62/ Thứ tự ưu tiên

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đáng tiếc thật...

... Tiếng Nhật?

Hừ, không có khắc ấn của dòng tộc thì mãi cũng chỉ là loại mạt hạng. Phục vụ công cuộc trừ khử dị giáo là vinh dự cho lũ pháp sư quèn.

Giọng nói lạ quá... Tôi đang ở đâu đây... Fuyuki? Mifune?

Ít ra vẫn sống được đến tuổi sinh nở, tử cung vẫn dùng được. Gửi nó về đi.

Về? Về đâu cơ?

Về nơi lúc nào cũng lạnh giá, khiến trái tim kết thành băng đấy sao?

Không... không... tôi muốn về nơi có thật nhiều nắng, thật nhiều cát... không khí trong lành tràn ngập mùi muối biển... Có những khuôn mặt cười với tôi, chào đón tôi, chờ đợi tôi. Có người đáng để tôi tự dấn thân vào hồ lửa.

Tôi muốn về nơi nóng cháy da cháy thịt, nơi hơi nóng thấm tận vào trong tim... về Uruk...

Uruk!

Tôi mở bừng mắt, giãy giụa thân mình cứng đờ.

Không ngồi dậy được, người tôi yếu quá.

Hốt hoảng ngó quanh, lọt vào mắt đầu tiên là khuôn mặt nhăn nheo đầy nước mắt của một bác gái trung niên tôi không quen. Bác gái cứ cầm tay tôi mà lắc, vừa khóc vừa nói liên hồi: "Ngài Đại ma pháp sư đã tỉnh rồi, tạ ơn nữ thần cưu mang, ngài Đại ma pháp sư đã tỉnh rồi!"

Tôi còn chưa hiểu đầu cua tai nheo ra làm sao, một thiếu nữ ăn mặc lam lũ bưng chậu gốm đi vào, thấy tôi nhìn cô ấy thì đặt vội chậu gốm sang một bên rồi chạy vù ra ngoài cửa hang... Đúng, đây là một cái hang động. Tối hù hù, chỉ có mấy ngọn đuốc nhỏ le lói thắp sáng tạm bợ. Trong cảnh tranh tối tranh sáng, gương mặt của bác gái càng có vẻ khắc khổ hơn, và bác ấy cứ sụt sùi lau nước mắt mãi. Mà hang động này trông quen quen, hình như tôi đã vào một lần rồi thì phải. Nhưng tôi không tài nào nhớ ra đây là đâu... thực ra đầu óc tôi cũng đang vô cùng mờ mịt, mông lung. Chuyện gì đã xảy ra vậy? Ai vừa nói tiếng Nhật? Ở Uruk sao lại có người nói tiếng Nhật? Chẳng lẽ là do tôi ngủ mơ sao? Với cả, tại sao tôi lại ở đây, đáng lẽ tôi phải đang ở trên tường thành Uruk chứ?

Lạ nhất là, dường như mới giây trước thôi, cơ thể tôi còn đang bị nhấn chìm trong nỗi đau đớn khủng khiếp, thế mà giờ đã hoàn toàn không đau nữa, kí ức về sự đau đớn ấy cũng mờ mờ ảo ảo. Tôi nhớ là mình đã chịu đau, nhưng đau ra sao thì không tài nào hình dung được nữa...

Thôi, vậy cũng tốt. Bởi nếu nhớ, có lẽ tôi sẽ bị ám ảnh suốt đời, sợ đau còn hơn sợ bị ngài Gilgamesh ghét.

Bác gái cẩn thận kề bình gốm cạnh miệng tôi, tôi bèn há miệng nhấp chút nước. Dòng nước không tính là tinh khiết nhưng vẫn đủ để thông bớt cuống họng tắc nghẽn như bị ai thắt một cái dây thừng quanh cổ. Hắng giọng vài lần, tôi rốt cuộc phát ra được âm thanh khò khè. Lúc bấy giờ bác gái mới có vẻ yên tâm rằng tôi đã thực sự tỉnh lại, nín khóc chạy đến mấy cái bao tải xếp chồng ở trong góc lục lục lọi lọi, hình như là tìm thức ăn. Có điều bác ấy chỉ tìm được đồ ăn cứng, loại không cho người bệnh ăn được. Trông bóng lưng tất bật ấy, tôi bỗng thấy hơi ngại, muốn nhắc bác khỏi tìm nữa, khổ nỗi tôi đói quá...

Bác gái tìm mãi không ra thứ gì, bèn quay lại ngồi cạnh tôi nói: "Cô chịu khó chờ một chút, con bé Ginu chắc đang đi tìm quan thư kí đó. Lúc ấy sẽ có đồ ăn."

Tôi gật gật đầu. Thấy bác gái bắt đầu phe phẩy mảnh vải áo vắt trên vai mình để quạt gió cho tôi, tôi càng ngại ngùng hơn. Mặc dù tôi hay tự cho rằng mình thích được người khác quan tâm săn sóc, nhưng không làm gì mà vẫn được chăm bẵm thế này thì lại chột dạ... Chẳng biết đối phó làm sao, tôi bèn nhắm mắt trốn, tiện thể tranh thủ kiểm tra mạch ma thuật của mình.

Uầy... Ôi trời. Ôi thánh thần thiên địa ơi. Đây là thứ phép màu kì diệu còn hơn cả ma pháp La Magiri của thần Shamash. Mạch ma thuật của tôi đã hoàn toàn lành lặn, thậm chí có thể nói là còn tốt hơn trước. Thế này thì khả năng cao sẽ không bị chóng mặt khi niệm phép dở dang nữa. Xuân Đàm cho tôi cái gì ăn gian vậy nè? Ma pháp sư có mạch ma thuật tan nát đến tận hai lần mà vẫn lành lặn lại được, nói ra ai tin chứ? Hay quá, thế này thì tôi vẫn còn có ích.

Ừm... ngược lại thì tình trạng cơ thể khá tệ. Chân tay bủn rủn, người yếu ớt, da dẻ rin rít đầy mồ hôi, bụng đói cồn cào, cổ họng khô khốc. Tôi bất tỉnh bao lâu rồi vậy? Đói thật đấy...

Để khiến mình xao nhãng, ngừng tơ tưởng mấy tảng thịt bò thịt cừu, tôi lại lần nữa nhìn ngó xung quanh. Nơi đây quả thực là một hang động đơn sơ, bên ngoài cửa hang chỉ có một hành lang đá, chẳng có gì đặc biệt. Mùi khói toả ra từ vài ngọn đuốc nhỏ gắn trên vách đá khá nồng nặc, may mà không phải hang kín, vẫn thông gió. Phía dưới chỗ tôi nằm có một pháp trận chữa trị chuyên dùng để giúp bệnh nhân hôn mê lâu không bị đói khát mà chết. Trời, rốt cuộc tôi bất tỉnh bao lâu vậy- mà khoan, trượng phép của tôi và Dub namtara đâu?

Đang rà mắt khắp hang động tìm bóng dáng mấy món đồ bất khả ly thân, bỗng có tiếng dép của nhiều người loẹt xoẹt loẹt xoẹt vang lên từ ngoài cửa hang. Họ có vẻ đang chạy vội, tiếng bước chân rất hỗn loạn.

"Aria!"

Siduri giây trước xuất hiện ở cửa động, giây sau đã nhào đến ôm chầm lấy tôi, suýt nữa thì đè tấm thân đã mong manh lắm rồi của tôi bẹp dí.

Sau đó tôi bị cô ấy đánh...

Tôi trố mắt nhìn bạn mình vừa quẹt nước mắt vừa đánh thùm thụp vào cánh tay mình, không đau, nhưng hành động này chứng tỏ cô ấy giận tôi lắm. Hình như... hình như... tôi biết lí do...

"Bao... bao lâu rồi..." Tôi cụp tai cụp đuôi, lí nhí hỏi.

"Mười ngày!" Siduri giận dữ kéo má tôi.

Cái gì?! Mười ngày?!

Tôi bấu tay Siduri, hỏi dồn: "Ngài Gilgamesh và, khụ khụ, và Enkidu sao rồi? Gugalanna đã bị đánh bại chưa? Mọi người ổn chứ??"

"Không sao. Chưa. Ổn." Siduri trả lời cộc lốc, rõ ràng vẫn còn đang giận tôi. Rồi cô ấy quay sang nói với thiếu nữ lúc nãy: "Ginu, lấy ít xúp, sữa dê và cháo đậu đến đây. Ở phòng chị vừa nấu đấy."

Bác gái bỗng quay sang đánh bép vào mu bàn tay của thiếu nữ tên Ginu đó. Cô gái rối rít nói: "A! Con quên mất!" Rồi lại chạy vù đi. Từ từ thôi nào kẻo ngã, tôi chưa đói đến mức bất tỉnh lại lần nữa đâu...

Nhồi nhét thức ăn vào bụng dưới ánh nhìn diều hâu của Siduri xong, tôi thực hiện một phép thuật chữa trị lên bản thân. Cơ thể khá hơn, đầu óc bắt đầu minh mẫn trở lại, đã có thể nhớ ra nơi này là một trong các hầm trú ẩn trong rừng. Từ đây thực hiện ma pháp bay thì chỉ tốn tầm năm mười phút sẽ về được thành trì chính của Uruk.

Tôi đứng dậy phủi phủi chiếc váy dính trên người vì mồ hôi, đoạn hỏi Siduri: "Trượng phép và sách phép của mình đâu- Ui da!"

"Phép phép cái gì! Cậu nghỉ ngơi trong này cho mình!" Đầu tôi u một cục to tướng mà không dám hó hé, vì cặp mắt đang long lên của Siduri đáng sợ quá. Siduri đi đến góc tường rút mấy sợi dây buộc bao tải ra, lăm le trong tay, bộ dạng sắp trói tôi đến nơi, làm tôi chột dạ tới nỗi bất giác ngồi phịch xuống đất.

"Aria, nếu cậu còn muốn xuất hiện trước mặt mình với cái bộ dạng ngập ngụa trong máu, mình sẽ-"

"Quan thư kí Siduri!"

Một giọng nữ vang lên, cắt đứt lời nói của Siduri. Tất cả mọi người đều đổ dồn ánh mắt vào cô thầy tu đang ôm cửa hang thở hổn hển.

"Mọi người lại đang cãi nhau căng thẳng lắm, tôi không ngăn được!"

Siduri vứt dây thừng trong tay sang một bên, vội vàng sải bước đi theo nữ thầy tu kia. Tôi cũng lẽo đẽo theo sau. Siduri liếc tôi một cái rồi quay đi, ngầm đồng ý. Hẳn rồi, có tôi thì cũng dễ can ngăn hơn chút, kiểu như... can không được thì ném cho một phép câm như hến là xong ấy mà.

Còn chưa đến nơi, tiếng cãi cọ, lời ra lời vào không ai chịu ai đã chọc thẳng vào màng nhĩ. Những giọng nói tràn ngập kích động và giận dữ dội vào vách tường đá, vang đi vọng lại trong hành lang nhỏ hẹp, cho dù chỉ là người đứng ngoài bàng quan cũng sẽ thấy bứt rứt hơn bình thường. Dỏng tai một lúc, tôi liền hiểu ra vấn đề: người sùng tín mâu thuẫn với người đã mất niềm tin. Trời, phải chuyện đức tin thì căng rồi đây.

"Nhìn lại xem nữ thần đã gây ra những gì!" Một giọng nam giận dữ cướp lời một người khác, "Nhà cửa, mùa màng, gia súc, còn cái gì nữa không!"

"Đúng đúng, mất trắng rồi! Nữ thần hộ mệnh của chúng ta lại sai phái bò thần đến phá huỷ cuộc sống của chúng ta!" Một đống người nhao nhao hùa theo, tranh nhau mồm năm miệng mười liệt kê tài sản đã mất, chi li đến cả tên con cừu đã bị lũ cuốn.

"Hỗn xược! Báng bổ! Ngu muội! Sao các ngươi dám xúc phạm nữ thần Innanna vĩ đại! Không có các vị thần linh, các người đã không có nhà, không có gia súc, không có cây trồng mùa màng, chẳng có gì, sống như một lũ khỉ!"

"Vua Gilgamesh quá tàn bạo, ngỗ nghịch, chính hắn ta đã chọc giận nữ thần và khiến chúng ta chịu tội thay! Muốn trách thì phải trách hắn ta trước!"

"Tất cả im hết đi." Siduri bước vào, quát lớn. Nhưng mọi người hăng quá, chỉ ngừng tạm một chút, rồi chỉ chờ có ai đó hậm hực lẩm bẩm thì lại gân cổ lên cãi nhau tiếp. Tôi đứng ngoài ló đầu vào, thấy Siduri đỡ trán. Trông cô ấy mệt mỏi quá. Ai cũng trông mệt mỏi quá. Thảm hoạ ập đến, cuộc sống đảo lộn, đức tin lung lay, lại còn phải ở trong hang động tối tăm, thức ăn thiếu thốn, điều kiện sống tồi tàn, chẳng biết tương lai sẽ đi về đâu... Những cặp mắt đỏ lừ, những tiếng thở phì phò, biểu cảm bất mãn, lo âu, mờ mịt, sợ hãi, tuyệt vọng, những bóng hình đứng nằm ngồi san sát, co quắp, chèn cả vào nhau khiến tôi chợt nhận ra: mình cứu được mạng, nhưng không cứu được lẽ sống của họ.

Tôi ném ra vài phép xoa dịu tinh thần, chờ mấy cái miệng đang cãi vã dần yên ắng lại mới bước đến cạnh Siduri, đặt tay lên vai cô ấy xoa nhẹ, sau đó nhìn đám người mà mở lời: "Mọi người đừng cãi nữa. Khi nào-"

"Ngài Đại ma pháp sư! Ngài Đại ma pháp sư! Cô tỉnh rồi! Hoan hô!"

Cái, cái gì vậy?!

Một đám người xông lên vây lấy tôi, người kéo váy, người nắm tay, mừng mừng tủi tủi, có người còn chảy cả nước mắt, làm tôi hết cả hồn.

"Cô đánh mấy ả thầy tu kia giúp chúng tôi với! Mấy ngày nay mấy ả thật đáng ghét! Đã chẳng giúp được gì lại còn hay than phiền!"

"Đúng rồi, lại còn ỷ mình có phép thuật mà bắt nạt dân nữa chứ! Đánh mạnh tay vào cho mấy ả ta chừa!"

Sao lại bạo lực thế hả... Tôi vừa cố gắng ngoi lên từ đám người sắp nhấn chìm mình đến nơi, vừa ra sức giải thích với họ rằng mình giúp xây lại nhà và ruộng đất sau khi mọi chuyện qua đi thì được, chứ đánh thầy tu thì xin kiếu.

Siduri có vẻ chịu hết nổi, nghiêm giọng trách cứ, xua bớt đám người nhiệt tình quá mức. Cuối cùng cũng được thở ra một hơi, tôi hắng giọng, quay sang mấy cô thầy tu theo phái tin tưởng thần linh đang đứng túm tụm trong góc với biểu cảm cau có, nhẹ giọng dỗ: "Các cô có phép thuật, đừng bắt nạt dân thường. Thay vào đó hãy giúp tôi và dân chúng gầy dựng lại thành bang, xong việc tôi sẽ giúp các cô xây dựng lại Điện thánh." Những người này hẳn là nhóm người không chịu theo tôi cứu giúp dân chúng mà nhất quyết ủng hộ Đại tư tế. Các cô gái này ở đây, có lẽ khu Điện thánh trên đồi cũng đã tiêu tùng. Còn Đại tư tế đâu rồi nhỉ? Mấy cô này rất trung thành, sẽ không bỏ lại bà ta, chắc là bà ta ở đâu đó trong khu này thôi.

"Gầy dựng lại thành bang? Các vị thần đã tiêu diệt Uruk, mà cô còn dám nói muốn dựng lại? Cô không sợ thần phạt sao?"

"Thân cũng là pháp sư, sao lại có thể cố tình chống lại ý chí của các vị thần như vậy!"

"Cô ta lúc nào cũng Gilgamesh, Gilgamesh. Còn các vị thần trao cho cô ta sức mạnh thì cô ta chẳng thèm tôn thờ! Đúng là loại ăn cháo đá bát! Các chị em còn trông mong gì vào loại này nữa!"

Nhóm thầy tu nhao nhao lên. Dù đa phần thầy tu Điện thánh khá thân thiện với tôi, số người nghĩ thế này cũng chẳng ít. Nghe mãi rồi nên không cảm thấy gì cả, mà người ta nói cũng đúng, ngôn từ lại nhẹ nhàng lịch sự chán, nào có đanh thép hùng hồn bằng học giả Điện chiêm tinh, thế nên tôi chỉ lẳng lặng chờ các cô ấy nói mỏi miệng. Dân chúng bất bình xắn tay áo muốn cãi nữa, tôi bèn ngăn họ lại. Đợi một lúc, các thầy tu nhận ra nói chuyện với tôi thì chẳng thà nói với bịch bông, dần dần im lặng, hậm hực kéo nhau bỏ đi.

Ôi trời, rốt cuộc cũng tạm yên.

Tôi biết mình chỉ trị được phần ngọn, nhưng phần gốc thì rất phức tạp. Có lẽ nên để các quan lại, tư tế và cả ngài Gilgamesh lo liệu các loại sóng ngầm từ nay sẽ xuất hiện trong xã hội Uruk, chứ tôi thì bất lực. Ngay cả bản thân tôi cũng từng vật lộn với đức tin đây này. Các sơ trách móc tôi như cơm bữa, giảng cho tôi vô số giáo lí, mà họ cũng bất lực đấy thôi.

Chờ mọi người ở đây lục tục giải tán hết, Siduri bắt đầu giải thích cho tôi tình hình hiện tại. Mấy ngày này, trong khi tôi hôn mê li bì chẳng biết trời chăng gì, xứ Sumer đã trở nên hỗn loạn vô cùng. Cho dù lương thực không đến nỗi quá thiếu thốn, nhưng lòng dân lại cực kì bất ổn. Ở khu trú ẩn này, cứ dăm ba giờ trôi qua lại có dân chúng đánh lộn, cãi vã, ấy vậy mà vẫn chưa là gì so với sự loạn lạc ở bên ngoài.

Khu trú ẩn này nhiều dân nhất, khoảng năm, sáu ngàn người, những khu khác thì vài ngàn. Đó là những người quyết định vẫn bám trụ lại Uruk. Số đông còn lại - dân đen, con buôn lẫn quan lại, quý tộc - đã lên đường di tản đến các thành bang lân cận, tuốt vào sâu trong lục địa, họ đi ngày đi đêm, đi đến gãy cả chân vẫn phải cố, vì họ sợ nạn đói bảy năm sẽ đến khi Gugalanna giáng trần như lời kể trong truyền thuyết. Chính ngay lúc này, khi Siduri và tôi đang nói chuyện với nhau, vẫn có người đang lên đường rời khỏi các khu trú ẩn, gia nhập vào dòng người hối hả, xô nhau vào một tương lai mờ mịt, lưu lạc nơi đất khách quê người. Dòng người ùn ùn kéo lên phía bắc, nhóm đi chậm nhất chắc cũng đã qua Kish, Nippur. Họ đi quá vội, vô số người đã bỏ mạng vì kiệt sức, và cả bị giẫm đạp. Các thành bang khác cũng rơi vào trạng thái quá tải, có thành còn đóng chặt cửa, mặc dân chúng tụ tập đông đỏ bên ngoài, ai dám manh động phá cổng thành đều bị họ thẳng tay giết sạch.

Vậy là, dù tôi đã cố gắng bảo vệ họ khỏi Gugalanna, vẫn có thật nhiều, thật nhiều người chết... Và chỉ cần nhìn vào ánh mắt của những người còn sống, tôi cũng biết: trong lòng họ, Uruk đã mất.

Dẫu biết bản thân chỉ là một pháp sư nhỏ bé, không phải Thượng đế, không thể ngăn cản người khác làm điều họ muốn làm, nghĩ điều họ muốn nghĩ, nhưng cảm giác thất bại và tự trách vẫn cứ len lỏi, quấn lấy trái tim tôi. Giá mà tôi không bất tỉnh suốt những ngày vừa qua, có lẽ tôi đã giúp được gì đó...

Siduri giải thích cho tôi xong, dặn tôi nghỉ ngơi rồi lại hối hả đi công chuyện. Khổ thân quá, sao mà chẳng bao giờ được thở ra một hơi thế này? Tôi không dám, cũng như không nỡ cãi Siduri, bèn ngoan ngoãn ngồi nghỉ nửa tiếng, đến khi thực sự thấy khỏe rồi mới đi theo một pháp sư đến chỗ đang cất giữ trượng phép và Dub namtara.

Xuân Đàm đưa tôi tới đây, còn tiện tay cầm theo cả trượng phép và Dub namtara nữa. Quả là người tốt, bảo sao đi đến đâu được người khác hoan nghênh đến đó. Bao nhiêu mâu thuẫn trước đây bỗng hóa hư vô. Sau này tôi sẽ nấu một bữa thịnh soạn mời cô ta... ừm, cô ấy.

Tôi thắc mắc vì sao phải cất riêng trượng phép và Dub namtara thì pháp sư dẫn đường giải thích: chúng nó phá quá, không cho ai đến gần tôi để chăm sóc, Xuân Đàm phải tự tay đưa vào phòng khác thì mới chịu im. Theo như mô tả, chín mươi chín phần trăm là Dub namtara quậy rồi. Bình thường thì cứ bắt nạt tôi, gặp chuyện lại tỏ vẻ trung khuyển hộ chủ là thế nào? À mà, có khi đó là âm mưu thủ tiêu tôi của nó ấy chứ.

Pháp sư nọ dẫn tôi đến nơi xong thì lập tức lỉnh mất. Lúc đầu tôi còn thấy là lạ, nhưng chỉ vài giây sau đã hiểu ra: với cái tính nết của Dub namtara ấy à... Tôi lắc lắc đầu, nhìn mảnh đất sét đang nằm giả chết trên mặt đất. Cùng là thần khí, mà xem xem trượng phép vừa gọi đã bay véo vào tay tôi rồi, ngoan ngoãn dễ thương biết bao nhiêu, còn nó... hừm. Coi cái cách nó lăn lóc trên mặt đất, mảnh ở góc bị vỡ ra cũng không chịu gắn lại kìa. Hẳn cũng có vài người nổi lòng tham muốn trộm nó đi, nhưng mấy bảo vật thần tạo này kiêu ngạo lắm, chắc là dọa người ta sợ mất vía đánh rơi cả quý ngài xuống đất, rồi dỗi từ đó đến giờ không chịu bay lên chứ gì?

Xếp cạnh trượng phép và Dub namtara còn có vài món lễ trang tôi đeo trên người trước khi ngất đi như hoa tai, vòng cổ, lắc tay, túi phép, và cả chiếc váy màu san hô ngài Gilgamesh cho tôi nữa. Trên váy có từng mảng từng mảng đỏ loang lổ, mặc dù đã có ai đó giúp tôi giặt nó.

... Lời đùa giỡn giữa tôi và ngài Gilgamesh bỗng trở thành hiện thực, theo cách mà chẳng ai ngờ được. Nhưng tôi lỡ gắn bó với chiếc váy này rồi, không muốn xin ngài cái mới đâu. Khi nào rảnh phải tìm cách tẩy sạch vết máu mới được.

Cất hết những món đồ linh tinh vào túi xong, nhìn qua Dub namtara vẫn thấy nó im lìm không nhúc nhích. Tôi thở dài, đến cầm phiến đá lên, bàn tay lập tức cảm nhận được ma lực châm chích. Gắn thử miếng đất sét bị vỡ vào thì nó cứ đẩy ra, giống như đứa con nít không thèm đồ người lớn đưa cho vậy. Tôi bèn cho mảnh vỡ vào túi, định bụng tính cách gắn lại sau, ai dè mảnh vỡ lúc này lại bay vọt ra, nhứ nhứ vào chỗ bị sứt, mãi chẳng liền được. Ừm... thế này là đang nói với tôi nó không liền được thật à? Khụ, bảo sao dỗi suốt mười ngày.

Tôi kiểm tra một lượt, thấy ngoài việc bị vỡ trông xấu xấu ra thì hiệu năng của Dub namtara không bị ảnh hưởng gì— Được rồi, là một phiến đá mà bị vỡ thì quả thật không còn bằng bạn bằng bè nữa... là tôi có lỗi với nó. Giả thuyết Dub namtara muốn thủ tiêu tôi có vẻ đúng đắn hơn cả.

Tôi chột dạ nên để Dub namtara hoành hành. Qua một lúc thì bàn tay tê rần, đỏ tấy, chịu hết nổi nữa, đành phải thổi gió nâng nó bay lơ lửng theo mình.

Trượng phép và sách phép đều đã thu hồi đủ, giờ bắt tay vào làm việc thôi.

Các pháp sư và thầy tu không theo phái cực đoan - những người lúc trước giúp tôi sơ tán dân chúng - đã chia nhau đến các khu trú ẩn, nhưng sức họ cũng có hạn, không thể cứ mãi biến này biến kia cho mấy ngàn người, trong khi phải tất tả đi chăm sóc người bị thương hoặc bị bệnh. Thậm chí có người gắng sức đến nỗi nằm liệt giường. May nhờ những người đó mà dân chúng còn chưa đến mức lao vào cắn xé mấy cô tư tế suốt ngày cầu nguyện, trách móc, buộc tội lung tung kia. Bây giờ, hiển nhiên việc tôi cần làm là đi giúp các pháp sư, thầy tu ấy.

"Ngài Đại ma pháp sư, cuối cùng cô cũng tỉnh." Trong khi tôi đang làm phép tạo ra thức ăn, nước uống và quần áo cho mọi người, có vài người đến bày tỏ thái độ mừng rỡ. Vẻ mặt nhẹ nhõm của họ khiến tâm trạng nặng trĩu của tôi sáng sủa hơn đôi chút, vì sự tồn tại của mình ít ra cũng khiến người khác cảm thấy được dựa vào.

"Phải đấy phải đấy. Cô bất tỉnh lâu quá, lúc Xuân Đàm đưa đến cô còn máu me đầm đìa nữa, ai cũng tưởng cô chết rồi. Quan thư kí khóc hết nước mắt luôn, lần đầu tiên chúng tôi thấy cô ấy khóc khốn khổ như thế."

Hic... xin lỗi Siduri... Phải làm gì để tạ lỗi đây? Chờ thảm hoạ qua đi, ở yên trong nhà làm bé ngoan vài tháng, ngài Gilgamesh hay anh Enkidu rủ rê cũng ngoảnh mặt làm ngơ thì may ra...

Cải thiện sơ sơ điều kiện sống của người dân, an ủi, đảm bảo, hứa hẹn với một đống người tìm đến tố khổ xong cũng hết nửa ngày. Hỏi ra mới biết giờ đang là giữa chiều, vẫn còn khá sớm, tôi định bụng sẽ đến khu trú ẩn khác để giúp mọi người ở đấy. Mặc dù điều tôi muốn làm nhất là đi xem xét tình hình chiến đấu và giúp đỡ hai- à không, ba người kia. Còn Shamhat nữa, không biết cô ấy đang ở chỗ nào. Nhưng cứu giúp người dân là trách nhiệm của tôi, không thể lùa họ đến khu trú ẩn xong rồi cứ thế mà sống chết mặc bay được.

Siduri rất do dự, nhưng cô ấy cũng biết tình hình khẩn cấp, ở khu khác cũng có thể xảy ra tình trạng lục đục giống khu này, mà có khi còn tệ hơn vì cô ấy không ở đó để quản lí. Vì vậy, sau một hồi dặn dò kiêm đe dọa kéo dài ngót nghét năm phút, Siduri buộc phải thả tôi đi.

Khi tôi rốt cuộc ló được mặt ra bên ngoài khu trú ẩn, điều đầu tiên tôi làm là yểm phép cường hoá mắt để xem xét tình hình thành chính. Không ngoài dự liệu, ngoại trừ con bò thần vẫn gầm rú, vật lộn với Enkidu giữa mây mù cuồn cuộn và sấm sét kinh hoàng thì chẳng còn gì. Núi sông, rừng rú, thành trì biểu tượng văn minh, tập trung mọi sự giàu có của Uruk dưới chân hai tên khổng lồ kia chỉ còn có thể miêu tả bằng hai chữ: nát bấy. Trời ơi, cái chóp ziggurat của tôi đâu? Không... Chúa ơi... Thật tàn nhẫn... Con bò ác độc...

Tôi cắn răng ngoảnh mặt đi. Hít một hơi sâu, tôi vỗ vỗ mặt mình, tự nhủ: chỉ là vật chất thôi mà, xây lại sẽ còn đẹp hơn! Đúng, sẽ đẹp hơn, và bớt diêm dúa hơn! Đúng! Điều quan trọng là anh Enkidu vẫn ổn, vẫn hăng hái— ờ... quá hăng hái. Anh ấy đang cầm mấy cây cột đen xì, chắc là thứ ngài Gilgamesh thả ra lúc trước, quật Gugalanna tới tấp. Khi cây cột bị nó húc văng đi thì lại nhào cả cái thân to lớn trắng muốt đến, nhảy bổ lên đầu nó, cầm sừng nó mà ra sức bứt. Một phong cách chiến đấu thật... hoang dại. Không biết ngài Gilgamesh đâu rồi? Đánh nhau suốt mười ngày, Enkidu còn đỡ, chẳng biết ngài ấy có đói, có mệt không? Tôi chưa bao giờ thấy ngài ấy phải đánh liên tù tì một thời gian dài như vậy, hồi đánh với Enkidu cũng cùng lắm ba ngày thôi.

Dằn sự bồn chồn trong lòng xuống, tôi khởi động ma pháp bay đến khu trú ẩn gần nhất, vừa bay vừa quan sát kĩ tình hình chiến trường. Thỉnh thoảng lại thấy có tia sáng loé lên, cơ thể của Gugalanna thủng chỗ này rồi lại rách chỗ kia, chắc là vũ khí của ngài Gilgamesh và Xuân Đàm bắn phá. Quả thật là không sao, tạm thời yên tâm được rồi.

Vừa bay vừa duyệt qua tất cả các phép thuật mình biết xem có gì hữu dụng không, khi vẫn chưa nghĩ ra gì, cửa hang khu trú ẩn đã hiện ra trước mặt. Hang này cũng có vài người lính ngồi gác như hang tôi ở. Thấy tôi, họ bật dậy, nhanh đến nỗi rớt cả mấy miếng bánh mì đang gặm trong miệng. Nhìn biểu cảm xúc động phát khóc của họ là tôi biết tình hình không được sáng sủa cho lắm. Y như rằng, vừa vào đã cảm nhận được không khí căng thẳng, đè nén như quả bóng bị bơm quá nhiều hơi, sắp nổ tung đến nơi. Mấy người lính kể mới vừa nãy có người đánh nhau giành thức ăn, làm bọn trẻ con sợ khóc ầm ĩ không ai dỗ được, mà đám người đánh nhau thì toàn là dân làm gạch, xây nhà, bốc vác khoẻ như vâm, họ can ngăn cũng sứt đầu mẻ trán. Thầy tu, pháp sư thì suy nhược đến cùng cực, trông thấy tôi, hai hàng lệ lập tức túa ra từ những cặp mắt gấu trúc.

Cứ thế cứ thế mà qua tất cả các khu trú ẩn, tôi vắt khô bản thân, vừa lấy hai trăm phần trăm sức lực ra để gom góp ma lực trong cái môi trường cơ khát mana vì bị mấy tên đánh nhau ầm ầm ngoài kia hút sạch, vừa làm công tác tư tưởng cho vô số người. Chạy qua chạy lại xuyên đêm, việc đếm không xuể, người tiếp không hết, kéo dài đến tận buổi tối hai ngày sau mới tạm ổn.

Lóc cóc về khu trú ẩn của mình khi trời đã tối mịt, chân tôi chạm đất mà cứ ngỡ đang chạm mây. Siduri nhét cho một chén xúp bí ngô, tôi uống vội mới lấy lại được chút hơi tàn. Hic, có bị mắng không á? Dĩ nhiên rồi. Mà tôi cũng chỉ biết cụp tai nghe, không đáp lại được câu nào, khan tiếng mất rồi còn đâu.

Nhai rệu rạo miếng thịt khô, uống ừng ực mấy ngụm nước thông cổ họng xong, tôi mới kể với Siduri chuyện mình thấy nhiều xác chết nằm rải rác trên đường. Đôi khi tôi cũng thấy sợ khả năng thích nghi của não bộ, thấy một người thì sẽ không thể yên lòng, nhưng thấy nhiều người... ha, tôi lại có thể vừa ăn vừa nói.

Siduri trầm ngâm một lúc rồi mới nói: "Khi nào mọi chuyện qua đi, mình sẽ cử quân lính đi thu thập và chôn cất họ đàng hoàng."

Tôi chỉ biết gật đầu.

"Mình còn thấy Shamhat." Yên lặng một chút, tôi chuyển chủ đề: "Chị ấy đang ở khu trú ẩn phía tây bắc."

"Shamhat? Thần kĩ bạn của Enkidu?" Siduri thắc mắc. Lúc này tôi mới nhớ ra là Siduri không biết Shamhat đi theo tôi để giúp Enkidu trở lại nguyên dạng. Siduri và Shamhat không thường gặp nhau cho lắm. Tuy nhiên có là ai cũng hiếm khi được gặp Shamhat, ngoại trừ Enkidu, vì cô ấy sống khá khép kín, không thích gặp người ngoài mấy.

"Ừm. Mà chị ấy chỉ chào hỏi mình một câu rồi ngồi nhìn hướng có Enkidu mãi. Mặc dù ở chỗ ấy không thấy được gì bằng mắt thường."

"Shamhat là thần kĩ. Không biết sau chuyện này cô ấy sẽ có lập trường như thế nào." Siduri xé một miếng bánh mì đưa cho tôi, tôi lấy gặm rồi mới đáp:

"Ở đâu có Enkidu ở đó có Shamhat. Chị ấy từng nói với mình là Enkidu giống như con ruột của chị ấy vậy."

Chúng tôi trò chuyện thêm một lúc thì mắt tôi díu vào nhau, ngáp ngắn ngáp dài. Nằm trên cái ụ nhỏ đôn lên bởi đống bao bố và lá dừa, tôi lơ mơ nhớ ra một chuyện, bèn hỏi Siduri: "Tillu, Gallu đâu rồi? Mình không thấy chúng nó ở đâu cả."

"Chạy về phía cao nguyên rồi. Còn trước cả khi cậu, Đức vua và Enkidu về đến nữa cơ."

Tôi thầm nhẹ nhõm trong lòng, không khỏi phì cười. Mập ú mà cũng nhanh nhẹn phết nhỉ.

"Chả biết có nhớ đường về không." Tôi tưởng tượng ra dáng vẻ ham ăn lười biếng của hai con sư tử, thầm lo chúng nó sống sung sướng lâu mà quên cách đi săn.

"Người còn quay lưng với quê hương, nói gì thú vật."

Tôi chẳng biết đáp thế nào. Siduri có vẻ bất mãn với những người dân quyết định rời bỏ Uruk. Cô ấy rất yêu Uruk mà. Nhưng biết sao được, những người dân ấy cũng chỉ muốn sống thôi.

"À mà..." Tôi ngập ngừng một chút vì không muốn làm tâm trạng của bạn mình tồi tệ hơn, nhưng nghĩ thế nào cũng thấy hỏng bét nếu cứ im ỉm làm mà không nói với Siduri, thế nên tôi nhắm mắt, lí nhí nói tiếp: "Tình hình tạm ổn rồi... ngày mai mình sẽ đi giúp ngài ấy... cậu đừng cản mình..."

Chờ mãi mà Siduri không trả lời, chắc là lại giận tôi. Lòng tôi tràn ngập áy náy, suy nghĩ miên man, thân thể mệt mỏi, chẳng mấy chốc đã không trụ được nữa, mắt nặng trĩu, mê man thiếp đi.

Trong trạng thái nửa tỉnh nửa mơ, tôi loáng thoáng nghe được tiếng Siduri thở dài, lẩm bẩm đáp: "Đồ mù quáng."

***

Tầm hai ba giờ sáng, tôi thức dậy, đi ra ngoài khu trú ẩn. Mana trong không khí vẫn khan hiếm như thế. Cuộc đánh nhau giữa các tạo vật thần linh khủng khiếp đến mức khiến môi trường thay đổi, may mà ngài Gilgamesh và Enkidu giữ chân được Gugalanna ngoài vịnh, không thì... Tôi rùng mình, chẳng dám nghĩ tiếp.

Lí do phải ra ngoài này vào đêm hôm khuya khoắt là để bói sao. Gọi bản đồ chiêm tinh lên, tôi dò tìm vị trí thư viện của thần Shamash. Tuy rằng thư viện có cửa vào ở ziggurat, nhưng nó vốn là không gian cá nhân của thần mặt trời, một tiểu kết cấu không tồn tại trong hiện thực, thế nên dù cửa này bị phá hủy thì vẫn còn cửa khác. Hy vọng là ông ấy để ngỏ một cánh cửa nào đó. Tôi muốn tra cứu thử xem có cách nào khắc được con bò thần kia không.

Đây rồi!

Tôi vui vẻ mở bật cửa, nhào vào thư viện. Thứ đầu tiên đập vào mắt là một phiến đá bay lơ lửng giữa không trung, tỏa ra ánh hào quang chói lọi, nổi bật đến mức không thể nổi bật hơn, cứ như thể đang gào thét: hãy đọc bổn đại gia đi!

Thần Shamash vạn tuế! Phê bình thì phê bình nhưng vẫn thương đồ đệ đúng không! Bị cấp trên giam lỏng vẫn lén tuồn hàng! Yêu quá, yêu quá đi mất, đúng là người già yêu thương trẻ nhỏ! Sau này ông muốn mắng ngài Gilgamesh thế nào cháu cũng sẽ đứng cổ vũ cho ông!

Mừng rỡ cầm lấy phiến đá, cùng là phiến đá phép mà phiến này ngoan hơn hẳn phiến đá nào đấy, nằm im lìm trong tay tôi, lại còn giảm độ sáng đến mức vừa đủ để đọc được chữ, quả là chu đáo đến nao nức lòng người.

Nội dung còn gây nao nức lòng người hơn. Không lằng nhằng, không dây dưa, không bắt tôi lọc qua cả tỉ kí tự nhọn nhọn xiên xiên lặp đi lặp lại chỉ để tìm câu trả lời... nó là một pháp trận chằng chịt, ở dưới có ghi:

"Áp đặt khái niệm cái chết lên Gugalanna mới có thể tiêu diệt nó. Chuẩn bị pháp trận, vật dẫn là máu của bản thân, xướng lên như sau..."

Hmm... Trông pháp trận như là phép bói sao tinh vi, chuyên dùng để triệu hồi. Đây hẳn là ma pháp cực kì cao cấp, không phải vì nó quá khó mà là vì nó cần lượng mana khổng lồ, người thực hiện khả năng cao sẽ tử vong trước khi phép thành công. May mà tôi có Dub namtara, không thì lại vác cái thân thoi thóp về cho Siduri mắng.

Ở dưới có ghi rằng trong lúc niệm phép, hay nói đúng hơn là vịnh xướng, phải tâm niệm rằng mình cần một kẻ chuyên giết chóc, đi đến đâu gieo rắc nỗi sợ cái chết đến đó. Vậy là triệu hồi người sao? Triệu hồi rồi có thể "áp đặt khái niệm cái chết" gì đó?

Áp khái niệm cái chết... nói cách khác, Gugalanna không biết chết là gì? Bởi, bởi vì nó là một con bò? Kiếp trước xem chương trình động vật, người ta nói rằng ta có thể quan sát các biểu hiện thương tiếc ở động vật khi đồng loại chết, nhưng không thể biết chắc rằng chúng có hiểu cái chết như cách con người hiểu- Không không, không đúng. Gugalanna là thần trước rồi mới là bò. Tôi nhớ nó còn từng là chồng của nữ thần nào đó cơ. Vậy nên không thể áp đặt logic, sự quan sát của loài người với động vật lên Gugalanna được. Nếu suy tính đến bản chất của Gugalanna, giải thích kiểu "vì nó quá mạnh, không ai giết được nó nên nó mới khịt mũi khi ai đó nhắc đến cái chết" nghe còn hợp lí hơn nhiều.

Tóm lại, chỉ cần triệu hồi người hoặc thứ nào đó gieo rắc nỗi sợ cái chết là có thể áp đặt khái niệm ấy? Làm cách nào nhỉ? Chẳng lẽ đứng lù lù trước mắt Gugalanna đóng vai thần chết gõ cửa, hoặc đứng cạnh tai nó, thủ thỉ rằng đã là vật sống thì ngày nào đó sẽ trở về với cát bụi, và ngài cũng không ngoại lệ đâu ngài bò ạ? Nghe cứ như chuyện đùa.

Tôi vắt óc suy nghĩ hồi lâu, cảm thấy não mình đúng là không đáng tin cậy - như ngài Gilgamesh thường chê trách. Chắc tôi phải tìm ngài ấy trước, có thể ngài ấy sẽ hiểu.

***

Càng bay đến gần chiến trường, tôi càng thấy bất an. Bảo sao người dân chạy trối chết như vậy— khu vực này đã thành địa ngục trần gian.

Màng nhĩ sắp bị tiếng gió rít chọc thủng đến nơi. Mưa như trút nước, lũ cuồn cuộn chảy, dâng lên cao gần qua đầu người, lấp hết đường xá, kênh rạch, luồn qua từng ụ lớn rác rến tàn tích của Uruk, tạo thành những dòng chảy rất xiết. Sấm sét rạch nát màn đêm phía chân trời, ánh sáng chết chóc trùm lên mặt biển đang ầm ầm dậy sóng. Mùi đất, nước bẩn, đặc biệt là mùi thịt thối tanh tưởi giống như chiếc dùi dộng vào hai cánh mũi. Tôi quanh quẩn bên ngoài đã hai ngày nay, mà thứ mùi này vẫn gây choáng váng, buồn nôn hệt lần đầu ngửi thấy.

Vô số luồng gió lốc cuộn xoáy khiến mana dao động cực kì hỗn loạn, mãi vẫn chưa xác định được luồng nào đến từ ngài Gilgamesh. Bói sao cũng chẳng có tác dụng, chẳng lẽ ngài đang ẩn thân?

Càng tìm bụng càng nhộn nhạo vì sốt ruột. Vùng đất rộng lớn thế này lại phải bay loanh quanh trong vô định, căng cặp mắt đã được cường hoá nhưng hầu như vẫn vô dụng trong bóng đêm lên mà tìm chay, biết bao giờ mới thấy người?

Đang nghiêm túc suy nghĩ xem loại phép nào có thể hất hết đống nước lũ và tàn tích lên trời mà không gây động tĩnh quá lớn, một cái... đùi gà bỗng từ đâu bay đến đập vào giữa trán, làm tôi giật bắn cả người, suýt chút nữa thì té lộn nhào từ trên trời xuống nước lũ đang cuồn cuộn chảy.

Hấp ta hấp tấp đáp xuống một mỏm đá lớn nhô lên khỏi mặt nước lũ xong, tôi bất lực than thở: "Ngài, ngài gọi một tiếng là được mà!"

Đúng, người có thể đứng lù lù đó mà tôi không phát hiện ra, tấn công tôi mà đĩa phòng vệ không tự động phản ứng lại, lại còn tấn công bằng đùi gà đang gặm dở, còn ai ngoài quý ngài mèo bự. Nỗi lo lắng ngập tràn tâm trí vừa tan biến, cảm giác dở khóc dở cười liền thế chỗ. Hoá ra ngài ẩn thân để ăn khuya...

Vụt, bóng người cao lớn nhảy lên mỏm đá, một tay cầm miếng cánh gà góc tư gặm nhồm nhoàm, tay kia nắm cằm tôi, lắc đầu tôi qua trái rồi lại qua phải. Ngài ấy đứng quay lưng về phía ánh trăng nhàn nhạt, lại cứ lắc đầu tôi như thế, tôi không tài nào nhìn rõ tình trạng của ngài, có bị thương hay không.

Ôi, có thể ăn uống, làm trò thế này, hẳn là chưa có gì đáng lo ngại.

"Hmm. Cũng gọi là nói được làm được."

Ngài ấy nuốt thịt gà đánh ực một tiếng, buông cằm tôi ra, kết luận. Chẳng biết ngài đang nói ai nữa, nhưng quan trọng hơn— Ây!! Dơ quá! Ai, ai lại nhét xương vào miệng người khác thế hả!

Phì phì nhả miếng xương gà ra cho nó rơi tõm vào nước lũ, vừa định phàn nàn thì ngài Gilgamesh - lúc này đã ngồi xuống - xua xua tay, nói: "Đừng càu nhàu, để ta nghỉ ngơi."

Tôi ngẩn ra một chút mới hiểu ý ngài, vội vội vàng vàng ngồi thụp xuống, tăng độ sáng trên trượng phép, lo lắng nhìn ngó một lượt. Tóc bù xù, quần áo rách bươm, trên tay, ngực, chân, bụng đầy vết băng bó qua loa, mồ hôi lẫn máu thấm bết vào nhau, gò má, trán hằn vài vết rách sâu, dưới mắt in hai vệt quầng thâm tôi chưa thấy bao giờ. Sao, sao lại ra nông nỗi này? Thần dược của ngài đâu??

Chẳng kịp nghĩ ngợi nhiều, tôi thi triển liền tù tì vài phép chữa thương. Trách tôi thiếu sót, cố đến mấy các vết thương vẫn cứ toác ra, làm tôi không dám chữa tiếp, sợ ngài đau thêm. Trông những vệt máu đỏ lòm lòm, những mảng da rách tung tóe mà gai người. Lòng tôi quặn thắt, mũi đau nhức, phải cố dằn lại kẻo ngài thấy tôi khóc lại thêm bức bối.

Trong khi tôi loay hoay, ngài Gilgamesh chợt mở miệng: "Ngu ngốc. Dùng Phân Tách Ma Lực tiêu trừ thần lực trước rồi mới chữa chứ."

A, a, a, phải, phải rồi! Tôi đúng là ngu thật!

Cuống cuồng làm theo ý ngài, lần này thì vết thương thuận lợi khép miệng, nhưng ngài ấy vẫn có vẻ rất mệt. Có lẽ ngài đã kiệt sức. Mười hai ngày ròng rã...

Hai mắt của ngài ấy vẫn dõi theo chiến trường rất sát sao. Tôi để ý thấy ngón cái bàn tay phải của ngài đang bấm vào ngón trỏ mạnh đến nỗi cả bàn tay run lên. Như tôi đoán, có lẽ Enkidu buộc phải đánh nhau một mình với Gugalanna để ngài ấy có thể nghỉ ngơi. Dường như mối lo của Shamhat đã thành hiện thực, bởi nếu hiện tại Enkidu không ở hình thái và sức mạnh nguyên bản... Tôi ớn lạnh, lắc lắc đầu hòng xua tan những suy nghĩ xui xẻo. Vết bấm hình lưỡi liềm hằn sâu trên da ngài Gilgamesh đã rướm máu, tôi thừ người nhìn hồi lâu, cuối cùng vẫn chẳng dám nói gì. Tính ngài ấy vốn vậy, tuy bình thường thích khoe khoang nhưng có tâm sự lại giữ khư khư trong lòng, kẻ ở địa vị thấp như tôi làm sao mà khuyên nổi chứ... chỉ tổ làm phiền thời gian dưỡng sức quý giá của ngài.

Sợ nhìn thêm nữa sẽ không ngăn nổi bản thân nhào lên, bất chấp thân phận mà đoán mò tâm tư ngài ấy rồi nói vớ nói vẩn nhàm tai ngài, tôi bèn lôi phiến đá của thần Shamash ra, học thuộc pháp trận và lời vịnh xướng dài loằng ngoằng. Thử áp tỉ lệ pháp trận vẽ trên phiến đá lên thực tế mới nhận ra nó còn to hơn tôi tưởng nữa. Cũng phải, to thế này mới tải được nhiều mana chứ. Có lẽ tôi cần tránh xa một chút mới có không gian để vẽ, đứng gần quá lại cần người bảo vệ khỏi đủ thứ đạn lạc lẫn Gugalanna, phiền lắm.

Khi tôi đang ôm phiến đá tính toán vị trí thích hợp, ngài Gilgamesh bỗng kéo tay tôi hỏi: "Tạp chủng, ngươi lại định làm gì?"

Suy nghĩ của tôi đang tràn ngập những hình vẽ ngoằn nghèo và kí tự đinh tán, chưa hiểu ngài muốn hỏi gì, chỉ biết giương mắt lên "Vâng?" một tiếng.

"Ngươi định làm phép gì?" Ngài ấy nhìn phiến đá trong tay tôi, hỏi lại.

"À! Phải rồi, tôi đang định tham khảo ý kiến ngài đây ạ."

Mồm năm miệng mười giải thích cũng như nói ra suy nghĩ của mình xong, tôi trông mong nhìn ngài Gilgamesh. Ngài ấy nhìn về chiến trường nơi xa, đăm chiêu suy nghĩ một lát rồi lẩm bẩm: "Triệu hồi Thần linh? Tinh linh? Không... hẳn là Anh linh."

Thần linh, Tinh linh thì tôi nghe qua rồi. Còn Anh linh là gì vậy?

Ngài Gilgamesh chợt cười khẩy, "Shamash quả thực vẫn có cái cốt thần linh."

"?"

"Đó là cấm kị ma pháp. Vậy mà ông ta vẫn dạy cho ngươi."

Cấm kị ma pháp...

Tôi bật cười, hỏi lại: "Có cấm kị bằng Phân Tách Ma Lực không ạ?"

Ngài Gilgamesh quay phắt đầu, nheo mắt nhìn tôi, nhìn lâu đến nỗi dạ dày hoặc thứ gì đó trong bụng tôi teo lại, chộn rộn như bị ai cầm đũa ngoáy, làm tôi rụt đầu rụt cổ, cụp tai cụp đuôi... biết thế đừng giỡn!

Khụ, thần Shamash ơi, sự nghiệp bênh vực ông của cháu sao mà lao đao quá, kẻ hèn này xin lỗi! Hu hu...

Mà, mà sao ngài ấy cứ nhìn mãi vậy... Hại tôi cúi gằm mặt, sắp gãy cổ đến nơi... Người ta biết lỗi rồi mà...

Xoắn xuýt trong thinh lặng một lúc lâu sau, ngài Gilgamesh bỗng thở hắt ra, hai tay vươn đến nhấc bổng tôi khỏi mỏm đá.

Tôi hoảng hồn, buột miệng kêu oai oái. Cứ tưởng ngài ấy bốc mình lên để ném xuống nước lũ, nào ngờ lũ đâu chưa thấy, dưới mông lại là cặp đùi cứng như đá— thế này còn đau tim hơn được không!

Tôi co người, co tay, không dám cựa quậy hay chạm lung tung, cũng không dám ngẩng đầu nhìn ngài Gilgamesh, chỉ biết siết chặt trượng phép cho đỡ bối rối. Nhưng người này đúng là được trời sinh ra để khiến tim tôi sinh bệnh mà, ngài ấy cúi hẳn xuống, hai tay ôm tôi như ôm gấu bông, mặt ụp vào đầu tôi, thở phù phù vào tóc, vào tai tôi khiến tôi có cảm giác mình sắp hóa thành thú nhồi bông thật, loại có vẻ mặt ngớ ngẩn ấy.

"Tạp chủng, đến nước này vẫn giả vờ không hiểu? Với Shamash, Uruk, hoặc cũng có thể nói là ta, quan trọng hơn ngươi. Ngươi chết vì Uruk hoặc vì ta là cái giá ông ta chấp nhận được, thế nên ông ta mới dạy ngươi thứ cấm kị ma pháp đó, biết chắc rằng ngươi sẽ đâm đầu vào làm."

"Tôi có Dub namtara đây, không đến nỗi phải chết đâu mà. Tôi triệu hồi xong còn đi giúp ngài được ấy chứ." Để minh hoạ, tôi lôi Dub namtara từ trong túi phép ra, lắc lắc trong tay. Trước mặt chủ nhân, bảo vật thần tạo này nằm im lìm trên tay tôi, ngoan ngoãn như một miếng đất sét vô hại.

"Ông ta không hề biết ngươi có Dub namtara."

"..." Tôi cứng họng, một lúc sau mới thở hắt ra, mỉm cười đáp: "Thì... ai cũng có nhiều mối lo, còn tôi tình cờ không phải là ưu tiên hàng đầu của họ. Biết làm sao được ạ."

"Tạp-!" Ngài Gilgamesh thốt lên đúng một tiếng rồi im bặt. Chắc là ngài cũng thấy chán ngán tính cách tôi đến nỗi lâm vào tình trạng chẳng biết nói gì y như Siduri.

Tôi hơi ngửa đầu, trán đụng trúng chiếc cằm lún phún râu của ngài Gilgamesh, bèn phóng ma lực ra từ đầu ngón tay, chỗ râu ấy rơi lả tả xuống, trả lại cho ngài chiếc cằm nhẵn bóng. Làm xong mà ngài ấy vẫn lặng thinh, trên mặt treo biểu cảm khó chịu, lông mày nhăn tít lại. Lòng tôi như được sưởi ấm. Phải chăng Aria đã xuất hiện ở một ngóc ngách nhỏ trong tâm tư của ngài? Thứ tự ưu tiên của tôi trong lòng ngài phải chăng đã cao lên được vài bậc? Nếu vậy thật, chắc là tôi đã hút sạch may mắn của cả thế giới rồi đây, nhắm mắt đi bừa, tính tình kì quặc, thế mà cũng được Vua Gilgamesh vĩ đại quan tâm. Ôi, vậy thì cái chuyện triệu hồi cỏn con có làm gì được tôi đâu, tôi là cô gái may mắn nhất thế giới.

"Hmph." Một lúc lâu sau, ngài Gilgamesh rốt cuộc chịu lên tiếng, "Đánh trận cuối nào."

Thân hình tôi chợt nhẹ, nhoáng cái đã bị ngài kéo đứng dậy.

"Xuân Đàm." Ngài Gilgamesh hơi quay sang trái, liếc mắt nhìn sang chỗ có một đống thân cây đổ xếp chồng lên nhau.

Tôi hối hả chĩa trượng phép tìm kiếm. Ánh sáng chiếu lên thân ảnh Xuân Đàm, thật sự đang ngồi lù lù ở đó kìa! Sao sao sao lại có thể im hơi lặng tiếng nhìn ngó chuyện riêng tư của người ta thế nhỉ! Argh!

Xuân Đàm hơi hơi nghiêng đầu, mặt mũi nhợt nhạt hơn cả ngài Gilgamesh, thấy tôi đang trề môi thì trợn trắng mắt, nhả khẩu hình: Tại-cô-chỉ-thấy-Gilgamesh-đấy-chứ, rồi mới há miệng hộc ra một tiếng "Gì?" đáp lời ngài Gilgamesh.

"Còn được bao lâu?"

"Nửa tiếng. Cũng có thể ít hơn."

"Aria, phép Triệu hồi Anh linh cần bao lâu?"

Lúc nãy đã ngẫm rồi, vì thế tôi trả lời không do dự: "Khoảng ba gesh ạ."

"Vậy ngươi theo Xuân Đàm ra đằng kia thi triển phép thuật. Mọi việc còn lại để bản vương lo liệu. Đi đi."

Ngài ấy nói xong liền bay vụt đi, tốc độ nhanh như tên bắn.

Tôi bay xuống cạnh Xuân Đàm, thấy cô ấy vẫn ngồi dựa vào thân cây, hai mắt lờ đờ, hơi thở nặng nề, bèn niệm phép chữa trị. Lạ là chẳng có tác dụng gì mấy. Tôi còn đang khó hiểu, Xuân Đàm lảo đảo đứng dậy, kéo tay tôi, nói: "Không sao. Tiết kiệm ma lực đi. Theo tôi nào, tôi biết một mảnh đất rộng khá an toàn."

Mảnh đất Xuân Đàm dẫn tôi đến quả thực rất lí tưởng. Tầm nhịn rộng, bằng phẳng, ở trên cao nên lũ chưa quét đến, không quá xa chiến trường, cũng không quá gần. Gugalanna bận đánh nhau đến tối tăm mặt mũi, chắc chắn không rảnh để nhìn đến một mảnh đất tầm thường thế này.

Tôi giăng một kết giới ẩn mình thật rộng để phòng hờ, vừa bắt đầu vẽ pháp trận thì Xuân Đàm chợt hỏi: "Cô thực sự triệu hồi được Anh linh à?"

"Nếu đúng như ngài Gilgamesh nói," tôi chớp mắt, ngước nhìn Xuân Đàm - người cao hơn tôi nửa cái đầu, "thì ừ, chắc là Anh linh đó. Trong sách phép nói-"

"Hãy nghĩ về kẻ chuyên giết chóc, đi đến đâu gieo rắc nỗi sợ cái chết đến đó, phải không." Xuân Đàm tiếp lời tôi, thái độ có vẻ trịnh trọng hẳn lên, "Hãy nghĩ đến Hassan Đệ Nhất. H-A-S-S-A-N, Đệ Nhất. Phải là Đệ Nhất, sát thủ Hồi Giáo Ba Tư ấy."

Gương mặt Xuân Đàm trông vô cùng nghiêm túc, ánh mắt sáng trong, tỏa ra cảm giác rất đáng tin cậy. Tôi tạm gác những thắc mắc vừa nảy ra, gật đầu, múa trượng phép trong tay, các đường vẽ và kí tự đinh tán thấm đẫm trong mana vàng rực lần lượt xuất hiện, pháp trận khổng lồ dần dần thành hình, càng lúc càng mở rộng, càng lúc càng chói sáng. Những bụi cỏ quanh trận pháp hóa thành bụi vàng, nhập vào đường vẽ. Gió nhè nhẹ nổi lên. Một chút nữa. Thêm một chút nữa. Và thế là... hoàn thành!

Tôi lau chút mồ hôi vừa rịn ra trên trán, vừa định đọc lời vịnh xướng, đầu chợt nảy lên một ý, suýt nữa thì quên mất!

Tôi quay ra sau, cười nói với Xuân Đàm đang khoanh tay đứng sau lưng: "À, cảm ơn vì đã cứu tôi nhé. Không nhờ cô thì tôi đã chết rũ dưới đống đổ nát ngoài kia rồi. Xin lỗi vì trước giờ đã tỏ vẻ khó chịu với cô, còn ném vô ra ngoài vịnh nữa. Sau khi mọi chuyện kết thúc, tôi sẽ đãi cô một bữa đuề huề luôn."

Hai mắt Xuân Đàm hơi mở to, rồi chỉ cười, không nói gì.

Giờ thì, cùng nhau kết thúc cuộc chiến dài đằng đẵng này thôi.

Kiểm tra, kiểm tra.

Mạch ma thuật, trơn tru.

Ma lực, dồi dào.

Quyết tâm, còn cao hơn núi.

Phù...

Nếu đã không biết chết là gì, vậy thì gọi một người đến dạy cho biết.

Gió nổi lên, đưa mana quanh môi trường nhanh chóng tụ về đây. Nhưng nguồn mana dồi dào nhất vẫn đến từ miếng đất sét chỉ to vỏn vẹn hai bàn tay.

"Hỡi thần tối cao Anu, hỡi các vị thần minh ngự trị cõi vĩnh hằng, xin ban cho tôi lời chấp thuận."

Tôi vừa lầm rầm khấn vừa cắt tay, ném máu vào pháp trận phức tạp nhất mình từng vẽ. Mana đặc quánh, đẩy cơ thể tôi lơ lửng, váy áo bay phần phật. Tôi phải nhanh lên, tranh thủ lúc các vị thần còn đang chủ quan...

"Với căn nguyên là nhật nguyệt.
Với nền tảng là máu.
Với lòng tôn kính hướng về Shamash.
Hãy dựng tường lên, cơn gió đương ập đến.
Hãy đóng chặt cổng, cả đông tây nam bắc.
Hãy chuyển mình, ngã ba đường nối vương miện với vương đô."

Tôi cần một người rất giỏi, cực kì giỏi hành hình, một người mà nơi họ đi qua, xác tội đồ sẽ chất đầy dưới chân. Tôi cần người sẽ khiến cả những kẻ ngông cuồng nhất nếm mùi vị sợ hãi cái chết.

Hassan Đệ Nhất, sát thủ Hồi Giáo xứ Ba Tư, nếu người có đủ những phẩm chất ấy, xin hãy lắng nghe lời kêu gọi của tôi:

"Thân xác người là do tôi tái dựng, ý chí người là do tôi dẫn dắt.
Tại đây xin lập lời tuyên thệ:
Tôi sẽ trở thành cái thiện bất diệt, tôi sẽ thống trị cái ác sinh sôi.
Người sẽ trở thành thanh kiếm mở đường, người sẽ chi phối vận mệnh tôi.
Nếu người thuận theo đường lối này, xin hãy đáp lại.
Hãy đến đây, hỡi vệ binh của cán cân trời!"

Pháp trận sáng lên, toàn bộ ma lực đang tích sẵn trong Dub namtara nháy mắt đã bị rút cạn. Lõi sống, xác thịt hình thành, linh hồn nhập thể, điều chỉnh đồng bộ xác hồn bốn lần—

Rẹt! Mana dư thừa bắn ra xung quanh, đường kính phải tới mấy trăm mét. Các luồng năng lượng hỗn loạn chà mạnh vào nhau làm toé tia lửa điện. Gió nổi cuồn cuộn, xoáy quanh một thân hình phát sáng.

Tôi gắng sức điều chỉnh hơi thở hỗn loạn. Hai chân run rẩy vì kiệt sức, phải quỳ mọp xuống đất. Hít một hơi thật sâu để chống lại áp lực vô hình đang chiếu thẳng xuống mình, tôi từ từ ngẩng đầu.

Đôi chân với những chiếc móng nhọn, bộ giáp cũ kĩ, chiếc áo chùng sờn rách, chiếc khiên thô dày đầy gai nhọn, thanh cự kiếm xám xịt, và... một cái đầu lâu với hốc mắt xanh biếc sáng rực lần lượt xuất hiện trước mặt. Bóng đen to lớn phủ lên người tôi, giọng nói già nua, oang oang như chuông rền dộng vào màng nhĩ:

"Chớ run sợ, hỡi Khế Ước Giả. Ông Già Trên Núi đã trình diện trước lời triệu hồi của mi."

8-8-2024
Gilocked.

———

Tác giả tám:

Cái chú triệu hồi trên, bịa thì cũng đc nhưng mà t vẫn muốn giữ cái gì đó của Fate xíu, nên t viết dựa trên triệu hồi servant. Muốn giữ câu "lấp đầy 5 lần" điển hình lắm luôn á, nhưng mà nghĩ đó có lẽ là ma thuật hiện đại nên t bỏ.

Để viết chap này t đã viết lại 3 lần, quăng tầm 3k từ. Sao mà kém tắm thế nhỉ, trong khi dàn ý có cả. 🤧

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro