Phần 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

CHƯƠNG 1

Chàng nằm như thế rất lâu. Có những khi chàng như tỉnh giấc, và những khi ấy, chàng nhận thấy đêm đã xuống từ lâu, nhưng không hề có ý muốn dậy. Cuối cùng chàng thấy trời đã sáng hẳn[1]. Chàng nằm im trên đi-văng, tâm trí còn bàng hoàng vì cơn mê vừa qua. Từ dưới phố vọng lên những tiếng quát tháo kinh khủng nhói cả tai. Vả chăng đêm nào cũng vậy, khoảng hơn hai giờ sáng ở dưới cửa sổ lại nghe thấy những tiếng quát tháo như thế. Và giờ đây chính những tiếng quát ấy đã đánh thức chàng dậy. “À! Lũ say rượu đã kéo nhau ra về rồi đây.” - Chàng nghĩ thầm. - “Hơn hai giờ sáng rồi”. - Chàng bỗng choàng dậy, như có ai nhấc bổng chàng lên khỏi đi-văng. - “Sao, hơn hai giờ sáng rồi ư?” - Chàng ngồi dậy và chợt nghĩ ra. Trong nháy mắt, chàng sực nhớ lại tất cả những việc đã qua.

Phút đầu chàng ngỡ mình phát điên. Khắp người chàng thấy lạnh toát ra, chắc cũng vì cơn sốt đã bắt đầu nổi lên từ lâu trong khi chàng ngủ. Song bây giờ chàng run lên cầm cập, mạnh đến nỗi răng đánh vào nhau như muốn bật tung ra, toàn thân chàng choáng váng hẳn đi. Chàng mở hé cánh cửa và bắt đầu nghe ngóng: Trong nhà im phăng phắc, mọi vật đều ngủ say. Chàng ngỡ ngàng đưa mắt nhìn xuống người mình và nhìn mọi vật xung quanh, lòng băn khoăn không sao hiểu nổi: Làm thế nào mà hôm qua, khi vào buồng, chàng lại không cài cửa lại và không những cứ để nguyên cả áo quần gieo mình xuống đi-văng, mà ngay cả mũ cũng không cất nữa. Khi chàng nằm xuống nó đã tuột ra và nay còn nằm trên sàn nhà, ngay cạnh gối. “Nếu có ai vào họ sẽ nghĩ ra sao đây? Hẳn là họ sẽ nghĩ rằng ta say, nhưng…” Chàng nhảy chồm ra cửa sổ. Ở đây có đủ ánh sáng, chàng hối hả xem xét người mình suốt từ đầu đến chân: “Áo quần có còn vết gì không? Nhưng cứ thế này thì không thể xem xét gì được”. Người chàng cứ run lên lẩy bẩy. Chàng lần lượt cởi hết áo quần ra xem lại thật kĩ. Chàng lật đi lật lại xem từng đường may, từng mụn vá, và vẫn chưa yên tâm, chàng xem lại từng cái một đến ba lần liền. Nhưng hình như không có gì cả, không thấy một dấu vết nào; chỉ có một chỗ gấu quần xổ tung ra, xơ vải thấm đầy máu đông đặc. Chàng lấy con dao xếp lớn xén hết chỗ xơ đi. Ngoài ra hình như không còn gì nữa. Bỗng chàng sực nhớ ra rằng cái bóp tiền và những đồ đạc lấy trong hòm mụ già ra cho đến nay vẫn nằm trong túi chàng. Mãi cho đến nay mà chàng vẫn chưa nghĩ đến việc rút nó ra và đem giấu đi? Ngay bây giờ, trong khi xem xét áo quần, chàng vẫn không nhớ ra. Thế là thế nào? Trong một nhoáng chàng lôi hết ra ngoài và vứt cả lên bàn. Chàng lại còn lộn cả các túi áo ra cho chắc bụng để không còn sót lại một cái gì nữa, xong chàng vò tất cả các thứ đó bỏ vào một góc phòng, nơi giấy dán tường bong ra và rách một lỗ. Chàng nhét hết các thứ vào cái lỗ ấy, dưới làn giấy dán tường. “Ổn rồi! Không còn thấy vết tích đâu nữa, cả cái bóp cũng thế!” - Chàng mừng rỡ nghĩ thầm trong khi đứng dậy nhìn đờ đẫn vào cái góc và cái lô giấy rách bây giờ cộm hẳn lên. Chợt cả người chàng run bắn lên vì kinh hãi: “Trời ơi!” - Chàng tuyệt vọng thều thào. - “Mình làm sao thế này? Thế mà gọi là giấu kín ư? Đời thuở ai lại đi giấu như thế?”

Quả tình chàng quên không tính đến các thứ này; chàng tưởng là mình sẽ lấy tiền thôi, cho nên không chuẩn bị trước chỗ cất giấu. “Nhưng bây giờ, thì ta mừng cái gì mới được chứ?” - Chàng nghĩ thầm. - “Có ai lại đi giấu như thế bao giờ? Đúng là mình mất hẳn trí khôn rồi!”. Chàng bải hoải ngồi xuống đi-văng và lập tức lại run lên cầm cập. Như một cái máy, chàng kéo chiếc áo khoác mùa đông cũ kĩ của sinh viên vắt trên chiếc ghế đặt bên cạnh, một chiếc áo hãy còn ấm, nhưng đã rách bươm ra, đắp lên người, và cơn mê sảng lại ập vào người chàng. Chàng thiếp đi.

Chỉ độ năm phút sau chàng lại choàng dậy và lập tức hoảng hốt vồ lấy đống quần áo. “Làm sao mình lại có thể ngủ trong khi chưa làm xong gì cả! Đúng thế, đúng thế rồi: Mình vẫn chưa tháo cái quai ở nách áo ra. quên bẵng đi mất, một việc như thế mà lại quên được! Một tang vật rành rành ra như thế?”. Chàng giật đứt cái quai và hối hả xé vụn nó ra từng mảnh rồi nhét vào đống quần áo dưới gối. “Dù sao cũng không ai ngờ vực những mảnh gì này; hình như thế, hình như thế đấy!” - Chàng đứng ở giữa phòng nhắc đi nhắc lại, và với một sức chú ý căng thẳng đến nỗi nhức cả mắt, chàng lại xem xét xung quanh, trên sàn nhà cũng như khắp các nơi khác, xem mình có còn quên gì nữa không. Chàng biết chắc rằng mình đang mất hết, ngay cả trí nhớ, ngay cả khả năng suy luận đơn giản nhất cũng thế, và bắt đầu lo lắng ray rứt không sao chịu nổi. “Sao, chẳng lẽ hình phạt đã bắt đầu, chẳng lẽ giờ hành hình đã điểm?… Kia rồi, kia rồi, mình biết ngay mà!”. Quả nhiên những mảnh xơ chàng xén ở gấu quần còn vứt bừa ra sàn nhà ngay chính giữa phòng, ai vào cũng có thể trông thấy ngay được! “Mình làm sao thế này nữa!” - Chàng lại kêu lên như người mất trí.

Đến đây chàng nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: có thể là áo quần chàng chỗ nào cũng bê bết những máu, có lẽ còn có nhiều vết máu lắm, chẳng qua chàng không trông thấy, không nhận ra đấy thôi, vì đầu óc chàng đã suy nhược, rối loạn, trí khôn đã mờ đi... Bỗng chàng sực nhớ ra rằng trên cái bóp tiền cũng có máu”. Chà! Như thế nghĩa là trong túi áo cũng phải có máu, vì khi ta đút túi cái hộp hãy còn ướt!” Chàng lập tức lộn túi quần ra. Quả nhiên trên lần vải lót túi có những vết máu. “Thế nghĩa là ta chưa mất hẳn trí khôn, thế nghĩa là ta hãy còn khả năng suy luận, còn trí nhớ, mới có thể nghĩ ra được điều đó chứ?” - Chàng đắc chí nghĩ thầm và hớn hở hít mạnh không khí vào căng cả lồng ngực. - “Chẳng qua vì sốt nên bị suy nhược, mê sảng trong chốc lát thôi”. Chàng liền xé miếng vải lót túi quần bên trái ra. Vừa lúc ấy một tia nắng chiếu vào chiếc ủng bên trái của chàng: ở đầu chiếc bít tất thòi ra ngoài mõm giày hình như có những vết bẩn. Chàng cởi chiếc bít tất ra: “Đúng là có vết!”. Mũi bít tất nhơm nhớp những máu; chắc là chàng đã sơ ý bước vào vũng máu… “Nhưng bây giờ biết làm thế nào? Biết giấu chiếc bít tất, cái mảnh xơ, cái treo túi này đi đâu?”. Chàng vơ cả một nắm và đứng sững ra ở giữa phòng. “Bỏ vào lò sưởi chăng? Nhưng đó là nơi họ sẽ bới tìm trước tiên. Đốt! Nhưng lấy gì mà đốt? Đến diêm cũng không có nữa kia mà. Không, tốt hơn là hãy đem một chỗ nào mà vứt. Phải rồi? Vứt đi thì hơn!” - Chàng nhắc đi nhắc lại và ngồi xuống đi-văng. - “Mà phải đi vứt ngay bây giờ, không chậm trễ!” Nhưng đầu chàng lại cứ trĩu xuống gối; ngực chàng lại rung lên từng cơn không sao cưỡng nổi; chàng kéo áo khoác lên đắp. Và mãi hồi lâu, đến mấy tiếng liền, chàng cứ chập chờn với ý nghĩ: “Phải đi ngay bây giờ, không lần lữa gì nữa, phải đến một chỗ nào mà vứt hết các thứ này cho mất đi, nhanh lên, nhanh lên!”. Đã mấy lần chàng choàng người lên, muốn đứng dậy mà không được. Một tiếng đập cửa rất mạnh thức chàng tỉnh hẳn.

- Kìa mở ra chứ, chết rồi hay sao thế? Cứ ngủ li bì mãi! - Naxtaxia vừa kêu vừa nện quả đấm vào cửa. - Ngủ suốt mấy ngày liền! Đúng hệt như con chó! Mở ra nào. Mười giờ rồi.

- Có lẽ đi đâu vắng cũng nên? - Một giọng đàn ông nói.

Chà giọng lão gác cổng… Lão muốn gì thế? Chàng choàng dậy ngồi trên đi-văng. Tim chàng đập mạnh đến đau cả ngực.

- Thế thì ai chốt cửa lại? - Naxtaxia cãi. - Chà lại sinh ra cái trò chốt với cài! Sợ người ta rinh mình đi mất chắc? Mở ra nào, đồ ngốc, dậy đi!

“Họ muốn gì? Tại sao lão gác cổng lại lên đây? Họ biết hết rồi. Kháng cự hay là chịu mở cửa? Mẹ chúng nó…”

Chàng nhỏm dậy, chồm về phía trước và nhấc then cửa lên. Phòng chàng chật đến nỗi có thể cứ ngồi ở giường cũng mở được cửa.

Đúng như chàng đoán, lão gác cổng đang đứng trước cửa với Naxtaxia.

Naxtaxia nhìn chàng một cách khác thường. Chàng đưa mắt thách thức và tuyệt vọng nhìn lão gác cổng. Lão im lặng, đưa cho chàng một tờ giấy xám gấp làm đôi, niêm bằng thứ xi gắn cổ chai.

- Trát ở sở gửi đến. - Lão vừa trao giấy vừa nói.

- Sở nào?…

- Sở cảnh sát, giấy đòi anh lên sở cảnh sát.

- Sở cảnh sát à!… Việc gì thế?

- Tôi làm thế nào mà biết được. Họ đòi thì đi thôi. - Lão chăm chú nhìn chàng, đảo mắt quanh phòng một lượt rồi quay ra.

- Cậu ốm thật rồi hay sao thế? - Naxtaxia hỏi, mắt vẫn nhìn chàng đăm đăm. Lão gác cổng cũng ngoái đầu lại một lát. - Sốt từ hôm qua. - Naxtaxia nói thêm. Chàng không đáp, tay vẫn cầm tờ giấy, không bóc ra.

- Thôi đừng dậy nữa! - Naxtaxia ái ngại nói tiếp khi thấy chàng thả chân xuống sàn. - Ốm thì đừng đi nữa, chẳng có gì gấp đâu, tay cậu cầm cái gì thế? - Chàng nhìn xuống: Tay phải chàng đang nắm mớ vải xơ cắt ở gấu quần, chiếc bít tất, miếng rẻo túi quần.

Vừa qua chàng đã cầm nguyên cả các thứ đó mà ngủ. Mãi về sau, khi nghĩ lại, chàng mới nhớ rằng trong cơn sốt đã có lần chàng thức giấc, nửa mê nửa tỉnh, nắm mớ giẻ thật chặt và cứ thế mà ngủ lại.

- Xem cậu ta nhặt được mớ giẻ ở đâu mà ngủ cũng không rời ra, như thể của quý ấy… - Nói đoạn Naxtaxia cười rũ ra từng cơn như thường lệ. Trong nháy mắt chàng đút hết nắm giẻ xuống dưới vạt áo và trừng trừng giương mắt nhìn chị ta. Tuy lúc ấy chàng rất ít khả năng suy nghĩ tỉnh táo, Raxcolnicov cũng cảm thấy rằng thái độ của những kẻ đi bắt người hẳn không như thế. “Nhưng còn… sở cảnh sát?”

- Uống nước chè nhé? Có muốn uống không? Tôi sẽ đem lại, hãy còn đấy!

- Không… tôi đi đây! Tôi đi ngay đây. - Chàng đứng dậy lẩm bẩm.

- Nhưng liệu có xuống nổi thang gác không đã nào?

- Tôi cứ đi…

- Ừ muốn đi thì đi.

Naxtaxia theo sau người gác cổng lui ra. Chàng lập tức lao người ra chỗ sáng xem lại chiếc bít tất và miếng rẻo: “Có vết, nhưng không rõ lắm; bùn lấm bê bết, lại chà xát mãi nên màu cũng bạc đi. Không biết trước thì không thấy gì đâu. Thế nghĩa là Naxtaxia đứng xa không thể nhìn thấy gì được. Lạy Chúa!”. Chàng lập cập bóc phong bì ra đọc. Chàng đọc hồi lâu và mãi cuối cùng mới hiểu ra. Đó là một tờ trát thông thường của quan cảnh sát yêu cầu đến trình tại phòng giấy quận trưởng vào lúc chín giờ rưỡi ngày hôm nay.

“Chuyện quái gì thế nhỉ? Mình có việc gì dính dáng đến cảnh sát đâu? Mà tại sao lại đúng vào hôm nay?” - Chàng ngầm nghĩ, lòng băn khoăn ray rứt. - “Trời ơi, sao cho chóng xong đi”. Chàng quỳ xuống toan cầu nguyện, nhưng rồi lại bật cười, không phải cười lời cầu nguyện mà cười bản thân mình. Chàng bắt đầu hối hả mặc áo. “Ra sao thì ra, đã hỏng thì cho hỏng nốt, cần gì! Cứ đi chiếc tất vào?” - Chàng chợt nghĩ. - “Càng trát bụi vào, càng mất dấu”. Nhưng vừa luồn chiếc bít tất vào chàng đã kinh tởm và khiếp sợ rút nó ra. Rồi nhớ ra rằng không còn chiếc nào khác, chàng lại đi vào và cười phá lên. “Tất cả những cái đó đều là ước lệ, đều là tương đối, đó chỉ là những cái hình thức”. - Ý nghĩ ấy vụt thoáng qua trí chàng như chỉ chạm hờ vào một góc lề tư tưởng, trong khi cả người chàng run lên cầm cập. - “Ấy thế mà ta vẫn xỏ chân vào đấy! Rốt cục rồi cũng xỏ chân vào!” Nhưng rồi tiếng cười nhường chỗ ngay cho nỗi tuyệt vọng. “Không… mình không đủ sức…” - Chàng thầm nghĩ. Chân chàng run lẩy bẩy. “Run vì sợ đấy.” - Chàng lẩm bẩm nói một mình. Đầu chàng váng lên và nhức nhối vì cơn sốt. “Đây là một quỷ kế! Chúng nó muốn bày mưu nhử mình đến rồi hỏi cung bất thình lình” - Chàng nghĩ tiếp khi ra cầu thang. “Tệ hại nhất là bây giờ mình gần như đang mê sảng… mình có thể buột mồm nói bậy…”

Trên cầu thang chàng sực nhớ rằng mình vẫn để nguyên các thứ trong cái lỗ thủng trên tấm giấy dán tường. - “Mà có lẽ họ cố nhử cho mình đi vắng để soát nhà cũng nên?” - Chàng chợt nghĩ ra và dừng lại. Nhưng một tâm trạng tuyệt vọng, một thứ trâng tráo của kẻ cùng đường đã khống chế chàng, chàng khoát tay một cái và đi thẳng.

“Miễn sao cho chóng xong đi!…”

Ngoài phố nóng bức không sao chịu nổi; suốt mấy ngày hôm ấy không có lấy một giọt mưa. Lại cảnh bụi bặm, vôi gạch, lại mùi xú uế nồng nặc từ các cửa hiệu, các tiệm rượu xông ra, lại những gã say rượu đi lại nhan nhản, những người bán hàng rong bẩn thỉu và những chiếc xe ngựa ọp ẹp. Ánh nắng chói vào mắt chàng nhức buốt; đầu chàng váng hẳn lên - cái cảm giác thông thường của người sốt khi ra đường đột ngột trong một ngày nắng sáng.

Đi đến chỗ rẽ ngoặt sang dãy phố “hôm qua”, chàng bồi hồi lo sợ liếc mắt nhìn vào dãy phố, nhìn tòa nhà ấy… và lập tức nhìn sang chỗ khác.

“Nếu họ hỏi, có lẽ ta sẽ nói hết” - chàng nghĩ khi gần đến sở cảnh sát.

Sở cảnh sát cách nhà chàng khoảng một phần tư verxta. Nó vừa dọn sang trụ sở mới đặt ở tầng gác thứ tư của một tòa nhà mới. Hồi nó còn ở chỗ cũ, chàng đã có lần ghé vào một lát, nhưng đã lâu lắm rồi. Đi vào cổng, chàng thấy ở bên phải có một cầu thang, và trên cầu thang, một người mu-gíc cầm quyển sổ đang đi xuống: “Có những người gác cổng ra vào; thế thì đây đúng là sở cảnh sát rồi“[2], chàng phỏng đoán như vậy rồi cứ thế leo lên thang gác, không muốn hỏi ai hết.

“Ta sẽ vào, sẽ quỳ xuống và khai hết từ đầu chí cuối” - chàng nghĩ khi bước lên tầng thứ tư.

Cầu thang chật hẹp, lên thẳng đứng, ngập ngụa nước bẩn và rác rưởi. Tất cả các gian bếp của tất cả các nhà ở khắp bốn tầng đều trông ra thang gác và cứ thế mở suốt ngày. Cho nên không khí ở đây ngột ngạt lạ lùng. Những người gác cổng sổ cắp nách, những người cảnh binh và những người thường dân nam có nữ có lên lên xuống xuống không ngừng. Cánh cửa vào phòng giấy cũng mở toang. Chàng bước vào và dừng lại ở phòng ngoài. Ở đây có mấy người mu-gíc đang đứng đợi. Không khí trong phòng này cũng hết sức ngột ngạt, lại thêm mùi sơn ướt ở các phòng xông ra, tanh đến lộn mửa. Đợi được một lát, chàng nảy ra ý đi thẳng vào phòng bên. Các phòng ở đây đều chật và thấp. Một tâm trạng nôn nóng cứ thôi thúc chàng đi sâu mãi vào các phòng trong. Không có ai để ý đến chàng. Ở gian phòng thứ hai có những viên thư lại ăn mặc chẳng hơn gì chàng mấy, đang ngồi viết hí hoáy, trông họ có một vẻ gì kỳ quái. Chàng hỏi thăm một người trong bọn họ.

- Anh cần cái gì?

Chàng chìa tờ trát của sở ra.

- Ông là sinh viên à? - Người kia hỏi sau khi nhìn vào giấy.

- Vâng, cựu sinh viên.

Viên thư lại nhìn chàng một lát, song cũng không hề có ý tò mò. Đó là một người có bộ tóc rối xù lên, mắt lờ đờ như thể luôn luôn theo đuổi một ý nghĩ bất di bất dịch.

“Hỏi hắn thì chẳng biết thêm được gì đâu, hắn dửng dưng đối với mọi việc trên đời” - Raxcolnicov thầm nghĩ.

- Ông đi lại đằng kia gặp ông chánh văn phòng. - Viên thư lại nói và giơ ngón tay ra phía trước chỉ vào gian phòng ở tận cùng.

Chàng bước vào phòng này (phòng thứ tư kể từ ngoài vào), một gian phòng chật hẹp và đầy ắp những người là người - đám khách ở đây ăn mặc sạch sẽ hơn những người đứng trong các phòng kia. Trong số khách có hai người đàn bà. Một người để tang, phục sức tồi tàn ngồi trước bàn giấy viên chánh văn phòng và đang viết những gì gì do viên kia đọc. Người đàn bà thứ hai béo phục phịch, da mặt lốm đốm đỏ, dáng bệ vệ, ăn mặc sang trọng và diêm dúa, ngực cài một cái hoa giả to bằng cái đĩa tách, đang đứng đợi một bên. Raxcolnicov chìa tờ trát ra cho viên chánh văn phòng. Hắn liếc nhìn qua tờ giấy, nói: “Ông đợi một tí”, rồi tiếp tục đọc cho người đàn bà mặc tang phục viết.

Raxcolnicov thở đã nhẹ nhõm hơn. “Chắc là không phải!” Chàng dần dần hoàn hồn, cố hết sức trấn tĩnh và lấy lại can đảm.

“Chỉ cần một cử chỉ dại dột, một hành động bất cẩn hết sức nhỏ nhặt là có thể lộ hết! Hừm… tiếc rằng ở đây khó thở quá”, - chàng nghĩ tiếp, - “ngột ngạt thế này… Đầu đã thấy choáng váng… trí khôn cũng vậy…”

Chàng thấy hoang mang lạ lùng. Chàng chỉ sợ không tự chủ được. Chàng cố gắng chú ý đến một vật gì hay nghĩ đến một việc gì hoàn toàn xa lạ, nhưng không sao được. Vả chăng viên chánh văn phòng đang thu hút hết sức chú ý của chàng: cứ muốn phân tích vẻ mặt của hắn để phỏng đoán xa gần. Đó là một người rất trẻ, tuổi trạc hai mươi hai, nước da ngăm ngăm, vẻ mặt linh hoạt. Trông hắn có vẻ già hơn tuổi. Hắn ăn mặc bảnh bao, theo đúng thời trang, tóc rẽ thành đường ngôi, chải chuốt và bôi sáp cẩn thận, mấy ngón tay trắng trẻo rửa ráy kĩ lưỡng bằng bàn chải, đeo rất nhiều nhẫn và khâu, áo gi-lê mắc những sợi dây chuyền vàng. Với một người ngoại quốc đang đứng đấy hắn lại còn nói dăm ba câu tiếng Pháp nghe khá thông thạo.

- Luiza Ivanovna, bà ngồi xuống chứ. - Hắn quay lại một chút nói với người đàn bà mặt đỏ ăn mặc diêm dúa nãy giờ cứ đứng mãi, như thể không dám ngồi xuống, mặc dầu ngay bên cạnh có một chiếc ghế tựa.

- Ich danke[3]. - Bà ta nói khẽ, đoạn ngồi xuống trong tiếng lụa sột soạt. Chiếc áo dài màu xanh nhạt viền đăng-ten trắng của bà ta như một quả khinh khí cầu phồng tướng ra xung quanh ghế và choán đến gần nửa gian phòng. Mùi nước hoa sực nức. Nhưng bà ta hẳn lấy làm ngượng vì mình choán hết nửa phòng và mùi nước hoa của mình cứ bay lên ngào ngạt như vậy, bèn nở một nụ cười vừa bẽn lẽn vừa trâng tráo, nhưng rõ ràng là có ý lo ngại.

Cuối cùng người đàn bà mặc tang phục đã viết xong và đứng dậy. Vừa lúc ấy có một viên sĩ quan nện gót giày bước vào, vẻ hiên ngang, cứ mỗi bước lại nhích vai một cái trông rất lạ mắt. Hắn vứt chiếc mũ lưỡi trai có đính phù hiệu lên bàn và ngồi vào ghế bành. Người đàn bà sang trọng trông thấy hắn lập tức đứng dậy, và với một vẻ hân hoan đặc biệt, nhún chân xuống chào; nhưng viên sĩ quan không mảy may để ý đến bà ta, còn bà ta thì bây giờ không còn dám ngồi xuống trước mặt hắn nữa. Đó là viên phó quận trưởng cảnh sát khu này. Hắn để hai chòm ria mép rất dài màu hung hung chĩa ngang ra hai bên; mặt có những nét rất thanh nhưng không có gì đặc biệt ngoài một vẻ hách dịch nào đó. Hắn nhìn Raxcolnicov gườm gườm và phần nào có ý bực tức; chàng ăn mặc tồi tàn quá, và tuy tư thái của chàng đã nhũn nhặn nhưng vẫn không tương xứng với cách trang phục: Raxcolnicov đã vô ý nhìn hắn quá thẳng và quá lâu khiến hắn phật ý.

- Anh kia muốn gì hả? - Hắn quát, chắc lấy làm lạ rằng một tên khố rách áo ôm như thế mà lại không thèm quay mặt đi khi bắt gặp cái nhìn nảy lửa của hắn.

- Người ta đòi tôi đến… có trát… - Raxcolnicov ấp úng trả lời.

- Đây là người sinh viên gọi đến về việc lá đơn đòi nợ. - Viên chánh văn phòng vội ngẩng đầu lên khỏi đống giấy nói. - Đây ạ? - Đoạn hắn đẩy về phía Raxcolnicov một quyển vở và chỉ cho chàng một đoạn viết trên trang giấy - Ông đọc đi?

“Tiền ư? Tiền gì nhỉ?” - Raxcolnicov nghĩ, - “nhưng, như vậy tức là không phải chuyện ấy”. Và chàng rùng mình lên vì mừng rỡ. Chàng bỗng thấy người nhẹ nhõm lạ lùng. Cả gánh nặng đè trĩu lên vai chàng đã bay biến đi đâu mất.

- Thế trong giấy mời ông đến vào lúc mấy giờ, thưa ông? - Viên trung úy quát to, mỗi lúc một cáu tiết, chẳng hiểu vì chuyện gì. - Người ta viết là chín giờ, thế mà bây giờ đã hơn mười một giờ rồi!

- Họ mới đưa lại cho tôi cách đây có mười lăm phút. - Raxcolnicov dõng dạc nói chõ qua vai, trong lòng cũng đột nhiên thấy nổi giận lên một cách bất ngờ, và thậm chí còn cảm thấy phần nào thích thú trong cơn giận. - Thiết tưởng tôi đang ốm, đang lên cơn sốt thế này mà vẫn đến đây, như thế cũng đủ lắm rồi.

- Xin ông đừng có quát lên như thế!

- Tôi không quát, tôi nói rất từ tốn, chính ông quát tôi thì có; tôi là sinh viên, và không cho phép ai được quát tôi cả.

Viên phó quận trưởng nổi xung lên đến nỗi phút đầu không nói ra được câu nào, chỉ thấy môi hắn lắp bắp làm tóe cả bọt ra. Hắn nhảy chồm lên.

- Ông im ng… nga… y! Ông đang ở nơi công đường. Xin ông đừng có v… vô lễ!

- Ông cũng đang ở nơi công đường. - Raxcolnicov quát lên. - Thế mà không những ông quát tháo, ông lại còn hút cả thuốc lá nữa, chính ông vô lễ đối với chúng tôi. - Nói xong câu ấy, Raxcolnicov có một cảm giác khoái lạc không sao tả xiết.

Viên chánh văn phòng mỉm cười nhìn hai người. Viên trung úy nóng tính có vẻ lúng túng. Mãi hồi lâu hắn mới ráng sức quát lên thật to, giọng nghe rất gượng gạo.

- Đó không phải việc ông, ông hãy chịu phiền cung khai theo như người ta yêu cầu. Alekxandr Grigorievich, đưa cho ông ấy xem. Người ta kiện ông đấy, ông không chịu trả tiền! Đẹp mặt chưa?…

Nhưng Raxcolnicov không còn buồn nghe hắn nói nữa. Chàng háo hức cầm lấy tờ giấy, sốt ruột muốn tìm ngay ra manh mối. Chàng đọc đi đọc lại đến hai lần mà vẫn không hiểu.

- Cái gì thế này? - Chàng hỏi viên chánh văn phòng.

- Đó là giấy đòi tiền thuê nhà. Một là ông phải trả số tiền còn nợ với tất cả những khoản bồi thường, phụ toán vân vân, hai là phải viết tờ khai cho biết đến bao giờ ông có thể trả, và đồng thời cam kết không ra khỏi kinh đô trước khi trả xong nợ, không bán chác hoặc giấu giếm tài sản của mình đi. Người chủ nợ có quyền đem phát mại tài sản của ông và xử lý với ông đúng luật pháp.

- Nhưng tôi… có nợ gì ai đâu!

- Cái đó thì không phải việc chúng tôi. Chúng tôi chỉ biết là có nhận được một tờ phiếu hợp lệ nhận nợ số tiền thuê nhà là một trăm mười lăm rúp của ông trao cho bà quả phụ viên công chức bậc tám Zarnixưna cách đây chín tháng, và bà quả phụ Zarnixưna đã gán tờ giấy này cho quan tư vấn pháp đình Shebarov để thanh toán, cho nên sở gọi ông đến đây để trả lời về việc này.

- Nhưng bà ta là chủ trọ của tôi kia mà?

- Chủ trọ của ông thì có sao!

Viên chánh văn phòng nhìn chàng với một nụ cười thương hại và bề trên, đồng thời không khỏi có phần đắc chí như khi nhìn một anh chàng khờ khạo mới bắt đầu nếm mùi cay cực, ý như muốn nói: “Thế nào, bây giờ anh thấy trong người ra sao?”. Nhưng chàng thì bây giờ có thiết gì, có hơi đâu mà đi để ý đến những thứ tín phiếu, những việc kiện tụng ấy? Những thứ ấy làm sao có thể đáng cho chàng lo lắng, hay dù chỉ để ý đến thôi cũng vậy! Chàng đứng đấy, đọc, nghe, trả lời vả lại còn hỏi nữa, nhưng tất cả những việc ấy chàng đều làm như cái máy. Giờ phút này, tất cả con người chàng đang tràn ngập nỗi hân hoan của bản năng tự vệ đắc thắng, của kẻ vừa thoát ra khỏi mối nguy cơ đang nặng trĩu trên mình; chàng không hề lo xa, phân tích, không hề hình dung những cách đặt và giải quyết những vấn đề sau này, không hề nghi ngờ, thắc mắc. Đó là một giây phút vui sướng trọn vẹn, tự nhiên, thuần túy thú vật. Nhưng vừa lúc ấy ở sở cảnh sát bỗng diễn ra một cơn giông tố. Viên trung úy, hãy đang giận run lên về thái độ vô lễ của Raxcolnicov và hẳn là muốn cứu vãn lại uy thế, hầm hè xông vào sỉ vả người “đàn bà sang trọng” đáng thương kia, nãy giờ vẫn nhìn hắn với nụ cười hết sức ngờ nghệch.

- Còn mụ nữa, đồ đĩ rạc! - Hắn bỗng gân cổ hét tướng lên người đàn bà mặc tang phục đã ra ngoài. - Đêm qua, ở đằng nhà mụ có chuyện gì thế hả? Lại những việc nhơ nhuốc bậy bạ làm toáng cả phố lên. Lại rượu chè, lại ẩu đả. Muốn vào nhà pha trừng giới lắm phỏng? Ta đã nói với mụ, ta đã báo trước hàng mười lần cho mụ biết rằng đến lần thứ mười một ta không dung tha nữa đâu! Thế mà mụ lại chứng nào tật ấy, cái đồ đĩ rạc!

Raxcolnicov kinh ngạc đến nỗi tờ giấy tuột ra khỏi tay chàng rơi xuống đất. Chàng ngơ ngác nhìn người đàn bà sang trọng đang bị sỉ vả không chút kiêng dè; nhưng chỉ một lát sau chàng chợt hiểu và còn đâm ra thích thú với chuyện này nữa là khác. Chàng lắng nghe một cách khoái trá, thậm chí còn muốn cười to lên, cười to lên nữa… Dường như bao nhiêu dây thần kinh của chàng đều rung lên bần bật.

- Ilia Petrovich! - Viên chánh văn phòng lo lắng gọi, nhưng rồi phải dừng lại đợi lúc khác, bởi vì kinh nghiệm bản thân đã cho hắn biết rằng viên trung úy nóng nảy đã sôi sục lên rồi thì không còn cách gì ngăn hắn lại nữa.

Về phần người đàn bà sang trọng thì thoạt tiên còn run sợ cuống quýt trước cơn sấm sét ấy; nhưng lạ thay, những câu chửi bới càng dồn dập và càng dữ dội, thì vẻ mặt bà ta lại càng hòa nhã, nụ cười của bà hướng về phía viên trung úy hung dữ kia lại càng thêm duyên dáng. Bà ta cứ nhấp nhổm tại chỗ, nhún chân liên tiếp sốt ruột đợi người ta cho phép mình thưa lại. Cuối cùng, dịp ấy đã đến.

- Thưa ông tại úy, ở nhà tôi có đánh nhau ầm ĩ gì đâu... - Bà ta bỗng tuôn ra một tràng như trút đồ, giọng Đức rất nặng, tuy bà ta nói tiếng Nga liến láu. - Và không hề có chuyện gì bậy bạ cả, họ uống rượu ở đâu say khuớt rồi kéo đến, tôi xin kể hết để ông rõ. Ông đại úy ạ tôi không có tội tình gì, nhà tôi là nhà tử tế, thưa ông đại úy, đều là chỗ đứng đắn cả, và bản thân tôi không bao giờ muốn có chuyện gì bậy bạ. Thế nhưng họ uống rượu say mèm rồi kéo đến, lại đòi thêm ba chai nữa, rồi một người dơ hai chân lên đánh dương cầm bằng chân, vào nhà tử tế mà làm như vậy thật không tốt. Hắn đập vỡ cả đàn dương cầm, và tôi có bảo hắn là như vậy không còn ra cái thể thống gì nữa. Thế là hắn vơ lấy một chai rượu đánh vào đít mọi người. Tôi bèn gọi ngay bác gác cổng, Karl mới đến, thế là hắn cầm lấy Karl đánh dập con mắt, Henriet hắn cũng đánh dập con mắt, còn tôi thì hắn đánh cái má năm lần. Thua ông đại úy, vào nhà tử tế mà làm như vậy thật là bất lịch sự, thế tôi mới la lên. Hắn liền mở cửa sổ trông ra và rống lên the thé như con lợn con, thật là xấu hổ. Ai đời lại chõ mồm ra phố mà hét lên như con lợn con như thế bao giờ? Húi, húi, húi? Kan mới nắm lấy đuôi áo hắn mà kéo và quả tình, thưa ông đại úy, có làm rách mất áo Rock. Thế rồi hắn la lên là phỉ tền cho hắn muời lăm rúp. Thật là một người khách không tử tế, thưa ông đại úy, làm đủ những trò bậy bạ! Hắn bảo là sẽ viết một bài báo đả kích ông, báo nào hắn cũng quen, muốn viết gì về ông thì viết.

- Thế thì hắn là một nhà văn à?

- Thưa phải ạ, và thưa ông đại úy, vào nhà tử tế mà như vậy thật là bất lịch sự!

- Thôi, thôi, thôi! Đủ rồi! Ta đã nói với mụ, ta đã nói là…

- Ilia Petrovich! - Viên chánh văn phòng lại nói, giọng đầy ý nghĩa. Viên trung úy liếc nhanh về phía hắn: Hắn sẽ gật đầu.

- Đây, thưa bà Laviza Ivanovna kính mến, đây là lời dặn cuối cùng của tôi, và lần này là lần cuối cùng đấy nhé.  - Viên trung úy nói tiếp. - Nếu trong cái nhà tử tế của bà mà còn xảy ra chuyện bậy bạ như thế một lần nữa thôi, tôi sẽ cho bà nếm mùi nhà pha ngay, như trong giọng văn quý phái vẫn nói. Bà nghe ra chưa?

- Thế ra nhà văn kia đã lấy của cái “nhà tử tế” ấy năm rúp tiền đền áo. Đấy, các nhà văn là thế đấy! - Hắn vừa nói vừa ném một cái nhìn khinh bỉ về phía Raxcolnicov. - Hôm kia trong một quán rượu còn xảy ra một chuyện như thế này nữa: Có một lão vào ăn uống no nê rồi không muốn trả tiền; đòi thì lão nói: “Tôi sẽ cho lên báo một bài đả kích nhà ngươi về việc này”. Trên tàu thủy tuần trước cũng có một lão nhà văn dùng đủ những danh từ tục tĩu thóa mạ vợ và con gái một ông tư vấn quốc gia đáng kính. Hôm trước người ta đã phải tống cổ một tên như thế ra khỏi cửa một hiệu bánh kẹo đấy. Đấy cái bọn nhà văn, nhà báo, sinh viên, cái bọn mồm loa mép giải ấy là như thế đấy… Xì! Thôi mụ kia xéo đi! Đi! Ta sẽ để ý theo dõi… liệu hồn. Nghe ra chưa?

Luiza Ivanovna đon đả nhún mình chào tứ phía, vừa chào vừa đi thụt lùi ra cửa, nhưng vừa đến cửa thì vấp lưng phải một viên sĩ quan đẹp trai có khuôn mặt cởi mở tươi tắn với bộ râu rậm tuyệt mỹ màu vàng óng. Đó chính là Nicodim Fomich, viên quận trưởng cảnh sát. Luiza Ivanovna vội vàng cúi mình chào đến gần sát đất và nhún nhảy từng bước ngắn chạy vụt ra ngoài.

- Lại sấm sét, bão tố, cuồng phong? - Nicodim Fomich thân mật và ôn tồn nói với Ilia Petrovich. - Lại bị quấy rầy trêu tức, lại sôi sục lên rồi! Vừa vào đến cầu thang tôi đã nghe thấy tiếng.

- Biết làm thế nào được? - Ilia Petrovich nói, giọng lơ đãng một cách đài các, vừa nói vừa cầm mấy tệp giấy tờ đi sang bàn bên, cứ mỗi bước lại nhích vai lên một cái trông rất ngoạn mục.

- Đây, xin ngài thấy cho: Ngài văn sĩ đây, tức ngài sinh viên này, hay nói cho đúng hơn, là ngài cựu sinh viên này, không trả tiền, ký những tờ tín phiếu và không chịu cuốn gói ra khỏi nhà trọ, người ta gửi đơn kiện không ngớt ấy thế mà ngài lại còn có nhã ý khiếu nại là tôi đã dám hút thuốc trước mặt ngài! Ngài còn tỏ ra khiếm nhã gấp mấy, đây xin ngài đại úy thử nhìn xem: Dáng vẻ ngài đã hấp dẫn chưa!

- Nghèo không phải là xấu, anh bạn ạ, nhưng làm thế nào được! Ai cũng biết là thuốc súng không đời nào chịu để ai lăng nhục: Chắc ông lại có điều gì bực mình với trung úy và không tự kiềm chế được chứ gì? - Nicodim Fomich ôn tồn nói tiếp với Raxcolnicov. - Nhưng ông làm như vậy là không phải: Trung úy đây là một người hết sức cao quý, nhưng tính như thuốc súng, như thuốc súng! Cứ bùng lên, sôi lên, cháy phụt lên, rồi mất biến! Xong là hết! Rốt cục chỉ còn lại một tấm lòng vàng! Cho nên trong binh đoàn mới đặt cho ông ta cái biệt hiệu “Trung úy thuốc súng”.

- Mà đây có phải là một binh đoàn thường đâu! - Ilia Petrovich thốt lên, rất hài lòng vì được mơn trớn dễ chịu như vậy, nhưng vẫn chưa nguôi hết cơn giận.

Raxcolnicov bỗng thấy muốn nói với hắn một câu gì thật hòa nhã.

- Đại úy cứ thử nghĩ mà xem. - Chàng quay về phía Nicodim Fomich mở đầu, giọng rất ung dung. - Đại úy cứ thử đặt mình vào tình cảnh tôi xem… Tôi rất sẵn lòng xin lỗi ngài trung úy, nếu về phần tôi đã có gì sơ suất đối với ngài. Tôi là một sinh viên nghèo và đau ốm, luôn bị cảnh túng bấn giày vò. - Chàng dùng đúng chữ “giày vò”. - Tôi là cựu sinh viên, bởi vì hiện nay tôi không có cách gì sinh sống, nhưng tôi sẽ nhận được một số tiền… Tôi có người mẹ và người em gái ở trấn X…. Họ sẽ gửi tiền cho tôi, và tôi sẽ trả. Bà chủ trọ của tôi là một người tốt, nhưng bà ấy thấy tôi mất chỗ dạy học và bốn tháng liền không trả được tiền trọ nên đã oán giận tôi đến nỗi thậm chí cũng không thèm dọn cho tôi ăn nữa… Và tôi không thể nào hiểu được cái tín phiếu ấy là thế nào. Bây giờ bà ấy căn cứ vào tờ tín phiếu ấy để bắt tôi trả tiền, ngài cứ thử nghĩ xem…

- Nhưng đó có phải việc chúng tôi đâu… - Viên chánh văn phòng lại nói.

- Xin phép, xin phép ngài, tôi hoàn toàn đồng ý với ngài, nhưng cũng xin ngài cho phép tôi được giãi bày. - Raxcolnicov lại tiếp, chàng không nói với viên chánh văn phòng mà vẫn chỉ nói với Nicodim Fomich, nhưng cũng cố hết sức quay về phía Ilia Petrovich mặc dầu hắn cứ một mực làm ra vẻ như đang cắm cúi xem đống giấy tờ, không thèm chú ý đến chàng. - Về phần tôi, tôi xin phép giãi bày rằng tôi trọ ở nhà bà ta đã hơn ba năm nay, mãi từ hồi tôi mới ở quê lên và trước tiên… trước tiên… vả chăng việc gì tôi lại không thú nhận rằng ngay từ đầu tôi đã có lời hứa là sẽ lấy con gái bà ta, một lời hứa miệng, hoàn toàn không có gì ràng buộc… Đó là một người con gái mà, dù sao tôi cũng có chút cảm tình với cô ta… tuy cũng chẳng phải yêu đương gì, nói tóm lại, tuổi trẻ, nghĩa là tôi muốn nói rằng hồi ấy bà chủ trọ đối với tôi rất rộng rãi về mặt tiền nong, và tôi sinh hoạt có phần… hồi ấy tôi nhẹ dạ lắm.

- Chúng tôi tuyệt nhiên không đòi hỏi những lời tâm sự như thế, thưa ngài, vả chăng cũng không có thì giờ. - Ilia Petrovich ngắt lời một cách thô lỗ, vẻ đắc thắng, nhưng Raxcolnicov hăm hở cướp lời nói tiếp, tuy bây giờ chàng chợt thấy hết sức khó nói.

- Nhưng cứ xin các ngài cho phép tôi kể hết… mọi việc và về phần tôi… tuy cũng xin thừa nhận rằng kể như vậy là thừa. Nhưng cách đây một năm, người con gái ấy chết vì bệnh thương hàn, còn tôi thì vẫn ở trọ như cũ, và khi dọn sang ở căn nhà hiện nay, bà chủ có nói với tôi, như chỗ thân tình… rằng bà hoàn toàn tin cậy ở tôi, nhưng giá tôi vui lòng viết cho bà một tờ tín phiếu một trăm mười lăm rúp, tức tất cả số tiền mà bà coi là tôi còn nợ của bà, thì tốt hơn. Xin các ngài hiểu cho: Chính bà ta nói rằng hễ tôi viết cho bà tờ giấy ấy, bà lại sẽ cho tôi nợ bao nhiêu cũng được và về phần bà sẽ không bao giờ, không bao giờ - đó là nguyên văn lời bà - dùng đến tờ giấy ấy, bà cứ để cho tôi tự ý trả dần… Thế mà bây giờ, đến khi tôi đã mất chỗ dạy học và không có gì ăn nữa, bà lại đem ra kiện tụng… Tôi còn biết nói thế nào được?

- Xin ngài vui lòng hiểu cho rằng tất cả những tình tiết lâm li ấy đều không có dính dáng đến chúng tôi. - Ilia Petrovich xấc xược cắt ngang. - Ngài phải ký giấy nhận nợ và giấy cam kết, còn như chuyện ngài có yêu đương hay không yêu đương, và những nỗi niềm bi đát của ngài, thì chúng tôi tuyệt nhiên không cần biết đến.

- Kìa sao anh… phũ phàng thế… - Nicodim Fomich vừa lẩm bẩm vừa ngồi vào bàn và cũng bắt đầu hí hoáy viết. Hắn tự dưng thấy ngường ngượng.

- Ông viết đi. - Viên chánh văn phòng nói với Raxcolnicov.

- Viết gì? - Chàng đáp, giọng rất xẵng.

- Tôi sẽ đọc cho mà viết.

Raxcolnicov có cảm giác viên chánh văn phòng đối xử với chàng có vẻ khinh thị hơn sau khi nghe những lời tâm sự vừa rồi, và lạ thay, chàng bỗng thấy mình hoàn toàn không còn thiết gì đến bất cứ quan niệm của ai đối với mình nữa; sự chuyển biến ấy diễn ra chỉ trong một nháy mắt. Ví thử chàng chịu suy nghĩ một chút, Raxcolnicov dĩ nhiên sẽ lấy làm lạ rằng trước đấy một phút mình đã có thể nói như vậy và hơn nữa lại phô bày cả tình cảm mình ra. Mà những tình cảm ấy thì lấy ở đâu ra? Bây giờ thì ngược lại, giả sử những người ngồi trong phòng này không phải là những tên cảnh binh mà là những người bạn thân nhất của chàng, thì chắc chàng cũng không tìm ra được lấy một lời chân tình để nói với họ: Lòng chàng bỗng dưng thấy trống hoác ra. Chàng có ý thức rõ rệt rằng một cảm giác nặng nề, xót xa về nỗi cô đơn, lạc lõng không bờ bến của mình, bỗng nhiên đã tràn ngập tâm hồn chàng. Tâm trạng chàng xoay ngược hẳn lại như vậy không phải vì chàng thấy rõ sự hèn hạ của những lời thổ lộ tâm tình trước Ilia Petrovich hay cái vẻ đắc chí hèn hạ của viên trung úy. Ô, bây giờ thì chàng còn thiết gì đến sự hèn hạ của bản thân, đến tất cả những trò ganh đua hiếu thắng, những thứ trung úy, đại úy, đĩ bợm, tín phiếu, kiện tụng, v.v... Giả sử bọn họ có ra lệnh đem chàng lên giàn hỏa hành hình ngay lúc ấy thì hẳn chàng cũng không hề nhúc nhích, thậm chí còn nghe lời tuyên án ấy một cách lơ đãng nữa là khác. Trong người chàng đang diễn ra một quá trình mới lạ, đột ngột, chưa từng thấy. Không phải chàng hiểu, mà chính là chàng có cảm giác hết sức rõ rệt rằng mình không còn có thể thổ lộ tâm tình như lúc nãy đã đành, nhưng cũng không thể nào nói bất cứ chuyện gì với những kẻ ngồi trong phòng giấy cảnh sát này, và dù họ có là anh em ruột thịt của chàng chăng nữa, thì chàng cũng tuyệt nhiên không lý gì phải đi nói chuyện với họ, dù trong trường hợp nào cũng vậy; kể cho đến phút này chàng chưa từng bao giờ có một cảm giác kỳ dị và khủng khiếp đến thế. Và xót xa hơn cả, đây lại là một cảm giác nhiều hơn là một ý thức, một khái niệm; một cảm giác trực tiếp, cái cảm giác đau đớn nhất mà chàng đã trải qua từ trước đến nay.

Viên chánh văn phòng bắt đầu đọc cho chàng viết giấy nhận nợ theo công thức thường lệ, nghĩa là tôi chưa thể trả nợ được, tôi xin hứa đến ngày nọ ngày kia sẽ trả, tôi cam kết không ra khỏi thành phố, không đem tài sản đi bán, đi cho…

- Nhưng ông không đủ sức để viết nữa kìa, bút cứ tuột ra khỏi tay. - Viên chánh văn phòng nói, mắt tò mò nhìn Raxcolnicov. - Ông ốm à?

- Vâng… tôi thấy chóng mặt… Ông đọc tiếp đi!

- Thôi hết rồi, ông ký tên cho.

Viên chánh văn phòng cầm lấy tờ giấy và quay ra giải quyết các việc khác. Raxcolnicov trả cây bút, nhưng đáng lẽ phải đứng dậy ra về, thì chàng lại chống khuỷu tay lên bàn và giơ hai tay lên ôm lấy đầu. Chàng có cảm giác như bị ai đóng đinh vào đỉnh sọ. Chàng bỗng nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: Đứng ngay dậy, đến cạnh Nicodim Fomich và kể cho hắn nghe tất cả những việc đã xảy ra hôm qua, kể cặn kẽ cho đến từng chi tiết nhỏ nhặt, rồi đưa hắn về buồng mình và chỉ mớ đồ đạc giấu trong góc buồng, trong cái lỗ thủng. Ý muốn ấy mạnh đến nỗi chàng đã đứng dậy toan thi hành ngay. “Hay để nghĩ qua một chút đã. Không, tốt hơn hết là đừng nghĩ gì hết, nhắm mắt mà làm!” Nhưng chàng bỗng đứng đực ra như đóng đinh tại chỗ: Nicodim Fomich đang nói gì rất hăng với Ilia Petrovich, và chàng nghe loáng thoáng:

- Không thể được, phải thả cả hai ra. Thứ nhất là vì tất cả những việc ấy đầy rẫy những mâu thuẫn; anh thứ nghĩ xem: Việc gì họ lại đi gọi người gác cổng, nếu chính họ là thủ phạm? Để tự tố giác mình hay sao? Hay là để đánh lạc hướng? Không phải, nếu thế thì quỷ quyệt quá chừng! Và cuối cùng là người gác cổng và một mụ lái buôn có trông thấy tên sinh viên Pextriacov ngay khi hắn vào: Hắn đi với ba người bạn và chia tay với họ ngay ở cổng vào, rồi lại hỏi thăm chỗ ở ngay khi bọn kia còn đứng đấy. Chả nhẽ đi làm một việc như thế mà lại còn hỏi chỗ ở? Còn như tên Cokh thì trước khi đến nhà mụ già đã ngồi ở nhà lão thợ bạc ở tầng dưới đến nửa tiếng đồng hồ và đúng tám giờ kém mười lăm mới từ đó lên phòng mụ già ở trên gác. Bây giờ ông thử nghĩ xem…

- Nhưng khốn nỗi lời khai của họ có chỗ mâu thuẫn như sau: Họ quả quyết rằng họ có đập cửa và cánh cửa đóng kín, thế mà ba phút sau, khi đi lên với người gác cổng, thì lại thấy cửa mở?

- Vấn đề là ở chỗ đó: Chắc chắn hung thủ đang ở trong nhà và chốt cửa lại; và chắc chắn sẽ tìm thấy hắn ở đấy, nếu cái thằng cha Cokh kia không dại dột bỏ xuống nhà tìm người gác cổng. Chính trong khoảng thời gian ấy, hắn đã có đủ thì giờ xuống thang gác và làm thế nào lọt qua mắt họ. Lão Cokh thì cứ làm dấu thánh lia lịa, lão nói: “Ví thử tôi đứng lại đấy thì hắn đã nhảy xổ ra bổ rìu vào đầu tôi mất rồi”. Hắn đang muốn làm lễ tạ ơn chúa đấy. Hê-hê-hê!

- Thế không ai trông thấy hung thủ à?

- Thì trông thấy thế nào được? Cái nhà ấy như cái vườn bách thú ấy mà. - Viên chánh văn phòng, nãy giờ ở bàn lắng tai nghe, buông một lời nhận xét.

- Sự việc rõ lắm rồi, rõ lắm rồi! - Nicodim Fomich hăm hở nhắc đi nhắc lại.

- Không, sự việc chẳng rõ tí nào đâu. - Ilia Petrovich khẳng định.

Raxcolnicov cầm lấy mũ và đi ra cửa, nhưng chàng không ra được đến cửa… Khi chàng tỉnh dậy thì thấy mình ngồi trên một chiếc ghế, bên phải có một người nào đang đứng đỡ chàng, bên trái có một người khác cầm một cái cốc màu vàng đựng đầy một chất nước gì vàng vàng, Nicodim Fomich thì đứng trước mặt chàng và đang nhìn chàng chòng chọc; chàng đứng dậy.

- Sao thế, ông ốm à? - Nicodim Fomich hỏi, giọng hơi xẵng.

- Khi ký giấy, ông ấy cầm bút đã không nổi rồi. - Viên chánh văn phòng vừa nhận xét vừa ngồi vào bàn và tiếp tục lục soạn giấy tờ.

- Ông ốm đã lâu chưa? - Ilia Petrovich cũng đang ngồi soạn giấy tờ ở bàn mình, quát chõ ra. Dĩ nhiên hắn cũng đã đến xem xét Raxcolnicov khi chàng ngất đi nhưng đã lập tức lảng ra khi thấy chàng tỉnh dậy.

- Từ hôm qua… - Raxcolnicov lắp bắp trả lời.

- Thế hôm qua ông có ra khỏi nhà không?

- Có!

- Trong khi đang ốm?

- Trong khi đang ốm!

- Lúc mấy giờ?

- Hơn bảy giờ tối.

- Xin hỏi ông đi đâu như thế?

- Ra phố.

- Thật là gọn và rõ.

Raxcolnicov trả lời rất xẵng, dằn từng tiếng một, mặt trắng nhợt như tờ giấy, hai con mắt đen nổi tia máu nhìn thẳng vào mặt Ilia Petrovich.

- Ông ấy đứng không vững nữa, thế mà anh… - Nicodim Fomich nhận xét.

- Không sao! - Ilia Petrovich nói, giọng nghe rất khác thường. Nicodim Fomich còn muốn nói thêm một câu gì nữa, nhưng sau khi đưa mắt về phía viên chánh văn phòng lúc bấy giờ cũng nhìn chàng không chớp, lại thôi. Ai nấy bỗng lặng thinh. Trong phòng im lặng một cách kỳ lạ.

- Thôi được. - Ilia Petrovich kết luận. - Ông có thể về.

Raxcolnicov đi ra. Chàng còn có đủ thì giờ nghe thấy tiếng bàn tán xôn xao nói lên khi chàng vừa ra khỏi cửa: nghe rõ nhất là giọng nói có ý dò hỏi của Nicodim Fomich… Ra đến phố chàng tỉnh hẳn lại.

“Khám nhà, khám nhà, chúng sẽ khám nhà ngay bây giờ?” - Chàng tự nhủ trong khi rảo bước cho chóng về đến buồng. - “Quân kẻ cướp! Chúng nó nghi ngờ!”. Cảm giác lo sợ lúc nãy lại luồn vào khắp người chàng, từ đầu đến chân.

[1] Xin bạn đọc lưu ý rằng sự việc xảy ra ở Petersburg, vào mùa hè. Tiết này, đêm ở Petersburg là “đêm trắng” không có mặt trời nhưng vẫn sáng.

[2] Những người gác cổng hàng ngày phải đến sở cảnh sát bẩm báo.

[3] Xin cảm ơn (tiếng Đức).

CHƯƠNG 2

"Nếu chúng đã khám rồi thì sao? Nếu bây giờ về vừa gặp chúng ngay ở nhà mình thì sao?" Nhưng đã đến buồng chàng đây rồi. Không có gì, không có ai hết; không có ai dòm ngó vào đây cả, ngay đến Naxtaxia cũng không hề bén mảng tới. Nhưng trời! Làm sao lúc này chàng lại có thể để tất cả những thứ ấy trong cái lỗ thủng kia?

Chàng đâm bổ vào góc nhà, thò tay xuống dưới lần giấy lấy các thứ giấu trong lỗ nhét vào túi. Cả thảy có tám cái: Hai cái hộp con đựng hoa tai hay một thứ gì như thế - chàng cũng không nhìn rõ nữa; rồi đến bốn cái bao nhỏ bằng da dê, một sợi dây chuyền bọc giấy báo, và một vật gì nữa không rõ, hình như một tấm huân chương, cũng bọc giấy báo. Chàng đút hết vào các túi áo khoác, vào túi quần bên phải còn nguyên vẹn, cố sao cho thật khó trông thấy. Cái bóp tiền chàng cũng gộp làm một với các thứ kia. Rồi chàng ra khỏi phòng, lần này cứ để cửa mở toang.

Chàng bước nhanh nhẹn, quả quyết, và tuy cảm thấy chân tay rời rã ra, chàng vẫn tỉnh táo. Chàng sợ bị truy bắt, chàng sợ rằng nửa giờ sau, hay mười lăm phút sau đã có lệnh theo dõi chàng; vậy thì phải tìm đủ cách để phi tang trước đi: “Cần phải làm cho xong trong khi thân thể hãy còn chút nào sức lực, trí óc hãy còn chút nào minh mẫn… Nhưng đi đâu bây giờ!”

Điều đó đã được giải quyết từ lâu: “Vứt tất xuống kênh đào, thế là phi tang, và vụ này sẽ kết thúc”. Chàng đã quyết định như vậy ngay từ đêm qua, trong cơn mê sảng, chàng còn nhớ rõ là đúng vào khi chàng toan nhổm dậy mấy lần: “Nhanh lên, nhanh lên, đi mà vứt hết đi”. Nhưng bây giờ mới biết là vứt đi như thế rất khó.

Chàng đi lang thang dọc theo bờ kênh Ecaterina đã nửa giờ rồi, có lẽ còn lâu hơn nữa, và đã mấy lần mỗi khi đi ngang bên chàng lại nhìn những bậc tam cấp dần xuống lòng kênh. Nhưng không thể nào nghĩ đến chuyện thực hiện ý định được: hoặc có những cái bè đỗ ngay ở lối xuống, và trên bè những người thợ giặt đang giặt quần áo, hoặc có những chiếc thuyền buộc vào bờ, và nơi nào cũng nhan nhản những người, vả lại xung quanh đấy, dọc theo bờ kênh, đứng chỗ nào người ta cũng có thể nhìn thấy, có thể chú ý được: tự dưng lại có người cố ý đi xuống bến, dừng lại rồi bỏ một cái gì xuống nước thì khả nghi lắm. Thế rồi nhỡ ra mấy cái hộp kia không chìm mà lại nổi lềnh bềnh trên mặt nước thì sao? Mà chắc chắn là phải như thế! Bất cứ người nào cũng có thể trông thấy. Cứ thế này thôi, khi gặp chàng, ai nấy cũng đã nhìn ngó như thể xưa nay chỉ chú ý đến chàng. “Không hiểu tại sao họ lại nhìn như thế. Hay có lẽ đó chỉ là cảm giác của mình” - chàng băn khoăn tự hỏi. Cuối cùng chàng nghĩ có lẽ nên đi ra mạn sông Neva thì hơn. Ở đây vắng hơn, và khó có người trông thấy hơn, dù sao thì ở đấy cũng thuận lợi hơn, và nhất là xa chỗ chàng ở hơn. Rồi chàng bỗng ngạc nhiên: Làm sao chàng lại có thể đi lang thang suốt hàng nửa tiếng đồng hồ trong khi đang lo sợ như vậy ở những nơi nguy hiểm này mà không nghĩ ra từ trước? Chàng phí mất nửa giờ đồng hồ làm một việc vô lý như vậy cũng chỉ vì trong khi mê sảng chàng đã có lần quyết định như thế! Dạo này chàng đâm ra đãng trí, hay quên lạ lùng, và chính chàng cũng biết thế. “Nhất định phải làm gấp!”

Chàng theo đại lộ V., đi ra sông Neva, nhưng dọc đường một ý nghĩ lại vụt hiện đến: “Tại sao lại ra sông Neva, tại sao lại phải vứt xuống nước? Sao lại không tìm một nơi nào cho thật xa, trên các đảo chẳng hạn, và đến một chỗ nào thật vắng: một khóm cây hay một bụi rậm, chôn các thứ ấy xuống rồi đánh dấu vào thân cây chẳng hạn, có phải hơn không”. Và lúc bấy giờ tuy chàng thấy mình không đủ sức suy tính cho rõ ràng và tỉnh táo, chàng cũng có cảm giác rằng đó là một ý nghĩ đúng đắn.

Nhưng rồi rốt cục chàng cũng không đi đến các đảo, sự việc xảy ra khác hẳn: Khi từ đại lộ V., ra đến một quảng trường, chàng bỗng trông thấy ở bên trái có một lối đi dẫn vào khoảng sân xung quanh có tường rào bao bọc kín mít. Ở bên phải, sát ngay lối vào và kéo dài cho đến tận cuối sân là bức tường của ngôi nhà bốn tầng ở bên cạnh, không trổ cửa sổ, không quét vôi. Ở bên trái, song song với bức tường kín và cũng sát bên cổng vào, có một dãy hàng rào gỗ chạy sâu vào khoảng hai mươi bước rồi bẻ quặt sang trái. Đó là một khoảng đất trống ngổn ngang những vật liệu bỏ đi. Xa hơn, mãi tận cuối sân, ở bên kia tường có thể thấy góc mái một cái nhà kho bằng đá thấp lụp xụp, ám khói đen sì, có lẽ thuộc một xưởng thợ nào đấy. Chắc hẳn trước kia ở đây có đặt một xưởng đóng xe, làm khóa hay là một cái gì tương tự; hầu như ngay từ cổng vào, nơi nào cũng thấy đen sì những bụi than. “Đây rồi, phải vứt vào đây rồi bỏ đi”. - Raxcolnicov chợt nghĩ. Không thấy ai trong sân, chàng bước vào cổng và chợt thấy ngay sát cổng có một cái ống máng lắp vào tường như vẫn thường thấy ở những nhà có nhiều thợ thuyền, phu xe v.v… và ở khoảng tường phía trên ống máng thấy có mấy chữ viết bằng phấn: “Cấm đứng đái chỗ này”. Như vậy càng tốt, chẳng ai có thể nghi ngờ chàng đã ghé vào đây. “Phải vứt hết lại đây thành một đống và bỏ đi”.

Chàng đưa mắt nhìn quanh một lần nữa, và đã định thọc tay vào túi, thì chợt trông thấy ngay ở chân tường ngoài, giữa cái cổng và cái ống máng cách nhau không đầy một thước, có một tảng đá lớn không đẽo gọt gì, có lẽ nặng tới pút rưỡi, đặt sát vào chân hốc tường đá. Bên kia bức tường ấy là hè phố; đứng trong sân có thể nghe thấy tiếng chân bước của những người qua đường thưa thớt; nhưng ở ngoài đường nhìn vào không thể trông thấy chàng được, trừ khi có ai ghé vào đây. Vả chăng điều đó rất có thể xảy ra, cho nên cần phải làm gấp.

Chàng cúi xuống giơ hai tay nắm thật chắc lấy phần trên tấm đá, lấy hết sức lực lật ngửa nó ra. Ở dưới tảng đá đất lõm xuống thành một cái hốc trũng; chàng lập tức trút hết các thứ ở trong túi vào đấy. Cái bóp tiền nằm ở trên cùng, thế nhưng trong hốc vẫn còn chỗ. Xong đâu đấy chàng lại ôm tảng đá lật lại, nó nằm vừa vặn vào chỗ cũ, chỉ hơi nhô cao lên hơn trước một chút. Nhưng chàng bới đất xung quanh và lấy chân đắp vào cạnh rìa hòn đá. Không còn trông thấy gì khả nghi nữa.

Chàng ra phố và đi về phía quảng trường. Một niềm vui sướng mãnh liệt, hầu như không sao chịu nổi, lại tràn vào lòng chàng trong giây lát. “Thế là phi tang! Ai lại có thể nảy ra cái ý đến tìm ở dưới tảng đá ấy bao giờ? Có lẽ nó nằm đấy từ hồi mới xây nhà, và sẽ còn nằm đấy bấy nhiêu lâu nữa. Mà dù có tìm thấy, thì có ai đi ngờ cho mình? Thế là xong! Mất hết tang chứng!” - Và chàng phá lên cười. Phải, về sau chàng nhớ lại rằng lúc ấy chàng đã rũ ra cười nấc lên từng cơn lặng lẽ ngắn hơi và cười mãi hồi lâu, suốt trong thời gian chàng đi qua quảng trường. Nhưng khi chàng rẽ vào đại lộ K., nơi mà hôm kia chàng gặp người con gái say rượu, trận cười của chàng vụt tắt. Những ý nghĩ khác len vào đầu chàng. Chàng lại chợt có cảm tưởng rằng mình sẽ thấy ghê tởm khi đi qua chiếc ghế dài mà chàng đã ngồi suy nghĩ sau khi người con gái bỏ đi, và cũng sẽ thấy khó chịu hết sức nếu gặp lại người cảnh binh có bộ ria mà hôm ấy chàng đã trao cho hai mươi cô-pếch. “Ma bắt nó đi cho rảnh!”

Chàng bước đi, mắt nhìn hai bên một cách lơ đãng và hằn học. Bấy giờ bao nhiêu ý nghĩ của chàng đều xoay quanh một điểm chính nào đó, chàng cũng cảm thấy rằng đó quả là điểm chính, và bây giờ, chính lúc này đây, chàng còn lại một mình đối diện với cái điểm chính ấy, lần đầu tiên trong suốt hai tháng vừa qua.

“Thôi kệ mẹ nó!” - Chàng bỗng nghĩ trong cơn tức giận điên cuồng. - “Đã bắt đầu rồi à, thì cứ bắt đầu; cuộc sống mới ư? Mặc cho nó đi về nhà mà! Trời ơi, sao lại có những chuyện ngớ ngẩn đến thế!… Hôm nay mình đã nói dối và làm những việc thật hèn hạ! Mình đã quỳ gối một cách ô nhục trước mặt cái thằng Ilia Petrovich đê mạt ấy! Nhưng đó cũng toàn là chuyện nhảm hết! Nhổ toẹt vào tất cả bọn chúng nó, mà cũng cần quái gì nghĩ đến chuyện mình có quỳ gối hay không quỳ gối. Vấn đề không phải ở đấy! Không phải ở đấy chút nào!…”

Bỗng chàng dừng lại; một câu hỏi mới, hoàn toàn bất ngờ và hết sức đơn giản chợt nảy ra, khiến chàng rối trí và kinh ngạc một cách chua xót:

“Nếu quả tất cả những việc đó đều làm một cách có ý thức chứ không phải làm hú họa, nếu mày quả có một mục đích rõ ràng và vững chắc, thì làm sao mãi cho đến bây giờ mày vẫn không hề nhìn vào cái ví tiền và không biết việc này đã đưa lại cho mày những gì. Vì đâu mà mày chịu khổ chịu sở và bắt tay vào một việc hèn hạ, xấu xa, bỉ ổi như thế? Vừa rồi mày muốn vứt hết xuống nước, cả cái ví tiền lẫn các thứ khác mà, thậm chí mày cũng chưa mở ra xem nữa… sao lại có thể như thế?”

Phải, đúng như thế, hoàn toàn đúng như thế. Vả chăng trước kia chàng cũng đã biết thế, và đây hoàn toàn không phải là một vấn đề mới mẻ gì đối với chàng; thế mà đêm qua, khi quyết định vứt xuống nước, chàng đã quyết định không hề phân vân, lưỡng lự, cứ như thể tất nhiên phải như thế, không thể nào khác đi được… Phải, chàng biết hết những điều đó và nhớ hết; mà hầu như việc đó đã được quyết định ngay từ hôm qua, ngay khi chàng ngồi bên cái rương lấy các thứ ở trong rương ra. Ra thế đấy…

“Đó là vì mình đang ốm nặng,” - cuối cùng chàng quả quyết tự nhủ, - “chính mình giày vò, hành hạ mình, và chính mình không biết mình đang làm gì… Cả ngày hôm qua, hôm kia, suốt cả một thời gian ấy mình đã tự giày vò… Mình sẽ khỏi và sẽ không làm khổ mình nữa… Thế nhỡ không khỏi chút nào thì sao? Trời ơi! Chán ngấy lên rồi?…”. Chàng bước đi, không dừng chân. Chàng háo hức muốn tìm cách khuây khỏa, nhưng không biết nên làm gì. Một cảm giác mới mẻ, không sao cưỡng được mỗi phút một tràn ngập lòng chàng: Đó là một cảm giác ghê tởm không bờ bến, hầu như nhục thể, đối với tất cả những gì chàng gặp, tất cả những gì ở xung quanh chàng, một cảm giác kiên trì, ác liệt, cay cú. Chàng thấy tất cả những người qua đường đều có những bộ mặt, những dáng đi, những cử chỉ khả ố. Giá có ai lên tiếng nói gì với chàng, chàng sẽ nhổ thẳng vào mặt họ, có lẽ còn xông vào cắn họ nữa…

Chàng bỗng dừng chân khi ra đến bờ sông Neva Con, trên đảo Vaxili, cạnh cái cầu. “Hắn ở đây, trong ngôi nhà này đây”. - Chàng thầm nghĩ. - “Sao thế nhỉ, mình loay hoay thế nào rồi rốt cục lại dẫn xác đến nhà Razumikhin! Lại y như hôm ấy… mà kể cũng lạ thật; mình cốt đi đến đây hay chẳng qua tình cờ đi ngang, thì cũng thế thôi; hôm kia… mình nói… là một ngày sau khi việc ấy đã xong xuôi mình sẽ đến chỗ hắn, thế thì cứ đến thôi! Làm như thể bây giờ mình không thể ghé nhà ai được nữa!”

Chàng lên phòng Razumikhin ở gác năm.

Razumikhin có nhà. Lúc ấy anh đang ngồi viết hí hoáy trong căn buồng chật hẹp. Nghe tiếng gõ cửa; anh ra mở. Đã bốn tháng nay hai người không gặp nhau. Razumikhin mặc một chiếc áo dài ngủ rách bươm, chân đi giày vải, đấu tóc rối bù, râu không cạo, mặt không rửa. Gương mặt anh lộ vẻ ngạc nhiên.

- Cậu đấy à? - Anh kêu lên, mắt chăm chăm nhìn bạn từ đầu đến chân; nhưng rồi anh im bặt và huýt lên một tiếng. - Bi đến thế kia à? Cậu mặc còn bảnh hơn cả tớ nữa rồi đấy! - Anh nhìn mấy tấm giẻ rách của Raxcolnicov nói thêm. - Ngồi xuống chứ, hình như cậu mệt lắm thì phải.

Và khi Raxcolnicov đã buông mình rơi phịch xuống chiếc đi-văng Thổ Nhĩ Kỳ lót vải sơn còn tồi tệ hơn cả chiếc ghế của chàng, Razumikhin bỗng nhận ra rằng bạn mình ốm.

- Nhưng cậu ốm hẳn hoi rồi, cậu không biết à? - Nói đoạn anh cầm lấy tay bạn để bắt mạch. Raxcolnicov giật phắt tay ra.

- Không cần! - Chàng nói. - Tôi đến… Thế này, tôi không có chỗ nào dạy học cả… tôi muốn… vả chăng tôi cũng cóc cần chỗ dạy…

- Này, cậu mê sảng rồi còn gì! - Razumikhin chăm chú, quan sát chàng và nhận xét.

- Không, tôi không mê sảng… - Raxcolnicov rời đi-văng đứng dậy. Khi lên nhà Razumikhin, chàng không nghĩ đến việc mình sẽ phải mặt giáp mặt với bạn. Mãi đến bây giờ, do kinh nghiệm thực tế, chàng mới vụt nghĩ ra rằng giờ phút này không có gì có thể làm cho chàng khó chịu hơn là phải mặt giáp mặt với bất cứ ai trên đời. Một nỗi hằn học dữ dội dấy lên trong lòng chàng. Vừa bước qua ngưỡng cửa phòng Razumikhin, chàng đã thấy căm tức bản thân mình đến nghẹn cổ.

- Thôi chào cậu. - Chàng bỗng nói và đi ra cửa.

- Kìa khoan đã, khoan đã, cậu này gàn quá?

- Thôi! - Raxcolnicov giật tay ra nói.

- Đã thế thì cậu đến đây làm quái gì! Cậu phát điên rồi chắc? Thế kia có tức không chứ. Tớ không để cậu ra về như thế đâu.

- À thế thì cậu nghe đây, tôi đến cậu là vì ngoài cậu ra tôi không biết ai có thể giúp tôi… bắt đầu… vì cậu tốt hơn hết thảy bọn họ, nghĩa là cậu thông minh hơn, có thể bàn bạc được… Nhưng bây giờ tôi lại thấy rằng tôi không cần gì nữa hết, cậu nghe ra chưa, hoàn toàn không cần gì nữa hết… không cần ai giúp đỡ, cảm thông gì hết… Tôi sẽ tự liệu lấy… một mình… Thôi thế đủ rồi! Cứ để mặc xác tôi!

- Thì khoan tí đã nào, đồ dở hơi! Cậu điên thật rồi! Tớ thì cậu muốn thế nào cũng được, cậu xem, tớ cũng không có chỗ dạy học, mà tớ cùng đếch cần; nhưng ở chợ tầm tầm có một lão lái sách tên là Kheruvimov, lão này cũng đáng giá một chỗ dạy học chán. Bây giờ thì có đổi lão ấy lấy năm chỗ dạy học ở các nhà buôn tớ cũng không đổi. Lão ta xuất bản cả sách và hiện đang cho in những tập sách nhỏ về khoa học tự nhiên, bán đắt như tôm tươi! Chỉ riêng cái đầu đề không thôi cũng đáng đồng tiền rồi! Cậu thì bao giờ cũng bảo tớ ngốc: Thế mà có kẻ còn ngốc hơn tớ nữa, tớ nói thật đấy! Bây giờ lão ấy cũng đang lao theo phong trào, tuy một chữ cắn đôi cũng không biết: lẽ dĩ nhiên tớ khích cho lão lao mạnh nữa vào. Đây có hai tập gần bốn chục trang tiếng Đức - theo tớ thì chỉ là thứ văn bán thuốc ê ngớ ngẩn nhất đời, đề tài nói tóm lại là: Đàn bà có phải là người hay không phải là người? Và cố nhiên tác giả chứng minh một cách trịnh trọng rằng đàn bà quả là người thật. Kheruvimov chuẩn bị xuất bản quyển sách này để đáp ứng với phong trào thảo luận về vấn đề phụ nữ, tớ thì dịch, lão ấy thì làm cái việc kéo dài bốn chục trang này ra thành một trăm trang, chúng tớ sẽ viết một cái đầu đề cho thật kêu dài đến nửa trang giấy và đem bán năm hào một quyển. Chua lắm! Tiền công dịch của tớ là sáu rúp mỗi tập mười sáu trang, vị chi cả thảy được chừng mười lăm rúp, tớ đã lĩnh trước sáu rúp rồi đấy. Xong cái này thì sẽ dịch sang một tài liệu nói về cá voi, rồi thì trong phần sau quyển "Confessions"[1] cũng thấy có nhiều đoạn nói nhảm hết sức vô vị, cho nên cũng dịch nốt; có một thằng cha nào nói với Kheruvimov rằng Rousseau cũng là một thứ Radisev, lẽ dĩ nhiên ta cứ ầm ừ, kệ mẹ nó. Thế nào, cậu lấy tập 2 quyển “Đàn bà có phải là người không?” về mà dịch nhé. Nếu cậu bằng lòng thì lấy ngay nguyên bản, bút giấy đây - toàn là của công đấy - và cầm lấy ba rúp: Tớ đã lĩnh tiền ứng trước cho cả hai tập, thế nghĩa là phần cậu ba rúp. Dịch xong cậu sẽ nhận nốt ba rúp nữa. Nhưng cậu đừng có nghĩ là tớ giúp đỡ gì cậu nhé. Ngược lại, vừa trông thấy cậu tớ đã tính chuyện nhờ cậu ngay. Trước hết là tớ viết hay sai chính tả, thứ đến là tiếng Đức của tớ đôi khi cũng schwach[2], thành thử phần nhiều tớ cứ tự ý bịa ra mà viết và tự an ủi rằng làm như vậy sách chỉ có thể hay thêm mà thôi. Thế nhưng biết đâu được, có lẽ nó không hay thêm mà lại càng tồi thêm thì có… Cậu có lấy không?

Raxcolnicov lặng lẽ cầm lấy tập giấy in tiếng Đức, cầm lấy ba đồng rúp và đi ra, không nói lấy một lời. Razumikhin ngạc nhiên nhìn theo chàng. Nhưng ra đến góc phố, Raxcolnicov bỗng quay phắt trở lại, lên phòng Razumikhin, đặt lên bàn cả xấp giấy lẫn ba đồng rúp, cũng vẫn không nói lấy một lời, rồi đi ra.

- Kìa cậu sốt thật rồi? - Razumikhin rốt cục cũng điên tiết gầm lên. - Cậu làm cái trò gì thế? Đến tớ cũng phải lộn ruột lên với cậu… Đã thế thì đến làm gì, đồ quỷ?

- Tôi không cần… dịch… - Raxcolnicov lẩm bẩm trong khi bước xuống thang gác.

- Thế thì cậu cần cái quái gì nào? - Razumikhin trên gác quát chõ xuống. Raxcolnicov lặng thinh bước thẳng.

- Này! Nhà cậu bây giờ ở đâu thế hả?

Không có tiếng trả lời.

- Thôi mặc x… xác cậu!

Nhưng Raxcolnicov đã ra phố. Trên cầu Nicolaievxki chàng lại phải sực tỉnh, lần nữa, vì một sự việc xảy ra khiến chàng rất khó chịu. Một người xà ích đánh xe song mã đã quất roi vào lưng chàng vì chàng suýt đâm đầu vào chân ngựa, tuy hắn đã ba bốn lần quát chàng tránh ra. Nhát roi làm cho chàng giận điên lên. Chàng nhảy vụt ra thành cầu (không hiểu tại sao chàng cứ đi nghênh ngang ở giữa cầu, khoảng dành cho xẹ cộ), nghiến răng kèn kẹt. Mấy người đứng quanh cười rộ lên.

- Đáng đời!

- Chắc là một thằng kẻ cắp.

- Ai còn lạ gì, giả vờ say rượu rồi chui đầu vào bánh xe để lĩnh tiền bồi thường chứ gì?

- Cũng là một cách xoay tiền ông ạ, cũng là một cách xoay tiền.

Nhưng trong khi chàng còn đứng bên thành cầu, vừa nhìn theo cỗ xe song mã đang xa dần với đôi mắt giận dữ và ngây dại, chàng bỗng cảm thấy có ai dúi tiền vào tay chàng. Chàng nhìn lại thì thấy một người đàn bà đứng tuổi, trông chừng là hạng buôn bán, đầu trùm khăn, chân đi giày da dê, cùng đi với một người thiếu nữ đội mũ dạ, cầm ô xanh, chắc là con gái bà ta. “Anh cầm lấy, vì Chúa”. Chàng cầm lấy đồng tiền, và họ đi thẳng. Đó là một đồng hào đôi. Trông dáng vẻ và cách ăn mặc của chàng, họ rất có thể tưởng chàng là một người ăn mày vẫn thường ngửa tay xin từng đồng xu trên hè phố. Chàng được bố thí như vậy chắc hẳn cũng là nhờ nhát roi kia đã làm cho họ động lòng trắc ẩn.

Chàng nắm chặt đồng hào đôi trong tay, đi độ mươi bước và quay mặt ra sông Neva, về phía hoàng cung. Bầu trời không một gợn mây, và màu nước xanh biếc hầu như lẫn với màu trời, một điều rất ít thấy trên sông Neva. Không có nơi nào có thể nhìn rõ những đường nét của mái nhà thờ Isaac như chỗ chàng đang đứng, trên cầu, cách nhà thờ chừng hai mươi bước. Chiếc mái vòm khum ánh lên trên nền trời, và qua làn không khí trong vắt còn có thể thấy rõ từng nét trang hoàng trên mái. Chỗ bị roi quất đã hết đau và Raxcolnicov đã quên khuấy nó đi; bây giờ chỉ có một ý nghĩ lo âu mơ hồ khiến chàng bận tâm. Chàng đứng yên hồi lâu nhìn đăm đăm vào không gian xa thẳm; nơi này đối với chàng rất quen thuộc. Hồi chàng còn lui tới trường đại học, nhất là trên đường về nhà, chàng thường dừng lại hàng trăm lần đúng ở chỗ này, nhìn đăm đăm vào bức toàn cảnh tráng lệ này và cứ mỗi lần như thế chàng lại lấy làm lạ về cái ấn tượng mơ hồ và khó hiểu nhóm lên trong lòng chàng. Bao giờ cái quang cảnh tráng lệ ấy cũng như thở vào người chàng một luồng hơi lạnh buốt kỳ lạ; và chàng cứ cảm thấy bức tranh lộng lẫy ấy có một cái gì ghẻ lạnh, dửng dưng… Cứ mỗi lần như vậy chàng lại lấy làm lạ với cái ấn tượng âm u, huyền bí nhóm lên trong lòng mình, và không dám tin rằng mình có thể hiểu thấu được: Chàng lại tự hứa sẽ tìm cách lý giải sau. Bây giờ chàng bỗng sực nhớ lại những nỗi băn khoăn, thắc mắc trước kia, và cảm thấy rằng không phải ngẫu nhiên mà mình nhớ lại như thế. Chỉ riêng một điều này thôi chàng đã thấy nó có vẻ kỳ quái và huyền bí, là chàng đã dừng lại đúng ở chỗ cũ, dường như chàng thật sự tưởng rằng bây giờ mình cũng có thể suy nghĩ như trước kia, cũng có thể quan tâm đến những vấn đề và những quang cảnh mà… trước đây không lâu chàng vẫn quan tâm đến. Thậm chí chàng còn thấy gần như nực cười nữa, tuy lòng chàng sẽ lại đến đau nhói cả ngực lên.

Ở một nơi nào sâu thẳm phía dưới kia, dưới chân chàng, mờ mờ hiện lên tất cả cái dĩ vãng ấy; những ý nghĩ, những vấn đề, những nỗi băn khoăn, những ấn tượng cũ, và cả bức toàn cảnh này, và cả bản thân chàng nữa, tất cả, tất cả… Chàng có cảm giác như mình đang bay bổng lên, chơi vơi ở một nơi nào cao ngất, và mọi vật đều tan biến đi trước mắt chàng… Chàng bất giác xua tay một cái, và chợt thấy có đồng hào đôi trong lòng bàn tay nắm chặt. Chàng ngả tay ra, nhìn đăm đăm vào đồng tiền một lát rồi giang tay ném xuống nước. Đoạn chàng quay lại đi về nhà. Chàng có cảm tưởng như mình vừa lấy kéo cắt đứt hẳn bản thân mình ra khỏi mọi người và mọi vật.

Chàng về đến nhà thì trời đã chiều, như thế nghĩa là chàng đã đi lang thang sáu tiếng đồng hồ. Chàng về nhà ra sao và đi lối nào thì chàng không hề nhớ tí gì hết. Người run bắn lên như con ngựa mệt lừ, chàng cởi áo nằm lên đi-văng, kéo chiếc áo khoác đắp lên người và lập tức thiếp đi…

Khi trời đã tối mịt, chàng sực tỉnh giấc vì một tiếng gào khủng khiếp. Trời ơi, tiếng gào gì mà gớm guốc thế. Chàng chưa bao giờ nghe thấy những âm thanh quái gở như vậy, chàng chưa từng nghe thấy những tiếng rú, những tiếng quất, những tiếng rít, những tiếng khóc, những tiếng đấm đá và chửi rủa như vậy bao giờ. Chàng cũng không thể hình dung nổi một cái gì hung dữ, thú vật như vậy. Chàng kinh hãi nhỏm dậy và ngồi trên đi-văng, phút phút lại lặng người đi vì sợ hãi và đau đớn: Những tiếng đấm đá, la hét mỗi lúc một thêm dữ dội. Và chàng bỗng vô cùng kinh ngạc nhận ra tiếng bà chủ nhà. Bà ta gào thét, rú rít lên, khóc lóc kể lể cuống quýt, có khi líu lưỡi lại nói không ra tiếng nữa, thành thử không tài nào nghe ra được bà nói những gì. Chỉ biết là bà đang kêu van, chắc là đang van người ta đừng đánh đập mình nữa, vì có một người nào đang đánh đập bà tàn nhẫn trên thang gác. Người đang đánh tức giận điên cuồng, gân cổ lên quát mắng khủng khiếp đến nỗi khản cả giọng, thế nhưng cũng đang nói gì rất nhanh, cứ được mấy tiếng lại sặc sụa lên không còn nghe ra cái gì nữa. Bỗng Raxcolnicov run bắn lên: Chàng đã nhận ra giọng nói này; đó là giọng của Ilia Petrovich. Ilia Petrovich đang ở đây, và đang đánh đập bà chủ nhà! Hắn lấy chân đá vào bà ta, cộc đầu bà vào bậc thang. - “Cứ nghe những tiếng ồn ào những tiếng la hét và đấm đá cũng đủ rõ! Làm sao thế, trời đất đảo điên cả rồi hay sao?” Khắp các tầng trên gác dưới, suốt dọc cầu thang người ta đổ ra đông nghịt: có thể nghe thấy những tiếng nói xôn xao, những tiếng kêu í ới, những tiếng chân chạy thình thịch, những tiếng cửa đóng ầm ầm. “Nhưng có chuyện gì thế, tại sao, và làm sao lại có thể như thế được?” - Chàng cứ nghĩ đi nghĩ lại, thật sự lo sợ rằng mình đã phát điên hẳn hoi rồi. Nhưng không, chàng nghe quá rõ!… Nhưng nếu đã thế thì họ sắp đến phòng chàng ngay bây giờ, bởi vì… chắc đầu đuôi cũng đều do chuyện hôm qua… mà ra cả… “Trời ơi!” Chàng định chốt trái cửa lại, nhưng tay chàng cứ rũ xuống… vả lại cũng vô ích! Nỗi hãi hùng như một tảng băng trùm lấy tâm hồn chàng, khiến chàng đau buốt, co quắp lại… Nhưng rồi cuối cùng tiếng ồn ào inh ỏi, kéo dài đã được đến mười phút, bắt đầu im ắng dần. Bà chủ nhà luôn mồm rên rỉ và thở dài sườn sượt; Ilia Petrovich vẫn còn hăm dọa và nguyền rủa… Nhưng rốt cục hình như chính hắn cũng lặng đi; không còn nghe thấy tiếng hắn nói nữa; “Hay là hắn đi rồi! Lạy Chúa!” Phải, đây, bà chủ nhà cũng đi ra, mồm vẫn rên rỉ và khóc thút thít… và đây, cửa phòng bà ta đã đóng sập lại… Đám đông đã rời thang gác tản về các buồng; họ xôn xao bàn tán, gọi nhau í ới, tiếng nói khi to lên thành tiếng quát, khi nhỏ lại chỉ còn nghe rì rầm. “Chắc là đông lắm; gần như cả nhà đều đổ ra xem thì phải. Nhưng trời ơi, chả nhẽ lại có thể như thế được! Mà tại sao, tại sao hắn lại đến đây làm cái gì?”

Raxcolnicov bủn rủn gục xuống đi-văng, nhưng không sao nhắm mắt lại được nữa; chàng nằm yên khoảng nửa tiếng đồng hồ, với một cảm giác sợ hãi đau đớn không sao chịu nổi, mà xưa nay chàng chưa hề biết. Bỗng phòng chàng sáng rực lên: Naxtaxia vừa bước vào tay cầm nến, tay bưng xúp. Chị ta chăm chú nhìn chàng, và khi thấy chàng đang thức, chị đặt cây nến xuống bàn và bắt đầu bày các thứ ra, bánh mì, muối, đĩa, thìa.

- Chắc từ hôm qua chưa ăn gì. Đi lang thang suốt cả ngày và lại sốt hầm hập lên chứ có phải không đâu.

- Naxtaxia này… tại sao họ đánh đập bà chủ thế?

Naxtaxia nhìn chàng chằm chặp.

- Ai đánh bà chủ?

- Vừa rồi ấy… cách đây nửa giờ ấy mà, Ilia Petrovich, viên phó quận trưởng, trên cầu thang… Tại sao hắn lại đánh bà ấy, và… hắn đến đây làm gì?

Naxtaxia cau mày lặng thinh nhìn chàng chăm chú một hồi lâu. Chàng thấy khó chịu trước cái nhìn ấy thậm chí còn thấy sợ nữa.

- Naxtaxia, sao chị cứ làm thinh? - Mãi lát sau chàng mới rụt rè cất tiếng hỏi, giọng yếu ớt.

- Máu đấy. - Sau một lát im lặng, Naxtaxia đáp khẽ như nói một mình.

- Máu!… Máu nào?… - Chàng lắp bắp, mặt tái nhợt đi, và bất giác né người về phía vách. Naxtaxia vẫn lặng lẽ nhìn chàng.

- Không có ai đánh bà chủ cả. - Chị lại nói, giọng nghiêm nghị và quả quyết.

Raxcolnicov nhìn chị ta, thở không ra hơi nữa.

- Chính tôi nghe mà… tôi không ngủ… tôi ngồi nghe. - Chàng nói, giọng còn rụt rè hơn nữa… - Viên phó quận trưởng đến… người ta chạy hết ra thang gác, buồng nào cũng ra…

- Chẳng có ai đến hết. Đấy là máu nó xông lên đấy. Máu ứ lại mà không thoát ra được là nó dồn vào gan, thế mới sinh ra mê sảng… Cậu ăn đi dăm ba miếng chứ?

Chàng không đáp. Naxtaxia vẫn đứng cạnh giường, nhìn chàng đăm đăm không lui ra.

- Cho tôi xin tí nước, Naxtaxia.

Naxtaxia đi xuống nhà và khoảng hai phút sau mang lên một cái cốc bằng đất sét trắng; nhưng chàng không còn nhớ những việc tiếp diễn về sau nữa. Chàng chỉ nhớ rằng mình nuốt một ngụm nước lạnh và đánh đổ nước trong cổ ra ngực. Sau đó chàng mê man đi.

[1] “Tự thú”, tác phẩm của J.J. Rousseau.

[2] Yếu, kém tiếng Đức.


CHƯƠNG 3

Song cũng không phải chàng hoàn toàn mê man trong thời gian ốm: Đó là một trạng thái sốt nhiệt, có nói sảng và nửa mê nửa tỉnh. Về sau chàng nhớ lại được khá nhiều việc. Có khi chàng mường tượng như quanh chàng có rất nhiều người quây lại định mang chàng đi đâu không rõ, họ bàn bạc về chàng và cãi vã lẫn nhau rất dữ. Có khi chàng lại thấy mình nằm một mình trong phòng, mọi người đều bỏ đi hết, hẳn vì sợ chàng, và thỉnh thoảng mới có người mở hé cánh cửa ra dòm chàng, đe dọa chàng, thầm thì cười nói với nhau, và trêu chọc chàng. Chàng nhớ là Naxtaxia thường ở cạnh chàng; chàng còn nhớ thêm một người nữa, hình như rất quen thuộc, nhưng cụ thể là ai thì chàng không sao đoán ra được: Điều đó làm cho chàng buồn lắm và thậm chí còn khóc nữa. Có khi chàng tưởng chừng mình đã nằm liệt giường đến một tháng nay, khi lại ngỡ như mọi việc đều xảy ra nội ngày hôm ấy. Nhưng về việc ấy, việc ấy thì chàng quên bẵng đi: Song từng giờ từng phút chàng vẫn nhớ là mình có quên một điều gì lẽ ra không được quên mới phải; chàng vật vã, day dứt, cố sức nhớ cho ra, chàng rên rỉ, lồng lộn điên cuồng lên hay rơi vào một tâm trạng khiếp sợ ghê gớm, không sao chịu nổi. Những lúc ấy chàng vùng dậy, toan bỏ chạy, nhưng bao giờ cũng có ai dùng sức giữ chàng lại, và chàng lại chìm vào cõi hôn mê. Cuối cùng chàng tỉnh hẳn.

Lúc ấy là vào khoảng chín giờ sáng. Vào những ngày quang đãng, giờ này bao giờ ánh nắng cũng vẽ thành một vệt dài chạy qua bức tường bên phải phòng chàng và chiếu sáng góc phòng cạnh cửa ra. Bên giường chàng có Naxtaxia và một người nữa đang đứng nhìn chàng có vẻ rất tò mò. Đó là một người chàng chưa hề quen biết, một người trẻ tuổi mặc áo cáp-tan, để chòm râu cằm, dáng trông như một người chạy hàng. Qua cánh cửa mở hé, bà chủ đang dòm vào. Raxcolnicov nhỏm dậy…

- Ai thế, Naxtaxia? - Chàng chỉ người trẻ tuổi hỏi.

- À tỉnh rồi? - Naxtaxia nói.

- Tỉnh rồi. - Người chạy hàng nói vọng theo.

Đoán rằng chàng đã tỉnh dậy, bà chủ nhà đang đứng dòm ở cửa, lập tức đóng cửa lại và giấu mặt đi.

Bà ta xưa nay vốn nhút nhát và rất sợ những cuộc nói chuyện hay giãi bày; bà ta trạc bốn mươi tuổi, người to béo, lông mày đen, mắt cũng đen, tốt bụng vì béo và vì lười, trông cũng dễ ưa nữa là khác. Tính cả thẹn của bà ta thì thật quá quắt.

- Anh… là ai? - Raxcolnicov hỏi thẳng người chạy hàng.

Nhưng vừa lúc ấy cánh cửa lại mở toang và Razumikhin, người hơi cúi lom khom vì anh ta vốn cao lớn, vừa bước vào vừa kêu ca:

- Cứ như cái buồng tàu thủy, lúc nào cũng cộc đầu va trán; thế mà cũng gọi là phòng với phiếc. Cậu tỉnh rồi đấy à? Tớ vừa nghe Pasenka[1] bảo thế.

- Mới vừa tỉnh dậy đấy. - Naxtaxia nói.

- Mới vừa tỉnh dậy đấy ạ. - Người chạy hàng lại mỉm cười nói vọng theo.

- Thế anh là ai? - Razumikhin bỗng quay sang hắn hỏi đột ngột. - Còn tôi đây là Vrazumikhin; không phải là Razumikhin như người ta thường tâng bốc[2], mà là Vrazumikhin, sinh viên, con nhà quý tộc, còn cậu này là bạn tôi. Thế còn anh là ai?

- Tôi là người chạy hàng cho hiệu buôn của ông Selopayev ạ, tôi đến đây có tí việc ạ.

- Mời anh ngồi ghế này. - Razumikhin vừa nói vừa ngồi xuống chiếc ghế đặt ở bên kia bàn con. - Cậu tỉnh dậy như thế là phải lắm. - Anh nói tiếp với Raxcolnicov. - Đã bốn ngày nay cậu hầu như chẳng ăn uống gì. Quả tình cũng có hớp được mấy thìa nước trà. Tớ đã dẫn Zoximov đến đây hai lần. Cậu có nhớ Zoximov không? Hắn ta khám cho cậu và nói ngay rằng chẳng có gì hệ trọng hết, chẳng qua đầu óc bị chấn động thế nào đấy. Hắn ta bảo là một chứng thần kinh gì đấy, vì ăn uống kham khổ, ít uống bia, ít ăn rau khơ-ren quá mà ra, còn như bệnh trạng thì chẳng có gì đâu, sẽ tự khỏi thôi. Anh chàng Zoximov cừ lắm! Chữa bệnh đã thành thạo rồi. À, tôi không dám giữ anh đâu. - Razumikhin lại quay sang người chạy hàng. - Anh cần việc gì xin cứ nói đi! Rodia ạ, cửa hàng của họ đã hai lần cho người đến đây rồi đây; lần trước không phải anh này, một người khác kia, chúng tôi có nói chuyện với người đó. Lần trước cửa hiệu anh cho ai đến đây thế nhỉ?

- Ông muốn nói cái người đến đây hôm kia phải không ạ, đúng đấy. Đó là Alecxei Xeminovich cùng làm ở hiệu chúng tôi đấy ạ.

- Anh kia có vẻ khôn ngoan hơn anh phải không?

- Vâng ạ, ông ấy đúng là chững chạc hơn tôi ạ.

- Hay lắm, anh cứ nói đi.

- Thế này ạ, ông Afanaxi Ivanovich Vakhrusin, mà tôi chắc ông đã có nghe tên nhiều lần, theo yêu cầu của bà cụ nhà đã chuyển cho hiệu chúng tôi một tờ ngân phiếu. - Người chạy hàng nói thẳng với Raxcolnicov. - Đến khi nào ông đã tỉnh trí, chúng tôi sẽ trao lại cho ông ba mươi lăm rúp, vì Xemion Xeminovich theo yêu cầu của cụ nhà, có được Afanaxi Ivanovich báo cho biết về số tiền nói trên theo thể thức như cũ. Ông đã biết việc này chưa ạ?

- Có tôi có nhớ… Vakhrusin… - Raxcolnicov nói, vẻ trầm ngâm.

- Anh nghe ra chưa: Cậu ấy biết ông lái buôn Vakhrusin! - Razumikhin kêu lên. - Thế mà còn bảo là chưa tỉnh trí nữa à? À mà bây giờ tôi nhận thấy anh cũng là người khôn ngoan lắm. Hay! Nghe những câu nói thông minh cũng thú lắm chứ!

- Chính ông Vakhrusin Afanaxi Ivanovich đấy ạ, cụ nhà đã từng gửi tiền cho cậu một lần qua ông Vakhrusin theo thể thức ấy, lần nào ông cũng không từ chối lời yêu cầu của cụ nhà, và cách đây ít hôm có báo cho ông Xemion Xeminovich biết để chuyển cho ông ba mươi lăm rúp trong khi chờ đợi một món lớn hơn.

- Đấy cái câu “trong khi chờ đợi một món lớn hơn” của anh nghe hay hơn cả đấy; cả cái “bà cụ nhà” của anh cũng khá lắm. Nào, thế theo anh thì sao: Anh bạn tôi đã tỉnh trí hẳn hay chưa, hả?

- Đối với tôi thì thế nào cũng được. Miễn là ông ấy ký được biên lai.

- Ký được mà! Anh có mang sổ sách theo đấy chứ?

- Sổ đây ạ!

- Đưa lại đây. Nào, Rodia, cậu ngồi dậy. Tớ sẽ đỡ đầu; cậu nguệch cho anh ta một chữ ký. Raxcolnicov, cầm lấy bút đi cậu ạ, vì bây giờ chúng mình đang cần tiền lắm!

- Không cần - Raxcolnicov gạt bút ra nói!

- Không cần làm sao?

- Tôi không ký đâu.

- Quái thật, không ký thì làm thế nào?

- Không cần… tiền…

- Không cần tiền! Cậu chỉ nói láo, tớ xin làm chứng như vậy! Anh chớ lo, chẳng qua cậu ấy… lại hơi mê sảng một chút. Vả chăng ngay khi tỉnh táo cậu ấy cùng đôi khi như thế… Anh là người thông minh; chúng ta sẽ hướng dẫn cậu ấy, nghĩa là hướng dẫn bàn tay cậu ấy một chút! Cậu ấy sẽ ký… Nào, ta…

- Dù sao thì khi khác tôi đến đây cũng được.

- Không, không, anh lo ngại cái gì kia chứ? Anh là người thông minh. Nào, Rodia, đừng làm phiền ông khách… Cậu cũng thấy ông ấy đợi đấy. - Nói đoạn Razumikhin thật sự chuẩn bị đỡ tay Raxcolnicov.

- Cậu buông ra, để tôi ký lấy… - Raxcolnicov nói đoạn cầm bút ký vào sổ. Người chạy hàng giao tiền và lui ra.

- Hoan hô! Bây giờ thì ăn chứ, cậu có muốn ăn không?

- Có. - Raxcolnicov đáp.

- Chị có xúp không?

- Xúp hôm qua. - Naxtaxia, nãy giờ vẫn đứng đấy, đáp.

- Xúp khoai tây với bột gạo đấy chứ?

- Xúp khoai tây với bột gạo.

- Tớ thuộc lòng đi rồi. Đem xúp lên đây, dọn trà luôn nhé.

- Vâng ạ.

Raxcolnicov nhìn mọi vật với vẻ bỡ ngỡ sửng sốt và một nỗi sợ sệt vô nghĩa, đần độn. Chàng quyết định lặng thinh chờ xem sẽ ra sao nữa. “Hình như đây không phải là mê sảng” - chàng nghĩ thầm - “Hình như đó là chuyện thật…”

Hai phút sau, Naxtaxia bưng xúp vào và nói rằng trà cũng sẽ mang vào sau. Khi dọn xúp ra thấy có hai cái thìa, hai cái đĩa và đủ cả bộ sậu: Lọ tiêu muối, mù-tạt để ăn thịt bò..., những thứ mà đã lâu lắm không hề thấy được bày biện tươm tất như vậy. Khăn trải bàn trắng tinh.

- Naxtaxia này, giá bà Praxkopia Paplovna cho hai chai bia thì hay quá. Chúng tôi sẽ uống với nhau.

- Chà, cái cậu này chúa vòi. - Naxtaxia càu nhàu đi xuống nhà làm tròn phận sự.

Raxcolnicov vẫn nhìn quanh quất một cách ngỡ ngàng và căng thẳng trong khi Razumikhin đã ngồi sang đi-văng với chàng, cử chỉ vụng về như con gấu, luồn cánh tay trái xuống dưới đầu chàng tuy chàng đã có thể tự nhỏm dậy, đưa tay phải cầm một thìa xúp đưa sát miệng chàng sau khi thổi thổi mấy lần cho đỡ nóng. Nhưng xúp chỉ còn hơi hâm hẩm mà thôi. Raxcolnicov thèm thuồng húp lấy một thìa, một thìa nữa, rồi một thìa nữa. Nhưng cho chàng ăn được mấy thìa thì Razumikhin bỗng dừng lại và tuyên bố rằng về phần sau phải hỏi ý kiến Zoximov đã.

Naxtaxia cầm hai chai bia bước vào.

- Cậu có uống trà không?

- Mang trà lên đây, nhanh lên Naxtaxia, về cái mục này thì hình như cũng không cần đến trường Y khoa. Nhưng đã có bia đây rồi!

Chàng ngồi ra ghế, kéo đĩa xúp và đĩa thịt bò lại và bắt đầu ăn ngon lành như thể nhịn đói đã ba hôm nay.

- Rodia ạ, bây giờ tớ ngày nào cũng ăn ở nhà này. - Anh nói lúng búng, trong chừng mực cái miệng nhồm nhoàm đầy những thịt bò còn cho phép. - Và đều được Pasenka, cô chủ nhà của cậu, thết đãi hết lòng. Dĩ nhiên tớ không yêu sách gì, nhưng cũng không phản đối. À, Naxtaxia đem trà lên đây rồi. Chị này đảm lắm: Naxtenka, uống bia đi!

- Anh chàng này quấy thật!

- Thế còn nước chè?

- Nước chè thì được.

- Rót đi, khoan, để tớ rót cho, ngồi đây.

Razumikhin lập tức ra tay, anh rót chè vào chén, rót thêm một chén nữa, bỏ các món ăn đấy và lại ngồi sang đi-văng, lại luồn cánh tay trái xuống dưới đầu người ốm, nâng nó lên và bắt đầu đút từng thìa trà cho chàng, lại hăm hở thổi luôn mồm vào thìa, làm như thể bản thân cái việc thổi thổi như vậy chính là biện pháp chủ yếu, công hiệu nhất để cứu bạn khỏi bệnh. Raxcolnicov lặng thinh và không kháng cự, tuy chàng cùng cảm thấy mình thừa sức ngồi dậy mà không cần ai nâng đỡ và không những có đủ sức điều khiển chân tay để cầm thìa hay cầm chén, mà có lẽ còn đủ sức đi lại nữa. Nhưng do một sự xảo quyệt kỳ dị, gần như sự tinh khôn của loài dã thú, chàng bỗng nảy ra ý tạm thời che giấu sức lực đi, vờ vịt, thậm chí nếu cần sẽ giả làm như chưa tỉnh hẳn nữa để nghe ngóng, dò xét xem chung quanh đang xảy ra những gì. Vả chăng chàng không sao nén nổi cảm giác ghê tởm. Húp được mươi thìa trà, chàng bỗng bắt đầu hờn dỗi, đẩy thìa ra và lại ngả mình xuống gối. Dưới đầu chàng bây giờ là những chiếc gối thật, độn lông tơ, vỏ gối trắng tinh; điều đó chàng cũng chú ý và ghi nhớ để suy xét thêm.

- Ngay hôm nay, Pasenka phải gửi lên cho chúng tôi ít mứt mận và pha nước cho anh ấy uống. - Razumikhin vừa nói vừa ngồi sang ghế tiếp tục ăn xúp, uống bia.

- Thế bà ấy lấy mận ở đâu ra cho cậu? - Naxtaxia hỏi, năm ngón tay xòe ra cầm cái đĩa tách và húp nước trà “qua miếng đường“[3].

- Mận ở ngoài cửa hiệu ấy, cô bạn ạ. Rodia này, cậu không biết chứ trong khi cậu ốm ở đây đã xảy ra cả một câu chuyện kỳ lạ. Cái hôm cậu bỏ tớ chuồn đi một cách mất dạy như vậy, địa chỉ cũng không thèm nói, tớ nổi khùng lên đến nỗi quyết chí tìm cậu cho bằng được và trị cho cậu một mẻ. Ngay hôm ấy tớ bắt tay vào việc. Tớ đi lùng khắp nơi, đến đâu cũng hỏi. Tớ quên mất cái địa chỉ hiện nay của cậu, làm sao mà nhớ được vì xưa nay tớ có hề biết bao giờ đâu? Còn nhà cũ của cậu thì tớ chỉ nhớ là ở khu Năm Góc, nhà ông Kharlamov. Tớ tìm mãi cái nhà ông Kharlamov ấy, nhưng về sau mới biết rằng cái ông chủ nhà kia hoàn toàn không phải là Kharlamov, mà là Bukh, tên họ đôi khi cùng dễ nhớ nhầm lung tung ra như thế đấy! Tớ mới nổi cáu lên, thế là tớ tìm đến phòng địa chỉ, và cậu thử tưởng tượng mà xem: chỉ hai phút họ đã tìm ra địa chỉ của cậu. Tên cậu có ghi ở đấy.

- Có ghi ở đấy?

- Còn sao nữa, thế mà lúc tớ ở đấy họ tìm mãi vẫn không ra nhà ông tướng Kobelev đấy. Chà thôi, kể thì dài lắm. Đến đây một cái là tớ tìm hiểu hết các công việc của cậu ngay, tìm hiểu tất cả, cậu ạ, việc gì tớ cũng biết; cậu cứ hỏi chị này thì rõ, tớ làm quen cả với Nicodim Fomich, cả Ilia Petrovich người ta cùng đã chỉ cho tớ xem mặt, tớ làm quen cả với bác gác cổng, cả với ông Zamiotov Alekxandr Gigorievich, chánh văn phòng quận cảnh sát khu này, và cuối cùng là làm quen với Pasenka - thật là một kết thúc rực rỡ, đây cứ hỏi chị này thì biết.

- Cậu ta làm bà ấy mê tít rồi. - Naxtaxia lẩm bẩm, môi nở một nụ cười ranh mãnh.

- Cô pha đường vào tách mà uống, cô Naxtaxia Nikiforovna!

- Rõ khỉ! - Naxtaxia bỗng kêu lên và rũ ra cười - Tôi là Petrovna chứ có phải Nikiforovna đâu. - Chị ta nói thêm khi trận cười đã ngớt.

- Xin ghi lòng tạc dạ. Ấy, cậu ạ, để khỏi dài dòng lôi thôi xin nói rằng lúc đầu tớ muốn bắc một luồng điện chạy qua khắp khu này để xua hết những định kiến của địa phương sở tại đi; nhưng Pasenka đã thắng. Cậu ạ, quả tớ không ngờ bà ta lại có thể… khả ái như vậy! Cậu nghĩ sao, hả?

Raxcolnicov lặng thinh, tuy đôi mắt lo lắng không phút nào rời Razumikhin, và bây giờ vẫn chăm chăm nhìn anh ta.

- Rất khả ái nữa là khác. - Razumikhin nói tiếp, không mảy may nao núng trước sự im lặng của Raxcolnicov, và như đang đáp lại mọi câu trả lời của chàng. - Mà lại khá về đủ mọi phương diện.

- Rõ khỉ! - Naxtaxia lại kêu lên. Câu chuyện này hình như đang đưa lại cho chị ta một niềm khoái lạc không sao tả xiết.

- Thật đáng tiếc là ngay từ đầu cậu đã không biết cách xoay xở. Với bà ta thì không làm như thế được. Tính tình bà ta có thể nói là hết sức bất kỳ! Thôi, để sau hẵng nói đến chuyện tính tình… Thế nhưng làm thế nào, là nói ví dụ thế, cậu làm thế nào đến nỗi bà ta dám không dọn cho cậu ăn nữa? Hay như tờ tín phiếu kia chẳng hạn? Cậu điên hay sao mà lại đi ký những tờ tín phiếu như thế? Hay chuyện cậu hứa hôn với con gái bà ta chẳng hạn, khi cô Natalya Yegorovna này còn sống… Tớ biết hết? Ấy, tớ cũng thấy đây là một vấn đề tế nhị, và vừa rồi quả tớ ngốc như con bò; cậu tha lỗi cho tớ nhé. Nhưng nhân thể nói đến chuyện ngốc với chả ngốc; cậu nghĩ sao, Praxkopia Paplovna hoàn toàn không ngốc chút nào như mới thoạt trông có thể tưởng, phải không nào?

- Ừ. - Raxcolnicov ậm ừ, mắt nhìn đi nơi khác, nhưng cũng hiểu rằng cứ cố tiếp chuyện thì có lợi hơn.

- Có phải không nào? - Razumikhin reo lên, hẳn là rất hài lòng được bạn trả lời. - Nhưng cũng không phải là thông minh, hả? Tính tình thật là bất kỳ, thật là bất kỳ! Tớ có phần hoang mang rồi đấy, thật thế cậu ạ. Bà ta sắp trọn tứ tuần rồi. Nhưng bà ta cứ bảo là băm sáu, và bà ta hoàn toàn có quyền nói như vậy. Vả chăng quan niệm của tớ về bà ấy có tính chất trí tuệ nhiều hơn và chỉ thuộc lĩnh vực siêu hình học; những gì đã diễn ra giữa bà ta với tớ thật rối beng lên như đại số học vậy! Tớ không hiểu ra làm sao nữa! Thôi, toàn chuyện nhảm hết; có điều là bà ta thấy cậu không đi học nữa, chỗ dạy học cũng chẳng còn mà bộ cánh cũng mất, và đến khi con gái chết đi thì không còn liên hệ bà con gì với cậu nữa, nên đã phát hoảng lên, còn về phần cậu, cậu cứ nằm bẹp trong xó không chịu làm ăn gì như trước nữa, cho nên bà ta mới nghĩ ra cái chuyện đuổi cậu ra khỏi nhà. Bà ta đã có ý định ấy từ lâu nhưng còn tiếc tờ tín phiếu. Hơn nữa chính cậu quả quyết là bà cụ sẽ trả...

- Đó là vì tâm địa tôi hèn hạ cho nên mới nói thế… Mẹ tôi thiếu chút nữa phải đi ăn xin… thế mà tôi lại đi nói dối để người ta cho ở trọ và… cho ăn, - Raxcolnicov nói to và rành mạch.

- Phải, cậu nghĩ phải đấy. Nhưng sở dĩ cơ sự hỏng bét cũng chỉ vì ông Shebarov, tư vấn pháp đình và là nhà doanh nghiệp nhúng tay vào. Không có ông ta thì Pasenka chẳng bày vẽ gì đâu, bà ấy nhút nhát lắm, thế nhưng nhà doanh nghiệp kia thì lại không nhút nhát và việc đầu tiên dĩ nhiên là đặt vấn đề: Liệu tờ tín phiếu kia có hy vọng gì được thanh toán không? Bà ta trả lời là: có, vì có bà cụ, với số lương quả phụ một trăm hai mươi lăm rúp, bà cụ sẽ trả nợ cho thằng Rodenka của mình, dù có phải nhịn đói cũng vui lòng, lại có cô em, sẵn sàng bán mình làm nô lệ để giúp anh. Thế là ông Shebarov căn cứ vào đấy… Cậu làm gì mà cựa quậy dữ thế? Cậu ạ, bây giờ tớ biết tỏng hết những chuyện bí ẩn của cậu rồi, khi cậu còn có quan hệ gia đình với Pasenka, cậu cởi mở với bà ta là phải, chứ bây giờ thì chỗ bạn bè tôi xin nói với cậu là… Ấy nó là thế đấy: Người trung thực, đa cảm thì cởi mở tâm tình, còn người căn cơ chí thú thì lắng nghe và lợi dụng. Ấy thế là Pasenka nhường tờ tín phiếu lại cho cái ông Shebarov kia, lấy cớ là để trả nợ, và ông này, không chút ngượng mặt, đã đem ra pháp luật đòi thanh toán. Biết được những chuyện này, tớ cũng toan cho ông ta một vố, cho tròn bổn phận, nhưng vừa lúc giữa tớ với Pasenka bắt đầu có một mối quan hệ rất ư đằm thắm, cho nên tớ bèn ra lệnh chấm dứt mọi chuyện, bóp nghẹt vụ này ngay trong trứng nước như người ta thường nói, cam đoan rằng cậu sẽ trả. Cậu nghĩ chưa, tớ đảm bảo cho cậu đấy! Chúng tớ gọi Shebarov đến, đấm vào mồm hắn mười rúp và rút giấy về, nó đấy, rất hân hạnh được giới thiệu nó với ngài. Thế là bây giờ ngài chỉ còn nợ mồm nữa thôi. Cầm lấy, tớ đã “xem kĩ” lắm rồi đấy. Razumikhin đặt tờ giấy vay tiền lên bàn; Raxcolnicov liếc nhìn một cái và lặng lẽ quay mặt vào tường. Đến như Razumikhin mà cũng phải phật lòng. Anh nói sau một phút im lặng:

- Đấy cậu lại giở cái trò ấy ra rồi. Tớ tưởng nói chuyện ba hoa này nọ cho cậu khuây khỏa, ai dè hình như chỉ làm cậu bực mình.

- Cậu chính là cái người mà tôi không nhận ra trong khi mê sảng đấy à? - Raxcolnicov nói, sau một phút im lặng và không quay đầu lại.

- Tớ đấy; thậm chí ngài còn nổi xung lên mỗi khi trông thấy tớ nữa, nhất là hôm tớ đưa Zamiotov đến.

- Zamiotov?… Viên chánh văn phòng ấy à? Đến làm gì? - Raxcolnicov quay phắt lại nhìn Razumikhin trừng trừng.

- Kìa cậu làm sao thế? Cậu sợ cái gì. Hắn muốn làm quen với cậu… Nếu không thì tớ làm sao mà biết được nhiều chuyện của cậu như thế? Thằng cha tốt lắm cậu ạ, một con người tuyệt diệu… dĩ nhiên là theo một kiểu riêng. Bây giờ tớ với hắn là chỗ thân tình; hầu như ngày nào cũng gặp nhau vì tớ dọn sang ở khu này rồi. Cậu chưa biết à? Mới dọn sang đấy. Hắn với tớ có đến nhà Laviza hai lần. Cậu có nhớ mụ Laviza không? Laviza Ivanovna ấy mà?

- Tớ có nói mê gì không?

- Còn phải nói. Ngài có còn là ngài nữa đâu.

- Tớ nói mê những gì?

- Chà! Nói mê những gì ấy à? Còn lạ gì những lời nói mê của người ốm nữa… Thôi, cậu ạ, để khỏi phải mất thì giờ, phải bắt tay vào việc ngay.

Razumikhin đứng dậy vơ lấy mũ.

- Tớ nói mê những gì?

- Anh chàng này gan lì thật! Hay cậu sợ lộ một chuyện gì bí mật? Đừng lo, cậu không hề nói gì về nàng công chúa của cậu đâu. Toàn nói những tiền cọc với lại hoa tai, dây chuyền gì đấy, lại có nói đến đảo Krextovxki, đến một lão gác cổng nào đấy, lại nhắc cả đến Nicodim Fomich và Ilia Petrovich ở quận cảnh sát, nói nhiều lắm. Phải, ngoài ra ngài lại còn có lòng quan tâm rất mực đến chiếc găng của ngài, quan tâm lắm lắm. Ngài cứ van vỉ: đưa đây cho tôi! Cứ thế mãi. Zamiotov đã thân hành đi lục lọi khắp phòng tìm cho ngài đôi bít tất và tự tay - đôi tay rửa nước hoa đeo đầy nhẫn - tự tay cầm cái của khỉ ấy lại cho ngài, lúc ấy ngài mới bình tâm lại, và suốt ngày đêm cứ khư khư giữ cái của khỉ ấy trong tay không sao lấy ra được. Chắc bây giờ còn nằm đâu ở dưới chân cột ấy. Lại còn đòi gấu quần gấu kiếc gì nữa, mà đòi đến ứa nước mắt ra chứ có phải vừa đâu. Chúng tớ cứ băn khoăn mãi không biết gấu quần nào. Không còn hiểu ra làm sao nữa… Thôi, phải bắt tay vào việc đi thôi! Đây có ba mươi lăm rúp, tớ lấy mười rúp, hai tiếng nữa tớ sẽ báo cáo cách sử dụng. Trong khoảng ấy tớ sẽ đi gọi Zoximov. Lẽ ra hắn đến từ lâu rồi mới phải, hơn mười một giờ rồi còn gì. Còn Naxtenka, trong khi tôi đi vắng chị nhớ ghé vào đây luôn, nhỡ anh ấy có cần ăn uống gì chăng… Còn Pasenka thì tớ sẽ dặn ngay những việc cần phải làm! Tớ đi nhé!

- Gọi bà ấy là Pasenka có chết người không chứ!

- Chà, cái anh chàng láu thật! - Naxtaxia nói với theo Razumikhin, đoạn mở cửa ra nghe ngóng một lát, nhưng rồi sốt ruột quá cũng bỏ chạy xuống nhà nốt. Chị ta đang háo hức muốn biết Razumikhin nói chuyện gì với bà chủ. Vả lại nói chung có thể thấy rõ chị ta phục lăn Razumikhin.

Cánh cửa vừa đóng lại sau lưng Naxtaxia thì Raxcolnicov tung chăn nhảy phắt dậy, ngơ ngác như người điên. Lòng như thiêu như đốt, chàng sốt ruột mong họ đi khuất đi cho chóng, để bắt tay ngay vào việc. Nhưng việc gì, việc gì? Vừa đúng lúc này chàng lại quên bẵng đi, như cố tình vậy. “Lạy Chúa? Chỉ xin nói rõ cho tôi một điều: Họ đã biết việc ấy chưa, hay là chưa biết? Chắc họ biết hết rồi nhưng cứ giả vờ không biết để trêu gan mình, trong khi mình còn nằm liệt giường, thế rồi đến một lúc nào đó họ sẽ ập vào và nói rằng họ đã biết hết từ lâu nhưng cứ để thế xem sao… Bây giờ biết làm gì đây? Quên bẵng đi mất, cứ như cố ý ấy; bỗng dưng quên tiệt, vừa mới rồi còn nhớ kia mà…”.

Chàng đứng ở giữa phòng, bứt rứt và ngơ ngác nhìn quanh, rồi đến mở hé cánh cửa nghe ngóng; nhưng không phải thế, phải làm cái gì khác kìa. Bỗng như sực nhớ ra, chàng nhảy chồm vào góc phòng nơi giấy dán tường thủng ra một lỗ, xem xét một lúc, thò tay vào moi moi trong lỗ, nhưng vẫn không phải. Chàng đến cạnh lò sưởi, mở nắp lò ra và bắt đầu bới bới trong đống tro: Những mảnh xơ gấu quần và miếng túi rách vẫn nằm nguyên ở chỗ chàng vứt, thế nghĩa là chưa có ai nhìn vào! Đến đây chàng sực nhớ đến chiếc tất mà lúc nãy Razumikhin có nhắc tới. Quả thật nó đang nằm dưới tấm chăn, nhưng bị cọ xát nhiều và lấm be bét, cho nên Zamiotov tất nhiên không thể trông thấy gì được.

“Hừ, Zamiotov… sở cảnh sát! Chúng gọi ta lên sở cảnh sát làm gì thế nhỉ? Giấy gọi đâu? Chà… mình lẫn lộn hết rồi: Họ gọi là gọi từ hôm nọ kia chứ! Hôm ấy mình cũng xem xét mãi chiếc tất, còn bây giờ… bây giờ mình vừa mới ốm dậy. Thế Zamiotov đến đây làm gì? Razumikhin đưa hắn đến làm gì?…” - chàng vừa lẩm bẩm, vừa ngồi phịch xuống đi-văng, người bải hoải ra. “Thế này là thế nào? Mình vừa còn mê sảng hay quả thật như thế. Hình như thật. A, nhớ ra rồi: phải trốn! Phải trốn cho nhanh, nhất định phải trốn, thế nào cũng phải trốn! Nhưng… trốn đi đâu? Mà áo mình đâu mất rồi? Ủng cũng không thấy! Chúng lấy mất rồi! Chúng giấu! Hiểu rồi! A, áo khoác đây! Chúng nó bỏ sót! À tiền còn để trên bàn kia! Cả cái tín phiếu nữa… Ta sẽ lấy tiền bỏ đi thuê một căn buồng khác, chúng nó không tìm ra được đâu! Nhưng còn cái phòng địa chỉ, họ tìm ra mất, Razumikhin sẽ tìm ra. Phải trốn biệt… đi thật xa… sang Mỹ, và nhổ toẹt vào chúng nó! Đem cả tờ tín phiếu đi… sang đấy sẽ dùng được. Còn đem cái gì theo nữa nhỉ? Chúng nó tưởng mình ốm! Chúng nó không biết là mình có thể đi lại được, hê… hê… hê!… Cứ nhìn mặt chúng, mình cũng đủ biết là chúng nó biết rõ mọi chuyện! Miễn sao xuống lọt cái thang gác! Thế nhỡ chúng nó đã cho cảnh binh gác dưới kia thì sao? Cái gì thế này nhỉ, nước chè à? À, lại còn cả bia nữa, nửa chai bia lạnh đây!”

Chàng cầm lấy cái chai còn đựng đến một cốc bia, và khoái trá uống thẳng một mạch như muốn dập tắt ngọn lửa đang thiêu đốt lồng ngực. Nhưng chưa được một phút đã thấy hơi men xông lên đầu, ở sống lưng có một cảm giác gây gây, có vẻ dễ chịu nữa là khác.

Chàng nằm xuống và kéo chăn lên đắp. Trí óc chàng đã bạc nhược và rời rạc sẵn, lại càng ngày càng rối loạn thêm, và chẳng bao lâu một cảm giác buồn ngủ dịu dàng và dễ chịu đã bao trùm lấy chàng. Chàng khoái trá nhích đầu chọn chỗ gối cho thật êm, kéo tấm chăn bông êm ấm đã thay thế cho chiếc áo khoác rách trùm thật kín, khẽ buông một tiếng thở dài và thiếp đi trong một giấc ngủ say sưa, khỏe khoắn. Chàng thức giấc khi nghe có tiếng ai bước vào phòng. Chàng mở mắt ra và thấy Razumikhin đã mở toang cửa phòng, đang đứng ở ngưỡng cửa, phân vân không hiểu nên vào không. Raxcolnicov nhổm ngồi dậy, nhìn anh như đang cố nhớ lại một điều gì.

- À cậu thức đấy ư, tớ đã về đây. Naxtaxia, đưa cái gói lên đây! - Razumikhin gọi xuống dưới nhà. Tớ xin báo cáo ngay…

- Mấy giờ rồi? - Raxcolnicov hỏi, mặt lo lắng nhìn quanh.

- Cậu ngủ đẫy giấc đấy, chiều rồi, gần sáu giờ. Cậu ngủ được hơn sáu tiếng…

- Trời ơi, làm sao tôi lại…

- Thì đã làm sao? Càng khỏe chứ sao! Cậu đi đâu mà vội? Có hẹn hò với cô nào chắc? Bây giờ tất cả thời gian là của chúng ta. Tớ đợi cậu đã ba tiếng đồng hồ rồi; tớ có ghé vào hai lần nhưng cậu đang ngủ; tớ lại đến tìm Zoximov hai lần, nhưng hắn không có nhà, thế mới chán chứ! Thôi được, rồi thế nào hắn cũng đến! Tớ còn đi lo mấy việc riêng của tớ nữa. Chả là hôm nay tớ dọn hẳn sang ở bên này, cả ông chú tớ nữa. Bây giờ ông chú tớ ở chung với tớ đấy. Thôi nói chuyện phiếm mãi, khỉ thật, phải bàn công chuyện cho xong đã! Đem cái gói lên đây, Naxtenka, bây giờ ta… Thế cậu thấy trong người ra sao rồi?

- Tôi khỏe, tôi không ốm. Razumikhin, cậu đến đã lâu chưa?

- Đã bảo là đợi đến ba tiếng đồng hồ mà.

- Không, trước đây kia!

- Trước cái gì?

- Thì tớ đã kể cho cậu nghe khi sáng rồi còn gì: hay cậu không nhớ?

Raxcolnicov trầm ngâm suy nghĩ. Như trong giấc mơ, chàng mường tượng ôn lại những việc xảy ra trong ngày hôm ấy. Một mình chàng không sao nhớ lại hết được, chàng đưa mắt nhìn Razumikhin có ý dò hỏi.

- Hừm! - Razumikhin nói. - Quên. Khi sáng tớ cũng ngờ là cậu chưa tỉnh hắn… Bây giờ ngủ được một giấc rồi mới đỡ… Thật đấy, trông khá hẳn ra. Cừ lắm. Nào ta bàn công việc. Cậu sẽ nhớ lại cho mà xem. Cậu nhìn cái này một chút, Rodia!

Razumikhin bắt đầu mở cái gói vải mà hình như anh ta hết sức quan tâm.

- Đây là vấn đề khiến tớ băn khoăn nhất đây, cậu ạ. Vì phải làm cho cậu ra dáng một con người mới được. Ta bắt đầu nhé, xem từ trên xuống dưới. Cậu có thấy cái mũ lưỡi trai này không? Anh vừa nói vừa rút trong gói ra một chiếc mũ lưỡi trai khá xinh xắn, nhưng cũng rất tầm thường và rẻ tiền. - Cậu đội thử tí xem.

- Khoan đã, sau hẵng hay. - Raxcolnicov gạt phắt ra nói.

- Không được, Rodia ạ, đừng thế, muộn mất; với lại cả đêm nay mình sẽ không chợp mắt được đâu, chả là mình mua chẳng đo đạc gì cả, không biết có vừa không.

- Vừa khéo! - Anh đắc chí reo lên sau khi ướm thử vào đầu bạn. - Vừa vặn đúng cỡ! Cậu ạ, mũ là phần quan trọng nhất trong trang phục, nó như là một lời giới thiệu vậy. Tớ có thằng bạn tên là Tolxtyakov, hễ đi đến chỗ nào đông người là cứ phải bỏ mũ ra, trong khi người khác vẫn đội mũ như thường. Ai cũng nghĩ là hắn có thói khúm núm hèn hạ, thế nhưng thật ra thì chỉ vì hắn xấu hổ với cái tổ đỉa của hắn: thằng cha cả thẹn lắm! Nào Naxtaxia, nếu cho chị hai chiếc mũ này, chị thích cái nào? Cái mũ palmerston này (anh lấy trong xó ra cái mũ dạ nhàu nát của Raxcolnicov mà không hiểu tại sao anh gọi là mũ palmerston) hay là cái mũ xinh xẻo như một đồ trang sức này. Rodia ạ, cậu thử đoán xem tớ trả hết bao nhiêu? - Thấy Raxcolnicov cứ lặng thinh, anh quay sang hỏi Naxtaxia.

- Chị thử đoán xem?

- Dễ đến hai hào. - Naxtaxia đáp.

- Hai hào? Đồ ngốc! - Razumikhin phật ý quát lên. - Hai hào bây giờ thì chị có mua cũng chẳng ai người ta bán; tám hào! Hơi cũ rồi mới mua được rẻ thế đấy. Họ có hẹn là hễ đội rách, đến sang năm họ sẽ bù không cho một cái khác, thật thế đấy! Nào, bây giờ sang Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, như ở trường trung học ta vẫn hay nói. Xin báo trước là tớ hãnh diện với cái quần này lắm đấy nhé! - Và anh ta giăng ra trước mặt Raxcolnicov một cái quần len mỏng màu xám mặc mùa hè. - Không thủng đến một lỗ nào, không dây lấy một vết nào, tuy cũ nhưng vẫn còn tươm chán, áo gi-lê cũng cùng màu với quần, theo đúng yêu cầu của thời trang. Mà cái gì đã cũ thì quả mặc có thích hơn: mềm hơn, êm hơn… - Rodia ạ, ở đời muốn gây dựng cơ đồ theo tớ chỉ cần chú ý theo cho đúng thời tiết; miễn là tháng Giêng đừng đòi ăn dâu cốm thì trong túi bao giờ cũng còn được dăm đồng; về chuyện mua sắm này cũng thế. Bây giờ là mùa hạ, tớ sắm toàn đồ mùa hạ, vì đến mùa thu thì dù sao cũng phải có thứ ấm hơn, những thứ này đành phải vứt… hơn nữa đến lúc ấy những thứ này đã có đủ thì giờ rách, nếu không phải vì quá xa hoa thì cũng vì những khó khăn nội bộ. Nào thử đoán giá xem? Cậu bảo bao nhiêu? Hai rúp hai mươi lăm cô-pếch. Và cậu phải nhớ là vẫn có lời hẹn như trước đấy nhé: Nếu mặc rách rồi thì sang năm sẽ bù không một cái khác! Ở hiệu Phediayev bao giờ cũng thế: đã trả tiền là thôi, suốt đời không bao giờ đặt chân đến nữa. Thôi bây giờ ta sang cái mục giày dép. Cậu bảo sao nào? Rõ ràng là cũ, nhưng cũng còn đi được vài tháng: vì đây là hàng ngoại; viên thư ký sứ quán Anh mới đem ra chợ bán tuần trước; mới đi được có sáu hôm, nhưng vì cần tiền nên mới bán. Giá một rúp năm mươi cô-pếch. Được chứ?

- Nhưng nhỡ không vừa? - Naxtaxia nói.

- Không vừa! Thế thì cái gì đây? - Nói đoạn Razumikhin rút trong túi ra một chiếc giày ủng cũ rích, rúm ró, bùn bám dày cộm, thủng be bét, chiếc giày của Raxcolnicov. - Tớ đã mang phòng theo, và họ đã đo cỡ chân ở cái của khỉ này cho tớ. Họ làm ăn cẩn thận lắm. Còn về áo quần mặc trong thì tớ đã bàn với bà chủ. Trước hết đây là ba cái sơ-mi, vải phin thôi, nhưng đều áo mốt lắm… Đấy, thế là tám hào mũ, hai rúp hai mươi lăm cô-pếch áo quần, vị chi là ba rúp năm cô-pếch; một rúp rưỡi mua giày - vì giày này tốt lắm - vị chi là bốn rúp năm mươi lăm cô-pếch, thêm năm rúp áo quần lót nữa - họ tính giá gộp cho nên mới rẻ thế - vị chi cả thảy là đúng chín rúp năm mươi lăm cô-pếch. Còn lại bốn mươi lăm cô-pếch tiền thừa, toàn tiền năm cô-pếch bằng đồng cả, đây, xin ngài nhận cho… Và thế là bây giờ cậu đã có đủ bộ cánh rồi đấy. Rodia ạ, vì theo ý tớ, cái áo khoác của cậu không những còn dùng được mà lại còn có một vẻ quý phái đặc biệt nữa, may ở hiệu Scharmer có khác! Về bít tất và các thứ lặt vặt khác thì tớ để cậu xoay lấy; ta còn hai mươi lăm rúp, còn về Pasenka và món tiền thuê nhà thì cậu đừng lo; tớ đã nói là tín dụng vô hạn định! Thôi, bây giờ thì cậu cho phép mình thay áo quần cho cậu nhé, không thì bệnh nó ẩn trong chiếc áo sơ-mi ấy đấy.

- Thôi! Tôi không thích! - Raxcolnicov gạt phắt ra. Nãy giờ chàng vẫn nghe bản báo cáo vừa bông đùa vừa khẩn trương của Razumikhin với một cảm giác hết sức khó chịu.

- Cái đó thì không được đâu cậu ạ; chả nhẽ công tớ chạy đến mòn cả ủng đi như thế này chỉ là công toi! - Razumikhin năn nỉ. - Naxtaxia, đừng có xấu hổ, giúp tôi một tay nào, thế! - Và bất chấp sự kháng cự của Raxcolnicov, anh cứ thay áo quần cho chàng. Xong đâu đấy, Raxcolnicov ngả lưng xuống chiếc gối và suốt mấy phút không nói lấy một lời.

“Họ cứ ám mình mãi?” - Chàng nghĩ thầm. Cuối cùng chàng lên tiếng hỏi, mắt nhìn lên tường:

- Tiền mua các thứ ấy là tiền ở đâu thế?

- Tiền ở đâu ấy à? - Thế có chết không! Tiền của cậu chứ còn tiền ở đâu nữa. Hồi sáng có anh chạy hàng của lão Vakhrusin đến đây chuyển tiền của bà cụ cho cậu, cậu quên rồi hay sao?

- Bây giờ thì nhớ ra rồi. - Raxcolnicov lầm lì nghĩ ngợi một hồi lâu rồi mới nói. Razumikhin cau mày lo lắng nhìn chàng.

Cánh cửa vụt mở và một người đẫy đà cao lớn bước vào phòng. Raxcolnicov trông người này cũng thấy như có phần quen quen.

- Zoximov! May quá! - Razumikhin mừng rỡ reo lên.

[1] Tên bà chủ nhà (Praxkopia) gọi thân mật.

[2] Razumikhin có từ gốc “razumi” nghĩa là lý trí, trí thông minh, lương tri. Razumlkhin có thể hiểu là “người có trí thông minh, còn Razumikhin có thể hiểu là “người biết điều, phải chăng”.

[3] Nhiều người Nga khi uống trà thường không cho đường vào chén, mà ngậm đường trong miệng rồi húp nước vào sau (cho nước thấm qua miếng đường).


CHƯƠNG 4

Zoximov là một người cao lớn và béo đẫy trạc chừng hai mươi mấy tuổi, mặt phị, nước da nhợt nhạt, râu cạo nhẵn thín, tóc màu gai thẳng sợi, mặt đeo kính, ngón tay béo múp míp đeo một chiếc nhẫn vàng lớn. Anh mặc một chiếc áo khoác mỏng và rộng, rất bảnh bao, chiếc quần mùa hè màu nhạt, và nói chung trên người anh ta cái gì cũng rộng rãi, bảnh bao và chững chạc; đồ lót trắng muốt, trên gi-lê đeo một sợi dây đồng hồ to bản. Cử chỉ của anh ta chậm rãi, dường như uể oải nhưng cũng xen lẫn một vẻ khinh xuất có dụng công; và tuy anh ta đã cố sức che giấu tính hợm mình vẫn luôn luôn lộ rõ ra ngoài. Tất cả những người quen biết đều bảo anh ta khó chịu, nhưng cũng phải thú nhận rằng anh ta là người thạo nghề.

- Tớ đến tìm cậu đến hai lần… Cậu thấy không, tỉnh rồi đấy! - Razumikhin reo lên.

- Thấy rồi, thấy rồi, thế bây giờ anh bạn thấy trong người ra sao, hả? - Zoximov vừa hỏi Raxcolnicov, mắt nhìn chàng đăm đăm, vừa ngồi lên đi-văng cạnh chân chàng và lập tức ngả hẳn người ra cho thoải mái.

- Vẫn cứ lầm lì. - Razumikhin nói tiếp. - Vừa rồi người ta thay quần áo cho mà cũng suýt khóc lên đấy.

- Dễ hiểu thôi, anh ta đã không thích thì để thong thả rồi thay cũng được. Mạch rất tốt. Đầu vẫn hơi nhức phải không?

- Tôi khỏe rồi, tôi khỏe hẳn rồi! - Raxcolnicov gắt, giọng bướng bỉnh, người bỗng nhỏm dậy, mắt quắc lên, nhưng rồi lại ngã phịch xuống gối và quay mặt vào tường. Zoximov chăm chú quan sát chàng.

- Rất tốt… ổn cả. - Anh ta nói, giọng uể oải. - Đã ăn gì chưa?

Razumikhin thuật lại bữa ăn và hỏi xem có thể cho ăn những gì.

- Cho ăn gì cũng được hết mà… Xúp, nước trà… Nấm với dưa chuột thì dĩ nhiên là khoan cho ăn đã, thịt bò cũng thế, và thôi, chuyện này chẳng có gì phải dông dài! - Anh ta đưa mắt cho Razumikhin - Không uống thêm thuốc men gì nữa hết; mai tôi sẽ xem lại…

- Đáng lẽ hôm nay… Thôi được… Chiều mai tớ sẽ đưa cậu ấy đi chơi! - Razumikhin quyết định. - Đến công viên Iuxupov rồi ghé vào “Palais de Cristal” (Lâu đài Pha lê).

- Tôi thì đến mai tôi chưa cho anh ấy cử động vội, vả chăng… chút ít thì được… thôi để đến khi ấy hẵng hay.

- Chà, bực quá vừa vặn hôm nay tớ ăn khao nhà mới, cách đây chỉ có mấy bước, giá cậu ấy sang được thì hay quá. Nằm trên đi-văng chơi với chúng tớ cũng được. Còn cậu thì sang chứ? - Razumikhin bỗng quay sang Zoximov nói. - Đừng quên đấy nhé, cậu hứa rồi đấy.

- Có lẽ mình sẽ đến muộn một chút. Cậu bày những trò gì nào?

- Có gì đâu, trà, rượu, cá thu. Sẽ có cả bánh nướng. Toàn bạn thân cả.

- Cụ thể có những ai?

- Thì vẫn là dân ở đây cả, hầu hết là dân mới, quả có thế, trừ có mỗi ông chú già nhà mình, nhưng cũng là một tay mới, mới đến Petersburg hôm qua có mấy việc gì ấy; năm năm hai chú cháu mới gặp nhau một lần.

- Ông ấy làm gì?

- Thì suốt đời cứ kéo lê mãi cái chức trưởng trạm bưu vụ ở huyện ấy mà… Sáu mươi lăm tuổi rồi; có sổ hưu bổng con con; thôi chả có gì đáng nói… Dù sao tớ cũng quý ông chú lắm. Có cả Porfiri Petrovich cũng sẽ đến; ông ta làm dự thẩm ở khu này… một nhà luật học. Nhưng cậu cũng biết ông ta…

- Cũng có họ với cậu à?

- Có họ rất xa thế nào đấy, sao cậu lại cau mặt? Vì hai người đã có lần cãi nhau, nên cậu không muốn đến nữa chắc?

- Tớ cần đếch gì chấp cái lão ấy.

- Thôi được, càng tốt. Ấy, còn có thêm mấy thằng sinh viên, một anh thầy giáo, một anh viên chức, một anh nhạc sĩ, một sĩ quan, lại có Zamiotov…

- Cậu thử nói mình nghe xem giữa cậu hay cậu này chẳng hạn - Zoximov hất hàm chỉ Raxcolnicov - với một gã như Zamiotov thì có gì là đồng thanh tương ứng?

- Ồ cậu này lôi thôi thật! Nguyên tắc… Cậu thì bao giờ cũng ngồi trên đống nguyên tắc như ngồi lò xo ấy; không dám tự ý trở mình nữa; còn theo tớ thì nguyên tắc là ở chỗ người ta có tốt hay không, ngoài ra tớ không thèm biết gì nữa hết. Zamiotov là người tuyệt diệu.

- Phải, làm tiền cừ ra phết.

- Ừ thì làm tiền, tớ đếch cần! Làm tiền thì đã sao, thiếu tự nhiên! - Razumikhin bỗng quát lên, vẻ giận dữ một cách thiếu tự nhiên. - Tớ có đưa chuyện ấy ra khoe khoang với cậu đâu? Tớ bảo là hắn cũng có mặt tốt, thế thôi! Nếu xét người mà cứ xét đủ mọi mặt thì còn được mấy người tốt nữa? Mà tớ tin chắc rằng cứ kiểu ấy thì tớ không đáng giá một củ hành nướng, dù có gộp cả cậu vào nữa cũng thế!

- Ít quá, tớ thì tớ đổi đến hai củ…

- Còn cậu thì chỉ đáng một củ thôi! Lại còn nói kháy: Zamiotov chỉ là một thằng bé con, tớ còn sẽ xách tai hắn nữa, vì cần phải lôi kéo hắn chứ không nên gạt hắn ra. Không phải cứ dùng cái lối gạt người ta ra mà sửa chữa cho người ta được, nhất là đối với trẻ con. Đối với trẻ con phải thận trọng gấp đôi. Cái hạng tiến bộ như kiểu các anh thì chẳng hiểu gì hết! Không biết kính trọng người, lại thiệt cho cả mình. Còn nếu cậu muốn biết, thì xin nói là hắn với tớ quả có chỗ đồng thanh tương ứng đấy, chúng tớ đang cùng làm một việc chung.

- Muốn biết chứ.

- Thì vẫn là chuyện anh chàng thợ sơn ấy... Chúng tớ quyết sẽ gỡ được cho hắn. Vả chăng bây giờ cũng chẳng có gì nguy kịch. Sự việc đã quá hiển nhiên rồi. Chẳng qua chúng tớ chỉ cho thêm than vào lò.

- Lại thợ sơn thợ vẽ nào nữa thế?

- Sao, tớ chưa kể à? Chả nhẽ? À phải, tớ mới kể có phần đầu đấy, về vụ ám sát mụ già chủ hiệu cầm đồ ấy, bây giờ anh thợ sơn cũng bị liên lụy vào vụ này.

- Về vụ ám sát này thì tớ biết trước cả cậu và thậm chí còn quan tâm đặc biệt, một phần nào, nhân một dịp… tớ có đọc trên báo! Thế rồi…

- Mụ Lizaveta cũng bị giết rồi! - Naxtaxia bỗng quay về phía Raxcolnicov kêu lên. Nãy giờ chị ta vẫn đứng hóng chuyện trong phòng, người dựa vào tường cạnh khung cửa.

- Lizaveta? - Raxcolnicov lắp bắp rất khẽ.

- Thế cậu không biết mụ Lizaveta vẫn hay đi lấy hàng ấy à? Mụ vẫn thường đến đây. Ở dưới nhà ấy. Có lần còn vá sơ-mi cho cậu.

Raxcolnicov quay mặt vào tường. Trên tấm giấy dán tường vàng có vẽ hoa trắng, chàng chọn lấy một bông hoa nét vẽ vụng về có những vạch gì nâu nâu, và bắt đầu nhìn thật kĩ: Hoa có bao nhiêu cánh, mỗi cánh có bao nhiêu răng cưa và bao nhiêu vạch nâu? Chàng cảm thấy tay chân tê dại đi, như bị cưa cụt mất, nhưng cũng không buồn cử động, cứ nằm yên nhìn trừng trừng vào bông hoa trắng…

- Thế cái anh thợ sơn kia làm sao? - Zoximov cắt ngang những lời tán gẫu của Naxtaxia với một vẻ khó chịu đặc biệt. Chị ta thở dài và lặng thinh.

- Cũng bị tình nghi là thủ phạm! - Razumikhin hăm hở nói.

- Có bằng chứng gì không?

- Bằng chứng đếch gì! Quả họ đã căn cứ vào một bằng chứng, nhưng nó có phải là bằng chứng hay không thì cũng còn phải chứng minh! Cũng đúng hệt như lúc đầu họ tình nghi và bắt giam hai cái lão… hai cái lão đếch gì ấy nhỉ? À, Cokh và Pextriacov. Xì! Làm ăn ngốc thật, ngay đứng ngoài cũng thấy chướng mắt! Có lẽ cái anh chàng Pextriacov hôm nay sẽ ghé lại đằng tôi. À này, Rodia, chắc cậu cũng biết vụ này, nó xảy ra từ trước khi cậu ốm đấy, đúng vào đêm trước cái hôm cậu ngất đi ở sở cảnh sát khi họ đang nói chuyện về vụ này.

Zoximov tò mò nhìn Raxcolnicov. Chàng nằm im không nhúc nhích.

- Này, Razumikhin ạ, tớ trông cậu thật là một tay hiếu sự hết sức. - Zoximov nhận xét.

- Cứ cho như thế, nhưng chúng tớ cũng cứ gỡ cho hắn! - Razumikhin đập bàn quát lên. - Xét ra trong vụ này có cái gì đáng giận hơn cả? Không phải là chuyện họ nói bậy; nói bậy thì bao giờ cũng có thể tha thứ được; nói bậy cùng có chỗ hay, vì nó dẫn đến chân lý. Không phải, cái tệ nhất là đã nói bậy mà còn huênh hoang với những lời nói bậy của mình nữa. Tớ kính trọng Porfiri, nhưng… Ấy chẳng hạn lúc đầu cái gì làm cho họ lạc hướng? Cánh cửa vốn đóng kín, thế mà khi cùng lên với lão gác cổng thì lại mở: Ấy thế nghĩa là Cokh và Pextriacov chính là thủ phạm. Đấy, cái logic của họ là như thế đấy.

- Kìa cậu đừng nổ khùng lên thế, họ chỉ tạm giữ hai người ấy lại thôi; vì không thể… À, trước tớ vẫn gặp cái lão Cokh ấy. Thế lão này vẫn mua lại đồ cầm hết hạn chuộc của mụ già đấy à?

- Phải, đúng là một thằng đại bợm! Hắn mua cả tín phiếu nữa. Một thằng làm tiền mà. Nhưng thôi kệ xác hắn! Cậu có hiểu không, tớ bực là bực cái lối làm việc hết sức cổ hủ, đồi bại của họ… Thế mà chỉ riêng trong vụ này đáng lẽ cũng có thể mở ra cả một con đường mới. Chỉ cần những cứ liệu tâm lý học không thôi cũng đủ có thể vạch rõ cách tìm cho ra dấu vết thật sự… Cứ bảo là: “Chúng tôi có sự kiện đây mà!”. Nhưng sự kiện chưa phải là tất cả: Ít nhất một nửa vấn đề là ở cách xử lý các sự kiện.

- Thế cậu biết cách xử lý các sự kiện à?

- Thì cậu bảo làm thinh thế nào được khi cảm thấy rõ rệt rằng mình có thể giúp ích cho công việc, nếu… Ối dào! Cậu có biết rõ chi tiết vụ này không?

- Tớ còn đang chờ nghe cậu nói về anh thợ sơn kia.

- À phải! Đây, đầu đuôi thế này: Đúng hai ngày sau khi xảy ra vụ án mạng, vào buổi sáng, khi họ đang mải lăng xăng quanh Cokh với Pextriacov (tuy hai lão này đã thanh minh đến đầu đến đũa từng đường đi nước bước của mình, không còn hồ nghi gì được nữa) thì bỗng xảy ra một sự kiện hết sức bất ngờ. Một lão mu-gíc nào đó tên là Duskin, chủ một tiệm rượu ở ngay trước mặt ngôi nhà, đến sở cảnh sát trình một chiếc hộp đựng tư trang trong có đôi hoa tai bằng vàng và kể lại cả một câu chuyện dài: “Cách đấy hai hôm, khoảng hơn tám giờ tối một chút” - cậu chú ý ngày giờ nhé - “có một anh thợ sơn tên là Mikolai, trước đây vẫn thường lui tới nhà tôi, cầm cái hộp đựng đôi hoa tai vàng mặt ngọc đến tìm tôi và hỏi vay hai rúp, và đến khi tôi hỏi cái này lấy ở đâu - thì hắn ta bảo là nhặt ở vỉa hè, rồi không nói gì thêm nữa” - lão Duskin nói thế, - “và đem ra cho hắn một tờ, tức một rúp, vì tôi nghĩ bụng là nếu không gán cho mình thì hắn cũng đem gán cho kẻ khác, trước sau hắn cũng nướng vào tiệm rượu hết, dù sao tôi cất vẫn hơn: cất càng kín thì lấy càng nhanh, như câu tục ngữ vẫn nói, nếu có nghe phong thanh đấy là của ăn cắp hay có chuyện gì lôi thôi tôi sẽ lên trình quận”. Dĩ nhiên hắn nói láo, vì tớ biết cái lão Duskin này lắm, hắn cũng là tay chuyên nhận đồ cầm và toa trữ của ăn cắp; hắn nhận của thằng Mikolai một vật trị giá ba mươi rúp không phải để mang “trình quận”. Chẳng qua hắn sợ đấy thôi. Nhưng thôi kệ mẹ hắn, cậu nghe đây. Lão Duskin nói tiếp: “Còn như Mikolai Dementiev thì tôi biết từ hồi hắn còn nhỏ: Hắn với tôi đều ở tỉnh Ryazan, huyện Zaraixk cả. Hắn tuy không phải là tay nghiện rượu, nhưng cũng hay đánh chén, và chúng tôi biết hắn làm việc trong ngôi nhà ấy với Mi’rei, vốn cùng quê với hắn. Nhận được đồng rúp của tôi, hắn lập tức đem đổi lấy tiền uống liền hai cốc rồi cầm tiền phụ ra về. Còn Mi’rei thì lúc ấy tôi không thấy đi với hắn. Đến hôm sau, chúng tôi mới nghe tin bà Aliona Ivanovna với bà em Lizaveta Ivanovna bị giết chết bằng rìu. Chúng tôi vốn có biết hai bà ấy nên sinh nghi về đôi hoa tai kia vì chúng tôi vẫn cho rằng bà ấy vốn cho vay gán đồ. Tôi mới đến nhà bà ấy và kín đáo tìm hiểu xem sao. Trước tiên tôi hỏi: “Mikolai có đấy không?”. Mi’rei mới bảo là Mikolai đi chè chén mãi đến tảng sáng mới về, say khướt; về được mươi phút lại đi, sau đó Mi’rei không thấy hắn đâu nữa, đành làm nốt công việc một mình. Mà họ làm việc cùng một cầu thang với người bị giết ở tầng thứ hai. Nghĩ được những chuyện đó, chúng tôi không hé răng với ai” - lão Duskin nói - “nhưng cần tìm đủ cách để biết cho tường tận vụ này, và khi về nhà vẫn giữ mối nghi kị ấy. Đến sáng hôm nay, lúc tám giờ “tức là hai ngày sau vụ án mạng”, cậu hiểu chưa, tôi thấy Mikolai vào nhà tôi không tỉnh nhưng cũng không say lắm, có thể nghe nói chuyện được. Hắn ngồi ở ghế dài và làm thinh. Lúc bấy giờ ngoài hắn ra trong tiệm rượu chỉ có một ông khách, còn thì có một người nữa, người quen, nằm ngủ trên một chiếc ghế dài, vì đây cũng là một khách quen, ngoài ra còn hai thằng bé hầu bàn nhà tôi nữa. Tôi mới hỏi: “Có gặp Mi’rei không?” - “Không” - hắn bảo thế - “không gặp”, “Thế anh không đến đấy lần nào à?”, “Hai hôm nay không đến” - hắn nói. “Thế hôm qua anh ngủ ở đâu?”, “Ở bãi cát, chỗ bọn Kolomna ấy”, “Thế hôm ấy, anh lấy đôi hoa tai ở đâu?”, “Tôi nhặt trên vỉa hè” - hắn nói câu này nghe rất lạ, mắt cứ tránh nhìn tôi. Tôi bảo: “Anh có nghe nói là ngay tối hôm ấy, đúng vào giờ ấy, trên thang gác ấy có xảy ra chuyện này chuyện nọ không?”,  “Không, tôi không nghe” - hắn bảo thế. Hắn hướng mắt lên nghe tôi nói, mặt bỗng tái nhợt đi như tờ giấy. Tôi mới kể hết chuyện ấy cho hắn nghe, thế là hắn đứng dậy cầm mũ định ra về. Tôi muốn giữ hắn lại: “Khoan đã, Mikolai ạ, uống chén rượu đã chứ?” - Tôi nháy người nhà đứng chặn lấy cửa trong khi tôi vòng ra phía sau, nhưng hắn lập tức vùng chạy ra phố, rẽ ngoặt vào một ngõ hẻm, không thấy tăm hơi đâu nữa. Đến đây tôi không còn phân vân gì nữa, đúng hắn rồi...”.

- Còn phải nói! - Zoximov chêm vào.

- Khoan! Hẵng nghe cho hết đã, dĩ nhiên là họ đâm bổ đi tìm Mikolai; họ cho bắt giữ Duskin và khám nhà hắn, bắt luôn cả Mi’rei; họ cũng lục tung cả nhà bọn họ ở Kolomna lên. Nhưng đến ngày thứ ba thì giải Mikolai về: Hắn bị giữ lại ở gần cửa ô X., trong một quán trọ, hắn đến đấy, cởi cái thánh giá bằng bạc đeo trên cổ ra xin đổi lấy cốc rượu. Người ta mang rượu ra cho hắn. Một lát sau, một mụ đàn bà vào vắt sữa bò, nhìn qua khe cửa thì trong gian nhà kho ở bên cạnh thấy hắn đang tháo dây thắt lưng ra buộc thành thòng lọng treo lên sàn nhà, hắn đứng lên một súc gỗ chui đầu vào cái thòng lọng. Mụ đàn bà hét tướng lên, người ta mới đổ xô lại: “À! Ra thế đấy?”, “Các ông cứ dẫn tôi đến quận cảnh sát, khu nọ khu kia, tôi sẽ thú hết”. Họ bèn dẫn hắn về quận cảnh sát khu này với đủ các nghi thức thích đáng. Thế là bắt đầu cuộc hỏi cung: “anh là ai, ở đâu, mấy tuổi”, “hai mươi hai tuổi”, v.v… Hỏi: “Trong khi anh đang làm việc với Mi’rei, có thấy ai đi lên thang gác vào giờ nọ giờ kia không?”. Đáp: “Chắc có nhiều người đi qua, nhưng chúng tôi không để ý.”, “Anh có nghe thấy tiếng động gì không?”, “Không nghe thấy gì khác thường cả”, “Thế anh có biết rằng ngày hôm ấy, vào giờ ấy, mụ già nọ với em gái mụ bị người ta giết rồi lấy của không?”, “Tôi không hề hay biết gì hết. Cách đây hai ngày tôi mới nghe ông Aphanaxi Pavlich nói chuyện này lần đầu trong tiệm rượu”, “Thế anh lấy đôi hoa tai ở đâu?”, “Tôi bắt được trên vỉa hè”., “Tại sao hôm sau anh không đến làm việc với Mi’rei?”, “Tại tôi còn đi đánh chén”., “Đánh chén ở đâu?”, “Ở chỗ nọ chỗ kia”, “Tại sao lại vùng chạy ra khỏi nhà Duskin?”, “Vì lúc đó tôi sợ quá”, “Sợ cái gì?” “Sợ bị đem xử”. “Sao lại sợ bị xử nếu biết mình không có tội tình gì?”... Đấy, cậu có tin hay không thì tùy cậu đấy, Zoximov ạ, nhưng quả thật họ có hỏi câu đó, nguyên văn đúng như thế, tớ biết qua một nguồn tin chắc chắn. Thế nào, cậu thấy thế nào, hả?

- Ấy dù sao thì bằng chứng vẫn có đấy chứ.

- Nhưng tớ chưa nói đến bằng chứng, tớ đang nói đến cái câu hỏi cung kia, đến cách họ quan niệm nhiệm vụ của họ! Thôi kệ thây họ! Ấy, họ thúc bách hắn, ép mãi, dồn mãi, thế là hắn thú: “Không phải bắt được trên vỉa hè, mà ở trong gian phòng tôi với Mi’rei làm việc”, “Bắt được như thế nào?”, “Như thế này: Tôi với Mi’rei sơn suốt ngày hôm ấy đến tám giờ, đã sắp sửa về, thì Mi’rei cầm chổi sơn bôi lấy bôi để vào mặt tôi, rồi bỏ chạy, tôi mới đuổi theo. Tôi vừa đuổi theo hắn vừa hét tướng lên; chạy xuống đến sân thì đâm sầm vào bác gác cổng và mấy ông lớn nữa, có bao nhiêu ông cả thảy thì tôi không nhớ; bác gác cổng mới chửi tôi một hồi, rồi đến một bác gác cổng nữa cũng chửi, rồi mụ vợ bác gác cổng cũng ra chửi chúng tôi một chầu nữa rồi đến một ông lớn đi với một bà vào sân cũng chửi chúng tôi, vì lúc ấy tôi với Mitca nằm chắn ngang lối đi: Tôi đang túm lấy tóc Mitca vật nó xuống đất và đấm thùm thụp vào người nó, còn Mitca đang nằm dưới người tôi cũng túm lấy tôi và đánh vào người tôi thùm thụp, không phải chúng tôi đánh nhau thật vì thù ghét gì nhau đâu, mà chỉ là chỗ bạn bè thân thiết đùa nhau thế thôi. Sau đó Mitca vùng chạy ra phố, tôi mới đuổi theo, nhưng đuổi không kịp đành trở về phòng một mình, vì còn phải dọn dẹp mà về. Tôi bắt đầu thu dọn và đợi Mitca trở lại. Thế rồi ở góc phòng ngoài, sát tường, sau cánh cửa ra vào tôi chợt giẫm phải một gói gì, tôi mới cúi xuống xem thì thấy đó là một cái hộp gói giấy. Tôi tháo giấy ra thì thấy cái hộp cài bằng hai cái móc nho nhỏ, tháo móc ra thì trong hộp thấy có đôi hoa tai…”.

- Sau cánh cửa à? Nó nằm sau cánh cửa à? Sau cánh cửa? - Raxcolnicov bỗng kêu lên, đôi mắt ngây dại hoảng hốt nhìn Razumikhin và từ từ chống tay nhổm dậy trên đi-văng.

- Ừ thì sao? Cậu làm sao thế? Việc gì thế? - Razumikhin cũng chồm dậy hỏi.

- Không sao cả… - Raxcolnicov thều thào đáp rất khẽ, đoạn lại ngả mình xuống gối và lại quay mặt vào tường. Mọi người im lặng một lát.

- Chắc cậu ấy ngủ rồi nói mê đây. - Mãi hồi lâu Razumikhin mới nói, mắt nhìn Zoximov có ý dò hỏi; Zoximov khẽ lắc đầu không đồng ý, rồi nói:

- Này, cậu kể tiếp đi, rồi sao nữa?

- Rồi sao nữa ấy à? Trông thấy đôi hoa tai, hắn quên khuấy cả Mitca lẫn gian phòng, vớ lấy mũ và chạy một mạch đến nhà Duskin, và như ta đã biết, hắn nhận của lão này một rúp, nói dối với lão là nhặt được ở vỉa hè rồi lập tức đi đánh chén. Còn về vụ giết người thì hắn vẫn một mực như trước: “Tôi không hay biết gì cả, hôm kia tôi mới nghe nói lần đầu”, “Thế sao cho đến nay anh vẫn không đến trình?”, “Vì tôi sợ”, “Thế tại sao lại muốn thắt cổ?”, “Vì lo nghĩ”, “Lo nghĩ gì?”, “Nhỡ bị tòa xử”. Đấy, đầu đuôi câu chuyện là như thế. Bây giờ cậu thử nghĩ xem họ kết luận như thế nào.

- Thì còn nghĩ gì nữa, dù sao cũng có những dấu hiệu. Chưa chắc chắn lắm, nhưng vẫn là những dấu hiệu. Đó là một sự kiện. Dù sao cũng không thể thả thằng cha thợ sơn của cậu ra được.

- Ồ bây giờ họ đang buộc cho nó cái tội giết người ấy đấy! Thậm chí họ không còn hoài nghi gì nữa hết!

- Nói nhảm, cậu thì chỉ bốc đồng thôi. Thế còn đôi hoa tai? Cậu phải thừa nhận rằng nếu ngay hôm ấy, đúng vào giờ ấy đôi hoa tai ở trong rương mụ già lọt vào tay Mikolai thì cũng phải do một con đường nào chứ, có phải không nào? Điều đó cũng khá quan trọng đối với việc điều tra này.

- Bằng con đường nào? Bằng con đường nào à? - Razumikhin quát lên. - Cậu là bác sĩ, cậu có nhiệm vụ khảo sát con người trước tiên, và hơn ai hết, cậu có dịp nghiên cứu con người, thế mà chẳng lẽ qua những tài liệu ấy cậu không thấy được bản chất cái thằng Mikolai ấy ra sao à? Chả nhẽ cậu không thấy ngay từ đầu rằng tất cả những điều hắn cung khai đều là sự thật thuần túy hay sao? Chuyện hắn bắt được đôi hoa tai đúng như lời hắn nói đấy, hắn giẫm phải cái hộp rồi nhặt lên!

- Sự thật thuần túy! Thế nhưng chính hắn thú nhận rằng lần trước hắn nói dối kia mà?

- Cậu nghe tớ nói đây, nghe cho kĩ: cả người gác cổng, cả Cokh, cả Pextriacov, cả người gác cổng kia nữa, cả vợ người gác cổng thứ nhất, cả mụ lái buôn đang ngồi chơi ở nhà mụ này, cả viên tư vấn pháp đình Kruylov lúc ấy vừa xuống xe khoác tay một bà đi vào sân nữa, tất cả, nghĩa là đến tám chín nhân chứng, đều nhất trí khai rằng lúc ấy Mikolai đang đè Mitca xuống đất và đấm hắn ta, còn Mitca thì túm lấy tóc hắn và cũng đấm lại, hai đứa nằm ngay giữa lối đi; mọi người xung quanh đều chửi mắng chúng, còn chúng thì “như hai đứa trẻ nhỏ” (nguyên văn lời khai của các nhân chứng) nằm đè lên nhau, la hét, đánh nhau và cười ha hả, bộ mặt hết sức ngộ nghĩnh, rồi đuổi nhau chạy ra phố như hai thằng con nít. Cậu nghe ra chưa? Bây giờ cậu ghi nhớ thật kĩ lấy điều này: Hai cái xác ở trên kia hãy còn nóng, cậu nghĩ ra chưa, hãy còn nóng, đến khi họ vào buồng vẫn thế! Nếu chính hai đứa kia giết, hay chỉ mình thằng Mikolai không thôi cũng thế, giết rồi bẻ khóa rương lấy của, hay chỉ tham gia phần nào vào việc lấy của thôi, thì xin hỏi cậu một câu này: Một tâm trạng như thế, tức là những tiếng la hét, những tiếng cười, trận đánh nhau như trẻ con ở dưới cổng, có phù hợp chút nào với những thứ rìu búa, máu me, với những hành động thận trọng, xảo quyệt của kẻ giết người cướp của hôm ấy không. Vừa mới giết người xong, chỉ cách có năm mười phút - vì hai cái xác hãy còn nóng - thế mà bỗng dưng bỏ cả xác chết lẫn gian phòng mở toang ra đấy, và biết rằng sẽ có người đi qua, liền nằm lăn ra giữa lối đi như hai đứa con nít, cười đùa ầm ĩ khiến mọi người chú ý, như mười nhân chứng nhất trí xác nhận?

- Kể thì lạ thật! Dĩ nhiên không thể nào như thế, nhưng…

- Không, cậu ạ, không nhưng gì hết, còn nếu việc đôi hoa tai kia nằm trong tay Mikolai đúng vào giờ ấy, ngày ấy quả nhiên là một bằng chứng để buộc tội hắn - song đó là một việc có thể cắt nghĩa trực tiếp bằng những lời khai của hắn, cho nên chỉ là một bằng chứng có thể bác bỏ được - thì cũng phải xét đến cả những sự kiện thanh minh cho hắn huống chi đấy lại là những sự kiện không thể phủ nhận. Thế còn cậu nghĩ sao, cứ theo tinh thần pháp lý học của nước ta liệu họ có thừa nhận hoặc có khả năng thừa nhận một sự kiện như vậy - một sự kiện chỉ căn cứ vào tâm lý học, vào một tâm trạng, - làm một sự kiện không thể bác bỏ được và có hiệu lực đánh đổ tất cả các sự kiện buộc tội có tính chất vật chất, dù những sự kiện này có thế nào chăng nữa không? Không, họ không thừa nhận đâu, họ không đời nào thừa nhận, vì họ tìm được cái hộp ấy, vì người kia muốn thắt cổ, “một điều không thể có được, nếu hắn thấy mình vô tội!”. Đó là vấn đề chủ yếu, tớ bốc đồng lên chính vì vấn đề đó! Cậu hiểu cho!

- Thì tớ cũng thấy là cậu bốc đồng lên đấy. Khoan, tớ quên hỏi cái này: Lấy chứng cứ gì mà nói rằng cái hộp đựng hoa tai quả nhiên ở trong rương mụ già ra?

- Có đủ bằng chứng đấy. - Razumikhin cau mày đáp như có ý miễn cưỡng. - Lão Cokh đã nhận ra vật này và cho biết cả tên người cầm đồ. Người này đã chứng minh được một cách chắc chắn rằng hộp hoa tai kia là của hắn.

- Hỏng, bây giờ còn cái này nữa: Có ai trông thấy Mikolai trong khi Cokh với Pextriacov lên gác không, và liệu điều đó có thể chứng minh được gì không?

- Quả có thế, chẳng ai trông thấy hắn ta. - Razumikhin bực tức đáp. - Thế mới phiền chứ; ngay cả Cokh và Pextriacov cũng không trông thấy hắn khi đi qua căn phòng đang sơn, tuy lời khai của họ bây giờ cũng không có ý nghĩa gì cho lắm nữa. Họ bảo là họ thấy cửa phòng mở, có lẽ có người đang làm việc ở trong ấy, nhưng khi đi qua họ không để ý và không nhớ rõ lúc bấy giờ có người hay không.

- Hừm. Như vậy chỉ có một sự kiện thanh minh cho Mikolai là hai đứa đấm đá nhau và cười ầm ĩ. Ta cứ cho đó là một bằng chứng vững vàng, nhưng… Bây giờ cậu cho mình nói: Riêng cậu thì cậu cắt nghĩa việc ấy như thế nào? Cậu cắt nghĩa việc Mikolai bắt được đôi hoa tai ra sao, nếu quả hắn bắt được đúng như lời hắn khai?

- Cắt nghĩa à? Còn phải cắt nghĩa gì nữa: rõ quá đi rồi còn gì! Ít nhất là con đường cần theo để tiến hành điều tra đã rõ và đã được chứng minh, và chính là do cái hộp ấy. Hung thủ thật đã đánh rơi cái hộp ấy. Hắn ở trên phòng mụ già khi Cokh và Pextriacov gõ cửa, và chốt cửa ở phía trong. Cokh dại dột bỏ xuống dưới nhà; hung thủ nhảy ra ngoài và cũng chạy xuống vì không có lối nào khác. Trên thang gác hắn suýt gặp Cokh, Pextriacov và người gác cổng nên phải lánh vào gian phòng trống ngay khi Mitca và Mikolai vừa chạy đi, đứng nấp sau cánh cửa trong khi bọn Cokh đi ngang, đợi cho tiếng bước chân của họ đi xa rồi ung dung đi xuống thang gác đúng vào lúc Mitca và Mikolai đã chạy ra phố, mọi người đều đã giải tán và không còn ai đứng ở cổng nữa. Có thể người ta thấy hắn nhưng không để ý, có phải ít người qua lại đâu. Còn cái hộp là hắn đánh rơi từ trong túi ra khi đứng nấp sau cửa, và không biết là mình đánh rơi, vì còn mải chú ý đến chuyện khác. Cái hộp ấy chứng minh một cách rõ ràng là hắn đứng ngay đấy. Đấy, bí quyết của vụ này là ở đấy cả. Tinh xảo lắm, cậu ạ, tinh xảo thật đấy. Tinh xảo quá nữa là khác.

- Nhưng tại sao, tại sao lại “quá”?

- Thì tại vì mọi việc đều được dàn xếp quá ổn thỏa, các tình tiết ăn khớp với nhau quá sít sao, như trên sân khấu ấy.

Razumikhin toan cãi, nhưng vừa lúc ấy cánh cửa phòng vụt mở, và một nhân vật mới, lạ mặt đối với cả ba người đang ở trong phòng, bước vào.


CHƯƠNG 5

Đó là một người đã đứng tuổi, dáng người kiểu cách và bệ vệ, vẻ mặt thận trọng và cau có. Thoạt tiên hắn dừng lại ở ngưỡng cửa, đưa mắt nhìn quanh một lượt với vẻ ngạc nhiên xấc xược không hề muốn che giấu, dường như đang băn khoăn tự hỏi: “Ta lọt vào cái xó xỉnh nào thế này?”. Khách nhìn quanh cái “buồng tàu thủy” ẩm thấp và chật chội của Raxcolnicov một lượt như có ý ngờ vực và thậm chí lại còn cố làm ra vẻ hơi sợ sệt nữa, nếu không phải là kinh tởm. Vẫn giữ vẻ ngạc nhiên như cũ, hắn đưa mắt nhìn Raxcolnicov đang nằm trên đi-văng, ăn mặc hở hang, đầu tóc rối bù, mặt mày cáu bẩn, và cũng đang giương mắt nhìn hắn trừng trừng. Rồi vẫn cái kiểu chậm rãi đĩnh đạc như trước, hắn đưa mắt nhìn cái bóng dáng lôi thôi lếch thếch, mớ tóc không chải, bộ râu không cạo của Razumikhin lúc bấy giờ vẫn ngồi yên tại chỗ và xấc xược nhìn thẳng vào mắt hắn như muốn gạn hỏi. Một phút im lặng căng thẳng trôi qua, và cuối cùng, như người ta có thể đoán trước, có một sự thay đổi nhỏ trong cách bài trí. Chừng đã hiểu qua một vài dấu hiệu đích xác nào đó rằng trong cái “buồng tàu thủy” này dáng điệu long trọng quá mức kia không có tác dụng gì, vị khách hơi nhũn đi một tí và dùng một giọng lễ phép, tuy không kém phần nghiêm nghị, quay sang phía Zoximov phát âm từng tiếng một:

- Tôi muốn hỏi ông Rodion Romanovich Raxcolnicov, sinh viên hoặc cựu sinh viên?

Zoximov chậm chạp cựa mình một cái và có lẽ cũng đang định trả lời, thì Razumikhin đã lập tức nói trước, mặc dầu chẳng ai hỏi anh ta cả:

- Ấy đấy, đang nằm trên đi-văng kia kìa! Ông cần hỏi gì?

Cái câu “ông cần hỏi gì” quá ư sỗ sàng ấy khiến vị khách trang trọng kia đâm ra lúng túng, thậm chi đã toan quay sang phía Razumikhin, nhưng lại kịp thời tự chủ và vội vàng quay lại với Zoximov.

- Raxcolnicov đây! - Zoximov hất đầu về phía người ốm nói lắp bắp rồi ngáp dài một cái, mồm há ra rất to, và giữ cái tư thế ấy rất lâu. Ngáp xong, anh ta chậm rãi thò tay vào túi gi-lê rút ra một chiếc đồng hồ vàng to tướng mặt lồi, bấm nắp ra xem rồi lại chậm rãi và uể oải đút nó vào chỗ cũ.

Về phần Raxcolnicov thì vẫn im lặng nằm dài trên đi-văng nhìn người mới vào một cách chăm chú, tuy không biểu lộ một ý nghĩ gì. Khuôn mặt chàng bấy giờ không còn quay về phía cái bông hoa lạ mắt, vẽ trên giấy dán tường nữa, xanh xao lạ lùng và để lộ một nỗi đau khổ phi thường, như thể chàng vừa mới trải qua một cuộc mổ xẻ đau đớn hay vừa mới bị tra tấn nhục hình. Nhưng người khách lạ dần dần khiến chàng mỗi lúc một thêm chú ý, rồi thêm ngỡ ngàng, rồi thêm ngờ vực và dường như còn đâm ra sợ sệt nữa. Đến khi Zoximov hất đầu về phía chàng nói: “Raxcolnicov đây” chàng bỗng vùng dậy rất nhanh, ngồi lên đi-văng và với một giọng thách thức nhưng yếu ớt và ngắc ngứ, chàng nói:

- Phải! Tôi là Raxcolnicov! Ông muốn gì?

Khách chăm chú nhìn chàng một lúc rồi lấy giọng oai nghi nói:

- Piotr Petrovich Lujin. Tôi hy vọng rằng tên họ tôi đối với ông không đến nỗi hoàn toàn xa lạ.

Nhưng Raxcolnicov, vẫn đinh ninh chờ đợi một cái gì khác hẳn, chỉ thẫn thờ và đăm chiêu nhìn khách, lặng thinh không đáp, dường như thể chàng nghe cái tên Piotr Petrovich lần này là lần đầu.

- Sao? Chả nhẽ đến bây giờ mà ông vẫn chưa nhận được tin tức gì? - Piotr Petrovich hỏi, vẻ hơi lúng túng.

Đáp lại câu hỏi ấy, Raxcolnicov chỉ chậm rãi ngả mình xuống gối, chắp hai tay sau gáy và bắt đầu nhìn lên trần nhà. Gương mặt Lujin thoáng có vẻ lo lắng. Zoximov và Razumikhin càng tò mò nhìn ông khách, và cuối cùng ông ta cũng đâm ngượng.

- Tôi thiết tưởng và cũng hy vọng rằng. - Lujin lúng túng -… rằng bức thư gửi đi hơn mười hôm nay, thậm chí đã gần hai tuần nay…

- Này ông, sao ông cứ đứng ngoài cửa thế? - Razumikhin đột ngột ngắt lời. - Nếu ông có gì cần nói chuyện thì vào đây mà ngồi, chứ không ông với Naxtaxia, hai người cứ chen nhau ở cái khung cửa ấy thì chật lắm. Naxtaxia tránh ra cho ông ấy vào! Ông vào đi, ghế đây! Kìa ông lách vào đi chứ!

Anh ta nhích lùi ghế lại để chừa một khoảng hở giữa cái bàn và hai đầu gối của mình và hơi rúm người lại chờ cho khách “lách vào” qua cái khoảng hở ấy. Cái thế lúc bấy giờ khiến khách không sao từ chối được, bèn hấp tấp len qua khoảng hở chật hẹp, vướng víu, ngồi xuống ghế và đưa mắt nghi kị nhìn Razumikhin.

- Ông cũng đừng ngượng nghịu gì cả. - Razumikhin nói bô bô, - Rodia ốm đã năm hôm nay, mê sảng liên miên suốt ba ngày, bây giờ thì đã tỉnh và ăn thấy ngon miệng. Đây là bác sĩ điều trị cho anh ấy, bác sĩ vừa mới khám cho anh ấy xong, còn tôi là bạn của Rodia, trước kia cũng là sinh viên, còn bây giờ thì đang làm hộ lý cho cậu ấy, ông cứ xem như không có hai chúng tôi ở đây và có việc gì cứ nói chuyện tiếp đi.

- Cảm ơn ông. Nhưng không biết tôi đến đây nói chuyện có phiền cho người ốm không? - Piotr Petrovich quay sang hỏi Zoximov.

- Kh… không. - Zoximov lắp bắp. - Có lẽ ông đến còn làm cho anh ấy khuây khỏa nữa. - Nói đoạn lại ngáp dài.

- Ồ cậu ấy tỉnh từ từ rồi, từ hồi sáng kia! - Razumikhin nói tiếp. Thái độ thân mật suồng sã của anh có vẻ thật thà và tự nhiên đến nỗi Piotr Petrovich nghĩ lại và bắt đầu cảm thấy đỡ lúng túng hơn, có lẽ một phần cũng vì cái thằng cha ăn mặc rách rưới, nói năng lấc cấc kia đã tự giới thiệu mình là sinh viên.

- Bà cụ cậu… - Lujin mở đầu.

- Hừm! - Razumikhin hắng giọng một tiếng rõ to. Lujin ngơ ngác nhìn anh.

- Không có gì đâu, tôi chỉ… thế thôi; ông cứ nói đi!

Lujin so vai.

- Bà cụ cậu có viết cho cậu một bức thư trước khi tôi lên đường đến đây. Lên đến đây, tôi cố ý nán lại mấy ngày không đến thăm cậu để cho thật chắc là cậu đã biết rõ mọi việc; nhưng nay tôi rất ngạc nhiên khi thấy rằng…

- Tôi biết, tôi có biết! - Raxcolnicov đột ngột cắt ngang, vẻ hết sức bực bội. - Ông là chú rể chứ gì? Tôi biết rồi? Thôi, thế là đủ!

Piotr Petrovich giận lắm rồi, nhưng vẫn làm thinh. Ông ta cố nghĩ gấp xem như thế nghĩa là thế nào. Một phút im lặng trôi qua.

Trong khi đó Raxcolnicov, vừa rồi hơi ngoảnh lại một chút để trả lời ông Lujin, bỗng dừng lại bắt đầu nhìn ông ta trừng trừng với một vẻ tò mò đặc biệt, dường như lúc nãy chàng chưa kịp nhìn kĩ, hoặc trên người ông ta có thêm một cái gì mới mẻ khiến chàng chú ý: Chàng còn cố ý nhấc đầu lên khỏi gối để nhìn cho rõ. Quả nhiên, dáng dấp Piotr Petrovich có một cái gì đặc biệt đập vào mắt người ta, một cái gì như thể xác minh thêm cái danh hiệu “chú rể” mà Raxcolnicov vừa tặng cho ông ta một cách quá sỗ sàng như vậy. Trước hết có thể thấy, và thấy quá rõ rằng Piotr Petrovich đã hết sức vội vàng lợi dụng mấy ngày trú ngụ ở thủ đô để phục sức và trang điểm trong khi chờ đợi vị hôn thê, vả chăng đó cũng là một việc chính đáng không có gì đáng chê trách. Ngay cả cái ý thức tự mãn, dù có quá đáng đi nữa, về sự thay đổi hay ho vừa làm cho dung mạo mình tuấn tú hẳn lên cũng có thể dung thứ được lắm, vì Piotr Petrovich nay đang ở vào địa vị một chàng rể. Áo quần ông ta đều vừa mới lấy ở hiệu may ra, và tất cả đều tươm tất, họa chăng chỉ có một điểm nhỏ là mọi thứ đều mới quá và phô bày quá rõ một mục đích nhất định. Ngay cả cái mũ dạ tròn mới tinh, bảnh bao của ông cũng để lộ mục đích đó, Piotr Petrovich đối xử với nó một cách quá trân trọng và cầm nó trên tay một cách quá nâng niu. Ngay cả đôi găng tay màu hoa cà rất đẹp, một đôi găng Jouvin chính hiệu cũng cho thấy rõ điều đó, dù chỉ xét riêng một điểm là chủ nhân không mang nó vào, mà chỉ cầm trên tay để phô trương. Trên y phục của Piotr Petrovich các màu tươi trẻ chiếm ưu thế. Ông ta mặc chiếc áo vét-tông mùa hè xinh xắn màu nâu nhạt, chiếc quần mỏng màu vàng tươi và chiếc gi-lê cùng màu, một chiếc áo sơ-mi bằng hàng mịn vừa mới mua, trên cổ thắt chiếc cà-vạt bằng nhiễu hết sức mỏng có sọc hung, và đáng mừng hơn cả là các thứ đó đều rất ăn ý với vẻ mặt Piotr Petrovich. Khuôn mặt ông ta khá tươi tắn và còn có thể gọi là đẹp nữa, dù không có những trang phục kia trông cũng đã có vẻ trẻ hơn là cái tuổi bốn mươi lăm của ông ta. Hai bộ râu má màu thẫm tỉa thành “kôt-lét” (thịt băm viên) đánh viền hai bên mặt một cách dễ ưa, phía dưới để rậm đóng khung lấy cái cằm cạo nhẵn, trông rất đẹp mắt. Ngay cả bộ tóc, chỉ hơi lốm đốm hoa râm, mới uốn và chải ở hiệu cắt tóc ra, cũng không phải vì thế mà có cái vẻ lố bịch hay ngốc nghếch của những bộ tóc mới uốn nói chung, vốn thường làm cho người ta giống hệt như một chú rể người Đức. Nếu trong cái vẻ mặt trang trọng và khá đẹp này quả có một cái gì khó chịu khả dĩ gây ác cảm, thì đó là do những nguyên nhân khác. Sau khi ngắm nghía ông Lujin một cách khiếm nhã, Raxcolnicov mỉm một nụ cười chua chát, ngả đầu xuống gối và lại ngước mắt nhìn lên trần nhà như cũ.

Nhưng ông Lujin đã vững tâm lại và hình như đã nhất quyết tạm thời không để tâm đến những thái độ kỳ quặc ấy.

- Tôi rất lấy làm tiếc rằng phải gặp cậu trong một tình trạng như thế này. - Ông ta gượng gạo lên tiếng để chấm dứt phút im lặng. - Giá tôi biết cậu ốm, tôi đã đến đây sớm hơn. Nhưng chắc cậu cũng biết, tôi bận quá! Hơn nữa tôi lại có một công việc rất quan trọng ở Viện nguyên lão với tư cách trạng sư, đó là chưa nói đến những nỗi lo âu mà chắc cậu cũng có thể biết. Tôi đang chờ gia đình cậu, nghĩa là bà cụ và cô em cậu, chỉ nay mai sẽ lên đây.

Raxcolnicov cựa mình và toan nói một câu gì, nhưng mặt chàng hơi lộ vẻ xúc động. Piotr Petrovich ngưng lại để nhường lời, nhưng chẳng thấy chàng nói gì, ông ta lại nói tiếp.

- Chỉ nay mai thôi. Tôi đã kiếm cho hai người một chỗ ở tạm.

- Ở đâu? - Raxcolnicov hỏi khẽ.

- Gần đây thôi, nhà của ông Bakaleyev.

- À ở phố Voznexenxkaia. - Razumikhin nói xen vào. - Có hai gác xép ngăn thành phòng trọ, do lão lái buôn Yusin cho thuê. Tôi đã có lần đến đấy.

- Vâng, phòng trọ…

- Tởm vô cùng, vừa bẩn vừa hôi, mà lại là một nơi rất khả nghi; đã xảy ra lắm chuyện xằng bậy ở đấy, người ở trọ thì thật là ô hợp… Tôi cũng đã ghé vào đấy nhân một chuyện lôi thôi. Dù sao tiền thuê phòng cũng rẻ.

- Dĩ nhiên tôi không thể nào thu thập được nhiều tài liệu như thế, vì tôi cũng mới đến đây thôi! - Piotr Petrovich nói, giọng hơi khó chịu. - Nhưng dù sao đây cũng là hai căn buồng rất sạch sẽ, vả lại cũng chỉ ở tạm một thời gian ngắn… Tôi đã tìm được chỗ ở chính thức, nghĩa là chỗ ở sau này của chúng tôi. - Ông ta quay sang Raxcolnicov. - Hiện nay đang được sửa sang lại; còn bây giờ thì chính tôi cũng đành chịu ở chật trong một phòng trọ cách đây có mấy bước, ở nhà bà Lippevekzen, ở chung với một ông bạn trẻ của tôi là Andrei Xeminovich Lebeziatnikov, chính ông ta chỉ cho tôi nhà trọ của ông Bakalaiev.

- Lebeziatnikov à? - Raxcolnicov thong thả buông từng tiếng, như thể đang cố nhớ lại điều gì.

- Vâng, Andrei Xeminovich Lebeziatnikov, làm việc ở bộ. Cậu có biết ạ?

- Vâng… không. - Raxcolnicov đáp.

- Xin lỗi cậu, nghe cậu hỏi tôi lại tưởng cậu có quen. Trước kia tôi làm giám hộ cho ông ấy, một người rất dễ mến… và theo kịp phong… Tôi rất thích tiếp xúc với thanh niên: qua họ có thể biết được những cái mới. - Piotr Petrovich nhìn qua cả ba người một lượt, lòng khấp khởi hy vọng.

- Về phương diện nào? - Razumikhin hỏi.

- Về phương diện quan trọng nhất, có thể nói như thế, về thực chất của vấn đề. - Piotr Petrovich đáp, có vẻ mừng rỡ vì câu hỏi ấy. - Các ông ạ, tôi đã mười năm nay không ghé Petersburg. Tất cả những cái mới, những cuộc cải cách, những tư tưởng mới của chúng ta đều có tiếng vang ở các tỉnh; nhưng muốn thấy cho rõ và thấy cho đủ thì phải ở Petersburg mới được. Ấy, tôi bao giờ cũng nghĩ rằng chỉ có quan sát các thế hệ trẻ của chúng ta mới có thể thấy nhiều, biết nhiều hơn cả. Và cũng xin thú thật là tôi rất mừng…

- Cụ thể là về cái gì?

- Câu hỏi của ông rộng lắm. Có thể tôi nhầm nhưng tôi thấy có một quan điểm minh xác hơn, có thể nói là có nhiều óc phê phán hơn; nhiều tính chất thiết thực hơn…

- Cái đó đúng. - Zoximov buông thõng một câu.

- Đúng quái gì, làm gì có óc thiết thực. - Razumikhin vặn lại. - Có được óc thiết thực cũng khó lắm, không phải của trên trời rơi xuống đâu. Mà chúng ta thì dễ đến hai trăm năm nay không hề đụng chạm với công việc thực tế. Tư tưởng thì có lẽ nhan nhản ra. - Anh quay sang Piotr Petrovich nói tiếp. - Thiện ý cũng có, tuy rất ấu trĩ; và ngay cả lòng trung thực cũng có thể kiếm ra được, mặc dầu cũng có hàng mớ những bọn bịp bợm chính danh hay ẩn danh, chứ như óc thiết thực thì dù sao vẫn không có! Của hiếm đấy.

Tôi không đồng ý với ông. - Piotr Petrovich cãi, vẻ thích thú rõ rệt. - Cố nhiên cũng có những hiện tượng quá khích, những sự lệch lạc, nhưng cũng phải rộng lượng: Sự quá khích chứng tỏ là người ta có nhiệt tình đối với công việc và cũng chứng tỏ rằng hoàn cảnh bên ngoài của công việc không thích hợp. Còn sở dĩ làm được ít là vì ít thời gian. Đó là chưa nói đến phương tiện. Theo quan điểm riêng của tôi thì cũng đã làm được ít nhiều rồi đấy: Những tư tưởng mới, bổ ích đã được phổ biến, một số tác phẩm mới bổ ích cũng đã được phổ biến, thay cho những tác phẩm mơ mộng, lãng mạn trước kia; văn học đã có một sắc thái chín chắn hơn; nhiều thành kiến có hại đã bị chế giễu và đả phá tận gốc… Nói tóm lại, chúng ta đã dứt khoát đoạn tuyệt với quá khứ, và theo tôi, đó là một việc quan trọng.

- Chỉ đọc thuộc lòng! Cốt tự giới thiệu đấy mà. - Raxcolnicov bỗng buông thõng mấy tiếng.

- Sao ạ? - Piotr Petrovich không nghe ra, vội hỏi, nhưng chàng không đáp.

- Những cái đó đều đúng. - Zoximov vội xen vào.

- Ồ phải không ạ? - Piotr Petrovich nói, mắt nhìn Zoximov một cách trìu mến, đoạn quay sang Razumikhin nói tiếp, nhưng lần này đã thoáng có vẻ đắc chí vì hãnh diện, tưởng chừng như thêm chút nữa ông ta đã dùng thêm mấy chữ “anh bạn trẻ”. - Ông cũng phải thừa nhận rằng dù sao cũng có sự tiến hóa, hay như ngày nay người ta thường nói, có tiến bộ, ít nhất là trên quan điểm khoa học và chân lý kinh tế học.

- Sáo ngữ!

- Không ạ, không phải sáo ngữ đâu ạ! Chẳng hạn nếu trước nay người ta nói với tôi “hãy thương yêu đồng loại và tôi cũng thương yêu đồng loại”, thì kết quả ra sao? - Piotr Petrovich nói tiếp, có lẽ hơi quá vội vàng. - Kết quả là tôi xẻ đôi manh áo để chia cho đồng loại, và cả hai đều dở trần dở truồng đúng như câu tục ngữ Nga: “Săn hai thỏ một lúc, chỉ tổ trượt cả hai”. Khoa học thì lại nói: “Hãy yêu thương lấy một mình mình đã”, vì trên đời này mọi thứ đều dựa trên cơ sở quyền lợi cá nhân. Chỉ yêu thương lấy bản thân mình thì việc mình sẽ chạy, mà áo cũng còn nguyên. Kinh tế học lại nói thêm là trong xã hội càng có nhiều cơ nghiệp tư nhân ổn định, nghĩa là càng có nhiều áo nguyên lành, thì nó càng có nhiều cơ sở vững chắc, và sự nghiệp chung trong xã hội lại càng được tiến hành có hiệu quả. Vì vậy trong khi chỉ mang lợi riêng cho mỗi một mình tôi mà thôi, tôi dường như cũng chính do đó mà mưu lợi cho mọi người và làm cho đồng loại của tôi có thêm được một cái gì hơn là manh áo cắt đôi, và không phải qua sự hào phóng của một vài cá nhân lẻ tẻ, mà là do sự hưng thịnh chung của toàn thể xã hội. Một tư tưởng rất giản đơn, nhưng tiếc thay nó đến chậm quá vì bị những tâm trạng cuồng si và mơ mộng che mờ đi, và thiết tưởng chỉ cần thông minh một chút là có thể đoán được rằng…

- Ông thứ lỗi cho, tôi cũng chẳng thông minh gì đâu - Razumikhin cắt ngang một cách phũ phàng, - vì vậy xin ngừng lại ở đây là vừa. Sở dĩ tôi bắt đầu câu chuyện là có một mục đích riêng, còn như tất cả những lời tán gẫu giải sầu ấy, tất cả những sáo ngữ nhắc đi nhắc lại mãi nghe nhàm cả tai ấy, đã ba năm nay tôi ngấy lắm rồi, đến nỗi tôi không thể nào mở miệng ra nói được mà thậm chí còn thấy xấu hổ khi có ai nói những chuyện ấy trước mặt tôi. Hiển nhiên là ông đã nhanh nhảu muốn tự giới thiệu mình với những quan điểm của mình, cái đó không có gì đáng trách, mà tôi không hề có ý trách. Chẳng qua vừa rồi tôi chỉ muốn biết rõ ông là người thế nào, vì ông cũng thấy đấy, gần đây có bao nhiêu những bọn bịp bợm thuộc đủ các loại xông vào phấn đấu cho sự nghiệp chung và đã bóp méo tất cả những gì chúng động chạm đến để kiếm lợi riêng, đến nỗi bao nhiêu cơ sự đều hỏng bét ra cả. Thôi, xin đủ!

- Thưa ông, - ông Lujin mở đầu, người ưỡn thẳng lên một cách vô cùng trang trọng - những lời lẽ khiếm nhã đó phải chăng muốn ám chỉ rằng tôi…

- Ôi thôi xin ông, xin ông… Tôi đâu có dám! Thôi ạ, thế đủ rồi! - Razumikhin cắt ngang và quay phắt lại nói tiếp câu chuyện bỏ dở với Zoximov.

Piotr Petrovich cũng đủ trí thông minh để bằng lòng ngay với câu trả lời ấy. Vả chăng ông ta cũng đã quyết định là hai phút nữa sẽ ra về. Ông ta quay sang Raxcolnicov, nói:

- Tôi hy vọng rằng mối quan hệ mới bắt đầu xác lập giữa chúng ta hôm nay, sau khi cậu bình phục vì do những hoàn cảnh mà cậu đã rõ, sẽ càng được củng cố thêm… Đặc biệt xin chúc cậu sức khoẻ…

Raxcolnicov chẳng buồn ngoảnh lại nữa. Piotr Petrovich đứng dậy.

- Thủ phạm chắc hẳn là một người đến cầm đồ! - Zoximov quả quyết nói.

- Chắc chắn là như thế! - Razumikhin tán thành.

- Porfiri thường không để lộ ý nghĩ của mình ra, nhưng hắn vẫn hỏi cung những người cầm đồ.

- Hỏi cung những người đến cầm đồ à? - Raxcolnicov hỏi to.

- Phải, thế sao?

- Không sao cả.

- Làm sao biết được ai là người đến cầm đồ? - Zoximov hỏi.

- Lão Cokh có biết một số, còn có một số nữa thì tên có ghi trên các gói đồ, lại có một số tự ý đến khai khi nghe tin.

- Chà, chắc phải là một thằng bợm già khôn ngoan và giàu kinh nghiệm? Táo bạo thật! Quả quyết thật!

- Ấy chính cái đó lại không đúng! - Razumikhin cắt ngang. - Chính cái đó làm cho các cậu lầm tuốt. Tớ thì tớ bảo là hắn không khôn ngoan, chẳng có kinh nghiệm gì hết, và chắc hẳn đây là lần đầu hắn giết người! Thử giả thiết đó là một tên thành thạo có suy tính kĩ càng, thì sẽ thấy vô lý ngay. Còn nếu giả thiết là một tên ít kinh nghiệm thì sẽ thấy là hắn chỉ nhờ ngẫu nhiên mà thoát, mà nhờ ngẫu nhiên thì việc gì chả làm được. Cậu thử cho là hắn có lẽ cũng không lường được những trở ngại nữa! Mà hắn tiến hành công việc ra sao? Lấy mấy thứ đáng giá một vài chục rúp nhét vào túi, đâm đầu vào lục cái tráp đựng gì của mụ già, trong khi đó thì ở ngăn kéo trên của chiếc tủ ngăn, có một cái tráp đựng một nghìn năm trăm rúp toàn tiền vàng, chưa kể số bạc giấy? Hắn không biết ăn trộm, chỉ biết giết thôi. Lần đầu đấy, tớ bảo cậu là lần đầu hắn giết người đấy; hắn đã rối trí! Và hắn thoát không phải vì có tính toán, mà là vì tình cờ.

- Hình như đây là chuyện vụ ám sát bà quả phụ vừa xảy ra thì phải, - Piotr Petrovich xen vào nói với Zoximov. Lúc bấy giờ ông ta đã cầm lấy mũ và găng tay, nhưng trước khi ra về còn muốn buông thêm vài câu ý nhị nữa. Rõ ràng là ông ta đang muốn gây một ấn tượng tốt và tính ưa chưng diện đã thắng sự khôn ngoan của ông ta.

- Vâng. Ông cũng có nghe?

- Có chứ ạ, ngay cạnh nhà mà…

- Ông có biết tường tận?

- Tôi không dám nói là biết tường tận, nhưng tôi có quan tâm đến một vấn đề, có thể nói là một vấn đề toàn cục. Tôi khỏi phải nói rằng trong năm năm gần đây, số tội ác trong tầng lớp dưới tăng lên; cũng không cần nói đến những vụ đốt nhà, cướp của diễn ra liên tiếp ở khắp nơi, đối với tôi điều kỳ lạ hơn cả là trong các tầng lớp trên số tội ác cũng tăng lên như vậy, có thể nói là một cách song song. Nơi này thì một cựu sinh viên cướp phá một chuyến xe bưu vụ trên đường cái quan; nơi kia thì một số người có địa vị cao trong xã hội lại làm giấy tờ giả; ở Moxcva lại bắt được cả một ổ làm giả phiếu quốc trái có xổ số, và trong số đầu sỏ có cả một ông giảng viên lịch sử thế giới ở đại học; ở một nơi khác, người ta giết mất một viên đại sứ của ta ở nước ngoài vì những lý do tiền bạc rất bí ẩn… và nếu bây giờ cái bà già chủ hiệu cầm đồ kia bị một người trong giới thượng lưu giết - vì bọn mu-gíc không bao giờ đi cầm đồ vàng bạc - thì biết lấy gì mà cắt nghĩa tình trạng đồi trụy đó của một bộ phận văn minh trong xã hội ta?

- Có nhiều sự biến chuyển kinh tế… - Zoximov nói.

- Lấy gì cắt nghĩa ấy à? - Razumikhin xen vào. - Thì chính là vì quá thiếu óc thiết thực đó thôi!

- Nghĩa là thế nào ạ?

- Đấy chẳng hạn như cái vị giảng viên của ông ở Moxcva ấy mà, khi họ hỏi ông ta làm giả phiếu quốc trái để làm gì, thì ông ta đáp: “Mọi người đều có những cách này nọ để làm giàu, tôi cũng muốn làm giàu cho nhanh”. Tôi không nhớ nguyên văn câu trả lời, nhưng tinh thần là như thế: làm giàu cho nhanh, đừng mất gì, không phải khó nhọc! Họ đã quen ăn sẵn, ăn bám, ăn của nhai lại. Ấy, đến khi giờ đã điểm thì ai nấy đều phơi bộ mặt thật ra…

- Thế còn luân lý thì sao? Dù sao cũng có những quy tắc.

- Nhưng việc gì ông phải lo? - Raxcolnicov đột nhiên xen vào. - Theo đúng như lý thuyết của ông đấy chứ còn gì nữa?

- Sao lại đúng như lý thuyết của tôi?

- Nếu cứ nhất quán phát triển những điều ông vừa tuyên truyền lúc nãy, thì phải kết luận rằng có thể cắt cổ đồng loại…

- Xin lỗi! - Lujin kêu lên.

- Không, không phải thế! - Zoximov đệm theo.

Raxcolnicov mặt tái mét, môi trên run run, thở khó nhọc.

- Cái gì cũng phải có chừng mực. - Lujin nói tiếp, giọng trịch thượng. - Tư tưởng kinh tế học chưa phải là một lời khuyến khích giết người và chỉ cần giả định rằng…

- Thế có đúng là ông… - Raxcolnicov lại đột ngột ngắt lời Lujin, giọng run lên vì tức giận, nhưng lại nghe như có phần hả hê, - có đúng là ông nói với vợ chưa cưới của ông, ngay khi cô ta thuận lòng lấy ông, rằng điều ông lấy làm mừng hơn cả là… cô ta nghèo túng… bởi vì lấy một người nghèo có lợi hơn: về sau dễ bề thống trị hơn… lại có thể nói là cô ta chịu ơn ông?

- Thưa ông! - Lujin quát, sôi sục lên vì tức giận, giọng lạc hẳn đi. - Thưa ông… sao lại có thể xuyên tạc ý nghĩ của người ta đi như thế! Xin ông bỏ qua cho, nhưng tôi phải nói rõ cho ông biết rằng những lời đồn đại đến tai ông, hay nói cho đúng hơn, được truyền lại cho ông, không hề có chút căn cứ nào, và tôi ngờ rằng, nói tóm lại, mũi tên này, nói tóm lại, mẹ ông… Trước đây tôi vẫn thấy rằng bên cạnh những đức tính hết sức đáng quý, mẹ ông cũng có những nét tư tưởng hơi cuồng nhiệt và lãng mạn viển vông… Thế nhưng tôi cũng không hề mảy may ngờ rằng bà ta lại có thể quan niệm và trình bày sự việc một cách sai lạc và hoang đường như vậy… và cuối cùng… cuối cùng…

- Này ông! - Raxcolnicov quát lên, người nhổm hẳn lên trên gối và nhìn Lujin trừng trừng với đôi mắt sáng quắc và sắc như mũi khoan. - Này ông, bây giờ thế này nhé.

- Làm sao ạ? - Lujin dừng lại đợi, vẻ tức giận và thách thức. Hai người im lặng một vài giây.

- Thế này nhé: Nếu một lần nữa ông… còn dám nói đến mẹ tôi, dù chỉ một tiếng thôi… tôi cũng sẽ quăng ngược ông xuống dưới cầu thang ngay lập tức!

- Cậu làm sao thế! - Razumikhin kêu lên.

- À ra thế! - Lujin tái mặt đi, cắn môi. - Xin ông nghe tôi nói. - Ông ta mở đầu sau một khoảng im lặng và lấy hết sức bình sinh ra để nén giận, nhưng vẫn thở hổn hển. - Ngay từ lúc nãy, ngay từ phút đầu tôi đã đoán được mối ác cảm của ông, nhưng cố ý ngồi lại để biết rõ hơn nữa. Đối với một người ốm và là một người có họ hàng tôi rất sẵn lòng tha thứ, những bây giờ… đối với ông… không bao giờ tôi có thể…

- Tôi không ốm! - Raxcolnicov quát.

- Càng hay!

- Ông xéo đi cho rảnh!

Nhưng Lujin đã tự mình lui ra trước khi nói dứt lời, len qua cái khoảng hở giữa cái bàn với cái ghế: lần này Razumikhin đứng dậy nhường lối cho ông ta. Không nhìn ai hết, thậm chí cũng không gật đầu chào Zoximov, tuy anh ta đã cúi chào ông từ lâu mong ông để cho người bệnh nằm yên, Lujin bước ra, tay thận trọng cầm mũ ngang vai cho khỏi chạm trong khi khom lưng đi qua khung cửa. Và ngay trong cái dáng lom khom ấy người ta cũng cảm thấy như ông ta mang ra theo một nỗi căm giận ghê gớm.

- Ai lại thế bao giờ. - Razumikhin hoang mang lắc đầu nói.

- Thôi đi đi! Đi hết đi. - Raxcolnicov điên dại thét lên. - Có chịu để cho tao yên không nào, đồ đao phủ! Tao không sợ chúng mày! Bây giờ tao không sợ đứa nào hết! Xéo đi! Tao muốn ngồi một mình, một mình, một mình!

- Ta đi thôi! - Zoximov hất hàm bảo Razumikhin.

- Trời ơi, chả nhẽ bỏ cậu ấy một mình như thế?

- Ta đi thôi! - Zoximov cương quyết nhắc lại và bỏ ra ngoài. Razumikhin ngẫm nghĩ một lát rồi cũng chạy theo bạn.

- Nếu không nghe theo cậu ấy thì còn có thể tệ hơn nữa. - Zoximov nói khi hai người đã ra cầu thang. - Không nên khích động.

- Cậu ấy làm sao thế?

- Giá được một sự khích động nào dễ chịu thì hay biết mấy! Lúc ấy cậu ấy đã đủ sức… Cậu ạ, trong trí cậu ấy có một cái gì đấy. Một cái gì bất di bất dịch đang ám ảnh cậu ta… Tớ sợ cái đó lắm, chính thế đấy!

- Chắc là cái lão kia chứ gì, Piotr Petrovich ấy mà! Qua câu chuyện, tớ biết lão ta sắp lấy cô em cậu ấy, và ngay trước khi ốm cậu ấy có nhận được một bức thư về chuyện này đấy!

- Phải, chính ma quỷ dẫn lão ấy đến đây; có lẽ lão đã làm hỏng hết.

- Nhưng cậu có nhận thấy là cậu ấy dửng dưng với mọi việc, nói chuyện gì cậu ấy cũng làm thinh, chỉ trừ có một điểm, hễ động đến là cậu ấy lồng lên; vụ giết người ấy…

- Phải, phải! - Razumikhin xác nhận. - Tớ có nhận thấy! Cậu ấy rất quan tâm, lại có vẻ sợ. Là vì ngay hôm cậu ấy ốm ở quận cảnh sát người ta đã làm cậu hoảng lên, cậu ấy ngất đi đấy.

- Tối nay cậu kể tôi nghe tỉ mỉ nhé, rồi tôi sẽ nói cho cậu biết cái này. Cậu ấy có những cái làm cho tôi rất quan tâm, rất quan tâm! Nửa giờ nữa tôi sẽ đến xem sao… Bây giờ thì không bị viêm não nữa đâu.

- Cảm ơn cậu nhé? Trong thời gian ấy tôi sẽ đợi ở nhà Pasenka và sẽ nhờ Naxtaxia quan sát cậu ấy.

Raxcolnicov ngồi lại một mình, sốt ruột, và lo lắng nhìn Naxtaxia; nhưng chị ta vẫn nấn ná mãi không chịu ra cho.

- Bây giờ cậu uống nước trà chứ? - Naxtaxia hỏi.

- Sau hẵng hay. Tôi muốn ngủ, chị ra đi.

Chàng quay phắt vào trong; Naxtaxia lui ra.


CHƯƠNG 6

Nhưng chị ta vừa ra khỏi thì chàng vùng dậy, cài cửa lại, mở cái gói của Razumikhin vừa đem đến lúc nãy (anh ta đã buộc lại cẩn thận) và bắt đầu mặc áo quần. Lạ thay, chàng bỗng như đã hoàn toàn bình tĩnh; không còn trạng thái dở mê dở tỉnh như ban nãy, cũng không còn tâm trạng lo sợ hoảng hốt như trong suốt thời gian vừa qua. Đây là giây phút đầu của một trạng thái điềm tĩnh kỳ lạ, đột ngột. Cử động của chàng chính xác và dứt khoát, nhìn qua có thể thấy rõ một chủ định rõ ràng. “Hôm nay, ngay hôm nay!” - Chàng lẩm bẩm một mình. Tuy chàng cũng hiểu là mình còn yếu, nhưng tinh thần chàng căng thẳng đến mức điềm tĩnh hẳn, với một chủ định bất di bất dịch, đã cho chàng thêm sức mạnh và lòng tự tin; dù sao chàng cũng hy vọng là sẽ không ngã khuỵu ra giữa phố. Mặc xong các thứ áo quần mới mua, chàng đưa mắt nhìn xấp bạc để trên bàn, nghĩ ngợi một lát và cầm đút vào túi. Có cả thảy hai mươi lăm rúp. Chàng lấy luôn cả mấy đồng tiền đồng của Razumikhin mua áo quần còn thừa lại. Rồi chàng lặng lẽ nhấc móc cửa lên, ra khỏi phòng, xuống thang gác và hé nhìn vào gian nhà bếp mở toang. Naxtaxia đứng quay lưng lại phía chàng, đang khom lưng thổi ấm lò cho bà chủ. Chị ta không nghe thấy gì. Vả lại ai có thể dè rằng chàng lại bỏ đi ra ngoài? Một phút sau chàng đã ra phố.

Lúc ấy khoảng tám giờ, mặt trời sắp lặn. Khí trời vẫn ngột ngạt như cũ, nhưng chàng vẫn thèm thuồng hít thở làn không khí hôi hám, bụi bặm bị phố phường nung nóng lên. Chàng bắt đầu thấy hơi chóng mặt; một sức mạnh man rợ bỗng ánh lên trong đôi mắt đỏ ngầu và trên gương mặt gầy gò, vàng võ của chàng.

Chàng không biết đi đâu, và cũng không nghĩ đến vấn đề mà chàng chỉ biết có một điều là “phải chấm dứt hẳn cái đó ngay hôm nay một lần cho xong đi, ngay bây giờ; nếu không thì chàng không muốn về nhà nữa, vì chàng không muốn sống như thế này”. Chấm dứt thế nào? Chấm dứt cái gì? Chàng không hề biết mà cũng không buồn nghĩ. Chàng xua đuổi ý nghĩ ấy đi: Nó giày vò chàng khổ sở quá. Chàng chỉ cảm biết rằng cần phải làm sao cho mọi việc đều thay đổi hẳn, bằng cách này hay cách khác, “dù có sao cũng mặc”, chàng tuyệt vọng nhắc đi nhắc lại với một lòng tự tin và quả quyết bất di bất dịch.

Theo thói quen cũ, chàng đi về phía Chợ Hàng Rơm theo con đường chàng vẫn đi dạo những lần trước. Chưa đến Chợ Hàng Rơm, trên vỉa hè ở trước mặt một cửa hiệu buôn nhỏ có một người trẻ tuổi, tóc đen đang chơi phong cầm quay một điệu nhạc tình tứ, đệm theo một người con gái trạc mười lăm tuổi đứng hát ở trước mặt hắn. Người con gái ăn mặc như một tiểu thư, váy xòe áo khoác ngang lưng, găng và mũ lật có cắm một cái lông chim màu lửa, tất cả các thứ đó đều đã cũ và sờn. Với giọng hát tầm thường, hơi rè nhưng khá to và nghe cũng êm tai, cô ta hát một bài tình ca trong khi chờ đợi một đồng hai cô-pếch trong cửa hiệu vứt ra. Raxcolnicov dừng lại bên cạnh cùng với hai ba người khác, nghe một lát, rút trong túi ra một đồng năm cô-pếch đặt vào bàn tay người con gái. Người con gái dừng phắt ngay lại ở nốt cao nhất và rung cảm nhất của bài ca như thể có ai lấy dao chém đứt ngang, rồi quát bảo người quay đàn: “Thôi!”, và cả hai khệnh khạng đi sang cửa hiệu khác.

- Ông thích nghe hát rong không? - Raxcolnicov bỗng hỏi một người qua đường đã có tuổi đang đứng cạnh chàng, trông có vẻ như một người đi bát phố. Hắn ngơ ngác nhìn chàng tỏ vẻ ngạc nhiên. Raxcolnicov nói tiếp nhưng lại có vẻ như tuyệt nhiên không nói đến chuyện hát rong:

- Tôi thích nghe tiếng hát có đệm phong cầm quay trong một buổi chiều mùa thu lạnh lẽo, âm u và ướt át, phải ướt át mới được, khi mọi người qua đường đều có những bộ mặt xanh xao, ốm yếu; hay hơn nữa là khi có tuyết ấm rơi, rơi thẳng xuống vì lặng gió, và ánh đèn hơi chiếu mờ mờ qua làn tuyết.

- Tôi không biết ạ… Ông thứ lỗi cho… - Người kia nói lắp bắp, hoảng sợ vì câu hỏi cũng như cái vẻ kỳ quặc của Raxcolnicov và bỏ đi sang bên kia đường.

Raxcolnicov đi thẳng và ra đến Chợ Hàng Rơm, chỗ cái góc mà hôm trước hai vợ chồng lão tiểu thương nói chuyện với mụ Lizaveta, nhưng lúc bấy giờ họ không ngồi đấy. Nhận ra chỗ cũ, chàng dừng lại, nhìn quanh quất rồi hỏi một chàng thanh niên mặc áo đỏ đang đứng ngáp ở trước cửa một hiệu bán bột.

- Ở góc này vẫn thường có hai vợ chồng ông gì ngồi bán hàng phải không?

- Ai mà chả ngồi đây bán hàng. - Chàng thanh niên đáp, mắt khinh khỉnh nhìn Raxcolnicov từ đầu đến chân.

- Ông ta tên là gì?

- Cha mẹ đặt tên gì thì ông ta tên như thế!

- Anh có phải người Zaraisk không, trấn nào?

Chàng thanh niên lại nhìn Raxcolnicov.

- Thưa ngài, chỗ chúng tôi không phải là trấn, mà là huyện, chỉ có anh tôi được đi đây đi đó thôi, còn tôi thì ngồi nhà, cho nên không biết ạ… Thưa ngài rộng lòng tha thứ cho.

- Trên gác kia là quán ăn à?

- Tiệm rượu đấy, có cả bàn bi-a, lại có mấy nàng công chúa nữa - Húi!

Raxcolnicov đi qua quảng trường. Bên kia, ở một góc phố, có một đám người rất đông, toàn là nông dân cả. Chàng len vào chỗ đông nhất, vừa đi vừa nhìn vào mặt những người đứng quanh. Không hiểu tại sao chàng thấy thèm nói chuyện với bất cứ ai. Nhưng đám nông dân không để ý đến chàng, cứ tụm năm tụm ba nói chuyện nhao nhao lên với nhau. Chàng đứng lại ngẫm nghĩ một lát rồi đi sang phải, men theo vỉa hè về phía đại lộ V.. Đi qua một khoảng trống, chàng bước vào một ngõ hẻm…

Trước kia chàng cũng hay đi qua ngõ này. Đó là một ngõ hẻm ngắn gấp khúc dẫn từ quảng trường đến phố Xadovaya. Gần đây còn có cái gì thu hút chàng lang thang đến những nơi này mỗi khi chàng tự dưng thấy tởm lợm, “cho nó tởm lợm thêm”. Còn bây giờ thì chàng bước đi, không suy nghĩ gì hết. Ở đây có một ngôi nhà lớn chứa toàn những tiệm ăn, tiệm uống, cứ chốc chốc lại thấy mấy người đàn bà ở trong các tiệm ấy chạy ra, ăn mặc như khi chạy sang nhà bên cạnh: đầu để trần, chỉ mặc áo dài mỏng. Ở vài ba nơi họ xúm lại trên vỉa hè thành từng tốp, nhất là cạnh những bậc thang dẫn xuống các gian nhà hầm. Ở đấy cứ bước xuống hai bậc cấp là có thể vào đến những nơi rất vui thú. Lúc bấy giờ, trong một nơi như vậy đang có tiếng reo hò đập phá ầm ĩ vang ra khắp phố, tiếng đàn ghi-ta, tiếng hát hò nhộn nhịp vui vẻ. Một tốp đàn bà khá đông chen chúc ở lối vào; mấy người khác ngồi ở bậc thềm hay trên vỉa hè, mấy người nữa đang đứng nói chuyện. Gần đấy, giữa phố có một thằng lính say bước lảo đảo, mồm ngậm thuốc lá, vừa đi vừa chửi rủa; có lẽ hắn đang muốn đi đâu đấy, nhưng dường như đã quên mất là mình muốn đi đâu. Một thằng khố rách áo ôm đang chửi nhau với một thằng khố rách áo ôm khác và một gã say bí tỉ nằm ềnh ra chắn ngang đường. Raxcolnicov dừng lại cạnh tốp đàn bà đông nhất. Họ đang nói chuyện oang oang; cả bọn đều mặc áo vải hoa, đi giày da dê và để đầu trần. Có người tuổi quá bốn mươi, nhưng cũng có người chỉ độ mười bảy, mắt họ hầu hết đều sưng bầm.

Chàng tự dưng thấy ham thích tiếng hát hò và đập phá ở dưới kia… giữa những tiếng cười, tiếng rú, có thể nghe vẳng lên một giọng hát the thé có đàn ghi-ta đệm theo, và tiếng gót giày giậm côm cốp của một người nào đang nhảy nhót điên cuồng lên theo nhịp hát. Chàng chăm chú lắng nghe, vẻ lầm lì và đăm chiêu, tò mò nghểnh cổ dòm vào cửa.

Anh của em chóng ngoan,

Chớ đánh em mà oan!

Giọng hát vẫn the thé lên. Raxcolnicov háo hức cố nghe cho rõ lời ca - làm như thể đó là điều quan trọng nhất đối với chàng.

“Hay là ta vào?” - Chàng nghĩ. - “Họ đang cười đùa! Vì họ say. Hay là ta cũng uống cho thật say?”

- Ông anh không vào à? - Một người con gái đứng trong đám kia hỏi, giọng nghe khá vang và chưa khan hẳn. Cô ta hãy còn trẻ, và là người duy nhất trong bọn trông không đến nỗi tởm.

- Cô em xinh nhỉ? - Chàng vừa đáp vừa ngẩng lên nhìn cô ta.

Cô ta mỉm cười, rất thích chí vì câu tán tỉnh này.

- Ông anh cũng xinh lắm. - Cô ta nói.

- Gay quá! - Một cô khác nói giọng ồ ồ. - Mới ở nhà thương ra à?

- Hình như có cả con gái nhà quan nữa đấy, thế nhưng mũi vẫn hếch như thường! - Một người mu-gíc vừa mới đến bỗng nói xen vào, hắn say chuếnh choáng, áo chẽn mở phanh, mồm ngoác ra cười ranh mãnh.

- Vui chưa kìa? - Hắn nói tiếp.

- Đã đến thì vào đi nào!

- Tôi vào chứ, cô em ạ! - Hắn xồng xộc bước xuống.

Raxcolnicov bỏ đi.

- Ông anh! - Cô gái gọi với theo chàng.

- Cái gì?

Ả đâm ngượng:

- Ông anh ạ, giá em được gần ông anh một vài giờ thì em sung sướng quá, nhưng bây giờ trước mặt ông anh không hiểu sao em ngượng lắm. Công tử cho em sáu cô-pếch uống rượu đi.

Raxcolnicov móc túi hú họa lấy ra mấy đồng tiền có được ba đồng năm cô-pếch.

- Ôi, ông anh hào phóng quá!

- Cô tên gì?

- Ông cứ hỏi Duclida.

- Thật quá quắt lắm! - Một cô khác trong bọn bắt đầu nhìn Duclida nói. - Đời thuở ai lại đi xin tiền cái lối ấy bao giờ! Tớ thì tớ chết thẹn mất…

Raxcolnicov tò mò nhìn người vừa nói câu ấy. Đó là một người đàn bà trạc ba mươi tuổi, mặt rỗ hoa thâm tím cả lên: môi trên sưng vều. Cô ta chê trách bạn một cách điềm tĩnh và nghiêm trang.

“Không biết mình có đọc ở đâu”, - Raxcolnicov nghĩ thầm trong khi dời bước, - “không biết mình có đọc ở sách nào có đoạn nói một người bị xử tử hình, một giờ trước khi chết, có nói hay nghĩ rằng ví thử có phải sống ở một nơi nào cao ngất, trên một tảng đá hẹp chỉ vừa đặt hai bàn chân, còn xung quanh là vực thẳm, là đại dương, là bóng đêm vô tận, cô đơn vĩnh viễn và bão táp không cùng, và cứ phải đứng co ro như thế suốt đời, hàng nghìn năm, mãi mãi, thì thà sống như thế vẫn còn hơn là phải chết bây giờ! Miễn sao được sống, sống và sống! Sống thế nào cũng được, miễn là sống! Đúng quá! Trời ơi, đúng quá đi mất! Con người thật hèn mạt!”...

“Và hèn mạt thay kẻ nào vì thế mà bảo con người hèn mạt” - Chàng nghĩ thêm sau một phút.

Chàng rẽ sang một phố khác. “A, “Lâu đài Pha lê”! Hồi nãy Razumikhin có nói đến “Lâu đài Pha lê”. Thế nhưng vừa rồi mình muốn cái quái gì nhỉ. À phải, đọc báo! Zoximov nói là hắn có đọc trong mấy tờ báo…”

- Có báo không? - Chàng hỏi khi bước vào một quán rượu khá rộng rãi và sạch sẽ gồm có mấy gian phòng hơi vắng khách. Vài ba người khách đang uống nước trà, và trong một gian phòng mãi tít ở trong cùng có một tốp khoảng bốn người đang ngồi uống sâm-banh. Raxcolnicov thấy hình như trong số đó có Zamiotov, nhưng vì xa quá khó lòng trông rõ mặt.

“Kệ xác hắn!” - Chàng nghĩ thầm.

- Ông dùng votca ạ? - Người hầu bàn hỏi.

- Cho trà ra đây. Với lại đem cho ta mấy tờ báo ra trong khoảng năm hôm gần đây, ta sẽ cho tiền uống rượu.

- Vâng ạ. Báo hôm nay đây ạ. Ngài dùng thêm votca chứ ạ?

Báo cũ và trà đã mang lên. Raxcolnicov ngồi vào bàn và bắt đầu tìm: “Izler - Izler - Người Aztek - Người Aztek - Izler - Bartola - Masimo - Người Aztek - Izler… xì, đồ quỷ! À tin hàng ngày đây rồi: một người đàn bà ngã cầu thang - một lão lái buôn chết thiêu vì rượu - một đám cháy ở Bãi Cát - một đám cháy ở phố Petersburg - lại một đám cháy ở phố Petersbung - lại một đám cháy ở phố Petersburg - Izler - Izler - Izler - Massimo… Á, đây rồi…”.

Cuối cùng chàng đã tìm ra, và bắt đầu đọc. Những dòng chữ cứ nhảy nhót trước mắt, tuy vậy chàng cũng đọc hết được “tin tức” ấy và háo hức tìm những tin bổ sung mới nhất ở các số sau. Tay chàng run bắn lên vì sốt ruột trong khi lần giở mấy tờ báo. Chợt có ai ngồi xuống bên cạnh, ngay ở bàn chàng. Chàng liếc nhìn sang: Zamiotov, đúng cái anh chàng Zamiotov đó, cũng vẫn cái bộ dạng ấy; vẫn những chiếc nhẫn, những sợi dây chuyền, với cái đường ngôi rẽ đôi mớ tóc quăn xức dầu trơn, mình mặc chiếc gi-lê bảnh bao, chiếc áo đuôi tôm hơi sờn, và chiếc sơ-mi mặc đã hơi lâu không giặt, hắn đang vui, hay ít nhất hắn cũng mỉm cười vui vẻ và xuề xòa, gương mặt ngăm ngăm đen của hắn hơi bừng lên vì men rượu sâm-banh.

- Kìa! Anh ở đây à? - Hắn mở đầu, vẻ bỡ ngỡ, giọng thân mật như thể đã quen chàng từ đời nảo đời nào. - Thế mà mới hôm qua Razumikhin còn nói với tôi là anh vẫn chưa tỉnh, lạ thật! Tôi có đến anh.

Raxcolnicov đã biết là hắn sẽ đến. Chàng gạt ngay tờ báo ra và quay về phía Zamiotov cười nụ, và qua nụ cười của chàng có thể thoáng thấy một tâm trạng sốt ruột bực tức.

- Tôi biết là anh có đến. - Chàng đáp. - Tôi có nghe nói. Anh có đi tìm chiếc tất… Thế anh có biết không. Razumikhin chết mệt với anh rồi đấy, cậu ấy bảo là anh với cậu ấy có đến nhà Lizaveta Ivanovna, người mà anh đã ra sức che chở hôm ấy: Anh nháy trung úy “thuốc súng”, nhưng ngài trung úy vẫn không hiểu cho, anh nhớ chứ? Sao lại không hiểu nhỉ, sự việc rõ quá rồi còn gì.

- Anh chàng nhộn thật!

- “Thuốc súng” ấy à?

- Không, bạn anh ấy, Razumikhin.

- Anh sướng thật đấy, Zamiotov ạ; tha hồ lui tới những chỗ khoái nhất, không hề phải nộp thuế. Vừa rồi ai thết anh sâm-banh đấy?

- Đấy là chúng tôi… cùng uống với nhau đấy chứ… Sao lại phải có ai thết?

- Thù lao mà! Dịp nào anh chả lợi dụng? - Raxcolnicov cười phá lên. - Không sao, anh bạn ạ, không sao! - Chàng vừa nói thêm vừa vỗ vai Zamiotov. - Tôi nói thế không phải vì có ác ý gì, mà chỉ là chỗ bạn bè thân thiết đùa chơi thế thôi, như cái anh thợ sơn nhà anh khi đánh thùm thụp vào người thằng Mitca ấy trong vụ ám sát mụ già ấy mà.

- Sao anh lại biết?

- Có lẽ tôi còn biết nhiều hơn anh nữa đấy.

- Trông anh lạ quá… Chắc anh còn ốm nặng, đáng lẽ anh không nên đi chơi mới phải.

- Anh thấy tôi có vẻ kỳ lạ à?

- Vâng. Anh đọc báo đấy à?

- Đọc báo!

- Họ viết nhiều về các vụ hỏa hoạn lắm.

- Không, tôi không đọc những tin hỏa hoạn.

Chàng nhìn Zamiotov, vẻ bí mật; một nụ cười ngạo nghễ lại làm cho môi chàng méo xệch đi:

- Không, tôi không đọc tin hỏa hoạn. - Chàng nháy mắt với Zamiotov nói tiếp. - Thôi thú đi, anh bạn trẻ: Anh rất nóng lòng muốn biết tôi đọc gì, phải không?

- Có muốn gì đâu, tôi hỏi thế thôi. Chả nhẽ không được hỏi? Sao anh cứ…

- Này, anh là người có học, có chữ nghĩa đấy chứ?

- Tôi học đến lớp sáu trung học[1]. - Zamiotov đáp giọng khá hãnh diện.

- Lớp sáu à! Chà anh bạn thân mến của tôi! Đầu rẽ ngôi, tay đeo nhẫn, một con người giàu có! Chà, cậu bé đáng yêu thật! Nói đến đây Raxcolnicov phá lên cười ha hả, mồm chõ thẳng vào mặt Zamiotov, hắn né ra xa, không phải vì khó chịu mà vì quá ngạc nhiên.

- Xì người đâu mà kỳ quái! - Zamiotov nhắc lại, vẻ rất nghiêm trang. - Tôi có cảm tưởng là anh hãy còn mê sảng.

- Tôi mà mê sảng? Anh nói bậy, anh bạn trẻ ạ. Tôi kỳ quặc lắm hả? Tôi đáng cho anh chú ý lắm phải không? Đáng chú ý chứ gì?

- Đáng chú ý.

- Chú ý xem tôi đọc gì, tôi tìm cái gì hẳn? Tôi chả bảo đưa ra cả một mớ báo thế này kia mà! Khả nghi lắm, hả?

- Anh cứ nói đi xem.

- Anh vểnh tai lên đấy à?

- Vểnh cái gì?

- Rồi tôi sẽ nói cho anh biết là vểnh tai để làm gì anh bạn ạ, tôi tuyên bố với anh… không, tốt hơn là tôi xin “thú nhận”… Không, chưa đúng, phải là “tôi xin cung khai”, còn anh thì “lập biên bản”, thế đấy! Vậy tôi xin cung khai rằng tôi có đọc, có quan tâm… tìm tòi… - Raxcolnicov nheo nheo đôi mắt, chờ đợi. - Tôi muốn tìm tòi, cho nên mới đến đây, tôi muốn biết về vụ ám sát mụ già chủ hiệu cầm đồ. - Cuối cùng chàng nói khẽ gần như thì thào, mặt dí sát vào mặt Zamiotov. Zamiotov nhìn chàng trừng trừng, không nhúc nhích, không né ra. Điều về sau khiến Zamiotov lấy làm lạ nhất là suốt một phút đồng hồ họ đã im lặng nhìn nhau như thế.

- Thế thì sao, anh đọc cái gì? - Zamiotov bỗng băn khoăn và sốt ruột quát lên. - Việc gì đến tôi! Đọc thì đã làm sao?

- Chính cái mụ già này. - Raxcolnicov tiếp, vẫn nói thì thào và vẫn không nhúc nhích khi nghe tiếng quát của Zamiotov. - Chính mụ già mà các anh đã nói chuyện ở quận cảnh sát khi tôi ngất đi, anh có nhớ không nào? Sao, bây giờ anh hiểu rồi chứ?

- Thế là cái gì? Sao lại… “hiểu”? - Zamiotov nói, trong bụng hơi hoảng.

Gương mặt nghiêm trang và lạnh lùng của Raxcolnicov biến sắc hẳn đi trong giây lát rồi chàng bỗng cười phá lên như lúc nãy, như thể không còn chút khả năng tự chủ nào nữa. Và trong giây lát chàng sực nhớ lại rõ nét lạ lùng cái cảm giác hôm nào chàng cầm rìu đứng sau tấm cửa trong khi cái móc rung lên bần bật và hai người đứng trước cửa tức giận chửi bới. Còn chàng thì chợt nảy ra ý muốn quát mắng họ, lè lưỡi ra trước mặt họ, trêu gan họ và cất tiếng cười thật to, thật to!

- Anh điên rồi, hay là… - Zamiotov nói rồi bỗng ngừng bặt, như thể choáng người đi vì một ý nghĩ đột ngột nảy ra trong óc.

- Hay là? “Hay là” cái gì? Nào, cái gì? Nói đi xem nào.

- Có gì đâu. - Zamiotov bực bội đáp. - Chỉ nhảm!

Cả hai lặng thinh. Sau trận cười đột ngột, Raxcolnicov bỗng trở nên đăm chiêu và ủ dột. Chàng chống khuỷu tay lên bàn, hai tay ôm đầu, hình như chàng đã quên hẳn Zamiotov. Im lặng kéo dài khá lâu.

- Sao anh không uống trà đi? Nguội hết? - Zamiotov nói.

- Hả? Cái gì? Trà ấy à? À phải… - Raxcolnicov cầm chén lên uống một ngụm, bỏ vào mồm một miếng bánh. Rồi đưa mắt nhìn Zamiotov chàng bỗng như chợt nhớ ra hết và định thần lại: lập tức gương mặt chàng trở lại với vẻ ngạo nghễ như ban nãy. Chàng tiếp tục uống nước trà.

- Thời buổi này những bọn gian phi mọc lên nhan nhản, - Zamiotov nói - Cách đây không lâu trong tờ “Tin tức Moxcva” có đăng tin bắt được cả một bọn giả mạo. Chúng nó có cả một hội kín, chúng làm giấy bạc.

- Ờ, đã lâu rồi còn gì! Tôi đọc đã cách đây một tháng, - Raxcolnicov điềm tĩnh trả lời. - Thế theo anh đó là một bọn gian phi? - Chàng cười nhạt nói thêm.

- Chứ còn gì nữa!

- Bọn ấy à? Bọn ấy là một lũ nhãi nhép chứ gian phi gì! Hàng năm chục người họp nhau lại để làm một việc như thế! Ai lại làm ăn kiểu ấy bao giờ? Ba người cũng đã là nhiều rồi, mà trong bọn, người này cũng phải biết chắc bụng dạ người kia hơn cả chính bản thân mình! Nếu không thì chỉ cần một người uống rượu say nói ba hoa dăm câu là công chuyện vỡ lở hết? Chỉ là một bọn nhãi nhép! Chúng nó dùng những người không tin cẩn đem tiền giả ra đổi ở các kho bạc, việc như thế mà bạ ai cũng giao. Cứ thử cho là cái bọn nhãi kia làm ăn trót lọt, mỗi đứa đổi được một triệu bạc, thế rồi sao nữa? Còn cả đời người kia mà? Suốt đời đứa này vẫn lệ thuộc vào đứa kia, cứ lo nơm nớp là một đồng lõa sẽ tiết lộ, thế thì thà thắt cổ mà chết! Nhưng đằng này đổi tiền chúng cũng không biết đổi kia: ra kho bạc đổi năm nghìn, mà tay run lẩy bẩy. Đếm lại được bốn nghìn, còn một nghìn nữa thì không đếm, chỉ chực bỏ túi đi cho nhanh. Thế là người ta sinh nghi. Mọi việc đều hỏng bét chỉ vì một thằng ngốc? Sao lại có thể như thế được?

- Sao lại có thể run tay ấy à? - Zamiotov đáp. - Có thể lắm chứ. Tôi thì tôi tin chắc là có thể lắm. Có khi người ta không tự chủ được.

- Không tự chủ được à?

- Thế còn anh, chắc anh tự chủ được?

- Không, tôi thì chịu. Chỉ vì một trăm bạc tiền thưởng mà đi làm một việc ghê gớm như vậy! Làm bạc giả đi đổi, mà đi đâu kia chứ, đi đến ngân hàng: ở đấy họ còn lạ gì những cái trò ấy nữa. Không, tôi sẽ cuống lên mất. Thế anh thì sao, liệu có cuống không?

Raxcolnicov bỗng dưng lại thấy muốn “thè lưỡi” ra quá chừng. Sống lưng chàng gây gấy lên trong khoảng mấy phút.

- Giá phải tay tôi thì tôi không làm như thế. - Chàng mở đầu xa xôi. - Tôi sẽ đi đổi tiền như thế này: Xấp bạc thứ nhất tôi sẽ đếm đi đếm lại đến bốn lần, hết đếm xuôi lại đếm ngược, xem kĩ từng tờ một, rồi mới đếm sang xấp thứ hai; đếm được nửa xấp thì ngừng lại rút ra một tờ năm mươi rúp giơ ra ánh sáng soi thử, lật ngược lại soi lần nữa - bạc giả chăng? “Ngại lắm” - tôi sẽ nói thế - “tôi có người bà con vừa mất toi hai mươi lăm rúp như thế đấy”; thế rồi tôi sẽ kể chuyện này ra. Đến khi đếm sang xấp thứ ba thì: À khoan, xin lỗi, hình như xấp thứ hai tôi đếm chưa kĩ ở chỗ bảy trăm, nghi lắm, thế là bỏ xấp thứ ba đấy, đếm lại xấp thứ hai, ấy cứ thế mà đếm cho hết năm xấp năm nghìn.

Xong xuôi đâu đấy, lại rút ở xấp thứ năm và xấp thứ hai ra mỗi xấp một tờ, lại giơ lên coi, lại ngờ ngợ, “ông làm ơn đổi cho tờ này” - làm cho lão ngồi quầy phải toát mồ hôi hột ra mới thôi, đến nỗi hắn chỉ mong sao tôi buông tha hắn ra cho chóng? Rồi đến khi xong xuôi đâu đấy tôi mới đi ra, mở cửa… À quên, xin lỗi, lại quay vào, lại hỏi han này nọ cho rõ; tôi thì tôi làm như thế đấy!

- Chà, anh nói những chuyện nghe mà rợn cả người lên. - Zamiotov cười. - Nhưng nói thì nói thế thôi, chứ nếu làm thật thì anh cũng vấp. Anh ạ, theo tôi, không riêng gì anh với tôi mà ngay một kẻ thành thạo và hết sức liều lĩnh cũng không thể tin chắc mười phần ở mình được. Nói đâu xa: cứ lấy ngay vụ giết người ở khu phố ta chẳng hạn. Hình như đây cũng là một tay không vừa, giữa ban ngày ban mặt mà dám liều mạng như thế, cuối cùng chỉ gặp may mà thoát, ấy thế nhưng vẫn run tay không biết cách lấy của, không tự chủ được; cứ xem vụ này cũng rõ…

Raxcolnicov có vẻ như bị chạm vào tự ái.

- Rõ. Thế bây giờ các anh thử bắt hắn đi xem? - Chàng nói to lên, trêu tức Zamiotov với một vẻ hả hê.

- À rồi sẽ bắt thôi!

- Ai bắt? Anh à? Anh mà bắt được à? Cứ thử vào đấy mà xem! Đối với anh cái này mới là cái chính: Hắn ta có tiêu tiền hay không? Trước thì không có tiền, thế mà nay tiền đâu bỗng dưng đem ra tiêu văng mạng, thế thì còn ai vào đây nữa? Về điểm này thì một thằng bé con bằng này cũng có thể lừa anh được, nếu nó muốn!

- Sự thật là đứa nào cũng làm như thế. - Zamiotov đáp - Giết người thì giết một cách rất xảo quyệt, liều cả tính mạng, nhưng rồi lại lập tức đến quán rượu thò cổ vào tròng. Chính là người ta căn cứ vào cách tiêu tiền mà bắt. Không phải ai cũng khôn ngoan như anh cả đâu! Anh thì dĩ nhiên là không vào tiệm rượu chứ?

Raxcolnicov cau mày nhìn Zamiotov chòng chọc.

- Hình như anh đã phát thèm lên, muốn biết tôi sẽ hành động ra sao nếu ở vào địa vị ấy? - Chàng hỏi, vẻ phật ý.

- Muốn chứ. - Zamiotov đáp, giọng nghiêm trang và rắn rỏi. Không hiểu sao bây giờ hắn nói và nhìn một cách quá nghiêm nghị.

- Muốn lắm à?

- Muốn lắm.

- Được! Tôi thì tôi sẽ hành động như thế này đây. - Raxcolnicov bỗng dừng lại dí sát mặt mình vào mặt Zamiotov, lại nhìn chòng chọc vào mặt hắn và lại nói thì thào, đến nỗi lần này hắn phải giật mình.

- Tôi thì tôi sẽ làm như thế này đây: Tôi sẽ lấy tiền, đồ đạc và vừa ở đấy ra một cái là tôi đi thẳng, không ghé vào đâu hết, đến một nơi thật kín đáo và vắng vẻ, xung quanh chỉ có tường và rào, một vườn rau hay một cái gì như thế. Tôi đã tìm từ trước một tảng đá, nặng chừng một pút hay pút rưỡi gì đấy nằm ở góc sân, cạnh hàng rào, nó vẫn nằm đấy từ khi xây nhà: Tôi sẽ nhấc tảng đá ấy lên, phía dưới tất phải có một chỗ trũng, tôi sẽ bỏ tiền và đồ đạc vào chỗ trũng ấy. Xong đâu đấy tôi sẽ vần tảng đá lại như cũ, lấy chân dận thêm vào và bỏ đi. Một năm, hai năm, tôi vẫn chưa lấy, ba năm cũng chưa lấy, - các anh cứ thử tìm xem! Mất biến!

- Anh điên rồi... - Zamiotov nói, không hiểu sao giọng cũng thì thào và bỗng né xa Raxcolnicov.

Mắt chàng sáng quắc, mặt chàng tái nhợt đi; môi trên chàng run bần bật. Chàng chồm vào thật sát Zamiotov, môi lắp bắp nhưng nói không ra tiếng gì cả; cứ như thế đến nửa phút, chàng cũng biết mình đang làm gì, nhưng không kìm nổi. Một lời thú nhận khủng khiếp cứ nhảy bần bật trên môi chàng như hôm nào cái móc cửa nhảy bần bật trong móc khóa sắt, tưởng chừng nó sắp bật ra ngay tức thì; chỉ cần buông nó ra, chỉ cần thốt nó lên.

- Thế nếu chính tôi giết mụ già và Lizaveta thì sao? - Chàng bỗng thốt lên… và sực tỉnh.

Zamiotov bàng hoàng nhìn chàng và tái mặt đi. Một nụ cười mếu máo hiện lên trên mặt hắn.

- Làm sao lại có thể như thế được? - Hắn nói rất khẽ. Raxcolnicov hằn học nhìn hắn.

- Anh phải nhận là anh tin đi! Hả? Phải không nào?

- Không! Hoàn toàn không, bây giờ tôi lại càng không tin hơn bao giờ hết! - Zamiotov nói vội.

- Bây giờ tôi bắt thóp được anh rồi nhé! Lộ tẩy rồi. Thế nghĩa là trước đây anh có tin, chả là “bây giờ anh càng không tin hơn bao giờ hết” kia mà?

- Ồ, hoàn toàn không phải thế! - Zamiotov kêu lên, vẻ ngượng nghịu. - Nãy giờ anh cứ nhát tôi để đưa đến đấy phải không?

- Thế anh không tin à? Thế thì các anh nói những gì sau lưng tôi, khi tôi ra khỏi quận? Và trung úy thuốc súng hỏi cung tôi làm gì, sau khi tôi bị ngất? Này bé con! - Chàng đứng dậy cầm mũ và quát gọi người hầu bàn. - Hết bao nhiêu?

- Cả thảy ba mươi cô-pếch ạ. - Người hầu bàn chạy lại, đáp.

- Đây cho anh thêm hai hào uống rượu. Xem này, bao nhiêu là tiền... - Chàng chìa bàn tay run run cho Zamiotov xem mớ bạc giấy. - Đỏ này, xanh này, hai mươi lăm rúp đấy. Ở đâu ra? Lại áo mới nữa, ở đâu ra thế? Anh thừa biết là một cô-pếch tôi cũng không còn kia mà! Chắc là các anh đã hỏi dò bà chủ nhà rồi chứ gì? Thôi xin đủ! Assez causé![2] Chào anh… chúc anh gặp nhiều điều thú vị!

Chàng bước ra, người run rẩy vì một cảm giác kỳ dị như trong cơn bệnh u uất trong đó có pha cả một cảm giác khoái lạc không sao chịu nổi. Nhưng chàng vẫn lầm lì, trong người thì mệt nhừ ra. Mắt chàng nhăn nhó như sau một cơn động kinh. Cảm giác mệt mỏi tăng lên rất nhanh. Vừa rồi sức lực chàng được kích thích và chỉ cần một sức ẩy, một cảm giác khích động duy nhất cũng đủ làm cho nó dâng mạnh lên, và hễ cảm giác này yếu đi thì nó cũng lại suy yếu rất nhanh. Zamiotov còn lại một mình ngồi yên rất lâu ở chỗ cũ, suy nghĩ trầm ngâm. Raxcolnicov đã đảo lộn hết những ý nghĩ của hắn về một điểm nhất định và đã làm cho quan niệm hắn xác định hẳn.

“Ilia Petrovich là một thằng đần!” - Hắn quyết định dứt khoát.

Raxcolnicov vừa mở cửa ra phố thì bỗng nhiên, ngay ở trước thềm, chàng vấp phải Razumikhin lúc ấy đang bước vào. Đến cách nhau chỉ còn một bước hai bên vẫn không trông thấy nhau, thành thử suýt cộp đầu vào nhau. Họ đưa mắt dò nhau một lát, Razumikhin kinh ngạc đến cực điểm, nhưng rồi một cơn giận thật sự, một cơn giận ghê gớm bỗng lóe lên trong mắt anh.

- Thế ra cậu ở đây! - Anh rống lên. - Bỏ giường đi trốn! Thế mà mình chui cả xuống đi-văng tìm hắn, leo cả lên trần nhà nữa! Thiếu chút nữa tôi đã đánh Naxtaxia vì cậu… Thế mà cậu lại đến đây! Rodia! Như thế nghĩa là thế nào? Nói thật đi! Thú đi! Nghe chưa?

- Như thế nghĩa là các anh đã làm tôi phát ngấy đến chết người đi được, tôi muốn đừng ai bên cạnh tôi hết. - Raxcolnicov bình thản đáp.

- Đừng ai ở cạnh cậu? Trong khi cậu đi chưa vững, mặt thì xanh như tàu lá, thở thì không ra hơi nữa? Đồ ngu, cậu làm gì trong “Lâu đài Pha lê”? Cậu phải thú nhận ngay lập tức!

- Thôi buông tôi ra. - Raxcolnicov nói đoạn toan đi vượt qua. Thấy thế Razumikhin liền tiến lên nắm chặt lấy vai chàng.

- Buông ra? Cậu dám nói “buông ra”? Thế cậu có biết tôi sẽ làm gì bây giờ không, tôi sẽ xốc cậu lên như một gói giẻ, xách cậu về buồng và khóa trái cửa lại.

- Razumikhin ạ. - Raxcolnicov nói khẽ và hình như hoàn toàn điềm tĩnh. - Chả nhẽ cậu không thấy rằng tôi không cần đến những ân huệ của cậu hay sao? Việc gì lại đi làm ơn làm phúc cho những kẻ… không thèm những thứ ấy? Mà lại là những kẻ rất khổ tâm khi phải chịu đựng những thứ ấy? Khi tôi mới ốm, cậu đi tìm tôi để làm gì? Nhỡ tôi chỉ mong được chết thì sao? Chẳng lẽ thái độ của tôi hôm nay chưa đủ cho cậu thấy rằng cậu làm khổ tôi, rằng tôi đã… phát ngấy lên vì cậu hay sao? Sao lại cứ muốn đến làm khổ người ta như thế. Tôi quả quyết với cậu là những thứ đó làm cho bệnh tình của tôi rất khó thuyên giảm, vì nó cứ làm tôi khích động không ngớt. Hồi nãy Zamiotov chả bỏ đi để tôi khỏi khích động là gì? Cậu nữa, tôi van cậu, cậu cũng đi đi! Và sau nữa, cậu có quyền gì mà dám dùng sức mạnh để giữ tôi lại? Chẳng lẽ cậu lại không thấy rằng tôi đang nói chuyện với cậu một cách hoàn toàn tỉnh táo hay sao? Tôi phải làm gì đây, tôi biết lấy gì đây, tôi van cậu, cậu hãy nói cho tôi biết tôi phải làm gì để cậu khỏi ám tôi, cho cậu khỏi làm ơn làm phúc cho tôi? Cứ cho tôi là bạc bẽo, tôi hèn hạ cũng được miễn là buông tôi ra, vì Chúa, hãy để cho tôi yên! Đi đi, đi đi!

Khi bắt đầu nói chàng rất bình tĩnh, trong lòng khoan khoái thưởng thức trước những lời lẽ độc địa mà mình sắp nói ra, nhưng đến khi kết thúc thì lại sôi sục lên và thở hổn hển, giống như lúc nãy, khi nói với Lujin.

Razumikhin đứng yên ngẫm nghĩ một lát và buông tay chàng ra.

- Thôi cậu xéo về nhà ma cho rảnh! - Anh nói khẽ vẻ gần như trầm ngâm; nhưng khi Raxcolnicov bước đi, anh bỗng gầm lên: - Đứng lại… Cậu nghe đây! Tôi nói cho cậu biết là tất cả bọn cậu, không trừ một đứa nào, đều là những thằng ba hoa, những thằng khoác lác. Hễ có chuyện gì hơi khổ một tí là các cậu cứ bo bo ôm lấy như gà ấp trứng? Ngay cả cái lối ấy nữa, các cậu cũng ăn cắp của các tác giả khác. Không có lấy một dấu hiệu nào tỏ ra các cậu có một cuộc sống độc lập! Thịt các cậu chỉ là mỡ cá voi, máu các cậu chỉ là nước sữa cặn! Hạng các cậu tôi không tin đứa nào hết. Trong trường hợp nào cũng vậy, các cậu chỉ lo sao cho đừng giống một con người! Đứng lạ-ạ-ại! - Anh quát lên, giọng giận dữ gấp bội, khi thấy Raxcolnicov lại toan bỏ đi. - Hãy nghe cho hết đã! Cậu cũng biết là hôm nay bạn bè tôi đến ăn khao nhà mới, có lẽ bây giờ đã đông đủ cả rồi, nhưng tôi để ông chú ở nhà tiếp khách, bảo là chạy tí về ngay. Thế thì giá thử cậu không phải là một thằng ngốc, một thằng ngốc tầm thường, một thằng ngốc thâm căn cố đế, một bản dịch từ tiếng ngoại quốc… Rodia ạ, tôi nhận rằng cậu là một thằng bé thông minh, nhưng vẫn ngốc như thường - đấy giá cậu lại đằng tôi, ngồi chơi với tôi một tối, còn hơn là giờ đi lang thang như thế. Cậu đã ra khỏi nhà rồi thì chẳng còn biết làm sao nữa? Tớ sẽ mượn về mấy chiếc ghế bành thật êm, nhà chủ có đấy… có trà, có bạn… Không thì tớ đặt cậu nằm trên đi-văng, dù sao cũng có bạn có bè với nhau… Cả Zoximov cùng đến. Thế nào, cậu lại chứ?

- Không.

- Bậy quá đi mất! - Razumikhin điên tiết quát lên. - Cậu thì biết gì? Cậu có đủ trí khôn đâu! Cậu chẳng hiểu gì hết… Đã hàng nghìn lần, tớ cũng đã từng nhổ toẹt vào nhân loại như thế, nhưng rồi lại quay trở lại. Thấy xấu hổ… thế là trở về với con người! Thế cậu nhớ nhé, nhà ông Potrincov, gác ba…

- Cứ thế này thì có lẽ ngài để cho người ta đánh ngài chỉ để hưởng cái thú làm ơn làm phúc thôi, ngài Razumikhin ạ…

- Đánh ai? Đánh tớ ấy à? Chỉ nho nhoe một chút thôi tớ cũng vặt mũi đi chứ! Nhà Potrincov, số 47, hỏi phòng ông viên chức Babuskin…

- Tôi không đến đâu, cậu ạ. - Raxcolnicov lại quay đi.

- Tớ cuộc là cậu sẽ đến! - Razumikhin quát vọng theo. - Nếu không thì cậu… - nếu không tớ không thèm nhìn mặt cậu nữa đâu! Này, thư hẵng, có Zamiotov trong ấy không?

- Có.

- Cậu có gặp à?

- Có gặp.

- Cậu có nói chuyện à?

- Có nói chuyện.

- Chuyện gì thế? Thôi được, xéo đi, không nói thì thôi. Nhà Potrincov, số 47 Babuskin, nhớ nhé!

Raxcolnicov đi đến phố Xadovaya và rẽ vào góc phố. Razumikhin tư lự nhìn theo. Cuối cùng anh khoát tay một cái, bước vào nhà, nhưng rồi bỗng dưng lại ở nửa chừng thang gác.

“Mẹ kiếp!” - Anh nghĩ tiếp, gần như nói to lên. - “Hắn nói cũng mạch lạc, nhưng lại có vẻ như… Mà mình cũng ngốc nốt. Người điên cũng có thể nói năng mạch lạc chứ! Mà hình như Zoximov sợ nhất cái ấy đấy!” - Anh gõ ngón tay vào trán. - “Nhỡ ra… sao bây giờ mà lại để cho hắn đi một mình? Có thể là hắn nhảy xuống sông… Chà, mình làm ăn hỏng bét! Không thể được!” Và anh cắm cổ chạy ngược trở lại đuổi theo Raxcolnicov: nhưng không còn thấy tăm hơi đâu nữa.

Anh nhổ toẹt một bãi nước bọt và bước mau vào “Lâu đài Pha lê” tìm gặp Zamiotov để hỏi cho ra lẽ.

Raxcolnicov đi thẳng đến cầu X.; ra đến khoảng giữa cầu chàng đứng lại tựa hai khuỷu tay vào lan can và nhìn ra phía xa. Sau khi chia tay với Razumikhin, chàng thấy mệt mỏi đến nỗi chật vật lắm mới lê được đến đây. Chàng cứ muốn kiếm nơi nào ngồi xuống, hay nằm dài ra giữa đường. Nghiêng mình trên dòng nước, chàng thẫn thờ nhìn ánh phản chiếu cuối cùng màu hồng nhạt của mặt trời sắp tắt, nhìn dãy nhà tối sẫm trong bóng hoàng hôn mỗi lúc một dày đặc thêm, một khung cửa sổ nhỏ ở một gác xép xa xa bên tả ngạn, kính đỏ rực lên như bốc cháy vì tia nắng cuối cùng rọi vào trong chốc lát, nhìn con kênh tối sẫm và dường như chăm chú nhìn xuống dòng nước. Cuối cùng trong mắt chàng thấy hiện lên những vòng đỏ quay tít, các tòa nhà chuyển mình, bờ kênh, người qua đường, xe cộ đều quay cuồng nhảy nhót thành vòng. Có lẽ chàng đã ngất đi: Nếu bấy giờ không có một cảnh tượng kỳ dị, gớm guốc bỗng khiến chàng giật mình. Chàng cảm thấy có ai đang đứng cạnh chàng, ngay bên phải; chàng liếc nhìn sang thì thấy một người đàn bà cao, đầu trùm khăn, khuôn mặt hơi dài, gầy xọp, nước da vàng võ, đôi mắt đỏ sâu hoắm. Người ấy, nhìn thẳng vào chàng nhưng hẳn là chẳng trông thấy gì, không phân biệt được ai hết. Người ấy bỗng chống tay phải vào thành cầu, giơ chân phải lên và lần lượt đu cả hai chân sang bên kia lan can nhảy xuống kênh. Dòng nước bẩn tung tóe lên và nuốt chửng mồi trong giây lát, nhưng một phút sau người tự vẫn nổi lên rồi từ từ trôi xuôi theo dòng nước, đầu và chân chìm xuống, lưng nổi lềnh bềnh, chiếc váy phồng lên như cái áo gối.

- Có người tự tử! Có người tự tử! - Hàng chục tiếng thét vang lên; họ nhốn nháo chạy lại, hai bên bờ lố nhố những người tò mò; trên cầu, quanh Raxcolnicov đã có một đám đông xúm lại, xô nhau chồm cả vào lưng chàng.

- Trời ơi, cô Afroxiniuska ở nhà tôi mà! - Gần đâu đây có một giọng đàn bà lu loa. - Các ông các bác ơi, cứu cô ấy với! Trăm lạy các ông, các ông vớt cô ấy với!

- Thuyền đâu! Thuyền đâu! - Trong đám đông có tiếng quát.

Nhưng không cần đến thuyền làm gì nữa: Một người cảnh binh chạy xuống bến, cởi áo khoác, cởi giày ra và lao xuống nước. Anh ta không phải khó nhọc gì lắm: Dòng nước đưa người trẫm mình trôi qua cách bến có hai bước, anh ta đưa tay phải ra túm lấy áo nạn nhân, tay trái đã kịp nắm lấy một cây sào do một người bạn giơ ra cho anh, và lập tức người trẫm mình được kéo lên. Họ đặt cô ta nằm lên mấy phiến đá hoa cương lát bến. Chẳng mấy chốc cô ta mở mắt, ngồi dậy, bắt đầu hắt hơi và xỉ mũi, hai tay cứ xoa xoa chiếc áo ướt sũng một cách ngớ ngẩn. Cô ta lặng thinh không nói gì hết.

- Cô ấy say bí tỉ, các ông ạ, say bí tỉ. - Người đàn bà lúc nãy, bây giờ đứng bên cạnh Afroxiniuska, kể lể. - Lần trước đã toan thắt cổ chết, may người ta cởi dây kịp. Vừa rồi tôi ra cửa hiệu, để con bé ở nhà trông cô ấy thế là có chuyện. Cô ta ở bên cạnh nhà tôi, ông ạ, buôn bán nhì nhằng, đấy, ngôi nhà thứ hai ở cuối phố, kia kìa…

Đám đông tản dần, mấy người cảnh sát vẫn còn loay hoay quanh người tự tử, có ai nói gì léo nhéo về sở cảnh sát… Raxcolnicov nhìn cảnh ấy với một cảm giác bình thản và dửng dưng kỳ lạ. Chàng bỗng thấy tơm tởm. “Không, kém lắm, nước… không xong” - Chàng lẩm bẩm một mình. - “Sẽ không có gì xảy ra hết”. - Chàng nói thêm.” - “Có gì đâu mà đợi? Còn quận cảnh sát? Tại sao Zamiotov lại không ở quận cảnh sát nhỉ? Mở cửa đến chín giờ cơ mà”… - Chàng quay lưng ra phía thành cầu và đưa mắt nhìn quanh.

“Thì đi nào! Sao lại không?” - Chàng lẩm bẩm và quả quyết đi về phía sở cảnh sát. Lòng chàng trống trải và tối tăm. Chàng không muốn nghĩ. Ngay tâm trạng ưu tư cũng đã qua, không còn lấy một dấu vết nào của sức quyết tâm lúc này khi chàng ra đi “để chấm dứt hẳn tình trạng này!”. Nó đã nhường chỗ cho một trạng thái mụ mẫm hoàn toàn.

“Đó cũng là một lối thoát!” - Chàng nghĩ trong khi uể oải đi chầm chậm trên bờ kênh. - “Dù sao ta cũng sẽ chấm dứt, vì ta muốn thế… Nhưng đó có phải là lối thoát không? Thì cũng thế thôi! Cũng vẫn là mấy tấc đất… hê! Nhưng kết liễu như thế thì thật thảm hại! Kết liễu rồi ư? Nói cho họ biết, hay thôi? Chà… quỷ quái! Mình mệt quá rồi - sao cho chóng đến chỗ nào mà nằm xuống một cái. Xấu hổ hơn cả là những chuyện này hết sức ngây ngô. Thôi kệ mẹ nó. Xì, sao lại có thể nghĩ đến những chuyện ngây ngô như thế…”.

Muốn đến quận cảnh sát phải đi thẳng mãi qua hai ngã tư rồi rẽ sang trái: từ đấy chỉ còn mấy bước nữa là đến. Nhưng vừa đi đến ngã tư thứ nhất, chàng dừng lại, ngẫm nghĩ một lát, ngoặt vào ngõ và đi vòng qua hai phố nữa, có lẽ cũng chẳng có mục đích gì, hoặc giả có thể là để trì hoãn thêm một vài phút. Chàng bước đi, mắt nhìn xuống đất. Bỗng dường như có ai ghé sát tai chàng thì thầm một câu gì. Chàng ngẩng đầu lên và thấy mình đang đứng trước “ngôi nhà ấy”, ngay trước cổng. Từ buổi tối “hôm ấy” chàng chưa lần nào đi qua đây.

Một ý muốn không sao cưỡng được, không sao hiểu nổi, cứ thôi thúc chàng. Chàng đi qua cổng, rẽ ngoặt vào cánh cửa đầu tiên ở bên phải và bắt đầu bước lên cái cầu thang quen thuộc, lên tầng thứ tư. Trên cái thang gác chật hẹp và dốc đứng lúc bấy giờ tối om. Lên đến mỗi trạm bằng chàng lại dừng chân tò mò nhìn quanh. Ở trạm bằng tầng thứ nhất, khung kính ở cửa sổ đã tháo hẳn ra. “Hôm ấy vẫn còn” - chàng thầm nghĩ. Và đây là gian phòng gác hai, nơi Mikolai và Mitca làm việc hôm ấy: “Đóng kín; cánh cửa mới sơn lại; thế nghĩa là phòng này cho thuê”. Và đây, tầng thứ ba, tầng thứ tư... “Đây rồi!”. Chàng bỗng đớ người ra: Cửa vào phòng ấy mở toang, trong phòng đang có người, nghe có tiếng nói chuyện vẳng ra; chàng thật không ngờ. Lưỡng lự một lát, chàng bước nốt mấy bậc thang cuối cùng và đi vào phòng.

Gian phòng cũng đang được tu sửa lại; trong phòng có mấy người thợ đang làm việc; chàng có vẻ rất lấy làm lạ về điều này. Không hiểu sao chàng cứ hình dung là mọi vật sẽ y nguyên như cũ, thậm chí có lẽ hai cái xác cũng vẫn nằm nguyên giữa sàn nhà: “Thế mà bây giờ mấy bức tường đều trơ trụi, đồ đạc bàn ghế không có lấy một cái nào; lạ thật!”. Chàng đến ngồi bên bậu cửa sổ.

Có cả thảy hai người thợ đang làm, còn trẻ cả, nhưng tuổi chênh lệch nhau khá nhiều. Họ đang dán giấy mới lên tường, những tấm giấy dán tường màu trắng có điểm hoa màu tím nhạt, thay cho lớp giấy cũ màu vàng trước kia đã sờn rách. Không hiểu sao Raxcolnicov thấy thế rất khó chịu, chàng nhìn lớp giấy mới một cách đầy ác cảm, như thể lấy làm tiếc rằng mọi vật đã thay đổi đi như vậy.

Hai người thợ hẳn là đã làm muộn giờ, và đang hấp tấp cuốn giấy lại sửa soạn ra về. Họ đang mải nói chuyện, hầu như không chú ý đến Raxcolnicov. Chàng khoanh tay trước ngực và ngồi nghe.

- Sáng hôm ấy, con bé mới đến nhà tớ, - người lớn tuổi hơn nói với bạn, - đến thật sớm, ăn mặc rất diện. Tớ mới bảo: “Này sao đằng ấy cứ làm dáng với tôi làm gì thế, muốn trêu thèm thằng này đây hẳn?”. Con bé nói: “Anh Tit Vaxilevirt ạ, từ nay em muốn hoàn toàn tùy ý anh, muốn làm gì em cũng được”. Thế đấy! Mà diện phải biết nhé: trông như các cô ở trong báo thời trang ấy, thật y như trong báo!

- Thế báo thời trang là cái gì hở ông bác? - Người trẻ tuổi hơn hỏi. Chắc hẳn xưa nay hắn ta vẫn học khôn ở “ông bác” này.

- Báo thời trang là thế này chú nó ạ. Nó là những tập tô màu, cứ mỗi thứ bảy lại thấy gửi về cho các hiệu thợ may ở đây, ở nước ngoài gửi về, để cho biết người như thế nào thì phải ăn mặc ra sao, đàn ông cho đến đàn bà. Tranh vẽ ấy mà. Đàn ông thì phần nhiều mặc áo đuôi tôm, còn như cái mục đàn bà thì lắm thứ áo trông mê đến nỗi cậu có bán hết cả nhà cậu đi cũng chưa ăn thua!

- Ơ, ở cái xứ Piter[3] này chẳng thiếu thứ gì hở! - Người thợ ít tuổi hăm hở reo lên. - Ngoài bố mẹ ra thì cái gì cũng có.

- Ờ, ngoài thứ ấy ra thì cái gì cũng có chú mày ạ. - Người thợ lớn tuổi kết luận, giọng ra điều dạy bảo.

Raxcolnicov đứng đậy đi sang phòng bên, nơi trước kia đặt cái giường, cái rương và cái tủ ngăn; gian buồng không có bàn ghế trông nhỏ hẹp lạ lùng. Giấy dán tường chưa thay, trong góc còn hằn rõ chiếc trang thờ dựng tượng thánh. Chàng nhìn quanh một lát rồi trở ra ngồi ở bậu cửa sổ. Người thợ lớn tuổi gườm gườm nhìn chàng.

- Ông hỏi gì ạ? - Hắn đột ngột hỏi chàng.

Raxcolnicov không đáp, lẳng lặng đứng dậy đi ra cửa cầm lấy dây chuông kéo. Vẫn cái chuông ấy, vẫn cái tiếng sắt tây ấy! Chàng kéo lần nữa, rồi lần thứ ba, lắng tai nghe và hồi tưởng lại. Cái cảm giác ghê rợn, quái gở hôm nào bắt đầu sống lại, mỗi lúc một rõ nét thêm, sinh động thêm, và cứ mỗi tiếng chuông vang lên chàng lại rùng mình, và càng nghe chàng lại càng thấy khoái trá.

- Ông kia có việc gì thế? Ông là ai? - Người thợ ra theo, quát hỏi. Raxcolnicov trở vào.

- Tôi muốn thuê phòng, - chàng nói - đến xem thử.

- Đang đêm ai lại đi thuê phòng, mà đáng lẽ ông phải đi với bác gác cổng chứ!

- Sàn rửa sạch sẽ rồi, sẽ sơn lại chứ? - Raxcolnicov nói tiếp. Không có máu à?

- Máu nào?

- Máu của mụ già vừa bị giết với mụ em gái ấy mà, hôm trước ở đây nó chảy lênh láng thành cả một vũng.

- Nhưng ông là ai mới được chứ? - Người thợ đâm lo, hỏi gắt.

- Tôi ấy à?

- Ừ.

- Anh muốn biết phải không? Ta đến quận, tôi sẽ nói.

Hai người thợ bỡ ngỡ nhìn chàng.

- Muộn rồi, chúng tôi phải về đây. Đi đi, Alioska. Phải khóa cửa. - Người thợ lớn tuổi nói.

- Nào thì đi! - Raxcolnicov thản nhiên đáp và đi ra trước, thong thả bước xuống cầu thang.

- Ê, gác cổng! - Chàng quát gọi khi xuống đến sân, lúc bấy giờ ngay ở lối vào có mấy người đang đứng nhìn khách qua đường: cả hai người gác cổng, một mụ đàn bà, một người lái buôn và vài người nữa.

Raxcolnicov đi thẳng về phía họ.

- Ông muốn hỏi gì? - Một trong hai người gác cổng hỏi.

- Anh có đến quận cảnh sát?[4]

- Vừa mới đến xong. Ông muốn gì?

- Họ vẫn làm việc chứ?

- Vâng.

- Ông phó quận trưởng có ở đấy không?

- Lúc nãy thì có. Ông muốn hỏi gì?

Raxcolnicov không đáp, đứng yên cạnh người gác cổng ngẫm nghĩ một lát.

- Ông ấy đến xem phòng. - Người thợ lớn tuổi lại gần nói.

- Phòng nào?

- Phòng chúng tôi đang làm ấy mà. Ông ấy bảo “Tại sao lại chùi máu đi? Ở đây có xảy ra ra một vụ giết người, tôi muốn thuê phòng này”. Rồi ông ta kéo chuông, đến suýt đứt cả dây đấy. Ông ấy lại bảo là “ta đến sở cảnh sát, tôi sẽ nói hết”. Ông ta cứ bám lấy chúng tôi.

Người gác cổng băn khoăn cau mày nhìn Raxcolnicov từ đầu đến chân.

- Nhưng anh là ai? - Hắn hỏi gắt, giọng dữ tợn.

- Tôi là Rodion Romanovich Raxcolnicov, cựu sinh viên, tôi ở nhà Sil, trong ngõ kia, gần đây thôi, phòng số mười bốn. Cứ hỏi bác gác cổng, bác ấy biết tôi đấy. - Raxcolnicov đáp, giọng uể oải và trầm ngâm, không ngoảnh lại, cứ nhìn đăm đăm ra dãy phố tối om.

- Anh lên phòng ấy làm gì?

- Đến xem.

- Xem cái gì ở đấy?

- Cứ bắt lên quận xem sao! - Người lái buôn bỗng nói chen vào, rồi im bặt.

Raxcolnicov liếc mắt qua vai, chăm chú nhìn hắn một lát rồi nói, giọng vẫn khẽ và uể oải.

- Đi đi!

- Dẫn hắn ta đi! - Người lái buôn được thể nói thêm. - Sao hắn lại đến chỗ ấy, chắc có ý gì đây, hả?

- Say thì không say, mà ăn nói thật lạ lùng. - Người thợ lẩm bẩm.

- Anh muốn gì nào? - Người gác cổng lại quát; bây giờ hắn đã bắt đầu nổi giận hẳn hoi. - Sao anh cứ dây dưa mãi thế?

- Không dám lên quan à? Sợ chắc? - Raxcolnicov nói, giọng ngạo nghễ.

- Sợ cái gì. Anh lôi thôi cái gì?

- Chắc là một tay làm tiền! - Mụ đàn bà nói.

- Thôi nói chuyện với hắn làm gì. - Người gác cổng kia nói; đó là một người mu-gíc to lớn mặc áo phanh ngực, thắt lưng đeo một chùm chìa khóa!

- Đi đi! Rõ ràng là hạng làm tiền. Xéo đi!

Đoạn nắm lấy Raxcolnicov, hắn xô chàng ra đường. Chàng loạng choạng đâm chúi ra ngoài nhưng không ngã. Đứng thẳng người lại, chàng lặng lẽ đưa mắt nhìn qua mọi người một lượt và bỏ đi.

- Người đâu mà kỳ quặc. - Người thợ nói.

- Thời buổi bây giờ thật lắm người kỳ quặc. - Mụ đàn bà nói.

- Giá cứ dẫn hắn lên quận. - Người lái buôn nói thêm.

- Không việc gì phải dây vào. - Người gác cổng thứ hai phân giải. - Đúng là một thằng làm tiền. Xưa nay vẫn thế, hắn cứ dẫn xác đến nhưng mình mà dây vào thì rồi gỡ không ra đấy… Biết thừa đi!

“Thế ta có đi hay không?” - Raxcolnicov thầm nghĩ. Chàng dừng lại ở giữa một ngã tư và đưa mắt nhìn quanh như thể chờ ai quyết định hộ. Nhưng xung quanh không có lấy một tiếng trả lời, mọi vật đều tối om và im lìm như những phiến đá mà chàng đang giẫm lên: Mọi vật đều đã chết đối với chàng, đối với mỗi mình chàng… Bỗng ở phía xa, cách chàng chừng hai trăm bước, cuối dãy phố, trong bóng tối dày đặc, chàng thấy có một đám đông người đang nói xôn xao, kêu la ơi ới. Giữa đám đông có một chiếc xe ngựa đỗ… Một ngọn đèn chập chờn ở giữa phố. “Cái gì thế?”. Raxcolnicov quay sang phải đi về phía đám đông. Dường như chàng muốn bấu víu lấy bất cứ cái gì; chàng mỉm cười lạnh lùng khi nghĩ như vậy, bởi vì chàng đã nhất quyết đến sở cảnh sát và biết chắc rằng chỉ lát nữa, tất cả đều sẽ chấm dứt.

[1] Thời ấy ở Nga, trường trung học chỉ có 8 lớp.

[2] Tán gẫu thế đủ rồi! (tiếng Pháp).

[3] Tên gọi thân mật Petersburg.

[4] Những người gác cổng các toà nhà lớn ở Petersburg có bổn phận phải hàng ngày đến đồn sảnh sát trình báo về những việc xảy ra trong ngày hôm ấy.

CHƯƠNG 7

Giữa phố có một cỗ xe song mã sang trọng của hạng quyền quý, thắng hai con ngựa xám rất hăng, trong xe không có người, anh xà ích cũng đã xuống xe đứng bên cạnh. Người ta đang nắm dây cương sát hàm thiếc giữ hai con ngựa. Xung quanh chen chúc một đám rất đông, đứng trước là mấy viên cảnh binh, trong đó có một người cầm cây đèn lồng kính cúi xuống soi một cái gì nằm ở giữa đường, ngay sát bánh xe. Ai nấy đều thi nhau nói lao xao, ồ à luôn miệng, người đánh xe có vẻ hoang mang, chốc chốc lại nói:

- Khổ quá! Lạy Chúa, khổ quá đi mất!

Raxcolnicov cố sức len vào và cuối cùng đã thấy được cái nguyên nhân gây ra cảnh nhốn nháo và thu hút sự tò mò của đám đông này. Giữa đất nằm sóng soài một người vừa bị ngựa xéo. Người ấy đã ngất đi, người bê bết máu. Cách ăn mặc của hắn trông rất tồi tàn, nhưng là kiểu ăn mặc của người “thượng lưu”. Máu chảy ri rỉ trên đầu, trên mặt hắn; khuôn mặt đã bị dập, xây xát và tím bầm lên từng chỗ trông không còn ra mặt người nữa. Có thể thấy rõ hắn bị thương rất nặng.

- Các ông ơi, - người đánh xe rền rĩ, - tôi biết làm thế nào được! Giả sử tôi phóng bạt mạng hay không quát gọi gì cho cam, đằng này tôi cho xe chạy rất thong thả. Mọi người đều trông thấy cả, tôi không dám nói dối. Đã say rồi thì mắt còn trông thấy gì nữa - ai lạ gì! Tôi thấy ông ta đi qua phố, chân bước loạng choạng suýt ngã lăn ra; tôi mới quát bảo ông ta tránh, một tiếng, hai tiếng, ba tiếng, và lại kìm ngựa lại; thế mà ông ta cứ chúi đầu vào chân ngựa! Không biết là cố ý hay vì say quá… Ngựa thì ngựa non, hay hoảng, cứ giằng cương mà chạy, ông ta lại hét lên nữa, thành thử chúng càng lồng lên… khổ quá!

- Đúng thế đấy! - Trong đám đông có tiếng ai xác nhận.

- Có quát thật, đúng đấy, anh ta có quát ba lần. - Một người khác nói thêm.

- Đúng ba lần, ai nấy đều nghe thấy! - Người thứ ba nói.

Vả chăng, người đánh xe cũng không lấy gì làm phiền lòng và lo sợ cho lắm. Hẳn chủ nhân cỗ xe này là một người giàu có và tai mắt, chắc hiện nay đang ngồi ở đâu đợi xe đến đón. Dĩ nhiên bọn cảnh sát cũng hiểu rõ như thế và cố dàn xếp thế nào cho chủ nhân khỏi đợi lâu. Bây giờ phải khiêng người bị nạn về đồn và đem vào nhà thương. Không ai biết tên hắn là gì.

Trong khi đó Raxcolnicov đã len đến gần và cúi xuống nhìn cho rõ. Bỗng ánh đèn chiếu sáng mặt người bị nạn, chàng đã nhận ra hắn.

- Tôi biết, tôi có biết người này. - Chàng len hẳn ra phía trước kêu lên. - Đây là một người viên chức về hưu, một viên tư vấn danh dự tên là Marmeladov. Ông ta ở gần đây, ở nhà Kozel… Đi mời bác sĩ nhanh lên! Tôi sẽ trả tiền, đây! - Chàng móc túi lấy tiền đưa cho người cảnh binh xem. Chàng thấy hồi hộp lạ thường.

Mấy viên cảnh sát rất hài lòng khi thấy có người nhận mặt được kẻ bị nạn. Raxcolnicov xưng cả tên mình ra, cho biết địa chỉ và tận tụy như thể đây chính là cha chàng, cố hết sức tìm cách đưa Marmeladov, lúc bấy giờ hoàn toàn bất tỉnh, về nhà hắn.

- Đây thôi cách ba nhà nữa, - chàng sốt sắng chỉ trỏ, - nhà ông Kozel một người Đức giàu có… Chắc vừa rồi ông ta uống rượu say khướt rồi mò về nhà. Tôi biết ông ấy… Ông ấy nghiện rượu… Ở nhà ông ta còn có gia đình, một bà vợ, mấy đứa con nhỏ, lại có một cô con gái. Đưa vào nhà thương thì lâu quá mà ở trong nhà ấy thế nào chả có thầy thuốc! Tôi sẽ trả tiền, tôi sẽ trả! Dù sao cũng được người nhà săn sóc chữa chạy cho ngay, chứ đi nhà thương thì có thể chết dọc đường…

Chàng lại còn có đủ thì giờ dúi ngầm một số tiền vào tay người cảnh binh; dù sao trường hợp này cũng rõ ràng và hợp pháp, và đưa về nhà thì được cứu chữa nhanh hơn. Đã có mấy người tình nguyện giúp đỡ một tay. Họ khiêng người bị nạn lên và mang đi. Nhà Kozel cách đấy chừng ba mươi bước. Raxcolnicov đi ở phía sau, thận trọng đỡ đầu người bị nạn và chỉ lối cho mấy người kia.

- Đây đây, lên thang gác phải cho đầu lên trước; quay lại… thế, thế! Tôi sẽ trả tiền, cảm ơn các ông. - Chàng lắp bắp.

Caterina Ivanovna vẫn như thường lệ, hễ rảnh tay ra được một phút là lập tức đi đi lại lại trong căn buồng nhỏ hẹp, từ cửa sổ đến lò sưởi và ngược lại, hai tay khoanh chặt trước ngực, vừa đi vừa nói lẩm bẩm một mình và ho sù sụ. Thời gian gần đây bà càng ngày càng hay nói chuyện nhiều với Polenka, đứa con gái lớn lên mười. Con bé tuy chưa hiểu được nhiều, nhưng lại hiểu rất rõ rằng mẹ cần đến mình, cho nên bao giờ cũng giương đôi mắt to và thông minh nhìn theo mẹ và cố hết sức giả vờ làm ra vẻ hiểu những lời mẹ nói. Lần này Polenka đã cởi áo cho đứa em trai nhỏ suốt ngày hôm ấy ốm khật khừ, để đặt nó ngủ. Trong khi đợi cho người ta thay áo sơ-mi để đem giặt ngay đêm nay, thằng bé im lặng ngồi thẳng trên ghế, vẻ mặt nghiêm trang, người không nhúc nhích, hai chân ép sát vào nhau duỗi ra phía trước, thấy rõ cả lòng bàn chân, ngón chìa ra hai bên. Nó nghe mẹ nó nói chuyện với chị, môi vều ra, mắt giương thao láo, người không mảy may nhúc nhích, đúng hệt như hết thảy những đứa trẻ thông minh vẫn ngồi khi người ta cởi áo quần cho chúng đi ngủ. Đứa con gái út mặc toàn giẻ rách đang đứng cạnh tấm bình phong đợi đến lượt mình. Cánh cửa trông ra thang gác mở rộng để tháo bớt ra ngoài những làn khói thuốc lá từ các gian khác luồn vào, và phút phút lại làm cho người ho lao ho sặc sụa. Caterina Ivanovna trông chừng còn gầy hơn nhiều so với tuần trước, và những đám đo đỏ trên má còn đậm màu hơn nữa. Bà ta vừa đi đi lại lại trong phòng vừa nói.

- Con không thể tin được đâu, Polenka ạ, mà cũng không thể tưởng tượng được mẹ con mình sống vui vẻ và sang trọng như thế nào hồi còn ở nhà ông ngoại, và cái lão say rượu ấy đã làm khổ mẹ và làm khổ tất cả các con đến nhường nào! Ông các con xưa kia làm quan ngang chức đại tá và đã sắp được bổ làm tổng trấn; chỉ còn một nấc nữa thôi là lên đến chức ấy, cho nên ai cũng đến thăm, họ nói: “Ivan Mikhailovich ạ, ngay bây giờ, chúng tôi cũng đã xem ông như quan tổng trấn tỉnh nhà rồi đấy”. Khi mẹ… Kh…! Khi, mẹ… - Một trận ho cắt ngang lời bà. - Ôi, cái kiếp chó chết này! - Bà kêu lên, khạc đờm và ôm lấy ngực. - Hôm khiêu vũ lần cuối cùng… ở nhà quan tổng trấn… công tước phu nhân Bezzemelnaia có trông thấy mẹ - về sau phu nhân có đến chúc phước khi mẹ lấy ba con đấy, Polenka ạ, - hôm ấy phu nhân hỏi ngay: “Có phải đây là người thiếu nữ đáng yêu đã cầm khăn san nhảy múa trong buổi lễ tốt nghiệp dạo nọ không?”… (Phải nhíp cái lỗ rách ấy lại con, lấy cái kim mà khâu như mẹ đã dặn… chứ để đến mai, nó rách to ra đấy! - Bà vừa nói vừa ho sù sụ). Dạo ấy quan phó thị trấn công tước Segonxkoi mới ở Petersbung về… Ông ta có nhảy điệu mazurka với mẹ và ngay hôm sau đã toan đến ngỏ lời cầu hôn mẹ; nhưng mẹ đã chân thành cảm tạ ông ta với những lời lẽ hết sức trân trọng và nói rằng trái tim mẹ đã từ lâu thuộc về người khác. Người khác đó chính là ba con, Polenka ạ; ông ngoại giận lắm… Nước đã được chưa? Thôi đưa cái áo đây cho mẹ, thế còn bít tất… Lida - bà ta gọi đứa con gái nhỏ - thôi đêm nay con cứ thế mà ngủ đừng mặc áo nữa nhé; rồi sẽ… còn đôi bít tất thì con để bên cạnh… Sẽ giặt luôn một thể… Sao mãi cái thằng cha khố rách áo ôm ấy vẫn chưa về không biết, đồ say rượu. Cái sơ-mi hắn mặc thế nào mà rách bươm như cái giẻ lau nhà… Cốt sao giặt cho xong đi một thể để khỏi phải khổ sở hai đêm liền! Trời ơi - bà ta lại ho sù sụ - Lại ho! Cái gì thế? - Bà ta kêu lên khi trông thấy đám đông lố nhố ở phòng ngoài và mấy người đang khiêng vật gì vào phòng bà. - Cái gì thế, họ khiêng cái gì thế! Trời ơi!

- Đặt đâu bây giờ đây? - Người cảnh binh nhìn quanh phòng hỏi, khi họ đã khiêng cái thân hình máu me bê bết và bất tỉnh nhân sự của Marmeladov vào phòng.

- Đặt lên đi-văng! Cứ đặt lên đi-văng cho tôi, đầu phía này. - Raxcolnicov chỉ bảo.

- Bị xe chẹt ở giữa đường! Trong khi đang say! - Trong đám đông đứng ở phòng ngoài có tiếng nói.

Caterina Ivanovna mặt tái mét, thở khó nhọc, lũ trẻ sợ hãi cuống cuồng. Con bé Lidotrca thét lên một tiếng chạy đến ôm chầm lấy Polenka và run bắn lên.

Đặt Marmeladov nằm xong, Raxcolnicov chạy đến cạnh Caterina Ivanovna.

- Tôi van bà, bà cứ bình tâm, bà đừng sợ! - Chàng nói rất nhanh. - Ông nhà đi qua đường bị xe chẹt phải, bà đừng sợ, ông ấy sẽ tỉnh dậy, tôi bảo họ khiêng về đây… Tôi đã có ghé nhà một lần, chắc bà còn nhớ… Rồi ông ấy tỉnh… Tôi sẽ trả tiền cho họ.

- Biết mà! - Caterina Ivanovna tuyệt vọng kêu lên một tiếng và đâm bổ về phía chồng.

Raxcolnicov chẳng mấy chốc đã nhận ngay ra rằng người đàn bà này không phải dễ mà có thể ngất ngay đi được. Trong nháy mắt một chiếc gối đã được lót dưới đầu người khốn nạn: bấy giờ chưa có ai nghĩ đến việc đó; Caterina Ivanovna bắt đầu cởi áo cho chồng, xem xét, vội vàng cuống quýt lên nhưng không hề rối trí. Bà quên hẳn mình đi, răng cắn chặt đôi môi run lẩy bẩy và cố nén những tiếng kêu chỉ chực bật ra khỏi lồng ngực.

Trong khi đó Raxcolnicov nhờ người chạy đi mời bác sĩ. Ông ta ở cách đây một nhà.

- Tôi đã cho người đi mời bác sĩ. - Chàng nhắc đi nhắc lại với Caterina Ivanovna. - Bà đừng lo, tôi sẽ trả. Không có nước sao? Bà cho tôi cái khăn tắm, khăn mặt gì cũng được, nhanh lên; chưa rõ ông ấy bị thương ra sao… Ông bị thương chứ chưa chết đâu, xin cam đoan như thế… Không biết bác sĩ sẽ nói sao đây!

Caterina Ivanovna chồm ra cửa sổ; ở đấy, trên một chiếc ghế gãy đặt trong góc, có một cái chậu bằng đất đựng nước dành sẵn để ban đêm giặt áo quần cho lũ trẻ và cho ông chồng. Chính tay bà Caterina Ivanovna tự làm lấy việc ấy, ít nhất là mỗi tuần hai lần, đôi khi còn nhiều hơn, vì đến nay hầu như không còn áo quần mà thay nữa, mỗi người chỉ còn có một bộ đồ lót. Tính Caterina Ivanovna không sao chịu nổi thói ở bẩn, thà chịu khổ thức đêm làm quá sức trong khi cả nhà đang ngủ, phơi ngay lên dây để đến sáng mai áo quần vừa kịp khô cho con cái mặc sạch, còn hơn là trông thấy cảnh bẩn thỉu trong nhà. Caterina Ivanovna toan bưng chậu nước đến cho Raxcolnicov, nhưng suýt ngã cả người lẫn chậu xuống. Bấy giờ Raxcolnicov đã tìm được chiếc khăn bông, nhúng nước cho ướt và lau khuôn mặt vấy máu của Marmeladov. Caterina Ivanovna đứng thở hổn hển, hai tay ôm ghì lấy lồng ngực đau buốt. Chính bà ta cũng đang cần cứu giúp. Raxcolnicov bắt đầu hiểu ra rằng giá đừng đưa người bị nạn về đây có lẽ lại hơn. Người cảnh binh cũng hoang mang.

- Polenka! - Caterina Ivanovna gọi. - Chạy đến nhà chị Xonia, nhanh lên. Không có chị ấy ở nhà cũng cứ nhắn là bố bị ngựa xéo phải và hễ chị ấy về là phải đến đây ngay tức khắc. Nhanh lên Polenka! Nào lấy cái khăn này mà trùm con!

- Chạy cho nhanh lên! - Thằng bé ngồi trên ghế đột nhiên kêu lên, đoạn lại im lặng ngồi thẳng đờ trên ghế như cũ, mắt thao láo, hai bàn chân đưa ra phía trước, ngón chân chĩa ra hai bên.

Trong khi đó căn phòng đã chật ních những người, đến nỗi một quả táo rơi cũng không lọt. Tốp cảnh binh đã bỏ đi, chỉ còn một người tạm thời ở lại đang cố xua đám đông từ cầu thang đổ xô xuống cho họ lùi trở lại. Hầu hết các khách trọ của bà Lippevekzen ở các phòng trong đều kéo đến, lúc đầu họ còn chen chúc ngoài cửa, nhưng rồi họ ồ ạt xông thẳng vào phòng. Caterina Ivanovna điên tiết lên.

- Ít nhất cũng để người ta chết cho yên thân một chút chứ! - Bà quát chõ vào đám người. - Xem gì mà xem! Lại hút thuốc lá nữa! - Bà ho sù sụ! - Cứ đội cả mũ mà vào nữa đi! Ấy đấy, có đứa nào đội mũ kia kìa… Đi ra! Ít nhất cũng phải biết tôn trọng lấy một xác chết chứ!

Bà nghẹt thở đi trong một cơn ho sặc sụa, nhưng những lời nhiếc móc đã có hiệu lực. Hình như họ còn thấy sợ Caterina Ivanovna nữa là khác; các khách trọ lần lượt chen nhau lùi ra cửa với cái cảm giác thỏa thuê thầm kín vẫn thường có khi thấy người nào vừa bị một tai ương đột ngột, dù người có thân thuộc đến đâu, một cảm giác kỳ lạ mà không một ai thoát khỏi thậm chí dù có thành thật thương xót và thông cảm với người bị nạn cũng vậy.

Lúc bấy giờ ở ngoài cửa nghe có tiếng ai nói rằng có việc gì đã có nhà thương, chứ đưa về đây làm huyên náo lên một cách vô ích như thế này thật là bất tiện.

- Người ta chết mà bảo là bất tiện à? - Caterina Ivanovna thét lên và lao ra cửa định mắng xối xả vào bọn kia một mẻ, nhưng vừa ra đến cửa đã chạm trán phải đích thân bà Lippevekzen: Bà ta vừa biết tin và chạy vào “ổn định trật tự”. Đó là một người Đức hết sức lắm điều, sống không có chút gì là trật tự cả. Bà ta vỗ tay đánh đét một cái rồi nói:

- Ôi lạy Chúa! Chồng bà say rượu, bị ngựa dẫm. Đưa vào nhà thương đi? Tôi là chủ nhà ở đây!

- Bà Amalia Ludvigovna! Bà nghỉ đi đã rồi hẵng nói. - Caterina Ivanovna mở đầu, giọng kẻ cả với mụ chủ nhà, bà ta bao giờ cũng nói giọng kẻ cả, để cho mụ ta “biết thân biết phận, và ngay như bấy giờ bà ta cũng không thể từ chối mình cái kiểu ấy. - Bà Amalia Ludvigovna…

- Tôi đã báo với bà là bà không bao giờ được gọi tôi là Amalia Ludvigovna; tôi là Amal-Ivan!

- Bà không phải là Amal-Ivan, mà là Amalia Ludvigovna; tôi không phải là hạng người đi theo nịnh bà một cách hèn hạ như ông Lebeziatnikov, hiện giờ đang đứng cười ngoài kia (quả nhiên ngoài cửa có tiếng cười và một tiếng reo: “Lại cãi nhau rồi!”), cho nên tôi sẽ suốt đời gọi bà là Amalia Ludvigovna, tuy tôi không tài nào hiểu nổi tại sao bà lại ghét cái tên ấy thế. Chính bà cũng thấy rõ tình trạng Xemion Zakharovich nay ra sao; ông ấy đang hấp hối, tôi xin bà đóng ngay cái cửa này lại, không cho ai vào hết, ít nhất cũng để người ta chết cho yên với chứ! Bằng không, tôi xin cam đoan với bà rằng ngày mai chính quan tổng trấn sẽ biết rõ hành vi của bà. Công tước tổng trấn biết tôi hồi còn con gái và cũng rất nhớ Xemion Zakharovich là người đã chịu ơn công tước nhiều lần. Ai cũng biết rằng Xemion Zakharovich có nhiều bạn bè và nhiều người che chở; chính vì một lòng tự hào cao thượng mà Xemion Zakharovich đã tự ý lánh mặt họ vì thấy mình mắc thói nghiện ngập, nhưng hiện nay (bà chỉ Raxcolnicov) có một vị thanh niên rất hào hiệp giúp đỡ cho. Ngài đây có tiền của và thân thế. Xemion Zakharovich biết ngài từ hồi còn nhỏ, và xin bà Amalia Ludvigovna biết cho rằng…

Caterina nói liến thoắng một thôi một hồi, càng về sau nói càng nhanh, nhưng một trận ho đã cắt ngang những lời lẽ hùng hồn của bà. Vừa lúc ấy người hấp hối tỉnh dậy và rên lên một tiếng… Bà liền chạy lại. Người bị thương mở mắt ra, và, vẫn chưa nhận ra ai với ai và chưa hiểu gì cả, đưa mắt nhìn Raxcolnicov đang đứng cạnh. Ông ta thở nặng nhọc, thưa thớt từng tiếng dài; bên khóe môi máu chảy ri rỉ: Mồ hôi đổ hột trên trán. Không nhận ra Raxcolnicov, ông ta đảo mắt lo lắng nhìn xung quanh. Caterina Ivanovna nhìn chồng với đôi mắt buồn rầu nhưng nghiêm khắc, nước mắt chảy quanh.

- Trời ơi! Khắp cả ngực bị xéo nát ra rồi! Máu chảy nhiều quá! - Bà nói, giọng tuyệt vọng. - Phải cởi hết áo ngoài ra! Ông có trở được thì quay mình lại một chút, Xemion Zakharovich ạ?

Marmeladov đã nhận ra vợ.

- Gọi linh mục? - Ông ta phều phào.

Caterina Ivanovna ra cửa sổ, tì trán vào khung cửa và tuyệt vọng kêu lên:

- Ôi cái kiếp chó chết!

- Gọi linh mục! - Người hấp hối lại nói sau một phút im lặng.

- Thôi im đi-i-i! - Caterina Ivanovna quát; ông ta ngoan ngoãn im bặt, đưa đôi mắt e dè và buồn bã nhìn vợ; Caterina Ivanovna lại đến đứng bên đầu giường. Ông ta hơi yên tâm, nhưng chẳng được bao lâu.

Chỉ lát sau mắt ông ta bắt gặp con bé Lidotrca (đứa con ông ta quý nhất) đang run lẩy bẩy trong xó nhà, như lên kinh phong, và đang nhìn ông với đôi mắt ngạc nhiên, chăm chú của trẻ thơ.

- Thế… sao… - Marmeladov lo lắng đưa mắt chỉ đứa bé. Ông ta muốn nói điều gì không rõ.

- Cái gì nữa thế?! - Caterina Ivanovna quát.

- Nó đi đất, đi đất! - Marmeladov lắp bắp, đôi mắt đờ dại chỉ vào đôi chân không của con bé.

- Im đi-i-i! - Caterina Ivanovna bực dọc quát lên. - Chính ông cũng biết tại sao nó phải đi chân không như thế!

- May quá, bác sĩ đây rồi? - Raxcolnicov mừng rỡ reo lên.

Bác sĩ bước vào. Đó là một ông già người Đức nhỏ bé, tính chi li cẩn thận. Ông ta đưa mắt nhìn quanh có vẻ ngờ vực, rồi đến cạnh người bị thương, bắt mạch, thận trọng sờ nắn đầu ông ta và với sự giúp đỡ của Caterina Ivanovna, mở cúc chiếc áo sơ-mi bê bết máu phanh ngực người bị thương ra. Khắp ngực đều bị xây xát và xéo nhừ ra; bên phải có mấy cái xương sườn bị gãy. Bên trái, ngay ở tim, có một cái vết lớn màu vàng xin xỉn trông rất gớm guốc: Vó ngựa đã đâm mạnh vào đấy. Bác sĩ cau mày. Viên cảnh binh kể lại cho ông ta biết rằng Marmeladov bị bánh xe cuốn theo, lăn lông lốc đến ba mươi bước trên đá lát đường.

- Còn tỉnh dậy được thì lạ thật. - Bác sĩ khẽ thì thầm với Raxcolnicov.

- Ông ấy thế nào? - Raxcolnicov hỏi.

- Sắp chết đến nơi rồi.

- Không còn hy vọng gì hay sao?

- Không còn lấy một chút! Sắp tắt nghỉ rồi… Hơn nữa trên đầu lại bị thương tích rất nguy hiểm… Hừm. Có lẽ nên trích huyết…, nhưng… cũng vô ích thôi. Chắc chắn chỉ năm hay mươi phút nữa là chết.

- Thế ông cứ trích huyết đi.

- Được. Song tôi xin nói trước rằng làm như vậy cũng hoàn toàn vô ích.

Vừa lúc ấy lại nghe có tiếng chân bước, đám đông ở phòng ngoài dãn ra, và một người linh mục già tóc bạc tay cầm đồ làm lễ, hiện ra ở ngưỡng cửa. Một người cảnh binh đã đi tìm ông ta ngay từ khi còn ở ngoài phố. Bác sĩ lập tức nhường chỗ và trao đổi với ông ta một cái nhìn đầy ý nghĩa. Raxcolnicov khẩn khoản bác sĩ đợi thêm một lát nữa. Ông ta nhún vai và ở lại.

Ai nấy đều lui ra. Lễ xưng tội làm rất chóng. Người hấp hối khó lòng có thể hiểu được ít nhiều; chỉ phát ra được những tiếng ú ớ đứt quãng. Caterina Ivanovna bê Lidotrca, kéo thằng bé ở trên ghế xuống, dắt nó đến cạnh cái lò ở góc nhà, quỳ xuống và cho hai con quỳ trước mặt. Con bé chỉ biết run cầm cập, còn thằng bé thì quỳ đôi đầu gối trần xuống đất, vừa giơ tay đều đặn làm những dấu thánh thật to, vừa cúi lạy sát đất, trán cộp xuống sàn: hình như nó rất lấy làm thích thú với việc ấy. Caterina Ivanovna cắn môi cố cầm nước mắt; bà cũng cầu nguyện, chốc chốc lại sửa lại áo sơ-mi cho con, có lúc quay lại rút ở tủ ngăn ra một chiếc khăn trùm quàng lên đôi vai trần của con bé, trong khi vẫn quỳ và vẫn cầu nguyện. Lúc ấy cánh cửa vào các phòng trong lại bị những kẻ hiếu kỳ mở ra. Ở phòng ngoài, người đến xem mỗi lúc một đông, toàn là những người khách trọ cùng nhà. Tuy vậy họ cũng không vượt quá ngưỡng cửa. Chỉ có một mẩu nến hắt ánh sáng lên quang cảnh này.

Vừa lúc ấy Polenka chạy đi tìm chị đã trở về, len rất nhanh qua đám người chen chúc ở phòng ngoài. Nó bước vào, còn thở hổn hển vì vừa phải chạy nhanh, cởi chiếc khăn trùm đầu, đưa mắt tìm mẹ rồi chạy lại nói: “Chị ấy về kia, con gặp ở giữa phố!”. Caterina Ivanovna kéo nó quỳ xuống cạnh mình. Lặng lẽ và e dè: Từ trong đám đông len ra một cô thiếu nữ; sự xuất hiện đột ngột của nàng trong gian phòng này, giữa cảnh nghèo nàn rách rưới, chết chóc và tuyệt vọng, gây nên một ấn tượng thật kỳ lạ. Người con gái cũng ăn mặc rất tồi tàn: Trang phục của nàng là loại rất rẻ tiền, nhưng lại được trang hoàng diêm dúa theo khẩu vị và kiểu cách riêng của giới nàng, để lộ mục đích một cách trơ tráo và ô nhục. Xonia dừng lại ở ngưỡng cửa, không dám bước vào, ngơ ngác nhìn quanh như thể không hiểu gì hết, quên cả chiếc áo lụa màu mua lại đến ba tầng bốn nấc, rất chướng mắt trong khung cảnh này, với chiếc đuôi áo dài một cách lố bịch và chiếc váy xòe mênh mông chật hết cả khung cửa, quên cả đôi giầy trắng, chiếc ô con hoàn toàn vô dụng khi đi đêm nhưng vẫn được nàng cầm theo, và cái mũ lát tròn lố lăng cắm chiếc lông chim màu lửa. Liền dưới cái mũ tròn đội lệch sang một bên như mũ con trai là một khuôn mặt gầy gò, xanh xao và sợ sệt, miệng hé mở, mắt thẫn thờ ra vì sợ hãi. Xonia trạc mười tám tuổi, người bé nhỏ, gầy gò nhưng khá xinh, có bộ tóc vàng và đôi mắt màu thiên thanh. Nàng sững sờ nhìn cái giường, nhìn ông linh mục, nàng cũng thở hổn hển vì vừa phải đi nhanh. Cuối cùng, hình như nàng đã để ý đến tiếng xì xào trong đám đông và loáng thoáng nghe ra được mấy tiếng dè bỉu. Nàng cúi đầu, bước qua ngưỡng cửa và dừng lại, nhưng vẫn đứng sát lối vào.

Lễ xưng tội và nhận mình thánh đã kết thúc. Caterina Ivanovna lại đến cạnh giường chồng. Người linh mục lùi ra, và trước khi ra về cũng muốn nói đôi lời khích lệ an ủi người quả phụ.

- Thế tôi vứt chúng nó đi đâu? - Caterina Ivanovna cáu kỉnh gạt phắt đi, chỉ vào mấy đứa trẻ.

- Chúa rất từ bi, hãy hy vọng vào sự cứu giúp của đấng vô cùng. - Ông linh mục mở đầu.

- Ừ từ bi, nhưng chẳng đến phần chúng tôi đâu!

- Nói thế là có tội, là có tội. Ông linh mục lắc đầu nói.

- Thế cái này không tội à? - Caterina Ivanovna chỉ người hấp hối thét lên.

- Có lẽ những người đã trót nhỡ gây nên tai nạn sẽ thuận bồi thường cho nhà bà, ít ra là về khoản mất nguồn thu nhập…

- Ông không hiểu gì hết! - Caterina Ivanovna bực bội khoát tay. - Bồi thường cái gì? Chính hắn say rượu rồi đâm đầu vào chân ngựa kia mà! Thu nhập gì? Hắn thì thu nhập gì, chỉ làm khổ tôi thôi. Hắn uống hết cả tiền của. Hắn lấy trộm của mẹ con tôi đem nướng vào tiệm rượu, hắn đã làm hỏng cả đời mẹ con tôi! Hắn chết đi là may cho mẹ con tôi rồi! Đỡ tốn kém đi nhiều!

- Đến phút lâm chung phải tha thứ bà ạ, nghĩ như thế là có tội, có tội lớn đấy!

Nãy giờ Caterina Ivanovna lăng xăng quanh người hấp hối, cho ông ta uống nước, lau mồ hôi và máu trên đầu ông ta, nắn lại chiếc gối, vừa làm vừa nói chuyện với ông linh mục, thỉnh thoảng mới có đủ thì giờ quay mặt về phía ông ta. Nhưng bây giờ bà bỗng điên tiết chồm lên sát ông ta.

- Ối giào, cha ơi! Chỉ toàn nói suông thôi! Tha thứ! Ví thử tối nay hắn không bị chẹt, thì hắn sẽ về nhà say khướt, sơ-mi thì chỉ có một chiếc, mà hắn cũng mặc cho rách bươm, hắn lăn ra ngủ như chết, còn tôi thì thức suốt đêm giặt áo quần cho hắn với lũ trẻ, xong đem phơi ra cửa sổ rồi lại quay ra ngồi vá, nhíp, đấy: Đêm của tôi là thế đấy! Thế thì nói chuyện tha với thứ làm gì ở đây! Với lại tôi cũng đã tha cho hắn rồi!

Một trận ho dữ dội cắt ngang lời Caterina Ivanovna. Bà khạc ra khăn mùi soa và giơ khăn cho ông linh mục xem, tay kia ôm ghì lấy ngực. Chiếc mùi soa vấy đầy những máu…

Linh mục cúi đầu lặng thinh.

Marmeladov đã sắp tắt nghỉ; ông ta không rời mắt khỏi khuôn mặt Caterina Ivanovna bấy giờ lại cúi xuống cạnh ông. Ông cứ muốn nói với vợ một điều gì; ông khó nhọc uốn lưỡi lắp bắp mấy tiếng gì không rõ, nhưng Caterina Ivanovna hiểu rằng ông ta muốn xin lỗi mình, đã lập tức lên giọng hách dịch quát chồng.

- Im đi…i…! Đừng nói nữa… Tôi biết ông muốn nói gì rồi!

Người hấp hối im lặng; nhưng vừa lúc ấy mắt Marmeladov đang từ từ đảo quanh quất bỗng nhìn ra cửa, và ông trông thấy Xonia… Nãy giờ ông vẫn chưa nhìn thấy nàng: Nàng đứng trong xó tối.

- Ai đấy? Ai đấy? - Ông hỏi hối hả, giọng phều phào khản đặc, lo sợ cuống cuồng, đưa mắt chỉ ra phía cửa chỗ Xonia đứng, và cố sức nhổm dậy.

- Nằm xuống! Nằm xú… uống! - Caterina Ivanovna quát. Nhưng với một sức cố gắng phi thường ông ta đã chống tay nhổm dậy được. Ông ngơ ngác nhìn trừng trừng vào Xonia một lát như không nhận ra con. Vả lại ông cũng chưa lần nào trông thấy nàng ăn mặc như vậy. Rồi bỗng ông đã nhận ra nàng: Người con gái đau đớn, tủi cực, xấu hổ trong bộ cánh diêm dúa, đang nhẫn nại đợi đến lượt mình đến vĩnh biệt người cha hấp hối. Một nỗi đau xót vô hạn hiện lên trên gương mặt Marmeladov.

- Xonia! Con… con tha tội cho cha. - Ông kêu lên và muốn giơ tay ra cho con gái, nhưng hụt mất chỗ dựa, ông ngã chúi xuống, mặt úp trên sàn nhà; người ta vội chạy lại đỡ ông lên, đặt nằm lại chỗ cũ, nhưng ông đã bắt đầu thở hắt ra. Xonia khẽ kêu lên một tiếng nghẹn ngào, chạy đến ôm lấy cha và lặng người đi.

Ông tắt nghỉ trong tay nàng.

- Thế là hết kiếp! - Caterina Ivanovna nhìn xác chồng kêu lên. - Bây giờ biết làm thế nào đây! Lấy gì mà chôn cất! Còn lũ con này, ngày mai đây tôi biết lấy gì nuôi chúng nó?

Raxcolnicov đến cạnh người quả phụ:

- Caterina Ivanovna, - chàng mở đầu, - tuần trước chồng bà có nói rõ cho tôi biết cảnh sống của gia đình… Xin bà tin chắc cho rằng ông nói tới bà với một lòng cảm phục và tôn kính vô hạn. Từ cái hôm tôi được biết ông thương cả gia đình và nhất là yêu kính bà đến nhường nào, mặc dầu ông không may mắc phải thói nghiện ngập khốn khổ, từ hôm ấy chúng tôi đã thành đôi bạn… Bây giờ xin bà vui lòng cho tôi được… góp phần… làm tròn bổn phận cuối cùng đối với người bạn quá cố. Đây… có hai mươi rúp, hình như thế, và nếu số tiền này có thể đỡ cho bà được phần nào, thì… tôi… nghĩa là tôi sẽ ghé, thế nào tôi cũng ghé lại… có lẽ đến mai tôi lại đến… Xin chào bà!

Rồi chàng bước nhanh ra khỏi phòng, hấp tấp len qua đám đông để ra cầu thang; nhưng chưa len ra khỏi đã vấp phải Nicodim Fomich, lúc bấy giờ vừa được tin xảy ra tai nạn và muốn thân hành đến dàn xếp. Từ hôm Raxcolnicov đến sở cảnh sát, họ chưa gặp nhau lần nào, nhưng chỉ trong nháy mắt Nicodim Fomich đã nhận ra chàng.

- À anh đấy ư? - Ông ta hỏi.

- Chết rồi. - Raxcolnicov đáp. - Bác sĩ và linh mục đều có đến, mọi việc đã xong rồi. Ông đừng quấy rầy người đàn bà khốn khổ ấy nữa, bà ta đã sẵn bệnh ho lao. Nếu có cách gì ông hãy khích lệ bà ta một chút. Vì ông là một người tốt bụng, tôi biết… - Chàng cười nhạt nói thêm, mắt nhìn thẳng vào mặt viên quận trưởng cảnh sát.

- Nhưng kìa, máu dây hết vào người ông rồi. - Nicodim Fomich nói khi trông thấy dưới ánh đèn lồng mấy vết máu còn tươi trên áo gi-lê của Raxcolnicov.

- Vâng, máu… khắp người tôi bê bết những máu! - Chàng nói, vẻ rất khác thường, rồi mỉm cười, gật đầu và bước xuống thang gác.

Chàng đi thong thả, người sốt hâm hấp, lòng bất giác tràn ngập một cảm giác mới mẻ, vô biên, cảm giác của một sức sống trọn vẹn mãnh liệt vừa phả vào chàng. Có lẽ nó giống cái cảm giác của một người bị tuyên án tử hình rồi đột nhiên được tuyên án ân xá. Xuống được nửa cầu thang, ông linh mục lúc bấy giờ đang về nhà, đuổi kịp chàng; Raxcolnicov lặng lẽ tránh ra nhường lối cho ông ta đi trước. Hai người im lặng cúi đầu chào nhau. Nhưng xuống đến bậc cuối cùng, chàng chợt nghe thấy tiếng chân bước vội ở sau lưng. Có ai đang đuổi theo chàng. Đó là Polenka. Con bé vừa chạy theo chàng vừa gọi: “Anh ơi! Anh gì ơi?”. Chàng quay lại. Con bé chạy xuống hết cầu thang và dừng lại trên chàng một bậc thang, sát trước mặt chàng. Một ánh sáng mờ mờ từ dưới sân hắt lên. Raxcolnicov nhìn kĩ khuôn mặt gầy gò nhưng dễ thương của con bé đang mỉm cười với chàng và đôi mắt ngây thơ đang vui vẻ nhìn chàng. Nó chạy xuống để làm tròn một việc sai phái mà hình như nó rất lấy làm thích thú.

- Anh ơi, anh tên là gì? Lại thế này nữa nhé, anh ở đâu? - Nó hỏi gấp vừa hỏi vừa thở hổn hển.

Chàng đặt hai tay lên vai con bé và nhìn nó đăm đăm, lòng tràn đầy một hạnh phúc khó hiểu. Chàng thấy dễ chịu lạ lùng khi nhìn nó, chính chàng cũng không biết tại sao.

- Thế ai sai cô xuống?

- Chị Xonia sai em xuống. - Bé đáp, nụ cười càng vui hơn nữa.

- Tôi biết mà, tôi biết là chị Xonia sai cô xuống.

- Cả mẹ cũng sai nữa cơ. Khi chị Xonia bảo em đi, mẹ cũng đều nói: “Chạy nhanh lên Polenka!”.

- Cô có yêu chị Xonia không?

- Em yêu nhất chị ấy! - Polenka đáp với một giọng quả quyết đặc biệt, và nụ cười của nó bỗng nghiêm trang hẳn lại.

- Thế cô có yêu tôi không?

Thay cho câu trả lời, chàng thấy khuôn mặt nhỏ nhắn nhích lại gần chàng và đôi môi mũm mĩm ngây thơ chìa ra hôn chàng. Bỗng hai cánh tay mảnh như hai que diêm của con bé ôm lấy chàng ghì thật chặt: Mái đầu nó gục lên vai chàng, và con bé khóc khe khẽ, mặt mỗi lúc một tì mạnh vào chàng.

- Em thương ba quá. - Một phút sau nó ngẩng khuôn mặt ướt đầm nước mắt lên và lấy tay chùi nước mắt. - Bây giờ bao nhiêu là tai nạn. - Nó nói thầm một cách bất ngờ, với cái vẻ trịnh trọng mà trẻ con thường cố làm ra cho được khi chúng muốn ăn nói “như người lớn”.

- Thế ba có yêu cô không?

- Ba yêu Lidotrca hơn hết thảy chúng em, - nó nói tiếp, rất nghiêm trang và không mỉm cười, giọng nói bây giờ đã hoàn toàn như người lớn, - yêu là vì nó bé, mà lại ốm nữa, bao giờ ba cũng mang quà về cho nó, còn chúng em thì ba dạy cho biết đọc sách, riêng em thì ba dạy ngữ pháp với lại giáo lý, - nó trịnh trọng nói thêm, - còn mẹ thì không nói gì, nhưng chúng em cũng biết mẹ thích thế lắm, mà ba cũng biết thế; mẹ muốn dạy em học tiếng Pháp, vì đã đến lúc em phải đi học.

- Thế cô có biết cầu nguyện không?

- Ồ, sao lại không biết, biết chứ! Đã lâu rồi, em lớn nhất nên em đọc thầm một mình, còn Kolia với Lidotrca thì đọc to lên theo mẹ; đầu tiên là đọc kinh “Kính mừng”, rồi đến một bài kinh nữa là bài “Lạy Chúa tha tội và ban phước cho chị Xonia”, rồi đến “Lạy Chúa tha tội và ban phước cho ba này của chúng con” vì ba trước kia của chúng em chết rồi, còn ba này là khác, nhưng chúng em cũng cầu nguyện cho cả ba kia nữa.

- Polenka ạ, anh tên là Rodion; sau này có khi nào nhớ, em cũng hãy cầu nguyện cho cả “anh Rodion tội nghiệp” nữa nhé, chỉ thế thôi.

- Suốt đời em sẽ cầu nguyện cho anh. - Con bé thành tâm trả lời rồi bỗng lại cất tiếng cười, ôm chầm lấy chàng ghì thật chặt.

Raxcolnicov nói rõ tên họ, địa chỉ cho con bé và hứa ngày mai thế nào cũng ghé lại. Con bé trở lên nhà, lòng cảm phục chàng không bờ bến. Khi chàng bước ra phố đã hơn mười giờ. Năm phút sau chàng lại đứng trên cầu, ngay ở chỗ người đàn bà nhảy xuống sông lúc nãy.

“Thôi đủ rồi!”. - Chàng nói, giọng quả quyết và đắc thắng. - “Dẹp hết những ảo ảnh, những nỗi lo sợ hão huyền, những bóng ma! Có cuộc sống đấy! Có phải giờ đây ta không sống đâu! Đời ta không chết theo mụ già ấy! Chúa cứu vớt lấy linh hồn mụ, và thế là đủ rồi, mụ ạ, yên nghỉ đi là vừa! Bây giờ là vương quốc của lý trí và ánh sáng, vương quốc của… ý chí, của sức mạnh… rồi ta sẽ xem! Rồi ta sẽ đọ sức!” - Chàng nói thêm, giọng ngạo nghễ như thể đang thách thức một ma lực hắc ám nào. - “Ta đã bằng lòng sống trong một khoảng không gian rộng có mấy tấc thôi kia mà! Giờ phút này ta yếu đuối lắm, nhưng… hình như bệnh đã khỏi hẳn. Khi bước trong nhà ấy ra ta đã biết nó sẽ qua khỏi. À, nhà Potrincov cách đây có mấy bước. Nhất định phải đến Razumikhin, dù không phải chỉ có mấy bước cũng vậy… cứ cho hắn được cuộc! Cứ cho hắn đắc chí, - không sao, mặc hắn… Sức mạnh, cần có sức mạnh: không có sức mạnh thì không làm nên cái gì hết; nhưng muốn có sức mạnh phải dùng sức mạnh, đấy cái ấy họ lại không biết”. - Chàng nói thêm một cách kiêu hãnh và tự tin mỗi phút một trỗi dậy trong lòng chàng; chỉ phút chốc chàng đã thành một người khác hẳn trước. Nhưng có cái gì khác thường xảy ra khiến chàng thay đổi hẳn đi như vậy? Chính chàng cũng không biết nữa; như người chết đuối bám vào một cọng rơm, chàng bỗng cảm thấy mình “có thể sống được; còn có một cuộc sống, cuộc sống của mình chưa chết theo mụ già”. Có lẽ chàng kết luận quá vội, nhưng chàng không nghĩ đến chuyện đó.

“Thế nhưng mình lại nhờ cầu nguyện cho anh Rodion tội nghiệp”, - ý nghĩ ấy vụt thoáng qua óc chàng - “nhưng đó chỉ là… phòng xa thế thôi!”. Chàng nghĩ tiếp và cười thầm hành động trẻ con của mình. Chàng đang ở trong một tâm trạng hết sức hứng khởi.

Chàng tìm ra nhà Razumikhin rất dễ dàng; trong nhà Potrincov người ta đã biết người khách mới đến trọ và người gác cổng chỉ ngay cho chàng lối vào. Lên đến nửa cầu thang đã nghe tiếng cười nói ồn ào của một đám đông người tụ họp. Cửa trông ra thang gác để mở toang; bên trong vọng những tiếng quát tháo và cãi cọ. Phòng Razumikhin khá rộng, khách có đến mười lăm người. Raxcolnicov dừng lại trong phòng mắc áo. Ở đây, sau một tấm liếp, hai người đầy tớ gái của chủ nhà đang lăng xăng cạnh hai cái ấm lò lớn, mấy cái chai, hoặc cái đĩa đựng bánh nướng và đồ nhắm từ nhà bếp của chủ nhà đưa tới. Raxcolnicov bảo vào gọi Razumikhin. Anh ta mừng quýnh chạy ra. Thoạt trông đã thấy ngay là anh uống rượu rất nhiều, và tuy xưa nay Razumikhin uống rượu không bao giờ say, lần này cũng thấy anh hơi chuếnh choáng.

- Cậu ạ, - Raxcolnicov vội nói, - tôi chỉ đến để nói rằng cậu đã được cuộc và quả nhiên không ai có thể biết trước mình sẽ làm gì. Còn vào thì tôi không vào được: Tôi mệt quá, sắp ngã khuỵu xuống bây giờ đây. Vậy chúc cậu sức khỏe và chào cậu! Mai cậu đến đằng tôi…

Này, tớ đưa cậu về nhà nhé! Cậu mà đã nói là mệt, thì hẳn…

- Thế còn khách? Cái anh tóc quăn vừa dòm ra là ai thế?

- Anh chàng ấy à? Có ma nó biết! Có lẽ là người quen của ông chú hay cũng có thể là hắn tự dẫn xác đến thôi… Tớ để ông chú ở lại tiếp họ; chú tớ là một người vô giá; rất tiếc là bây giờ cậu không làm quen được. Vả lại kệ mẹ nó cả lũ! Bây giờ họ cũng chẳng thiết gì đến tớ nữa, mà tớ cũng đang cần ra ngoài cho thoáng, cho nên cậu đến như thế thật đúng lúc; chỉ hai phút nữa là tớ đánh nhau với họ, thật đấy! Họ nói nhảm kinh người lên được… Cậu không thể tưởng tượng con người ta có thể nói nhảm đến mức nào! Mà sao lại không thể tưởng tượng được? Chúng mình đây lại không nói nhảm chắc? Thôi cứ để họ nói nhảm: Nói nhảm bây giờ thì sau này đỡ nói nhảm đi… Cậu ngồi đây một chút, tớ gọi Zoximov nhé.

Zoximov vồ lấy Raxcolnicov một cách thèm thuồng; có thể thấy rõ anh ta đang hết sức tò mò muốn biết một điều gì; được một lát mắt anh lại sáng ra.

- Phải đi ngủ ngay tức khắc! - Zoximov quyết định sau khi xem xét bệnh nhân trong chừng mực có thể. - Đêm nay anh nên uống một ít thuốc thì tốt, uống nhé? Lúc nãy tôi vừa chế… một liều thuốc bột.

- Hai liều cũng được. - Raxcolnicov nói.

Liều thuốc bột được uống ngay tức thì.

- Cậu đưa cậu ấy về là rất tốt. - Zoximov bảo Razumikhin. - Ngày mai ra sao thì ta sẽ biết, nhưng ngay bây giờ cũng đã khá lắm rồi: so với ban sáng có sự thay đổi đáng kể. Càng sống càng học được nhiều…

- Cậu có biết lúc nãy Zoximov nói thầm với tớ những gì không? - Razumikhin nói bô bô khi hai người đã ra phố. - Tớ sẽ nói thẳng cho cậu nghe cậu ạ, vì họ toàn là đồ ngốc hết. Zoximov dặn tớ đi đường phải nói chuyện gẫu với cậu và gợi cho cậu nói, rồi sẽ về kể lại cho hắn nghe vì hắn có cái ý là… là cậu… điên, hay gần như thế. Cậu thử tưởng tượng xem! Thứ nhất là cậu còn thông minh gấp ba hắn ấy, thứ hai là cậu đã không điên thì thèm vào chấp những ý nghĩ của hắn, thứ ba là cái cục thịt ấy vốn chuyên nghề phẫu thuật nhưng bây giờ lại xoay ra nghiên cứu các bệnh tinh thần, còn về cậu thì câu chuyện giữa cậu với Zamiotov đã làm cho hắn tin chắc rồi.

- Zamiotov kể cho cậu nghe hết rồi à?

- Kể hết, cậu cừ đấy. Bây giờ tớ hiểu hết đầu đuôi rồi, cả Zamiotov cũng hiểu… Phải, nói tóm lại, Rodia ạ, số là… Bây giờ tớ hơi say chút đỉnh… Nhưng không sao… số là cái ý ấy… cậu hiểu chứ? Quả nhiên đã có lúc bắt rễ vào đầu họ… cậu hiểu chứ? Nghĩa là không có đứa nào dám nói ra miệng, vì nó vô lý quá, và nhất là khi họ bắt cái thằng thợ sơn ấy thì nó đã vỡ tan ra và vĩnh viễn tắt ngấm đi rồi. Nhưng tại sao họ ngốc thế? Lúc nãy tớ có gạt Zamiotov ít nhiều, - cái này tớ nói riêng với cậu; cậu đừng để lộ chuyện gì hở ra cậu biết đấy nhé, tớ nhận thấy hắn rất dễ tự ái: Việc ấy xảy ra ở nhà mụ Laviza, nhưng hôm nay thì mọi việc đều rõ rành rành. Cái chính là do lão Ilia Petrovich mà ra cả? Hôm ấy hắn lợi dụng khi cậu ngất đi ở sở cảnh sát; mà về sau chính hắn cũng đâm xấu hổ; vì tớ biết…

Raxcolnicov háo hức lắng nghe. Razumikhin say rượu đâm ra ba hoa.

- Hôm ấy tớ ngất đi là vì không khí đã ngột ngạt lại sặc mùi sơn mới. - Raxcolnicov nói.

- Còn phải phân trần nữa! Mà có phải chỉ có sơn thôi đâu, bệnh đã âm ỉ từ suốt một tháng ròng rồi; Zoximov có thể bảo đảm như thế. Còn thằng bé kia thì cậu không thể tưởng tượng hắn đớ người ra như thế nào! Hắn bảo là: “Tôi không đáng cái gót chân người ấy!”, tức là cậu ấy. Hắn đôi khi cũng có những tình cảm tốt cậu ạ. Nhưng cái bài học hôm nay ở “Lâu đài Pha lê” thì thật là quá mức hoàn hảo! Lúc đầu cậu làm hắn hoảng đến động kinh lên được! Cậu hầu như xác nhận cho hắn tin chắc một lần nữa vào cái ý điên rồ ấy rồi bỗng nhiên thè lưỡi ra cho hắn: “Này, cầm lấy!”. Tuyệt diệu! Bây giờ thì hắn co vòi rồi, chết dí đi rồi! Cậu chúa thật đấy, mà với bọn ấy phải thế mới được! Chà lúc ấy lại không có tớ ở đấy, tiếc quá! Lúc nãy ở nhà tớ, hắn mong cậu đến lắm đấy. Porfiri cũng muốn làm quen với cậu…

- Thế… cả… lão ấy. Tại sao họ lại liệt tôi vào loại điên?

- Nghĩa là không phải điên. Cậu ạ, hình như tớ ba hoa với cậu quá nhiều rồi đấy… Lúc nãy có một điều khiến cho người ta lấy làm lạ là cậu chỉ chú ý đến một điểm thôi; bây giờ thì đã rõ tại sao cậu lại chú ý đến điểm đó; một khi biết hết hoàn cảnh… và biết việc đó đã khiến cậu khích động và đã gắn liền với bệnh trạng của cậu như thế nào… Tớ hơi say cậu ạ, nhưng có ma nó biết, hắn có một ý gì đấy… Tớ báo cậu: Hắn đã lú ruột đi vì những cái bệnh tinh thần ấy rồi! Nhưng cậu thì cứ mặc mẹ hắn…

Hai người im lặng một lát.

- Này, Razumikhin ạ, - Raxcolnicov lên tiếng, - tôi muốn nói thẳng với cậu: Lúc nãy tôi vừa ở nhà một người chết ra, một người công chức mới chết… có bao nhiêu tiền tôi đem cho họ hết rồi… và, ngoài ra, có một người vừa hôn tôi, người ấy thì dù tôi có giết người chăng nữa, cũng sẽ, nói tóm lại, ở đấy tôi còn gặp một người nữa… cắm lông màu lửa, nhưng tôi nói nhảm gì thế này; tôi mệt quá, cậu đỡ tôi một tí… sắp đến thang gác rồi…

- Cậu làm sao thế? Cậu làm sao thế? - Razumikhin cuống quýt hỏi.

- Tôi chóng mặt, nhưng không phải vì thế, mà vì tôi thấy buồn, buồn quá! Tâm trạng như một người đàn bà… thật đấy! Kìa… cái gì thế? Cậu trông kia! Trông kìa!

- Cái gì thế?

- Cậu không thấy à? Trong phòng tôi có ánh đèn, cậu thấy không? Qua khe cửa…

Họ đã đứng trước cầu thang cuối cùng, bên cửa phòng bà chủ, và quả nhiên có thể thấy trong buồng Raxcolnicov có ánh đèn.

- Lạ thật! Chắc là Naxtaxia. - Razumikhin nói.

- Không bao giờ chị ta lại lên phòng tôi vào giờ này, với lại chị ta ngủ từ lâu rồi, nhưng… tôi không cần. Thôi, từ biệt!

- Sao thế? Tôi đưa cậu lên, ta cùng vào?

- Tôi biết rồi, chúng ta cùng vào chứ sao, nhưng tôi muốn bắt tay cậu ở đây và từ biệt cậu ở đây. Nào, cậu đưa tay đây, từ biệt cậu!

- Cậu làm sao thế Rodia?

- Không sao cả; ta lên đi, cậu sẽ làm chứng…

Họ bắt đầu bước lên thang gác, và Razumikhin thoáng có ý nghĩ là có lẽ Zoximov nói đúng. “Chà? Mình nói huyên thuyên làm cậu ấy loạn óc lên rồi?” - Chàng lẩm bẩm một mình. Lên đến gần cửa, họ chợt nghe trong buồng có tiếng nói:

- Chuyện gì thế này? - Razumikhin kêu lên.

Raxcolnicov cầm lấy nắm cửa, mở toang nó ra và đứng sững trên ngưỡng cửa.

Mẹ và em gái chàng đang ngồi trên chiếc đi-văng của chàng; họ đã đợi chàng suốt một tiếng rưỡi đồng hồ. Tại sao chàng lại không hề ngờ họ đến và không hề nghĩ đến họ, mặc dầu đã mấy lần có tin họ đã lên đường và sắp đến đây, hôm nay sẽ đến? Suốt một tiếng rưỡi đồng hồ ngồi đợi, họ đã tranh nhau hỏi Naxtaxia, bây giờ vẫn còn đứng trước mặt họ, và chị ta đã có đủ thì giờ kể hết cho họ nghe từ đầu chí cuối. Họ sợ hãi cuống cuồng lên khi nghe nói hôm nay chàng trốn đi trong khi đang ốm, mà qua câu chuyện kể lại có thể thấy rõ là chàng đang mê sảng nữa! “Trời ơi? Rodia làm sao thế!”. Hai mẹ con đã khóc lóc, đau đớn trong suốt thời gian chờ đợi.

Một tiếng reo vui mừng, hoan hỉ đón chào sự xuất hiện của Raxcolnicov, hai mẹ con nhảy xổ ra ôm chầm lấy chàng. Nhưng chàng đứng im như người chết rồi; một ý nghĩ ghê gớm, không sao chịu nổi, đã đột ngột giáng vào chàng như một tiếng sét. Tay chàng cũng không đưa lên ôm lấy mẹ và em: Chàng không nhấc nổi. Hai mẹ con ôm hôn chàng, vừa cười vừa khóc… Chàng bước tới một bước, lảo đảo rồi đổ nhào xuống sàn nhà, ngất đi.

Hoảng hốt, kêu gào, rên rỉ… Razumikhin đang đứng ở ngưỡng cửa, liền lao vào phòng, đưa hai cánh tay hộ pháp xốc bạn lên và trong nháy mắt đã đặt nằm lên đi văng.

- Không sao, không sao. - Anh nói với hai mẹ con, chỉ ngất xoàng thôi mà. Mới vừa đây bác sĩ bảo là anh ấy đỡ nhiều rồi, khỏi hẳn rồi mà! Lấy tí nước! À, đây anh ấy tỉnh rồi đây này, đấy, tỉnh rồi!

Và nắm lấy tay Dunia mạnh đến nỗi suýt gãy ra, Razumikhin kéo nàng cúi xuống để xem “anh ấy tỉnh rồi đây này”. Hai mẹ con cảm kích nhìn Razumikhin như nhìn một vị thiên thần; qua câu chuyện của Naxtaxia, họ đã biết Rodia của họ trong suốt thời gian ốm đã chịu ơn “người thanh niên tháo vát ấy như thế nào”, ngay tối hôm ấy, trong khi nói chuyện riêng với Dunia, bà Pulkheria Alecxandrovna Raxcolnicova đã gọi Razumikhin như vậy.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro