55-64

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

✰ Chương 55 ✰

Chuyển ngữ: Jane

"Ghét anh lắm."

***

– Mô-đun A1 bình thường.

– Mô-đun D3 bình thường.

– Động cơ...

Cả chiếc máy bay đột nhiên chông chênh.

– Động cơ gặp lỗi chưa rõ.

– Mau khởi động chương trình hạ cánh khẩn cấp!

– Thưa cơ trưởng, chương trình khẩn cấp không khởi động được!

– Chuyển sang chế độ điều khiển bằng tay đi!

Cả chiếc máy bay đang chao đảo điên cuồng, tiếng gầm của động cơ lúc đặng lúc mất. Hubbard rịt chặt tay vịn ghế, đoạn kiểm tra xem đã thắt dây an toàn chưa.

– Gặp sự cố à? – Lục Phong hỏi – Chả phải trước khi cất cánh đã tu sửa một lần hay sao?

Hubbard ngồi cạnh anh chau mày:

– Trong lúc bay có bị dị chủng tấn công không?

Một tay sĩ quan khác trả lời:

– Không có, chúng ta an toàn suốt hành trình.

Hubbard nheo mắt:

– Mà nói chứ, một chiếc máy bay yểm trợ của chúng ta cũng rơi tan xác tầm ba tiếng trước đấy.

Khoang cứ tròng trành liên tục, máy bay chợt cao chợt thấp, cuối cùng cũng lấy lại sự ổn định đáp vững xuống mặt đất. Cửa buồng lái vừa đẩy ra, mặt mày phó cơ trưởng với phi công đều xanh mét, phi công quỳ thụp xuống nôn mửa cạnh thùng rác.

– Trời ơi... – Phó cơ trưởng cất tiếng – Suýt tí là xong đời rồi, chắc chắn động cơ có vấn đề, tôi chưa gặp sự cố kiểu đó lần nào. Chiếc máy bay này giờ chẳng xài được nữa đâu vì nó cần sửa chữa toàn diện.

Ngặt nỗi, mặc dù suýt tí là xong đời, thì họ vẫn hạ cánh an toàn.

Giây phút bước xuống máy bay Lục Phong ngẩng đầu nhìn thành phố ngập nắng này, ở khu vực ngoại thành, có một đàn ong vỗ cánh vụt bay rồi biến mất nơi chân trời.

– Ong ư? – Hubbard nghi ngại.

Nhưng họ chẳng rỗi để trò chuyện tiếp. Hàng tá sĩ quan thuộc Trung tâm Mặt trận thống nhất đang đứng đầy trật tự dưới chiếc thang lên xuống

– Mừng các anh trở về, – Kẻ dẫn đầu khom mình chào họ, vẻ mặt nghiêm túc – tôi xin thay mặt cho căn cứ tuyên dương các anh.

Hubbard không có quân hàm nên chẳng cần quan tâm phép tắc rườm rà ở quân đội, gã hỏi thẳng:

– Căn cứ bị gì thế?

Khóe miệng tay sĩ quan nọ đanh lại, thưa rằng:

– Tai họa khó mà hình dung nổi.

Tức thì hắn quay sang Lục Phong:

– Thưa Thượng tá Lục Phong, xin hãy đi theo tôi một chuyến.

Lục Phong liếc nhìn xung quanh, anh im lặng lên xe cùng họ. Hubbard nhìn họ rời đi, ánh mắt ngưng đọng, đứng cạnh gã là một chàng sĩ quan cao cấp thuộc Bộ Tham mưu, bấy giờ chàng sĩ quan kia mở lời:

– Trung tâm Mặt trận thống nhất và Thượng tá Lục chướng mắt nhau lắm.

– Tôi nghe bảo năm xưa, ngay ngày đầu tiên nhậm chức quan thẩm phán cậu ta đã giết một vị trung tướng ở Trung tâm Mặt trận thống nhất rồi – Hubbard khoanh tay.

Chàng sĩ quan nọ không trả lời, dưới tình huống này thì im lặng đồng nghĩa với việc ngầm thừa nhận.

Trung tâm Mặt trận thống nhất.

– Đại khái sự việc là vậy đấy – Lão thượng tướng ngồi cuối dãy bàn dài nói.

Quân đội ở căn cứ phân cấp rất nghiêm, song Tòa Xử án là ngoại lệ. Ban đầu nó chỉ là một đơn vị kết hợp giữa Hải đăng và quân đội, thành viên chủ yếu là các nghiên cứu viên, hoàn toàn chẳng có ai thuộc phía cấp hàm quan lại cao. Về sau nữa, Tòa Xử án gần như đóng quân cả năm ở ngoại thành, mà ngoại thành thì càng bị hạn chế cấp bậc hơn, Sở Thành phòng, Sở Thành vụ, sở trưởng của chúng toàn là sĩ quan thượng tá, do đó, nhiều năm qua không ai đề cập tới chuyện tăng quân hàm cho thẩm phán giả.

Nhưng mọi người đều hiểu rằng thẩm phán giả có quyền phán xét, huy động lẫn ra lệnh cao hơn mọi cấp bậc khác, quyền hạng thực tế của anh vượt xa những gì mà một thượng tá có thể có. Chính vì điều đấy, sự tồn tại của vị trí này càng khiến con người ta cảnh giác sợ sệt hơn, song căn cứ lại chẳng tài nào xóa bỏ nó nổi.

Lục Phong cất giọng bình tĩnh, không nghe nổi sự chênh vênh trong cảm xúc, anh hỏi:

– Căn cứ còn bao nhiêu người?

– Thống kê sơ bộ, còn khoảng 8,700 người may mắn sống sót.

– Hiện nay Trung tâm Mặt trận thống nhất đã cử đội bay lần theo dấu vết đàn ong – Thượng tướng nói – Thượng tá Lục à, tôi nhất định phải trình bày rõ, rằng hai đối tượng tình nghi trong vụ tai nạn lần này đều có liên quan đến cậu.

– Tôi thật lòng xin lỗi, – Lục Phong trả lời – nhưng tôi thề rằng mình hoàn toàn trung thành với căn cứ.

– Căn cứ tin tưởng cậu, – Thượng tướng nói – Cậu biết mình nên làm gì rồi nhỉ?

– Vâng, – Lục Phong điềm nhiên đáp – biên đội PL1109 xuất hiện sự cố chưa rõ, không thể chấp hành nhiệm vụ bay được, xin hãy đổi người.

– Cho phép đổi người.

*

Sẩm tối, hoàng hôn buông xuống. An Chiết chả biết con ong đen định bay đến chốn nào, song cậu sắp bị gió thổi héo quắt rồi. Thế là lúc ong đen đậu xuống đất nghỉ ngơi giây lát, cậu bèn biến thành sợi nấm bít kín đầu nó.

Không hề ngoài ý muốn, ong đen ngủ mê mệt.

Nơi đây cực kì hanh khô – là một vùng hoang vu bằng phẳng, chẳng phải chốn lí tưởng cho nấm sinh sống đâu, An Chiết lấy quần áo ra khỏi ba-lô mặc vào, đoạn xơi ít lương khô, tu nước ừng ực. Cậu chắn gió bằng cơ thể ong đen, định bụng đánh một giấc trước đã.

Bỗng tiếng nổ inh tai của máy bay vẳng tới từ bầu trời, An Chiết ngẩng đầu ngó – nó đang bay về phía nam. Có hơn mười chiếc máy bay đã bay về phía nam chỉ trong ngày hôm nay rồi, An Chiết ngồi trên lưng ong đen nghĩ ngợi cả buổi trời, rốt cuộc bật nảy ra một suy đoán.

Ong đen cũng đang bay về phía nam, đàn ong mật này chắc chắn có đích đến – là vị trí phù hợp với điều kiện sống của ong mật, mà những chiếc máy bay loài người kia đang đuổi theo đàn ong, mục đích của họ là giết sạch lũ ong ấy bởi chúng là ong đã lấy được gen người. Động vật chân đốt là quần thể yếu thế trong số lũ quái vật vùng ngoài, nếu như không tiêu diệt sạch sẽ thì gen người sẽ chạy theo chuỗi thức ăn trải rộng khắp vùng ngoài, giả sử lũ quái vật đó hợp sức tấn công căn cứ, vậy thì nguy to mất.

Về phần vì sao loài người có thể lần theo đàn ong ấy, cậu chẳng rõ, xem ra trước mắt ong đen của cậu vẫn chưa lọt vào phạm vi truy lùng.

Cậu quan sát chiếc máy bay nọ, nó khá nhỏ nhắn, hình như là một loại máy bay tiêm kích nào đó, cách nó bay mới thực là xiên đảo làm sao, cứ rung giần giật trên không trung, An Chiết thoáng chau mày, lẳng lặng nhìn máy bay lung lay thật tợn chốc lát rồi nổ tung thành một quầng sáng giữa không trung, tiếp theo rơi xuống cực nhanh.

Cậu cũng chứng kiến cảnh tương tự hai lần từ ban sáng rồi, máy bay con người thường xuyên gặp sự cố, chẳng hiểu nguyên do nữa.

An Chiết quấn chặt quần áo, nhắm mắt lại, tiếng nổ giật dội cứ dội lên không ngừng, nhưng cậu lẩn đằng sau ong đen, còn là buổi tối nữa, loài người chắc chẳng trông thấy cậu đâu.

Ngay thời khắc cậu sắp lim dim ngủ, có thanh âm to lớn khiến cậu giật nẩy mình, sực mở mắt ra.

Gió dằn dữ, thứ thanh âm gầm vang cũng dằn dữ, dữ tới mức lạ lùng, An Chiết gắng mở to mắt trông sang đầu nguồn âm thanh – cách đây một trăm mét, máy bay tiêm kích cỡ nhỏ của con người đột ngột liệng quật giữa không trung, đầu vục xuống dưới, tiếp theo nó nện mạnh lên mặt đất, cánh bên cạnh bị gãy, cả chiếc máy bay lật nghiêng qua.

Mặt đất chấn động, làn khói ngùn ngụt bốc lên từ chiếc máy bay nọ.

Hàng lông mày của An Chiết xoắn chặt hơn ban nãy, cậu đứng dậy rảo bước sang đằng đó. Lắm khi cậu rất khó giải thích về hành vi của mình, tựa như hôm ấy cậu kéo An Trạch trọng thương sắp chết về hang động của mình vậy.

Cửa buồng lái móp méo, vỡ toang hoác và oặt đi, giây phút An Chiết dốc hết sức lực đẩy cửa buồng lái thì một cơ thể chợt ngã vật ra, tên này bận đồng phục xanh sẫm của phi công quân đội, máu nhoe nhoét khắp người, mắt nhắm nghiền. An Chiết khom mình cẩn thận kiểm tra hơi thở của đối phương.

...Chết mất rồi.

Cậu chui vào trong buồng lái, kẻ ngồi ở vị trí còn lại của buồng lái cũng đi tong. An Chiết lách vào, đằng sau là khoang chở người cùng khoang vũ khí, cậu nghĩ bụng, hai kẻ đằng trước đã tắt thở hết đường cứu rồi, nhưng hẳn là cậu có thể tìm được vài thứ cần thiết ở đây.

Cứ như thế, cậu tiến vào khoang phía sau.

Khoảnh khắc tiếp theo, cậu bỗng sửng sốt. Ngay góc chéo trước mắt cậu, có một chàng trai – anh ta chẳng mảy may cử động, đầu gục lên lưng ghế phía trước.

An Chiết gần như quên cả thở, cậu nhanh chân đi tới trước mặt anh ta, đoạn nâng nửa thân trên của anh ta lên, và rồi thấy mặt đối phương.

Đấy là Lục Phong.

Lục Phong cũng chết rồi.

An Chiết hoàn toàn không thể miêu tả nổi tâm trạng vào giờ khắc này của mình, Lục Phong... chết rồi ư?

Cậu chẳng còn lòng dạ nào suy xét cớ sao Lục Phong lại xuất hiện ở đây, chỉ biết run rẩy thử kiểm tra hơi thở của anh.

Thoắt sau tâm trạng của cậu lại thay đổi tức thì, bởi anh còn thở, cái khoang này cực kì chắc chắn, dây an toàn cũng được thắt chặt, Lục Phong chưa đụng trúng bất cứ vật gì, nhất định là do xung lực lúc lao xuống quá mạnh nên tạm hôn mê thôi.

Trong không gian eo hẹp, mùi khét vấn vít khắp ngóc ngách, một luồng khói nhẹ xói qua buồng lái.

Cậu biết mình chớ nên nán lại đây quá lâu.

Lục Phong giắt súng bên hông, cậu lén giấu nó đi sau đấy bèn túm Lục Phong dậy, vắt cánh tay anh qua vai mình, định bụng kéo anh ra khỏi chỗ này.

Nhưng mà khó quá đi, cậu kéo không nổi, khoảng cách giữa chỗ ngồi và vách trước hẹp cực kì. Mùi cháy trẹm gay mũi ngày một nồng hơn, tiếng dòng điện nhiễu vọng ra từ máy liên lạc, xen lẫn là giọng nhân viên trực tổng đài hét lên: "Trung tâm Mặt trận thống nhất gọi thượng tá Lục Phong, nghe rõ xin hãy trả lời."

"Trung tâm Mặt trận thống nhất gọi máy bay tiêm kích PJ103, nghe rõ xin hãy trả lời."

Cuộn khói dày cứ ngùn ngụt dần, tiếng động cơ nổ ran ầm trời, An Chiết cắn răng cố kéo mạnh một phát!

Bỗng, cậu trông thấy Lục Phong thoắt mở mắt ra.

Tiếp sau đó trời đất quay cuồng, Lục Phong vươn tay ghì chặt cậu lại, anh đá văng cánh cửa khẩn cấp bên cạnh ngay lập tức, cửa sắt móp méo cuốn theo làn khói mịt mù rơi ầm xuống đất, tức thì anh nhanh chóng lôi An Chiết về phía mình, cả hai ngã uỵch xuống mặt đất, nhưng Lục Phong vẫn chưa thôi động tác, anh trói chặt cổ tay An Chiết bằng một tay, kìm vững bả vai cậu bằng một tay rồi bật nhào ra đằng xa, hai người cùng rơi vào khoảnh đất trũng gần đấy.

Hơi đau đó, An Chiết ôm chặt Lục Phong theo phản xạ, một giây sau, tiếng nổ đinh tai nhức óc dội thẳng bên tai cậu!

Mặt đất trong hố nông chấn động, đất đá lăn lóc, An Chiết ngẩng đầu, phát hiện có chùm pháo hoa rực rỡ bắn mạnh lên bầu trời đêm, chung quanh máy bay tiêm kích bất thình lình ngún lửa hừng hực, luồng nhiệt phả vào mặt, ánh lửa tựa tia chớp vàng chóe vĩnh cửu bất diệt, xác máy bay nổ tung bốn bề tựa mưa sao băng. Một cánh tay người đứt lìa bị cuốn theo chùm pháo hoa nọ – liệng bổng lên không trung, đoạn dừng lại phút chốc nơi cao nhất, sau đấy giáng quật xuống. Cổ tay văng lệch ra xa, bàn tay thì rơi phịch ở vị trí khá gần họ, dấy lên một lớp bụi.

Máy bay tự nổ, giống hệt hai sự cố mà chính mắt An Chiết chứng kiến hồi sáng.

Ba giây sau tiếng nổ ngừng bặt, nơi nơi trơ khấc, chỉ còn mỗi tiếng gió rít và thứ thanh âm vun vút giật dội từ ngọn lửa bị gió thổi lay lắt, làn khói dày bốc lên chẳng ngớt.

Suýt tí nữa là toang rồi.

Nếu như cậu không tiến vào khoang máy bay, có lẽ tính mạng của Lục Phong sẽ chấm dứt trong vụ nổ kia rồi, mà cậu thì chẳng bao giờ biết được người chết đi trong vụ nổ ấy là ai.

Hoặc giả, nếu Lục Phong chẳng bừng tỉnh kịp thời, thì dẫu cậu có tiến vào máy bay đi chăng nữa cả hai cũng tan xác thôi.

Trái tim cậu hơi hãm lại sau khi trở về từ cõi chết, máu nóng dâng trào, tai cậu ù đi và chỉ nghe lọt mỗi tiếng hít thở của nhau.

Mãi sau, cậu nghe thấy Lục Phong thều thào:

– ...Cảm ơn.

An Chiết thở hổn hển, mình mẩy cậu đang đau lắm. Vị trí bầm dập lúc ngã xuống đất thực tình chẳng thấm vào đâu, bởi di chứng từ việc tra tấn bằng điện và cách đối xử thô bạo của binh lính còn nặng hơn bội phần.

An Chiết ngẩng đầu.

Và cứ thế, cậu chạm mắt Lục Phong.

Trong vài giây nhìn thẳng vào anh, cơn đau do dòng điện kích thích toàn thân khơi dậy trong tiềm thức An Chiết, như thể cậu lại đặt mình vào căn phòng thẩm vấn lạnh lẽo eo hẹp đó, chỉ là lần này kẻ tra tấn biến thành Lục Phong.

Lục Phong khiến cậu cảm thấy nguy hiểm và sợ hãi hơn tất thảy mọi người.

Lục Phong quan sát cậu thật lâu, An Chiết chẳng tỏ rõ cảm xúc nơi anh. Rồi chỉ nghe Lục Phong cất giọng rất trầm, thốt từng câu từng chữ:

– An Chiết?

An Chiết không trả lời.

Tên họ trên thẻ ID của cậu là An Trạch, cậu lại tự xưng mình là An Chiết, dẫu cho tại ngoại thành, ta có thể bắt gặp việc bất mãn với họ tên được xếp ngẫu nhiên nên tự sửa lại ở bất cứ đâu, thì vẫn chẳng che giấu được rằng chính bản thân nó đã là một sơ hở rồi.

Đôi mắt ấy – đôi mắt dường như có thể nhìn thấu mọi thứ, đôi mắt giống hệt cái ngày lần đầu gặp gỡ. Ngày đó bước vào cổng thành cậu đã chuẩn bị tâm lí chết dưới súng của thẩm phán giả, nhưng ngày đó, Lục Phong lại buông tha cho cậu.

Tuy nhiên cậu vẫn không thoát nổi, chẳng qua sự phán xét chỉ tới muộn hai tháng mà thôi.

Cậu nghe thấy Lục Phong lạnh lùng hỏi:

– Tiêu bản ở đâu?

An Chiết chả dám trả lời câu hỏi này, song giọng điệu lẫn uy thế của thẩm phán giả là thứ còn khiến cậu khiếp đảm hơn tra tấn bằng điện. Cậu cắn chặt môi mình, cuối cùng đáp:

– Ăn mất tiêu rồi... hết trơn rồi.

Lục Phong đặt ngón tay lên bụng cậu, khẽ ấn mạnh xuống, cách một lớp vải mỏng, cảm giác rõ ràng đến hãi, An Chiết hoảng sợ run lập cập, cậu hết sức minh mẫn mà vỡ lẽ một điều rằng, nếu Lục Phong biết bào tử vẫn moi ra được, vậy anh ắt không do dự xé toạc cơ thể cậu, tựa như nửa năm trước anh dùng dao quân dụng cắt đứt sợi nấm của cậu vậy.

Cậu chẳng tài nào suy nghĩ nổi, đầu óc rỗng tuếch chỉ biết đứng nhìn Lục Phong, dưới ánh trăng và lửa, khuôn mặt thượng tá vẫn vô cảm, chân mày sắc sảo lạnh lùng, con mắt xanh thẫm sâu hoắm, nó không chứa đựng chút nhiệt độ nào, cũng không đọng bất kì dao động cảm xúc gì, anh vĩnh viễn hoàn hảo chẳng một tì vết, cũng vô tình lạnh lùng.

An Chiết hít thở nhè nhẹ, cậu vốn đang giấu súng của Lục Phong sau lưng, bấy giờ bèn âm thầm đẩy về phía sau tiếp, toan giấu nó kĩ hơn tẹo nữa.

Đằng nào thì, mất súng, Lục Phong cũng không... không làm gì cậu được đâu.

Buồn thay động tác đó lại khiến Lục Phong phát hiện ra sự tồn tại của khẩu súng kia, ánh mắt anh thay đổi, động tác nhanh tới mức khó lòng tin nổi, dùng sức mạnh gạt phăng mọi lực cản từ An Chiết, anh trở tay trói chặt An Chiết vào lồng ngực, một tay khác thì giật năm ngón tay An Chiết ra cướp súng ngay lập tức.

An Chiết thở dốc dữ dội, cố gắng giãy giụa phản kháng.

"Phằng!"

Súng nổ vang rền.

Đầu óc An Chiết trì trệ giây lát, nhưng tức thì phát hiện mình vẫn còn sống, cậu nghe thấy vật nặng ngã rầm xuống đất tuốt đằng xa, kèm theo tiếng quái vật tru tréo, cậu ngoảnh đầu, trông thấy một con quái vật thằn lằn bị Lục Phong bắn trúng chỗ hiểm, giùng giằng nằm vật ra.

Tấm thân An Chiết rét mướt, cậu biết trên hành tinh này cậu và con quái vật kia mới là đồng loại, còn Lục Phong và chúng là kẻ thù vĩnh viễn, hơn nữa chẳng bao giờ hòa hợp nổi.

Giây phút này đây, âm thanh nhiễu điện loạn xạ từ máy liên lạc Lục Phong lại vẳng ra thứ giọng nói ngắt quãng bị rè: "Trung... thống nhất gọi... tiêm kích PJ103, nghe rõ xin..."

Lục Phong bình tĩnh trả lời bên kia:

– PJ103 nghe rõ, máy bay tiêm kích đã rơi, phi công xác nhận bỏ mình.

"Xin... tiến độ nhiệm vụ, hãy gửi... tọa độ."

Giọng nói càng trở nên ngắc ngứ gián đoạn, nếu không phải máy liên lạc gặp vấn đề, thì ấy chính là mạng liên lạc phủ ngoài căn cứ lại bị hỏng, suốt một tháng ở ngoại thành, qua những cuộc tán gẫu của các anh lính đánh thuê, An Chiết biết được tín hiệu bên ngoài chưa bao giờ ổn định.

Chỉ nghe Lục Phong dửng dưng đáp:

– Đã kiểm soát mục tiêu.

"...Truyền lệnh, xác nhận... loại hình đột biến, lấy manh mối... bị mất... bắn chết. Xin..."

– Nghe rõ chưa hả? – Giọng Lục Phong ồm ồm, dường như âm cuối anh hơi run rẩy, nhưng lấn át tất thảy là sự lạnh lùng cương quyết – Trả lời mau.

Nòng súng lạnh buốt kề bên huyệt thái dương của An Chiết, lần đầu tiên trong đời cậu cảm nhận được mình kề cận cái chết đến độ này, nỗi sợ hãi kiểm soát cậu chặt chẽ, cậu run lẩy bẩy, bật thốt:

– Không... không cho.

"PJ103, xin hãy lập tức..."

Loa phóng thanh của máy liên lạc đẩy mọi cảm xúc lên tới đỉnh điểm.

Kế đó nó chợt im bặt vào giây tiếp theo.

"Rè..."

Tiếng nhiễu ngày một to, thoạt đầu là rè rè, kế đấy là quãng tút ngân dài, cuối cùng sau một tiếng tít đột ngột cao ngất thì bất chợt lắng xuống. Thay vào đấy là một tần số hòa hoãn, giọng nữ dịu dàng cất lên: "Xin lỗi bạn, tín hiệu căn cứ đang bị gián đoạn do chịu tác động từ tầng điện li hoặc gió Mặt Trời. Đây là tình huống bình thường, mong bạn hãy bình tĩnh, toàn bộ hoạt động vẫn tiến hành như thường lệ, tín hiệu liên lạc sẽ được khôi phục theo từng đợt. Phát thanh công cộng sẽ gửi đến bạn vào lúc đó, xin vui lòng giữ máy."

"Xin lỗi bạn, tín hiệu căn cứ đang bị gián đoạn do chịu tác động từ tầng điện li hoặc gió Mặt Trời..."

An Chiết vẫn bị trói chặt cứng, khoảng cách họ gần kề khôn cùng – một khoảng cách nguy hiểm tới cực độ, bất cứ khi nào Lục Phong cũng dễ bề giết chết cậu, cậu cũng có thể cảm nhận rõ nhịp tim lẫn hơi thở của Lục Phong. Rõ ràng khuôn mặt bình tĩnh đến thế đấy, cớ sao nhịp đập con tim chẳng hề từ tốn vậy.

Lục Phong siết chặt ngón tay đang nắm bả vai An Chiết, vừa hay đụng trúng vết thương cậu, An Chiết thoắt giật mình, đôi mắt bắt đầu ầng ậc nước, cơ thể run lẩy bẩy, khẽ nghẹn nấc lên.

Nòng súng buốt giá vẫn gí tại huyệt thái dương cậu, nó không bị thân nhiệt nơi cậu sưởi ấm chút nào, nỗi sợ lẫn bóng ma về cái chết cũng chẳng mảy may xua tan đôi phần, bờ môi An Chiết khẽ hé, vào giây phút đó, cậu cơ hồ không thốt nổi một lời, cậu nghĩ mình đã tan vỡ rồi... nếu như nấm cũng biết tan vỡ.

Tất cả cảnh ngộ đời này đều lội dòng vụt lên trước mắt cậu, mà cậu chẳng tóm nổi bất cứ thứ gì, chẳng hề chiếm được bất cứ thứ gì, mới một buổi tối hôm trước thôi, cậu còn mải nghĩ suy rốt cuộc nên nói dối sao để bảo vệ chàng thượng tá này.

– Không... không cho anh đâu – Cậu đưa tay bảo vệ bụng mình, giọng nấc lên đến là hãi, nó lúng búng chẳng nối thành câu, xen lẫn chút nức nở – Ghét... anh.

Họng súng kia chợt run rẩy.

"...Xin vui lòng giữ máy."

Thanh âm cuối cùng từ loa giáng xuống.

Hết thảy yên tĩnh.

Đốm lửa nay đã tàn, thông báo từ máy liên lạc cũng ngừng, toàn bộ mối liên hệ đều bị cắt đứt. Nơi đây, không có bất kì dấu vết sinh sống nào của loài người, tứ bề hoang vu, quạnh vắng vô tận, nó nối thẳng với bầu trời đêm.

Trông cứ như loài người chưa bao giờ tồn tại vậy. Chẳng có con người, chẳng có nền văn minh nhân loại, cũng chẳng có căn cứ loài người. Tất cả, tất cả sự giằng xé khúc mắc biến mất theo chuỗi tín hiệu, chợt tan thành mây khói.

Trên vùng đất hoang vu vĩnh hằng này, chỉ còn lại hai người họ.

Thanh âm trĩu nặng vang lên, khẩu súng rơi xuống đất.

Lục Phong nhắm chặt mắt, ôm chầm An Chiết vào lòng mình.

✰ Chương 56 ✰

Chuyển ngữ: Jane

"Chỉ là có đôi khi, anh muốn bảo vệ tất cả mọi người."

***

Khoảnh khắc được Lục Phong ôm siết, An Chiết tức thì run rẩy kịch liệt.

Cậu vùi mình vào người Lục Phong, vầng trán tựa lên bờ vai anh, cậu hoàn toàn chẳng miêu tả nổi tâm tư hiện tại của mình, chỉ cảm thấy trái tim bị một bàn tay nắm chặt và bóp nghẹt. Nỗi đau đớn khôn cùng nhấn chìm cậu, vành mắt chực trào từng giọt chất lỏng ấm nóng, cậu biết mình đang khóc, biết đấy chính là nước mắt – thứ mà chỉ loài người mới có được, nhưng đây là lần đầu tiên cậu trải nghiệm cảm giác này. Trái tim nom giống hệt bị xé thành từng mảnh.

Cớ sao lại thành ra như vậy?

Cậu nghĩ bụng, giá mà hai tháng trước Lục Phong đừng thả cậu đi, thế thì lúc bại lộ thân phận dị chủng, cậu sẽ không chật vật vì nghĩ rằng mình phản bội lòng tin của Lục Phong.

Giá mà những ngày qua cậu đừng vun đắp tình hữu nghị với Lục Phong, thế thì lúc đối diện với nòng súng của Lục Phong, có lẽ cậu sẽ chẳng hoảng sợ đến vậy.

Và giá mà, giả sử Lục Phong đừng ôm cậu vào phút chót, có lẽ cậu sẽ chẳng cảm thấy... tủi thân đến vậy.

Tuy nhiên tại sao Lục Phong lại buông khẩu súng đó xuống? Cậu không biết. Cậu chưa bao giờ trải qua thứ cảm xúc mãnh liệt như hiện tại, nó mãnh liệt tới độ cậu chẳng tài nào quan tâm nổi những chuyện khác.

Cậu không hiểu bất cứ điều gì, nhưng rồi vẫn òa khóc thật lâu, chờ đến thời điểm chả còn giọt nước mắt nào chảy ra nữa, thì bèn thút thít từng chút từng chút một.

Màn đêm ngày một sâu hoắm, rốt cuộc sau khi bình tĩnh trở lại, An Chiết phát hiện xung quanh vắng ngắt – tựa như chẳng còn bất cứ thứ gì tồn tại nữa, trên thế giới này chỉ có hai người họ. Cậu gục vào bả vai Lục Phong, ngực kề ngực, nhịp tim hơi loạn vọng ra từ lớp áo, không rõ là của người nào.

Bọn họ vẫn còn sống.

Cậu dụi dụi mắt, giọng hơi khàn:

– Sao lại rơi máy bay vậy?

– Động cơ gặp trục trặc, – Lục Phong đáp – để tôi đi lấy hộp đen xem thử.

An Chiết ò một tiếng rồi buông cánh tay đang ôm chặt Lục Phong ra. Cái ôm này có vẻ khá là lâu, giây phút tách rời, ngọn gió nơi hoang mạc lách vào chốn vốn thân mật khăng khít, cóng lắm, An Chiết khẽ run lập cập. Lục Phong choàng áo khoác lên người cậu, đoạn đứng dậy đi tới chỗ xác máy bay. Đây là máy bay chiến đấu cỡ nhỏ, xác chả to mấy, An Chiết thấy Lục Phong cầm linh kiện nằm vạ vật dưới đất cạy mở đuôi máy bay, tiếp đó lấy một chiếc hộp màu cam chóe ra.

Cậu nhớ lại những chuyện xảy ra suốt ngày hôm nay, bèn mở lời:

– Em thấy nhiều chiếc máy bay rơi xuống lắm.

Lục Phong điềm nhiên ừ một tiếng.

Dẫu An Chiết chỉ là một cây nấm, thì cũng hiểu rằng việc hàng loạt máy bay cùng gặp sự cố động cơ là điều hết sức kì lạ. Cho nên cậu hỏi:

– Vì sao vậy?

– Chưa rõ, chờ trở lại căn cứ mới phân tích được – Lục Phong cất hộp, sải bước đến bên cậu – Em ở đâu?

An Chiết trả lời:

– Ở trên mặt đất.

Lục Phong nhướng mày.

An Chiết lập tức ngậm miệng không nói gì nữa, cái câu "Ở trên mặt đất" quả thực chẳng giống lời mà một con người sẽ thốt ra tẹo nào.

Song chẳng mấy chốc Lục Phong chợt chú ý đến món đồ khác thường duy nhất trên sa mạc này: ong đen và ba-lô nằm chỏng gọng. Anh chạy qua đằng kia, An Chiết toan đuổi theo, song cẳng chân bất chợt nhói lên – là chỗ bầm dập do cú ngã ban nãy.

Lục Phong ngoái đầu nhìn cậu, An Chiết bặm môi dưới, khập khiễng gắng theo sát anh.

...Sau đó nữa, Lục Phong bỗng nâng thốc cậu lên.

Việc được thượng tá cõng thì trước lạ sau quen ấy mà, An Chiết tìm đúng vị trí của mình một cách suôn sẻ. Khoảng cách giữa họ rất gần, nào giống khoảng cách giữa loài người và dị chủng nên có. Nhưng ngay đêm hôm nay, dường như thượng tá chẳng phải là thượng tá, dường như dị chủng cũng chẳng phải là dị chủng nữa.

Giây phút ôm choàng cổ Lục Phong, An Chiết thoáng sờ trúng đường viền của một sợi dây nhỏ, cậu dời ngón tay xuống dưới, chạm trúng một món đồ ấm lạnh giao thoa.

... Lục Phong cũng đeo một mặt dây chuyền cứng ngắc.

Ắt hẳn cái chuyện thoát chết từ tay Lục Phong đã khiến cậu gan dạ hơn rất nhiều, vả chăng hình dạng của mặt dây chuyền nọ lại quen thuộc quá đỗi, ngón tay cậu áp sát cổ Lục Phong, đoạn nhẹ nhàng móc nó ra, mà Lục Phong thì chẳng tỏ thái độ gì, tựa hồ ngầm cho phép động tác này.

Phía cuối sợi dây kim loại bạc, một vỏ đạn màu đồng thau nhá nhem sáng dưới cực quang.

Mặt dây chuyền vỏ đạn của mình đại diện cho bào tử bị mất tích, nhưng vì sao Lục Phong cũng có vậy nhỉ? An Chiết chả hiểu lắm, cậu khẽ ớ lên.

Bỗng nghe Lục Phong thản nhiên nói:

– Bố tôi.

An Chiết im lặng, qua chừng ba phút, cậu bèn nhét dây chuyền vào lại cổ áo Lục Phong, ngoan ngoãn đáp đầu lên vai anh, rụt cánh tay về, chẳng dám táy máy nữa.

Cách lớp quần áo, Lục Phong dễ bề cảm nhận được cậu trai sau lưng thoạt đầu đanh người lại vì thấp thỏm, kế đó dần dần thả lỏng, rồi treo cả tấm thân lên người anh. Sau sự việc xảy ra hôm nay, An Chiết vẫn dám dựa vào anh mà chẳng mảy may đề phòng, cậu trai này luôn có những động tác vượt ngoài dự đoán trong anh.

An Chiết phả hơi thở ấm áp lên cổ và vai anh, An Chiết có trọng lượng bình thường của con trai vào lứa tuổi này, song đối với Lục Phong thì cậu chẳng hề nặng. An Chiết mềm mại kề sát tấm lưng anh, không có bất kì sự cảnh giác nào, cứ như thể mọi mối nguy hiểm lẫn rùng rợn trên cõi đời này đáng lí chả dính dáng gì đến cậu.

Lục Phong bỗng nhớ lại năm đầu mình vừa vào Tòa Xử án.

Lí do gia nhập Tòa Xử án cũng chẳng có gì đặc biệt, chỉ là có đôi khi, anh muốn bảo vệ tất cả mọi người thôi.

Mà trên thực tế, anh chỉ bảo vệ được số ít người, đồng thời đã làm hại đến rất nhiều người, ý định thuở ban đầu của anh vốn không phải như thế, nhưng sau cùng anh vẫn trở thành đối tượng bị mọi người căm ghét.

Đương lúc rảo bước, hô hấp của An Chiết dần trở nên đều và nhẹ tênh, hôm nay cậu khóc nức nở rất lâu, hẳn là khóc mệt lử rồi – nom thật giống bé con chưa bao giờ trải sự đời, nhóc dị chủng này có lẽ sắp sửa ngủ thiếp đi.

Lục Phong cũng nhớ lại một tháng trước, vào buổi chiều côn trùng tàn sát bừa bãi trong thành phố, anh nhận được cuộc gọi từ An Chiết, giọng cậu thỏ thẻ, dường như đang sợ hãi. Hiện tại là năm thứ bảy anh nhậm chức thẩm phán giả, suốt bảy năm qua, đấy là lần đầu tiên anh nhận được lời cầu cứu, chưa từng có một ai dám làm điều đó cả.

Ở cái thời đại này, muốn bảo vệ tất thảy mọi người thực chất chỉ là sự hoang tưởng sớm muộn gì cũng sụp đổ, tuy nhiên anh nghĩ rằng ít nhất mình có thể bảo vệ một ai đó trọn vẹn – ít nhất thì, ngay khoảnh khắc nghe thấy lời cầu cứu, trong lòng anh đã vụt lên đôi phần kì vọng thoáng qua liền mất.

Lúc thả An Chiết xuống, cậu đang lim dim ngủ, Lục Phong đắp áo khoác của mình lên người cậu thay chăn, hiềm nỗi hiển nhiên anh chẳng giỏi chăm sóc người ta lắm, phù hiệu trước ngực sượt trúng An Chiết. An Chiết nửa mê nửa tỉnh tháo nó ra, phát hiện đây chính là chiếc phù hiệu mà mình luôn giấu nhẹm khi ở trong căn cứ. Thời điểm cậu biến thành sợi nấm lẩn trốn thì quần áo bao gồm cả chiếc phù hiệu này đều rơi xuống sàn rồi, song bấy giờ phù hiệu lại trở về trên người Lục Phong.

An Chiết cầm nó lên, tỉnh táo hơn hẳn, cậu dè dặt cất tiếng:

– Tiến sĩ kể gì với anh chưa?

Lục Phong cúi đầu nhìn xuống cậu:

– Em muốn nói về chuyện gì?

An Chiết lí nhí đáp:

– ...Không có gì.

Lục Phong thực sự định giải thích nghiêm túc cho cậu nghe, tuy nhiên anh bỗng thấy nhóc dị chủng này ôm chặt ba-lô, thu mình lại thành một cục nho nhỏ. Dưới ánh trăng, một cặp mắt đen láy nhìn anh chăm chú, dường như rất dễ bị tác động cảm xúc.

Vậy là Lục Phong bèn cười đầy giễu cợt, anh cất giọng bỉ bai:

– Em nghĩ mình tài giỏi đến mức đó à?

An Chiết trở mình qua, đưa lưng hẳn về phía anh.

✰ Chương 57 ✰

Chuyển ngữ: Jane

"Tự dưng cậu thấy hơi vui chút xíu."

***

An Chiết không nghe lọt lời đánh giá từ Lục Phong, cậu cảm thấy Lục Phong lại đang nhấn mạnh về sự nhỏ yếu của cậu, đây chẳng phải là lần đầu tiên anh ăn nói kiểu này.

...Dù cậu thật sự không tài nào lây gen cho cả Vườn Địa Đàng, cậu thậm chí còn chẳng lây gen nổi cho một người kia kìa.

Song cậu không thể chấp nhận được việc rằng lời nói dối bị vạch trần là do mình yếu xìu, chứ chẳng phải do lời nói dối chưa đủ cao siêu. Cậu chỉ đành tự an ủi bản thân, hẳn chỉ có mình Lục Phong là chả tin lí do thoái thác của cậu thôi.

Chỉ có mình Lục Phong là đáng ghét thôi.

Cậu cất giọng:

– Không cho anh ngủ ở đây.

– Gì cơ? – Lục Phong đáp.

An Chiết xẵng giọng:

– Không cho.

Lục Phong:

– Vì sao?

An Chiết xoay lưng về phía anh, đoạn rúc vào áo khoác, cậu vốn định ứ nói thêm gì nữa và chỉ kiên quyết đuổi thượng tá ra khỏi địa bàn của mình thôi, nhưng dùng dằng trong lòng chốc lát thì vẫn chọn giải thích nguyên nhân đàng hoàng:

– Coi chừng bị truyền nhiễm không tiếp xúc đó.

– Ồ, – Giọng Lục Phong rất trầm – con ong còn sống.

An Chiết:

– ...

Lại nghe Lục Phong hỏi:

– Nó còn sống, thế sao lại hôn mê?

Lần này dẫu đánh chết An Chiết, An Chiết cũng không chịu mở miệng nữa đâu, cái tên Lục Phong này ấy, chỉ cần bạn tiết lộ xíu thông tin cho anh ta thì anh ta có thể suy đoán trạng huống hết sức rõ ràng.

Nhưng đêm nay thượng tá cũng chẳng định trêu ghẹo cậu, chỉ bảo rằng:

– Tôi gác đêm.

An Chiết lí nhí ò một tiếng, rồi cậu hỏi:

– Anh thấy lạnh không?

Lục Phong trả lời:

– Không lạnh.

Bấy giờ An Chiết mới nhắm mắt lại, cậu siết chặt chiếc phù hiệu kia, nằm thu mình xo ro, tối nay cậu tốn nhiều cảm xúc lắm nên thiếp đi rất nhanh. Hiềm một nỗi, đương lúc nửa mê man say giấc, cậu chợt bừng tỉnh vì cóng.

Sự cố từ trường dạo gần đây dẫn đến việc gió Mặt Trời đang gây bao thiên tai và bầu khí quyển trở nên mỏng hơn, nhiệt độ giữa ngày và đêm chênh nhau nhiều tới hãi. Mình mẩy An Chiết lạnh tái, cậu mở mắt, ngồi dậy, ngó dáo dác xung quanh hòng tìm bóng dáng Lục Phong theo bản năng.

Cậu dễ dàng trông thấy thượng tá đứng cách đấy không xa, Lục Phong đang tựa dưới một tảng đá trông quái dị tợn do bị gió xói mòn, trước mặt có vài nhánh cây được xếp một cách quy luật – xếp thành hình nón.

An Chiết dụi dụi mắt, ôm áo Lục Phong đi sang bên kia. Thượng tá nhường áo cho cậu khoác, nên giờ trên người chỉ bận mỗi áo sơ-mi quân phục thôi. Cậu đưa áo khoác qua, tiếp tục hỏi bận nữa:

– Anh lạnh không?

– Mặc vào đàng hoàng, – Anh bảo – tôi cứ tưởng em còn ngủ được thêm một chốc.

An Chiết:

– ...Hở?

Lục Phong ném bật lửa vào lồng ngực cậu:

– Đi nhặt củi với tôi.

Thế cho nên, thượng tá đã biết có lẽ cậu sẽ sực tỉnh vì bị lạnh từ trước, đồng thời dự định nhóm lửa. Mà anh còn nói rằng, cứ tưởng em còn ngủ được thêm một chốc nữa... An Chiết tiến hành phiên dịch câu trả lời uyển chuyển hiếm hoi này của thượng tá, cuối cùng rút ra kết luận, lời thượng tá chân chính muốn nói chính là: Sao em còn yếu hơn trong tưởng tượng của tôi vậy?

An Chiết:

– .

Cậu bắt kịp Lục Phong. Trong lúc nhất thời, nơi đây chỉ còn văng vẳng mỗi tiếng gió rít, tiếng quái vật gào tướng lên đằng xa và tiếng bước chân của họ. Họ đi ra ngoài, trên vùng hoang mạc chỉ lác đác dăm ba bụi cỏ, bởi thực vật đã chết hết dưới sự tấn công của gió Mặt Trời, vả chăng chúng vốn dễ bắt lửa nên bị đốt cho bằng sạch.

An Chiết hỏi:

– Anh tìm nhánh cây nãy giờ à?

– Không, – Lục Phong bâng quơ trả lời – có quái vật, tôi không đi xa được.

An Chiết khẽ ò đáp lại anh, cậu muốn mách cho Lục Phong hay, rằng thực chất nhiều loài quái vật chẳng hề nảy sinh hứng thú với một cây nấm như cậu đâu, nhưng cậu bỗng vỡ lẽ Lục Phong thế này là đang bảo vệ cậu, nghĩ tới đây, tự dưng cậu thấy hơi vui chút xíu.

Đất cát trên sa mạc rất mềm, hễ nện bước xuống thì chỉ nghe được âm thanh ma sát thật khẽ. Chân của An Chiết vẫn chưa tiện đi đường lắm, Lục Phong chẳng bắt cậu theo sát, mà là đảm bảo cậu đang di chuyển trong tầm mắt mình, kế đó bèn gom nhặt các nhánh cây xung quanh rồi đưa chúng cho An Chiết.

Chờ đến lúc nhánh cây trong ngực ngày một nhiều, An Chiết bắt đầu ôm không xuể, Lục Phong mới cất tiếng:

– Đủ rồi.

Thế là họ lại sóng vai đi trở về. Dưới ánh trăng, những cồn cát tựa đụn tuyết lãng đãng trước mắt họ, xác máy bay tít nơi xa như mụn nhọt xấu tợn ăn sâu vào lòng đất. Thốt nhiên, Lục Phong khựng bước, An Chiết cũng vội ngừng theo.

...Có thứ dự cảm kì lạ ập tới khiến sống lưng cậu lạnh toát, cậu nghe thấy một thanh âm.

Giữa hoang mạc tĩnh lặng, đột nhiên bảng lảng thứ tiếng động khó mà miêu tả chính xác nổi, cậu biết Lục Phong cũng nghe thấy nó.

"Soàn soạt."

"Soàn soạt."

"Soàn soạt."

Tiếng động khiến con người ta sởn tóc gáy vẳng lên khắp hoang mạc một cách quy luật, rất khẽ, song lại hết sức rành rọt, nom cứ như rủ rỉ ngay bên tai vậy, hai lần trước thì khoảng cách cực xa, lần sau thì cực gần.

"Soàn soạt."

Giây phút tiếng động nọ vang thêm lần nữa, Lục Phong bèn nhấn bả vai An Chiết, cả hai nằm sấp xuống bãi cát, trốn phía sau một bụi cỏ.

"Soàn soạt."

Dưới ánh cực quang, một bóng đen to tướng xuất hiện bên rìa cồn cát chông chênh. Nó có hình dáng tương đương hình bầu dục, cấu tạo cơ thể nhạt nhòa khôn cùng, lớp da thì thô ráp lộm cộm hệt một nắm thịt nhão uế tạp bị vò mạnh vào chung với nhau, có cái bướu sáng loáng lồi lên giữa tấm thân nó – bề mặt mọc đủ tròng mắt lớn nhỏ, thì ra đấy là đầu. Hằng hà sa số chiếc chân mọc dưới hình thể bóng đen khổng lồ nọ, có từ to đến nhỏ, có chi sau giống động vật bò sát, có chân kìm giống côn trùng, cũng có cả cánh tay con người.

...Đống chân đó chống thẳng và khuân tấm thân đi lên bãi cát gồ ghề nhấp nhô, cách di chuyển nom nặng trình trịch, đống chân hằn dấu vết hình cuộn sóng dài hơn năm mét trên mặt đất đầy rẫy cát sỏi, nó tới gần xác máy bay nát vụn bằng kiểu tư thế dị hợm như vậy đấy. Hễ chuyển động được một đoạn thì tiếng "soàn soạt" lại rít lên từ chỗ nó rồi lan đều đều ra xa. Có lẽ đấy là cơ quan phát âm của nó.

An Chiết nín thở, đăm đăm ngó cái khe dần nứt toác trên cơ thể con quái vật khó mà miêu tả, khó mà hình dung kia, bên trong hé lộ răng nanh lẫn gai nhọn lít nhít.

"Rắc..."

Tiếng va chạm kim loại inh tai vang rền, ngay sau đấy là tiếng ma sát lộn xộn, tiếng cắn đứt, tiếng nhai ngấu nghiến, rồi tiếng nuốt ực.

Nó đang xơi đống xác vụn kia. An Chiết chẳng hề biết quái vật có thể xơi kim loại hệt như thức ăn – dẫu cậu sống dưới Vực Thẳm lâu lắm rồi, Vực Thẳm không thiếu xe bọc thép đã mất chủ hoặc các bộ phận hỏng hóc của súng ống, nhưng chả có con quái vật nào thèm đếm xỉa đến chúng cả. Hoặc biết đâu, mục tiêu mà con quái vật đằng trước nhắm tới không nằm ở chỗ kim loại, mà là thây của hai phi công vùi trong đống đổ nát kia. Ta dễ bề mường tượng đối với những sinh vật dị hợm dư sức cắn nuốt vật liệu hợp kim, thì xương thịt loài người thực sự mềm oặt dễ nhai như một thứ bùn nhão vậy.

Ngặt nỗi nó chẳng hề vùi đầu thưởng thức đống xác cháy đen nát bấy to tướng ấy, nó chỉ bỏm bẻm nhai năm lần.

"Soàn soạt."

Giây phút cái mõm đó khép vào, tiếng động lại bật ra, nó ngoắt sang một hướng khác – con ong đen hãy còn ngủ mê man nằm cách đấy một trăm mét.

Rồm rộp.

Nó tọng cả cái đầu của ong đen vào người. An Chiết trợn to cặp mắt, chứng kiến có một thứ chợt nhú khỏi cơ thể con quái vật nọ – một đôi cánh màu kim loại hơi trong suốt rủ xuống, nó vỗ khẽ dăm bận và phát ra thứ thanh âm giống lá cây lay lắt trong gió thu. Bộ phận từng thuộc về con ong đen cứ như vậy xuất hiện trên người nó.

"Soàn soạt."

Một giây sau, mọi con mắt trên đầu nó đều nhìn về phía mà An Chiết và Lục Phong đang ẩn nấp.

✰ Chương 58 ✰

Chuyển ngữ: Jane

"Vì Người ở bên con."

***

"Soàn soạt."

Luồng sóng âm ấy hình như đang dấy lên một dải gợn sóng trong không khí. Chốc sau An Chiết mới vỡ lẽ rằng nó không xác định vị trí dựa vào đôi mắt, mà là dựa vào âm thanh.

Một loạt chiếc chân rục rịch, toan đi đến bên này.

"Phằng!"

Tiếng súng vang rền giữa khoảng trời đêm, có gió sượt qua cạnh chỗ An Chiết – Lục Phong trèo lên mỏm đá cao ngất, anh nổ phát súng đầu tiên bằng tốc độ khó lòng mường tượng nổi.

Thanh âm soàn soạt ngừng bặt. Đồng tử mọc trên thân nó chậm rãi dời sang, tiếng gầm ngắc ngứ nặng trình trịch vọng tới, ắt hẳn mụn mủ đã trướng đầy trong khí quản nó rồi, An Chiết nghĩ bụng.

Phát súng thứ hai nhắm vào mé phải của một con mắt.

Tiếng hộc rống hăng hơn, An Chiết bất chợt mở to mắt.

Máu.

Máu màu đỏ hoét tung xối từ lỗ thủng trên đồng tử... Nói đúng hơn thì không phải tung xối, mà là phụt tóe.

Lục Phong bồi liên tiếp mấy phát, lỗ thủng dần lở loét toang hoác, máu loãng phun ra từ nơi đó giống hệt suối nguồn, tiếng gào tướng của con quái vật bị phóng đại vô số lần, An Chiết ngẩng đầu nhìn Lục Phong, thấy ánh mắt anh tỉnh táo vô ngần, dường như hết thảy đều nằm trong sự dự đoán.

Cậu ngoảnh sang con quái vật nọ – cánh nó vỗ rần rật, nhưng cơ thể quá nặng đâm ra chẳng bay lên nổi. Nó liều mạng xồ về phía trước – tức xồ thẳng tới mỏm đá Lục Phong đang đứng, một tiếng ruỳnh sập tới! Đá chấn động, bụi bặm và sỏi cát rơi lộp độp cùng lúc, Lục Phong đứng trên đó lại không chao đảo tẹo nào. Anh rủ mắt nhìn xuống đống thịt to tướng phía dưới.

Động tác đâm sầm vào đá khiến tốc độ chảy máu ở nó nhanh hơn, nom cứ hệt một túi nước bị bung nắp, An Chiết chứng kiến cảnh tượng hết sức kinh hoàng này, cậu ngờ rằng cơ thể của con quái vật nọ vốn tạo thành từ vô số chất lỏng.

Âm thanh ấy dần lịm đi sau lần thụi thứ mười, vóc dáng khổng lồ của nó tức thì ngã vật ra đất.

Những thứ chảy ra từ lỗ thủng không chỉ có mỗi máu tươi mà còn có khối mô lẫn các nội tạng kì quặc, tim và phổi hợp thành một – nó túa ồng ộc ở trạng thái bán rắn, mùi tanh khẳn hết sức khó tả lan tỏa khắp chung quanh. Dẫu cho là quái vật tít dưới Vực Thẳm, thì nội tạng trong người cũng chẳng có cấu trúc thật khó để hình dung như thế này.

An Chiết:

– ...?

Cậu chưa hiểu mô tê gì sất, cậu ngẩng đầu ngó Lục Phong, Lục Phong thoáng nhướng mày, nhảy xuống chỗ cậu:

– Sao nào?

An Chiết bật thốt:

– ...Chỉ vậy thôi hả?

Lục Phong trả lời:

– Chỉ vậy thôi.

An Chiết nói:

– Nó chết dễ quá.

– Ừ – Lục Phong thu súng, báng súng nhẹ nhàng xoay một vòng giữa năm ngón tay trắng toát của anh, rồi lại trở về hộp súng giắt bên hông.

An Chiết sa vào nỗi nghi ngại khổng lồ, thậm chí bắt đầu nghĩ giả dụ mình ăn một phát đạn thì sẽ ra nông nỗi gì nhỉ, tự dưng cậu thấy hơi sờ sợ.

Lục Phong thoáng trông sang cậu, ánh mắt vương nét cười, kế đó xoay người đi ra ngoài.

Sự xấu xí của con quái vật nọ vượt khỏi sức tưởng tượng của An Chiết, tốc độ ngã xuống cũng vượt khỏi sức tưởng tượng của cậu. Vực Thẳm chả thiếu những giống loài vừa to vừa tởm, nhưng rõ ràng đống thịt nát trước mắt này không thuộc bên tốp xấu xí dưới Vực Thẳm, mà nghiêng về tốp tợn tạo hơn.

Xác con quái vật cứ như thế ngã phịch xuống cồn cát, mủ đỏ pha lẫn sắc đen túa ra từ dưới thân nó và nhuốm sẫm cả mảnh đất rộng, chất mủ tương tự cũng dính trên khóm cây kế bên, thoạt tiên nó chầm chậm nhỏ xuống như giọt sương bình thường, một phút sau thì thấm vào cành lá – bị hấp thụ.

Lục Phong xem đồng hồ, giây phút xác nhận quái vật đã chết được ba mươi phút bèn sải bước đến gần nó, An Chiết vội đuổi theo – mặc dù tướng đi hãy còn cà nhắc.

Tấm thân mang hình thù quái gở của nó phản chiếu ánh kim loại lạ hoắc dưới cực quang, mặc dầu mọi bộ phận đều xuất phát từ các loài sinh vật khác nhau, tuy nhiên chúng đều gắn kết chặt chẽ, bởi chúng mọc ra từ trong cơ thể. An Chiết nhớ tới động tác nuốt ong đen hồi nãy của nó, cậu sực hiểu rằng hễ nó nuốt gen của một sinh vật nào đó thì sẽ mọc ra bộ phận chính của mẫu gen ấy ngay.

Lục Phong quan sát con quái vật nọ đặng cả buổi trời, bèn bảo:

– Đi thôi.

An Chiết hỏi:

– Đi đâu cơ?

– Có lẽ quanh đây vẫn còn rất nhiều quái vật kiểu này, – Lục Phong nói – tìm nơi an toàn trú tạm đã.

An Chiết ngó dáo dác xung quanh, trong tầm nhìn của cậu chẳng có thứ gì khác, chỉ có sa mạc heo hút mịt mù cát bụi, cậu hỏi:

– Nơi nào?

– Đằng trước có phế tích – Lục Phong trả lời.

An Chiết nghĩ bụng chứ sao lúc em bay trên trời lại chẳng thấy cái phế tích nào.

Nhưng cậu ngẫm kĩ chút đỉnh, vật cậu ngồi là một con ong mật, còn phương tiện di chuyển của thượng tá là máy bay, dĩ nhiên tầm nhìn sẽ rộng thoáng hơn cậu nhiều. Chợt nghe Lục Phong hỏi cậu:

– Đi nổi không?

An Chiết đáp:

– Nổi chứ.

Thú thực cậu chẳng phải là một cây nấm sợ đau đâu.

...Dù quả tình là hơi đau tí xíu.

Thượng tá thờ ơ liếc cậu, đoạn bảo:

– Qua đây.

Cuối cùng, An Chiết vẫn trở về với tấm lưng Lục Phong. Cậu ôm cổ anh, vùi mặt vào bả vai Lục Phong, cậu có thể cảm nhận rõ hơi thở và sự chuyển động khi cất bước của Lục Phong. Thực chất vùng đồi núi thoai thoải chỉ dành cho sinh vật bốn chân đi lại thôi, giây phút hạ chân đụn cát sẽ hơi lõm xuống, nó cản trở việc dùng lực ở xương cốt và cơ bắp, dường như chỉ có loài rắn không chân mới dễ sống trong điều kiện môi trường kiểu này. Thế giới này có ti tỉ chốn con người không nên hoạt động tại đó, mỗi chuyện đi ở đây là đã cần tốn thể lực vượt mức quy định rồi, huống chi còn cõng thêm một người nữa. Nhưng có vẻ Lục Phong chẳng hề tiếc rẻ, trong chuỗi kí ức ít ỏi của An Chiết, ngoại trừ việc thượng tá rất kiệm lời, thì anh cũng chưa từng tiếc rẻ bất cứ điều gì.

Trong lúc lặng thinh, An Chiết chợt ngoảnh đầu nhìn về phía sau, dưới vòm trời tối tăm vô bờ cậu thấy một loạt dấu chân hằn in trên bãi cát trắng xóa, tựa như thứ phù hiệu khắc sâu nào đấy.

Nó bỗng gợi lại cho cậu về ngày nọ ở Vườn Địa Đàng – ngày mà cậu lướt qua dãy hành lang vắng ngắt, có dăm tay sĩ quan da trắng tụ hội trong một căn phòng trống và xướng thuộc lòng một bài thơ có nhịp rất hay, người đứng đầu tốp cầm cây thánh giá màu trắng bạc. Dạo ấy từ trường Trái Đất vừa biến mất, việc cung cấp điện bị đứt gánh, tất thảy mọi người đều lâm vào nỗi sợ hãi bàng hoàng, song vẻ mặt họ trông thanh bình khôn tả, cứ y hệt họ đã nhận được nguồn sức mạnh có thể cổ vũ họ tiếp tục tiến về phía trước.

Dẫu đi trong trũng bóng chết, con cũng chẳng sợ tai họa nào – Cậu xướng lại bài thơ nhẹ nhàng này cho Lục Phong nghe – Vì Người ở bên con. Trượng và gậy của Người an ủi con.

Giọng nói lạnh lẽo của Lục Phong toát chút ôn hòa:

– Còn nữa không?

An Chiết gắng nhớ lại:

Thật vậy, trọn đời con, phước hạnh và sự thương xót sẽ theo con.

Con sẽ ở trong nhà Đức Giê-hô-va cho đến lâu dài.

– Họ theo đạo.

An Chiết hỏi:

– Chúa ư?

Cậu nhớ trong bản thảo An Trạch viết cho căn cứ đã từng xuất hiện chữ "Chúa" hoặc "Thần" gì gì đó.

Lục Phong khẽ ừ đáp lại.

An Chiết hỏi tiếp:

– Thế anh thì sao?

Lục Phong chẳng đáp.

Anh không hé lời, khiến màn đêm lặng câm chỉ còn vẳng độc một tiếng gió thổi làm lòng người khắc khoải, An Chiết đọc lại những vần thơ mình từng chép ra từ sách giáo khoa của lũ nhóc hoặc từ nhiều trang sách khác cho Lục Phong nghe, có giản đơn, có phức tạp, tới bài Đừng điềm nhiên bước vào màn đêm sâu mới thôi, đọc dứt, thì bèn đọc lại từ đầu lượt nữa. Giữa cậu và Lục Phong chẳng có lời gì để bảo ban, chẳng có đề tài để trò chuyện, mà cậu thì muốn nói gì đấy để khiến buổi khuya vắng bặt yên ắng này vui vẻ chút đỉnh – cho nên chỉ đành như vậy thôi.

Luồng gió mạnh quá đỗi, thanh âm bị thổi tan rất chóng, nhưng An Chiết biết anh có thể nghe rõ, bởi khoảng cách giữa họ gần kề biết nhường nào.

Sau khi đọc xong hết mọi vần thơ lần hai, bọn họ đã rảo bước lâu lắm rồi.

An Chiết không rõ thượng tá từng được huấn luyện kiểu gì trong quân đội, song cậu hiểu chặng đường lẫn buổi tối này đều dài đằng đẵng. Dài tới nỗi dường như có thể đi mãi một đời, đi tới tận cùng thế giới, hoặc chăng là phía cuối sinh mạng họ. Quá trình này cũng tiêu tốn nhiều năng lượng hơn cái mức mà cơ thể người bình thường chịu đựng nổi.

Cậu ngấm ngầm biến một phần cơ thể mình thành sợi nấm nhẹ bỗng, rồi lại lo chút đỉnh thay đổi đó chả thấm vào đâu, qua giây lát, lại lén lút biến thêm phần nữa.

Rốt cuộc, cậu nghe thấy Lục Phong cất giọng:

– Em biết vì sao con quái vật ban nãy chết dễ vậy không?

An Chiết chẳng hiểu tại sao đột nhiên Lục Phong nhắc đến việc đó, cậu ngừng đọc thơ, đoạn đáp:

– Không biết.

– Đột biến cấp thấp là ô nhiễm gen, quái vật đột biến cấp cao chia làm hai kiểu, – Lục Phong nói – kiểu lai và kiểu đa hình.

– Kiểu lai ăn gen xong sẽ xuất hiện ngay một bộ phận của sinh vật gốc, vô vàn gen sinh vật lẫn đặc tính đều có thể cùng tồn tại trên người nó. Tuy nhiên nó có một giai đoạn hoà hoãn – Lục Phong vẫn đi thẳng, tiếp tục bảo – Gen ban đầu nảy sinh xung đột với gen vừa cướp được, trong khoảng thời gian này chuỗi gen của nó sẽ thay đổi mạnh, xung đột với chức năng của các cơ quan ban đầu, trong cơ thể bị đảo lộn xáo tung cả lên. Cho nên những con quái vật kiểu lai thông minh thường chờ rất lâu mới nuốt thêm gen, chúng muốn tạo ra gen ổn định. Xui thay con ban nãy lại nổi lòng tham.

An Chiết tò mò:

– Vậy kiểu đa hình thì sao?

– Kiểu đa hình là kiểu đột biến cấp cao nhất mà chúng ta quan sát được trước mắt, nó cực hiếm, chủ yếu tập trung ở Vực Thẳm. Cách đột biến không bị phụ thuộc vào gen, nó chuyển đổi tự do. Ví như con ong mật chợt biến thành thực vật vậy... thi thoảng chúng cũng có thể chỉ chuyển đổi từng bộ phận.

– Trình tự DNA của đột biến kiểu đa hình ổn định hơn lai, – Lục Phong thản nhiên nói – tuy nhiên chớ nên hấp thụ một lần quá nhiều, bởi nó sẽ gây ảnh hưởng lên nhận thức. Tòa Xử án từng nhận một trường hợp thế này, một con quái vật kiểu đa hình động thực vật vẫn chưa chuyển đổi hết, mọi cơ quan trên người bị xơ hóa, chết ngay tại chỗ.

An Chiết hơi sợ hãi, lặng lẽ ôm siết cổ Lục Phong.

Nhưng cậu cứ cảm giác thượng tá đang muốn ám chỉ một điều gì đó sâu xa.

Hết chương 58

✰ Chương 59 ✰

Chuyển ngữ: Jane

"Nếu như thực tình có ngày ấy."

***

Dọc quãng đường, họ lại bắt gặp thêm một con quái vật lai.

Nó khác hẳn với con bại trận dưới súng của Lục Phong – nó mảnh dẻ, màu xám đen, giống con bọ que được phóng to gấp bội lần, sau lưng nó mọc cặp cánh mỏng to tướng mà chỉ bươm bướm mới có, hai sợi râu mỏng vươn dài từ trên trán, ta chẳng lần ra nổi mắt nó ở nơi nao. Thân hình nó dài hơn năm mét, có sáu chân mảnh. Thời khắc họ vượt qua một bờ dốc thoải thì nó đang xực con thằn lằn to tầm hai mét, cơ thể giáp xác sáng loáng vốn lung linh dưới ánh cực quang dần biến thành lớp vảy sần trong lúc nó mải ăn.

Bọ que

Cơ thể linh hoạt nhẹ bỗng giúp nó di chuyển như con thoi rất chóng, chờ ăn xong đầu thằn lằn thì con bọ que này bèn nằm ép xuống lấy đà, kế đó nhảy bật đến đằng trước, mồm thì cắp con mồi còn dư vỗ cánh bay về phương trời xa... Nó vẫn chưa phát hiện ra sự tồn tại của Lục Phong và An Chiết.

Đây có lẽ chính là quái vật kiểu lai thông minh mà Lục Phong từng nhắc, nó hiểu mình cần tìm chốn ẩn náu bí mật sau khi thu hoạch gen để vượt qua giai đoạn mất ổn định.

An Chiết dõi theo cặp cánh trắng muốt nọ, đoạn cất lời khen từ tận đáy lòng:

– Đẹp quá à.

Bản thân cậu cũng là màu trắng, cậu thích màu sợi nấm của mình lắm, nhưng cậu lại chẳng có cặp cánh bung xòe và xinh xắn như vậy, dẫu trở về nguyên hình thì cũng chỉ là một cục xốp tròn vo thôi, cậu đã đánh mất vẻ ngoài mà một cây nấm nên có từ lâu rồi – bị nước mưa cùng gió lốc thổi gãy quặp vào mùa giông thuở bé con, còn mang tiếng là "Biến dị thoát li hình thái cơ bản của loài", điều này khiến cậu cảm thấy thật nhục nhã.

Chợt nghe Lục Phong bình tĩnh hỏi:

– Em muốn ăn nó à?

An Chiết:

– .

Cậu chối phăng:

– Không phải vậy.

Lục Phong nói:

– Đừng ăn bậy.

An Chiết lầm bầm đáp:

– Em đâu có đánh lại chúng nó.

Nghe thế, khóe môi Lục Phong hơi giương lên.

Thân làm một dị chủng, lại còn bị con người dạy dỗ cấm bạ đâu ăn đó, An Chiết thấy tức giận lắm, đáng nhẽ cậu phải có quyền ăn uống tự do chứ.

Kế đó bụng cậu vang rồn rột.

Lục Phong hỏi:

– Đồ ăn của em đâu?

An Chiết nhớ lại lượng thức ăn còn dư, khéo chẳng đủ cho một bữa luôn ấy chứ, cậu trả lời:

– Đợt thêm chốc nữa.

Suy ngẫm giây lát, cậu hỏi Lục Phong:

– Anh đói rồi à?

Lục Phong đáp:

– Tôi ổn.

An Chiết dám chắc rằng cái tên này đang cãi bướng, cậu trở tay moi nửa miếng lương khô ra khỏi ba-lô, bẻ một phần, đoạn giơ ra trước mặt Lục Phong định đút cho anh.

Thượng tá cũng không cự tuyệt.

An Chiết tiếp tục đút, đút tới miếng thứ ba thì sực nhớ món này khô khốc dữ lắm, phải vừa ăn vừa uống mới đúng. Nước cũng chỉ còn non nửa bình, cậu lấy ra, cơ mà chẳng biết nên để thượng tá uống kiểu gì, vì vậy cậu đành bảo:

– Anh dừng chân một lát.

Thế là đương lúc ngày dần rạng, cậu và Lục Phong ngồi lẩn sau một tảng đá to chia đôi nốt bình nước. Nước là thứ khiến nấm vui sướng khôn tả, An Chiết liếm môi, kế đó bỗng bị Lục Phong nhét một miếng lương khô vào mồm.

Ngón tay hơi lạnh tình cờ chạm trúng bờ môi An Chiết, An Chiết ngậm miếng lương khô từ tốn nuốt ực xuống, chẳng thể tin nổi giây phút này cậu lại thấy thảnh thơi quá, dù rõ ràng thức ăn thức uống của họ đã sắp vơi sạch rồi, chẳng hay biết ngày mai nên sống bằng cách nào nữa.

Cậu nói cùng Lục Phong:

– Anh ăn đi, em không vận động.

Không vận động thì không cần ăn nhiều đâu.

Lục Phong giữ im lặng, xoa nhẹ mái tóc cậu, An Chiết ngẩng đầu nhìn thẳng vào anh. Cậu nhận thấy trong nắng mai nhạt nhòa, ánh mắt vốn luôn thờ ơ của thượng tá thậm chí được tô điểm đôi chút ấm áp.

Khoảnh khắc đó An Chiết chợt nảy nở một thứ ảo tưởng huyễn hoặc, mặc dù cậu hoàn toàn khác biệt với Lục Phong, mặc dù giữa họ chẳng có bất cứ tiếng nói chung nào, nhưng mà... nếu như tín hiệu không bao giờ khôi phục, nếu như có một ngày cậu và Lục Phong đều là dị chủng, hoặc cậu và Lục Phong đều là con người, nếu như họ vẫn còn sống, và nếu như, thực tình có ngày ấy, vậy thì có lẽ họ sẽ làm bạn rất thân.

Bản thân cậu chả phải là cá thể ưu tú vượt trội trong xã hội loài người, thậm chí còn được xem như một cá thể vô giá trị, song thượng tá vẫn đối xử với cậu tốt lắm, cho nên giả sử Lục Phong biến thành dị chủng, miễn là đừng xấu tệ thì cậu hứa sẽ không ghét anh đâu.

Nhưng điều này vốn dĩ chẳng thể thực hiện, Lục Phong là con người, mà tiếc thay cậu lại là nấm. Tuy nhiên nếu cậu là người ngay từ thuở ban sơ, biết đâu chỉ là một cư dân tầm thường ở ngoại thành, hoàn toàn không có cơ hội quen biết Lục Phong. Ngẫm kiểu đó, cậu lại thấy may mắn vì mình là một cây nấm.

Họ tiếp tục đi về phía trước, qua một đêm, An Chiết nhận thấy chân mình bớt đau nhiều rồi, vì thế cậu bèn nói Lục Phong đừng cõng nữa, để cậu tự đi. Giây phút được thả xuống, cậu phát hiện Lục Phong thoáng chau mày trông sang bên cạnh.

Có hai bộ xương người vỡ vụn nằm dưới một tảng đá lớn gần đấy, xương sọ và cột sống đứt đoạn văng xa nhau cả quãng, xương tay chẳng rõ tung tích, một khúc xương đùi xám ngoét chênh chếch cắm trong đụn cát – như cán cờ, hoặc là mộ bia.

Họ tới gần vị trí đó, Lục Phong cúi người vươn ngón tay lau đi lớp bụi mỏng bám trên một bộ xương.

– Còn mới phết, tầm hai hôm thôi – Anh nói.

Lời anh vừa dứt, ánh mắt lúc An Chiết quan sát bộ xương cũng bắt đầu nghi ngại. Trong trường hợp hiện tại, thì vùng ngoài hẳn là không có mống người nào sinh sống nữa rồi, cho nên đào đâu ra xương người mới chứ. Cậu hỏi:

– Là phi công của các anh à?

Lục Phong nhìn chung quanh:

– Không có xác.

Họ lại kiểm tra bộ xương cẩn thận lần nữa, trên bề mặt nó có dấu vết bị quái vật gặm cắn, bên cạnh, dưới lớp cát mỏng vùi lấp một bộ quần áo rách tả tơi – màu xám đen, chẳng phải trang phục tiêu chuẩn ở căn cứ. Vẻ mặt Lục Phong như đang suy tư điều gì, chuyện này nhất định không bình thường.

Nhưng mà, họ cũng chả có manh mối nào khác, chỉ đành buộc lòng đi tiếp thôi.

Sau nửa tiếng tiếp theo, trong màn sương buổi tinh mơ, có thứ gì lãng đãng nơi nẻo xa mờ mịt, một dải xám ngắt giăng rộng trên đường chân trời như bến bờ của một thành trì hùng tráng.

An Chiết cất tiếng:

– Hình như em thấy nó rồi.

...Đấy nhất định là thành phố đổ nát mà Lục Phong nhắc đến.

Lục Phong trả lời:

– Tôi cũng thấy.

An Chiết hỏi:

– Mình có thể tìm thấy nước uống và lương thực trong phế tích à?

Lục Phong trả lời:

– Ừ.

An Chiết hỏi bận nữa:

– Tìm được thiệt luôn hở?

Lục Phong hờ hững nói:

– Tôi thường xuyên nán lại phế tích.

An Chiết đáp:

– ...Ò.

Thượng tá Lục vốn là người thích tới thì tới thích đi thì đi ở Vực Thẳm mà.

Dù sao không bị chết đói vẫn là chuyện đáng mừng rỡ, bước chân của cậu cũng vì vậy nhẹ bẫng đôi chút, còn đi vượt Lục Phong một bước cơ. Bỗng ngay giây phút này, mặt đất dưới chân cậu bất chợt mềm lũn!

Kế đấy sụp xuống.

An Chiết tiện đà chúi cả người theo.

An Chiết: !!!

Trống ngực cậu nện nhanh dữ dội, suýt tí nữa là hãi quá hóa thành nấm mất rồi, nhưng trong gang tấc nọ một sức mạnh trĩu nặng truyền đến cánh tay trái cậu – là Lục Phong túm chặt lấy cậu. An Chiết bị neo giữa không trung, cậu thở phào nhẹ nhõm, sau đó được Lục Phong kéo lên. Chân của cậu vừa khỏi thì cánh tay lại bắt đầu đau nhức nhối rồi, An Chiết khẽ hít sâu một hơi. Lục Phong duỗi tay, đoạn trượt từ bờ vai xuống cổ tay cậu, đoạn bảo:

– Chưa gãy.

An Chiết ngó sang chốn kia.

...Đấy là một cái hố sâu ba mét cực hung hiểm, phía trên đặt vài tấm ván gỗ vừa mỏng vừa giòn – nó bị hạt cát che lấp, ta chẳng lần ra nổi bất kì sự khác biệt nào với chung quanh, song chỉ cần giẫm mạnh thì sẽ rơi thẳng xuống hố ngay.

An Chiết khó hiểu, cậu trông thấy Lục Phong cũng chau mày lại.

– Bẫy rập, mới làm – Lục Phong nói.

Cái chốn này, thoạt tiên là xuất hiện xương người, rồi lại xuất hiện một cạm bẫy – tức sản phẩm của loài người. Lẽ nào trên sa mạc vẫn còn kẻ sống sót ư?

Lúc bấy giờ, Lục Phong thốt nhiên ngẩng đầu, quay ngoắt sang hướng nọ:

– Ai đấy?

Đằng đó là một mô đất nhô cao, ở khu vực đồi núi thì nó nhiều không đếm xuể, kể từ khi Lục Phong dứt lời, đằng đó vẫn chưa hé bất cứ tiếng động nào.

Lục Phong ấy vậy mà rút súng ra, xẵng giọng:

– Bước ra đây.

Chẳng có động tĩnh.

Mười giây, hai mươi giây, ba mươi giây.

Thanh âm sột soạt thình lình vang lên ở đằng đó, kế tiếp rít dài một tiếng két nặng trịch, An Chiết nhìn về phía phát ra tiếng động, bề mặt mô đất rơi cát lộp độp, có thứ gì nom như tấm vung hé mở – bóng đen bò ra, thoạt tiên cậu tưởng rằng nó là chuột chũi, ngó kĩ lại thì không ngờ đấy là một con người, một con người chẳng hề có xu thế đột biến và còn sống khỏe, nó bận quần bò chằng đụp, trông khá tương tự với quần áo nằm cạnh mấy bộ xương ban nãy.

Nó đứng nhổm dậy, ta thấy rõ đây một thằng bé gầy còm, nước da trắng bợt khôn tả do hiếm khi phơi nắng, song hai má thì lấm tấm ít tàn nhang. Nó nhìn họ, tuồng như sửng sốt vô cùng, nó trợn mắt đăm đăm sang bên này.

An Chiết lẳng lặng nhìn trả.

Chờ qua đủ hai phút, thằng bé kia mới lắp bắp thốt:

– Các... các anh... là người ư?

Nó nói hơi cà lăm, phát âm kì quái đáo để, khác hẳn chất giọng phổ thông mọi người hay giao tiếp với nhau trong căn cứ.

Lục Phong nói:

– Đưa chúng tôi ra khỏi đây trước đã.

Thằng bé nọ đanh người nhìn chòng chọc vào họ, cánh tay rủ bên hông run bần bật, bấy giờ mới thình lình chạy vọt qua bên này:

– Gượm tí!

Nó đi tới chỗ họ bằng một cái lối ngoằn ngoèo, sau đấy thì xoay lưng đi trước dẫn đường, dẫn họ đi vòng qua vô vàn khúc cua lắt léo, vừa đi vừa ấp úng nói:

– Xin... xin lỗi, chúng em sợ... sợ quái vật đến gần, đào lắm... lắm hố bẫy. Chúng sẽ chẳng vượt qua nổi, chúng... chúng em cũng có thể quan sát... không... không ngờ vẫn có người trở về. Anh... anh không sao chứ?

An Chiết thấy nó cúi gầm đầu, trưng vẻ não nuột tự trách, An Chiết bèn đáp:

– Không sao mà.

Lúc tới cạnh mô đất thằng bé đẩy mạnh thiết bị nào đó, cót két... một cánh cửa sắt dày cộm đong đưa hé mở, để lộ một cửa động đen ngòm.

– Các anh... các anh là người vùng khác hả? – Thằng bé giống hệt sực thông suốt điều gì, quay ngoắt về phía họ, lưỡi nó xoắn vào, thoạt đầu là ngó Lục Phong, lại như bị dọa bởi vẻ mặt lạnh tanh của anh, bèn sượng ngoắt ngó sang An Chiết, rồi nói thế.

An Chiết trả lời:

– Đúng vậy.

– Em... – Thằng bé thở phì phò dăm bận, mặt nó ửng sắc hồng kích động, nếu chẳng phải do đứng cách nửa mét thì khéo An Chiết sẽ nghe thấy tiếng quả tim nó đập thùm thùm mất.

Cậu hỏi:

– Em ổn chứ?

– Em... – Dường như thằng bé đã hiểu rõ về sự việc xảy đến hiện tại, coi nó rặt vẻ sắp hết hơi.

– Chào em, – Lục Phong mở miệng – Tòa Xử án ở căn cứ phương Bắc, cần giúp đỡ không?

– Chúng em... chúng em cần giúp đỡ, – Luồng chớp tựa ánh ban mai vụt lóe nơi đôi mắt thằng bé nọ, nó xoay người chui tọt vào đường hầm, vừa chạy huỳnh huỵch vào lối sâu vừa hô to – Nội ơi!

Đi theo nó, Lục Phong và An Chiết cũng bước vào đường hầm lắt léo sâu hun hút, bóng tối âm u sập xuống nơi này lúc đóng chặt cửa sắt vào, nhưng đằng xa có le lói thứ tia sáng yếu. An Chiết chẳng trông rõ nẻo đường dưới chân, nên bèn cẩn thận chống vách tường, chợt Lục Phong nắm lấy cổ tay cậu, dắt cậu tiến về phía trước.

Đây là một loạt nấc thang dốc đứng chạy dài xuống dưới, không cẩn thận là té dễ như chơi, sau khi đi xuống địa hình thoải ước chừng thêm một trăm mét, đoạn rẽ qua một khúc cua nữa thì mới rộng thoáng đôi chút, đèn măng-sông treo trên vách tù mù quầng sáng trắng – rọi tỏ cái hang động chật hẹp này, trông ra nẻo xa, nó sâu đến độ chẳng có bến bờ, tiếng bước chân văng vẳng chung quanh dấy lên thứ âm vang dài bất tận.

Lục Phong hỏi:

– Gia đình em đào nó à?

– Không phải, – Thằng bé trả lời – quặng mỏ từ đời tám hoánh rồi, nhiều người trốn ở đây lắm.

Lục Phong hỏi:

– Có bao nhiêu người? Ở bao lâu?

– Em chả rõ, – Thằng bé hơi cúi đầu – em chào đời ở đây, sau đó nhiều người đều... đều chết cả rồi, chú em ra ngoài, hiện chỗ này chỉ còn mỗi em với nội của em thôi.

Trước khi bước vào nơi mà "Nội" thằng bé nhắc tới đang ở, An Chiết nghe thấy tiếng thở hi hóp ồm ồm – giống hệt thanh âm dội ra từ khoang ngực của loài thú sắp lịm đi. Trong một cái hố gầm chừng mười mét vuông, một chiếc giường lò xo rộng chưa đến một mét đặt ở đấy, có cụ ông tóc hoa râm nằm trên giường, An Chiết tới gần, thấy cụ đắp tấm chăn lông phủ màu vàng xám, hai gò má hóp vào và đồng tử đục ngầu đi, tấm thân cụ run lập cập như thể đang hứng chịu nỗi đau đớn khủng khiếp nào đó. Dẫu họ đã đứng trước giường, thì cụ cũng chẳng buồn hó hé tí nào.

– Nội ốm rồi ạ – Thằng bé bảo.

Nói đoạn, nó bèn ngồi xuống mép giường kéo tay ông nội mình lên, rống to:

– Nội ơi, có người ở ngoài đến tìm chúng ta! Họ nói mình đến từ căn cứ, căn cứ có thật đó ạ!

Trí óc của cụ nay đã lú lẫn, cụ không ngấm được sự mừng rỡ kích động trong giọng nói nó nữa, mà thay vào đó là chau chặt mày, xoay đầu, tuồng như toan lánh xa sự om sòm của nó.

– Chúng ta có thể tới chốn có rất nhiều người! – Thằng bé tựa hồ đã quen, nó chẳng nhụt chí trước thái độ tiêu cực của cụ, giọng điệu ngày một hưng phấn.

Song bấy giờ, bờ môi khô quắt của cụ mấp máy, thều thào đôi ba âm tiết mơ hồ.

Cháu trai cụ hỏi:

– Gì cơ?

An Chiết cũng dỏng tai nghe kĩ, bờ môi cụ mấp máy, lặp lại vài âm tiết nọ lần nữa.

– Sắp... – Cổ họng cụ khản đặc, gắng xổ hơi khỏi miệng, giọng giống tiếng gió rít tan hoang – Sắp đến... lúc rồi.

Thằng bé áy náy trông sang Lục Phong An Chiết bảo:

– Nội hay nói câu này lắm, nội cứ nghĩ mình bệnh nặng sắp chết ạ.

Dứt lời thằng bé mách với cụ rằng:

– Chúng ta đến nơi mà loài người đều đang ở, nơi ấy chắc chắn có thuốc.

Cụ hãy cứ lặp đi lặp lại câu nói cũ, họ đành phải bỏ cuộc. Tới tận khi họ rời khỏi nơi đây cụ vẫn lầm bầm hoài "Sắp đến lúc rồi", An Chiết thấy câu này quen thuộc đáo để, ngặt nỗi cậu chẳng nhớ mình đã nghe nó ở đâu.

Ngay sau đó thằng bé bèn dẫn họ tới một căn buồng hình vuông khá rộng, buồng nối thông với ba hang động rẽ nhánh tối mù – giống như khu trung tâm thông đi muôn ngả, trên vách tường gồ ghề lấm tấm những giấy dán ố vàng cố định bản đồ tuyến đường quặng mỏ và những điều cần chú ý khi làm việc, có chiếc bàn nhỏ tứ giác đặt giữa buồng, kế bên là hai bộ ghế xô-pha cũ rích, hơi ẩm dày đã bào mòn sạch mọi lớp sơn trên ghế xô-pha.

Lục Phong đang trò chuyện với thằng bé kia.

Thằng bé kia tên là Siebe, dựa theo lời nó kể, thì quặng mỏ đã bị lún – vào giây phút cơn thảm họa chưa từng xuất hiện trong lịch sử ập đến năm xưa. Song bức xạ vẫn chưa rọi xuyên qua mặt đất, nên nhờ đó số ít người ở dưới vẫn sống tiếp được, nó kéo dài cho đến tận bây giờ, họ thường tới phế tích lân cận gom nhặt ít nhu yếu phẩm, cũng thường bị quái vật ngoài kia quật chết ngốn chửng, mẹ của nó chỉ có độc một đứa con là nó thôi, dần dà dần dà, vài chục người thuở đầu nay chỉ còn lại mỗi nó và ông nội, hai ông cháu sống nương tựa cùng những ông chú lớn tuổi khác.

– Em biết mà, chắc chắn mọi người sẽ không chết, chắc chắn họ đang xây nhà mới ở vùng đất nào đấy thôi, ngặt nỗi chúng em chả tìm thấy các anh, hồi xưa nội em bảo lúc người lớn lần ra một lối thoát khác trong quặng mỏ, cảnh vật ngoài kia đã đổi dời rồi, chẳng còn ai sống sót cả.

– Radio không thu được tín hiệu và ở ngoài thì toàn là quái vật, chúng em cũng chẳng đi đâu được hết, chỉ biết ru rú trong này thôi, nhưng chúng em tin chắc rằng vẫn còn người khác ạ – Giọng Siebe đong đầy nỗi run rẩy xúc động, nó lôi một cuốn sách mỏng cũ nát quá nửa ra khỏi khe nhỏ nơi vách tường.

– Hai năm trước chúng em phát hiện một chiếc xe ở ngoài, trừ người chết ra thì trong xe chính là những cuốn tập này, em biết rằng vẫn còn con người ở đâu đấy, em... em vẫn luôn chờ các anh đến. Đồng bào... đồng bào của chúng em nhất định đang miệt mài tìm kiếm cứu nạn mà – Nó nhìn Lục Phong, ánh mắt chứa chan niềm hi vọng.

Lục Phong hơi chùng giọng, trả lời rằng:

– Căn cứ chào đón mọi người.

Mà An Chiết thì vươn tay, cuốn tạp chí nọ nằm trên cùng chồng sách mỏng, ánh đèn măng-sông nhập nhoạng rọi sáng trang bìa của nó. Đầu đề là bốn chữ "Nguyệt San Căn Cứ" – bốn chữ này chạm tới những mảnh vụn hồi ức lưu trữ trong não cậu, đây là cuốn tạp chí mà nhóm ngành văn hóa ở căn cứ phát cho mọi người. Cuốn tạp chí này do căn cứ loài người ở miền viễn xứ phát hành, được mang theo cùng với cẩm nang vũ khí và truyện khiêu dâm bởi các tên lính hoặc lính đánh thuê, họ vọt lên chiếc xe bọc thép rời khỏi căn cứ, vượt qua một chặng đường xa xôi, rồi vĩnh viễn lang bạt ở vùng ngoài. Tiếp sau đấy, kẻ sống sót thuộc thời đại sa mạc nhặt được nó trong xác xe, nơi quặng mỏ họ chuyền tay nhau đọc ngày này qua tháng nọ, họ hiểu nó tượng trưng cho sự tồn tại của quê hương loài người xứ xa.

Trang bìa trong đã ngả vàng, nó viết dòng chữ "Nguyện cho chúng ta có một tương lai ngời sáng", lật qua, là trang mục lục.

Bàn tay lật qua lật lại trang giấy của An Chiết thình lình run rẩy, ánh mắt cậu khựng tại một hàng trên trang mục lục, hai chữ giản đơn vô ngần.

Vào Đông.

Dấu chấm lửng kéo dài một mạch đến mép phải trang giấy, ở điểm cuối của nó in hai chữ khác, đại diện cho tên tác giả.

An Trạch.

An Chiết chợt ngừng thở hẳn ngay khoảnh khắc chóng vánh ấy, thoáng sau cậu nhác thấy một tác phẩm nằm dưới Vào Đông, tên là Một ngày trong năm 2059.

Năm 2059 là thời đại xa xôi trong lịch sử, chính vì thế cái tên ấy đã nói lên đôi phần – rằng đây là một tác phẩm lịch sử khảo cứu.

Tên tác giả của nó, là Thi Sĩ.

...Hai cái tên này cứ thế mà lặng lẽ nằm sóng vai nhau trên trang giấy.

An Chiết nhẹ phủ ngón tay lên mặt giấy, ngón tay cậu từng ôm siết bả vai An Trạch khi ở trong sơn động phủ đầy dây leo, cũng từng được thi sĩ nắm chặt nơi khoang xe tăm tối mịt mù, giờ đây nó nhẹ nhàng vuốt ve tên của hai con người nọ, hình bóng họ lại sống dậy trong tâm tưởng An Chiết lần nữa. Cậu lật tới trang kia... hai trang nằm kề nhau, Vào Đông là một bài thơ ngắn, kể lại cảnh bông tuyết chao nhẹ khắp quảng trường Trạm Cung Cấp vào mùa đông năm nào, An Trạch nói rằng đụn tuyết đó mềm mại như cánh chim bồ câu trắng vậy.

An Chiết có thể nhớ rõ mồn một từng chi tiết trong thanh âm y, cậu như nghe thấy chính miệng An Trạch miêu tả cho mình, trong phút giây ngắn ngủi hiện tại, An Trạch giống hệt đã hồi sinh lần nữa, và thi sĩ cũng đứng mỉm cười với cậu, chàng nằng nặc đòi kể cho cậu nghe về lịch sử căn cứ – rằng trên thế giới này vẫn còn ghi chép sót lại của họ.

Nỗi hoang hoải mông lung sập vào tầm mắt An Chiết, rõ ràng cậu đã thôi nhớ đến hai con người ấy lâu lắm rồi, song hình bóng họ hãy còn hiện lên trước mắt cậu, như thể họ vừa gặp nhau ngày hôm qua. Cứ vậy cậu gặp lại họ, giống hệt bé con Siebe tình cờ gặp gỡ hai vị khách tới từ căn cứ loài người vậy.

– Vốn dĩ, vẫn còn hai chú nữa ở đây, nhưng họ ra ngoài tìm lương thực, ròng rã một hôm chưa trở về, em đoán... – Siebe gục đầu xuống – em đoán... chắc họ không về được nữa.

– Xin lỗi, – Lục Phong nói – tôi đến chậm.

– Không đâu ạ! – Siebe bất chợt lắc đầu, nó hé miệng cười gượng với Lục Phong, giọng nom hơi khàn – Bên ngoài toàn là quái vật, bảo đảm các anh cũng gặp lắm gian truân, chỉ cần các anh tới, em đã... đã biết ơn rồi. Trên thế giới này vẫn còn những người khác, chúng em còn có nhà, tốt... tốt quá.

Tia sáng từ đèn măng-sông hắt vào tròng mắt đen láy của nó, nơi đấy bùng lên ánh lửa hừng hực và ngời sáng, đóm lửa kia kết hợp với cảm xúc nhỏ nhặt trên mặt Siebe làm gợi rõ một sự đơn thuần, xen lẫn niềm háo hức trong bao nỗi sầu. An Chiết lặng thinh nhìn khuôn mặt Siebe, cậu biết đó là thứ cảm xúc mà bản thân sẽ chẳng bao giờ thấu hiểu nổi. Cậu cúi đầu xuống, trên trang giấy nguyệt san ố vàng, giọng nói và bề ngoài của An Trạch lại tiếp tục hiện rõ trước mắt cậu.

Lệ nhoen khóe mi An Chiết, tầm mấy tiếng trước cậu còn mải oán thầm rằng loài người cứ đâm đầu vào những việc công cốc chỉ để duy trì khả năng tự chủ, mường tượng đến cái ngày Lục Phong biến thành dị chủng, cậu sẽ không xua đuổi anh. Tuy nhiên ý nghĩ đấy lại thoáng dao động vào giờ phút này.

Con người là con người, cậu thầm nhủ.

Cậu biết căn cứ không còn hi vọng, cậu biết loài người chẳng còn lối thoát.

Nhưng họ cũng thật sự đang sống mãi với thời gian.

✰ Chương 60 ✰

Chuyển ngữ: Jane

"Lục Phong bèn nhấc bổng cậu lên."

***

– Tháng trước, một người... một người chú của em bị quái vật bên ngoài cắn chết, ăn mất xác. Rồi mới mấy hôm trước thôi, một người chú khác phải ra ngoài tìm thêm tài nguyên, dạo đó nhiệt độ đột nhiên tăng mạnh, còn có bão cát, chẳng ai trong số họ trở về nữa. Kế tiếp chính là hai người chú em vừa mới nhắc tới – Ngón tay của Siebe ghì riết vảy sơn tróc ra trên mặt bàn, từ tốn kể – Còn lại mỗi em và nội, nhưng bệnh của ông mỗi lúc một trở nặng, trước kia ông còn nói chuyện với em được, chứ mấy ngày nay đã chìm vào cơn mê lú rồi.

– Có khi ông kêu đau, có khi bật thốt những lời mà em chẳng hiểu, – Ánh mắt Siebe tha thiết, nhìn Lục Phong – các anh chữa dứt nó được không ạ?

Lục Phong trả lời:

– Quay về căn cứ thì hẳn là có thể tra ra nguyên nhân bệnh.

Anh cũng không hứa hẹn rằng "Bảo đảm sẽ trị dứt", An Chiết rủ mắt nhìn con chữ in trên Nguyệt San Căn Cứ, trang này đăng một mục báo tang – thông báo rằng có cây bút nào đó luôn gửi bản thảo cho Nguyệt San Căn Cứ đã mắc bệnh qua đời, tiểu thuyết Sứ Mệnh đăng nhiều kì đành đứt đoạn tại đây.

Trong căn cứ, chí ít là ở ngoại thành, thì hiếm ai có thể sống đến năm mươi sáu mươi tuổi. Kẻ may mắn bước vào tuổi già sẽ đối mặt với muôn kiểu bệnh tật triền miên. Cường độ của từ trường nhân tạo yếu hơn từ trường gốc nhiều, cơ thể con người vẫn phải hứng chịu một ít tác động từ bức xạ, vì lẽ ấy tỉ lệ mắc bệnh di truyền – mà chủ yếu là ung thư hãy còn rất cao, nó cướp đi sinh mạng của hơn phân nửa số người cao tuổi, vả chăng cuộc sống đầy nỗi gian truân hiểm hóc ở vùng ngoài nhiều năm lại khiến những người may mắn thoát chết phải sống trong cơn chấn thương tâm lí và hậu chấn tâm lí[1] bất tận, đây cũng là bệnh mãn tính chẳng tài nào diệt tận gốc nổi.

[1] Hậu chấn tâm lí (tiếng Anh: Posttraumatic Stress Disorder- PTSD) từng được gọi với cái tên là "Sốc vỏ đạn" (shell shock) hoặc "Hội chứng mệt mỏi sau chiến tranh" (Battle fatigue syndrome). Tên gọi này là do PTSD thường gặp ở rất nhiều trong cựu quân nhân sau thế chiến tranh. Đây là một tình trạng nghiêm trọng có thể phát triển sau khi một người đã từng trải qua hoặc chứng kiến ​​một sự kiện sang chấn nghiêm trọng hoặc kinh hoàng, trong đó tổn thương thể chất nghiêm trọng xảy ra hoặc bị đe dọa tính mạng. PTSD là hậu quả lâu dài của các sự kiện đau thương gây ra nỗi sợ hãi, bất lực hoặc kinh hoàng, như tấn công tình dục hoặc thể xác, cái chết bất ngờ của người thân, tai nạn, chiến tranh hoặc thảm họa tự nhiên. Gia đình của các nạn nhân cũng có thể phát triển PTSD, cũng như nhân viên cấp cứu và nhân viên cứu hộ.

– Cảm ơn... cảm ơn các anh, – Siebe nói – nội em nuôi em khôn lớn, ông còn dạy em đọc chữ, máy phát điện của chúng em cũng là do nội sửa bấy lâu. Mọi người đều bảo rằng trên đời chẳng còn ai khác, là nội dặn em hãy chờ đợi, nội nói bầu trời hãy còn cực quang, chứng tỏ trên thế giới vẫn có tổ chức loài người.

Lục Phong hỏi:

– Ông ấy là kĩ sư ở đây à?

– Đúng vậy ạ – Siebe trả lời.

Lục Phong hơi nheo mắt lại, anh hỏi:

– Vì sao lại biết cực quang tượng trưng cho tổ chức loài người?

Siebe ngẫm nghĩ phút chốc, đoạn giải thích:

– Nơi đây là quặng fe-rít, nội là kĩ sư ngành này, ông kể... kể ngày xưa thầy của mình từng làm việc ở viện nghiên cứu nào đó, viện nghiên cứu ấy vẫn luôn nghiên cứu về cực từ. Thầy ông mách cho ông hay rằng, nguyên nhân dẫn tới vụ tai nạn năm xưa là do cực từ gặp vấn đề, nhưng viện nghiên cứu đang cố gắng tìm biện pháp khắc phục.

– Viện Nghiên cứu Non Cao, – Lục Phong bâng quơ đáp – căn cứ nghiên cứu cực từ nhân tạo.

Siebe khẽ gật đầu:

– Hình như tên thế đó ạ.

– Tạm thời chúng tôi bị mất liên lạc với căn cứ, – Lục Phong chẳng tiếp tục đề tài này nữa, anh chỉ bảo – sau khi tín hiệu khôi phục, tôi sẽ mang hai người về căn cứ.

Siebe gật đầu lia lịa:

– Cảm ơn mấy anh nhiều.

Kế đó, họ bèn nán lại chốn này. Không rõ bao giờ tín hiệu mới khôi phục, Siebe dẫn họ đi ngắm cấu trúc quặng mỏ.

Vị trí mà họ ở hiện nay là vùng trung tâm, thời điểm cơn thảm hỏa kinh hoàng vẫn chưa ập xuống thì đây là khu nghỉ ngơi tạm thời của kĩ sư lẫn thợ mỏ, có buồng cho người ở, có các tiện nghi sinh hoạt cơ bản, cũng có dăm ba bộ máy khai thác mỏ sót lại hồi trước bao gồm máy phát điện và rất nhiều công cụ. Nhờ nằm sâu dưới lòng đất cộng thêm bốn bề là khoáng thạch rắn chắc tột cùng, nên chỉ cần gìn giữ cửa hang cẩn thận, nó sẽ là một xứ sở an toàn kín đáo.

Ngoài vùng trung tâm là dăm quặng mỏ sâu hun hút, chúng đều là sản phẩm khai quật của kẻ đi trước, kéo dài dọc theo mạch khoáng.

– Dù tối như mực, nhưng ở trong không có quái vật đâu ạ, – Siebe bảo – các anh cứ yên tâm.

Trưa đứng bóng, Siebe đi nấu cơm, An Chiết thấy khá hứng thú với căn bếp nơi đây, song cậu vẫn chưa thân với Siebe nên là chẳng dám tự tiện xông vào lãnh địa của nó, cậu bèn tìm chuyện khác để làm.

Nấm thích nước, loài người cũng cần uống nước, nước là thứ cực kì quan trọng – nhiều lúc còn quan trọng hơn cả thực phẩm, chính vì vậy người trong quặng mỏ cũng trút rất nhiều công sức cho việc trữ lượng nước.

Thời gian hứng nước là khi ngoài trời mưa tầm tã, mỗi lần có thể hứng nước mưa với số lượng lớn, họ lọc sạch bằng bột phèn và trút vào xô xi-măng to tướng. Song dẫu sao thì thời tiết luôn thay đổi thất thường, không một ai hay biết liệu đợt mưa kế tiếp là lúc nào, vì thế suốt nhiều năm qua, người dân nơi đây đã chế ra một hệ thống dẫn nước – họ tạc vô vàn đường vân loằng ngoằng trên khắp bề mặt vách đá, trẩy dài dọc theo quặng mỏ sâu nhất lớn nhất nọ, trong quặng mỏ ẩm thấp khôn tả, sự chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm khiến vách đá hay úng nước, những giọt nước ấy sẽ chảy xuôi xuống khi đạt đến một sức nặng nhất định, kế đó dần dà tụ lại theo đường vân nhân tạo và nhỏ từng giọt xuống bình hứng nước đặt phía dưới cùng, chờ đổ đầy hàng trăm bình nhựa thì có thể lên gần một trăm lít nước.

Dựa theo lời Siebe nói, thì những bình nhựa mới kê dạo vừa qua sắp đầy, mang về dùng được rồi.

...Bởi vậy An Chiết và Lục Phong bèn xách theo hai cái xô nhựa cùng một chiếc đèn măng-sông để soi đường, họ tiến vào đường chính của quặng mỏ hòng lấy nước về giúp Siebe.

Đầu tiên An Chiết nhấc bình nhựa đặt ngay lối vào lên, đoạn đổ nước vào trong xô, kế đó đặt nó xuống, tiếp tục nhích về phía trước lần tìm bình tiếp theo.

Bấy giờ cậu chợt phát hiện Lục Phong chẳng hề di chuyển, thế là cậu ngoái đầu nhìn anh.

...Cái tên này đang nghiêng mình tựa lên vách đá, quan sát cậu bằng vẻ khoan thai, thấy cậu nhìn mình mới chịu tiến lên vài bước đổ nước chung với cậu. An Chiết từ chối hiểu cái thái độ ban nãy của anh, nhưng loạt động tác sau đấy của thượng tá rất nghiêm túc, nên cậu thôi không hỏi.

Quặng mỏ chạy dài vào tuốt sâu trong lòng đất, chính giữa là đường sắt, cậu và Lục Phong mỗi người một bên, họ tập trung đổ đầy xô nước của mình.

Đây là một quặng fe-rít, xung quanh gồ ghề tràn ngập dấu vết khai quật, đại đa số chốn thường toát ra sắc xám đen ướt rượt, tia sáng từ đèn măng-sông cứ nhập nhoạng trong môi trường ẩm thấp, tứ bề mù sương.

Hẳn con người sẽ ghét bỏ môi trường kiểu này, song hơi nước nơi đây khiến An Chiết thấy dễ chịu lắm, thậm chí cậu còn cảm giác bào tử đang mê tít lăn một vòng trong người cậu, An Chiết bị chọc cười khúc khích, khóe mắt hơi cong cong, cậu xoa nhẹ bụng mình nhằm đáp lại bào tử – đặt bào tử ở chỗ này khiến cậu thấy hết sức an toàn.

Xô nước của cậu mỗi lúc một đầy lên suốt quá trình đi dọc theo đường sắt khai thác, giây phút đi đến cuối hệ thống dẫn nước thì cái xô sóng sánh này đã biến thành thứ nặng nhất thế giới.

Đổ bình nước cuối cùng vào, An Chiết khệ nệ nhấc xô nước lên toan xoay lưng đi về.

Trước mặt cậu là quặng mỏ dài dằng dặc sâu hun hút, lối ra nay đã biến thành chấm sáng lấp lóe tựa đốm lửa nhỏ.

Cậu vẫn phải đi về dẫu xô nước trong tay cậu nặng nhường này, còn đường thì lại xa như thế, nhưng hiện tại cậu sắp sửa nhấc hết nổi rồi, xách xô nước trở về quả thực là việc bất khả thi.

An Chiết đứng ngớ ra.

Quặng mỏ vẳng tiếng bước chân, Lục Phong đi đến bên cậu.

Thượng tá hỏi:

– Không đi nữa à?

Giọng điệu anh tự dưng cao vút, như thể chứa đựng sự chế giễu.

An Chiết chẳng hé lời nào, cậu nhìn bến bờ quặng mỏ, cảm thấy chỉ số thông minh của mình đang tắt lịm từng chút từng chút một.

Lục Phong liếc nhìn cậu, bâng quơ nói:

– Nếu em chạy xuống dưới này trước, sau đấy bắt đầu hứng nước...

An Chiết:

– .

Cậu thấy tức cái lồng ngực rồi đấy.

Giả sử ta xách một cái xô rỗng xuống đây trước xong hẵng đi lên lại, vừa đi vừa hứng nước, vậy thì ta chỉ cần xách xô đi một chuyến thôi. Mà bây giờ... cậu chẳng những phải xách xô nước càng ngày càng nặng đi hết chặng đường, mà giờ còn phải xách nó quành lại bận nữa.

Rốt cuộc cậu cũng hiểu vì sao Lục Phong chẳng màng nhúc nhích khi thấy động tác của cậu rồi.

Cái tên này, cái tên này...

Rõ ràng cái tên này đã lường trước được hậu quả từ đầu, ấy thế mà vẫn tỏ vẻ bàng quan đứng nhìn cậu làm vậy.

An Chiết quyết định dỗi. Cậu là một cây nấm có lòng tự tôn, thế là bèn ứ hự xách cái xô nặng trình trịch trở về, cũng gắng đi thiệt là nhanh.

Ngặt nỗi Lục Phong chân dài, chẳng mấy đã đi sánh vai cùng cậu mà không hề tốn sức, thậm chí, đi chừng vài chục bước, cái tên này còn vươn tay đè bả vai cậu xuống.

– Nhìn sang bên kia kìa – Lục Phong cất tiếng.

An Chiết bèn ngó sang bên cạnh.

Có một chiếc xe đẩy khoảng hai mét vuông dừng trên đường ray kim loại, bên trong chứa vài cục khoáng thạch, rõ ràng là xe dùng để vận chuyển đá.

Tay bỗng dưng nhẹ bẫng – Lục Phong giật xô nước của cậu rồi đặt nó vào trong xe, sau đấy cũng thả xô nước của mình vào.

Đương lúc An Chiết ngỡ rằng thượng tá chỉ đơn thuần muốn tiết kiệm thể lực nhờ phương tiện giao thông này thôi, lại nghe anh thản nhiên nói:

– Em cũng lên đi.

An Chiết quan sát chiếc xe vận chuyển, thoáng chút ngần ngừ, cậu cứ cảm giác ánh mắt Lục Phong toát vẻ hứng thú, dường như định chơi một trò chơi kì quái nào đó.

Minh họa

Cuối cùng, do thấy cậu chẳng nghe theo nhưng cũng chẳng cự tuyệt, Lục Phong bèn bế thốc cậu lên.

Không gian trong xe vận chuyển nhỏ rộng lắm cơ, cậu xoay lưng về phía Lục Phong, ôm đầu gối ngồi thụp xuống. Lục Phong treo đèn măng-sông ở đằng trước, xe vận chuyển nhỏ chầm chậm bị đẩy dọc theo tuyến đường sắt, tiếng động cút kít khẽ dội lên nơi quặng mỏ.

Chung quanh toàn là vách núi, nơi đây tách biệt với thế giới và không có bất kì mối hiểm họa ẩn náu nào, ánh đèn vàng vọt của đèn măng-sông bảng lảng rọi sáng một vùng bé mọn phía trước, có đôi khi, trong khoáng thạch cũng lấm tấm ánh huỳnh quang, nom thật giống vùng đất thường xuất hiện trong câu chuyện cổ tích loài người.

An Chiết nhìn khung cảnh trước mắt, lưng tựa vào thành xe, cậu thả lỏng hoàn toàn. Bản tính của nấm vốn yêu sự ổn định và chẳng thích nhúc nhích mà, nên cậu cũng không phản cảm khi được đẩy đi. Mà, mặc dù cậu chẳng trông thấy Lục Phong, nhưng cậu biết rằng hiện tại đồ tồi này đang rất vui vẻ – thật khó hiểu làm sao, nền tảng cho niềm vui của nấm hiển nhiên là chây lười, còn nền tảng cho niềm vui của thượng tá là gì, cậu ứ thèm hiểu đâu.

Cậu nhìn thẳng về phía trước, thầm "hừ" trong lòng một tiếng.

✰ Chương 61 ✰

Chuyển ngữ: Jane

"Tất thảy đều bị quên lãng, tất thảy đều được chấp nhận."

***

Bữa trưa tất nhiên là xúp nấm.

Siebe nói rằng nấm này là do mình tự trồng trong quặng mỏ, sạch lắm. Nấm sò mọc nhanh, số lượng còn dư vẫn đủ ăn nhiều ngày.

An Chiết nghe vậy bèn lặng lẽ xo ro vào góc tường, trông Siebe lành tính tốt bụng là thế, ai dè cũng là một hung thủ sát hại nấm.

Nhưng cậu bắt buộc phải trở thành đồng loã xơi nấm.

Lúc sắp bắt đầu dùng bữa, cậu phát hiện Lục Phong thoáng liếc nhìn mình, An Chiết tin chắc rằng thượng tá đang nhớ tới bát xúp nấm mà anh vẫn chưa kịp ăn trước khi rời khỏi căn cứ, điều đó như một niềm tiếc nuối, mà con người thì chẳng thích tiếc nuối. Hôm nay được ăn, cũng coi như bù đắp phần nào.

Dùng bữa xong xuôi, Siebe bèn dẫn họ đi xem lương thực dự trữ – không nhiều nhặn gì cho cam, dăm cụm nấm, dăm lát thịt sấy khô, và một bịch muối.

– Thịt để dành lúc trước ạ, – Siebe giải thích – ta có thể dùng bẫy để bắt vài quái vật cỡ nhỏ, người lớn bảo nếu vẻ ngoài trông quá dị hợm thì khi ăn vào sẽ bị lây nhiễm, còn nếu chả dị hợm thì có thể ăn giống động vật hồi xưa đó.

Lục Phong nói:

– Quái vật đột biến cấp thấp chết hơn 24 tiếng là ăn được rồi.

– Thế là mấy chú ấy kết luận chuẩn rồi! – Siebe reo lên.

Lục Phong hỏi nó:

– Chỗ này có quái vật nào?

– Có chim, khối thằn lằn, cả chuột mập ú nữa, – Siebe trả lời – thi thoảng cũng có côn trùng và nhện, thường thì chúng em ăn chuột. Song kể từ lúc bão cát càn quét, họa hoằn lắm em mới gặp chúng, thay vào đó em thấy hai con vật xấu tệ, – Siebe nói tới đây, sắc mặt thoắt trắng bệch – khổng lồ kinh khủng, em sợ chúng phát hiện ra em nên chỉ dám quan sát bằng kính viễn vọng thôi, em chưa bao giờ thấy cái giống này, anh biết nó là con gì không?

– Nơi đây hẳn là ngọn đồi phía đông, mức ô nhiễm đáng lí không cao – Lục Phong nói – tuy nhiên năm hôm trước từ trường gặp trục trặc, dẫn đến tình trạng đột biến lần hai, xuất hiện quái vật kiểu lai.

Siebe:

– ...Hả?

Giọng Lục Phong thoáng chùng xuống:

– Những quái vật vốn thuộc cỡ nhỏ sẽ trở thành quái vật lai cỡ lớn nhờ vào việc tập trung chuỗi thức ăn.

Siebe tái mét hơn ban nãy.

An Chiết nghe Lục Phong nói là mường tượng ra ngay, quái vật tự giết hại lẫn nhau, tuy số lượng giảm bớt song cấp đột biến lại tăng vọt lên. Có lẽ chuyện đáng sợ hơn tất thảy chính là, trạng huống tương tự như vậy hiện đang diễn ra ở khắp mọi nơi trên Trái Đất, ngày hôm sau luôn kinh hãi hơn ngày hôm trước.

Lục Phong nhìn về phía Siebe. Hình dáng lẫn màu sắc kết hợp nơi đôi mắt anh toát lên nét sắc sảo và giá lạnh, hiển nhiên Siebe vẫn chưa quen nổi việc đối mặt với thượng tá, nó lại giật tróc một lớp sơn trên mặt bàn.

Lục Phong hỏi:

– Có ai từng đột biến trong hang động chưa?

– Có, có một chú bị quái vật cắn, sau đấy đi cắn những người khác ạ.

– Xử lí thế nào?

– Đuổi ra ngoài thôi.

Chiều sang, Lục Phong mượn giấy bút từ Siebe ghi chép sơ về sự thể nơi này. Dẫu chưa kết nối được tín hiệu, thượng tá vẫn làm tròn chức trách của mình.

Buổi tối là thời gian nghỉ ngơi, chỉ có độc một cỗ máy phát điện là còn hoạt động – dây điện nom ẩm ướt tả tơi, trong khắp quặng mỏ chỉ còn đúng một căn buồng trống có điện, hai người họ bèn ở nơi đấy.

An Chiết tắm rửa xong, cậu lau ráo tóc và tựa lên đầu giường nghịch nam châm, ta dễ dàng bắt gặp nam châm muôn nơi trong cái quặng mỏ này.

Mỗi tay cậu cầm mỗi cục, để hai cực cùng dấu hướng vào nhau, cậu muốn dính chặt chúng vào. Rõ ràng giữa hai cục nam châm chỉ có không khí, song bất kể cậu dốc bao nhiêu sức cũng chẳng khiến chúng tới gần được, tựa hồ ở giữa có một luồng sức mạnh vô hình đẩy chúng ra xa.

Cậu chau mày, chẳng hiểu cớ sao lại vậy, có rất nhiều kiến thức của loài người cậu chả tài nào hiểu thấu, cũng như có rất nhiều kiến thức về thế giới này con người chả tài nào hiểu thấu vậy. Nhưng cậu vẫn ngoan cố muốn ghép chúng lại với nhau, cậu nghĩ rằng chỉ cần mình gắng tí sức nữa thì không gì không ghép lại được.

Tiếng bước chân vọng đến, Lục Phong bước vào buồng, An Chiết đã giặt áo khoác của anh, hiện đang phơi nó ở chốn gió lùa rồi. An Chiết ngẩng đầu, thấy bấy giờ thượng tá chỉ mặc mỗi áo ba lỗ đen do quân đội phát, phơi bày những đường nét cơ bắp uyển chuyển đẹp đẽ của cánh tay và bả vai, ống quần đồng phục chiến đấu nhét trong ủng đen tôn thêm vẻ cao ráo điển trai cho ngoại hình anh. Anh lau sơ mái tóc, nó hơi rối bời, những sợi tóc lòa xòa trên trán nhỏ giọt long lanh.

An Chiết nhìn anh, khi cởi bộ quân phục cùng chiếc phù hiệu đại diện cho thẩm phán giả xuống, thì dường như Lục Phong chỉ là một sĩ quan trẻ đầy triển vọng nắm chắc quyền hành thôi. Mặc dù khuôn mặt anh vẫn lạnh nhạt như xưa, đôi mắt xanh sẫm cũng chẳng thực sự ấm áp, song An Chiết nhận thấy anh đã thả lỏng hơn rất nhiều. Thốt nhiên An Chiết sực nhớ, rằng theo cách tính tuổi của loài người, Lục Phong đương độ đôi mươi – rõ ràng là độ tuổi mà mọi thứ chỉ vừa mới bắt đầu.

Ai đấy đương độ đôi mươi đang cúi đầu bấm máy liên lạc, nhưng máy liên lạc vẫn tiếp tục cất thông báo: "Xin lỗi bạn, tín hiệu căn cứ đang bị gián đoạn do chịu tác động từ tầng điện li hoặc gió Mặt Trời..."

Lục Phong gập máy liên lạc đặt nó lên bàn, ngồi xuống bên cạnh An Chiết. An Chiết dù cố kiểu gì cũng không ghép hai đầu nam châm cùng dấu vào nhau được, cậu bèn ngó sang Lục Phong.

– Chỏi nhau – Lục Phong bâng quơ đáp.

An Chiết chau mày.

Anh lấy hai cục nam châm ra khỏi tay cậu, khác dấu ắt sẽ hút, vừa đổi hướng thì hai cục nam châm tức thì dính chặt vào nhau ngay, kế đó Lục Phong quẳng chúng sang một bên.

An Chiết lại cầm chúng hí hoáy lần nữa, nhưng kết quả luôn như cũ dẫu có thử bao nhiêu lần. Giữa hai đầu cùng dấu tồn tại một lực cản cực mạnh – ta chẳng bao giờ áp chúng vào nhau nổi, mà hai đầu khác dấu lại có sức hút thật khó mường tượng, chỉ cần đặt chúng hơi gần thôi, chúng tự khắc bứt khỏi ngón tay cậu hòng lao về phía cực còn lại.

An Chiết hỏi:

– Giữa chúng là thứ gì thế?

Cậu là cây nấm, còn An Trạch thì chưa từng học Vật lí, cộng gộp sự hiểu biết của cả hai cũng không tài nào giải thích rõ hiện tượng này.

Lục Phong trả lời:

– Từ trường.

An Chiết hỏi:

– Giống từ trường nhân tạo ư?

– Ừm – Anh đáp.

An Chiết hỏi:

– Không thể thấy chúng à?

– Không thể.

– Vì sao không thể?

Lục Phong nhét cậu vào tấm chăn:

– Có rất nhiều thứ vô hình.

An Chiết ò đáp lời anh, trong chăn hơi nóng, cậu bèn thò cánh tay và bả vai ra.

Lục Phong nhìn cổ áo phông trắng phau mềm mại của cậu, một mảng máu bầm xanh gắt lấp ló đằng sau, anh duỗi tay kéo nó xuống. Làn da vốn trắng nõn mịn màng chẳng một tì vết giờ đây lấm tấm dấu vết xanh tím, rất đều – đều tới độ không lần ra nổi đâu mới là vết khởi nguồn.

An Chiết giữ im lặng, đẩy tay anh ra rồi tự kéo cổ áo lên lại.

Ánh mắt của Lục Phong vẫn nán lại ở vị trí ấy, anh thừa hiểu những dấu vết này là gì, căn cứ thường áp dụng hình thức tra tấn bằng điện với cường độ cao lúc muốn lấy lời khai của kẻ trọng phạm, ai rồi cũng sẽ hết chịu nổi tự thú tội. Di chứng sót lại từ tra tấn bằng điện nhiều vô số kể, trải dài từ thể xác đến tâm hồn. Thương tật ngoài da chỉ là một trong số những điều đó thôi, thậm chí có hàng khối người chẳng thể thoát khỏi cơn ác mộng đau đớn đó suốt cả cuộc đời.

Nhưng sau khi ruổi mình vào chăn, An Chiết chỉ rủ hàng mi, nhẹ nhàng nói:

– Giờ hết đau rồi mà.

Lục Phong nhìn vẻ mặt bình thản của cậu, đôi lúc anh rất khoái bắt nạt cậu, đôi lúc lại muốn đối xử tốt với cậu.

An Chiết bỗng nhích vào trong góc giường chút đỉnh, nhường chỗ cho anh nằm xuống. Giường khá hẹp, đâm ra khi Lục Phong nghiêng mình nằm xuống thì họ chỉ cách nhau trong gang tấc. An Chiết phát hiện một vết sẹo trên cánh tay anh – như bị vũ khí cùn chém trúng, song đấy vẫn chưa phải toàn bộ, khắp bả vai anh cũng lấp loáng những vết xước cùng các thương tổn.

Cậu vươn tay toan chạm vào vết sẹo dài nhất, nhưng vươn đặng non nửa lại sợ làm đau thượng tá, vậy là bèn rụt lại, ngoan ngoãn nằm rúc trong chăn.

Ánh mắt Lục Phong ấm áp đôi phần:

– Ngủ đi.

An Chiết ừm thật khẽ, đoạn nhắm mắt lại.

Dưới ngọn đèn tỏ, bóng râm nhạt nhòa hắt xuống bởi hàng mi tôn thêm vẻ yên tĩnh mềm mại cho nét mặt cậu. Cậu thả lỏng, Lục Phong nhận ra điều đấy một cách dễ dàng, dường như nhóc dị chủng này tin rằng anh sẽ không làm hại mình – dẫu sau khi người cậu đã chằng chịt vết bầm do tra tấn bằng điện.

Đây chẳng còn là lần đầu tiên anh thấy khó hiểu trước cử chỉ của cậu. Thuở họ vừa quen biết nhau, vào cái đêm loạn lạc anh rời khỏi cổng thành và không chốn nương thân, An Chiết cũng nói cho anh với vẻ không hề đề phòng, rằng anh có thể ở lại chỗ của tôi. Khoảnh khắc ấy anh thiết tưởng cậu trai này ấp ủ ý đồ khác, hoặc là, cậu đơn thuần cùng cực giống hệt vẻ bề ngoài của cậu, hoàn toàn chẳng hay biết rằng bình thường con người ta sẽ chả mời kẻ lạ ngủ lại.

Anh nghĩ thế nào thì hỏi thế đấy.

– ...Không sợ tôi à?

An Chiết nghe anh hỏi vậy bèn chầm chậm hé mắt, dưới ánh sáng mơ màng của đèn măng-sông, đôi mắt cậu như được dát một màn sương đẹp đẽ êm đềm. Ngặt nỗi trong thời gian ngắn ngủi quá đỗi, cậu đã sắp sửa thiếp đi rồi, An Chiết rủ rỉ:

– Sợ về điều gì cơ?

Lục Phong chẳng trả lời, anh nhổm nửa người dậy rồi nhìn xuống An Chiết, ánh mắt đầy vẻ thâm trầm, kế đó với một tay cầm khẩu súng đặt bên gối, nòng súng lạnh buốt khẽ huých vào má An Chiết.

An Chiết ngước nhìn anh bằng đôi mắt sánh nước, cậu thoáng chau mày, tựa hồ lại bực bội, vươn tay hẩy nòng súng ra rồi trở mình sang hướng khác – động tác ấy cũng tiện thể lôi hết chăn đi luôn.

Lục Phong nhìn chiếc cổ gầy gò và bờ vai hơi nhấp nhô theo nhịp thở của cậu. Một người thế này thật giống rất dễ chịu tổn thương, cũng rất dễ nhận được sự chở che. Mãi sau, anh tắt đèn, đoạn nằm xuống lần nữa.

Lục Phong nhận thấy thân mình hơi nặng trĩu, An Chiết đắp phần chăn bị mình cuốn đi ban nãy lên người anh.

Tựa chuồn chuồn chạm đuôi lên mặt hồ yên ả vào đêm trường mùa hạ. Và thứ rung động bởi gợn sóng không chỉ là mặt hồ vốn dĩ êm đềm.

Trong chuỗi lặng thinh im bặt, Lục Phong bỗng ôm siết lấy An Chiết từ phía sau, chẳng thấu nổi là do bị cảm xúc thúc đẩy hay chỉ là động tác theo bản năng nữa. Cánh tay anh đè nặng cánh tay An Chiết, An Chiết bỗng nhúc nhích chút đỉnh, ban nãy cậu định dời cánh tay xuống, kế đấy không rõ phải đặt ở đâu nên bèn dời lên lại, cuối cùng đặt ngón tay lên cánh tay Lục Phong, giống hệt trước kia cậu hay vắt sợi nấm trên tảng đá hoặc thân cây gần kề vậy.

Lục Phong cảm nhận được động tác của cậu.

An Chiết cất giọng, thều thào:

– Vậy anh không sợ em lây gen cho anh ư?

Lục Phong chẳng hề đáp lời An Chiết, hệt như vừa nãy An Chiết cũng chẳng đáp lời anh.

Thẩm phán giả tin tưởng một con dị chủng, hoặc dị chủng tin tưởng một chàng thẩm phán giả, mặc kệ xuất phát từ lí do gì đi chăng nữa, ta chả nói rõ được rốt cuộc việc nào mới hoang đường hơn. Hoặc có thể cái ngày mà họ gặp nhau, chính là khởi đầu cho câu chuyện hoang đường nhất thế giới này rồi.

Nhưng trong bóng tối, không người nào thấy rõ khuôn mặt nhau. Tại vùng đất ngăn cách với thời cuộc ngoài kia, tại vùng đất chẳng một ai hay biết, dường như dẫu làm điều gì cũng không sao cả. Bởi tất thảy đều bị quên lãng, tất thảy đều được chấp nhận.

Lục Phong nghe tiếng hít thở đều đặn nhẹ bẫng của An Chiết, dần nhắm mắt lại.

✰ Chương 62 ✰

Chuyển ngữ: Jane

"Hai anh thân nhau thật đấy."

***

An Chiết nằm mơ.

Tiếng mưa rơi... Tiếng mưa rơi tí ta tí tách.

Giọt nước nện lộp bộp xuống phiến lá rộng rồi chảy xuôi theo gân lá xen kẽ, nó trượt khỏi mép lá, rơi xào xạc vào bụi cây, rễ gốc cây già đưa nó đến mảnh đất trũng nước, nó thấm vào đấy – đó là một mùa mưa ẩm ướt, dường như cậu từng kinh qua vô vàn cảnh tượng tương tự, kí ức bắt đầu nảy nở từ ấy, cả hành tinh chính là một cơn mưa.

Cậu sà xuống từ một chiếc mũ nấm, trước khi mưa đổ xiêu xiêu cậu đã bị gió thổi rơi xuống đất rồi. Có vẻ cậu luôn say giấc nồng cho tới lúc ngửi được hơi nước ướt át sau cơn mưa.

Mọi thứ đều vượt khỏi tầm kiểm soát của cậu, trong mảnh đất ẩm, sợi nấm vươn ra, phát triển, chia nhánh, trườn ra ngoài rồi chụm lại. Từ một túi bào tử còn bé hơn cả cát sỏi – cậu biến thành sợi nấm nhỏ thó, kế đấy nảy cuống, mọc mũ.

Hết thảy đều hợp lẽ thường, nấm chẳng cần truyền kiến thức từ thế hệ này sang thế hệ khác như loài người, và tuy cậu không có tí ấn tượng nào về cây nấm đã sinh ra mình, song lại thừa biết mình nên hút những chất gì trong đất, cứ như rằng đây chính là kinh nghiệm của bản thân vậy. Cậu cũng hiểu mình phải chào đời vào mùa nào, phải làm việc gì, rồi phải chết vào mùa nào, sứ mệnh cả đời chính là cho ra một túi bào tử.

Tiếp đấy, nó lại lớn lên, chết đi, rồi bào tử của nó tiếp tục lớn lên, vô vàn bào tử lần lượt sà xuống trong cơn mưa từ muôn đời nay.

Tiếng mưa lộp bộp cứ vậy bảng lảng bên tai cậu, xung quanh cậu, thân thể cậu, nó ở khắp mọi nơi trong kí ức và trí óc, như hòng thúc giục về sự việc sắp sửa xảy ra nào đấy. Kéo theo là thứ dao động đến từ miền chân trời xa xăm, hư ảo vô bờ, ớn lạnh vô bờ... Tới tận lúc cậu mở choàng mắt!

Đồng hồ thạch anh treo trên tường điểm chín giờ sáng, bên cạnh cậu không có ai hết, cậu nằm cuộn tròn trong chăn. Nhưng cảm giác được cánh tay Lục Phong ghì riết hãy còn vấn vương, nhiệt độ nán lại trên làn da, thiêu đốt mình mẩy cậu từng cơn. Lục Phong vốn chỉ ôm nửa thân trên của cậu thôi – ở vị trí dưới bả vai, hiềm nỗi do khó chịu khi bị đè nên ngủ đến canh khuya cậu bèn rút tay ra, cánh tay của cái tên này tức thì dời xuống dưới, đặt trên eo cậu, lòng bàn tay vừa hay áp sát bụng cậu.

Giây phút được Lục Phong ôm chầm, dường như có thể tránh khỏi muôn mối hiểm họa ngoài kia, cậu thấy an tâm vô ngần, song chính bản thân cái tên này lại là sự nguy hiểm kinh hoàng nhất, An Chiết chẳng nhớ nổi bản thân đã ấp ủ thứ tâm tình gì mà chìm vào giấc ngủ lần nữa.

An Chiết quan sát toàn cảnh trước mắt, đầu óc mụ mị. Cậu khẽ nhúc nhích ngón tay, xương cốt cũng toát lên vẻ mềm oặt, hệt như ngủ trưa lâu quá đâm ra mình mẩy bị rút kiệt sức lực.

Bầu không khí chung quanh ẩm thấp tột cùng, giống hệt có cơn mưa vừa ghé ngang qua.

Cậu nhớ tới giấc mơ vừa quái gở lạ lùng vừa tựa điềm báo ấy, bèn ngồi dậy, chìa tay. Móc bào tử ra khỏi bụng quá ư tàn nhẫn, duy chỉ có chàng sĩ quan họ Lục nào đó mới dám làm thế thôi. Cậu kiểm soát dòng chảy của bào tử trong người mình, sau ba phút, vô khối sợi nấm trắng phau chĩa ra ngoài rồi chụm lại, bào tử xuất hiện trên lòng bàn tay phải của cậu.

Lúc mới thả vào cơ thể – bào tử vốn bé tày nửa gan bàn tay thôi, giờ đây nó đã to bằng nắm tay của cậu rồi.

Cậu mượn ánh đèn măng-sông ngắm kĩ nó, cuối mút sợi nấm của bào tử xuất hiện một nhánh nhỏ thó nom giống sừng hươu, trơn bóng trắng loáng như bông tuyết, nó bắt đầu thay đổi hình thái rồi.

Cậu giơ ngón tay trái chọt nó, nó vươn sợi nấm quấn quýt lấy ngón tay cậu nom rất chi là thân thiết. Cậu có thể cảm nhận được sức sống dạt dào từ nó, nó sắp sửa chín muồi rồi.

Cậu chẳng biết chính xác chừng nào bào tử sẽ chín muồi, song hẳn là không lâu nữa đâu.

Sợi nấm của cả hai chẳng còn quấn lấy nhau, bởi nó sẽ trở thành một cây nấm có thể sống độc lập. Giây phút chín muồi nó tự khắc rời xa cậu, như xưa kia cậu đã bị gió cuốn đi.

Gieo bào tử – đây là bản năng của nấm. Nên gieo nó ở đâu nhỉ? Liệu ở tương lai xa xôi, nó có lớn lên không? An Chiết chẳng rõ, một nỗi bâng khuâng thẫn thờ trước khi từ biệt ám mãi trong lòng cậu, có vẻ mọi sự vật hữu hình trên đời này đều phải chia xa.

Bỗng bấy giờ có tiếng động vọng tới từ ngoài hành lang, bào tử của cậu thoạt tiên giương sợi nấm, tựa hồ đang lắng nghe âm thanh, nghe rõ thì bèn rục rịch với vẻ phấn chấn khôn cùng, nó lăn về phía phát ra âm thanh nọ – giống hệt một cực nam châm chạy về phía cực còn lại, An Chiết giơ hai tay đè nó xuống, trước khi Lục Phong bước vào bèn vội nhét cái ngữ ăn cây táo rào cây sung này vào người mình.

Lục Phong đứng trước cửa, thoáng nhướng mày nhìn cậu.

"Dậy." Anh cất giọng.

An Chiết ngoan ngoãn vọt xuống giường đi ăn cơm, lối sống của họ dạo vừa qua toàn thế này đấy, An Chiết giúp Siebe nấu nướng và dọn quặng mỏ. Lục Phong thường ra ngoài, lần nào An Chiết cũng lo đau đáu anh không về được, song ngờ đâu lần nào thượng tá cũng bình yên vô sự, lắm lúc còn xách thêm một con chim nhỏ về cho họ nướng nữa.

Mà đa số thời gian họ chẳng có việc gì làm trong hang động cả, An Chiết đọc hết tất cả sách báo ở đây rồi, dưới sự yên cầu của thượng tá – cậu lại đọc thêm tiểu thuyết tình yêu và nguyên cả cuốn cẩm nang vũ khí cho anh nghe, vì cái tên này lười lật sách.

Cuối cùng, họ bắt đầu lấy sỏi để chơi cờ, toàn là mấy trò chơi đơn giản thôi, nào là cờ ca rô, cờ cá ngựa chẳng hạn, Lục Phong dạy cậu luật chơi trước, kế đó họ vui đùa cùng nhau, An Chiết thua nhiều thắng ít, cậu thầm ngờ rằng những lần thắng nọ là do thượng tá cố ý nhường tất, vì hễ cậu thắng thì mắt Lục Phong đều hơi thoảng nét cười.

Giờ ăn cơm, Siebe thốt lên:

– Hai anh thân nhau thật đấy.

– Hồi trước cũng có người yêu đương trong động, nội em chứng hôn cho họ nè – Thằng bé thở dài não nề, gác đũa, đoạn nói tiếp – Em cũng muốn yêu đương, nhưng chỗ này chẳng còn ai hết.

Lục Phong giữ im lặng, An Chiết an ủi Siebe:

– Trong căn cứ có người.

...Mặc dù chỉ có tám ngàn người.

Siebe như nhận được sự an ủi, lại bắt đầu hăng hái nhấc đũa lên.

Sau bảy ngày, tín hiệu vẫn chưa khôi phục, Siebe nói cho họ hay một tin xấu, rằng họ phải đến thành phố hoang cách đây mấy ngàn mét để kiếm vật dụng.

Vì lẽ đó họ bèn để lại chút đỉnh lương khô cho cụ ông, đoạn nhét hết số nấm lẫn thịt khô còn dư vào trong ba-lô kèm theo nhiều bình nước, Siebe chạy xuống bếp lấy một chai cồn nhỏ, thuở mà người trong quặng mỏ vẫn chưa chết hết, họ thường hay vào thành phố tìm kiếm vật dụng, chính vì vậy chẳng thiếu trang bị mang theo.

– Hồi xưa chúng em có mở một con đường đất, có thể đạp xe luôn đó – Giọng Siebe buồn thiu – Giờ biến thành đống cát rồi, chả đạp xe đi được nữa.

Thế là trước khi rời đi An Chiết bèn bịn rịn ngó sang mấy chiếc xe đạp dựng hàng loạt trong góc tường, cậu chưa thấy nó lần nào hết.

Lục Phong vắt khuỷu tay lên bờ vai cậu, bâng quơ bảo:

– Bao giờ về đèo em đi.

Khoảnh khắc họ thu xếp xong xuôi mọi thứ, định bụng mở nóc hang động ra, bỗng tiếng bước chân đà đận nặng trình trịch vẳng tới từ chốn sâu hút của quặng mỏ.

An Chiết ngoảnh đầu, dưới ánh đèn tù mù, một cụ ông gầy đét vịn tường gắng nhích đến từ góc rẽ, mái tóc bạc phơ của cụ rối bời, khóe miệng run rẩy không ngớt, tựa ánh lửa bập bùng trên ngọn nến bạc màu đương chấp chới trong gió.

Siebe chạy tới chỗ cụ:

– ...Nội ơi?

Cụ nhìn nó đăm đăm bằng con mắt đục ngầu, chẳng đọng bất cứ xúc cảm gì, cũng chẳng giống nhận ra nó, cụ chỉ mở miệng thều thào:

– Ta đi với.

Siebe ôm bờ vai cụ:

– Nội ở đây là được rồi, tụi con đi dăm bữa là về ngay, tụi con đi kiếm thức ăn mà.

Cụ vẫn cất chất giọng khê khản:

– Ta đi với.

Mặc cho Siebe khuyên ngăn thế nào cụ vẫn lẩm bẩm hoài câu ấy. Khuôn mặt đờ đẫn mụ mị của cụ thoáng gợi lên vẻ tỉnh táo nhờ sự kiên trì này.

Siebe cực chẳng đã giương ánh mắt xin giúp đỡ nhìn Lục Phong.

Lục Phong quan sát cụ ông kia hồi lâu, đoạn bảo:

– Dắt theo đi.

Siebe khẽ vâng, đoạn dìu cụ ông ra ngoài. Cụ đi loạng choạng như mém gục, dẫu để ai chứng kiến đi chăng nữa, họ cũng thừa hiểu rằng sự sống tuổi xế chiều này sắp tận rồi.

Lúc đến cửa động, Lục Phong bèn nói:

– Để tôi cõng cụ.

Siebe lắc đầu nguầy nguậy, nó cõng ông nội mình lên, đáp rằng:

– Nội nhẹ lắm ạ.

An Chiết nhìn tấm thân còm cõi của cụ, bệnh tật đã bào mòn cơ thể cụ thành một khung xương lỏng lẻo gầy rộc.

Họ đặt chân lên mặt đất, ánh nắng ập xuống. An Chiết nheo mắt, qua hồi lâu mới thích nghi được.

Cậu trông thấy cụ ông nằm rạp trên lưng Siebe, đôi mắt nhắm nghiền, khuôn mặt cụ lấm tấm những vết đốm mà chỉ khi con người ta già nua mới nổi lên, nhưng trong ánh nắng, nét mặt cụ rất đỗi bình thản.

Môi cụ mấp máy, xổ ra một câu.

– Người sinh trưởng trên mặt đất.

Đây là câu nói duy nhất chả giống nói mớ mà An Chiết nghe được từ miệng cụ suốt những ngày qua. Cậu ngẩng đầu trông lên bầu trời xám xịt, giờ đây, bầu trời lấp loáng gam màu xanh nhạt, dẫu màn đêm chưa buông xuống, ta vẫn nhìn thấy cực quang – khác hẳn với trước kia.

Lục Phong cất tiếng:

– Từ trường đang được điều chỉnh.

An Chiết khẽ gật đầu, cậu chẳng hiểu ý nghĩa của câu ấy, nhưng chỉ cần cực từ vẫn còn nguyên vẹn, vậy thì mọi thứ đều ổn.

Họ bước chân thấp chân cao trên cồn cát, dường như chỉ có mỗi họ là sự sống duy nhất khắp sa mạc mênh mang vắng ngắt thôi. Ngọn gió tấp đến từ xứ xa không một ai hay biết, dẫu mười ngàn năm, hay hàng trăm triệu năm, nó vẫn mải thổi vun vút, sinh vật đi lại trên mặt đất bỏ cũ lấy mới, có chết đi, có chào đời, tuy nhiên gió sẽ chẳng bao giờ đổi thay. Đương lúc gió lùa vào kẽ đá, trên sa mạc chóng rít lên thứ âm vang ù ù dài dặc lạ lẫm tựa tiếng khóc than.

Trong chuỗi gào khóc xa xăm trống trải, An Chiết bèn kéo góc ống tay áo của Lục Phong theo phản xạ, lẽo đẽo theo anh.

Lục Phong thản nhiên ngó sang cậu:

– Cõng em nhé?

An Chiết lắc đầu, người ta tự đi được mà.

Lục Phong không hé lời, tiếp tục rảo bước về phía trước.

Đi đặng thêm một chặng xa, An Chiết túm đuối rồi, cánh tay nay mỏi nhừ. Mấy ngày qua, dường như thể lực của cậu ngày một kém đi trong lúc bào tử dần chín muồi, cậu muốn rũ tay xuống, rồi lại chẳng nỡ buông.

Cổ tay Lục Phong hơi nhúc nhích, An Chiết hiểu ý anh rồi, cậu túm mãi khiến anh thấy phiền đó, thế nên cậu ngoan ngoãn thả ra.

Kế đấy, thượng tá nắm chặt lấy tay cậu.

✰ Chương 63 ✰

Chuyển ngữ: Jane

"Nó mỗi lúc một gần."

***

Dọc đường, họ bắt gặp một cái xác máy bay, nó có hình dáng giống hệt chiếc máy bay của Lục Phong lúc trước. An Chiết ước chừng hướng đi – hẳn nó đã rơi trước cả chiếc mà Lục Phong ngồi, bởi cậu tận mắt trông thấy nó vục xuống mà.

Sau khi ba bốn chiếc máy bay lần lượt rơi tan tác, cậu không thấy máy bay căn cứ xuất hiện trên bầu trời nữa, có lẽ căn cứ cũng nhận ra sự thay đổi lạ lùng ấy nên bèn ngừng cho máy bay tiêm kích xông ra ngoài rồi. Song trạng huống của chiếc máy bay này nom ổn hơn của Lục Phong chút đỉnh, chưa bộc phá, trừ việc hư hao ở ngoài thì những bộ phận khác đều nguyên vẹn.

Lục Phong sải bước sang đằng đó, đoạn dỡ hộp đen của chiếc máy bay này xuống, do dự phút chốc, anh bèn chui vào cửa buồng lái – mép cửa có vết gặm nhấm.

Quái vật đã xơi sạch xác phi công, quần áo dính máu sớm khô quánh lại, xương cốt bị róc sạch thịt vương vãi khắp buồng lái, hộp sọ lăn kềnh dưới bàn điều khiển – nó chỉ còn quá nửa thôi, mép đứt có dấu răng sắc lẹm. An Chiết cũng chui vào cùng anh, Lục Phong vốn định xua cậu ra để cậu khỏi hãi trước cảnh man rợ này, nhưng kế đó anh nom thấy ánh mắt phẳng lặng của An Chiết, và anh sực vỡ lẽ cậu sẽ chẳng chợn lòng bởi thây người.

Có cuốn sổ tay hướng dẫn bay nằm úp sấp dưới bàn điều khiển, sổ tay hướng dẫn bay là sách tham khảo của phi công, ở trong tổng hợp các bước thao tác cơ bản, cách dùng lẫn công dụng của thiết bị cùng tất tần tật phương pháp xử lí những sự cố ngoài ý muốn.

Lục Phong vươn tay nhặt sổ tay hướng dẫn bay lên xem, một sự thay đổi khó lường đang diễn ra trên bề mặt nó, nét chữ đen ngấm sâu vào trang giấy, màu sắc ấy dần loang lổ, xúc tu nhỏ thó đen sì trải rộng ra khiến toàn bộ dòng chữ in trên mặt giấy đều méo mó ngoằn ngoèo theo một lối rõ lạ, thật giống loại bùa chú hung hiểm nào đó.

An Chiết quan sát trang giấy, cậu gắng phân biệt hình dạng con chữ, nội dung trang nọ là các sự cố về động cơ thường gặp.

Vậy là cậu biết, vụ rơi là do động cơ xuất hiện sự cố, mà tới tận lúc máy bay tan xác, phi công hãy còn đọc sổ tay nhằm tìm kiếm hướng giải quyết khả thi.

Kế đó... trong gang tấc ấy, máy bay rơi vỡ, sổ tay trượt xuống đất, tất thảy bỏ mình.

Sau khi được Lục Phong bế xuống từ cầu thang máy bay, An Chiết nghe thấy Lục Phong cất giọng:

– Chiếc máy bay tôi ngồi cũng gặp tai nạn bởi sự cố động cơ.

An Chiết chau mày.

Lục Phong nói tiếp:

– Tuy nhiên những phụ tùng khác cũng có vấn đề, là do trục trặc bên khâu sản xuất ư? Nhưng đội bay tiêm kích PJ đã thực hiện nhiệm vụ bay nhiều lần rồi, trước lúc cất cánh cũng tu sửa đàng hoàng.

Họ rảo bước đi thẳng, Siebe và ông nội chờ đằng trước. An Chiết chẳng tỏ rõ nguyên nhân máy bay gặp sự cố, cậu hỏi:

– Thế thì vì sao?

– Tôi không biết – Chẳng mấy khi thượng tá lại thốt ba từ này.

Như sực nhớ điều gì, anh bình tĩnh trả lời:

– Lúc PL1109 hạ cánh cũng bị trục trặc động cơ, tuy nhiên nó vẫn hạ cánh an toàn.

PL1109 là máy bay chiến đấu cao cấp nhất của căn cứ, nghe Lục Phong nói thế, thì tức là hiện tại tất cả máy bay đều dễ gặp tai nạn. Mới đây thôi, khi cậu rời khỏi căn cứ loài người rồi ngoảnh nhìn chủ thành, cậu vẫn trông thấy bóng hình PL1109 ung dung hạ cánh, hóa ra vào giây phút ấy, Lục Phong đã lướt qua bờ vực sinh tử một chuyến.

– Vậy... – An Chiết thì thầm – vậy sau này anh đừng đi máy bay nữa nhé?

Lục Phong chẳng trả lời, chỉ xoa đầu cậu.

Đuổi kịp Siebe, họ kể sơ lược về tình trạng chỗ ấy, rồi đi tiếp.

Sa mạc ngập ngụa trong tầm mắt họ.

Siebe quan sát xung quanh:

– Quái vật ít đi thật, trước kia còn nhiều lắm.

An Chiết hiểu câu đấy nói lên điều gì. Dẫu lớn, dẫu bé, vô vàn sinh vật đã chết đi và trở thành một phần của quái vật kiểu lai. Do tổng số quái vật giảm thiểu, nên nơi đây có vẻ an toàn tột cùng, dù thực chất mỗi con quái vật đều nguy hiểm hơn xưa.

Song mọi sự thay đổi này hoàn tất chỉ trong mười mấy ngày, quái vật nhỏ yếu bị càn quét sạch loáng, quá trình nọ xảy đến nhanh choáng váng. An Chiết nhớ về con quái vật ăn lấy ăn để gen bất chấp nọ, động tác của nó nom hơi hấp tấp quá đà.

Thực chất cũng có một cảnh tương tự tồn tại trong kí ức cậu... Là cuối thu nơi Vực Thẳm.

Vực thẳm sang đông thường trở nên rét mướt, lúc trận tuyết ghé qua, khắp mặt đất và cỏ cây đều chìm trong buốt giá. Lũ quái vật chẳng ra ngoài hoạt động nữa, chúng thường tìm sơn động ấm áp để nương náu. Nhằm sống sót qua cả mùa đông, chúng sẽ xồ vào thịt lẫn nhau một cách rất hăng – chúng liều mạng ngốn thật nhiều thịt hòng tích trữ chất dinh dưỡng xuyên suốt mùa đông hoặc tha xác kẻ thù vào hang núi, làm lương thực dự trữ. Thời khắc máu chảy thành sông nguy hiểm nhất ở Vực Thẳm, là một tháng trước khi mùa đông ghé tới.

Hiện nay cảnh giết chóc tương tự cũng diễn ra ở chốn khác.

Chặng đường này không dài, họ luôn chú ý chọn những lối phủ khuất mà đi, hoặc có thể là nhờ vào sự may mắn, họ chưa đụng độ bất cứ quái vật kiểu lai khủng bố nào. Xuất phát lúc tám giờ, đến chín giờ rưỡi sáng, non nửa thành phố bị gió bụi vùi lấp xuất hiện trước mặt họ.

Nó rộng ngút ngàn, dẫu đến gần vẫn phóng mắt trông không đặng điểm dừng. Ta có thể thấy láng máng con đường cũ kĩ nằm giữa muôn tòa nhà liên miên kéo dài bất tận. Các công trình cao tầng khác hẳn với kiểu nhà đều chằn chặn ở căn cứ phương Bắc, nó xây lộn xộn, chẳng có quy luật nào cả. Nhà cao tầng cao vút và thấp bé nằm cạnh nhau, nhà hình cầu và hình chữ nhật đứng xen kẽ, nẻo đường khuất khúc, có một tòa tháp đỏ sậm cao chọc trời sừng sững giữa thành phố, cầu vượt sập hơn phân nửa, cây mây lằng nhằng vắt ngang ở con đường phía trước. Muốn nhà màu nào có nhà màu nấy, song chính bởi vì chúng muôn hồng nghìn tía, nên lại dần gộp thành một trong mắt An Chiết, mông lung một màn bụi mờ ảo.

An Chiết đứng ngắm cõi xa khoảng khoát vô bờ ấy, nếu chẳng nhờ tận mắt chứng kiến – hẳn cậu sẽ không mường tượng nổi rằng trên đời vẫn còn kiểu thành phố vằn vèo phức tạp này, giả sử cậu là người dân ở đây, thì lạc đường âu cũng là lẽ thường tình.

Những rặng mây đen che khuất vầng thái dương khiến khoảng trời tối sầm xuống, và làn sương mờ ảo bắt đầu phủ vây.

– Hai anh đi theo em – Siebe nói – Người lớn trong quặng mỏ hay ghé nơi này tìm đồ dùng lắm, trong thành phố có một đồn bốt. Thực ra sống ở nội thành cũng được thôi, ngặt nỗi tụi em sợ gặp quái vật. Chả hiểu sao mà nội cứ bảo chỉ có hang động mới an toàn nhất. Trước kia có ba ông chú thấy cuộc sống nơi hang động khốn quẫn quá nên bèn cuốn gói vào nội thành, rồi bặt tin từ bấy đến giờ luôn.

Họ theo chân Siebe lướt qua dãy nhà san sát rồi đi đến khu cư trú đông đúc, ken dày những cư xá lớn ám màu xám xịt, quảng trường nằm tuốt đằng xa, một vật hình cầu trắng toát thấp thoáng giữa quảng trường. Trong thành phố im phăng phắc, trừ tiếng gió lùa qua nhà cao tầng thì chỉ còn mỗi tiếng bước chân của họ.

Lục Phong phụ trách quan sát xung quanh, Siebe phải cúi gằm suốt do cõng ông nội, nó bảo:

– Qua khỏi quảng trường kia là tới, sắp rồi.

Bấy giờ, cụ ông chợt hé môi.

Dây thanh đới của cụ rung lên và bật liên tục một âm tiết cố định, cổ họng cụ nghẹn ứ đờm khiến giọng cứ the thé, cố lắm chỉ nghe được rằng:

– Ch...

– Ch... ch...

Lục Phong bỗng chốc ngừng bước.

An Chiết trông sang, cậu thấy anh đanh người nhìn về phía quảng trường đằng trước.

Giây tiếp theo, anh hô một tiếng:

– Chạy!

Chẳng có thời gian để suy nghĩ nữa, cánh tay An Chiết thình lình bị kéo đi, cậu xoay người nối gót Lục Phong lao xồng xộc vào một khu cư xá theo phản xạ. Siebe chưa hiểu mô tê gì sất, song vẫn cõng ông nội cố bắt kịp họ.

An Chiết khá quen với kiểu cấu trúc ở khu cư xá, vừa bước vào hành lang thôi, một bộ xương khô trắng hếu bận quần áo đã đập ngay vào mắt, nó tựa nghiêng lên góc tường, như thể hòa làm một với bức tường xám ngoét vậy. Nhưng cậu không săm soi kĩ nổi, bởi cơ thể cậu vốn đã rệu rã rồi, cậu bị tụt lại lúc lên cầu thang, Lục Phong bèn dứt khoát bế thốc cậu rồi chạy lên cầu thang thật nhanh. Cầu thang rất rộng, tầng một có ba căn hộ, giây phút chạy đến tầng tám có cảnh cửa đang rộng mở, Lục Phong ôm An Chiết xông thẳng vào đó, Siebe bám theo sau, nó vừa đi vào Lục Phong bèn đóng rầm cửa lại. Mọi đồ dùng trong phòng bám đầy bụi, có một bộ xương khô nằm chỏng gọng trên ghế xô-pha nơi phòng khách.

Đây là căn hộ có ba phòng ngủ hai phòng khách, nam bắc thông nhau, thứ gồ ra từ phòng khách và kéo dài men theo diện tích căn hộ – là một ô cửa kính sát sàn to tướng.

Lục Phong thả An Chiết xuống, anh thở hực lên nặng nề do ban nãy phải chạy thục mạng, An Chiết chưa từng thấy dáng vẻ này của anh.

Tuy nhiên giây kế tiếp...

Cậu phát hiện Siebe vọng ra ngoài cửa sổ sát sàn, mặt mày tái sạm, ánh mắt dại đi.

Cậu bèn trông theo.

Trắng ớn.

Một con quái vật trắng ớn, tròn lẳn, cao chừng nửa cư xá đang di chuyển với cái lối thực lạ – nó gần như bay lơ lửng, tựa âm hồn chầm chậm xáp tới đây. Chính là thứ mà An Chiết lẫn với vật trang trí màu trắng trên quảng trường xa xa, song, nó thực chất là một con quái vật khổng lồ.

Nó đi thẳng sang bên này, An Chiết thấy rõ hình dạng của nó khi chỉ còn cách hai con đường – một nắm vật thể chẳng hình dung nổi, hàng tá cái chi lúc nhúc như ốc sên hay bạch tuộc gì đó mọc dưới thân nó, nửa phần trước thì phụ trách việc di chuyển, nửa phần sau thì bùng nhùng kéo lê phía sau. Mình mẩy nó – mình mẩy gần như tròn lẳn phủ trùm một lớp màng hơi trong pha giữa sắc xám nhạt và trắng bợt. Sau lớp màng, trong thân nó chứa ti tỉ vật thể đen sì hoặc da cam – có hình dáng khó tả tột cùng, đấy có lẽ là cơ quan, xúc tu hoặc tứ chi lít nha lít nhít, hay là một thứ gì đương ngọ nguậy không ngớt.

Nó càng đến gần khu cư xá này, họ càng dễ chứng kiến những chi tiết trên người nó, đó là hình thái lai vượt khỏi tầm hiểu biết của loài người, ta chẳng tài nào lần ra nổi mắt nó ở nơi đâu. Mà Siebe cứ nhìn đăm đăm vào nó, như thể giây tiếp theo sẽ bỏ mạng bởi cơn điếng người vậy.

Nó mỗi lúc một gần.

Tất thảy đứng trong phòng ngừng thở.

✰ Chương 64 ✰

Chuyển ngữ: Jane

"Dòng thác lũ này chỉ mới bắt đầu lao nhanh thôi."

***

Nó băng qua con đường phủ lấp cát vàng rồi tới gần khu cư xá, còn cách vài trăm mét nữa thôi, chi mềm cạ lên mặt đường phát ra tiếng "Sạt sạt..." "Sạt sạt...". Ta chẳng lần thấy nổi con mắt, đôi tai, râu hay lỗ thở nào trên màng bọc xám ngoét bóng loáng kia cả, nó cảm nhận thế giới này bằng cách gì thế? Thính giác, thị giác, hay là sóng âm? Bởi điều đó quyết định họ nên trốn theo kiểu gì.

Siebe bật thốt:

– Tính... tính sao đây?

Lục Phong lặng thinh, anh sải bước đến bên cửa sổ đoạn vươn tay đẩy nó ra. Cửa sổ chả buồn nhúc nhích vào lần đẩy đầu tiên, nó cứ như bị đóng băng hoặc gỉ sắt vậy. Cánh tay anh banh chặt và dốc thêm sức, bấy giờ ô cửa mới rít lên thứ thanh âm ren rét do mài kim loại gãy lìa – váng tai tột độ, cố lắm chỉ đẩy ra đặng một kẽ hở nhỏ chênh chếch hình tam giác thôi.

Nòng súng đen ngòm chĩa khỏi kẽ hở, nhưng thượng tá không nhắm vào quái vật, mà là đường cái phía đối diện.

Một phát "Phằng" thật khẽ dội lên – là tiếng súng gắn nòng giảm thanh, chẳng nghe thấy nổi nếu đứng xa hơn mười mét.

Dáng đạn vụt qua hằn in nơi võng mạc anh, ngay sau đấy nó bắn vỡ cửa sổ trên tòa nhà nằm kế đường cái. Khác hẳn với loại đạn thường anh sử dụng khi phán xét loài người, hễ ra vùng ngoài anh sẽ đổi sang đầu đạn hợp kim urani nghèo, mạnh đến mức xuyên thủng và nghiền nát mọi lớp giáp.

Tiếng vang inh tai dội lên, nguyên mặt kính tức khắc vỡ choang rồi rơi xuống mặt đất.

Động tác của con quái vật rõ ràng thoáng chững lại.

Lục Phong lại cầm súng bồi tới tấp dăm phát nữa, ở đằng đó miểng kính đổ loảng xoảng không ngớt. Quả nhiên nó có nghe thấy, phần chi bùng nhùng nọ chuyển hướng, khựng giây lát như thứ dao động dập dờn. Tiếp đến chầm chậm nhích sang hướng bắt nguồn thanh âm. Ba phút sau, nó lại khựng người, mặc kệ lối đi ban đầu mà tiến tiếp về khu cư xá họ ở.

Siebe lùi về sau vài bước theo phản xạ, mặt mày tái mét:

– Nó... nó... liệu có diệt nó nổi không?

Lục Phong khẽ mím môi, anh nhìn thẳng nơi ấy, ánh mắt lẫm liệt, vẻ mặt bình tĩnh đến hãi.

Ngay sau đấy, chỉ thấy anh nhấc tay tháo nòng giảm thanh xuống, nhấn cò súng liên tục!

"Đoàng! Đoàng! Đoàng!"

Tiếng bộc phá rúc lên từng tràng giật dội tại quảng trường chung quanh con quái vật! Thanh âm ấy chẳng khác gì sấm rền điếc tai ở thành phố câm bặt tột độ này cả.

Quái vật lại dùng dằng tại chỗ thêm đợt nữa, nhưng cũng chính lúc bấy giờ, một tiếng rít sắc lẻm bất chợt bật ra từ đầu khác của thành phố. Tức thì, có cái bóng đen to tướng bay vụt lên ở đằng ấy – một loài chim khổng lồ giống hệt đại bàng lao thẳng tới, tốc độ chao liệng của cánh chim dài mười mét còn chóng hơn cả đạn, nó đang đâm bổ về phía con quái vật trắng bóc to ngang ngửa nó!

Quái vật rú lên một tiếng cao ngất ngưỡng, màng bọc trắng vỡ toác, vô vàn cái xúc tu như bụi gai thân mềm vươn ra nườm nượp quấn chặt mỏ đại bàng.

Thanh âm nặng trình trịch vọng khắp, đôi cánh tựa giáp thép của đại bàng đâm thủng cơ thể nó, quái vật đau đớn nên bèn vội rút xúc tu về. Đại bàng thừa dịp giằng ra, nó tức thì vỗ cánh bay vọt lên trời lúc vừa tung một đòn xong. Sau khi tránh thoát phạm vi tấn công của xúc tu màu xám đen loằng ngoằng nọ, nó bèn liệng quanh bầu trời, rồi tiếp đến lại thoắt bổ nhào xuống dưới – cuốn theo tiếng gió rít mạnh, mỏ chim sắc bén thọc thẳng vào mình mẩy con quái vật trắng bóc.

Chất lỏng màu trắng và hồng tựa thịt tức tốc văng tóe muôn nơi, răng nanh trong chiếc mỏ nhọn đang cắn riết thứ gì đó khiến con quái vật trắng oằn mình giãy giụa điên cuồng, cơ thể quá khổ của nó đánh sập những tòa nhà xung quanh, mặt đất rung nảy dữ dội. Hai quái vật khổng lồ khó mà mường tượng nổi cứ thế cấu xé nhau ngay tại thành phố loài người xám xịt.

Mặt đất trong bán kính hàng trăm mét đều nhoe nhoét chất nhầy sẫm màu, trận chiến này chấm dứt với một con quái vật trắng toát bị dập cho long lở, nội tạng chảy bừa phứa. Đại bàng quắp lấy một xâu cơ quan nội tạng ướt nhèm rỉ nước đầm đìa, đoạn xoay người bay về xứ xa chẳng chút luyến lưu.

An Chiết thở phào nhẹ nhõm, tới tận bây giờ cậu mới hiểu ý đồ nổ súng ồ ạt ban nãy của Lục Phong, chưa chắc ở thành phố này chỉ có độc một con quái vật, anh bóc trần vị trí của nó bằng tiếng súng hòng dẫn quái vật khác đến.

Chợt nghe Siebe hỏi:

– Sao... sao anh biết có con chim kia?

Lục Phong thu súng, lắp nòng giảm thanh vào đoạn xoay lưng, loạt động tác vừa lưu loát vừa gọn gàng.

– Không biết, – Anh trả lời – đoán bừa.

An Chiết dõi theo hướng đại bàng bay mất, dưới trạng huống như hiện tại, quái vật có cánh cho ta thấy ưu thế chẳng gì sánh bằng.

Vừa trở về từ cõi chết, họ không hé lời tiếp nữa, bỗng một thanh âm già nua vọng lên trong câm lặng.

– Sắp đến lúc rồi – Giọng cụ ông khản đặc – Ta sống sáu mươi tuổi, vậy là đủ rồi.

Lục Phong trông sang cụ ông, anh hỏi:

– "Lúc" là có ý gì?

Cụ hơi hé môi, cụ ngóng nhìn chân trời nơi xa, nét mặt thoáng gợi lên vẻ điên rồ quẫn trí:

– Lúc... lúc ập tới.

– Thứ gì ập tới?

– Không nói được, không mường tượng nổi... – Giọng cụ tràn ấp sự khê khản khi con người ta hấp hối – Lớn hơn tất thảy mọi thứ, chẳng thể nhìn thấy, sắp ập tới... thế giới này rồi.

Lục Phong chùng giọng:

– Sao ông biết điều đó?

– Ta sắp chết rồi... ta cảm nhận được nó – Giọng cụ chầm chậm như cái thói mê sảng từng kéo dài bao ngày.

– Nghe được những gì?

– Nghe được... – Cụ ông ngắc ngứ – hỗn loạn...

Thời khắc thốt ra câu này, cụ khẽ ngẩng đầu ngắm khoảng không u tối ngự trên thành phố, An Chiết lần theo ánh mắt cụ. Bầu trời trũng khôn tả, trũng tới rợn người, nó nằm nặng trịch ngay trên tầm mắt. Cực quang sáng khôn tả, vầng sáng xanh lục nọ cũng đã trũng xuống và hòa lẫn chung với bóng mây bụi đen. Lục Phong bảo nguyên nhân cực quang sáng như thế, là do căn cứ tăng tần số từ trường nhân tạo lên nhằm ngăn tình trạng biến dạng.

– Người sinh trưởng trên mặt đất, chết đi trên mặt đất. Bầu trời... – Vẻ mặt cụ ông thanh thản, giọng ngày một nhỏ dần – bầu trời chỉ biết lún sâu thêm.

...Sau khi bật thốt chữ cuối cùng khỏi miệng, cụ chậm chạp chắp hai tay vào nhau.

Đôi mắt từ từ, từ từ nhắm nghiền.

Đầu gối Siebe mềm oặt quỳ thụp xuống trước mặt cụ ông, đặt tay lên đầu gối còm cõi của cụ:

– Nội ơi? Nội ơi?

Không một lời hồi đáp.

Bộ ngực cụ ông ngừng phập phồng, cụ đã ra đi.

Cái chết ghé đến chỉ trong phút chốc.

Hai hàng lệ tuôn chảy từ đôi mắt bàng hoàng của Siebe, nó gục mặt xuống đầu gối cụ ông.

Chờ nó ngẩng đầu lên lần nữa, An Chiết bèn hỏi:

– Em ổn chứ?

– Em... em ổn ạ – Siebe thẫn thờ ngắm khuôn mặt ông nội mình, thều thào rằng – Trước kia nội có bảo, nội chả sợ chết đâu. Nội nói rằng, người sống đều có sứ mệnh của riêng mình, và sứ mệnh của nội chính là bảo vệ tất thảy những ai ở quặng mỏ. Có thể chứng kiến quặng mỏ tồn tại đến ngày hôm nay, nội đã... đã mãn nguyện rồi.

Nó ngẩng đầu ngó khuôn mặt cụ – khuôn mặt tiều tụy, rợp bụi. Mái tóc bạc rối tung, dăm ba lọn xoăn tít vướng vào nhau, chẳng một ai sống sung sướng nổi dưới lòng đất tối tăm cả.

Nó nói:

– Để... để em đi tìm lược.

Nó đứng dậy với vẻ trật trà trật trưỡng, đoạn mò sang các căn phòng khác.

Một sinh mạng tuổi xế chiều đã rời đi.

Vẫn còn một sinh mạng khác bỏ mình từ lâu trong căn phòng này. An Chiết ngoảnh đầu ngó về phía ghế xô-pha nơi phòng khách, có bộ xương khô nằm trên đó. Máu thịt nó âu đã rữa nát, bởi nguyên cả chiếc ghế xô-pha lấm tấm vô vàn vết loang xanh lá, vàng ệch hay nâu sẫm – chúng là dấu vết của nấm mốc phát triển.

– Thoạt tiên là nấm, siêu vi trùng và siêu vi khuẩn, chúng sinh sôi ngay trong thành phố loài người rồi lây nhiễm cho gần hết số dân, xác chết chất đầy thành phố, những ai từng ghé qua phế tích vùng ngoài đều biết chuyện này – Lời thi sĩ từng nói văng vẳng bên tai An Chiết.

Cậu ngẩng đầu vọng ra ngoài ô cửa sổ, nơi đây là một tòa cư xá chết, một thành phố chết, trong cư xá lổng chổng xương khô, bộ xương nào cũng là các sinh mạng đã từ giã cõi đời.

Lục Phong nom thấy ánh mắt An Chiết, nó vẫn phẳng lặng như chẳng màng đoái hoài tới điều gì. Nhưng dưới sự chiếu rọi từ nền trời u tối, khi tất thảy chuyển động tinh tế trên khuôn mặt an tĩnh xinh xắn của cậu hòa vào nhau, trông lại gợi lên vẻ sầu thảm khó tả hệt tà khói.

Anh dời mắt, nhìn thành phố này, đoạn cất tiếng:

– Lúc căn cứ loài người vừa xây xong và đang tìm kiếm cứu trợ mọi mặt, căn cứ không đủ sức nên có khối thành phố nhỏ chưa nhận được sự giúp đỡ kịp thời.

An Chiết nhìn những tòa nhà ngút ngàn trẩy dài bất tận như sóng nước cuộn trào, cần ít nhất vài tiếng để đi từ đầu bên này thành phố đến đầu bên kia thành phố. Cậu khẽ hỏi:

– Đây là thành phố nhỏ ư?

Lục Phong đáp:

– Đúng thế.

An Chiết thoáng mở to mắt.

Một thành phố bạt ngàn tột độ trong mắt cậu, không ngờ chỉ là diện đô thị cỏn con bị bỏ quên trong mắt loài người từng huy hoàng thịnh vượng mà thôi. Vậy thì trước khi thời kì Thảm họa ập tới, liệu xã hội loài người phải hùng vĩ đến nhường nào?

Cậu chẳng biết.

Và, quanh thành phố này đã từng có những con người sống ngắc ngoải trong thời cuộc thảm họa, vậy ở những vùng đất khác, phải chăng cũng có bao mảnh đời đang vùng vẫy, tuyệt vọng, chết đi? Xương xẩu chất chồng muôn nẻo thành phố, căn cứ không hề an toàn yên ổn, khắp thế giới ngập tràn muôn tiếng khóc than.

Quá trình mà một tập thể hùng tráng khôn tả dần suy bại... Mường tượng ra cảnh ấy, cậu như thấy được ánh tà thênh thang của buổi chiều hôm đang chầm chậm đắm mình vào đường chân trời đen đặc, một cái chết kéo dài đằng đẵng.

"Bộp."

Đương lúc lặng phắc, phòng ngủ kế bên chợt dội ra âm vang bởi vật gì đấy rơi xuống đất. Lục Phong bèn hỏi:

– Sao vậy?

Chả nghe câu trả lời, chỉ có hơi thở run lập cập của Siebe vọng tới.

Lục Phong chau mày, anh cầm súng xoay người cất bước sang đó, An Chiết bám theo.

Căn buồng tuềnh toành, chẳng có quái vật hay kẻ địch, nhưng Siebe đưa lưng về phía họ – tấm lưng nó run dữ dội. Thoạt tiên An Chiết nghĩ rằng nó đang khóc, kế tiếp, lúc đã đến gần nó, An Chiết phát hiện nó đang nhìn đăm đăm chiếc lược nằm trong tay.

An Chiết khó mà hình dung ngay nó là một chiếc lược gỗ trông như nào, bởi lẽ nó không hẳn là một chiếc, mà là do hai chiếc dính lại. Đấy là kiểu lược gỗ màu nâu bình thường nhất, có cán dài chừng mười xăng-ti-mét và răng lược nhỏ, cán của hai chiếc lược gỗ nom giống mọc khít vào nhau, cứ y hệt được gọt giũa từ cùng một miếng gỗ vậy. Răng lược nghiêng 45 độ, phần ở bên trái, phần ở bên phải, giống một con rắn hai đầu thè lưỡi.

Song nếu chúng vốn chỉ là hai chiếc lược bình thường, thế thì sao lại dính chặt cơ chứ?

Gỗ – sản phẩm từ một miếng gỗ, món đồ an toàn nhất và tầm thường nhất, lại mang đến sự ghê rợn không gì sánh bằng nhờ vẻ ngoài cổ quái vượt ngoài thường thức này.

Lục Phong bước đến chỗ bàn trang điểm mà Siebe lấy chiếc lược kia. Rõ ràng trước thời kì Thảm Họa đây là một căn phòng dành cho nữ, ti tỉ chai lọ, ti tỉ dụng cụ lớn nhỏ đặt trên bàn trang điểm trắng ngà. Lục Phong duỗi tay lau lớp bụi bám trên tấm gương, lau vơi một lớp, phía dưới hãy còn lớp nữa, bụi bặm như tuôn ra từ trong gương vậy, mặt gương luôn giăng mù khiến hình bóng họ cũng oặt thành một nắm đen sì.

An Chiết chứng kiến toàn bộ, bỗng cậu nhớ về cảnh khi mình leo lên tường thành ở ngoại thành, cát rơi mất một lớp, rồi phía trong vẫn cứ ken đặc cát, tường thành chừng như chất pha trộn giữa sắt thép và cát.

Lục Phong chẳng săm soi gương nữa, anh thoáng chau mày, lướt mắt qua khối dụng cụ trang điểm đủ kích cỡ ấy, sau cùng vươn tay rút một cái nhíp dài bị hoen gỉ – cũng không hẳn là cái nhíp, bởi cái nhíp kim loại này đã dính chùm với dao tỉa mày nhựa, bộ phận kết hợp đan chéo hình chữ "X" giữa chúng hợp làm một, chẳng phân biệt nổi, chẳng tỏ tường là sắt thép hay nhựa, hoặc có thể nói rằng đấy là một chất liệu mới cóng mà loài người chưa hề hay biết.

Ngón tay Siebe run bần bật, nó đánh rơi lược xuống nền nhà đầy bụi.

– Có thứ gì kì quái... – Nó hé môi – hiện hữu ở thành phố này ư? Chúng ta... chúng ta chạy nhanh đi.

– Không phải thành phố này – Lục Phong trả lời.

Anh nhìn dao tỉa mày dính liền với cái nhíp đó, chỉ thốt đúng ba từ.

– Động cơ.

Ba từ bình thường quá đỗi ấy lại giáng xuống tựa sấm chớp.

Phía trong động cơ có cấu trúc máy móc phức tạp, hễ những cấu trúc tinh vi ấy gặp trục trặc...

Nếu phía trong động cơ cũng xuất hiện sự kết hợp và thay đổi dị hợm giống chiếc lược kia, vậy thì bao vụ tai nạn máy bay chính là một việc đã được định sẵn.

An Chiết khom lưng nhặt chiếc lược kia lên, chả lần ra bất kì dấu vết ghép nào cả, nhưng đóa hoa khắc trên cán nom lằng nhằng, hỗn loạn và cuồng dại, ta không tài nào mường tượng nổi chúng quyện lẫn vào nhau bằng cách gì – giống như các nét chữ đen sì vươn xúc tu trườn rộng khắp chốn trên cuốn sổ tay hướng dẫn bay vậy.

An Chiết mở to hai mắt, thốt nhiên, câu nói trước khi phu nhân Lục biến thành ong chúa vụt lên bầu trời cao vời vợi thì thầm bên tai câu.

Bà nói rằng: "Gen người quá yếu ớt để cảm nhận những thay đổi đang diễn ra trên thế giới này."

"Ai rồi cũng phải chết. Toàn bộ cố gắng đều là hoài công, nó chỉ tổ chứng minh sự bé mọn và bất lực của con người."

Một ý nghĩ xẹt ngang trí óc cậu, hệt tia chớp rạch phá bầu trời.

Nếu, nếu bảo... Giây phút người và quái vật, quái vật và quái vật xuất hiện mối liên hệ hoặc trùng lặp về mặt không gian, ô nhiễm gen sẽ diễn ra thì... Không! nhầm rồi, nhầm hết rồi.

– Gen... – Cậu thều thào – không phải do gen...

Vấn đề hoàn toàn chẳng xuất phát từ gen. Loài người cho rằng sự thay đổi gen là nguyên nhân cội nguồn của việc ô nhiễm. Tuy nhiên ô nhiễm là sự hòa trộn và kết hợp xác thịt giữa hai sinh vật với nhau, thuộc tính của riêng họ bị biến hóa, chỉ là cái biến hóa đó cần nhờ sự thay đổi gen để hoàn thiện mà thôi.

Giả sử, giả sử trường hợp ô nhiễm lẫn nhau xuất hiện, giả sử thuộc tính của một vật sống bất thình lình biến đổi, thế thì vì sao những thứ khác lại không làm được điều đó? Cơ thể sinh vật, vòng xoắn DNA, và vô vàn vật chất vô tri trên hành tinh này có điều gì khác biệt ư?

Vì lẽ đó trang giấy và gỗ cũng biết ô nhiễm lẫn nhau, vì lẽ đó sắt thép và nhựa cũng biết ô nhiễm lẫn nhau.

...Vậy thì mọi sự vật hữu hình trên thế giới ắt đều biết.

Chẳng qua quá trình này đang diễn ra từng bước, dòng thác lũ này chỉ mới bắt đầu lao nhanh mà thôi, ô nhiễm gen sinh vật chính là điểm báo vừa phô bày trước mặt loài người.

Suốt dạo qua khi từ trường biến mất, những quái vật kiểu lai ăn một cách rõ hăng, chúng vồ lấy các hình thái sinh vật khác để phát triển bản thân – nom giống loài người dự trữ lương thực nhằm chống chọi với mùa đông rét buốt vậy, phải chăng chúng đã cảm nhận được điều gì?

Giọng Siebe run rẩy:

– Rốt cuộc...

Nó không thốt nổi bất cứ lời nào.

Rốt cuộc đây là thời đại gì? Rốt cuộc họ đang đối diện với cơn thảm họa gì? Rốt cuộc sự việc đang xảy tới là gì? Là gì? Là gì thế?

Tia chớp vụt qua chân trời. Cửa sổ ầm ầm rung rít, ngọn gió chứa đựng tiếng khóc than đến từ thuở xưa bất diệt vẳng lên khúc ngân vang dài dặc, lách qua khe cửa rồi lùa vào phòng, vạt áo của họ bị thổi bay phần phật. An Chiết ngẩng đầu, cậu bỗng chạm trúng ánh nhìn từ Lục Phong, vẻ tăm tối nặng nề thẳm sâu nơi đôi mắt anh nom như bầu trời ngoài kia vậy.

Giây phút họ vừa nhìn thẳng vào nhau, có tiếng sấm thoắt vang rền phía chân trời. Khoảng không mỗi lúc một âm u, mưa rào tầm tã trút ồ ạt xuống đất trời mênh mang.

Trong màn mưa, ta chẳng nghe đặng tất thảy mọi thứ ngoài kia, chẳng nghe đặng tất thảy... Miền u ám kéo dài bất tận, nỗi hư vô kéo dài bất tận, cơn khủng bố kéo dài bất tận.

Chất giọng bùi tai ôn hòa của phu nhân Lục và khê khản úa tàn của cụ ông, chúng đè trùng điệp lên nhau, thì thầm bên tai An Chiết.

"Sắp đến lúc rồi."

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#twe