Tùy Đường Diễn Nghĩa 11 - 20

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình

Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Mười Một

Dầm bão tuyết, Phàn Kiến Uy tìm bạn hiền,

Lo thuốc thang, Đơn Hùng Tín sinh gái quý

Thơ rằng:

Tuyết đè quan ải cảnh nao nao

Gió bấc đưa về phủ trắng đầu

Nằm bẹp Lạc Dương hai gối nhác(1)

Nhớ sôi Diễm Thủy một chèo mau (2)

Bông sơ cuống quýt toan bay thốc

Bọt nước mong manh chực thổi vèo

Dừng ngựa Lam Quan chiều nghẽn lối (3)

Tri âm gặp mặt thỏa lòng nhau.

1 Tuyết phủ kín Lạc Dương, dân cào tuyết ra đường kiếm ăn, Viên An vẫn đóng cửa nằm co, chịu đói, Thái thú phá cửa vào thăm, Viên An trả lời: "Thiên hạ đều đói. Ta cũng thế, nhưng ta chả muốn phiền người".

2 Đang đêm, tuyết xuống đầy, Vương Hy Chi chợt nhớ bạn, chèo thuyền trên suối Diễm Khê, đến thăm bạn. Gần tới nơi, lại quay thuyền về, có người hỏi, Hy Chi đáp: "Hứng lên thì đi, không thích nữa thì về". (Từ Hải)

3 Hàn Dũ, đời Đường, bị đẩy đi làm quan, làm thơ than: "Tần Lĩnh mây che nhà chẳng thấy, Lam Quan tuyết phủ ngựa khôn qua". (Thơ Đường, tập 1)

Trên đây là một bài thơ vịnh cảnh tuyết, ca ngợi vẻ đẹp sự thanh cao của tuyết. Tuyết khiến chén rượu nóng uống càng đậm đà, tuyết khiến mối sầu của khách đi đường càng tăng vẻ thê lương, có khi tuyết gợi hứng, làm nguyên cớ của những gặp gỡ giữa bạn bè, tri kỷ, Kiến Uy rời Sơn Đông, qua Hà Đông, tìm vào phủ đường Lộ Châu, hỏi tin Thúc Bảo, trở ra quán trọ của Vương Tiểu Nhị, hỏi:

- Bác chủ xin hỏi bác một chuyện, gần đây có ai là người phủ Tế Châu, thuộc Sơn Đông, họ Tần, tên là Thúc Bảo, đến ở trọ quán bác không?

Tiểu Nhị đáp:

- Có Tần quý khách trọ ở hàng tiểu nhân, nhưng ngày mùng một tháng mười vừa rồi, đã bán ngựa lấy tiền đi đường, về quê ngay đêm hôm ấy rồi.

Kiến Uy nghe nói, thở dài rơi nước mắt. Còn Tiểu Nhị, vì khách trọ đông, gọi rối rít, đã bỏ đi từ lúc nào.

Liễu Thị thấy thế, bèn để ý, lại gần hỏi:

- Quý khách cho biết quý tính?

Kiến Uy đáp:

- Ta họ Phàn.

Liễu Thị tiếp:

- Có phải Phàn Kiến Uy chăng?

Kiến Uy tiến vội hỏi:

- Nhà chị sao lại biết ta là Phàn Kiến Uy.

Liễu Thị đáp.

- Tần quý khách vướng víu ở đây mãi, ngày ngày trông đợi Phàn quý khách. Chúng tôi đối xử với Tần quý khách chẳng được chu đáo. Tối hôm đầu tháng mười vừa rồi, Tần quý khách đã lên đường về. Lại có chuyện chưa đến nhà sao?

Kiến Uy:

- Chính vì chưa thấy về, nên ta phải đi tìm.

Kiến Uy thầm nghĩ: "Giờ đã là đầu mùa đông, không thể có chuyện đi đường đến hai tháng, nhất định xảy ra việc gì. Có ở lại đây cũng vô ích". Kiến Uy ăn bữa cơm trưa, trả tiền chu đáo rồi ra cửa đông, quay về Sơn Đông.

Trời thổi gió mạnh, tuyết đồ càng dày, Kiến Uy dầm trong gió tuyết, đầu cổ trùm kín, cứ trong tuyết mà đi mãi, lạnh cứng cả mặt mũi, hai tay, nhìn bốn bên chỉ thấy:

Tung bay trút từ trên ải bắc

Phơi phơi rơi rắc khắp cô thành

Vườn Lương cầu Bá quanh quanh

Quật lên úp xuống thình lình dừng quay

Như có sức đổi thay tạo hóa

Như có tài tuốt lá nhổ cây

Vừng hồng tối sẫm mặt mày

Rừng xanh nhạt sắc, đông tây lạc đường

Dòng Trường Giang, cá dường lặn đáy

Tầng mây cao, cánh sẩy nhạn xa

Cọp gầm vượn hú xa xa

Lúa đồng vùi nát, hoa nhà dập tan

Kể sao xiết muôn vàn tai hại

Điềm lành sao, địa quái thiên tai?

Cằn gốc liễu, trụi cành mai

Đường xa lối nghẽn, đền đài phôi pha

Phủ đầy cửa ra vào quán lạ

Nguồn cơn này hồ đã biết vay!

Buôn lắm thay, khổ lắm thay

Cảnh nhà hàn sĩ đắng cay thế nào

Cầu khẩn đến trời cao giáng phúc

Tâu Ngọc Hoàng chí đức chí nhân

Mây thiêng kíp kíp xoay vần

Vừng dương sáng chói, khí xuân chan hòa

An cư lạc nghiệp, câu ca. . .

Kiến Uy lặn lội trong cảnh gió tuyết, rét thấu xương, đến được Thập Lý điếm thì trời cũng đã chiều. Chưa biết ngủ trọ nơi nào, lại cũng tìm đến miếu Đông Nhạc, nơi Thúc Bảo bị ốm mấy tuần trước. Cho nên nếu không có trận tuyết lớn này, làm gì Kiến Uy phải vào miếu Đông Nhạc này. Gặp đúng lúc ông từ đứng đó đóng cửa, thấy có người đến xin nghỉ trọ, ông từ liền vào Tùng Hạc hiên thưa. Ngụy Trưng vốn thương người, liền cho Kiến Uy vào phòng phía sau. Đặt hành lý vào một góc, rũ hết tuyết trên áo mũ, Kiến Uy vái chào Ngụy Trưng. Ngụy Trưng lúc này mới hỏi:

- Khách trọ đâu đến?

Kiến Uy đáp:

- Tiểu đệ họ Phàn, người Tế Châu thuộc Sơn Đông đến Lộ Châu tìm người bạn, gặp tuyết lớn, vào đây xin nhờ đạo trưởng qua đêm nay, sáng ra sẽ xin hậu tạ.

Nguy Trưng đáp:

- Khách có phải Phàn Kiến Uy chăng?

Kiến Uy giật mình vội hỏi:

- Đạo trưởng sao lại biết tiểu đệ?

Ngụy Trưng đáp:

- Thúc Bảo hiền huynh thường hay nói đến tên khách.

Kiến Uy vui mừng hỏi tiếp:

- Thúc Bảo hiện ở đâu?

Ngụy Trưng đáp:

- Khách đừng vội vàng thế! Nhanh hay chậm thì cũng chỉ gặp mặt Thúc Bảo thôi.

Kiến Uy vẫn dồn dập:

- Thúc Bảo đâu rồi!

Ngụy Trưng từ từ:

- Ngày mùng hai tháng mười, Thúc Bảo đến đây nhưng bị ốm nặng.

Kiến Uy dậm chân:

- Thế là thế nào? Hiện đâu rồi?

Ngụy Trưng vẫn thong thả:

- Ngày mười lăm tháng mười, Đơn viên ngoại đưa về Nhị Hiền trang để dưỡng bệnh. Đến mười lăm tháng mười một thì bệnh đã khỏi, có đến tạ ơn ở miếu này, nhưng vì trời lạnh nên vẫn ở Nhị

Hiền trang, Đơn viên ngoại giữ chưa cho về.

Kiến Uy nghe đến đây mới yên tâm. Chính là:

Tráng sĩ được vàng ngàn lạng

Hàn nho tên rạng tam nguyên

Đêm động phòng hoa chúc như tiên

Buổi họp mặt thân quen rạng rỡ

Như hùm thêm cánh vỗ

Như rồng gặp sấm ran

Lão nông được trận mưa tràn

Tuổi già thêm cành đan quế. (Theo điệu "Tây gian nguyệt")

Ngụy Trưng sai lấy trà rượu, hoa quả, ngồi tiếp Kiến Uy. Kiến Uy vì suốt ngày xông pha ngoài gió tuyết, người mệt mỏi, nên cũng uống khá nhiều rượu nóng, rồi ngủ kỹ. Mới sáng mai ra Kiến Uy đã trở dậy, mở hành lý, lấy bạc tạ ơn Ngụy Trưng. Nhưng biết là bạn Thúc Bảo, Ngụy Trưng nhất định không chịu nhận, lại giữ Kiến Uy lại dùng bữa sáng, rồi đưa ra khỏi cửa tam quan, chỉ đường tắt về Nhị Hiền trang, Kiến Uy cứ theo thế mà đi.

Lúc này Hùng Tín cùng Thúc Bảo đang ngồi trong thư phòng sưởi ấm, uống rượu, thưởng cảnh tuyết bên ngoài rất là thích ý. Đầy tớ vào thưa có ông khách xưng là họ Phàn, đem thư của Tần mẫu tới.

Thúc Bảo vui mừng:

- Đơn nhị ca, lão thân cho Kiến Uy đem thư tới rồi!

Hai người vội chạy ra đón. Thúc Bảo vui mừng reo lên:

- Đúng là hiền đệ rồi!

Kiến Uy cũng vội nói:

- Lần ấy chia hành lý, tiền bạc đều ở chỗ tiểu đệ, quên không chia. Tiểu đệ đã đưa lại cho bá mẫu, nhưng bá mẫu nhất định không cầm, bảo tiểu đệ giữ làm lộ phí để đi tìm đại huynh.

Thúc Bảo nói:

- Tiền bạc chẳng có bên mình, bao nhiêu chuyện rầy rà xảy ra.

Hùng Tín bàn:

- Những chuyện ấy khoan nói, hãy xin mời vào nhà đã!

Hùng Tín gọi đầy tớ cất hành lý, còn mình thì dẫn Kiến Uy vào thư phòng sưởi ấm. Hai bên lúc này mới làm lễ chủ khách. Thúc Bảo cũng chắp tay vái tạ Kiến Uy đã khó nhọc vì mình. Hùng Tín sai người nhà bày tiệc rượu. Thúc Bảo hỏi:

- Thân mẫu tiểu đệ sức khoẻ ra sao?

Kiến Uy đáp:

- Có thư của bá mẫu, đại huynh cứ xem sẽ rõ!

Thúc Bảo xem thư xong. Nước mắt chan hòa, lặng lẽ đứng đậy, thu xếp hành lý.

Một thư chữ mẹ đầy mong nhớ

Muôn dặm lòng con nỗi xốn xang.

Hùng Tín thấy thế, cứ yên lặng khẽ cười. Tiệc rượu đã bày ra, ba người cùng ngồi, gối kề gối, vai sát vai. Hùng Tín hỏi:

- Thúc Bảo, lệnh đường có khỏe không?

Thúc Bảo đáp:

- Thân mẫu hiện ốm nặng!

Hùng Tín hỏi:

- Thấy hiền huynh chuẩn bị hành lý, có lẽ định về Sơn Đông, ngay chăng?

Thúc Bảo chùi nước mắt đáp:

- Không phải tiểu đệ là kẻ vô ơn, ăn no rồi ưỡn bụng ra đi. Nhưng quả tình mẫu thân bệnh nặng, xin tạm biệt nhị ca. Sang năm sẽ quay lại xin tạ ơn tái tạo của nhị ca.

Hùng Tín đáp:

- Hiền huynh trở về, Hùng Tín này không dám ngăn trở. Nhưng đã là bạn bè thì phải làm cho nhau trở nên hoàn thiện hơn. Thần trung con hiếu, đời nào không có. Nhưng cần phải làm kẻ có lòng thành thực, chứ không phải để mua cái danh tiếng bề ngoài thôi!

Thúc Bảo hỏi:

- Xin nhị ca dạy cho. Thế nào là hiếu thật, thế nào là hiếu giả?

Hùng Tín đáp:

- Kẻ có hiếu lớn là hiếu thật, kẻ chỉ chăm sự hiếu nhỏ là hiếu giả. Vội vàng làm theo ý mình là hiếu giả. Cũng như bây giờ, hiền huynh ngày đêm lặn lội về quê, có vẻ là hiếu thật, nhưng thật ra là hiếu giả.

Thúc Bảo nước mắt lúc này đã khô, bất giác khẽ cười hỏi:

- Tiểu đệ gặp lúc vừa nghèo túng, vừa bệnh tật không nơi nương tựa xa cách thân mẫu đã lâu ngày, cũng là sự bất đắc dĩ, nay nghe thân mẫu bệnh nặng, ngày đêm trở về, cũng là sự chí tình của kẻ làm con, sao lại nói là hiếu nhỏ, hiếu giả được?

Kiến Uy đỡ lời cho Thúc Bảo rằng:

- Tần đại huynh nghe tin thân mẫu ốm là một lẽ, lẽ thứ hai là thân mẫu bệnh phải trở về ngay, nên vội lên đường, đó chính là hiếu lớn còn gì!

Hùng Tín giải thích:

- Chư huynh biết một mà không biết hai. Lệnh tiên quân (l) làm tướng nhà Bắc Tề, Bắc Tề mất, thân vong, những cái đó đều có nghĩa lớn, đại thần của một nước sắp mất, không thể tính đến chuyện sống còn của mình. Nhưng trời không nỡ nhìn thấy bậc trung thần tuyệt hậu, nên vẫn còn để lại cái vẻ anh hùng của hiền huynh. Hiện giờ chính là hiền huynh giữ lấy thân mình, chờ ngày lập nên sự nghiệp lẫy lừng, rạng rỡ họ Tần. Nay hiền huynh xông pha mưa tuyết gió lạnh, bệnh vừa mới đỡ, nếu giữa đường bệnh trở lại, nguyên khí không thể giữ nổi, vạn nhất có lúc hai là dài, ba là ngắn, đến nỗi mất cả kẻ nối dõi họ Tần, mất cả sự kỳ vọng suốt đời của bá mẫu, thì dù cho là chí tình, nhưng vẫn không phải là đạo hiếu. Kẻ quân tử đi, nhưng không chịu đi đường tắt, ngồi thuyền chứ không chịu bơi tay không, dù gặp lúc phải đi vội, nhưng cũng không dám quên chữ hiếu. Xông pha trong tuyết lớn như thế. Hùng Tín này không dám nghe theo vậy!

1 Gọi kính cẩn cha đã mất của bạn bè.

Thúc Bảo bèn hỏi:

- Nếu thế thì tiểu đệ không về nữa, mới là hiếu hay sao?

Hùng Tín cười đáp:

- Ai bảo hiền huynh không về. Chẳng qua chỉ là hãy biết chờ thêm ít lâu. Vả lại bá mẫu là bậc hiền thục, hiểu mọi lý lẽ. Nay nhờ Kiến Uy đi tìm hiền huynh, cũng chỉ vì lòng yêu con của người mẹ, không hiểu tình cảnh con mình ra sao, không thể ngồi yên. Nay hiền huynh viết một phong thư, kể cả rõ việc lãnh công văn lâu ra làm sao, đang khi trở về thì ngã bệnh làm sao, đến này thì đã khỏi hắn, nhưng vẫn chưa thể dãi tuyết dầm sương, nghe mẫu thân ốm nặng bảo về ngay, nhưng Hùng Tín này giữ lại chưa cho về. Lệnh đường thấy hiện huynh đã có nơi chốn dưỡng bệnh, thì sầu não càng vơi dần, biết rõ bệnh tình của hiền huynh chưa thật khỏi, cũng không lòng nào để con dầm sương tuyết. Hùng Tín này với hiền huynh đã là "Nhất bái chi giao", mẫu thân của hiền huynh cũng là mẫu thân của Hùng Tín này, ta sẽ sắm ít lễ vật, gửi về an ủi bá mẫu, nhờ luôn Kiến Uy đem theo công văn về nạp cho phủ đường Tế Châu, trình rõ với Lưu thái thú, ốm đau ở Lộ Châu thế nào, đến nỗi hiền huynh chưa về được. Thế là việc công việc tư đều đầy đủ. Đợi đến ngày xuân nắng ấm, lúc đó Hùng Tín sẽ vì hiền huynh mà kiếm ít vốn liếng, để khi hiền huynh trở về, không thèm làm công sai ở phủ đường nữa. "Cầu vinh bất tại chu môn hạ" . Làm các việc này, luôn bị sai phái, mất cả tự do, để đến nỗi bá mẫu ngày ngày trông đợi, lo lắng, thật không tròn đạo hiếu vậy! Ngồi đợi thời, không phải là không có hiếu đâu!

Thúc Bảo nghe Hùng Tín nói có tình có lý, lại cũng thấy mình chưa dãi dầu tuyết lạnh, đường xá xa xôi, bèn nói với Kiến Uy:

- Tiểu đệ biết làm thế nào bây giờ, nên về cùng với hiền đệ hay viết thư về trước đã?

Kiến Uy đáp:

- Đơn nhị ca nói rất hợp tình, hợp lý. Bá mẫu mà biết đại huynh ở đây, lập tức yên tâm, bệnh tình tự nhiên sẽ khỏi, cũng không đòi đại huynh phải về ngay nữa đâu!

Thúc Bảo quay lại nói với Hùng Tín:

- Nếu thế, tiểu đệ xin viết thư gửi về để yên lòng thân mẫu.

Thúc Bảo viết xong thư, đưa kèm cả công văn cho Kiến Uy, nhờ nạp lại cho phủ đường Tế Châu. Hùng Tín quay vào nhà trong, lấy ra bốn tấm lụa Lộ Châu, ba mươi lạng bạc, gửi về biếu Tần mẫu, lại thêm hai tấm lụa Tô Châu, mười lạng bạc đưa tặng Kiến Uy. Ngay hôm đó, Kiến Uy từ biệt trở về Sơn Đông, đem thư từ, tiền bạc trình Tần mẫu, và nạp công văn cho phủ đường Tế Châu.

Hùng Tín vẫn giữ Thúc Bảo ở Nhị Hiền trang dưỡng sức. Hôm ấy Thúc Bảo đang nhàn rỗi trong thư phòng, xem hoa ngắm tuyết, Hùng Tín nói vào mấy câu chuyện phiếm, nhưng mặt mày ủ dột thảng thốt như có điều lo lắng.

Thúc Bảo thấy thế, sợ Hùng Tín chán khách rồi chăng, nhịn chẳng nổi, bèn hỏi:

- Nhị ca mọi hôm nói cười vui vẻ, hôm nay xem ra có điều gì không vui?

Hùng Tín đáp:

- Hiền đệ không biết, Hùng Tín này ít khi chợt vui, chợt buồn. Gần đây, vong huynh lỡ phải tên mà mất, Hùng Tín này mất ăn mất ngủ luôn mấy ngày, nhưng rồi mọi chuyện xếp dặt xong xuôi, coi như bỏ ngoài cửa. Nay lại gặp chuyện khó nói khác, vốn là chuyết thê (l) chẳng may mắc bệnh xoàng, thuốc thang vẫn chưa khỏi, vì vậy Hùng Tín này không khỏi có chút lo lắng.

1 chuyết thê: người vợ vụng về. Tiếng khiêm nhường để chỉ vợ mình, trước mặt người khác.

Thúc Bảo hỏi:

- Quả là tiểu đệ quên hỏi nhị ca, nhị tẩu vốn thuộc tôn tộc nào, về Nhị Hiền trang này đã bao lâu?

Hùng Tín đáp:

- Chuyết thê vốn là cháu của đô dốc Thôi Trường Nhân, ngày xưa nhạc phụ cùng phụ thân Hùng Tín này đi lại với nhau thân thiết, chẳng bao lâu, cả phụ mẫu đều mất, gia cảnh khốn đốn, lúc này mới về Nhị Hiền trang. Cũng mừng là nàng vừa hiền vừa lanh lợi, có điều đã lấy nhau bảy tám năm nay mà chẳng sinh đẻ gì, mãi tới mùa xuân năm nay mới mang thai, tính ra thì tháng mười một này đã phải sinh, vì vậy có phần lo lắng không yên.

Thúc Bảo lựa lời an ủi:

- Tiểu đệ nghe các cụ ngày xưa nói, sinh con hổ, con lân thường không phải dễ. Phương chi, trời cũng lựa tướng mà trao điềm lành, theo thời tiết, dưa đến kỳ sẽ chín, nhị ca cũng chẳng nên lo lắng thái quá!

Trò chuyện chưa dứt, thấy đầy tớ vội vàng chạy vào thưa:

- Ngoài cửa có một nhà sư người Phiên (1) gõ cửa đòi bố thí, đuổi mấy cũng không đi.

1 "phiên quốc tăng nhân": Có lẽ là nhà sư, người vùng Tây Tạng, theo đạo Phật thuộc dòng Lạt ma?

Hùng Tín thấy nói thế liền cùng Thúc Báo ra xem, thì thấy một nhà sư người Phiên, mặc áo cà sa bằng lông thú đủ màu sắc rực rỡ, vai quảy một cây trượng dài, nhìn dáng người thì:

Hô sâu tròng mất

Nét rậm lông mày

Sống mũi cao như mỏ ưng bay

Râu tóc xoắn như bờm sư tử

Miệng lẩm bẩm đọc kinh niệm chú

Tay rung chuông, tay gõ phèng la

Tòa sen hiện Phật Thích Ca

Thiết Quài nhập xác, Lạt Ma giáng trần.

Hùng Tín hỏi:

- Sư trưởng định dùng cơm chay hay rượu thịt?

Nhà sư đáp:

- Ta không ăn chay!

Hùng Tín liền sai đầy tớ bưng ngay ra một đĩa thịt bò lớn, một đĩa bánh bao, đặt trước mặt nhà sư, rồi cùng Thúc Bảo ngồi bên xem xét. Nhà sư múa tít hai tay một lúc, thì cả hai đĩa đều sạch nhẵn.

Thấy thế Hùng Tín bèn hỏi:

- Bây giờ sư trưởng đi đâu?

Nhà sư đáp:

- Giờ bần tăng phải đi Thái Nguyên, rồi từ đó chuyển đường đi Tây Kinh.

Hùng Tín hỏi:

- Tây Kinh vốn là vùng đất hoang vu, trưởng lão là nhà tu hành, đến đó làm gì?

Nhà sư đáp:

- Nghe nói hiện nay chúa thượng mỏi mệt, công việc triều chính, đều giao cho Thái tử coi sóc. Thái tử là người ương ngạnh, không muốn yên ổn, cho nên bần tăng muốn tới Tây Kinh, hái dược liệu làm thuốc, dâng Thái tử.

Thúc Bảo hỏi:

- Thế hiện nay trong khăn gói trưởng lão, có loại thuốc nào đặc biệt chăng?

Nhà sư đáp:

- Tất cả các loại thuốc đều có.

Hùng Tín hỏi tiếp:

-Xin hỏi trưởng lão có thuốc điều kinh thôi sản, xin cho một liều.

Nhà sư đáp:

- Có

Rồi lấy trong tay nải ra một cái hồ lô, dốc ra một viên thuốc chỉ bằng hạt đậu lớn, lấy một miếng giấy màu vàng gói lại, đưa cho

Hùng Tín dặn dò:

- Cầm lấy, bao giờ có trống điểm canh thì cho uống, dùng nước trầm hương mà tiêu, nếu uống xong mà sinh ngay là con gái, ngày hôm sau mới sinh nhất định là con trai.

Nói xong thì đứng dậy ra cửa, cũng chẳng một lời ơn nghĩa, nhìn theo, đã không thấy đâu nữa rồi. Hùng Tín kéo tay Thúc Bảo lại thư phòng. Thúc Bảo cảm thán:

- Chúa thượng bỏ bê chính sự, bốn bể giặc giã như ong dậy, đến nỗi mãi ở Phiên quốc đều hay. Tương lai chúng ta rồi sẽ thế nào đây nhị ca?

Hùng Tín đáp:

- Lo lắng chuyện ấy làm gì. Nếu như có biến đi nữa, bọn ta càng có điều kiện để mở mày mở mặt với thiên hạ, xây được cơ nghiệp cho bản thân. Chẳng hơn cứ dấm dúi qua ngày như thế này sao?

Nói xong, Hùng Tín bỏ vào nhà trong.

Đêm hôm đó, Hùng Tín lấy viên thuốc nhà sư người Phiên cho, đưa Thôi phu nhân uống. Đến đúng giữa giờ tý* bỗng thấy khắp nhà hương hoa sen thơm ngát, phu nhân liền sinh con gái, vì vậy đặt tên là ái Liên. Vợ chồng đều mừng rỡ khôn tả. Thúc Bảo được tin cũng rất hân hoan.

* Giờ tý: từ 23 giờ đến 1 giờ, giữa giờ tý là 24 giờ đúng.

Thấm thoát quang âm, chẳng bao lâu đã tới ba mươi tết, Hùng Tín ngồi uống rượu với Thúc Bảo bên lò sưởi mãi tới sáng, chuyện trò đến quên cả cảnh tha hương, khách địa. Sáng mai ra đã là tháng giêng, năm thứ hai đời Nhân Thọ* rồi. Rượu uống mừng năm mới, Thúc Bảo nửa tỉnh nửa say nghĩ đến công nghiệp chưa thành, thân thế nổi trôi, xa mẹ, bỏ vợ con lòng vô cùng xốn xang.

* Tức năm 602, sau công nguyên, ở Việt Nam ta là năm thứ 32, thời Lý Phật Tử, hậu Lý Nam Đế.

Rượu rót mừng đuổi sầu đi

Sầu trông còn đó, rượu thì cạn không.

Rồi lại đến rượu của đêm nguyên tiêu, tết rằm tháng giêng. Hùng Tín suốt mấy tuần khó nhọc, nên đến chiều ngày mười tám, tháng giêng thì vì quá mệt mỏi, lui vào nhà sau nằm ngủ. Thúc Bảo vì nhớ người nhà, không thể nào ngủ được, chỉ đành quanh quẩn dạo dưới đèn. Mấy người đầy tớ trong trang trại, thấy thế bèn hỏi:

- Tần quý khách vẫn chưa đi nằm sao?

Thúc Bảo đáp:

- Ta thật nóng lòng muốn về Sơn Đông quá chừng. Nhưng vì hậu tình của viên ngoại, đến nổi mở miệng xin về cũng khó nói. Các người hãy chịu khó giúp ta ra về. Ta sẽ để lại một lá thư, tạ lỗi cùng viên ngoại.

Chỉ vì chủ nhà hiếu khách, nên bọn đầy tớ cũng rất ân cần, bèn thưa:

- Tần quý khách ở đây, chính là chẳng có nơi ở nào tốt hơn. Bọn tôi tớ chúng tôi, sao lại dám để Tần quý khách ra đi được!

Thúc Bảo bèn nói:

- Nếu thế, ta sẽ có cách!

Thế rối trong phòng nhìn ngang nằm ngửa, chỉ tay, gật đầu, như kiểu đang mưu tính gì. Bọn đầy tớ sợ giữ Thúc Bảo không xong, lỡ Thúc Bảo bỏ trốn mất, thì thật không biết trình với chủ thế nào, cho nên cả bọn bàn tính. kẻ thì ở lại hầu hạ trông chừng, kẻ vào nhà trong báo với chủ :

- Tần quý khách muốn về quê, thưa chủ nhân!

Hùng Tín nghe nói thế khoác áo, lê dép vội ra, hỏi:

- Hiền huynh nồi hứng muốn về chăng? Không phải vì Hùng Tín này đối xử khiếm khuyết gì chứ? Nếu quả thế thì thật đáng tội Hùng Tín này.

Thúc Bảo đáp:

- Tiểu đệ nôn nóng muốn về quê, ngày đêm không yên dạ, nhưng thấy nhị ca nặng tình, nặng nghĩa, nên không dám ngỏ lời. Nay thật không thể nào ở lại được nữa, ngồi đứng không yên, xin nhị ca tha tội!

Nói rồi rơi nước mắt, cảnh này, tình này thật hợp với bài "Tập Đường thi"* của đời sau:

*"Tập Đường thi": dùng lại hoàn toàn, hoặc chữa một hai từ, những câu thơ Đường khác bài, khác tác giả để chấp thành bài mới. Giống hình thức "Tập Kiều" của ta vậy!

Xuân về, đất khách vẫn lân la

Gặp tết, bâng khuâng lại nhớ nhà

Ôi hỡi, trông vời mây khói nọ

Dài sông xa núi não lòng ta!

Hùng Tín an ủi:

- Hiền huynh chẳng cần phải thương cảm đến thế. Ngày mai, Hùng Tín sẽ đưa hiền huynh lên đường về với bá mẫu. Đêm nay hãy xin ngủ một giấc thật ngon lành, sáng mai lên đường sớm.

Thúc Bảo vội hỏi:

- Có thật thế không?

Hùng Tín đáp:

- Hùng Tín một đời chẳng từng thay lời. Chẳng nhẽ lại định nói dối hiền huynh sao!

Nói rồi vào nhà trong sửa soạn. Thúc Bảo lại càng thấp thỏm, đứng ngồi không yên. Bọn đầy tớ đùa:

- Tần quý khách từ lúc được viên ngoại hứa cho về quê, mặt mày trông thật rạng rỡ hẳn.

Thúc Bảo cố tình lên giường nằm ngủ. Vì sao Hùng Tín phải giữ Thúc Bảo mãi đến nay mới cho về, thì ra từ ngày mùng một tháng mười, mua được con hoàng phiêu của Thúc Bảo, sau đó được Bá Đương, Huyền Thúy nói cho biết mọi chuyện, Hùng Tín liền gọi thợ yên ngựa giỏi, theo kích thước của con hoàng phiêu làm một bộ yên cương thật đẹp, khảm bạc, bịt đồng hẳn hoi, mãi tới tết nguyên tiêu vừa rồi mới xong, thật tinh xảo, ánh kim lấp lánh. Lại muốn tặng Thúc Bảo một số vốn lớn, nhưng chỉ sợ Thúc Bảo không chịu nhận, nên mới làm một cái khăn lớn phủ trùm lên yên ngựa. Phía sau cái khăn này là một cái túi lớn, bạc đánh thành từng thỏi dẹp bỏ vào túi buộc lại phía sau yên ngựa, không hề nói gì với Thúc Bảo về số bạc này, coi như chỉ khăn phủ trên yên mà thôi. Rồi mới dắt con hoàng phiêu ra, để Thúc Bảo thấy ngựa đã cường tráng, yên cương đầy đủ, sẵn sàng cho Thúc Bảo lên đường.

Thúc Bảo ý muốn tới Đông Nhạc chào Ngụy Trưng, Hùng Tín liền cho người mời Ngụy Trưng tới nhị Hiền trang. Chủ khách cũng ngồi vào bàn tiệc. Bàn bên bày ra mười tấm gấm Lộ Châu ngũ sắc, đủ để làm bốn chiếc áo bông lớn và năm mươi lạng bạc làm lộ phí.

Hùng Tín mời Thúc Bảo cạn một chén rượu, chỉ lễ vật trên bàn bên, nói:

- Đây là lễ mọn, xin hiền huynh nhận cho. Xin hiền huynh nhớ kỹ đừng quên câu "Cầu vinh bất tại chu môn hạ", nhé!

Ngụy Trưng tiếp lời:

- Thúc Bảo hiền huynh chịu nép dưới kẻ khác, làm tổn thương cả chí khí kẻ anh hùng. Huống chi, Ngụy Trưng này đã từng gặp bậc dị nhân mách rằng: chân chúa đã ra đời, nhà Tùy chẳng còn được bao lâu. Anh hùng như hiền huynh, nhất định phải là kẻ công thần khai quốc. Ngụy Trưng này, dẫu có khoác chiếc áo vàng của đạo sĩ, chẳng qua cũng để đợi thời mà hành động. Hiền huynh hãy nghe lời viên ngoại. Trời sinh ta có tài, đừng để uổng phí?

Thúc Bảo trong lòng thầm nghĩ: "Ngụy Trưng nói thế còn có lý. Còn Hùng Tín biết ta rất rõ, chỉ cần lưu lạc ở quê người vài tuần, đã trở thành kẻ khố rách ngay. Nay với mấy chục lạng bạc này, mà bảo ta đừng vào làm việc ở phủ đường nữa. Có ngờ đâu rằng, ta tuy làm việc ở phủ đường nhưng chỉ cần đi lại với bạn bè trên dưới, những chi phí lễ nghĩa, thì một năm cũng được mấy trăm lạng rồi! Thế mà Hùng Tín nói chuyện đâu đâu!". Thúc Bảo nghĩ vậy nhưng vẫn đáp lời Ngụy Trưng:

- Những lời vàng đá của các vị huynh trưởng, tiểu đệ xin ghi nhớ vào gan dạ. Lòng trở về như tên bắn, không thể uống nhiều.

Hùng Tín lấy chén, rót ba chén, cùng Thúc Bảo uống cạn. Ngụy Trưng cũng rót ba chén cùng uống với Thúc Bảo. Thúc Bảo nhận tặng vật của Hùng Tín, buộc vào sau yên, chắp tay vái biệt. Chính là:

Dùng dằng không nỡ rời tay

Rượu ngon mà chẳng dám say chén kề

Đốt lòng ta, nỗi nhớ quê

Nào đâu dám nhẹ chia ly buổi này.

Ra khỏi cửa vừa lên ngựa, Thúc Bảo đã kéo thẳng dây cương. Hoàng phiêu đã nhận ra chủ cũ, ngựa mạnh, người khỏe, đi một hơi đã thấy ba mươi dặm. Lúc này mới dừng cương, Thúc Bảo quay nhìn, thì thấy hành lý sau yên đã sa hẳn một bên. Nếu Thúc Bảo tự chuẩn bị hành lý, yên cương, thì đã cân đối, chắc chắn, nhưng đây lại là bọn đầy tớ của Hùng Tín buộc không chặt, nhất lại bạc nặng gói bên trong, ngựa chỉ cần phi một đoạn đã lỏng thêm rồi. Thúc Bảo trông thấy nghĩ thầm: "Buộc không chắc, bạn bè cho gì, rơi dọc đường hết, thật là phụ lòng tốt của bạn. Không được chậm, nhưng cũng không được sai sót, phía trước đã là thôn trấn nào đó, hãy nghỉ lại đêm nay. Sáng sớm canh năm, ta trở dậy buộc lại mọi thứ hãy đi, thì chẳng mất mát gì được nữa?" Thúc Bảo liền tìm vào quán trọ. Vùng này vốn là rừng Tạo Giác, cũng bởi vận hạn của Thúc Bảo chưa hết, nên vẫn phải còn một tai họa lớn nữa.

Chẳng biết tính mạng Thúc Bảo ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ

Hồi Thứ Mười Hai

Rừng Tạo Giác hở cửa chuốc tai ương,

Thôn Thuận Nghĩa trên đài gặp địch thủ.

Thơ rằng:

Giàu nghèo vốn chuyện rủi may

Giàu mà rủi, nghèo gặp may, sự thường

Túi đầy châu nặng, dễ vương

Nhà thanh bạch, trí như gương, khác gì

Thạch Sùng (1) chuyện cũ còn ghi

Băn khoăn nữa, thì cứ đi hỏi trời.

1 Thạch Sùng: giàu nổi tiếng đời Tấn. Rất xa hoa lấy nến làm củi, bạn với Vương Khải. Bị dèm pha, đến nỗi Triệu Vương giết giữa chợ, vợ con, của cải mất hết. Tương truyền cùng Vương Khải thi giàu bị thua, hóa thạch sùng, tắc lưỡi vì tiếc của.

Phàm người ta, không tiền của khó mà mở mày mở mặt, nhưng trong tay nhiều tiền của thì thường hay mắc lụy. Làm một người dân thường, lắm của nhiều tiền, trước nhất được mang tên thằng tù giữ của, rồi quan ty nhìn ngó, thân hữu ghét ghen. Nếu để người ngoài thấy túi nặng, tất xảy chuyện cướp đoạt, đi một bước ngại ngần, lòng lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, thật là trong phúc có họa, rất dễ mang họa vào thân.

Nói chuyện vào lúc Thúc Bảo đặt chân đến rừng Tạo Giác. Vùng này thường vẫn có cướp, chuyên cướp đoạt hành lý của khách lại qua. Đơn gửi về phủ Lộ Châu kể cớ hàng mấy chục, nhưng quan quân vẫn chẳng làm gì nên chuyện. Ở đây, có một chủ quán trọ họ Trương, tên Kỳ, lâu nay vẫn là bảo chính trông coi cả vùng. Vợ Trương thì cả ngày ngồi sau quầy hàng, đon đả chào mời, sai phái đàn em, lôi kéo hành lý, tranh nhau khách khứa với các hàng khác. Hôm ấy họ Trương vừa bị Sái Thái thú Lộ Châu đánh cho mười roi, bắt phải tóm cho kỳ được bọn cướp ở rừng Tạo Giác. Từ quan chí dân, ai cũng biết giữa bọn cướp với những quán trọ trong vùng đều một cánh với nhau, chính vì biết thế, nên Sái Thái thú mới khoác chặt việc này lên cổ Trương Kỳ. Trời vừa tối, họ Trương cũng vừa kịp kéo bọn lính của bọn phủ về tới cửa quán. Thúc Bảo đang trong phòng trọ, nghe bên ngoài ồn ào tiếng người, tiếng ngựa, tưởng có khách trọ mới tới nên không để ý.

Trương vào nhà, kể lể với vợ:

- Bọn cướp thì được của rồi chuồn mất. Lão Thái thú thì ôn dịch hồ đồ, đem cái việc khổ sở này buộc vào cổ ta chẳng khác gì bắt gió, giỡn trăng. Bảo ta tìm đâu ra bọn cướp để nạp bây giờ.

Vợ Trương khẽ ra hiệu, vợ chồng dẫn nhau vào nhà trong, bọn lính bám theo để nghe vợ chồng rương bàn bạc ra sao. Vợ Trương thì thầm:

- Vừa chiều có một khách trọ mới vào, rất đáng nghi ngờ.

Bọn lính nghe thế, vội xúm lại hỏi:

- Xin bà chủ nói rõ xem nào. Việc này quả rất đáng quan hệ đến mạng sống chúng tôi đấy!

Vợ Trương đáp:

- Các bác đừng to tiếng thế. Khách hiện vẫn đang trong quán mà!

Một tên lính hỏi dồn:

- Làm sao bà chủ biết được người khách trọ này đáng ngờ nào?

Vợ Trương đáp:

- Người này mặc quần áo mới, dây khăn chỉnh tề, lại mang khí giới, cưỡi một con ngựa cao lớn. Nếu là nhân viên phải có lính tráng theo hầu, là khách buôn thì cũng phải có bạn bè, đầy tớ, đằng này lại một mình vào quán, không đáng nghi ngờ còn gì nữa?

Bọn lính cùng khen nịnh:

- Bà chủ nói có lý lắm. Trước hết là cứ xem con ngựa của hắn ra sao là biết!

Cả bọn cầm đèn ra phía chuồng ngựa, thì rõ là một con ngựa to khỏe không phải là vùng Lộ Châu mà là ở nơi xa đến, không khác gì ngựa của bọn cướp vẫn thường có. Một người lính khẽ hỏi:

- Hắn đang ở phòng nào?

Vợ Trương giơ tay chỉ:

- Hiện đang ở phòng ngay gần cửa kia.

Cả bọn lại tắt hết đèn đóm, giờ chỉ còn mỗi phòng Thúc Bảo sáng đèn. Cả chủ quán lẫn bọn lính rón rén nhìn qua khe cửa thì thấy Thúc Bảo vừa ăn bữa tối xong, mọi thứ đã thu dọn tươm tất, rồi đóng chặt cửa phòng, sửa soạn hành lý, chăn gối định đi ngủ để mai còn đi sớm. Mở túi hành lý ra, Thúc Bảo mới biết có rất nhiều thỏi bạc trong đó, tò mò không rõ ít nhiều lại cũng chưa thể ngủ ngay được nên Thúc Bảo đổ tất cả ra giường, thì thấy một giường đầy những thỏi bạc đã được đập dẹp lại, vuông vắn chẳng khác gì những viên gạch nhỏ. Thúc Bảo vừa mừng vừa ngạc nhiên cảm kích, thầm nghĩ: "Đơn Hùng Tín, Đơn Hùng Tín! Đại huynh bảo Tần Quỳnh ngày trở về Sơn Đông, đừng nên nhận làm tiếp công sai ở phủ đường, là do những thứ đại huynh đã chuẩn bị sẵn cho thế này đây. Nhưng sợ ta từ chối, nên phải giấu kỹ trong khăn gói. Đơn nhị ca thật hết lòng với bạn bè!". Vì chưa biết mỗi thỏi nặng bao nhiêu, Thúc Bảo đặt từng thỏi lên lòng tay ướm thử. Có ngờ đâu "bên vách vẫn có tai, ngoài đâu có vắng". Bọn lính thấy vậy, bàn với nhau: "Đúng là tướng cướp rồi. Nếu là khách thường, tiền ở nhà đem đi, nhiều ít nặng nhẹ, thì biết rõ cả. Hoặc nữa, tiền chủ giao cho, thì đã cân đếm rõ ràng, chẳng thể có chuyện không biết, để đến nỗi giữa quán trọ, ngồi xem nặng nhẹ. Số bạc này khó mà chối là không phải của ăn cướp, còn tay này rõ là cường đạo không còn hồ nghi gì nữa". Có kẻ giục:

- Trói hổ không nên trù trừ.

Trước hết, bọn lính dắt ngựa giấu đi chỗ khác, rồi chọn lấy cái dây thật tốt, đến trước cửa phòng Thúc Bảo, buộc vào cột, vào càng xe, vào chân hòm lớn nhằm làm vướng ngã Thúc Bảo. Giờ chỉ cần một người có gan vào phòng dụ Thúc Bảo ra.

Chủ quán họ Trương từ lúc thấy bạc của Thúc Bảo bày trên bàn, trong lòng đã nghĩ: "Của này ở đâu ra, ai mà khảo được, chi bằng xông vào trước cướp lấy mấy thỏi, sợ gì tay này". Họ Trương bèn nói với bọn lính:

- Xin các bác thư thả. Các bác vốn không quen đường ra cửa vào của quán, hãy đợi tôi xông vào trước, dụ hắn ra có tốt không?

Bọn lính vốn dày dạn, đáp ngay:

- Vâng, xin nhường bác vào trước!

Họ Trương nguyên đã uống tới hai ba bát rượu hâm nóng, hùng hổ đạp mạnh cánh cửa. Cửa quán vốn đóng mở đêm ngày, lại cũng đã lâu nên chỉ cần họ Trương đạp nhẹ cũng gãy nát, Trương lập tức xông vào. Thúc Bảo hoàn toàn bất ngờ, thấy có kẻ đột nhiên xuất hiện, cướp bạc của mình, nổi giận đùng đùng, hai tay đấm tới tấp, nghe bịch, bịch liên tiếp mấy cái, đã thấy họ Trương bắn ra tường, chỉ kịp rú lên một tiếng khủng khiếp, đầu đã vỡ nát, óc bắn tung tóe khắp phòng.

Chính là:

Những tưởng bạc vàng vào túi cạn

Nào ngờ tính mạng gửi trời cao.

Bên ngoài cảnh tượng càng nhốn nháo, tiếng la hét ầm ĩ:

- Kẻ cướp đánh lính, giết người!

Cả nhà họ Trương thi nhau gào khóc. Thúc Bảo thoáng nghĩ: "Thôi đã lỡ tay đánh chết người, nếu vào thành thú tội, nợ không biết bao giờ gỡ cho xong. Ta lại chưa khai họ tên gì với chủ quán, chi bằng vứt quách hành lý, bỏ trốn là hơn." Lập tức Thúc Bảo lao thẳng ra khỏi cửa, không ngờ vướng ngay dây, ngã lăn quay ra đất. Bọn lính xúm lại dùng câu liêm vừa chặn vừa kéo, lại vác năm sáu cây thủy hỏa côn, nện tới tấp. Thúc Bảo chỉ còn cách nằm co dúm lại, hai tay ôm chặt lấy đầu, mặc cho bọn lính đánh, cán dao gãy, đoản côn nát, chúng lại lấy roi sắt, gậy, đây xích quật tiếp, thì ra:

Hổ lọt hang sâu khôn giơ vuốt

Rồng trong lưới sắt khó bay cao.

Khi khắp người Thúc Bảo đã đầy thương tích, chúng cởi hết quần áo, lấy dây trói chặt, đem giấy bút lại, bắt Thúc Bảo ký nhận là cường đạo. Thúc Báo chối:

- Các bác xem lại. Tôi đâu có phải là cường đạo. Mà là công sai của phủ Tế Châu, dưới trướng Lưu thái thú. Tháng tám năm ngoái phải giải phạm nhân, đem công văn tới phủ Lộ Châu, không may bị ốm đau, được bạn bè chu cấp tiền về quê. Nào ngờ các bác nhận nhầm người là cường đạo, đến nỗi lỡ tay đánh chết người, xin các bác cứ giải lên quan xét xử rõ ràng.

Bọn lính đâu dễ tin, chúng thu thập tất cả tiền bạc, đồ đạc, khai rõ từng tang vật, trói Thúc Bảo lên lưng ngựa. Vợ con Trương Kỳ nhờ người trong thôn viết sẵn đơn kiện, rồi cả bọn rời khỏi rừng Tạo Giác đi về phủ Lộ Châu. Đây là lần thứ hai, Thúc Bảo đến thành Lộ Châu.

Đến cổng thành thì đã canh ba, cả bọn gào gọi lính gác:

- Rừng Tạo Giác bắt được giặc cướp, đánh lính, giết người, nhờ báo hộ với quan Thái thú!

Lính gác vào trình, Sái thái thú lập tức sai lính ra mở cổng thành, đưa cả đoàn vào phủ, cho gọi tham quan tới xét hỏi. Tham quân Lộ Châu vốn là Hộc Tư Khoan, người Liêu Tây, đang ngủ say bị gọi dậy, rượu lại chưa tỉnh, liền gọi bọn lính hỏi trước, nghe xong, nôi ngay:

- Thu được hơn bốn trăm lạng bạc, có ngựa khỏe, có vũ khí nặng thì rõ là kẻ cướp rồi còn gì nữa!

Rồi cho giải Thúc Bảo vào, quát:

- Tên kia, họ tên gì, quê quán ở đâu?

Thúc Bảo vội thưa:

- Trình quan lớn, tiểu nhân không phải kẻ cướp, mà là Tần Quỳnh, công sai của phủ Tế Châu. Tháng tám năm ngoái đến đây, có giấy tờ của Lưu thái thú nhận thực hẳn hoi.

Tham quân họ Hộc hỏi:

- Giấy tờ đâu?

Thúc Bảo thưa:

- Thưa đã gởi bạn cầm về trước cả rồi!

Họ Hộc lại nạt:

- Lại nói láo rồi! Tại sao mày đến phủ này từ tháng tám, giờ vẫn còn ở đây, nhất định lại ẩn náu ở sào huyệt gần đây hẳn thôi!

Thúc Bảo thưa:

- Tiểu nhân bị ốm đau nên chưa về được!

Họ Hộc lại truy:

- Số bạc lớn này lấy đâu ra?

Thúc Bảo thưa:

- Của bạn bè cho ạ!

Họ Hộc lại quát:

- Nói láo, thời buổi bây giờ, một đồng cũng khó kiếm, ai có mà cho mày một lúc bấy nhiêu. Nhưng sao lại dám chống cự lại lính, đánh chết Trương Kỳ?

Thúc Bảo thưa:

- Chiều tối ngày mười chín, tiểu nhân vào trọ quán Trương Kỳ, bỗng dưng Trương Kỳ dẫn người xông vào phòng trọ cướp bạc của tiểu nhân. Tiểu nhân lỡ tay, Trương Kỳ đâm đầu vào tường chết.

Họ Hộc lại truy tiếp:

- Đánh lính, giết người, tội đã rõ. Lúc này đem công văn tới Đây, ăn ngủ ở đâu. Nếu thật có ốm đau nữa, thì nằm ở đâu, ai trông nom, khai rõ tên từng người, ta sẽ cho gọi tất cả lên đối chứng rõ ràng, phải có phải, trái có trái, rồi sẽ kết tội cũng chưa muộn.

Thúc Bảo chỉ còn cách khai Vương Tiểu Nhị, Ngụy Trưng, cùng Đơn Hùng Tín, tham quân họ Hộc ghi tất cả vào biên bản, kiểm tra tang vật, cho nhốt ngựa vào chuồng, chờ gọi đủ nhân chứng đến thẩm vấn, đưa Thúc Bảo xuống giam trong nhà ngục.

Chính là: .

Bỗng không thân rơi vòng tù tội

Nghìn miệng khó chối nỗi tai ương.

Ngày hôm sau, Hộc Tham quân trình với Sái thái thú:

- Phạm nhân hôm qua đại nhân cho đưa xuống, tên gọi Tần Quỳnh, phạm tội chống lính giết người, khai là công sai của phủ Tế Châu, nhưng không có công văn làm bằng cứ, lại có rất nhiều bạc, kèm cả khí giới ngựa khỏe, rất đáng khả nghi. Việc đánh chết Trương Kỳ đã có xác thực, nhưng còn chờ khám nghiệm tử thi, thẩm vấn tội phạm, cùng can phạm, lúc đó mới có kết luận trình đại nhân.

Sái Thái thú nói:

- Việc này lớn, phiền tham quân lưu ý tra xét cẩn thận cho.

Họ Hộc trở về phòng, xem xét lại giấy tờ, cho gọi Vương Tiểu Nhị, Ngụy Trưng, Đơn Hùng Tín vào phủ đối chứng.

Vương Tiểu Nhị ở ngay trước cửa phủ, chưa cháy hết cây hương đã tới. Y khai quán trọ của mình vốn là nơi ăn ngủ của công sai các phủ, ngoài ra không biết gì khác. Phủ đường Lộ Châu ai cũng biết tên tuổi, tâm địa y, nên được tha ngay. Ngụy Trưng bị gọi đến, bởi có chứa chấp Thúc Bảo, cũng bị dọa nạt ít nhiều, phải mất một thỏi bạc lớn mới được tha về. Còn Hùng Tín sai đầy tớ mang theo hàng nghìn lạng bạc sớm tối tự mình cùng đầy tớ đi khắp nơi trong phủ, lại vốn quen biết Đổng Hoàn, hiệu Bội Chi và Kim Giáp hiệu Quốc Tuấn, đều là những bậc đàn anh trong đám nha lại của phủ Lộ Châu. Hùng Tín giao cả số bạc lớn đó cho hai người này lo lót các nơi trong phủ.

Đông Kim vì thế tìm vào tận ngục gặp Thúc Bảo nhiều lần, bàn cách khai báo cho khớp. Cho tham quân họ Hộc cũng được lo lót trước tiên, vì thế những vụ liên can đến Ngụy Trưng cũng được nhẹ nhàng, trôi chảy. Việc khám nghiệm tử thi ở Tạo Giác, Bội Chi cùng Quốc Tuấn đã đút lót cho bọn tay chân, đổ cho Trương Kỳ đập đầu phải tường mà chết. Bọn lính ở đội bắt cướp lần đó, vì cũng đã được lót tay rất hậu, nên cũng không tên nào kêu ca gì. Còn số bạc nhiều đến thế, cả bọn đã dặn Thúc Bảo khai là của Bồ Sơn Công Lý Mật và Vương Bá Đương cho. Từ đó, Thúc Bảo không bị hành hạ, đánh đập gì nữa.

Tờ thẩm vấn được viết lại như sau:

Thẩm tra Tần Quỳnh, công sai phủ Tế Châu, có công vụ tới Lộ Châu, công vụ đã xong, công văn trở về đã nhận. Nhân vì ốm đau, chưa về ngày được. Lần lửa nơi quán trọ. Trương Kỳ thấy bạc nhiều, đã vội nghi ngờ, xông vào làm dữ. Tần Quỳnh trong lúc hốt hoảng, ra sức chống trả, khiến Trương Kỳ dập đầu vào tường mà chết. Nếu ghép tội cố sát thì cũng quá nặng, chỉ nên định tội ngộ thương là đúng. Số bạc hiện có, cả hai lần tra, đều khai là của Lý Mật và Vương Bá Đương cho. Bởi không thể gọi bọn Lý Mật đến cửa quan đối chất, tạm coi như của bị cáo vậy.

Vì được ghép tội ngộ thương, nên Thúc Bảo chỉ phải xung quân. Cũng vì các triều vua, luật pháp khác nhau, nếu không phải của ăn cướp thì tiền bạc hành lý của phạm nhân hoặc được trả lại, hoặc đưa vào kho cất giữ. Thúc Bảo do còn lo đỡ bị tội nặng, nên tiền của, vũ khí, cho đến cả ngựa đều phải nạp vào kho phủ Lộ Châu. Bắt người, đánh đập, vu cho là cướp, đáng cũng phải xử tội nhưng đám lính đều đổ lên đầu Trương Kỳ đã chết, phía Thúc Bảo cũng không dám làm găng chuyện này, nên bọn lính chẳng những không bị tội tình mà còn được chấm mút ít nhiều.

Hôm xét xử ở công đường, tham quân họ Hộc giảng giải hồi lâu. Sái Thái thú bằng lòng, mọi chuyện xong xuôi. Thúc Bảo thoát tội chết, phải phát phối xung quân dưới trướng tổng quản U Châu. Đến hôm giải đi, Hùng Tín lại lo lót để Bội Chi, Quốc Tuấn làm luôn việc công sai giải Thúc Bảo. Nên chỉ vừa mới ra khỏi thành, cùm tay đã được cởi, các hình cụ được bỏ hết, lại còn được vào trang Nhị Hiền, gặp Hùng Tín để tạ ơn cứu mạng.

Hùng Tín từ tạ:

- Chuyện này là chính Hùng Tín này làm lụy đến hiền huynh còn tạ ơn nỗi gì.

Thúc Bảo thưa:

- Cũng vì tiểu đệ đang hồi vận hạn mới gặp phải vạ này, nếu không được Đơn nhị ca thủy chung lo trọn thì cũng đã làm ma trong nhà ngục rồi.

Hùng Tín lại xin Bội Chi, Quốc Tuấn ở nhà với vợ con vài hôm, để Thúc Bảo được ở lại Nhị Hiền trang vài ngày, tắm rửa, thay quần áo nghỉ ngơi, rồi chuẩn bị hành lý, gói thêm một trăm lạng bạc cho Thúc Bảo.

Vài ngày sau, theo hẹn, Bội Chi, Quốc Tuấn kéo đến, Hùng Tín bày tiệc rượu tiễn hành. Ăn uống no say, Hùng Tín lấy ra một phong thư đưa cho hai người, dặn dò:

- Xin hai vị nhớ cho, nếu ở Sơn Đông, Hà Nam thì Thúc Bảo đây bạn bè rất nhiều. Nhưng ở U Châu, Hà Bắc thì lại ít người quen thuộc. Chỉ sợ mai kia, có việc phải lo liệu mà lại "tứ cố vô thân" nhưng thêm khốn khổ, nên Hùng Tín viết thư này giới thiệu Thúc Bảo và các vị với Trương Công Cẩn, ở thôn Thuận Nghĩa, thuộc Trác Quận, vốn là bậc hào kiệt trong vùng, cùng Hùng Tín này là quan hệ "bát bái chi giao". Nhờ Công Cẩn cùng đi với các vị đến U Châu, việc đi lại ở cửa công, Công Cẩn sẽ giúp thêm một tay với các vị.

Hai người đáp:

- Chúng tiểu đệ nhớ rồi!

Từ biệt Hùng Tín, cả ba rời Nhị Hiền trang.

Chính là:

Dặm dài vui đón xuân về

Liễu điều vội rũ tóc thề xanh xanh.

Cả ba vừa đi vừa trò chuyện, tình thân càng thêm gắn bó. Bất giác mấy ngày sau đã tới Trác Quận, khoảng giờ tỵ thì đến thôn Thuận Nghĩa. Giữa thôn là một đường lớn, quây quần xung quanh là bốn năm trăm nóc nhà. Phía đầu đường thứ hai thấy có một quán trọ khá tươm tất, Thúc Bảo dừng lại, nói:

- Hai vị, vào tìm Trương Công Cẩn đưa thư, mà bụng đã đói, lẽ nào lại đòi ăn ngay. Người đời thường bảo: "Vào nhà quen, chẳng bằng lên quán trọ". Ta hãy vào quán này ăn bữa trưa, sau đó hãy tìm đưa thư cũng chưa muộn.

Bội Chi, Quốc Tuấn đều đáp:

- Đại huynh nói có lý lắm!

Chủ quán đon đả bày chè nước, rồi sau đó cơm rượu. Ăn uống xong, Thức Bảo cùng Bội Chi, Quốc Tuấn ra cửa quán đứng nhìn.

Chỉ thấy vô số thanh niên, phụ lão, có kẻ cắp côn, người cầm giáo kéo đi lũ lượt, chuông trống rộn rã. Trên ngựa lớn, một người to khỏe, đầu chít khăn chữ vạn, đính hai đóa hoa bạc, y phục toàn bằng lụa màu sặc sỡ, giải bay phấp phới. Theo sau là một đoàn tráng đinh gươm giáo tuốt trần. Thúc Bảo hỏi chủ quán:

- Hảo hán được đón rước kia là ai?

Chủ quán thưa:

- Thôn Thuận Nghĩa chúng tôi lâu nay được đón Thái tuế về mở Đả lôi đài (1)

1 Thái Tuế: từ của phép tử vi, bói toán, chỉ sự vận hạn hung dữ.

Thúc Bảo hỏi tiếp:

- Sao lại gọi bằng cái tên khác thường này?

Chủ quán đáp:

- Quý khách không biết. Ông này vốn họ Sử, tên kép Đại Nại, nguyên là tướng Phiên, vào trung nguyên rồi không về nữa. Gần đây đầu quân dưới trướng La Thái thú ở U Châu. La Thái thú thấy Sử Thái tuế có tài, nhưng cũng muốn xem bản lĩnh thực hư ra sao, mới lệnh cho thôn Thuận Nghĩa chúng tôi mở Đả lôi đài trong ba tháng, nếu không có ai thắng nổi, sẽ cho thực giữ chức kỳ bài quan. Từ mùa đông năm ngoái đã dựng đài, nay là tiết thanh minh. Lúc đầu một vài hảo hán gần đây, sau cũng thêm vài hào kiệt xa tới, đấu đã nhiều trận, nhưng chưa ai thắng nổi Thái tuế, một trận hòa cũng không. Hôm nay đón Thái tuế lên đài ngày cuối.

Thúc Bảo hỏi:

- Hôm nay có còn đấu nữa không?

Chủ quán đáp:

- Dạ, thưa còn đấu một ngày hôm nay nữa. Ngày mai thì vừa hết hạn ba tháng.

Thúc Bảo lại hỏi:

- Chúng ta đi xem có được không?

Chủ quán đáp:

- Đừng nói xem, quý khách muốn lên đài dự đấu cũng xin cứ tự tiện.

Thúc Bảo dặn:

- Chủ quán trông coi hành lý cho chúng ta ra "Đả lôi đài" xem, về sẽ thanh toán tiền nong sau.

Nói rồi rủ Bội Chi, Quốc Tuấn, giắt theo ít bạc cẩn thận vào lưng áo ra đi.

Ba người ra khỏi quán, đi theo dòng người tấp nập kéo về phía bắc đường lớn, ngay ở miếu Linh Quan. Võ đài được dựng trên mấy mẫu ruộng bỏ hoang trước miếu, cao tới chín thước, chu vi tới hai mươi tư trượng, xung quanh đài xúm xít hàng mấy nghìn người. Sử Đại Nại đang vênh vang bước lên đài. Ba người chen vai thích cánh mãi mới vào được cạnh cánh gà, vẫn chưa thấy ai lên thách đấu. Lại thấy ở đầu cánh gà bên trái có hai hàng lan can sơn đỏ, có đến chục người xung quanh. Ở trong lan can, đặt một cái hòm lớn, trên hòm có một cái cân treo, lại có mấy người cân bạc bỏ vào hòm. Ba người chen lại gần lan can. Thúc Bảo hỏi:

- Võ đài là nơi tỷ thí võ nghệ, đặt hòm và cân ở đây làm gì quý vị?

- Quý vị không biết. Sử Thái tuế chúng tôi thu lệ phí lên đài.

Thúc Bảo hỏi:

- Thì ra đấu võ để kiếm lời à?

Người kia đáp:

- Quý vị không biết. Lúc đầu đã làm gì có chuyện này. Lập đài xong, "Một tiếng sấm vang trời đất biết, Ngũ hồ bốn biển thảy đều nghe". Anh hùng hào kiệt quần tụ dưới đài. Sử Thái tuế chúng tôi vốn cẩn thận, sợ những kẻ võ nghệ tầm thường dễ bị trọng thương, rồi chẳng có bằng cứ gì để xem xét, nên người nào muốn lên đài, đều phải viết một giấy nhận thực, khai rõ họ tên, tuổi tác, quê quán, sau đó cam đoan dẫu bị thương, chết chóc cũng không tranh kiện. Những việc khai báo này nhiều vị không thích. Trong lúc đua tranh hơn kém, ai chẳng muốn phần thắng, nhưng thua thì tên tuổi, quê quán trong giấy khai, rửa đến bao giờ cho sạch. Cho nên, Sử Đại Nại không bắt làm giấy nhận thực nữa, mà lại lập thêm cái quầy này, của vốn liền người, ai muốn lên đài thì đến đây nộp bạc là xong.

Thúc Bảo tiếp:

- Nạp bao nhiêu?

Người kia lại đáp:

- Không nhiều. Mỗi người chỉ năm lạng. Không kể nhiều hay ít người, cứ giao đủ số bạc. Sử Đại Nại sẽ phất lệnh lên đài. Người thứ nhất đã lên đài rồi, người thứ hai làm thủ tục. Đã xuống đài thì không được lên nữa, cứ thế đến người khác. Trong lúc thi đấu, ai đánh được Sử Đại Nại một đòn, sẽ được gấp mười lần bạc. Ai thắng được một trận, sẽ được năm mươi lạng bạc. Nếu thắng được vì dùng "song phi cước" sẽ được một trăm lạng, vì dùng "vạn dịch thôi quý" làm đối phương ngã ngửa, sẽ được một trăm năm mươi lạng. Ngược lại nếu bị đánh đến tàn tật cũng không được oán thán. Từ khi khai mạc "Đả lôi dài" đến giờ, đã có tới hơn hai trăm vị bị Sử Thái tuế đánh bại. Chỉ trong vòng một tháng, thu được hơn nghìn lạng bạc. Những kẻ có tiền mà không có bản lĩnh, vì vậy cũng không dám tham dự. Kẻ tự cho mình là có bản lĩnh nhưng không có tiền cũng có cớ để không lên đài. Cho nên hai tháng sau, kẻ đấu ít hẳn. Hôm nay, ngày kết cục, chúng tôi lại bày mọi thứ ra đây; may ra có bậc hào kiệt nào đến vào ngày hôm nay chăng.

Thúc Bảo cười nói với Bội Chi, Quốc Tuấn:

- Kẻ hào kiệt cũng phải giỏi cả những việc tính toán như vậy, phải không hai vị?

Bội Chi thăm dò Thúc Bảo:

- Đại huynh thử lên một chuyến. Biết đâu lại mở được đường tiến chức thăng quan. Bản lĩnh của đại huynh, chúng tiểu đệ đây đều rõ cả rồi. Lại được thêm một trăm năm mươi lạng bạc, đến nha môn U Châu cũng thêm tiền chi dụng.

Thúc Bảo nói:

- Hiền đệ ạ! Hơn thua đều có mệnh. Thời vận của tiểu đệ chưa đến. Tiền bạc của Đơn nhị ca cho, cũng chả có phúc cầm, nên mới xảy ra chuyện ở rừng Tạo Giác, rồi lại chuyện đày đọa ở Lộ Châu vừa rồi. Nếu thắng người, được từng nấy bạc, cũng hay đấy. Nhưng chưa đến thời, thì hãy biết đứng dưới mà xem là tốt hơn cả.

Bội Chi ý muốn lên, bèn nói:

- Hội này ít gặp, tiểu đệ phải lên mới xong.

Bội Chi, Quốc Tuấn vốn không phải loại tiểu tốt vô danh, mà cũng là bậc hào kiệt ở phủ Lộ Châu. Việc đi lại giữa Thúc Bảo với hai người cũng chưa lâu, chẳng qua do việc quan, được Đơn Hùng Tín manh mối mà quen biết nhau, lại chưa từng cùng nhau thử sức, đọ tài. Thấy Bội Chi cao hứng, Thúc Bảo khuyến khích:

- Hiền đệ "phùng trường tác hí" là chuyện đáng khích lệ. Tiểu huynh xin thay hiền đệ nạp đủ năm lạng bạc lệ phí.

Thúc Bảo nạp xong, Bội Chi lên đài. Đài cao chín thước chia làm mười tám bậc. Bội Chi mới lên lưng chừng, thì hàng nghìn người phía dưới đã hò reo vang dội, khiến Bội Chi như thấy gân cốt rã rời. Thực ra, người xem hàng tháng nay, ít thấy người lên đài thách đấu, hôm nay ngày cuối cùng, thấy Bội Chi xuất hiện, khán giả đều hò hét cổ vũ. Bội Chi không nhận ra cử chỉ thân thiện đó của mọi người, nên có vẻ mất tinh thần chỉ yên lặng bước tiếp. Phía dưới, nhiều người gào to, khuyến khích:

- Hảo hán! Hãy mạnh dạn lên!

Về phía Sử Đại Nại, giữ đài đã ba tháng nay, chưa từng gặp một địch thủ tương xứng, nên càng "mục hạ vô nhân". Thấy kẻ vừa lên có vẻ do dự, Đại Nại đã coi thường, dáng như sư tử đứng trấn trước cửa, không cho người qua lại, dù bay phía trên, dù chui phía dưới. Bội Chi thấy đối thủ cao to, khó lòng đánh từ phía dưới, nên Bội Chi từ xa tung mạnh hai chân, rơi từ trên cao xuống trước mặt Đại Nại. Thấy vậy họ Sử dùng ngay thế "Vạn địch thôi quỳ", quét ngang chân Bội Chi, thành một đường dài sát mặt đất. Bội Chi nhún chân nhảy thoát. Rồi tay tả dưới thấp, tay hữu giơ cao, định túm mặt Đại Nại. Đại Nại chuyển sang "Chức nữ xuyên thoa", từ phía sườn cụt bên phải, chuyển sang tấn công vào sau lưng đối phương, nhanh như chớp, đã túm được giải thắt lưng lụa của Bội Chi, nạt lớn:

- Ta không thèm chấp cỡ ngươi. Hãy cút đi cho khỏi bẩn mắt ta.

Rồi chỉ với một tay, Đại Nại giơ đối thủ từ trên đài thả xuống. Từ dưới đài nhìn lên, chẳng khác gì chim yến ngậm sáp thả từ trên cao, khiến Bội Chi ngã lăn quay, mặt mày xám như bùn, hổ thẹn lủi ngay xuống đám đông.

Thúc Bảo thấy thế, lửa giận bừng bừng, quát vang cả võ trường:

- Hãy đợi đấy!

Họ Tần định xông lên, nhưng bị ngay bọn phục dịch ngăn lại.

- Xin tráng sĩ hãy nạp thêm bạc đã. Năm lạng lúc nãy thua hết rồi còn gì?

Thúc Bảo không cãi nửa lời, lấy ngay ra một đỉnh bạc, vứt ngay vào trong quầy:

- Còn thừa bao nhiêu, đấu xong ta sẽ xuống tính toán với các anh sau.

Rồi từng bước, từng bước thoăn thoắt lên đài. Họ Sử ngước nhìn, lòng đã không dám coi thường.

Đi vài đường "Tứ bình quyền "

Đá mấy vòng "Song phi cước"

Xương sườn nhô cao

Bụng thời thóp sát

Hai mắt sư tử giương to xanh biếc

Hai chân đuôi cá quẫy mạnh tít mù

Như hổ đói vồ mồi

Như giao long rỡn nước

Một tay Quan âm giơ thấp

Hai chân La Hán nhún cao

Đưa đường quyền dài tự nhiên trông đã sợ

Quét đường quyền ngắn lo đỡ cũng chẳng xong.

Trông không giống hai địch thủ đánh nhau, mà chẳng khác gì đôi hổ dữ tranh mồi, võ đài huyên náo lạ thường. Mẫu đơn tuy đẹp, cũng nhờ lá xanh nâng đỡ, Đại Nại ba tháng giữ đài ở thôn Thuận Nghĩa, chưa từng gặp đối thủ, một mình đóng vai hảo hán như một hổ một núi, lại cũng vì ở thôn Thuận Nghĩa có bậc chủ nhân Trương Công Cẩn, mới có dịp cho Thúc Bảo tìm tới đưa thư, để đến chuyện anh hùng tương ngộ.

Bấy giờ Công Cẩn cũng đang ở Linh Quan miếu, trông coi nhà bếp chuẩn bị rượu thịt, chỉ chờ dỡ rạp là ăn mừng Sử Đại Nại. Lại có cả Bách Hiển Đạo, một bậc hào kiệt trong vùng, vốn là bạn rượu lâu nay của Công Cẩn. Cả hai đang ngồi trước bàn, sai bọn đàn em bưng mấy đĩa hoa quả trên điện xuống, cùng một vò rượu lạnh uống suông cho đỡ sốt ruột đợi chờ, thì thấy hai gã trai hoảng hốt chạy vào:

- Hai vị đại huynh ơi! Sử Thái tuế coi chừng mất hết công lao mấy tháng nay mất!

Công Cẩn vội hỏi:

- Chỉ còn hôm nay nữa là xong công quả. Sao lại còn chuyện gì nữa?

Một trong hai gã tranh nói trước:

- Mới đầu Thái tuế thắng một trận rất nhẹ nhàng. Sau đó một khách lạ khác lên đài. Cả hai quần nhau đến ba bốn mươi hiệp vẫn không phân thắng bại. Chúng tôi ở dưới nhìn lên, thấy Thái tuế chân tay bắt đầu loạn xạ, không đương nổi địch thủ nữa, nên vội về báo hai vị đại huynh, liệu có cách nào đối phó chăng?

Công Cẩn nói:

- Lại có chuyện thế nữa sao? Trèo cây đã sắp tới ngày hái quả rồi, thì lại gặp miếng khó gặm. Biết đối phó thế nào bây giờ?

Rồi rủ Hiển Đạo:

- Bạch Hiền đệ, chúng ta hãy bỏ vò rượu đó đã, ra đài xem sao!

Ra khỏi miếu, rẽ đám đông vào, thấy trận đấu vẫn đang lúc gió thảm mưa sầu, trời long đất lở.

Chính là:

Trùy nặng đấu với cọp đen

Thần thông sức quỷ thử xem thê nào

Thanh thiên đối mặt đài cao

Yếu thua khô rách tránh sao bây giờ!

Công Cẩn thấy trận đấu đang lúc dữ dội, không thể lên đài, bèn hỏi người xem bên cạnh:

- Vị này ở đâu tới thế?

Người xem bèn chỉ Bội Chi, Quốc Tuấn nói:

- Vị từ đầu chí thân đầy bùn đất, là vừa mới thua ở trên đài xuống. Vị quần áo còn đang sạch sẽ kia thì chưa từng lên đài. Cứ hỏi hai vị đó, thì biết ngay vị đang đấu trên đài là ai.

Công Cẩn vốn cũng bậc hào kiệt, danh uy một cõi, nên cũng nhã nhặn, đường hoàng, chấp tay thi lễ rồi hỏi Bội Chi:

- Quý hữu, vị đang đấu trên đài là ai thế?

Bội Chi trong lòng đang bực bội, vừa lau sạch bụi đất trên mặt, nhưng tay chân, quần áo vẫn đầy bùn đất, lại hăm hở theo dõi Thúc Bảo đang thắng thế, nên chẳng còn lòng nào chuyện trò:

- Quý hữu, hỏi chuyện lôi thôi làm gì, cứ xem họ đánh là đủ.

Công Cẩn đáp:

- "Tứ hải chi nội, giai huynh đệ dã", chỉ sợ bạn bè đụng độ, hối lại không kịp.

Quốc Tuấn chưa lên đài, bình tĩnh hơn, tiến lại vái chào, trả lời:

- Quý hữu, chúng tôi cũng đều là những người có tên tuổi, cũng muốn lên đài tỷ thí xem sao, nhưng cũng không muốn bàn bạc dài dòng, nhỡ có thua trận, ở thôn Thuận Nghĩa này cũng lại còn bạn bè quen biết.

Công Cẩn hỏi:

- Chư huynh quen biết ai trong thôn?

Quốc Tuấn đáp:

- Đơn nhị ca ở Nhị Hiền trang thuộc Lộ Châu có thư, gửi tới đại ca Trương Công Cẩn ở Nghĩa Thuận, nhưng cũng chưa kịp tới nhà đưa thư.

Công Cẩn cười ha hả. Bạch Hiển Đạo chỉ Công Cẩn:

- Đây chính là Trương đại ca.

Quốc Tuấn vội vàng:

- Thì ra Trương đại ca, chúng tôi thật đắc tội.

Công Cẩn hỏi:

- Thưa hai vị, xin cho biết quý tính, cao danh.

Quốc Tuấn đáp:

- Tiểu đệ là Kim Giáp, vị này Đổng Hoàn.

Công Cẩn tiếp:

- Thì ra là hào kiệt ở Lộ Châu. Còn vị trên đài là ai thế?

Quốc Tuấn đáp:

- Chính là Tần Thúc Bảo người Lịch Thành, Sơn Đông.

Công Cẩn vừa giơ tay vừa vẫy vừa gào lớn:

- Sử hiền đệ hãy dừng tay ngay, đấy chính là đại huynh Tần Thúc Bảo vẫn thường nghe.

Thúc Bảo và Đại Nại cùng thu quyền. Công Cẩn dắt Bội Chi, Hiển Đạo kéo Quốc Tuấn, cả bốn lên đài, nói cười vui vẻ. Sáu bạn gặp nhau, vái chào nhận lỗi. Công Cẩn nói lớn:

- Xin mời chư vị khán giả giải tán thôi. Chẳng phải người xa lạ mà phải so tài cao thấp, nguyên đều là bạn bè đến thăm hỏi nhau cả thôi.

Rồi phân phó tay chân đem hòm xiểng vào miếu Linh Quan, mời Thúc Bảo xuống đài, trải chiếu làm lễ giao bái, chắp tay mời nhau vào chỗ ngồi. Công Cẩn giơ tay hỏi:

- Xin quý vị cho biết hành lý hiện nay đang ở đâu?

Thúc Bảo đáp:

- Ở quán trọ, nhà thứ hai ở đầu đường vào.

Công Cẩn sai tay chân đi lấy hành lý về, lại lấy hai đỉnh bạc lớn trong hòm trả lại Thúc Bảo. Thúc Bảo giở hành lý, lấy thư Hùng Tín ra. Công Cẩn xem xong nói:

- Hà! Thì ra đại huynh có việc ở U Châu, cái này thì tiểu đệ xin cáng đáng. Giờ chỉ là có chén rượu nhạt, để mừng Sử đại ca. Còn phải mời đến tệ trang nữa đã.

Sáu người uống luôn mấy chén, bất giác đã chiều tối. Công Cẩn đưa mọi người về nhà, quát đầy tớ đốt nến sáng trưng, rồi đỉnh trầm nghi ngút tỏa thơm, mời Thúc Bảo cùng mọi người vào nhà, lúc này mới chính thức lạy chào nhau nhận bạn bè, ngôi thứ. Xong xuôi, tiệc rượu dọn ra, uống mãi tới canh năm ngày hôm sau.

Sáng ra, Sử Đại Nại, phải về soái phủ U Châu phúc trình tổng quản, Bạch Hiển Đạo cũng phải đi với bạn, nên Trương Công Cẩn sai dắt ra sáu ngựa tốt, kén mười gia đinh, cùng là hành lý, bạc tiền lên đường đi U Châu.

Không biết sự thể đến U Châu ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi Thứ Mười Ba

Trương Công Cẩn vì nghĩa giúp bạn,

Tần Thúc Bảo đi đày gặp cô.

Từ rằng:

Mây quay mưa trút

Gặp nạn chưa chi đã vội khóc

Riêng đấng anh hùng

Tâm đầu ý hợp chí kiên trung

Thư đưa bụng cá (1)

Hăm hở bấy, tử sinh nào sá

Cứu nạn giúp nghèo,

Quản, Bảo bạn hiền gương sáng treo (Theo điệu "Giảm tự Mộc lan hoa")

Bạn bè nhạt nhẽo xưa nay nhiều, tình bạn thắm thiết vốn cũng không ít. Sự bội bạc thường là lúc phú quý thì gắn bó keo sơn, lúc hoạn nạn thì chẳng khác gì những hạt cát khô rã rời, không thể nào viên lại thành hòn. Còn nếu có tấm lòng của một bậc hiệp sĩ thì sao lại không xả thân mà cứu giúp cho được, chỉ cần một lá thư đã là như một tờ chiếu, một đạo sắc chỉ của hoàng đế rồi. Tấm gương Quản thúc ngày xưa (2), Trần Lôi ngày nay (1) còn đó.

1 Thơ cổ: "Khách từ xa đến, cho ta đôi cá chép. Gọi trẻ mổ cá chép, trong bụng có lá thư". Chỉ việc đưa thư từ tin tức.

2 Quản Trọng và Bảo Thúc Nha cùng nhau buôn bán. Quản Trọng lấy phần hơn, Thúc Nha không chê Quản Trọng tham, Quản Trọng chưa làm nên, Thúc Nha không chê Quản Trọng bất tài, lại giới thiệu Quản Trọng với Tề Hoàn Công để Quản Trọng có cơ hội giúp Hoàn Công làm cho nước Tề cường mạnh, trở thành bá chủ. Quản Trọng nói: "Sinh ta là cha mẹ, biết ta là Bảo Thúc..." (Đông Chu liệt quốc).

1 xem ở hồi thứ 22.

Thôn Thuận Nghĩa cách U Châu chừng ba mươi dặm, sáng canh năm lên ngựa, thì mặt trời mọc đã tới rồi. Trương Công Cẩn, tìm đến soái phủ U Châu, thu xếp chỗ ăn, ở hành lý xong xuôi, một mặt chuẩn bị cơm rượu, một mặt cho tay chân đến Tây viên môn, mời hai vị Uất Trì tới. Hai vị này, tuy không phải thân thuộc, gần gũi với Uất Trì Cung, nhưng vốn là cháu Uất Trì Quýnh, tổng quản Tường Châu triều Chu trước, nên cũng dòng dõi họ Uất Trì này cả. Anh em hai người, anh là Uất Trì Nam, em là Uất Trì Bắc, từ lâu đã đi lại rất thân thiết với Công Cẩn, hiện đều dưới trướng La Công và là những viên kỳ bài quan quyền hành. Soái phủ Đông viên môn là sảnh đường của bọn văn quan, soái phủ Tây viên môn là sảnh đường của bọn võ quan. Kỳ bài quan nhận được kỳ bài rồi, viên môn sẽ chuông trống nổi đúng ba lần, đội trung quân tiến ra cửa, một tiếng pháo nổ, lúc ấy cửa soái phủ mới được mở ra. Lúc này, Uất Trì Nam, Uất Trì Bắc, võ phục chỉnh tề, đang ngồi chờ lệnh, hai bên tay chân kính cẩn vào bẩm:

- Thưa hai ngài, Trương đại nhân có lời mời.

Uất Trì Nam hỏi:

- Các anh có phải ở Trương Gia trang đến không?

Cả hai vội thưa:

- Vâng ạ!

Uất Trì Nam hỏi tiếp:

- Chủ các ngươi hiện ở đâu?

Một tên thưa:

- Dạ, hiện ở ngay cửa tây soái phủ. Mời hai người tới thưa chuyện.

Uất Trì Nam phân phó thủ hạ cai quản ban phòng, rồi tìm đến chỗ Công Cẩn. Cũng bởi anh em Uất Trì đang toàn thân mang cân đai, giáp trụ nên không tiện thi lễ. Thúc Bảo, Bội Chi, Quốc Tuấn, ở phòng sau, đợi để trò chuyện với khách xong xuôi, sẽ ra sau. Công Cẫn, Đại Nại cùng Hiển Đạo đang ngồi chờ, thì thấy hai anh em Uất Trì tới.

Chào hỏi xong, chừa ghế chủ khách, Uất Trì Nam nhận ra Đại Nại, bèn hỏi ngay:

- Trương hiền huynh hôm nay vào soái phủ sớm thế này, có lẽ vì việc mở Đả lôi đài đã hết hạn kỳ, cần phải vào trình bản quan chăng?

Công Cẩn đáp:

- Việc ấy cũng có, nhưng còn một chuyện khác nữa, xin trình nhị vị.

- Có việc gì xin hiền huynh cứ chỉ giáo!

Công Cẩn lấy thư trong tay áo ra, đưa cho anh em Uất Trì, hai người cùng xúm lại xem, xem xong, Uất Trì Bắc lên tiếng:

- Ái chà! Thì ra nét chữ của Đơn viên ngoại ở Nhị Hiền trang Lộ Châu, giới thiệu Tần bằng hữu tới đầu quân ở vệ môn này, xin nhờ tiến dẫn. Tần bằng hữu hiện nay ở đâu, xin cho gặp mặt!

Công Cẩn quay vào cửa trong mời:

- Xin mời Tần đại huynh ra ngoài này.

Tiếng xích sắt leng keng, Bội Chi cầm công văn, Quốc Tuấn xách dây xích, Thúc Bảo lom khom đi ra, kéo lê dây xích. Anh em Uất Trì biến sắc mặt, đứng dậy:

- Trương hiền huynh, hiền huynh thật không nể mặt anh em chúng tôi, "tứ hải chi nội, giai huynh đệ dã". Chữ viết của Đơn viên ngoại còn đó. Thân với thân là thân, đều là bạn thân thiết, sao lại đối xử với nhau thế này!

Công Cẩn cười đáp:

- Sự thực thì chẳng cần che đậy làm gì. Nhưng hình cụ này đều là quy định của nha môn, sợ hai vị có trách cứ gì chăng, nên cứ phải để thế mà ra mắt. Nay đã có lời như thế, xin được tạm mở ra vậy!

Hai anh em Uất Trì thân hành mở mọi hình cụ trên người Thúc Bảo, rồi cùng lạy chào và nói với Thúc Bảo:

- Từ lâu đã nghe đại danh của hiền huynh, như sấm đánh bên tai, nơi nơi đều biết, chỉ hiềm một nỗi đường xá xa xôi, không thể gặp gỡ nay được gặp hiền huynh ở đây, thật là may mắn.

Thúc Bảo đáp:

- Tiểu đệ đang mang quân phạm trên người, may được chư huynh che chở, thật là ơn tái tạo.

Uất Trì Nam đỡ lời:

- Xin hiền huynh yên tâm. Đó là bổn phận của anh em chúng tôi. Đây có lẽ là hai vị Bội Chi, Quốc Tuấn chăng?

Hai người vội đáp:

- Tiểu nhân đúng là Đổng Hoàn, Kim Giáp.

Uất Trì Nam tiếp:

- Xin đừng quá khiêm nhường! Trong thư của Đơn viên ngoại cũng có nói đến tên tuổi hai vị, đều là anh em một hội. Xin cho được bái kiến.

Chào hỏi xong, Uất Trì Nam lại nói:

- Xin hỏi hai vị, có phải giấy tờ trên bàn, là công văn gửi tới bản quan chăng?

Bội Chi đáp:

- Thưa đúng!

Uất Trì Nam nói:

- Xin cho xem, để cho anh em chúng tôi biết được trước công việc đợi đến lúc bản quan thăng đường có hỏi đến còn biết mà trả lời.

Quốc Tuấn giả vờ cẩn thận:

- Công văn này, ngoài đều có dấu niêm phong, chúng tôi không dám tự tiện mở xem.

Uất Trì Nam đáp:

- Không hề gì! Việc mở công văn, đều ở tay anh em chúng tôi cả. Công văn này cũng thế thôi, có mở cũng chẳng hề gì, đến lúc thăng đường, cũng chúng tôi mở cả, không có điều gì phải e ngại.

Công Cẩn sai tay chân lấy một nửa bát rượu, nhẹ nhàng nhúng cục ấn ở công văn vào, đợi cho cục ấn ngấm rượu, rồi nhẹ nhàng bóc ra, lấy công văn bên trong, đưa cho anh em Uất Trì xem. Họ cùng nhau xem xong rồi, lại đưa trả ngay cho Bội Chi, theo thứ tự dán lại như cũ.

Chỉ thấy Uất Trì Nam yên lặng không nói năng gì, nên Công Cẩn lên tiếng:

- Đại huynh xem xong công văn, sao lại có vẻ trầm ngâm nghĩ ngợi?

Uất Trì Nam đáp:

- Từ lâu chúng tôi đã nghe Đơn viên ngoại ở Lộ Châu là bậc tình nặng nghĩa dày, chỉ giận chưa được gặp mặt. Nay có chuyện này, vì viên ngoại mà lo, nhưng chỉ sợ không được trọn vẹn chăng!

Tần Thúc Bảo cảm ơn cứu sống của Hùng Tín, nay thấy Uất Trì Nam có vẻ trách Hùng Tín lo việc không đến nơi, cho nên cũng không giữ nổi dù buổi đầu gặp mặt, lên tiếng phân giải:

- Xin thưa hai vị, Tần Quỳnh này ở Lộ Châu, vốn không phải chỗ quen biết cũ của Đơn nhị ca, mà chỉ mới gặp gỡ lần đầu, Đơn nhị ca đã cứu tiểu đệ khỏi cơn thập tử nhất sinh, lại cho năm trăm lạng bạc để về quê. Nhưng chỉ tại cơn vận hạn chưa qua, nên lại xảy ra chuyện chết người ở rừng Tạo Giác, bị Thái thú khép vào trọng tội, may có những lo toan hữu hiệu của Đơn nhị ca, chẳng tiếc nghìn vàng, cứu được tiểu đệ khỏi chết một lần nữa, quả là ơn cứu sống. Hai vị sao lại nói chuyện không trọn vẹn ở đây?

Uất Trì Nam đáp:

- Chính là ở chỗ này. Xem thư của Đơn viên ngoại, giới thiệu tới Trương hiền huynh, thế là trách nhiệm của viên ngoại coi như xong. Xem trong công văn, hiền huynh tại rừng Tạo Giác đánh chết Trương Kỳ, khép vào trọng tội, viên ngoại tìm mọi cách đổi trọng thành khinh, khiến hiền huynh chỉ bị đưa xung vào quân số ở soái phủ đây thôi. Anh em chúng tôi nghĩ rằng, khắp gầm trời này, thiếu gì chỗ để xung quân, phát phối, sao lại chọn cái nơi nước sôi lửa bỏng này. Hiền huynh chưa biết sự lợi hại của bản quan chúng tôi nên chúng tôi phải nói rõ. Quan lớn tổng trấn U Châu đây, họ La, tên Nghệ, sau khi nhà Bắc Tề bị diệt, không chịu về Tùy triều, lãnh một đội quân, đánh chiếm U Châu này, liên kết với Khả Hãn của nước Đột Quyết, cương quyết chống lại. Triều đình bao phen đánh mà không xong, phải giở cách chiêu an, đem cắt đất U Châu cho phép thu thuế má, phu dịch cai quản mười vạn tinh binh đóng giữa U Châu. Tổng trấn cậy mình có sức muôn người khôn địch, mọi việc tự quyết đoán. Phàm có kẻ đến xung quân, sợ khi ghép vào hàng ngũ, giở trò ngang ngược, không chịu trói buộc của cảnh quân kỷ, nên hôm đến trình, cứ đánh đủ một trăm trượng gọi là "sát úy bổng", mười người giải đến đây, chín người chết, một người sống. Quả là hiền huynh rơi vào hố lửa vậy. Bây giờ ta phải tìm cách đối phó vậy thôi. Sau khi Bội Chi hiền đệ đã dán công văn lại như cũ, tiểu đệ sẽ đem đến phòng thư lại, chỉ để mỗi cái công văn của phủ Lộ Châu này, rồi dẫn riêng Tần huynh vào soái phủ vậy.

Mọi người nghe Uất Trì Nam nói xong, đều lắc đầu lè lưỡi kinh ngạc, Công Cẩn lên tiếng:

- Sao nhị vị Uất Trì lại chỉ muốn giải một mình Tần đại huynh đến.

Uất Trì Nam đáp:

- Hiền huynh có chỗ không biết. Tổng quản phu nhân rất mộ Phật tổ ngày rầm, mồng một đều ăn chay niệm Phật rất kính cẩn. Những ngày đó, tổng quản thăng đường đều được phu nhân nhắc kỹ là không được đánh đập một ai. Tần hiền huynh còn gặp may, hôm nay đúng ngày mười lăm tháng ba. Nhưng nếu công văn tới xung quân nhiều, công việc bận rộn, tổng quản vẫn có thể nổi xung mà đánh đập như thường, lời khuyên của phu nhân cũng chẳng ích gì. Bây giờ Tần hiền huynh hãy tạm bỏ khăn chít đầu, để tóc tai rũ rượi, lấy bùn đất bôi mặt mày cho đen xám, nói thác là đang có bệnh. Hai vị Bội Chi, Quốc Tuấn chuẩn bị sẵn lời bẩm báo, chứng thực là có bị ốm trên đường đi, dù tổng quản đang tức giận sẽ sai chúng tôi khám nghiệm thực hư, chúng tôi sẽ chứng nhận đúng là đang có bệnh, thế là tổng quản sẽ tha, cho về quân ngũ bình thường. Lúc ấy, với một đao một thương trong tay. Thúc Bảo hiền huynh lại sẽ làm nên công nghiệp, lại khoác áo gấm về quê. Chỉ có điều sắp lên soái phủ, chuyện rất quan hệ đến tính mạng, chư huynh mau mau xếp đặt. Chúng tôi còn phải mang công văn sang chỗ thư lại.

Uất Trì Nam cùng Uất Trì Bắc sang phòng thư lại, nói với viên quan này:

- Hãy gác lại tất cả các công văn xung quân các nơi gửi đến, chỉ trình cho chúng tôi mỗi công văn của phủ Lộ Châu này thôi.

Viên quan này không dám cãi một lời, vội thưa:

- Tiểu quan biết rồi ạ!

Lúc này chiêng trống đã đánh đủ ba lần, đội trung quân đã tiến ra cửa, Thúc Bảo cũng đã chuẩn bị xong xuôi, đang đứng chờ. Anh em Uất Trì đã lấy lại công văn, đưa trả cho Bội Chi. Ở cửa ngoài phủ cũng đã nghe tiếng pháo bắn ba lần cửa lớn từ từ mở ra. Đội trung quân, đội cờ, đội trống, kỳ bài quan, thích dụng quan, bọn cầm dây xích gông cùm, bọn đao phủ, hàng hàng, lối lối, tầng tầng, lớp lớp kéo vào, đứng chật sân lớn của công đường, ban nào chỗ ấy, người nào chỗ ấy, nghiêm chỉnh đứng hầu. Viên quan phụ trách việc tuần tiễu canh phòng ngày cũng như đêm của thành U Châu, đứng ra tâu trình mọi việc. Rồi đến lượt viên quan coi việc cung cấp trong quân, tâu trình những lương thực, thực phẩm nhập vào xuất ra trong ngày, cũng là những quân trang quân dụng khác. Thứ ba mới là viên quan thư lại tâu trình sổ sách, công văn gửi đi, gửi đến soái phủ, tâu rõ số phạm nhân giải tới, hiện trạng ra sao, ở đâu.

Quan phủ lại lui lại vài bước thì lúc này mới là lúc đáng lo ngại, hai bên thềm gạch đỏ hai mươi tư cái thanh la lớn nhất tề đánh mạnh, một viên hổ đầu quân, hai viên cầm cờ hiệu, kèm viên quan thư lại, đi về cổng soái phủ. Chấp kỳ quan mới lên tiếng gọi các viên công sai giải phạm nhân tiến lên. Quốc Tuấn xách xiềng xích sắt, Bội Chi nâng công văn, kèm Thúc Bảo mang đầy đủ hình cụ tiến vào cửa, vẫn chưa được mở dây trói, khóa còng, cứ thế vào nghi môn, hai bên lính đao thương giơ cao như rừng cây. Từ trên thềm cao hình bán nguyệt, chấp bài quan quát quỳ xuống. Từ góc đông của cửa soái phủ cho tới thềm bán nguyệt, thực ra cũng chỉ nửa đường tên bắn, mà chẳng khác gì phải bò lên mười dặm vách núi tai mèo vậy.

Thúc Bảo đường đường thân cao hơn trượng, mà giờ cũng thấy mình thật bé nhỏ, quỳ xuống sát đất, đưa mắt liếc trộm vị tổng quản trên đài cao.

Phong hầu tướng như ngọc

Giúp chúa lòng tựa vàng

Tóc bạc trí thêm sáng

Tuổi cao sức vẫn hăng

Biên thùy uy chấn động

Tướng sĩ lực kiên cường

Trấn thủ tài Lý Mục

Thái bình khắp phong cương.

Râu tóc đã lốm đốm bạc, ngồi vững như núi Thái Sơn, uy nghiêm không động đậy, La Công gọi trung quân, đem công văn lên, quan trung quân bước xuống bán nguyệt cầm công văn, bước lên bậc cuối cùng, hai chân quỳ xuống, dâng công văn cho viên thượng quan. Viên này xem xét dấu ấn xong, liền xé công văn, lấy giấy tờ bên trong, kính cẩn đặt lên án trước mặt đại quan tổng quản.

La Công lúc này mới cầm giấy tờ xem, nhận ra thứ sử của Lộ Châu gửi tới xung quân. Nếu là của châu quận khác, đánh hay không đánh tổng quản cũng tùy thích chẳng cần xem kỹ giấy tờ làm gì, nhưng thứ sử Lộ Châu là Sái Kiến Đức, vốn là hàng học trò thân thuộc của tổng quản: La Nghệ này là một võ tướng hiển hách, sao lại có thể có một văn quan mang dấu vuông là học trò cho được. Vốn là trước kia Sái Kiến Đức từng làm nhiệm vụ áp tải lương thực cho quân lính U Châu, không đảm bảo thời hạn quy định, lẽ ra phải xử tội nặng, nhưng La Nghệ thấy Sái là một tiến sĩ mà tuổi còn ít, nên mới thi ơn không bắt tội, Sái nhớ ơn đó, bái nhận làm học trò La Nghệ.

Nay thấy Sái gửi công văn xung quân tới, La Nghệ mới cầm xem kỹ từ đầu chí cuối, để xem cách làm ăn của Sái thái thú ra sao, tội trạng gì, xử có đúng không nặng hay nhẹ. Lại thấy thêm tội phạm là Tần Quỳnh, người ở Lịch Thành, La Nghệ bỗng giật mình, ngồi lặng một lát, gấp giấy tờ lại, gọi viên lại coi giữ giấy tờ, trao cho y ghi sổ đẩy đủ, rõ ràng, đâu đó rồi, La Nghệ truyền:

- Cho giải phạm nhân ra. Chờ đến giờ ngọ (1) giải vào hậu đường thẩm xét.

1 Giờ ngọ: từ 11 đến 13 giở.

Bội Chi, Quốc Tuấn, gọi Thúc Bảo xuống, cùng vội vàng rời khỏi nơi trên đao dưới búa đi thẳng ra cửa.

Bấy giờ Công Cẩn, Đại Nại, Hiển Đạo, đều đang chờ ở Tây viên môn, thấy mọi người ra, vội hỏi anh em Uất Trì:

- Công việc ra sao rồi?

Cả hai đều đáp:

- Giờ ngọ vào hậu đường thẩm xét.

Công Cẩn hỏi:

- Còn thẩm với xét gì nữa?

Uất Trì Nam đáp:

- Xưa nay chưa từng thấy xảy ra chuyện như thế này bao giờ, đánh hay không đánh cũng đều đưa xuống các đội lính cả thôi. Không biết lần này lại còn xem xét gì nữa.

Công Cẩn hỏi tiếp:

- Còn phải chờ bao lâu nữa thì vào hậu đường?

Uất Trì Nam đáp:

- Còn sớm. Bây giờ mới đóng cửa về hậu đường, ăn ngủ trưa, rồi mới thẩm vấn. Cũng pháo bắn, cờ bay, chẳng khác gì buổi thăng đường ban sớm vậy.

Công Cẩn bàn:

- Nếu còn thì giờ vậy, ta hãy đi tìm nơi nào uống vài chén rượu cho đỡ lo lắng. Ra khỏi cửa viên môn, bỏ mọi hình cụ, khi nào nghe tiếng pháo bắn, vào cũng không muộn.

***

Lại nói La Nghệ trở về hậu đường, chưa về nhà riêng vội, sai thủ hạ cởi hết mũ mãng, cân đai, đội khăn Gia Cát, mặc áo lụa nhẹ, đi hài cườm ngọc, ngồi trên một chiếc ghế dựa nhẹ nhàng, sai gia tướng gọi tên thư lại giữ giấy tờ, đem công văn của phủ Lộ Châu vừa gửi tới vào hậu đường. La Nghệ cầm xem từ đầu chí cuối một lần nữa, lại sai gia tướng mở cửa sau vào nhà riêng, mời Tần phu nhân sang hậu đường bàn chuyện cần. Tần phu nhân đem theo La Thành công tử vừa mười một tuổi, bọn quản gia, a hoàn theo sau, sang hậu đường. Phu nhân khẽ chào rồi ngồi xuống, La Thành đứng hầu bên. Phu nhân lên tiếng:

- Tướng công hôm nay xong việc, sao không về nhà riêng, lại gọi lão phụ tới hậu đường có việc gì vậy?

La Nghệ hỏi lại:

- Hồi xưa khi mắc cạn nước, lệnh tiên huynh (l) Vũ vệ tướng quân bỏ mình, hiện còn ai là người nối dõi nữa không?

1 Lệnh tiên huynh: tôn xưng anh Tần phu nhân, là Tần Di, bố đẻ ra Thúc Bảo đã chết.

Phu nhân nghe hỏi thế, liền rơi nước mắt đáp:

- Tiên huynh Tần Di, chết trận ở Tế Châu, chị dâu là Ninh Thị chỉ sinh một trai, tên gọi Thái Bình, lúc bấy giờ mới ba tuổi. Cả hai mẹ con đều lưu lạc trong cảnh giặc giã, đến nay đã hai mươi năm, mỗi người một phương trời. Nhưng sao hôm nay tướng công nói đến chuyện này?

La Nghệ đáp:

- Ta vừa thăng đường, ở Hà Đông giải đến một tên quân phạm. Xin phu nhân đừng lấy làm lạ, tên này lại cùng họ với phu nhân.

Tần phu nhân đáp:

- Hà Đông cũng là Sơn Đông sao?

La Nghệ cười đáp:

- Đúng là chuyện đàn bà, Hà Đông cách Sơn Đông hơn nghìn dặm, làm sao Hà Đông lại là Sơn Đông cho được?

Phu nhân nói:

- Nếu không phải Sơn Đông, thì thiên hạ cùng họ biết kể sao cho hết, đâu chỉ phải mình họ Tần ở Sơn Đông.

La Nghệ đáp:

- Vừa rồi trên giấy tờ, thấy ghi rõ là họ Tần chính là quê Lịch Thành, Sơn Đông, làm công sai ở phủ Tế Châu, giải phạm nhân tới phủ Lộ Châu.

Phu nhân bèn nói:

- Nếu như là người Sơn Đông, hoặc là Thái Bình cũng nên. Mặt mũi Thái Bình cũng chẳng nhớ được nữa, nhưng nhất định Tần Quỳnh phải biết. Lão phụ muốn rõ mặt Tần Quỳnh, hỏi rõ tung tích, thì làm thế nào cho tiện?

La Nghệ đáp:

- Điều này không khó. Phu nhân cứ ngồi trong nội thất xem xét Tần Quỳnh. Nhưng để khỏi mất thể diện ta, thì phải buông rèm che kín, rồi mới cho gọi Tần Quỳnh vào.

La Nghệ sai gia tướng bày biện lại hậu đường, rồi truyền lệnh ra ngoài, cho công sai Lộ Châu giải Thúc Bảo vào. Lúc này cả bọn đang tìm nơi uống rượu cho đỡ nóng ruột. Chỉ có Thúc Bảo, vì lo còn phải thẩm vấn, nên không dám uống nhiều. Ba tiếng pháo mở cửa, một viên quan nội kỳ oang oang truyền lệnh:

- Tổng quản đại nhân, ngồi hậu đường thẩm vấn, truyền công sai Lộ Châu, giải quân phạm Tần Quỳnh vào.

Uất Trì Nam, Uất Trì Bắc cùng Bội Chi, Quốc Tuấn vội khoác đủ hình cụ lên người Thúc Bảo, rồi cùng nhau vào cửa soái phủ. Công Cẩn, Đại Nại cùng Hiển Đạo lại ngồi bên ngoài chờ tin tức. Năm người bước qua cửa lớn nghi môn, qua bán nguyệt đài, qua tiền đường, gần đến hậu đường, thì từ phía bình phong, hai viên gia tướng đi ra, truyền lệnh:

- Công sai giải quân phạm đứng ngoài!

Rồi hai viên gia tướng cầm lấy dây xích, giải Thúc Bảo vào hậu đường, quỳ xuống dưới thềm. Thúc Bảo đưa mắt nhìn trộm lên, thì thấy quang cảnh không có gươm giáo uy nghi như buổi sáng. La Nghệ mặc áo trắng rộng, phía sau là một hàng sáu viên gia tướng áo xanh, mũ rộng đứng hầu, hai tay buông xuôi. Dưới thềm cũng tên gia tướng, cũng chỉ áo rộng, thắt thêm một cái đai. Thúc Bảo thấy thế lòng cũng đỡ lo lắng ít nhiều. La Nghệ truyền lệnh:

- Tần Quỳnh bước lại gần án!

Thúc Bảo giả vờ bệnh vì sợ bị đánh, nên cứ vờ đứng dậy không nổi. La Nghệ sai hai viên tướng tháo hết xiềng xích cho Thúc Bảo. La Nghệ lại lệnh đến gần án. Thúc Bảo cố lê lên phía trước. La Nghệ hỏi:

- Ở Tế Châu, Sơn Đông những nhà họ Tần như ngươi nhiều không?

Thúc Bảo thưa:

- Trình đại nhân, huyện Lịch Thành, thuộc Tế Châu họ Tần làm các nghề khác thì nhiều, nhưng làm công sai như tiểu nhân thì chỉ có mình tiểu nhân.

La Nghệ lại hỏi:

- Người vốn phải theo nghiệp võ biền không?

Thúc Bảo thưa:

- Dạ vốn theo nghiệp lính đã từ lâu.

La Nghệ căn vặn:

- Hãy khoan. Ngươi nói càn rồi. Người làm công sai ở Tế Châu, vâng lệnh Lưu Thứ sử đi công cán ở Lộ Châu thuộc Hà Đông, nếu là quân binh thì sao lại đi làm công sai ở Tế Châu?

Thúc Bảo cúi đầu thưa:

- Trình đại nhân, vì ở Sơn Đông trộm cắp nổi dậy khắp nơi, bản châu lực có hạn, cho nên ra lệnh ai bắt được trộm cướp thì thưởng. Tần Quỳnh này vốn là quân binh, bắt cướp có công, nên được

Lưu Thứ sử thăng làm Binh mã bổ đạo đô đầu, lại được lệnh thứ sử đi công cán ở Lộ Châu, Hà Đông, không may ngộ hại Trương Kỳ, nên mới phải làm thành án, đến dưới trướng đại nhân.

La Nghệ tiếp:

- Nhà ngươi nguyên là quân binh, hổ làm công sai, vậy ta hỏi thêm: Thuở Bắc Tề, có Vũ Vệ tướng quân Tần Di, vì nước tận trung, nghe nói gia thuộc hiện lưu lạc ở Sơn Đông, nhà ngươi có biết không?

Thúc Bảo nghe đến tên phụ thân, rơi nước mắt thưa:

- Vũ Vệ tướng quân là phụ thân của Tần Quỳnh này. Xin đại nhân nể mặt người xưa, mà gượng nhẹ cho tiểu nhân.

La Nghệ đứng ngay dậy:

- Ngươi đúng là con của Vũ Vệ tướng quân sao?

Lúc đó, trong màn gấm đỏ, Tần phu nhân cũng không nhịn nổi, lên tiếng hỏi:

- Tần Quỳnh, mẫu thân nhà ngươi mang họ gì?

Thúc Bảo thưa:

- Dám thưa, mẫu thân tiểu nhân là Ninh Thị.

Tần phu nhân lại hỏi:

- Thái Bình là tên ai?

Thúc Bảo thưa:

- Dạ, đó là tên đặt lúc nhỏ của tiểu nhân.

Tần phu nhân thấy cháu cơ khổ đến thế, cuốn ngay rèm gấm, chạy ra hậu đường, ôm đầu mà khóc. Thúc Bảo chưa dám nhận, chỉ khóc mà lạy sát đất. La Nghệ cũng dậm chân mà than:

- Đúng là cháu ta rồi, đứng dậy nhận họ hàng đi nào?

La Thành đứng bên, thấy Tần phu nhân khóc lóc cũng nhỏ nước mắt lặng lẽ. Bọn gia tướng vội thu tất cả các hình cụ, đem ra phía tiền đường gọi lớn:

- Công sai Lộ Châu đâu rồi? Ra mà lĩnh hình cụ về cho sớm. Tần đại huynh vốn là cháu của ngài tổng quản, Tần phu nhân chính là cô ruột của đại huynh, vừa nhận ra ở ngay hậu đường rồi. Cầm luôn cả công văn, sáng mai sẽ đóng dấu trở về Lộ Châu ngay cho!

Anh em Uất Trì vỗ tay mừng rỡ. Bọn Công Cẩn chờ bên ngoài, thấy họ ra, mặt mày vui vẻ, bèn hỏi:

- Chuyện ra sao rồi mà hai vị mặt mày rạng rỡ thế kia?

Uất Trì Nam đáp:

- Các vị giờ thì hoàn toàn yên tâm rồi. Tần hiền huynh vốn thật là người danh giá lắm. La đại nhân vốn là chú, Tần phu nhân vốn là cô ruột. Giờ mới nhận ra người một nhà. Chúng ta phải tìm nơi nào ăn mừng mới được.

***

Lại nói La Nghệ đưa Thúc Bảo về nhà riêng, bảo La Thành:

- Con đưa anh con về thư phòng tắm rửa, thay quần áo, cứ lấy quần áo của ta cho anh con mặc.

Thúc Bảo chải đầu tóc, rửa mặt mày, rồi mới ra bái lạy chú, cô, cùng La Thành lạy bốn lạy, nhận anh em. Lập tức nhờ La Thành lấy giấy mực, viết hai lá thư, một gửi luôn cho La Nghệ, nhờ đưa cho viên thư lại sáng mai đóng dấu công văn, chuyển cho Bội Chi, đem về Lộ Châu, tạ ơn Đơn Hùng Tín và báo tin mừng, một đưa anh em Uất Trì, chuyển tới ba anh em Công Cẩn, cùng để tạ ơn, báo tin mừng. Lúc này ở nhà riêng, Tần phu nhân đã sai bày tiệc rượu huy hoàng, vợ chồng La Nghệ ngồi trên, Thúc Bảo cùng La Thành và mọi người ngồi vây xung quanh. Rượu uống được hai tuần, La Nghệ lên tiếng:

- Thúc Bảo, ta thấy cháu tướng mạo đường đường, nhất định là một kẻ có sức địch muôn người, chỉ tiếc lệnh tiên quân sớm từ giã cõi thế, lệnh đường ở góa, tha hương một mình. Liệu cháu có được luyện tập võ nghệ gì không?

Thúc Bảo thưa:

- Cháu biết múa giản.

La Nghệ hỏi tiếp:

- Chính là đôi giản bằng đồng đen mà lệnh tiên quân để lại chứ gì cháu có mang tới đây không?

Thúc Bảo thưa:

- Cháu ở Lộ Châu vì xảy ra chuyện như thế, đôi giản coi như là vũ khí giết người, cùng với con hoàng phiêu, yên cương đều bị Sái Thái sứ đưa vào kho cất giữ.

La Nghệ an ủi:

- Cái đó thì chẳng lo. Sái Thái sứ vốn là học trò của ta mai kia ta sai người đến lấy là xong. Nhưng bây giờ có điều cần phải nói với cháu. Ta trấn giữ U Châu này, có hơn mười vạn tinh binh, hơn nghìn viên dũng tướng, đều phải dựa trên công tội mà luận thưởng phạt. Pháp luật không thể dựa vào sự thân thuộc, họ hàng. Ta nay dù có muốn lấy cháu vào làm tướng, làm quan dưới trướng, thì cũng không thể nào tránh được lời ra tiếng vào của tướng sĩ, binh lính, khiến cho cháu cũng không còn mặt mũi nào. Theo như ý ta, mai đây cháu nên ra biểu diễn võ trường, cùng tỉ thí võ nghệ, đọ tài cao thấp, nếu quả cháu có võ nghệ hơn người, kiếm mã tinh thông, thì ba quân cũng không còn dám nghị luận gì nữa. Ý cháu thế nào?

Thúc Bảo đứng dậy, quỳ thưa:

- Được chú, cô cất nhắc cho như thế, lo đến công nghiệp mai sau cho cháu, thì chẳng khác gì ơn cứu sống vừa rồi.

La Nghệ liền truyền lệnh cho gia tướng, đem binh phù hiển dụ ba quân, ngày mai kéo hết binh mã ra khỏi thành, đến diễn võ trường để dự tỉ thí võ nghệ .

Hôm sau mới canh năm. La Nghệ ra lệnh bắn pháo mở cổng soái phủ, trung quân đứng thành đội ngũ, Sử Đại Nại giữa tiền đường tiến lên trình tổng quản cùng ba quân về kết quả việc mở Đả lôi đài, liền được lệnh nhận chức kỳ bài quan. Sau đó tướng sĩ, quân lính đội nào cơ ấy trang bị chu đáo, theo La Nghệ ngồi trên xe tứ mã, rầm rộ kéo khỏi soái phủ.

Mười vạn tinh binh giữ cõi ngoài

Ấn vàng treo đầu, ánh trăng soi

Lá cờ sông Dịch mây tung ngất

Mũi giáo đài Yên sương chói ngời.

Lúc này Thúc Bảo chưa có dây vàng tua bạc ghi võ công để đeo, nhưng trang phục cũng như mọi gia tướng của La Nghệ: đầu quấn khăn the có đính hoa vàng, mặc áo có thêu hình đầu hổ, đeo đai lưng nạm bạc lóng lánh, có kèm cả túi đựng tên bắn, chân đi giày màu trắng, cưỡi ngựa, theo sau La Nghệ ra diễn võ trường bằng đường cửa đông. La Thành công tử cũng đi theo bốn viên gia tướng, ra cửa soái phủ thì bị kỳ bài quan trông coi viên môn chặn lại, van xin thế nào, kỳ bài quan cũng nhất định không cho La Thành ra khỏi cửa.

Nguyên là đã có nghiêm lệnh của La Nghệ đến các thủ hạ là: tuy La Thành đã mười một tuổi sức lực hơn người, biết cưỡi ngựa mạnh, giương cung cứng, thường theo gia tướng đi săn ở ngoài thành; La Nghệ làm quan liêm khiết chỉ sợ La Thành tính khí chưa định, rồi dẫm đạp lên ruộng vườn, hoa màu của dân chúng, nên nhất định cảnh báo quân sĩ dưới trướng, không được cho La Thành ra khỏi soái phủ.

La Thành chỉ đành theo gia tướng dắt ngựa trở về, đến trước mẫu thân ở nhà riêng, giở trò trẻ con, đòi kỳ được ra diễn võ trường, xem anh Thúc Bảo tỉ thí võ nghệ. Tần phu nhân vì mới tìm ra được đứa cháu ruột mồ côi của mình, cũng nóng biết võ nghệ Thúc Bảo ra sao, nên muốn cho La Thành ra xem, rồi trở về sớm cho mình biết đầu đuôi đỡ lo lắng, chờ đợi trong lòng. Tần phu nhân cho gọi bốn vị cựu lão trong nhà, cả bốn đều râu tóc bạc trắng, đã từng theo La Nghệ từ triều Bắc Tề đến nay, cũng trải bao vinh nhục đời lính, cùng vui khổ lập nhiều quân công, dây vàng tua bạc đã lắm, và giảng giải:

- Bốn vị đều là bậc thạo việc hiểu người, hãy dắt công tử ra diễn võ trường xem Tần đại huynh tỉ thí võ nghệ. Nếu kỳ bài quan có ngăn trở, thì cứ nói là lệnh của phu nhân là được. Chỉ nhớ là đừng để La tổng quản trông thấy.

Bốn người nhất loạt thưa:

- Chúng tôi rõ rồi ạ!

La Thành thấy mẫu thân sắp xếp như thế, mừng không nén nổi. Vội nhảy vào thư phòng lấy cung hoa tiêu, cùng túi gấm có đựng mấy mũi tên cánh bằng lông chim, tính chuyện sau khi xem Thúc

Bảo tỉ thí xong xuôi, còn tính ra bãi hoang ngoài thành bắn chim, đuổi thú nữa.

Năm người cùng lên ngựa, ra cửa soái phủ, kỳ bài vẫn không cho ra. Một vị cựu lão nhanh miệng nói:

- Tần phu nhân đã cho phép công tử ra xem đại huynh Thúc Bảo tỷ thí võ nghệ, chỉ cần đừng để La tướng công trông thấy là được.

Kỳ bài quan còn căn dặn:

- Xin công tử mau trở về, đừng để tướng công biết.

La Thành tức giận quát lớn:

- Không cần phải nhiều lời!

Năm ngựa ra khỏi viên môn, đi về phía giáo trường ngoài cửa đông. Lúc này ở ngoài giáo trường pháo đã bắn, cờ đã kéo lên, năm ngựa lại cũng từ cửa đông mà vào, cả năm người xuống ngựa, vào xem cảnh thao diễn. Bốn vị cựu lão chỉ sợ La tướng công trên trướng đài trông thấy La Thành, nên hai người đứng che bên phải, hai người đứng che bên trái, ép La Thành vào giữa, cứ thế đứng xem.

Chẳng biết sự thể ra sau, xin Xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi Thứ Mười Bốn

Múa giản trước ba quân, nức tiếng Tần Quỳnh,

Tặng vàng hơn trăm lạng, đền ơn Liễu Thị.

Thơ rằng:

Ngọc trong đá, vàng trong bùn đục

Can Tương vùi dưới Phong Thành ngục (1)

Gặp thì mài dũa thợ lành nghề

Chọc trời ánh kiếm chói như đuốc

Trượng phu tung tích xưa nay rõ

Vụt mây, vụt bùn, vụt chuột, hổ

Vua hán xây đàn, ba quân kinh

Hoài âm hay là Giang, Quân đó?(2)

Khốn cùng không ép chớ nên hiền

Hùng dũng đao thuơng, há chịu hèn

Vật báu nhắn ai còn cất túi

Đợi ngày xỏng xảnh tiếng vàng chen.

1 Có người xem thiên văn, thấy vùng Phong Thành có kiểm quý, sai Lôi Hoàn đến tìm. Lôi Hoàn đào nền nhà ngục Phong Thành, thấy một hòm đá, trong đựng hai thanh bảo kiếm, một thanh có tên là Can Tương, một thanh có tên là Mạc Gia (Đông Chu Liệt Quốc).

2 Lưu Bang sai đắp đàn cao để phong chức đại tướng, mọi người bàn luận ai đáng được nhận chức ấy, không ai chịu ai. Không ngờ người được phong lại là Hàn Tín chưa có danh hiệu gì. Sau làm nên công trạng to lớn, được phong Hoài âm Hầu (Sử Ký).

Lời người xưa chẳng sai, vận xấu đến thì vàng mười cũng mất giá, số may còn thì sắt rĩ cũng phát ánh sáng lóng lánh. Thúc Bảo lúc ở sơn Đông làm bấy nhiêu việc, đến Lộ Châu gặp bao chuyện sóng gió, cũng chỉ vì thời vận chưa đến. Một buổi sớm, gặp được La Nghệ đang là là mặt đất bỗng vụt tận trời cao, lộ rõ tất cả bản lãnh cả đời của mình. La Nghệ cũng vì muốn cất nhắc Thúc Bảo, nên mới có cuộc đại thao diễn ba quân.

La Nghệ ngồi trên trướng đài, mười vạn hùng binh, đội ngũ chật đất, chia thành từng ô vuông vắn. Phía dưới trướng đài, các tướng cao thấp dàn hàng túc trực, toàn thân nai nịt gọn gàng, sắc kiếm sáng ngời, mũi thương nhọn sắc sắp hàng hai phía tả hữu. Thúc Bảo đứng phía bên tả nhìn suốt lượt xa gần bốn phía, lòng thầm nghĩ: "Ta lâu nay giống như ếch ngồi đáy giếng, không biết đến trời cao đất rộng, chỉ biết mỗi đất Sơn Đông là lớn. Hãy cứ nhìn ông chú ngoài năm mươi của ta, râu tóc đều còn xanh đen, mà đã khoác nhung phục đệ nhất phẩm, nắm quyền sinh sát hàng vạn người, một lời hô, trăm lời dạ. Đại trượng phu trên đời, phải như thế mới xứng!".

Nào có biết đâu, lần thao diễn võ nghệ này, La Nghệ chỉ để ý thấy Thúc Bảo, chẳng hề bận tâm một sự gì khác. Thấy Thúc Bảo như có vẻ tính toán, lo lắng điều gì, La Nghệ liền dõng dạc gọi:

- Tần Quỳnh!

Thúc Bảo quỳ xuống thưa lớn:

- Có!

La Nghệ hỏi:

- Người sử dụng vũ khí gì thạo hơn cả?

Thúc Bảo vội thưa:

- Dạ, múa song giản?

La Nghệ hôm qua trong bàn tiệc ở nhà riêng cũng đã từng hỏi rồi, nhưng sao hôm nay còn hỏi lại. Chỉ vì biết đôi giản của Thúc Bảo, vẫn còn đang nằm ở kho của phủ Lộ Châu, chưa có thể lấy về kịp, La Nghệ bèn truyền gia tướng:

- Đem đôi giản bằng bạc của ta ra đây.

Đôi giản này của La Nghệ đúng là rèn bằng bạc, có cán mạ vàng, cả hai nặng hơn sáu mươi cân. So với đôi giản của Thúc Bảo vừa ngắn hơn, vừa nhẹ hơn, nhưng vì đã sử dụng quen đôi giản nặng của mình, nay cầm đến đôi giản này của La Nghệ, Thúc Bảo lại càng có điều kiện trổ tài hơn. Hai viên gia tướng xách đôi giản bạc ra, Thúc Bảo quỳ dưới đài, hai tay giơ lên kính cẩn đỡ đôi giản, rồi nhẹ nhàng đứng dậy, vung tít đôi giản, chẳng khác gì hai con rồng bạc, che kín thân mình, lại giống như hai con mãng xà dát ngọc lấp lánh quanh lưng. La Nghệ ngồi trên dài cao giọng khen một mình:

- Múa giỏi lắm!

Cũng chẳng phải dưới trướng La Nghệ không có người biết múa giản, mà chỉ có riêng Thúc Bảo biết múa thôi đâu, chẳng qua La Nghệ muốn chư tướng lên tiếng ca ngợi, khâm phục tài múa giản của Thúc Bảo. Chư tướng cũng đón biết ý của La Tướng quân, nên cả hai hàng tướng sĩ đều nhất loạt trầm trồ:

- Giỏi lắm! Hay lắm!

La Thành công tử, vì ở tận ngoài viên môn của giáo trường, nên phải trèo đứng lên vai của bốn vị cựu lão, mới thấy rõ Thúc Bảo múa giản thế nào. Đến những khi Thúc Bảo múa thật nhanh, thân người cũng bị đường giản che kín hết, chỉ thấy ánh bạc loang loáng, La Thành cũng xuýt xoa thán phục, nhưng không dám la ầm ĩ, chỉ khẽ lẩm nhẩm:

- Đúng là giỏi thật!

Thúc Bảo múa xong, lại quay về trước trướng đài chờ lệnh, La Nghệ hỏi tiếp:

- Tần Quỳnh còn biết sử dụng vũ khí gì nữa?

Thúc Bảo đáp:

- Dạ, thương cũng biết ít nhiều.

La Nghệ sai mang thương đến, hai viên gia tướng lại cầm thương đưa cho Thúc Bảo, họ đã chọn cây thương gỗ tốt nhất trên giá, cái này cũng nặng tới một trăm hai mươi cân, hai đầu đều bịt sắt quấn gân trâu, đã lên nước bóng loáng như sơn đen. Thúc Bảo đỡ lấy, người cúi xuống, đè lên cây thương, tay phải đánh mạnh, thương gãy làm hai đoạn, những quận gân trâu quấn lằng nhằng không đứt. Thúc Bảo quỳ xuống thưa:

- Tiểu tướng phải dùng hỗn thiết thương mới được!

La Nghệ gật đầu khen:

- Đúng là con nhà võ tướng?

Truyền cho gia tướng:

Hãy lấy cây thương của ta trên giá, đem xuống cho Tần Quỳnh.

Hai viên tướng y lệnh lại vác cây thương xuống. Cây này cũng nặng một trăm hai mươi cân, dài một trượng tám thước. Thúc Bảo đỡ lấy xoay toàn thân, kéo thương vào lòng. Thấy dáng vẻ chưa thật thuần thục, La Nghệ gật gật đầu, khẽ nói:

- Thương pháp chưa được bằng múa giản, còn cần phải chỉ bảo thêm nữa.

Lời nhận xét của La Nghệ cũng thể hiện ở soái phủ U Châu, việc rèn luyện về thương pháp rất được chú ý. Không như Thúc Bảo, không hề được truyền thụ về cách sử dụng thương pháp cho đến nơi đến chốn, làm công sai ở Tế Châu, chẳng qua học được ít miếng của bạn bè, trong cảnh tự do tự tại, mang phong cách lục lâm giang hồ mà thôi, cho nên không thể qua được mắt tài nghệ của La Tướng quân. Nhưng vì vừa nghe La Nghệ ngợi ca tài múa giản, lại thấy Thúc Bảo không hề lúng túng, không hề phải lấy sức, vẫn múa nhẹ nhàng cây thương nặng một trăm hai mươi cân, nên tướng sĩ cho đến lính tráng đều đủ kinh ngạc, mà cũng khó nhìn rõ tài nghệ đến đâu, cuối cùng cũng được khắp giáo trường tán thưởng.

Thúc Bảo biểu diễn thương xong, La Nghệ truyền lệnh tam quân thao diễn. Một tiếng pháo nổ đinh tai, chỉ thấy:

Trận xếp tám phương

Cờ tung năm sắc

Cọp rồng đua cánh

Tàn quạt rợp trời

Mây đen ngang dọc

Cờ đen chỉ phương Bắc hùng quân

Ráng đỏ thẳng xông

Cờ đỏ chỉ phương nam dũng sĩ

Tuyết phủ đầy đồng khắp nội, hiệu báo canh tân

Xuân về núi thẳm hang sâu, màu nêu giáo ất

Xấu tốt chẳng giống đá Giang Lăng

Mạnh yếu vẫn nòi quân U, Lý.

Thao diễn xong, viên quan xướng lệnh trong quân hô lớn:

- Chư tướng, tam quân thao diễn đã xong, thừa lệnh tổng quản tướng quân, đến phần tỷ thí cung tên!

La Nghệ gọi Thúc Bảo hỏi:

- Nhà ngươi có thạo cung tên không?

La Nghệ hỏi thế cũng là có ý, nếu Thúc Bảo biết bắn thì thi, nếu không thì thôi, chẳng hề bị mang tiếng xấu xa gì nữa. Nhưng Thúc Bảo lúc này, đang hồi đắc ý, tự thấy mình giản rồi thương đều giỏi giang, nên cũng buột miệng thưa:

- Dạ, có!

Có ngờ đâu trong số hơn nghìn viên tướng dưới trướng La Nghệ, cũng có tới hơn ba trăm viên thần tiễn. Từ ba trăm đó, lại chỉ chọn ra sáu mươi viên giỏi nhất trong việc vừa trên ngựa vừa bắn cung, đều là những kẻ bách phát bách trúng. Với đích bắn là cán thương dài nạm bạc, thì những viên tướng này xem là trò đùa con trẻ. La Nghệ hiểu rõ điều này, lại biết rõ sức lực của Thúc Bảo, nên lệnh cho gia tướng lấy cho Thúc Bảo chiếc cung của mình vẫn dùng, vừa dài vừa cứng, và chín mũi tên. Quân chính ty lập tức ghi tiếp tên Thúc Bảo vào cuối sổ dự thi, rồi bước lại trướng đài, quỳ thưa.

- Trình tổng quản tướng quân, xin tướng quân chỉ định đích bắn!

La Nghệ cũng vì có Thúc Bảo trong bọn thi tài, nên phán ngay:

- Lấy cán thương như mọi lần vậy.

Những cán thương làm đích bắn ở giáo trường lại càng dễ trúng, đều được làm bằng gỗ mềm, mỗi cán dài chín thước đứng cách một trăm tám mươi bộ (1), cứ mỗi lần tên bắn trúng vào cán thương, thì cờ hiệu màu xanh lại phất nhất loạt để thay tướng khác bắn, theo đúng thứ tự xướng danh của quân chính ty. Những viên tướng này, đều phải rèn luyện một ngày, đến viên kỳ bài quan mới được nhận chức Sử Đại Nại nữa là đã có tới năm mươi bảy tướng dự thi bắn, mà chưa từng có một mũi tên nào chệch khỏi cán thương, rơi ra ngoài. Thúc Bảo đứng xếp hàng phía sau, thấy quang cảnh như vậy, trong lòng thầm hối hận: "Đáng ra ta cũng không nên khoác lác quá. Vừa rồi khi La tướng quân hỏi: "Có thạo cung tên không", chỉ cần ta đáp: "Không thạo!", thế là xong, tướng quân cũng chẳng ngạc nhiên làm gì. Sao ta lại dại dột trả lời rằng có. Giờ biết làm sao đây!".

1 Bộ: đơn vị đo chiều dài, tùy thời thay đổi. Thường khoảng cách giữa một bước chân là một bộ.

La Nghệ vốn là người rất cẩn thận, tinh tế, bày ra chuyện thi bắn cung này cũng chính chỉ để Thúc Bảo trổ tài, nay thấy tinh thần Thúc Bảo có vẻ hoảng hốt, ngờ là việc cung tên Thúc Bảo cũng chưa được luyện tập nhiều, liền gọi Thúc Bảo đến, hỏi:

- Ngươi có thấy các tướng dưới trướng ta, bắn có giỏi không?

La Nghệ hỏi thế vẫn là có ý tốt, chỉ cần Thúc Bảo khiêm nhường, La Nghệ có thể ra ngay lệnh miễn thi bắn cho. Thúc Bảo vẫn không hiểu ra thiện ý câu hỏi đó, với vẻ cuồng vọng của bậc thiếu niên, không chút từ tốn, đáp:

- Chư tướng đều bắn vào đích đứng yên, chưa đủ lấy làm lạ!

La Nghệ hỏi:

- Ngươi bắn còn tài hơn nhiều sao?

Thúc Bảo thưa:

- Tiểu tướng có thể bắn được chim đang bay trên trời cao.

Chả cần đến người nhiều tuổi, sáng suốt như La Nghệ mới hiểu ra là Thúc Bảo không bắn thạo một cái đích như thế, cũng muốn xem Thúc Bảo sẽ bắn chim bay như thế nào? Ra lệnh cho chư tướng tạm ngừng việc thi bắn cán thương, xem Thúc Bảo bắn chim trên trời cao. Quân chính ty lập tức gấp sổ sách lại, chư tướng buông cung, bỏ tên vào túi. Thúc Bảo thì giương cung chờ sẵn, đứng ngay bên thềm đài hình bán nguyệt. Giữa thanh thiên bạch nhật, bầu trời trong suốt, không một bóng chim bay. Chỉ bởi cả muôn vạn tinh binh, cờ dong trống gióng để thao diễn, thì chim nào còn dám bay tới. La Nghệ bèn ra lệnh:

- Lệnh cho quan coi tiền lương, đem ra mấy miếng thịt bò tươi, treo trên ngay đỉnh cột cờ.

Thế là thịt bò treo lên, thỉnh thoảng những giọt máu tươi lại nhỏ giọt, lúc bấy giờ ở vách núi gần đó thấy một vài cánh chim ưng đói mồi mới mon men tìm đến. Thói thường, người trong cuộc thì mê, người bên ngoài lại sáng suốt, La Thành ngoài viên môn, lúc này thầm nghĩ: "Anh Thúc Bảo giờ định giở trò xấu chơi đây. Bắn bầy chim sẻ, quạ đen còn dễ, chứ chim ưng thì sao mà hạ nổi. Con hươu không bị quáng bởi mắt người, con cá không bị lòa vì nước trong, trời xanh, thảo nguyên xanh không làm lạc mắt chim ưng được. Trong mắt chim ưng, có đôi đồng tử nhỏ bằng hạt đậu, chim đang bay trên lưng chừng trời, dưới bãi cỏ bên sườn núi, chỉ thấy một hạt đậu lăn đi lăn lại, nó cũng còn nhìn thấy. Anh ấy nói có thể hạ được chim ưng đang bay, chỉ là khoác lác một chút cho sang. Nhược bằng không bắn được, phụ thân sẽ không trọng dụng anh ấy nữa, thì thật đáng thương cho một anh hùng vừa lỡ vận, từ nghìn dặm tới đây. Ta phải giúp anh ấy một tay mới xong!"

Nghĩ rồi mở áo khoác, lôi chiếc cung hoa tiêu của mình ra, lắp tên vào, giương lên chờ sẵn, lại cố ý lấy áo khoác che bớt. Hàng vạn quan quân đều đang chú mục chờ Thúc Bảo bắn chim ưng, chẳng ai biết chuyện La Thành đang giương cung ngoài cửa đông này: Chỉ có bốn cựu lão ở ngay dưới chân La Thành, cũng chẳng biết thì thôi. Hai người đứng bên phải lúc nào cũng luôn miệng chuyện trò, chẳng để ý gì đến xung quanh, hai người bên trái vì bị ánh mặt trời chiếu vào mắt, phải lấy tay che để nhìn rõ Thúc Bảo bắn ưng, La Thành lại giương cung rất nhẹ nhàng, không một tiếng động nhỏ, nên cả bốn người đều không hay biết gì. La Thành cũng tính thật kỹ lưỡng lúc nào thì nên bắn tên đi. Nếu Thúc Bảo chưa bắn, La Thành bắn thì có ích gì, nên La Thành vẫn giương cung chực sẵn mà thôi. Đáng lo ngại thay cho Thúc Bảo lúc này, đã thấy chim xuất hiện gần mấy miếng thịt bò tươi, cung đã giương sẵn, mọi người reo hò thúc giục, chim vẫn bay đi bay lại, Thúc Bảo không còn biết thế nào, chỉ còn cách giơ ngược cung, bắn một phát. Dây cung khẽ động, chim ưng đã biết có tên đến gần, liền xoay thân hình một vòng kín, vỗ mạnh đôi cánh vừa dày những lông, vừa cứng như sắt, chụp lấy mũi tên của Thúc Bảo mà thân hình chẳng hề một xây xát nhỏ nào. Thúc Bảo thấy thế, trong lòng vô cùng hoang mang, nhưng rồi lại thấy, con chim ưng đó vật vã đôi cánh, liệng bên này, chao bên kia, không còn giữ được thăng bằng nữa, từ từ rơi xuống đất trước mặt ba quân tướng sĩ. Cả thao trường lại một lần nữa náo động, ai nấy hò reo ầm ĩ như phát cuồng.

Kẻ đứng xem hò reo một tiếng

Người trong cuộc phấn khởi trăm lần.

Tất nhiên, ngay cả đến Thúc Bảo cũng không rõ vì sao con ưng đó lại rơi xuống. La Thành thì lại giấu cung hoa tiêu của mình vào ngay trong áo khoác như cũ, rồi cùng bốn cựu lão lên ngựa, trở về soái phủ trước. Quân lính nhặt con ưng dâng lên cho La Tướng quân, La Nghệ vì vẫn thiên vị Thúc Bảo ngay từ đầu, nên tự thân xuống ngay trướng đài, gài cho Thúc Bảo một bông hoa đỏ vào áo. Thế rồi trống gióng, cờ mở, rước về soái phủ, truyền lệnh tất cả chư tướng, không kể có tham dự tỷ thí hay không, đều được thưởng nhất loạt, ba quân cũng vậy, đều được ban rượu thịt để tưởng lệ sự khó nhọc. La Nghệ về hậu đường, La Thành thì đã về nhà riêng từ trước, riêng chuyện bắn tên giúp Thúc Bảo, cũng không dám nói với mẫu thân, chỉ sợ lộ chuyện, Thúc Bảo sẽ mất thể diện chăng.

Sau đó, La Nghệ về yến tiệc tại nhà riêng, nói chuyện với Tần phu nhân:

- Tần Quỳnh múa giản giỏi lắm, cung tên cũng thật lạ lùng ít có. Chỉ có thương pháp là chưa được rèn luyện chu đáo thôi.

Rồi quay ra nói với Thúc Bảo:

- Trong soái phủ cũng có sân tập luyện, cháu phải cùng em học thêm thương pháp.

Thúc Bảo thưa:

- Xin tạ ơn những lời chỉ giáo của chú!

Từ đó hai anh em, ngày ngày ra sân tập ngựa, luyện thương. La Nghệ những hôm nghỉ việc cũng ra bày vẽ thêm cho những đường thương gia truyền của họ La.

Quang âm thấm thoắt, đã gần một năm trôi qua, Thúc Bảo vốn là người con có hiếu, chỉ tính từ ngày đi công sai ở Lộ Châu, hẹn trên dưới một tháng sẽ về, chẳng ai ngờ được chuyện rẽ muôn đường, bao nhiêu rắc rối xảy ra, đến nay vẫn chưa được về Sơn Đông chăm sóc mẹ già. Cũng không thể nói vì ở soái phủ đông người vui cảnh mà quên cả quê nhà, quên cả mẹ già. Mà thật ra lòng thương nhớ người thân, không lúc nào là không có, nhưng vì Thúc Bảo hiểu ra rằng: Nếu ta đến U Châu này để thăm họ hàng, ở đã lâu ngày, lấy cớ mẫu thân trông ngóng, cáo từ thật dễ dàng. Nhưng hiện nay, ta vẫn là người đi đày, may mà gặp chú cô che chở, nếu xin về, không biết La Tướng quân sẽ trả lời thế nào? Có bằng lòng cho ta về không. Nếu như La Tướng quân lại đáp: "Hiện giờ ta đương làm quan ở đây, ngươi về cũng có thể được, nếu ta không làm quan ở đây, ngươi có về được không?". Lúc bấy giờ, về cũng không xong, mà ở cũng dơ dáng nốt.

Những điều này không phải bây giờ Thúc Bảo mới nghĩ tới, mà ngay những ngày đầu nhận được cô chú, Thúc Bảo đã nghĩ ra. Giờ chỉ có cách, nhờ La Thành, chờ dịp nào đấy nói hộ với cô, rồi cô sẽ lo lắng cho mình trở về là tốt hơn cả. Nhưng tính khí La Thành vẫn còn trẻ con, đã thích ai thì suốt ngày không rời người ấy một bước. Từ ngày gặp Thúc Bảo, anh em hợp tình, lại rất phục cử chỉ, bản lĩnh anh hùng của Thúc Bảo, đời nào lại bằng lòng cho Thúc Bảo về Tế Châu, để rồi lỡ phụ mẫu có đánh mắng, còn có người xin cho. Cho nên dù có thuyết phục La Thành bao nhiêu, thì có khi La Thành ngoài miệng cũng sẽ tỏ vẻ bằng lòng: "Hôm qua, đã nói với mẫu thân. Phụ thân một vài ngày nữa sẽ cho anh về Tế Châu thôi!". Thành ra vẫn chẳng dám ngỏ lời, ngày tháng càng dài, càng dài mãi mà vẫn chưa được trở về.

Mãi cho tới tháng tám, năm thứ ba, đời Nhân Thọ, một hôm La Nghệ ngồi trong thư phòng hỏi về việc học hành của hai anh em, lúc này La Thành còn chưa kịp chải dầu. La Nghệ ngước mắt nhìn lên tường có đề bốn câu thơ, La Nghệ nhận ra nét Thúc Bảo. Thì ra Thúc Bảo vì quá tha thiết về quê, một lần uống mấy chén rượu vào, bỗng hứng lên đề mấy câu thơ trên tường này, La Nghệ nhận ra tình cảm Thúc Bảo, trong lòng không vui. Mấy câu như thế này:

Một ngày xa cách một ngày đau

Lẻ bạn chim rừng ủ rũ sầu

Đất khách dẫu vui cho đến mấy

Lòng quê hôm sớm vẫn nao nao.

La Nghệ không chờ chuyện trò với hai anh em nữa, ra phía phòng sau. Phu nhân ra đón, hỏi:

- Tướng quân vừa vào thư phòng để xem việc học hành của hai anh em, sao đã thấy vào đây?

La Nghệ phàn nàn:

- Chúng nó không chịu rèn luyện, thì dù có bắt chúng rèn luyện cũng chẳng xong.

Phu nhân hỏi tiếp:

- Sao tướng quân lại nói thế?

La Nghệ đáp:

- Phu nhân, từ ngày cháu tới U Châu, ta xem nó chẳng khác gì La Thành, không hề có sự phân biệt. Ta cũng muốn giữ ở đây ít lâu, để nó lập nên công trạng gì đó, rồi sẽ tâu với triều đình, phong cho quan chức, để rồi mặc áo gấm trở về quê hương. Không ngờ nó chẳng biết đến lòng tốt của ta, mà lại có vẻ oán giận. Vừa rồi vào thư phòng, thấy trên vách có đề bốn câu thơ, đều nói tới lòng nhớ nhà, nhớ quê. Thế thì ta còn giữ ở đây cũng vô ích.

Phu nhân nghe thế, nhỏ nước mắt mà thưa:

- Tiên huynh sớm từ giã cõi thế, chị dâu ở góa một mình ở quê người, đất khách, chỉ có mỗi một mình nó, ra đi đã gần một năm nay, nhìn bốn bên chẳng có người máu mủ, bây giờ được tướng quân nâng đỡ cháu nó mà kiếm được một chút địa vị, mặc áo gấm về làng cũng là điều tốt. Nhưng chi bằng cho nó về chăm sóc mẫu thân thì hơn.

La Nghệ hỏi lại:

- Ý phu nhân cũng muốn cho nó về quê sao?

Phu nhân đáp:

- Chị dâu tuổi cao, ngày ngày lo lắng trông chờ. Chẳng có gì phải bàn nhiều.

La Nghệ kết luận:

- Bất tất phải sụt sùi làm gì. Giờ chỉ sắp xếp cho nó về quê vậy thôi?

Rồi cho dọn tiệc tiễn hành, sai bên ngoài lấy một con ngựa tốt, một bộ yên cương đi đường xa đem vào soái phủ. La Nghệ về phòng mình, sai tiểu đồng đến thư phòng, dặn Thúc Bảo:

- Nói với Thúc Bảo, ghi rõ những thứ còn nằm ở kho của phủ Lộ Châu, đem sang đây, để ta viết thư.

Lúc này Sái Kiến Đức vẫn còn trị nhậm ở Lộ Châu, cho nên cũng rất tiện cho Thúc Bảo quay lại cầm thư của La Nghệ, để lấy những tư trang, vũ khí, ngựa cưỡi của mình.

Tiểu đồng sang thư phòng, nói với Thúc Bảo:

- Tiểu chủ, ý của La đại nhân có vẻ bằng lòng cho tiểu chủ về Sơn Đông. Truyền tiểu chủ ghi lại tất cả các thứ còn ở kho phủ Lộ Châu, để La đại nhân viết thư.

Thúc Bảo nghe xong lòng vui vô hạn, vội lấy giấy bút, kê khai rõ ràng, tiểu đồng mang trình cho La Nghệ. La Nghệ viết hai lá thư: một gửi cho Sái Thứ sử ở Lộ Châu để lấy đồ đạc, một lá thư tiến cử Thúc Bảo với Sơn Đông đạo hành đài Lai Tổng quản. Tiệc rượu bày xong, La Nghệ báo tiểu đồng:

- Mời Thúc Bảo cùng phu nhân ra uống rượu tiễn hành.

Phu nhân chỉ tiệc rượu, nói với Thúc Bảo:

- Đây là tiệc rượu chú cho bày để thay cô tiễn cháu về với mẫu thân.

Thúc Bảo lạy sát đất. La Nghệ kéo dậy mà rằng:

- Không phải ta không có ý giữ cháu, để mong lâu dài có được ít công trạng nào đó, kiếm chút quan chức thì về cũng vẻ vang hơn, để mai kia cháu còn kế tục được công nghiệp của tiền nhân. Nhưng ta không nghĩ tới chuyện mẫu thân cháu ngóng trông, không như ý ta. Cô cháu lại khuyên: "Thân mẫu tuổi cao sức yếu". Nay ta để cháu trở về, đây là hai phong thư, một gửi cho Sái Kiến Đức ở Lộ Châu để cháu lấy đồ đạc, một gửi cho Sơn Đông đạo hành đài kiêm Thanh Châu Tổng quản họ Lai, tên Hoạch Nhi. Ta là hàng cha chú của họ Lai, nay đang tiến cử cháu làm kỳ bài quan dưới trướng họ Lai. Mai kia lập được công trạng, thì đường tiến thân của cháu sẽ càng rộng mở.

Thúc Bảo cúi đầu tạ ơn cô chú, lại vái lạy La Nghệ bốn lạy, rồi tất cả ngồi vào tiệc rượu. Yên cương, hành lý đã chuẩn bị chu đáo. Thúc Bảo ra qua soái phủ, anh em Uất Trì đã biết trước, cũng đặt rượu tiễn hành, Thúc Bảo vì nghĩa nặng không thể từ, nên cũng gượng uống mấy chén, rồi lên đường qua Trác Châu. Ở đây, Trương Công Cẩn còn tỏ ý giữ Thúc Bảo lại chơi vài ngày, nhưng vì Thúc Bảo nóng lòng về quê, nên cương quyết ra đi. Công Cẩn lại viết thư, nhờ gửi Đơn Hùng Tín. Hai bên chia tay.

Thúc Bảo lòng muốn hóa thành mũi tên, ngựa không dừng vó, ba ngày sau, đã về tới Lộ Châu, Hà Đông rồi. Vào thành, lại tìm đến trước cổng phủ đường, đến quán trọ Vương Tiểu Nhị. Tiểu Nhị vừa thoáng thấy bóng Thúc Bảo, vội chạy trốn ra phía sau, gọi Liễu Thị:

- Mình ơi, nguy lắm rồi!

Liễu Thị vội hỏi:

- Có chuyện gì thế?

Tiểu Nhị đáp:

- Cái ông quý khách họ Tần hồi trước thiếu tiền cơm sau vì can tội phải đi đày ở U Châu, chưa đầy một năm, nay đã trở thành một ông quan trở về rồi. Đầu đội khăn the đen, vừa mới cưỡi ngựa qua cổng phủ. Nhất định ông ta sẽ tới trả nợ cũ, làm thế nào bây giờ?

Liễu Thị giảng giải:

- Người xưa đã nói: "Khách đi lưu chút nghĩa, mai mốt còn thấy nhau. Nhưng lúc ấy, tôi đã khuyên can, mình chẳng nên đen bạc, khắc nghiệt quá, mình chẳng nghe, nay còn mặt mũi nào mà trông thấy Tần quý khách nữa, mình hãy lánh mặt là hơn!

Tiểu Nhị đáp:

- Trốn cũng không xong!

Liễu Thị hỏi:

- Sao lại trốn cũng không xong?

Tiểu Nhị đáp:

- Mình là nhà hàng. Nếu ông ta đến, gọi ra gặp mặt, thử hỏi trốn đi đâu bây giờ?

Liễu Thị hỏi:

- Thế thì làm thế nào?

Tiểu Nhị đáp:

- Nếu ông ấy hỏi, nói tôi chết rồi là xong. Người chết không ai kể oán, hỏi tội nữa. Đến lúc ông ta đi rồi, tôi hãy ra vậy.

Lập tức Tiểu Nhị chuẩn bị mọi thứ, dặn vợ nên nói năng, khóc lóc như thế nào, cuống cuồng cả lên. Liễu Thị vốn hiền lành, đành phải nghe theo, khóc lóc sụt sùi ở nhà trong. Thúc Bảo đến trước cửa quán, Liễu Thị ra chào:

- Tần quý khách mới về!

Thúc Bảo đáp:

- Chào chị! Ta tìm đến để tạ ơn chị về chuyện trước đây.

Rồi bảo đầy tớ trông ngựa, hành lý, đợi Thúc Bảo vào phủ đường gặp Sái Thái thú, đưa thư của La Nghệ.

Lúc này, Sái Thái thú đang ngồi trên công đường, lính canh cổng vào trình có quan sai của La Tổng quản đem thư tới. Thái thú sai mời vào. Thúc Bảo cũng vốn là người cẩn thận, gặp lúc đắc ý, lại thấy càng cần có ý tứ, nhũn nhặn từ cửa đi vào, Thái thú ngồi trên ghế cao, nhận ra Thúc Bảo, liền xuống thềm, thân hành mời lên ghế ngồi. Thúc Bảo bước lên thềm bán nguyệt bái chào. Thái thú hỏi chuyện về La Tổng quản, sau đó nhắc lại chuyện ở rừng Tạo Giác, Thái thú cũng đã có châm chước như thế nào, để Thúc Bảo chỉ phải đày đi xung quân. Thúc Bảo thưa:

- Nhờ Thái thú che chở, Tần Quỳnh này xin ghi nhớ ơn sâu.

Thái thú tiếp:

- Đồng Hoàn cùng Bội Chi ở U Châu về, nói chuyện La Tổng quản là họ hàng thân thiết, ta cũng mừng thay. Thành ra từ chuyện rủi hóa may, cũng vì vậy mới nhận được người nhà ruột thịt.

Thúc Bảo thưa:

- Trình Thái thú, hiện có thư của La Tướng quân gửi ngài!

Thái thú cầm thư, mở ra, thì đúng là nét chữ của La Tổng quản, không lại án ngồi, thái thú đứng đọc ngay trước mặt Thúc Bảo, đọc xong, nói với Thúc Bảo:

- Tần tráng sĩ, La tướng quân trong thư này không nói chuyện gì khác, chỉ nói tráng sĩ tới đây để lấy những thứ năm xưa ở Lộ Châu. Thúc Bảo thưa:

- Dạ!

Thái thú gọi viên coi kho, lấy sổ sách của năm thứ hai đời Nhân Thọ, đối chiếu xem tang vật còn lại những gì, giữa sổ sách với vật hiện còn trong kho hay mất mát nhiều. Thực chỉ còn: năm mươi lạng bạc vụn đựng trong một cái túi vải; ngựa hoàng phiêu thì đã đem bán, được ba mươi lạng, đã nạp lại kho. Lụa ngũ sắc mười tấm, khăn lớn một cái, hiện cũng còn đủ; yên cương khảm bạc một bộ cũng chưa mất, một đôi giản đồng cũng vẫn đấy. Thái thú lệnh cho đem ra trước công đường, giao lại cho Thúc Bảo. Một mình Thúc Bảo thì làm sao khuân hết được bấy nhiêu thứ lỉnh kỉnh, cũng may Đồng Hoàn, Kim Giáp trông thấy, giúp đem đi cho. Sái Thái thú lại còn bảo viên coi kho:

- Lấy trong sổ công phí một trăm lạng bạc, gói ghém cẩn thận, tặng Tần tráng sĩ làm lộ phí.

Chính là:

Gặp thời dễ kiếm vàng muôn lạng

Lỡ vận khôn mua rượu nửa bầu.

Thúc Bảo lạy chào Sái Thái thú, cầm một trăm lạng bạc, cùng Đồng Hoàn, Bội Chi mang theo tất cả đồ đạc đến quán Vương Tiểu Nhị. Thúc Bảo cùng Bội Chi, Đồng Hoàn chào hỏi nhau xong, thấy Liễu Thị vừa khóc lăn lóc vừa thưa:

- Chồng thiếp làm nhiều điều không phải với Tần quý khách, thật đắc tội vô cùng. Từ lúc Tần quý khách vướng vào chuyện rắc rối, nha lại mấy lần đến hạch sách, cũng mất ít lạng bạc, lòng lo nghĩ không yên, nên nhiễm bệnh qua đời.

Thúc Bảo đáp:

- Chuyện năm ngoái cũng chẳng phải lỗi lầm gì ở Vương Tiểu Nhị đâu. Ta thì túi rỗng không, Tiểu Nhị thấy thế, thói đời ấm lạnh là chuyện thường, xưa nay đều thế, nhưng cũng may còn được chị chăm sóc cái kim, sợi chỉ, đến nay vẫn không dám quên. Nay chồng chị lại đã mất, chị ở góa nuôi con nhỏ, ta cũng từng nói với chị, chị có thể sánh với Phiếu Mẫu ở Hoài âm, nay hãy xin biếu chị một trăm lạng vàng (1), để làm kế lâu dài.

1 Ở đây chi tiết chưa thật rõ. Nguyên tác đều dùng từ "kim" mà không dùng "ngân". Hoàn cảnh Thúc Bảo lúc này, thực ra không thể có một trăm lạng vàng, mà chỉ được một trăm lạng bạc cũng đã nhiều.

Liễu Thị bái tạ. Thúc Bảo giữ Đổng Hoàn, Bội Chi lại quán Tiểu Nhị, còn mình thì lên ngựa, ra cửa Nam, tìm mẹ con Cao Khảo Đạo. Không ngờ mẹ con Cao Khảo Đạo, nửa năm trước đã chuyển đi nơi khác.

Giàu dễ trả nghĩa trả ơn

Nghèo kia mới khó thiệt hơn giúp đời

Cứ xem Hàn Tín mà coi

Nghìn vàng đâu xứng với người cho cơm.

Thúc Bảo về quán, gói buộc đồ đạc lên sau yên ngựa, con ngựa đã thấy khó mang nổi bấy nhiêu thứ. Bội Chi bàn:

- Hãy chịu khó dắt ngựa tới Nhị Hiền trang, hai chúng tôi sẽ cùng đi với đại huynh, mượn một con ngựa của Đơn viên ngoại nữa mà về quê vậy.

Mọi người chào Liễu Thị, ra cửa Tây đi về Nhị Hiền trang. Không rõ sự thể ra sao, xin xem hồi sau sẽ biết.

Hồi Thứ Mười Lăm

Tần Thúc Bảo về quê nuôi mẹ già,

Tề Quốc Viễn chận đường đón bạn mới.

Thơ rằng:

Tình bạn dẫu rằng trong

Nghĩa nhà đâu dám khinh

Lưng còng luôn tưởng nhớ

Tóc bạc vấn vương tình

Lòng rối như mây cuộn

Ơn dày tựa cỏ xanh

Mẹ già đứng tựa cửa

Như giục bước hành trình.

Trong ngũ luân (1), sinh ra ta là cha mẹ, biết ta là bạn bè, chỉ có bạn không thì chưa phải là người con hiếu, suy cho cùng cũng không thể là người bạn tri kỷ được. Thúc Bảo khi ở soái phủ với La Nghệ, chỉ vì lòng thương nhớ người thân, công danh cũng chẳng thiết, vốn là do chữ hiếu ấy, Đơn Hùng Tín giữ không cho Thúc Bảo cùng về quê với Phàn Kiến Uy vội, chính vì thế để đến nỗi Thúc Bảo về một mình, mới xảy ra việc đáng tiếc ở rừng Tạo Giác, Thúc Bảo phải đi đày ở U Châu, khiến càng phải cách xa mẫu thân, lòng càng băn khoăn. Xung quân ở U Châu, đi đứng nào được tự do, Hùng Tín dẫu có lòng, cũng không thể nào lo được.

1 Ngũ luân: năm quan hệ lớn của người ta, theo đạo đức phong kiến: vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè.

Nay nghe tin Thúc Bảo về Lộ Châu lấy hành lý, Hùng Tín trong lòng nghĩ thầm: "Lần này thế nào Thúc Bảo cũng tới thăm ta". Sắp sẵn tiệc rượu, tựa cửa mong chờ Ba người vì đi bộ, nên cũng dằng dai mãi mới tới. Lúc này, trăng đã mọc trên dãy núi phía đông, hoa lá loáng choáng, lại nghe ra tiếng ngựa hí trong rừng, Hùng Tín cao giọng hỏi:

- Có phải hiền huynh Thúc Bảo chăng?

Bội Chi thay lời thưa vội:

- Dạ đúng!

Hùng Tín vỗ tay cười ha hả, đúng là "Nguyệt minh thiên lý cố nhân lai", trăng sáng, bạn cũ ngoài nghìn dặm trở về. Dắt tay cùng về trang trại, mặt mày ai nấy rạng rỡ, lại được thêm Đổng Hoàn, Bội Chi, vui càng thêm vẻ. Về đến sân. Hùng Tín sai người cởi yên cương, đem hành lý vào thư phòng, mọi người cùng nhau giao bái. Đầy tớ bưng rượu thịt ra, bốn người cùng ngồi.

Thúc Bảo đưa thư của Trương Công Cẩn, Hùng Tín lên tiếng:

- Năm ngoái, hiền huynh tới U Châu, Hùng Tín này vẫn thắc thỏm không yên, mãi đến khi có thư về, cũng có kể sơ qua về việc hiền huynh gặp lại La tướng quân cùng Tần phu nhân. Nay hiền huynh hãy kể tỉ mỉ, hai năm qua, làm những gì, gặp những ai?

Thúc Bảo ngừng chén đáp:

- Tiểu đệ thật có muôn tiếng nghìn câu để nói cùng Đơn nhị ca, nay thấy mặt, một câu không nhớ nữa. Lòng lúc nào cũng mong được cùng ngồi chung bàn, nằm chung chỗ để giải bày gan ruột.

- Không phải Hùng Tín này, hiện không muốn giữ khách, mà có ý đuổi khách đi đâu. Sau khi đã cùng nhau cạn chén rượu mừng, xin hiền huynh lại lên đường cho, Hùng Tín này quả không muốn giữ lâu thêm nữa!

Thúc Bảo vội hỏi:

- Có chuyện gì thế, Đơn nhị ca?

Hùng Tín vội đáp:

- Hai năm qua, từ ngày hiền huynh đi U Châu, bá mẫu gửi tới Nhị Hiền trang này mười ba lá thư, mười hai thư đầu, đều là nét chữ của bá mẫu, Hùng Tín này cũng đã gửi quà, gửi thư an ủi bá mẫu. Nhưng cách đây chưa đầy tháng, thơ thứ mười ba tới, thì không phải nét chữ của bá mẫu, mà là viết theo lời bá mẫu dặn, trong thư có nói bá mẫu bị ốm, không thề cầm bút viết. Theo ý Hùng Tín này, hiền đệ nên tức tốc về quê, gặp bá mẫu, để trọn vẹn đạo hiếu.

Thúc Bảo nghe thế, tay chân rã rời, nước mắt lã chã:

- Đơn nhị ca, sự thể đến thế này, tội của đệ không thể tha. Nhưng con ngựa của đệ cưỡi ở U Châu về lại yếu quá, đường còn dài, lòng thì muốn nhanh, nhưng ngựa lại chậm, làm thế nào bây giờ?

Hùng Tín nói:

- Ngày hiền huynh đi U Châu, phủ Lộ Châu mang con hoàng phiêu ra bán. Hùng Tín bèn đem ba mươi lạng, mang nạp vào kho phủ, mua con hoàng phiêu về Nhị Hiền trang này. Cứ mỗi lần nhớ tới hiền huynh, lại ra tầu ngắm hoàng phiêu, thấy vật nhớ người. Hôm qua ra tầu ngựa, con hoàng phiêu hình như cũng biết chủ cũ của nó sắp về vừa nhảy vừa hí mãi không thôi, như muốn mách với người điều gì. Quả thật hôm nay hiền huynh có mặt ở đây.

Nói rồi gọi đầy tớ dắt con hoàng phiêu ra. Thúc Bảo bái tạ, Hùng Tín đem yên cương của phủ Lộ Châu trả lại, vốn là Hùng Tín đo kích thước con hoàng phiêu mà đặt, lau chùi sạch sẽ, tu sửa cẩn thận, đem hành lý buộc chu đáo. Rồi không quay lại bàn rượu nữa, Thúc Bảo từ biệt ba bạn, lên ngựa ra khỏi trang trại, giục ngựa ra roi, như một luồng gió:

Thi đậu ngựa về quê

Thuyền buồm căng gió bay

Một mạch thẳng vun vút

Như tên nỏ buông dây.

Vó ngựa ruổi giong, bên tai chỉ nghe ù ù tiếng gió, qua Phùng Châu, trời vừa sáng rõ , vượt được một nghìn ba trăm dặm đường, giữa giờ ngọ ngày hôm sau thì đã đến đất Tế Châu. Tính cả đầu lẫn cuối, Thúc Bảo đã xa Tế Châu cũng đã ba năm, mãi nay mới được nhìn quê lòng quả như có cánh, đề mau về tới nhà mình. Về đến đường phố, Thúc Bảo xuống ngựa, lấy khăn chùm kín đầu sợ người quen nhìn thấy, chân bước vội men theo tường thành, vào nhà theo cửa sau. Ba năm xa vắng, cửa ngõ tiêu điều, Thúc Bảo tay dắt ngựa, tay gõ cửa. Trương Thị ở trong nhà nghe thấy, bèn cao giọng hỏi:

- Ai! Chồng ta ba năm nay đi xa nhà chưa về, ai lại phá cửa sau nhà ta thế trời!

Thúc Bảo nhận ra tiếng Trương Thị, nước mắt như muốn ứa, liền vội lớn tiếng hỏi:

- Mình ơi! Mẫu thân ta bệnh tình ra sao? Ta đã về đây!

Trương Thị đã nhận ra tiếng chồng mình, mà vẫn chưa dám tin là thật, tuy vậy vẫn đáp:

- Thân mẫu bệnh tình vẫn chưa bớt!

Rồi vội vàng ra cổng, Thúc Bảo dắt ngựa vào. Trương Thị đóng cổng lại, Thúc Bảo buộc ngựa. Trương Thị lâu nay giữ trọn đạo nhà, thấy chồng về, cũng chẳng cần biết chồng đã làm đến chức quan gì, trong lòng vừa mừng vừa lo. Vợ chồng lạy chào nhau. Trương Thị lên tiếng:

- Thân mẫu uống thuốc xong, vừa mới chợp mắt. Người gầy yếu lắm, mình hãy khoan vào.

Thúc Bảo nhón chân nhẹ nhàng vào phòng ngủ của mẫu thân, thấy hai hầu gái, giờ đã lớn hẳn, Thúc Bảo cúi xuống giường, thấy mẫu thân thở rất yếu, chân tay gầy như củi khô. Biết hết sức mình, Thúc Bảo chỉ khẽ nắm tay mẫu thân rồi gõ nhẹ vào chiếc ghế dựa mặt bên giường, và gọi nhẹ nhàng:

- Mẫu thân tỉnh dậy nào?

Ninh Thị như vừa tỉnh mộng nhưng không đủ sức quay người lại gọi Trương Thị, Trương Thị lên tiếng:

- Con đây!

Ninh Thị thong thả từng lời:

- Con này, chồng con có lẽ không còn trên đời này nữa. Ta vừa nhắm mắt, chợp được một giấc ngắn, thấy nó đứng bên giường gọi ta rất nhỏ nhẹ. Tưởng như người ở suối vàng, từ ngàn dặm trở về để thấy thân mẫu vậy.

Trương Thị liền đáp:

- Thân mẫu, đây không phải là con hiếu của thân mẫu đã về sao?

Thúc Bảo cúi đầu thưa:

- Con Thái Bình đã về đây!

Ninh Thị đang ốm đau, nhớ con, lòng lúc nào cũng nghĩ hết chuyện này đến chuyện khác, nay thấy con trở về, bệnh tình như trút được hơn nửa. Mọi hôm, mỗi khi cần dậy, Trương Thị cùng hai người hầu gái phải đỡ mãi mới ngồi dậy dược, nay vừa thấy con về, đã tự ngồi dậy, nắm hai tay Thúc Bảo. Người già khóc không có nước mắt, chỉ mở miệng mấp máy như muốn gọi tên con, cứ vuốt ve mãi bàn tay to khỏe của con. Thúc Bảo đứng dậy, lạy tạ mẫu thân. Ninh Thị thấy thế bảo:

- Con chẳng phải lạy tạ làm gì. Hãy tạ nàng dâu của ta kia kìa. Ba năm con đi ra đồng đất nước ngoài, nếu không có nàng dâu hiếu thảo, thì ta chết lâu rồi, chẳng còn dược trông thấy mặt con nữa đâu.

Thúc Bảo vâng lời mẹ, quay sang lạy Trương Thị. Trương Thị vội quỳ xuống thưa:

- Phụng dưỡng mẹ chồng, đó là đạo tự nhiên của phận dâu con, có gì đâu mà mình phải lạy tạ.

Vợ chồng bèn bái nhau bốn bái, rồi cùng ngồi trước giường Ninh Thị. Ninh Thị mới thong thả hỏi chuyện. Thúc Bảo đem chuyện điên đảo ở Lộ Châu, cho đến chuyện gặp cô ở U Châu kể một lượt. Ninh Thị hỏi:

- Chú con làm tới chức quan gì? Cô con sinh được mấy em, đã lớn chưa?

Thúc Bảo thưa:

- Chú con hiện làm U Châu Đạo hành đài. Cô con có một em trai La Thành, hiện đã mười ba tuổi.

Ninh Thị vui mừng tiếp:

- Mừng cho cô con đã có được người nối dõi.

Rồi bắt thay áo sạch, gọi hầu gái đem nước rửa tay, gọi Trương Thị thắp hương, lại đòi dậy để quay về hướng tây bắc mà lạy tạ ơn Đơn Hùng Tín ở Lộ Châu, đã cứu con mình mấy lần thoát chết.

Thúc Bảo cùng Trương Thị đều can:

- Bệnh chưa bớt, chưa thể làm lễ được!

Ninh Thị vẫn nói:

- Nay mẹ con được đoàn viên, vợ chồng gặp mặt, đều nhờ ở đại ân nhân, làm sao ta không bái tạ cho được.

Thúc Bảo can:

- Để con cùng Trương Thị thay lễ tạ là được rồi. Đợi hôm nào mẫu thân khỏe hơn, hãy lễ tạ cũng chưa muộn.

Ninh Thị đành nghe theo.

Ngày hôm sau, bạn bè tới thăm, Thúc Bảo tiếp đãi, chuyện trò, mừng vui khôn tả, mãi mấy tuần sau, mới có dịp nhìn đến thư tiến dẫn của La Nghệ. Thúc Bảo nai nịt võ phục gọn gàng, tìm tới soái phủ Lai Tổng quản.

Lai Tổng Quản vốn người Giang Đô, mới đầu được thế tập chức của ông cha, sau đánh nhà Trần có quân công, nên được phong Hoàng Huyện Công, được dựng phủ như tam ty, giữ chức Sơn Đông đạo hành đài, kiêm Tế Châu tổng quản. Hôm ấy, đúng lúc Tổng quản bắn pháo mở cửa soái phủ, lên công đường làm việc. Thúc Bảo vào trình thư. Lai Tổng quản xem xong thư tiến cử của La Tổng quản, mới gọi Thúc Bảo lên đài bán nguyệt để xem xét. Thúc Bảo liền lớn tiếng đáp:

- Có!

Tiếng vang như sấm dậy mùa xuân. Lai Tổng quản ngước mắt nhìn, thấy Thúc Bảo thân cao hơn trượng, hai thanh giản mạ vàng lấp lánh dưới tay, dáng hình lẫm lẫm, tướng mạo đường đường, đôi mắt sáng quắc như sao, đôi mày đen tựa sơn, đúng là một kẻ trượng phu ngang tàng. La Tổng quản mừng lắm, nói:

- Tần Quỳnh, dưới trướng của La Tổng quản, ngươi là một kỳ bài quan tên tuổi. Nay dưới trướng của ta phải theo công trạng mà đề bạt, không thể có chuyện thân thích, nay tạm để ngươi giữ chức kỳ bài quan như cũ, ngày sau có công trạng, sẽ thăng thưởng sau.

Thúc Bảo cúi lạy thưa:

- Được tổng đại nhân thu phục dưới trướng, thật xin hết lòng đền đáp ơn sâu.

Lai Tổng quản truyền lệnh trong quân, cấp sắc phục kỳ bài quan cho Thúc Bảo, rồi đánh trống đóng cửa soái phủ.

Thúc Bảo về nhà, sắm sửa lễ vật, đến vái chào các bạn đồng liêu trong quân ngũ. Hai mươi lăm người lính dưới quyền cai quản của Thúc Bảo cũng đều đến chào. Thúc Bảo vốn là người biết lo lắng công việc gia đình, đem tiền bạc từ U Châu về ra tu sửa nhà cửa, làm quang cảnh khác hẳn xưa. Vào làm kỳ bài quan ở soái phủ họ Lai đã ba tháng, hôm ấy là một ngày mùa đông giá rét, sau khi túc trực ở công đường xong xuôi. Lai Tổng quản dặn Thúc Bảo đừng ra về vội, mà vào hậu đường. Thúc Bảo vào, quỳ lạy xong xuôi, Lai Tổng quản lên tiếng:

- Ngươi về dưới trướng ta, đến nay cũng được ba tháng, ta chưa từng giao việc gì lớn. Sang năm ngày Tết nguyên tiêu, Việt Quốc Công Dương đại nhân làm lễ lục tuần thọ khánh. Ta đã sai người đi Giang Nam, đặt dệt may mấy bộ sắc phục, muốn sai ngươi đem lễ đến Trường An. Nhưng giữa lúc thiên hạ loạn lạc, trộm cướp như ong khắp nơi, sợ dọc đường có chuyện sơ suất. Ngươi là kẻ có sức, dũng cảm hơn người, liệu có đương nổi việc này chăng?

Thúc Bảo cúi lạy thưa:

- Nuôi quân nghìn ngày, dùng quân một giờ, được đại nhân sai khiến. Tần Quỳnh này không dám từ lao.

Lai Tổng quản sai gia tướng, đem lễ vật ra, sắp xếp đóng thành hai gói lớn màu đỏ. Cứ theo đúng giấy tờ, giao cho Thúc Bảo nhận đủ, rồi bỏ vào bao làm dấu niêm phong cẩn thận.

Kể từng thứ có:

Áo phẩm phục ngũ sắc có thêu hoa tròn bằng chỉ vàng mười bộ, Bạch ngọc linh long để đeo một vòng, Quang bạch ngọc để đeo một vòng, Ngọc minh châu tám viên, Ngọc để bày chơi mười thứ, vàng đúc hình móng ngựa một nghìn lạng, Tranh vẻ mừng thọ một bức. Biểu mừng thọ một tờ.

* * *

Lại nói Việt Quốc Công Dương Tố làm lễ lục tuần thọ khánh, tướng ngoài phiên trấn chỉ làm đến lễ quan tước, làm sao lại có cả thọ biểu. Họ Dương cũng chẳng phải anh em gì của Văn Hoàng đế nhà Tùy, mà vốn mang dòng máu Kha hãn Đột Quyết, lập được quân công với nhà Tùy, nên được ban họ Dương là họ vua Tùy. Ra ngoài thì làm đại tướng, từng đánh dẹp Giang Nam, về triều làm tể tướng, mang chức bộc xạ, được sủng ái đứng đầu bá quan văn võ, quyền nghiêng trong ngoài. Văn Đế vốn Dương nói thì nghe, bày kế thì theo, vì vậy mà Dương đã phế Thái tử Dũng, bỏ tù Thục Vương. Trong triều trăm quan văn võ, các phiên trấn bên ngoài, quá nửa là từ cửa Dương mà ra. Bởi vậy quan viên thiên hạ, lấy lễ vương hầu để nịnh Dương; sai người mừng thọ, đều dùng thọ biểu.

Lai Tổng quan đưa Thúc Bảo mã bài lệnh tiễn, thưởng tiền bạc để gia quyến tiêu pha trong thời gian Thúc Bảo vắng nhà, truyền lệnh trong quân, chọn ba ngàn tốt, hai người lính dẫn ngựa, thồ hàng hóa, một ngựa để Thúc Bảo cưỡi. Vì Thúc Bảo người cao lớn nên cấp thêm tiền cỏ ngựa, lại nhắc chọn hai người lính thật khỏe, hai túi thồ hàng thật chắc chắn. Sau đó Thúc Bảo về nhà, làm lễ cầu mát, vào phòng cáo từ mẫu thân. Ninh Thị thấy Thúc Bảo mang dáng vội vã của kẻ sắp đi xa, đã hiểu ý nên rơi nước mắt, dặn dò:

- Con đừng quên, ta cũng sắp đến tuổi, chỉ thích sum họp, rất ngại xa cách. Con vừa biền biệt ba năm, ở nhà chưa lâu lại phải ra đi, trước mất là cả một cuộc hành trình dài, đừng như lần trước, khiến lão thân đằng đẵng tựa cửa trông chờ.

Thúc Bảo thưa:

- Con nay đã khác xưa nhiều. Vâng mệnh tổng quản lên đường, vổ ngựa ruổi rong. Sang năm ngày rằm tháng giêng là lễ sinh nhật thì đầu tháng hai đã có mặt ở nhà rồi.

Lại dặn dò Trương Thị phải chăm sóc mẹ già chu đáo.

Trương Thị đáp:

- Mình không phải nhắc nhở chuyện này.

Thúc Bảo sai lính đem hàng ra, khoác lên lưng ngựa, còn mình thì cưỡi con hoàng phiêu ra đi.

Ra khỏi Sơn Đông, đến Hà Nam, vào giữa vùng ba huyện Đồng, Quan, Vị, rồi đến núi Thiếu Hoa của huyện Hoa Am thuộc Hoa Châu, thế núi hiểm trở, rậm rạp, Thúc Bảo bảo hai người lính:

- Hãy đứng chờ, để ta lên trước xem sao.

Hai người lính hỏi:

- Tần đại huynh lúc nào cũng giục chúng tôi đi nhanh, sao giờ lại bảo đứng chờ phía sau?

Thúc Bảo đáp:

- Hai người không biết, quãng này trông âm u, hiểm trở, sợ có kẻ xấu chọn làm sào huyệt, nên phải để ta lên trước xem sao.

Hai người nghe ra, vội tránh sang, nhường Thúc Bảo cầm dây cương ngựa màu tía của con hoàng phiêu đi lên trước, hai người lính dựa theo sau, cả ba người ngựa đi sát nhau từng bước thận trọng đi vào đường men chân núi um tùm gai góc.

Bỗng trước mặt, một chàng trai trẻ, toàn thân nai nịt gọn gàng, mặt mày sáng sủa, ngồi trên lưng ngựa, cầm ngang ngọn giáo, đứng ngay giữa đường, lớn tiếng quát:

- Hãy nạp tiền mãi lộ đi?

Thúc Bảo vốn gan dạ, đã từng đụng độ với nhiều loại lâu la thế này, nên cả cười hỏi:

- Xa nhà chưa đầy ba bước đã là xa, cảnh vật tình người đã là khác. Ở Sơn Đông, Hà Nam, bọn lục lâm cường đạo chỉ cần nghe đến tên ta, đã bỏ chạy như chuột rồi, nay vào tới ải này, chúng mày lại đòi tiền ta sao. Ta chưa xưng danh vội, nếu không chúng mày sợ mà chạy mất thôi!

Thúc Bảo cầm hai thanh giản, nhảy lên ngựa, cứ nhắm giữa đầu đối phương mà bổ xuống, thiếu niên cũng giơ kim bối đao lên đỡ. Giản đánh trúng sống đao, tóe lửa, chói tai, cả hai cùng lăn vào nhau, đao qua giản tới, bên đánh bên đỡ, đến hơn cả ba mươi hiệp mà vẫn bất phân thắng bại.

Trong núi Thiếu Hoa, nguyên vẫn còn hai hào kiệt khác, trong đó có một người vốn quen biết Thúc Bảo, chính là Vương Bá Đương. Bá Đương sau khi từ biệt Lý Huyền Thúy, đi qua vùng này, gặp các hào kiệt, không áp đảo được Bá Đương, bèn mời cùng nhập bọn. Người xuống đường chặn Thúc Bảo là Tề Quốc Viễn, người đang cùng uống rượu trên trại là Lý Như Khuê.

Đang uống rượu say sưa, bỗng thấy lâu la vào cấp báo:

- Trình Nhị vị đầu lĩnh. Tề đầu lĩnh xuống núi gặp một võ tướng đi công cán, cùng nhau quần thảo, có đến ba bốn chục hiệp rồi, mà không phân được thua. Chúng con ở bên ngoài nhìn ra, thì thấy đường đao của Tề đầu lĩnh đã có vẻ rối loạn, khó mà địch nổi viên tướng này, xin nhị vị đầu lĩnh mau mau ứng cứu!

Bọn này vốn còn mang đầy lòng nghĩa hiệp, nghe tin báo Quốc Viễn khó lòng thủ thắng, liền gọi lâu la dắt ngựa, đeo khí giới, tức tốc xuống núi. Từ xa nhìn giữa bãi bằng, cuộc đấu vẫn đang tiếp diễn, Vương Bá Đương trên mình ngựa nhìn kỹ, thì thấy người kia có vẻ giống Tấn Thúc Bảo, chỉ sợ bạn bè với nhau, xảy ra chuyện đáng tiếc, nên từ xa, Bá Đương gào lớn:

- Quốc Viễn hãy dừng tay!

Nhưng đứng từ xa, ngoằn ngoèo cũng gần mười dặm, làm sao mà nghe ra, lại thêm sườn núi nhấp nhô, tiếng nghe vang dội, núi gầm sông ứng, Quốc Viễn lại đang quyết đấu, chẳng biết có ai gọi cũng chẳng biết gọi ai. Bá Đương cùng Lý Như Khuê vội lao xuống, đến đất bằng, Bá Đương la lớn:

- Đúng là Thúc Bảo hiền huynh rồi!

Cả hai vứt binh khí, xuống ngựa, lạy chào tạ lỗi, rồi mời Thúc Bảo về sơn trại. Sợ hai tên lính hoảng hốt, Thúc Bảo vội giảng giải:

- Các ngươi không có gì phải hoảng hốt, không phải ai xa lạ, cũng là chỗ bạn bè quen biết, tụ họp nhau ở đây cả thôi.

Hai người lính mới đỡ lo sợ.

Lý Như Khuê sai lâu la đem hành lý của Thúc Bảo lên sơn trại. Các đầu lĩnh cùng Thúc Bảo lên ngựa về núi Thiếu Hoa, qua cửa trại, vào sảnh tự lễ, Bá Đương chắp tay tạ lỗi lần nữa, rồi bày tiệc rượu khoản đãi. Thúc Bảo cùng Bá Đương kể lể mọi chuyện từ lúc xa nhau ở Lộ Châu, cho đến những chuyện ở rừng Tạo Giác, đi U Châu, trở về quê nhà ra sao rồi tiếp:

- Nay Lai Tổng quản sai đi áp tải lễ vật, để kịp mừng thọ Việt Quốc Công Dương Tố ở Trường An vào rằm tháng giêng sắp tới, may gặp Tề Đại huynh nên lại có duyên gặp chư huynh, thật là sự may mắn ba sinh.

Nhân hỏi đến tung tích Lý Huyền Thúy, Bá Đương đáp:

- Huyền Thúy nhân có công tử con Việt Quốc Công mời, nên hiện nay cũng đang ở Trường An.

Thúc Bảo hỏi:

- Bá Đương có duyên nợ gì mà lại ở đây?

Bá Đương đáp:

- Tiểu đệ nhân đi qua núi này, ơn Tề, Lý nhị vị giữ lại. Cũng đã gửi thư cho Đơn viên ngoại, hẹn sẽ tới chuyện trò ở Nhị Hiền trang. Nay gặp đại huynh đi công cán ở Trường An, khiến tiểu đệ cũng nổi hứng giang hồ, chẳng muốn đi Nhị Hiền trang nữa, mà cùng đại huynh đi Trường An, xem hội đèn nguyên tiêu, tìm Lý Huyền Thúy nhân thể.

Thúc Bảo vốn là người giàu tình cảm bạn bè, bèn đáp:

- Hiền huynh đã cao hứng như thế, thì thật là vui vẻ cho cả hai.

Quốc Viễn, Như Khuê cùng nói:

- Vương đại huynh đã đi, chúng tiểu đệ xin theo cùng!

Thúc Bảo ngoài mặt không dám ngăn cản, nhưng trong lòng thầm nghĩ: "Vương Bá Đương chẳng qua chỉ là khách trong đám lục lâm thôi, vẫn còn giữ được cốt cách văn nhân nho nhã, dẫu có đến Trường An cũng chẳng ai nhận ra. Nhưng Tề Quốc Viễn với Lý Như Khuê, vốn mang tính nóng nảy, lỗ mãng của đám thảo dã, nếu cùng đi Trường An, nhất định sẽ lộ ngay cái vẻ khác thường này, rồi lại liên lụy đến ta mất thôi!". Nhưng không thể nói thẳng ý nghĩ đó, nên Thúc Bảo đành tìm cách nói xa xôi:

- Nhị hiền đệ không nên đi. Vương hiền huynh vốn là người không thiết tha gì với công danh phú quý, chẳng nghĩ gì đến tương lai, theo thói giang hồ lãng tử. Tiểu đệ xem ra núi Thiếu Hoa này hiểm trở, lại có thành trì, nhà cửa hẳn hoi, quy mô rất là hùng vĩ, kho lương đầy đủ, lại thêm nhị vị bản lãnh cao cường, bọn lâu la đều khỏe mạnh dũng cảm. Nhà Tùy lại sắp loạn lạc đến nơi, một dãy Thiếu Hoa này, mai kia trong cuộc chia năm xẻ bảy, sẽ là nơi không dễ có được, có thể làm kế lâu dài. Nếu cùng với tiểu đệ đến Trường An để xem hội đèn Nguyên Tiêu, chẳng qua chỉ là chuyện vui chơi trẻ con, ít ra cũng phải mất một tháng mới về được, người vật tan tác, nhị vị về làm sao mà thu hồi được gốc cũ, lúc ấy thì xin đừng oán Tần Quỳnh này.

Tề Quốc Viễn thì tin là Thúc Bảo nói thành thực, còn Lý Như Khuê nghi ngờ, cười mà rằng:

- Tần đại huynh lại đùa anh em chúng tôi rồi. Thật cũng khó nói. Anh em đều là những kẻ võ biền, suốt đời làm nghề lạc thảo, ai cũng thô lỗ, không quen ăn nói hào hoa phong nhã, cử chỉ đều ngang ngược. Nhưng gần đây gian thần tác quái, anh em chúng tôi còn biết làm gì hơn, là tập hợp nhau ở những nơi rừng núi thế này, đợi thời cơ mà hành động. Đại huynh cũng ngại nói thẳng ra rằng anh em chúng tôi chuyên cướp của giết người, dã tính đã quen, theo đại huynh về Trường An, sợ phạm phải những điều cấm kỵ của đại huynh, xảy chuyện lôi thôi, thì đại huynh cũng vạ lây. Mà không thấy rằng, anh em chúng tôi có đi cũng là chính đáng. Nói rằng chúng tôi không còn chỗ về, thì chẳng nhẽ anh em tôi làm nghề lục lâm suốt đời sao?

Những lời này nói đúng những tính toán của Thúc Bảo, Thúc Bảo đành phải hiện bạch:

- Nhị vị hiền đệ, nếu đã nghi ngờ thế, chúng ta cùng đi là hơn cả.

Quốc Viễn phụ họa:

- Đúng rồi! Cùng đi cả thì chẳng còn điều gì phải suy nghĩ nữa!

Các đầu lĩnh bèn sai lâu la thu nhập chiến mã, chọn lấy gần hai mươi người trai tráng, khỏe mạnh, đeo hành lý trên vai, đem theo tiền bạc. Số lâu la khác ở lại trông coi sơn trại, không được phép tự tiện xuống núi. Thúc Bảo cũng chú trọng giữ gìn hai bao hàng của mình, không dám tiết lộ với ai, sợ sẽ mang họa lớn.

Canh ba hôm ấy, bốn người cưỡi ngựa, cùng với thủ hạ rời Thiếu Hoa Sơn, đi về Thiểm Tây. Đến cách Trường An khoảng sáu mươi dặm, thì trời vừa chiều, Bá Đương cùng Như Khuê, từ trên mình ngựa nhìn về phía trước, thấy một ngôi chùa cổ mới được trùng tu, điện các lợp đầy ngói vàng lấp lánh, dưới ánh vàng chiếu rực rỡ. Bá Đương nói:

- Lý hiền đệ, chuyện đời đúng là khôn lường, lúc thành lúc bại. Vừa năm nay, tiểu đệ đi Trường An, thì ngói chùa cổ này còn hoang tàn, đổ nát, trông thấy đã rầu cả lòng, nay lại thật chỉnh tề, rực rỡ bao nhiêu!

Như Khuê bàn:

- Chúng ta hãy vào chùa, vừa là nghỉ chân đêm nay, vừa là ngoạn cảnh, xem người, để biết ai đã đứng ra trùng tu ngôi chùa đổ nát ấy của đại huynh.

Thúc Bảo từ lúc ra khỏi Thiếu Hoa Sơn, không dám rời Quốc Viễn cùng Như Khuê lúc nào. Trên đường cái quan, khách buôn bán, kẻ việc công, người việc tư đi lại rất nhiều, chỉ sợ hai người bắn một mũi tên, giật của khách một gói hành lý, thì thật là tai họa không chừng. Cũng tính trước rằng, hai người này lên Trường An, chỉ cần ở hai ba ngày là nhiều, nhược bằng ở lại lâu hơn, nhất định sẽ có chuyện lôi thôi không nhỏ. Hôm nay chỉ mới mười lăm tháng mười hai, đến Tết Nguyên Tiêu còn đúng một tháng nữa, chi bằng vào ngôi chùa bên đường này, thuê trưởng lão một căn phòng, ở tạm cho đến tận hết năm cũ, đợi đến ngày vào hội hoa đăng hãy vào thành, khoảng năm ba ngày còn dễ quản thúc họ. Vì vậy, Thúc Bảo giục ngựa lên trước, nói với Quốc Viễn, Như Khuê:

- Nhị vị hiền đệ, năm nay Trường An nơi trọ có lẽ khó kiếm lắm.

Quốc Viễn đáp:

- Đại huynh không ra vẻ kẻ đại trượng phu. Khó thì cứ cho nhiều tiền vào là xong thôi. Tính toán làm gì!

Thúc Bảo:

- Hiền đệ có chỗ chưa biết. Việc ăn ở Trường An đều có số mệnh cả đấy. Mỗi năm, mỗi người, giá tiền trọ mỗi khác. Khách buôn bán quen thuộc, cứ như lệ cũ mà trả, mà ăn ở. Năm nay, bạn bè đông như đám chúng ta đây, riêng tiểu đệ đã có ba người cả thảy, thế thì dù bạn bè quen thuộc của Tần Quỳnh này, hay là khách tới mừng lễ sinh nhật, trong lúc mọi người khắp nơi ùn ùn kéo về Trường An xem hội đèn, thì dẫu có được biệt đãi riêng một phòng nữa, thì cũng tha hồ mà chật chội, mà bị trói buộc nữa. Chứ đâu chỉ có tiền là được thôi đâu.

Nghe Thúc Bảo giảng giải, hai người lâu nay vốn quen phóng khoáng, tự do, cũng sợ thấy bị tù túng, bèn hỏi:

- Tần đại huynh, nếu thế thì làm thế nào cho phải bây giờ.

Thúc Bảo đáp:

- Cứ như ý tiểu đệ, ta tới ngôi chùa vừa mới trùng tu bên đường kia, mượn một gian ở tạm. Anh em ta có thể ruổi ngựa bắn cung giữa chốn thảo nguyên hoang vắng này, chẳng hề bị ai trói buộc, ung dung tự tại chờ năm hết, đến tuần hội đèn rồi tiểu đệ thì vào thành dâng lễ vật liệt vị thì vào xem hội.

Bá Đương cũng hiểu ra nên cực lực tán đồng. Vừa đi vừa bàn bạc, chưa gì đã tới cửa chùa, mọi người đều xuống ngựa, sai bọn thủ hạ trông nom ngựa, hành lý, cả bốn người chỉnh đốn y phục, cùng bước vào cửa, nhìn lên Đại hùng bảo điện, đường vẫn còn xa, bốn phía chung quanh vẫn chưa xây tường xong, mặt trước Phật đài vẫn ngổn ngang vật liệu. Trên một cái giá buộc rất cao trước Phật đài, thợ vẫn đang làm nốt mái trước. Nhìn ra ở bên ngoài giá thấy một cảnh tượng rất trang trọng: chính giữa cắm một cái lọng vàng, dưới lọng là một chàng trai trẻ ngồi, mặc áo tía, năm sáu người vây chung quanh, đều mặc áo xanh, đội mũ rộng đứng hầu, rất uy nghi. Hai bên thềm cao hai viên hổ đầu tướng võ phục nai nịt gọn gàng, màu sắc sặc sỡ, sau là gươm giáo, hình cụ bày đầy, trông càng oai nghiêm. Vị quan ngồi đó, chẳng biết là ai,

Thúc Bảo cùng mọi người không biết nên vào nữa hay ra, xin xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi Thứ Mười Sáu

Chùa Báo Đức đền ơn đắp tượng,

Ngõ Tây Minh cải dạng theo chồng.

Thơ rằng:

Hiệp sĩ chẳng khoe công

Người nhân thường mến đức

Phạm Lãi đúc tượng vàng(1)

Phục Ky tang bích ngọc (2)

Ơn sâu như khắc tận tim gan

Bỏ thói lật lọng đời chan chan

Chàng chẳng thấy:

Nóc chùa Báo Đức chọc trời dậy

Trả nghĩa đền ơn như thế đấy.

1 phạm Lãi giúp vua Việt là Câu Tiễn báo thù nước Ngô xong, bỏ trốn vào Ngũ Hồ. Câu Tiễn nhớ ơn, tạc tượng Phạm Lãi bằng vàng để bên cạnh mình, nhắc phải luôn nhớ ơn Phạm Lãi (Đông Chu liệt quốc).

2 Công tử Trùng Nhĩ, khi chưa được ngôi vua, phải bỏ nước chạy trốn, đến nước Tào, vua quan Tào đều coi thường, duy vợ chồng Hy Phụ Ky săn sóc rất chu đáo, Trùng Nhĩ đem đôi ngọc bạch bích tặng. (nt)

Tín Lăng Quân Ngụy Vô Kỵ, nhân em chồng là Bình Nguyên Quân bị nước Tần vây rất gấp, mới cậy Như Cơ lấy trộm binh phù, để Tín Lăng Quân đem được mười vạn quân, đại phá tướng Tần là Mông Ngao, bảo toàn được nước Triệu.

Về sau có một môn khách, nói với Tín Lăng Quân rằng:

- Đức có cái phải nhớ, có cái nên quên, người chịu ơn mình thì nên quên, mình chịu ơn người thì không thể quên vậy. Gọn lại mà nói, làm ơn thì đừng nghĩ đến chuyện sẽ được đền ơn, chịu ơn người thì đừng bao giờ quên.

***

Lại nói Vương Bá Đương, người đã vứt bỏ công danh vớí triều Tùy, cũng khó mà nhận ra vị trai trẻ ngồi dưới lọng vàng, vì mắt còn để ở núi rộng sông dài: Tề Quốc Viễn, Lý Như Khuê thì giữa thanh thiên bạch nhật, đốt nhà giết người, chẳng có lý nào để sợ cái ông quan ngồi dưới lọng vàng ấy cả. Chỉ riêng Tần Thúc Bảo, thân đã quen phải chào lạy nơi cửa công, từng biết cao thấp, đến gần bán nguyệt đài, ngăn ba bạn lại.

- Chư hiền đệ có lẽ không nên lên thềm làm gì. Người ngồi dưới lọng vàng kia, có lẽ là thí chủ đứng ra trùng hưng chùa này chăng?

Bá Đương hỏi:

- Thí chủ thì thí chủ, việc gì mà không lên?

Thúc Bảo đáp:

- Chẳng có chuyện gì đáng nói, dính với mấy vị quan viên đương nhậm chức ấy làm gì?

Như Khuê hỏi:

- Sao huynh biết đó là quan viên đương nhiệm!

Thúc Bảo đáp:

- Cứ nhìn hai viên hổ đầu tướng đứng hầu hai bên thềm cũng đủ rõ. Nay bốn anh em chúng ta có nên lên chào vị quan viên này chăng? Có lẽ không nên lên thì hơn?

Bá Đương hưởng ứng:

- Đại huynh nói có lý lắm.

Bốn người nhất tề quay sang con đường nhỏ, đến bên góc của Đại Hùng Bảo điện, thấy rất nhiều thợ, đang tấp nập làm việc. Thúc Bảo liền lên tiếng gọi, mấy người ở gần hỏi:

- Các vị có điều gì cần chỉ bảo?

Thúc Bảo lên tiếng:

- Xin được hỏi một câu. Ngôi chùa này được vị thí chủ nào đứng ra trùng tu mà rộn ràng đến thế!

Một người thợ đáp:

- Đấy chính là Lý đại nhân, tước Đường Quốc Công ở Tỉnh Châu thuộc Thái Nguyên đứng ra trùng tu.

Thúc Bảo lại hỏi:

- Đại nhân trị nhậm ở Thái Nguyên. Sao lại hưng công kiến đức ở đây?

Người thợ đáp:

- Vị ngày mười lăm tháng tám, năm Nhân Thọ nguyên niên, Lý đại nhân vâng chỉ hồi hương, tạm trú ở chùa này. Đậu phu nhân sinh hai thế tử ở đây. Lý đại nhân vì sợ ô uế, nơi thanh tịnh nên phát nguyện bố thí, trùng hưng chùa này. Người ngồi dưới lọng vàng kia, chính là Quận mã của Lý đại nhân tên gọi Tự Xương, họ Sài.

Nghe nói thế, Thúc Bảo đã nhận ra chính là Lý đại nhân mà mình đã cứu ở núi Lâm Đồng.

Bốn anh em đi về phía phương trượng ở góc phía đông, thấy một tòa lầu vừa mới xây, treo một bức đại tự màu đỏ, vàng đề ba chữ vàng lớn: "Báo Đức tự", Bá Đương nói:

- Ta hãy xem báo đức đền ơn gì đây?

Bốn người cùng vào, thấy có ba gian rộng rãi, gian giữa đặt một bệ thờ lớn, cao đến hơn một trượng, một pho tượng thế đứng đặt chính giữa, mình khoác một chiếc khăn choàng màu xanh lá sen, đội nón Phạm Dương, chít khăn màu trắng, có đính hoa vàng, thắt lưng da mềm, đeo hai con dao có cán ngà, chân mang giày da hươu màu vàng, phía trước có một hàng chữ đỏ, viết sáu chữ vàng, chân phương: "Ân công Quỳnh Ngũ sinh vị", bên cạnh là một hàng chữ nhỏ hơn: "Tín quan trai giới phụng tự".

Vốn là khi Thúc Bảo ở Lâm Đồng Sơn, đánh bại bọn giả cướp rồi, Lý Uyên hỏi họ tên Thúc Bảo, Thúc Bảo không muốn nói ruổi ngựa bỏ đi. Lý Uyên vẫn không chịu, quất ngựa chạy theo đến hơn mười dặm đường, Thúc Bảo đành phải trả lời tên là Tần Quỳnh, Lý Uyên thấy Thúc Bảo xòe năm ngón tay, lại chỉ nghe được tên, không nghe họ, nên ghi thành Quỳnh Ngũ.

Thúc Bảo lặng lẽ gật đầu: "Cả một năm vừa qua mà mình điên đảo như thế ở Lộ Châu, thì chính là lúc ở đây Lý đại nhân đắp tượng tô mặt mày mình. Ta vốn là một người áo vải, làm sao có phúc để được đắp tượng, thắp hương tụng niệm thế này . Lòng riêng than thở hồi lâu. Ba người bạn đâu thấy rõ pho tượng trên bệ, nên hỏi Bá Đương:

- Bá Đương đại huynh, đây có phải là tượng Thiên Tôn không?

Bá Đương cười đáp:

- Vừa rồi ở cửa thứ hai, tay cầm bổng hàng ma, mới là tượng Thiên Tôn. Còn đây là tượng người còn sống. Đường Công Lý đại nhân từng chịu ơn người này, cho nên mới xây "Báo Đức Tự" này.

Mọi người nghe nói là tượng người còn sống, đều không giấu vẻ ngạc nhiên, nhìn kỹ lại pho tượng một lần nữa. Khuôn mặt thấy hao hao giống Thúc Bảo. Ở trên bệ thờ, tả hữu phía sau có thêm bốn pho tượng nữa, bên trái hai người, dắt một con ngựa hoàng phiêu, bên phải cũng hai người, nâng hai thanh giản mạ vàng. Bá Đương lại gần, nói nhỏ vào tai Thúc Bảo:

- Năm ngoái đại huynh đi xa, hình như có đánh dẹp gì ở đây thì phải.

Thúc Bảo khẽ khoát tay, nói:

- Hiền huynh nói khẽ chứ. Tượng này chính là tượng tiểu đệ đấy!

Bá Đương hỏi:

- Sao là tượng đại huynh được?

Thúc Bảo đáp:

- Năm Nhân Thọ nguyên niên, gặp hiền huynh ở Lộ Châu, chính là lúc tiểu đệ cùng Phàn Kiến Uy đã lĩnh giấy tờ ở Trường An trỡ về đúng ngày mười lăm tháng tám, Lý đại nhân về quê, đến Lâm Đồng Sơn bị bọn cướp bao vây, Kiến Uy cổ vũ tiểu đệ vào cứu Lý đại nhân, đánh bại bọn cướp, xong xuôi, tiểu đệ phóng ngựa bỏ đi. Lý đại nhân đuổi ngựa theo hỏi họ tên tiểu đệ, tiểu đệ đành nói tên là Tần Quỳnh, rồi khoát tay ra hiệu không phải đuổi theo nữa, không ngờ Lý đại nhân nhận nhầm là Quỳnh Ngũ. Chuyện này cũng thật khó nói ra.

Bá Đương cười nói:

- Cũng hởi Lý đại nhân không nhận ra Quỳnh tướng quân, khiến cho tướng quân ở Lộ Châu phải một phen lao đao suýt chết.

Cả hai cùng cười lớn, không ngờ Sài Tự Xương ngồi dưới đài bán nguyệt, từ đầu đã thấy bốn người hăm hăm hở hở từ bên ngoài đi vào chưa rõ là loại người nào, nên sai gia tướng, theo dõi xem sao, bọn này đã bám sát nghe ngóng, từng cử chỉ, lời nói. Vì thế mà nghe thấy hết mọi điều, vội về bán nguyệt đài, thưa với Tự Xương:

- Trong số bốn người kia, có người là ân nhân của lão đại nhân.

Tự Xương nghe thấy thế, vội ra xem lại án mũ, rồi xuống đài, vào Báo Đức Tự, nghiêng mình thưa :

- Xin được rõ, vị nào là người đã cứu sống nhạc phụ hạ quan?

Bốn người vội vái chào. Bá Đương chỉ Thúc Bảo thưa:

- Đại huynh đây chính là người từng gặp gỡ Lý đại nhân ở Lâm Đồng Sơn cũ họ Tần, tên Quỳnh, Lý đại nhân hồi đó nghe nhầm ra là Quỳnh Ngũ. Quận mã nếu chưa tin thì cứ ra ngoài chùa xem đôi giản mạ vàng cùng con hoàng phiêu ở ngoài đấy cả .

Tự Xương đáp:

- Bốn vị đều là bậc hào kiệt, sao lại có chuyện thật giả cho được. Xin mời về phương trượng .

Nói rồi sai gia đinh trải thảm, cùng nhau bái chào, xưng họ tên. Lại sai gia đinh ra cổng chùa dắt ngựa, hành lý vào, xếp đặt trong từng phòng, rồi lệnh bày tiệc rượu để đón mừng. Ngay đêm hôm đó, Tự Xương viết thư, sai gia đinh đem về Thái Nguyên để trình Đường Công Lý đại nhân và giữ bốn anh em Thúc Bảo lại trong chùa, ăn uống trò chuyện.

Chẳng bao lâu đã tới năm mới, rồi hội đèn nguyên tiêu cũng gần đến. Thúc Bảo bàn với Bá Đương:

- Chiều mai, ngày mười bốn rồi tiểu đệ phải vào Trường An để trình lễ sinh nhật, sáng mười lăm phải có mặt sớm ở phủ đệ Việt Quốc Công.

Bá Đương khuyên:

- Nếu vậy thì sáng sớm mai nên lên đường cho sớm sủa.

Thúc Bảo liền sai hai tên lính dắt ngựa chuẩn bị hành lý, yên cương để vào Trường An cho sớm. Tự Xương cũng biết Thúc Bảo đang còn công vụ, không thể ngăn cản, nhưng vì vẫn chưa thấy thư trả lời của Lý đại nhân ở Thái Nguyên, nên trong lòng băn khoăn lo lắng: "Thúc Bảo vào Trường An lần này, sẽ theo đường khác trở về, nhất định sẽ không quay lại đây nữa, nếu nhạc phụ có thư mời, người đã đi rồi, hóa ra thư trước ta nói không đúng sao. Nay ta cùng Thúc Bảo hoàn tất công vụ, lại mời Thúc Bảo vào chừa, đợi thư của nhạc phụ xem sao". Tự Xương bèn nói với Thúc Bảo:

- Hạ quan cùng về Trường An xem hội hoa đăng với ân nhân có tiện chăng?

Thúc Bảo vẫn thấp thỏm lo cho đoàn vào Trường An của mình, nay thấy có thêm Tự Xương giúp cho một tay, nên vui vẻ nhận lời ngay. Tự Xương bèn sai gia đinh chuẩn bị yên cương hành lý chu đáo, sắp đặt công việc ở chùa, đem theo hai gia tướng và bạc tiền chi tiêu.

Sau khi ăn uống xong, năm người năm ngựa, thêm hai ngựa đèo hàng của Thúc Bảo cùng bọn tay chân cộng tất cả là hai mươi hai người, rời Vĩnh Phúc tự vào Trường An. Từ ngày Thúc Bảo tới chùa đến nay, chưa đầy nửa tháng, cảnh sắc trên đường đã thay đổi hẳn:

Liễu vờn yên ngựa ngậm tơ vàng

Co mượt xanh xanh khắp suối ngàn

Xuân ắt sớm tỏ màu lá nõn

Gió đưa mặt nước sóng lăn tăn.

Tuy chỉ sáu mươi dặm đường, nhưng vì khởi hành muộn, nên mãi lúc mặt trời sắp lặn mới vào đến Trường An. Thúc Bảo đã tính rằng không nên trọ ở trong thành, việc ra vào sẽ phiền toái, cách cửa Minh - Đức khoảng tám dặm, thấy một tòa nhà lớn, phòng ốc cao sang, biển đề ba chữ lớn "Đào gia điếm". Thúc Bảo bàn:

- Người nhiều trời tối, sợ vào thành đông đúc, không thể tìm ra quán trọ nào lớn chứa đủ đám anh em chúng ta, chi bằng ở đây nghỉ là tốt hơn cả.

Cả đoàn xúm lại, ai nấy xuống ngựa, vào nhà, xung quanh thấy la liệt treo những đèn lồng xanh đỏ đủ màu. Chủ quán thấy đoàn đông người ngựa lính tráng, hành lý ngổn ngang, biết ngay là lớp người có thế lực, mặt mày vui vẻ, ân cần mời mọc:

- Thưa quý khách, quý khách không chê quán này rượu nhạt, thức nhắm rau dưa, đêm tối vào đây, xem mấy cây đèn xấu xí này, xin để gọi dọn cơm rượu tẩy trần hầu quý khách. Ngày mai mới là ngày trong thành chính thức mở hội hoa đăng, lúc ấy từ đây vào chẳng xa chẳng gần, thật là tiện lợi.

Thúc Bảo vốn là người cẩn thận, trong lòng thầm tính toán: "Hôm nay mới là mười bốn mà phố phường đã đông đúc. Sợ các bạn vào thành, xảy ra chuyện gì, chẳng biết đâu mà lường được, mình lại công vụ chưa xong. Nên tốt hơn cả, hãy cứ bảo chủ quán, rượu thịt bày ra, giữ chân bạn bè lại. Sáng canh năm ngày mai, công vụ đã xong xuôi, chân tay đã tự do tự tại, sẽ cùng các bạn đi xem hội đèn, cũng đỡ lo hơn". Nghĩ vậy, nên khi nghe chủ quán mời, Thúc Bảo lên tiếng:

- Để đáp lại thịnh tình của chủ quán, anh em chúng tôi xin sẵn sàng ngồi vào bàn.

Cứ thế mọi người uống thả cửa, mãi đến canh ba mới tan, ai nấy về phòng ngủ say như chết.

Chỉ riêng Thúc Bảo không ngủ, trở dậy ra trước cửa, chủ quán đang đôn đốc đầy tớ thu dọn bàn ghế, bát đĩa, phòng ăn, thấy vậy bèn hỏi:

- Quý khách tòng sự tại nha môn nào?

Thúc Bảo đáp:

- Thuộc soái phủ Sơn Đông đạo hành đài, vâng mệnh đến Trường An đem lễ mừng sinh nhật Dương đại nhân. Ta cũng đang có việc hỏi chủ quán.

Chủ quán đáp:

- Xin ngài cứ dạy!

Thúc Bảo nói:

- Ta đã tới Trường An công cán mấy lần, phố xá, phủ đệ đều có thể nhận ra, vào lúc ban ngày. Nay ta không thể chờ đến trời sáng, phải tới cửa Minh Đức, trong quán có vị nào biết đường, xin nhờ dẫn hộ.

Chủ quán chỉ một người đầu bếp già:

- Lão bộc này, tên là Đào Dung, đừng nói chi chuyện đường phố, mà ngay cả chuyện lễ nghi, xưng hô đều rất thông thạo. Còn đây là Tần quý khách ở Sơn Đông, cần tới cửa Minh Đức, đem lễ mừng sinh nhật ở Việt Phủ, nhà ngươi hãy dẫn đường cho Tần quý khách.

Đào Dung thưa:

- Tần quý khách nếu vẫn chưa đủ tay chân để sai phái, tiểu nhân còn có chú em là Đào Hóa, cũng có thể giúp Tần quý khách được thêm một tay.

Thúc Bảo khen:

- Mấy vị gia nhân này, đúng là được việc lắm.

Liền về phòng ngủ, gọi hai người lính dắt ngựa, lấy ngay hai quan tiền, thưởng cho Đào Dung, Đào Hóa, rồi sai mở túi hàng ra, đối chiếu với giấy tờ một lần nữa, chia làm bốn gói, giao cho hai người lính, hai gói giao cho Đào Dung, Đào Hóa mang đi, còn Thúc Bảo đi theo sau, thừa dịp bạn bè còn ngủ cả, không nói cho ai biết, ra khỏi Đào gia điếm, tiến vào cửa Minh Đức. Chuyện không nói nữa.

***

Lại nói Việt Quốc Công Dương Tố, vẫn là quan đầu triều hiện nay, được vua Văn Đế nhà Tùy sủng ái nhất mực. Vào lúc nhà Trần mất, Văn Đế đem đến trăm cung tần nhà Trần ban thưởng cho Việt Quốc Công vui cảnh già. Việt Quốc Công tuy là đại thần tước cao vọng trọng, nhưng cũng là một tay gian hùng có một. Một hôm, nhân vườn tây hoa đơn hoa quế đua nở, bày yến tiệc, mời bạn bè liêu thuộc yến ẩm, ai nấy tìm đủ lời lẽ hoa mỹ nịnh hót, chỉ riêng Lý Huyền Thúy nói:

- Tướng công tước cao, danh tiếng khắp thiên hạ, giờ có thiếu chỉ là thiếu một cái tai nghe của người già nữa mà thôi.

Dương Tố hiểu ý, biết ngay là Huyền Thúy định nói mình có quá nhiều hầu thiếp, chỉ sợ không được lâu dài, liền trả lời:

- Lão già hay bà già thì cũng hết tuổi rồi. Ta sẽ có cách giải quyết ổn thỏa chuyện này.

Sáng hôm sau, Dương Tố ra ngồi trước thềm cao của hậu đường, mở hết cửa ngõ, bình phong trong ngoài, sai người truyền lời đến các hầu thiếp:

- Tướng công nghĩ đến các người phục dịch cũng đã lâu ngày, chăm chỉ vất vả, chỉ sợ sẽ làm lỡ mất tuổi thanh xuân. Nay tướng công đang ngồi ở thềm cao của hậu đường, xin mời ra hết ở hậu đình, người nào nguyện ý muốn tìm nơi tìm chốn yên bề gia thất, xin đứng về bên trái thềm, người nào không muốn, xin đứng về phía bên phải.

Hầu thiếp nghe nói thế, khác nào chim xổ lồng, từng đoàn từng đoàn từng lũ như ong kéo ra yết kiến, Dương Tố đang ngồi trên thềm cao lên tiếng:

- Ta vừa sai người mời các ngươi đến đây. Ai nấy đều biết rõ cả rồi. Người nào chọn đường nào, cho thật kiên định, ta sẽ có cách cư xử.

Hầu thiếp lâu nay trong phủ phục dịch, duy chỉ Đơn phu nhân là chính thất, còn có chỗ yên ổn, bằng lòng thỏa chí, hàng trăm người khác, thì quá nửa đều lại quỳ ở phía bên trái thềm. Dương Tố quay đầu nhìn lại, vẫn thấy còn hai người: một là Lạc Xương công chúa, em của Trần Hậu Chủ, chuyên việc vác kiếm đứng hầu, người thứ hai chuyên cầm phất trần (1),họ Trương tên Xuất Trần, cả hai đều nhan sắc hơn người, thông minh có một, cũng đều đáng bậc nghĩa hiệp trong đám mày ngài. Dương Tố hỏi:

1 Phất trần: phủi bụi bặm, người hầu gái cầm chổi lông đứng hầu.

- Hai ngươi chọn đường nào, hoặc phải, hoặc trái, phải chọn lấy một chứ?

Hai người nghe theo, quỳ xuống trước mặt, Lạc Xương nước mắt ngắn dài mà không nói, chỉ Xuất Trần thưa rằng:

- Ơn tướng công xưa nay khó sánh, cho chúng tôi được tìm chốn lập gia thất, để tình nguyện lâu dài. Người xưa nói: "Thụ ân thâm xứ cách vi gia", nơi nào chịu ơn sâu thì nơi ấy là nhà. Huống nữa, tiện thiếp vốn không phải không nhà, nhưng chỉ vì thiên hạ không người mà thôi.

Dương Tố nghe thấy thế, gật đầu khen, rồi lại hỏi Lạc Xương:

- Khanh thì vì cớ gì mà bi thương sầu não thế?

Công chúa đem chuyện ngày trước từng lấy Từ Đức Ngôn, hai người trước khi chia tay, đập gương chia đôi (1) hẹn ngày tìm nhau như thế nào kể lại một lượt. Về sau Từ Đức Ngôn làm mạc tôn ở dưới trướng, vợ chồng nhờ mảnh gương vỡ đó mà lại đoàn tụ, nhưng đó là chuyện sau này. Lúc này Dương Tố nghe Lạc Xương nói thế, cũng than thở ngắn dài, cho cả hai đứng dậy, sai quan tổng quản, xếp hẳn nhà riêng trông nội phủ cho ở.

1 Lạc Xương cùng Từ Đức Ngôn chia nhau mỗi người nửa mảnh gương, hẹn nhau đến ngày rằm thì đem ra chợ Kim Thành để tìm nhau. Lúc Lạc Xương kể chuyện trên đây, là khi họ chưa tìm được nhau. Đây chính là điển "Gương vỡ lại lành" (Quỳnh Lâm).

Lúc này bọn người quỳ ở bên trái thềm có tới bốn năm mươi người, đều thả cho ra tự tìm !ấy nơi chốn, tự lo lấy đường chồng con, ai có vàng bạc trang sức, quần áo, của riêng gì khác, đều cho mang theo. Ai nấy đều quỳ lạy cám ơn, khóc mà ra khỏi cửa. Dương Tố thấy hàng hàng lũ lượt mặt hoa, da phấn kéo nhau ra khỏi phủ, lòng thấy thanh thản. Từ đấy Lạc Xương cùng Xuất Trần, được cử làm nữ quan, cai quản hai hàng tả hữu kim thoa.

Quan âm thấm thoát, đã đến ngày Tết Nguyên Tiêu, cũng là ngày lễ sinh nhật Dương Tố, từng đoàn các quan viên từ lớn tới nhỏ, hầu khắp thiên hạ, không ai là không tới phủ lễ mừng. Chính lúc này Lý Tĩnh đang ở trong Trường An, biết có lễ này, cũng tìm đến yết kiến, vừa là hiến kế sách của mình. Đến cửa phủ được quản gia mời vào ngồi chờ ở phòng ngoài, vì Dương Tố chưa tiếp khách. Viên sai quan trưởng sử đang bận tíu tít, khách ngồi chờ đã đông nghịt. Lý Tĩnh bước vào thấy ở bàn phía tây có một người trai trẻ, dáng cao lớn khác thường, lưng hổ, tay gấu đang ngồi. Lý Tĩnh thoạt nhìn, vội lại vái chào:

- Đại huynh người vùng nào vậy?

Người này cũng đứng dậy đáp lễ rồi trả lời:

- Tiểu đệ người Sơn Đông.

Lý Tĩnh tiếp:

- Xin được biết quý tính, cao danh.

Người kia đáp:

- Tiểu đệ họ Tần, tên Quỳnh.

Lý Tĩnh tiếp lời:

- Thì ra đại huynh là Tần Thúc Bảo ở Lịch Thành vậy!

Thúc Bảo liền hỏi:

- Xin được hỏi họ tên của đại huynh.

Lý Tĩnh đáp:

- Tiểu đệ là Lý Tĩnh ở Tam Nguyên.

Thúc Bảo cũng tiếp:

- Hóa ra Dược Sư đại huynh, tiểu đệ từ lâu đã được nghe danh.

Hai người đứng dậy vái chào nhau lần nữa, rồi cùng dắt tay nhau ngồi xuống. Chuyện lại tiếp tục. Thúc Bảo hỏi Lý Tĩnh hiện đang ở đâu, Lý Tĩnh đáp:

- Tiểu đệ hiện ngụ ở ngay trước phủ đệ, ngõ Tây Minh, nhà thứ ba.

Hai người đương mặn mà trò chuyện, thì phía nội phủ đã thấy tiếng trống mở cửa phủ đệ gióng dả, quan trưởng sử bước vào giọng từ tốn rõ ràng:

- Ngài nào là Lý Tĩnh ở Tam Nguyên, có lệnh vào làm lễ tương kiến.

Lý Tĩnh nói với Thúc Bảo:

- Tiểu đệ phải đi bây giờ, không được ngồi hàn huyên với đại huynh nữa. Nhưng tiểu đệ đang còn nhiều điều cần nói với đại huynh. Nếu như đại huynh không thèm bỏ qua, thì muôn vàn lần xin mời đại huynh tới nơi ở của tiểu đệ, ta cùng đàm đạo.

Thúc Bảo nhận lời. Lý Tĩnh liền cùng viên trưởng sử đi vào nội phủ. Dương Tố lâu nay vẫn thường không chịu giao tiếp với đồng liêu, văn võ bá quan vì vậy ít người được gặp mặt, nay vì cớ gì lại sốt sắng tiếp Lý Tĩnh. Cũng bởi ngày trước, thân sinh Lý Tĩnh là Lý Thụ, bạn đồng liêu với Dương Tố, Lý Tĩnh vì vậy được Dương Tố xem như hàng con cháu, lâu nay lại nghe thiên hạ đồn Lý Tĩnh là bậc thiếu niên anh tuấn, vì vậy mới được Dương Tố tiếp đãi đặc biệt như vậy.

Quan trưởng sử dẫn Lý Tĩnh vào, Lý Tĩnh nhìn lên, đã thấy Dương Tố ngồi trên sập lót đệm gấm, đầu đội mũ đính đủ bảy viên ngọc như ý, mình mặc áo cừu có thêu hình rồng ẩn hiện trong mây ngũ sắc, tay cũng cầm hột đính ngọc như ý, phía sau giường đủ mười hai nữ quan, đội mũ giát ngọc, đính lông chim phí thúy đứng hầu. Xung quanh sảnh, phía dưới thềm số hầu gái đếm không hết, thấp thoáng trước những màn gấm buông từ trần nhà tới sát nền trải thảm dạ sặc sỡ. Lý Tĩnh bàng hoàng chắp tay lạy chào:

- Thiên hạ đang hồi loạn lạc, anh hùng khắp nơi chen vai thích cánh nổi dậy. Tưởng đại nhân là bậc quan chủ tể của triều đình, nên quan tâm đến việc thu nạp hào kiệt bốn phương, chứ không nên ngồi một chỗ mà tiếp đãi khách khứa như thế này.

Dương Tố vội đứng dậy tạ lỗi, rồi cùng Lý Tĩnh hàn huyên, người hỏi người đáp, chuyện liên miên mãi không dứt ra dược. Dương Tố thích lắm, muốn giữ Lý Tĩnh lại làm quan ký thất cho mình, nhưng còn giữ ý chưa nói ra vì đã lâu lắm lại mới có dịp gặp lại Lý Tĩnh. Trong lúc nói chuyện thế, có một trong số nữ quan cầm phất trần đứng hầu, mấy lần đưa mắt nhìn Lý Tĩnh. Lý Tĩnh cũng đường đường một bậc hào kiệt, nào phải nhỏ dại gì nữa, thấy có bậc khuynh quốc để ý tới, cũng mấy lần đưa mắt ý tứ xem xét, nhưng nghĩ chẳng qua chỉ là chuyện gió thoảng mây trôi. Trời đã gần trưa, Lý Tĩnh đứng dậy bái từ, Dương Tố cũng lấy nghĩa cha chú, sai người cầm phất trần đưa tiễn Lý Tĩnh ra cửa. Trương Xuất đưa Lý Tĩnh ra cửa, gặp quan trưởng sử, bèn hỏi:

- Đại nhân truyền hỏi rõ Lý tiên sinh hiện ngụ ở đâu, vào thưa lại ngay cho đại nhân.

Quan trưởng sử hỏi rõ ràng, quay lại trả lời, nghe xong Trương Xuất Trần mới quay vào bên trong.

***

Hãy khoan nói chuyện Lý Tĩnh về nơi ở, hãy kể tiếp chuyện Thúc Bảo đem lễ vật vào Dương phủ. Thì ra là lễ vật của các phiên trấn ngoài biên đem vào phủ, đều được giao cho các liêu thuộc thu nhận, Dương Tố không tận mắt nhìn đến. Việc nạp các lễ vật này, không phải dễ, trừ các bài biểu mừng, thư mừng, văn thơ ca ngợi, còn các loại lễ vật khác thứ nào bọn liêu thuộc không vừa ý, thì cũng hạch sách, quát nạt đủ điều. Cũng may cho Thúc Bảo, lễ vật của vùng Sơn Đông, lại do ký thất Lý Huyền Thúy thu nạp, vừa nhận ra Thúc Bảo đến, Huyền Thúy vội vàng xuống thềm đón, mừng rỡ không ngờ.

Thúc Bảo giở biểu mừng, đồ lễ, Huyền Thúy xem qua, gọi người thu nhận nhanh chóng, rồi mời Thúc Bảo ra hiên sau, gọi người đem rượu ra mời, kể lể từ ngày chia tay nhau ở Lộ Châu. Thúc Bảo cũng đem chuyện gặp gỡ Vương Bá Đương và cùng đến Trường An như thế nào, kể rõ một lượt, rồi tiếp:

- Những sợ hiền huynh công việc ký thất bận rộn nên không dám tự tiện đến hàn huyên.

Lại tiếp:

- Vừa rồi, tiểu đệ gặp được Lý Tĩnh, quả là dung mạo phi phàm, phong tư trác việt, vừa mới gặp nhau ngoài cổng phủ mà đã như quen biết lâu ngày. Tiểu đệ ở đây ra, đã hẹn sẽ đến nơi ở của Lý Tĩnh để cùng nhau trò chuyện. Vì vậy công văn trả về Sơn Đông và thư từ hiền huynh cần gửi, làm nhanh cho tiểu đệ thì hay quá!

Huyền Thúy nghe nói thế, liền sai cô hầu gái mặc áo xanh rót thêm rượu, rồi tự mình ngồi vào án, làm công văn, viết thư. Một lát sau đưa cho Thúc Bảo gửi lời chào Bá Đương, vì công việc bận rộn không thể gặp được.

Thúc Bảo từ biệt Huyền Thúy, tìm đến ngõ Tây Minh, vào gặp Lý Tĩnh, Lý Tĩnh mừng rỡ:

- Đại huynh thật là người biết giữ chữ tín.

Ngồi đâu đó rồi Lý Tĩnh hỏi:

- Năm nay đại huynh bao nhiêu tuổi ?

Thúc Bảo đáp:

- Tiểu đệ hai mươi tư tuổi .

Lý Tĩnh hỏi tiếp:

- Đại huynh vào Trường An lần này, có bạn bè đi cùng không?

Thúc Bảo ý cũng không muốn nói rõ bốn người bạn kia của mình, nên chỉ đáp:

- Tiểu đệ vâng lệnh đi công cán, chỉ đem theo hai tên lính, chứ không hề có bạn bè nào đi theo, nhưng tại sao đại huynh lại hỏi thế?

Lý Tĩnh đáp:

- Tiểu đệ tuy phiêu bạt giang hồ, nhưng phàm sách vở của bách gia chu tử, cửu lưu dị thuật, không cái gì là không để ý xem xét. Nhất là phép xem tướng thì rất thành thạo, xem tướng của đại huynh thì năm nay ẩn đường hữu sự, mà vùng dưới hai mắt có hắc khí tương tụ, sợ sẽ hoạn nạn sớm, cho nên không thể không nói. Ngày sau, đại huynh sẽ là tay chân đắc lực của nước nhà, cho nên mỗi việc cần phải thận trọng. Tiểu đệ hôm vừa rồi, có xem thiên văn thì vào lúc canh ba, ngày mười lăm, tháng giêng, sao Tuệ sáng quá mức thường, đó là điềm có nạn binh đao, khói lửa lớn gây tai họa không chừng cho trăm họ. Nếu đại huynh cùng bạn bè tới kinh, thì nhất thiết đừng ham xem hội hoa đăng, nhược bằng đã lĩnh được công văn rồi, thì tốt hơn hết là nên lên đường trở về Sơn Đông ngay.

Những lời này của Lý Tĩnh, khiến Thúc Bảo dựng tóc gáy, nghĩ ngay tới bọn Tề Quốc Viễn, sợ không biết đã có chuyện gì xảy ra không, nên vội vàng từ giã Lý Tĩnh tìm về quán trọ.

***

Lại nói Trương Xuất Trần, sau khi quan trưởng sử báo lại rõ ràng, trở vào trong lòng thầm nghĩ:

"Trương Xuất Trần ta, ở trong phủ này, quan sát người cũng nhiều nhưng chưa thấy ai là bậc thiếu niên hào kiệt như người này, thật là đúng hơn hẳn mọi người, mai kia đường công danh nhất định không thèm ở dưới bậc Dương đại nhân. Vừa rồi nghe Lý tiên sinh trò chuyện, thì biết ngay chưa có gia thất, nếu ta tìm đến nâng khăn sửa túi, mai sau chẳng nên chuyện gì, không nhìn ngó đến thân này, thì ta sẽ tìm đến chốn khác yên thân, chẳng nhẽ thiên hạ không còn ai nữa sao? Nếu người này mà vẫn không xong bề gia thất, thì quả là việc trăm năm khó mà lo cho trọn vậy. Chi bằng nhân đêm nay, ta không phải buổi hầu, trong phủ lại mở yến tiệc, ca hát, ta lén đến chỗ ngụ, gặp gỡ Lý tiên sinh xem sao, có phải tốt hơn không?"

Chủ ý đã định, liền sắp đặt mọi thứ, khóa kỹ gương hòm, lấy ra một tấm lụa mỏng, viết một thiếp gửi lại Dương đại nhân, đặt lên án thư, chận kỹ lưỡng. Lại sợ lính tuần ngoài phố sẽ ngăn trở, bèn quay trở lại, lấy trộm binh phù, cải trang làm một viên nội quan trong phủ Dương đại nhân, cầm một chiếc đèn lồng, dáng điệu đàng hoàng, đi ra khỏi phủ. Mới được một quảng, đã thấy ba bốn lính tuần đến hỏi:

- Quan nhân đi đâu vào lúc này.

Xuất Trần đáp:

- Ta là nội quan trong Dương phủ, có công vụ khẩn thiết, tìm đến doanh trại lấy ngựa để đi, các anh hỏi làm gì?

Bọn tuần binh đáp:

- Chúng tôi hỏi kỹ, sợ có điều gì nghi ngại chăng.

Nói rồi, bọn này gõ chiêng ầm ĩ bỏ đi.

Một lát sau, đã tìm thấy ngõ Tây Minh, Xuất Trần lần ra nhà thứ ba, thì đó là một nhà lầu to lớn, vội gõ cửa. Chủ nhà mở cửa ra nhìn kỹ một hồi, rồi hỏi:

- Huynh ông tìm ai ở đây?

Xuất Trần đáp:

- Lý tiên sinh người Tam Nguyên, ngụ ở đây phải không, thưa chủ nhân?

Chủ nhà đáp:

- Xin mời đi vào cửa phía Đông, ngay phòng đầu tiên là phòng của Lý quý khách.

Xuất Trần nghe nói thế, vội bước vào. Lúc này Lý Tĩnh ăn xong bữa tối đã lâu, đang ngồi trong phòng, dưới đèn nghiền ngẫm quyển binh thư của Long Mẫu tặng dạo chàng đi làm mưa thay cho Long vương, nghe tiếng gõ cửa, vội mở ra nhìn, chỉ thấy:

Mũ đen láng

Mày thúy tóc cao, gương mặt sáng

Gương mặt sáng

Áo tía, đai mềm

Phục trang duyên dáng

Hé môi đào, phấn mờ lấp loáng

Tay nắm binh phù, ân cần dặn

Nghi ngờ nào hết

Lòng này khó đoán.

Xuất Trần điềm tĩnh đi vào, đặt nhẹ nhàng binh phù lên bàn, cùng Lý Tĩnh vái chào nhau xong, cùng ngồi, Lý Tĩnh lên tiếng hỏi:

- Quý khách ở đâu lại, có việc gì dạy bảo?

Xuất Trần đáp:

- Tiểu đệ họ Trương, làm nội quan trong Dương phủ, được lệnh của Dương đại nhân sai tới đây.

Lý Tĩnh vẫn khăng khăng:

- Vậy quý quan có điều gì chỉ giáo?

Xuất Trần đáp:

- Vừa rồi, Dương đại nhân có cho gọi tiểu đệ lên và dạy rất nhiều điều, xin cứ từ từ sẽ thưa lại. Tiên sinh vốn là bậc nhìn xa trông rộng, thông minh khác thường. Xin tiên sinh hãy thử đoán xem có chuyện gì, nếu tiên sinh đoán đúng được, thì tiểu đệ xin hoàn toàn phục tiên sinh thật đúng là bậc hào kiệt trên đời này vậy?

Lý Tĩnh băn khoăn:

- Như thế này thì càng lạ hơn nữa, làm thế nào mà tiểu nhân này có thể đoán được.

Lý Tĩnh cúi đầu nghĩ ngợi một lúc rồi tiếp:

- Tiểu nhân sáng nay vừa vào phủ bái yết Dương đại nhân, ngài tiếp đãi rất ân cần, chuyện trò rất thân mật. Nhưng không hề thấy Dương đại nhân nói gì về cuộc gặp gỡ này cả. Hay đại nhân vừa nảy ra ý, sai quý quan ra mời tiểu nhân làm ký thất trong dinh?

Xuất Trần đáp:

- Dương phủ tuy giấy tờ sổ sách rất nhiều, nhưng cũng đã có tới một trăm hai mươi người lo việc này rồi, đều là những bậc tài nghệ trong dám chữ nghĩa, cũng có thể gánh vác được công việc. Dương đại nhân không hề có ý định đem cái tài vùng vẫy của tiên sinh, ép vào đám liêu thuộc lặt vặt ấy. Tiên sinh đoán sai rồi. Xin tiên sinh hãy nghĩ lại xem.

Lý Tĩnh nói:

- Nếu đã không phải thế, hay Dương đại nhân cần tiểu nhân đến một nơi nào làm thuyết khách cho đại nhân chăng? Để may ra có thể đem lại mưa thuận gió hòa cho bầu không khí chính trị của quốc gia này chăng?

Xuất Trần đáp:

- Cũng không phải rồi! Thôi để tiểu đệ thưa vậy. Đại nhân có một tiểu thư nối dõi, tài mạo song toàn, tuổi vừa cập kê, đại nhân rất quý không muốn gả khỏi cửa. Nay thấy tiên sinh anh hùng, trác việt, nếu kén rể tài, thì thiên hạ không ai bằng tiên sinh, vì vậy sai tiểu đệ đến đây nói rõ cho tiên sinh biết ý đồ của đại nhân.

Lý Tĩnh nghe thấy thế, bèn băn khoăn:

- Nếu có chuyện này, thì cũng thật khó nói, tiểu nhân hiện giờ bốn biển là nhà, chẳng khác gì cánh bèo, chẳng bám vào đâu. Lại thêm chí này chưa toại, đâu đã phải lúc nghĩ đến chuyện gia tư. Dù được Dương đại nhân chọn lựa, nhưng đâu phải chỗ môn mi tương xứng, quý tiện khác xa, xem ra không thể chấp nhận. Xin phiền quý quan vì tiểu nhân mà kiếm lời mềm mỏng từ chối hộ cho.

Xuất Trần đáp:

- Tiên sinh không nên nói lời từ chối. Dương đại nhân hiện là trọng thần của nhà vua, một lời nói ra khiến một người như tiên sinh có thể vinh, có thể nhục. Nếu tiên sinh chịu nhịn nhục ít nhiều, mà bước vào cửa phú quý thì quả là phú quý không thể lường sẽ đến với tiên sinh, xin đừng khư khư giữ nếp xưa mà cự tuyệt vội. Tiên sinh hãy thận trọng nghĩ đi nghĩ lại cho?

Lý Tĩnh nói:

- Phú quý của con người là điều không phải cầu mà được. Nhân duyên cũng là điều không thể đi ngược lẽ thường. Xin hãy cứ để chờ cho ít lâu xem sao. Còn nếu như có sự bức bách, thì tiểu nhân xin đi ngay, lại phiêu bạt giang hồ, nay Tề mai Sở vậy.

Xuất Trần nghiêm sắc mặt nói:

- Tiên sinh không nên vội vã nói những điều khinh suất như vậy, tiểu đệ trở lại phủ, tâu lại những lời vừa rồi của tiên sinh, Dương đại nhân nhất thời nổi giận, thì dẫu tiên sinh có cánh đi chăng nữa, cũng khó mà giữ nổi tính mạng.

Lý Tĩnh biến sắc, đứng dậy nói:

- Quý quan là bậc thay mặt Dương phủ, xin quý quan đừng dọa người. Lý Tĩnh tôi không phải là kẻ dễ run sợ đâu. Mặc cho tiếng lớn quyền cao của thầy trò quý quan, ta cũng xem như tượng gỗ. Còn về chuyện này, thì dẫu đầu có rơi chăng nữa, ta cũng quyết không nghe theo đâu.

Hai người đương lúc to tiếng, thì một khách trọ ngay phòng bên đẩy cửa bước vào, chắp tay vái chào lia lịa rồi hỏi:

- Vị nào là Dược Sư đại huynh?

Lý Tĩnh lúc này lửa giận vẫn chưa nguôi, đáp luôn:

- Chính tiểu đệ!

Xuất Trần chú ý nhìn người khách mới vào, rồi chắp tay từ tốn hỏi:

- Xin được biết quý tính?

Khách mới vào đáp:

- Tiểu đệ họ Trương.

Xuất Trần buột miệng:

- Thiếp cũng họ Trương.

Nói xong, Xuất Trần biết lỡ lời vội lấp liếm:

- Vâng tiểu đệ cũng họ Trương, nếu như quý khách không chê, xin nguyện kết làm anh em vậy.

Khách nghe nói thế, lại đưa mắt nhìn kỹ một lần nữa, rồi cất tiếng cười lớn:

- Tiểu đệ với Trương hiền đệ mà kết làm anh em thì thật là tuyệt diệu!

Lúc này Lý Tĩnh mới hỏi khách:

- Xin được biết cao danh Trương đại huynh?

Khách đáp:

- Tiểu đệ là Trọng Kiên.

Lý Tĩnh chắp tay kính cẩn hỏi:

- Có phải đại huynh là Cầu Nhiệm Công không? (1)

Khách đáp:

- Đúng rồi. Tiểu đệ vừa mới đến trọ ở gian bên, tai nghe hai vị trò chuyện, biết là đại huynh Dược Sư, nên vội sang gặp mặt. Nhưng điều bàn cãi giữa hai vị, tiểu đệ nghe rõ cả. Nhưng có điều Trương hiền đệ hoàn toàn không phải vì Lý đại huynh mà "chấp kha phạt mộc" (2) đâu, mà phải thấy cho rõ tâm sự của Trương hiền đệ. Nếu không có cái sắc sảo của tiểu đệ, thì xin để tiểu đệ nói ra vậy, tiểu đệ xin sẵn sàng đứng ra làm cái việc "chấp kha phạt mộc" cho hai vị có được không?

1 Cầu Nhiệm Công: cầu là con rồng có sừng, nhiệm là râu tốt, công là từ xưng hô có ý kính trọng.

2 Đứng ra làm mối, xin xem chú thích ở hồi 6.

Xuất Trần đáp:

- Gốc tích của tiểu đệ, Trương đại huynh đây rõ cả, tiểu đệ cũng không đám giấu nữa.

Rồi đứng nép vào góc nhà, kéo cánh cửa che kín, mỡ khăn đen trên đầu, cởi áo giả trang, quay ra nói:

- Thiếp chính là nữ quan trong Dương phủ, nhân thấy Lý đại nhân dung mạo khác thường, nguyện ý cũng muốn gửi thân suốt đời, vì vậy cũng không lấy việc tự đến làm thẹn, nên nhân đêm tối đến đây.

Trọng Kiên nghe nói thế vỗ tay ca ngợi tận tình, còn Lý Tĩnh thì hỏi:

- Vậy có phải người cầm phất trần ban sáng trong Dương phủ chăng? Nếu hiền khanh đã có ý định tốt lành đến thế, sao không nói ngay từ ban đầu, làm cho ta băn khoăn, lo lắng đến đứt cả ruột.

Xuất Trần đáp:

- Chỉ vì chàng con mắt không tinh, chẳng như Trương đại huynh đây, sớm nhận ra ngay, chẳng đến nỗi thiếp phải múa máy ba tấc lưỡi mãi mà không xong.

Trọng Kiên cười nói.

- Thôi vợ chồng hãy đừng ngồi rỗi nữa, mau mau làm lễ bái tạ trời đất. Để tiểu đệ đem tiệc rượu đã bày sẵn bên kia sang đây, để làm tiệc hoa chúc động phòng, rồi làm vài chén cho càng thêm vui vẻ, liệu có nên chăng?

Cả hai nghe nói thế, vội vàng xếp đặt, làm lễ tạ ơn trời đất.

Xuất Trần lại đội khăn đen, mặc áo nội quan vào, Lý tĩnh bèn nói:

- Hiền khanh còn ăn mặc những thứ ấy vào làm gì nữa?

Xuất Trần đáp:

- Lúc nãy đi vào đây, mọi người thấy là nội quan, nay lại thấy là phụ nữ, thì nhất định là không xong với họ rồi.

Lý Tĩnh gật gù đáp:

- Đúng là một phụ nữ tinh tế lắm!

Trọng Kiên liền gọi đầy tớ, đem tiệc rượu sang. Mọi người nâng chén chuyện trò, rượu được ba chén, Xuất Trần hỏi Trọng Kiên:

- Đại huynh bao giờ thì lên đường?

Trọng Kiên đáp:

- Mọi chuyện đã xong cả, ngày mai sẽ đi.

Xuất Trần nghe nói thế, liền đứng dậy nói với Lý Tĩnh.

- Nhờ chàng tiếp hộ Trương đại huynh uống thật say. Thiếp xin vắng mặt một lát, sẽ về ngay tức khắc.

Lý Tĩnh đáp:

- Cái này lại cũng kỳ. Giờ này còn đi đâu nữa hiền khanh.

Xuất Trần đáp:

- Việc này thì chàng chẳng cần phải đoán mò. Chỉ một chốc sẽ thấy ngay.

Nói rồi lại châm đèn lồng, đi ra cửa. Lý Tĩnh thấy vậy, lòng rất đỗi hoang mang. Trọng Kiên trấn an:

- Người con gái này cử chỉ khác thường, cũng là rồng là hổ trong đám người thường đấy, nhất định sẽ về ngay bây giờ đấy mà!

Hai người vừa trao đổi với nhau vài câu chuyện, đã nghe ngoài cửa có tiếng ngựa hí vang, Xuất Trần đã về trước cửa phòng. Trọng Kiên hỏi:

- Hiền muội vừa đi đâu về thế?

Xuất Trần đáp:

- Thiếp gặp được Lý Dược Sư đây, coi như đã có chỗ nương thân suốt đời vốn không phải là chuyện ham muốn trai gái. Đêm nay lợi dụng có binh phù trong tay, vừa rồi mới đến doanh trại trung quân, lấy ba con ngựa tốt. Chúng ta uống rượu xong, tất cả hãy thu xếp ra ngay khỏi cửa thành, đã có binh phù đây, quân tướng coi thành cũng chẳng dám gây khó dễ. Chúng ta mượn sức ngựa, trở về Thái Nguyên, có phải là tiện lợi cả đôi đường không?

Hai người nghe Xuất Trần nói thế đều tán thưởng hoàn toàn, ăn uống xong, lập tức thu dọn hành lý, từ tạ chủ nhân, cả ba lên ngựa, đường dài thẳng bước ruổi giong.

Sáng ngày hôm sau, Dương Tế không thấy Xuất Trần vào phủ hầu, lập tức sai người đi tìm, thì thấy ở nhà riêng, từ tư trang đến quần áo tế nhuyễn, đều không hề suy xuyển, kê khai rõ ràng, lại có cả thư trình Dương Tố, để lại trên án thư, sai quan lấy về đưa lên. Dương Tố đọc thì thấy:

Phủ Việt Quốc, hầu gái cầm chổi đó là Trương xuất Trần, cúi đầu kính bẩm:

Thiếp vốn bồ liễu phận hèn, gặp may nương nhờ cửa quý. Tuy không được như A Kiều trong nhà vàng (1) cũng tạm gọi là Tiểu Tú trên mâm ngọc (2).

Thế thì có gì bất mãn mà nuôi lòng ra đi. Thiếp từ bé đã học được thuật lạ xem tướng của Lý Chân Quân, dùng đôi mắt sáng, thấu kẻ anh hùng. Có thể bảo rằng dùng cỏ dại dựa chồi lan, dây dằng nương khóm trúc, tránh được tiếng làm vợ kẻ ngốc vớ phải chồng đần mà thôi, cơ trời đã đến, không thể ngồi yên. Nay ra đi, cử chỉ minh bạch không hề bợn thói dâm bôn như lũ gái thường. Kính bẩm!

1 A Kiều: Hán Vũ Đế khi còn làm thái tử, có người muốn gã con gái tên A Kiều cho, hỏi: "Có muốn lấy A Kiều không?" Vũ Đế đáp: "Nếu lấy được A Kiều sẽ đúc nhà vàng cho nàng ở" (Hán Vũ cố sự).

2 Tiểu Tú: chưa rõ tích nào?

Dương Tố xem xong, lòng lấy làm thanh thản. Biết rõ Xuất Trần là kẻ anh hùng, nên dặn kẻ dưới không được làm ầm ĩ, không được đem làm chuyện bàn tán lôi thôi.

Nhưng không biết về sau chuyện sẽ ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi Thứ Mười Bảy

Tề Quốc Viễn mãi vui cuộc đá cầu gấm,

Sài quận mã cùng bạn xem hội đèn hoa.

Thơ rằng:

Vũ trụ chiều lâng lâng

Sóng Ngân trôi lang thang

Giữa trời treo đĩa ngọc

Khắp đất sáng mâm vàng

Thấp thoáng người tiên cảnh

Vi vu sáo phượng hoàng

Trăm năm nào mấy dạo

Đùa vui đừng ngỡ ngàng.

Người đời thường nói: chơi là vô ích. Ta lại nghĩ rằng: người ta lúc nhỏ, chơi say mê mà không biết đó là điều may mắn lớn, đến khi lớn khôn, hoặc phải tìm danh tiếng, hoặc phải mua lợi lộc, khổ cho thân người, bôn ba vất vả, có mấy khi mà được một giờ một khắc nhàn rỗi? Đến khi công thành danh toại, thì cũng là lúc râu tóc đã bạc trắng cả, dẫu có chơi cũng chẳng còn đâu hứng thú? Vẫn có bao nhiêu người, công bất thành, danh bất toại mà đã qua đời, thế cũng là một kiếp đời sao? Vì vậy gặp hội thì chơi, "Phùng trường tác hí", chính là một cầu chí lý vậy thay? Nhưng lại cũng phải biết tùy lúc mà vui, tùy nơi mà buồn, biết lẽ tới lui, không thể nào như dòng nước chảy về đông quên cả lối về.

***

Lại nói Trần Thúc Bảo nghe Lý Tĩnh nói thế, vội tìm về nhà trọ thì thấy các bạn cơm rượu đã xong, đang chờ Thúc Bảo trở về là tính toán tiền nong với chủ quán. Vừa thấy mặt Thúc Bảo mọi người cùng reo:

- Đại huynh sao không cho chúng tôi theo vào thành với?

Thúc Bảo đáp:

- Mới canh năm mà đã vào thành làm gì. Bây giờ vào là tốt hơn cả.

Vương Bá Đương lên tiếng hỏi chuyện Lý Huyền Thúy, Thúc Bảo đáp:

- Đem lễ vật đến nạp, tiểu đệ may lại gặp chính Huyền Thúy hiền huynh thu. Nhưng Huyền Thúy vì công việc bận rộn, nên cũng không được nói chuyện lâu, nghe nói đại huynh cũng ở đây, Huyền Thúy gởi lời tạ lỗi.

Rồi nói với mọi người:

- Giờ hãy mau thu nhập hành lý để vào thành.

Tính số anh em cưỡi ngựa, có bảy người, cộng tất cả là ba mươi người. Chào chủ quán họ Đào, ra khỏi quán trọ. Bá Đương lên ngựa, vừa cười vừa quay lại nói với Thúc Bảo:

- Tần đại huynh hãy nhìn xem cảnh tượng lôi thôi, nhếch nhác của anh em mình kìa!

Thúc Bảo hỏi lại:

- Sao lại thế?

Bá Đương chỉ mọi người đáp:

- Chúng ta có bảy người, cưỡi bảy con ngựa. Phía sau kéo theo hơn hai chục người nữa, hành lý quanh người, cứ như thế này mà vào thành thì sẽ thành một hàng dài từ Nam chí Bắc cũng chưa dứt. Anh em lại toàn người phương Bắc xa xôi xuống, rất dễ lạc ngõ lạc phố. Vào đây lại là để xem các trò vui, vào quán rượu, phòng trà, cứ cả một đoàn thế mà kéo, thì làm thế nào mà đi nổi?

Thúc Bảo nghe Bá Đương nói vậy, trong bụng nghĩ thầm: "Lời của Lý Tĩnh sáng nay, không thể tin cả, cũng không thể ngờ cả. Rõ ràng là với cả đoàn thế này mà vào thành, thì cưỡi ngựa cũng phiền, không cưỡi ngựa cũng dở". Bá Đương cùng Thúc Bảo bàn cãi mãi không xong. Lý Như Khuê bèn góp vào:

- Hai đại huynh chả cần phải bàn cãi nhiều. Chi bằng cứ theo cách của tiểu đệ đây là hơn. Ngựa chỉ cưỡi tới cổng thành thôi. Bọn thủ hạ của chúng ta đây này, kéo tất cả chúng vào thành làm cái gì?

Chỉ ở ngoài cửa thành thôi, tìm một cửa hàng vắng nào đó, chất tất cả hành lý vào đó. Ngựa thì tháo hết yên cương, dắt chúng men vào thành gặm cỏ, uống nước, người thì thay nhau ăn uống, nghỉ ngơi. Sài Quận mã có hai viên gia tướng rất nghiêm chỉnh, nói họ cai quản tất cả các thứ hành lý, tiền bạc nào cần thì mang để dùng. Bọn thủ hạ ở ngoài này, lúc nào trời gần tối, lại sang đóng sẵn yên cương, đợi chủng ta quay ra.

Nghe xong, bạn bè đều nói:

- Bàn có lý lắm thay!

Việc vừa bàn xong, thì mọi người cũng vừa đến cổng thành.

Thúc Bảo sai hai người lính dắt ngựa của mình:

- Ta với mọi người có sự khác nhau, là đang gánh việc công trên vai, phải mang công văn lẫn thư từ, bỏ vào một cái túi nào đó mà mang theo. Những thứ này đều có quan hệ đến tính mạng. Chờ đến hoàng hôn, mỗi con ngựa của ta đều phải yên cương thật vững vàng, có đeo thêm một cái túi nữa. Các người phải nhớ mà làm cho đầy đủ.

Thúc Bảo cùng bạn bè, giấu vũ khí trong người, đem theo viên gia tướng của Sài Quận mã đi vào thành.

Từ các quan đại thần lộc cao vọng trọng, cho đến dân đen trăm họ đều vâng mệnh Thiên tử, ai cũng tùy sức tùy tài, tham dự cuộc hội đèn Nguyên Tiêu năm nay. Nhà nhà đều trang hoàng lộng lẫy, lụa gấm đủ màu, đèn hoa đủ kiểu. Nhưng nổi bật hơn cả trong kinh thành, vẫn là hai nơi: một là phủ đệ của phò mã, hai là phủ đệ của Vũ Văn Thuật. Phủ đệ của Vũ Văn Thuật, vốn là dinh thự của Binh bộ thượng thư, phía sau là một trường bắn, nơi luyện tập ti thí võ nghệ của các võ tướng từ nhỏ chí lớn, thường được gọi là Tiểu giáo trường, là nơi dân chúng kéo đến nhiều hơn cả, một phần cũng bởi sự đua đòi, cổ vũ của đám thiếu niên ăn chơi ở kinh thành.

Nhưng ai là người dám lấy Tiểu giáo trường của bộ Binh làm nơi vào chơi trong dịp Tết Nguyên Tiêu này? Chỉ có công tử thứ ba nhà Vũ Văn Thuật là Vũ Văn Huệ Cập mới làm được điều này. Vũ Văn Thuật có bốn người con trai: con đầu là Vũ Văn Hóa Cập, hiện giữ chức Trị thư thị ngự sử, con thứ hai là Vũ Văn Sĩ Cập; lấy công chúa Tấn Dương, làm Phò mã đô úy, con thứ ba là Vũ Văn Trí Cập, chuẩn vị nhận chức Thiếu giám.

Vũ Văn Huệ Cập là cậu con nhỏ nhất, ỷ vào thế lớn của các anh, đương còn ít tuổi nên chưa ra làm quan, mắt chưa từng thấy việc binh đao, trong lòng cũng chưa từng có chữ nghĩa văn chương gì, ngoài thì lụa gấm phủ đầy, ăn thì toàn trân tu bát bảo. Theo sau công tử nếu không phải là hàng đàn bọn du thủ du thực, thì cũng là từng bầy côn quang xiểm nịnh, hướng dẫn, xúi giục Huệ Cặp trong những cuộc chè rượu tối ngày, trai gái đàn hát. Với mồm miệng bọn thiếu niên trai tráng này, thì dù Huệ Cập chưa từng đá được quả cầu nào, cũng được ca ngợi là bậc đá cầu giỏi, đến nỗi Huệ Cập cũng tin điều này là thật, đã thế thì phải là nơi tập trung của các anh tài trong nghề đá cầu mới xứng. Biết rõ rằng trong dịp Tết Nguyên Tiêu náo nhiệt này, mọi người sẽ kéo về Trường An xem hội đèn, công tử bèn lấy Tiểu giáo trường của phụ thân làm thành một sân đá cầu lớn chưa từng có xưa nay.

Mới chỉ mùng một tháng giêng, tết nguyên tiêu cũng còn tới nửa tháng nữa, đài bán nguyệt của Tiểu giáo trường đã được căng kín gấm vóc đủ màu, một tấm vải lụa hoa sặc sỡ được căng ra làm rạp lớn, tưởng như định che cả mặt trời, chính giữa cổng ra vào cũng kết bằng lụa ngũ sắc, đề ba chữ lớn: "Quan cầu đài" . Công tử ngồi trên đài cao, hai bên là hai mỹ nhân, được mời từ trong đám kỹ nữ nổi tiếng của các xóm cô đào kinh thành, một cô được mang tên Kim Phượng Vũ, một cô được tặng hiệu là Thái Hà Chi (1). Hai bên đông tây đài bán nguyệt, dựng lên hai tòa lầu thấp hơn, bên trong làm những cầu thang vòng vèo lên đến một cái cửa trang hoàng lộng lẫy, gọi là "Thái môn". Những kẻ nổi tiếng trong đám hảo hán giang hồ, không cần phải ăn mặc lôi thôi, không đeo gươm, vác giáo gì hết, đá cầu kiểu gì cũng được miễn là lên được "Thái môn", thì công tử Huệ Cập ngồi trên đài cao, cũng sẽ tặng một tấm lụa, một đỉnh bạc hoa, một thẻ bạc, rồi tùy anh ta muốn tỏ lòng cảm tạ công tử thế nào cũng mặc. Cũng có nhiều anh, đá mãi được lên tới cổng "Thái môn", nhưng còn nhiều hơn nữa, đá chẳng xong, lụa cũng không, bạc cũng không, thẻ chẳng được, mà chỉ làm trò cười cho quan khách. Xung quanh hai tòa lầu này là một trăm hai mươi nơi đá cầu, nơi nào cũng được sắp xếp gọn gàng, đẹp mắt, trồng cột, dựng lan can đầy đủ cả, để đón tiếp thử thách, từ đó mà chọn ra những anh tài, vào thi ở trong lầu.

1 Kim Phượng Vũ: Chim phượng vàng múa: Thái Hà Chi: đám mây màu ngũ sắc bay.

Lại nói Thúc Bảo cùng bạn bè, kéo nhau vào trong đám người chen chúc ấy được một lát, nhớ tới lời dặn của Lý Tĩnh, Thúc Bảo nói với Bá Đương:

- Phàm những việc không cần ganh đua với mọi người, thì phải biết giữ điều vừa phải, nhịn nhục, mới là bậc hảo hán, phải không đại huynh?

Bá Đương cùng Sài Quận mã theo lời Thúc Bảo, đểu cố gắng giấu kỹ tung tích của mình. Chỉ có Quốc Viễn cùng Như Khuê, lâu nay vẫn quen ung dung mặc sức, nên càng thích cảnh chen vai, đọ cánh, chỗ nào đông cũng xông vào, xô đẩy người khác kỳ xem được các trò vui tận mắt mới thôi. Như Khuê vốn con nhà giàu, còn biết ít nhiều trò chơi, Quốc Viễn thì làm nghề lạc thảo từ nhỏ, chỉ biết riêng chuyện gió to thì đốt nhà, trăng suông thì giết người, làm gì thấy được những trò chơi lạ mắt của kinh kỳ. Ngay cả quả cầu da có tua gấm kia cũng còn không biết là cái gì, phải ghé tai hỏi nhỏ Như Khuê :

- Lý hiền đệ, cái quả tròn tròn có tua kia gọi là cái gì?

Như Khuê vừa cười vừa đáp để đùa Quốc Viễn:

- Đấy là cái túi đựng chì rất nặng, theo tám lần tám độ số của bát quái, là sáu mươi tư cân chì nấu chảy ra mà đổ thành.

Quốc Viễn vẫn thật thà nói:

- Cả ba người khỏe mạnh thế kia xúm quanh, thì làm gì mà không đá nó lên trên gác cao để lĩnh thưởng tấm lụa cùng đỉnh bạc cho được. Ta cũng có thể làm được?

Những lời này bất quá hai người ghé tai nhau mà chuyện trò, nhưng vẫn có một tay trong đội phục dịch tung cầu cho khách chơi nghe được, liền mang ngay quả cầu đến, liến thoắng mời hai người:

- Xin mời nhị vị quý khách thử một lần để giành phần thưởng cho thêm phần danh giá!

Như Khuê vỗ vai Quốc Viễn giục:

- Chính là vị này đây! Hãy làm cho đúng câu "Phùng trường tác hí", hiền đệ!

Tay tung cầu lôi kéo:

- Xin mời quý khách thử một keo. Tiểu nhân bắt đầu tung cầu đây xin tận tình hết sức phục vụ quý khách!

Quốc Viễn lúng túng, chưa biết nên thế nào, thoáng nghĩ: "Ta thử cố đá một lần xem sao". Nhưng với bọn trong đội phục dịch của Huệ Cập này, thì chúng còn thiếu gì những mánh lới xảo quyệt, lập tức chúng tìm ra được quả cầu và cách tung thế nào làm khách chơi không tài nào đá được. Quả cầu mang tên: "Yến ngậm châu bay ra biển" (1) phóng tới, Quốc Viễn đã hoa mất, lại sợ cầu nặng đá không lên, nên lấy hết sức bình sinh, đá một cái, chỉ nghe "bốp!", quả cầu bay tít lên tận trời xanh, rồi bị gió cuốn đi đâu mất hút. Hai tay phục dịch thấy mất quả cầu thì làm ra vẻ quan trọng, kể lể nông nỗi:

- Không biết chúng tôi mắc tội gì đây mà gặp phải ông khách quý hóa này, thế là bao nhiêu vốn liếng bay theo mây gió cả rồi!

Quốc Viễn đã đang bực tức vì mình, nay nghe thêm mấy câu trách móc này, tay chân chừng như thấy ngứa ngáy, Như Khuê sợ xảy ra chuyện không hay, vội lại khuyên giải:

- Anh bạn đây của ta có cả sáu nghề tinh thông trong tay đấy (2). Nhưng mà làm sao mà biết hết mọi thứ được. Huống chi mới học đá cầu lần đầu. Đáng ra, hai cậu nên hỏi khách một câu, đại loại: "Quý khách cao danh quý xứ là gì, ở đâu? Hiện giữ chức tước gì?".

1 yến hàm châu xuất hải.

2 Lục nghệ: Sáu nghề mà người đàn ông có văn hóa xưa phải biết: Lễ, nhạc, xạ ngự, thơ, số.

Nay ta gặp nhau ở kinh đô , mai lại đụng nhau chỗ khác, thì lại đã ra bậc bạn cũ rồi còn gì. Cũng vì giận các cậu không có lý, chẳng có tình, nên anh bạn mới đá bay mất quả cầu đi vậy. Ta đứng ra đền cho các cậu đây!

Nói rồi rồi rút trong tay áo ra năm lạng bạc, trao cho hai tay phục dịch, vừa kéo vừa nói với Quốc Viễn:

- Chúng ta đi làm vài chén rượu là hơn cả!

Cả hai rẽ đám người đi ra ngoài, thì lại thấy ba anh em Thúc Bảo từ ngoài đi vào, hai tên gia tướng đi trước rẽ đường, nhưng cũng nhiều người không chịu, không tránh vì chật không lên nổi, thế là xô xát kẻ xô người ngã tha hồ huyên náo. Thấy Quốc Viễn, Như Khuê đi ra, Thúc Bảo gọi:

- Hai vị đi đâu bây giờ, hãy cùng vào trong này với chung tôi đã.

Thế là cả bọn kéo nhau vào. Chỉ trừ Quốc Viễn, cả bọn đều biết chơi cầu. Thúc Bảo là một tay võ nghệ tuyệt vời, nên đá cầu cũng là một môn quen thuộc đã từng học qua, Bá Đương cả đến công danh cũng vứt bỏ, nên thứ trò chơi này cũng từng trải qua, nhưng cả hai đều giữ gìn không muốn xuất đầu lộ diện, xúm vào khuyên Sài Quận mã nên trổ tài cho thiên hạ thấy hết vẻ anh tuấn, hào hoa. Sài Quận mã đáp:

- Tiểu đệ không dám, còn các đại huynh trước mặt, tiểu đệ đâu dám múa rìu qua mắt thợ.

Thúc Bảo khuyên:

- Chúng tôi tuy có biết qua cái trò này, nhưng cách đá không đẹp mắt ở đây trăm mắt trông vào Quận mã có tư thái của bậc văn nhân, chẳng còn ai chê trách gì được.

Sài Quận mã dẫu sao cũng còn mang vẻ hiếu thắng của bậc thiếu niên, nghe Thúc Bảo khuyên vậy, liền thưa:

- Tiểu đệ càn rỡ thế này, không khéo lại dẫn đến chuyện phiền toái sau này.

Hai tay phục dịch nãy giờ đứng chực sẵn, mang cầu lại ngay cạnh, rối rít:

- Kính mời quý khách, thử chơi một quả!

Sài Quận mã can:

- Hai cậu cứ từ từ, hãy giữ lấy cầu đã. Hai mỹ nhân ngồi cạnh công tử kia, liệu có biết tưng cầu cho khách không?

Một tay phục dịch thưa:

- Quý quan muốn chơi sang như vậy sao?

Sài Quận mã đáp:

- Ta cũng chẳng tiếc gì tiền thưởng đâu. Phiền hai cậu thưa hộ với công tử một câu: Ta muốn mời được hai mỹ nhân xuống cùng tung cầu.

Huệ Cập cũng vốn là tay ăn chơi có nòi, nghe tay chân thưa lại, lập tức sai hai mỹ nhân xuống đài tung cầu cho Sài Quận mã. Theo sau lại có thêm bốn hầu gái, cầm hai quả cầu có tua ngũ sắc. Hai bên làm lễ trịnh trọng chào nhau, cầu ngũ sắc được tung lên. Huệ Cập cũng vội bỏ ghế ngồi, ra đứng cạnh lan can nhìn xuống chăm chú, cả Tiểu giáo trường các sân cầu đấu ngừng chơi, để đổ xô lại xem hai mỹ nhân tung cầu cho Sài Quận mã. Sài Quận mã trổ hết tài bình sinh, so vai, múa tay, khi cúi, khi ưỡn, quả cầu lúc này chẳng khác gì một thoi ngũ sắc bay lượn, khi cao khi thấp, khi gần khi xa. Các gia tướng, vương tôn công tử đứng trên đài bán nguyệt thi nhau ném lụa nén tiền thưởng xuống, mấy hầu gái theo hầu lúc nãy, giờ tha hồ mà cúi nhặt lụa nhặt tiền. Quốc Viễn vỗ tay, dậm chân vui sướng hét lớn:

- Quận mã cứ đá nữa đi, đá được đến tận chiều tối mới giỏi!

Nhìn sang hai mỹ nhân, chỉ thấy:

Chị này vung tà áo biếc

Cô kia phất mảnh quần hồng

Vung tà áo biếc, thon thon măng búp dẻo tay

Phất mảnh quần hồng, he hé sen vàng nhẹ gót

Ngửa nghiêng đá thấp đá cao

Tung lên đập xuống vào vào ra ra

Ngọc bay tận tượng Phật bà

Quay đầu uốn gối thướt tha nhịp nhàng

Trổ tài vớt móc dọc ngang

Tiếng khen cổ vũ hô vang trong ngoài

Vóc lụa thấm, phấn son phai

Mồ hôi đẫm đến mệt nhoài mới thôi.

Đời sau có người làm thơ tán rằng:

Trên sân mỹ nữ dáng thần tiên

Nhờ gió Bồng đưa tới đất liền

Má phấn mồ hôi hoa lỗ đỗ

Mày ngài bụi bám liễu hoen hoen

Xanh xanh vạt áo bay tơi tả

Phấp phới dây quần bước ngửa nghiêng

Uốn éo cuộc vui tung lại hứng

Tóc mây búi xổ, lệch về bên.

Lúc này cuộc cầu ở Tiểu giáo trường đã hết, Thúc Bảo lấy hai mươi tư lạng bạc trắng, bốn tấm lụa, đưa tặng hai mỹ nhân tung cầu, hai cái quạt vàng, năm lạng bạc trắng, đưa tặng hai tay phục dịch ban đầu, đã có công lên tâu Huệ Cập, lại phụ giúp hai mỹ nhân tung cầu. Lúc này Sài Quận mã cũng đã chào đưa hai mỹ nhân về chỗ ngồi. Cả bọn Thúc Bảo, chào Huệ Cập rồi kéo nhau ra khỏi Tiểu giáo trường, qua Lam Kiều, thì đã thấy các phố, dãy dãy đèn hoa huy hoàng. Chính là:

Tường bốn bề mã não

Cửa năm sắc doanh bồng

Ngàn tầm vân mẫu tháp luôn trượng thủy tinh cung

Mũ giát ngọc san sát

Áo gấm hoa ung dung

Rung rinh sông núi biếc

Lấp lánh thế gian hồng

Kìa giữa trời cây lửa đơm hoa

Nọ kín đất sen nở vàng bông

Vùng vẫy như rồng thiêng rời biển cả

chập chờn như cánh phượng vút không trung

Thiên thời vừa ý

Địa lợi góp công

Lời hát trong lầu hoa, tóm hết phong lan vạn cổ

Câu đố giữa cầu vẽ, hãy còn giảng giải bất thông

Ngàn dâu xanh biếc một vùng

Đèn soi bốn bể, chín châu sáng lòa

Mặt người tươi tựa mặt hoa

Sáng trăng sáng đuốc, đâu là sáng trưa

Ngựa xe đón, đàn sáo đưa

Cuộc vui vui suốt canh thừa thừa đôi

Giọt đồng rơi, giọt đồng rơi

Thái bình muôn thuở, muôn đời với dân.

Thúc Bảo khuyên mọi người hãy tìm những phố náo nhiệt nhất mà xem đèn, vì thế tốt hơn cả là phố có dinh Tư mã thì đèn vừa nhiều vừa đẹp hơn cả. Những lầu các treo đèn phần nhiều là cảnh ảo của một đêm, thường được kết bằng những cây lau, cây trúc, rồi bên ngoài khoác lụa hoa gấm màu vào, giả màu phú quý, ở bên trong thì treo nào đèn kỳ lân, trên đèn kỳ lân thì có biển đề bốn chữ lớn, dát vàng lấp lánh: "Vạn thú tề triều" (1), trên cửa lầu cao giăng một câu đối, vế phải viết:

1 Vạn loài thú đều đến chầu. Kỳ lân là thần thú, tiêu biểu cho đời thái bình.

Triều Chu gặp điềm lành

Chúa thánh ra đời, quốc hữu đạo.

Vế trái viết:

Nhà Tùy hưởng phúc tốt

Vua nhân trị nước, thọ vô cương.

Phía dưới đèn kỳ lân, là nhiều các loại đèn hình thú khác vây quanh.

Đèn rái cá, miệng há móng giơ

Đèn sư tử, lờ mờ đôi mắt

Đèn con cọp, như nhảy lên cao

Đèn con beo, muốn kêu như sấm

Đèn hươu gấm, miệng ngậm đóa hoa

Đèn khỉ già, trèo cây bứt quả

Đèn ngựa vằn, vó đá như chơi

Đèn con voi, to như ngôi báu.

Các đèn hình thú, cái nào cũng đẹp, không thể nào kể hết. Lại còn hình hai vị người xưa, cưỡi hai ngọn đèn hình thú, bên phải là Hạnh Đồng Đế Quân, cưỡi một đèn hình lừa trắng, đang từ từ sa xuống cõi trần, bên trái là Ngọc Thanh Lão Tử, cưỡi một đèn hình trâu xanh, đang đi ra khỏi cửa Dương Quan ở phía tây. Hãy còn bốn câu thơ làm bằng chứng sau đây:

Đèn thú rung rinh kể đã nhiều

Lên lên xuống xuống khẽ quay đều

Kỳ lân là chúa muôn loài đó

Dẫn hướng sinh linh, mở đại triều.

Mọi người xem xong khóm đèn kỳ lân ở dinh Tư mã, lại kéo nhau qua dinh Binh bộ thượng thư, rồi sang dinh Dương Tố. Dọc các phố, dân chúng cũng treo những đèn lồng nhỏ, bày bài vị thiên tử, thắp nến đốt hương, sáng chẳng kém gì ban ngày. Chẳng mấy lúc, đã đến cửa lớn của dinh Dương Tố, lầu cao dựng ngay trước cổng, tất cả đều treo các loại đèn hình chim, trên cửa lầu cũng có biển, khắc bốn chữ lớn: "Thiên triều nghi phượng" (1), hai bên là hai câu đối:

1 chim phượng về chầu thiên tử. Phượng hoàng được coi là vua các loài chim, ý nói Dương Tố quyền ngang vua Tùy.

Cánh phượng liệng trời Nam, người đều chịu phúc

Râu rồng nghiêng bể bắc, dân được nhờ ơn.

Dưới đèn hình chim phượng hoàng, là hàng loạt đèn hình chim khác:

Đèn con hạc đậu cành tùng

Đèn gà gấm, lượn trên từng mây xanh

Trong rừng liễu, đèn con oanh

Đèn con công đứng bên cành tường vi

Vẹt, cuốc, mỏ nhát, le le

Mỗi loài mỗi vẻ le te theo đòi

Người ôi! Mở mắt mà coi. . .

Các hình đèn chim này cũng thế, cái nào cũng lung linh sáng ngời, trăm phần hoa mỹ, kể thật không hết. Hai phía phải trái, cũng có hai hình người xưa cưỡi hai đèn hình chim, vì nhân lễ mừng sinh nhật Dương Tố, phía bên phải là hình Tây Trì Vương Mẫu, cưỡi chim thanh loan, từ Dao Trì bay xuống dự yến, phía trái là hình Nam Cực Thọ Tinh, đang cưỡi chim bạch hạc Hải ốc hạ xuống mừng thọ. Hãy còn bốn câu thơ làm chứng sau đây:

Đèn chim chen chúc đậu non cao

Hãnh diện hơn thua được dự vào

Xanh thẫm từng mây, vua phượng ngự

Muôn loài vỗ cánh động trăng sao.

Mọi người xem xong đèn ở cổng Dương phủ thì cũng vừa canh một, ai nấy vội vàng đi về phía cửa đông. Quốc Viễn từ nhỏ sống cảnh lạc thảo, chưa bao giờ đặt chân vào nơi phố phường, chứ đừng nói gì đến kinh đô. Nay lại được vào Trường An giữa tết nguyên tiêu, nhìn cảnh đèn nến huy hoàng, trống chiêng vang trời, Quốc Viễn cũng không biết nói gì với bạn bè, chỉ biết ngẩn mặt ngờ nghệch xoa hai tay, để các bạn túm áo lôi theo mà thôi. Lại thêm dễ mừng, dễ sợ, quay nghiêng, quay ngửa, nhìn ngó khắp nơi, vỗ tay dậm chân, dẫu có nhắc cũng lại quên ngay.

Thúc Bảo bàn:

- Giờ ta vào cửa Trường An, đến hoàng thành xem đèn hoa ở cửa cung nữa là xong.

Đến trước cửa Ngũ Phượng lâu, người đông nghẽn cả lối đi. Trước mặt Ngũ Phượng lâu, dựng thêm Ngự đăng lâu, có hai viên đại thái giám, ngồi trên hai ghế dựa khảm hoa bạc, bên trái là Ty lễ giám Bùi Tịch, bên phải là Nội kiểm điểm Tôn Khánh. Lại có năm trăm quân cấm vệ, mặc áo gấm có thêu hoa tròn, mỗi người đều cầm côn sơn màu đỏ, đứng nghiêm chỉnh trước Ngự đẳng lâu. Tòa lầu này không chỉ làm bằng lụa là, gấm vóc bình thường, mà còn dùng những thứ nguyên liệu, hương liệu của hải ngoại, rồi những thứ châu ngọc, vàng bạc trong cung, cũng được mang ra trang hoàng, thật xứng đáng với tên Ngự đăng lâu vậy. Trên cửa lầu cao, cũng có treo tấm biển, khảm bốn chữ lớn: "Quang chiếu thiên hạ:" Hai bên là hai câu đối khảm vàng:

Ba nghìn thế giới vang đàn hát

Mười mấy đô thành mượt gấm nhung.

Đến cảnh ở Ngự đăng lâu này thì đúng chẳng nơi nào dám sánh, Vương Bá Đương, Sài Tự Xương, Tề Quốc Viễn, Lý Như Khuê đến xem Ngự đăng lâu, hết chỗ này đến chỗ khác, lúc chen vào, lúc lách ra, rồi cũng vào phòng trà, kéo vào quán rượu, hoặc vào nhà ca hát, chẳng nghĩ đến chuyện về. Thúc Bảo đã bao lần khuyên họ ra cổng thành, nhưng chẳng ai chịu nghe. Không biết rồi chuyện sẽ thế nào, xin xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi Thứ Mười Tám

Gái Vương Uyển xem đèn mắc vạ,

Trai Vũ Văn ham sắc bỏ đời.

Thơ rằng:

Anh hùng đãm lược vốn kỳ tình

Đâu phải tương tri mới bỏ mình

Bên chợ ẩn danh thây Nhiếp Chính (1)

Đập đầu hiển tích mạng Kinh Kha (2)

Tâm hồn trọng nghĩa phơi xương trắng

Phong tuyết trừ gian tuốt kiếm xanh

Đời hỡi, bất bình ta quét sạch

Không phường khinh bạc lũ hôi tanh.

1 Nhiếp Chính: Hiệp sĩ, giúp Nghiêm Toại giết Hàn Lỗi là tể tướng nước Hàn, xong sợ liên lụy đến người thân, rạch mặt tự tử, thây bị phơi giữa chợ. Chị vẫn đến khóc nhận em, để em nổi danh.

2 Kinh Kha: Hiệp sĩ, giúp thái tử Đan giết vua Tần nhưng không xong, bị quan quân hộ vệ đuổi, phải đâm đầu vào cột mà chết (Sử Ký).

Trong thiên hạ, việc vô ích kể không hết, chuyện bất bình cũng không phải ít. Việc vô ích chẳng qua như chuyện vui chơi, còn chuyện bất bình kể như việc nổi giận, rút kiếm đâm chém một hồi.

Cũng phải hiểu rằng chuyện bất bình với chuyện vô ích, có nhiều khi quan hệ chặt chẽ, bất bình thường từ vô ích mà ra, có vô ích mới gọi bất bình. Nhìn việc đời, mắt muốn nổ đom đóm, nghe tâm sự, lòng như muốn đứt từng đoạn. Máu bất bình này, ai ai cũng có, nếu không có được hành động mạnh mẽ, đỡ kẻ yếu, dìm kẻ ác, thì cũng là tấm lòng lo lắng thở than. Ở các bậc nghĩa hiệp, mỗi lần nổi cơn bất bình, nếu không biết tự kiềm chế, thì tai họa sẽ kéo đến. Đây cũng chẳng phải là anh hùng biết mình biết ta, nếu quả là bậc anh hùng, thì cứ bằng bản lĩnh vốn có của mình, sợ gì bọn vương tôn tử, sợ gì kẻ tiền hô hậu ủng. Hãy cứ xem như trong đám quân trăm vạn, lên ngựa lấy đầu tướng, sao lại có thể giống việc chém cáo trói thỏ cho được. Trừ được những điều oan ức của một thời, khiến cho ai ai cũng thấy rằng kẻ gieo việc dâm ác thì nhất định phải chịu báo ứng. Chính là:

Lòng trời muốn những trừ dâm ác

Nên cậy anh hùng giúp một tay.

Hãy nói với cuộc đời một số phụ nữ ở Trường An này, may ra sinh vào nhà phú quý, quần áo không thiếu, ăn uống đầy đủ, phong cảnh bên ngoài dù đẹp đến đâu, cũng khó làm họ rung động. Chính những phụ nữ nhà nghèo khó, sống lây lất mới qua được năm này sang năm khác, trước ánh trăng sáng, nhìn cảnh đèn hoa huy hoàng, đàn nhạc rộn rã, có người trong số họ, đã làm những câu thơ sau đây, để ghi lại những cảnh thần tiên ấy:

Trăng thật tròn, đèn thật xinh

Đèn trăng trong sáng kinh thành cõi tiên

Trăng đĩa ngọc đèn hoa sen

Trăng soi đèn chiếc, muôn nghìn thanh tân

Đèn phú quý, trăng tinh thần

Trăng nô đèn rỡn, xa gần thấp cao

Ai ơi, đêm ấy đêm nào

Người trăng đèn lẫn người vào đèn trăng.

Vào những lúc ấy, thì dù đã già, dù còn trẻ, đều muốn ra du ngoạn. Dù là người con gái thật trinh trắng, hoặc là bà già yếu đuối, chẳng cần phải đến lòng rung động, chân đã muốn bước ra cửa, đã muốn trang điểm ít nhiều, để lên cầu, nhìn trăng ngắm nước. Chị bạn họ Trương, kéo tay các bác bán hàng họ Lý. Bà dâu gia họ Triệu, hẹn trước bà hàng họ Tiền, cười cười nói nói, dẫu có giữ cũng chẳng xong. Thôi thì đủ vẻ phong lưu, nếu lại được một hai vương tôn công tử Trường An nào đó, đi theo giữ gìn, rồi mày đưa mắt liếc, thỏ thẻ đôi lời dung dăng trước ánh đèn, ánh trăng, tìm hương kiếm phấn, theo bóng đuổi hình, nào mấy ai chuyên tâm xem đèn, nếu chỉ là chuyện dạo cầu xem trăng như vậy, thì làm sao có chuyện dưới này được.

Có một người đàn bà góa, tên gọi là Vương Lão Nương, con gái mười tám tuổi tên gọi Uyển Nhi, nhất thời hữu hứng, mẹ con dẫn nhau đi xem hội đèn. Hình dáng Uyển Nhi của Vương Lão Nương rõ là:

Lưng eo như liễu bên cầu

Mặt tươi như cánh hoa đào đang xuân

Làn da thơm mát trắng ngần

Bên đèn ai đó bần thần dưới trăng.

Hai mẹ con để một đứa trẻ nhỏ ở nhà trông nhà, dắt nhau ra phố xem đèn, đi qua cửa lớn. Có một bọn du đãng bám theo sau, nhìn ngó Uyển Nhi, vào tới phố lớn, bọn chúng tốp vây trước, toán theo sau, mẹ con không tài nào thoát đi đâu cho được, Uyển Nhi kinh hoàng, Vương Lão Nương cũng không còn biết làm thế nào. Bọn du đãng này sai phái vài đứa về thưa với công tử Huệ Cập họ Vũ Văn, Huệ Cập nghe báo, vội cùng tay chân đuổi theo, thấy hình dáng Uyển Nhi, Huệ Cập hồn bay phách lạc, lại thấy chỉ mỗi một bà già đi theo, muốn làm gì chẳng dược, Huệ Cập chặn đường lôi kéo Uyển Nhi, Uyển Nhi sợ hãi nhưng không dám kêu, trốn chạy không đường. Vương Lão Nương nào biết mặt mũi công tử con quan thượng thư Vũ Văn là ai, thấy sức mẹ con không thể nào chống trả, chỉ còn cách gào thét kêu cứu. Nhưng Huệ Cập còn mưu mẹo nhanh hơn, y lu loa:

- Mụ già này thật vô lễ, dám cản đường đánh người sao, chúng bay bắt giải về phủ cho ta!

Một lời vừa nói, bọn tay chân lập tức tuân theo, chúng lôi dễ dàng cả hai mẹ con Vương Lão Nương về phủ. Lúc này thì cả hai đều kiệt sức, quần áo tả tơi, khắp người bụi đất, mồ hôi, nước mắt, gào không thành tiếng. Hàng phố bốn bên, cũng không ít người rõ chuyện này, mắt thấy tai nghe, nhưng họ đều biết rõ thế lực cùng thủ đoạn của bọn Huệ Cập, nên không ai dám ra mắt ngăn cản.

Về đến phủ, Vương Lão Nương chẳng còn sức lực đâu mà giãy dụa, chúng bèn giam vào một phòng kín. Còn Uyển Nhi, chúng cũng đem nhốt vào một phòng trống trên sảnh đường. Huệ Cập trở về thư phòng nghỉ ngơi một lát, liền tìm đến phòng Uyển Nhi, bọn gia đinh lập tức bỏ ra ngoài, chỉ còn lại mấy hầu gái. Huệ Cập mới lại gần, Uyển Nhi lập tức chống cự, hai tay cứ mặt Huệ Cập mà đánh. Vật lộn được một hồi, Huệ Cập không tài nào thắng, liền nổi giận lôi đình, quát lũ hầu gái đánh cho Uyển Nhi một trận, rồi khóa kỹ phòng lại, đi ra. Bọn tay chân ở ngoài cửa phủ vào báo:

- Mụ già chúng con nhốt ngoài kia, lại la hét ầm ĩ, sống chết đòi con, tiểu chủ dạy nên đối phó ra sao đây?

Huệ Cập cũng có phần bối rối:

- Ta cũng không ngờ dây vào chuyện lôi thôi thế này. Hãy đợi ta ra xem sao.

Huệ Cập ra cổng phủ, đến phòng giam Vương Lão Nương quát hỏi tại sao lại la hét ầm ĩ trong phủ đường. Thấy mặt Huệ Cập, Vương Lão Nương lại càng gào thét to hơn, dậm chân đấm ngực. Kêu trời chửi đất, đòi kỳ được con gái. Huệ Cập đáp:

- Con gái của mụ, đã mất hết với ta rồi. Mụ mau mà xéo cho rảnh, không được phá phách ở nơi này đâu!

Vương Lão Nương gào lớn:

- Đừng có mà dọa ta. Dù có chết ta đi nữa thì ta cũng nhất quyết không chịu. Phải trả con gái cho ta. Ta côi cút một thân, được mỗi một mình nó, đã hứa gả cho người ta, chỉ còn ít ngày nữa là cưới, nếu không trả, đêm nay ta nhất định chết ở đây.

Huệ Cập tức tối:

- Mặc cho mụ nói, mụ có chết cũng chẳng dọa được ta.

Rồi quát bọn tay chân đẩy Vương Lão Nương ra cửa. Bọn này đứa lôi đứa đẩy, đứa đánh, đứa tát, lôi Vương Lão Nương ra khỏi cửa và lập tức đóng chặt cửa lại. Huệ Cập vẫn còn say máu, lại kéo một đoàn côn quang ra phố càn quét. Lúc này đã canh hai rồi. Cũng bởi Huệ Cập đã đến lúc tội ác chất đầy, dâm ô dã man, đã đáng tội chết, nên lại mới tìm đến việc này, lúc này. Đại phàm một miếng ăn, một ngụm uống, cũng còn là chuyện tiền định, huống chi chuyện sinh tử lớn lao của người đời, trốn tránh sao được ý trời.

Chính là:

Tái ông xưa có lời.

Ai liệu được lòng trời

Họa phúc chẳng tìm cửa

Người tự rước lấy thôi! (1)

1 Sách: "Hoàn Nam tử": ông già ở gần cửa ải, mất ngựa, mọi người tiếc thay. Ông lão nói: "Biết đâu đó chẳng là điều may mắn! . Vài ngày sau, con ngựa cái ấy rủ được một con ngựa Hồ tốt về. Ai nấy ngỏ lời mừng. Ông già chối: "Biết đâu đấy lại là điều họa!". Con trai duy nhất của ông lão cưỡi ngựa Hồ ngã, què chân. Mọi người an ủi, ông già thản nhiên. "Biết đâu đấy là phúc lớn". Giặc Hồ tràn vào, tất cả trai tráng phải ra chết trận. Riêng con trai ông lão vẫn được sum họp với gia đình.

Lại nói anh em Thúc Bảo, dạo chơi khắp kinh thành cũng vừa vế đến đây, thấy hàng trăm người đang xúm đen xúm đỏ, ai nấy mới cố lách vào xem, thì thấy một bà già, đầu tóc đã bạc, đang nằm lăn lóc trên mặt đường, Bá Đương hỏi người bên cạnh:

- Bà già này, có chuyện gì mà khóc giữa phố thế này?

Người này đáp:

- Xin các vị đừng quan tâm tới chuyện này mà lôi thôi lớn. Bà già này cũng vì không biết mình biết người, chẳng hiểu thời thế. Có một cô gái đã có người dạm hỏi, đợi ngày về nhà chồng. Mẹ con ra phố xem đèn, lập tức bị công tử Vũ Văn cướp mất con.

Thúc Bảo hỏi:

- Công tử họ Vũ Văn nào kia?

Người này đáp:

- Công tử con quan Thượng thư bộ binh Vũ Văn Thuật chứ còn Vũ Văn nào nữa.

Thúc Bảo hỏi thêm:

- Có phải là công tử vừa đứng ra mở cuộc thi đá cầu ở Tiểu giáo trường chăng?

Người này đáp:

- Đúng rồi?

Lúc này Thúc Bảo đã đem lời dặn dò của Lý Tĩnh vứt sang đất nước Trảo Oa ngoài hải ngoại ngàn dặm (1), lại hiện nguyên hình một kẻ "giữa dường thấy sự bất bình mà tha", chỉ còn nghe thấy thế, lòng đã sôi sục tức giận, hai mắt đỏ ngầu như lửa, lại gần bà già, hỏi:

1 Trảo Oa: tên gọi của đảo Giava Indonesia hiện nay.

- Bà tên họ là gì?

Bà già đáp:

- Già này họ Vương, ở ngay phía đằng sau phủ đệ của Vũ Văn tướng công.

Quốc Viễn nói:

- Bà hãy về nhà đi thôi. Lúc chiều ở Tiểu giáo trường của công tử Vũ Văn, chúng tôi có kiếm được mấy tấm lụa, mấy đỉnh bạc đây, chúng tôi sẽ đi tìm công tử, chuộc con gái về cho bà.

Bà già tin thực, vái bốn vái, vừa đi vừa khóc về nhà.

Thúc Bảo còn hỏi kỹ người đứng bên:

- Chuyện công tử Huệ Cập cướp đàn bà con gái này có thật không quý hữu?

Người này đáp:

- Chuyện này đâu phải hôm nay mới có, ngày mười hai vừa rồi làm một lần rồi. Phong tục ở Trường An này, đêm trăng rằm nguyên tiêu này, đàn bà con gái đều lên cầu ngắm trăng, chọn đúng dịp tốt này để hành sự, thì thật là xảo quyệt không lường. Ngày mai, chỉ cần gọi cha mẹ, chồng con gì đó đến phủ, thí cho mấy lạng bạc là xong. Nếu vẫn còn chống cự, công tử đánh chết, vứt xuống hố chân tường lấp lại chẳng ai dám đến đòi tiền, đòi mạng. Ngày mười ba, mười bốn vừa rồi lại tiếp mấy vụ thế này rồi. Tối nay đến lượt mẹ con bà già này thôi.

Lúc đầu, Thúc Bảo cũng có ý định dùng tiền lụa để tìm cách chuộc lại cô gái cho bà già, nhưng giờ nghe những lời này Thúc Bảo thay đổi ý định. Thúc Bảo lại hỏi thêm về những chuyện của Vũ Văn công tử, có người khuyên can:

- Các vị là bậc quan nha ở xa kinh thành mới về, có những chuyện chưa tường, nếu gặp gỡ công tử nói chuyện chuộc lại, sợ rằng không thông, công tử đã không vừa ý, các vị sẽ không khỏi bị tổn thương.

Thúc Bảo lựa lời đáp:

- Đúng là chúng tôi không biết công tử Vũ Văn ngang ngược đến vậy. Được các vị chỉ giáo cho biết, thế thì chúng tôi tránh mặt là tốt hơn cả, nhưng không hiểu công tử hay có mặt ở những nơi nào, vào những ngày này.

Có người thông thạo đáp:

- Công tử có hẳn một dãy lầu riêng trong phủ đệ họ Vũ Văn, chứa chấp toàn bộ côn quang, coi tính mạng chẳng vào đâu, sẵn sàng nhảy vào lửa nóng, băng lạnh. Vào giờ này, cả bọn mặc toàn áo mũ màu đỏ. Mỗi đứa cầm một cây tề mi đoản côn, hàng trăm đứa đi trước mở đường, bọn gia tướng theo sau để sẵn sàng giở đúng mười sáu ban võ nghệ, toàn những tay đao tay thương thuần thục, thế là thành một đoàn vừa hát ca vừa múa võ. Công tử cưỡi ngựa, phía trước, phía sau là một bọn áo thụng xanh, mỗi toán năm sáu tay, đều xách đèn lồng toàn làm bằng lụa hoa, bưng lò hương, giăng thành hàng. Ở Trường An, trong những ngày này, các phủ đệ lớn, đều có lập những ban múa hát, biểu diễn võ nghệ như thế, chúng tôi thường gọi là "xã hý", hay "xã hỏa" cũng thế. Các ban "xã hý" khác, nếu gặp công tử Vũ Văn là lập tức phải dừng lại để múa hát trổ tài nghệ. Nếu hay, công tử bằng lòng, thích chí thì cũng sẽ được thưởng lụa, bạc như đá cầu ở Tiểu giáo trường vậy. Còn không hay thì cứ thế đè ra, dùng côn mà nện.

Thúc Bảo lên tiếng:

- Đa tạ quý vị chỉ giáo!

Thế rồi cả bọn kéo đi ra phía đường ngự đạo của Trường An, nơi bọn Vũ Văn thường xuất hiện để tìm Huệ Cập.

Lúc này đã canh ba, trăng sáng như ban ngày, giữa lúc đang lang thang tìm, thì gặp bọn Vũ Văn. Quả đúng có tới mấy trăm tay đoản côn, đứa nào cũng đầy vẻ lang sói. Huệ Cập mặc áo thêu sặc sỡ, ngồi trên yên ngựa, bọn tay chân dẫn trước kéo sau.

Người xưa dã nói: "Bất thị oan gia bất đối đầu", không có thù oán với nhau thì không gặp nhau. Bọn Thúc Bảo nép mình trong góc phố, thấy Huệ Cập tới liền bước ra, một người lên tiếng:

- Chúng tôi là gia tướng ở phủ Hạ Quốc Công Đậu đại nhân xin hầu công tử.

Huệ Cập hỏi:

- Các anh diễn võ gì?

Người này đáp:

- Dạ "Hổ Lao quan, Tam anh chiến Lã Bố" ạ. (1)

1 "Hổ Lao quan, tam anh chiến Lã Bố". Ba anh hùng Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi đánh nhau với Lã Bố ở Hổ Lao quan ( Tam Quốc diễn nghĩa).

Múa xong, công tử khen hay, mọi người xin tiền thưởng. Lúc bấy giờ công tử cho mọi người đi, Thúc Bảo lại bước ra trước mặt công tử, mặt mày đã bôi vẽ khác hẳn, cao giọng thưa:

- Dạ, trình công tử, còn đám "xã hý" này nữa kia ạ!

Cả nhóm năm anh em Thúc Bảo, một người mang mặt nạ vẽ mặt chuột, tiến lên thưa tiếp:

- Chúng tôi xin diễn tích: "Ngũ mã phá Tào", cũng kể chuyện thời Tam Quốc ạ!

Huệ Cập lúc này mới chợt tỉnh, nhận ra là bọn này chỉ giả trang "xã hý" để giở trò, Thúc Bảo vung đôi giản đồng mạ vàng lấp lánh, Bá Đương múa tít hai thanh bảo kiếm. Tự Xương vung thanh kiếm quý gia truyền, Quốc Viễn tả xông hữu đột với đôi trùy cán vàng, Như Khuê múa tít cây roi thủy ma trúc tiết cương tiên. Tiếng giản, kiếm, roi, chùy va vào nhau nghe lạnh gáy, ánh lửa chói mắt, ai nấy thi nhau múa, đường phố tuy rộng, nhưng họ cứ tiến sát lại Huệ Cập mà múa, gió tạt cả vào mặt, làm Huệ Cập bắt đầu sợ hãi. Hai đầu phố, người xem đứng nghẽn cả lối, khiến Quốc Viễn trong lòng nghĩ thầm: "Giờ đánh nó chết thì cũng chẳng gì khó, nhưng người đứng chật cả hai đầu đường thế kia, không tài nào thoát thân nổi được, trừ phi ta đốt cháy mấy cái gác treo đèn này. Lúc ấy trăm họ sẽ đổ ra cứu hỏa, thì mới không cản trở đường rút chạy của anh em chúng ta được". Nghĩ rồi bèn chạy lên gác. Bọn Huệ Cập vẫn chưa nghĩ là Quốc Viễn lên lầu làm gì, hoặc giả Quốc Viễn chạy lên gác để rồi lại từ trên ấy múa võ xuống chăng, chẳng tay nào trong bọn nghĩ được Quốc Viễn lên để đốt gác, Thúc Bảo thấy gác bắt đầu cháy, liệu thế không thể nào dừng nữa, bèn nhảy ra ngoài vòng theo thế hổ vồ mồi, đến ngay trước ngựa của Huệ Cập, giơ cao đôi giản, giáng xuống đầu. Lúc này Huệ Cập đang ngồi trên yên ngựa, không kịp né tránh, hơn nữa, mỗi chiếc giản của Thúc Bảo nặng sáu mươi tư cân, bổ vào đầu cả đến con ngựa cao khỏe là thế cũng phải khụy xuống. Bọn gia tướng cùng lũ tay chân thấy thế, khủng khiếp gào lớn:

- Nguy to rồi! Đánh chết công tử rồi!

Đao, thương, côn bỗng xúm lại xung quanh Thúc Bảo. Thúc Bảo múa tít đôi giản đỡ khắp thân mình, Quốc Viễn từ trên gác cao nhảy xuống, vung mạnh đôi kim chùy, cùng các hào kiệt xông lại. Cả bọn người nào cũng:

Đầu nóng bừng bừng

Miệng la oai oái

Dữ như bò rừng

Hung như trâu dại

Đấm cho một mũi tím bầm

Đá cho trước sau bại hoại

Phong lưu tài tử, rơi mũ xõa tóc chạy tung

Mỹ mạo giai nhân, tụt giày, cuống chân ngã đại

Thây chồng phố lớn, xác kín ngõ cùng

Hồn lánh cây cao, máu trôi cỏ dại.

Đúng là:

Khí thế đạp phăng dinh phượng đỏ

Oai phong thét đổ lũ rồng xanh.

Bọn hào kiệt đành phải mở một đường máu, từ đường phố lớn chạy ra ngõ Minh Đức. Lúc này đã hết canh ba. Bọn lâu la ở ngoài cổng thành gồm hai mươi hai người, chờ chiều, chờ cơm tối, sắm sửa yên cương, hành lý xong xuôi, cùng kéo nhau ra giữa đường lớn đứng chờ chủ. Họ cùng nhau chia làm hai tốp, một nửa ở lại trông nom hành lý, yên cương, một nửa đi về phía cổng thành đón chủ, vừa là xem đèn hoa các phố gần đó, rồi lại quay lại, đổi cho bọn kia vào cổng thành. Đến canh ba, đã đổi nhau được mấy lần như thế rồi, thì thấy trăm họ trong thành, đầu bù tóc rối, chân lành chân què, áo quần tả tơi, hở cả da thịt, mặt mày mồ hôi mồ kê, bụi đất bám đầy, chân sưng trẹo, mặt sưng tím, kẻ gào người khóc, cứ thế mà chạy bán sống bán chết. Bọn lâu la đi vào cổng thành, thấy những chuyện này, cũng vội vàng chạy ra nói với nhóm giữ hành lý, yên cương:

- Anh em ơi, đúng là các ông chủ của ta đang chém giết gì đó ở trong thành rồi, đánh chết công tử Vũ Văn nào đó. Chi bằng ta hãy để vài người ở đây trông ngựa, đồ đạc, còn tất cả anh em có sức khỏe, hãy chạy nhanh vào cổng thành giữ cho bọn lính gác không được đóng cổng, nếu không cửa thành mà đóng, thì làm thế nào các ông chủ của chúng ta ra được!

Cả bọn lâu la tán thưởng:

- Nói có lý lắm!

Thế là mười tay lâu la lực lưỡng, kéo nhau vào cổng thành. Đến nơi, một bên thì giả vờ vào thành, một bên làm ra vẻ ra thành, gặp nhau giữa cổng, không bên nào chịu nhường bên nào, thế là xô xát, đội lính gác cổng thành, kéo lại dàn xếp không xong. Lúc này Kim Ngô tướng quân cùng Kim triệu phủ doãn (1), nghe báo có bọn người đánh chết công tử con quan thượng thư bộ binh Vũ Văn Thuật, sợ hung thủ trốn chạy khỏi kinh thành, lập tức cho lính cưỡi ngựa truyền lệnh đóng ngay cửa thành, nhưng rồi vẫn chưa đóng được. Bọn hào kiệt cũng vừa ở trong thành chạy ra, thấy cửa thành vẫn chưa đóng, đường sống vẫn còn, lập tức giơ vũ khí, cướp cửa mà chạy. Lũ lâu la, dưới ánh đèn, nhận rõ chủ mình, cũng giáng một đòn vào bọn lính canh cửa rồi rút theo chủ. Ngay bên đường nhận ra người ngựa của mình, anh em Thúc Bảo lên ngựa, lập tức ra roi, kéo mạnh dây cương phóng như tên bắn.

1 Kim Ngô tướng quân: viên tướng coi việc an ninh canh gác, tuần tra, giờ giấc trong kinh đô. Kim triệu phủ doãn: quan đại thần cai quản kinh thành, tương đương chủ tịch thành phố bây giờ.

Xé toạc lưới tơ giăng

Chạy thoát cả vảy gầm

Chim hồng lướt ngàn dặm

Mây gió cỡi chín tầng.

Bảy người cưỡi ngựa, theo sau là một đoàn đi bộ, chạy ra phía đường Đồng Quan, về phía chùa Vĩnh Phúc. Sài Quận mã muốn lưu Thúc Bảo lại, đợi thư của Lý Uyên, Thúc Bảo từ chối:

- Xin đa tạ Quận mã, nhưng chi sợ có kẻ nhận ra dấu tích thì quả là không tiện.

Thúc Bảo còn dặn kỹ phải phá ngay "Báo Đức tự", và cả đôi giản đắp giả đừng để người ngoài trông thấy, nói rồi lập tức bái biệt, lên ngựa ra roi.

Đến gần Thiếu Hoa sơn, Thúc Báo ngồi trên yên cương ngựa nói với Bá Đương:

- Sang năm ngày hai mươi ba tháng chín, là ngày lục tuần thượng thọ của thân mẫu Tần Quỳnh này, xin đại huynh đến dự lễ cho thêm phần trọng thể.

Bá Đương đưa mắt nhìn Quốc Viễn cùng Như Khuê rồi đáp thay cho cả bọn:

- Chúng tiểu đệ thế nào cũng xin có mặt.

Thúc Bảo không chịu lên sơn trại, hai bên chia tay, Thúc Bảo trở về Tế Châu. Chuyện không nói nữa.

***

Lại nói, cổng thành sau khi thầy trò, bè bạn Thúc Bảo đã ra khỏi mới đóng được. Ở các phố các ngõ, số người chết, bị thương không thể kể hết, nhà cửa trăm họ bị thiêu ra tro cũng tính không xuể. Tối hôm ấy, trong phủ Vũ Văn Thuật, vì được nhà vua ra ơn, ban cho đèn trong tết nguyên tiêu, vì vậy có mỡ tiệc lớn ở đại đường, nến phượng khêu cao, dưới thềm nhã nhạc rộn ràng. Một nhà quyền quý, ơn vua nhuần thấm. Đương giữa lúc này nâng chén, ở ngoài phủ như một đợt sóng người trào vào, mãi không hết, ai nấy đều thi nhau gào to:

- Tướng công! Tai họa rồi!

- Đại nhân ơi! Khốn khổ thay?

Vũ Văn Thuật vội rời khỏi bàn tiệc, chạy ra thềm cao, giơ tay ra hiệu mọi người yên lặng. Lúc này mấy viên gia tướng trong phủ, mới có kẻ bước lên thưa:

- Tiểu chủ đang xem đèn ở cửa tây kinh thành, có một bọn cướp giả trang làm phường "xã hý", đã giết chết mất tiểu chủ rồi!

Vũ văn Thuật vốn rất yêu cậu con trai út này, nghe xong, lục phủ ngũ tạng như điên đảo, gào lớn:

- Con ta có thù oán gì với bọn cướp đường nào đâu, mà đến nỗi bị chúng đánh chết.

Bọn gia tướng, tất nhiên không dám kể hết tội ác, sự dâm đãng quá quắt của tiểu chủ, chúng bịa thêm những chuyện hoang tưởng để che giấu Vũ Văn Thuật:

- Tiểu chủ nhân có uống mấy chén rượu, cũng có đùa cợt với con gái Vương Lão Nương, mụ già này mới gào khóc kể lể với bọn cướp kia, bọn cướp mới tìm tiểu chủ để kết liễu tính mạng.

Vũ Văn Thuật hỏi:

- Thế mẹ con mụ già đâu rồi?

Gia tướng thưa:

- Mụ già không rõ đi đâu mất. Con gái hiện nhốt trong phủ.

Vũ Văn Thuật đùng đùng giận dữ:

- Mau lôi con tiện tỳ ra trước nghi môn, đánh kỳ chết cho ta.

Lại phái gia tướng tìm đến tận nhà Vương Lão Nương, có bao nhiêu người trong nhà, giết cho kỳ sạch mới thôi, còn nhà cửa, đồ đạc phá cho kỳ hết, đốt cho kỳ hết. Gia tướng nghe truyền, lôi ngay Uyển Nhi đánh chết vứt xác vào hố bên tường lấp lại, tìm đến giết kỳ hết mọi người trong nhà Vương Lão Nương.

Chính là:

Sắc kia nghiêng nước nghiêng thành

Chỉ là mối họa, gia đình tan hoang.

Vũ Văn Thuật vì mối hận khó nguôi, gọi bọn họa sĩ giỏi nhất trong phủ tới, hỏi kỹ bọn gia tướng có tham dự đánh nhau ngoài phố, kể lại thật kỹ diện mạo, quần áo mọi thứ của kẻ đã đánh chết Huệ Cập vẽ thành hình người, để sai tìm bắt kỳ được. Gia tướng đều thưa:

- Người này thân cao hơn trượng, tuổi khoảng hơn hai mươi, mặc quần áo màu xanh nhạt, múa đôi giản bằng đồng.

Nghe đến đôi giản bằng đồng, những gia đinh đang đứng hầu bên Vũ Văn Thuật có đứa vốn là đầu mục trong đội hộ vệ của Đông Cung vội quỳ xuống thưa:

- Trình đại nhân, nếu quả xử đôi giản như vậy, thì cũng dễ tìm ra. Tiểu nhân hồi năm Nhân Thọ thứ nhất, vâng mệnh đại nhân, tại Tra Thụ Cương đón đánh Đường Công, đã từng chạm trán với người này. Lúc ấy cũng chỉ vì có người này, mà chúng tiểu nhân không kết liễu được tính mạng Đường Công cùng gia quyến.

Vũ Văn Thuật tức tối:

- Nếu đúng như vậy, thì Lý Uyên biết rõ hồi đó ta tìm cách đón đường giết y, nên cho bọn người này tới đây báo thù.

Lúc này cả hai con trai Vũ Văn Thuật đểu có mặt. Hóa Cập vội tiếp lời:

- Thế thì chẳng cần phải nói lôi thôi gì nữa, ngay ngày mai đến tận chỗ Lý Uyên mà đòi mạng xem y trả lời ra sao.

Trí Cập cũng chửi Lý Uyên không tiếc lời, cũng đòi báo bằng được mối thù giết em này. Chỉ có Vũ Văn Sĩ Cập, có ít nhiều hiểu biết nghĩa lý, liền lặng lẽ phân giải:

- Cái này thì có chỗ chưa thật thỏa đáng. Thiên hạ thiếu gì người có hình dáng bên ngoài giống nhau, thiếu gì người xử đôi giản đồng như vậy. Nếu Lý Uyên muốn báo thù, việc gì phải chờ cho đến mãi ngày hôm nay. Chẳng bắt được tận tay kẻ giết người, cũng lại chẳng có một chứng cớ nào rõ ràng. Hơn nữa chuyện thấy giống người ở vụ Tra Thụ Cương, liệu có thể nói thẳng ra được không. Nên theo hình vẽ kia mà bắt người là tốt hơn cả thôi.

Vũ Văn Thuật thấy Sĩ Cập giảng giải như thế, cũng biết không thể đổ tội cho gia đình của Đường Công, nên ngày hôm sau chỉ nói là một kẻ không rõ tên, quê quán, đánh chết Huệ Cập, đốt cháy, cướp bóc nhà dân phố, giết chết nhiều người phải tức tốc bắt ngay.

Không biết sự việc sẽ ra sao, xem hồi sau phân giải.

Hồi Thứ Mười Chín

Thả sức chưng dâm, tặng thiếp cha hộp giải lụa,

Phóng tay thí nghịch, xốc con vua lên ngai vàng

Thơ rằng:

Bụi tung đầu ngựa: bã vinh hoa

Mà lũ đần ngu chẳng nhận ra

Lòng hám nhà vàng cam phản chúa

Tỉnh mê má đỏ nỡ quên cha

Tiên Đô mây lạnh kinh hoàng mộng

Nhân Thọ hồn oan hiển hiện ma (1)

Nháy mắt mười ba năm phú quý

Nghìn thu chuốc một tiếng cười xòa.

1 sự Việc ở hai câu này thuộc hồi thứ hai mươi.

Việc bại hoại xấu xa nhất trên thế gian này, có thể quy vào bốn loại: tửu, sắc, tài, khí. Nghiện rượu, người cười rằng là con sâu rượu; ham của, người cười rằng đứa tham lam, chỉ có sắc và khí, người bảo rằng là do tính khí, cốt cách con người sinh ra, không nghĩ ra rằng là trong tính khí, cốt cách con người sinh ra, không nghĩ rằng trong sắc lẫn khí đều chứa đầy tai họa lớn nhỏ. Cũng như chuyện phẫn nộ nhất thời của Thúc Bảo ở trên chẳng hạn, đó chính là biểu hiện của khí và không ai nói rằng đó chính là nghĩa khí của bậc anh hùng. Cứ cho rằng đánh chết được Vũ Văn Huệ Cập đi nữa, nhưng rồi lại hại cả một nhà Vương Uyển Nhi, tàn sát biết bao người dân, phá đốt biết bao nhà cửa trong kinh thành Trường An, may mà chưa thiệt đến thân mình. Nhược bằng thân thác nơi đất khách, thì mẹ già, vợ trẻ, con thơ lấy ai nương tựa, nếu cứ bình tĩnh hơn, người lạnh hơn thì mọi chuyện sẽ ra sao. Còn nói đến chuyện sắc dục, nhất thời hứng khởi, chẳng cần nghĩ đến danh phận, trong chuyện đó nếu tai họa dẫn tới, may ra mà không có chuyện thân tan, địa vị không còn, ngồi trên thế cưỡi hổ, làm những chuyện ngược ngạo, để tiếng xấu nghìn năm sau, thì nói cho cùng ra, vẫn không thoát khỏi tội nước mất thân vong vậy, rốt cuộc lại cũng là chuyện sai quấy nữa.

***

Hãy khoan nói chuyện Thúc Bảo trở về Tế Châu mà trở lại chuyện Thái tử Dương Quảng. Quảng đã thành công trong việc chiếm ngôi Đông cung Thái tử của Dương Dũng, tìm cách hại Lý Uyên nhưng không thành. Trước đó, Quảng còn ít nhiều sợ mẫu hậu Độc Cô hoàng hậu, nhưng sau việc thay ngôi Thái tử, Độc Cô cũng chết nốt, chẳng còn ai cho Quảng sợ, cho nên những việc phải ức chế thuở xưa: trang hoàng, y phục cổ không tỏ ra xa xỉ, không có dấu hiệu nào của sự ham muốn sắc dục đều được vứt bỏ thẳng cánh. Hơn nữa từ sau cái chết của hoàng hậu Độc Cô, chẳng còn bị theo dõi, câu thúc, Văn Đế tha hồ mặc sức sủng ái Tuyên Hoa Trần phu nhân cùng Dung Hoa Sái phu nhân, dần dần đem tất cả công việc triều chính giao cả cho Thái tử, cho nên càng ngày càng toại ý vừa lòng.

Đến năm Nhân Thọ thứ tư (1), Tùy Văn Đế đã ngoài sáu mươi tuổi vẫn chẳng chừa được hai lưỡi búa bổ vào người (2), dẫu vui vui thật, nhưng nhất định là hao tổn tinh thần, thể xác cũng ngày càng khó giữ được như xưa, nên cuối cùng chỉ còn yếu ớt như ánh trăng, nhợt nhạt như nước sương, chẳng còn sức sống, rồi đến tháng tư năm đó thì đổ bệnh. Sai Dương Tố xây cung Nhân Thọ, nhưng lại không ở trong nội thành Trường An, rồi chuyển sang cung Nhân Thọ dưỡng bệnh, đến tháng bảy năm ấy, thì bệnh tình ngày càng trầm trọng. Thượng thư tả bộc xạ Dương Tố, Lễ bộ thượng thư Liễu Thuật, một là huân thần, một là phò mã, cùng với Hoàng môn thị Lang Nguyên Nghiên, là cận thần, cả ba thay phiên nhau túc trực. Thái tử Quảng cũng túc trực ở ngay cung Đại Bảo, để tiện việc thường xuyên sang hầu hạ, vấn an.

*1 Nhân Thọ thứ tư: tức năm 604, sau công nguyên, ở Việt Nam ta là đang thời Hậu Lý Nam Đế, Lý Phật Tử.

2 Hai lưỡi búa: chỉ sắc và tửu. Rượu và gái dễ gây suy sụp sức khỏe, tinh thần con người.

Sáng sớm hôm đó, Thái tử vào cung vấn an, đúng lúc Tuyên Hoa phu nhân đang hòa thuốc cho Văn Đế. Thái tử thấy Tuyên Hoa, hoảng hốt cúi lạy, phu nhân tránh không kịp, đành phải chào đáp lễ. Xong xuôi, phu nhân lại thản nhiên hòa thuốc cho Văn Đế rồi bưng lại long sàng, đỡ Văn Đế dậy uống từng thìa nhỏ.

Thái tử lúc còn đang nhìn ngó ngôi Đông cung, cũng đã từng phải nhờ vả Tuyên Hoa phu nhân nói hộ ít nhiều trước mặt Văn Đế, cũng đã từng đưa đến biếu phu nhân nhiều vàng ngọc cùng các vật quý phu nhân đều thu nhận, nhưng hai bên cũng chưa từng gặp mặt. Mãi đến nay cùng vào hầu hạ thuốc thang, cũng chẳng cần tránh mặt nhau làm gì. Lại thấy Trần phu nhân, cử chỉ phong lưu, phong thái trang nhã .

Chính là:

Bạch ngọc bên da còn kém nhị

Mẫu đơn kịp sắc lại thua hương

Bên thềm ăn nói oanh đài các

Trước cửa vào ra liễu nhún nhường.

Lại thêm phu nhân cũng vốn dòng cành vàng lá ngọc, sinh ra, lớn lên trong chốn trướng gấm màn là, nói chẳng hết phong tư yểu điệu, Thái tử mới thoạt trông, đã hồn tiêu phách lạc, không thể nào ngăn được lửa dục bừng bừng, đứng bên cạnh, hai mắt mở thao láo, chỉ tại trước mặt phụ hoàng, chưa dám càn rỡ.

Lại một lần vào thăm người bệnh khác, từ xa đã trông thấy người đẹp, lại đi có một mình, phía sau chẳng thấy một cung nữ nào theo hầu. Thái tử ngẩng đầu nhìn, đúng là Trần phu nhân rồi, vội thay áo đi ra, cũng cố ý không cho người theo hầu. Thái tử lòng đầy cuồng vọng, thầm nghĩ: "Cơ hội là đây rồi chăng?". Rồi lặng lẽ một mình theo chân phu nhân vào phòng thay quần áo. Trần phu nhân thấy Thái tử vào, kinh hoàng kêu lên:

- Thái tử vào đây làm gì?

Thái tử cười đáp lững lờ.

- Thấy tiện thì vào vậy thôi!

Trần phu nhân thấy giọng nói, cử chỉ Thái tử đầy vẻ khinh bạc, quay người định chạy, Thái tử đã kịp túm giữ lại nói tiếp:

- Phu nhân, ta suốt ngày trước long sàng nhìn ngắm phu nhân, hồn như bay trên mây trên gió, nhưng thật là như cách vạn thủy thiên sơn. Nay may mắn gặp đây, xin phu nhân hãy giành cho ta một khắc để gọi là an ủi ước nguyện bình sinh của ta.

Phu nhân đáp:

- Thái tử, thân ta đã là của thánh thượng, sự cách biệt thân phận rõ ràng, sao lại có thể như vậy được?

Thái tử nhỏ nhẹ:

- Phu nhân hãy tỉnh táo mà nhìn rõ tình cảnh hiện nay. Người ta sinh ở đời vốn là để hưởng khoái lạc. Nói gì đến chuyện thân phận với thân phận. Gặp nhau được như thế này thì đúng là một khắc đáng nghìn vàng đó phu nhân.

Phu nhân vẫn giữ ý:

- Thái tử nói như thế sao được!

Rồi nhất quyết chống cự, nhưng Thái tử đời nào chịu buông tha, vẫn tiếp tục cười nói, khuyên lơn, cầu xin:

- Đại phàm kẻ biết thời thế, mới đáng gọi là bậc anh hùng. Phu nhân rõ hơn hết tình cảnh của phụ hoàng hiện nay, sao lại vẫn còn chấp nê đến vậy. Bây giờ mà phu nhân không chịu đến chút tình này của ta, chỉ sợ mai kia phu nhân có nghĩ đến thì cũng muộn rồi!

Miệng thì nói, mắt thì nhìn, mặt mày đầy vẻ dâm đãng, kẻ kéo lại người dằng ra, nhưng phu nhân thì yếu đuối, thân bồ phận liễu, Thái tử thì một kẻ nam nhi cường tráng, chính giữa lúc không còn đường nào khác, thì nghe ở bên ngoài tiếng gọi dõng dạc của thái giám:

- Thánh thượng truyền gọi Trần phu nhân!

Lúc này Thái tử biết có giữ lại cũng không xong, đành buông tay ra, còn hẹn nhỏ:

- Giờ thì ta không dám giữ, hãy chờ dịp khác vậy nhé!

Phu nhân lúc này mới hoàn hồn, nhưng quần áo, đầu tóc đều xộc xệch, mặt mày xanh xám. Thái tử cũng vội bỏ ra ngoài.

Trần phu nhân cố tự trấn tĩnh lại, đi vào cung biết rõ Văn Đế trong cảnh nửa mê nửa tỉnh, đang chờ phu nhân đem thuốc vào, nên vội vàng vào phòng. Không ngờ cành thoa vàng trên đầu, vì đã lỏng sẵn, giờ phu nhân cúi xuống nên rơi ngay vào cái chậu vàng, nghe tiếng rất rõ, làm Văn Đế tỉnh lại, mở mắt nhìn. Thấy phu nhân đang đứng trước long sàng, vẫn chưa giấu được vẻ hoảng hốt, Văn Đế bèn hỏi:

- Khanh tại sao có vẻ hoảng hốt thế?

Phu nhân hoang mang, không biết thưa thế nào chỉ cúi đầu nhặt cành thoa lên. Văn Đế lại hỏi:

- Trẫm hỏi, tại sao khanh không trả lời?

Phu nhân càng lúng túng, đành chối liều:

- Không, tâu bệ hạ, thiếp có hoảng hốt gì đâu!

Văn Đế thấy thái độ phu nhân khác thường, chú ý nhìn kỹ, thì thấy má hồng loang lổ, vết nước mắt vẫn còn, cổ họng vẫn còn tấm tức khôn ngăn, lại thêm đầu bù tóc rối. Càng thêm nghi ngờ, Văn Đế cao giọng:

- Khanh sao lại đến thế này?

Phu nhân đáp:

- Thiếp không, thiếp không sao cả?

Văn Đế tức tối:

- Trẫm xem ra hôm nay cử chỉ, mặt mày, đầu tóc khanh đều khác thường, nhất định có giấu chuyện gì, nếu không chịu nói, trẫm sẽ bắt tội chết!

Phu nhân thấy Văn Đế nổi giận, đành phải quỳ xuống thưa:

- Tâu bệ hạ! Thái tử vô lễ!

Văn Đế nghe dứt câu, tức giận tràn hông, lấy tay gõ gõ vào long sàng hai ba lần, rồi than:

- Thằng súc sinh như thế, làm sao mà giao việc lớn cho được.

Độc Cô hoàng hậu làm hại ta rồi! Mau gọi Liễu Thuật cùng Nguyên Nghiêm vào đây cho ta!

Thái tử vốn sợ chuyện vừa rồi của mình với Trần phu nhân không biết ra sao, nên vẫn còn ở trong cung để nghe ngóng. Thấy Văn Đế cho gọi Liễu Thuật cùng Nguyên Nghiêm mà không gọi Dương Tố, thì đoán ngay việc không xong rồi, vội vàng tìm ngay Trương Hành, Vũ Văn Thuật, bàn bạc kế sách đối phó. Gặp lúc cả bọn đang tụ tập một nơi, thấy Thái tử hoảng hốt tới, cả bọn túm lại hỏi duyên cớ. Nghe xong, Vũ Văn Thuật lên tiếng:

- Chuyện này thì cũng chỉ một sớm một chiều phải xong thôi, gấp lắm rồi. Cái bọn Liễu Thuật này, chúng ỷ thế Lan Lăng công chúa, lại mang danh trọng thần, không bao giờ thèm để mắt đến trăm quan, nhất định sẽ tìm cách sát hại Thái tử, nên làm thế nào cho tốt bây giờ?

Trương Hành đáp:

- Bây giờ có một kế phải làm ngay tức khắc. Nhưng thành bại hoàn toàn phụ thuộc vào nhà vua, chứ không đụng chạm gì đến Thái tử cả.

Đang nói thế, thì thấy Dương Tố vội vàng chạy tới thưa:

- Không rõ điện hạ làm gì xúc phạm đến thánh thượng, mà giờ thánh thượng gọi Liễu Thuật cùng Nguyên Nghiêm vào, bảo mau thảo chiếu, gọi Thái tử Dương Dũng vừa bị phế về triều. Chỉ cần chiếu viết xong, sẽ cho ngay quân hổ bôn đi Trường An. Y mà về đây, thì tất cả chúng ta đều là kẻ "cừu gia tử đệ" làm thế nào bây giờ?

Thái tử đáp:

- Trương Hành đang định đoạt mưu kế rồi!

Trương Hành ghé tai Dương Tố nói nhỏ mấy câu. Dương Tố nghe xong tính toán:

- Cũng không thể không làm thế được. Những việc này xin mời ngài Trương đi lo cho ngay. Chỉ sợ Liễu Thuật, Nguyên Nghiêm đã đưa được Thái tử Dũng bị truất ngôi về, thì sẽ lắm chuyện rắc rối. Cái này thì phải nhờ Vũ Văn tiên sinh, cùng với Thái tử giả một đạo thánh chỉ, vu cho hai gã Liễu Nguyên tội phản nghịch, đáng ngồi trong ngục Đại Lý tự, lại cũng giả thánh chỉ, tạm thời giải tán đội quân túc vệ, sai Quách Diễn lĩnh quân của Đông cung Thái tử giữ các nơi hiểm yếu trong nội cung, nhất định không cho người ngoài vào, cũng không cho một kẻ nào ở trong cung ra để đưa tin tức. Cần phải phái ngay một người đi Trường An, tìm cách giết Thái tử đã bị phế, để tuyệt hẳn sự trông ngóng của mọi người.

Nghĩ một hồi, Dương Tố lại tiếp:

- Việc này tốt hơn cả là nên sai chú em ta là Dương Ước, Ước vốn ở Doãn Châu lên đây, sai đi làm việc này nhất định là xong.

Trương Hành lại nói:

- Tiểu đệ vốn tay chân học trò, sợ việc không đương nổi, xin Dương bộc xạ lão thần giúp cho một tay mới nên.

Thái tử động viên:

- Trương Hành không nên chối từ, có phúc cùng hưởng. Ta có mấy tay nội thị rất được việc, xin đưa đến tùy ý sai phái.

Dương Tố cùng Thái tử quay về điện Thúc Bảo. Vũ Văn Thuật kéo theo cờ hiệu lẫn binh lính, đón đường bắt Liễu Thượng thư lẫn Nguyên Thị Giang, trói lại, giam vào Đại Lý tự, rồi trở về điện Thái Bảo tâu lại Thái tử.

Quách Diễn đem lính của Đông cung, thay thế cho quân túc vệ, lấy cờ hiệu của Đông cung, trấn giữ các nơi. Lúc này Văn Đế nửa thức nửa ngủ , hỏi :

- Liễu Thuật đã viết xong chiếu chưa?

Trần phu nhân thưa:

- Tâu bệ hạ, vẫn chưa mang trình.

Văn Đệ phán:

- Chiếu chỉ viết xong, sai ngay Liễu Thuật, phi ngựa có đội hổ bôn đi kèm, đem chiếu chỉ đi!

Trong lòng Văn Đế vẫn còn tức tối chưa nguôi, thì thấy bên ngoài vào tâu, Thái tử sai Trương Hành vào hầu. Lúc này Trương Hành chẳng còn chờ lệnh vua, kéo theo hơn hai mươi nội giám, rầm rập tiến vào, ra lệnh cho bọn nội thị đứng hầu:

- Đông cung Thái tử truyền chỉ rằng: các ngươi ngày đêm phục dịch vất vả, cho ta đem theo bọn nội giám này đến thay thế các ngươi. Cả các cung nữ đang túc trực bên long sàng cũng vậy. Thái tử sai nội thị đến trông nom, các ngươi tạm thời về nghĩ lúc nào cần đến, sẽ gọi sau.

Bọn cung nữ cùng nội thị, vì đã lâu phải phục dịch vất vả, ít ngày được nhàn rỗi, nay nghe lệnh thế, ùa nhau bỏ đi. Chỉ còn hai phu nhân Trần, Sái vẫn đứng cạnh long sàng túc trực. Trương Hành đến gần long sàng, thấy Văn Đế yên lặng, như tỉnh như mê, Trương Hành cũng chẳng chào, chẳng vái, cũng chẳng thèm lấy vẻ từ tốn, nói với hai phu nhân:

- Hai vị phu nhân, xin hai vị tạm lánh cho!

Trần phu nhân đáp:

- Sợ thánh thượng có cần gì chăng?

Trương Hành đáp liền:

- Đã có ta ở đây. Xin phu nhân lui ra để hoàng thượng tĩnh dưỡng.

Cả hai phu nhân, mắt đẫm lệ, không còn biết nói sao, đành phải đi ra, tìm một phòng gần đó ngồi. Khắp nơi trong cung, bọn nội thị trông coi, không cho ai ra vào. Hai phu nhân dù có lo lắng đến đâu cũng chỉ còn cách sai cung nữ đứng ở cửa ngoài nghe ngóng mà thôi.

Một lúc sau, Trương Hành đã nghênh ngang đi ra nói lớn:

- Hỡi các vị nội giám, cung nữ, hoàng thượng đã băng hà. Xin các vị hãy giữ kín, canh gác nghiêm ngặt, đừng vội báo cho Thái tử, cùng mọi người bên ngoài biết vội.

Lại cấm tất cả thân thích, cung nữ không được khóc lóc, đợi trình Thái tử xong sẽ cử ai phát tang. Bây giờ cung nữ, phi tần đều nghi hoặc, riêng Trần phu nhân trong lòng thầm nghĩ: "Rõ ràng là Thái tử sợ hoàng thượng hại mình, cho nên "tiên hạ thủ vi cường", ra tay trước thì mới giành được thế mạnh. Những chuyện này đều do ta mà sinh ra cả, Thái tử đang tâm giết cha mình, khó mà nói Thái tử có tha cho ta không, gặp phải kẻ độc ác đến thế, chi bằng tự tử quách thì hơn. Hoàng thượng vì ta mà chết, ta cũng vì hoàng thượng mà chết. Thế là đúng hơn cả". Nhưng rồi lại không dám làm gì cả.

Nhẹ tênh chẳng kém Triệu Phi Yến(1)

Cứng rắn e thua Ngu Mỹ nhơn. (2)

1 Triệu Phi Yến: Vợ vua Thành Đế nhà Hán, rất được vua yêu, người rất nhẹ, có thể đứng trên tay người khác mà vừa hát vừa múa.

2 Ngu Mỹ nhân: vợ Hạng Vũ, cả hai bị quân Lưu Bang vây rất gấp ở sông Ô. Hạng Vũ trù trừ không muốn phá vòng vây vì không muốn bỏ Ngu Cơ. Ngu Cơ cầm kiếm tự tử, để Hạng Vũ quyết chí! Nhưng cũng chẳng hơn gì!

Lại nói bọn Thái tử Dương Quảng, cùng Dương Tố, lúc này ngồi ở điện Thái Bảo, cũng chẳng khác gì lũ kiến ngồi trong chảo rang nóng, chờ mãi vẫn chẳng thấy tin tức gì. Mỏi mắt mới thấy Trương Hành tới, vội vội vàng vàng bước vào thưa:

- Xin có lời mừng Thái tử cùng bộc xạ, việc lớn đã xong xuôi cả. Nhưng chỉ xin Thái tử làm thế nào để mọi người thấy không có gì khác thường.

Thái tử thấy Trương Hành nói thế đang vui vẻ bỗng quay sang buồn rầu. Vội lục giấy tờ, ghi những công việc dự định đã bàn với Dương Tố, giao lại cho Dương rồi nói:

- Những việc này xin nhờ Dương bộc xạ cùng Trương Hành lo liệu cho. Ta phải đi đây!

Dương Tố nghe Thái tử sai khiến, liền làm hàng loạt lệnh chỉ. Lệnh cho Doãn Châu thứ sử Dương Ước sau khi đi Trường An công cán xong xuôi, không cần phải về Đại Thọ cung phục chỉ, mà ra làm Kinh triệu phủ doãn, nắm quyền cai quản kinh thành tức khắc. Lương Quốc Công Tiêu Cử, vốn là em ruột của Tiêu Phi giữ chức Đề Đốc kinh sư thập môn: Quách Diễn lãnh thư tả lãnh vệ Đại tướng quân, cai quản lính tráng, ngựa xe ở kinh thành; Vũ Văn Thuật thăng tả lãnh vệ Đại tướng quân, cai quản quân túc vệ trong cung kiêm việc hộ tùng xa giá nhân mã; Phò mã Vũ Văn Sĩ Cập quản lãnh các cung điện ở kinh đô, cùng với Vũ Văn Khải quản lý các việc ở Tự Cung; Đại phủ thiếu khanh Hà Điều, quản lý sơn lăng, Hoàng môn thị lang Bùi Cử, Nội thị lang Ngu Thế Cơ, coi sóc việc tang lễ, Trương Hành xung làm Lễ bộ thượng thư, lo việc tức vị đăng quang của vua kế nghiệp.

Không nói chuyện bận rộn của bọn Dương Tố, hãy nói chuyện Thái tử, thấy Trương Hành nói vậy, lập tức trở ra chuẩn bị mọi việc. Sai tả hữu lấy một cái hộp nhỏ bằng vàng kín đáo bỏ vào hộp một vật gì đó, đóng kỹ hộp, bên ngoài lấy lụa điều gói chặt, rồi lại bỏ vào trong một cái hộp lớn hơn, viết chữ lên, đóng dấu cẩn thận, sai một viên nội thị, đem vào ban cho Trần phu nhân, dặn phu nhân phải tự tay mình mở ra. Nội thị vâng mệnh, vội đem vào nội cung.

***

Lại nói Trần phu nhân, từ lúc bị Trương Hành bức trở về hậu cung, sau đó nghe tin vua băng, trong lòng mười phần lo sợ, khóc lóc liên miên, chẳng hề ăn ngủ, nay lại thấy nội thị đến dâng trình hộp vàng:

- Tân đế ban cho phu nhân cái hộp này, sai kẻ hầu này đem tới Xin phu nhân tự mở xem.

Rồi cung kính đặt hộp lên bàn. Phu nhân trông qua, trong lòng vô cùng lo sợ, không dám mở, bèn hỏi nội thị:

- Bên trong có phải thuốc độc không?

Nội thị thưa:

- Hộp này tân đế tự tay đóng gói, kẻ hầu này không thể biết được. Xin nương nương cứ mở ra là biết ngay thôi mà!

Phu nhân thấy nội thị chối không biết, lại càng tin là độc dược, trong lòng đột nhiên đau quặn, nước mắt như suối tràn, lên tiếng khóc rống:

- Thiếp từ lúc nước mất, bị bắt làm nô tỳ, những tưởng không sống nổi, khi phải kéo lê thân trói buộc hết dặm dài ngắn, may được tiên đế yêu thương, tưởng kiếp này gặp đại phúc. Nào ngờ hồng nhan bạc phận, chuyển thành chuyện tai họa dường này. Chẳng thà lưu lạc nơi dân dã, may còn được bảo toàn tính mạng.

Vừa nói vừa khóc, rồi lại tiếp:

- Thiếp đội ơn tiên đế rất trọng, nay có thác xuống tuyền đài, thật cũng cam tâm. Những việc vừa qua, thiếp không có gì lắt léo, cũng chẳng làm điều gì xúc phạm đến tân đế, không hiểu sao lại có chuyện ban cho độc dược này?

Nói xong lại khóc. Bọn cung nữ cũng tưởng là hộp độc dược, nên tất cả đều khóc, kẻ to người nhỏ. Nội thị thấy thế, sợ xảy ra chuyện gì ầm ĩ thì lôi thôi đến mình, nên giục phu nhân:

- Phu nhân khóc cũng vô ích, xin cứ mở ngay hộp ra, nhìn cho kỹ, xem có độc dược không? Kẻ hầu hạ này còn trở về phục chỉ.

Phu nhân bị thôi thúc không biết làm thế nào. Chỉ còn cách thốt thêm một câu than vãn:

- Hôm nay là kết quả của thân này chăng?

Rồi chùi nước mắt mở các lớp giấy lụa gói ra, nhẹ nhàng mở hộp vàng nhỏ ở bên trong, nhìn thật chăm chú, thì chẳng thấy thuốc độc đâu cá mà chỉ là mấy giải lụa ngũ sắc, kết thành một quả đồng tâm. Bọn cung nữ trông ra, nhất loạt vui mừng:

- Mừng nghìn mừng vạn rồi phu nhân ơi! Khỏi chết rồi? Khỏi chết rồi!

Phu nhân thấy không phải độc dược, lòng cũng bớt lo sợ, biết ngay rằng Dương Quảng cũng chưa thể quên mình, trong lòng cũng không thật thanh thản. Cũng không cầm giải đồng tâm, cũng không làm lễ tạ ơn, quay người đi vào, ngồi im lặng trên giường, không nói một lời. Nội thị lại thôi thúc:

- Tân đế chờ đã lâu rồi, kẻ hầu hạ này phải trở về hồi chỉ, xin phu nhân mau làm lễ tạ ơn đi cho.

Phu nhân vẫn ngồi cúi đầu không đáp một lời, bọn cung nữ khuyên giải:

- Phu nhân hãy mau ra làm lễ cho, tân đế chờ lâu, sinh tức giận. Nay tân đế đã không ghét bỏ, lại còn ban giải đồng tâm thế này, thật là trăm phần hãnh diện. Sao lại còn lưỡng lự, đắn đo. Tân đế biết được, nổi cơn tức giận, thì phu nhân lại phải quay lại khóc như vừa rồi ngay. Xin phu nhân hãy mau ra tạ ơn cho!

Tả thôi hữu thúc, phu nhân không biết làm thế nào, chỉ đành thở dài mà than:

- Những nỗi hổ thẹn trong cung kín, ta đã biết là khó tránh khỏi! (1)

1 Kinh thi: "Trung cấu chi ngôn", nghĩa là lời nói trong phòng kín, trong chỗ vợ chồng, Trần Phu nhân nói: "Trung cấu chi tu ngã tri nan văn!".

Rồi gượng đứng dậy, lấy giải đồng tâm ra, đặt trên bàn, cùng với hộp vàng, vái luôn mấy cái, xong rồi lại quay về giường ngồi như cũ. Nội thị thấy giải đồng tâm đã được lấy ra, liền cầm lấy hộp không về phục chỉ. Chuyện không nói nữa.

Trần phu nhân tuy nhận giải đồng tâm, nhưng trong lòng buồn bã không vui, ngồi lặng một hồi, rồi quay ra giường ngủ. Bọn cung nữ không dám tỏ lời khuyên can gì nữa, chỉ sợ không biết lúc nào tân đế sẽ đến, cho nên cả bọn đều ra sức thu dọn, quét tước sạch sẽ, ngăn nắp, đốt long diên hương trong lò vàng, căng màn thuỷ mạc, kéo giải rèm ngọc. Chẳng bao lâu, mặt trời đã về tây, rồi trên trời đã xuất hiện vầng trăng tròn đầy, thì thấy tân đế cùng mấy cung nữ cầm mấy cái đèn lồng làm bằng lụa trắng, lặng lẽ tới tìm Trần phu nhân. Trong cung thấy tân đế tới, vội vàng vào giường bẩm với phu nhân. Phu nhân trong lòng buồn rầu, vừa mới chợp mắt, bị cung nữ lay dậy, giục rối rít:

- Tân đế tới rồi! Mau dậy nghênh tiếp đi phu nhân! Tân đế tới rồi!

Phu nhân mơ mơ màng màng, vẫn chưa dậy ngay, đã bị cung nữ đỡ dậy, đẩy ra nghênh tiếp tân đế. Vừa bước xuống thềm, tân đế đã đứng trên điện. Phu nhân trông lên, trong lòng vừa thẹn vừa buồn, nhưng đã đến lúc như thế này, làm thế nào mà chống cự cho được, phu nhân đành cúi sát đất khe khẽ thưa:

- Vạn tuế!

Tân đế vội kéo dậy. Đêm hôm ấy, tân đế ngủ lại trong cung Trần phu nhân.

Tháng bảy năm ấy, làm lễ táng Văn Hoàng đế, mọi việc chuẩn bị xong xuôi. Dương Tố theo hầu tân đế, mặc đồ tang vải gai, làm lễ cử ai, phát tang ở Tử cung. Quần thần đều mặc tang phục các ban thứ lần lượt đứng túc trực. Sau đó tân đế thay cát phục, bái cáo trời đất tổ tiên, đội mũ vương miện vào lên ngai vàng. Quần thần cũng đã thay tang phục bằng triều phục, lần lượt vào làm lễ mừng. Bất ngờ lúc tân đế lên ngai vàng, cũng không rõ là do quá mừng rỡ, hay quá hoảng loạn, hoặc có quỷ ám trong người, lòng không yên ổn, nên lên đến trước ngai vàng, tinh thần hoảng hốt, tay chân luống cuống, ngai vàng lại cao, vừa giơ một chân bước lên, còn đang bước tiếp, thì ở dưới thềm vàng, đội nghi vệ nổi ba tiếng trống để bắt đầu tấu nhạc. Lòng đang không yên, bỗng nghe tiếng trống, bước chệnh choạng, một chân vấp mạnh, đảo điên như muốn ngã lăn ngay. Dương Tố đứng ngay cạnh thấy mất cả vẻ tôn nghiêm, vội vàng chạy lên. Tuy đã nhiều tuổi, nhưng xuất thân võ tướng, sức lực vẫn còn, chỉ vài bước, một tay đã đỡ được tân đế, tay kia theo đó, nhẹ nhàng kéo tân đế lên ngai vàng, rồi vội vàng quay trở xuống, dẫn dầu trăm quan, tung hô vạn tuế.

Chính là:

Đừng tưởng trên đời dễ ác gian

Lòng trời vốn ghét kẻ vô nhân

Mười năm thiên tử tuy là số

Trời hại bao lần có biết thân.

Tân đế ngồi trên ngai vàng hồi lâu, tinh thần ổn định trở lại, lại thấy trăm quan chúc mừng, biết không có chuyện gì đáng lo, lòng càng yên ổn. Liền truyền chỉ một mặt sai các quan đi các vương phủ, châu, trấn báo tang, một mặt chiếu chỉ lên ngôi, để báo cáo trong ngoài: sang năm lấy làm năm Đại Nghiệp thứ nhất, thăng thưởng cho bá quan văn võ, trước hết là các quan "tòng long" (1), sau mới đến các quan dương triều, khao thưởng các quan quân ở biên trấn, đại xá thiên hạ, ban gấm lụa cho các bậc lão thọ.

1 Tòng long, những kẻ theo, có công với nhà vua từ lúc chưa được lên ngai vàng.

Ngoài ra, Dương Tố, Vũ Văn Thuật, Trương Hành vừa được thăng chức, vừa được ban thưởng, đều là chuyện không cần nói tới.

Lại truy phong Thái tử Dương Dũng đã bị phế làm Phòng Lăng Vương, để che đậy việc chính tân đế đã giết hại anh mình. Lúc này ở trong triều, trong cung thì có bọn Dương Tố trông coi, ở Trường An thì có Dương Ước trấn áp, cả triều đình đều mừng rỡ vì đã không xảy ra một biến cố lớn nào. Nhưng ở trăm họ, dân chúng thì đồn ầm chuyện giết cha, hại anh để chiếm ngôi cao, chẳng còn gì nữa đạo lớn: quân thần, phụ tử, huynh đệ. Cái gốc đã mất, thì làm sao có thể yên, máu mủ trăm họ, đâu chỉ một cành một lá, thói hoang dâm vô đạo cũng không chừa, thì làm sao có thể tránh được chuyện trời nổi cơn thịnh nộ. Dân hết lòng oán giận, dẫn tới họa nước mất, nhà tan.

Chẳng biết tân đế còn làm những chuyện gì, xin xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi Thứ Hai Mươi

Hoàng hậu đội lốt cung nga, mua ân bán ái,

Quyền thần buông lời ủy mị, đất diệt trời tru.

Thơ rằng:

Vườn ngô tràn cỏ rậm

Lầu Việt ngập cáo cầy

Thuyền lan không đậu bến Cô Tô

Chức nữ lỡ dịp cầu ô thước

Cát vàng đục

Dâu bãi tàn

Hây hây một phấn má đào

Hỏi rằng bóng dáng ra vào nơi nao?

Vần trăng ngơ ngác nhạt màu

Vô tình chiếu cảnh chim âu nước bèo

Tan tan hợp hợp bởi đâu?

Theo điệu "Vu sơn nhất đoạn vân"

Sao sa, chớp giật, vốn là những thứ ngắn ngủi trên đời, nhưng còn ngắn hơn nữa là má đào, là tóc xanh. Trong vòng bảy mươi năm đời người, da hồng tóc xanh, liệu được mấy năm, dẫu là Phan Phi của Đông Hôn Hầu, mỗi bước lại nở một bông sen vàng (1), hoặc người đẹp như cây ngọc ở hậu đình của Trần Hậu Chủ, tính xem được bao ngày. Nếu đem so với thế lực nghiêng trời của bọn gian thần một thuở hung ác sáng ra hết đời, chỉ trong khoảnh khắc còn gì nữa đâu? Thì phải chăng cũng chẳng khác gì má hồng tóc xanh vậy thôi. Cũng một đường như nhau cả, sớm nở chiều phai.

1 Phan Phi: theo "Nam sử" thời Tề, Đông Hôn Hầu có người vợ yêu là Phan Phi rất đẹp. Đông Hôn Hầu sai người làm hoa sen bằng vàng, giát xuống nền nhà. Mỗi lần nhìn Phan bước trên hoa, Đông Hôn Hầu khen: "Một bước lại nở một bông sen vàng".

***

Lại nói Tùy Dượng Đế từ khi lên ngôi báu, hễ cứ thoái triều, lại về ngay Tuyên Hoa cung, mặc sức hưởng lạc tìm vui, cứ thế kéo dài hàng tháng trời. Ban đầu Tiêu hậu ở Đông cung, vốn lâu nay sắt cầm hòa hợp, chẳng mấy khi cách mặt ân ái mặn nồng, nay được lập làm hoàng hậu, thì lại bị ghẻ lạnh. Tiêu Hậu lúc đầu cũng nghĩ Dượng Đế đang có tang thượng hoàng, nên giữ lễ ở riêng một chỗ, sau điều ra tiếng vào, biết rõ chuyện Dượng Đế ngày đêm mặc sức dâm đãng ở Tuyên Hoa cung, thì nổi giận đùng đùng:

- Vừa mới lên ngôi hoàng đế, mà đã dâm loạn như thế, mai này còn đến mức như thế nào mới vừa lòng, toại ý?

Hôm ấy vừa dịp Dượng Đế thoái triều vào cung, Tiêu Hậu túm lấy mà xỉ vả:

- Đẹp mặt hoàng đế chưa, mới lên ngôi được mấy ngày, mà đã vội phụ ngay hoàng hậu này, gian dâm với thiếp của vua cha, nếu làm hoàng đế vài năm nữa, vợ thiên hạ đều bị bệ hạ cưỡng ép tất cả mất thôi?

Dượng Đế đáp:

- Thì cũng là cái hứng nhất thời, hoàng hậu làm gì mà giận dữ ồn ào đến thế.

- Nhất thời với chẳng nhất thời, thiếp cũng chẳng cần bệ hạ. Thiếp chỉ tới bắt nó nhốt vào lãnh cung, không cho gặp nhau nữa, thế là xong. Nếu vẫn còn quyến luyến không rời nhau ra được, thiếp sẽ ban một đạo ý chỉ (1), nói rõ những chuyện xấu xa cho cả trăm quan họ rõ, để xem bệ hạ sẽ ra người như thế nào?

1 Ý chỉ: Lệnh của hoàng hậu. Ý nghĩa là tốt đẹp, đức hạnh dùng để chỉ về hoàng hậu.

Dượng Đế vội vàng khuyên lơn:

- Hoàng hậu không nên nóng nảy, vội vàng quá như vậy. Hãy khoan khoan để ta còn lo liệu nữa chứ!

Tiêu Hậu đáp:

- Còn lo liệu như thế nào nữa. Nếu bỏ nó không được, thiếp sẽ sai cung nhân kéo đến làm nhục nó một hồi, xem nó còn biết xấu hổ nữa không nào?

Dượng Đế vốn vẫn sợ Tiêu Hậu, nay thấy Tiêu Hậu định làm to chuyện như vậy, trong lòng rất hoang mang, đành phải đứng dậy van nài:

- Hoàng hậu nói nhỏ thôi. Chờ trẫm nói cho Tuyên Hoa rõ, rồi tự Tuyên Hoa tìm đường khu xử, trẫm sẽ quay lại đây, chịu tội với hoàng hậu.

Tiêu Hậu đáp:

- Nói với nó thế nào thì mặc bệ hạ. Có quay lại đây nữa không cũng tùy bệ hạ. Còn thiếp có cách đối phó của thiếp.

Những lời qua tiếng lại này giữa Dượng Đế cùng Tiêu Hậu, lập tức có người báo cho Tuyên Hoa phu nhân. Phu nhân nghe ra, khóc lóc thảm thiết, thì thấy cung nữ báo Dượng Đế tới. Tuyên Hoa chỉ đành nuốt nước mắt, cúi đầu ra nghênh tiếp. Dượng Đế lại gần nhìn kỹ, thấy mặt ủ mày chau, ngấn nước mắt vẫn còn, mới nói:

- Vừa rồi trẫm cùng hoàng hậu nói chuyện, có lẽ phu nhân cũng đoán được ít nhiều. Nhưng trẫm đã có chủ ý, hãy cứ thử xem hoàng hậu định làm gì đã. Trầm nghĩ hoàng hậu cũng không nhẫn tâm hành hạ phu nhân đâu.

Tuyên Hoa thưa:

- Thiếp vốn xuất thân ty tiện, năm xưa đã từng đắc tội với tiên đế nay lại làm khổ bệ hạ. Dẫu có chết cũng đã đủ tội rồi. Nay chỉ xin bệ hạ theo đúng ý chỉ của hoàng hậu, đem thiếp nhốt vào lãnh cung, cho đến lúc bạc tóc trong ngạch cửa, chỉ có thế mới là kế lâu dài được.

Dượng Đế than thở:

- Tình nặng nghĩa dày là trọng, còn sinh tử là chuyện khó bàn. Trẫm cùng phu nhân, cuộc vui tuy chưa dài, nhưng ân tình cũng sâu tựa biển. Nay trẫm với phu nhân dẫu chỉ được sống với nhau như vợ chồng dân thường, trẫm cũng cam lòng, chứ làm sao trẫm có thể nhẫn tâm cắt ái đoạn ân, lòng nào mà bỏ phu nhân cho được!

Tuyên Hoa níu lấy Dượng Đế khóc lóc rất bi thương, rồi lại van lơn:

- Thiếp không phải tính ương ngạnh. Nhưng nếu quá ham muốn chuyện này, sẽ làm hỏng cả tiếng tăm của bệ hạ. Thiếp nhớ tới chuyện cung nữ Uất Trì của tiên đế ngày nào, chỉ sợ lại dẫm phải vết của người xưa. Lại thêm chuyện giận dữ của hoàng hậu sáng nay, thiếp sợ lại sẽ không còn đất chôn, bệ hạ hãy tính kế trước cho thiếp nếu cứ ngồi chờ, sợ hối không kịp vậy!

Nghe Tuyên Hoa nói đến đây, Dượng Đế lại than thở:

- Nghe những lời của khanh, khanh oán hận tình của trẫm quá mỏng manh, nhưng nhìn cho thật rộng lượng, mới thấy lòng trẫm thật đớn đau, chua xót.

Rồi sai một bọn thái giám, ra cung Tiên Đô ở bên ngoài quét dọn sạch sẽ, đưa Tuyên Hoa phu nhân ra đó, các thứ chi dùng, ty giám cứ theo lệ cũ mà cấp đầy đủ. Hai người vốn đang sắt son gắn bó, một sớm phải xa nhau, nói rồi lại nói, nhìn rồi lại nhìn. Dượng Đế không nỡ chia tay, nhưng Tuyên Hoa cố từ tạ nhiều lần, Dượng Đế mới cho ra khỏi cung nội để đến Tiên Đô cung.

Chính là:

Tử biệt thường ấm ức

Sinh ly những nghẹn ngào

Thân em gió dạt sóng dào

Luống đem nhan sắc gán vào hợp tan.

Tùy Dượng Đế từ khi Tuyên Hoa ra đi, ngày đêm như tỉnh như mê, thở ngắn thở dài, chợp mất là mộng thấy Tuyên Hoa bên cạnh. Tiêu Hậu thấy tình trạng Dượng Đế đến thế, nghĩ rằng có ngăn cấm càng thêm nguy hại, bèn lựa lời thưa với Dượng Đế:

- Thiếp cũng vì muốn giữ tình phu phụ, nên mới khuyên bệ hạ bỏ Tuyên Hoa, không ngờ bệ hạ quyến luyến đến như thế, thế thì sợ thiếp lại ra người ghen tuông ác nghiệt, chia rẽ Sâm Thương. Chính ý thiếp là muốn gắn bó hơn mà việc làm lại hóa ra càng xa cách. Chi bằng bệ hạ truyền chỉ, triệu Tuyên Hoa về cung, sớm tối bỏ lòng khát khao của bệ hạ, thiếp cũng lại được thấy mặt rồng hớn hở vậy. Như vậy có phải cả hai cùng vui vẻ hay sao?

Dượng Đế cười đáp:

- Nếu quả như thế, hoàng hậu còn hiền đức hơn cả người xưa. Chỉ sợ hoàng hậu nói đùa cho vui vậy thôi!

Tiêu Hậu khẳng định:

- Thiếp làm sao lại dám đùa bệ hạ!

Dượng Đế cả mừng, thế này thì cần phải chờ đợi gì nữa, sai ngay nội giám, phi ngựa triệu Tuyên Hoa về cung.

***

Lại nói Tuyên Hoa từ ngày ra khỏi cung cấm, lòng chẳng còn mong có ngày sẽ được vua yêu, cho nên cũng chẳng nghĩ gì đến chuyện tô mặt vẽ mày, suốt ngày sống trong an nhàn tự tại. Hôm ấy bỗng thấy nội giám đem thánh chỉ truyền triệu vào cung. Tuyên Hoa bèn nói với sứ giả:

- Thiếp ơn thánh thượng được cho ra ngoài này, cũng như hoa rơi nước chảy, sao lại có chuyện trở về này được. Ngài hãy vì thiếp mà từ tạ với thánh thượng.

Nội giám thưa:

- Chúa thượng trong cung, đã có chỉ tuyên triệu phu nhân, một giờ một khắc cũng không thể chậm, kẻ hầu này làm sao dám tay không mà trở về phục chỉ cho được!

Tuyên Hoa nghĩ ngợi hồi lâu, rồi lên tiếng:

- Thiếp có cách cư xử rất tốt rồi!

Rồi lấy một tờ hoa tiên, viết một bài từ, đọc đi đọc lại, gấp thành hình một bông hoa xinh xắn, rồi giao cho nội giám:

- Hãy vì thiếp mà cầm cái này về tạ chúa thượng!

Nội giám không dám ép nài, chỉ còn cách cầm bài từ về trình lên Dượng Đế. Dượng Đế vội vàng mở ra xem, thì là một bài "Trường tương tư" như sau:

Hồng đã thưa

Biếc đã thưa

Đa tạ gió xuân nắng tình đưa

Hoa tàn khó như xưa

Đắc sủng ngờ

Thất sủng ngờ

Trông mặt hội vui mấy thuở giờ

Mãi xót xa đợi chờ.

Dượng Đế xem xong cười nói:

- Phu nhân lại sợ ta bỏ phu nhân. Nhưng nay hoàng hậu đã có lời như thế, ai còn nỡ bày chuyện chia ly nữa mà lo lắng mãi.

Rồi cũng sai tả hữu lấy văn phòng tứ bảo, theo bài từ của Tuyên

Hoa mà họa lại nguyên văn như sau:

Mưa không thưa

Móc không thưa

Xin hóa gió xuân sớm chiều đưa

Hoa cỏ tốt như xưa

Ân chẳng ngờ

Ái chẳng ngờ

Ngày đêm hội ngộ chẳng đợi chờ

Sống chung đến bao giờ.

Dượng Đế viết xong, cũng gấp thành một bông hoa, giao cho nội giám đem đi. Tuyên Hoa đọc bài từ này, thấy tình của Dượng Đế vẫn còn nồng nàn, không tiện từ chối nữa, lại vẽ lại mày ngài, tô lại má phấn, trèo lên hương xa vào cung. Dượng Đế khác nào như sống lại, cùng Tuyên Hoa tìm đến Tiêu Hậu, Tiêu Hậu trông thấy, trong lòng tất cũng không thoải mái, nhưng vì hiểu rõ tính tình Dượng Đế, nên làm ra vẻ bao dung, vui vẻ cả cười, sai sắp yến tiệc để chúc mừng hội ngộ. Chính là:

Gió xuân năm mới đẹp vô ngần

Ấm áp lâu dài, sạch bụi trần

Ngõ cũ chàng Tiêu nay gặp lại (1)

Thiên Thai Lưu Nguyễn mãi tương thân (2)

1 Toàn Đường thi thoại: Thôi Giao có người thiếp yêu bị bắt bán cho tướng

Liêu. Thôi làm thơ: "Cửa tướng đã vào thì sâu tựa biển, từ đấy chàng Tiêu chỉ là khách qua đường ". về sau, tướng liêu biết chuyện, cho hai người đoàn tụ.

2 Thần tiên ký: Lưu và Nguyễn vào núi Thiên Thai hái thuốc, lạc đường kết duyên với hai nàng tiên sổng rất hạnh phúc.

Từ đấy Dượng Đế cùng Tuyên Hoa sớm chiều hoan lạc, so với trước đây ngày càng đậm đà. Chưa đầy nửa năm, ai hay trăng tròn khuyết bất thường, hoa đẹp dễ tàn, hồng nhan bạc phận, Tuyên Hoa bị bệnh mà mất. Dượng Đế đau đớn, lệnh cho Hiếu ty làm lễ tang rất trọng thể rồi suốt ngày ủ rũ, tỉnh tỉnh mê mê, mi sầu mắt lệ, Tiêu Hậu khuyên giải:

- Người chết chẳng sống lại được. Bi thương thế cũng chẳng ích gì. Sao bệ hạ không tuyển lấy một người đẹp khác trong hậu cung, để lấp nỗi nhớ thương, quên bao sầu não đi.

Dượng Đế đáp:

- Hậu cung toàn những phấn thừa hương thải, làm sao mà tuyển được?

Tiêu Hậu cãi:

- Ngày trước Tuyên Hoa cũng tuyển từ hậu cung mà ra. Nếu chẳng được thì xem là một trò tiêu khiển cho vui cũng chẳng sao.

Dượng Đế nghe theo lời Tiêu Hậu, truyền chỉ các cung viện lớn nhỏ, tần phu, phái nữ đều phải đến cung hoàng hậu để dự tuyển lựa. Lúc này các cung nga tha hồ chải lại tóc mây, thêm lớp phấn dồi, kéo nhau đến cung hoàng hậu, Dượng Đế cùng Tiêu Hậu, ngồi giữa chính điện, lần lượt gọi các cung nữ lại gần trước mặt, vừa cùng uống rượu, vừa cùng tuyển chọn, đúng là "quan ư hải giả, nan vi thủy!"(1). Tuy là hoa xếp thành đội, liễu bày thành hàng, tuyển đi tuyển lại, chẳng

1 Cổ thi, câu thứ hai là "Trứ khước Vu Sơn bất thị vân" nghĩa là: "Từng xem bể cả khôn làm nước; chỉ ở Vu Sơn mới thật mây" .

thấy đâu quốc sắc thiên hương, hoa nhường nguyệt thẹn. Dượng Đế lại ủ rũ mặt mày, than vãn:

- Tuyển cả bầy thế này mà toàn mệt mỏi vô ích. Làm sao mà có được dung mạo, thiên tư quốc sắc như Tuyên Hoa phu nhân cho được!

Bèn ra lệnh ngừng tuyển, cung nữ ồn ào một lúc rồi ai đi về cung ấy.

Tiêu Hậu bàn:

- Xin bệ hạ đừng phiền lòng, hãy uống vài chén, chờ thiếp tự vào các cung tìm xem, xin vì bệ hạ tìm kỳ được người đẹp vừa ý về mới thôi.

Dượng Đế hỏi:

- Ở đây tuyển thế này còn chẳng ra, hoàng hậu còn làm khổ mình làm gì?

Tiêu Hậu thưa:

- Sao bệ hạ chẳng hay nghe rằng: từ xưa đàn bà có sắc đẹp khác thường, tất cũng thường cao giá tự trọng, sẵn sàng yên tâm chết già trong cửa, chẳng bao giờ chịu rẻ rúng theo người khác, xếp thành hàng thành đội để dự tuyển lựa bao giờ. Giờ thiếp xin cẩn thận tìm khắp các cung, quyết không bỏ sót, nếu tìm không ra, thiếp xin chịu để bệ hạ phạt ba chén rượu lớn?

Nói xong lập tức lên xe loan đi ra. Dượng Đế cùng mấy gã thái giám ngồi uống rượu, hết chén này sang chén khác chờ Tiêu Hậu.

Thực ra Tiêu Hậu đâu có chịu đi tìm người đẹp ở các cung, mà đi thẳng về cung Trường Lạc, cởi áo ngự ra, tô lại mặt, vẽ lại mày, tết lại kiểu tóc khác, giả dạng cung nữ, trên đầu cài mấy cành hoa long phượng, ba hàng ngọc minh châu rũ thắp thoáng xuống mặt, chọn một bộ y phục cung nữ thật đẹp, xong xuôi đâu đó, sai nội thị đến báo trước cho Dượng Đế. Lúc này nhà vua đã nửa say nửa tỉnh, mà vẫn chưa thấy Tiêu Hậu quay lại, đang định sai người mời về, thì thấy một nội thị đến tâu:

- Hoàng hậu đã tuyển được một cung nhân, sai kẻ hầu này dẫn đến trước để bệ hạ xem qua, hoàng hậu lại sang cung khác để tìm thêm.

Dượng Đế cười phán:

- Hoàng hậu thật vất vả vì ta quá. Chỉ sợ chẳng được việc gì cả!

Lúc này Tiêu Hậu cải trang đã đi đến cửa cung, liền xuống xe loan đi vào, làm ra dáng yểu điệu thướt tha bước lại thềm vàng, cách thềm điện khoảng một tầm tên bắn. Dượng Đế đưa mắt nhìn xuống, thì quả thấy một cung nữ đưa một người đẹp tới, bộ diệu thanh cao dáng hình đài các, y phục trang điểm rực rỡ thanh tân, ngập ngừng muốn bước tới, lại muốn bước lui, cúi lạy trước thềm vàng. Dượng Đế không ngăn được mừng rỡ vội nói lớn:

- Quả nhiên hậu cung còn có được người đẹp như thế này, hãy mau đứng dậy!

Giục giã mấy lần, Tiêu Hậu vẫn còn vờ cúi như cũ. Dượng Đế lúc này háo hức thấy mặt người đẹp, chẳng còn nghĩ gì đến địa vị hoàng đế chí tôn, xuống khỏi ngai vàng, đưa tay kéo dậy, Tiêu Hậu bây giờ mới đứng dậy, nhưng vẫn cúi đầu che mặt. Dượng Đế ghé nhìn chăm chú, rồi cười ha hả:

- Thì ra hoàng hậu. Thật là nghĩ khôn làm khéo. Trẫm lại cứ ngờ rằng để sót mất người đẹp, khổ nổi phải lưu lạc đến giờ.

Dượng Đế kéo tay Tiêu Hậu, cùng lên ngồi trên ngai vàng, rồi phán:

- Ba chén rượu lớn, khanh không chối được đâu!

Tiêu Hậu thưa:

- Thiếp tìm khắp hậu cung, quả chẳng có ai vừa ý. Nhưng vì chót đã hứa, sợ bệ hạ bắt tội, cho nên phải tạm làm xấu, để đẹp lòng bệ hạ, mua một tiếng cười. Cho nên ba chén rượu lớn ấy, xin bệ hạ tha cho!

Dượng Đế đáp:

- Xử như vậy không xong. Trẫm không phạt hoàng hậu đâu, trẫm chỉ phạt người đẹp mới tuyển thôi!

Tiêu Hậu thưa:

- Nếu đúng là người đẹp, sợ bệ hạ lại không nỡ lòng nào mà phạt nữa?

Vừa nói vừa nâng chén rượu mà tiếp:

- Thiếp nghĩ rằng trong cung không có. Nhưng khắp thiên hạ thì nhất định phải có. Bệ hạ nay là chúa của thiên hạ rồi, sao không sai người đi các nơi khác mà tìm kiếm. Lại không có người đẹp gấp mười lần Tuyên Hoa hay sao. Việc gì cứ ngồi không mà phiền não?

Dượng Đế đáp:

- Hoàng hậu nói tuy rất hay, nhưng chỉ sợ đình thần sẽ nhiều người lên tiếng ngăn cản.

Tiêu Hậu đáp:

- Trong đám đình thần, kẻ dám nói dám can rất ít. Người đáng sợ nhất là lão thần Dương Tố mà thôi. Nay nhân có mấy chậu lan đang nở nhiều, ngày mai bệ hạ hãy triệu Dương Tố vào ngự uyển, cho thưởng yến xuân lan, tìm chuyện gợi ý, xem ý tứ Dương Tố ra sao, mà quyết định vậy thôi.

Dượng Đế phán:

- Hoàng hậu nói đúng lắm?

Bàn bạc xong xuôi, một đêm qua đi. Sáng hôm sau, Dương Tố ra ngự uyển, thấy mấy chục chậu lan, chậu cao chậu thấp, đều rộ những hoa.

Chính là:

Thoang thoảng hương tràn lối vắng

Lơ thơ liễu rủ ánh hồ trong.

Dượng Đế vội sai hai nội thị, ra triệu Dương Tố vào ngự uyển.

***

Lại nói Dương Tố từ khi giúp công lập Dượng Đế, cậy mình công lớn, tất cả quyền hành trong triều đều thâu tóm trong tay mình. Sáng hôm ấy, Dương đang cùng đám con hát say sưa ca múa, thấy có thánh chỉ truyền triệu, lập tức lên kiệu vào ngự uyển, qua hồ Thái Dịch, Dượng Đế trông thấy, mời vào điện, miễn lễ, ban cho ngồi. Dương cũng chẳng cần khiêm nhường, chỉ bái một cái, rồi ngồi xuống.

Dượng Đế phán:

- Đã lâu trẫm không thấy khanh, cũng thấy mình sinh bỉ lậu. Hoa lan nở nhiều, liễu xuân khoe tơ bên hồ, hương thơm phủ khắp người, cá lượn mặt hồ, nên mời khanh vào cùng thưởng ngoạn, cùng câu cá mua vui.

Dương thưa:

- Thần nghe rằng: thả chim muông thì lụn bại, nuôi thú dữ thì tiêu vong. Ngày xưa Lỗ Ai Công đứng xem cá ở tiền đường mà sách "Xuân Thu" của Khổng Phu tử chê cười. Vua Thuấn nghe đàn khúc "Nam phong" mà vạn đời sau còn ca ngợi. Bệ hạ mới lên ngôi báu đang chính lúc tràn trề sức lực, xin hãy lấy phép xưa của Nghiêu Thuấn, đừng bắt chước những điều lầm lỗi của Lỗ Ai Công.

Dượng Đế đáp:

- Trẫm nghe ông già ở Bàn Khê, chỉ câu cá mà nên nghiệp nhà Chu tám trăm năm, công nghiệp của khanh liệu có khác gì không?

Dương mặt mày hớn hở thưa:

- Bệ hạ lấy điều đó để ví với hạ thần, hạ thần cũng xin lấy điều đó để đền đáp bệ hạ.

Vua tôi cùng vui vẻ. Dượng Đế liền sai mấy nội thị, chuyển yến tiệc lại gần hồ để xem cá. Cá lớn cá bé lúc nổi lúc chìm, lúc ẩn lúc hiện, sóng nước dập dờn.

Dượng Đế phán:

- Trẫm cùng khanh câu, ai câu được cá trước thì thắng, kẻ thua phạt một chén rượu có được không?

Dương thưa:

- Thánh ý thật hay vô cùng!

Chẳng bao lâu, Dượng Đế giật lên, được một con cá vàng nhỏ khoảng ba thốn. Dượng Đế mừng lắm, nói với Dương:

- Trẫm câu được một con rồi. Khanh nhớ phải uống một chén rượu phạt nhé!

Dương đang chăm chú câu, nói sợ cá nghe không dám cắn câu, nên không trả lời nhà vua, đầu chỉ gật gật ra hiệu, đến khi nâng cần lên vẫn chẳng thấy cá đâu, lại đặt cần xuống chỗ cũ. Một lúc sau, lại thấy Dượng Đế giật lên một con cá vàng nhỏ nữa, Dượng Đế lại giao hẹn:

- Trẫm câu dược con thứ hai rồi. Thế là khanh nợ hai chén nhé!

Dương lại nâng cần lên lần nữa, vẫn chẳng thấy gì. Bọn cung nhân thấy thế, bịt miệng mà cười. Dương mặt đã thấy sắc giận, giọng có vẻ tức tối:

- Loài chim sẻ thì biết sao được chí chim hồng. Xin cứ chờ lão thần trổ tài câu rùa bể, câu kỳ được cá chép vàng. Để rồi bệ hạ uống một chén rượu vạn năm có được không?

Dượng Đế thấy Dương nói những lời đầy vẻ huênh hoang, không còn giữ được lễ vua tôi chút nào, trong lòng không vui, vứt cần câu xuống, sai rửa tay, đứng dậy trở về hậu cung, lửa giận bày rõ ra mặt.

Tiêu Hậu đón vào, hỏi han:

- Bệ hạ cùng Dương Tố đang câu cá, sao lại có vẻ tức giận bỏ về đây?

Dượng Đế đáp:

- Không thể nào chịu được tên giặc già này nữa rồi, vừa kiêu ngạo, vừa vô lễ, mười phần càn rỡ. Trẫm chỉ muốn gọi mấy nội thị giết quách y, mới bỏ lòng căm tức này được.

Tiêu Hậu vội vàng khuyên can:

- Chuyện không thể thế được. Dương Tố là lão thần của tiên triều, lại vừa có công lớn với bệ hạ. Hôm nay triệu vào ban yến mà lại giết, các quan tất không phục. Huống chi Dương Tố vốn là dũng tướng, ở đây chỉ có mấy tên nội thị, mấy đứa cung nhân, làm thế nào mà trấn áp nổi Dương Tố được. Chẳng may việc không xong, cọp xổ khỏi chuồng, quyền binh trong tay, giở thói ngang ngược, xã tắc rồi sẽ ra sao. Bệ hạ muốn trừ Dương Tố, cũng phải tính toán cẩn thận, làm ngay ngày hôm nay đâu có xong.

Dượng Đế nghe xong gật gù:

- Hoàng hậu nói có lý lắm!

Rồi thay áo, lại quay lại hồ Thái Dịch như cũ. Dương vẫn đang ngồi dưới bóng hàng liễu, dáng mặt quắc thước, đẹp lão, râu tóc bạc trắng một màu, gió nhẹ khẽ thổi, vài sợi rung nhè nhẹ, ra dáng tiên phong đạo cốt. Dượng Đế thấy thế, trong lòng lại càng ganh ghét, nhưng vẫn gượng vui vẻ hỏi:

- Từ nãy tới giờ, khanh đã câu được con nào chưa?

Dương thưa:

- Cá hóa rồng, đâu phải lúc nào cũng có được?

Nói chưa dứt lời, nâng cần câu lên. Một con cá chép màu vàng, dễ chừng đến một thước hai ba phân gì đó. Dương vứt cần câu xuống, cười nói:

- "Hữu chí sự cánh thành", có chí ắt làm nên. Bệ hạ thấy tài năng lão thần chưa nào?

Dượng Đế cùng cười đáp:

- Có bề tôi như thế này! Trẫm chẳng còn điều gì phải lo lắng nữa!

Lại sai bày tiệc rượu, quân thần cùng uống. Bỗng thấy nội thị quỳ thưa:

- Tâu bệ hạ! Ngoài cửa cung có người đánh cá ở sông Lạc Thủy, đánh được một con cá chép lớn, có vẩy màu đỏ, dáng rất lạ, không dám bán riêng, nguyện đem dâng bệ hạ.

Dượng Đế lệnh cho mang vào. Một lúc sau ba bốn nội thị, khiêng vào một cái chậu lớn, đặt ngay trước bàn tiệc rượu. Dượng Đế cùng Dương Tố đứng dậy xem xét cẩn thận, thì thấy con cá dài đến năm thước, những chiếc vẩy vàng, vẩy đỏ lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời, Dượng Đế thấy vậy thích lắm, sai đem thả vào hồ. Dương Tố can:

- Cá này trông có vẻ có thần khí, sợ không phải là vật nuôi ở trong hồ. Chi bằng giết quách, có thể miễn được các họa sấm chớp mai sau chăng.

Dượng Đế cười đáp:

- Nếu quả là cá này có phận hóa rồng, dẫu có giết cũng chẳng làm sao mà trừ được tai họa.

Bèn quay ra hỏi tả hữu:

- Cá này có tên riêng không?

Tả hữu thưa:

- Không có !

Dượng Đế sai lấy bút sen, viết lên đầu cá hai chữ "Giải sinh" (1) để đánh dấu, rồi cho thả xuống hồ, và hậu thưởng cho người đánh cá đã đem cá dâng. Tả hữu tiến rượu: quân thần lại làm một chầu nữa, cung nhân hát xong lại múa, múa xong lại hát, lại sai tấu cả loại nhạc khí nhẹ nhàng vừa nghe. Dượng Đế đang định khơi chuyện để dò ý Dương Tố, thì đã thấy tả hữu đem ba con cá chép vàng vừa câu được làm thành gỏi rất tinh tế, lại có cả nước thang hợp với loại gỏi cá này dâng lên bàn tiệc. Dượng Đế thấy thế liền gọi một nội thị lại gần, sai rót một chén rượu lớn, đưa cho Dương Tố:

1 "Giải sinh": cũng như kiểu làm lễ "phóng sinh" ngày xưa nghĩa đen là "thả cho sống".

- Vừa rồi câu cá ta có hẹn rồi. Trẫm may câu được trước. Xin khanh hãy cạn chén rượu này. Thế mới không phụ vị thơm ngon của mấy con cá này vậy!

Dương Tố nhận chén rượu uống cạn. Rồi cũng gọi nội thị rót tiếp một chén rượu lớn, nâng mời Dượng Đế:

- Lão thần này câu được sau, nhưng lại được cá chép vàng lớn, bệ hạ cũng nên uống hết chén này, để mừng công hạ thần.

Dượng Đế cũng uống một hơi cạn, rồi nói:

- Trẫm câu được những hai con. Khanh phải uống thêm một chén nữa mới phải.

Lại sai nội thị rót một chén lớn nữa dâng lên.

Dương Tố đã say đến bảy tám phần, lè nhè phân giải với mọi người:

- Bệ hạ tuy câu được hai con, nhưng không bằng một con lớn của lão thần. Bệ hạ nếu lấy chuyện nhiều ít để ban rượu cho hạ thần, thì hạ thần cũng xin đem chuyện to nhỏ để kính bệ hạ. Hạ thần quả không thể vâng lệnh bệ hạ cho được.

Tả hữu nâng rượu đưa mời Dương Tố, nhưng Dương Tố quyết chối từ, tả hữu không ngờ, lỡ tay làm đổ cả chén rượu xuống bàn, lại làm ướt một đám lớn áo mãng bào của Dương (1), chảy xuống cả bên dưới. Dương đột nhiên nổi giận, lớn tiếng quát tả hữu:

1 Áo bào của vua thêu rồng gọi là long bào. Áo của đại thần thêu rắn lớn gọi là mảng bào.

- Thật là một lũ vô dụng. Đến như thế này, thì làm sao mà ngồi trước mặt chúa thượng, dám khinh rẻ bậc đại thần. Không còn coi pháp độ của triều đình vào đâu nữa.

Rồi ra lệnh:

- Hãy đè chúng ra, đánh cho một trận.

Dượng Đế thấy nội thị làm đổ cả rượu, đã định quát nạt, nhưng Dương Tố lớn tiếng thế, cũng chỉ biết yên lặng ngồi xem không biết ngăn trở như thế nào cho phải. Nội thị không thấy Dượng Đế nói gì, đành phải lôi tên nội thị rót rượu ra, đè xuống, đánh đủ mười hai roi.

Lúc này Dương Tố mới quay lại, thưa với Dượng Đế:

- Cái bọn hoạn quan, cung nữ này thật là đáng ghét. Từ xưa đến nay vốn được các bậc đế vương nuông chiều, nên thường hay làm hư hỏng, đổ vỡ mọi chuyện. Bữa nay chẳng phải lão thần này thô lỗ, mà chính là phải dạy chúng một bài học, để sau này chúng cẩn thận, tử tế hơn, không dám càn rỡ như vậy nữa!

Dượng Đế lúc này vẫn cố nhịn sự tức tối khó chịu trong lòng, một phần cũng vì chuyện tuyển người đẹp trong thiên hạ vẫn chưa thăm dò được ý Dương Tố nên vẫn làm ra bộ vui vẻ mà rằng:

- Khanh vì trẫm mà cai trị thiên hạ bên ngoài. Nay lại vì trẫm mà làm sạch sẽ nơi cung cấm. Đúng là bậc đại thần nhiều công trạng. Xin hãy uống thêm một chén để đền công khó nhọc.

Dương Tố uống luôn mấy chén nữa, lúc này thì đã say cả mười phần, bèn đứng dậy tạ ơn. Dượng Đế sai hai thái giám đưa Dương Tố ra khỏi cung.

Xuống điện, ra đến cửa ngự uyển, bỗng thấy một trận gió lạnh thổi, tràn khắp mặt, sởn da gà, lạnh tận xương, Dương Tố nhìn ra, thì thấy Tuyên Hoa phu nhân tiến lại gần, nhìn thẳng vào mặt Dương Tố mà mắng rằng:

- Dương bộc xạ! Thuở Tấn Vương mưu đoạt ngôi Đông cung, có người mà chưa có ta, có ta cũng bởi do người!

Dương Tố lúc này cũng quên hẳn việc Tuyên Hoa phu nhân đã chết bèn đáp:

- Những chuyện này đã qua rồi. Nay phu nhân còn giở ra làm gì nữa?

Tuyên Hoa đáp:

- Nay chúa thượng sai ta đến đây, là để đòi nhà ngươi xử rõ ràng một án giết người.

Dương Tố hỏi:

- Lão thần vừa được ban yến, không thấy chúa thượng nói gì cả!

Nói chưa hết lời thì, thấy Tùy Văn Đế, đội mũ cửu long, mình mặc long bào, tay cầm phủ việt bằng vàng, ngồi trên xe tiêu dao (1), cản ngay đường trước mặt Dương Tố mà quát:

1 phủ việt: búa nhỏ bằng vàng, để ra hiệu lệnh. Tiêu dao: lang thang vô định, không có gì ràng buộc, xe tiêu dao là xe tưởng tượng của bậc thần tiên, ma quái, đi được ở mọi nơi, mọi lúc.

- Ngươi là kẻ giặc già giết vua, lại còn lớn tiếng gì nữa?

Rồi cầm phủ việt nhằm giữa trán Dương Tố mà giáng xuống. Dương Tố tránh không kịp, ngã lăn quay ra đất, miệng, hai lỗ mũi máu tuôn ra, thái giám thấy thế, vội chạy trình Dượng Đế. Dượng Đế cả mừng, lệnh cho quân cấm vệ, khiêng Dương Tố ra khỏi cung. Về đến Dương phủ dần dần tỉnh lại, trối trăng với con là Dương Huyền Cảm:

- Con ta? Chuyện đoạt ngôi lộ cả rồi. Mau mau chuẩn bị tang ma đi thôi.

Chưa tới nửa đêm hôm đó, thì đã ô hô! Thương thay! Thượng hưởng!

Chính là:

Luật thiên nhiên đắp đổi

Có sớm thì có tối

Đứa gian hùng khó toàn

Chóng chầy ắt đền tội

Mày sống đầy nham hiểm

Mày chết không yên ủi.

Dượng Đế nghe tin Dương Tố chết, vui mừng mà nói rằng:

- Thằng giặc già đã chết, Trẫm chẳng còn phải sợ thằng nào nữa.

Bèn gọi ngay bọn thái giám Hứa Đình Phụ gồm mười người, phán rằng:

- Mười người các ngươi hãy chia nhau đi khắp thiên hạ, phải tuyển được gái thật đẹp, không kể nơi nào, mỗi người tuyển cho ta từ mười lăm đến hai mươi mỹ nữ (1), nhưng phải thật kiều diễm, đưa dần về kinh. Người nào tuyển tốt sẽ có thưởng, kẻ nào tuyển không xong sẽ bị phạt tội. Không được chây lười, sinh chuyện!

1 Tác giả có chỗ nhầm, hồi thứ hai mươi bảy, lại nói bọn Hứa Đình Phụ tuyển được hơn một ngàn cung nữ.

Hứa Đình Phụ vâng lệnh lui ra. Kinh thành là nơi làm trước tiên, bọn này trương ngay một bảng lớn, tìm kẻ mối mang đưa tin, đưa người, cả kinh thành lại một phen náo động.

Một tối, Dượng Đế cùng bàn bạc với Tiêu Hậu:

- Trẫm suy ra từ xưa các bậc vua chúa đều có ly cung biệt quán, dùng làm nơi mua vui hưởng lạc. Nay trẫm đang lúc thịnh thời như thế này, mà không kịp hưởng những chuyện đó, cũng khiến thiên hạ cười rằng ngu dại. Trẫm thấy đất Lạc Dương vốn là nơi trung tâm của chín châu, sao lại không đem làm Đông kinh, dựng ở đó một cung Hiền Nhãn để triệu tập khắp bốn phương, cũng là nơi đi về hành lạc.

Liền cho gọi hai viên nịnh thần Vũ Văn Khải cùng Phong Đức Di, ngay trước ngự điện, được giao cho cai quản công việc này. Vũ Văn Khải quỳ tâu:

- Trình bệ hạ chí tôn, từ xưa các bậc đế vương đều có minh đường, để vua các nước nhỏ vào triều kiến. Vua Thuấn có Nhị Thất, Văn Vương có Linh Đài Linh Chiêu đều là những công trình xây dựng to lớn, lừng lẫy một thời nổi tiếng nhân đức trong thiên hạ. Nay bệ hạ xây cung Nhân Thọ, để làm rõ đức sáng của bậc thánh nhân, thì chính là học theo được vua Nghiêu vua Thuấn, dựng nên những sự tích tốt đẹp khắp cổ kim vậy. Chúng thần không dám không gắng sức.

Phong Đức Di cũng quỳ gối thưa:

- Tâu thánh thượng! Đấng thiên tử dựng cung điện, không rộng không cao không đủ tráng lệ, không tráng lệ không đủ chỗ để tuyên dương đức lớn, tất phải bắt đầu từ phía nam giáp với Truy Giản, phía bắc gối lên bến Lạc Tân, chọn khắp gỗ quý, đá hiếm trong thiên hạ, cùng các loại kỳ hoa dị thảo, trân cầm dị thú mà bày mà nuôi ở bên trong cho thật đủ loại, đáng cho vạn quốc đến chiêm ngưỡng.

Dượng Đế cả mừng phán:

- Hai khanh hãy hết lòng hoàn tất việc này cho thật tốt. Trẫm sẽ trọng thưởng.

Liền truyền sắc chỉ cho Vũ Văn Khải cùng Phong Đức Di tạo dựng cung Nhân Thọ ở Lạc Dương. Từ Trường Giang về phía nam, Ngũ Lĩnh kéo về phía bắc, mọi thứ vật liệu, theo lệnh mà đóng góp đầy đủ không được thiếu sót. Còn thợ và tiền của thì trừ Giang Đô cùng Đông Đô, phải phục dịch cho việc xây dựng tại chỗ, thì miễn cho việc đóng góp này, còn cứ mỗi thành, phủ huyện, châu quận đều phải góp ba nghìn lạng bạc, mau chóng gửi tới Lạc Dương đóng góp sức mình. Hai người vâng chỉ ra đi Lạc Dương, chia nhau công việc. Thật lại một lần nữa nhũng nhiễu trăm họ, tai ương cho muôn dân.

Muốn biết công việc về sau ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro