Phần 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

( Tui mua về đọc thấy khó hiểu quá trời , nay up lên cho mn nổ não cùng:> )

CHƯƠNG 1

Vào một ngày đầu tháng Bảy oi bức lạ thường, lúc xế chiều có một người trẻ tuổi rời gian gác xép thuê lại trong ngõ S., bước ra phố và chậm rãi đi về phía cầu K., dáng như tần ngần do dự. Khi xuống thang gác, chàng đã may mắn tránh mặt được bà chủ trọ. Căn buồng xép của chàng kê sát dưới mái một tòa nhà cao năm tầng và trông giống một cái tủ hơn là một gian phòng ở. Còn bà chủ - người cho chàng trọ, dọn cơm tháng và cho chàng mượn cả người dọn buồng - thì ở một căn nhà riêng phía dưới, cách buồng chàng một cầu thang, và mỗi lần ra phố thế nào chàng cũng phải đi ngang cánh cửa gian nhà bếp của bà chủ luôn luôn mở toang nhìn ra thang gác. Cứ mỗi lần đi ngang cánh cửa ấy, người trẻ tuổi lại có một cảm giác sợ sệt bệnh tật khiến chàng xấu hổ và cau mặt. Chàng mắc nợ bà chủ trọ lút đầu lút cổ và sợ gặp mặt bà ta lắm.

Cũng chẳng phải chàng hèn nhát và khiếp nhược đến thế, trái lại nữa là đằng khác, nhưng ít lâu nay tâm thần chàng kích động và căng thẳng khác thường, gần như mắc chứng u uất. Chàng sống cô độc rụt sâu vào nội tâm và xa lánh mọi người, đến nỗi gặp ai chàng cũng sợ chứ chẳng riêng gì bà chủ trọ. Chàng bị cảnh nghèo khó vùi dập, nhưng gần đây ngay cả tình cảnh túng bấn cũng không còn đè nén chàng nữa. Chàng đã bỏ hẳn mọi công việc và cũng chẳng buồn làm ăn gì cả. Thật ra chàng chẳng sợ mụ chủ nào hết, dù mụ có mưu mô gì để hại, chàng cũng mặc. Nhưng dừng chân trên thang gác, nghe những câu nói lải nhải đã nhàm tai về những chuyện vặt vãnh thường ngày chẳng có lý thú gì đối với mình, những câu đòi nợ dai dẳng, những lời dọa dẫm, than phiền, rồi chính mình lại phải kiếm cớ khất lần, xin lỗi, dối quanh, - không! Thà tìm cách lủi đi như một con mèo, rón rén xuống thang gác và chuồn thẳng một mạch, đừng để ai trông thấy.

Vả chăng lần này, khi bước ra phố chàng lại còn lấy làm lạ không hiểu sao mình lại sợ gặp cái mụ chủ nợ ấy đến thế.

"Ta đang mưu đồ một việc như vậy, mà đồng thời lại sợ những chuyện nhảm ấy ư?" - Chàng nghĩ thầm, môi nở một nụ cười kỳ dị. - "Thì... phải... tất cả đều nằm trong tay con người, thế mà nó cứ bỏ lỡ cơ hội, chỉ vì hèn nhát... thật hiển nhiên quá đi rồi. Kể cũng lạ không biết người ta sợ cái gì nhất nhỉ? Bước một bước mới, nói lên một lời mới do chính mình nghĩ ra đấy, họ sợ cái ấy hơn cả... Nhưng mà mình nói nhiều quá! Mình không làm gì chính cũng vì nói nhiều. Mà cũng có lẽ mình nói nhiều bởi vì mình chẳng làm gì cả. Chẳng qua tháng vừa rồi mình đâm ra nói nhiều vì cứ nằm lì suốt đêm ngày trong xó mà nghĩ đến... chuyện trên trời dưới đất. Nhưng bây giờ mình đi thế này để làm gì? Chả nhẽ mình có thể làm việc ấy sao? Việc ấy liệu có phải là chuyện nghiêm chỉnh không? Chẳng nghiêm chỉnh gì đâu. Thế thôi, chẳng qua mình tưởng tượng ra để tự tiêu khiển: chuyện đùa ấy mà. Phải, có lẽ chỉ là chuyện đùa thôi cũng nên?".

Ngoài đường phố nóng như thiêu đốt, không khí ngột ngạt, người qua lại xô đẩy, chen chúc nhau, đâu đâu cũng thấy ngổn ngang những vôi, gạch, gỗ xây nhà, bụi bặm, và phảng phất cái mùi hôi hám của mùa hè rất quen thuộc đối với những người dân Petersburg nào không thuê nổi một ngôi biệt thự ở ngoại thành. Thần kinh của người trẻ tuổi đã khích động sẵn, lại thêm tất cả những thứ đó dồn dập vào một lúc, nên càng thêm nhức nhối khó chịu. Mùi xú uế xông ra nồng nặc từ các tiệm rượu nhan nhản ở khu phố này, và những gã say rượu gặp nhan nhản trên hè phố tuy đang giờ làm việc, càng tô cho màu sắc ảm đạm và dơ dáy của bức tranh thêm đậm đà. Một cảm giác ghê tởm đến cùng cực thoáng hiện một khoảnh khắc trên nét mặt thanh tú của người trẻ tuổi. Chàng rất khôi ngô, có đôi mắt thẫm màu rất đẹp, tóc hung đậm, vóc người trên trung bình, mảnh dẻ và cân đối. Nhưng phút chốc chàng dường như đã ngập sâu vào tâm trạng đăm chiêu, hay nói cho đúng hơn, một trạng thái hầu như mê muội, và chàng bước đi, không còn trông thấy gì xung quanh nữa, mà cũng chẳng buồn để ý đến cái gì hết. Chỉ thấy chàng chốc chốc lại lẩm bẩm câu gì trong miệng, theo cái thói quen nói một mình mà chàng vừa tự thú nhận. Lúc ấy chàng cũng nhận thấy ý nghĩ của chàng đôi khi rối loạn và thể chất chàng đã suy nhược lắm rồi: đã hai ngày nay chàng hầu như không có miếng gì lót dạ.

Chàng ăn mặc tồi tàn đến nỗi giá phải người khác, dù đã dạn dày chăng nữa, cũng phải thấy ngượng khi bước ra phố giữa ban ngày trong những tấm giẻ rách như vậy. Song ở khu phố này thì dù có ăn mặc thế nào cũng khó lòng mà khiến ai ngạc nhiên. Ở đây rất gần khu Chợ Hàng Rơm, lại có nhiều tiệm rượu, dân cư phần lớn là thợ thuyền, chen chúc trong những phố xá và ngõ hẻm ở khu vực trung tâm Petersburg này, cho nên quang cảnh chung nhiều khi được tô điểm bằng những mẫu người lắm hình lắm vẻ đến nỗi khó có thể ngạc nhiên khi gặp một bóng dáng quá kỳ quặc. Nhưng lòng người trẻ tuổi đã chứa chất một sự khinh miệt hằn học đến nỗi mặc dầu chàng vốn có một tính cả thẹn và tự ái đôi khi rất ngây thơ, chàng cũng chẳng thấy ngượng nghịu chút nào khi phải phô bày những mảnh giẻ rách của mình trên đường phố. Còn như gặp người quen hay bạn học cũ thì đó lại là chuyện khác; nói chung chàng không thích gặp những người này... Vừa lúc ấy, có một gã say rượu chẳng hiểu tại sao và đi đâu mà lại ngất ngưởng trên một chiếc xe giàn to tướng thắng một con ngựa tải to tướng đang chạy qua phố; khi xe đến ngang tầm người trẻ tuổi, gã say rượu bỗng quát: "Ê, thằng cha đội mũ Đức kia?" - rồi giơ tay chỉ chàng ngoác mồm cười rống lên. Người trẻ tuổi dừng phắt lại và lập cập đưa tay lên nắm lấy mũ. Chiếc mũ chàng đội là một chiếc mũ dạ hiệu Zimmermann[1] đã sờn hết tuyết và bạc phếch, loang lổ những vết bẩn và chi chít những lỗ thủng, vành mòn gần sát, méo xệch sang một bên, trông không còn ra cái hình thù gì nữa. Nhưng lúc bấy giờ chàng choáng người đi không phải vì xấu hổ mà vì một cảm giác gì khác hẳn, giống như kinh hãi.

- Mình đã biết mà. - Chàng lẩm bẩm trong cơn bối rối. - Chính mình cũng đã nghĩ từ trước! Cái ấy mới tệ hại hơn cả! Chính những cái không đâu như thế, những cái vặt vãnh ngu xuẩn, tầm thường như thế lại có thể phá hỏng cả một ý đồ! Phải, cái mũ này dễ bị chú ý quá! Nó lố lăng, cho nên dễ bị chú ý... ăn mặc rách rưới thế này thì nhất định phải đội mũ lưỡi trai, một cái mũ khổ nào đấy cũng được, chứ không thể đội cái vật quái gở này. Chẳng thấy ai đội thứ mũ này cả, cách xa một dặm người ta cũng chú ý ngay, họ sẽ nhớ... Cái chính là về sau họ sẽ nhớ, thế là thành một tang vật. Lúc này, phải cố sao đừng để ai chú ý mới được. Những cái vặt vãnh, những cái vặt vãnh lại chính là cái chủ yếu!... Chính những cái vặt vãnh này bao giờ cũng làm hỏng hết mọi việc.

Chàng không phải đi xa lắm. Chàng lại còn biết rõ từ cổng nhà trọ đến đấy bao nhiêu bước: đúng bảy trăm ba mươi bước. Trước kia trong khi mơ tưởng mông lung chàng đã có lần đếm. Dạo ấy chính chàng cũng chưa tin là thật và chỉ dùng những mộng tưởng liều lĩnh quái gở nhưng đầy sức cám dỗ ấy để tự làm cho mình nôn nao, day dứt. Nhưng từ dạo ấy đến nay đã được một tháng, chàng đã bắt đầu có một cách nhìn khác, và tuy những khi nói chuyện một mình chàng vẫn tự đay nghiến là bất lực và thiếu quả quyết, chàng dần dần quen xem cái mộng tưởng "quái gở" kia như một mưu đồ thật sự, mặc dầu trong thâm tâm chàng vẫn chưa dám tự tin. Bây giờ chàng đang đi "duyệt thử lại" việc đã mưu đồ, và cứ mỗi bước tâm trạng bứt rứt của chàng lại càng tăng thêm.

Tim như ngừng đập chân tay run lẩy bẩy, chàng đến gần tòa nhà cao lớn một mặt trông ra con kênh đào, một mặt trông ra phố X.... Tòa nhà ngăn ra nhiều gian nhỏ làm nơi trú ngụ cho đủ các hạng người: thợ may, thợ khóa, đầu bếp; ở đấy có những người Đức thuộc đủ các loại, những cô gái mãi dâm, những viên thư lại... Qua hai cái cổng dẫn vào hai khoảng sân trước và sau nhà, người ra kẻ vào tấp nập. Trong nhà có ba hay bốn người gác cổng trông nom. Người trẻ tuổi rất hài lòng vì đã không chạm trán phải người nào trong bọn họ. Vừa lọt vào cổng, chàng liền rẽ ngoặt sang phải, lấm lét bước lên cầu thang. Thang gác phụ này chật hẹp và tối tăm, nhưng chàng đã biết rõ và đã nghiên cứu cặn kẽ hết những điều đó, nên rất hài lòng: "Tối thế này thì dù có con mắt tò mò nào dòm dõi cũng không ngại. Bây giờ mà mình còn sợ sệt thế này, thì giả sử khi đến đây để làm việc ấy thật, cơ sự còn sẽ ra sao?" - Chàng bất giác nghĩ thầm khi bước lên tầng thứ tư. Đến đây chàng phải dừng lại vì gặp phải mấy người cựu binh làm nghề khuân vác đang khiêng bàn ghế đồ đạc trong một gian nhà ra ngoài.

Chàng biết đây là gian của một gia đình công chức người Đức. "Thế nghĩa là lão người Đức kia dọn nhà đi và như vậy trong một thời gian nào đấy ở tầng thứ tư này, cuối thang gác này, chỉ có gian của mụ già là còn người ở. Như thế rất tốt, nhỡ khi có cần đến..." - Chàng lại nghĩ thầm, rồi đến giật chuông trước cửa nhà mụ già. Cái chuông nhỏ khẽ rung lên rè rè, nghe như tiếng sắt tây chứ không phải tiếng động. Trong những gian phòng chật chội của loại nhà này hầu như bao giờ cũng dùng rặt một loại chuông ấy. Chàng đã quên bẵng cái âm thanh rè rè của chiếc chuông, và bây giờ cái âm thanh đặc biệt ấy bỗng như nhắc chàng nhớ lại một điều gì mà chàng chợt thấy hiện rõ mồn một trước mắt... Chàng bỗng rùng mình, vì lần này thần kinh chàng đã quá bạc nhược.

Một lát sau, cánh cửa mở hé ra thành một khe hở rất nhỏ; mụ già dòm khách qua khe hở với một vẻ nghi kị rõ rệt, chỉ thấy đôi mắt mụ long lanh trong bóng tối. Nhưng thấy ngoài hành lang đông người, mụ dạn dĩ lên và mở hẳn cửa ra. Người trẻ tuổi bước qua ngưỡng cửa, đặt chân vào gian phòng ngoài tối mờ mờ có một bức vách mỏng ngăn cách với một gian bếp chật chội.

Mụ già lặng lẽ đứng trước mặt chàng và nhìn chàng như dò hỏi. Đó là một mụ già khô đét, người bé loắt choắt, tuổi trạc sáu mươi, đôi mắt sắc và ác, cái mũi nhọn hoắt. Đầu mụ để trần, mớ tóc màu gai hơi bạc xức dầu trơn nhầy nhụa. Trên cái cổ mảnh và cao, trông như cái cẳng gà, quấn một thứ giẻ bằng nỉ mỏng, và tuy tiết trời nồng nực, trên vai mụ cũng vắt vẻo một chiếc khăn choàng bằng lông thú xơ xác đã ngả sang màu vàng. Mụ già ho khục khặc và đằng hắng luôn mồm. Trong khóe mắt của người trẻ tuổi khi nhìn mụ chắc phải có một cái gì khác thường, vì thấy mắt mụ lại thoáng lộ vẻ nghi kị như cũ.

- Tôi là Raxcolnicov, sinh viên. Tháng trước tôi có đến nhà bà một lần. - Người trẻ tuổi vội nói lắp bắp và khẽ nghiêng mình chào.Chàng vừa sực nhớ ra rằng mình cần phải nhã nhặn.

- Tôi nhớ cậu ạ, tôi nhớ rõ là cậu đã có lần đến đây. - Mụ già nói rõ từng tiếng, đôi mắt dò hỏi vẫn nhìn chàng soi mói.

- Thưa bà... lần này tôi đến cũng vì việc ấy... - Raxcolnicov nói tiếp, hơi lúng túng và ngạc nhiên vì cái vẻ nghi kị của mụ già.

"Chắc mụ ta bao giờ cũng vẫn thế, chẳng qua lần trước mình không để ý đấy thôi". - Chàng nghĩ thầm với một cảm giác khó chịu.

Mụ già im lặng một lát như suy nghĩ điều gì, rồi tránh sang một bên nhường lối cho khách và chỉ cửa buồng nói:

- Mời cậu vào nhà.

Người trẻ tuổi bước vào một gian phòng nhỏ hẹp, tường dán giấy vàng, cửa sổ có chăng màn nhiễu, trên bậu đặt mấy chậu hoa dương hải đường. Ánh mặt trời lặn chiếu vào phòng sáng rực. "Thế nghĩa là đến lúc ấy ánh nắng cũng sẽ chiếu sáng như thế này..." - Ý nghĩ ấy bất giác vụt qua óc Raxcolnicov. Chàng đưa mắt rất nhanh nhìn khắp gian phòng một lượt để xem xét và ghi nhớ thật kĩ cách bày biện. Nhưng trong phòng chẳng có gì đặc biệt. Đồ đạc đều làm bằng gỗ màu vàng và đã cũ lắm, gồm một chiếc đi-văng lưng rất rộng bằng gỗ uốn, một cái bàn hình bầu dục đặt trước đi-văng, một chiếc bàn trang điểm với một tấm gương móc lên khoảng tường giữa hai khung cửa sổ mấy chiếc ghế đặt dọc tường và vài ba bức tranh rẻ tiền đóng khung gỗ vàng, vẽ những cô gái Đức cho chim đậu trên tay, đồ đạc trong phòng chỉ có thế. Ở một góc phòng, trước một bức tượng thánh nhỏ, leo lét một ngọn đèn thờ. Mọi vật đều sạch sẽ tinh tươm, bàn ghế và sàn nhà đều được đánh xi bóng lộn. "Bàn tay mụ Lizaveta đây". - Người trẻ tuổi nghĩ thầm. Khắp gian nhà không tìm đâu lấy được một hạt bụi. "Chỉ có mấy mụ đàn bà góa già nua và độc ác mới có cái nề nếp sạch sẽ như thế này" - Chàng tự nhủ tiếp và tò mò liếc mắt về phía bức màn vải hoa trên khung cửa dẫn vào căn buồng nhỏ thứ hai, nơi đặt giường ngủ của hai mụ già và một chiếc tủ ngăn. Chàng chưa lần nào ghé mắt vào đấy. Cả gian nhà ở chỉ có hai căn buồng này.

- Cậu cần hỏi việc gì? - Mụ già nói, giọng nghiêm nghị, trong khi bước vào phòng đứng trước mặt chàng như lúc nãy, để có thể nhìn thẳng vào mặt chàng.

- Tôi mang cái này lại cầm. Đây ạ! - Và chàng móc túi lấy ra một chiếc đồng hồ quả quýt mỏng bằng bạc, mặt sau có chạm một quả địa cầu. Dây chuyền đeo đồng hồ đánh bằng thép.

- Nhưng chuyến cầm lần trước đã hết hạn rồi. Cậu hẹn một tháng, đến nay đã quá mất ba ngày.

- Tôi sẽ trả thêm cho bà một tháng lãi nữa. Bà nán đợi cho ít lâu.

- Cái đó còn tùy tôi, cậu ạ, nán đợi hay đem bán ngay bây giờ là tùy tôi.

- Cái đồng hồ này liệu có được nhiều tiền không, bà Aliona Ivanovna?

- Cậu cứ đem đến đây rặt những của rẻ thối không đáng giá một xu. Lần trước cậu đem cầm chiếc nhẫn tôi đưa cậu hai tờ[2], chứ thật ra đến hàng thợ bạc mà mua thì dễ chỉ đến một rúp rưỡi.

- Bà ứng cho tôi bốn rúp, tôi sẽ chuộc lại, chả đấy là vật kỷ niệm của cha tôi. Tôi sắp lĩnh được món tiền.

- Một rúp rưỡi, tiền lãi trừ trước, cậu không ưng thì thôi vậy.

- Một rúp rưỡi? - Người trẻ tuổi thốt lên.

- Tùy cậu đấy. - Mụ già nói đoạn trao trả chiếc đồng hồ lại. Người trẻ tuổi cầm lấy, lòng căm uất đến nỗi toan bỏ đi ngay. Nhưng chàng chợt nghĩ lại, sực nhớ rằng mình chẳng còn biết đi đâu nữa; vả chăng chàng đến đây còn có mục đích khác.

- Bà đưa tiền đây. - Người trẻ tuổi nói, giọng cộc cằn.

Mụ già lục túi tìm chùm chìa khóa và đi sang buồng bên, sau bức màn. Đứng lại một mình giữa căn phòng, người trẻ tuổi tò mò lắng tai nghe ngóng và nhẩm suy tính. Bên kia có tiếng mụ già mở tủ ngăn. "Chắc là ngăn trên cùng" - chàng phỏng đoán. - "Mụ ta bỏ chìa khóa ở túi bên phải... Mấy chiếc đều móc vào cái khâu bằng thép thành một chùm. Có một chiếc to gấp ba mấy chiếc kia, đầu khóa răng cưa, chắc hẳn không phải chìa khóa mở tủ ngăn... Thế nghĩa là còn có một cái tráp hay một cái rương gì đấy... kể cũng lạ. Chìa khóa rương đều như thế cả... Nhưng sao ta lại có những ý nghĩ hèn hạ đến thế..." - Mụ già trở ra.

- Đây cậu ạ: Mỗi tháng trừ lãi mỗi rúp một hào, tôi trừ trước một tháng lãi, vị chi mỗi rúp rưỡi trừ một hào rưỡi. Thế với lại trừ thêm vào chỗ hai rúp tháng trước của cậu hai hào nữa, vị chi cả thảy là ba hào rưỡi. Vậy bây giờ tôi đưa cậu một rúp mười lăm cô-pếch tiền cầm đồng hồ. Đấy cậu cầm lấy!

- Ơ! Thế ra bây giờ chỉ còn một rúp mười lăm cô-pếch thôi ư?

- Đúng thế đấy ạ.

Người trẻ tuổi không cãi lại, lẳng lặng cầm lấy tiền. Chàng nhìn mụ già và chần chừ chưa đi vội, như còn muốn nói gì hay làm gì nữa, nhưng cụ thể là cái gì thì dường như chàng cũng không rõ.

- Bà Aliona Ivanovna ạ, có lẽ nay mai tôi sẽ mang lại một cái nữa... bằng bạc... đẹp lắm... một chiếc hộp đựng thuốc lá... khi nào tôi lấy ở bạn tôi về... - Chàng đâm luống cuống và im bặt.

- Thôi đến lúc ấy hẵng hay cậu ạ.

- Chào bà... Thế bà lúc nào cũng ở nhà một mình à? Bà em đi vắng à? - Chàng cố lấy giọng thật ung dung hỏi mụ già khi bước ra phòng ngoài.

- Cậu hỏi mụ em nhà tôi có việc gì thế?

- Thì... cũng chẳng có gì đâu. Tôi chỉ hỏi thế thôi. Chắc bà lại tưởng... Thôi chào bà Aliona Ivanovna.

Raxcolnicov ra về, tâm thần mỗi lúc một thêm bối rối. Khi xuống thang gác, chàng còn dừng lại mấy lần như chợt có điều gì làm cho chàng choáng cả người đi. Và cuối cùng, khi đã ra phố chàng thốt lên:

"Trời ơi! Ghê tởm quá! Mà có lẽ nào, lẽ nào ta lại không, chỉ là chuyện nhảm, phi lý hết sức?" - Chàng ngần ngừ nói thêm. - "Chả nhẽ một việc khủng khiếp như vậy mà ta có thể nghĩ đến? Lòng ta có thể chứa đựng những điều nhơ nhuốc như thế ư? Tệ hơn cả là nó bẩn thỉu, xấu xa, kinh tởm hết sức!... Thế mà suốt một tháng ròng ta có thể... "- Nhưng những lời nói, những tiếng kêu chàng thốt ra không sao biểu lộ hết nỗi xúc động trong lòng chàng. Cái cảm giác ghê tởm cùng cực đã bắt đầu đè nén, giày vò chàng ngay từ khi đang đi đến nhà mụ già, bây giờ đã mãnh liệt và rõ ràng đến nỗi chàng không còn biết trốn vào đâu cho thoát cơn ám ảnh này. Chàng bước trên vỉa hè như người say rượu, không trông thấy người qua đường và cứ xô phải họ, mãi đến phố sau chàng mới định thần lại. Đưa mắt nhìn quanh, chàng nhận thấy mình đang đứng trước một tiệm rượu dọn trong một gian nhà hầm có mấy bậc thang từ trên vỉa hè dẫn xuống cửa ra vào. Vừa lúc ấy có hai gã say rượu từ trong tiệm dìu nhau bước ra, mồm chửi bới lảm nhảm. Raxcolnicov không nghĩ ngợi gì lâu. Chàng lập tức bước xuống mấy bậc thềm. Xưa nay chàng chưa lần nào vào quán rượu, nhưng bây giờ chàng thấy chóng mặt và thêm vào đấy lại khát bỏng cả họng. Chàng đang thèm uống một cốc bia lạnh, và hơn nữa chàng chợt có ý nghĩ rằng mình đột nhiên bạc nhược hẳn đi như thế này là vì đói. Chàng đến ngồi ở một góc tối và bẩn, cạnh một cái bàn nhớp nháp, gọi bia và khao khát nốc cạn cốc thứ nhất. Lập tức mọi vật đều sáng tỏ ra, và trí óc chàng cũng trở nên minh mẫn. "Tất cả những cái đó đều là chuyện nhảm" - chàng nói, lòng khấp khởi hy vọng - "chẳng việc gì mình phải bứt rứt! Chẳng qua là một sự rối loạn về cơ thể. Chỉ cần uống cốc bia, cắn miếng bánh, thế là trong một thoáng trí óc đã lại minh mẫn, ý định đã lại vững vàng! Xì! Toàn chuyện không đâu!". Nhưng tuy chàng nhổ nước bọt một cách khinh bỉ như vậy, khóe mắt chàng cũng đã vui hẳn lên, dường như chàng vừa đột nhiên thoát khỏi một ách gì khủng khiếp. Chàng đưa mắt thân mật nhìn những người ngồi trong tiệm. Nhưng ngay trong phút ấy chàng cũng mơ hồ cảm thấy tâm trạng lạc quan này có một cái gì bệnh tật. Bấy giờ trong tiệm rượu chỉ còn lác đác mấy người khách. Ngoài hai người say rượu chàng đã gặp trên bậc thang, sau họ còn có cả một tốp khoảng năm người ra về, lôi theo một cô gái điếm, vừa đi vừa kéo phong cầm - họ đi khuất, quán rượu im lặng và rộng rãi hẳn ra. Chỉ còn lại một người hơi ngà ngà say ngồi trước mặt cốc bia, dáng dấp như một người tiểu thương, bạn hắn là một người to béo phục phịch mặc áo xibirca dài, để bộ râu hoa râm; say túy lúy, hắn nằm ngủ trên chiếc ghế dài và thỉnh thoảng, như chợt tỉnh giấc, lại bẻ ngón tay kêu răng rắc, vươn vai và nhấc lưng lên dây mấy cái, nhưng vẫn không ngồi dậy, mồm khẽ ê a hát một bài nhảm nhí nào đấy, vừa ngâm nga vừa cố nhớ lại những câu thơ như:

Suốt năm hú hí với nhà tôi

Suốt năm hú... hú... h...í hí...

Hoặc sau một lát lại sực tỉnh, hát:

Đang đi trên phố Podiatsexkaya

Tôi bỗng gặp người năm xưa...

Nhưng chẳng ai buồn chia sẻ hạnh phúc của hắn, thậm chí bạn hắn còn tỏ thái độ thù địch và nghi ngờ đối với những cơn cảm hứng này. Trong tiệm còn có một người trông vẻ như một viên công chức về hưu. Hắn ngồi riêng ra một xó, trước mặt để một be rượu, chốc chốc lại nhấp từng ngụm nhỏ và dạo mắt nhìn quanh. Hình như hắn cũng đang có chuyện gì bứt rứt.

[1] Zimmermann, một hiệu mũ dạ nổi tiếng của Đức.

[2] Ý nói hai đồng rúp tiền giấy.

CHƯƠNG 2

Raxcolnicov thường tránh những nơi đông người và như ta đã biết, vốn không muốn tiếp xúc với bất cứ ai, nhất là gần đây. Nhưng bây giờ chàng lại cảm thấy có một cái gì thu hút chàng đến với người đời. Dường như có một cái gì mới mẻ chợt diễn ra trong lòng Raxcolnicov: Chàng thấy thèm được chuyện trò với người khác. Trong suốt tháng qua, tâm trạng lo âu, đăm chiêu bứt rứt âm thầm đã làm chàng quá mệt mỏi, đến đỗi nay chàng chỉ muốn hít thở - dù chỉ trong một phút - bất kỳ một thứ không khí nào khác; và chàng la cà trong quán rượu một cách thích thú, không nề hà cảnh bẩn thỉu.

Lão chủ quán thì ở gian trong, nhưng cũng hay ra phòng khách. Trước tiên, người ta thấy đôi ủng có bẻ ve cổ đỏ bảnh bao đánh xi bóng nhoáng của lão hiện ra trên bậc thang, rồi đến cả người lão lù lù bước xuống. Lão mặc một cái áo dài đuôi tôm gấp nếp và một chiếc gi-lê sa-tanh đen cáu ghét đến phát sợ, không thắt cà-vạt. Mặt lão bóng nhoáng như một ổ khóa sắt bôi dầu kĩ. Sau quầy hàng có một đứa bé độ mười lăm tuổi và đứa nữa bé hơn, chuyên bưng thức ăn đồ nhắm cho khách. Trên quầy bày nào dưa chuột thái nhỏ, nào bánh mì đen sấy khô, nào cà thái ra từng miếng nhỏ: những thứ đó tỏa ra một mùi rất khó ngửi, không khí ngột ngạt không sao chịu nổi và nồng nặc hơi rượu, đến nỗi tưởng chừng như chỉ thở trong năm phút cũng có thể say được.

Đôi khi có thể gặp những người hoàn toàn không quen biết nhưng ngay từ khi mới nhác trông và tuy chưa trao đổi với nhau một lời nào, ta cũng đã có thiện cảm với họ. Đó chính là cảm tưởng của Raxcolnicov đối với người khách hàng ngồi cách chàng một quãng xa xa, trông giống như một công chức về hưu. Về sau, có nhiều lần Raxcolnicov nhớ lại cái cảm giác ban đầu ấy và cũng cho đó là do một linh cảm. Raxcolnicov chăm chú nhìn người công chức, dĩ nhiên cũng vì hắn ta nhìn Raxcolnicov chằm chặp, rõ ràng là muốn bắt chuyện với chàng. Còn đối với những khách hàng khác, kể cả lão chủ, người công chức hình như đã quen lắm rồi - hắn nhìn họ với một vẻ chán chường khó chịu lẫn một tí ngạo mạn nữa - như đối với những người hạ lưu ít học thức: chẳng ai hơi đâu đi nói chuyện với hạng người đó. Hắn ta trạc ngoại ngũ tuần, người tầm thước, vạm vỡ, tóc hoa râm, đầu hói, da mặt vàng bủng, thậm chí ngả sang màu lá úa, sưng phị ra vì nghiện ngập, đôi mi húp híp nứt ra hai kẽ hở để lộ đôi mắt ti hí đỏ ngầu nhưng sáng và tinh nhanh. Trông hắn ta có một cái gì rất kỳ lạ. Cái nhìn của hắn dường như chan chứa nhiệt tình, và có lẽ cũng không thiếu ý nhị hay trí thông minh: nhưng trong cái nhìn đó cũng thấy lóe lên những ánh điên rồ. Hắn vận một chiếc áo lễ phục cũ màu đen đã rách mướp, chỉ còn đính hờ mỗi một chiếc cúc mà hắn cài lại cẩn thận, tỏ ra cũng còn chú ý đến phép lịch sự. Ngực áo sơ-mi nhàu nát bẩn thỉu thòi ra ngoài chiếc áo gi-lê sa-tanh Nam-Kinh. Râu hắn cạo nhẵn như mọi người công chức khác, nhưng nay đã mọc xanh lún phún. Quả nhiên dáng dấp của hắn phảng phất cái vẻ chững chạc của một người công chức. Nhưng hắn ta lại thẫn thờ, lo lắng, luôn tay vỗ tóc, thỉnh thoảng lại giơ cả hai tay lên ôm lấy đầu, hai khuỷu tay áo đã sờn chống xuống chiếc bàn nhầy nhợp. Cuối cùng hắn nhìn thẳng vào mặt Raxcolnicov và nói to, giọng rắn rỏi:

- Thưa tiên sinh, ngài cho phép tôi thưa chuyện đứng đắn? Bởi vì, tuy trông ngài không có gì là sang trọng, song kinh nghiệm cũng cho tôi biết rằng ngài là người có học thức và không hay uống rượu. Bình sinh tôi bao giờ cũng kính trọng người có học vấn mà lại có đức hạnh, hơn nữa tôi là tư vấn danh dự[1]. Tôi tên là Marmeladov, tư vấn danh dự. Ngài cho phép tôi hỏi: Ngài đã từng đảm nhiệm công vụ gì?

- Không, tôi đang học... - Người trẻ tuổi trả lời, hơi ngạc nhiên với lối nói đặc biệt cầu kỳ và cách hỏi chuyện đột ngột như ném thẳng vào mặt người ta.

Tuy lòng ham muốn được tiếp xúc với người đời vừa mới chớm nảy ra chốc lát trong lòng chàng, nhưng mới thoáng nghe hắn ta nói, cái cảm giác chán ghét khó chịu thường ngày đối với những người lạ động chạm (hay chỉ muốn động chạm thôi) đến cá nhân mình đã lại nổi dậy.

- À vậy ra ngài là sinh viên, hoặc là cựu sinh viên? - Người công chức reo lên. - Tôi đoán đúng. Kinh nghiệm, thưa ngài, chính là nhờ kinh nghiệm lâu năm đấy! - Và để tỏ ý tán thưởng hắn ta đưa ngón tay chỉ lên trán. - Ngài vốn là sinh viên hoặc đã từng lui tới giảng đường. Nhưng ngài cho phép...

Hắn ta lảo đảo đứng dậy, cầm lấy chai, cốc đến ngồi bên cạnh người trẻ tuổi. Hắn đã say, nhưng nói năng mạnh dạn và láu lỉnh, chỉ thỉnh thoảng mới có đôi chỗ hơi nhịu và kéo dài lằng nhằng. Hắn vồ lấy Raxcolnicov một cách khao khát tựa hồ như suốt một tháng nay chính hắn cũng chưa được nói chuyện với một bóng người nào.

- Thưa ngài - hắn vào đề một cách gần như long trọng. - Nghèo nàn không phải là thói xấu xa: Đó là một chân lý. Tôi còn biết rằng say rượu không phải là một đức hạnh: Đó lại càng là một chân lý. Nhưng sự khốn cùng, thưa ngài, khốn cùng chính là một sự xấu xa đấy ạ. Trong cảnh nghèo nàn ngài còn có thể giữ được bản tính cao thượng của tâm hồn, nhưng trong cảnh khốn cùng thì không bao giờ và không ai có thể giữ được. Khi ngài ở trong cảnh khốn cùng, người ta sẽ đuổi ngài, không phải đuổi bằng gậy nữa, thưa ngài, người ta sẽ quét ngài ra khỏi xã hội loài người bằng một cái chổi để cho càng thêm nhục nhã. Thật đúng, vì nếu lâm vào cảnh khốn cùng thì tôi chính là người đầu tiên sẽ tự xỉ vả tôi. Rồi sau đó là rượu! Thưa ngài, cách đây một tháng, vợ tôi bị ông Lebeziatnikov đánh, mà vợ tôi nào có giống tôi cho cam, chắc ngài cũng hiểu điều đó? Ngài cho phép tôi hỏi thêm một điều nữa, chẳng qua vì tò mò thôi - ngài đã bao giờ ngủ đêm trên sông Nêva, trên những chiếc thuyền chở rơm chưa?

- Chưa, chưa có lần nào. - Raxcolnicov đáp. - Sao kia ạ?

- Ấy tôi thì tôi đã ngủ, năm đêm nay rồi đấy.

Hắn ta rót đầy cốc, uống cạn và trầm ngâm suy nghĩ. Trên quần áo và ngay cả trên tóc hắn nữa quả nhiên có những cọng rơm bám rải rác. Rất có thể đã năm hôm nay hắn không thay quần áo, cũng không tắm rửa gì. Nhất là hai bàn tay hắn, thôi thì bẩn nhầy nhụa, đỏ ối, móng đen kịt.

Câu chuyện của hắn hình như thu hút được sự chú ý tuy uể oải của mọi người xung quanh. Mấy đứa trẻ sau quầy hàng bắt đầu cười khúc khích. Lão chủ, chắc là giữ ý, từ trên gian gác đi xuống để nghe "anh chàng vui nhộn"; lão ngồi cách xa Marmeladov, ngáp dài một cách uể oải nhưng quan trọng. Chắc hẳn ở đây người ta đã quen biết Marmeladov từ lâu, và cái khuynh hướng nói năng kiểu cách của hắn chắc cũng đã thoát thai từ thói quen nói chuyện thường xuyên với những người không quen biết trong tiệm rượu. Thói quen đó đã biến thành một nhu cầu ở một số người say, và nhất là ở những kẻ bị kiềm chế và ngược đãi ở nhà. Vì lẽ đó nên họ cố tranh thủ sự đồng tình, và nếu được, cả sự nể vì nữa trong đám bạn nghiện.

- Này, "anh chàng vui nhộn"! - Lão chủ nói to lên. - Thế tại sao đằng ấy không làm việc? Đằng ấy là công chức sao không đến sở mà làm?

- Thưa ông, tại sao tôi không làm việc ư? - Marmeladov chỉ hướng về Raxcolnicov mà trả lời, làm như thể chính chàng hỏi hắn. - Tại sao tôi không làm việc ư? Làm như thể tôi không đau lòng vì phải co mình nằm không! Tôi không đứt ruột hay sao, khi ông Lebeziatnikov cách đây một tháng đã dám thượng cẳng chân hạ cẳng tay đánh vợ tôi. Xin lỗi ông bạn trẻ, đã có lần nào... hừm, nói giả dụ như thế, ông đã có lần nào hỏi vay tiền một cách vô hy vọng chưa?

- Có nhưng mà vô hy vọng là thế nào?

- Nghĩa là hoàn toàn vô hy vọng ấy mà! Vay mà biết trước rằng mình không thể trông mong gì hết. Đấy, chắc ông cũng biết rõ, nói giả dụ một người nào đó, một công dân tối hữu dụng và đầy thiện ý, sẽ không đời nào cho ông vay tiền. Mà tại sao họ lại cho tôi vay mới được chứ? Họ biết chắc rằng tôi sẽ không trả kia mà: vì thương hại chăng? Nhưng ông Lebeziatnikov, con người thức thời luôn theo sát các tư tưởng mới, vừa nói với tôi rằng ở thời đại ta, ngay lòng thương hại cũng bị khoa học cấm đoán, và ở nước Anh, xứ sở của chính trị kinh tế học, người ta đã thực hiện điều đó. Vậy, xin hỏi, tại sao họ lại cho vay được? Ấy thế là tuy biết trước họ sẽ không cho vay, ông vẫn cất bước lên đường và...

- Nhưng đi như thế để làm gì? - Raxcolnicov nói chen vào.

- Thế nếu người ta không còn một ai để đến và cũng không biết đi đâu nữa thì biết làm thế nào? Phàm đã là người, ta phải có một nơi nào để mà đến chứ. Bởi vì cũng có lúc nhất thiết phải ra đi, dù là đi đâu. Khi đứa con gái độc nhất của tôi lần đầu tiên phải ra đi với một tấm thẻ vàng[2], tôi cũng đã phải đi... vì con gái tôi hiện sống với tấm thẻ vàng đấy ạ! - Hắn ta vừa nói thêm vừa nhìn chàng thanh niên vẻ hơi ngại ngùng. - Chẳng làm sao cả, thưa ông, chẳng làm sao cả! - Hắn vội vàng tuyên bố, vẻ thản nhiên, khi nghe thấy hai đứa bé sau quầy hàng phì cười và chính lão chủ cũng cười mỉm. - Chẳng làm sao cả! Những cái lắc đầu đó không làm tôi nao núng tí nào. - Bởi vì ai nấy đều đã biết chuyện ấy, và tất cả những điều gì bí mật rồi cùng đều trở nên hiển nhiên cả, tôi cũng không khinh miệt thái độ đó mà chỉ cam tâm chịu đựng thôi. Thôi kệ họ, kệ họ... "Đây con người"[3]. Xin ông cho phép, ông bạn trẻ, ông có thể... Không, phải nói cho mạnh và nổi bật hơn: không phải là "ông có thể"... Không phải, "ông có dám" nhìn thẳng vào mặt tôi mà khẳng định rằng tôi không phải là một con lợn không?

Chàng thanh niên lặng thinh không đáp.

- Vậy thì... - Nhà hùng biện ung dung nói tiếp, giọng lần này lại càng chững chạc và trang trọng một cách có dụng công, sau khi đợi cho những tiếng cười vừa nổi lên trong phòng tắt hẳn. - Vậy cứ cho rằng tôi là một con lợn, còn nàng là một bậc mệnh phụ. Tôi là hình ảnh của loài thú vật, còn Caterina Ivanovna, vợ tôi, là một nhân vật có học thức và bẩm sinh là con của một sĩ quan tham mưu. Cứ cho rằng tôi là một thằng hèn, còn nàng thì có một tâm hồn thanh cao, và được giáo dục thêm những tình cảm tôn quý. Tuy vậy... Ôi giá nàng thương hại tôi! Thưa ông, bởi vì mỗi người tất phải có một nơi nào người ta thương hại mình chứ, phải không, thưa ông? Mà Caterina Ivanovna tuy là người quảng đại song cũng không được công bằng... và tuy tôi cũng hiểu rằng nàng có túm lấy mớ tóc xù của tôi thì cũng chỉ vì thương hại thôi... vì tôi có thể nhắc lại mà không bối rối rằng nàng vẫn thường túm lấy tóc tôi, ông bạn trẻ ạ. - Hắn ta nhấn mạnh một cách càng trang trọng khi lại nghe tiếng cười khúc khích. - Nhưng trời ơi giá có bao giờ, dù chỉ một lần thôi, nàng... - Nhưng không, không! Toàn là chuyện hão huyền hết, sao tôi lại còn nói đến làm gì? Không có gì đáng nói cả, vì mọi điều mong muốn đều đã được thực hiện khá nhiều lần, đã nhiều lần tôi được thương hại nhưng, nhưng mà tính tôi vốn thế, và tôi bẩm sinh là một con vật.

- Còn phải nói! - Lão chủ quán vừa ngáp vừa buông một lời nhận xét.

Marmeladov giáng mạnh nắm đấm xuống bàn, vẻ cương quyết.

- Tính tôi vốn thế? Ông có biết không, thưa ông, ông có biết rằng ngay cả đến bít tất của nàng tôi cũng đem uống rượu không? Không phải là giày đâu nhé, vì nếu thế thì cũng còn tạm gọi được là thường tình, mà là bít tất kia, bít tất của nàng kia! Nướng vào tiệm rượu! Lại chiếc khăn quàng cổ lông cừu tơ của nàng nữa! Khăn của người ta tặng nàng thuở trước, vốn là của riêng nàng, chứ không phải của tôi. Cái xó của gia đình tôi ở lạnh lắm. Mùa đông năm nay, nàng lại cảm hàn và bắt đầu ho ra máu. Chúng tôi có ba cháu nhỏ, Caterina từ sáng đến chiều cứ quần quật nào là chải đầu kỳ cọ tắm rửa cho chúng, vì từ thuở bé, nàng đã quen sạch sẽ. Nàng yếu phổi và đang bị bệnh lao đe dọa, mà tôi cũng biết thế. Chả nhẽ tôi lại không thấy được điều đó hay sao! Mà càng có rượu vào tôi lại càng thấy rõ. Và tôi uống rượu cũng chính là để cố tìm thấy niềm đồng cảm và nỗi sầu muộn trong chất men. Tôi uống vì muốn đau khổ thêm bội phần.

Hắn gục đầu xuống bàn, vẻ tuyệt vọng.

- Anh bạn trẻ ơi. - Hắn ngửng đầu lên nói tiếp. - Tôi tưởng như đọc được một nét sầu muộn trên gương mặt anh. Ngay từ khi anh mới vào tôi đã thấy rõ như vậy cho nên tôi đã bắt chuyện với anh ngay tức khắc. Kể cho anh nghe câu chuyện đời tôi, tôi không hề muốn tự bêu xấu tôi trước mặt những kẻ vô công rồi nghề kia, vì họ cũng đã biết hết từ trước rồi, mà là muốn tìm thấy một con người nhạy cảm và có học. Anh cũng nên biết rằng vợ tôi đã được dạy dỗ ở một học viện trong trấn dành riêng cho các thiếu nữ con nhà quý phái, và trong buổi lễ tốt nghiệp, nàng đã cầm chiếc khăn san, nhảy trước mặt quan tổng trấn và các vị quan khách khác, vì thế nàng đã được thưởng một huy chương vàng và một bằng khen - tấm huy chương thì... Tấm huy chương thì đã bán đi rồi... từ lâu rồi... hừm... bằng khen thì đến nay vẫn còn nằm trong hòm của nàng và gần đây nàng còn đem ra cho mụ chủ nhà xem. Tuy giữa nàng với mụ chủ nhà luôn luôn có những chuyện xích mích cãi vã tối ư thường xuyên nhưng nàng lại thích kể lể - với bất kỳ ai - về những ngày hạnh phúc đã qua mà nàng vẫn tự hào. Tôi không hề trách nàng, không hề, bởi vì tất cả những kỷ niệm của nàng nay chỉ còn có thế, những cái khác thì đã tan thành tro bụi. Đúng. Đúng, nàng là một người nóng nảy, kiêu hãnh và cương nghị. Nàng tự lau lấy sàn nhà, ăn bánh mì đen, nhưng không thể để cho ai khinh mình. Chính vì vậy mà nàng không thể chịu được thói thô bạo của ông Lebeziatnikov, và khi ông ta giở thói vũ phu đánh nàng, nàng đã nằm liệt giường, vì bị đòn thì ít mà bị xúc phạm thì nhiều hơn. Khi tôi cưới nàng thì nàng đã là một quả phụ có ba con nhỏ. Đời chồng trước, nàng lấy một viên sĩ quan bộ binh mà nàng yêu. Nàng đã trốn nhà đi với hắn ta. Nàng yêu hắn tha thiết nhưng hắn lại bê tha cờ bạc, bị đưa ra tòa và ít lâu sau thì chết. Càng về sau hắn ta càng hay đánh nàng. Tuy nàng không thể tha thứ cho hắn - điều đó tôi có đủ tài liệu để biết chắc - nhưng mỗi khi nhớ đến hắn, nàng không sao cầm được nước mắt và vẫn thường nhắc đến hắn để răn tôi. Tôi cũng vui lòng, rất vui lòng, vì như vậy, ít nhất trong tưởng tượng, nàng cũng có thể hình dung là ngày xưa mình sung sướng lắm. Hắn ta để lại cho nàng ba đứa con nhỏ ở một huyện xa xôi hẻo lánh mà hồi đó tôi cũng ở đấy, và trong một tình trạng cùng khổ tuyệt vọng đến nỗi chính tôi, một người đã từng lăn lộn khắp đó đây, cũng không sao tả nổi. Họ hàng của nàng đều từ bỏ nàng. Mà nàng thì lại kiêu ngạo, kiêu ngạo quá đỗi... Và thưa ông, thế là tôi, một anh chàng góa vợ có một đứa con gái mười bốn tuổi với đời vợ trước, tôi đã đến xin hỏi nàng làm vợ, vì tôi không thể khoanh tay đứng nhìn nỗi khổ đau đó. Một người đàn bà có học thức và cao quý như vậy mà lại thuận lòng kết hôn với tôi! Chỉ riêng việc ấy thôi cũng đủ để ông thấy rõ nàng đã lâm vào một cảnh cơ cực đến thế nào? Ấy thế mà nàng cũng đã lấy tôi! Nàng khóc nức nở, nàng vò đầu bứt tai, nhưng nàng đã lấy tôi! Vì nàng không còn biết đi đâu nữa. Ông có hiểu không, thưa ông, ông có hiểu không còn biết đi đâu nghĩa là thế nào không? Không! Cái ấy, ông chưa hiểu được... Suốt một năm tôi đã một lòng một dạ làm tròn nhiệm vụ một cách trong sạch và không sờ đến cái này - hắn chạm ngón tay vào chai rượu - vì tôi vốn có lương tâm. Nhưng ngay việc đó cũng không làm cho nàng hài lòng. Rồi thì tôi mất việc, không phải lỗi tại tôi mà vì công sở giảm biên chế nhân sự, thế là tôi lại đâm ra rượu chè. Sau khi lang thang khắp nơi và chịu đựng muôn vàn khổ cực, chúng tôi đã dừng lại ở nơi kinh thành tráng lệ với muôn ngàn lâu đài rực rỡ này, thấm thoát đã được một năm rưỡi, và ở đây tôi lại tìm được một việc làm. Tìm được rồi lại mất, ông ạ, lần này thì chính là lỗi tại tôi, vì cái thói nghiện ngập tai hại của tôi. Bây giờ thì chúng tôi trọ trong một góc nhà của mụ Amalya Ivanovna Lippevekzen; còn như lấy gì mà sinh sống, lấy gì mà trả tiền nhà thì chính tôi cũng không biết nữa. Ngoài chúng tôi, cũng còn nhiều người khác trọ ở đấy - một cảnh hỗn loạn ghê tởm... hừm... thế đấy... Trong thời gian đó thì đứa con gái vợ trước của tôi dần dần lớn lên; nó phải chịu đựng cái cảnh dì ghẻ con chồng ra sao thì thôi, tôi cũng không kể làm gì nữa. Vì tuy Caterina Ivanovna rất cao thượng, nàng vẫn là một người đàn bà hay giận dữ, nóng tính và cũng biết cách hành hạ... Đúng thế! Nhưng thôi, nhắc đến những chuyện đó làm gì. Chắc ông cũng rõ rằng cứ cách ấy thì Xonia chẳng còn được học hành tí gì. Cách đây bốn năm tôi đã thử dạy nó học địa lý và lịch sử thế giới; nhưng vì kiến thức của bản thân tôi cũng không lấy gì làm vững chắc, vả lại tài liệu khả dĩ dùng được cũng không có, vì sách vở thì... hừm... chúng tôi còn đâu nữa, cho nên việc dạy dỗ đành phải dẹp lại. Chúng tôi chỉ học đến đoạn vua Ba Tư là Cyrux. Về sau, khi đến tuổi trưởng thành nó có đọc thêm được một vài quyển sách có nội dung tiểu thuyết và gần đây nó lại đọc thêm được quyển Sinh lý học của Liuyx do ông Lebeziatnikov giới thiệu cho - ông có biết không, nó thích quyển đó lắm và còn đọc cho chúng tôi nghe một vài đoạn. Đấy, tất cả học vấn của nó chỉ có thế. Thưa ông, bây giờ tôi - cá nhân tôi - xin hỏi nhỏ ông một câu: Theo ông, một người con gái nghèo, lương thiện, nếu cũng làm một công việc lương thiện thì liệu kiếm được bao nhiêu tiền? Không được mười lăm cô-pếch một ngày đâu ông ạ; nếu cô ta lương thiện và không có tài cán gì đặc biệt, ấy là nói đã làm bở hơi tai ra rồi đấy. Rồi cả cái ông ủy viên hội đồng thành phố Klovstok Ivan Ivanovich nữa - ông có nghe nói không - cho đến nay ông ta vẫn chưa trả công may nửa tá sơ-mi vải Hà Lan, lại còn mắng nhiếc xua đuổi nữa: Ông ta dậm chân dậm cẳng, chửi bới tục tằn, lấy cớ là cái cổ áo may không đúng kích thước và khâu lệch. Thế rồi bọn trẻ con đói ở nhà... Rồi Caterina Ivanovna nữa, cứ đi đi lại lại trong phòng, tay vặn vào nhau, gò má nổi lên những đám đo đỏ - thường người lao vẫn hay thế. Ý chừng bà muốn nói: "Đồ ăn hại, mày sống trong nhà ta, mày ăn uống no nê, lại được sưởi ấm". Nhưng con tôi có được ăn gì, uống gì cho cam vì chính mấy đứa bé cũng không được lấy một mẩu bánh từ ba hôm rồi - còn tôi thì tôi nằm dài, tôi còn biết làm sao! Tôi nằm dài, say khướt và nghe thấy tiếng Xonia nói. Con tôi rất lành, giọng nói nhỏ nhẻ... mái tóc nó hung hung vàng, khuôn mặt thanh thanh bao giờ cũng xanh xao và gầy gò. Con tôi nói: "Caterina Ivanovna, có thật là tôi phải quyết định làm cái việc đó không?". Mà trước đó con mụ Zazya Frantxovna, một con mụ độc ác mà sở cảnh sát đã quá quen thuộc, có đến hỏi thăm hỏi dò mụ chủ nhà ba lần rồi. Caterina Ivanovna cười nhạt đáp: "Còn gì nữa, còn giữ làm gì? Quý báu lắm đấy?". Đừng vội ông ạ, ông ạ, đừng vội buộc tội cho nàng. Không phải nàng nói câu đó khi đang tỉnh táo đâu, mà chỉ vì bị khích động dữ dội, vì bệnh tật, vì bị những tiếng khóc của bầy trẻ đói ám ảnh, vả chăng nàng nói như vậy cũng để sỉ vả chứ không phải nàng chủ ý muốn như vậy. Tính Caterina Ivanovna vốn thế, ngay khi bọn trẻ con vì đói mà khóc, nàng cũng thẳng tay đánh chúng luôn. Rồi khoảng sáu giờ, tôi thấy Xonia dậy, quàng khăn, khoác áo ngoài ra đi, và độ chín giờ thì trở về. Con tôi vào nhà, đi thẳng đến trước mặt Caterina Ivanovna và lẳng lặng đặt ba mươi rúp trên bàn trước mặt nàng. Nó không hé miệng nói lấy nửa lời, không nhìn ai cả: Nó chỉ cầm cái khăn trùm lớn màu lục - chả là chúng tôi có một cái khăn trùm bằng dạ mịn dùng chung - trùm lên đầu che kín cả mặt rồi nằm vật ra giường, quay mặt vào tường, đôi vai bé nhỏ và toàn thân run lên từng đợt... Còn tôi, tôi vẫn nằm đó, say khướt. Rồi tôi thấy, anh bạn trẻ ơi, tôi thấy Caterina Ivanovna, cũng không nói nửa lời, đến cạnh giường Xonia quỳ bên chân con tôi suốt cả buổi tối, chốc chốc lại hôn chân nó, không chịu đứng dậy, rồi con tôi và vợ tôi ngủ với nhau, ôm nhau ngủ... cả hai... đúng thế... còn tôi, tôi vẫn nằm đó... say bí tỉ.

Marmeladov im bặt, tưởng như nghẹn đi. Rồi đột nhiên hắn hối hả rót rượu ra uống và đằng hắng một tiếng.

- Từ đó, thưa ông, - hắn nói tiếp sau một lát im lặng - từ đó, do một sự ngẫu nhiên bất hạnh và do lời tố giác của những kẻ xấu bụng - chính mụ Zarya Frantxovna đã tích cực góp phần vào việc này, vì đâu như chúng tôi đã không kính trọng mụ đúng mức thì phải, - từ đó, con gái tôi, Xonia Xemionovna buộc phải lĩnh thẻ vàng và tất nhiên là không được chung sống với chúng tôi nữa vì cả mụ chủ nhà, Amalya Ivanovna, người trước đây đã giúp mụ Zazya Frantxovna, cả ông Lebeziatnikov đều không muốn thế lắm... Chính vì Xonia mà hắn đã sinh sự với Caterina Ivanovna. Trước đây, cũng chính hắn đã đeo đuổi Xonia thì nay hắn lại tỏ vẻ tự ái: "Sao! Một người có học thức như tôi mà lại cùng sống chung dưới một mái nhà với cái hạng đàn bà ấy à!". Caterina không để cho hắn nói nữa, bênh vực ngay Xonia... và thế là hết. Từ đó Xonia chỉ đến thăm chúng tôi vào những buổi chiều tối, nó đỡ đần, an ủi Caterina và đưa về một ít tiền do nó kiếm được. Nó thuê lại căn buồng trong của bác thợ may Kapernaumov. Bác ta thọt và nói lắp, cả cái gia đình đông đúc của bác ta cũng đều nói lắp cả. Vợ bác ta cũng nói lắp. Cả nhà bác ta sống chung trong một căn buồng còn Xonia thì ở buồng cạnh, cách nhau một bức vách... Hừm... vâng!... Họ là những người nghèo khổ vô cùng, và lại nói lắp nữa... Đúng thế... Thế rồi, một buổi sớm nọ, tôi dậy, khoác bộ quần áo rách vào, đưa hai tay lên cầu trời rồi đến yết kiến ngài Ivan Aphanaxievich. Anh có biết ngài Ivan Aphanaxievich không? Không à? Thật rõ hoài! Một con người nhà trời đấy! Đúng là một hòn sáp trước mặt đức Chúa; ngài cứ chảy ra như sáp! Ngài còn ứa cả nước mắt ra nữa sau khi vui lòng nghe hết câu chuyện của tôi. "Ngài Marmeladov, anh đã phụ lòng mong đợi của tôi một lần rồi đấy. Nay tôi lại đứng ra lấy tư cách cá nhân mà đảm nhận cho anh một lần nữa" - chính ông ta nói thế. - "Anh nhớ lấy. Thôi anh về đi". Tôi cúi hôn nắm bụi dưới gót chân ngài - ấy là nói trong tưởng tượng thôi - vì thật ra ngài cũng không để cho tôi làm thế vì ngài là con người có học thức và có những tư tưởng tối tân về chính trị. Tôi trở về và khi tôi tuyên bố là đã có việc làm và sẽ nhận tiền lương thì trời ơi thật khó lòng mà tưởng tượng được!

Marmeladov lại ngừng bặt vì quá xúc động. Lúc ấy cả một lũ người say rượu lảo đảo bước vào quán. Cạnh cửa ra vào, âm thanh của một chiếc phong cầm quay và giọng hát yếu ớt của một đứa bé lên bảy vang lên trong điệu "Khutorok". Gian phòng ồn ào hẳn lên. Lão chủ và mấy thằng bé săn đón những khách mới đến. Marmeladov không chú ý đến họ, vẫn kể tiếp. Hắn đã có vẻ mệt lắm, nhưng càng say hắn lại càng lắm lời. Hắn linh hoạt lên, và thậm chí mặt hắn còn như tươi rói lên nữa khi hắn nhớ đến những thắng lợi gần đây trên đường hoạn lộ của hắn. Raxcolnicov vẫn chăm chú ngồi nghe.

- Chuyện đó, thưa ông, xảy ra cách đây đã năm tuần... Đúng... Khi Caterina và Xonia biết tin như vậy thì trời ơi, cứ như là thiên đường đã rộng mở đón tôi. Mới hồi nào đây, tôi còn nằm dài như một con vật và chỉ được nghe chửi! Thế mà nay, họ bước rón rén, mắng khẽ bọn trẻ con: "Suỵt... Xemion Zakharovich đi làm về mệt... Để cho bố nghỉ...". Họ pha cà phê cho tôi dùng trước khi đi làm; họ làm kem sữa cho tôi ăn! Họ đã bắt đầu tìm được sữa tươi làm kem cho tôi đấy anh bạn ạ! Tôi cũng không hiểu họ làm thế nào mà xoay ra được mười một rúp năm mươi cô-pếch để tậu cho tôi một bộ phẩm phục vô cùng khả ái: nào là ủng, nào là diều cổ áo sơ-mi bằng trúc bâu tuyệt đẹp, cả một bộ cánh tươm tất như vậy mà chỉ hết mười một rúp năm mươi cô-pếch! Ngày đầu tiên tôi đi làm về thì chao ôi, Caterina Ivanovna đã dọn bữa ăn lên, một bữa hai món: có canh này, và cả thịt lợn xào rau thơm nữa, một món mà trước kia tôi chưa hề được biết qua. Còn nàng thì trông khác hẳn; mà áo dài thì có đâu! Không có lấy một chiếc nào! Thế nhưng nàng cũng đã biết cách phục sức như sắp đi thăm viếng ai mà không phải gặp chăng hay chớ đâu nhé; ấy, có những người như thế đấy, không có gì họ cũng làm được thành đủ lệ bộ: tóc chải cẩn thận, một cái cổ áo trắng nhỏ dính lên áo, một chiếc măng-sét đeo vào cổ tay; thế là nàng đã biến thành một người khác hẳn, trẻ ra, đẹp ra. Xonia, con gái yêu của tôi thì chỉ đưa tiền về nhà thôi vì, trong lúc này - nó nói thế - về nhà luôn không tiện, có chăng cũng để đến chiều tối hẵng về để cho người ta khỏi trông thấy. Anh nghe ra chưa? Thế đấy! Một hôm, tôi đi làm về, ăn trưa xong đi nằm nghỉ thì anh bạn này, anh có tin được không, vợ tôi ngồi thì thầm trò chuyện với mụ Amalya Ivanovna! Hai giờ liền! Thế mà tuần trước đó, hai người vừa cãi nhau ra trò, bây giờ lại chính nàng mời mụ ta sang uống cà phê. Nàng không thể cầm lòng được nữa. "Bây giờ thì Xemion Zakharovich đã có việc làm ở sở và được lĩnh lương. Nhà tôi đã thân hành đến tìm ngài Ivan Aphanaxievich, chính ngài đã ra đón và dặn mọi người khác hãy đợi đấy đã, rồi cầm tay nhà tôi đưa vào buồng làm việc qua mặt mọi người". Anh nghe ra chưa, anh bạn? "Xemion Zakharovich, - Ngài nói - tuy đã vì nhu nhược, nhẹ dạ mà đi theo con đường hư hỏng, nhưng tôi rất nhớ đến công lao của anh và cũng bởi vì anh đã có lời hứa với tôi, vả lại ở đây không có anh thì công việc cứ hỏng bét đấy, anh nghe chưa nên tôi tin ở anh, tin ở lời hứa danh dự của anh". Tất cả những chuyện đó anh ạ, đều do nàng bịa đặt ra hết, không phải vì nhẹ dạ, chỉ muốn khoa trương. Không! Chính nàng tin như vậy, nàng tìm thấy nguồn an ủi trong những ảo ảnh do chính nàng tưởng tượng ra, thật thế! Và tôi cũng không chê trách nàng, không chê trách chút nào. Rồi cách đây sáu hôm, khi tôi mang món tiền lương đầu tiên của tôi về nhà - hai mươi ba rúp, bốn mươi cô-pếch - nàng đã âu yếm nói với tôi: "Anh của em ngoan quá!". Lúc ấy chỉ có mình chúng tôi thôi đấy nhé? Thử hỏi tôi thì có chút gì là đáng yêu không chứ, và có ra dáng tấm chồng nữa không, thế mà nàng đã phải bẹo má tôi mà âu yếm: "Anh của em ngoan quá!".

Marmeladov ngừng bặt. Hắn cũng muốn mỉm cười, nhưng cằm hắn run bắn lên. Tuy vậy hắn cũng kìm lại được. Cái quán rượu này, rồi cái dáng dấp sa đọa bê tha của Marmeladov, rồi câu chuyện nằm đêm ngủ dưới thuyền rơm của hắn, rồi chai rượu, với cả cái tình thương bệnh tật của hắn đối với vợ, với gia đình, tất cả những thứ đó đã làm cho Raxcolnicov hoang mang. Chàng chăm chú nghe, nhưng với một cảm giác đau đớn, chàng tiếc là đã ghé vào đây.

- Ông ạ. Ông ạ! - Marmeladov vừa trấn tĩnh lại, nói tiếp: - Vâng, thưa ông, có lẽ đối với ông cũng như đối với mọi người khác đó chỉ là một chuyện khôi hài, và chắc tôi đã làm phiền lòng ông vì câu chuyện ngớ ngẩn với những chi tiết khốn khổ của đời tư tôi đây, nhưng đối với tôi thì đó không phải là câu chuyện cười. Vì tôi có đủ sức thể nghiệm tất cả những cảm xúc đó... Thế là suốt cả cái ngày hoan lạc đó của đời tôi và cho đến cả buổi tối, trí tưởng tượng của tôi như được chắp cánh bay cao: rồi tôi sẽ thu xếp chu tất mọi việc trong gia đình, tôi sẽ may mặc cho bọn trẻ, rồi vợ tôi sẽ yên lòng, tôi sẽ cứu vãn danh dự cho đứa con gái yêu quý độc nhất của tôi rồi đưa nó về sống êm ấm trong lòng gia đình... rồi nhiều, nhiều chuyện khác nữa... Thưa ông, người ta có quyền mơ ước lắm. Vậy mà, thưa ông. - Marmeladov bỗng như rùng mình, ngửng đầu và nhìn thẳng vào mắt Raxcolnicov. - Vậy mà ngay ngày hôm sau, sau những giấc mơ đẹp đẽ ấy thế là cách đây đúng năm hôm, buổi chiều, tôi đã bày mưu xảo trá đánh cắp chìa khóa hòm của Caterina Ivanovna, và như một tên kẻ trộm trong đêm tối, tôi đã cuỗm tất cả số tiền lương còn lại - tôi cũng không nhớ là bao nhiêu - và đấy ông xem, nhẵn sạch! Năm hôm nay tôi không bước chân về nhà, người nhà đang đi tìm tôi, còn như việc làm thì thế là cũng đi đứt, còn bộ phẩm phục của tôi thì hiện đang nằm trong tiệm rượu đầu cầu Ai Cập, tôi đã đổi lấy bộ quần áo này... Và thế là hết.

Marmeladov nện quả đấm lên trán, nghiến răng, nhắm mắt lại rồi chống mạnh khuỷu tay lên bàn. Nhưng một phút sau, vẻ mặt hắn ta chợt thay đổi. Hắn nhìn Raxcolnicov, cố làm ra vẻ ranh mãnh và trơ tráo, cười ha hả, nói:

- Và hôm nay, tôi lại tìm đến Xonia, xin tiền uống rượu! Hê! Hê! Hê!

- Thế cô ta cũng cho à? - Một người trong bọn mới đến hỏi rất to, rồi cất tiếng cười rộ.

- Be rượu này chính là mua bằng tiền của nó. - Marmeladov hướng riêng về Raxcolnicov nói rành rọt. Nó đã tự tay đem đến cho tôi ba mươi cô-pếch, số tiền cuối cùng của nó - tôi trông rõ mà... Nó không nói nửa lời, chỉ lặng lẽ nhìn tôi... Thế đấy, ở trên kia, chứ không phải dưới cõi trần này, người ta ái ngại, khóc thương cho con người chứ không trách móc họ, không hề trách móc. Như thế lại càng đau hơn, không trách móc lại càng đau hơn! Ba mươi cô-pếch, đúng thế đấy ạ! Thế mà bây giờ con tôi lại đang cần tiền, có phải không nào? Bây giờ nó đang cần phải giữ gìn cho sạch sẽ. Muốn sạch sẽ thì phải tốn tiền, mà đây lại là một thứ sạch sẽ đặc biệt, ông ạ, ông có biết không? Mua phấn mua kem này không thì còn làm ăn gì được? Phải có váy ngắn hồ cứng này, phải có đôi giày này, mà giày phải cho thật lịch sự để có thể phô bày được đôi chân mỗi khi bước qua vũng nước... Ông đã hiểu chưa, thưa ông, ông có hiểu cái thứ sạch sẽ ấy nó thế nào không? Thế mà tôi, bố đẻ của nó, tôi đã lấy cả ba mươi cô-pếch ấy để đi uống rượu?... Tôi uống, và uống hết nhẵn! Vậy thì có ai lại đi thương hại một người như tôi không? Có ai không? Bây giờ, thưa ông, ông có thương hại tôi không ông nói đi, có hay không. Hê! Hê! Hê!

Hắn định rót rượu ra uống nữa nhưng chai đã cạn ráo.

- Thương hại anh mà làm gì? - Lão chủ quán đã đến ngồi gần hai người từ lúc nào, quát to lên.

Có tiếng cười rộ, thậm chỉ còn chen cả tiếng chửi rủa. Chỉ trông cái dáng điệu của người công chức về hưu kia thôi người ta cũng đã cười, đã chửi rồi, cả những người có nghe lẫn những người không nghe câu chuyện vừa qua.

- Thương hại tôi! Tại sao lại thương hại tôi à! - Marmeladov bỗng rống lên, đứng dậy dang tay ra phía trước với một vẻ hưng phấn và quả quyết dường như chỉ đợi có mấy tiếng ấy. - Ngươi nói tại sao lại thương hại ta phải không? Đúng. Ta không có gì đáng thương hại cả, phải treo ta lên, đóng đinh vào câu rút chứ không phải thương hại. Nhưng cứ treo ta lên, lão thẩm phán kia ơi, treo ta lên, nhưng treo ta lên rồi thì hãy thương hại lấy ta. Và ta sẽ đích thân đến để nhà ngươi treo ta lên, vì không phải ta khát khao hoan lạc, mà ta thèm muốn đau khổ và nước mắt. Lão lái buôn kia, ngươi tưởng cút rượu của ngươi làm dịu được lòng ta chăng? Không, chính là ta muốn tìm nỗi đau khổ ở đáy chai rượu này, ta muốn tìm đau khổ và nước mắt. Ta đã uống và ta đã tìm được. Chỉ có đấng vẫn hằng thương xót và thông hiểu được vạn vật, chúng sinh, chỉ có Người mới sẽ thương hại chúng ta. Người là Đấng Vô song, Người là Đấng Phán xử tối cao. Rồi ngày ấy Người sẽ đến và sẽ phán hỏi: "Đâu rồi, người con gái đã bán mình để nuôi người dì ghẻ phế lao và ác nghiệt, nuôi mấy đứa con của kẻ khác? Đâu rồi, người con gái đã rủ lòng thương hại người bố phàm trần nghiện rượu, ăn hại mà không hề ghê sợ cái tính thô bỉ thú vật của hắn?". Và Người sẽ phán: "Lại đây con! Ta đã tha thứ cho con một lần rồi, nay ta lại tha thứ tội lỗi cho con vì con đã rộng lòng yêu thương"[4] và Người sẽ tha thứ cho Xonia yêu quý của ta. Người sẽ tha, ta biết trước rằng Người sẽ tha, lòng ta đã cảm thấy thế ngay từ lúc nãy, khi ta còn ở đằng nhà con ta. Người sẽ phán xử mọi người và sẽ tha tội tất cả, người hiền cũng như kẻ ác, người khôn ngoan cũng như kẻ lầm lạc kém hèn. Xong đâu đó, Người sẽ cao giọng phán dạy chúng ta: "Các ngươi nữa, hãy ra đây. Ra đây, những linh hồn yếu đuối đắm mình trong rượu chè, những linh hồn nhơ nhuốc!". Và tất cả chúng ta sẽ đến dưới chân người, không hổ thẹn. Người sẽ nói: "Bay là những con lợn! Bay là hình tượng của thú vật và mang trên mình dấu ấn của thú vật; nhưng cũng hãy cứ đến đây!". Những bậc đại hiền, những linh hồn khôn ngoan sẽ can: "Lạy Chúa, sao Người lại thu nhận những kẻ này?". Và Người sẽ phán: "Ta thu nhận chúng, hỡi các bậc đại hiền, ta thu nhận chúng, hỡi những linh hồn khôn ngoan, vì trong cả bọn chúng không hề có đứa nào tự thấy xứng đáng được thu nhận cả...". Người sẽ đưa bàn tay ra và chúng ta sẽ sụp xuống lạy Người... Chúng ta sẽ khóc... Rồi chúng ta sẽ hiểu hết được mọi sự! Lúc bấy giờ chúng ta sẽ hiểu hết... và mọi người rồi cũng sẽ hiểu... cả Caterina Ivanovna nữa, nàng cũng sẽ hiểu... Lạy Đấng Chúa Cứu thế, mong sao chóng đến ngày trị vì của Người!

Hắn buông người rơi phịch xuống ghế, kiệt sức, rũ rượi, không còn nhìn ai nữa, dường như đã quên tất cả mọi vật xung quanh và chìm sâu trong suy tưởng, lời nói của hắn đã gây một ấn tượng nào đấy khắp gian phòng im lặng một lát, nhưng chẳng mấy chốc tiếng cười tiếng chửi rủa lại vang lên.

- Hắn lý sự!

- Chỉ nói nhảm!

- Thế mà cũng đòi làm công chức!

Và cứ thế.

- Ta đi thôi, ông ạ. - Marmeladov bỗng ngửng mặt lên, nói với Raxcolnicov. - Ông đưa tôi về nhà hộ, nhà Kozen... trong sân ấy, và đến lúc phải trở về với Caterina Ivanovna.

Raxcolnicov đã muốn bỏ đi từ lâu; vả lại chính chàng cũng đã định dìu giúp Marmeladov về nhà. Đôi chân của Marmeladov tỏ ra yếu hơn miệng lưỡi của hắn nhiều, nên hắn phải dựa hẳn vào người chàng thanh niên mà đi. Chỉ cách có hai, ba trăm bước là đến nhà hắn. Càng gần về đến nhà, lão say rượu lại càng thấy bối rối và sợ hãi.

- Bây giờ không phải tôi sợ Caterina Ivanovna. - Hắn thì thào trong cơn xúc động. - Cũng không phải tôi sợ nàng túm lấy tóc tôi. Tóc à? Tóc là cái gì! Chuyện nhảm hết. Tôi nói thế đấy! Thà nàng cứ túm lấy tóc tôi cũng còn hơn. Không phải tôi sợ cái đó mà tôi sợ... tôi sợ mắt nàng, vâng... đôi mắt của nàng... Tôi cũng sợ cả những đám da đỏ trên gò má nàng... và cả... hơi thở của nàng nữa. Anh đã thấy những người ho lao, những khi xúc động họ thở như thế nào chưa? Tôi sợ cả tiếng khóc của mấy đứa bé... vì nếu Xonia không cho chúng nó ăn gì thì... tôi chẳng biết... chẳng biết làm thế nào nữa! Tôi cũng chẳng sợ bị đánh đòn: Vì, ông ạ, chính đòn vọt không những không làm cho tôi đau đớn, mà lại còn đem lại cho tôi một niềm khoái lạc nữa... Vì chính tôi, nếu không bị đánh đòn thì tôi cũng không biết làm thế nào được, thế mà lại hay đấy! Nàng cứ đánh tôi đi, cho khuây khỏa... Cứ thế mà lại hay. Chúng ta đến nơi rồi đấy. Nhà lão Kozen, một tay thợ khóa giàu người Đức... Dẫn tôi vào!

Hai người đi qua sân và lên tầng gác tư. Càng lên, cầu thang càng tối. Lúc ấy đã gần mười một giờ. Tuy vào tiết này, đêm Petersburg cũng chẳng ra đêm nữa nhưng trên cầu thang vẫn tối om.

Cuối thang gác, ở phía trên cùng, một cánh cửa ám khói mở ra. Một mẩu nến soi sáng một căn buồng tồi tàn dài độ mười bước, đứng ngoài cửa có thể trông suốt hết cả căn buồng. Đồ đạc ngổn ngang, bừa bộn, đâu cũng la liệt đủ các thứ quần áo rách của trẻ con. Một tấm vải giường thủng treo chắn ngang góc buồng trong cùng. Có lẽ có một chiếc giường đặt sau tấm màn ấy. Trong buồng vẻn vẹn chỉ có hai chiếc ghế, một chiếc đi-văng lót vải sơn đã tróc gần hết, một cái bàn làm bếp cũ kĩ bằng gỗ thông để mộc không trải khăn bàn, trên rìa có một cái chân nến bằng sắt, trên có gắn một mẩu nến mỡ bò cháy gần hết. Té ra Marmeladov ở một căn buồng chứ không phải ở trong một "góc nhà", nhưng là một căn buồng trên lối ra vào. Cánh cửa thông sang các buồng khác - hay các buồng khác thuộc căn nhà của mụ Amalya Lippevekzen - đang mở he hé. Từ căn buồng trong ấy đưa ra những tiếng cười nói ầm ĩ. Chắc là họ đang đánh bài và uống trà. Thỉnh thoảng lại vọng ra những câu hết sức cục cằn.

Raxcolnicov nhận ngay ra được Caterina Ivanovna, một người đàn bà gầy gò, mảnh khảnh, người khá cao và cân đối, bộ tóc hung sẫm còn rất óng ả, gò má quả nhiên đỏ ửng. Bà ta đi đi lại lại trong căn buồng nhỏ hẹp, tay khoanh trước ngực, môi mím lại, thở nấc lên từng đợt không đều. Mắt bà sáng long lanh như đang lên cơn sốt, nhưng cái nhìn thì sắc và bất động. Ánh nến lù mù sắp tắt chiếu chập chờn lên bộ mặt hốc hác và thảng thốt: trông càng thêm thiểu não. Raxcolnicov đoán bà ta quãng độ ba mươi, và quả thật chẳng xứng đôi với Marmeladov tí nào. Caterina Ivanovna không chú ý đến hai người vừa vào. Hình như bà ta đang ở trong một trạng thái hôn mê, không nghe, không thấy gì hết. Gian phòng ngột ngạt nhưng bà ta không mở cửa sổ; mùi hôi thối từ cầu thang xông lên, nhưng cửa ra cầu thang vẫn bỏ ngỏ, từ các buồng trong khói thuốc lá cứ ùn ùn bay ra làm cho bà phát ho lên, nhưng bà vẫn không ra đóng cửa lại. Đứa con gái út, độ lên sáu, ngồi bó gối dưới đất, đầu gục vào đi-văng mà ngủ. Thằng anh, lớn hơn một tuổi, đang đứng khóc trong xó, người run bắn lên, có lẽ nó vừa bị đánh. Đứa con gái lớn, khoảng lên chín, cao và gầy như que diêm, mặc chiếc sơ-mi đã rách mướp, cái áo choàng bằng dạ cũ, có lẽ may cách đây đã hai năm vì bây giờ con bé mặc ngắn cũn cỡn lên đến quá đầu gối choàng lên đôi vai nhỏ bé. Nó đứng cạnh thằng em, cánh tay dài, khô đét như que củi ôm chặt lấy thằng bé, hình như nó đang cố dỗ em, nói thì thầm cái gì với thằng bé, cố sao cho nó đừng khóc nấc lên lần nữa, mặt sợ sệt theo dõi từng bước đi của mẹ nó, đôi mắt rất to, tối sẫm, nổi bật trên khuôn mặt gầy choắt và sợ hãi trông lại càng to hơn. Marmeladov không vào. Hắn quỳ ở ngoài cửa và đẩy Raxcolnicov vào trước. Thấy có người lạ, Caterina Ivanovna lơ đãng dừng lại trước mặt chàng, rồi sực tỉnh và như muốn tự hỏi người lạ mặt này vào đây có việc gì, chắc bà ta nghĩ ngay rằng chàng chỉ đi qua buồng này để vào nhà trong, nên không để ý đến chàng nữa. Bà đi ra đóng cửa cầu thang lại, nhưng trông thấy chồng quỳ ngay ở lối vào, bà kêu lên một tiếng:

- À! Mày đã về đây rồi! - Bà nổi khùng quát. - Đồ quỷ sứ! Đồ quái vật! Thế tiền đâu? Còn gì trong túi không? Đưa xem nào? Quần áo ở đâu thế này? Thế còn quần áo mặc đâu? Tiền đâu? Nói đi!

Bà ta xông vào lục soát Marmeladov. Hắn ngoan ngoan và nhẫn nhục khuỳnh ngay hai tay ra hai bên để cho việc lục soát được dễ dàng. Không còn lấy một đồng xu dính túi.

- Thế tiền đâu? - Bà ta gào lên. - Ôi! Trời ơi. Có thể nào hắn ta đã uống hết rồi? Còn đến những mười hai rúp trong hòm kia mà. - Đột nhiên bà ta điên cuồng túm lấy tóc lôi hắn vào nhà; Marmeladov ngoan ngoãn lê gối vào theo vợ.

- Đây là một khoái lạc đối với tôi! Không phải là đau khổ đâu mà là khoái lạc đấy ông ạ. - Hắn kêu to lên trong khi bị day tóc, đầu lại có lần cộc xuống sàn nhà một cái. Con bé ngủ dưới đất thức giấc và khóc thét lên, thằng bé đứng trong góc sợ hãi run bần bật, kêu rú lên và ôm quắp lấy chị nó như lên cơn động kinh. Đứa con gái lớn còn ngái ngủ cũng run cầm cập.

- Mày đã uống rượu hết nhẵn, cái gì cũng đem uống hết. - Người đàn bà đáng thương gào lên trong cơn tuyệt vọng. - Quần áo của ai ở đâu thế này! Chúng nó đang đói, chúng nó đang đói! - Nàng vừa vặn hai tay vào nhau vừa chỉ bọn trẻ con. - Cái kiếp khốn khổ này! Còn anh, anh không biết thẹn ư? - Nàng quay sang Raxcolnicov. - Ra mày ở tiệm rượu về à! Ra mày cũng uống với hắn à? Uống với hắn à! Xéo ngay!

Người trẻ tuổi hấp tấp lùi ra không nói một lời. Lúc ấy, cánh cửa phòng đã mở toang và vài người tò mò ló đầu vào nhìn, họ trâng trâng bộ mặt xấc xược, đầu đội mũ chụp vải, mồm ngậm tẩu hoặc hút thuốc lá cuốn phì phèo. Có người khoác cả áo choàng ngủ không cài cúc, hoặc những bộ đồ mỏng dính đến sỗ sàng, có người còn cầm bài ở tay. Họ cười hả hê nhất là khi nghe Marmeladov kêu khoái lạc trong khi bị túm tóc. Họ lại còn ùa cả vào phòng nữa. Rồi một tiếng kêu the thé rợn người vang lên: Đó là mụ Amalya Lippevekzen vào dàn xếp trật tự theo kiểu của mụ, chửi bới và đòi đuổi - đến hàng trăm lần rồi - người đàn bà đáng thương ra khỏi nhà ngay ngày hôm sau. Khi đi ra, Raxcolnicov vừa kịp thọc tay vào túi vốc mấy đồng tiền đồng mà lúc nãy lão chủ vừa trả tiền thừa lại cho chàng và kín đáo đặt lên bậu cửa sổ. Nhưng khi ra ngoài cầu thang, chàng lại thay đổi ý định và toan quay trở lại.

"Mình đến là vớ vẩn". - Chàng nghĩ thầm. - "Ở đây đã có Xonia. Còn bản thân ta thì lại đang cần tiền". Nhưng suy đi tính lại thấy không thể lấy tiền lại được nữa, mà dù có lấy được thì cũng chẳng nên lấy lại, chàng khoát tay một cái và trở về nhà. "Xonia còn cần mua kem phấn". - Chàng lại mỉm cười chua chát nghĩ tiếp trong khi bước trên đường phố. - "Cái thứ sạch sẽ đó cần phải tốn tiền. Hừ! Có thể là Xonia hôm nay cũng phá sản... vì đi săn con mồi sộp... cái kĩ nghệ vàng... cũng phiêu lưu lắm... thế là ngày mai, cả gia đình họ cạn khô nếu không có mấy đồng tiền của ta... Chà, Xonia! Họ đã đào được một mạch nước thật ra trò! Họ cứ tha hồ múc! Họ cũng đã quen rồi. Lúc đầu họ còn khóc đôi chút, nhưng rồi cũng quen đi. Con người vốn đê tiện, cái gì rồi cũng quen được". - Raxcolnicov trở nên tư lự.

- Được rồi, nếu tôi nói sai. - Chàng bất giác nói to lên. - Nghĩa là nếu quả thật con người không đê tiện, tôi muốn nói cả loài người nói chung, thì tất cả những cái khác đều là định kiến, rặt là những chuyện lo sợ không đâu, không còn gì ngăn cản ta nữa, và chính phải như thế mới được.

[1] Một viên chức cấp thấp thời Nga hoàng.

[2] Thẻ của gái mại dâm.

[3] Câu nói của Pontius Pilatus khi dẫn Jesus Raxcolnicov trước đám đông để bêu riếu (Phúc âm).

[4] Câu của Jesus nói với Magadalena, một người đã sống phóng đãng (Phúc âm).

CHƯƠNG 3

Sáng hôm sau, Raxcolnicov dậy muộn; chàng không thấy hồi sức tí nào sau giấc ngủ đầy những cơn ác mộng. Chàng đâm ra cau có bực bội, và hằn học nhìn căn buồng lụp xụp của chàng. Đó là một cái chuồng nhỏ xíu, dài độ sáu bước, giấy dán tường đã ngả màu vàng, phủ đầy bụi bặm, nhiều nơi đã long ra, trông thảm hại quá chừng. Nhà thấp đến nỗi người nào hơi cao một chút bước vào là đã thấy rờn rợn, cứ lo cộc đầu vào trần. Đồ đạc thật xứng đáng với nơi bày biện: buồng có ba cái ghế dựa cũ kĩ, ọp ẹp, trong góc đặt một cái bàn gỗ sơn, trên có mấy quyển sách và mấy quyển vở, cứ trông lớp bụi bặm phủ lên cũng đã biết lâu nay không hề có ai sờ tay đến, và cuối cùng là một chiếc ghế sofa to cồng kềnh vốn phủ vải hoa, nhưng nay đã rách bươm, kê dọc sát tường, choán gần nửa căn buồng. Đó là giường ngủ của Raxcolnicov. Chàng thường ngủ trên chiếc sofa ấy để nguyên cả quần áo, không trải vải lót giường, mình đắp tấm áo choàng cũ kĩ của sinh viên làm chăn: đầu thì kê lên một cái gối nhỏ, bao nhiêu quần áo, cả sạch lẫn bẩn, đều nhét cả xuống gối để kê đầu cho cao. Trước ghế sofa đặt một chiếc bàn nhỏ.

Kể cũng khó mà ăn ở cực khổ và bẩn thỉu hơn thế, nhưng với tâm trạng lúc bấy giờ chàng lại thấy thích thú với cảnh này. Chàng đã hoàn toàn xa lánh mọi người như con rùa co mình vào trong mai, và chỉ cần trông thấy mặt người đầy tớ gái cứ thỉnh thoảng lại ghé vào dọn buồng chàng cũng đã điên tiết lên rồi. Tâm trạng ấy hay có ở những người mắc chứng thiên chấp, khi quá tập trung suy nghĩ vào một vấn đề gì. Từ hai tuần nay, bà chủ nhà không cho chàng ăn, và tuy phải nhịn đói, mãi đến hôm nay chàng vẫn chưa buồn đến phân trần với bà ta. Naxtaxia, người nấu bếp và là người ở độc nhất của bà chủ nhà lại có phần thích thú về cái tâm trạng đó của ông khách trọ, và chị ta cũng không vào buồng để dọn dẹp quét tước nữa, họa chăng mỗi tuần một lần chị ta mới tình cờ vào khua chổi mấy cái. Sáng hôm nay, chính chị ta vào đánh thức chàng.

- Thôi dậy! Ngủ gì mà ngủ lắm thế! - Chị ta vừa khom mình trên người chàng vừa kêu lên. - Chín giờ hơn rồi. Tôi đem nước trà lên cho cậu đây, cậu có uống không? Cậu đói mềm rồi còn gì?

Người khách trọ mở mắt, khẽ giật mình và nhận ra Naxtaxia.

- Trà của bà chủ đấy à? - Chàng từ từ nhổm dậy trên ghế sofa, chậm rãi cất tiếng hỏi, vẻ mặt phờ phạc.

- Của bà chủ nào?

Chị ta đặt xuống trước mặt chàng cái ấm trà riêng của chị đã nứt rạn, đựng đầy nước trà loãng, và hai miếng đường vàng ệch.

- Này, Naxtaxia, chị cầm hộ lấy cái này. - Chàng nói sau khi lục túi lấy ra một nắm xu (chả là chàng vẫn để nguyên cả quần áo mà ngủ). - Chị đi mua cho tôi một đĩa bánh. Đến cả hàng thịt mua cho một ít xúc xích, hay thứ gì cũng được, loại rẻ ấy.

- Bánh thì tôi đem đến cho cậu ngay; nhưng cậu ăn canh bắp cải có phải hơn xúc xích không? Canh nấu hôm qua, ngọt lắm... Tôi để phần cho cậu, nhưng cậu lại về muộn quá. Canh ngọt lắm đấy.

Sau khi bưng canh lên và chàng đã dậy ăn, Naxtaxia đến ngồi cạnh chàng tán gẫu. Chị ta là hạng đàn bà nông thôn, lại thuộc loại đàn bà nông thôn lắm lời.

- Này, bà Praxkopia Paplovna định đến sở cảnh sát kiện cậu đấy. - Chị nói.

Mặt Raxcolnicov cau hẳn lại.

- Đến sở cảnh sát à? Mụ ta muốn gì?

- Cậu không trả tiền nhà mà cũng không chịu dọn đi! Thế đấy chứ còn gì nữa?

- Hừ, thật quỷ quái, chỉ còn thiếu có thế. - Chàng nghiến răng lẩm bẩm - Đúng vào lúc này thì thật là... trái khoáy... cho mình... Mụ ấy ngốc quá. - Chàng nói to lên! - Được, hôm nay tôi sẽ đến nói chuyện với mụ.

- Nói là ngốc. Ừ thì bà ta ngốc, như tôi ấy thôi. Nhưng còn cậu, khôn ngoan thế, sao cứ nằm khoèo ở nhà, chả thấy làm gì? Trước đây cậu nói là cậu đi dạy trẻ học, sao bây giờ cậu không làm gì nữa cả?

- Tôi có làm... - Raxcolnicov xẵng giọng miễn cưỡng đáp.

- Làm gì?

- Một công việc...

- Việc gì?

- Tôi suy nghĩ. - Chàng nghiêm nghị trả lời sau một lát im lặng.

Naxtaxia rũ ra cười. Tính chị ta hay cười, và khi cười thì không bật ra thành tiếng mà cả người cứ lắc lư và rung lên từng đợt mãi đến buồn nôn lên mới thôi.

- Suy nghĩ như vậy có ra tiền không? - Mãi hồi lâu chị mới nói ra được mấy tiếng.

- Không giày không dép thì đi dạy thế quái nào được. Mà tôi cũng nhổ toẹt vào!

- Ấy xin cậu, muốn uống nước giếng thì đừng có nhổ toẹt xuống giếng![1]

- Dạy học họ trả cho được mấy đồng tiền đồng. Ăn thua gì mà dạy? - Chàng khó chịu càu nhàu nói tiếp như đang đáp lại những ý nghĩ của chính mình.

- Thế cậu muốn một lúc hốt ngay được cả một vốn liếng đấy hẳn?

Raxcolnicov nhìn chị một cách khác thường.

- Đúng, cả một vốn liếng. - Chàng nói sau một lát im lặng, giọng rắn rỏi.

- Này, từ từ chứ, cậu làm tôi sợ quá, trông cậu đến khiếp. Có phải đi mua bánh nữa không?

- Tùy chị!

- À này, thế mà tôi quên mất! Cậu có một lá thư đến hôm qua khi cậu đi vắng.

- Thư à? Của tôi? Ai gửi?

- Ai gửi thì tôi biết đâu đấy! Tôi phải trả cho người đưa thư ba cô-pếch! Cậu hoàn lại tôi chứ?

- Chóng lên, đem đây, tôi van chị. Đem đây! - Raxcolnicov xúc động quát lên. - Trời ơi!

Một lát sau, bức thư được mang đến. Đúng rồi, thư của mẹ chàng, từ quận R., gửi đến. Chàng cầm bức thư, mặt tái mét: Đã từ lâu, chàng không nhận được thư mẹ, nhưng lúc ấy còn có cái gì khác nữa bỗng nhói lên trong tim chàng.

- Thôi, ra đi, Naxtaxia tôi van chị, đây ba cô-pếch của chị đấy, nhưng tôi xin chị, chị ra chóng lên.

Lá thư run lẩy bẩy trong tay chàng, chàng không muốn bóc thư trước mặt người ở, chàng muốn một mình diện đối diện với lá thư này. Naxtaxia vừa ra khỏi, chàng đưa ngay lá thư lên môi hôn; rồi ngắm nhìn hồi lâu những nét chữ đề địa chỉ trên phong bì, nét chữ quen thuộc, thân yêu, thanh thanh và hơi nghiêng của mẹ chàng, người xưa kia đã dạy cho chàng biết viết. Chàng chần chừ chưa bóc vội, như còn lo ngại điều gì.

Nhưng rồi cuối cùng chàng cũng bóc thư ra. Lá thư dày, xếp làm hai tập, hai tờ giấy lớn chi chít những chữ nhỏ lăn tăn.

"Rodia yêu quý - mẹ chàng viết - thế là đã hơn hai tháng rồi, mẹ không nói chuyện gì với con qua thư từ, điều đó chính mẹ cũng khổ tâm, nhiều đêm thao thức không ngủ được. Nhưng chắc con cũng không trách mẹ về sự vắng bặt tin tức bất đắc dĩ đó. Con cũng biết mẹ thương con đến ngần nào. Mẹ với Dunia chỉ còn có con nữa mà thôi, con là tất cả, con là niềm hy vọng, là hoài bão của mẹ, của em. Con có biết chăng tâm trạng của mẹ khi nghe tin con đã bỏ học cách đây mấy tháng vì thiếu tiền, rồi con lại thôi dạy học và thôi các việc khác nữa. Với số lương quả phụ một trăm hai mươi rúp hàng năm của mẹ, mẹ biết làm thế nào mà chu cấp cho con được? Con cũng biết là món tiền mười lăm rúp mẹ gửi cho con cách đây bốn tháng cũng phải giật tạm của bác Vaxili Ivanovich Vakhrusin, người vẫn bán hàng cho nhà ta, trừ vào khoản lương ấy. Bác ấy là một người tốt, trước là bạn của bố. Nhưng mẹ phải để cho bác ấy lĩnh dần khoản phụ cấp thay mẹ để trừ cho hết nợ - và cũng đến nay mới vừa hết, - cho nên suốt thời gian gần đây mẹ không gửi tiền cho con được. Nhưng đến nay, nhờ ơn Chúa, có lẽ mẹ sẽ gửi cho con được một ít tiền; với lại, mẹ cũng nói ngay với con là chúng mình còn có thể vui mừng vì gặp vận may nữa kia đấy. Trước hết, Rodia yêu quý, con có đoán được không: Em con đã về sống với mẹ được tháng rưỡi nay rồi, và từ nay hai mẹ con sẽ không còn phải xa nhau nữa. Ơn Chúa, những nỗi đau khổ của em con đã qua, nhưng mẹ cũng muốn kể lại hết đầu đuôi câu chuyện để con hiểu rõ những điều mà cho đến nay mẹ và em vẫn phải giấu con. Cách đây hai tháng, khi nghe phong thanh Dunia bị gia đình Xvidrigailov ngược đãi, con đã biên thư xin mẹ nói rõ sự tình, nhưng mẹ biết trả lời thế nào được. Nếu hồi đó mẹ nói hết sự thật ra, chắc con sẽ bỏ hết công việc học hành để về nhà - dù phải đi bộ - vì mẹ cũng biết rõ tính cách và tình cảm của con: chắc chắn con sẽ không chịu để cho ai làm nhục em con. Chính mẹ dạo ấy cùng thật tuyệt vọng, nhưng biết làm thế nào? Với lại chính mẹ cũng chưa rõ hết sự thực. Gay nhất là năm ngoái, khi vào làm gia sư trong nhà Xvidrigailov, Dunia đã lĩnh trước một trăm rúp với điều kiện là sẽ trừ dần vào lương tháng; vì thế em con không thể bỏ việc trước khi thanh toán xong khoản nợ kia. Em con đã nhận số tiền đó, Rodia yêu quý bây giờ thì mẹ có thể nói rõ hết với con phần chính cũng là để có thể gửi cho con sáu mươi rúp mà năm ngoái con rất cần. Mẹ và em đã nói dối con rằng đó là tiền của Dunia dành dụm từ trước; nhưng không phải thế đâu - bây giờ mẹ có thể nói hết sự thật cho con nghe vì nhờ ơn Chúa, sự thể đã biến chuyển đột ngột rồi, nay đã khả quan hơn, với lại cũng để con thấy Dunia thương con biết ngần nào và để con hiểu rõ hơn tấm lòng vô giá của em con. Quả tình lúc đầu ông Xvidrigailov đã đối xử thô bạo với em con, ông ta lại còn vô lễ và nhạo báng em con trong bữa ăn... Nhưng thôi mẹ không muốn sa vào những chi tiết đáng buồn đó làm con bực mình vô ích, vì bây giờ mọi việc đều đã qua. Tóm lại, tuy bà Marfa Petrovna - vợ ông Xvidrigailov - và cả nhà bà ta đều tỏ ra nhân từ và cao thượng, nhưng cuộc sống trong gia đình ấy đối với em Dunia cũng thật gay go: nhất là khi ông Xvidrigailov - quen cái thói cũ hồi ông còn tại ngũ chịu sự khống chế của tửu thần.

Nhưng rồi sự thể xảy ra thế nào? Con thử tưởng tượng con người ngông cuồng ấy, ngoài thì tỏ ra thô bạo, khinh khỉnh với Dunia, nhưng trong lại đem lòng yêu trộm em con từ lâu. Có thể là ông ta hổ thẹn và kinh hoảng khi thấy mình đã có tuổi, lại làm chủ một gia đình, mà lại sa vào những mơ ước vẩn vơ như vậy, nên ông ta bất giác đâm ra cáu gắt giận dữ với Dunia. Cũng có thể ông ta lấy cái thái độ thô lỗ và nhạo báng của ông để che mắt thế gian. Nhưng cuối cùng, cầm lòng không đặng, ông ta đã dám thổ lộ với Dunia những lời đề nghị bỉ ổi và trắng trợn, hứa hẹn đủ điều, thậm chí lại còn rủ em con bỏ việc trốn với ông ta sang ở làng khác hoặc ra nước ngoài. Chắc con cũng tưởng tượng được em con như thế nào. Bỏ việc ra về ngay thì không xong, không phải chỉ vì món nợ, mà còn vì muốn tránh gây phiền muộn cho bà Marfa Petrovna: ra đi như vậy sẽ làm cho bà ta sinh nghi, do đó có thể gieo mối bất hòa trong gia đình người ta. Vả lại chính Dunia cũng sẽ không sao tránh khỏi tai tiếng, làm như thế thật không ổn. Lại thêm những lý do này nọ giữ chân Dunia lại thành thử em con không trông mong gì ra khỏi cái nhà ghê tởm đó trước sáu tuần lễ. Con chắc cũng đã biết rõ em con thông minh và cương nghị như thế nào: Dunia rất giỏi chịu đựng, và trong những hoàn cảnh gay go nhất, em con cũng có đủ nghị lực để đứng vững. Để mẹ khỏi lo lắng, Dunia cũng không cho mẹ biết một tí gì về chuyện đó cả, tuy hai mẹ con vẫn thường trao đổi thư từ với nhau. Nhưng câu chuyện kết cục thật không ngờ. Một hôm, bà Marfa Petrovna tình cờ bắt gặp chồng bà đang khẩn khoản van nài Dunia ở trong vườn, thế là bà ta hiểu lầm và quy tội tất cả cho Dunia, cho rằng đầu đuôi tại em con gây ra hết. Thế là một cảnh khủng khiếp đã diễn ra trong vườn giữa ba người; bà Marfa Petrovna, không còn muốn nghe phải trái gì nữa, đã dám đánh Dunia và lăng mạ em con suốt một tiếng đồng hồ, rồi cuối cùng ra lệnh cho người nhà vơ vén đồ đạc quần áo của Dunia vứt bừa lên xe và đưa em con về trả mẹ ở phố. Lúc ấy trời đổ trận mưa rào, thế là Dunia nhục nhã, ê chề phải đi mười bảy verxta trên một chiếc xe ngựa chở hàng không mui với một lão mu-gíc. Đấy, bây giờ con thử nghĩ mà xem, làm sao mẹ có thể trả lời được thư con cách đây hai tháng? Mẹ còn biết trả lời thế nào được? Mẹ thật là tuyệt vọng; kể cho con nghe câu chuyện đó thì mẹ không dám, vì con sẽ khổ sở, buồn phiền và phẫn uất! Mà nói cho cùng, con cũng biết làm thế nào được? Không khéo quẫn trí lại làm điều gì liều lĩnh thì khốn to! Vả lại Dunia cũng cấm mẹ nói; còn như viết thư cho con mà chỉ nói toàn những chuyện vớ vẩn đâu đâu trong khi sầu não trĩu nặng trong lòng thì mẹ không tài nào viết được. Ròng rã một tháng trời trong khắp thành phố người ta cứ đem chuyện này ra kháo nhau, đến nỗi hai mẹ con không thể đi lễ nhà thờ được nữa, vì đến đâu người ta cũng xì xào bàn tán, nhìn ngó mình một cách khinh bỉ, thậm chí lại còn nói to những lời chê bai dè bỉu ngay trước mặt hai mẹ con. Bạn bè quen biết đều ngoảnh mặt đi, không ai thèm chào hai mẹ con nữa, mẹ lại biết chắc rằng những tay đi chào hàng của các hiệu buôn và một vài viên chức còn muốn làm nhục hai mẹ con một cách bỉ ổi hơn nữa: Họ bôi nhựa đường be bét trước cổng nhà, làm ông chủ nhà phải yêu cầu hai mẹ con dọn đi ở chỗ khác. Tất cả những chuyện đó đều do bàn tay của bà Marfa Petrovna gây ra cả; bà ta đã có đủ thì giờ đi đến từng nhà trong phố để vu cáo bôi nhọ Dunia. Ở phố này ai bà cũng quen, mà suốt trong tháng ấy bà ta lại hay ra phố, tính bà ta lại hay chuyện và thích kể lể về việc nhà, nhất là gặp ai cũng than phiền về ông chồng, thật là một thói rất xấu; thế là chỉ trong một thời gian rất ngắn, bà ta đã tung câu chuyện này ra không phải chỉ trong phố mà còn khắp cả huyện nữa. Mẹ sinh ốm; Dunia vốn cứng rắn hơn mẹ. Nếu con biết em con đã chịu đựng tất cả những cảnh đó như thế nào! Lại còn an ủi khích lệ mẹ nữa. Thật là một vị thiên thần! Nhưng, nhờ lượng Chúa bao dung, nỗi đau khổ của hai mẹ con đã chấm dứt. Ông Xvidrigailov ăn năn nghĩ lại, và chắc là thương tình Dunia, ông ta đã đưa ra trước bà Marfa Petrovna một chứng cớ đầy đủ tỏ ra lòng ngay thật của Dunia: Đó là bức thư mà Dunia đã buộc lòng phải viết cho ông ta, từ trước khi bà Marfa Petrovna bắt gặp hai người ngoài vườn, để cự tuyệt những cuộc bày tỏ riêng tư và những cuộc hẹn hò lén lút mà ông ta cứ van nài; lá thư đó vẫn ở trong tay ông Xvidrigailov sau khi Dunia ra khỏi nhà. Trong thư, Dunia đã giận dữ, kịch liệt trách cứ thái độ cư xử hèn hạ của ông ta đối với bà Marfa Petrovna. Dunia đã nêu rõ cương vị chủ gia đình của ông ta và cuối cùng vạch cho ông ta thấy rõ mình bỉ ổi đê tiện đến nhường nào khi giày vò hành hạ một thiếu nữ vốn đã nghèo khổ và không nơi nương tựa. Tóm lại, Rodia yêu quý, lời lẽ trong thư cao thượng và cảm động đến nỗi khi đọc mẹ đã phải phát khóc và mãi cho đến bây giờ, mỗi khi đọc lại, mẹ cũng không sao cầm được nước mắt. Hơn nữa, để minh oan cho Dunia, những người tôi tớ nhà Xvidrigailov đã đưa thêm bằng chứng tỏ ra họ còn thấy và biết nhiều hơn là ông Xvidrigailov tưởng - xưa nay vẫn thường như vậy. Bà Marfa Petrovna kinh hoàng rụng rời và lại "bị một đòn trí mạng nữa" bà ta nói thế - nhưng mặt khác bà không còn nghi ngờ chút gì về lòng ngay thật của Dunia, và ngay ngày hôm sau, hôm chủ nhật, bà ta đến thẳng nhà thờ, quỳ xuống khóc lóc cầu xin Đức Mẹ ban cho nghị lực để chịu đựng cơn thử thách mới và làm tròn bổn phận. Ở nhà thờ ra, bà đi thẳng một mạch đến gặp mẹ và em, không ghé vào nhà ai cả; bà ta kể hết sự tình, khóc lóc thảm thiết và chân thành hối hận ôm hôn Dunia, van xin em con tha lỗi cho bà. Ngay sáng hôm ấy, từ nhà ta ra, bà không chần chừ đi khắp những nơi quen biết trong thành và ngoại thành, hết lời ca ngợi tâm hồn thanh cao, tư cách đứng đắn của Dunia, vừa nói vừa khóc sướt mướt. Thế cũng chưa đủ, bà ta còn đem ra đọc cho mọi người nghe lá thư cửa Dunia viết cho ông Xvidrigailov lại còn cho sao ra nhiều bản nữa, theo mẹ làm thế cũng đã hơi quá. Như vậy bà ta phải dành ra mấy ngày liền để đi khắp các nơi quen biết không thì người này lại tị nạnh người kia, thành thử nhà nào cũng sắp sẵn từ trước đợi bà Marfa Petrovna đến; mọi người đều biết trước bà ta sẽ đọc bức thư bất hủ vào lúc nào, ở nhà nào, bèn tụ tập lại nghe, ngay cả những người đã được nghe nhiều lần trước sau ở nhà họ rồi ở nhà bạn bè cũng vậy. Ý mẹ thì làm như thế cũng thật quá đáng, nhưng tính bà Marfa Petrovna vốn thế. Dù sao, bà cũng đã hoàn toàn khôi phục được danh dự cho Dunia và câu chuyện bỉ ổi này được đổ cả vào đầu ông chồng, thủ phạm chính trong vụ này, một cách không sao xóa nhòa được nữa. Quả tình người ta đối xử với cái lão rồ dại ấy như vậy cũng quá khắc nghiệt, làm mẹ cũng có phần ái ngại cho lão. Thế rồi, có mấy gia đình lập tức mời Dunia đến dạy học cho con cái, nhưng em con đều từ chối. Nói chung mọi người bỗng nhiên đều tỏ lòng rất kính nể em con. Nhưng cái chính là tất cả những việc đó đã dọn đường cho sự kiện bất ngờ hiện nay có thể nói là đang xoay chuyển số phận chúng ta.

Rodia yêu quý, mẹ phải vội vàng báo cho con biết ngay là đã có người đi hỏi Dunia và em con đã nhận lời tuy công việc có tiến hành mà chưa có ý kiến của con, nhưng chắc con cũng không bất bình với mẹ và em bởi vì - nhìn qua sự việc con cũng sẽ thấy mẹ và em không thể nấn ná chờ đợi con trả lời được. Vả lại, con ở xa chắc khó có thể xét đoán công việc cho thật đúng đắn. Đầu đuôi như thế này, anh ấy nay đã lên đến chức tư vấn hội thẩm, tên là Piotr Petrovich Lujin và có họ hàng xa với bà Marfa Petrovna; chính bà ta đã đóng góp nhiều vào việc này. Đầu tiên anh ấy đã tỏ ý muốn làm quen với nhà ta, và đã được tiếp đãi chu đáo, đã dùng cà phê với nhà ta và ngay hôm sau có gửi lại một lá thư rất lễ độ ngỏ lời dạm hỏi, đề nghị nhà ta trả lời sớm và dứt khoát. Anh ấy là một người chí thú khá bận, nay đang có việc phải đi ngay Petersburg, thành thử mỗi phút đối với anh đều rất quý. Dĩ nhiên, lúc đầu mẹ và em đều sửng sốt vì câu chuyện xảy ra quá chóng vánh và đột ngột. Mẹ và em đã cùng nhau suy nghĩ và cân nhắc suốt cả ngày hôm ấy. Anh ta là người cẩn trọng và có địa vị chắc chắn, có chân ở hai nơi và cũng đã có một số vốn riêng. Quả tình anh ta cũng đã bốn mươi lăm tuổi rồi, nhưng bề ngoài trông vẫn dễ ưa và cũng còn có thể được cảm tình trong nữ giới; ngoài ra anh ta là một người rất chững chạc, đứng đắn, duy chỉ có hơi lầm lì và có vẻ khinh người. Nhưng có thể đó chỉ là cảm giác ban đầu thôi. Và, Rodia yêu quý ạ, mẹ cũng báo trước là khi con gặp anh ta ở Petersburg - chỉ nay mai thôi - con cũng đừng nhận xét anh ta vội vàng và nóng nảy quá, như tính của con xưa nay vẫn thế, nếu thoạt mới gặp con thấy anh ta có một điểm gì không hợp ý con, là mẹ cũng nói phòng xa thế thôi, chứ mẹ chắc thế nào anh ta cũng gây được thiện cảm của con. Với lại, phàm muốn hiểu ai, thì phải tiếp xúc với người ta một cách từ tốn và thận trọng mới khỏi sa vào những định kiến sai lầm mà sau này sẽ rất khó uốn nắn và tẩy bỏ. Vả chăng ít nhất cũng có nhiều dấu hiệu chứng tỏ Piotr Petrovich là một người rất đáng tôn trọng. Hôm đến nhà lần đầu, anh ta tự xưng là một người thiết thực, nhưng trên nhiều điểm cũng tán thành "những quan niệm của các thế hệ mới ở ta" - như anh ta nói - vả lại là kẻ thù của mọi định kiến. Anh ta còn nói nhiều nữa, bởi vì xem ra, anh ta cũng thích phô trương, và lại rất thích người khác nghe mình, nhưng đó cũng không hẳn là một thói xấu. Dĩ nhiên, mẹ cũng không hiểu rõ những điều anh ta nói cho lắm, nhưng Dunia giải thích cho mẹ hiểu là anh ta tuy học vấn không cao nhưng lại thông minh và hình như cũng đôn hậu. Rodia, con cũng biết tính em con đấy. Nó là một đứa có nghị lực, có lương tri, kiên nhẫn và cao thượng, tuy tâm hồn vốn bồng bột, mẹ đã nghiệm thấy rõ như vậy. Đành rằng đây chẳng phải là chuyện yêu đương gì giữa hai người, về phía Dunia cũng như về phía anh ta; nhưng Dunia vốn là một đứa con gái thông minh, cao thượng như một vị thiên thần, tự xác định cho mình bổn phận đem lại hạnh phúc cho chồng nên về phía anh ta, anh ta cũng quan tâm săn sóc đến hạnh phúc của vợ, mà điều đó thì hiện nay mẹ và em hầu như không có lý do gì để nghi ngờ cả, tuy cũng phải thừa nhận là câu chuyện ngã ngũ hơi nhanh chóng. Với lại: Anh ta vốn là người căn cơ chín chắn cũng phải hiểu rằng Dunia sống càng có hạnh phúc bên mình thì hạnh phúc làm chồng của mình lại càng thêm vững chắc. Còn nói đến một vài điểm chênh lệch trong tính tình, trong những thói quen riêng tây và cả đến một đôi chỗ bất đồng về tư tưởng điều mà ngay cả trong những cuộc hôn nhân tâm đầu ý hợp nhất cũng không tránh khỏi thì Dunia nói với mẹ là sẽ tự nó điều hòa được, không có gì đáng lo ngại cả, nó sẽ có thể chịu đựng được nhiều, quý hồ những mối quan hệ giữa hai người sau này sẽ trung thực và công bằng.

Hình thức bên ngoài thường hay lừa người ta thật. Như anh ấy chẳng hạn, lúc đầu mẹ trông cũng hơi cộc cằn, nhưng cái đó có thể chính là do tâm hồn thẳng thắn cương trực của anh ta; chắc chắn là như vậy. Như hôm anh ấy đến thăm nhà ta lần thứ hai chẳng hạn, sau khi lời cầu hôn của anh ta được chấp nhận, trong câu chuyện anh ta có nói rằng ngay từ trước khi quen biết Dunia, anh ta đã có ý định sẽ cưới một cô vợ thật thà lương thiện, nhưng không có của hồi môn, và nhất định phải là người đã từng chịu cảnh khốn cùng; vì anh ta nói: Người chồng không được nhờ cậy chút gì của vợ, mà tốt hơn nhiều là người vợ nên coi chồng như ân nhân của mình. Mẹ cũng cần nói thêm là anh ta nói năng dịu dàng và dễ nghe hơn chứ không như mẹ viết đâu vì mẹ cũng quên những lời cụ thể anh ấy dùng rồi, mà chỉ nhớ cái ý thôi; với lại anh ta cũng không có ý định nói cạnh nói khóe gì, chẳng qua chỉ buột miệng lỡ lời trong khi đang mải say sưa với câu chuyện, nên sau đó anh ta cũng cố ý sửa chữa và nói khéo lại; nhưng dù sao mẹ cũng thấy thế là hơi cục cằn, về sau mẹ có nói lại với Dunia như vậy. Nhưng Dunia lại bực mình trả lời rằng "lời nói chưa phải là hành động", cái đó thì tất nhiên là đúng. Trước khi quyết định, Dunia đã thức thâu đêm; tưởng là mẹ đã ngủ, em con dậy, đi đi lại lại hàng giờ trong buồng, cuối cùng em con quỳ trước hình Đức Mẹ thành tâm cầu nguyện mãi; đến sáng hôm sau, em con nói với mẹ là đã quyết định dứt khoát.

Mẹ đã nói với con là Piotr Petrovich sắp đi Petersburg vì có nhiều việc cần, anh ta có ý định mở một phòng bào chữa ở trên ấy. Anh ta làm nghề trạng sư đã lâu năm và mới đây vừa thắng một vụ kiện quan trọng. Lần này anh ta đi Petersburg vì có một việc quan trọng phải đến Viện Nguyên lão. Cho nên, Rodia yêu quý, anh ta có thể giúp con được khá nhiều đấy, có thể giúp về mọi phương diện nữa là khác; Dunia và mẹ đều nghĩ rằng từ nay con đã có thể bắt đầu xây dựng sự nghiệp sau này và có thể coi như tương lai của con đã được xác định rõ ràng. Ôi! Ước gì việc ấy sẽ được thực hiện! Được như vậy thì quả không thể nào nói khác hơn đó là một ân sủng mà Thượng đế toàn năng đã trực tiếp ban cho nhà ta. Dunia chỉ ước mơ như vậy.

Mẹ và em cũng đã đánh bạo nói xa gần với Piotr Petrovich về vấn đề ấy. Anh ta trả lời một cách thận trọng, nói rằng lẽ tất nhiên anh ta cũng không thể thiếu được một người thư ký, cho nên thà tốn tiền thù lao cho một người nhà còn hơn là cho một người dưng, cốt là ai đó phải có khả năng làm tròn phận sự, làm như con không có khả năng ấy nhưng ngay sau đó anh ta lại tỏ ý lo ngại là con sẽ bận học mà không có đủ thì giờ để làm việc với anh ta, lần này câu chuyện mới chỉ đến đây, nhưng ngoài việc này ra, bây giờ Dunia không còn nghĩ đến việc gì khác nữa. Từ mấy hôm nay rồi, nó háo hức xây dựng cả một viễn cảnh tương lai về con, nó nghĩ con rồi sẽ có thể trở thành người giúp việc, hơn nữa, người cộng tác của Piotr Petrovich trong công việc tư pháp huống hồ con lại là sinh viên trường luật nữa. Còn mẹ, Rodia yêu quý, mẹ cũng hoàn toàn đồng ý với Dunia và cũng chia sẻ những dự kiến, những hy vọng của em con, rất tin là có thể thực hiện được. Tuy gần đây Piotr Petrovich có ý tránh nói việc này điều đó cũng dễ hiểu thôi, vì anh ta chưa quen con nhưng Dunia vẫn tin chắc rằng nó có thể dùng ảnh hưởng tốt của nó đối với người chồng tương lai mà thực hiện một điều mong muốn; em con tin chắc như vậy - tất nhiên, trước mặt Piotr Petrovich, mẹ và em đều tuyệt đối không bao giờ để hở cho anh ta biết những ước mơ đó, nhất là chuyện sau này con sẽ trở thành người cộng tác với anh ta. Anh ta là một người thiết thực, có thể anh ta sẽ nghe những chuyện đó một cách lãnh đạm vì tất cả những chuyện đó đối với anh ta chỉ là những mơ ước viển vông mà thôi. Mẹ cũng như Dunia chưa hề hở câu nào tỏ ra hy vọng anh ta sẽ giúp mẹ và em con cấp tiền cho con theo học hết đại học. Sở dĩ mẹ và em chưa nói đến trước hết là vì việc ấy rồi tất nhiên sẽ đến và chắc chắn - không cần nhiều lời vô ích - anh ta sẽ tự nguyện giúp con, chả nhẽ anh ta lại từ chối Dunia điều này nhất là vì rồi đây, con sẽ có thể trở thành cánh tay phải của anh ta, và tiền anh ta cấp cho con sẽ không phải là một ân huệ gì, mà chỉ là một cách trả công xứng đáng với việc làm của con. Dunia muốn thu xếp như vậy, mẹ cũng hoàn toàn đồng ý với em. Sau nữa, mẹ và em không nói chuyện đó với anh ta vì mẹ muốn rằng trong cuộc gặp gỡ nay mai, anh ta cũng phải đối xử với con như người ngang hàng. Khi Dunia hân hoan nói đến con, anh ta đã trả lời là muốn xét đoán người nào thì phải chính tận mắt trông thấy người đó, và anh ta tự dành cho mình cái quyền xây dựng một ý niệm về con sau khi đã gặp con tận mặt.

Rodia rất yêu quý của mẹ, vì một vài lý do (cũng không có gì dính dáng đến Piotr Petrovich, mà chỉ là những lý do hoàn toàn riêng tư, có lẽ chỉ là chuyện lẩm cẩm của bà già thôi), mẹ thấy rằng cưới xin xong, có lẽ mẹ cứ ở riêng như bây giờ hay hơn, chứ không về ở với hai vợ chồng. Mẹ tin chắc rằng anh ta, vốn là người cao thượng và tế nhị, thế nào cũng mời mẹ về ở để khỏi xa con gái, và sở dĩ đến bây giờ anh ta chưa nói chính cũng vì dù không nói ra thì đó cũng đã là việc tất nhiên rồi; nhưng mẹ sẽ từ chối. Trong cuộc sống mẹ đã từng nghiệm thấy rằng chàng rể thường không ưa gì mẹ vợ. Không những mẹ không muốn làm phiền ai một chút nào, mà hơn nữa mẹ cũng muốn sống hoàn toàn tự lập, quý hồ đủ ăn và có những đứa con yêu quý như con và Dunia. Nếu có thể, mẹ ở một chỗ nào gần cả hai con. Rodia yêu quý ạ, mẹ đã dành tin đáng mừng nhất để viết vào cuối bức thư này: Có lẽ chỉ nay mai, ba mẹ con ta sẽ lại được sum họp và sẽ được ôm hôn nhau sau ba năm xa cách. Mẹ và Dunia đã quyết định dứt khoát là sẽ đến Petersburg, cụ thể ngày nào thì mẹ chưa rõ, nhưng dù sao cũng rất gần, rất gần đây thôi, cũng có thể chỉ một tuần lễ nữa. Mọi việc còn tùy ở cách xếp đặt của Piotr Petrovich; hễ tạm ổn định được ở trên đó anh ta sẽ báo tin ngay cho mẹ và em. Vì một vài lý do nào đó, anh ta định tổ chức lễ thành hôn càng sớm càng tốt và nếu có điều kiện sẽ tiến hành trong cữ ăn mặn này, nhược bằng không được, vì thời gian cấp bách quá, thì sẽ tổ chức ngay sau ngày lễ Đức Mẹ lên trời. Ôi, sung sướng biết bao, khi mẹ sẽ được ôm chặt con vào lòng! Dunia mừng cuống lên vì sắp được gặp con, em đã có lần nói đùa là chỉ riêng có thế thôi, cũng đủ khiến cho nó thuận lòng lấy Piotr Petrovich rồi. Thật là một vị thiên thần. Nó không viết gì thêm vào lá thư này, nhưng nó nhắc mẹ viết cho con là nó có nhiều, rất nhiều chuyện muốn nói, nhiều đến nỗi không thể dùng bút thay lời, vì chỉ một vài dòng chữ thì không nói được gì cả, chỉ thêm bực mình thôi; nó ủy cho mẹ ôm con thật chặt và gửi con ngàn vạn cái hôn. Tuy mẹ con ta sắp được sum họp, nhưng ít hôm nữa còn được bao nhiêu tiền, mẹ cũng sẽ cứ gửi cho con. Từ khi mọi người biết Dunia sẽ kết hôn cùng Piotr Petrovich, tín dụng của mẹ bỗng nhiên tăng lên. Mẹ biết chắc là bác Afanaxi Ivanovich sẽ thuận cho mẹ vay trước - rồi trừ vào khoản phụ cấp - đến bảy mươi nhăm rúp, và thế là mẹ sẽ gửi cho con được hai mươi lăm, hoặc ba mươi rúp nữa là khác: Mẹ có thể gửi cho con nhiều hơn nhưng cũng còn phải lo tiền đi đường, tuy Piotr Petrovich đã có nhã ý chịu một phần phí tổn, cụ thể là anh ta đề nghị để anh chuyển hành lý và cái hòm to của hai mẹ con (hình như anh ấy nhờ người quen tải hộ thế nào đấy), nhưng còn vé tàu, rồi chân ướt chân ráo mới đến Petersburg, mẹ và em không thể không có đồng xu nào trong túi được. Với lại, Dunia và mẹ đã tính toán kĩ từng ly từng tí, thấy rằng cuộc hành trình không tốn lắm đâu. Từ nhà ra ga xe lửa chỉ có chín mươi verxta: Hai mẹ con đã thương lượng để cùng đi với một bác nông dân đánh xe ngựa, và từ đó, hai mẹ con sẽ lên tàu đi hạng ba. Cho nên mẹ có lẽ sẽ gửi cho con không phải hai mươi lăm, mà ba mươi rúp. Nhưng thôi, mẹ viết cũng đã tạm đủ: hai tờ giấy đặc rồi, mà cũng vừa hết giấy; cả một câu chuyện dài, bao nhiêu là sự việc chồng chất! Bây giờ, Rodia rất yêu quý, mẹ ôm hôn con, chờ đợi ngày sum họp sắp đến và cầu Chúa ban phước cho con. Con hãy yêu thương lấy Dunia, em con, hãy yêu thương nó như nó vẫn yêu thương con. Con hãy nhớ là em con yêu con vô cùng, yêu hơn cả bản thân mình. Em con là một vị thiên thần, còn con, Rodia, con là tất cả, là tất cả niềm hy vọng của mẹ và em. Miễn sao con sung sướng là mẹ và em cũng được sung sướng rồi. Rodia ạ, con có còn cầu nguyện Chúa như trước không, con còn lòng tin vào tình bác ái của Chúa Cứu thế và Tạo thế nữa không? Trong thâm tâm, mẹ cứ sợ những tư tưởng vô đạo, hiện nay rất thịnh hành, đã xâm nhập vào tâm hồn con. Nếu quả vậy con hãy nhớ như hồi còn thơ ấu, hồi bố con còn sống, con ngồi trên lòng mẹ bập bẹ những lời cầu nguyện; dạo ấy, chúng ta thật sung sướng biết bao nhiêu!

Thôi từ biệt con nhé, tạm biệt thì đúng hơn. Ôm con thật chặt và gửi con nghìn vạn cái hôn.

Trọn đời yêu con,

Pulkheria Raxcolnicova".

Ngay từ khi Raxcolnicov mới giở thư ra đọc và cũng như gần suốt thời gian đọc thư, nước mắt cứ tuôn đầm đìa trên má chàng. Nhưng đọc xong, mặt chàng tái mét, run giật lên, một nụ cười gượng gạo, cay đắng, hằn học in lên đôi môi mếu xệch của chàng. Nằm ngả đầu lên chiếc gối lép kẹp, bẩn thỉu, chàng suy nghĩ hồi lâu. Tim chàng đập mạnh, những ý nghĩ rối loạn cứ quay cuồng trong đầu. Cuối cùng chàng cảm thấy ngột ngạt khó chịu trong căn buồng vắng chật chội của chàng như ngồi trong tủ hay trong hòm. Tầm mắt và ý nghĩ của chàng cần không gian thoáng rộng. Chàng vớ lấy mũ đi ra ngoài, lần này không sợ gặp ai ở cầu thang nữa: chàng đã quên khuấy việc đó. Chàng băng qua đại lộ V., hướng về phía đảo Vaxili, tưởng như có việc gì khẩn cấp đang chờ đợi chàng ở đó, nhưng theo thói quen, chàng cắm cúi đi, không chú ý gì dọc đường, mồm nói lẩm bẩm và thậm chí thỉnh thoảng lại nói to lên làm những người đi đường hết sức ngạc nhiên. Nhiều người tưởng chàng là một gã say rượu.

[1] Tục ngữ Nga.

CHƯƠNG 4

Lá thư của mẹ đã làm cho chàng vô cùng xúc động. Nhưng về điểm chủ yếu, điểm chính của bức thư thì ngay trong khi đọc, chàng cũng không còn mảy may nghi ngờ gì nữa. Về căn bản, vấn đề đã xem như được giải quyết, và giải quyết dứt khoát trong đầu chàng: "Mình mà còn sống thì nhất định cuộc hôn nhân này sẽ không thành, và ngài Lujin kia phải xéo!".

"Bởi vì sự việc đã quá hiển nhiên rồi". - Chàng làu bàu trong miệng, mỉm một nụ cười cay độc như thể đắc thắng trước với dự kiến của mình. - "Không đâu, mẹ ạ, không đâu, Dunia ạ, các bà không lừa được tôi đâu! Lại còn kiếm cách bào chữa về việc đã không hỏi ý kiến mình, đã quyết định công việc mà không có mình? Rõ khéo! Các bà tưởng thế là từ nay không có cách gì để cắt đứt được nữa đấy hẳn; được, để rồi mà xem có cách hay không có cách. Lý do bào chữa mới hay làm sao: Piotr Petrovich là một người bận rộn, bận rộn đến nỗi chỉ dùng được xe chở hàng để cưới vợ, chứ không có cách gì khác hơn, thiếu chút nữa đã cưới ngay trên xe lửa cũng nên. Không đâu. Dunia, anh thấy suốt, và cũng biết thừa cô định nói với anh những gì mà nhiều thế, anh biết cô đã nghĩ gì trong suốt cái đêm cô đi đi lại lại trong buồng, cô đã cầu nguyện những gì trước tượng Đức Mẹ Kazan trong buồng ngủ của mẹ. Trèo lên núi Golgotha[1] thì gay thật đấy em ạ! Hừm... Ra cô đã quyết định dứt khoát như thế đấy, cô Avdotia Romanovna ạ: Cô thuận lấy một con người có óc thực tế giàu lý trí, một người có vốn riêng nói là "đã" có vốn riêng rồi, cho nó chững chạc và oai vệ hơn, có hai nơi làm việc, chia sẻ quan niệm của các thế hệ mới ở ta như mẹ mình viết và "hình như" cũng đôn hậu, như bản thân Dunia nhận xét. Cái "hình như" nghe mới tuyệt chứ! Mà chính Dunia lại kết hôn với cái "hình như" đó? Tuyệt diệu! Thật là tuyệt diệu!".

... "Mà kể cũng kỳ, trong thư không biết tại sao bà cụ cứ ám chỉ đến những "thế hệ mới" làm gì nhỉ? Phải chăng chỉ là để xác định tính cách của anh chàng, hay có mục đích gì xa xôi hơn, gây thiện cảm của mình đối với Lujin chẳng hạn! Ô! Các bà thật ranh mãnh! Cũng cần phải làm sáng tỏ một điều này nữa: không biết hai bà đã cởi mở với nhau đến mức độ nào trong suốt ngày đêm hôm ấy và suốt cả thời gian sau. Các bà ấy đã nói với nhau tất cả "những lời lẽ" cần nói rồi hay sao, hay họ đã hiểu rằng họ cùng có một tâm tư như nhau, đến nỗi không còn gì cần phải nói nữa và mọi lời lẽ đều thừa. Có thể như vậy một phần, cứ đọc thư cũng biết, là cụ thấy anh chàng hình như hơi cục cằn, "hơi" một chút thôi, thế là bà cụ thật thà hạ lời nhận xét với Dunia. Lẽ dĩ nhiên cô nàng phật ý, và trả lời có vẻ "bực mình". Cũng phải? Ai mà không tức giận khi câu chuyện chẳng cần đến những câu hỏi ngây thơ như vậy, cũng đã dễ hiểu quá rồi, khi đã quyết định rằng không có gì phải nói nữa! Mà sao bà cụ lại còn viết cho mình là: Hãy yêu lấy Dunia, Rodia ạ, vì em đã yêu con hơn cả bản thân mình. Phải chăng đó là lương tâm cắn rứt khiến bà cụ ân hận vì đã đành tâm hy sinh con gái mình cho con trai? Con là niềm hy vọng của mẹ và em, con là tất cả! Ô! Bà cụ thật..." Nỗi tức giận mỗi lúc một sôi sục trong lòng chàng, và giá lúc ấy gặp Lujin có lẽ chàng sẽ giết hắn.

"Hừ đúng thế." - Chàng lẩm bẩm nói tiếp, miên man với những ý nghĩ quay cuồng trong óc - "đúng là "phải từ tốn và thận trọng mới biết rõ được" nhưng ông Lujin thì rõ quá rồi! Trước hết ông ta là "một người trí thức" và "hình như cũng đôn hậu đấy", có phải chuyện đùa đâu! Ông ta tự đảm nhiệm mọi khoản phí tổn chuyên chở một cái rương lớn. Thế mà còn chưa tốt ư? Còn hai bà, "vị hôn thê" và bà mẹ, thì thuê một lão mu-gíc với một chiếc xe chở hàng lợp chiếu (hồi ở quê ta cũng đã từng đi như thế rồi). Có hề gì đâu? Chỉ có chín mươi verxta thôi mà, và từ đó "hai mẹ con có thể yên chí lên tàu đi hạng ba" khoảng một nghìn verxta nữa. Cũng biết điều đấy chứ: có sao xào vậy! Nhưng còn ông, thưa ông Lujin, ông nghĩ sao? Dù sao đó cũng là vợ chưa cưới của ông kia mà? Và ông cũng biết thừa là bà mẹ phải vay trước lương quả phụ của mình để lấy tiền chi phí vào cuộc hành trình đó kia mà! Rõ ràng ông coi việc này như một cuộc kinh doanh, một chuyến buôn chung trong đó hai bên đều có lợi và mỗi bên phải đóng một cổ phần ngang nhau, thế thì chi phí cũng phải chia đều; bánh và muối thì chung, nhưng thuốc lá thì riêng, như trong câu tục ngữ. Vả chăng trong chuyến này, nhà kinh doanh cũng đã ăn bớt của các bà được ít nhiều rồi: Tiền chuyên chở hành lý rẻ hơn lộ phí tàu xe, mà có thể ông cũng không mất xu nào về khoản này nữa! Các bà không thấy ra, hay họ cố tình làm ngơ. Vì xem ra cả hai bà đều tỏ ý hài lòng, hài lòng lắm. Mà đó chỉ mới là hoa đầu mùa thôi đấy, còn những quả chín sau này nữa kia! Ở đây điều quan trọng hơn hết không phải là sự bủn xỉn, tính hám lợi mà chính là cái giọng điệu. Đó cũng sẽ là cái giọng điệu sau này khi đã hoàn thành việc cưới xin: Đó là một lời sấm truyền! Mà sao bà cụ lại nảy ra những ý định chơi ngông như vậy được nhỉ? Có được bao nhiêu tiền mà dám đi Petersburg. Trong túi chỉ có ba rúp hay chỉ có "hai tờ" như... mụ già kia nói... Hừm... Rồi bà cụ trông mong vào cái gì mà sinh sống ở Petersburg. Vì qua một vài triệu chứng nào đó, bà cụ cũng đã đoán là cưới xin xong cụ sẽ không thể sống chung với Dunia được dù chỉ trong thời gian đầu kia mà? Chắc là con người khả ái ấy đã lỡ lời để lộ tâm địa của hắn ra, tuy thế bà cụ vẫn cứ muốn dối mình, nói nhưng mà mẹ sẽ từ chối. Bà cụ còn chờ đợi cái gì, còn biết trông mong vào ai nữa kia chứ? Vào số một trăm hai mươi rúp tiền lương quả phụ hẳn? Nhưng lại còn phải khấu trừ vào khoản tạm vay của Afanaxi Ivanovich! Rồi từ hồi suốt mùa đông bà cụ sẽ cặm cụi ngồi đan khăn trùm, găng tay, chỉ tổ làm hỏng đôi mắt già thôi. Nhưng bà cụ biết thừa là những thứ khăn khiếc ấy cũng chỉ thêm được hai mươi rúp một năm là cùng. Thế nghĩa là cuối cùng hai bà vẫn trông mong vào tấm lòng hào hiệp của ông Lujin: Chính anh ấy sẽ yêu cầu mẹ nhận. Cụ cứ mà tin vào! Những tâm hồn cao thượng tuyệt vời theo kiểu Sinle thường vẫn hay thế đấy; đến phút cuối cùng, họ vẫn cứ thích cắm lông công vào mình quạ, họ chỉ trông mong vào cái tốt mà không nhìn thấy cái xấu, và tuy đã thấy trước mặt trái chiếc huân chương, họ không đời nào dám gọi đích danh ra. Chỉ nghĩ đến chuyện ấy thôi họ cũng đã quá khổ tâm rồi; họ dang cả hai tay ra bưng bít sự thật cho đến khi con người họ tô vẽ giở mặt hẳn hoi, họ mới chịu. À, không hiểu cái lão Lujin kia có được tấm huân chương huân chiếc nào không? Chắc hắn ta có huân chương Anna, và ta có thể cam đoan là khi nào đánh chén với những tay thầu khoán hay lái buôn, hắn ta vẫn trương tấm huân chương lên khuy áo. Chắc đến lễ cưới hắn cũng sẽ đeo. Mà thôi, kệ mẹ hắn?... Ừ thì thôi, về phần bà cụ thì xin Chúa phù hộ! Bà cụ vốn thế rồi không bàn đến nữa, nhưng còn Dunia? Dunia thân yêu của anh, anh biết rõ em lắm. Hồi ấy, khi gặp nhau lần cuối cùng, em đã hai mươi tuổi rồi còn gì? Anh đã hiểu được tính tình của em. Trong thư, bà cụ nói là Dunia có thể chịu đựng nhiều. Điều đó thì anh đã rõ. Anh đã biết rõ từ hai năm rưỡi nay, và từ hai năm rưỡi nay anh chỉ nghĩ đến điều đó. Chính thế, chỉ nghĩ đến việc "Dunia có thể chịu đựng nhiều". Dunia đã từng chịu được một tay như Xvidrigailov thì tất cả những hậu quả ê chề như vậy tất nhiên phải giỏi chịu đựng lắm. Và bây giờ Dunia và bà cụ lại tưởng tượng là cũng có thể chịu đựng được một ông Lujin, con người đã thuyết lý rằng nên lấy những người đàn bà bị lâm vào cảnh khốn cùng và phải chịu ơn chồng, mà lại thuyết lý ngay trong buổi gặp gỡ đầu tiên. Được, thôi cứ cho là hắn "lỡ lời" tuy hắn ta vốn là tay chủ lý (nghĩa là có thể hắn ta chẳng lỡ lời tí nào cả, mà chẳng qua chỉ vì muốn giãi bày cái tâm địa của hắn ra cho thật nhanh mà thôi). Nhưng còn Dunia thì sao? Nó biết thừa tâm địa thằng cha ấy, thế mà lại cam tâm sống với hắn? Nó thà ăn bánh mì đen, thà uống nước lã, chứ không đời nào chịu bán linh hồn. Nó không đời nào từ bỏ tự do tinh thần của nó để đổi lấy một sự tiện nghi nào, ngay để đổi lấy cả công quốc Slezwig - Holstein nó cũng không thèm, huống chi là lấy Lujin. Không, ta biết Dunia không phải thế và ngay cho đến nay nhất định em ta vẫn không thay đổi gì... Làm sao được? Ở nhà Xvidrigailov khổ lắm! Suốt đời, vì hai trăm rúp mà cứ phải lang thang hết huyện này huyện nọ làm nghề gia sư cùng khổ! Nhưng ta biết em ta thà chịu làm kiếp tôi mọi cho một tên chủ đồn điền, thà cam chịu số phận của một người Estonia dưới ách của người Đức Ostsee[2] còn hơn là để cho tâm hồn và tình cảm mình bị nhơ bẩn, hèn hạ đi - bằng cách suốt đời trao thân cho một con người mà nó không hề kính trọng, không hề có chút thiện cảm, chỉ vì lợi ích riêng của bản thân. Và dù cho bản thân ông Lujin có là vàng thoi ngọc tảng đi chăng nữa thì cũng không bao giờ em ta chịu làm nàng hầu hợp pháp của hắn. Thế thì tại sao bây giờ lại chịu? Vì cái lẽ bí ẩn gì thế? Điều bí quyết ở đâu? Vấn đề đã quá rõ: Nếu vì bản thân mình, vì muốn yên ấm cho cá nhân mình hay để cứu sống cả tính mạng mình nữa, nhất định em ta sẽ không bán mình, nhưng nếu vì một người khác, đúng thế, em ta sẽ bán mình. Vì hạnh phúc của một người thân yêu quý, em ta sẽ bán mình. Đấy, tất cả mọi điều bí ẩn chính là ở đấy: Nó bán mình vì hạnh phúc của anh, của mẹ. Bán tất! Ồ! Khi cần, chúng ta phải biết nén ngay cả tính tự trọng lại. Rồi nào là tự do, yên hàn, cả đến lương tâm nữa, tất, tất cả đều đem ra chợ tầm tầm hết. Cuộc đời ta cứ việc mà đi tong! Miễn sao những người thân thích của ta được sung sướng! Mà đã hết đâu. Rồi ta tự sáng lập ra một khoa quỷ biện riêng, ta sẽ học hỏi các giáo sĩ dòng Tên[3] và có lẽ ta sẽ được yên lòng trong một thời gian, ta sẽ tự thuyết phục là sự thể phải thế, ắt phải thế mới thực hiện được mục đích tốt đẹp kia. Chúng ta đang ở trong tình thế như vậy đó, vấn đề đã sáng rõ như ban ngày. Chính Rodion Romanovich Raxcolnicov chứ chẳng còn ai khác vào đây nữa, chính hắn là nhân vật chủ yếu trong câu chuyện này. Còn gì nữa? Phải đảm bảo nào là hạnh phúc nào là tiền đồ cho hắn, chu cấp cho hắn học đến đại học, xoay cho hắn một chân cộng tác viên trong một phòng giấy trạng sư, rồi hắn sẽ trở nên giàu có, hiển hách, sẽ được mọi người kính trọng, và có lẽ rốt đời lại còn nổi tiếng nữa là khác? Còn bà mẹ? Thì đã có Rodia, thằng Rodia yêu quý đứa con đầu lòng, đứa con nuông chiều của bà đấy thôi. Và lẽ nào lại không hy sinh ngay cả đứa con gái như thế kia cho thằng con trai đầu lòng yêu quý này được. Ôi! Những tấm lòng thân yêu và bất công của tôi ơi! Còn sau nữa, dù có phải chịu nhận lấy số phận của Xonia ta chắc họ cũng chẳng từ kia mà, Xonia, Xonia Marmeladova, Xonia vĩnh hằng, hễ còn trời đất là Xonia vẫn còn mãi mãi. Xonia, Dunia, hai người đã lường hết được tầm lớn lao của sự hy sinh này chưa. Hy sinh như vậy có đúng không? Hai người đã lượng sức mình chưa, đã cân nhắc hơn thiệt chưa? Có hợp lý không? Dunia, em có thấy không, số phận của Xonia không hèn kém hơn tí nào so với số phận em phải chung sống với ông Lujin? Mẹ nói đây chẳng phải chuyện yêu đương gì. Thế thì sao, nếu không những không có tình yêu, mà cả lòng mến phục cũng không có nốt, trái lại chưa chi đã có sự khinh bỉ, ghê tởm, chán ghét thì thế nào? Lúc bấy giờ rồi cũng lại phải quan tâm "giữ gìn sự sạch sẽ" như Xonia chứ gì? Không phải thế sao? Em có hiểu không, em có hiểu rõ "cái thứ sạch sẽ" có nghĩa là thế nào không? Em có hiểu chăng cái sạch sẽ của một ông Lujin cũng hệt như cái sạch sẽ của Xonia thôi; có thể nó còn tệ hơn, hèn hạ hơn, bỉ ổi hơn nữa là đằng khác, vì với em dù sao đó cũng là một sự tính toán để sống cho thoải mái hơn, còn với Xonia thì tất cả chung quy chỉ cốt làm sao cho khỏi chết đói! "Thứ sạch sẽ" đó, Dunia ạ, "thứ sạch sẽ" đó đắt tiền lắm đấy! Rồi sau này, nếu không chịu đựng nổi nữa, em có ân hận không. Rồi nào là đau buồn tủi cực, nào là những lời nguyền rủa, những giọt nước mắt mà em phải âm thầm giấu giếm đi vì em có phải là bà Marfa Petrovna đâu. Còn mẹ, rồi mẹ sẽ ra sao? Bây giờ mà mẹ đã lo lắng khổ sở rồi thì sau này khi thấy rõ tất cả, mẹ sẽ như thế nào? Còn tôi?... Nhưng các người coi tôi là thứ người gì? Dunia... Anh không thể nhận hy sinh của em, mẹ ơi, con không muốn thế! Không được, tôi mà còn sống thì cuộc hôn nhân ấy nhất định không thành? Tôi không đời nào chịu thế!"

Raxcolnicov bỗng sực tỉnh và ngừng lẩm bẩm.

"Cuộc hôn nhân ấy nhất định sẽ không thành? Nhưng mày, mày làm được những gì để cho nó không thành? Mày cấm hẳn? Mày có quyền gì mà cấm? Về phía mày, mày có thể hứa hẹn gì với họ để có quyền cấm họ? Tất cả cuộc sống của mày ư, tất cả tương lai của mày ư, mày sẽ đem hiến dâng cho họ khi nào mày tốt nghiệp và tìm được việc làm chăng? Chuyện ấy nghe nhàm lắm rồi! Vả chăng đó là chuyện tương lai, chứ còn hiện tại thì thế nào? Vì trong trường hợp này phải làm một cái gì ngay từ bây giờ kia, hiểu chưa? Thế bây giờ mày làm gì nào? Mày sống bám vào mẹ và em, chứ còn gì nữa! Thì những món tiền ấy, mẹ và em mày đã phải xoay xở bằng cách vay vào số lương quả phụ hàng năm và lấy ở số tiền công của nhà Xvidrigailov đấy thôi? Mày có cách gì để cho họ đỡ khổ với bọn Xvidrigailov Afanaxi Ivanovich Vakhrusin, hỡi nhà triệu phú tương lai kia? Mày tưởng mày là một vị thần Zeus có thể xếp đặt số phận của họ đấy hẳn? Trong mười năm nữa ấy à? Nhưng mười năm nữa thì mẹ mày sẽ có đủ thì giờ, để lòa cả đôi mắt vì đan khăn, và có thể cũng vì khóc quá nhiều, mẹ mày sẽ héo hon đi vì nhịn đói, còn em mày? Thử nghĩ mà xem, sau mười năm nó sẽ ra sao, mà ngay trong mười năm ấy nữa, nó sẽ phải sống thế nào? Thế nào, mày đã đoán ra chưa?".

Chàng tự dằn vặt mình với những câu hỏi như vậy, trong lòng không khỏi có một cảm giác khoái lạc.

Vả chăng, đối với chàng, những câu hỏi ấy không có gì là mới mẻ đột ngột cả, đã cũ lắm rồi, đã được nghiền đi ngẫm lại chán đi rồi. Trước đây chàng đã bị nó quấy rầy, cắn rứt từ lâu lắm rồi. Nỗi u uất ấy đã nảy sinh, bành trướng, tích tụ lại trong lòng chàng, nhưng gần đây nó đã chín muồi và ùn ùn cô đặc lại thành một câu hỏi khủng khiếp, man rợ, quái đản, cứ giày vò trái tim và khối óc của chàng, tàn nhẫn thúc bách chàng giải đáp. Và giờ đây, bức thư của mẹ chàng bỗng giáng xuống chàng như một tiếng sét. Bây giờ quả không còn là lúc u sầu đau khổ một cách bị động, tự nhủ rằng mọi bài toán đều nan giải, bây giờ phải quyết định làm một việc gì đây, ngay tức khắc, càng sớm càng tốt. Bất nhược ra sao cũng phải quyết định một cái gì, hay là...

- "Hay từ bỏ hẳn cuộc sống!" - Chàng bỗng nổi xung gào to lên. - "Số phận ra sao cũng ngoan ngoãn nhận lấy vĩnh viễn bóp nghẹt tất cả trong ta, từ bỏ mọi quyền hành động, quyền sống, quyền yêu!"

"Ông có hiểu không, thưa ông, ông có hiểu không biết đi đâu nữa nghĩa là thế nào không?" - Chàng bất giác lặp lại câu hỏi của Marmeladov hôm qua. - "Vì phàm đã là người tất phải có một nơi nào để mà đi đến chứ!"

Chàng bỗng rùng mình, một ý nghĩ hiện lên trong óc chàng: vẫn ý nghĩ ấy, ý nghĩ hôm qua. Nhưng chàng rùng mình không phải vì ý nghĩ đó lại hiện ra. Chàng biết rõ, chàng "linh cảm" thấy thế nào nó cũng "sẽ hiện ra" và chàng đã đợi sẵn, vả chăng đây cũng chẳng phải là ý nghĩ hôm qua nữa. Có chỗ khác là một tháng trước đây và cả tối hôm qua cũng thế, nó chỉ mới là mộng tưởng, nhưng nay... nay nó không còn là mộng tưởng nữa, nó xuất hiện với một hình dạng mới, đầy vẻ hăm dọa, hoàn toàn xa lạ đối với chàng, và chàng bỗng nhận thức được, điều đó... Trong đầu chàng, máu dồn lên rần rật, mắt chàng hoa lên.

Chàng vội vã nhìn quanh, tìm một vật gì. Chàng muốn ngồi xuống, chàng tìm một cái ghế, lúc bấy giờ chàng đang đi trên đại lộ K... Cách đây chừng một trăm bước có một chiếc ghế dài. Chàng đi thật nhanh đến phía ấy, nhưng giữa đường một biến cố nhỏ đã xảy ra, thu hút hết sự chú ý của chàng trong vòng mấy phút.

Trong khi đưa mắt tìm ghế ngồi, chàng chợt trông thấy một người con gái đi trước mặt chàng, cách độ vài chục bước. Lúc đầu chàng không mảy may chú ý đến người kia, cũng như đối với mọi vật khác bây giờ vẫn loáng thoáng trước mặt chàng. Có nhiều lần, trên đường về nhà chẳng hạn, chàng quên bẵng cả những con đường vừa mới đi qua, và chàng cũng đã quen đi như thế.

Nhưng ở người con gái đang đi trước mặt kia có một cái gì kỳ lạ đập ngay vào mặt khiến chàng dần dần cứ phải chú ý đến cô ta hơn, lúc đầu còn miễn cưỡng và dường như bực mình nữa, nhưng rồi mỗi lúc một tập trung hơn. Chàng bỗng thấy lòng háo hức muốn biết cụ thể cái gì làm cho người con gái kia có vẻ kỳ lạ như vậy. Trước hết, trông cô ta chắc còn ít tuổi lắm. Trời nắng chang chang thế này mà cô ta đi đầu trần, không che ô, không đeo găng, tay đung đưa trông rất lố lăng. Cô ta mặc chiếc áo dài bằng hàng mỏng, mà ngay chiếc áo cũng vẫn xộc xệch lạ thường, cúc chỉ gài hờ, thân sau thì bị rách ở ngay dưới thắt lưng: cả một mảng áo bị xé toạc còn dính lủng lẳng. Một chiếc khăn trùm nhỏ tụt xuống cái cổ để trần, nhưng cũng xô lệch hẳn ra một bên. Hơn nữa, cô ta lại đi bước thấp bước cao, chân nam đá chân chiêu, thậm chí cả người còn ngả nghiêng đủ bốn phía nữa là khác. Cuộc gặp gỡ đó cuối cùng đã thức tỉnh hết sức chú ý của Raxcolnicov. Chàng bắt kịp người thiếu nữ vừa khi cô ta bước gần tới ghế; nhưng vừa đến nơi, cô ta cứ thế buông người rơi phịch xuống một đầu ghế, đầu ngả vào lưng tựa, và nhắm mắt lại, có lẽ vì đã mệt lả. Mới thoạt trông, chàng cũng biết ngay là cô ta đang say mềm. Cảnh tượng thật là kỳ lạ và quái gở. Thậm chí chàng đâm ngờ, không biết mình có trông nhầm không. Trước mặt chàng là một khuôn mặt thanh thanh, trẻ măng, có lẽ chỉ đến mười lăm, mười sáu tuổi là cùng, xung quanh lòa xòa mấy món tóc vàng, một khuôn mặt xinh xắn, nhưng lại đỏ bừng và trông như sưng phị. Cô thiếu nữ hình như chẳng còn biết gì nữa; cô ta ngồi vắt chéo chân một cách hớ hênh, cứ nhìn cũng biết cô ta hầu như không có ý thức là mình đang ở ngoài phố.

Raxcolnicov không ngồi xuống, cũng không muốn bỏ đi, mà cứ phân vân đứng yên trước mặt cô ta. Phố này xưa nay vẫn vắng; lúc ấy vào quãng hơn một giờ trưa, lại nắng như thế kia, nên hầu như không có ai qua đường. Thế nhưng, cách đây chừng mười lăm bước, cũng đã có một người đàn ông đang đứng trên vỉa hè, cứ nhìn qua cũng đủ biết là hắn ta đang muốn lại gần cô thiếu nữ với một ý định nào đó. Có thể hắn ta cũng đã thấy cô thiếu nữ từ xa và đi theo cô ta, nhưng vì có Raxcolnicov nên hắn còn ngần ngại. Hắn ném về phía chàng những cái nhìn hằn học, song cũng cố giấu không cho chàng thấy hắn nhìn như vậy và sốt ruột đợi cho người thanh niên rách rưới đáng ghét kia rút đi, nhường chỗ cho hắn. Tình thế thật đã rõ! Người đàn ông kia trạc ba mươi, dáng người phốp pháp đẫy đà, mặt mày hồng hào trắng trẻo, môi đỏ, mép lún phún tí ria, ăn mặc rất bảnh bao. Raxcolnicov tức giận đến cực độ, chàng chợt nảy ra ý tìm cách làm cho gã ăn diện kia bẽ mặt một mẻ. Chàng rời cô thiếu nữ một lát và tiến về phía hắn, tay nắm chặt, quát lớn:

- Này, ông kia, Xvidrigailov! Ông lảng vảng làm gì ở đấy? - Chàng cười gằn, bọt sùi cả ra mép vì tức giận.

- Thế là nghĩa lý gì? - Gã kia cau mày, cất tiếng hỏi nghiêm nghị, tỏ ý ngạc nhiên, một cách trịch thượng.

- Xéo ngay đi, chỉ có thế thôi!

- Mày dám láo à? Đồ chó má...

Hắn vung roi lên, Raxcolnicov vung hai quả đấm lao đến, thậm chí cũng không kịp nghĩ là gã kia người to béo như vậy tất có thể hạ một lúc hai người sức vóc như chàng. Nhưng ngay lúc ấy, có ai ở phía sau giữ lấy chàng lại: Một viên cảnh sát...

- Này! Các ông kia, không được đánh nhau ở nơi công cộng. Các ông muốn gì? Ông là ai? - Viên cảnh sát nghiêm khắc hỏi Raxcolnicov sau khi ngắm nghía bộ y phục rách rưới của chàng.

Raxcolnicov chăm chú nhìn viên cảnh sát. Hắn có gương mặt thật thà mà rắn rỏi của một người lính, râu mép và râu má màu muối tiêu, đôi mắt khá thông minh.

- Chính tôi đang cần gặp ông đấy! - Chàng nắm tay viên cảnh sát reo lên. - Tôi là một cựu sinh viên. Tôi là Raxcolnicov... - Chàng quay về phía gã kia nói tiếp. - Còn ông, mời ông lại đây, tôi sẽ chỉ cho ông xem cái này...

Và chàng nắm tay người cảnh sát lôi về phía chiếc ghế.

- Đây ông xem, cô ta say mềm; lúc nãy cô ta đi giữa đại lộ, cũng không rõ con cái nhà ai, thuộc hạng người nào; nhưng trông không phải là gái chuyên nghiệp. Điều rõ nhất là cô ta đã bị phục rượu và bị lợi dụng... lần đầu tiên... Ông hiểu chứ? Rồi người ta cứ thế đẩy cô ra đường? Ông cứ nhìn chiếc áo bị xé rách và xem cách mặc áo thì rõ; không phải tự cô ta mặc lấy mà do người khác mặc vào, do những bàn tay vụng về của một người đàn ông. Đấy, cứ nhìn thì thấy. Bây giờ ông nhìn kia xem, cái gã bảnh bao suýt nữa đánh nhau với tôi kia, tôi không quen biết hắn, cũng chỉ mới gặp lần đầu; nhưng trên đường đi hắn ta cũng đã để ý đến cô này; hắn thấy cô ta say mềm không biết gì nữa, liền nảy ý muốn đến kéo cô ta đi đâu đấy trong lúc cô ta đang mê man như vậy... Chắc chắn như thế đấy, tôi không lầm đâu ông cứ tin lời tôi. Chính mắt tôi trông thấy hắn hau háu theo dõi cô ta; song vì có tôi nên hắn chưa dám làm gì, và đến bây giờ hắn vẫn đang chờ cho tôi đi khỏi. Đấy ông xem, bây giờ hắn lại đứng xa ra một tí giả vờ cuốn thuốc lá! Làm sao đừng để cho hắn lôi cô gái này đi? Làm thế nào đưa cô ta về nhà? Ông thử nghĩ xem?

Người cảnh sát hiểu ngay sự tình và suy nghĩ một lát. Gã to béo kia thì dễ hiểu quá rồi; nhưng còn cô con gái? Người lính già cúi xuống nhìn cho kĩ hơn, và gương mặt để lộ một niềm thương xót chân thành. Bác lắc đầu nói:

- Khổ thân quá! Hãy còn như con nít ấy. Người ta đã lừa dối, lợi dụng cô ấy. Đúng, đúng thế. Cô ơi, cô có nghe không? - Bác cất tiếng gọi. - Nhà cô ở đâu?

Cô bé mở đôi mắt mệt mỏi, ngây dại, sững sờ nhìn những người đang hỏi cô rồi khoát tay như muốn xua đuổi.

- Này đây! - Raxcolnicov thọc tay vào túi, vốc ra được độ hai mươi cô-pếch còn lại và nói: - Này, ông gọi một chiếc xe và bảo người đánh xe đưa cô ta về nhà. Làm sao biết được địa chỉ của cô ta bây giờ!

- Cô ơi, cô! - Người cảnh sát cầm tiền xông lại gọi. - Tôi sẽ gọi ngay một chiếc xe và tự tôi sẽ đưa cô về. Cô muốn đi đâu bây giờ? Hở? Nhà cô ở đâu?

- Yên!... Cứ quấy người ta! - Cô bé lẩm bẩm rồi lại khoát tay.

- Ồ, ồ! Thế không tốt đâu? Cô không thấy thẹn à không biết xấu hồ à? - Bác ta lại lắc đầu, vừa thương hại vừa bực mình, rồi quay về phía Raxcolnicov nói - Rắc rối đấy! - Đoạn lại đưa mắt nhìn kĩ chàng từ đầu đến chân, chắc bác ta lấy làm lạ sao chàng rách rưới như thế mà lại có tiền đem cho không.

- Anh gặp cô ta có xa đây không? - Bác hỏi.

- Thì tôi đã nói cô ta đi trước mặt tôi, lảo đảo trên đường phố kia, vừa đến ghế là cô ta cứ thế gieo phịch người xuống.

- Trời ơi! Nghĩ đến phong hóa thời bây giờ mà xấu hổ! Nhóc như thế kia mà đã say rượu! Bị người ta lừa phỉnh rồi, không sai vào đâu nữa! Xem, cái áo rách thế kia... Thời buổi đồi bại quá chừng! Có lẽ cũng con nhà tử tế nhưng nghèo túng... Cảnh ấy bây giờ cũng nhiều lắm. Xem ra cũng là con nhà được nuông chiều, trông như một tiểu thư ấy.

Bác lại cúi xuống nhìn cô gái. Có thể là bác cũng có những đứa con gái như thế, những đứa con gái "trông như những tiểu thư được nuông chiều, được giáo dục tử tế nhưng lệch lạc, bị tiêm nhiễm đủ các thói kiểu cách thời thượng".

Raxcolnicov băn khoăn nói:

- Cái chính là đừng để cô ta rơi vào tay cái thằng đểu cáng kia. Hắn sẽ làm nhục cô ta lần nữa! Hắn muốn gì thì đã rõ quá đi rồi; hắn vẫn chưa chịu đi, quân chó đểu!

Raxcolnicov vừa nói to lên vừa đưa ngón tay chỉ thẳng vào gã ăn diện kia. Gã này nghe thấy thế, sắp sửa lại nổi đóa lên, nhưng rồi nghĩ sao lại thôi và chỉ khinh khỉnh đưa mắt nhìn chàng. Đoạn hắn thong thả đi xa ra mươi bước nữa rồi dừng lại.

- Không để rơi vào tay nó thì dễ thôi. - Người hạ sĩ quan cảnh sát trầm ngâm đáp. - Miễn là cô ta chịu nói rõ địa chỉ của cô, không thì... Cô ơi, cô! - Bác ta lại cúi xuống gọi.

Người con gái bỗng mở choàng mắt, nhìn chăm chú, dường như đã hiểu ra, cô vụt đứng dậy đi ngược lại hướng lúc nãy cô vừa mới đến, tay vẫn như muốn xua đuổi ai, mồm làu bàu:

- Hừ, cái đồ trơ trẽn, cứ bám lấy người ta!

Cô ta đi nhanh, nhưng bước chân vẫn lảo đảo. Gã công tử bảnh bao kia lại lẽo đẽo theo sau, không rời mắt, nhưng lại đi ở lề đường bên kia.

- Anh cứ yên chí, tôi không để cho nó làm bậy đâu! - Người lính già râu ria quả quyết nói và theo hút hai người kia.

- Thời buổi đâu đồi bại quá chừng! - Bác ta lại thở dài nói to lên. Ngay lúc đó, Raxcolnicov bỗng cảm thấy như bị tiêm một mũi thuốc gì quái lạ; thoáng một cái ý nghĩ của chàng như đảo ngược hẳn lại, chàng gọi với theo người lính già.

- Này, khoan hẵng!

Bác ta quay lại.

- Thôi, ông cứ để mặc họ! Dính đến họ làm gì? Cứ để cho hắn giải trí một tí đã sao? - Chàng trỏ gã công tử. - Việc gì đến ông?

Người cảnh sát trố mắt nhìn chàng, không hiểu ra làm sao nữa. Raxcolnicov cười phá lên.

- Xì! - Người cảnh sát khoát tay một cái rồi lại bám sát gã công tử và cô con gái. Chắc ông ta cho Raxcolnicov là một thằng điên hay là một thứ gì còn tệ hơn nữa.

Còn lại một mình, Raxcolnicov bực bội lẩm bẩm: "Thế là lão cầm đi của mình mất hai mươi cô-pếch. Thôi lão cũng cứ lấy tiền của tên kia nữa đi, rồi tha cô gái ra cho nó, thế là xong... Mà sao ta lại dây vào chuyện này làm gì? Muốn cứu giúp à? Ta thì cứu giúp gì? Ta có quyền gì mà cứu giúp? Thiên hạ cứ ăn tươi nuốt sống nhau đi, chẳng can gì đến ta cả! Mà sao ta lại dám vung hai mươi cô-pếch ấy đi? Có phải tiền của ta đâu?".

Tuy nói năng lạ kỳ như vậy, chàng cũng vẫn thấy rất khổ tâm. Chàng ngồi xuống chiếc ghế bỏ không và suy nghĩ lan man... Vả chăng lúc này chàng thật khó lòng nghĩ đến một điều gì cụ thể. Chàng ao ước được mê man đi, được quên hết tất cả để rồi thức dậy và làm lại một cuộc đời mới mẻ hoàn toàn.

Nhìn sang đầu ghế bỏ trống, chàng lẩm bẩm:

- Tội nghiệp cô bé. Cô ta sẽ tỉnh lại, khóc lóc, rồi mẹ cô sẽ rõ chuyện - thế là đánh đập sỉ vả cô ta cho kỳ đau đớn nhục nhã, có thể còn đuổi cô ra khỏi nhà nữa... Cho là không bị đuổi chăng thì cũng có một mụ Darya Frantxovna nào đó đánh hơi được câu chuyện, thế là cô bé sẽ lăn lóc hết tay này sang tay khác... Rồi ngay sau đó là vào nhà thương (bước đường tất nhiên xưa nay của các cô gái sống quá nết na bên cạnh mẹ nhưng lại giấu mẹ đi ăn mảnh) rồi sau đó... sau đó lại vào nhà thương... rượu chè... tiệm xá... rồi lại nhà thương... hai ba năm sau thì chỉ còn là một người tàn phế. Ấy mới mười tám, mười chín tuổi mà đã đi đến cái nước ấy... thế là xong! Ta lại chưa thấy khối những trường hợp như thế sao? Nhưng làm sao họ lại đến nỗi như vậy. Ồ! Thôi, phớt đi! Sự đời là phải thế! Họ bảo mỗi năm tất phải có một tỷ lệ phần trăm nào đấy đến khi đi đâu không rõ, chắc là cho về nhà ma... để kẻ khác dễ thở và để khỏi vướng chân họ. Một tỷ lệ phần trăm! Họ dùng chữ tài thật. Nghe mà yên tâm hẳn lại, ra vẻ khoa học lắm đã nói "phần trăm" thì không còn phải lo lắng gì nữa. Ồ giá là một chữ khác thì... có lẽ sẽ đáng lo ngại hơn. Mà ví như Dunia vì một lý do nào đó, bị rơi vào cái số tỷ lệ phần trăm này thì sẽ ra sao?... Không rơi vào số này thì lại rơi vào số khác?

"Nhưng mình đang đi đâu thế này?". - Chàng chợt nghĩ. - "Lạ thật. Mình ra đi có mục đích kia mà. Đọc thư xong là mình ra đi... Ờ, nhớ ra rồi, phải đến nhà Razumikhin ở đảo Vaxili. Nhưng để làm gì mới được chứ. Mà sao tự dưng mình lại nảy ra cái ý đến nhà Razumikhin. Kể cũng lạ!".

Chàng cũng tự lấy làm lạ với mình. Razumikhin là một người bạn học cũ của chàng ở đại học. Điều đáng chú ý là hồi còn đi học, Raxcolnicov hầu như không có bạn bè; chàng tránh mọi người, không đến nhà ai mà cũng không thích tiếp ai. Vả lại chẳng bao lâu mọi người cũng xa lánh chàng. Chàng không bao giờ tham gia vào những cuộc hội họp, những buổi chuyện trò, những cuộc vui chung của bạn bè. Chàng ra sức miệt mài học tập không hề nương nhẹ mình, bạn bè kính nể chàng cũng vì thế, nhưng không ai mến chàng.

Chàng rất nghèo, kiêu ngạo đến khinh người và ít cởi mở, lúc nào trông chàng cũng như đang nghiền ngẫm một chuyện gì thầm kín. Một số bạn cùng lớp nhận thấy chàng có một lối nhìn khinh khỉnh, kể cả đối với họn họ, coi họ như trẻ con, dường như tự cho mình hơn hẳn họ về trí thông minh, về trình độ hiểu biết, và về các quan niệm tư tưởng, và xem những niềm tin tưởng, những hứng thú của họ như một cái gì thấp kém.

Tuy vậy, không rõ vì sao, chàng cùng đã kết thân với Razumikhin, nói đúng ra thì không phải là kết thân, nhưng đối với anh này chàng cởi mở thẳng thắn hơn với mọi người khác. Vả chăng, với Razumikhin thì cũng không thể nào đối xử khác thế được. Anh là một chàng thanh niên cực kỳ vui tính và cởi mở xuề xòa, tốt bụng đến gần như ngây ngô. Nhưng cái bề ngoài ngây ngô ấy lại che giấu một trí tuệ sâu sắc và một tâm hồn biết tự trọng. Các bạn thân nhất đều biết rõ điều đó, và mọi người đều yêu mến anh. Anh không khờ khạo tí nào, tuy đôi khi quả thật có ngây thơ. Hình thức bên ngoài của anh chàng khá tiêu biểu: cao, gầy, râu bao giờ cũng cạo dối nham nhở, tóc đen láy. Thỉnh thoảng anh cũng nổi cơn phá quấy và xưa nay vẫn có tiếng là khỏe như vâm. Có một bận, đang đêm, trong khi rong chơi với bạn bè, anh đã đánh ngã một viên cảnh sát cao gần hai thước. Anh có tài uống rượu liền tù tì bao nhiêu cũng hết, song cũng có thể nhịn hẳn không uống qua lấy một giọt, thỉnh thoảng anh ta cũng vui chơi phóng đãng quá mức, nhưng cũng có thể hoàn toàn kiềm chế mình. Ở Razumikhin còn một điều đáng chú ý nữa là dù có thất bại ê chề anh cũng không hề nao núng, dù hoàn cảnh bi đát đến đâu anh cũng không sờn lòng. Chỗ nào anh cũng ở được, dù là trên nóc nhà cũng xong; những cơn rét xé da xé thịt, những trận đói cồn ruột cồn gan anh đều chịu được hết. Anh ta rất nghèo, và nhất thiết tự mình làm lấy đủ mọi công việc để kiếm tiền sinh sống. Anh ta biết vô số đầu mối có thể xoay được tiền, tất nhiên là bằng cách làm lụng. Có lần anh ta đã sống suốt một mùa đông mà không đốt lò sưởi, quả quyết rằng như vậy lại đâm ra dễ chịu hơn, vì lạnh ngủ ngon hơn. Lúc này anh đang phải bỏ học, nhưng anh tin là chỉ bỏ học trong một thời gian ngắn thôi, và anh hối hả cố gắng hết sức xoay chuyển tình thế để có thể tiếp tục theo học. Đã hơn bốn tháng nay, Raxcolnicov không đến nhà anh và Razumỉkhin cũng không biết chàng ở đâu nữa. Cách đây hai tháng, có lần hai người tình cờ gặp nhau ngoài phố, song Raxcolnicov đã quay mặt đi và bước sang vỉa hè bên kia để anh ta khỏi trông thấy. Tuy đã nhận ra chàng mười mươi, Razumikhin cũng cứ làm lơ bước thẳng vì không muốn làm phiền bạn!

[1] Tên ngọn núi dùng làm pháp trường đóng đinh Chúa Jesus trên giá chữ thập.

[2] Miền duyên hải Baltic thuộc Đức.

[3] Một dòng giáo sĩ Công giáo, nổi tiếng vì những thủ đoạn vô liêm sỉ che giấu dưới những lối biện luận xảo trá (Jesuites).

CHƯƠNG 5

"Quả nhiên cách đây ít lâu mình có lần định nhờ Razumikhin tìm hộ việc làm, kiếm chỗ dạy học hay một công việc gì khác..." - Raxcolnicov suy nghĩ. - "Nhưng bây giờ thì liệu hắn ta có thể giúp được gì cho mình? Cứ thử cho là Razumikhin sẽ kiếm được chỗ dạy học, hay chia sẻ với mình đồng cô-pếch cuối cùng, nếu hắn ta còn được một đồng cô-pếch, thành thử có thể mua được đôi giày và vá lại bộ quần áo cho tươm tất mà đi dạy... hừm... ừ thế rồi sao nữa? Ta sẽ làm gì với mấy đồng cô-pếch ấy? Chả nhẽ bây giờ mà ta lại cần đến thứ đó? Thật đấy, đến nhà Razumikhin thì buồn cười thật..."

Vấn đề tại sao bây giờ lại đến nhà Razumikhin khiến chàng bứt rứt hơn là chính chàng có thể tưởng; chàng lo lắng tìm tòi một ý nghĩa gì chẳng lành trong cái hành động có vẻ như hết sức bình thường ấy.

"Sao thế nhỉ, lẽ nào ta lại mong cậy vào mỗi một mình Razumikhin để thu xếp mọi việc và tìm lối thoát cho tất cả?" - Raxcolnicov ngạc nhiên tự hỏi.

Chàng bóp trán suy nghĩ, và lạ thay, sau một hồi lâu băn khoăn như vậy, bỗng nhiên một ý nghĩ hết sức kỳ lạ từ đâu vụt hiện lên trong óc chàng.

"Hừm, đến Razumikhin!" - Chàng bỗng thốt lên, hoàn toàn điềm tĩnh, như nói đến một điều đã quyết định dứt khoát. - "Thì ta sẽ đến Razumikhin, lẽ tất nhiên là như thế, nhưng bây giờ thì khoan hẵng... Ta sẽ đến Razumikhin một ngày sau việc ấy, khi nào việc ấy đã làm xong và sự tình đã khác hẳn...".

Rồi Raxcolnicov bỗng sực tỉnh lại.

"Sau việc ấy". - Chàng nhổm dậy thét lên. - "Thế ra việc ấy sẽ xảy ra? Sẽ xảy ra thật hay sao?".

Chàng rời chiếc ghế dài, bỏ đi như chạy trốn; chàng cũng định quay trở về, nhưng nghĩ đến chuyện về phòng, chàng bỗng thấy ghê tởm quá. Chính ở đấy, trong căn phòng của chàng, ở cái xó tối, trong cái tủ khủng khiếp ấy tất cả cái đó chín muồi đã hơn một tháng nay. Chàng bỏ ý định về nhà, nhắm mắt bước thẳng.

Người chàng đã run run vì bứt rứt, bây giờ lại chuyển sang run mạnh như trong cơn sốt; thậm chí chàng còn thấy ớn lạnh nữa; trời nóng bức như thế này mà chàng cảm thấy rét. Hầu như bất giác tuân theo một sự thôi thúc khẩn thiết nào ở bên trong, chàng bắt đầu gượng gạo nhìn kĩ tất cả những gì chàng trông thấy trên đường đi, dường như để tìm cách khuây khỏa, nhưng làm như vậy cũng chẳng ăn thua gì mấy; cứ mỗi chốc chàng lại chìm vào tâm trạng đăm chiêu như cũ. Rồi đến khi chàng giật mình, ngẩng đầu lên nhìn quanh, chàng lại quên ngay, không nhớ mình vừa nghĩ gì, và thậm chí mình đang đi qua những chỗ nào cũng không nhớ nốt. Chàng cứ thế đi hết đảo Vaxili ra nhánh Neva con, qua cầu và rẽ vào các đảo nhỏ[1]. Những khóm cây xanh rờn và quang cảnh tươi mát ở khu này thoạt tiên xoa dịu đôi mắt mệt mỏi của Raxcolnicov đã quen với bụi bặm của phố phường, với vôi vữa và những tòa nhà đồ sộ như muốn xô lấn, đè bẹp người ta. Ở đây không khí không ngột ngạt, hôi hám lại không có tiệm rượu. Nhưng chẳng mấy chốc những cảm giác mới mẻ, dễ chịu này đã lại khiến chàng thấy nhức nhối, bực tức. Thỉnh thoảng chàng dừng chân trước một ngôi biệt thự đỏm dáng ẩn sau khu vườn xanh tốt, nhìn vào cổng sắt và thấy xa xa những người đàn bà ăn mặc sang trọng đứng trên các bao lơn và các sân thượng, những đứa trẻ chạy tung tăng trong vườn. Chàng chú ý đến hoa nhiều nhất; chàng nhìn chúng lâu hơn cả. Chốc chốc chàng lại gặp những cỗ xe ngựa sang trọng, những người cưỡi ngựa rong chơi, nam có nữ có; chàng tò mò nhìn theo họ và họ chưa đi khuất chàng đã quên bẵng họ đi. Có lần chàng đứng lại đếm tiền; còn được khoảng ba mươi cô-pếch. "Hai mươi cô-pếch đưa cho viên cảnh sát, ba cô-pếch cho Naxtaxia về bức thư... - Thế tức là hôm qua mình cho Marmeladov bốn mươi bảy hay năm mươi cô-pếch gì đấy". - Chàng nghĩ thầm, tính toán một lúc để làm gì không rõ, nhưng chỉ một lát sau chàng đã quên bẵng đi không hiểu mình rút tiền trong túi ra để làm gì nữa. Chàng nhớ lại điều đó khi đi ngang một cửa hàng bán thức ăn, một thứ quán ăn bình dân thì đúng hơn. Lúc đó chàng mới nhớ ra rằng mình đang thèm ăn. Bước vào quán, chàng uống một cốc votca, và mua chiếc bánh rán thịt ăn mấy miếng, phần còn lại chàng cầm theo ăn nốt dọc đường. Đã lâu lắm chàng không uống votca, nên vừa uống vào đã thấy công hiệu ngay, tuy trước sau chỉ có một cốc nhỏ. Chân chàng bỗng nặng trĩu, và chàng bắt đầu thấy buồn ngủ không sao cưỡng được. Chàng quay trở về nhưng đi đến đảo Petrovxki, chàng phải dừng lại vì đã hoàn toàn kiệt sức. Chàng rẽ sang bên đường, đi vào giữa các bụi cây, gieo mình xuống thảm cỏ và lập tức ngủ thiếp đi. Những giấc mơ của một người bệnh thường rõ nét khác thường và giống hiện thực một cách lạ lùng. Đôi khi thấy hiện lên một quang cảnh kỳ quái, nhưng khung cảnh và toàn bộ quá trình diễn biến trong giấc chiêm bao có vẻ thật và đầy những chi tiết tinh vi, bất ngờ nhưng lại phù hợp với toàn bộ quang cảnh một cách tinh xảo đến nỗi giá người chiêm bao kia đang thức thì không tài nào nghĩ ra được, dù người đó có là một nghệ sĩ như Puskin hay Turgenev chăng nữa. Những giấc chiêm bao bệnh tật như vậy bao giờ cũng khắc sâu vào trí nhớ và gây một ấn tượng rất mạnh trong cơ thể đã rối loạn và sẵn bị kích thích mạnh. Raxcolnicov thấy một giấc chiêm bao khủng khiếp. Chàng mơ thấy lại thời thơ ấu, khi gia đình chàng còn ngụ ở cái tỉnh lị nhỏ hồi nào. Dạo ấy chàng lên bảy. Một ngày hè vào lúc xế chiều, bố chàng đưa chàng đi chơi ở ngoại thành. Tiết trời u ám, không khí ngột ngạt; khung cảnh nơi ấy in hệt như trong ký ức của chàng; thậm chí còn đậm nét hơn nữa là khác. Cái thị trấn nhỏ hiện rõ ra quanh chàng như nằm trên lòng bàn tay. Xung quanh không có lấy một bóng cây, chỉ xa xa mãi tít ở tận chân trời, mới thấy một khóm rừng vẽ thành một vệt sâm sẫm. Cạnh khu vườn cuối cùng của thị trấn có một quán rượu lớn xưa nay vẫn gây cho chàng một ấn tượng hết sức khó chịu, thậm chí còn làm chàng kinh hãi, mỗi khi chàng đi dạo với bố ngang qua đấy. Ở đấy lúc nào cũng có một đám đông người hò hét, cười ha hả, chửi bới nhau; họ cất giọng khàn khàn hát những bài nghe mà ghê cả người, và rất hay đánh nhau; xung quanh quán lúc nào cũng có những gã say rượu mặt mày khủng khiếp vật vờ qua lại... Gặp họ, chàng nép sát vào bố và cả thân hình chàng run bắn lên. Cạnh quán rượu có một con đường tắt lúc nào cũng bụi bặm, và bụi trên đường lúc nào cũng đen xỉn. Con đường quanh co đi ngang qua quán rượu, được chừng ba trăm bước thì ngoặt sang phải và chạy vòng quanh khu nghĩa địa của tỉnh lị. Giữa nghĩa địa có một ngôi nhà thờ bằng đá, mái vòm xanh; cứ mỗi năm hai lần cậu bé Raxcolnicov lại theo bố mẹ đến đây xem lễ cầu hồn cho bà nội cậu đã mất từ lâu mà cậu chưa bao giờ được thấy mặt. Mỗi lần như vậy, bao giờ họ cũng mang theo chiếc bánh cúng giỗ đựng trong chiếc đĩa trắng bọc khăn bông; bánh làm bằng bột gạo trộn đường, có nhân bằng nho khô giắt vào bột thành hình chữ thập. Raxcolnicov rất thích ngôi nhà thờ này và những bức tượng cổ kính trong nhà thờ, phần lớn không có khung, thích cả vị linh mục già có cái đầu lắc lư. Cạnh ngôi mộ của bà chàng với phiến đá phẳng phiu, còn có một nấm mộ nho nhỏ của em trai chàng, chết từ hồi mới được sáu tháng; Raxcolnicov cũng không hề biết và không thể nhớ gì về đứa em này; chàng chỉ nghe nói là mình có đứa em trai nhỏ, và cứ mỗi lần đến nghĩa địa, chàng lại thành kính làm dấu chữ thập trước nấm mồ nhỏ và cúi xuống hôn nó.

Và giờ đây, Raxcolnicov mơ thấy mình đang đi với bố trên con đường dẫn đến nghĩa địa; đi ngang quán rượu, Raxcolnicov cầm tay bố và sợ hãi đưa mắt nhìn ngôi quán. Một việc khác thường khiến cậu bé chú ý, lần này hình như đang có một trò vui gì ở đây thì phải; cả một đám đông gồm những người đàn bà thị dân ăn mặc như ngày hội, những cặp vợ chồng nông dân và cả một lũ người du thủ du thực. Ai nấy đều say khướt, lè nhè cất tiếng hát nghêu ngao. Bên thềm quán rượu có một chiếc xe giàn đỗ lại. Chiếc xe trông rất kỳ dị. Đó là loại xe giàn to thường vẫn thắng những con ngựa tải to béo, dùng để chở những thùng rượu và những kiện hàng. Raxcolnicov vẫn thích nhìn những con ngựa tải to lớn, bờm dài, chân to, ung dung bước đều đặn, kéo theo cả một đống to hàng hóa, không chút mệt nhọc, tưởng chừng chở nặng như vậy chúng lại thấy thoải mái hơn là đi không. Nhưng bấy giờ thì lạ thay, con ngựa thắng vào chiếc xe giàn to tướng lại là một con ngựa lang bé choắt, gầy đét, giống như những con ngựa nhà quê mà Raxcolnicov đã nhiều lần thấy kéo xe chở củi hay chở rơm rạ gì đấy. Mỗi khi bánh xe lún xuống bùn hay sỉa vào rãnh, những người mu-gíc bao giờ cũng lấy roi đánh chúng rõ đau, đôi khi lại còn quật vào mõm, vào mắt chúng, và Raxcolnicov thấy thương xót cho chúng quá chừng, đến nỗi suýt òa lên khóc, và mỗi lần như vậy mẹ chàng lại phải đưa chàng vào nhà, không cho ngồi ở cửa sổ nữa.

Lúc ấy ngoài phố bỗng ồn ào hẳn lên: những người mu-gíc to béo mặc áo sơ-mi xanh hay đỏ, áo khoác vắt vai, tay cầm đàn balalaika, luôn mồm reo hò, hát xướng, từ trong quán rượu bước ra. Một người còn trẻ, cổ béo phị, cái mặt thịt đỏ mọng như củ cà rốt, hô to: "Ngồi lên, ngồi cả lên!", nhưng lập tức ai nấy đều cười rộ và la ó ầm ĩ.

- Ngựa khổ này thì chở gì?

- Chà, Micolca, cậu điên rồi hay sao, xe này mà thắng ngựa này à! Con này chắc phải đến hai chục tuổi rồi anh em ạ!

- Ngồi lên tớ chở cả lũ cho mà xem! - Micolca lại quát. Hắn lên xe trước, cầm lấy cương và vươn thẳng người đứng ở phía trước thùng xe. - Thằng Matvei vừa đánh con ngựa tía đi đấy. - Hắn đứng trên xe nói. - Còn con này thì chỉ làm khổ tớ thôi; tớ muốn giết quách nó đi cho rảnh, nuôi nó chỉ tổ tốn thóc. Nào, ngồi lên! Tớ cho nó phi nước đại cho mà xem? - Nói đoạn hắn cầm lấy roi, khoái trá sửa soạn quất con ngựa lang.

- Thì ngồi nào! - Đám đông cười rộ. - Nó phi nước đại cơ đấy ghê chưa?

- Dễ đến mười năm nay nó chưa phi lần nào đâu.

- Rồi nó phi cho mà xem! - Đừng có nương nhẹ nó làm gì, anh em ạ, mỗi người cầm sẵn lấy một con roi.

- Phải đấy? Đánh khỏe vào!

Mọi người vừa leo lên xe, Micolca vừa bông đùa và cười ha hả. Đã có sáu người lên, nhưng vẫn còn thừa chỗ, họ lôi lên xe một mụ đàn bà to béo mặt đỏ gay, mình mặc chiếc áo vải hoa, đầu đội mũ chụp dính cườm, chân đi ủng, mồm vừa cắn hạt dẻ vừa cười hềnh hệch. Đám đông đứng quanh cũng cười, mà họ cười cũng phải: Một con ngựa còm như thế lại kéo chiếc xe chở nặng trịch thế kia mà bảo là phi nước đại thì ai mà nhịn cười được? Hai gã trai trẻ đứng trên xe lập tức cầm lấy roi để giúp Micolca. Có tiếng quát "Nào!", thế là con ngựa còm rướn cổ ra kéo, nhưng không những nó không phi nước đại, mà ngay như lê bước một nó cũng khó nhọc lắm mới lê nổi: Chân nó cào đất, nó rúm người lại vì ba cây roi quất xuống tới tấp như mưa rào. Tiếng cười trên xe và trong đám đông lại càng thêm giòn giã, nhưng Micolca thì nổi cáu lên và giận dữ quất roi vào con ngựa mỗi lúc một dồn dập, như thể yên trí rằng nó sẽ phi nước đại thật.

Trong đám đông có một gã thanh niên cũng cao hứng lên, nói:

- Cho tôi lên xe mấy anh em?

- Ngồi lên, ngồi hết lên! - Micolca quát. - Chở hết cho mà xem. Tớ sẽ đánh khỏe vào! - Hắn vừa nói vừa ra sức quất roi vào ngựa. Trong cơn giận điên cuồng hắn không còn biết lấy gì đánh cho con ngựa đau hơn nữa.

Raxcolnicov kêu lên:

- Ba ơi, ba ơi, họ làm gì thế kia hở ba! Họ đánh con ngựa thương quá!

- Ta đi thôi, ta đi thôi! - Cha chàng nói. - Chúng say rượu đấy, cái lũ ngốc, chúng đang bày trò nghịch nhảm đấy, thôi ta đi, con đừng nhìn làm gì.

Nói đoạn, ông toan dắt con đi. Nhưng cậu bé giật tay ra, hoảng hốt chạy về phía con ngựa. Nhưng con ngựa đáng thương bây giờ đã kiệt sức rồi. Nó thở hổn hền, đứng lại, rồi lại cố kéo, loạng choạng suýt ngã.

- Đánh cho kì chết! - Micolca quát. - Có thế thôi. Tớ đánh chết cho mà xem.

- Sao thế hả, mày không phải là người có đạo hẳn, đồ quỷ! - Một ông già đứng trong đám đông nói to.

- Có đời thuở nhà ai một con ngựa khổ như thế lại bắt kéo ngần ấy người. - Một người khác chêm vào.

- Nó chết mất! - Một người nữa nói.

- Kệ tao! Ngựa của tao kia mà! Tao muốn làm gì nó thì tao cứ làm. Ngồi nữa lên! Ngồi nữa lên! Tớ nhất định phải bắt nó phi nước đại mới nghe...

Bỗng có tiếng cười rộ lên át hết mọi tiếng khác: Con ngựa gầy còm, tuy đã kiệt sức, nhưng không chịu nổi những nhát roi quất mỗi lúc một dồn dập, đã lồng lên hất chân đá hậu. Ngay cả ông già hồi nãy cũng phải mỉm cười. Quả tình cũng khó lòng mà nhịn cười được. Con ngựa đứng đã không vững mà lại còn đòi lồng lên nữa!

Hai gã thanh niên trong đám đông kiếm thêm được hai cây roi nữa và từ hai phía chạy lại đánh vào hai bên sườn con ngựa.

- Đánh vào mõm ấy, quật vào mắt ấy! - Micolca quát - Hát lên một bài anh em ơi! - Một người đứng trên xe hô lên, và ai nấy đều cất giọng hưởng ứng. Một bài hát thô tục vang lên, tiếng trống ếch đệm theo, và hễ đến điệp khúc lại có tiếng huýt. Mụ đàn bà to béo cắn hạt dẻ tanh tách và cười hềnh hệch.

Raxcolnicov chạy đến cạnh con ngựa, cậu cứ chạy về phía trước; cậu thấy họ đánh vào mắt nó, nhằm đúng vào mắt mà đánh. Cậu khóc. Lòng cậu bé se lại, nước mắt trào ra. Một nhát roi xoang cả vào mặt cậu, cậu không thấy đau, cậu vò đầu bứt tai, cậu kêu gào, đâm bổ về phía ông già đầu râu tóc bạc đang lắc đầu ra dáng bất bình. Một người đàn bà nhà quê nắm lấy tay Raxcolnicov toan dắt đi, nhưng cậu giật phắt tay ra và lại chạy đến cạnh con ngựa. Bây giờ con vật khốn khổ đã kiệt sức lắm rồi, nhưng nó còn lồng lên lần nữa.

- Chà, con quỷ! - Micolca điên tiết quát lên. Hắn vứt cây roi đi, cúi xuống rút từ gầm xe ra một cái vồ dài và to, hai tay cầm lấy đầu vồ và giơ cao lên trên đầu con ngựa.

- Hắn đánh vỡ đầu con ngựa mất! - Xung quanh có tiếng xôn xao.

- Hắn giết nó chết mất!

- Ngựa của tao! - Micolca quát và lấy hết sức lực giáng vồ xuống, nghe đánh ình một tiếng nặng trịch.

- Đánh, đánh cho chết đi! Sao lại đứng đực ra thế! - Trong đám đông có tiếng giục.

Micolca lại giơ cao vồ lên lần nữa và giáng một vồ thứ hai lên lưng con ngựa khốn khổ. Nó khuỵu hẳn hai chân sau xuống, nhưng lại nhỏm dậy và thu hết tàn lực kéo bên này bên nọ cho cỗ xe nhích tới; nhưng sáu cây roi từ khắp bốn phía thi nhau quất vào nó, và cái vồ lại giơ cao lên nện đều đặn vào người nó lần thứ ba, rồi lần thứ tư. Micolca điên tiết lên vì không đánh chết tươi được con ngựa bằng một nhát vồ.

- Sống dai thật! - Xung quanh có tiếng ai kêu lên.

- Bây giờ thì thế nào nó cũng gục thôi, anh em ạ, thế là hết kiếp! - Một người trong đám đông nói, giọng sành sỏi. - Lấy rìu mà bổ chứ! Phải giết cho chết ngay đi chứ. - Một người khác nói.

- Chà cái lũ muỗi nhép? Xê ra? - Micolca nổi khùng lên quát. Hắn vứt cái vồ đi, khom người xuống rút từ gầm xe ra một thanh sắt. - Coi chừng đây! - Hắn quát, đoạn lấy hết sức giáng mạnh xuống mình con ngựa khốn nạn. Con vật lảo đảo khuỵu chân xuống; nó định rướn mình lên, kéo xe, nhưng thanh sắt đã lại giáng mạnh lên lưng, và nó ngã khuỵu xuống đất, tưởng chừng như có ai bỗng cắt đứt cả bốn chân nó một lượt.

- Phải giết cho chết hẳn đi! - Micolca thét lên và như điên như dại nhảy xuống đất.

Mấy gã thanh niên nữa, cũng say rượu, mặt đỏ gay bạ gì vơ nấy: roi, gậy, vồ... xông vào con ngựa đang hấp hối. Micolca đứng một bên nện mãi thanh sắt vào lưng con ngựa. Con vật khốn nạn rướn cổ, thở hắt ra một tiếng nặng nhọc và tắt nghỉ.

- Thế là hết kiếp! - Trong đám đông có tiếng kêu.

- Ai bảo không chịu phi!

- Ngựa của tao! - Micolca quát, tay lăm lăm cầm thanh sắt, mắt đỏ ngầu. Hắn đứng tần ngần như thể lấy làm tiếc rằng bây giờ không biết đánh vào ai nữa.

- Quả thật mày không phải là người có đạo! - Bấy giờ trong đám đông đã có mấy người cùng lên tiếng trách móc.

Cậu bé đáng thương không còn tự chủ được nữa. Cậu kêu rú lên, len qua đám đông chạy lại ôm lấy cái mõm rớm máu của con ngựa chết và hôn lên mắt, lên môi con vật... Rồi cậu bỗng nhảy chồm lên xông vào Micolca, vung hai quả đấm bé nhỏ nện vào người hắn. Vừa lúc ấy cha cậu, nãy giờ vẫn ra sức đuổi theo, đã giữ cậu lại được và bế ra ngoài.

- Ta đi thôi! Ta đi thôi! - Ông nói. - Ta về thôi!

- Ba ơi! Tại sao? Con ngựa tội nghiệp ấy có tội tình gì... mà chúng giết chết? - Raxcolnicov vừa khóc vừa nói, nhưng cổ cậu nghẽn lại và lời nói cứ bật từ lồng ngực tức anh ách của cậu ra thành từng tiếng thét đứt quãng...

- Đồ say rượu ấy mà, chúng nó bày trò nghịch nhảm, không việc gì đến ta, thôi ta về đi. - Cha cậu nói. Raxcolnicov dang tay ôm chầm lấy cha. Ngực cậu cứ nghẹt lại, tức tối. Raxcolnicov muốn thở lại cho đều, muốn kêu lên một tiếng, và bừng tỉnh...

Chàng tỉnh giấc, mồ hôi đầm đìa, tóc cũng ướt đẫm, thở hổn hển. Chàng hoảng hốt choàng dậy:

- May quá, đây chỉ là một giấc mơ! - Chàng vừa nói vừa ngồi dậy tựa lưng vào gốc cây và thở hắt ra. - Nhưng làm sao thế này? Mình bắt đầu lên cơn sốt chắc. Chiêm bao gì mà gớm guốc thế?

Người chàng mỏi như dần, trong tâm trí thì thấy tối tăm, mờ mịt. Chàng chống khuỷu tay lên hai đầu gối, và đưa hai bàn tay lên vuốt đầu.

- Trời ơi! - Chàng thốt lên. - Lẽ nào, lẽ nào ta sẽ lấy một cái rìu thật, sẽ bổ lên đầu mụ ta, sẽ bửa đôi sọ mụ ta ra... sẽ dẫm lên vũng máu nhớp nháp, nóng hầm hập của mụ, sẽ bẻ gãy ổ khóa và giơ hai bàn tay run lẩy bẩy ra lấy trộm; rồi mình mẩy bê bết những máu, nấp vào một nơi, tay cầm cái rìu... Trời ơi, có thể thế được chăng?

Chàng run bắn lên như tàu lá khi tự nhủ như vậy.

- Nhưng mình nghĩ gì thế này! - Chàng nói tiếp, đầu lại gục xuống và dường như vô cùng kinh ngạc. - Mình đã biết là mình không thể nào làm được như thế, thì sao mãi đến nay cứ tự giày vò mãi làm gì? Ngay như hôm qua, khi mình đi... "duyệt thử" lại việc ấy, hôm qua mình đã hiểu rõ như ban ngày rằng mình sẽ không thể nào chịu nổi... Thế mà bây giờ, sao mình lại thế? Sao mãi cho đến nay mình vẫn còn hồ nghi? Hôm qua khi xuống thang gác, chính mình đã nói rằng như thế là khốn nạn, ghê tởm, hèn hạ vô cùng..., và trong khi đang thức chỉ nghĩ đến việc ấy thôi mình cũng đã lợm mửa và hoảng hốt lên rồi kia mà... Không, không thể được, không thể được! Hẵng cứ cho rằng trong những điều suy tính của mình không còn chút gì đáng phân vân đi nữa; cứ cho rằng tất cả những điều mình đã quyết định trong tháng này đều rõ như ban ngày, chính xác như số học. Trời ơi? Dù có thế chăng nữa mình cũng không thể làm được! Mình không chịu nổi, không sao chịu nổi! Thế thì tại sao cho đến bây giờ...

Chàng đứng dậy, bàng hoàng nhìn quanh như ngạc nhiên không hiểu tại sao mình lại đến đây, rồi đi lên cầu T.. Mặt chàng tái nhợt, mắt chàng sáng quắc lên, chân tay chàng rã rời ra, nhưng chàng chợt cảm thấy dễ thở hơn. Chàng có cảm giác như vừa vứt bỏ được cái gánh nặng khủng khiếp đã trĩu lên chàng bấy lâu, và lòng chàng bỗng thấy thanh thoát và yên tĩnh. "Lạy Chúa!" - Chàng lầm rầm cầu nguyện. - "Hãy chỉ đường cho tôi, tôi sẽ từ bỏ cái... mơ ước đáng nguyền rủa ấy!".

Đi qua cầu, chàng bình tĩnh nhìn con sông Neva, nhìn vầng thái dương đỏ rực đang khuất bóng. Tuy có suy nhược, chàng hầu như không cảm thấy người mệt mỏi. Tưởng chừng như cái ung nhọt đã tấy lên trong tim chàng trong suốt tháng nay bỗng vỡ tung ra. Tự do! Tự do! Bây giờ chàng đã thoát ra khỏi ma lực của những bùa mê, những pháp thuật quái đản ấy.

Về sau, khi nhớ lại quãng thời gian này và tất cả những việc đã xảy đến với chàng trong mấy ngày hôm ấy cặn kẽ từng phút một, từng chi tiết một, từng nét một, có một điều khiến cho chàng kinh ngạc đến mức mê tín, một điều thật ra không lấy gì làm phi thường cho lắm, nhưng về sau chàng cứ cảm thấy như đã tiền định số phận chàng: Chàng không sao hiểu nổi và tự cắt nghĩa được cho mình, là tại sao trong khi đang mệt mỏi rã rời ra như vậy, lẽ ra phải về nhà bằng con đường gần nhất, thẳng nhất, thì chàng lại đi qua quảng trường Chợ Hàng Rơm, mặc dầu không hề có lấy một lý do nào để đi qua đấy cả. Lối này cũng không xa lắm, nhưng đi như vậy rõ ràng là mua thêm đường mà đi, và hoàn toàn vô ích. Dĩ nhiên, đã hàng chục lần chàng đi về nhà mà không nhớ mình đã đi qua những phố nào. Nhưng chàng vẫn băn khoăn tự hỏi không biết tại sao một cuộc gặp gỡ quan trọng, có tính chất quyết định đối với chàng như vậy mà đồng thời lại hoàn toàn ngẫu nhiên như vậy ở khu Chợ Hàng Rơm này, lại diễn ra đúng vào giờ phút ấy của cuộc đời chàng, đúng vào lúc tâm trạng chàng đang như vậy và đúng vào những hoàn cảnh cho phép cuộc gặp gỡ ấy có thể có tác dụng quyết định dứt khoát nhất đối với cả vận mệnh của chàng? Cứ như thể nó cố ý rình đợi chàng ở đây!

Lúc chàng đi ngang khu Chợ Hàng Rơm là vào khoảng chín giờ. Tất cả những người lái buôn lớn nhỏ đều đã đóng cửa hiệu hay thu dọn bàn ghế hàng họ để về nhà, và khách hàng của họ cũng thế. Cạnh mấy cái quán ăn bẩn thỉu dọn ở các căn nhà hầm trong những khoảng sân nhớp nhúa và hôi hám của những dãy nhà bao quanh quảng trường, và nhất là cạnh các tiệm rượu, chen chúc những đám người rách rưới, những kẻ cầu bơ cầu bất đi kiếm ăn bằng đủ các nghề nghiệp. Raxcolnicov đặc biệt ưa thích những chỗ này, cũng như tất cả những ngõ hẻm ở quanh đấy, những khi chàng lang thang đi ra phố không chủ đích. Ở đây những mảnh giẻ rách chàng mặc không hề bị ai chú ý và tỏ vẻ khinh thị dù bộ dạng có ra sao cũng không làm ai khó chịu. Sát góc ngã K.... có hai vợ chồng một lão tiểu thương bày hai cái bàn bán chỉ, sợi, dây gai, khăn vải hoa v.v... Họ cũng đã dọn dẹp để về nhà, nhưng còn ngồi nán lại nói chuyện với một người quen vừa đi ngang. Người đó là Lizaveta Ivanovna, hay như người ta thường gọi - mụ Lizaveta, em gái mụ Aliona Ivanovna, quả phụ của một lão công chức bậc bảy, chính cái mụ chủ hiệu cầm đồ mà hôm qua Raxcolnicov vừa đến gặp để cầm cái đồng hồ và "duyệt thử" lại việc ấy... Chàng đã từ lâu biết rõ về mụ Lizaveta này, và chính mụ cũng có biết chàng đôi chút. Đó là một mụ đàn bà ba mươi lăm tuổi, người cao lỏng khỏng, vụng về, nhút nhát và hiền lành, gần như là một người ngớ ngẩn. Mụ ở với chị ruột như một người đầy tớ làm quần quật suốt ngày đêm, đứng trước mụ chị thì run cầm cập và thậm chí còn bị mụ ta đánh đập nữa là khác. Lúc bấy giờ Lizaveta Ivanovna đang đứng nghe hai vợ chồng lão tiểu thương nói, vẻ đăm chiêu tư lự. Hai vợ chồng kia thì đang nói gì với mụ không biết mà có vẻ hăng hái lắm. Raxcolnicov chợt trông thấy mụ ta, một cảm giác kỳ lạ, tương tự như một nỗi kinh ngạc đến cùng cực, bỗng tràn vào lòng chàng, tuy trong cuộc gặp gỡ này chẳng có gì đáng lấy làm lạ cả.

- Bà Lizaveta Ivanovna ạ, bà định liệu lấy thì hơn. - Lão tiểu thương nói to. - Mai khoảng bảy giờ bà đến nhé; khoảng ấy họ cũng sẽ đến đây đấy.

- Mai à? - Mụ Lizaveta nói, giọng kéo dài, vẻ tư lự như còn phân vân điều gì.

- Chà, bà sợ Aliona Ivanovna đến thế kia à! - Mụ vợ nói, giọng lanh lảnh, mụ ta vốn là người rất lém lỉnh. - Tôi trông bà cứ như đứa con nít ấy. Mà nào có phải chị ruột cho cam, chỉ là cùng cha khác mẹ thôi, ấy thế mà bà ấy bắt nạt bà đến là dữ.

- Mà lần này bà chớ nói gì với bà Aliona Ivanovna đấy nhé. - Ông chồng ngắt lời. - Đấy tôi khuyên bà như thế đấy, bà cứ đến đây, đừng xin phép gì cả. Món này hời lắm. Sau rồi chính bà chị cũng hài lòng cho mà xem.

- Hay tôi đến vậy nhé?

- Bảy giờ tối mai, họ cũng sẽ đến. Bà cứ định liệu lấy.

- Rồi chúng tôi sẽ đốt ấm lò. - Mụ vợ nói thêm.

- Được tôi sẽ đến. - Mụ Lizaveta nói, vẻ vẫn còn phân vân, đoạn chậm rãi bước đi.

Đến đây Raxcolnicov đã đi quá nên không còn nghe gì nữa. Chàng đi qua im lặng, kín đáo, cố sao không để lọt mất một câu nào. Cảm giác ngạc nhiên của chàng lúc ban đầu nhường chỗ cho lòng kinh hãi, chàng ngỡ như có một tảng băng luồn qua xương sống. Chàng vừa biết được, biết một cách đột ngột và bất ngờ, rằng ngày mai, vào lúc bảy giờ tối, mụ Lizaveta, em gái mụ chủ hiệu và là người độc nhất cùng ở một căn nhà với mụ ta, sẽ đi vắng, và như thế nghĩa là lúc bảy giờ tối mụ chủ sẽ ở nhà một mình.

Chỉ còn mấy bước nữa là Raxcolnicov về đến nhà. Chàng bước vào buồng như một người vừa mới bị tuyên án tử hình. Chàng không suy luận gì hết và hoàn toàn không có khả năng suy luận, nhưng cả con người chàng đã chợt cảm thấy mình không còn tự do lý trí nữa mà cũng không còn chút nghị lực nào, rằng mọi việc bỗng nhiên đã được quyết định dứt khoát.

Dĩ nhiên, ví thử chàng có chờ đợi cơ hội thuận tiện suốt mấy năm liền, thì cũng không thể trông mong một dịp nào tốt hơn để thực hiện ý định như cái dịp vừa hiện ra lúc này. Dù sao cũng khó lòng mà biết được trước đúng một hôm, và biết chắc chắn, không cần phải làm việc gì mạo hiểm, không cần phải hỏi han và tìm tòi gì, rằng ngày mai đúng vào giờ ấy, mụ già mà mình định ám hại sẽ ở nhà một mình.

[1] Các đảo nhỏ trên sông Neva là nơi dân Petersburg khá giả sống qua mùa hè trong những dinh thự xây rải rác trong các lùm cây. Ở đầu mũi lớn Vaxili sông Neva chia ra làm hai nhánh, một to, một nhỏ.

CHƯƠNG 6

Về sau Raxcolnicov tình cờ được biết cụ thể hai vợ chồng lão tiểu thương mời mụ Lizaveta đến để làm gì. Công việc họ bàn tính với nhau hết sức tầm thường, chẳng có gì đặc biệt cả. Số là có một gia đình mới dọn đến, vì cảnh sa sút phải bán một số áo quần và đồ dùng của phụ nữ. Đem ra chợ bán thì không được giá, cho nên họ muốn tìm người mua lại. Mụ Lizaveta vẫn thường làm những việc chạy hàng, mua đi bán lại như thế và khách hàng mụ cũng khá đông, vì mụ buôn bán rất thật thà và bao giờ cũng trả giá phải chăng, mụ đã nói bao nhiêu là mua bấy nhiêu, không mặc cả gì nữa. Nói chung thì mụ vốn ít lời và, như trên kia đã nói tính mụ vốn hiền lành và nhút nhát.

Nhưng gần đây Raxcolnicov đã trở nên mê tín. Tâm trạng mê tín ấy mãi về sau này còn để lại những dấu vết hầu như không sao xóa nhòa được. Về sau, chàng cứ có khuynh hướng xem tất cả những việc xảy ra xung quanh vụ này như có một cái gì huyền bí, kỳ dị, dường như có những ảnh hưởng và những sự tình cờ đặc biệt can dự vào việc này. Từ dạo mùa đông, một sinh viên quen chàng tên là Pokorev, trước khi lên đường đi Kharkov, nhân một buổi chuyện trò có cho chàng biết địa chỉ mụ già Aliona Ivanovna để nhỡ khi chàng có cần cầm cố gì chăng. Trong một thời gian khá lâu chàng không đến đấy vì đang có chỗ dạy học, còn tạm sống được. Cách đây một tháng rưỡi chàng nhớ đến địa chỉ này, chàng có hai món có thể đem cầm được: chiếc đồng hồ cũ của cha chàng và chiếc nhẫn vàng nhỏ có dát mấy viên ngọc gì đo đỏ mà em chàng tặng chàng làm kỷ niệm khi chia tay. Chàng quyết định đem cầm chiếc nhẫn, khi đã tìm ra chỗ ở mụ già, mới thoạt trông thấy mụ chàng đã có một cảm giác ghê tởm không sao nén nổi tuy chưa biết gì lắm về mụ ta. Chàng cầm của mụ hai "tờ" và dọc đường về chàng ghé vào một quán rượu tồi tàn. Chàng gọi trà, ngồi xuống cạnh bàn và suy nghĩ mông lung. Một ý nghĩ kỳ dị nảy nở trong óc chàng, như một con gà con sẵn sàng chui ra khỏi vỏ, và khiến chàng hết sức bận tâm. Hầu như ngay sát cạnh bàn chàng có một người sinh viên lạ mặt cùng ngồi với một viên sĩ quan trẻ tuổi. Họ vừa đánh bi-a xong và đang ngồi uống trà. Bỗng nhiên Raxcolnicov nghe người sinh viên nói chuyện với viên sĩ quan về mụ chủ hiệu cầm đồ, Aliona Ivanovna, quả phụ của một viên thư lại bậc bảy, và cho hắn biết địa chỉ mụ ta. Chỉ riêng điều đó thôi Raxcolnicov cũng đã lấy làm lạ: Chàng vừa ở nhà mụ ấy ra, thế mà vừa đúng người ta lại nói chuyện về mụ ấy. Dĩ nhiên đó là một sự tình cờ, nhưng bây giờ chàng không sao tẩy gột được một ấn tượng rất khác thường, và đến đây dường như người ta lại muốn tô đậm nét thêm ấn tượng đó. Người sinh viên bỗng dưng bắt đầu nói cho bạn biết những chuyện tỉ mỉ về mụ Aliona Ivanovna ấy.

- Mụ ấy khá lắm. - Người sinh viên nói. - Đến mụ thì bao giờ cũng có tiền. Giàu sụ như một lão Do Thái, mụ có thể đưa ra một lúc năm nghìn, nhưng cũng không coi khinh những đồ cầm chỉ đáng giá một rúp. Bọn chúng tớ đã có rất nhiều tay đến đấy. Có điều là mụ ta ghê gớm lắm.

Rồi hắn bắt đầu kể lể những là mụ ta độc ác ra sao, tính khí bất thường ra sao, những là chỉ cần quá hạn chuộc có một ngày cũng đã mất toi đồ cầm rồi. Mụ ta chỉ ứng cho được một phần tư giá tiền, đồ cầm, lấy lãi hàng tháng đến năm phân hay nhiều khi đến bảy phân nữa là khác v.v... Người sinh viên lại còn cao hứng lên nói ba hoa rằng mụ ta có một mụ em gái tên là Lizaveta, và mụ già bé loắt choắt, xấu như hủi ấy luôn tay đánh đập và hành hạ em gái như tôi mọi, xem như đứa con nít, mặc dù mụ Lizaveta ít ra cũng cao đến thước bảy.

- Cũng là một của lạ đấy! - Người sinh viên cười lớn.

Họ bắt đầu bàn tán về mụ Lizaveta. Người sinh viên có vẻ đặc biệt khoái trá khi nói đến mụ ta và cười luôn mồm, còn viên sĩ quan thì nghe rất chăm chú và bảo bạn nhắn mụ Lizaveta ấy đến vá đồ lót cho mình. Raxcolnicov không bỏ qua lấy một câu nào và biết được đủ mọi chuyện: Mụ Lizaveta là em cùng cha khác mẹ của mụ già kia, năm nay đã ba mươi lăm tuổi. Mụ làm quần quật suốt ngày đêm cho chị, nấu nướng, giặt giũ khâu áo quần đem bán, đi lau sàn thuê cho người ta, bao nhiêu tiền công kiếm được đều đưa cả cho chị. Mụ không bao giờ dám nhận công việc gì của ai giao nếu không được mụ già cho phép. Mụ già nay đã làm xong di chúc, và mụ Lizaveta cũng có biết việc đó. Theo tờ di chúc này thì mụ em không được hưởng lấy một xu nhỏ ngoài mấy thứ bàn ghế và đồ dùng lặt vặt; còn tiền bạc thì đều cúng cho một tu viện ở trấn N.... để làm tiền phí tổn cầu nguyện thường xuyên cho vong linh mụ già. Mụ Lizaveta thuộc hạng tiểu thị dân chứ không phải thuộc giới viên chức. Đó là một mụ gái già xấu xí, người cao lêu đêu, đôi chân vòng kiềng dài ngoẵng, lúc nào cũng đi đôi giày vẹt gót, ăn ở khá sạch sẽ. Nhưng điều làm cho người sinh viên ngạc nhiên và buồn cười hơn cả là mụ Lizaveta lúc nào cũng có mang.

- Thế sao cậu bảo mụ ta xấu xí lắm kia mà? - Viên sĩ quan nhận xét.

- Ừ, nước da thì đen sạm như một thằng lính cải trang, nhưng cậu phải biết là mụ ta trông không đến nỗi. Khuôn mặt và đôi mắt mụ trông cũng phúc hậu. Rất phúc hậu nữa là khác. Chứng cớ là nhiều người ưa mụ lắm. Mụ ta hiền lành, dịu dàng, dễ tính, bảo gì mụ cũng nghe. Với lại mụ cười trông cũng khá xinh.

- Thế ra cậu cũng ưa mụ ta hẳn? - Viên sĩ quan bật cười nói.

- Cái kỳ quặc của mụ cũng có chỗ hay hay. Thôi, để tớ nói cái này cho mà nghe. Tớ sẵn lòng giết phăng mụ già kia để cướp lấy của cải, và tớ cam đoan với cậu là lương tâm tớ sẽ không mảy may cắn rứt. - Người sinh viên hăm hở nói thêm.

Viên sĩ quan lại cười phá lên. Raxcolnicov giật mình. Thật là kỳ quặc...

- Này, cậu cho phép tớ hỏi một việc nghiêm chỉnh nhé. - Người sinh viên hăng lên nói. - Vừa rồi cố nhiên là tớ nói đùa, nhưng cậu thử nghĩ mà xem: Một đằng là một mụ già đần độn, vô nghĩa, độc ác, bệnh tật, chẳng có ích gì cho ai cả, trái lại còn có hại cho mọi người, sống cũng chẳng biết để làm gì, mà dù cứ để mặc cho mụ sống thì chỉ nay mai mụ cùng sẽ chết già chết bệnh, cậu hiểu không, cậu hiểu không nào?

- Ờ thì hiểu. - Viên sĩ quan đáp, mắt chăm chú nhìn người bạn đang say sưa nói.

- Cậu nghe tiếp nhé. Mặt khác là những sức lực trẻ trung, cường tráng phải điêu đứng vì vô kế sinh nhai, mà những thứ ấy lại có hàng nghìn, và nơi nào cũng có! Hàng trăm, hàng nghìn việc tốt có thể khai trương và chỉnh đốn được nếu dùng số tiền mà mụ già dành cho tu viện. Có lẽ hàng trăm, hàng nghìn kiếp sống có thể được đưa vào con đường ngay thẳng; có thể cứu hàng chục gia đình thoát cảnh bần cùng, tan vỡ, trụy lạc, chết chóc, thoát khỏi nhà thương bố thí chữa bệnh hoa liễu, - và muốn thế chỉ cần lấy số tiền của mụ ấy. Hãy giết mụ ấy đi, và đoạt lấy số của ấy để suốt đời phụng sự nhân loại và sự nghiệp chung: Cậu nghĩ sao, hàng nghìn việc thiện há lại chẳng chuộc được một tội ác cỏn con duy nhất ấy sao? Chỉ hy sinh một tính mạng mà cứu được hàng nghìn sinh linh ra khỏi cảnh thối nát và tan rã. Một cái chết đổi lấy hàng trăm cái sống, đúng là một vấn đề số học chứ gì nữa! Vả lại trên cán cân của xã hội có nghĩa lý gì tính mạng của con mụ già ho lao, đần độn và độc ác ấy? Không hơn tính mạng một con rận, một con gián, không bằng nữa là khác, vì mụ ta có hại hơn. Mụ ta hút máu hút mủ người khác; hôm nọ mụ ta nổi cơn ác khí lên cắn gần đứt ngón tay mụ Lizaveta đấy!

- Cố nhiên là mụ ta chẳng đáng được sống. - Viên sĩ quan nói. - Nhưng ở đây còn phải kể đến thiên nhiên.

- Chà, anh bạn, thiên nhiên thì người ta vẫn phải sửa chữa, uốn nắn đấy thôi, nếu không thì đành chết ngột trong đống thành kiến mất. Không làm như thế thì không thể nào có lấy một vĩ nhân được. Người ta cứ nói: "Bổn phận, lương tâm", tớ không có đả phá bổn phận, lương tâm gì đâu, nhưng vấn đề là chúng ta quan niệm nó như thế nào? Khoan, để tớ hỏi cậu một câu nữa. Cậu nghe đây!

- Không, cậu khoan hẵng; để tớ hỏi cậu cái này.

- Nào thì hỏi đi.

- Nãy giờ cậu thuyết lý nghe hùng hồn lắm; bây giờ cậu thử nói cho tớ nghe xem: Liệu cậu có thể "tự tay" giết mụ già hay không?

- Dĩ nhiên là không! Tớ nói là nói trên nguyên tắc công bình... Vấn đề ở đây không phải là cá nhân tớ...

- Thế còn theo tớ, nếu cậu đã không dám làm thì việc này cũng chẳng có gì dính líu đến cái công bình ấy! Ta chơi ván nữa đi!

Raxcolnicov bồi hồi xúc động đến cực điểm. Dĩ nhiên đây là một trong những câu chuyện và những ý nghĩ hết sức thông thường, quen thuộc của lớp thanh niên lúc bấy giờ mà chàng đã được nghe nhiều lần, duy cách suy luận và đề tài có khác mà thôi. Nhưng tại sao vừa đúng vào lúc này chàng lại được nghe câu chuyện ấy và những ý nghĩ ấy, trong khi ngay trong đầu óc chàng cũng vừa nảy ra... "chính những ý nghĩ ấy". Và tại sao vừa đúng vào lúc này, khi chàng vừa ra khỏi nhà mụ già, mang theo mầm mống phôi thai của ý định kia, thì lại gặp ngay một người nói chuyện về mụ ấy? Đối với chàng sự tình cờ này bao giờ cũng vẫn có vẻ kỳ quái. Câu chuyện vô nghĩa nơi hàng quán ấy đã có một ảnh hưởng phi thường đối với chàng trong quá trình phát triển của sự việc về sau. Hình như đây quả có một cái gì tiền định, một chỉ thị của số mệnh.

Từ Chợ Hàng Rơm trở về, chàng buông mình rơi phịch xuống đi-văng và suốt một tiếng đồng hồ ngồi yên không nhúc nhích. Trong khi đó trời sập tối; chàng không có nến, mà cũng không hề thoáng nảy ra ý nghĩ thắp nến lên làm gì. Chàng không bao giờ nhớ lại được trong thời gian ấy chàng có nghĩ gì không. Cuối cùng, chàng lại thấy gây gây sốt như hồi hôm, chàng rùng mình và khoái trá nghĩ ra rằng trên chiếc đi-văng này còn có thể nằm được. Chỉ lát sau, một giấc ngủ nặng như chì đã trùm lên chàng, dường như đè bẹp chàng xuống.

Chàng ngủ rất lâu và không mộng mị gì cả. Mười giờ sáng hôm sau, Naxtaxia đưa nước trà và bánh mì vào cho chàng, phải lay mãi chàng mới dậy. Lần này trà cũng lại loãng thếch và cũng pha trong chiếc ấm riêng của Naxtaxia.

- Cha chả là ngủ! - Chị ta bực mình kêu lên. - Cứ ngủ mãi thôi!

Chàng khó nhọc nhỏm dậy. Đầu chàng nhức buốt, chàng đứng xuống đất, đi một vòng quanh buồng rồi lại rơi phịch xuống đi-văng.

- Lại ngủ! - Naxtaxia kêu lên. - Nhưng cậu ốm hay sao thế?

Chàng lặng thinh không đáp.

- Có muốn uống nước trà không?

- Thôi khoan hẵng. - Chàng khó nhọc nói, đoạn nhắm mắt và nằm quay mặt vào tường.

- Dễ ốm thật rồi. - Naxtaxia nói đoạn quay ra.

Đến hai giờ trưa chị ta lại vào, và bưng liễn xúp. Chàng vẫn nằm như lúc nãy. Ấm nước trà vẫn còn nguyên. Naxtaxia giận dỗi lay chàng rất mạnh.

- Sao cậu cứ ngủ tràn ra thế! - Chị ta ngán ngẩm nhìn chàng quát. Chàng nhổm người lên rồi ngồi dậy, nhưng không nói gì với Naxtaxia, chỉ thẫn thờ nhìn xuống đất.

- Ốm hay sao vậy? - Naxtaxia hỏi, nhưng chàng vẫn lặng thinh.

- Cậu ra ngoài phố một chút thì hơn. - Chị ta nói sau một lát im lặng. - Đi ra một chút cho thoáng. Cậu ăn dăm miếng chứ?

- Sau hẵng hay. - Chàng đáp, giọng yếu ớt. - Thôi chị ra đi! - Đoạn chàng khoát tay một cái.

Naxtaxia đứng một lát nữa, ái ngại nhìn chàng rồi bỏ ra ngoài.

Mấy phút sau, chàng ngước mắt lên và nhìn hồi lâu ấm trà với liễn xúp. Rồi chàng với lấy khoanh bánh mì, cầm thìa và bắt đầu ăn.

Chàng ăn chẳng thấy ngon miệng chút nào, chỉ nhấp ba bốn thìa, như cái máy. Đầu đã đỡ nhức. Ăn xong chàng lại gieo mình xuống đi-văng, nhưng không ngủ được nữa; chàng nằm sấp không động đậy, mặt úp vào gối. Chàng cứ mơ mộng liên miên, và những hình ảnh kỳ lạ cứ chập chờn nối tiếp theo nhau: Chàng mơ thấy mình đang ở Ai Cập trên đất châu Phi, trong một khóm cây mọc giữa sa mạc. Đoàn lữ hành đang nghỉ ngơi, mấy con lạc đà nằm yên dưới bóng những cây cọ mọc um tùm quanh đấy, đoàn người đang ăn trưa. Còn chàng thì đang uống nước ở con suối chảy róc rách ngay sát bên cạnh. Khi trời mát rượi, và dòng nước trong xanh kỳ diệu cứ chảy róc rách trên lớp sỏi ngũ sắc, trên làn cát trắng tinh óng ánh lên từng chỗ như có lẫn bụi vàng... Bỗng có tiếng chuông đồng hồ vọng lại. Chàng giật mình tỉnh dậy, ngẩng đầu lên nhìn ra cửa sổ ngẫm chừng xem sớm muộn ra sao bỗng hoàn toàn tỉnh táo đứng phắt dậy như có ai nhấc bổng chàng lên khỏi đi-văng. Chàng rón rén đến mở hé cánh cửa trông ra cầu thang và bắt đầu nghe ngóng. Trống ngực chàng đập dữ dội. Nhưng ngoài cầu thang im phăng phắc, như thể mọi người đều đang ngủ. Nghĩ rằng mình đã có thể ngủ li bì như vậy suốt từ hôm qua, chưa làm gì, chưa chuẩn bị gì cả, chàng thấy nó kỳ quái và vô lý quá. Thế mà, có lẽ vừa rồi chuông đồng hồ vừa đánh sáu giờ cũng nên... và chàng bỗng hối hả cuống quýt lên, không còn chút gì ngái ngủ, đờ đẫn như lúc nãy nữa. Vả chăng công việc sửa soạn cũng không có gì phiền phức. Chàng tập trung hết sức chú ý để nhận rõ mọi việc và không quên lãng điều gì. Trống ngực chàng cứ đập thình thịch, mạnh đến nỗi chàng thấy khó thở. Trước hết cần phải làm cái quai rìu và khâu nó vào áo khoác - việc này chỉ mất một phút. Chàng lục đống áo quần nhét dưới gối tìm một chiếc sơ-mi cũ đã rách bươm, từ lâu không giặt, xé ra một mảnh dài khoảng ba tấc và rộng khoảng năm phân. Chàng gấp đôi mảnh giẻ lại, cởi chiếc áo rộng mùa hè bằng vải dày cộp đang mặc trên người (đó là chiếc áo ngoài duy nhất của chàng) và bắt đầu khâu hai đầu mảnh giẻ rách vào nách áo bên trái phía trong. Trong khi khâu, hai tay chàng run bắn lên, nhưng chàng vẫn trấn tĩnh được, và khi chàng mặc vào, bên ngoài không hề trông thấy đường chỉ. Kim chỉ chàng đã mua sẵn từ lâu và gói giấy cất trong ngăn kéo bàn. Cái quai vải ấy là một sáng kiến rất tinh xảo do chàng tự nghĩ ra: Nó dùng để đeo chiếc rìu. Vì ra đường không thể nào cầm rìu ở tay được, giấu dưới vạt áo thì vẫn phải lấy tay mà giữ, e người ta để ý mất. Còn như bây giờ có cái quai ấy rồi thì chỉ cần luồn cái cán rìu vào là nó sẽ nằm yên dưới nách áo, suốt dọc đường không phải lo lắng gì nữa. Thọc tay vào túi áo, chàng lại có thể giữ đầu cán rìu cho nó khỏi lúc lắc; cái áo khoác lại rộng thùng thình như cái bị, nên nhìn bên ngoài không thể nào nhận thấy chàng đang giữ một vật gì qua lần vải túi. Cái quai rìu này chàng cũng đã nghĩ ra từ hai tuần trước.

Xong đâu đấy, chàng thò mấy ngón tay vào cái khe hở nhỏ giữa chiếc đi-văng Thổ Nhĩ Kỳ của chàng và sàn gỗ, moi ở góc trái một lúc và kéo ra cái "đồ cầm" đã soạn sẵn từ lâu và giấu ở đấy. Cái "đồ cầm" này chẳng phải là đồ cầm gì cả; đó chỉ là một miếng gỗ mỏng bào trơn kích thước vừa đúng như một chiếc hộp đựng thuốc lá bằng bạc. Mảnh gỗ này một hôm đang đi chơi chàng tình cờ bắt được trong một cái sân kế bên một xưởng thợ. Về sau chàng ghép thêm một miếng sắt mỏng và trơn nhỏ hơn mảnh gỗ kia một chút - có lẽ là một mảnh sắt vụn ở một đồ dùng gì rời ra, - mà chàng nhặt được ở ngoài đường, cũng vào hôm ấy. Chàng ghép miếng sắt ấy vào miếng gỗ và lấy chỉ buộc lại thật chặt; rồi chàng lấy một tờ giấy trắng thật sạch gói lại cẩn thận, trông rất đẹp mắt, và chằng dây rõ kĩ cho thật khó mở. Như vậy là để làm xao lãng sự chú ý của mụ già và khi mụ ta đang hí hoáy tháo nút dây có thể chọn lúc thuận tiện. Miếng sắt mỏng ghép vào là để cho thêm nặng, sợ mụ già mới nhấc gói "đồ cầm" lên đã có thể biết ngay nó bằng gỗ. Tất cả những thứ ấy chàng cất dưới đi-văng chờ đến khi cần. Chàng vừa cầm cái gói lên thì bỗng nhiên ở bên ngoài có ai kêu:

- Sáu giờ từ lâu rồi còn gì!

- Trời ơi! Lâu rồi ư?

Chàng nhảy chồm ra cửa, nghe ngóng một lúc, vơ lấy mũ và bước xuống ba mươi bậc thang gác một cách thận trọng, lặng lẽ, như một con mèo. Bây giờ còn phải làm cái việc quan trọng nhất: lấy trộm cái rìu trong nhà bếp. Về vấn đề phải dùng rìu thì chàng đã giải quyết từ lâu. Chàng còn có một con dao xếp; nhưng chàng không dám tin vào con dao và nhất là không dám tin ở sức mình, cho nên chàng đã dứt khoát chọn cái rìu. Nhân thể cũng xin nhận xét qua một đặc điểm chung cho tất cả những điều mà chàng đã quyết định dứt khoát trong việc này. Những quyết định ấy có một thuộc tính kỳ dị: Nó càng dứt khoát thì chàng lại càng thấy ngay là nó quái gở, vô lý. Tuy trong tâm khảm có sự giằng co ray rứt dữ dội, suốt thời gian ấy chàng chưa bao giờ, dù chỉ một giây lát, có thể tin rằng những ý định của mình có thể thực hiện được.

Và dù đến một lúc nào đó mọi việc đều đã được suy tính kĩ càng từng li từng tí và đã được quyết định dứt khoát không còn nghi ngại phân vân gì nữa, thì có lẽ chàng cũng vẫn từ bỏ hết những ý định ấy như một cái gì điên rồ, quái gở và không thể có được. Thế nhưng những điều chưa giải quyết và những nỗi ngờ vực vẫn còn cả mớ. Còn như làm thế nào để lấy được cái rìu thì đó là một điều vặt vãnh không hề khiến chàng lo ngại, bởi vì không còn có gì dễ hơn nữa. Số là Naxtaxia, nhất là đến tối, cứ vắng nhà luôn: Chị ta cứ chạy sang nhà hàng xóm hay sang cửa hiệu bên cạnh, cửa bếp để mở toang. Cũng chỉ vì thế mà bà chủ tiếng bấc tiếng chì với chị. Như vậy chỉ cần chọn lúc lẻn vào bếp và lấy cái rìu rồi một giờ sau khi mọi việc đã xong xuôi trở vào để lại chỗ cũ. Nhưng cũng có những chỗ phân vân: Ví thử một giờ sau chàng đem rìu trả lại thì vừa đúng khi Naxtaxia đã trở về. Lẽ dĩ nhiên phải đi thẳng lên buồng đợi khi chị ta lại đi ra ngoài. Thế nhưng nếu lúc ấy chị ta lại tìm đến rìu và kêu toáng lên thì tất người ta sẽ sinh nghi hay ít nhất cũng là một dịp để người ta sinh nghi.

Nhưng đó vẫn là những điều vặt vãnh mà chàng chẳng thèm nghĩ đến nữa, vả chăng cũng không có thì giờ mà nghĩ. Chàng nghĩ đến cái chính, còn những điều vặt vãnh thì chàng gác lại cho đến khi nào chàng đã quyết định dứt khoát. Nhưng điều này thì lại có vẻ như không sao thực hiện được. Hoặc ít nhất là chàng cảm thấy thế. Chẳng hạn, chàng không thể nào tưởng tượng được rằng đến một lúc nào đó chàng sẽ nghĩ xong, sẽ đứng dậy và đi đến đấy... Ngay như chuyến đi "duyệt thử" vừa qua tức là chuyến đến thăm với ý định xem xét địa điểm lần cuối cùng chàng cũng chỉ "thử làm" qua thôi, chứ không phải định làm thật. Chàng chỉ tự nhủ: "Nào, ta sẽ đi xem thử một chuyến, chứ cứ "mơ tưởng" mãi thế này sao?", - rồi lập tức không sao chịu được nữa, chàng đã vứt bỏ hết, tự mình thấy ghê tởm mình. Thế nhưng trong khi đó hình như chàng đã phân tích và giải quyết xong xuôi mặt luận lý của vấn đề: Biện luận của chàng đã được mài sắc lên như lưỡi dao cạo và trong thâm tâm chàng đã không tìm thấy những lời phản bác có ý thức nữa. Rồi ngày vừa qua, cái ngày đã đến một cách bất ngờ như vậy và đã quyết định ngay mọi sự trong một lúc, đã tác động đến chàng một cách gần như máy móc, cứ như thể có ai cầm tay chàng lôi đi một cách không sao cưỡng nỗi, một cách mù quáng, với một sức mạnh siêu tự nhiên, không để cho chàng cãi lại. Cứ như thể chàng đã bị vướng vạt áo vào guồng máy, và guồng máy cứ thế mà cuốn luôn cả người chàng vào.

Lúc đầu - kể cũng đã lâu lắm, - có một vấn đề khiến chàng bận tâm: Tại sao tất cả các vụ án mạng đều bị khám phá một cách dễ dàng và dấu vết của hầu hết các thủ phạm đều hiện ra một cách lộ liễu như vậy? Chàng dần dà đi đến những kết luận phong phú và kỳ lạ, và theo ý chàng thì như thế không hẳn là vì thủ phạm không có điều kiện vật chất để che giấu tội ác: Nguyên nhân chủ yếu nằm ngay trong tâm lý thủ phạm; bản thân kẻ giết người, hầu như bất cứ kẻ nào cũng vậy, khi nhúng tay vào tội ác thì nghị lực và lý trí suy sụp hẳn đi, nhường chỗ cho một sự nhẹ dạ kỳ quặc như của trẻ con, mà lại đúng vào lúc cần minh mẫn và thận trọng hơn cả. Chàng nghiệm ra rằng tình trạng rối trí và mất nghị lực đó xâm nhập người ta như một cơn bệnh, phát triển dần và lên đến cực điểm trước khi người ta nhúng tay vào tội ác ít lâu; nó giữ nguyên mức độ ấy trong khi diễn ra tội ác và tiếp tục kéo dài một thời gian sau, dài ngắn tùy từng người; rồi cũng qua đi như bất cứ một cơn bệnh nào. Còn vấn đề phải chăng bệnh tật đẻ ra tội ác, hay chính tội ác, do bản chất đặc biệt của nó, bao giờ cùng đi đôi với một tình trạng giống như bệnh tật, thì chàng cảm thấy mình chưa đủ sức giải quyết.

Đi đến những kết luận ấy, chàng tin chắc rằng riêng với chàng, trong việc này sẽ không có những sự đảo lộn bệnh tật như thế, rằng chàng sẽ giữ vững được lý trí và nghị lực suốt trong thời gian thực hiện ý định, chỉ vì một lý do duy nhất là việc chàng định làm "không phải là tội ác"... Ta hãy bỏ qua cả cái quá trình đã đưa chàng đến quyết định cuối cùng; cứ thế này chúng ta cũng đã đi vượt lên trước nhiều quá rồi... Chỉ xin nói thêm rằng những trở ngại thực tế, thuần túy vật chất nói chung chỉ đóng một vai trò hết sức thứ yếu. "Chỉ cần giữ vững được nghị lực và lý trí là sẽ lần lượt khắc phục được tất cả khi cần phải nghiên cứu chi li việc này...". Nhưng chàng vẫn chưa bắt tay vào việc, chàng vẫn không tin chút nào rằng mình đã quyết định dứt khoát, và khi giờ đã điểm, mọi việc đâm ra có vẻ lạ lùng, hú họa và hầu như bất ngờ nữa là khác.

Một việc hết sức nhỏ nhặt đã dồn chàng vào thế bí ngay từ khi chàng chưa xuống hết cầu thang. Xuống đến ngang căn nhà bếp của bà chủ trọ, cửa bao giờ cũng mở toang, chàng thận trọng liếc mắt nhìn vào xem thử trong khi Naxtaxia đi vắng bà chủ có vào đấy không, và nếu không vào thì cửa phòng bà ta có đóng kĩ không, nhỡ may bà ta có nhìn ra khi chàng vào bếp lấy rìu chăng. Nhưng chàng kinh ngạc biết chừng nào khi chợt thấy rằng lần này không những Naxtaxia ở nhà, đang ngồi trong bếp, mà lại còn đang làm việc nữa: Chị ta đang lấy áo quần đựng trong giỏ giặt ra treo lên dây. Trông thấy chàng, Naxtaxia ngừng tay, quay lại nhìn theo chàng trong khi chàng đi qua. Chàng nhìn lảng đi nơi khác và cứ đi ngang như thể không trông thấy gì. Nhưng thế là việc hỏng bét: không có rìu! Chàng choáng hẳn người đi.

"Mình căn cứ vào đâu". - Chàng ngẫm nghĩ khi xuống đến cổng. - "Mình căn cứ vào đâu mà trù tính rằng đúng vào lúc ấy chị ta sẽ đi vắng. Tại sao, tại sao, tại sao mình lại tin chắc như thế?". - Chàng lặng người đi thậm chí còn thấy nhục nữa. Chàng muốn tự bêu riếu cho hả giận... Một nỗi hằn học u mê, thú vật sôi sục trong người chàng.

Chàng ngần ngừ dừng chân dưới vòm cổng. Đi ra phố lấy lệ thì chàng thấy khó chịu quá; trở về buồng lại càng khó chịu hơn. "Thế là lỡ mất một dịp may không còn bao giờ tìm lại được nữa?" - Chàng lẩm bẩm trong khi đứng tần ngần dưới cổng, ngay trước căn buồng tối om của người gác cổng cũng đang mở cửa. Bỗng chàng giật mình. Trong căn buồng của người gác cổng cách chàng hai bước, dưới một chiếc ghế dài đặt ở bên phải, một ánh thép loang loáng lọt vào mắt chàng... Chàng đưa mắt nhìn quanh - không có bóng người nào. Chàng rón rén đến gần căn buồng, bước xuống hai bậc thang và cất tiếng yếu ớt gọi người gác cổng. "Đúng thế, đi vắng rồi? Chắc đi đâu gần đây thôi, có lẽ ra quán, vì cửa vẫn mở toang". Chàng nhảy chồm về phía cái rìu đặt dưới gầm ghế giữa hai thanh củi và rút nó ra. Chàng lập tức đút cán rìu vào cái quai vải, đút hai tay vào túi áo và ra khỏi buồng. Không ai trông thấy cả! "Lý trí không được việc thì ma quỷ làm thay!" - Chàng nghĩ thầm, miệng nhoẻn một nụ cười quái gở. Việc vừa xảy ra khiến chàng phấn khởi lạ thường.

Chàng đi dọc đường, im lặng và khoan thai, không hấp tấp để khỏi bị nghi ngờ. Chàng ít nhìn những người qua đường, thậm chí còn cố gắng không nhìn chút nào vào mặt họ và làm sao đừng ai để ý tới mình. Đến đây chàng sực nhớ tới cái mũ dạ. "Trời ơi! Tiền đã có từ ba hôm nay, thế mà cũng không đổi lấy được một cái mũ cát két?" - Một câu chửi rủa từ trong lòng chàng vụt thốt ra.

Tình cờ liếc mắt nhìn vào một cửa hiệu, chàng thấy chiếc đồng hồ treo tường chỉ bảy giờ mười phút. Vừa phải đi nhanh lên cho kịp lại vừa phải đi vòng sang phía bên kia rồi quay trở lại cho khỏi lộ hướng...

Trước kia, những khi tưởng tượng đến những việc này, cũng có lúc chàng nghĩ rằng mình sẽ sợ lắm! Nhưng đến bây giờ thì chàng chẳng thấy sợ mấy, không sợ chút nào nữa là khác. Thậm chí lúc này chàng còn nghĩ đến những chuyện ở đâu đâu, có điều là những ý nghĩ ấy mới hiện lên đã vụt biến mất. Đi ngang công viên Yuxupov chàng lại còn nghĩ khá kĩ đến việc xây những vòi phun nước thật cao: Những vòi phun như thế sẽ làm cho không khí ở các quảng trường mát mẻ biết chừng nào! Chàng dần dần đi đến chỗ nghĩ rằng giá mở rộng công viên mùa hè ra khắp quảng trường Chiến Thắng hoặc hơn nữa, nối liền nó với công viên Mikhailovxki, thì đó sẽ là một công trình đẹp đẽ và hết sức có ích cho thành phố. Đến đây chàng bỗng lưu tâm đến một vấn đề: Tại sao trong tất cả các thành phố lớn người ta lại cứ ở vào những khu vực chẳng có vườn hoa, chẳng có vòi phun nước, ở những nơi bẩn thỉu hôi hám đầy rẫy những rác rưởi thối tha. Như thế không phải chỉ vì hoàn cảnh ép buộc, mà còn có một khuynh hướng đặc biệt gì đây nữa. Chàng nhớ lại những buổi đi dạo ở khu Chợ Hàng Rơm, và phút chốc trở về với hiện tại. "Nhảm nhí quá". - Chàng nghĩ thầm. - "Không, thà đừng nghĩ gì hết còn hơn!".

"Chắc hẳn ý nghĩ của những kẻ bị đưa ra pháp trường cũng bấu víu vào tất cả những đồ vật gặp trên đường đi như thế". - Ý nghĩ ấy thoáng nảy trong óc chàng, nhưng chỉ vụt qua như một tia chớp, chính chàng hối hả dập tắt nó đi. - "Nhưng đã gần đến nơi rồi, kia là tòa nhà, kia là cái cổng." - Bỗng đâu đây có một tiếng chuông đồng hồ đơn độc. "Sao, bảy giờ rưỡi rồi chả nhẽ, chắc cái đồng hồ ấy chạy nhanh quá!".

May thay cho chàng, khi đến cổng mọi việc lại diễn ra một cách êm thấm. Hơn nữa, dường như cố ý, vừa lúc ấy trước mặt có một chiếc xe giàn chở rạ to tướng đi vào cổng, che chàng khuất hẳn trong suốt thời gian chàng đi qua vòm cổng, và chiếc xe vừa vào đến sân chàng đã vụt lách mình sang phải. Ở bên kia chiếc xe chở rạ nghe có tiếng mấy người quát tháo, cãi vã, nhưng không ai trông thấy chàng và không thấy ai đi ngược lại phía chàng cả. Lúc bấy giờ trong số các cửa sổ trông ra khoảng sân rộng thênh thang ấy có nhiều cửa sổ đang mở, nhưng chàng không ngẩng đầu lên - chàng không đủ sức. Thang gác dẫn lên buồng mụ già gần ngang cạnh cổng, chỉ rẽ sang phải là đến. Chàng đã bước lên cầu thang...

Chàng thở lại cho đều đặn và lấy tay áp vào lồng ngực đang đánh thình thình, nhân thể nắn lại cây rìu một lần nữa rồi thận trọng và im lặng bước lên thang gác, phút phút lại lắng tai nghe ngóng. Nhưng ngay ở cầu thang lúc này cũng vắng tanh: Các cửa phòng đều đóng kín, chàng không gặp người nào cả. Ở gác hai, quả có một phòng bỏ trống cứ mở toang, trong có một tốp thợ sơn đang làm việc, nhưng họ không nhìn ra. Chàng dừng lại nghĩ ngợi một lát rồi tiếp tục đi. "Dĩ nhiên giá không có họ ở đây thì tốt hơn; nhưng... họ cách phòng kia những hai tầng."

Nhưng đây đã đến gác tư rồi, đây là cánh cửa ấy, và đây là gian phòng đối diện bỏ trống. Ở gác ba, gian buồng nằm ngay dưới buồng mụ già cũng bỏ trống: "Tấm thép ghim vào cửa đã cất đi, như vậy nghĩa là họ đã dọn nhà đi nơi khác!". Raxcolnicov thấy nghẹt thở. Một ý nghĩ vụt thoáng qua óc chàng: "Hay ta về quách?". Nhưng chàng không tự trả lời và bắt đầu lắng tai nghe xem trong phòng mụ già có động tĩnh gì không: trong phòng vẫn im phăng phắc. Chàng lại hướng về phía dưới cầu thang lắng nghe hồi lâu, thật chăm chú... Rồi chàng đưa mắt nhìn quanh một lần cuối cùng, xốc lại áo khoác và một lần nữa nắn lại cây rìu giắt vào quai vải. "Mặt mình có tái... quá không?". - Chàng nghĩ. - "Mình có hồi hộp quá không? Mụ ấy đa nghi lắm... hay là đợi một lát nữa cho tim bớt...?".

Nhưng tim chàng không hề bớt đập. Trái lại, như cố tình, nó càng đập mạnh hơn, mạnh hơn lên mãi... Chàng không ghìm được nữa, chậm rãi giơ tay lên cầm dây chuông và giật một cái. Nửa phút sau chàng lại giật lần nữa, mạnh hơn một chút.

Không có tiếng thưa: giật chuông nữa cũng vô ích, mà lại không tự nhiên. Dĩ nhiên mụ già đang ở nhà, nhưng tính mụ vốn đa nghi, và chắc hẳn mụ chỉ có một mình. Chàng biết được ít nhiều những thói quen của mụ... và một lần nữa chàng áp tai vào cánh cửa. Không biết vì giác quan của chàng đã trở nên nhạy bén đến thế (cũng khó lòng mà giả thiết như vậy) hay vì những tiếng động ấy nghe quá rõ, nhưng chàng chợt nghe dường như có tiếng một bàn tay thận trọng nắm lấy quả nắm và như có cả tiếng áo dài chạm sột soạt vào cánh cửa. Có ai lặng lẽ đứng sát ngay ở ổ khóa và cũng như chàng, đang áp tai vào cánh cửa nghe ngóng từ bên trong...

Chàng cố ý cựa quậy và lẩm bẩm một câu gì để mụ già khỏi nghĩ là chàng có ý lén lút; rồi chàng kéo chuông lần nữa, nhưng kéo khẽ, từ tốn và không lộ vẻ gì sốt ruột. Về sau nhớ lại những giây phút này, chàng thấy nó đã vĩnh viễn khắc sâu vào trí nhớ của chàng thành từng nét rõ mồn một; chàng không hiểu nổi làm sao chàng lại có thể xảo quyệt đến thế, nhất là trong khi trí thông minh của chàng cứ mờ đi từng lúc, còn thân thể thì hầu như đã mất hết khả năng cảm giác... Một lát sau nghe có tiếng rút chốt cài cửa...

CHƯƠNG 7

Cũng như lần trước, cánh cửa hé mở ra thành một khe hở nhỏ xíu, và từ trong bóng tối, hai con mắt sắc lại ngờ vực soi mói chàng. Đến đây Raxcolnicov mất bình tĩnh và suýt phạm một sai lầm lớn.

Sợ mụ già đâm hoảng vì thấy chỉ có mình mụ với chàng, và không dám trông mong rằng dáng vẻ của mình sẽ làm cho mụ yên tâm, chàng nắm lấy cánh cửa kéo về phía mình để cho mụ già không thể nghĩ đến chuyện đóng lại nữa. Thấy thế, mụ ta không kéo cánh cửa trở lại, nhưng cũng không buông quả nắm ra, thành thử suýt bị chàng lôi ra ngoài cầu thang cùng với cánh cửa. Còn Raxcolnicov thấy mụ già đứng chắn ngang cửa không cho chàng vào, liền bước thẳng về phía mụ ta. Mụ ta hoảng sợ nhảy lùi lại, toan nói gì nhưng dường như líu lưỡi lại không nói được, chỉ giương to mắt nhìn chàng.

- Chào bà Aliona Ivanovna. - Chàng lên tiếng, cố nói cho thật ung dung, nhưng giọng nói không chịu tuân theo ý chàng, cứ run lên và đứt từng quãng. - Tôi đem... một thứ... đến cầm... thôi tốt hơn ta hãy vào trong kia... cho sáng... - Nói đoạn chàng cứ để mụ đứng đấy đi xồng xộc vào phòng, không đợi mời mọc gì cả. Mụ già tất tả chạy theo chàng; lưỡi mụ đã đỡ líu lại.

- Trời? Ông muốn gì?... Ông là ai?... Ông hỏi có việc gì?

- Xin lỗi bà... tôi là chỗ quen biết đây mà... Raxcolnicov... đây, tôi mang đồ lại cầm như đã hứa lần trước... - Chàng đưa gói giấy ra cho mụ.

Mụ già liếc nhìn qua gói giấy rồi lập tức đưa mắt nhìn thẳng vào mắt người khách đường đột. Mụ nhìn chăm chú, đôi mắt hằn học và hồ nghi. Một phút trôi qua; chàng còn có cảm giác là trong đôi mắt mụ có một vẻ gì như giễu cợt tựa hồ mụ đã đoán biết được mọi việc. Chàng cảm thấy mình bối rối, gần như hoảng sợ, hoảng sợ đến nỗi nếu mụ cứ lặng thinh nhìn chàng như thế chừng nửa phút nữa thì chàng sẽ bỏ chạy mất.

- Ơ kìa, sao bà lại cứ nhìn tôi như thể không nhận ra ấy? - Chàng bỗng lên tiếng, giọng cũng có vẻ hằn học. - Bà có bằng lòng thì lấy, không thì thôi, tôi đi chỗ khác, tôi đang vội đây.

Chính chàng cùng không nghĩ là mình sẽ nói như thế; mấy câu ấy cứ thế tự nó tuôn ra. Mụ già trấn tĩnh lại, và hình như giọng nói quả quyết của ông khách đã làm cho mụ yên tâm.

- Ồ, thế nhưng cậu đến bất thình lình quá. - Cái gì thế? - Mụ nhìn gói giấy hỏi.

- Chiếc hộp đựng thuốc lá bằng bạc, lần trước tôi đã nói qua.

Mụ chìa tay ra.

- Nhưng sao cậu xanh thế? Tay cậu run kìa? Cậu sợ hay sao?

- Sốt. - Chàng đáp xẵng. - Không có gì ăn thì gì mà chả xanh... - Chàng phều phào nói thêm.

Sức lực chàng lại tiêu tan đâu mất hết. Nhưng câu trả lời có vẻ có lý; mụ già cầm lấy gói giấy.

- Đó là chiếc hộp thuốc lá... bằng bạc... bà xem thử.

- Xem chừng cứ như không phải bằng bạc... Chà, buộc gì mà kĩ quá thế?

Trong khi hí hoáy tháo nút dây và quay mặt về phía ánh sáng, cạnh cửa sổ (các cửa sổ trong phòng mụ đều đóng kín, tuy khí trời ngột ngạt) mụ để chàng đứng đấy và quay lưng về phía chàng trong vài giây. Chàng mở cúc áo khoác và tháo cái rìu ra khỏi quai, nhưng chưa rút hẳn ra ngoài, chỉ cầm ở tay phải dưới lần áo khoác. Hai tay chàng bủn rủn, chính chàng cảm thấy chúng mỗi lúc một tê dại và cứng đờ ra. Chàng sợ sẽ buột tay đánh rơi cây rìu... bỗng chàng thấy đầu óc choáng váng lên.

- Chà, buộc gì mà rắc rối thế! - Mụ già bực bội kêu lên và nhích về phía chàng.

Không thể bỏ lỡ lấy một giây nào nữa. Chàng rút hẳn rìu ra, cầm cả hai tay giơ cao lên, người như tê dại hẳn đi, và, hầu như không phải ra sức, như một cái máy, chàng bổ sống rìu xuống đầu mụ. Chàng dường như đã kiệt sức. Nhưng ngay sau khi chàng bổ rìu xuống rồi thì sức lực vụt trở lại, cũng như mọi khi, đầu mụ già để trần. Mái tóc thưa lốm đốm bạc xức dầu nhầy nhụa tết thành bím đuôi chuột và cài một miếng lược sừng gãy nhô lên ở phía trên gáy. Nhát rìu trúng ngay giữa đỉnh sọ, một phần cũng vì người mụ vốn thấp bé. Mụ ta kêu lên một tiếng, nhưng rất khẽ, và bỗng ngồi thụp hẳn xuống sàn nhà, tuy cũng còn đủ thì giờ đưa hai tay lên đầu. Một tay mụ hãy còn giữ gói "đồ cầm". Raxcolnicov liền lấy hết sức giáng sống rìu xuống một lần nữa, rồi một lần thứ ba, cũng đều nhằm đúng vào đỉnh sọ. Máu tuôn ra như từ một cái cốc đổ, và cái thân hình ngã sấp xuống. Chàng lùi lại một bước để cho mụ ngã và lập tức cúi xuống sát mặt mụ. Mụ già đã chết. Hai con ngươi mở trừng trừng như muốn vọt ra khỏi hốc mắt, cái trán và khắp khuôn mặt đều nhăn nheo và co rúm lại.

Chàng đặt rìu xuống sàn, bên cạnh xác chết, và lập tức thọc tay vào túi áo bên phải của mụ, cố cho máu đừng dây vào tay. Túi áo bên phải là túi đựng chìa khóa của mụ: lần trước chàng thấy mụ rút chìa khóa ở đấy ra; chàng hoàn toàn tỉnh táo, không hề cảm thấy choáng váng hay chóng mặt gì nữa, nhưng tay chàng vẫn run. Về sau chàng nhớ lại là lúc ấy chàng rất chăm chú, thận trọng, luôn có ý tứ giữ cho tay đừng dây máu... Chàng rút chìa khóa ra được ngay; cũng như trước, bao nhiêu chìa khóa đều xâu thành chùm vào một cái khâu bằng thép. Chàng lập tức cầm chùm chìa khóa chạy sang buồng ngủ. Đó là một căn buồng rất nhỏ, với một chiếc trang thờ to tướng bày đầy tượng thánh. Sát bức tường đối diện kê một cái giường lớn rất sạch trải chiếc chăn bông, áo chăn làm bằng nhiều mảnh lụa vụn khâu lại. Ở tường bên kê một chiếc tủ ngăn. Thật là kỳ lạ: Ngay khi chàng vừa mới bắt đầu thò chìa khóa vào ngăn tủ, vừa nghe thấy tiếng lách cách của chùm chìa khóa chạm vào nhau, chàng bỗng thấy rùng mình. Chàng lại nảy ra ý muốn vứt hết và bỏ đi. Nhưng ý nghĩ ấy chỉ thoáng qua trong giây lát: bây giờ mà bỏ đi thì đã muộn. Chàng còn đang cười nhạt chế nhạo mình, thì bỗng nhiên một ý nghĩ hãi hùng khác lại đập mạnh vào đầu chàng. Chàng bỗng mường tượng như mụ già hãy còn sống và có thể tỉnh dậy. Chàng bỏ chùm chìa khóa vào cái tủ ngăn ở đấy, chạy trở ra phòng ngoài, nơi cái xác đang nằm sóng soài, cầm lấy rìu và một lần nữa giơ cao lên trên người mụ già, nhưng không bổ xuống. Không còn hồ nghi gì nữa, mụ chết thật rồi. Cúi xuống nhìn sát hơn nữa vào xác chết, chàng thấy rất rõ ràng cái sọ đã bị bổ toác ra, xương đỉnh đầu còn lệch đi một chút nữa là khác. Chàng toan lấy ngón tay sờ thử, nhưng rồi lại rụt tay về. Không sờ cũng đã đủ rõ chán. Trong khi đó máu đã chảy loang ra thành một vũng. Chàng chợt thấy trên cổ mụ già có sợi dây; chàng kéo ra, nhưng sợi dây bền lắm không sao giật đứt được; hơn nữa nó lại thấm máu. Chàng thử kéo sợi dây qua đầu, nhưng có cái gì vướng chặt không kéo được. Chàng sốt ruột toan giơ rìu lên chặt đứt sợi dây ngay trên người mụ già, nhưng rồi không dám, và sau mấy phút hì hục vất vả làm dây bẩn cả tay lẫn rìu, chàng cưa đứt được sợi dây, không cần chạm vào người mụ già, và lấy nó ra; quả chàng không nhầm: Đó là một sợi dây đeo bóp đựng tiền. Ở đầu dây có hai cái thánh giá, một bằng gỗ huyền bá, một bằng đồng, ngoài ra còn có một bức tượng nhỏ tráng men. Bên cạnh các thứ đó là một cái bóp nhỏ bằng da lộn cáu ghét có khóa bấm bằng thép. Cái bóp nhét tiền chật cứng; Raxcolnicov đút nó vào túi, không mở ra xem, còn hai cái thánh giá thì chàng vứt lên ngực mụ già, và vẫn không quên cầm lấy chiếc rìu, chàng lại chạy trở vào buồng ngủ.

Chàng vội vã cuống cuồng lên, bắt đầu hí hoáy mở khóa. Nhưng không hiểu sao mở mãi chẳng ra: Chìa khóa không vặn được. Không phải vì tay chàng run mạnh đến thế, nhưng chàng cứ lầm lẫn mãi: chẳng hạn có khi chàng cũng thấy là chìa này không phải, thế nhưng cứ đút vào. Chàng chợt nhớ lại và suy ra rằng cái chìa khóa to, đầu có răng cưa chắc chắn không phải chìa mở tủ ngăn (lần trước chàng cũng đã nghĩ như thế) mà phải dùng để mở một cái tráp nào đấy, và cái tráp ấy mới chính là nơi mụ già cất giấu tất cả của cải của mụ. Chàng rời chiếc tủ ngăn và lập tức bò xuống gầm giường, vì biết rằng các bà già thường cất tráp ở đấy, quả nhiên dưới gầm giường có một cái rương khá to chiều dài đến hơn bảy tấc, nắp khum lên, bọc da để đỏ nẹp từng hàng đinh thép. Cái chìa khóa răng cưa vừa khớp với ổ khóa. Chàng mở ra. Phía trên, dưới một tấm vải trắng, có một chiếc áo choàng lông thỏ lót vải đỏ, dưới nữa có một chiếc áo dài lụa, rồi đến một tấm khăn san. Có thể tưởng chừng như cái rương đựng toàn quần áo. Trước hết Raxcolnicov chùi hai bàn tay vấy máu lên lần vải đỏ lót áo lông. "Vải đỏ, thế thì chùi máu vào đây, sẽ khó thấy hơn." - Chàng suy nghĩ, rồi bỗng sực tỉnh: "Trời ơi! Ta điên rồi hay sao thế này?" - Chàng kinh hãi nghĩ thầm.

Nhưng chàng vừa nhấc mấy thứ quần áo lên thì từ dưới chiếc áo lông tuột ra một cái đồng hồ vàng. Chàng lập tức xáo hết lên. Quả nhiên, giữa các lớp áo quần đều có những đồ bằng vàng - chắc đều là những đồ cầm không chuộc lại, - vòng, xuyến, trâm, dây chuyền, hoa tai và nhiều thứ khác. Có cái đựng trong hộp, có cái chỉ gói giấy báo, nhưng gói rất cẩn thận bằng hai lần giấy, ngoài lại buộc dây rất kĩ. Không chần chừ lấy một giây, chàng bắt đầu đút hết thứ này đến thứ khác vào túi quần và túi áo khoác, không chọn lựa không mở ra xem. Nhưng chàng chưa có thì giờ bỏ túi được bao nhiêu...

Bỗng nghe có tiếng chân bước ở phòng ngoài, nơi có xác mụ già. Chàng ngừng tay và lịm đi. Nhưng mọi vật vẫn im lặng, chắc chàng mê sảng. Chợt chàng nghe rõ một tiếng kêu khe khẽ, hay dường như có ai kêu lên một tiếng ấm ức rồi ngưng bặt. Xung quanh lại im phăng phắc trong khoảng một hai phút. Chàng ngồi xổm bên cạnh chiếc rương và chờ đợi, hơi thở rối loạn, nhưng bỗng nhiên chàng vụt chồm dậy, vơ lấy rìu và chạy ra.

Mụ Lizaveta đang đứng ở giữa phòng, tay cầm một gói vải lớn, sững sờ nhìn xác mụ chị, mặt trắng nhợt như tờ giấy và dường như không có đủ sức để kêu lên nữa. Trông thấy chàng chạy ra, mụ run lên cầm cập và mặt mụ như rúm ró lại; mụ giơ tay lên bưng lấy miệng, nhưng vẫn không kêu, rồi từ từ đi thụt lùi về phía góc phòng, lặng lẽ giương mắt nhìn chàng trừng trừng, như thể không còn đủ hơi sức mà kêu nữa. Raxcolnicov cầm rìu lao tới; môi mụ mếu xệch đi như môi của trẻ nhỏ khi kinh hãi nhìn chăm chăm vào vật gì đang làm chúng sợ và sắp sửa khóc òa lên. Người đàn bà khốn nạn kia ngờ nghệch và hoảng hốt đến nỗi thậm chí cũng không còn đủ trí khôn để đưa hai tay lên ngang mặt mà đỡ, mặc dầu đó là cử chỉ tự nhiên và tất yếu nhất trong giây phút này, vì cây rìu đang giơ lên ngay phía trên mặt, mụ chỉ hơi nhấc tay trái lên cách mặt một quãng và từ từ giơ về phía trước như để đẩy chàng ra. Lưỡi rìu giáng thẳng xuống sọ và bổ đứt cả phần phía trên trán, gần sát đến đỉnh đầu. Thế là mụ ngã nhào xuống; Raxcolnicov hoàn toàn rối trí. Chàng vớ lấy cái tay nải của mụ, rồi lại bỏ xuống và chạy ra phòng ngoài.

Chàng mỗi lúc một thêm hoảng hốt, nhất là sau vụ giết người thứ hai hoàn toàn bất ngờ này. Chàng muốn trốn khỏi nơi này cho thật nhanh. Và ví thử lúc ấy chàng có đủ sức nhìn và suy luận một cách đúng đắn hơn, ví thử chàng có thể thấy hết được cái tình cảnh khó khăn, tuyệt vọng, quái gở và vô lý của mình, hiểu rõ mình còn phải làm bao nhiêu việc gian phi nữa mới có thể thoát ra khỏi nơi này và lần về đến nhà, thì rất có thể là chàng đã bỏ hết đây và lập tức đi tự thú, và như vậy cũng không phải vì lo sợ cho bản thân mình, mà chỉ vì kinh hãi và ghê tởm trước việc mình vừa làm. Nỗi ghê tởm mỗi lúc một trỗi dậy và dâng lên dữ dội trong lòng chàng. Bây giờ không còn có gì trên đời có thể bắt chàng trở vào chỗ cái rương, thậm chí trở vào trong hai gian phòng kia cũng vậy.

Nhưng một tâm trạng lơ đãng, hầu như mơ mộng, dần dần xâm chiếm lấy chàng: có những lúc chàng như quên hẳn mình đi, hay nói cho đúng hơn, quên mất điều chủ yếu, và cứ để tâm vào những chuyện vụn vặt. Tuy vậy, khi liếc nhìn vào gian bếp và trông thấy một xô nước đặt trên chiếc ghế dài, chàng cũng nghĩ đến việc rửa tay và rửa rìu. Hai tay chàng nhầy nhụa những máu. Chàng thả cây rìu vào xô nước, cầm lấy miếng xà phòng đựng trong cái đĩa vỡ đặt trên bậu cửa sổ và bắt đầu rửa tay ngay trong xô. Rửa tay xong, chàng lấy cái rìu ra, rửa lưỡi rìu, và một hồi lâu, trong khoảng ba phút đồng hồ, chùi cọ những vết máu trên cán rìu, có lúc còn lấy cả xà phòng xát thử nữa. Đoạn chàng lấy những thứ áo quần phơi trên sợi dây căng qua giàn bếp lau tay và rìu, rồi đưa cây rìu ra đứng cạnh cửa sổ xem xét hồi lâu. Vết máu đã chùi sạch, chỉ có cái cán hơi ướt. Chàng cẩn thận bỏ rìu vào cái quai khâu dưới áo choàng, rồi trong ánh sáng mờ mờ lọt vào gian bếp, chàng xem xét chiếc áo khoác, cái quần, đôi ủng. Mới thoáng trông thì nhìn bên ngoài chẳng thấy gì cả; chỉ có một vệt máu dính ở ủng. Chàng nhúng ướt một mảnh giẻ và lau sạch chiếc ủng. Vả chăng chàng cũng biết là không thể xem thật kĩ được, và có lẽ còn một dấu vết gì rõ rệt mà chàng không để ý. Chàng phân vân đứng ở giữa phòng. Một ý nghĩ đen tối, day dứt dấy lên trong lòng chàng: Chàng nghĩ rằng mình đang phát điên và lúc này đã không đủ sức suy luận, không đủ sức tự vệ nữa, và có lẽ những việc chàng đang làm đây lại chính là những việc không nên làm... "Trời ơi! Phải trốn đi, trốn đi!" - Chàng lẩm bẩm rồi lao ra phòng trước. Nhưng đến đây chàng đã phải một phen kinh hoảng mà dĩ nhiên chàng chưa có lần nào trải qua.

Chàng đứng ngẩn người ra nhìn và không còn dám tin ở mắt mình nữa: Cánh cửa ngoài mở ra thang gác, chính cánh cửa mà chàng đã bước vào lúc nãy sau khi giật chuông, bây giờ đang để ngỏ, thậm chí còn hở đến một gang tay nữa là khác: không khóa, không cài then; nó đã bị để ngỏ như thế suốt cả thời gian, suốt cả thời gian ấy! Mụ già vào xong không đóng cửa lại, chắc là để đề phòng chuyện bất trắc. Nhưng trời ơi! Sau đó còn có mụ Lizaveta vào nữa kia mà? Làm sao chàng lại không nghĩ ra rằng mụ phải có lối nào mà vào? Chả nhẽ mụ lại đi xuyên qua tường được! Chàng nhảy chồm ra cửa và móc chốt lại.

- Nhưng mình lại lẩn thẩn rồi! Phải bỏ đi mới đúng, phải đi...

Chàng nhấc chốt lên, mở cửa và lắng nghe những tiếng động ở ngoài cầu thang.

Chàng nghe ngóng hồi lâu, xa xa đâu ở phía dưới, có lẽ ở ngoài cổng, có tiếng hai người đang cãi cọ chửi bới lẫn nhau rất to, giọng the thé. "Họ nói những gì thế?..." - Chàng kiên nhẫn chờ một lát. Cuối cùng tiếng léo nhéo im bặt như bị cắt ngang: Họ bỏ đi rồi. Chàng đã muốn đi ra, nhưng bỗng ở tầng dưới có tiếng cánh cửa mở ra thang gác đánh sầm một cái, và có ai bắt đầu bước xuống cầu thang, mồm ê a hát một câu gì không rõ. "Sao họ lại cứ làm ồn suốt đi thế!" - Chàng thoáng nghĩ. Chàng khép cửa lại và đứng chờ... Cuối cùng mọi vật đều im phăng phắc, không còn ai đi lại gì nữa, chàng đã đặt một chân ra ngoài thì bỗng nghe có tiếng chân bước.

Tiếng chân bước nghe rất xa, mãi tận cuối cầu thang thì phải, nhưng chàng nhớ rất rõ ràng lúc ấy không hiểu tại sao vừa nghe tiếng bước đầu tiên chàng đã nghĩ ngay rằng chắc chắn người ta đang đi lên đây, lên buồng mụ già ở tầng bốn. Tại sao? Những tiếng động ấy có gì đặc biệt, đáng chú ý chăng? Những tiếng chân bước ấy nặng nề, đều đặn, thong thả. Và đây, hắn đã lên đến gác hai, và vẫn còn lên nữa, tiếng chân mỗi lúc một rõ thêm, có thể nghe thấy tiếng thở hen suyễn nặng nhọc của hắn, hắn đã bắt đầu đi qua gác ba... Hắn đã đến đây! Và Raxcolnicov chợt thấy như mình cứ đờ ra, chàng có một cảm giác y hệt như trong giấc chiêm bao, khi mơ thấy có người đuổi đến gần để giết mình, còn mình thì như chôn chặt xuống đất và không sao cựa tay được nữa.

Và mãi cho đến khi người khách lạ bắt đầu leo lên gác tư, chàng mới cuống cuồng lên đóng cửa lại và nhanh nhẹn rời gian phòng ngoài lùi vào trong nhà. Rồi chàng cầm lấy cái móc cửa và nhẹ nhàng cài lại, không một tiếng động. Bản năng đã giúp chàng. Xong đâu đấy, chàng nín thở nép người vào sát cánh cửa. Người khách bất đắc dĩ cũng đã đứng ngoài cửa. Bấy giờ hai người đang đứng sát vào nhau như chàng với mụ già lúc nãy, khi cánh cửa còn ngăn cách họ, và chàng thì lắng tai nghe ngóng.

Người khách thở hắt ra mấy tiếng nặng nhọc. "Chắc phải là một người to béo." - Raxcolnicov nghĩ thầm tay siết chặt cán rìu. Quả nhiên, cứ như trong một giấc chiêm bao, chàng nghe thấy khách cầm lấy dây chuông giật mạnh.

Cái tiếng rè rè như sắt tây của chiếc chuông vừa vang lên thì chàng chợt có cảm giác như trong phòng xôn xao hẳn lên. Trong mấy giây chàng còn lắng tai nghe ngóng thật sự nữa là khác. Người lạ mặt kéo chuông lần nữa, đợi thêm một lát rồi bỗng nhiên sốt ruột ra sức giật quả nắm cửa. Raxcolnicov kinh hoàng nhìn cái chốt cửa đang lật bật trong móc cài và sững sờ đợi lúc cái chốt bật hẳn ra ngoài. Quả nhiên có thể tưởng đâu nó sắp bật đến nơi: Người đứng ngoài cửa giật mạnh lắm. Đầu chàng dường như lại choáng váng lên. "Mình ngã xuống mất!" - Chàng thoáng nghĩ, nhưng người kia đã lên tiếng, khiến chàng lập tức định thần lại.

- Chà hai con mẹ này làm gì trong ấy, ngủ tiệt hay có ai bóp chết ngoẻo rồi? Đồ quỷ sứ! - Hắn gầm lên, tiếng nghe như trong thùng phát ra. - Ê, Aliona Ivanovna, mụ phù thủy già! Lizaveta Ivanovna, nàng giai nhân tuyệt thế! Mở ra chứ! Chà, hai con mẹ chết tiệt ngủ rồi hay sao thế không biết?

Hắn phát khùng lên, lấy hết sức lực kéo chuông hàng chục lần nữa. Chắc hẳn đây phải là một người quen biết lâu ngày và có quyền thế đối với nhà này.

Ngay lúc ấy bỗng nghe có bước mau, vội vã, trên thang gác, cách đấy không xa. Lại thêm một người nữa mới đến, lúc đầu Raxcolnicov nghe vẫn chưa hiểu ra điều đó.

- Chả nhẽ không có ai ở nhà à? - Người mới đến cất tiếng oang oang vui vẻ hỏi người kia lúc bấy giờ đang kéo chuông. - Chào bác Cokh!

"Cứ nghe giọng nói thì chắc chắn hắn còn trẻ lắm." - Raxcolnicov chợt nghĩ.

- Có ma nó biết, lay đến vỡ ổ khóa ra mà vẫn không thưa. - Cokh đáp. - Thế tại sao ông lại biết tôi?

- Ơ kìa! Thì hôm kia ở tiệm "Gambrinus" tôi vừa thắng bác ba ván bi-a liền đấy thôi.

- À - à - à...

- Thế sao, không có nhà à? Lạ thật. Mà cũng vô lý hết sức. Mụ già ấy thì đi đâu mới được chứ? Tôi đang có việc cần gặp mụ.

- Tôi cũng thế ông ạ!

- Thôi, biết làm thế nào được? Đành phải về vậy. Chà. À! Thế mà tôi cứ tính chuyện đến lấy ít tiền! - Người trẻ tuổi phàn nàn.

- Đành phải về thật, nhưng đã thế sao lại đi hẹn với người ta? Chính con mụ ấy hẹn giờ hẹn ngày với tôi đấy chứ. Tôi phải đi vòng khá xa mới ghé lại đây được. Nhưng tôi vẫn không hiểu mụ già ấy đi đâu thế? Ngồi ru rú ở nhà suốt năm đến mốc thếch cả người ra, lại đau chân nữa, thế mà nay bỗng dưng lại đi dạo đâu vắng mới lạ chứ.

- Hay thử hỏi lão gác cổng xem.

- Hỏi gì?

- Hỏi xem mụ đi đâu và bao giờ về?

- Hừm, đồ quỷ... hỏi, nhưng mà mụ ấy có đi đâu được kia chứ... - Và một lần nữa hắn lại kéo quả đấm cửa. - Mẹ kiếp, thôi đành về vậy.

- Khoan đã. - Người trẻ tuổi bỗng kêu lên. - Bác thử nhìn xem: hễ kéo là cánh cửa hơi bật ra một tí, bác thấy không?

- Thì sao?

- Thế nghĩa là cửa không khóa mà chỉ cài chốt thôi, chỉ móc lại thôi mà! Bác có nghe thấy không cái móc kêu lạch cạch đấy.

- Thế thì sao?

- Sao bác lại không hiểu nhỉ? Thế nghĩa là vẫn có người ở nhà. Nếu cả hai mụ đều đi vắng cả thì phải khóa bằng chìa ở bên ngoài, chứ sao lại móc cửa ở bên trong được. Thế nhưng đây thì móc cửa lại cứ kêu cành cạch thế kia kìa, bác có nghe thấy không? Mà muốn móc cửa từ phía trong thì phải ở trong nhà chứ, bác hiểu ra chưa? Thế nghĩa là hai con mụ ở nhà mà vẫn không chịu mở cửa!

- Ờ mà thật! - Cokh ngạc nhiên kêu lên - Thế thì hai con mụ làm gì ở trong ấy? - Và hắn lại giận dữ kéo cửa.

- Khoan! - Người trẻ tuổi lại nói. - Đừng kéo nữa. Có cái gì không ổn đây rồi... Bác kéo chuông, giật cửa như thế mà vẫn không mở: thế nghĩa là hai mụ phải chết giấc đi ở trong ấy hay là...

- Hay là thế nào?

- Bây giờ thế này nhé: Ta xuống gọi bác gác cổng lên để cho bác ấy đánh thức hai mụ dậy.

- Phải đấy?

Cả hai người cùng đi xuống.

- Khoan đã! Bác cứ đứng đây một chút, tôi sẽ xuống gọi cho.

- Đứng đây làm gì?

- Nhỡ ra có chuyện gì...

- Có lẽ...

- Tôi đang học để ra làm dự thẩm! Ở đây rõ ràng có một cái gì không ổn, r - rõ r - ràng là như thế. - Người trẻ tuổi hăm hở nói to, đoạn chạy vội xuống thang gác.

Cokh đứng lại, khẽ kéo chuông một lần nữa. Cái chuông kêu lên một tiếng. Sau đó hắn lại im lặng vặn quả nắm, có vẻ như đang suy nghĩ và xem xét điều gì, kéo cánh cửa rồi lại buông ra để nghiệm lại một lần nữa, cho chắc bụng rằng cửa chỉ móc lại chứ không khóa. Rồi hắn vừa thở phì phò vừa khom người xuống dòm vào lỗ khóa; nhưng khóa đã đút vào ổ từ phía trong, cho nên hắn không thể trông thấy gì hết.

Raxcolnicov đứng yên, tay lăm lăm cầm cán rìu. Chàng như đang mê sảng. Chàng còn sắp sẵn để đánh nhau với hai người lạ khi họ vào nữa. Trong khi họ gọi cửa và nói chuyện với nhau, đã mấy lần chàng chợt nảy ra ý chấm dứt quách cho xong và đứng sau cửa lên tiếng quát họ. Có khi chàng muốn chửi bới, trêu tức họ trong khi họ chưa mở được cửa. "Nhanh lên thôi chứ!" - Ý nghĩ ấy vụt thoáng qua óc chàng.

- Mà sao hắn đi lâu thế, đồ quỷ.

Thời gian trôi qua, một phút, rồi một phút nữa, vẫn không thấy ai lên. Cokh bắt đầu bứt rứt cựa quậy.

- Quái thật?... - Hắn bỗng sốt ruốt kêu lên rồi bỏ mặc đấy đi xuống nốt, chân bước vội vã và nện ủng thình thình trên thang gác. Tiếng bước xa dần rồi im hẳn.

- Trời ơi, biết làm gì đây?

Raxcolnicov nhấc chốt, hé mở cửa ra. Xung quanh không có lấy một tiếng động. Và bỗng nhiên chàng bước ra, đầu óc tuyệt nhiên không còn nghĩ ngợi gì nữa hết, đóng cửa lại thật chặt và đi xuống cầu thang.

Chàng vừa xuống được ba bậc thang thì bỗng phía dưới có tiếng động mạnh. Biết nấp vào đâu bây giờ? Xung quanh không có chỗ nào có thể ẩn được. Chàng chạy lùi lại, quay trở vào phòng.

- Ê quân chết tiệt! Bắt lấy nó!

Ở phía dưới có ai vừa quát tháo vừa từ trong một căn phòng nào đó nhảy xổ ra rồi đâm bổ xuống thang gác, miệng thét thất thanh:

- Mitca! Mitca! Mitca! Mitca! Mitca! Quỷ bắt mày đi thằng nỡm!

Tiếng quát tháo chuyển sang tiếng rú the thé rồi im hẳn; những tiếng sau cùng nghe rõ là từ sâu vọng lên. Xung quanh lại im lặng. Nhưng ngay lúc ấy một tốp người vừa ầm ầm leo lên thang gác vừa nói chuyện ồn ào, tiếng nghe dồn dập. Họ có khoảng ba hay bốn người. Chàng phân biệt được giọng nói oang oang của người trẻ tuổi. "Chính họ đấy rồi!".

Hoàn toàn tuyệt vọng, chàng đi thẳng xuống phía họ, ra sao thì ra? Họ chặn chàng lại thì hỏng bét, mà họ không chặn nữa, thì cũng thế: Họ sẽ nhớ. Hai bên đã sắp chạm trán nhau: giữa chàng với họ chỉ còn một cầu thang nữa, và bỗng nhiên, lối thoát hiện ra cách chàng vài bậc thang, về bên phải, có một gian phòng bỏ trống cửa mở toang, chính gian phòng ở gác hai nơi bọn thợ sơn đang làm việc lúc nãy, nhưng bây giờ thì họ đã bỏ đi đâu, như cố ý vậy. Chắc hẳn vừa rồi chính họ vừa quát tháo vừa chạy xuống dưới sân. Sàn nhà vừa mới sơn xong, ở giữa phòng có một cái thùng, một hộp sơn có cắm cái chổi sơn. Trong nháy mắt chàng đã chui tọt vào cửa và nấp vào sau bức tường, và cũng vừa kịp: Mấy người kia bấy giờ đã lên đến gác hai ngay trước cửa phòng. Nhưng họ vẫn tiếp tục lên gác tư, vừa đi vừa nói bô bô. Chàng đợi một lát, rón rén ra khỏi phòng và chạy xuống.

Trên thang gác không có lấy một bóng người! Ở dưới cổng cũng thế. Chàng đi nhanh qua vòm cổng và rẽ ngoặt sang trái.

Chàng biết lắm, chàng biết rất rõ rằng lúc này đây họ đã vào phòng, rằng họ rất kinh ngạc khi thấy cánh cửa lúc nãy còn móc chốt mà nay đã mở, rằng họ đã trông thấy hai xác chết và chỉ một phút nữa là họ sẽ đoán ngay ra được rằng vừa rồi kẻ sát nhân đang ở trong phòng và vừa mới kịp lẻn đi, có lẽ họ cùng đoán được rằng chàng đứng trong gian phòng bỏ trống trong khi họ đi lên. Thế nhưng chàng không sao dám rảo bước đi thật nhanh, tuy từ đấy đến chỗ ngoặt đầu tiên còn phải đi đến trăm bước nữa. Hay là ta lẻn vào một cái cổng nào đấy, nấp vào một cầu thang mà đợi? Không được, hỏng bét? Vứt quách cái rìu đi chăng? Hay là gọi chiếc xe ngựa? Không được, hỏng bét, hỏng bét!".

Cuối cùng, chàng đã đến chỗ rẽ vào một ngõ hẻm. Chàng bước vào ngõ, người như chết dở; đến đây chàng gần như đã thoát nạn rồi, và chàng cũng hiểu như thế, bây giờ thì khó bị nghi ngờ hơn, hơn nữa người qua lại rất đông, và chàng mất hút vào đây như một hạt cát. Nhưng những phút khổ ải vừa qua đã làm cho chàng kiệt sức đến nỗi hầu như không nhích chân được nữa. Mồ hôi đổ hột chảy ròng ròng trên mặt chàng; cổ chàng ướt đầm. "Thằng cha kia say bí tỉ." - Có ai quát chàng khi chàng rẽ ra kênh đào.

Bây giờ chàng cứ mê man đi, càng đi trí óc càng tối sầm lại. Tuy vậy chàng cũng nhớ là khi rẽ ra kênh đào chàng thấy ở đấy vắng quá sợ dễ bị chú ý, nên toan quay trở vào ngõ. Tuy đã suýt ngã khuỵu xuống, chàng vẫn đi vòng một quãng xa để về nhà từ một hướng khác hẳn.

Ngay đến khi chàng đi vào cổng nhà mình, Raxcolnicov cũng vẫn chưa tỉnh hẳn. Dù sao chàng lên đến thang gác rồi mới sực nhớ đến cái rìu. Bây giờ còn phải làm một việc rất quan trọng: trả cái rìu về chỗ cũ, và phải làm sao cho thật kín đáo. Dĩ nhiên chàng không còn đủ sức suy tính rằng có lẽ đừng để cái rìu lại chỗ cũ, mà tốt hơn nhiều là nên vứt nó vào một cái sân nào khác, để đến sau này rồi vứt cũng được.

Nhưng mọi việc đều êm thấm. Cửa phòng người gác cổng đang đóng, nhưng không khóa, thế tức là hắn ta có lẽ đang ở nhà. Nhưng chàng mất khả năng suy nghĩ đến nỗi cứ đi thẳng tới và mở cửa ra. Ví thử người gác cổng hỏi chàng: "Ông cần gì?" thì có lẽ chàng sẽ cứ thế cầm cái rìu đưa thẳng cho hắn ta. Nhưng người gác cổng lại vắng nhà, và chàng có đủ thì giờ để đặt cây rìu ở chỗ cũ, dưới chiếc ghế dài; chàng lại còn lấy thanh củi chặn lên như cũ nữa. Trên đường trở về buồng, chàng không gặp lấy một bóng người nào; phòng bà chủ đóng kín. Về đến buồng mình, chàng cứ để nguyên quần áo gieo mình xuống đi-văng. Chàng không ngủ, nhưng cứ thiêm thiếp mê man. Bấy giờ giá có ai đi vào buồng, chàng sẽ lập tức nhảy chồm dậy và kêu rú lên. Những mảng ý nghĩ đứt đoạn và rối ren cứ loáng thoáng trong đầu chàng; nhưng chàng không thể cầm giữ lấy một ý nào, không thể dõi theo một ý nào, dù có cố sức cũng không được.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro