện, nhưng cứ theo lời của gã trước cái đã, rồi lẳng lặng đi đến vác lấy tiêu ngân.

 Người trong tiêu cục thấy Tần Ổn không nói tiếng nào, thì cũng ngậm tăm. Chỉ nghe gã thiếu niên chậm rãi cất giọng mệt mỏi nói: "Chỉ là những vật của các tiêu sư thì để lại đây cho ta, có gì không phục, đợi Viên lão đại các ngươii đến gặp ta mà nói chuyện."

Hết hồi 6

BÔI TUYẾT HỆ LIỆT

 BỘ THỨ NHẤT - MƯA ĐÊM GÕ XUỐNG SEN VÀNG

 HỒI 7 - VƯỢT SÔNG

 Phúc Vũ và Phiên Vân

 Dịch tặng Tay Doc đại ca

 Trời hửng sáng, một đêm mưa gió bão bùng cuối cùng cũng trôi qua. Bên ngoài vẫn còn mây mù nhưng mưa đã tạnh hẳn, đêm vừa rồi đối với mọi người quả thật là dài dằng dặc. Lúc gần sáng, ai nấy đều gục đầu xuống bàn chợp mắt một lúc. Tên hộ vệ mắt thô mày rậm của tiêu cục thức dậy sớm nhất, bước ra mở toang hết các cửa sổ, cửa sau thì vẫn mở. Luồng không khí thoáng đãng mát mẻ ùa vào trong nhà, xua đi mùi dầu mỡ nấu nướng, mọi người rùng mình ớn lạnh, nhưng tinh thần đã phấn chấn trở lại. Kim hòa thượng cao hứng hắng giọng cười ha hả: "Không ngờ lão tử còn nhìn thấy mặt trời hôm nay", giọng điệu cứ như là được trời cao ban cho một sinh mệnh mới vậy.

 Vừa rạng đông, Cảnh Thương Hoài đã nói lời tạm biệt với Trầm Phóng và Tam nương, ngoài ra chẳng nói gì thêm, yên lặng một hồi lâu, y ngẩng đầu uống trọn một chung rượu, Trầm Phóng và Tam nương biết đã đến lúc phân li, cũng uống một chung tiễn chân, bịn rịn không nỡ rời. Cảnh Thương Hoài ôm lấy Tiểu Lục bước ra khỏi điếm, lắc mình một cái như muốn rũ bỏ bao nhiêu mệt mỏi hồi đêm, y không theo đại lộ mà chọn con đường nhỏ băng qua ruộng mà đi.

 Sau khi bọn Đề Kỵ bỏ đi, gã thiếu niên bèn cấp cho mỗi người trong tiêu cục một ít tiền thù lao, sau đó cưỡi con lạc đà gầy gò mệt mỏi thủng thỉnh rời đi, không biết đi về đâu, cũng chẳng ai dám hỏi. Vương Mộc vốn vì số tiêu ngân này mà tới, không cam tâm nhìn thấy tiêu ngân bị Đề Kỵ lấy mất, Đề Kỵ vừa đi khỏi thì y lập tức bí mật bám theo.

 Khỏi nói cũng biết nhóm tiêu cục là mất tinh thần nhất, chuyến tiêu này vận chuyển cực khổ, vậy mà lại bị mất một cách không rõ ràng, đám hộ vệ ai cũng cố hết sức để nén cơn uất ức. Tần Ổn sau một đêm trắng xem ra già thêm mấy tuổi, cấp cho mỗi người một bao đồ, rồi cười gượng bảo: "Ta vốn định đưa xong chuyến tiêu này thì sẽ lập tức nghỉ hưu về quê dưỡng lão, ta cũng đã nói qua với Long gia tử, phân cục của ta cũng sẽ giải tán luôn," thở dài một tiếng rồi tiếp, "Không ngờ mọi chuyện lại đến nông nổi này, tuy có chút không rõ ràng, nhưng cũng là tiêu chủ đem đồ vật cho người khác, chẳng liên quan gì đến ta và các ngươi, chuyến tiêu này coi như đã được giao đến nơi. Bọn hộ vệ chúng ta từ biệt ở đây thôi. Các ngươi vẫn còn trẻ, cứ tiếp tục tranh đấu, ta đã già rồi, vẫn giữ ý định như trước, quay về quê nhà dưỡng lão thôi."

 Mọi người nghe mấy lời chán nản đó, đều không khỏi đau lòng giùm cho lão. Ai cũng biết thiếu niên họ Lạc tuy trả tiền thù lao đầy đủ, nhưng đùa giỡn với người trong tiêu cục một phen như vậy cũng có chỗ quá đáng. Tần lão cấp cho mỗi tên hộ vệ một gói khá nặng, hình như chứa đầy ngân lượng. Bọn hộ vệ không biết nói gì, xúc động mắt đỏ hoe, từng người từng người một quỳ xuống khấu đầu trước mặt Tần Ổn rồi tản ra bốn phía kiếm đường khác làm ăn. Chẳng bao lâu sau thì bọn hộ vệ đã đi cả, chỉ còn lại Tần Ổn và tên hộ vệ nét mặt thô hào, bọn họ hành lý la liệt, ngoại trừ đồ vật tùy thân, còn có đem theo mấy thứ đồ chơi tinh xảo từ Lâm An, xem ra định về nhà dưỡng lão chơi đùa với đám cháu.

 Tần Ổn hỏi điếm gia mua hai chiếc xe đẩy, chủ điếm niệm tình khách quen, chỉ lấy phân nửa giá tiền. Hai người chất đống hết đồ vào xe, ôm quyền từ biệt mọi người rồi lên đường.

 Tiêu Tứ Ẩn thở dài nói: "Bình gốm khó tránh bị rơi vỡ, bảo tiêu đi mười chuyến cũng mất một chuyến, chuyến tiêu này coi như cũng lời không ít, lão Tần này thua cũng chỉ vì một chữ tham mà thôi." Đỗ Hoài San bên cạnh cũng lấy làm tiếc cho lão, quay sang Kim hòa thượng và Trương gia tam huynh đệ nói: "Sao rồi, mấy huynh đệ đây có đi với bọn già lão chúng ta lên Hoài thượng không?"

 Ba huynh đệ họ Trương tính tình chất phác, lúc này cũng chẳng có chỗ nào để đi, đầu nhập nghĩa quân cũng là chuyện trung nghĩa nên làm, lập tức gật đầu đồng ý. Kim hòa thượng quen thói ung dung tự tại, nghe vậy liền chau màu, Đỗ Hoài San cười nói: "Vậy chỉ có ba người các vị thôi, vị hòa thượng này sợ rồi, y vốn chỉ dám giết Tống binh, chứ không dám giết bọn chó Kim. Đó cũng không có gì là lạ, chó Kim muốn giết cũng chẳng dễ dàng gì."

 Kim hòa thượng nổi giận đùng đùng, mắng: "Ai sợ chứ, đi theo lão già ngươi thì cứ theo lão già ngươi!" Chợt nghĩ ra một chuyện, giận dữ hỏi lại: "Hòa thượng ta họ Kim, lão mở miệng ra là chó Kim, chó Kim, có phải là muốn chửi xéo ta không?"

 Mấy người bên cạnh nghe vậy không nhịn được cười, Đỗ Hoài San cười tỏ vẻ hối lỗi: "Là lão già ta lỡ lời rồi."

 Vừa nói đến đây thì thấy Vương Mộc từ ngoài quay về, mặt mày tái mét, y không cam tâm mất đi số tiêu ngân nên bám theo bọn Đề Kỵ suốt tối qua, Kim hòa thượng hỏi ngay: "Sao rồi?"

 Vương Mộc cười khổ đáp: "Chạy được gần một canh giờ thì đã đến Bình Lăng, bọn họ có mấy tên nữa chạy ra tiếp ứng, chúng ta không kiếm chác gì được nữa rồi."

 Mọi người nghe vậy liền tiu nghỉu, Đỗ Tiêu nhị lão dường như đã có ước hẹn trước với Vương Mộc, định hợp tác cướp chuyến tiêu này. Người trong giang hồ coi chuyện cướp tiêu đoạt hàng là thường, huống hồ bọn họ làm vậy để lo lương thảo cho nghĩa quân ở Hoài Thượng. Vương Mộc đột nhiên mỉm cười nói: "Các người đoán thử ta bám đuôi bọn chúng đã gặp phải ai?"

 Mọi người tò mò hỏi: "Là ai?"

 Vương Mộc cười nói: "Chính là tiểu ca họ Lạc, ta bám theo đoàn xe, suốt dọc đường bọn Đề Kỵ im thin thít chẳng nói tiếng nào, bọn chúng ra đời đã lâu, chắc chưa khi nào bị dọa chết khiếp như lần này. Lúc đến gần Bình Lăng, ta thấy có mấy kỵ sĩ tiến tới nghênh tiếp, biết Viên lão nhị thụ thương đều giật mình kinh hãi, lập tức cử người phi ngựa cấp báo tin tức cho Viên lão đại. Đúng lúc này, vị tiểu ca cưỡi lạc đà chẳng hiểu sao đã đuổi tới nơi. Bọn Đề Kỵ sợ đến mặt tái mét không còn hột máu, dàn thành trận thế chuẩn bị đối phó, ai ngờ vị tiểu ca chỉ nói: 'Đi chậm như vậy là vì có nhiều xe quá phải không?' Huynh ấy nhảy xuống lạc đà, đi đến cỗ xe ở cuối cùng, ném hai tên vệ sĩ xuống xe, kêu xa phu nhảy xuống thưởng cho mấy lạng bạc rồi nhảy lên xe lái vòng trở lại, chẳng thèm nói thêm tiếng nào với bọn Đề Kỵ, bọn chết nhát đó đến đuổi cũng không dám đuổi theo, chỉ biết giương mắt ra nhìn huynh ấy đi mất. Hà hà, bọn chúng cũng có ngày hôm nay, bị người ta đè đầu cưỡi cổ, thật là khiến cho người ta thống khoái quá!"

 "Ta cảm thấy rất lạ, vị thiếu hiệp này sáu bảy xe ngân lượng còn buông tay không lấy, cớ gì lại quay về giật một cỗ xe chứ? Hành động của y đúng là khác hẳn người thường, khó mà đoán được. Cỗ xe đó là chiếc nhỏ nhất, từ đầu ta đã dò xét, trong đó chỉ có khoảng 2 rương ngân lượng mà thôi. Không biết vị tiểu ca đó có phải thấy tiền không đủ nên phải quay về lấy thêm một ít để xài hay không? Ta thấy Đề Kỵ hộ vệ nghiêm mật, cấp tốc đi về sào huyệt, ở địa bàn của bọn chúng mà muốn cướp tiêu ngân còn khó hơn là vượt sông nữa. Đống tiền này, bọn ta chẳng làm gì được rồi."

 Nói đến đây, y nhìn sang Đỗ Tiêu nhị lão, hai lão đưa mắt nhìn nhau thở ra một hơi. Vương Mộc liền than: "Dịch tiên sinh ở Hoài Bắc, có phải thật là không lo nổi quân lương, đến mức đói không có gì để ăn sao?"

 Đỗ Tiêu hai người gật đầu, Vương Mộc lại than: "Mấy năm nay, càng lúc càng khó để giúp ông ấy một tay. Ôi, là ta vô dụng, chuyện ông ta giao cũng lo không xong." Nói đến đây thì hậm hực tiếp: "Ai ngờ giữa đường lại xảy ra nhiều chuyện như vậy, nếu như vẫn còn trong tay của tiêu cục thì vẫn còn cơ hội động thủ được."

 Đỗ Tiêu nhị lão lắc đầu, khuyên: "Bỏ qua đi, ngươi cũng đừng tự trách mình quá, trong tay Tần Ổn cũng chẳng dễ dàng gì lấy được đâu. Chỉ hy vọng Dịch tiên sinh có thể ráng thêm hai tháng nữa!"

 Kim hòa thượng dường như chẳng để ý gì đến bọn họ, ngồi một mình nhớ lại mọi chuyện do bọn Đề Kỵ gây ra, càng nghĩ càng tức tối, một hồi sau liền vỗ đùi mắng: "Chuyến tiêu này đúng là tà môn, làm hòa thượng ta mạo hiểm tính mạng, thế mà một đồng một cắc cũng chẳng thấy đâu."

 Đỗ Tiêu hai người nghe y nói vậy thì vẻ mặt chợt biến đổi, hai người họ tâm ý tương thông, đưa mắt nhìn nhau, tựa hồ như đã nghĩ ra có chuyện gì không đúng. Người trong điếm phức tạp, bọn họ chẳng nói gì thêm, ngồi một lúc rồi cả bọn bảy người cùng nhau lên đường. Vương Mộc thấy hai ông cháu lão già mù thật đáng thương, chẳng có chỗ dung thân bèn đưa cả hai đi cùng.

oOo

 Trầm Phóng cùng Tam nương cuối cùng cũng an tâm, rửa mặt súc miệng xong thì gọi hai phần cơm, ăn no nê rồi lại dắt con la xanh và con lừa nhỏ lên đường nhân lúc trời vừa tạnh mưa. Tuy biết đường lầy lội khó đi nhưng cũng không thể tiếp tục lưu lại ở khách điếm này nữa.

 Bọn họ có vật cưỡi, nên đi đường cũng nhanh, đến khoảng chừng ăn xong bữa cơm thì đã thấy nhóm người của Tần Ổn và Vương Mộc ở phía trước. Mọi người đã cùng trải qua một phen hoạn nạn, vừa thấy nhau liền mỉm cười chào hỏi. Vốn Tần Ổn và tên hộ vệ hai người không quen đẩy xe, xiên xiên vẹo vẹo, đi đường rất chậm. Bọn họ đều là người thành thị, nên vụng về vậy cũng chẳng có gì là lạ. Huynh đệ Trương gia thấy không thuận mắt, liền tiếp tay đẩy phụ cho bọn họ, sau đó toàn do ba huynh đệ đẩy cả. Ba người họ đều là hán tử thật thà, chẳng hề tiếc công tiếc sức chút nào, Tần Ổn sau vài lời khiêm nhượng cảm ơn thì cũng để cho ba người họ lo liệu hết.

 Trầm Phóng liền than: "Kẻ bị triều đình ép phải lưu lạc giang hồ đúng là vô cùng đa dạng, loại người nào cũng có, chỉ có thư sinh như ta là vô dụng nhất, đọc vạn quyển sách, viết mòn nghiên mực cũng chẳng dùng vào việc gì, ngược lại còn phải để cho thê tử phí tâm lo lắng nữa."

 Y đang lúc thở dài cảm khái, chợt nghe tiếng chuông reo leng keng phía sau, Tam nương tử quay đầu nhìn lại, thì thấy đó chính là thiếu niên áo đen đánh xe ngựa đi trên đường, vẫn còn cách bọn họ một quãng khá xa. Trên đường vắng hoe, tiếng lạc ngựa trong trẻo càng vang vọng. Trên cỗ xe của gã đã tháo lá tiêu kỳ, con lạc đà không cần buộc, thủng thỉnh đi theo cỗ xe, xem ra chẳng vội vàng gì.

 Thiếu niên họ Lạc đánh xe đi trên đường chẳng để ý gì đến ai, có lúc xe bị mắc phải ổ gà, gã cũng chẳng cần mọi người giúp đỡ. Cao hứng thì gọi lạc đà tới kéo phụ, con vật này vừa to vừa khỏe, chỉ kéo một cái thì xe đã đi băng băng, không cao hứng thì cứ ngồi ì ra chẳng thèm nói tiếng nào để mặc cho hai con ngựa kéo xe tự xoay sở, chẳng biết là gã muốn thi gan với mấy con ngựa hay là muốn thi gan với ông trời nữa. Kim hòa thượng mấy lần muốn giúp một tay, nhưng đều sựng lại trước vẻ mặt lạnh lùng bất cần của gã.

 Kim hòa thượng có lòng tốt mà chẳng ai cần, miệng lầm bầm bực bội: "Con bà nó, cả hòa thượng mặt dầy thô lỗ như ta mà còn sợ cái bản mặt lạnh lùng của ngươi, mai mốt có cô nương nào chấm trúng ngươi, trái tim mềm yếu một ngày không biết phải đau lòng đến bao nhiêu lần, nhất định là cực khổ lắm." Cô bé đi cạnh nghe được lời này, không hiểu vì sao khuôn mặt lại ửng hồng cả lên.

oOo

 Từ Khốn Mã Tập đến Đồng Lăng rồi đến bến đò ven Trường Giang, đường đi không xa lắm nhưng bùn lầy trơn trượt, cả đoàn người lúp xúp đi cả hai ngày trời mới tới nơi. Mọi người không hẹn mà gặp cùng tránh không vào Đồng Lăng thành mà đi thẳng đến bến đò Tiêm Thạch ở ngoại thành, bến đò này được đặt tên theo mấy mỏm đá nhọn hoắc ven sông, chỉ thấy khắp nơi toàn núi đá nhọn hoắc đâm thẳng lên trời cao, mọi người ai đi lại cũng phải dõi mắt nhìn. Đây cũng là bến đò quan, có quan binh bảo hộ, quan thuyền đi qua đi lại giữa hai bờ. Từ nơi này trở đi, qua sông đã là Giang Bắc, Đỗ Tiêu tâm lý cũng thoải mái nhiều. Qua sông thì không còn là trong phạm vi thế lực của Đề Kỵ, không cần phải nhìn ngang ngó dọc lo ngay ngáy nữa.

 Đúng lúc mưa vừa ngớt, cả nửa tháng nay mới thấy được ánh mặt trời, ánh nắng vàng rực xiên xiên chiếu xuống bến đò, nhuộm đỏ rực cả nửa dòng sông, đúng là cảnh núi sông đẹp như tranh vẽ. Đất Giang Bắc tuy chưa yên ổn, nhưng người dân ở bờ nam mỗi khi có chuyện gì uất ức, nhìn qua bên kia sông chứa chan hy vọng, không hiểu sao nét mặt lại giãn ra, có cảm giác bồn chồn ấm áp như lữ khách về lại quê nhà. Thời loạn thế khói lửa chiến tranh, đến cả lòng người cũng khó mà đo lường được nữa.

 Một chiếc thuyền lớn vừa khởi hành, còn lại một chiếc đang được tu bổ, nước sông mùa thu dâng cao, mặt sông mênh mông bát ngát. Một chiếc thuyền từ bờ bên kia đang vòng lại, nhưng xem ra cũng còn khá lâu mới tới. Mọi người đều đứng dõi mắt chờ thuyền, còn cô bé Anh Tử lại quay nhìn ra đường. Hồi trưa cô đã thấy cỗ xe của Lạc ca ca bị sụp hố, lần này hố sụp khá sâu, con lạc đà thì không thấy đâu cả, gã thiếu niên ngồi trên xe cũng chẳng gấp gáp gì, do đó đã chiều tà mà gã còn tụt lại phía sau, chẳng thấy bóng dáng đâu, tới giờ không biết xe đã lên khỏi hố chưa nữa. Cô bé chỉ mới mười bốn mười lăm tuổi, nhưng là người gốc Sơn Đông, thân hình cao dong dỏng, lúc này mọi người trong lòng chỉ mong sớm qua được sông, chỉ mình cô là không gấp gáp gì, trong lòng thầm nghĩ: nếu huynh ấy đuổi kịp chuyến tàu này, đúng là tu hành mười năm mới có phúc được ngồi cùng thuyền, nếu huynh ấy không đuổi kịp, không biết sau lần vượt sông này, cả đời cả kiếp có còn gặp lại được huynh ấy hay không?

 Nếu có gặp lại, huynh ấy có nhớ ra được mình không?

oOo

 Mắt thấy chiếc thuyền lớn đang rẽ nước tiến tới, đột nhiên tiếng vó ngựa dồn dập vang lên, mọi người quay đầu lại thì thấy mấy chục thiết kỵ từ mé đông bờ sông vùn vụt phi tới, bụi đất tung bay mù mịt, người chưa đến đã cao giọng hét vang: "Binh sĩ bảo hộ bến đò nghe lệnh, tuyệt đối không để cho ai qua sông." Mọi người giật mình, thầm nghĩ quá nửa là chuyện liên quan đến mình, có khả năng là bọn Đề Kỵ giở trò. Viên lão đại trước giờ coi trọng thể diện, giờ lại có người dám đả thương đệ đệ của y, mọi người cũng có liên can trong chuyện này, cho dù không liên can đi nữa, đã chọc giận đến Viên lão đại và Đề Kỵ, thì nhất định bọn chúng sẽ không cho ai lọt lưới. Đỗ Tiêu hai người tuy nổi danh giang hồ, lại là nghĩa quân Hoài Bắc, nhưng chỉ e lần này bọn Đề Kỵ cũng không thèm nể mặt nữa, coi bộ phải dựa vào bản lãnh để vượt qua mà thôi.

 Thuyền vừa cập bến, mọi người hấp tấp nhảy ngay lên, hai tên Tống binh đứng canh gác nghe lệnh truyền tới, vội chạy ra níu thuyền lại, hô hoán thuyền phu, đứng chặn ngay trước thuyền không cho mọi người leo lên. Lúc đó chẳng còn thời gian suy tính đắn đo nữa, Tam nương bước lên trước, hích vai đẩy một tên quan binh ngã xuống sống, tên còn lại bị nàng đá một cước té lăn quay. Mé trên còn có một tiểu đội quan binh, thấy vậy liền chạy ùa tới, bị bọn Kim hòa thượng chặn lại, lúc này có mấy người đã nhảy lên thuyền, ép thuyền phu lập tức khởi hành, chợt thấy trong đám thiết kỵ phi ngựa đi tới, mặc dù còn cách hơn mười trượng, có mấy người nhảy lên không trung, phi thân phóng tới. Người đi đầu tựa như đại bàng tung cánh nhào xuống tấn công.

 Nhìn thấy tư thế phóng mình của y, Đỗ Hoài San hít sâu một hơi, hạ giọng quát: "Ưng Kích Trường Cửu, Kiêu Vũ Đê Tam...", rồi tự mình đứng ra nghênh đón kẻ đó. Đỗ Hoài San cùng lão hữu Tiêu Tứ Ẩn tâm ý tương thông, thấy đó là một cao thủ, thuyền phu lại sợ đến bủn rủn cả người không lái thuyền được, bèn tự mình xông tới vung chưởng đẩy thuyền phu qua một bên, tự mình điều khiển chiếc thuyền.

 Chỉ trong chớp mắt, tên thiết kỵ đi đầu đã phóng tới, đứng trên bờ quát lớn: "Không được đi!" Áo choàng bay phần phật trong gió, tên mặc áo đen đã bay tới nơi. Đỗ Hoài San vẫn chưa kịp lên thuyền, miệng kêu lớn: "Đúng là Cửu Đại Quỷ của Long Hổ Sơn, mau chạy đi!"

 Lão kêu Tiêu Tứ Ẩn mau chạy, nhưng bản thân vẫn không nhảy lên thuyền, mà lập tức khom người một tay chống xuống đất, một tay che trời, sử ra thế Thiết Ngưu Canh Điền. Tiêu Tứ Ẩn biết lần nay gặp vận rủi rồi, thấy tên mặc áo choàng tuy bị Đỗ Hoài San đón đánh, nhưng thân ảnh của Đỗ Hoài San đã bị áo choàng bao bọc không thấy đâu nữa. Tiêu Tứ Ẩn trong giây phút băn khoăn đi hay ở, thì tên mới tới sau khi dùng chiêu Loạn Phi Phong vây khốn Đỗ Hoài San, bèn phóng thẳng về phía lão ta. Tiêu Tứ Ẩn và Đỗ Hoài San tương giao nhiều năm, vẫn chưa từng nghe lão nói qua cái gì là Ưng Kích trường cửu, Kiêu vũ đê tam, lại càng không biết Cửu Đại Quỷ của Long Hổ Sơn là kẻ nào mà làm cho lão hữu Động Minh Thủ lại kinh hãi biến sắc như vậy, nhưng thấy tên này chỉ bằng một tấm áo choàng mà đã vây khốn được Đỗ Hoài San, đúng là chuyện chưa từng có từ trước đến giờ, bèn lập tức giao mái chèo lại cho Vương Mộc, kêu một tiếng "Tần huynh", rồi đánh tới một chiêu.

 Lão đã nhiều năm nay rất ít xuất thủ, vốn có hiệu là Luyện Đạt Kiếm, nhưng đã bỏ dùng kiếm từ lâu rồi, lần này dùng chưởng thay kiếm, chém thẳng đến tên này. Lúc này cần phải đồng lòng chống địch, lão kêu một tiếng Tần huynh là có ý muốn nhờ lão ta phụ một tay lái thuyền. Ai ngờ một chiêu chưởng kiếm của lão đánh ra, đối phương coi như không thấy, cứ vung chiêu tấn công Tần Ổn, Tần Ổn hừ một tiếng lập tức xuất thủ đón đỡ, Tần Ổn đứng dưới đất, đối phương đang ở trên không, nhưng không ngờ lại bị hắn ta ép lùi lại nửa bước. Tiêu Tứ Ẩn gấp gáp rút kiếm chém ra, kiếm của lão vốn giấu ở trong tẩu thuốc dài sọc, tên này vụt tránh kiếm rồi tiếp tục tấn công Tần Ổn không ngừng, Tần Ổn bình tĩnh chống lại, nhưng bất giác đã bị hắn ta ép lên trên bờ.

 Tiêu Tứ Ẩn không ngờ tên này lại khó chơi như vậy, bèn la lớn: "Hay lắm!" Kiếm trong tay tuyệt không lưu tình, toàn lực chém tới,tên này không còn cách nào lờ đi để tấn công Tần Ổn nữa, tức thì phất tay áo quấn lấy kiếm của Tiêu Tứ Ẩn, tay áo của hắn không biết có giấu thứ gì, chỉ nghe keng một tiếng, đánh bật kiếm của Tiêu Tứ Ẩn rồi chẳng thèm lý gì đến lão nữa, Tiêu Tứ Ẩn chỉ tiếp một chiêu mà đã nhận ra được áp lực to lớn của đối phương. Lão xuất đạo hơn 30 năm, đây là lần đầu tiên đánh sau lưng người khác, nhưng chỉ trong một chiêu đã bị đối phương khống chế rồi lập tức phản công trở lại, lão mới tự mình trải nghiệm được sự lợi hại của kẻ này.

 Lúc này Đỗ Hoài San đã thoát ra khỏi được tấm áo choàng, phóng mình trở lại, miệng kêu lớn: "Tiêu hiền đệ, hắn là người trên Long Hổ Sơn, tuyệt không thể khinh thường."

 Lúc này, Tần Ổn, Đỗ Hoài San, Tiêu Tứ Ẩn ba người đã tạo thành thế tam giác vây lấy tên này. Trong vòng chớp mắt, hắn không ngờ đã ép được ba đại cao thủ trên thuyền xuất thủ, lại còn chiếm được thượng phong, chặn không cho bọn họ lên thuyền vượt sông, mọi người ở đó trong lòng không khỏi sợ hãi, hắn là kẻ nào, sao lại có năng lực đến vậy? Người trên Long Hổ Sơn là có ý gì?

 Đỗ Hoài San không muốn dằng dai, liền kêu lớn: "Tần huynh, huynh đi đi, Tiêu hiền đệ, ngươi ở lại, hai lão già chúng ta hãy thỉnh giáo võ công của Cửu Đại Quỷ dưới chân Trương thiên sư, Vương Mộc, khai thuyền!"

 Lão miệng nói nhưng tay vẫn tấn công liên tục, bàn tay trong chớp mắt đã tỏa ra ánh vàng nhàn nhạt, đúng với danh hiệu Động Minh Thủ mà Tam nương đã đặc biệt lưu ý từ đầu, không chần chờ đánh thẳng vào sau lưng của người này. Tiêu Tứ Ẩn cũng không dám chậm trễ, duỗi thẳng trường kiếm phóng ra, nói với Tần Ổn: "Tần huynh, huynh đi trước thôi."

 Tên đó cười hắc hắc nói: "Không kịp nữa rồi!" Hai tay áo múa lên bắt đầu giao thủ với Đỗ Tiêu hai người. Trong tình hình thế này, Tần Ổn theo lý tuyệt không thể nào bỏ chạy trước, ngần ngừ một hồi, rồi chau mày ôm quyền đáp: "Đa tạ nhị vị, người của nhị vị ta nhất định sẽ chiếu cố hộ."

 Kim hòa thượng giận quát: "Ai cần ngươi bảo hộ chứ!" Định nhảy lên bờ thì Vương Mộc đã kéo ngay lại nói: "Hòa thượng, bọn ta còn có chuyện cần làm."

 Kim hòa thượng giật mình hỏi lại: "Cần làm chuyện gì? Ngươi sợ chết thì cứ chạy trước đi." Nói vậy chứ trong lòng y hiểu rõ Vương Mộc tuyệt không phải là kẻ tham sống sợ chết. Ngay lúc đó, một bóng người khác phóng tới, bắt đầu giao thủ với Tần Ổn, xem ra Tần Ổn khó mà chiếm được thượng phong, Đỗ Tiêu nhị lão bên cạnh quát lớn: "Vương Mộc, mau đi đi, nhớ những lời ta đã dặn dò đó."

 Vương Mộc đang muốn đẩy thuyền đi, gã hộ vệ mày rậm mắt to thấy Tần Ổn bị vây khốn, định bước lên tiếp trợ thì nghe Tần Ổn kêu lớn: "Đại Ngưu Tử, đừng lo cho ta, chạy trước đi, nhớ là vật đó phải tìm giao cho lão gia của ta ở Hoài Bắc." Gã hộ vệ nghe vậy bèn ngần ngừ không bước xuống thuyền. Lúc này Đỗ Tiêu hai người đã bị một tên mặc áo choàng ép rời khỏi thuyền, Tần Ổn chật vật đấu với tên còn lại, rõ ràng đã lạc vào thế hạ phong, Vương Mộc nhổ neo chèo thuyền đi, hai ông cháu lão già mù run rẩy co rúm người bên cạnh.

 Thuyền vừa dịch chuyển, đột nhiên phía trên thuyền tối om, tên thứ ba vận áo choàng dài đã nhảy lên, phóng thẳng đến muốn ngăn Vương Mộc lái thuyền rời bến. Đỗ Hoài San hít sâu một hơi, kinh hãi vô cùng, kêu lên: "Trời ơi, Cửu đại quỷ trên Long Hổ Sơn không ngờ có đến ba tên đến đây! Đúng là may mắn xảo hợp thật!" Tam nương tử nãy giờ đứng yên suy tính tình thế, lúc này chẳng nói tiếng nào, tung thanh chủy thủ đâm thẳng đến tên mới tới. Hắn ta không ngờ nàng than là nữ lưu mà bất ngờ ra tay hiểm độc như vậy, hừ một tiếng, nhưng tay đang dùng toàn lực đánh tới Vương Mộc cũng bị chựng lại một chút, Kim hòa thượng lợi dụng lúc đó vung trượng đánh xuống, hắn một tay đỡ lấy thiền trượng của Kim hòa thượng, chân trái đá tên hộ vệ tiêu cục đang phóng tới, tay còn lại chém xuống mái chèo do Vương Mộc điều khiển, mái chèo này làm bằng gỗ thông vàng ngâm dầu nhiều năm cứng chắc phi thường, nếu để hắn đánh vỡ tan thì người trên thuyền này không cách nào chạy trốn được nữa.

 Vương Mộc hai tay trầm xuống, kẹp mái chèo vào nách, rồi vung hai tay khóa lấy tay của hắn ta, y bẩm sinh giỏi chịu đựng, vừa tiếp chiêu này thì hai hổ khẩu đau nhức muốn vỡ ra, nhưng miệng vẫn la lớn: "Xuất thủ!", Kim hòa thượng không nói nhiều lời, tiếp tục vung trượng đánh xuống đầu tên này, ba huynh đệ họ Trương phản ứng chậm chạp, đến giờ mới hè nhau ra tay, ba cây đòn gánh đánh loạn tới, tên này vốn tưởng đã phế được hai tay của Vương Mộc, lúc này chỉ cần né khỏi một trượng của Kim hòa thượng, ai ngờ tránh khỏi rồi, tả thủ vẫn bị gã hộ vệ mày rậm mắt to giữ chặt lấy, thêm vào ba huynh đệ họ Trương vung đòn gánh đập loạn xạ vào người. Hắn liếc sang mấy cây đòn gánh, tỏ vẻ coi thường chẳng thèm để ý, trân mình chịu đánh chỉ hơi chau mày, quyết ý phế bằng được hai tay của Vương Mộc. Nhân dịp hắn bị đánh dồn dập, Tam nương đột nhiên phi thân lên cao, sử chiêu Ngọc Nữ Đầu Thoa, toàn thân lao đến tấn công.

 Nàng xuất chiêu cũng có điểm rất giống với phong cách của Lạc Hàn: chỉ cần đánh trúng, không để ý đến chuyện gì khác. Hắn ta trợn mắt giật mình vì đã coi thường nữ nhân này, tạm bỏ qua Vương Mộc tới giờ vẫn chưa đủ sức đánh lại, hữu thủ mượn lực đánh ra một chưởng quấn lấy thiền trượng của Kim hòa thượng, kéo cả Kim hòa thượng và gã hộ vệ lệch sang một bên, đúng hướng Tam nương đang đâm tới. Tam nương liền uốn người né tránh, nhưng nàng chuyển hướng giữa không trung còn kém xa Cửu Huyễn Hư Hồ của Lạc Hàn, mục tiêu bị chệch qua một bên, hắn bèn thừa cơ đá Vương Mộc thêm một cước, vung tả thủ đánh bị thương tên hộ vệ tiêu cục, chợt thấy sau lưng lạnh ngắt, tấm áo choàng đã bị mũi chủy thủ của Tam nương tử rạch đứt một đường dài.

 Hắn giật mình, nhưng mau chóng lấy lại bình tĩnh, không hề nổi giận lùi lại một bước, võ công của mấy người trên thuyền đúng là vượt ngoài ý liệu. Thực ra ai nấy cũng đều kinh ngạc, trừ Vương Mộc và Kim hòa thượng, bọn họ trước giờ chưa từng thấy qua thân thủ của nhau, giờ mới biết bạn đồng hành của mình võ công cũng chẳng tệ. Nhưng dù vậy, bảy người họ đều đã dùng hết sức, đã có hai người thọ thương, mấy người còn lại ai cũng thở hồng hộc, lồng ngực phập phồng, vậy mà kết quả chỉ rạch được một đường trên áo choàng của đối phương. Ai nấy không khỏi toát mồ hôi hột, không lường được kết quả của trận chiến này sẽ như thế nào.

 Trên bờ, tên đến đầu tiên cười hắc hắc nói: "Lão thất, áo choàng của ngươi bị rách rồi à? Của lão nhị thì cũng bị phá mất rồi, hai ngươi chắc phải đem xếp xó bảo bối của Thiên Sư cấp cho là vừa, bọn này quả thật cũng khó chơi đây, hèn gì tên ngốc Ngô Kỳ bị phỗng tay năm lần bảy lượt."

 Tên đứng trên thuyền hừ lạnh một tiếng, mắt âm u liếc qua mọi người một lượt, rồi đột nhiên phóng vọt lên cao, mọi người hoa cả mắt, chỉ thấy áo choàng của hắn rung động rồi quấn lấy ba huynh đệ họ Trương quẳng lên bờ. Hắn đã nhìn ra ba người họ võ công kém nhất, nên mới dùng đến chiêu này. Gã hộ vệ tiêu cục phản ứng nhanh nhạy, lập tức nhảy lên, giữ chặt lấy tay trái của hắn ta, gã đã tính toán rất kỹ càng, biết rằng bằng sức một mình mình không thể nào ứng phó nổi, nên cũng không ham đấu đá, chỉ nhất tâm nhất ý buộc hắn ta không thể nào dùng đến tả thủ. Tính toán của gã và Vương Mộc cực kỳ ăn khớp với nhau, Vương Mộc liếc mắt ra hiệu rồi mau chóng giữ chặt lấy hữu thủ của hắn, không để hắn xuất thủ gia hại huynh đệ họ Trương, thêm vào áo choàng của hắn đã bị Tam nương rạch đứt một đường, ba huynh đệ họ Trương dưới vòng vây rắn như thép của tấm áo choàng cũng có thể chi trì thêm được một thời gian.

 Tam nương tay cầm kiếm tiếp tục công vào mấy chỗ sơ hở sau lưng của hắn, nàng sức yếu nhưng chiêu thức hiểm độc, không dám trực tiếp đương đầu, nhưng chẳng khác gì đỉa đói bám chặt lấy hắn, không hút máu đối phương đến chết tuyệt không chịu nhả ra, nhưng cứ như thế này, sáu người không hẹn mà gặp, đều bi đối phương kéo cả lên bờ. Hai tay của tên này chưa hoàn toàn bị Vương Mộc và gã hộ vệ tiêu cục khống chế, vẫn còn dư lực vùng vẫy, lúc này đến phiên Kim hòa thượng rống lên một tiếng, nhảy đến mặt đối mặt chiến đấu với hắn ta. Lúc này mới thấy rõ bản sắc thô hào hùng hổ của hòa thượng, chỉ thấy y quát tháo liên hồi, trượng phong vù vù, đánh lộn ồn ào tán loạn cả lên, mấy người còn lại thì ngậm tăm, chỉ có Tam nương thỉnh thoảng là quát lên một tiếng để trợ uy. Ba huynh đệ Trương gia bên trong áo choàng khổ sở chống đỡ, người chịu áp lực lớn nhất chính là Vương Mộc và gã hộ vệ tiêu cục, mồ hôi chảy ròng ròng, nhưng bọn họ hiểu rất rõ chuyện gì cũng có giá của nó, biết rằng nếu mình sơ sẩy một chiêu, chẳng những thân lâm hiểm cảnh, mà tính mạng của những người còn lại cũng lập tức bị đe dọa, do đó đành nghiến răng nghiến lợi trụ cho vững, có chết cũng không buông.

 Mé mấy người bọn họ đánh đấm thật là kịch liệt huyên náo, Đỗ Tiêu nhị lão bên cạnh, lấy hai đối một, dường như cũng đã hơi hơi chiếm được thượng phong. Tuy vậy, hai lão trong lòng rất gấp rút, muốn liên thủ hạ được đối phương cho mau để còn giúp đồng bạn một tay. Hai người tâm ý liên thông, đưa mắt nhìn nhau ra hiệu hạ xong địch thủ rồi sẽ nói chuyện sau. Đỗ Hoài San và Tiêu Tứ Ẩn hợp tác với nhau lâu năm, phối hợp kín kẽ, nhưng càng đấu thì càng kinh hãi, không ngờ một chưởng một kiếm của bọn họ hợp lực xuất thủ, lại chỉ chiếm được chút thượng phong mà thôi. Ba người đều ra chiêu rất hoa mỹ, hình thế rất đẹp mắt. Riêng Tần Ổn thì chỉ còn cử động bàn tay, đánh từng chiêu từng chiêu chậm nhẹ, lão chính là người đặt nặng sống chết vào từng chiêu thức nhất, song hình như lão đã rơi vào thế hạ phong.

 Mọi người trong lòng biết rõ kỳ này vượt sông chẳng còn hy vọng gì nữa, nhưng cũng phải liều chết thử một phen, chỉ có Trầm Phóng và hai ông cháu lão già mù là bó tay không giúp được gì. Lão già mù không thấy đường, cô bé nhìn cũng không hiểu, coi như cũng may mắn. Riêng Trầm Phóng tuy không hiểu võ nghệ, nhưng cũng nhìn ra phe mình rơi vào thế yếu, cứ xoa xoa tay, không dám reo hò vì sợ người trong cuộc thêm rối loạn, thật hận mình vô dụng chẳng thể giúp một tay.

 Lúc ấy Đỗ Tiêu hai người lên tiếng hỏi: "Vương Mộc, ngươi chạy không nổi sao?"

 Vương Mộc ho một tiếng, đáp: "Không chạy được, chúng tôi cũng quyết định không chạy nữa, khống chế được bọn chúng rồi tính sau, tóm được một tên thì tốt một tên."

 Y tuy lâm hiểm cảnh nhưng vẫn cực kỳ bình tĩnh, biết rằng vào lúc thế này, tinh thần chiến đấu rất quang trọng. Nếu tình thế không xong mà vẫn cứ muốn bỏ chạy, sẽ làm cho mọi người tâm thần nóng nảy gấp gáp, Đỗ Tiêu hai người có thể ra tay mạo hiểm. Nhưng nếu biết không thể chạy được nữa, ngược lại bình tĩnh định tâm, quyết tâm tử chiến, may ra tìm được đường thoát, chưa đến phút cuối cùng thì chưa biết được hươu chết về tay ai.

 Đỗ Tiêu hai người nghe vậy, hít sâu một hơi, chiêu thức đánh ra càng lúc càng ngưng trọng, chiến đấu lần này chính là tử chiến, không còn đường lùi nữa.

 Mọi người tại đó trong lòng trĩu nặng. Mé trên bờ, bọn thiết kỵ đã giãn ra bao vây bốn phía. Đỗ Hoài San ngước lên nhìn thấy, liền tuyệt vọng cười lạnh nói: "Hay lắm, toàn bộ Lục phi vệ của Đề Kỵ tam thập nhị vệ không ngờ đã đến đây cả, Tiêu lão đệ, mặt mũi chúng ta hôm nay cũng lớn thật, kinh động đến nhiều cao thủ như vậy."

 Mọi người nghe nói, đều biết hôm nay không gặp may rồi. Chỉ thấy mấy chục thớt ngựa đồng thời đứng sựng lại, sáu người dẫn đầu mắt hổ trừng trừng quan sát bọn họ. Đỗ Hoài San tiến lên một bước lên tiếng hỏi đối phương: "Đề Kỵ Viên lão đại quyết giữ mấy lão già ta ở lại Giang Nam hay sao?" Giọng điệu nhã nhặn, nhưng thanh âm trầm trầm vang xa, thể hiện công lực cực cao.

 Trong sáu tên Lục Phi Vệ, có một tên ôm quyền đáp: "Không dám, Viên lão đại có dặn dò, chuyện ở Khốn Mã tập nghe nói có Đỗ tiền bối ở tại hiện trường, Viên đại ca muốn giữ mấy người nhân chứng ở lại, để kể rõ sự tình..."

 Hắn vừa nói xong, Đỗ Hoài San đã biết vì chuyện của Viên lão nhị, cục diện hòa hoãn tạm thời, nước sông không phạm nước giếng giữa nghĩa quân Hoài Thượng và Đề Kỵ triều đình đã bị xóa bỏ. Lão không đáp lại lời của đối phương, chỉ ngẩng đầu lên nhìn trời, mặt trời đỏ ối ngả về phía tây, viền một đường vàng chói lọi chung quanh mấy vầng mây trắng, trong đầu lão lúc này chẳng lo đến chuyện sống chết của bản thân, chỉ nghĩ đến một việc: Dịch công tử đã bận túi bụi giật gấu vá vai lo chuyện lương tiền, mình làm sao còn đẩy chuyện xung đột với Đề Kỵ cho ông ấy nữa? Lần này đi một chuyến về Giang Nam, chính là vì tiêu ngân mà tới, không ngờ lại vấp phải hết sai lầm này đến sai lầm khác, chắc là đã già quá rồi, vô tích sự, chẳng còn làm được việc gì nữa.

 Lão nhớ đến người này, tấm lòng ngược lại trở nên rộng mở, Động Minh Thủ của lão muốn luyện thành cần phải hiểu rõ được thế sự, đạt đến cảnh giới núi Thái sơn đổ trước mắt cũng không chau mày, lúc này gạt bỏ mọi phiền não, lòng sáng như gương, xuất thủ khoáng đạt vô biên, đến đối thủ của lão cũng cảm nhận được, đó không phải là áp lực hữu hình mà là một loại lưới vô hình vây bốn phía, khiến người hoang mang chẳng biết đối phó ở đâu, Tiêu Tứ Ẩn liếc sang Đỗ Hoài San, biết rằng lão bằng hữu của mình đã quyết đặt cược tính mạng vào cuộc đấu này rồi.

oOo

 Chợt nghe tiếng vó ngựa lộp cộp, một giọng nam ngâm nga: "Ba thượng mã tê khán trạo khứ, liễu biên nhân hiết đãi thuyền quy" (Trên sóng, ngựa kêu, trông chèo đến. Bên liễu, người đón đợi thuyền về) Giọng ngâm bàng bạc uyển chuyển, trong trẻo ngân nga, ẩn chứa tâm sự trùng trùng. Cô bé hát dạo trên thuyền mắt sáng rực, nhìn thấy gã thiếu niên họ Lạc đang lái cỗ xe ngựa xiêu vẹo đi về phía bờ sông. Ai cũng đang tập trung theo dõi mấy trận đấu đến hồi kịch liệt, chỉ mình cô bé phát hiện ra Lạc Hàn đi tới. Không biết tại sao gã vừa đến thì cô đã cảm thấy trong lòng an ổn, chiêu kiếm Cộng đảo kim hà gia vạn lý trọn đời trọn kiếp đã ghi đậm trong tim của cô, bất kể người khác nói ra nói vào, địch nhân đông đảo mạnh mẽ tới đâu, cô tin chắc rằng gã sẽ giải quyết được hết, bởi vì... gã chính là anh hùng trong lòng cô!

 Lục phi vệ đang theo dõi trận kịch đấu, thì chợt thấy kẻ bọn họ thực sự muốn tìm xuất hiện, hồi hộp tim đập thình thịch. Đề Kỵ bình thường mắt để trên đỉnh đầu, chẳng coi ai ra gì, bọn Lục phi vệ lại là cao thủ hàng đầu trong đám Đề Kỵ cao thủ, trong triều ngoài nội, bạch đạo hắc đạo, giang hồ lục lâm, người để bọn chúng thèm để mắt tới chẳng có mấy ai, thậm chí ngay trong Đề Kỵ, cũng chẳng coi nhau ra gì, tên nào trong lòng chỉ thực sự kính phục mỗi mình Viên lão đại mà thôi. Nếu gã thiếu niên chỉ giết mỗi tên béo họ Phùng, Lỗ Hảo, Úy Trì Cung hay thậm chí là Tùng Thiết Thương, bọn họ cũng chưa chắc đã phục tài, nhưng gã một mình một kiếm, giữa đám thiết vệ đông đảo trước tiên chém chết Khoái đao Điền Tử Đơn, sau đó giết luôn Ngô Kỳ, Lô Thắng Đạo, đáng sợ nhất là làm trọng thương A Phúc, phế võ công của Viên Hàn Đình, đệ nhất cao thủ đời thứ hai của Thất Xảo Môn, đến cả đệ tử đắc ý nhất của Viên lão đại là Lão Lai Nhân Tôn Tử Hệ cũng bị hại chết, đó quả thật là vô cùng đáng sợ! Vừa thấy gã đến nơi, tên đứng đầu Lục Phi Vệ vội vẫy tay kêu bọn thiết kỵ hai bên tản ra, tạo thành một vòng cung lớn.

 Gã thiếu niên vẫn cứ cúi đầu lái cỗ xe, chẳng hề để ý là mình đã lọt vào vòng vây bao phục của bọn thiết vệ. Bọn Đề Kỵ đều cảm thấy kỳ lạ, ai cũng mở to mắt muốn nhìn xem mặt mũi của kẻ duy nhất đủ sức làm Đề Kỵ hao binh tổn tướng nhiều như vậy trong bao năm nay. Gã thiếu niên trước sau vẫn cúi đầu nhìn xuống, để ánh nắng chiều tà chiếu rọi vào khoảng gáy rám nắng, có chút quyến rũ, có chút trầm tĩnh, lại cũng có chút thơ ngây, nhưng ẩn chứa trong đó lại là hào khí tung hoàng ngang dọc, ghét ác như thù, dù thiên quân vạn mã trước mặt cũng không hề lay chuyển được.

 Toàn trường im phăng phắc, gã thiếu niên chẳng nói gì, Lục Phi Vệ cũng không mở miệng. Một lúc lâu sau, gã mới vươn vai hỏi: "Chặn ta lại làm gì?"

 Lục Phi Vệ tay nắm chặt binh khí, đáp: "Giữ người!"

 Gã thiếu niên liếc mắt tỏ vẻ khinh thị, dường như muốn nói: "Bằng vào các ngươi sao?"

 Ánh mắt của gã cực kỳ kiêu ngạo, Lục Phi Vệ xuất đạo lâu năm lần đầu tiên cảm thấy toàn thân ớn lạnh, nhận ra đối phương kiêu ngạo là có cơ sở, lúc đó mới hiểu rõ vì sao Viên lão đại chẳng những phi cáp truyền thư gọi bọn chúng tới, mà còn phái thêm Tam đại quỷ trong Lục đại quỷ ở Long Hổ Sơn hỗ trợ một tay. Lúc trước Viên lão đại thắng cược Trương Thiên Sư, ép lão ta phái đệ tử đến giúp đỡ y trong vòng một năm. Viên lão đại nếu không phải có chuyện khẩn yếu ở Lư châu phải đích thân đi làm, thì đã đuổi đến đây từ sớm rồi.

 Lục Phi Vệ phá tan bầu không khí im lặng lạnh lẽo, mở miệng hỏi: "Tiêu ngân ở đâu?"

 Bọn chúng không dám nói nhiều, bởi vì biết Lạc Hàn chiêu nào đánh ra cũng nhanh như điện chớp, hoàn toàn bất ngờ không có dấu hiệu gì báo trước, sợ nói nhiều thất thố không kịp phòng bị.

 Gã thiếu niên phá lên cười: "Không phải đã đưa cho các ngươi rồi sao?"

 Lục Phi Vệ lạnh lùng đáp: "Toàn là đá cả!"

 Câu này không đầu không đuôi, nhưng mọi người đều hiểu cả, Kim hòa thượng giật mình rồi phá lên cười ha hả: "Sáu cỗ xe lớn toàn là đá cả? Ha ha, ha ha, tức cười chết thôi, tức cười chết thôi... Ôi chao!" Đang cười ha hả thì ối lên đau đớn, y đang đắc ý phá lên cười, thì bị đối thủ giáng cho một chưởng.

 Gã thiếu niên mỉm cười đầy vẻ tinh quái, hỏi lại: "Còn ngân lượng đâu?" ra vẻ ngây thơ chẳng biết gì. Lục Phi Vệ đề phòng chẳng dám đáp lời, biết gã hay xuất thủ vào lúc đang trò chuyện, bọn chúng đã được dặn dò kỹ càng, phải dùng toàn lực để đối phó với tên họ Lạc này. Đỗ Hoài San lúc này thấy bọn Lục Phi Vệ thần sắc ngưng trọng, vội thừa cơ kêu lớn: "Phùng đô úy, mấy người bọn lão..."

 Lục Phi Vệ biết lúc này giữ bọn họ lại cũng rất phiền phức, hơn nữa tập trung đối phó với đại địch, cần có tam đại quỷ đồng thời xuất thủ, liền quay đầu vẫy tay ra lệnh: "Để bọn họ đi."

 Câu này của hắn cực kỳ vô lễ, Tam đại quỷ đang đánh dở tay, lại không phải thuộc hạ của hắn, hơn nữa trước giờ chẳng coi bọn Đề Kỵ ra gì. Thất Quỷ Hình Bân là tên nóng nảy nhất đang đối phó với Kim hòa thượng, nghe vậy liền nổi nóng lên. Đại Quỷ Hình Hòe đang đấu với Đỗ Tiêu hai người bèn trừng mắt bắt hắn phải dừng tay, hô lớn: "Được, dừng tay!" Rồi đếm: "Một, hai, ba..."

 Hắn đếm đến ba thì chiêu thức đánh ra yếu ớt hẳn, Đỗ Tiêu hai người hiểu ý, từ từ thu chiêu. Cặp đấu giữa Tần Ổn và Nhị Quỷ cũng dừng tay theo, chỉ còn Thất Quỷ đang đấu với Kim hòa thượng vẫn còn bất phục, nhưng vì lời đại ca không dám không nghe. Vừa định mở miệng cãi lại thì nhìn sang phía Đại Quỷ, Nhị Quỷ, hai tên này tuy đang đứng đối mặt với mọi người, nhưng đều tập trung hết tinh lực sẵn sàng đối phó với người ở sau lưng, lại thấy Đỗ Tiêu mọi người lục đục lên thuyền, hắn giật mình thu chiêu lại, bọn Kim hòa thượng cũng an tâm, vội lùi về phía sau.

 Thất quỷ lúc này mới ngẩng đầu nhìn sang gã thiếu niên họ Lạc đang đứng trên bờ. Hắn trước giờ vốn không tin lời đồn về công phu của Lạc Hàn, lúc ấy thấy Lạc Hàn từ từ ngẩng đầu lên, chẳng biết tại sao nhìn tư thế ngẩng đầu của gã, Thất Quỷ Hình Bân trong lòng tự nhiên khẩn trương, dường như có một luồng khí lạnh lẽo đâm thẳng vào da thịt. Gã thiếu niên họ Lạc lúc này chậm rãi liếc qua mọi người có vẻ như rất chuyên chú lại vừa như rất tuỳ tiện. Ánh mắt gã vừa lướt qua mặt của Lục Phi Vệ, Lục Phi Vệ đồng thời kéo mạnh dây cương kìm ngựa, người ngựa bất giác lùi lại phía sau. Gã chưa nhìn đến Tam đại quỷ, Thất quỷ đã thấy đại ca mặt xanh lè, tay của nhị ca khẽ rung động, biết là bọn họ đang vận công phu độc môn đến mức tối cao.

 Khi nhãn quang của Lạc Hàn chạm vào lưng Đại Quỷ, hắn không quay đầu lại nhưng hai vai cứ giật giật liên hồi. Hai người chưa hề chính diện đối nhãn với nhau, nhưng mọi người đều cảm thấy như có tia lửa điện lóe lên giữa không trung, bầu không khí vô cùng căng thẳng. Mắt Lạc Hàn lại tiếp tục liếc sang Nhị quỷ, tay của Nhị quỷ đang rung động thì chợt dừng phắt lại, im lìm bất động đến mức làm người ta phải đổ mồ hôi hột. Thất quỷ bây giờ mới hiểu đại ca vì sao khi nãy phải kêu hắn dừng tay, có người này ở sau lưng, hắn không thể nào phân tâm đấu đá với Kim hòa thượng được. Phản ứng của hắn không tĩnh được như Nhị quỷ, tay gồng lên nắm chặt lấy quỷ trảo. Trong mấy giây phút ngắn ngủi, một luồng khí tức vi diệu uốn lượn giữa không trung, phảng phất khí vị tịch mịch của sông hồ, vĩnh viễn bất động.

 Mọi người nhìn đến ngẩn cả người, đều là người chốn võ lâm, lại luyện công nhiều năm, công phu cũng không tệ, thử hỏi có ai không muốn chứng kiến trận chiến vô tiền khoáng hậu này cơ chứ? Đến Tần Ổn là lão hồ ly lão luyện cũng không dằn được lòng, chỉ có Đỗ Hoài San là còn trấn tĩnh, kéo từng người từng người một lên thuyền, cuối cùng quay sang Tần Ổn nói: "Tần huynh, đi thôi!"

 Tần Ổn mặt đỏ bừng bước lên thuyền, cô bé hát rong đột nhiên thu hết can đảm hỏi: "Còn huynh ấy..." Huynh ấy chính là ý chỉ gã thiếu niên. Giữa bọn thiết kỵ binh cường mã tráng, gã vẫn chẳng tỏ vẻ sợ hãi chút nào, miệng mỉm cười, lông mày nhướng lên, khoé miệng trễ xuống, hết nhìn địch nhân lại quay ra ngắm nhìn cảnh mặt trời lặn.

 Gã tuy không sợ sệt, nhưng mọi người lại không khỏi đem lòng lo lắng giùm gã. Chỉ mình Đỗ Hoài San chẳng thèm ghé mắt nhìn, ra lệnh cho thuyền phu: "Giương buồm!"

 Cô bé lại lấy hết can đảm ấp úng hỏi lại lần nữa: "Còn huynh ấy thì sao?"

 Chẳng ai đáp lại lời cô, Kim hòa thượng nóng nảy hấp tấp nhảy dựng lên nói: "Không được, không được, hòa thượng ta không thể nào bỏ vị thiếu hiệp đó ở lại mà chạy một mình được, lão tử phải liều mạng giúp y."

 Đỗ Hoài San lạnh lùng hỏi: "Ngươi liều mạng à? Y cần ngươi liều mạng sao? Y vì ngân lượng của y, ngươi vì cái gì?"

 Giọng nói lạnh như băng của lão làm bao nhiêu hào khí bừng bừng chìm xuống hẳn. Kim hòa thượng không biết trả lời thế nào, chuyện liều mạng thế này có nói người khác cũng chẳng hiểu nổi, nhưng vẫn một hai quyết nhảy xuống giúp bằng được. Đỗ Hoài San chợt đưa tay giữ lấy vai y, miệng lạnh lùng nói: "Đừng quên cái mạng của ngươi là do ta thay mặt cho người ở Hoài thượng giữ lại, đi hay ở, tạm thời không phải do ngươi quyết định." Quay đầu chau mày nghiêm giọng ra lệnh: "Giương buồm, y tự làm ra chuyện, đương nhiên có cách tự tháo gỡ." Người trên thuyền tuy trong lòng biết là không phải, nhưng hữu tâm nhưng vô lực, có ở lại cũng chẳng giúp được gì. Theo lệnh Đỗ Hoài San, chiếc thuyền lớn bắt đầu rời bến.

 Thuyền rẽ nước mà đi một hồi, đã cách bờ hơn một tầm tên bay, người trên thuyền cũng đã an tâm được một chút, nhưng tay chèo thuyền của Vương Mộc lại rất chậm chạp uể oải. Từ xa vẫn còn nghe được một tên Phi vệ nói: "Viên lão đại phi cáp truyền thư, nói là vừa nhận được tin tức: chuyến tiêu này căn bản không hề có ngân lượng, hơn nửa tháng trước, trong thành Lâm An có người dùng một số lớn ngân lượng chuyển thành vàng, số lượng cực lớn khiến người khiếp vía, do đó hai mươi mốt vạn lượng bạc đã biến thành một vạn mấy ngàn lượng vàng, nằm trong cỗ tiêu xa cuối cùng mà thiếu hiệp đã giữ lại."

 Đỗ Hoài San nghe vậy liền động tâm liếc sang Tiêu Tứ Ẩn, hai người lẳng lặng không nói tiếng nào. Kim hòa thượng há hốc miệng, mọi người mới hiểu rõ vì sao đêm hôm kia gã thiếu niên lại lấy đi một cỗ tiêu xa. Gã định dùng mấy xe đá để giữ chân một bộ phận Đề Kỵ, tính toán như vậy thật là khéo léo tinh minh, ai ai cũng thán phục. Thế nhưng bọn Đề Kỵ khi phát hiện ra bị lừa, phản ứng cũng thật nhanh, càng làm người ta kinh hãi. Bọn Lục Phi vệ thấy Tam đại quỷ đã sẵn sàng xuất thủ, do đó mới dám mở miệng nói chuyện dài dòng để tìm thời cơ, một tên cất tiếng: "Tình cảnh thế này tiểu ca còn định bỏ đi nữa sao? Viên lão đại của bọn ta đã hạ nghiêm lệnh, điều thêm ba vị sư huynh Long Hổ Sơn đến đây, nói là bất cứ giá nào cũng phải lưu ngươi lại đến ngày mai, ngày mai nhất định Viên đại ca sẽ đích thân đến đây. Tiểu huynh đệ, ngươi còn muốn động thủ với bọn ta hay sao?"

 Lời của hắn rõ ràng là muốn gây áp lực tâm lý cho đối phương. Mọi người khi nãy đã nếm mùi Tam đại quỷ, dùng hết sức lực đánh một trận nhưng suýt nữa thì đã bị đại bại, tới giờ nghĩ lại vẫn còn sợ run. Chỉ với Tam đại quỷ không biết gã thiếu niên có thể vượt qua được không, huống gì Viên lão đại còn nói sẽ đích thân tới nơi nữa. Lúc này chẳng ai còn dám tin vào năng lực của gã thiếu niên cả. Đỗ Hoài San lúc này mới vọng nhìn vào bờ, miệng thở dài, trong lòng không khỏi cảm thấy xấu hổ. Thuyền đi mỗi lúc một xa, lời nói chuyện trên bờ mọi người không nghe rõ nữa, Tiêu Tứ Ẩn ban đầu vẫn ráng dỏng tai lên nghe ngóng, nhưng gió sông thổi vù vù, lão cố gắng mãi vẫn không nghe được đối phương nói cái gì, cuối cùng lắc đầu bó tay.

 Kim hòa thượng tính tình hiệp nghĩa, cảm thấy dù trong tình thế nào, bỏ đi một mình cũng vẫn không đúng, nhưng bị tay Đỗ Hoài San giữ chặt không động đậy được, mở miệng lo lắng nói: "Mộc đầu, ngươi mà còn ngồi yên đó, ta sẽ không coi ngươi là bằng hữu nữa đâu!"

 Vương Mộc liếc nhìn y, rồi chợt quay sang Đỗ Tiêu hai người gật đầu nói: "Để ta đi xem sao, cướp tiêu chuyến này tính toán đã lâu, mất đi cũng thật đáng tiếc, hai vị tiền bối đi trước, chúng ta gặp nhau ở chỗ cũ." Nói xong liền phóng mình lao xuống giữa dòng sông. Trầm Phóng a lên một tiếng ngạc nhiên, Tam nương tử hạ giọng nói: "Y muốn bơi vào bờ dò xét tin tức, nếu giúp được Lạc thiếu hiệp thì y nhất định sẽ giúp." Lúc này thuyền đã đi quá giữa dòng, Vương Mộc thủy tính rất giỏi, nên mới dám bơi ngược lại. Người trên bờ nhất định không ngờ là y quay trở lại, nói không chừng có thể giúp một tay cho gã thiếu niên. Sau một hồi lâu, thuyền đã cập mạn Bắc, mọi người dễ dàng đến được Giang Bắc, nhưng chẳng ai lộ vẻ hân hoan. Quay đầu nhìn lại chỉ thấy bờ bên kia vẫn y như cũ, nhưng tình hình cụ thể thế nào thì không ai biết được. Mọi người không dám lưu lại lâu, vội vã lên đường, đi được hồi lâu mới dừng lại nghỉ, quay đầu lại nhìn thì bờ Nam đã khuất dạng từ lâu.

 Lai đi thêm một hồi nữa, bóng chiều dày đặc, mọi người càng đi càng xa, có quay đầu lại cũng chẳng nhìn thấy bóng dáng của Giang Nam đâu nữa.

Hết hồi 7

BÔI TUYẾT HỆ LIỆT

 BỘ THỨ NHẤT - MƯA ĐÊM GÕ XUỐNG SEN VÀNG

 HỒI 8 (VĨ THANH) - HOÀI THƯỢNG

 Phúc Vũ và Phiên Vân

 Dịch tặng Tay Doc đại ca

 Càng đi lên phía Bắc thì khí trời càng lạnh giá, Trầm Phóng và Tam nương tử phải mua áo bông mặc thêm vào. Đến phương Bắc, bọn họ đã chia tay với mấy người kia, ai đi đường nấy. Hôm nay đến vùng Hà Trạch, đã đi được gần nửa tháng trời, chì qua một đêm đất Hoài Thượng đã có một trận mưa tuyết bất chợt, chỉ thấy cành cây ngọn cỏ khắp nơi phủ đầy tuyết. Hai người khởi hành sớm, tinh thần phấn chấn. Trên không trung thỉnh thoảng vẳng lại tiếng chim kêu thánh thót, họ không dám đi nhanh, vẫn từ từ cưỡi con la xanh và con lừa hoa. Đi đến đất Đình Tứ, thấy có một tửu điếm, Tam nương tử cười nói: "Vào trong sưởi ấm một chút đi." Trầm Phóng thấy mặt nàng đã ửng hồng vì lạnh, liền mỉm cười đồng ý.

 Tửu điếm này sạch sẽ phi thường, bàn ghế làm bằng gỗ trắng, nền bằng đất nện, thêm vào bên ngoài tuyết phủ trắng xóa, trên chiêu bài viết hai chữ Nhất Biều. Tam nương tử gọi một bình Phần tửu, lại gọi thêm mấy món rau cải muối, nàng cùng Trầm Phóng uống rượu dưới tuyết, mười phần vui vẻ. Trong nhà tuy có nhóm lò sưởi, nhưng điếm chủ muốn thông thoáng, nên mở toang cửa ra vào và cửa sổ, nên trong nhà cũng chẳng ấm hơn bên ngoài bao nhiêu. Hai người uống mấy chung rượu thì cảm thấy chân tay nóng ấm linh hoạt hẳn lên, chợt thấy trên đường có mười mấy người đi tới, thân hình khoác áo ấm dày cộm, nhìn từ xa vẫn thấy rất quen thuộc, đến gần nhìn kỹ lại thì là Đỗ Tiêu nhị lão, còn có thêm Kim hòa thượng, ba huynh đệ họ Trương và hai người bọn Tần Ổn nữa. Bọn họ nhìn thấy tửu điếm thì gật đầu khen: "Tốt, tốt" rồi bước vào, không ngờ lại gặp được vợ chồng Trầm Phóng ở đây, liền tươi cười mừng rỡ tay bắt mặt mừng, rồi cùng ngồi xuống.

 Đỗ Tiêu hai người thấy hai chữ Nhất Biều treo trên tửu lâu, bèn nhìn nhau gật gù, Tam nương tử tinh mắt nhìn thấy lão dùng tay ra hiệu với chủ quán, dùng ngón tay chỉa lên không vẽ một vòng tròn, giống như một chung rượu nhỏ. Mọi người ăn uống nhồm nhoàm, riêng Đỗ Tiêu nhị nhân chẳng để ý gì tới ăn uống, chỉ nhìn ra ngoài cửa, dường như đang đợi ai đó. Một lúc sao, từ xa có một người từ từ đi lại, đứng lại ngẩng đầu nhìn chiêu bài quán rượu treo bên cạnh, rồi gật gù đi thẳng vào điếm. Người này thân hình tráng kiện, đến gần thì thấy rõ chính là Vương Mộc.

 Kim hòa thượng thấy y thì rất cao hứng, cười hỏi: "Hay, hay lắm, ngươi làm sao mà đến được tới đây?" Rồi lấy khuỷu tay thúc huynh đệ họ Trương bên cạnh, chừa một chỗ ngồi cho Vương Mộc.

 Vương Mộc chào hỏi mọi người trong điếm xong, Kim hòa thượng chẳng đợi y ngồi ấm chỗ, đã vội vàng hỏi ngay: "Nói mau, nói mau, tiểu huynh đệ họ Lạc thế nào rồi? Có thoát được không? Mấy ngày nay ta cứ mãi lo lắng về việc này!"

 Mọi người đều quan tâm đến chuyện này, chỉ không biểu hiện hấp tấp như Kim hòa thượng mà thôi. Phu phụ Trầm Phóng cũng hồi hộp chờ Vương Mộc trả lời, chỉ mong y nói Lạc Hàn được bình an.

 Vương Mộc hình như đã bị rét cóng cả người, rót rượu ra bát uống tràn, uốn hết ba bát mới dùng tay áo lau miệng, cười đáp: "Nước sông hôm đó đúng là chẳng ấm áp chút nào!" Trường Giang tháng mười, y không sợ lạnh cóng cứ nhảy xuống nước bơi vào bờ, thủy tính đúng là rất giỏi.

 Thấy mọi người hồi hộp chờ đợi, y kể tiếp: "Vị tiểu ca đó không sao cả. Hôm ấy, ta bơi một hồi lâu mới tới bờ Nam, đang kiếm chỗ ẩn thân để nhìn lên bờ. Bọn họ chẳng nói tiếng nào, cũng chẳng động đậy gì. Lạc tiểu ca cúi đầu, chầm chậm chơi đùa với cây roi ngựa, Lục Phi Vệ không dám hó hé gì, nghiêm thủ bất động, Tam đại quỷ cũng ngưng thần giới bị chuẩn bị đối phó với đại địch. Chỉ có ta là khổ sở nhất, toàn thân ướt đẫm, lạnh đến run lẩy bẩy. Một hồi lâu sau thấy thuyền của các người đã cập bến mà phía bọn họ vẫn chưa có động tĩnh gì. Ta bám vào rễ cây, thầm tưởng nếu gom lau sậy lại đốt lửa sưởi thì hay biết mấy, càng nghĩ thì càng cảm thấy buốt giá, lại càng muốn nhóm lửa lên. Nhìn sang Lạc tiểu ca, ta đột nhiên ồ lên, nếu mình đốt lau sậy lên làm bọn Đề Kỵ giật mình, huynh ấy có thể thừa cơ xông ra ngoài. Vàng trong tay huynh ấy dù sao vẫn còn hơn ở trong tay đám con hoang kia."

 "Ta đi gom đồ để đốt lửa, nhưng lau sậy ngâm dưới nước đã bị ướt hết. Trong đám Lục Phi Vệ chợt có kẻ hạ giọng nói: 'Y đang đợi trời tối!' Nghe qua ta lập tức hiểu rõ, Lạc tiểu ca muốn đợi trời tối, kiếm pháp của huynh ấy, trong bóng tối đố bọn chúng tránh khỏi được. Đề Kỵ không dám bắn tên, chính là sợ huynh ấy phóng vào đám đông, hại phải người phe mình. Lạc tiểu ca đột nhiên ngẩng đầu nhìn bóng nắng, mặt trời chiếu thẳng vào mặt huynh ấy, thật là..." Đến đây y sựng lại, không biết chọn từ nào cho đúng.

 "Ta chợt nghe huynh ấy lên tiếng: 'Các ngươi tránh đường để ta đem số vàng này cống cho Hoàn Nhan Lượng, vài ngày sau không chừng lại đưa công chúa nước kim sang đây tặng cho Tần thừa tướng các người để báo đáp, vậy có được không?' Ta thấy người này đúng là hay bày trò, nhưng mấy lời nói ra đa số đều hợp đạo lý, nếu quả như lời huynh ấy nói, thì Tần thừa tướng chắc mừng đến chết đi được."

 Trong đám người ngồi đó, Kim hòa thượng là người hâm mộ gã thiếu niên họ Lạc nhất, nghe vậy vỗ đùi phá lên cười ha hả.

 Vương Mộc lại tiếp: "Ta thấy Tam đại quỷ lúc này lẩn lút đi về phía sau lưng Lạc tiểu ca, dường như tính làm chuyện ám muội gì đó. Lục Phi Vệ nét mặt âm trầm chẳng nói tiếng nào, vung tay ra hiệu, đám người ngựa vây quanh vung đao kiếm hộ thân, chầm chậm dồn lên phía trước. Lục Phi Vệ rõ ràng muốn đánh một trận, Lạc tiểu ca tuy kiếm thuật kinh nhân, nhưng có nhiều người tấn công như vậy, chỉ sợ, chỉ sợ..." Mọi người đều biết gặp nguy rồi, hết sức khẩn trương, chằm chằm nhìn vào mặt Vương Mộc để đoán xem kết quả thế nào. Gương mặt trơ ra của Vương Mộc chợt lộ thần sắc kỳ dị, xem ra chuyện xảy ra ngày đó tới giờ y vẫn còn ngạc nhiên.

 "Lạc tiểu ca thấy bọn chúng thắt chặt vòng vây ép tới, đột nhiên hút sáo một tiếng, giống như tiếng người ngoài biên ải hay gọi ngựa, cao vút xé tai, chẳng bao lâu sau từ bờ sông vang tiếng kêu đáp lại, thì ra con lạc đà của huynh ấy đang lọt tọt chạy lại rồi dừng phía sau đám đông. Đây là lần đầu tiên ta nghe được tiếng lạc đà kêu. tiếng kêu của nó làm cho ai nấy đều giật mình, tựa như, tựa như lá rơi đầy trời, cát bay đá chạy. Lạc tiểu ca chợt phá lên cười nói: 'Các ngươi muốn thì giao cho các ngươi quách!' Huynh ấy bèn bước xuống xe, vỗ vỗ mấy cái lên cổ của hai con ngựa kéo xe, mấy con vậy dường như hiểu được lời của huynh ấy, lập tức kéo xe từ từ chạy về hướng của Lục Phi Vệ. Lục Phi Vệ thấy tình thế kỳ lạ, không biết có ý gì, bèn ngưng thần chờ đợi. Ta nhìn mắt của mất con ngựa có chỗ quái dị, Lạc tiểu ca đột nhiên quát lớn: 'Bằng ba con tiểu quỷ này mà định cản đường ta sao?'"

 "Huynh ấy thân hình đột nhiên bay vọt lên, không xông qua Lục Phi Vệ mà lại lao sang Tam đại quỷ. Mé bên kia, cổ xe đã đi tới gần một tên thiết kỵ, tên này thò tay kéo lại, Lạc tiểu ca chợt huýt sáo một tiếng, con ngựa giật mình, khi nãy hình như huynh ấy đã thi triển thủ thuật gì trên cổ ngựa, đâm vào cổ ngựa vật gì đó, hai con vật phóng thẳng về phía trước, nhìn bộ dạng rời rã của bọn chúng, ai ngờ chúng lại có thể phóng nhanh như điên cuồng vậy. Bọn thiết kỵ giật mình, không ai dám chặn lại, đồng loạt nhảy qua một bên, một tên trong Lục Phi Vệ chợt nhảy vọt lên vung đao chém đứt đầu một con ngựa. Nhưng sức vọt của con ngựa quá mạnh, lại còn sót lại một con ngựa, lại còn phóng nhanh hơn trước, lúc này cục diện rối loạn, chỉ trong chớp mắt, cỗ xe ngựa đã rơi tõm xuống sông, vạn lượng hoàng kim cũng chìm luôn xuống nước. Biến hóa thật bất ngờ, chẳng ai ngờ thiếu niên có thể chịu buông tay như vậy. Huynh ấy phá lên cười dài một tiếng, nhân lúc hỗn loạn phóng tới vung kiếm chém đứt đầu một tên thiết kỵ, rồi chớp mắt đã quay lại giao thủ với Tam đại quỷ mỗi tên một chiêu. Huynh ấy hành động cực nhanh, làm Tam đại quỷ không kịp phối hợp đối phó, sau khi đánh xong ba chiêu, huynh ấy tung mình nhảy xa mấy trượng, rơi đúng trên lưng con lạc đà đang đứng ngoài vòng chiến. Thế nhưng con lạc đà này bị ép giữa bờ sông và bọn Đề Kỵ, bọn Đề Kỵ rút ám khí phóng ra loạn xạ, có hơn mấy chục tay thiết kỵ giương cung bắn tới. Bọn chúng luyện tập vi công lâu năm, nhanh chóng phong tỏa mọi lối thoát. Lạc tiểu ca chẳng còn chỗ nào để trốn cả."

 Mặt Vương Mộc chợt lộ vẻ hưng phấn kỳ lạ, tiếp: "Ai ngờ Lạc tiểu ca kéo cương lạc đà, một người một lạc đà nhảy vọt ra mấy trượng, rơi thẳng xuống sông, chiêu này đến Tam đại quỷ cũng không ngờ tới."

 Mọi người nghe vậy đều giật mình kinh hãi, Kim hòa thượng ngẩn người kêu lên: "Không thể nào!"

 Vương Mộc lắc đầu nói: "Thật vậy, ta thấy huynh ấy cưỡi trên lưng lạc đà, bơi dọc theo dòng sông. Tam đại quỷ chạy đuổi theo trên bờ."

 Kim hòa thượng nhìn Vương Mộc tưởng chừng như y đã bị điên rồi: "Ngươi nói, ngươi nói là lạc đà biết bơi à?" Mọi người nghĩ lạc đà tuy được gọi là thuyền trên sa mạc, nhưng nó sinh trưởng ở vùng Tây Bắc Sa phù, không thể nào biết bơi được.

 Thấy mọi người chằm chằm nhìn mình, Vương Mộc gật đầu lần nữa để khẳng định: "Ta vốn không tin, mọi người lúc đó cũng không tin. Bọn thiết kỵ há hốc miệng ngạc nhiên quên cả phóng tên, con lạc đà nửa chìm nửa nổi, rõ ràng là không sợ nước. Đến lúc bọn chúng nhớ đến việc phải phóng tên, thì đã lội đi xa rồi." Mọi người nghe kể chuyện, ai cũng khâm phục gã thiếu niên.

 Vương Mộc cười khổ tiếp: "Thiết kỵ đã hạ lệnh phong tỏa bến đò, đến ngày thứ hai ta mới có thể lên thuyền vượt sông, ngày đêm đuổi theo các người đến đây."

 oOo

 Mọi người gọi cơm, vừa ăn vừa bàn luận. Xong bữa cơm, Đỗ Tiêu nhị lão đưa mắt nhìn nhau, rồi quay sang mọi người lên tiếng: "Các vị huynh đệ, chúng ta cũng phải tính toán mọi việc cho xong thôi." Nói đoạn đứng dậy quay sang Tần Ổn ôm quyền nói: "Không dám phiền Tần huynh tiễn xa nữa."

 Tần Ổn mặt lộ vẻ ngạc nhiên, nhưng chỉ gật đầu không nói.

 Đỗ Hoài Sơn hắng giọng tiếp: "Bọn huynh đệ kỳ này vượt sông là vì số tiêu hóa của Tần huynh, hiện tại bạch hóa đã chuyển thành hoàng hóa, Tần huynh đã đưa đến nơi này, bữa cơm này xin để tiểu đệ thanh toán, coi như là đáp tạ Tần huynh, còn hai chiếc xe, tiểu đệ phải dẫn đi thôi."

 Mọi người nghe qua chẳng hiểu đầu cua tai nheo thế nào, tiêu ngân không phải bị Lạc Hàn đẩy xuống Tống giang rồi sao? Đề Kỵ lúc này chắc đã vớt lên hết, làm sao mà số vàng này lại ở trên hai chiếc xe đẩy ở bên ngoài quán chứ? Kim hòa thượng đứng bật dậy chạy thẳng ra ngoài điếm, xé toạc tấm vải lót trên xe đẩy, thì chỉ nghe đinh đinh đang đang liên tục vang lên, trên mặt tuyết vàng thỏi rơi đầy đất, thì ra vàng được khéo léo giấu lẫn trong hành lý. Tần Ổn lúc đó tưởng là mất số tiêu hóa nhưng thực ra là không phải, bọn họ từ sớm đã chuẩn bị trước, biết là Đề Kỵ nhất định sẽ không bỏ qua, chuyến tiêu này nửa là minh tiêu, nửa là ám tiêu, do Lạc Hàn đứng ra thu hút sự chú ý của bọn Đề Kỵ, để cho Tần Ổn an toàn hộ tống tiêu hóa qua sông, lão cùng Lạc Hàn đã thông đồng diễn một trò thật hay! Kim hòa thượng mắt trừng miệng há hốc, chỉ chỉ vào Tần Ổn nói không nên lời.

 Phu phụ Trầm Phóng giật mình, không ngờ mọi chuyện lại có biến đổi như vậy.

 Đỗ Hoài Sơn đứng cạnh lúc này đã chính mắt nhìn thấy vàng thật bạc thật, cực kỳ hân hoan, tươi cười nói: "Bọn tiểu đệ suýt nữa là bị Tần huynh gạt rồi, nghĩ rằng Lạc tiểu ca kiếm thuật kinh nhân, lại e ngại Cảnh Thương Hoài đại hiệp can thiệp vào, lại còn có Đề Kỵ gây chuyện. Cho đến ngày đó chúnng ta nghe Kim hòa thượng nói 'bận rộn cả nửa ngày trời mà một đồng một cắc cũng chẳng thấy đâu', mới cảm thấy chuyện này bên trong có vấn đề. Lại thấy Tần Ổn huynh vốn tính tình cương liệt, vậy mà lần này lại chịu bẽ mặt như vậy, danh dự bị xúc phạm mà dường như chẳng có chút oán khí nào, đúng là có chỗ không hợp lý. Trên đường đi, ta kêu huynh đệ họ Trương đẩy xe giúp, Tần huynh tuy cười cười nói nói, nhưng xem ra lại rất khẩn trương, ta đã nắm chắc được nửa phần, hôm nay nghe lời kể của Mộc đầu, mới có thể chắc chắn được hoàn toàn. Bốc chữ Ổn như Thái sơn của Tần huynh quả thật không phải lời nói suông, đến Đề Kỵ cũng bị lão huynh qua mặt, chuyến tiêu này ở ngay trước mũi bọn tiểu đệ mà suýt nữa cũng bị vuột mất, hà hà, đúng là cao minh, cao minh thật."

 Trầm Phóng ở bên cạnh nghe đến ngẩn cả người, y vốn không ngờ trên chốn giang hồ lại trá ngụy đến mức này. Tam nương tử quay sang nhìn y cười nói: "Thiếp nói không sai mà, Đỗ Hoài Sơn, Tiêu Tứ Ẩn đúng là hai lão hồ ly tinh."

 Trầm Phóng gật đầu, thấy Đỗ Tiêu hai người ngồi đó mỉm cười, ba huynh đệ họ Trương nhặt từng khối, từng khối vàng lên. Bọn họ không tốn chút sức nào mà vàng lại tự động lọt vào tay, hết sức đắc ý. Lúc này phía Tần Ổn chỉ có 2 người một già một trẻ, lại đang ở đất khách, khó mà có thể kháng cự lại, huống gì tửu điếm này có chỗ cổ quái, thì ra là bọn họ đã tính toán từ sớm rồi.

 Ai ngờ Tần Ổn chẳng kinh chẳng nộ, ngược lại còn nhìn sang gã hộ vệ, nhẹ nhàng nói: "Đại Ngưu Tử, bọn họ chắc đã đến rồi." Gã hộ về liền nhìn ra ngoài nói: "Đúng rồi". Mọi người nhìn ra ngoài, một hồi sau quả nhiên thấy có người chạy tới, hôm đó lúc tiêu đội giải tán, các hộ vệ rời đi, thì ra là bọn họ ước hẹn gặp nhau ở đây.

 Đỗ Hoài Sơn giật mình, xem ra cả hai bên đều đã có tính toán riêng, coi bộ sẽ phải diễn ra một trận long tranh hổ đấu đây, Đỗ Hoài Sơn mặt xụ xuống, nói: "Tần huynh, tiền tài là vật ngoại thân, huống hồ ta và huynh đều là người Hán, chẳng lẽ huynh đúng như lời Lạc tiểu ca nói, đem số vàng này đem cho bọn chó Kim hay sao?"

 Tần Ổn khẽ lắc đầu.

 Tiêu Tứ Ẩn lúc này thấy đối phương đông người, thanh thế cực thịnh, liền khẽ vỗ tay một cái, chủ điếm vén rèm chạy ra, Tiêu Tứ Ẩn vẫy tay nói: "Gõ mõ!"

 Chủ điếm lấy một cái mõ bước ra ngoài, đứng giữa tuyết gõ một hồi dài. Âm thanh truyền đi thật xa, chẳng mấy chốc mấy xóm làng xung quanh, đâu đâu cũng vang lên tiếng mõ phụ hoa, biến đất Hoài thượng nơi nơi đều vang động tiếng mõ hiệu. Đỗ Hoài Sơn lạnh nhạt nói: "Đó chính là 'văn bang khởi vũ' (nghe mõ động võ) của Dịch tiên sinh, Tần huynh có tự tin thoát khỏi chu vi mười dặm hay không?"

 Trầm Phóng nghe vậy lấy làm lạ, hỏi Tam nương: "Cái gì là văn bang khởi vũ?"

 Tam nương tử đáp: "Nghe đồn hiện giờ ở đất Hoài Bắc có một vị Dịch tiên sinh, vì biên dân thường bị Kim binh quấy phá, nên đã nghĩ ra một biện pháp, chỉ cần tiếng mõ vang lên, một phương gặp nạn, tám phương lập tức ứng cứu, Kim binh mà tới, chẳng khác nào lọt vào rừng đao biển lửa. Thêm vào mấy thôn này dân chúng đều rất dũng cảm, theo lệnh của Dịch công tử, cho dù sức không bằng địch, thì sẽ phá nhà đốt thôn, cùng người Kim chết chung một chỗ. Mấy năm nay, người Kim cũng chẳng dám bén mảng tới, bảo hộ một phương bình an. Hai vị Đỗ Tiêu này là người của nghĩa quân, lão ta chắc muốn ám chỉ chuyện này."

 Trầm Phóng nghe vậy trong lòng rất phấn khích, thì ra Hoài thượng lại có một nhân vật như vậy.

 Tần Ổn sắc mặt bất động, vẫy tay hạ lệnh: "Đặt xuống!", đám hộ vệ vừa tới từng người từng người một đến bên bàn, hạ bao phục trên người xuống, mở ra đặt xuống bàn. Bao đồ này là họ nhận được từ tay của Tần Ổn ngày đó, chỉ thấy leng keng sột soạt, rồi thấy đầy bàn kim quang xán lạn, có châu báo, có vàng thỏi, tổng cộng mấy bao đồ giá trị cũng khoảng ba bốn ngàn lượng. Tần Ổn nhìn đống vàng, dường như mắt rưng rưng lệ, một hồi lâu mới nói: "Tốt lắm, tốt lắm, không thiếu người nào, một lượng vàng cũng không động tới, xem ra các ngươi không phải là bọn thấy lợi mà quên nghĩa."

 Trong mỗi bao đồ chứa số vàng không nhỏ, vậy mà sau khi giải tán hội họp lại, vẫn không thiếu một người, không động tới một xu một hào, đúng là vô cùng hiếm có.

 Tần Ổn lại quay sang gã hộ vệ đi cùng gật đầu ra hiệu, gã bèn chạy ra hai cái xe đẩy, chẳng để ý gì đến ánh mắt của Kim hòa thượng, lật tấm lót phía trên lên, đem toàn bộ hoàng hóa đặt lên bàn cả. Lúc đó, trong căn tiểu điếm, mấy bàn bày đầy kim ngân châu báu sáng rực, đến Đỗ tiêu nhị lão cũng sửng sốt, không biết dụng ý của Tần Ổn là thế nào.

 Lúc này Tần Ổn quay sang Đỗ Hoài Sơn nói: "Trên bàn hiện có toàn bộ số ngân lượng trên các xe, tổng cộng là một van ba ngàn một trăm bốn mươi lượng hoàng kim. Châu báu ba rương, các huynh cứ tự lấy đem đi."

 Đỗ Tiêu hai người không biết lão nói thật hay đùa, không biết đáp lại thế nào, Tần Ổn chợt đổi sắc mặt nghiêm trọng, quay đầu vỗ vai chúng hộ vệ, nói: "Thêm vào tính mệnh của mười tám thiếu niên này nữa!"

 Đỗ Hoài Sơn thấy lão cuối cùng cũng muốn đánh, cười lạnh một tiêng, vẫy tay ra hiệu, Kim hòa thượng từ sớm đã muốn đấu một trận với người trong tiêu cục, là người đầu tiên nhảy ra, lớn tiếng khiêu chiến.

 Tần Ổn chẳng lý gì đến ý, đến gã hộ vệ Đại Ngưu Tử cũng chẳng nổi giận, chỉ thấy Tần Ổn lấy từ trong người ra một mảnh giấy, khẽ mỉm cười nói: "Chuyến tiêu này vốn không phải đưa đến chốn này, nhưng Lạc tiểu ca chỉ đưa cho một tờ giấy, nói rằng trên giấy có vẽ hình người nhận hàng, cũng có thể giao cho thủ hạ của y thì ai cũng được, vật vẽ trên đó ta không nhận ra, không biết Đỗ huynh có nhận ra hay không."

 Nói đoạn hắn trải tờ giấy ra, Đỗ Hoài San nhìn lên mặt giấy, bất giác lộ vẻ kinh ngạc, Thẩm Phóng nhìn từ xa, chỉ thấy trên mặt giấy vẽ một chung rượu nho nhỏ bằng nét mực mảnh, miệng chung hơi nghiêng, ngòi bút sơ sài, cạnh đó có mấy dòng bằng mực nhạt: Chén sen rượu nồng, Quê xa lòng nhớ. Nét chữ không được đẹp lắm, như là được viết thêm vào sau này. Ý tứ trào lộng mà đầy xa xót, nét bút khúc khuỷu mà sắc sảo phóng khoáng. Thẩm Phóng chẳng hiểu thế là thế nào.

 Tần Ổn lúc này mặt lộ nét cười, tiếp: "Bất qua ta nghĩ các huynh nhất định nhận ra, cũng nhất định hiểu rõ, chuyến tiêu này chính là gửi cho các huynh đó."

 Đỗ Hoài Sơn đến lúc này mới hiểu ra, cười nói: "Tần lão ca à, huynh gạt bọn ta đến khổ! Gạt bọn ta hai người bôn ba hành trình, tính toán đến bạc đầu làm sao đoạt được tiêu ngân của huynh, thì ra ông ấy là người nhận chuyến tiêu, chuyến tiêu cũng là gửi cho ông ấy. Vị tiểu ca họ Lạc này..." Lão dừng lời trầm ngâm một lúc, nhưng không nói rõ trong lòng nghĩ gì, "đúng là rộng rãi thật, Ngược lại bọn ta lại là kẻ tiểu nhân kỹ lưỡng, truyền ra ngoài chắc sẽ làm trò cười cho thiên hạ. Chỉ là Tần huynh khi nãy nói tính mệnh của mười mấy huynh đệ nghĩa là gì, dọa ta tưởng là Tần huynh muốn đánh với bọn ta một trận, lão hủ chỉ sợ không thắng được Thập cầm cửu ổn khai bi thủ của huynh thôi."

 Tần Ổn liền than: "Đó là chút nhân tình gửi kèm với chuyến tiêu này, Long lão gia tử của bọn ta nghe nói phe ta ở Hoài thượng đang thiếu người, mấy gã thiếu niên này đều có nghĩa khí can đảm, thêm vào ở mạn nam phạm chút tội vặt, do đó kêu bọn chúng cùng ta đem tiêu hóa đến đây, cũng là giao cho các người, xem có thể giúp người ấy một chút sức mọn hay không?"

 Đỗ Hoài Sơn giật mình, lão tuy biết người ấy danh vọng cực lớn, nhưng không ngờ Long lão gia tử lại chủ động gửi người tới cho ông ta. Mười mấy gã hộ vệ này lúc này hai mắt đỏ ngầu, đột nhiên đồng loạt quỳ xuống trước mặt Tần Ổn, quỳ xuống khấu đầu, rồi nói: "Lão nhân gia, tiểu điệt từ nay về sau không được ở gần người nữa, nếu nương tử ở nhà có gì cần, mong người lo giùm cho," có kẻ lại nói: "Lão gia tử, mẹ con đành giao cho người lo cả." Đợi đến gã cuối cùng hành lễ xong, lão mới quay sang nói với bọn họ: "Lão đầu tử ta đã già rồi, không thể cùng các ngươi xả thân báo quốc nơi tiền tuyến, nhưng các ngươi không cần lo cho gia đình, chuyện này ta còn lo được, ta còn sống quyết không để bọn họ thiếu thốn hay bị hà hiếp gì đâu."

 Mười tám người này liền đứng dậy, lau sạch lệ, rồi đứng ra phía sau lưng Đỗ Hoài Sơn. Đỗ Hoài Sơn liếc nhìn bọn họ, đột nhiên nói: "Giang sơn rộng lớn, con cháu nhiệt huyết" rồi không nói gì thêm bước ra ngoài điếm. Vương Mộc thu thập hết kim ngân trên bàn, rồi vẫn dùng chăn bao lại để trên xe đẩy, Mấy tên hộ vệ tiêu cục thân cường lực tráng, lưng dài vai rộng nối bước theo sau. Trong không trung dường như có chút lạnh lẽo của tráng sĩ ra đi đầu không ngoảnh lại.

 Mắt thấy bọn họ trên tuyết đi càng lúc càng xa, chỉ còn lưu lại một dải vết chân, Tần Ổn ngẩng đầu dõi theo, đầu tóc bạc phơ tung bay trong gió đầy vẻ thê lương, cảm thấy bao nhiêu mộng tưởng và hào tình thuở trẻ đã trôi xa lắm rồi nhưng phảng phất như vẫn còn ở bên cạnh, hết sức gần gũi, trong lòng mình cũng chẳng biết đang nếm phải mùi vị gì.

 Trầm Phóng và Tam nương đưa mắt nhìn nhau. Ở chân trời tuyết mới lại rơi, Hoài thượng đúng là tuyết rơi đầy thôn xóm.

HẾT 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro