Tùy Đường Diễn Nghĩa 21 - 30

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chữ Nhân Hoạch

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Hai Mươi Mốt

Mượn quán rượu, kết nghĩa kim lan,

Xưng hô tên, nổi tiếng hào kiệt.

Thơ rằng: Vác cày ông lão khóc sướt mướt Vườn ruộng năm năm lo đứt ruột Quan huyện tô thuế mãi mãi tăng Nộp thu, thu nộp đủ sao được Nịnh ông lớn khấu hao đóng bù Bòn dân ngu dọa nạt đốc thúc Con trẻ khóc, đói rét bủng beo Vợ không quần cầm cố bán chác Mông đít chục trận đòn nát nhừ Nhà tranh ba đợt thuế quang lắc Lăn lóc suối giọt lệ không khô Tối tăm đường đưa chân nhắm mắt Nào ai vẽ giúp bức tranh dân Dâng lên vua ngắm cảnh khổ cực.

Dân đen ăn ở trên đất vua, mùa thu nộp lương mùa hạ đóng thuế là lẽ đương nhiên. Nhưng cái khổ chính là ở chỗ, không thu hoạch mà vẫn phải lo nợ nhà vua, gặp mùa việc thì lại phải phu dịch. Giả như mỗi phủ phải đóng ba nghìn lạng bạc, nhưng có bao giờ đúng thế cho đâu, chỉ vì cả đám quan nha lòng tham không cùng, thừa cơ này mà kiếm lợi, liền tìm cách thêm thắt, bớt xén, nào là dịch phí, nào là lộ phí, nào là hao hụt, tất cả đều đổ lên đầu dân đen. Cứ thấy có khoét được, kẻ tham vẫn còn tham, kẻ giàu vẫn còn ác, bốn phương trộm cướp hoành hành, hờn oán khóc than theo đó mà gia tăng cũng là lẽ thường vậy thôi.

Bấy giờ vua Tùy vì những việc thổ mộc lớn đó, các phủ châu phải sai quan áp tải tiền bạc đem đến Lạc Dương nạp. Hai phủ Tế Châu và Thanh Châu của Sơn Đông cũng đều đã sắp sẵn ba nghìn lạng bạc đem tới Lạc Dương, nhân chuyện náo động này mà xuất hiện một tay hảo hán khác nữa, chuyện đầu đuôi như sau:

Ở Vũ Nam trang, thuộc huyện Đông A của Duyện Châu có một viên ngoại họ Vưu, tên Thông, hiệu Tuấn Đạt, cũng đã từng theo đòi nghề cướp đường lâu năm, gia tư giàu có, sáu phủ thuộc Sơn Đông đều kính nể gọi là Vưu viên ngoại. Lâu nay, muốn làm được một tướng cướp lẫy lừng ở vùng bắc này, phải vừa giàu có vừa có thế lực mới xong. Vưu Thông nghe được huyện Thanh Châu sẽ áp tải ba nghìn lạng bạc lên kinh, tất nhiên phải đi đường Duyện Châu, ý muốn cướp số bạc này, mới thầm nghĩ: "Cướp của bọn khách buôn, một toán bất quá mười đứa, mình chỉ cần vài người cũng xong, chẳng sợ gì bọn này. Nhưng đây lại là lương tiền của Nhà nước nhất định sẽ có quan lính đi hộ tống, qua các châu huyện, đều phải phái thổ binh lính đi kèm, muốn cướp được cũng khó, lại nữa lương tiền là của ngay phủ bên cạnh, sợ chúng sẽ tầm nã rất gắt gao. Chi bằng đừng đụng đến nữa, đỡ phải lôi thôi".

Nhưng lòng tham con người ta, không biết đâu là cùng, thật đáng cười. Vưu Thông biết rõ sự lợi hại như vậy song vẫn nuối tiếc ba nghìn lạng bạc này. Điểm mặt những khách khứa, bạn bè, hiện không kẻ nào có thể đảm đương nổi chuyện này, Vưu Thông bèn đem ra bàn bạc với trang khách: - Quanh trang Vũ Nam chúng ta đây, liệu có thể tìm ra một bậc hảo hán, lấy gọn được số bạc này, cũng là một chuyện thích ý! Trang khách có người đáp: - Nhìn trước nhìn sau ở đất Vũ Nam này, chỉ có những kẻ múa chân múa tay được, chứ không thể gọi là hảo hán được. Cách đây năm sáu dặm, có một người họ Trình, tên gọi Giảo Kim, hiệu là Tri Tiết, vốn người ở Ban Cưu điếm. Trước kia đã từng đi buôn muối lậu, kháng cự lại quan binh, bị tội xung quân ở ải bắc, gặp buổi ân xá được tha về. Nếu được người này đứng ra, thì mọi việc dễ như trở bàn tay. Vưu Thông nói: - Ta cũng đã nghe nói tới. Quý khách đã ai thấy mặt họ Trình này chưa? Trang khách đáp: - Chúng tôi cũng chỉ toàn tai nghe. Mắt quả chưa được thấy! Vưu Thông vẫn để tâm lo lắng chuyện này, không ngờ lại gặp. Hôm ấy có việc đi ra ngoài trang, trời lạnh, gió tây thổi mịt mù, cây lá nghiêng ngả, Vưu Thông chợt thấy thèm rượu, bèn xuống ngựa, bước vào quán. Ngồi vào bàn, vừa uống được chén trà nóng, đã thấy một chàng trai trẻ cao lớn bước vào, trông ra diện mạo, quần áo người này, thì thấy:

Lông mày chổi rễ Con mắt ốc nhồi Mặt gồ ghề vô số nốt ruồi Miệng khấp khểnh một hàng nanh lợn Râu quai nón đỏ hoe dữ tợn Tóc rễ tre sóng gợn rối tung Thô kệch như thanh sắt vừa nung Ngang ngạnh như tượng đồng mới đúc Rồi ra mới biết tay cương trực Chớ vội xem thường bậc trượng phu.

Chàng trai trẻ này áo quần rách nát, vai vác một bó củi lớn, vứt củi xuống sân, ngồi vào ghế, dáng diệu đàng hoàng, gọi chủ quán mua rượu nóng uống, có vẻ quen biết với chủ quán từ lâu. Vưu Thông chăm chú theo dõi, thấy vẻ người khác thường, bèn nhân lúc không ai để ý, hỏi khẽ chủ quán: - Người này tên họ là gì? Bác có quen biết anh ta chăng? Tiểu Nhị đáp: - Anh ta thường vào đây uống rượu, vốn người Ban Cưu điếm, thượng gọi là Trình Nhất Lang, còn không rõ tên thật là gì, thưa viên ngoại. Vưu Thông nghe đến Ban Cưu điếm, lại họ Trình, nghĩ ngay đến Trình Giảo Kim nên đứng dậy, lại gần, vòng tay hỏi chàng trai trẻ: - Xin cho biết quý tính đại huynh? Chàng trai đáp: - Tiểu nhân họ Trình! Vưu Thông hỏi tiếp: - Đại huynh hiện ở đâu? Họ Trình đáp: - Tiểu nhân đang ở Ban Cưu điếm. Vưu Thông hỏi thêm: - Ở Ban Cưu điếm có một vị là Trình Tri Tiết, có họ hàng gì với đại huynh chăng? Họ Trình cười đáp: - Họ hàng với anh em gì gia mẫu sinh được mỗi mình tiểu nhân, chẳng biết có họ hàng gì nữa không, chỉ biết tiểu nhân vốn là Trình Giảo Kim, hiệu là Tri Tiết, cũng còn gọi là Trình Nhất Lang. Dám thưa viên ngoại có điều gì dạy bảo? Vưu Thông thấy nói Trình Giảo Kim mừng như bắt được vàng, vội hỏi: - Sao lại có bó củi này, để bán sao? Giao Kim đáp: - Quả là như vậy. Tiểu nhân nhà còn có mẹ già, nhờ vào mấy que củi khô này mà hai mẹ con sống qua ngày. Hôm nay vác ra đây, chẳng ai mua, trời lại nổi gió lớn, vào đây kiếm vài chén rượu nóng, chờ ngớt gió rồi cũng đến về thôi. Xin được biết quý tính của viên ngoại. Viên ngoại hỏi tới có chuyện gì cần chăng? Vưu Thông đáp: - Từ lâu đã được nghe tên tuổi, nay có việc cần nhờ, một việc rất thích ý, nhưng chỉ ngại đây pha tạp không phải chỗ bàn luận. Xin mời tới tệ gia, sẽ thưa chuyện đầu đuôi. Giảo Kim nói: - Hôm nay gặp tri kỷ ở đây, viên ngoại đã dạy thế lẽ nào không theo. Nhưng rượu đã kề miệng, hãy cứ uống vài bát đã, tới nhà ta lại uống nữa có được không? Vưu Thông đáp: - Thế thì hay lắm? Thế rồi kéo Giảo Kim cùng ngồi. Một ông nhà giàu, một anh áo rách cùng ngồi uống rượu với nhau, chủ quán và mọi người bưng miệng mà không nhịn được cười. Cả hai uống mấy bát lớn, Vưu Thông tính tiền trả tiểu nhị, Giảo Kim nói với tiểu nhị: - Chỗ củi này gán luôn, trả số tiền rượu hôm qua tiểu nhân còn thiếu. Cả hai vái chào, ra khỏi quán rượu.

Lúc này Vưu Thông cưỡi ngựa, giờ bảo đầy tớ dắt về trước, rồi cùng đi với Giảo Kim. Về đến nhà, cả hai ngồi, gối liền gối, vai liền vai. Cùng nói đủ chuyện trên trời dưới đất: chuyện hạn hán lụt lội, chuyện đạo đức suy đồi, chuyện buôn bán, làm ăn, đi lại khó khăn. Từ đó Vưu Thông ngỏ ý cùng Giảo Kim đi buôn chung, lời lãi chia hai. Giảo Kim hỏi lại: - Viên ngoại định rủ tiểu nhân buôn chung thật sao? Vưu Thông đáp: - Thực không phải thế. Tiểu huynh lâu nay mộ tiếng dũng cảm, nghĩa khí hiền đệ, nhưng chưa một lần được gặp, nay mới có duyên may, xin kết nghĩa đệ huynh, mãi mãi gắn bó, xin đừng hiềm nghi. Giảo Kim đáp: - Tiểu đệ vốn người thô lỗ, không phải chỗ tốt để kết nghĩa đệ huynh. Vưu Thông vẫn giữ ý: - Đây là ý nguyện của tiểu huynh, hiền đệ không nên từ chối. Hai người đem tuổi ra so, Vưu Thông hơn năm tuổi, nhận làm anh. Giảo Kim làm em, cùng thắp hương kính cẩn lạy nhau tám lạy, thề cùng sống chết, hoạn nạn cùng giúp nhau. Chính là:

Kết giao chớ ngại câu bần phú Chung thủy đừng quên nghĩa tử sinh.

Giảo Kim nói: - Đi ra để buôn bán, cũng là điều tốt, nhưng tiểu đệ còn có mẹ già ở nhà, không người coi sóc, làm thế nào được? Vưu Thông đáp: - Đã là huynh đệ, lệnh đường cũng chính là bá mẫu của tiểu huynh, lẽ đương nhiên là phải đưa về đây phụng dưỡng. Chi bằng ngay đêm nay đưa tới là tốt hơn cả! Giảo Kim nói: - Tiểu đệ đi bán củi, chẳng được đồng nào. Một hạt gạo cũng không nốt, về gặp mẹ già, trời đã chiều tối, nói chuyện tới đây nữa, thì cũng thật khó nghe. Vưu Thông khuyên: - Hiền đệ nói có lý lắm. Nhưng không có gì khó. Hôm nay hãy cầm về một đỉnh bạc, coi như dùng để chi vào việc di chuyển chỗ ở, kiếm chén rượu nhạt, nói chuyện với xóm giềng, nhất định bá mẫu sẽ bằng lòng ngay. Giảo Kim ưng thuận: - Nếu thế mới được, xin đem tiền ra đây!

Vưu Thông lấy ra một đỉnh bạc đưa cho Giảo Kim, Giảo Kim đỡ lấy bỏ ngay vào ống tay áo, cũng chẳng cảm ơn. Vưu Thông sai bày cơm rượu. Giáo Kim mười phần vui vẻ, uống thoải mái hết chén này đến chén khác, không ngờ là rượu nhà nấu lấy, rất nặng, lại uống đến hàng chục chén lớn, nên đã say mèm. Vưu Thông sợ Giảo Kim quá say, sáng mai tốt ngày, phải còn lo liệu để lên đường buôn bán một chuyến xem sao. Giảo Kim đành phải đứng dậy ra cửa, tuy đã say, nhưng vẫn còn nhớ tới đỉnh bạc, bỏ vào ống tay áo, xem ra có vẻ nặng, trù trừ bước ra cổng lớn. Không ngờ ống tay áo, tuy đã buộc, nhưng lại rách nát, nên khi giơ tay vái chào Vưu Thông lần nữa, thì đỉnh bạc cũng theo chỗ rách mà rơi tọt xuống đất lúc nào cũng không biết nữa. Trang khách có người trông thấy nhặt lấy, đưa trình Vưu Thông: - Viên ngoại vừa đưa cho, đã rơi vào ngay trước cổng lớn. Nên chạy theo mà giao lại cho Giảo Kim chăng? Vưu Thông đáp: - Ta đưa thỏi bạc cho Giảo Kim xong, nghĩ lại đang thấy hối hận đây! Trang khách hỏi: - Đã đưa rồi, viên ngoại còn gì mà phải hối hận? Vưu Thông đáp: - Người này tính ngay thẳng, không biết luồn cúi ai. Đem bạc về, mẹ con bàn cãi, nhất định sẽ không chịu đến đây nữa, thì cũng đành chịu. Nay lại đánh rơi mất thỏi bạc, thì còn phải nghĩ đến ta, nên tối nay thế nào mẹ con sẽ cùng đến đây.

***

Lại nói Giảo Kim về đến nhà, mặt mày vẫn còn rạng rỡ. Mẹ ngồi chờ suốt từ chiều tới giờ, nay thấy con về, uống rượu mặt còn đỏ gay, mùi rượu vẫn sặc sụa, thì tức giận mắng: - Mày là đồ súc sinh, tìm chỗ ăn uống say sưa, chẳng nghĩ tới mẹ ở nhà không củi không gạo, đói sắp chết mà vẫn còn vác cái mặt dương dương đắc chí về thế kia. Ta thử hỏi mày: củi bán được rồi, tiền tiêu cái gì hết cả rồi? Giảo Kim cười đáp. - Mẫu thân đừng vội giận. Sắp đến ngày mở mày mở mặt rồi. Còn hỏi đến chuyện củi đóm làm gì? Trình mẫu gắt gỏng: - Mày đúng là vẫn còn say rượu, tuôn ra toàn những lời mơ màng, ta làm sao mà tin được. Giảo Kim nói: - Mẫu thân nếu vẫn chưa tin, con lấy thỏi bạc này ra cho mà xem nhé! Trình mẫu hỏi: - Bạc ở đâu ra? Giảo Kim sờ vào ống tay áo, hết tay này tới tay kia, lần đầu rồi lại lần nữa, vẫn chẳng thấy bạc đâu, Giảo Kim bứt tóc dậm chân tức tối: - Thỏi bạc không biết rơi lúc nào mất! Trình mẫu lại càng được thể: - Ta đã nói là chuyện khoác lác mà. Trong cái tay áo rách ấy thì làm sao có bạc được? Giảo Kim trừng mắt cãi: - Mẫu thân nếu không tin con, con xin thề độc địa rằng dù trong cơn say đi chăng nữa, con cũng không bao giờ dám nói chuyện đùa vơ vẩn với mẫu thân. Hôm nay, con vác bó củi ra đi khắp một lượt phố xá, chợ búa, chẳng ai thèm hỏi đến, mới vào trong quán uống mấy chén rượu, gặp một nhà giàu đó là Vưu viên ngoại ở Vũ Nam trang, mới thấy nhau mà như gặp bạn cũ, kéo con về trang trại. Con liền vứt ngay bó củi, gạt tiền rượu cho tiểu nhị, cùng với viên ngoại về trang trại. Con với ông ta làm lễ kết nghĩa huynh đệ, rồi tính chuyện cùng nhau đi buôn bán xa kiếm lời. Con nói chuyện ở nhà còn mẹ già, không người chăm nom, viên ngoại bảo ngay đêm nay đưa mẫu thân sang bên ấy, lại còn đưa cho con một đỉnh bạc, để có phải tiêu đến việc gì khi chuyển chỗ ở chăng. Con thấy vui vẻ, uống mấy chén rượu lớn, nên cũng không biết bạc rơi lúc nào, mặc dù suốt dọc đường con đã cố ý, túm ống tay áo thật chặt. Mẫu thân nếu vẫn chưa tin, ngay bây giờ con cõng sang bên ấy, thì sẽ rõ con nói đúng hay nói khoác cho vui ngay thôi mà! Trình mẫu đáp: - Nếu đã như thế, ta sẽ đi với mày. Trong nhà tìm khắp ba ngày cũng chẳng có cái gì đáng giá, cứ khóa cửa lại là xong. Nhưng ta đang đói lả cả người, làm thế nào bây giờ? Giảo Kim đáp: - Con đưa mẫu thân sang trang trại, chỉ sợ không có sức mà ăn, tiêu không kịp, lại nôn mửa cả ra bây giờ, chứ lại còn lo không có cái gì mà ăn!

Nói xong, khóa cửa, rồi đang giữa đêm tối Giảo Kim cõng mẫu thân sang trang trại họ Vưu ở Vũ Nam trang, bao nhiêu say sưa bay biến sạch. Giảo Kim đặt mẫu thân xuống gõ mạnh cửa, lão canh cổng đã được Vưu Thông sai từ trước, chờ sẵn để mở cửa cho Giảo Kim, rồi vào báo cho viên ngoại biết.

Vưu Thông vẫn chưa đi ngủ, chờ Giảo Kim tới, nghe đầy tớ vào trình, mừng không nói hết, ra đón mẹ con Giảo Kim vào nhà ngồi đâu đấy Vưu Thông lên tiếng trước: - Mang ơn tổ tiên để lại cho ít nhiều của cải, mấy năm nay thì năm nào cũng hết hạn hán lại lụt lội, gia tư ngày càng hao hụt dần. Nay muốn về Giang Nam buôn vài chuyến tơ lụa, nhưng nghe nói các nơi trộm cướp sinh như ong, sợ đi chẳng được. Nghe danh lệnh lang là bậc hào kiệt, cũng muốn có lệnh lang cùng đi, được lời sẽ chia đều, may kiếm được ít nhiều để phụng dưỡng bá mẫu chăng? Trình mẫu vốn cũng nhà giàu có, ít nhiều biết lẽ đời, nghe thế cười đáp: - Viên ngoại lầm rồi! Viên ngoại giàu có, còn ta thì nghèo khó, suốt ngày chân tay vất vả. Nay viên ngoại đi buôn xa, hoặc giả trên đường không người sai phái đỡ đần, cần phải con ta đi theo sau, rồi hàng tháng trả cho nó ít nhiều, lấy cái nuôi mẹ già, thì nghe ra còn thông. Chứ thử hỏi con ta có tài đức gì, mà dám kết huynh đệ với viên ngoại. Lại thêm vốn liếng không một đồng đóng góp, làm sao dám nghĩ tới chuyện buôn chung, chia lãi đều cho được. Vưu Thông nói: - Vưu Thông này từ lâu mộ tiếng lệnh lang, tình nguyện xin được kết nghĩa huynh đệ, xin bá mẫu đừng ngại. Rồi sai sửa soạn hương án, Vưu Thông bái lạy, nhận Trình mẫu làm bá mẫu, Trình mẫu cũng hoảng hốt vái đáp lễ bốn vái. Vưu Thông nói tiếp với Trình mẫu: - Cháu cùng lệnh lang ra đi rồi, sợ một mình bá mẫu ở nhà có chỗ không tiện, nên mời bá mẫu về trang trại đây. Nếu có gì chưa được chu tất, xin bá mẫu lượng thứ. Trình mẫu đáp: - Con ta được đi với viên ngoại, ta thật đội ơn. Chỉ sợ tính tình nó lỗ mãng, viên ngoại phải luôn để ý mà rèn cặp, thể tất cho nó ít nhiều, sợ còn ít tuổi, chưa thấy hết được ơn nghĩa của viên ngoại. Vưu Thông mời Trình mẫu ra nhà sau ăn cơm, còn mình với Giảo Kim lại bày cuộc rượu nữa. Rượu vừa chớm say, Vưu Thông mang chuyện ba nghìn lạng bạc kể để dò ý Giảo Kim: - Hiền đệ có nghe những chuyện về việc vua mới lên ngôi chưa? Giảo Kim vừa được chịu ơn ân xá, nên đáp: - Vưu đại huynh, đó là một vị vua thật thương dân. Tiểu đệ mấy năm ở ngoài tít ải bắc, nếu không có chuyện vị vua mới này lên ngôi, thì làm sao có thể trở về quê hương mẹ con sum họp. Vưu Thông gợi ý: - Vua mới giở đắp thành xây gác, mỗi châu, mỗi huyện đều phải góp ba nghìn lạng bạc để góp vốn cho những việc thổ mộc đó. Thật là không biết lấy đâu ra mà đóng góp. Giáo Kim đáp: - Làm dân đen dân đỏ của đất nhà vua, thì tất phải nạp lương, phải chịu tạp dịch, phu phen. Làm quan nha của hoàng đế, thì phải sai phái, phải quát nạt, đừng nghĩ tới sự nhàn rỗi, bình yên. Vưu Thông nói: - Chuyện ấy thì đã hẳn rồi. Có điều vùng Thanh Châu của Sơn Đông ta cũng phải tuân theo lệnh vua, đóng vào đó ba nghìn lạng. Thái thú Thanh Châu, đang nhân dịp này để lột tận xương tủy trăm họ, tàn khốc không chừng chỉ để lấy ba nghìn lạng đem đi, còn bao nhiêu thì bỏ túi thầy trò cả bọn. Số bạc ba nghìn lạng bạc này đem lên kinh, tất phải đi qua địa phận Duyên Châu ta đây. Ta định nhờ vào đôi tay của hiền đệ, chiếm lấy ba nghìn lạng này, làm vốn đi buôn, liệu có nên chăng? Trình Giáo Kim cũng đã từng đi buôn muối lậu, ba chìm bảy nổi, vào tù ra tội, so với chuyện cướp đường cũng chẳng xa xôi gì. thấy Vưu viên ngoại đối xử với mẹ con mình thật hết lòng, nên cũng muốn đền ơn tri ngộ, nên cười đáp: - Đại huynh, chỉ sợ tiền bạc của họ không đi đường này. Nếu chắc chắn là đi đường này, thì chẳng cần đại huynh phải lo nghĩ nhiều, tiểu đệ chỉ cần một người một ngựa ra đi, sẽ đem ngay số bạc ấy về đây cho đại huynh! Vưu Thông hỏi: - Hiền đệ quen dùng loại vũ khí gì? Giảo Kim đáp: - Tiểu đệ quen dùng búa. Cũng chẳng được học ra bài ra lớp cẩn thận gì đâu. Trong lúc nhàn rỗi chẳng biết làm gì, cứ lấy búa kiếm củi thay cán thật dài vào, một mình ở nhà tập múa may, thế mà tiện lợi trôi chảy phải biết. Vưu Thông nói: - Trong nhà ta có một cây búa, nặng sáu mươi cân, liệu hiền đệ có dùng vừa không? Giảo Kim bằng lòng: - Sáu mươi cân, cũng chưa phải là nặng. Vưu Thông ra phía sau nhà, đem cây búa ra, thì ra búa được đánh bằng loại thép tốt, hai mặt búa khắc hình bát quái, vì vậy mọi người thường gọi loại búa này là "bát quái tuyên hoa phủ". Lúc này Giảo Kim mới mặc vào mình một áo giáp đồng, một mũ đồng đã lên nước xanh biếc, khoác một áo khoác màu xanh chàm, cưỡi một con ngựa thanh tông khỏe mạnh. Còn Vưu Thông cũng nai nịt không kém phần hùng dũng, đội một mũ sắt dày, một áo giáp lấp loáng màu dầu đen bóng, vác một cây thương mũi nhọn hoắt, đi đôi ủng sơn trắng, cưỡi con Ô truy.

Cả hai nai nịt giờ lâu ngay trước bàn tiệc, rồi sai đầy tớ đèn đuốc sáng rực, ra khỏi trang trại kéo nhau ra mấy đám ruộng cạn vừa gặt, dùng mấy cây tre, treo cao đèn bốn phía, một khoảng rộng sáng như ban ngày, cả hai người lên lưng ngựa cùng nhau thử sức. Búa qua thương lại, bọn tay chân xúm quanh, hò hét ầm ĩ. Bọn này đều nương dựa hoàn toàn vào họ Vưu, cho nên mọi chuyện lớn nhỏ đều chẳng có điều gì phải giữ gìn. Tập tành chán cả hai xuống ngựa kéo nhau về trang trại đi ngủ.

Ngày hôm sau. Vưu Thông cho người đi Thanh Châu, dò la xem đoàn quân áp tải ba nghìn lạng hạc bao giờ thì lên đường, liệu bao giờ đến rừng Trường Diệp. Mấy ngày sau, kẻ được sai đi trở về thưa: - Trình viên ngoại ngày mười lăm tháng mười này sẽ lên đường, ngày hai mươi bốn này thì có thể đến vùng rừng Trường Diệp. Đoàn áp tải có một viên quan cầm đầu, một viên võ quan hộ tống, chỉ huy một đội lính khoảng hai mươi tên chuyên dùng cung tên.

Tối ngày hai mươi ba, Vưu Thông lấy rượu ngon cho Giảo Kim uống gần say, chọn người đi theo, canh năm đến rừng Trường Diệp, động viên Giảo Kim: - Hiền đệ, ta cùng hiền đệ sẽ đủ chi suốt đời, chỉ cần một việc này! Giảo Kim gật đầu, xách búa lên ngựa, tiến ra phía đường quan, dừng ngựa, dắt búa ngang yên, trông như hổ dữ ngồi chặn giữa đường lớn. Trước tiên là viên quan Lô Phương xuất hiện; viên này vốn là hiệu úy Thanh Châu, mở đường đi trước cũng là để đề phòng sợ có chuyện không lường chăng. Mới vào đến rừng, Giảo Kim giật ngựa nhảy ra, cao giọng quát: - Tiền lộ phí đâu, dốc ra! Lô Phương vốn là một võ quan cũng thạo nghề cung kiếm, giơ thương lên vừa đỡ vừa chửi: - Thằng giặc cỏ! Mày chỉ quen sống lẩn lút trong rừng rậm, lo ăn từng bữa như loài thú dữ, đây chính là lương tiền giải đi tam kinh lục phủ, hãy tránh cho mau, loại giun dế như mày đừng có to gan lớn mật. Giảo Kim vẫn lớn tiếng: - Bọn khách thương trong thiên hạ, bố già đây không thèm đụng đến đâu. Nghe nói Thanh Châu phủ có ba nghìn lạng, bố già đây chờ sẵn, kiếm làm vốn buôn bán. Lô Phương nạt: - Hà hà! Đồ giặc cỏ không biết nông sâu. Hãy chờ xem mà buôn bán! Ngựa chồm lên, thương giơ cao, xốc tới, Giảo Kim cũng vung búa vội đỡ, ngựa với ngựa, người với người, thương với búa cùng thi gan, được vài chục hợp, phía sau thấy khói mịt mù, quân quan áp tải cũng vừa tới. Giảo Kim thấy thế, sợ chúng sẽ xắn tay cùng đánh, bèn chồm ngựa xông lên, búa bổ mạnh, mặc mọi sự. Lô Phương đỡ không nổi, ngã quay xuống ngựa. Hai mươi tên lính cầm cung thương tràn tới, thấy Lô Phương ngã ngựa, cả bọn giơ cao thương la lớn: - Phía trước Lô hiệu úy bị tướng cướp đánh cho bị thương rồi! Giảo Kim thừa thế chém thêm vài tên tay chân, cả bọn cứ thế vứt cung, bỏ thương, lội bừa qua suối mà chạy, bỏ cả bạc tiền, hành lý lại mà thoát lấy thân đã. Tào tham quân Tiết Lượng, viên quan chỉ huy cả đoàn áp tải, thấy thế, quay ngựa chuồn thẳng. Giảo Kim vẫn không tha, giục ngựa đuổi theo. Bọn đầy tớ, cùng trang khách đi theo vội chạy báo cho Vưu Thông: - Bố già thắng lớn rồi! Bạc tiền bọn chúng đều vứt lại trong rừng mà thoát thân rồi? Vưu Thông dẫn tay chân ra đường quan, mở toang tất cả các thùng chứa bạc, đút vào những bao tải gai, khuân về Vũ Nam Trang, giết dê lợn, bày tiệc rượu chờ sẵn, đợi Giảo Kim về đánh chén. Giảo Kim lúc này đuổi theo Tiết Lượng có đến mười dặm mới kịp, chủ ý cũng chẳng để giết Tiết Lượng cho bằng được, mà Giảo Kim cũng chẳng biết rằng tiền bạc bọn này đã vứt lại cả ở trong rừng rồi, nên cố tình đuổi theo bắt cho kỳ được cả người lẫn ngựa. Tiết Lượng quay đầu nhìn lại, thấy người ngựa Giảo Kim tới gần, không biết làm thế nào để đối phó, đành liều lên tiếng: - Anh bạn lạc thảo! Ta với anh không thù không oán, anh chặn đường ta cũng chỉ vì tiền bạc. Nay bao nhiêu tiền bạc chúng tôi đã vứt lại trong rừng, anh còn đuổi theo ta để làm gì? Giảo Kim nghe nhắc tiền bạc đã vứt cả ở trong rừng liền không đuổi theo nữa, quay ngựa, không cần phi nhanh nữa. Tiết Lượng thấy Giảo Kim đã quay ngựa, bạo dạn hơn ít nhiều, gọi với theo hăm dọa: - Anh bạn lạc thảo, tiền bạc cướp được, giữ cho cẩn thận. Ta trở về trình quan Thứ sử, sai người tìm bắt, lúc ấy thì đừng có mà chạy thoát đâu nhé! Giáo Kim nghe thế, nổi cơn điên khùng, gọi theo: - Quan nhân đừng chạy vội, ta không giết quan nhân. Ta cũng không phải loại hảo hán không tên tuổi. Hãy cứ tạm cho quan nhân biết tên tuổi ta nhé, ta là Trình Giảo Kim, suốt đời chưa từng nói dối ai bao giờ. Ta có một người bạn rất trung hậu, tên gọi Vưu Thông. Chính hai người chúng ta lấy số bạc ba nghìn lạng này đấy. Quan nhân cứ yên tâm về mà trình Thứ sử. Giảo Kim nói xong tên tuổi hai người, mới thực sự quay ngựa trở về chưa đến trang trại đã thầm nghĩ lại: "Vừa rồi lẽ ra không nên nói rõ tên tuổi. Vưu viên ngoại biết ra lại oán giận ta. Thôi tìm vài lời quấy quá lờ đi cho xong". Chẳng mấy lúc về tới trang trại, cùng nhau hoan hỉ ăn uống. Chuyện không nói nữa. Chính là:

khi vui rượu uống hũ chìm Khi buồn mặt nặng như lim khác gì!

Lại nói Tào tham quân Tiết Lượng trở về phủ đường Thanh Châu, chính là lúc Thứ sử Hộc Tư Binh đang ngồi trên công đường. Tiết Lượng vội quỳ trước công đường thưa: - Trình Thứ sử, được lệnh áp tải lương tiền về Lạc Dương, ngày hai mươi tư đi đến rừng Trường Diệp của Tế Châu, bỗng xuất hiện khoảng mười tên cướp, cướp mất tất cả tiền bạc, giết chết võ tướng Lô Phương cùng bốn tên lính. Tiểu quan ra sức chống đỡ, may toàn tính mạng, về trình đại nhân, xin cho công văn tới Tế Châu, để phủ đường Tế Châu lùng bắt tội phạm, cùng thu lại ba nghìn lạng bạc. Tư Bình nghe trình, nổi giận đùng đùng: - Cướp đường nào mà dám cả gan đón đường quan quân. Ngươi không cẩn thận, đến nỗi mất của hại người. Ta sẽ cho người giải về trình Tổng lý đại nhân Vũ Văn Khải, để xem ngài xét xử thế nào; ngươi phải đền hay phủ đường Tế Châu phải đền ba nghìn lạng bạc này. Rồi quát tháo ầm ầm. Tiết Lượng hồn bay phách lạc, vội vàng thưa: - Có đại nhân ở trên, bọn cướp này nhất định bắt được, lúc chúng bị bọn tiểu nhân kháng cự còn xưng cả tên hiệu là Tĩnh Sơn đại vương Trần Đạt, Ngưu Kim gì gì đó, tiểu nhân nghe không thật rõ ràng, chỉ cần đưa ra những tin này cho phủ đường Tế Châu là có thể bắt được bọn này. Thứ sử Tư Bình gọi bọn tay chân, làm văn thư gửi trực tiếp cho Tổng lý doanh tạo Đông Đô Vũ Văn Khải:

"Thanh Châu phủ đã cho áp tải ba nghìn lạng bạc theo lệnh Tổng lý. Đi vừa đến rừng Trường Diệp thuộc Tế Châu phủ, cũng bởi phủ đường Tế Châu không cử thổ binh hộ tống, gặp ngay giặc cướp lấy hết, lại giết cả quan hiệu úy Lô Phương. Xin tổng lý đại nhân lệnh cho Tế Châu phủ bắt bọn cướp này, bồi thường số bạc cho Thanh Châu phủ." Một mặt đưa công văn sang phủ Tế Châu, yêu cầu Thứ sử Tế Châu bắt kỳ được bọn Trần Đạt, Ngưu Kim lấy lại số bạc. Tiết Lượng tạm thời bị giữ lại ở phủ đường, chờ công văn của quan Tổng lý ở Lạc Dương sẽ xét xử một thể. Mấy ngày sau, Tổng lý Vũ Văn Khải có lệnh đưa về: "Công trình đang khẩn cấp tạo dựng. Trong vòng một tháng không tìm thấy số bạc bản phủ Tế Châu phải bỏ tiền bồi nạp. Trong hạn hai tháng giặc cướp vẫn chưa bắt được, Thứ sử Tế Châu cùng Thanh Châu sẽ bị ngừng cấp tiền lương, các đô đầu đều phát phối làm lao dịch chuộc tội. Tiết Lượng cách chức làm dân thường, Lô Phương được hưởng mọi đặc ân với liệt sĩ."

Nhận được lệnh này, Thứ sử Tư Bình đành phải tự đứng ra lo mọi công việc trong phủ mình và đốc thúc Lưu Thứ sử Tế Châu. Lưu Thứ sử cũng sợ bị bị liên lụy, nên vội vàng bàn bạc với tay chân: - Số bạc ba nghìn lạng này, không phải là nhỏ dễ giấu ngay cho được mà cũng lấy đâu ra số bạc nữa mà bồi thường cho họ được. Nay ta chia thành từng đội, đội nào bắt được trước sẽ trọng thưởng, đội nào không làm nên chuyện sẽ bị phạt. Rồi lên công đường, cho gọi chánh đô đầu Phàn Kiến Uy, phó đô đầu Đường Vạn Nhẫn tới, truyền lệnh: - Bọn cướp này có tên tuổi rõ ràng, cũng dễ bề tìm ra, tại sao đến tháng nay vẫn không có tin tức gì. Phải chăng là bọn này cùng các ngươi có quan hệ mờ ám gì đây về tiền nong, nên các ngươi không chịu ra tay, để mọi chuyện phiền toái đổ lên đầu ta. Kiến Uy thưa: - Xin Thứ sử xét kỹ cho, xưa nay chưa từng có bọn cướp nào có gan xưng cả họ tên, rõ ràng là những tên để lừa bịp, quan quân chẳng biết lối nào mà lần. Vì thế chúng tôi đã tìm khắp nơi mọi chốn trong phủ, mà không hề thấy vết tích. Lưu Thứ sử quát: - Dù rằng là tên giả đi chăng nữa, thì những ba nghìn lạng bạc, hàng chục đứa tham gia, chứ có phải cái kim đâu, mà đã cả tháng nay, tịnh không vết dấu, rõ ràng các ngươi lười nhác, không chịu tận tâm mà thôi!

Rồi ra lệnh đánh Kiến Uy, Vạn Nhẫn mỗi người mười lăm roi, hạn cho ba ngày nữa, nếu không có tin gì mới, sẽ phạt mỗi người ba chục roi. Ngày giờ trôi mau, sáng mai ra, đã lại một ngày. Cả bọn kéo về nhà Kiến Uy rồi còn nghĩ ngợi đủ cách, nốc rượu lấy sức, kéo nhau về phủ đường, trình lại Thứ sử. Lúc này Kiến Uy bàn với Vạn Nhẫn: - Vạn Nhẫn hiền đệ, chúng ta khổ nhục chịu đựng thế này, nếu đại huynh Thúc Bảo còn làm đô đầu với chúng ta ở Tế Châu này, thì những chuyện như vậy. Tần đại huynh không bắt được Trần Đạt thì ít ra cũng tóm được Ngưu Kim rồi. Nay Tần đại huynh ở dưới trướng Lai Tổng quản, làm sao trình bày với Lưu Thứ sử đưa được Tần đại huynh về đây, chúng ta nhất định sẽ làm nên chuyện ngay, không thể bó tay chịu đòn như hiện nay. Kiến Uy, Vạn Nhẫn cùng Thúc Bảo vốn là chỗ bạn bè thân thiết. Năm sáu chục thổ binh, kẻ biết, người thì đã nghe danh tiếng Thúc Bảo, thấy hai đô đầu bàn thế, đều nhất loạt hoan hô ầm ĩ: - Nếu được thế, nhất định không ai có thể bắt nạt chúng ta nữa rồi. Phái về bẩm ngay với Lưu Thứ sử, nguyên đô đầu Tần Quỳnh, đã giữ chức này ở Tế Châu nhiều năm, biết rõ từng sào huyệt của bọn cướp nắm vững đường đi lối lại của bọn chúng, nay đương đảm nhiệm chức kỳ bài quan dưới trướng Lai Tổng quản, nhàn rỗi không có việc gì. Nay xin Thứ sử đứng ra đưa được Tần Quỳnh trở về, là có thể bắt được ngay Trần Đạt, Ngưu Kim. Kiến Uy khuyên: - Các anh không nên làm huyên náo đến thế, hãy vào công đường trình rõ với Lưu Thứ sử là hơn cả! Sáng ra, mọi người vào phủ đường Kiến Uy lên bán nguyệt đài đưa trát ra để xin gia hạn, ai nấy đều quỳ dưới thềm. Lưu Thứ sử hỏi Kiến Uy: - Đã có tung tích gì của bọn cướp chưa chánh đô đầu? Kiến Uy thưa: - Trình Thứ sử đại nhân, vẫn chẳng thấy tăm hơi! Thứ sử sai đem hình cụ ra để phạt. Roi sắp sửa ra tay, Kiến Uy lại lên tiếng thưa: - Tiểu nhân còn chuyện nữa, xin trình với Thứ sử đại nhân! Lưu Thứ sử hỏi: - Còn chuyện gì nữa? Kiến Uy thưa: - Bản châu ta, mấy năm trước có đô đầu Tần Quỳnh hiện đang giữ chức kỳ bài quan trong soái phủ Lai Tổng quản. Tần Quỳnh làm đô đầu lâu năm, biết rõ từng tên cướp trong phủ ta, xin Thứ sử đại nhân thân hành tới soái phủ Lai Tổng quản, xin cho được Tần Quỳnh về thì sẽ bắt được bọn Trần Đạt, Ngưu Kim. Thứ sử chưa trả lời ngay, lưỡng lự cân nhắc, thì hơn năm mươi tên thổ binh quỳ dưới thềm đều lên tiếng kêu: - Đại nhân đứng ra, xin được Tần Quỳnh về, Tần Quỳnh biết rõ từng tên cướp, lại đương nhàn rỗi dưới trướng Lai Tổng quản. Nếu đại nhân không đứng ra làm việc này cho, Tần Quỳnh không có mặt, dẫu đại nhân có đánh chết chúng tôi cũng chẳng nên công chuyện gì. Lưu Thứ sử thấy "chúng khẩu đồng từ", cũng đành miễn tội, cho cả bọn ra khỏi công đường chờ lệnh.

***

Không nói chuyện mọi người được yên ổn qua một kỳ hạn của Lưu Thứ sử, hãy kể chuyện của Tần Thúc Bảo, từ ngày ở Trường An trở về thường nghĩ tới chuyện nghĩa hiệp đã làm ở Trường An vừa rồi, nhưng cũng sợ mọi chuyện lỡ dở, kéo theo nhiều chuyện lôi thôi khác, nên từ đó ẩn nhẫn qua ngày. Hôm ấy, Thúc Bảo đang buổi hầu trong soái phủ, nghe báo có Lưu Thứ sử bản châu xin vào gặp, Lai tổng quản ra lệnh mời vào. Hai người chào hỏi đâu đấy, yên vị chủ khách, vài câu hàn huyên xong, Lưu Thứ sử lên tiếng: - Năm ngoái nhân Đông Kinh khởi công xây dựng cung điện, các lộ ở Sơn Đông này đều được lệnh góp tiền của, chẳng ngờ ba nghìn lạng bạc của phủ Thanh Châu, áp tải tới rừng Trường Diệp của bản phủ bị cướp lấy hết. Bọn này lại xưng cả tên họ, một tên là Trần Đạt một tên là Ngưu Kim. Phủ Thanh Châu lại gửi công văn trực tiếp cho Đông Kinh, Tổng lý Vũ Văn Khải đại nhân chuyển lệnh ngừng cấp lương tiền cho cả hai Thứ sử Tế Châu, Thanh Châu, bắt trong vòng một tháng phải nạp đủ số bạc bị cướp, cùng là nạp đủ từng tên giặc cướp, nếu chậm trễ sẽ gia tội. Chúng tôi đã sai quan tầm nã ráo riết, nhưng vẫn không thấy một bóng dáng nào. Theo lời đô đầu cùng bọn thổ binh, nguyên phủ Tế Châu trước có đô đầu Tần Quỳnh, hiện đang giữ chức kỳ bài quan ở soái phủ thành thạo bắt các bọn trộm cướp ở phủ, ý chúng tôi đến đây muốn xin đại nhân cho bản phủ mượn tạm Tần Quỳnh ít lâu về để bắt kỳ được bọn cướp này. Lai Tổng quản nghe nói thế, đưa mắt nhìn Thúc Bảo rồi trả lời: - Đây chính người cao to tướng kia là Tần Quỳnh, tuy thật tài cán, nhưng bản quan cũng thường cần đến thì làm sao mà có thể cáng đáng công việc cả hai nơi cho được! Thúc Bảo lúc này cũng quỳ gối tâu: - Trình hai vị đại nhân, kỳ bài hạ quan ở soái phủ đây luôn luôn công việc chờ sai phái, không thể nào đảm đương được cả việc bắt cướp. Lại nữa việc này ở Tế Châu đã có đô đầu Phàn Kiến Uy, sao lại dạy hạ quan làm chuyện này thay Kiến Uy cho được? Lai Tổng quản cũng tán đồng: - Chính vậy, việc này là việc của các đô đầu hiện đương chức của phủ Tế Châu. Lưu Thứ sử thấy Thúc Bảo từ chối, Lai Tổng quản cũng lại ra mặt khuyến khích Thúc Bảo, trong lòng lấy làm bực bội nói: - Chúng tôi cũng chỉ muốn bắt được bọn cướp này để khỏi phải bồi thường ba nghìn lạng bạc, nên mới phải khổ nhục đi mời Tần Quỳnh. Lại thêm bọn đô đầu cùng thổ binh của bản phủ đều cứ nhất tề ngợi ca Tần Quỳnh là người hiểu rõ từng tên cướp, nhớ kỹ đường đi lối lại thông thuộc lề thói của chúng. Ngoài việc chúng tôi đến đây, xin đại nhân nể tình, cũng đã gửi văn thư trình với Đông Kinh kể rõ đầu đuôi, Tần Quỳnh nên giúp chúng tôi làm tốt chuyện này, cũng là một sự tiến thân đáng khích lệ. Nhược bằng cứ kiên quyết chối từ thì khi đã có ý lệnh của Đông Kinh, dẫu có chối cũng không được nữa. Lai Tổng quản nghe nói thế, bèn bàn: - Thôi thì ta bàn thế này, về tài năng của Tần Quỳnh, ta cũng biết thế, để nâng đỡ Tần Quỳnh làm công vụ tốt hơn cũng là điều này. Việc bắt cướp này, cũng là việc lớn của quốc gia, chi bằng Tần Quỳnh hãy giúp Lưu Thứ sử một thời gian là tiện hơn cả! Thúc Bảo đã thấy Lai Tổng quản nói thế, cũng không còn cách nào khác, đành phải lên tiếng: - Đại nhân đã phân xử như vậy, Lưu Thứ sử đã cần đến hạ quan này, thì hạ quan xin đi vậy. Chỉ sợ rằng tài cán của hạ quan, so với bọn Phàn Kiến Uy cũng chẳng hơn gì, công việc không thành, rồi cả lũ chúng tôi sẽ bị tội thôi. Lai Tổng quản đáp: - Cả một đội từ đô đầu đến thổ binh đều nhất loạt đề cử ngươi, thì nhất định ít nhiều ngươi cũng có thạo việc hơn ai, ngươi cứ đi. Ta sẽ theo dõi việc này, xong xuôi lại trở về đây với soái phủ. Bất nhược có việc cần, ta sẽ cho người gọi về ngay! Thúc Bảo đành theo lời Lưu Thứ sử ra khỏi soái phủ. Đường Vạn Nhẫn cùng một số thổ binh theo chờ sẵn ngoài cổng, ùa đón Thúc Bảo: - Tần Quỳnh, việc này nhất định phải đến tay đại huynh mới xong được. Tiểu đệ cũng biết đại huynh nghĩa nặng tình sâu, không nỡ nhìn bọn tiểu đệ lao đao vất vả, vào sống ra chết, ăn gió nằm sương mà vẫn không xong. Thúc Bảo đáp: - Hiền đệ! Ta quả chẳng biết gì về Trần Đạt với Ngưu Kim cả đâu! Về tới phủ đường Tế Châu, Thúc Bảo làm lễ lạy chào Lưu Thứ sử, họ Lưu lấy lời lẽ ôn tồn động viên Thúc Bảo: - Tần Quỳnh, ta không coi ngươi như các quan chức khác trong phủ đường này đâu, ngươi nhất định rồi sẽ có một tiền đồ rực rỡ, công việc bình thường hàng ngày cũng rất mẫn cán, nay ta đưa ngươi về đây cũng chẳng có việc gì đáng ngại. Nếu ngươi tìm được ra hai tên cướp có tên tuổi này, ngoài việc phủ đường cứ theo lệ thường mà thưởng tiền, sẽ có nhiều thứ mà thưởng công nhà ngươi, mà ngay cả Lai Tổng quản đại nhân cũng sẽ thưởng công này thích đáng. Rồi trong văn thư trình lên Tổng Lý đại nhân Vũ Văn Khải, ta cũng sẽ kể đến tên ngươi đầu tiên.

Thúc Bảo cùng mọi người ra khỏi phủ đường, dốc tâm huyết sức lực để tìm cho ra bọn cướp, nhưng vẫn chẳng thấy một vết tích nào. Ba ngày sau vào phủ phúc trình, lại cũng theo lệ ba ngày không tìm thấy gì thì bị tội đánh đòn. Hạn thứ hai, rồi lại hạn thứ ba, Thúc Bảo còn phải chịu nhiều hoạn nạn, muốn biết sự thể thế nào, xin xem hồi sau sẽ rõ .

Hồi Thứ Hai Mươi Hai

Phát lệnh tiễn, Hùng Tín truyền danh,

Lỡ việc quan, Thúc Bảo chịu phạt.

Thơ rằng: Bốn biển tâm đầu nghĩa trước sau Nhớ mong khôn kể tháng ngày lâu Cầm tay ngờ ngợ, cười không nói Trong mộng thường thường vẫn gặp nhau.

Người ta nếu chỉ có tình nghĩa bạn bè, mà không đủ nghĩa vua tôi, cha con, hoặc chỉ có tình thương giữa anh em, vợ chồng đều không thể được. Nhưng thực quả tình bằng hữu keo sơn, tương thân tương ái thì khó mà quên được, dễ là đầu mối cho nhiều nỗi nhớ mong. Nếu lại là chuyện bậc hào kiệt gặp người hào kiệt, ý chí hòa hợp, chẳng có sự nghi ngại của sự gặp gỡ ban đầu, chẳng bị ràng buộc bởi phân biệt giàu nghèo, hiểu lòng dạ nhau bỗng nhiên phải xa nhau, thì đúng là "ba thu dồn lại một ngày", rồi ra cũng phải tìm mọi cơ hội để gặp gỡ.

Lúc này tiết thu sắp hết, trời đã sang cuối tháng chín. Đơn Hùng Tín ở trang trại đôn đốc đầy tớ, người làm, thu hoạch mùa màng, đang ngồi trong nhà trên, thấy tay chân vào thưa, có hai vị khách họ Lý, họ Vương đến. Hùng Tín nghe nói, mừng rỡ ra cổng đón, mời hai người xuống ngựa, đưa vào thư phòng. Chẳng mấy chốc tiệc rượu đã bày ra, cùng ngồi bên bàn, kể lể chuyện xa cách lâu nay. Hùng Tín trách: - Năm ngoái, nhận được thư của Vương hiền đệ, Hùng Tín này đã quyết dọn nhà cửa, hạ giường (1) chờ sẵn. Làm sao mãi nay mới tới? 1 Trần Phồn, đời Hậu Hán, có người bạn rất thân là Tử Trĩ. Phồn dành riêng cho bạn một cái giường, bạn về treo cao lên, bạn đến mới cho hạ xuống (Quỳnh lâm).

Bá Đương đáp: - Dạo ấy chia tay với Đơn nhị ca, Huyền Thúy thì được Việt Quốc Công Dương Tố mời về phủ ở Trường An. Tiểu đệ cũng lang thang khắp đây đó, đến khi về Trường An để tìm gặp Huyền Thúy thì lúc qua Thiếu Hoa Sơn, bị Tề Quốc Viễn giữ lại, ở đó khá lâu, cho nên mới gửi thư cho nhị ca, cũng muốn về Nhị Hiền trang sum họp bàn hoàn, bất đồ sau khi gửi thư đi thì lại gặp Tần đại huynh. Hùng Tín ngạc nhiên: - Thúc Bảo ở đây trở về, nghe nói ra làm kỳ bài quan ở soái phủ của Lai Tổng quản, sao lại có chuyện gặp gỡ với hiền đệ ở Thiếu Hoa Sơn? Bá Đương đáp: - Thúc Bảo nhân Lai Tổng quản đi Trường An nạp lễ mừng thọ của Việt Quốc công, nên mới có chuyện xem đèn nguyên tiêu, đành phải lỡ hẹn với Nhị ca. Vào chùa Vĩnh Phúc, cách Trường An khoảng sáu mươi dặm, gặp con rể Đường Công Lý Uyên là Sài Tự Xương. Thúc Bảo trước kia đã cứu Đường Công ở Tra Thụ cương thoát khỏi đại nạn, nên mới cho xây ở Vĩnh Phúc này tháp Báo Đức. Thúc Bảo thấy vậy mới kể lại. Tự Xương biết ra, nên quyết giữ lại. Năm cũ qua đi, mãi đến mười bốn tháng giêng mới vào kinh ngày mười lăm thì tại họa ập tới, cả bọn đánh chết công tử Huệ Cập nhà họ Vũ Văn. Hùng Tín lè lưỡi kinh hoàng: - Chết thật! Hùng Tín nghe nói có sáu tên cướp nổi tiếng náo loạn Trường An, chuyện ầm ĩ khắp nơi, cũng chẳng ai biết họ tên là gì mải về sau lại nghe gia tướng của Đường Công Lý Uyên. Hùng Tín cũng chẳng để ý nữa, thì ra bọn tiểu đệ làm chuyện tày trời này sao? Huyền Thúy thêm vào: - Chuyện này thì quả là to gan lớn mật. Nếu không dính dáng đến thế lực vững vàng của Đường Công, bọn Vũ Văn Thuật không tìm ra tung tích, có thể tất cả họ Lý đều mang họa vào thân. Hùng Tín hỏi: - Thế hiện nay Thúc Bảo đã trở về nhà chưa? Bá Đương đáp: - Ngay sau đêm hôm ấy, chúng đệ mỗi người mỗi nơi ngay. Hùng Tín tiếp: - Hùng Tín nhiều lần định đi Sơn Đông thăm Tần hiền đệ, nhưng chưa có dịp nào. Nay nghe chuyện này ý cũng muốn đi Sơn Đông một chuyến xem sao. Bá Đương vội đỡ lời: - Chúng đệ đã lâu cũng muốn đến thăm nhị ca, hai nữa cũng đến mời nhị ca đi Sơn Đông một chuyến. Hùng Tín hỏi: - Có chuyện gì chăng? Bá Đương đáp: - Năm nay, ngày hai mươi ba tháng chín, thì mẫu thân Tần đại huynh vừa tròn lục tuẩn. Thúc Bảo vốn chí hiếu, sau chuyện đại náo Trường An, lúc vội vàng chia tay, trên ngựa Thúc Bảo còn dặn dò: "Mẫu thân vừa đúng lục tuần, vào ngày hai mươi ba tháng chín năm nay, các bạn nếu như không bỏ Thúc Bảo này, xin đến mừng, để tệ xá thêm rực rỡ". Vì vậy tiểu đệ đi Trường An tìm Huyển Thúy, lại tình cờ gặp cả Sài Tự Xương, đang ở Trường An làm chuyện gì đó cho nhạc phụ Đường Công, có mấy ngàn lượng bạc, muốn tặng Thúc Bảo, Tự Xương cũng sẽ trỡ về đem đến vào dịp này luôn. Cho nên tiểu đệ rũ Huyền Thúy đến mời nhị ca cùng đi. Chính là:

Giao kết Trần Lôi (1) nghĩa sắc son Tình như cốt nhục chẳng hao mòn. Bàn đào chúc thọ hàng con cháu Tuổi mẹ dài lâu vững núi non. 1 Trần Lôi: Trần Trọng và Lôi Nghĩa, người đời Đông Hán, là đôi bạn rất thân, sống chết có nhau, dân gian khen: "Vững bền như thể keo sơn, vẫn thua hai gã Lôi Trần vùng ta"(Từ Hải)

Hùng Tín bàn thêm: - Chuyện này rất là hay rồi. Chỉ có điều: bạn bè chúng ta thì nhiều, người biết chuyện thì nói: Bá Đương đứng ra mời Hùng Tín đi Tế Châu, cùng dự lễ thọ của Tần mẫu. Người không biết chuyện sẽ phàn nàn, Hùng Tín đối với bạn bè chỗ thân chỗ sơ, đi Sơn Đông chúc thọ Tần mẫu chỉ rũ mình Bá Đương, mà không thèm nói với mình một tiếng. Thế là bao nhiêu tội đổ lên đầu Hùng Tín này cả. Huyền Thúy nói: - Tiểu đệ có ngụ ý như thế này. Nhị ca chỉ cần làm một việc mà được hai. Hùng Tín giục: - Xin Hiền đệ cứ nói. Huyền Thúy đáp: - Nhị ca cứ nói với tất cả bạn bè thân tín, mời mọi người cùng đi. Trước là làm cho lễ mừng của Tần mẫu thêm long trọng, sau nữa nhị ca khỏi mang tiếng hậu bạc khác nhau với bạn bè. Thúc Bảo hiện nay thật chưa dư dật gì lắm, nên ta mang lễ mừng kha khá vào, điều này cũng tỏ ý biết rõ bạn bè của chúng ta như vậy. Hùng Tín đáp: - Hay lắm! Chỉ lo thế này: bạn bè ở vùng Lộ Châu, chỉ cần đưa thiếp mời đến cũng kịp nhưng ở xa lại sợ chẳng biết có nhà hay không, lỡ cả ngày mừng thọ, thành chuyện không hay. Phải làm thế này mới xong, nhưng xin hai hiền đệ hãy uống rượu đi đã rồi hãy bàn tiếp vậy. Hùng Tín quay vào nhà trong lấy ra hai mươi lạng bạc vụn, chia làm hai gói, rút ra hai mũi tên lệnh của mình. Hùng Tín vốn không phải là quan võ, làm sao lại dùng lệnh tiễn. Nguyên là cái lệnh tiễn này cũng giống như một cái thẻ tre, trên có viết tên tuổi, đóng dấu riêng của Hùng Tín, để làm hiệu riêng trong đám anh hùng giang hồ quen biết, bạn bè thấy cái thẻ đó, như thấy hiệu lệnh tập hợp, lên đường không trù trừ. Hai thẻ lấy ra cùng với hai gói bạc, đặt ngay ngắn trên bàn, rồi sai đầy tớ cầm lại cho Bá Đương. Huyền Thúy xem qua, gọi thủ hạ lại, ai nấy đều náo nức muốn đi, nhốn nháo cả lên: - Xin cho tiểu nhân được đi chuyến này? Hùng Tín chọn hai người: - Hai anh hãy nghe ta nói đây. Ta chọn hai anh vì nhanh nhẹn, được việc hãy chuẩn bị hành lý, yên cương thật chu đáo, mỗi anh nhận mười lạng bạc, làm tiền đi đường cho cả người lẫn ngựa. Cầm lệnh tiễn này, một anh thì tìm thôn Thuận Nghĩa, phủ U Châu, Hà Bắc, đưa lệnh tiễn trình Trương Công Cẩn, nói rõ, ngày mười lăm tháng chín này có mặt ở Nhị Hiền trang cùng nhau đi Tế Châu để kịp ngày hai mươi ba tháng chín dự lễ mừng thọ Tần mẫu. Còn một anh thì đến tìm Vưu viên ngoại ở Vu Nam trang, thuộc Duyên Châu, cũng nói tương tự như vậy, nhưng để khỏi phải đi vòng vèo xa thêm thì hẹn với Vưu viên ngoại không cần phải tới Nhị Hiền trang, mà chuẩn bị sẵn lễ vật, chờ ở bên đường quan rồi sẽ cùng đi Tế Châu một thể. Hai người lĩnh mệnh ra đi. Chính là:

Tin đưa nhanh quá gió Bạn đến chật như mây.

Còn Bá Đương và Huyền Thúy thì suốt ngày rượu chè, đàm đạo cùng Hùng Tín. Đến ngày mười bốn, tháng chín đã có thêm ba hào kiệt tới, đó chính là Trương Công Cẩn, Sử Đại Nại cùng Bách Hiền Đạo ở Thuận Nghĩa thôn U Châu. Dự định sáng mai sẽ lên đường đi Tế Châu. Hùng Tín gọi đầy tớ lấy hai cái thiếp, nói với Bá Đương: - Đồng Bội Chi cùng Kim Quốc Tuấn, năm xưa cũng đã từng kết nghĩa với Thúc Bảo, cũng nên báo cho họ biết, để xem có đi cũng tiện. Bội Chi, Quốc Tuấn được Hùng Tín cho mời, sau khi rõ ngọn ngành, cũng thu thập lễ vật, người ngựa đến Nhị Hiền trang tụ tập. Sáng hôm sau, cả chủ lẫn khách là tám người, dậy thật sớm, kể cả đầy tớ theo hầu là hơn mười người, hành trang lễ vật khí giới tùy thân kéo theo một chiếc xe nhỏ để chở, bọn cưỡi ngựa đi trước, theo lối Nhã Nam tìm đường đi về Sơn đông. Lúc này vào khoảng tháng chín, gió thu gọi rụng lá vàng, cả bọn anh hùng đường trường ruổi ngựa, thì thấy phía trước gió bụi mịt mù, bọn tay chân đi trước quay lại bảo: - Trình các ngài, đã tới địa phận Sơn Đông, trong bìa rừng thấy một vị trung niên, cùng một bậc trai tráng đón đường, sát khí đằng đằng, chúng con không dám đi nữa, quay lại báo các ngài rõ. Bọn tay chân của Hùng Tín cũng thừa biết trong số tám vị đi đây tính ra cũng vài vị đã từng rượu trà với đám lục lâm, vì vậy khi nói những người này, họ cũng giữ ý, mà gọi là vị, là bậc hẳn hoi. Hùng Tín nghe thế, đắc ý cả cười: - Chẳng biết đám anh em nào đấy không biết. Nhận được lệnh tiễn của Hùng Tín này, có ý chờ ở đây để kiếm chác ít nhiều. Hãy để ta xem sao nào! Bội Chi, Quốc Tuấn tự cho mình là bậc hào kiệt mà không thấy hết sự lợi hại của phường lục lâm, nên nói với Hùng Tín: - Xin để chúng tôi lên trước xem sao! Rồi cả hai kéo cương ngựa phóng lên. Hùng Tín nói với Bá Đương. - Hai vị này, tuy là chỗ quen biết lâu ngày, nhưng quả không biết võ nghệ ra sao, mới chỉ nghe hai tiếng lục lâm, là đã xông lên muốn đánh rồi. Bá Đương lắc đầu: - Đơn nhị ca ơi! Hai vị này không làm nên trò gì đâu. Hùng Tín hỏi: - Sao hiền đệ biết? Bá Đương đáp: - Hai vị này chỉ chuyên làm công sai ở Lộ Châu, chẳng có tiếng tăm gì lắm, nghe đến lục lâm, họ cũng nghĩ chẳng khác gì họ, do chưa lịch duyệt nhiều, nên cũng không nhận rõ bản lĩnh của đối phương vậy. Đối phương cũng chưa từng biết tên tuổi họ. Rồi ra lời qua tiếng lại, không khỏi chuyện đao thương, nếu hai vị này thua, thì cũng mang tiếng nhị ca mời họ đi Sơn Đông, không thể bỏ được bạn đồng hành, thế nào nhị ca cũng mang tiếng. Còn nếu bản lĩnh của họ tốt hơn, thì đối phương kia sẽ thiệt hại. Biết đâu cũng là bạn bè mà nhị ca mời đi Sơn Đông chờ ở đấy, thì lại tổn thương đến tình nghĩa giang hồ vậy. Hùng Tín tán đồng: - Hiền đệ nói có lý lắm. Vậy xin nhờ hiền đệ lên xem sao. Bá Đương nhận lời: - Tiểu đệ đâu dám từ nan.

Rồi xách cây thương bạc ruổi lên phía trước, thấy trong đám khói mịt mù, quả nhiên Bội Chi, Quốc Tuấn đang thua chạy quay lại. Thì ra đúng là Sài Tự Xương y hẹn ở đây chờ Bá Đương, hành lý của Tự Xương thì nặng, trang phục đầy màu sắc lấp lánh, như chọc vào mắt bọn Vưu Tuấn Đạt, Trình Giảo Kim nên xảy ra chuyện xung dột ngay. Tự Xương cũng là kẻ có bản lĩnh, nhưng vì một đánh hai, nên cũng có chỗ bất cập, vừa dịp Bội Chi, Quốc Tuấn xông đến bạt đao tương trợ. Giảo Kim giơ búa đón đánh hai người, để mặc Vưu Thông quần với Tự Xương một mình. Giảo Kim chẳng hỏi chẳng rằng, nện hết búa này đến búa khác, làm đến nỗi Bội Chi cùng Quốc Tuấn đều phải bỏ chạy, Giảo Kim giục ngựa đuổi theo. Chẳng khác gì:

Tinh tường như mắt chim ưng Nhanh như chớp, bóng thỏ rừng về hang.

Bội Chi, Quốc Tuấn thấy Bá Đương vội nói: - Gặp phải tay tướng cướp không vừa? Bá Đương nhường đường cho hai người, rồi lặng lẽ tiến lên phía trước, gọi lớn: - Anh bạn ơi! Hãy từ từ xem sao đã, hình như ta với anh đi cùng một con đường thì phải. Giảo Kim vốn nghe không hiểu tiếng vùng kinh đô, cứ thế giơ búa nhằm trán Bá Đương mà nện xuống, miệng thì hét lớn: - Ta chẳng phải kẻ ăn chay niệm phật gì cả, mà kể lể Đạo với Phật! (l) Bá Đương vẫn cười nói: - Anh này quả là nóng tính. Ta với anh đều là bạn lục lâm với nhau cả mà! Giảo Kim đáp: - Dù là lục lâm hay "thất lâm" gì nữa cũng phải bỏ tiền lộ phí ra đây đã. Búa cứ nhằm giữa trán Bá Đương mà bổ xuống một đường sáng loáng, chẳng khác gì nước bạc trút từ trong bầu ra, gió rít mưa gào, lưỡi búa tung hoành. Bá Đương thấy thế nhanh tay múa thương tránh hết miếng này đến miếng khác. Giảo Kim hết sức bình sinh, bổ hết búa nọ búa kia, chẳng búa nào trúng, sức lực cạn dần, tâm thần cũng bắt đầu hoảng loạn, lưỡi búa cũng bắt đầu lúng túng. Lúc này Bá Đương mới cả hai tay, một trước một sau, lao nhanh thương theo đúng thế "Ngân long xuất hải, ngọc mãng thân yêu", một thế thần thương, khó người tránh kịp (2). phóng thẳng vào yết hầu Giảo Kim, nhưng Bá Đương cũng thương tình, hạ thấp tay xuống, rồi rút ngay đường thương hiểm hóc đó về, nên Giảo Kim chưa đến nỗi ngã ngựa. Giảo Kim lại giơ cao búa chém loạn mấy đường vào thương của Bá Đương. Bá Đương quay ngay mũi thương, dùng móc kéo mạnh làm cả người lẫn ngựa Giảo Kim ngã lăn ra đất, Bá Đương cho ngựa chồm tới căn vặn họ tên. Giảo Kim chưa kịp đứng dậy, miệng hét ầm ĩ: 1 Giảo Kim hiểu chữ "đạo" là đường, ra nghĩa Đạo giáo, Phật giáo. 2 "Ngân long xuất hải": rồng bạc bay lên khỏi mặt biển, "ngọc mãng thân yêu": con rắn ngọc quấn chặt lấy lưng.

- Vưu viên ngoại ơi? Cứu ta với! Nhưng lúc này Vưu Thông vẫn đang quần nhau với Tự Xương làm sao mà thoát ra được. Bá Đương nghe thấy thế, liền lớn tiếng gọi cả hai: - Sài Quận mã, Vưu viên ngoại, xin hai vị hãy dừng tay, chúng ta cùng một nhà, cùng đến đây để đi Tế Châu cả mà! Lúc này cả ba xuống ngựa chào hỏi. Giảo Kim cũng đứng dựa vào ngựa, vẫn còn thở hổn hển, từ xa nhìn. Vưu Thông gọi Giảo Kim lại cùng mọi người tương kiến, rồi hỏi Bá Đương: - Đại huynh đã gặp Đơn viên ngoại chưa? Bá Đương chỉ phía sau đáp: - Đơn nhị ca đang lại kia thôi! Cũng vì Bội Chi cùng Quốc Tuấn nói với Hùng Tín gặp phải tên cướp không vừa, nên Hùng Tín vội phi ngựa lên xem sao để còn đối phó. Đến nơi, mọi người chào hỏi. Chính là:

Ngỡ bèo theo gió mà trôi dạt Mừng gió đưa duyên họp bạn bè.

Bá Đương giới thiệu với Hùng Tín: - Đây chính là Sài Quận mã! Cả hai lấy tuổi tác hơn kém để chào nhau. Hùng Tín lại hỏi: - Còn người vừa cho Bội Chi, Quốc Tuấn biết sức lực của đôi búa đâu nữa? Vưu Thông đáp: - Đấy chính là Trình Tri Tiết, bạn của tiểu đệ. Ai nấy đều cười đùa vui vẻ, lại làm lễ chào hỏi. Vưu Thông mời mọi người về Vũ Nam trang nghỉ ngơi. Hùng Tín tính toán: - Hôm nay đã là ngày hai mươi mốt tháng chín rồi, nếu còn đến quý trang Vưu viên ngoại, sợ không kịp ngày sinh nhật. Sau khi làm lễ mừng thọ rồi, đến quý trang chơi vài ngày cũng chưa muộn. Nhưng chẳng hay lễ vật mừng thọ, Vưu viên ngoại đã mang theo chưa? Vưu Thông đáp: - Cũng chẳng có gì nhiều, nên đã đem theo sẵn đây cả! Thế là mười một hảo hán cả thảy, cùng đi Tế Châu, cách khoảng bốn mươi dặm, thì trời đổ chiều, cũng là lúc tới thôn Nghĩa Tang. Thôn này có khoảng ba bốn trăm nóc nhà, cũng là một thị trấn nhỏ, vì khắp thôn đều trồng dâu, dân thôn đều làm nghề dâu tằm, nên có tên Nghĩa Tang này.

Giữa lúc xuân sắp tàn, hạ sắp tới là giữa dâu tằm, thì thôn làng còn tấp nập, nay giữa tháng chín, trời tiết thu vàng, nhà nhà đều đóng cửa cài then. Chỉ có nhà hạ Đại là vẫn mở cửa hàng lớn của mình để đón khách lại qua, buôn bán. Cả bọn hào kiệt đều đến trước cửa hiệu thì xuống ngựa. Chủ quán gọi đầy tớ mang hành lý vào các phòng trọ, cho ngựa vào tàu, rồi lấy thức ăn cho chúng. Còn cả bọn kéo nhau lên gác ngồi nghỉ chờ dọn cơm rượu, thì lại thấy có ba người nữa đừng ngựa trước cửa quán. - Ba người này là ai vậy? Đó là tướng của La Tổng quản ở U Châu, cũng vì Hùng Tín truyền lệnh tiễn cho Trương Công Cẩn, nên Sử Đại Nại, rồi anh em Uất Trì đều biết. Sử Đại Nại thì mới nhận chức kỳ bài quan, cũng chưa có việc gì nhất định cho nên đi trước với Trương Công Cẩn. Anh em Uất Trì thì phải tính toán ít nhiều, phải vào nhờ công tử La Thành thưa chuyện với Tần phu nhân. Phu nhân vẫn nhớ ngày hai mươi ba tháng chín này là ngày lục tuần thọ nhật của chị dâu, cho nên mới bàn với La Tổng quản sai gia tướng đem lễ vật mừng. Anh em Uất Trì vì vậy được La Tổng quản sai đi, vừa việc của người, vừa việc của mình. Lại thêm một tên lính đi theo dắt ngựa thồ hành lý, vậy là ba người cũng vừa dịp hôm ấy đến Nghĩa Tang thôn. Chủ quán từ sau quầy hàng đon đả mời: - Đây đi Tế Châu còn những bốn chục dặm nữa. Lại chẳng còn nơi nào nghỉ ngơi tiện lợi cả, xin mời nhị vị quý khách vào quán đây, cơm rượu sẵn sàng là tốt hơn cả! Anh em Uất Trì cùng thủ hạ, nâng bao hàng xuống, vào quán. Chủ quán bước ra sắp xếp rối rít: - Trước cả hai quý khách, đã có một đoàn các ngài đang ăn uống trên lầu từ lâu, xem ra có vẻ say sưa cả rồi. Hai vị vốn là khách quý, lên lầu bây giờ cũng có điều không tiện, dưới phòng có phòng đầu nhà kia rất tươm tất, xin mời hai vị vào đấy lại thêm tự tại thoải mái dùng cơm tối là hơn cả. Uất Trì Nam đáp: - Bác chủ quán thật là một tiểu nhị biết người biết việc. Ngồi với mấy ngài nốc rượu say như thế thì chúng ta chẳng thích thú gì, ở dưới này mà lại hay hơn đấy! Chủ quán sai bày cơm rượu cho anh em Uất Trì.

***

Lại nói chuyện mười một vị hảo hán ở trên lầu, vừa cơm rượu, vừa chuyện trò vui vẻ, rượu đã ngà ngà say cả, riêng Giảo Kim thì đã túy lúy rồi. Giảo Kim vốn nghiện nặng, thấy rượu thì phải uống kỳ say mới thôi. Cầm bát rượu trong tay, Giảo Kim vừa lè nhè kể lại những ngày khốn nạn ở ải quan. - Tiểu đệ đã từng bị đi đày ở ải quan nhiều năm, chẳng còn khổ cực nào bằng. Trở về chẳng bao lâu, may gặp Vưu viên ngoại, mời đi rừng Trường Diệp, làm một chuyến kiếm sống. Nay lại dược kết giao với các bậc hào kiệt trong thiên hạ, tiểu đệ thật sung sướng không lúc nào bằng. Bao nhiêu điều ấp ủ trong lòng lâu nay chưa nói ra được thì bây giờ cứ thế Giảo Kim tuôn ra một mạch, không cần nghĩ ngợi, đắn đo gì cả. Lại cạn thêm một bát rượu nữa, dằn mạnh cái bát xuống bàn, ra ý đã cạn rồi miệng lại gào lớn: - Thế này mới là uống chứ? Tất nhiên cái bát làm sao mà có thể chịu nổi một cú trời giáng như thế, lập tức vỡ ra như bột phấn, Giảo Kim lại dậm chân, đạp mạnh một cái nữa, sàn gác lập tức lại thủng ngay một đám lớn dưới chân.

Mừng rơn thành rộng tượng Say tít hóa đa ngôn.

Dân vùng Sơn Đông làm những lầu gác kiểu này, thì sân chỉ là mấy cây dương liễu cưa cho vừa, xếp cho khít, hai đầu cũng có khóa ngàm sơ sơ nên cũng chẳng thể nào chịu được những chấn động mạnh như thế. Lập tức bụi đất rơi vãi khắp từng dưới, nơi anh em Uất Trì đang ăn uống. Cũng may, Uất Trì Nam bình tĩnh, hỏi rất từ tốn: - Vị khách nào trên ấy, sao lại xấu chơi thế? Uất Trì Bắc đang còn ít tuổi, tính hãy còn hung hăng, làm sao chịu nổi những chuyện thế này, ngửa mặt lên trần nhà chửi lớn: - Thằng súc sinh nào trên ấy? Nhai đầy bụng cỏ ngựa rồi, vứt tất cả góc bẩn xuống dưới này phải không? Giảo Kim vốn là người nóng tính, không chịu thua kém ai bao giờ lại nghe chửi thế, vốn ngồi ngay cạnh cầu thang, cứ thế mấy bước nhảy xuống ngay trước mặt Uất Trì Bắc. Cả hai túm chặt lấy nhau, trong phòng chặt chội, lôi đi kéo lại, quần nhiễu áo lụa, cứ thế mà toạc từng miếng lớn. Thấy thế, Uất Trì Nam cũng chẳng lại can, mà lại ra vẻ quan dạng, gọi chủ quán, chỉ cho y thấy cảnh đánh đấm đang kịch liệt trong phòng nhỏ rồi hỏi: - Nơi này thuộc nha phủ nào cai quản đây tiểu nhị? Hùng Tín ở trên lầu nghe cách nói năng thế, biết ngay là vẻ khệnh khạng của hạng quan cách, lập tức tức khí, hét lớn tiếng: - Các bạn, vị khách dưới nhà mở miệng ra đầy vẻ kẻ cả. Ở cái chốn hoang thông dã điếm như thế này, uống rượu say rồi nện nhau vài hiệp, ai mạnh thì thắng, hỏi gì đến chuyện ai cai quản làm gì, mà phải động đến phủ đường với quan nha? Nhưng do nói tiếng thổ âm vùng U Châu, cho nên trên gác này, Công Cẩn cũng nghe ra, bèn can: - Xin Đơn nhị ca khoan nóng giận. Hình như giọng nói vùng quê U Châu của tiểu đệ thì phải. Hùng Tín giục: - Thế thì tiểu đệ hãy xuống ngay xem sao! Công Cẩn mới bước xuống thang, đã nhận ra Uất Trì Nam, liền quay ngay lên nói lại với Hùng Tín: - Đơn nhị ca, thì ra lại cũng anh em Uất Trì cả thôi! Thấy Công Cẩn cùng mọi người, kịp nghĩ ra kẻ đang ẩu đả với Uất Trì Bắc cũng là bạn bè, Uất Trì Bắc hãy dừng tay. Vưu Thông kéo ngay Giảo Kim ra. Giảo Kim, Uất Trì Bắc đều phải đi thay quần áo khác quay lại làm lễ tương kiến với mọi người. Còn chủ quán thì sai đầy tớ vác cưa đục lên lầu, chữa lại chỗ sàn gác bị hỏng, tiếng đục, tiếng cưa inh tai. Lại tiệc rượu, Hùng Tín đếm đủ mười ba hảo hán, đèn nến đốt sáng, rượu cứ rót tràn. Nhưng người đông, ý lại khác, kẻ nào thích rượu thì cứ bám lấy bàn lấy ghế, hết uống lại chuyện trò. Có người do mệt nhọc, sai đầy tớ giải chăn đệm, nằm ngủ tít trong phòng riêng. Lại có bậc cao hứng, ra khỏi cửa hàng, đêm khuya, ánh trăng le lói dắt nhau dạo dưới hàng dâu cao, kể chuyện xa cách, gặp gỡ lâu nay của bậc giang hồ hảo hán. Còn ngồi lại trên gác, chỉ có Công Cẩn, Hiển Đạo, Đại Nại đều là bạn rượu lâu nay, ba tháng cùng nhau mở Đả lôi đài ở thôn Thuận Nghĩa, Đại Nại trở thành kỳ bài quan ở U Châu, xa nhau cũng đã lâu, giờ mới có dịp khề khà ấm lạnh. Còn Bội Chi, Quốc Tuấn hôm nay bị Giảo Kim đánh bại gân cốt rã rời, cùng với Sài Tự Xương vốn giữ phong độ quý tộc của mình, nên đều đi nằm sớm. Đám Đơn Hùng Tín, cùng với Vưu Thông, Bá Đương, Huyền Thúy, Uất Trì Nam, dưới rừng dâu chuyện trò khá khuya rồi mới kéo nhau về ngủ. Sang canh năm, cả bọn trở dậy đi Tế Châu, từ thôn Nghĩa Tang này tới Tế Châu còn bốn mươi dặm. Đi được khoảng hai mươi dặm thì trời vừa sáng, còn hai mươi dặm nữa mới tới thành, đã thấy vô số bọn tay chân chào hàng, mời khách trọ. Ở thành Tế Châu này, các quán trọ lớn đều cho tay chân rải khắp các cửa thành để lôi kéo khách. Bọn này đủ các cách khác nhau để giành cho được khách, miệng chào đon đả, kể hết món ăn thức uống sang trọng, lại khoe các thứ hàng lụa gấm rực rỡ, đồ gỗ, yên cương, tha hồ đại ngôn khoác lác. Khách bị lôi khắp, Hùng Tín lúc này vẫn ngồi trên yên ngựa, cũng phải sai phái: - Khỏi được lôi kéo loạn xạ như vậy. Chúng ta đã có nhà trọ quen thuộc lâu nay rồi. Hàng yên cương Giả gia điếm ở cửa tây, chính là chỗ quen thuộc lâu nay của ta. Vốn là từ dạo Giả Nhuận Phủ mở cửa hàng bán yên cương. Hùng Tín mỗi lần ở Lộ Châu có ngựa bán hoặc đi Sơn Đông, đều đến hàng họ Giả. Lúc này cũng có hai kẻ tay chân của họ Giả trong dám này, nghe tiếng, nhận ra Hùng Tín, bèn chạy lại: - A ha! Đơn viên ngoại, chúng tôi chính là tay chân của Giả gia điếm đây. Hùng Tín đáp: - Nếu thế thì một tay hãy dẫn người ngựa, hành lý của chúng ta. Một tay hãy chạy về báo với họ Giả trước. Giả Nhuận Phủ nguyên là bạn thân của Thúc Bảo. Sáng nay cũng đang ở nhà sửa soạn lễ vật, để sáng mai sang mừng thọ Tần mẫu, thấy đầy tớ vào báo: - Trình đại huynh. Đơn viên ngoại cùng các bậc hào kiệt ở Lộ Châu mười hai người nữa đều đã tới. Nhuận Phủ cười nói: - Đơn viên ngoại cùng các bạn hôm nay tới đây cũng là để ngày mai mừng thọ Tần mẫu. Thế là ta phải thay mặt Thúc Bảo lấy lễ chủ khách ra mà tiếp đón. Các anh hãy dọn cất chỗ lễ vật này đi, còn chuẩn bị đón khách.

Rồi sai phái đầu bếp, làm ngay cơm rượu, xem lại chuồng ngựa, thức ăn cho ngựa. Mua sắm thêm trà rượu, các loại hoa quả, thực phẩm, đủ cho hàng chục người ăn uống, cho mời cả đội nhạc tới để thêm phần trọng thể. Nhuận Phủ cũng thay quần áo mới, ra đón các vị khách.

Hùng Tín cùng bạn bè vào đến phủ, đều xuống ngựa đi bộ, xe nhỏ, ngựa, người dắt đều phải đi phía sau. Nhuận Phủ ra đón giữa phố, Hùng Tín nhường cho các bạn đi trước, về đến trước cửa, tháo bỏ yên cương, dẫn ngựa vào chuồng. Nếu là nhà bình thường ở trong thành, thì làm sao mà chứa nổi số người ngựa như vậy, lại là những ngựa thiên lý câu long, ô truy, con nào cũng to lớn, không vừa chuồng, mãi mới đưa vào được. Bàn ghế bày ra, chiếu đệm rải khắp, mọi người cùng chào hỏi, vái nhận bạn bè cũ, giới thiệu bạn bè mới tên tuổi quê quán đều rất mực cẩn thận, thân thiết. Uống một tuần trà, Hùng Tín vẫn thắc thỏm không yên, mới hỏi Nhuận Phủ: - Nhuận Phủ hiền đệ, nhân ngày tốt lành này, Thúc Bảo mời bọn Hùng Tín đến đây, sao không thấy có mặt gặp nhau hôm nay. Kẻo rồi ngay mai, mọi người lại mỗi ngã rồi. Hay là chủ nhân kiếm chưa đủ rượu cho khách uống?

Nhuận Phủ nghe Hùng Tín hỏi thế, lòng thầm nghĩ: "Hôm nay đã là kỳ hẹn thứ hai rồi. Thúc Bảo vẫn chưa thấy tăm hơi gì của bọn cướp Trần Đạt, có lẽ phải vào phủ đường để đổi trát mới. Thúc Bảo là người vốn giàu tình cảm, giờ nghe báo Hùng Tín cùng các bạn tới đây lại càng chẳng yên tâm mà lo lắng việc công. Ta cũng chẳng biết có xảy ra chuyện gì trong phủ thì đi mời Thúc Bảo cũng đành. Đường này đã biết rõ chuyện khó khăn như vậy mà còn vào mời Thúc Bảo ra, thì quả là làm khổ Thúc Bảo đến hai lần". Lại thêm ở đây đông người, không thể kể rõ cả mọi chuyện, nên đành trả lời Hùng Tín chung chung: - Tiểu đệ cho người đi mời Thúc Bảo tới ngay. Nhuận Phủ nói thế, vì sợ mọi người chờ không được bỏ ra phố đi chơi hết, thì rõ chuyện lôi thôi hiện nay của Thúc Bảo ở phủ đường, nên muốn giữ chân khách khứa lại trong quán ăn uống say sưa đã. Chính là:

Tiệc hoa chuốc chén đồi mồi Rượu bồ đào dễ say người bạn xưa.

***

Không nói chuyện Nhuận Phủ bày rượu giữ khách, lại nói chuyện Thúc Bảo từ buổi dính vào chuyện bắt cướp. Bọn Phàn Kiến Uy cũng ngợi ca Thúc Bảo bản lĩnh giỏi giang, quen thuộc việc bắt cướp có thể làm rất tốt chuyện này, thật ra cũng vô tình làm hại Thúc Bảo. Mà không nghĩ ra cho hết rằng, nếu trên lưng ngựa, một đao một thương, thì quả tình không mấy ai địch nổi Thúc Bảo, nhưng đây là chuyện lùng bắt, sưu tra, thì Thúc Bảo tài năng cũng chẳng hơn gì người khác. Lại nữa chuyện này, hàng tháng nay, cả Kiến Uy, Vạn Nhẫn cùng một bọn năm sáu mươi thổ binh tìm kiếm cũng chẳng ra rồi, muốn trút bỏ công việc cho người khác nhưng đời nào Lưu Thứ sử chịu. Hôm nay bạc ba nghìn lạng vẫn chẳng thấy tăm dạng, nên cả bọn dành kéo nhau vào phủ, xin đổi trát lần thứ hai. Vào đến nghi môn rồi, cửa phủ đóng lại. Lưu Thứ sử hỏi kết quả công việc ngày hôm qua. Thúc Bảo trình thưa đầu đuôi, Lưu Thứ sử ngồi trên công đường, mặt đỏ bừng giận dữ, quát lớn: - Đã mấy tháng nay rồi! Làm sao lại không tìm ra được hai thằng giặc cướp. Rõ ràng là các ngươi thông đồng với chúng, để cam chịu trận đòn ngày hôm nay còn hơn. Quyết hại bản quan chứ không vừa. Nếu đã thế, ta sẽ đánh gấp đôi.

Rồi chẳng nghe biện luận, can gián của xung quanh, Lưu Thứ sử ra lệnh hành tội. Cả năm mươi tư người trong đội thổ binh có ai họ hàng thân thích đều kéo tới trước phủ đường để theo dõi, đoạn đường trước cổng phủ Tế Châu đông nghịt, không còn chen được. Lần hành tội này, Lưu Thứ sử đánh từng người một, mỗi người đủ ba chục roi, nhưng ai bị đánh rồi, vẫn phải nằm chờ trong phủ, vì vậy đánh đủ năm mươi tư người, thì lúc này trời cũng đã chiều, cả bọn mới được lĩnh trát gia hạn, rồi cổng phủ mới mở cho ra.

Bên ngoài là một cảnh huyên náo lạ thường, tiếng khóc như ri, chỗ này thì khiêng, chỗ kia thì dìu, thì vịn, thì cõng trên lưng bọn thổ binh ra khỏi cổng phủ. Cũng có kẻ phải vào tạm trong quán để nghỉ ngơi, cũng có kẻ được đưa về nhà để rồi còn rượu thuốc giảm đau, chạy chữa các vết thương. Chỉ riêng Thúc Bảo là không giống như người khác, qua trận đánh ba mươi roi này, đầy người vết thương nham nhở, roi trúc cứa rách da lòi thịt, mặt mày xây xát máu me bùn đất chỉ có nỗi hối hận, hổ thẹn dày vò trong lòng thì không sao nguôi được. Thúc Bảo ra khỏi phủ, tự mình gượng bước đi. Chính là:

Nửa này đàn sớm sáo trưa Nửa kia nuốt giận gió mưa não nùng.

Chưa rõ mọi chuyện sẽ ra sao, hãy xem hồi sau phân giải.

Hồi Thứ Hai Mươi Ba

Giữa tiệc rượu, kể toàn chuyện ăn cướp, sống chết không nài,

Bên ngọn đèn, đốt phăng trát nã gian, xưa nay hiếm thấy.

Thơ rằng: Dũng sĩ chẳng van nài Hiệp sĩ không bắt bí Sống chết khinh gian nguy Bầu bạn trọng nghĩa khí Ngu Khanh bỏ ấn tướng(1) Hoạn nạn một lòng theo Chẳng như đứa khinh bạc Trở mặt ngay sớm chiều.

1 Ngu Khanh: người thời Chiến quốc, làm tướng nước Triệu. Bạn cũ là Ngụy Tề khốn đốn đến nương nhờ. Ngu Khanh trả ấn tướng cho Triệu, cùng Ngụy Tề đi gặp nhiều trắc trở vẫn không bỏ nhau (Từ Hải).

Bậc hào kiệt trên đời, xem cái chết nhẹ tựa lông chim hồng, mình làm mình chịu, không bao giờ đổ tội cho người khác. Nếu như trời sinh ra có ít nhiều tài năng nhưng tài năng đó chẳng thể vì người khác trong cảnh chín chết một sống, dành cứ lấy cái chết của người, làm cái sống cho mình. Điều đó kẻ hiệp khách anh hùng không thèm làm vậy.

* * *

Lại nói chuyện Thúc Bảo ra khỏi phủ đường, đang xem lại những vết thương đầy trên người mình, thì thấy một cụ già gọi: - Tần kỳ bài! Thúc Bảo ngẩng nhìn ngạc nhiên: - A! Trương xã trưởng! Xã trưởng nói: - Tần kỳ bài gặp phải cái họa không trên ngờ, già này vừa mới mở một quán rượu ngay trước mặt phủ đường đây, xin đem ít rượu để kỳ bài quên đi nỗi buồn phiền này. Xã trưởng họ Trương hàng ngày cũng thường được Thúc Bảo chở che cho điều này việc khác, vì vậy mới có thái độ ân cần như thế. Thúc Bảo đáp: - Xã trưởng đã có lòng chăm sóc. Thúc Bảo không dám chối từ. Xã trưởng đưa Thúc Bảo về quán, dẫn mãi vào phía trong, không còn là nơi của khách khứa nhậu nhẹt hàng ngày mà là phòng riêng của gia đình. Bọn người nhà mang trà ra uống. Bàn ngoài dọn thức nhắm, lại thêm một hồ rượu đã hâm nóng. Xã trưởng rót một chén rượu đưa mời Thúc Bảo. Thúc Bảo đỡ lấy, rơi nước mắt, xã trưởng lựa lời an ủi: - Tần kỳ bài chẳng nên thương cảm làm gì. Bắt được bọn này, thì lại được khen thưởng ngay thôi mà. Trong khi uống rượu, chẳng nên sụt sùi, dễ bị nhiễm bệnh lắm! Thúc Bảo đáp: - Xã trưỡng đã có lòng biết đến, xin thưa thật, Tần Quỳnh này vốn ương ngạnh, đâu có phải vì mấy ngọn roi vừa rồi của Lưu Thứ sử, đau đớn đến không chịu nổi mà khóc than đâu. Xã trưởng ân cần hỏi: - Vậy thì vì chuyện gì hở Tần kỳ bài? Thúc Bảo đáp. - Năm xưa trong dịp đi công văn ở Hà Đông, có một người bạn rất thân của Tần Quỳnh này là Đơn Hùng Tín, cho mấy trăm lạng bạc trước khi về quê, lại còn ân cần dặn dò, không nên làm cái nghề công sai này nữa, "cầu vinh bất tại chu môn hạ", tìm tiếng danh thì không nên tìm ở cửa nhà quan. Lời dặn đó, Tần Quỳnh này không mấy lúc quên, nhưng chỉ vì nôn nóng muốn thành danh lập nghiệp, nên mới vào trướng Lai Tổng quản, một đao một thương, những mong nên công nghiệp nửa quan nửa quân. Chẳng ngờ bị Lưu Thứ sử xin về đây, để đến nỗi cái thân xác cha mẹ để lại cho này bị nhục hình của quan gia, nay nghĩ thẹn với cố nhân, vì thế mà không ngăn được nước mắt vậy.

Hạt lệ rơi ướt đầm Cảm thương lòng khôn cầm Oan khiên thêm nhục nhã Luống thẹn cùng tri âm.

Cũng là vì Thúc Bảo lúc này chưa biết Hùng Tín từ nghìn dặm xa xôi đã tới Tế Châu để dự lễ mừng thọ Tần mẫu, hiện chỉ cách nhau một đoạn phố ngắn. Thúc Bảo đang cùng với Trương xã trưởng uống rượu, chuyện trò, thấy bên ngoài có tiếng người lộn xộn đi vào, rồi có người cao giọng hỏi: - Tần Thúc Bảo có ở đây không? Đầy tớ nhận ra là Phàn Kiến Uy, liền thưa: - Tần kỳ bài hiện đang ở đây! Thưa đô đầu! Xã trưởng vội vàng đứng dậy mời: - Mời đô đầu ngồi uống với chúng tôi vài chén đã! Thúc Bảo mừng rỡ: - Hiền đệ tới rất đúng lúc. Hôm nay Trương xã trưởng nặng tình, hiền đệ hãy cùng uống say với tiểu đệ luôn. Kiến Uy đáp: - Tần đại huynh, lúc này không phải lúc uống rượu, có việc rất cần! Thúc Bảo hỏi: - Có việc gì hiền đệ nói ngay đi xem nào? Kiến Uy ghé sát tai Thúc Bảo nói nhỏ: - Mới rồi đây tiểu đệ cùng với bốn người bạn đi uống rượu giải khuây thấy người người đang bàn tán thì thầm khắp nơi, ở chỗ cửa hàng Giả Nhuận Phủ có tới mười lăm người ngựa mới tới, ăn nói, trang phục đều rất khác lạ, có những người rất đáng nghi ngờ, biết đâu có cả Trần Đạt, Ngưu Kim trong số ấy cũng nên. Thúc Bảo nghe nói thế, vui vẻ hẳn lên: - Đúng là xã trường không nói đùa với ta rồi nhé. Kiến Uy vừa ở cửa tây về cho biết, ở cửa hàng Giả gia điếm, có mấy người đáng ngờ, có thể có cả hai tay cướp ba nghìn lạng bạc trong số đó chăng, Tần Quỳnh này quả không dám uống nữa! Xã trưởng nói: - Rượu của già này quả là rượu có ích, dầu có giúp Tần kỳ bài giải khuây một lúc. Nếu có tin hay, thì xin hai vị đi ngay cho. Bắt được tên cướp, thì già này xin mở tiệc mừng hai vị ngay. Thúc Bảo cùng Kiến Uy từ giã Trương xã trưởng, ra khỏi quán rượu, đi về cửa tây. Lúc này rất đông người, cổng thành vẫn còn chưa đến giờ kéo lên, những kẻ nhàn rỗi đang dạo khắp hàng, khắp chợ, thỉnh thoảng cũng thấy vài kẻ làm sai dịch trong phủ đường, nhưng không phải ở trong đội của Thúc Bảo, Kiến Uy. Bọn này thấy một toán rất đông kẻ lạ mặt, lạ giọng, lạ ăn mặc, nhiều hành lý kéo đến hàng Giả Nhuận Phủ, nên cũng tò mò kéo đến xem, nay lại thấy Thúc Bảo đi cùng Kiến Uy đến đấy, họ được dịp thì thào, chỉ trỏ: - Các ngài xem kìa! Cả hai vị này cũng kéo nhau đến đây, nhất định trong đám kia có chuyện gì, không sai đâu các ngài ạ. Ta chờ xem sao! Có kẻ còn kéo tay Thúc Bảo ân cần: - Tần kỳ bài này! Nếu trong Giả gia điếm có chuyện gì, xin kỳ bài cứ báo hiệu ra ngoài này, chúng tôi sẽ kéo ngay dân đinh, cùng mọi người giúp Tần kỳ bài một tay nhé! Thúc Bảo cũng lắc lắc tay cảm tạ: - Đa tạ chư vị! Xin các vị cứ đứng ngoài này, đừng giải tán vội, có gì xin giúp chúng tôi một tay. Đi qua cầu treo, vào đến hàng Nhuận Phủ, các cửa đều thấy đóng, cả cửa bên nách cũng vậy, biển hàng chẳng thấy treo. Thúc Bảo đẩy thử, thấy cửa vẫn không khóa gì cả, bèn quay đầu nói nhỏ với Kiến Uy: - Kiến Uy này, chúng ta không nên vào cả hai người đâu. Kiến Uy hỏi: - Sao lại thế? Thúc Bảo giảng giải: - Cả hai vào, lỡ có xảy ra chuyện gì, không có ai lo việc cứu ứng. Hiền đệ cứ đứng ngoài, để ta vào trước, nếu có chuyện gì, ta sẽ huýt sáo thật to. Hiền đệ ở bên ngoài, cứ thế gọi người ở ngoài phố, ngoài cầu treo tới, chặn đứng lấy hai đầu phố, thế là các ngõ này bị vây kín, tiếp viện cho hai ta ở trong này đối địch. Phải tính mức như vậy mới xong, bởi bọn này cũng là phường bất kể sống chết, mà một đôi khó địch bốn tay, phải không hiền đệ? Kiến Uy đáp: - Tiểu đệ hiểu rồi! Thúc Bảo đẩy cửa ngoài, rồi đẩy cửa thứ hai, đẩy cửa thứ ba, thấy trong phòng lớn, vừa chật những người bàn ghế, tối không trông thấy rõ ràng gì cả. Đó chẳng là ai khác lạ. Các bạn Thúc Bảo, sau khi xuống ngựa cơm nước xong, ai nấy lại vào bàn làm tiệc rượu tiếp, gần các bàn tiệc là đám đầy tớ mang theo, vòng thứ hai là đám gia nhân của Nhuận Phủ, thêm nữa là bọn tay chân, các nhà xung quanh, thấy lạ chiều tối rỗi việc nên kéo sang ăn uống, xem người ca hát, chuyện trò .

Thúc Bảo rón rén đi vào, vì chỉ sợ sánh động, bọn cướp biết sẽ chạy mất, phần cũng ngại Nhuận Phủ nhận ra mình, sẽ thêm lôi thôi, nên Thúc Bảo phải cúi lom khom, men theo chỗ tường tối mà đi vào rồi lẫn vào đám đông lố nhố để xem xét, thấy ai nấy đều cao lớn, dáng hổ vẻ gấu, mũ cao áo rộng, chỉ có một vài người là ăn mặc dáng vẻ đầy tớ mà thôi. Lại thấy thỉnh thoảng có kẻ hướng về phía bàn trong, vừa nói vừa cúi chào đầy vẻ kính trọng, những người vây kín, nên trông cũng chẳng rõ, tiếng nghe cũng bị lấp bởi đủ các âm thanh ồn ào khác. Mãi đến lúc đèn nến được thắp lên, Thúc Bảo mới nhìn rõ vị khách đứng cạnh ghế cao chính giữa bàn trông hao hao giống Đơn Hùng Tín, nhưng Thúc Bảo lại thầm nghĩ: "Người này quả rất giống Đơn nhị ca, nhưng nếu Đơn nhị ca tới thăm ta, thì nhất định phải tới nhà, sao lại ở đây. Giữa lúc trù trừ, phải xem lại cho kỹ, thì ở dãy bàn bên trong, ai nấy đã yên vị, rồi thấy có tiếng chủ nhân Nhuận Phủ nói rõ ràng: - Xin mời Đơn viên ngoại ngồi vào ghế giữa cho. Hùng Tín đáp: - Xin thất lễ cùng các vị. Rồi cả tiếng Bá Đương, cũng vì vậy Thúc Bảo mới nhận ra Bá Đương. Lúc này Thúc Bảo lại thầm nghĩ: "Mình thật đến lúc đổ đốn rồi đây! Rõ ràng là mình đã mời Bá Đương đến Tế Châu để dự lễ mừng thọ mẫu thân, thôi mau hãy ra khỏi nơi này ngay, không thì chẳng còn mặt mũi nào nữa?". Liền vội vàng quay ra. Đến cửa ngoài. Kiến Uy đã gọi khá nhiều người trực sẵn, ai nấy đều xúm lại hỏi: - Tần kỳ bài, ở trong ấy ra sao? Thúc Bảo trách Kiến Uy: - Hiền đệ nhận nhầm rồi. Đây là Đơn nhị ca cùng các bạn bè ở Lộ Châu. Năm trước hiền đệ đã từng gặp họ ở Nhị Hiền trang, rồi lại còn tặng tiền lộ phí cho hiền đệ về Tế Châu. Thế là từ chiều đến giờ bọn tiểu nhân mà nghe được chuyện này, chúng sẽ đồn ầm lên đủ thứ chuyện, thì tính làm sao đây? Kiến Uy phân bua: - Thì vào tiểu đệ đã thấy gì đâu, cũng chẳng ai nói là Đơn nhị ca. Cứ nghe nói thế, liền đến gặp đại huynh. Việc đã thế này, ta lại quay vào vậy thôi chứ sao? Mọi người càng kéo đến đông. Kiến Uy phải chen mãi mới vào được. Thúc Bảo chỉ sợ bạn bè trong nhà Nhuận Phủ biết được thì chẳng hay ho gì, nên đành phải lên tiếng: - Xin mời chư vị giải tán cho thôi! Không có chuyện gì lạ đâu, cũng chẳng phải người xấu đâu. Đó là một người rất tiếng tăm ở Lộ Châu là Đơn viên ngoại cùng bạn bè, đến thăm để ngày mai làm lễ mừng thọ mẫu thân tiểu nhân này thôi! Người đông cũng phiền, hết người này hỏi, lại người khác hỏi, mãi không dứt ra được. Lại nói Hùng Tín ngồi ở vị trí chủ trì tiệc rượu, biết trong số bạn bè, cũng có những người hay gây những việc phiền toái, cần phải lưu ý luôn. Mới thấy có chuyện lạ, Hùng Tín đã hỏi Nhuận Phủ: - Giả hiền đệ, vừa rồi lúc sắp xếp chỗ ngồi, lố nhố rất nhiều người ngoài thềm. Hùng Tín này thoáng thấy có một gã cao lớn, lẫn núp lom khom sau lưng đám đông, nhìn nhìn ngó ngó chúng ta một hồi rồi chạy ra ngoài, ai nấy cũng mặc cho gã đi mất. Hiền đệ thử chạy ra xem gã là ai?

Nhuận Phủ nhân có lời Hùng Tín, vội chạy ra ngoài cửa xem xét vẫn còn mấy đám đông đang vây lấy Thúc Bảo chưa dứt ra được, Nhuận Phủ vội túm ngay lấy Thúc Bảo. - Tần đại huynh! Đơn nhị ca vì chuyện sinh nhật của bá mẫu mà nghìn dặm tới đây, hiện đang ở trong chỗ tiểu đệ, sai tiểu đệ tìm đại huynh đến ngay. Tiểu đệ cũng biết hôm nay đại huynh có việc rầy rà ở phủ đường, không dám tới quấy rầy, làm sao mà tới được ngay, thật đang trăm phần bối rối. Chỉ sợ Đơn nhị ca biết, làm thế nào bây giờ? Thúc Bảo cũng chưa tiện nói ra chuyện Kiến Uy vội vàng báo nhầm, đành phải "tương kế tựu kế" nói tránh: - Hiền đệ cũng biết rồi. Hôm nay tiểu đệ phải vào phủ đường đổi trát mới, tình cờ biết chuyện Đơn nhị ca đến đây. Nhưng sợ không biết có đúng hay không vội lại xem có đích xác. Nhưng tiểu đệ ăn mặc như thế này không thể nào gặp mọi người được. Ngày trước ở Lộ Châu thì thiếu tiền ăn, tiền trọ đến nỗi phải bán cả ngựa, nay ngay ở nhà mình mà ăn mặc thế này để gặp gỡ bạn bè cũ sao được. Phải chờ tiểu đệ về nhà, thay quần áo mới rồi tới đón các vị khách mới phải. Nhuận Phủ bàn: - Về nhà cũng xa, tiểu đệ vừa mới may đến hai bộ quần áo mới, để ngày mai mặc đi mừng thọ bá mẫu cho chững chạc. Dáng người tiểu đệ với đại huynh chẳng khác nhau lắm xin lấy ra đây để đại huynh dùng tạm, khỏi phải về nhà. Rồi sai tay chân, đi cửa sau, đem bộ quần áo mới ra đưa cho Thúc Bảo. Mãi đến lúc này mọi người vây quanh mới rút hết. Thúc Bảo cùng Nhuận Phủ mặt mày rạng rỡ vào nhà, Nhuận Phủ long trọng tiến lại trước dãy bàn tiệc, nói líu cả lưỡi: - Trình Đơn nhị ca cùng chư hữu, tiểu đệ đã mời được Tần đại huynh đến đây rồi! Mọi người đứng dậy náo nhiệt chào đón, lần lượt bái chào, bạn cũ bạn mới. Trước tiên là bái tạ ơn chu toàn tính mạng năm xưa của Hùng Tín, sau đó "bái bái chi giao", các bạn chưa từng gặp mặt, vì thân nên thân, nào tên nào tuổi, cặn kẽ một lượt. Nhuận Phủ đem bát đũa, chọn chỗ ngồi cho Thúc Bảo. Từ Nghĩa Tang thôn đến đây là mười ba vị, với Nhuận Phủ nữa là mười lăm vị cả thảy, thì đã bày sẵn tám bàn, mỗi bàn hai vị, Hùng Tín một mình ngồi bàn giữa. Nhuận Phủ lên tiếng ướm thử: - Tần đại huynh cùng ngồi bàn với Đơn nhị ca là hợp hơn cả! Thúc Bảo từ chối: - Kẻ quân tử lấy đức mà yêu người, không thể cẩu thả mà bỏ chữ lễ cho được. Đơn nhị ca từ nghìn dặm tới mảnh đất cằn cỗi này, Giả hiền đệ đáng phải lạy thêm một lạy nữa. Còn tiểu đệ này cũng đã là một nửa chủ nhà ở đây, có ra thì chỉ nên trộm ngồi ghế chủ nhà, xin mời một vị nào lên ngồi với Đơn nhị ca là thỏa đáng hơn cả. Hùng Tín đáp lời: - Thúc Bảo hiền đệ, vừa rồi chúng tôi xếp chỗ, chỉ tùy tiện mà ngồi, nếu sắp xếp cho có thứ tự trên dưới rõ ràng, thì lại lộn xộn thêm nhiều. Chi bằng tùy ý chủ nhân. Xin mời hiền đệ lại ngồi cùng với Hùng Tín này, để ta cùng nhau kể lể chuyện từ ngày xa cách. Thúc Bảo thấy cũng không tiện chối từ, lại cũng sợ lòng nhiệt tình của Hùng Tín, nên đành phải ngồi cùng bàn với Hùng Tín, nhưng các vị khách khác, từ nghìn dặm tới đây, cũng muốn có dịp chuyện trò, nên có nhiều người nói với Nhuận Phủ rằng: - Đem cất bớt những bàn kê trước mặt Đơn nhị ca để bày hoa quả kia, cả những thứ linh tinh khác vây chung quanh nữa. Chúng ta là chỗ bạn bè thân thiết, rồi kê thêm một dãy bàn ngay trước mặt Đơn nhị ca, chúng ta sẽ cùng ngồi đối diện với Đơn nhị ca để dễ dàng chuyện trò. Thế rồi tất cả bạn bè cùng yên vị, đèn nến sáng trưng, quần hùng tụ hội, tay bắt mặt mừng rất là náo nhiệt, rượu đưa qua lại không ngớt. Rất hợp với bài "Tập Đường thi" (1) sau dây: 1 Xem chú thích hồi thứ mười một, tập II, Nguyên văn dùng từ "Giảm tự Đường thi", cũng là một loại của "Tập Đường thi". Tiệc mừng tân cựu tri âm Chén ngồi hổ phách, rượu thơm bồ đào Tình càng nặng nghĩa càng sâu Dặm nghìn non nước, quê nào khác quê. Lúc đầu Nhuận Phủ lấy chén bằng bạc lớn, mỗi bàn đều uống hai chén. Sau đó Thúc Bảo lên tiếng: - May mắn được chư huynh đến đây với bọn tiểu đệ, nhưng tiểu đệ lại chưa có dịp chính thức khoản đãi, cũng là chuyện "mượn hoa cúng Phật", cũng xin được chuốc mỗi vị một chén. Rồi đi từng bàn, rót rượu mời mọi người, toàn là bạn bè quen. Đến bàn thứ ba là bàn Vưu Thông cùng Trình Giảo Kim, cả hai Thúc Bảo đều chưa quen nghe tiếng, thấy người, nay lại gặp trong cuộc này. Bá Đương, Tự Xương, Huyền Thúy đều là những bậc hào hoa phong nhã, có phong điệu đại gia, quý tộc; Hùng Tín, anh em Uất Trì, Công cẩn, Hiển Đạo, Đại Nại tuy thực thà, chất phác nhưng còn có dáng vẻ ngang tàng, thanh thoát; Bội Chi, Quốc Tuấn thì lâu nay làm công sai ở phủ đường nên còn biết cách ăn mặc, nói năng, chỉ có mỗi Giảo Kim vẫn mang hoàn toàn vẻ thô lỗ dân dã, lại mới gặp nhau ngay trong cuộc gặp gỡ này, ai có thể ngờ là chỗ đi lại quen biết cũ của Thúc Bảo. Thực ra, ngay từ đầu, Vưu Thông cũng đã thấy Giảo Kim nói tới chuyện quen biết Thúc Bảo từ xưa, nhưng nay thấy Thúc Bảo cũng ra điều lãnh đạm, hỏi dăm ba câu, uống dăm ba chén bình thường, nên mới hỏi lại Giảo Kim xem sao. - Hiền đệ, hiền đệ cũng đã trưởng thành, sao vẫn nói chưa thật? Giảo Kim hỏi: - Tiểu đệ không nói dối bao giờ cả, sao đại huynh hỏi thế? Vưu Thông vặn: - Hôm vừa qua, khi nhận được lệnh tiễn của Đơn nhị ca rủ đi mừng thọ Tần mẫu, ta đã nói với hiền đệ: "Hiền đệ không nên đi!". Hiền đệ cứ một mực rằng: "Tần Thúc Bảo với tiểu đệ vốn là bạn bè thuở tóc trái đào". Nếu quả đúng vậy, Thúc Bảo phải biết hiền đệ cũng có mặt ở đây, nay cùng uống rượu với hiền đệ từ trước, cũng chẳng thấy một lời tỏ ra quen thuộc từ xưa, cũng chẳng mời thêm hiền đệ được một chén rượu gọi là, thì duyên cớ làm sao? Giảo Kim tức tối đáp: - Đại huynh không tin, xin để tiểu đệ gọi Thúc Bảo là biết ngay! Vưu Thông đáp: - Hiền đệ thử gọi xem! Giảo Kim lớn tiếng gọi: - Thái Bình Lang! Đại huynh quên bạn bè thuở nhỏ rồi sao? Tiếng gọi giữa bàn như một tiếng sấm, ai nấy đều sửng sốt, đếnThúc Bảo cũng chưa hiểu ra có phải là gọi mình hay không, hoang mang đứng dậy hỏi: - Vị nào quá yêu Tần Quỳnh này, mà biết cả tên thời để chỏm của tiểu đệ thế này? Bá Đương cùng đám bạn bè quen biết cùng vỗ tay tán thưởng: - Tần đại huynh thuở nhỏ còn có tên là Thái Bình Lang sao mãi bây giờ mới thấy nói đến! Nhuận Phủ nghe rõ bèn mách Thúc Bảo: - Chính là vị bạn thân của Vưu viên ngoại, Trình Tri Tiết gọi ra cái tên thuở tóc trái đào ấy của Tần đại huynh đấy! Thúc Bảo kinh ngạc, vội chạy lại trước mặt Giảo Kim, cầm tay áo Giảo Kim, mặt sát mặt, hỏi: - Hiền đệ, xin cho biết quê quán? Trình Giảo Kim rớt nước mắt, đứng dậy, quỳ xuống đất mà rằng: - Tiểu đệ là Trình Nhất Lang ở Ban Cưu điếm. Thúc Bảo nghe thế, lập tức cũng quỳ xuống: - Thì ra hiền đệ là Trình Nhất Lang sao! Bạn thuở tóc trái đào Khói lửa vắng tin nhau Nâng chén không nhớ mặt Lẫm liệt đã anh hào. Thuở nhỏ Thúc Bảo cùng Giảo Kim sáng chiều không lúc nào rời nhau, chẳng khác nào anh em ruột thịt, thế thì tại sao đến nỗi không nhận ra nhau? Cũng vì thuở nhỏ, mặt mũi Giảo Kim không đến nỗi xấu xí như bây giờ, sau này gặp một dị nhân, cho uống một ít thuốc viên, nên mặt trở thành màu xanh, hàm răng mọc chìa ra, tóc thì đỏ, râu thì vàng. Hai người cùng chào bái nhau lần nữa. Thúc Bảo hỏi: - Thuở bé sống bên nhau, thường ngày vẫn nhớ. Mẫu thân tiểu đệ vẫn thường nhắc tới lệnh đường. Xa đã lâu, không rõ lệnh đường còn khỏe mạnh không, chắc đã già lão lắm rồi. Các bạn ngồi xung quanh đều vui mừng vì cuộc gặp gỡ không ngờ này. Thúc Bảo đứng dậy, sai đầy tớ bưng cái ghế cao từ chỗ Hùng Tín đến đặt cạnh chỗ ngồi của Giảo Kim để cùng nhau kể chuyện ấu thơ. Lòng vui mừng chẳng kém gì cuộc gặp lại Hùng Tín. Thúc Bảo ngồi vậy nhưng vẫn có điều không thật thoải mái, vừa rồi cùng ngồi với Hùng Tín, dẫu sao vẫn còn cách một cái bàn, còn xa cách ít nhiều, nâng chén hạ bát, cũng còn tùy tiện, giờ thì Vưu Thông ngồi giữa, phía đầu bàn bên phải là Giảo Kim, còn Thúc Bảo ngồi đối diện với Vưu Thông sát ngay cạnh Giảo Kim, Giảo Kim vốn tính nóng, lại chưa hiểu những nghi lễ bình thường trong giao tiếp, rượu rót ra, Giảo Kim thì chỉ cần một lần nâng chén là cạn sạch. Thúc Bảo uống chầm chậm, lại thêm trận đánh ở công đường vừa rồi, da thịt vẫn còn xót xa, nhức nhối, nên thỉnh thoảng vẫn phải nhăn trán, chau mày. Giảo Kim thấy thế trong lòng không ưng, bèn nói với Thúc Bảo. - Đại huynh nên lại uống rượu với Đơn nhị ca thì hơn? Thúc Bảo ngạc nhiên: - Sao hiền đệ lại nói như vậy? Giảo Kim đáp: - Đại huynh không như ngày xưa nữa. Giờ tầm mắt của đại huynh đã xa hơn, cũng ít nhiều khinh bần ái phú. Vừa rồi ngồi với Đơn nhị ca, sao đại huynh uống rượu có vẻ hân hoan thế, nay mới uống với tiểu đệ vài chén, đã chau mày nhăn trán. Thúc Bảo không thể nói chuyện đau đớn của mình nên chỉ đáp: - Hiền đệ chẳng nên nhiều lời, tiểu đệ này không phải loại người như vậy đâu. Nhuận Phủ thanh minh hộ cho Thúc Bảo: - Trình hiền đệ cũng nên thể tất cho Tần đại huynh, cũng vì bởi mấy hôm nay Tần đại huynh không được khỏe. Hùng Tín vốn rất thân thiết với Thúc Bảo, liền hỏi ngay Nhuận Phủ: - Thúc Bảo không được khỏe là làm sao? Nhuận Phủ đáp: - Chuyện dài lắm, một lời không hết! Hùng Tín vẫn hỏi tiếp: - Đây đều là bạn bè thân thiết cả, dài ngắn gì cũng cứ nên nói. Nhuận Phủ hỏi bọn tay chân: - Bọn người đứng phía ngoài kia là ai? Một người thưa: - Đều là người nhà các vị quý khách cả! Nhuận Phủ bèn nói với bọn tay chân của mình: - Các anh không hiểu gì cả, là chủ nhà mà không biết cách tiếp đón khách khứa. Đi ra mới biết có đáng mặt chủ không. Các anh hãy đem trà rượu ra tiếp các bạn mình cho tử tế đi nào! Rồi hướng về phía bọn người nhà của khách khứa ôn tồn. Nhuận Phủ nói tiếp: - Các bạn xin mời vào nhà ngoài, chuẩn bị cơm rượu buổi tối cho vui vẻ, ta đã cử người phục dịch chu tất. Thế là Nhuận Phủ mời cả bọn ra nhà ngoài, tự mình đóng kỹ các cửa, rồi mới quay trở lại ngồi vào ghế của mình. Mọi người thấy hành động khác thường này của Nhuận Phủ, chưa hiểu rõ thế nào, đều lấy làm ngạc nhiên. Hùng Tín lúc này mới lên tiếng: - Hiền đệ, chuyện của Thúc Bảo làm sao, xin hiền đệ giải thích ngay cho. Nhuận Phủ đáp: - Chuyện này cũng là chuyện ít nghe, ít thấy. Từ ngày vua mới lên ngôi, khởi công thổ mộc, xây điện đắp hồ, các phủ huyện ở Sơn Đông, đều phải góp một suất ba nghìn lạng bạc. Phủ Thanh Châu sai quan áp tải ba nghìn lạng bạc này lên kinh, lúc qua Trường Diệp, bị hai ông bạn lục lâm nào đó lấy hết, lại giết chết quan lẫn lính. Giết người, cướp của cũng là chuyện bình thường, nhưng lạ hơn cả là sau đó hai tay lục lâm này còn xưng cả tên tuổi: một là Trần Đạt, hai là Ngưu Kim. Chuyện xảy ra trên đất Tế Châu, cho nên Thứ sử Thanh Châu mới trình công văn về Đông Kinh. Đông Kinh lệnh cho Tế Châu phải bồi thường số bạc bị cướp, bắt cho kỳ được hai tay lục lâm này. Tần đại huynh đang làm kỳ bài quan ở soái phủ Lai Tổng quản, tương lai thật rực rỡ, thì lại bị điều về đây khoác phải chuyện bắt bọn lục lâm này vào cổ. Kỳ hạn thứ nhất hết. Thúc Bảo còn chưa về, nên chưa bị phạt. Kỳ hạn thứ hai vẫn không tăm hơi nên cũng bị đánh đòn. Đến ngày hai mươi tư tháng chín này là hạn cuối cùng, nếu vẫn tìm không ra manh mối. Lưu Thứ sử định bắt mười người đứng đầu chia mà đền ba nghìn lạng bạc, nếu không đền được, sẽ phải giải đi Đông Kinh, để tổng lý Vũ Văn Khải xét xử. Không biết rồi chuyện sẽ ra sao? Mọi người nghe xong, đều yên lặng nhìn nhau, lắc đấu lè lưỡi kinh ngạc, sợ hãi. Chuyện không thiết thân thì thôi, thiết thân thì phải lo. Vưu Thông đưa tay luôn dưới gầm bàn, kéo đùi Giảo Kim ra hiệu. Giảo Kim lập tức to tiếng: - Vưu đại huynh, dù đại huynh có kéo co gì đi nữa thì tiểu đệ vẫn phải nói ra. Vưu Thông mồ hôi đầy người, mà vẫn không dám nhúc nhích. Thúc Bảo lại hỏi: - Hiền đệ nói cái gì thế? Giảo Kim rót một chén rượu lớn rồi đáp: - Tần đại huynh, xin đại huynh cạn chén rượu này rồi ngày mai, sau khi làm lễ mừng thọ bá mẫu xong, sẽ có ngay Trần Đạt cùng Ngưu Kim để đại huynh dẫn đi lĩnh thưởng. Thúc Bảo cả mừng, uống một hơi cạn chén rượu lớn, rồi hỏi nữa: - Hiền đệ, hai người này hiện đang ở đâu? Giảo Kim đáp: - Ở đây có chuyện viên quan áp tải bạc nghe nhầm tên tuổi người cướp số bạc, mà chính là Trình Giảo Kim với Vưu Tuấn Đạt, tức là tiểu đệ cùng Vưu đại huynh đây! Mọi người nghe nói vậy, mặt mày ai nấy đều trắng bệch cả, đứng cả dậy. Nhuận Phủ vội đóng ngay cửa sổ ở hai bên lại, rồi tất cả đều xúm xung quanh bàn của ba người. Hùng Tín lên tiếng trước: Thúc Bảo hiền đệ, việc này làm sao bây giờ? Thúc Bảo đáp: - Nhị ca chẳng cần phải lo sợ, chẳng có chuyện này đâu. Giảo Kim với tiểu đệ chơi với nhau từ nhỏ. Giảo Kim vẫn được mang tên hiệu là Trình phá quấy. Vừa rồi nghe Nhuận Phủ nói thế, thấy tiểu đệ dang có điều lo lắng. Giảo Kim đùa vài câu, mong tiểu đệ quên được chuyện đáng ngại này chăng, để cùng vui vẻ với khách xa. Người có trí phải biết phân biệt chuyện thật với chuyện giả. Làm sao lại có thể tin mấy câu này cho được. Giảo Kim lúc này như phát cuồng, hét lên như sấm: - Tần đại huynh, đại huynh quá coi thường tiểu đệ. Đây là chuyện thế nào mà tiểu đệ dám đem ra làm chuyện đùa cho được, nếu như thế thì tiểu đệ không khác gì chó má. Vừa nói vừa lôi ra một túi lớn, tay kéo miệng túi, tay thò vào trong lấy ra hàng chục đỉnh bạc lớn, đặt lần lượt lên mặt bàn, rồi chỉ vào những thỏi bạc: - Đây chính là những thỏi bạc của Duyên Châu, tiểu đệ mang theo làm lễ mừng thọ. Tế Châu làm gì có loại bạc này được? Thúc Bảo thấy sự việc quá rõ ràng, bèn nhặt những thỏi bạc bỏ vào trong túi áo mình, còn mọi người đều ngây mặt đứng nhìn. Chưa ai nói lời nào, duy chỉ Hùng Tín là người trấn tĩnh trước tiên: - Thúc Bảo hiền đệ? Chuyện này là chuyện sống chết của hiền đệ cùng Vưu viên ngoại với Trình Giảo Kim. Theo Hùng Tín này nghĩ thì có hai điều rất khó xử ở đây. Thúc Bảo khó khăn lắm mới cất được mấy tiếng: - Có những chuyện gì không tiện ở đây? Hùng Tín đáp: - Năm xưa ở Nhị Hiền trang, Hùng Tín này đã cùng hiền đệ "nhất bái chi giao" thề cùng nhau sống chết. Không phải bỗng chốc mà làm khác đi được. Nay nếu có lời nói với hiền đệ hãy tha cho hai người này, thì nhất định hiền đệ sẽ nghe theo. Người ta sẽ bắt giải hiền đệ về kinh, chẳng chóng thì chày, người ta sẽ kết liễu tính mạng hiền đệ, lời thề đồng sinh tử của chúng ta sẽ ra sao. Nay nếu đem Trình Giảo Kim cùng Vưu viên ngoại để hiền đệ nạp quan mà lấy thường, thì chính Hùng Tín này mời họ tới Tế Châu để dự lễ sinh nhật Tần mẫu, giờ hại đến mạng sống của họ, chúng ta làm thế nào mà yên lòng cho được. Đó chính là hai điều khó xử. Thúc Bảo đáp: - Xin nghe theo sự phân xử của Đơn nhị ca? Hùng Tín cúi đầu nghĩ ngợi một chốc rồi ngẩng lên nói: - Hiện giờ ta có chỗ chưa làm ngay mọi chuyện được, mà phải xin gia hạn thêm khoảng một hai ngày mới được. Thúc Bảo hỏi: - Sao lại phải xin gia hạn một hai ngày làm gì nữa? Hùng Tín đáp: - Chúng ta ai mà ngờ được có chuyện tầy trời này, nên chẳng ai tới đây với mục đích giúp một tay để gỡ chuyện này cả. Ngày mai còn tới làm lễ bái thọ Tần mẫu, dâng ít lễ mọn. Rượu thì cũng chẳng nên bày vẽ nữa, với cả những chuyện động trời đang phải lo như vậy, thì cũng chẳng còn lòng nào mà ngồi uống rượu, nên xong việc thì ai về nhà ấy. Hiền đệ chỉ cần đến phủ đường thưa rằng nghe tin có hai người này, rồi lĩnh lính tráng vây Vũ Nam trang. Giảo Kim cùng Vưu Tuấn Đạt cũng chẳng phải trói gà không chặt để đến nỗi bó tay chịu trói, có thể đấu nhau một vài hiệp giả vờ, thắng bại thế nào thì ta thử lượng trước xem. Hùng Tín này nghĩ bước đầu như vậy. Theo ý Thúc Bảo hiền đệ, thì như thế có được không? Ông chài ngoài cuộc khoanh tay Mặc cho hai phía cò trai tranh hùng. Thúc Bảo đáp: - Nhị ca tự cho rằng mình là hào kiệt, mà nghĩ rằng trong thiên hạ không còn ai đáng mặt anh hào nữa hay sao? Hùng Tín hỏi: - Tại sao hiền đệ lại mắng Hùng Tín này thậm tệ đến vậy. Thúc Bảo trả lời: - Tiểu đệ sao lại dám vô lễ thế cho được. Năm xưa điên đảo ở Lộ Châu, cảm ơn cứu sống của Nhị ca bao lần, những mong muốn báo đền mà vẫn không xong. Chẳng cần phải nói chuyện tới Trình Giảo Kim cùng Vưu Tuấn Đạt là do chỗ bạn thân tình, mà Nhị ca mời đến đây để mừng lễ sinh nhật của mẫu thân tiểu đệ này, mà dù họ có tự đến đi chăng nữa, thì Giảo Kim với tiểu đệ cũng là chỗ bạn bè từ thuở còn để tóc trái đào, vừa nghe tới chuyện này, đã khẳng khái đứng ra nhận tội, tiểu đệ làm sao lại có thể đang tâm bắt họ. Tưởng cũng phải nói ra ngay điều này, không thì trong lòng bạn bè chúng ta, sẽ có người lo nghĩ gì chăng, mà chưa tiện nói ra. Nay xin nói thẳng như vậy để mọi người cùng nghe mà yên lòng. Nhưng nói bằng lời sợ quý vị chưa tin, nay có vật này không cần phải nói, xin đưa ra đây để các vị xem qua mà hoàn toàn yên tâm cho. Hùng Tín đáp: - Xin hiền đệ cho xem! Thúc Bảo lấy túi đựng công văn, lôi qua trát vừa đổi ở phủ đường, đưa cho Hùng Tín. Hùng Tín cùng mọi người xúm lại xem, trên trát ghi rõ họ tên của hai người. Trần Đạt, Ngưu Kim. Giảo Kim lên tiếng. - Vừa rồi tiểu đệ cũng nói là có hai người mà. Xin được dự lễ mừng thọ xong, sẽ cùng đại huynh Thúc Bảo tới gặp Lưu Thứ sử là tốt hơn cả. Hùng Tín đưa tờ trát trả lại Thúc Bảo. Thúc Bảo cầm lấy, chỉ nghe xoạc một tiếng, tờ trát đã rách nát. Huyền Thúy cùng Tự Xương vội chồm lại giằng lấy, thì Thúc Bảo đã kịp đưa ngọn nến đốt cháy mất rồi! Chính là :

Kể từ ngọn nến thiêu tờ trát Khẳng khái gần xa nức tiếng khen.

Cuối cùng sự thể ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi Thứ Hai Mươi Bốn

Sương tuyết mẹ già, hào kiệt kính dâng lễ thọ,

Kim lan ban trẻ, đạo sư phù phép trừ tà.

Thơ rằng: Chàng chẳng thấy: Đoàn Khanh ra làm tu nông chương (1) Đốt văn tự Mạnh Thường nèo vua Lương (2) Trượng phu liệu việc gan như đấu Há vì lợi hại mà hoang mang Thân nhẹ tình thêm nặng Mạng nguy danh càng tăng Đừng để cho: Hủ nho cười ta tri giao bạc Tham vàng hại bạn như sài lang.

1 Đoàn Khanh: Chưa rõ điển tích. 2 Phùng Huyên, thực khách của Mạnh Thường Quân, nhận đi đòi tô nợ ở ấp Tiết. Phùng đốt hết văn tự nợ để dân ấp Tiết hết lòng với Thường Quân. Sau đó lại sang gặp Lương Huệ Vương, gợi ý cho vua Lương mời Mạnh Thường Quân về làm tướng. Vua Tề vì vậy không dám bỏ Mạnh Thường Quân (Chiến Quốc sách).

Kẻ sĩ mưu lược, kẻ dũng nhiều quyết đoán táo bạo. Trong thiên hạ, việc mà đến tay hạng người trên thì tất cho kế sách chu toàn, tính trước liệu sau, nghĩ điều hơn, lo lẽ thiệt, việc nào mà chẳng lo xong xuôi trọn vẹn. Còn đối với hạng người thứ hai, lúc nào lòng nghĩa hiệp được khơi dậy, cũng chẳng cần nghĩ đến kết cục ra sao, cứ theo ý thích của mình mà làm những việc kinh thiên động địa.

Vừa rồi trước mặt đông đủ bạn bè. Thúc Bảo đột nhiên nghĩ ra chuyện đốt quách trát của Lưu Thứ sử, chẳng nghĩ tới chuyện mai kia sẽ hồi phúc thế nào với phủ đường Tế Châu. Mọi người thấy hành vi khẳng khái của Thúc Bảo, đều thực sự bái phục, cúi lạy sát đất. Thúc Bảo cũng vội quỳ lạy đáp lễ. Chỉ vì:

Thói đời ngẫm lại mỏng như mây Nôn nóng lòng ta chính lúc này Nghĩa nặng tình ai vàng thử lửa Non cao biển rộng đáng khen thay!

Lúc bấy giờ chỉ có Huyền Thúy đút tay trong túi áo đứng nhăn mày ngẫm nghĩ. Tự Xương tựa vào bàn như đang tưởng nói tới chuyện xa xôi nào. Trình Giảo Kim vẫn ngang nhiên đứng yên không chịu quỳ lạy khí khái nói: - Tần đại huynh, không có lẽ thế này. Người xưa đã nói: "Tự hành tác sự, tự thân đương", mình làm ra việc thì tự thân gánh lấy tội. Việc này chính do tiểu đệ gây ra, làm sao lại để liên lụy đến đại huynh. Lúc trước chỉ có tội không bắt được hai chúng tôi, thì tôi còn có thể để đại huynh gánh. Nay trát quan đã đốt đi rồi, làm sao có thể về phúc đáp phủ đường cho được. Thứ sử sợ gì mà không ghép đại huynh vào tội kháng lệnh quan, về hùa với bọn lục lâm, việc sẽ ra thế nào. Huống chi, tiểu đệ vợ con chưa có, chỉ có mỗi mẹ già, nếu đứng ra nhận chuyện này, thì đã có Vưu viên ngoại chu toàn chuyện cơm áo. Sao đại huynh lại làm thế. Nếu xảy ra chuyện không may, bỏ lại mẹ già, vợ con, ai người chăm sóc. Giờ đây tiểu đệ xin có kế này: xin Vưu viên ngoại tận tâm trông coi mẹ già tiểu đệ, tiểu đệ nguyện đứng ra gánh cả tội cho viên ngoại. Thực ra việc giết quan, giết lính cũng mình tiểu đệ. Viên ngoại cũng chẳng có dính dáng gì đến việc đuổi theo quan theo lính về sau. Nói rõ tên tuổi cũng là tội ở tiểu đệ nốt, chẳng quan hệ gì đến viên ngoại. Cứ thế mà đến đối chất ở phủ đường. Chỉ cần ngày mai làm lễ mừng thọ xong, tiểu đệ sẽ ra đầu thú, lúc đó Tần đại huynh dẫu có mất trát quan, việc cũng chẳng can hệ mấy nữa. Còn nếu như mất trát, người cũng không bắt được, bạc chẳng tìm ra thì tính mạng Tần đại huynh nguy mất.

Lúc đầu, thấy Thúc Bảo đốt trát quan ai nấy đều thấy khoái ý, nhưng chưa kịp nghĩ tới kết cục sẽ ra sao, nghe Giảo Kim nói, ngẫm nghĩ lại, mọi người mới thấy việc này rõ là nguy hại cho Thúc Bảo. Ai cũng ngẩn người. Huyền Thúy lên tiếng: - Từ việc trát quan này mà suy thì có hai lẽ. Trước khi đốt trát, thì chỉ sợ rằng Tần đại huynh muốn cứu mình, không dám tha Trình Giảo Kim, Tần đại huynh có phải giải tới Đông Kinh giao cho tổng lý Vũ Văn Khải xử đi nữa, thì tiểu đệ có thể thương lượng với Vũ Văn Khải để chu toàn cho Tần đại huynh. Nay lại có việc đốt trát này, thì việc gặp Vũ Văn Khải cũng không thể yên chuyện ngay được, nên có lẽ phải tìm đến Lai Tổng quản, Tổng quản ngày xưa vốn là thuộc hạ dưới trướng phụ thân tiểu đệ, tiểu đệ cùng tổng quản quan hệ rất thân thiết. Huống chi Tần đại huynh cũng vì tổng quản mà nhiều lần ra tay, nên tiểu đệ xin gặp đến tổng quản, nói với họ Lai bịa ra một việc cần kíp nào đó gọi Tần đại huynh về, thì mọi việc có thể xong xuôi. Bá Đương gật đầu: - Đó cũng là một cách. Giảo Kim nói: - Việc này thì hay đấy. Nhưng hai chúng tôi đây chưa bắt được, số bạc chưa tìm thấy, liệu Lưu Thứ sử có để yên cho Tần đại huynh an lành không, phải có người ra mà gánh lấy tội này chứ? Cho nên chỉ để tiểu đệ ra đầu thú là tốt hơn cả thôi. Thúc Bảo bàn: - Ngày mai mọi chuyện xong xuôi, nếu không có cách gì hơn thì tiểu đệ tính chuyện bồi thường số bạc này liệu có xong không? Chính là:

Mười vạn thần quyền Có tiền mua tiên Đen sì mắt sắt Tiền, vàng, được liền.

Thúc Bảo nói đến đây thì Tự Xương liền đập bàn la lớn: - Việc này thì xin hai vị đừng lo, Tự Xương này đã có cách rất tuyệt diệu rồi đây. Trước mặt mọi người, vì sao Tự Xương dám nói ra điều có vẻ khoác lác này. Vốn là Lưu Thứ sử là học trò của phụ thân họ Sài. Sau đó được lấy đậu tri cống cử cho nên họ Sài với Lưu Thứ sử coi nhau như anh em, đáng ra phải đến thăm Lưu Thứ sử, nhưng chưa có lúc nào rỗi. Trong việc này, Lưu Thứ sử chỉ phải lo nhất là đền cho đủ ba nghìn lạng. Nay có ba nghìn lạng của Đường công vừa gửi tặng Thúc Bảo, vậy thì chuyển số tiền này mà bồi thường cho Lưu Thứ sử. Thúc Bảo đành trắng tay, nhưng cả hai phía đều xong công sạch nợ, chính vì thế mà Tự Xương can đảm nhắc lại: - Quả thật tiểu nhân không dám hứa hão với các vị đâu. Lưu Thứ sử đây vốn là môn sinh thuở xưa của thân phụ tiểu nhân, tiểu nhân xin đến gặp Lưu Thứ sử để tìm cách gỡ chuyện này. Giảo Kim nói: - Nếu đã là quan hệ thân thiết đến mức ấy, chỉ đưa cho Thứ sử khoảng một nghìn lạng cũng đủ rồi, làm gì phải cả ba nghìn lạng bạc kia. Vưu Thông: - Chuyện này thì Thúc Bảo đại huynh lấy đâu ra cho đủ. Mà chính chúng ta phải mang số bạc này đến. Tự Xương yêu cầu: - Số bạc này cũng ở tiểu nhân lo liệu cả, chả cần chư huynh phải lo, cứ ngồi yên uống rượu thoải mái, nhưng xin đừng bàn tán linh tinh, người ngoài biết ra, thì lại càng khó xoay xở. Chính là:

Trần Bình sáu lần đưa thần kế Cốt giải vây nên mẹo cũng dễ Này li này chén, cứ say mèm Để mặc bóng trăng non đoài xế.

Hùng Tín tiếp lời: - Lý hiền đệ cùng Sài Quận mã đã đứng ra lo liệu chuyện này cho, thì sau lễ mừng thọ ngày mai, cả hai cùng đi lo ngay cho, xin lấy việc cứu hai bạn của chúng ta làm chuyện cấp thiết vậy. Mưu kế đã có, ai nấy mới thở phào cùng nhau nâng chén, lại đủ chuyện giang hồ hảo hán, rượu hết chai này đến chai khác, cho bõ lúc lo lắng, tính toán. Chẳng bao lâu đã gần canh năm. Thúc Bảo đứng lên xin phép trở về nhà. Về đến nhà vẫn thấy cửa chưa đóng, mẹ già vẫn đứng trước cửa chờ. Trương Thị vẫn đứng cạnh bên mẹ chồng, Thúc Bảo kinh ngạc hỏi: - Sao đến bây giờ mà mẫu thân vẫn còn đứng đây làm gì? Tần mẫu lặng lẽ quay vào. Thúc Bảo vội vàng quỳ xuống trước mặt, Tần mẫu lúc này mới lên tiếng: - Con thật là con nhà oan gia, từ tối đến giờ chẳng biết ăn uống ở đâu, mãi giờ mới thấy mặt. Chẳng hề nghĩ gì đến chuyện gì con đi xa ngàn dặm, mẹ lo lắng ở nhà. Nay tuy con không đi xa ngàn dặm, nhưng đang có việc lo lắng trong việc quan. Ngày hôm qua ở phủ đường ta thấy nhiều người bị phạt đòn, dân phố đâu đâu cũng bàn tán, ta không thể ngồi yên, còn con thì chẳng nghĩ gì đến mối lo lắng này của mẹ già cả. Thúc Bảo thưa: - Con đâu dám quên ơn dưỡng dục của mẫu thân, chỉ vì có việc quan hệ không thể dứt ra mà về ngay được. Tần mẫu hỏi: - Việc gì cần kíp như vậy? Thúc Bảo thưa: - Đơn viên ngoại ở Lộ Châu, năm trước đã cứu con khỏi cảnh thập tử nhất sinh, cùng với rất nhiều bạn bè, vừa mới đến Tế Châu. Sáng nay sẽ tới làm lễ mừng thọ mẫu thân. Tần mẫu nói: - Nếu đã như thế, con phải bàn với Trương Thị. Khách xa, khách quý đến nhà, mọi thứ cần phải sắm sửa, bày đặt cho sạch sẽ, tươm tất, từ trà đến rượu, đến hoa quả, các loại thức ăn.

Thúc Bảo lâu nay vẫn làm kỳ bài quan, cai quản hai mươi lăm tên thổ binh, nay đều gọi đến sai phái công việc, lại thêm cả hai bạn Kiến Uy, Vạn Nhẫn làm đô đầu ở phủ cũng lại giúp. Kiến Uy vốn tay chân vụng về, thì lo việc sắp đặt bàn ghế, rương hòm, lễ vật, tính toán việc thu chi. Vạn Nhẫn vốn viết chữ đẹp thì lo việc viết thiếp, viết chữ câu đối, thơ mừng. Lại còn có Liên Cự Chân lo việc khách khứa, tiếp đón, chào hỏi nghi lễ. Một vài đầy tớ nhanh nhẩu, chuyên dùng ngựa lo việc mua bán ngoài phố cho đầy đủ. Còn Thúc Bảo phải lo liệu mọi thứ, mọi nơi.

Lại không chỉ có bạn bè đã đang ở cửa hàng họ Giả, mà còn có cả khắp sáu phủ của Sơn Đông đều có người đến mừng, thêm bạn bè dưới trướng Lai Tổng quản, cho đến bản thân Tổng quản cũng có sai người đem lễ vật đến. Phủ đường Tế Châu thì từ thứ sử cho đến hai ban văn võ quan viên đều có gửi lễ, hoặc tự thân tới mừng, huyện Lịch Thành cũng vậy. Rồi trong đám lục lâm lâu nay, nhiều người được Thúc Bảo chu toàn cho, tuy không dám ra mặt đến bái thọ tạ ơn, nhưng cũng định nhân đêm hôm tới dâng thiếp mừng, lễ vật. Thấy cảnh nhộn nhịp như vậy. Thúc Bảo vội sai tay chân tin cẩn, chạy ra cửa hàng Nhuận Phủ, thưa với Hùng Tín, hãy khoan đưa bạn bè tới vội, vì chỉ sợ Giảo Kim trong lúc đi đứng, nói năng, có chuyện gì lỡ lầm thì thật không thể biết lời nào mà gỡ kịp.

Cho nên bạn bè ăn uống ở cửa hàng Nhuận Phủ xong xuôi, mãi hết giờ tỵ (1), họ mới qua cầu treo đi vào thành, cả đoàn gồm tới mười bảy vị, không kể bọn theo hầu, bưng lễ vật cũng đến hai mươi người nữa đi thành hàng dài theo dọc phố. Gần tới nơi, đã thấy Thúc Bảo cùng bọn Kiến Uy, quần áo mới, ra tận phố tiếp đón, rồi cùng tiến vào cổng ngõ, hai bên lối đi đều treo đèn, kết hoa rực rỡ, trong nhà lụa gấm phủ đầy khắp chỗ. Giữa nhà trên được quây thành một cái động rực rỡ ánh đèn, ánh nến. Mười bàn lớn được kê thành dãy ngay bán nguyệt đài, đầu bàn bày quả hộp phủ lụa điều, tiếp theo là các loại hoa quả, bánh trái, trà nước... Dưới sân trước bán nguyệt đài cũng rất ngăn nắp, bàn cúng tam sinh được bày ở đây cũng gồm đủ các lễ vật. Mọi người lần lượt bưng lễ mừng lên, đứng ngay bên thềm nhà, bái thọ Tần mẫu, thấy rõ cảnh trước thềm: chính giữa là một bức đại tự, viết bốn chữ cực lớn "Tiết thọ song vinh" (2), hai cột lớn hai bên là đôi câu đối: 1 Giở tỵ: Từ 9 giờ tới 11 giờ trưa. 2 "Tiết thọ song vinh": giữ được tiết hạnh với chồng đã mất, được hưởng tuổi già, cả hai đều được vinh hiển, danh giá.

Bền với tuyết sương, gương đúc sáng Vui cùng tùng bách, tuổi già cao.

Trong nhà các đỉnh đồng cổ, hương trầm bay nghi ngút tỏa mùi thơm, hai bên hai dãy bàn, đèn nến huy hoàng, hoa quả, lụa là rực rỡ, hương đốt nhấp nháy tỏa sáng. Phía bên tả treo một bức tranh vẽ cảnh "Nam Cực Thọ tinh", bên tả cũng một bức vải lớn thêu cảnh "Tây Trì Vương mẫu". Ngoài thềm là một cổng chào lớn, hai bên là chỗ ngồi của đội nhạc, với kèn, trống vui vẻ.

Thúc Bảo đi một bên, cùng với mẫu thân ra đáp lễ mừng của quan khách. Tần mẫu vừa đúng lục tuần, nhưng mấy năm nay, gia cảnh thuận hòa, nên dẫu tóc bạc da mồi nhưng vẫn nhanh nhẹn, hồng hào, mặc bộ quần áo lụa trang nhã, tay cầm tràng hạt, theo sau là hai đứa hầu gái. Đến gần gian chính giữa, trước mặt quan khách đứng đón, Tần mẫu cất tiếng: - Già này với Thúc Bảo vụng dại, chẳng có đức có tài gì mà cũng được các quý khách tới thăm mừng, thật là vinh hạnh quá chừng. Quý khách đường xa mưa gió vất vả, xin nhận ở mẹ con già này lời cảm ơn chân thành. Hùng Tín dẫn đầu cả đoàn tiến lên, rồi tất cả đồng thanh: - Chúng tôi lớp người sau, xin bái lạy để tỏ lòng kính mừng. Thế rồi cả loạt bạn bè hào kiệt cùng bái lạy chúc mừng, phía dưới thềm lại là bọn gia nhân, đầy tớ di theo chủ cũng nhất loạt bái lạy Kiến Uy, Vạn Nhẫn, Cự Chân, đứng ngay cạnh Tần mẫu, giữ hai cánh tay áo Tần mẫu, không cho Tần mẫu lạy trả lễ, mà Thúc Bảo đứng bên cạnh, thay mặt Tần mẫu trả lễ khách quan cùng mọi người. Hùng Tín lên tiếng: - Chỉ sợ bá mẫu mệt, chúng tôi không dám quấy phiền nhiều! Tần mẫu lúc này mới đứng thẳng dậy, tỏ lời cảm ơn một lần nữa. Khách quan lại lần lượt dâng lễ vật, đưa cho Thức Bảo nhận lấy, Thúc Bảo lại đưa từng thứ cho mẫu thân xem qua, rồi lại đưa cho hai đứa hầu gái đặt trịnh trọng lên mặt bàn. Tần mẫu cất tiếng: - Quan khách hậu nghĩa thế này, già này lại thêm tội. Thúc Bảo mang những gấm đoạn, lụa là cùng các bức trướng, câu đối mừng treo lên hai phía cho mọi người cùng xem. Hùng Tín tiến đến trước Tần mẫu đáp lời: - Bá mẫu ở bên, đây mới chỉ là lễ nhỏ, không đáng để mừng thọ. Chúng tôi đã sắp sẵn rượu thọ, xin cho mỗi người dâng ba chén mừng thọ bá mẫu. Thúc Bảo thưa: - Đơn nhị ca, cả ba bạn Kiến Uy đây cũng không dám nghĩ tới chuyện rượu thọ. Lão mẫu tuổi cao, chả nói chén to, ngay cả chén nhỏ, cũng không dám lĩnh nhiều đến thế, xin nhị ca xem lại, tất cả xin nhận ba chén là vừa. Huyền Thúy lên tiếng: - Cứ như Đơn viên ngoại, mỗi người ba chén thì quá nhiều, nhưng Thúc Bảo lại sợ quá ít. Tiểu đệ xin thưa: nếu bạn bè mà chỉ một mình mình đến, xin cho mỗi người ba chén, cả nhà đều đến, cũng chỉ xin ba chén. Lại thêm các thư mừng, trướng mừng, lễ mừng thay người cũng phải được dâng rượu mừng nữa, mỗi lễ cũng phải được dâng ba chén vậy. Thúc Bảo thấy thế vẫn nhiều, nên bàn: - Số rượu này tiểu đệ xin thay mặt lão mẫu uống vậy. Bá Đương lên tiếng: - Như vậy cũng tốt. Mẫu tử cùng thọ thiên thu. Đầu tiên là Hùng Tín, dẫn theo Vương Bá Đương, Lý Huyền Thúy, Đổng Hoàn, Kim Giáp, Trương Công Cẩn, Sử Đại Nại, Bạch Hiền Đạo, đó là tám người cùng đi từ Nhị Hiền trang, mà lễ vật đều do Hùng Tín đứng ra sắm sửa, cả bọn dâng ba chén rượu, Tần mẫu uống một chén còn thì Thúc Bảo uống một chén. Toán thứ hai là Sài Tự Xương, một mình một lễ, Tần mẫu cũng uống hai chén. Thúc Bảo uống một chén, sau đó là đến Uất Trì Nam, Uất Trì Bắc, một lễ, Uất Trì Nam giảng giải: - Hai anh em chúng tôi, tuy có một lễ, nhưng xin được dâng sáu chén rượu thọ. Thúc Bảo hỏi: - Anh em Đơn nhị ca đông đến thế, nhưng theo lời Lý đại huynh cũng chỉ có ba chén. Anh em tiểu đệ tại sao lại những sáu chén? Uất Trì Nam đáp: - Hiền đệ nói thế là tính theo lễ vật, nhưng anh em chúng tôi ngoài lễ vật, còn mang theo thư của Lai Tổng quản, chúng tôi đóng vai gia tướng của Lai Tổng quản, đến đây vì công vụ, nên xin được ba chén để khỏi nhục mệnh chủ. Sau đó mới là chính ba chén của chúng tôi dâng lên bá mẫu vậy! Ai nấy đều cho là hợp lý, Tần mẫu nghe nói là gia tướng của Tần phu nhân sai đến, cũng cố uống hết hai chén, Thúc Bảo uống thay bốn chén. Rồi đến lượt Vưu Thông cùng Giảo Kim. Thúc Bảo lên tiếng: - Đây chính là Trình Nhất Lang ở Ban Cưu điếm ngày xưa. Tần mẫu thất kinh: - Sao lại là Trình Nhất Lang được, chẳng giống như ngày xưa chút nào cả. Nhớ lại hồi ly loạn, cùng lệnh đường nương tựa vào nhau, hai nhà như một, có đến mấy năm, về sau lệnh đường trở về Đông Á, tin tức cách trở, không ngờ gặp lại, lệnh đường có khỏe không? Giảo Kim thưa: - Nhờ ơn bá mẫu, cũng được bình yên. Hôm nay Giảo Kim này đến mừng thọ bá mẫu. Tần mẫu rất vui, uống luôn hai chén. Hùng Tín đứng bên giục: - Chúng ta sẽ nói chuyện tiếp khi ngồi vào bàn tiệc. Xin cho các bạn ở Tế Châu này cũng được nâng chén chúc thọ bá mẫu. Lại thấy Giả Nhuận Phủ, cùng với Phàn Kiến Uy, Liên Minh, Đường Vạn Nhẫn, cũng cùng dâng một lễ, Tần mẫu lên tiếng cảm tạ: - Quan khách từ xa xôi nghìn dặm tới, làm vinh hạnh cho mẹ con già này, xin vui tiệc rượu suốt đêm nay cho! Tần mẫu quay vào bên trong. Thúc Bảo đóng cửa hai bên lại, rồi ai nấy theo thứ tự mà ngồi, cũng không khác gì lắm thứ tự đã ngồi ở Giả gia điếm hôm qua, nay chỉ thêm ba bạn ở Tế Châu, đều là chỗ đi lại thường xuyên trong nhà, nên cũng coi như chủ vậy thôi. Nhạc mừng nổi lên, theo đúng hiệu lệnh, ai nấy cùng nâng chén, nghe theo lệnh điều khiển của Hùng Tín, lấy bài chúc của Hùng Tín, mỗi người đến lượt mình, nâng một cốc rượu lớn, hát bài chúc thọ, cứ sai một chữ phạt thêm một chén rượu. Mở đầu là Hùng Tín, hát mừng.

Long lanh một giải Ngân Hà Sương bay lất phất, trăng già thanh thanh Băng sương thu nguyệt bạch Ngạo hơi thu gặp rét vẫn trinh kiên Bên thềm thơm nức chồi huyên Rượu thọ ngấm thêm bền sức lão Hòa khí như xuân sớm Tuổi thọ tựa Bắc Sơn Này đào tiên Vương Mẫu Này ngọc nữ quỳnh tương Quanh tiệc thọ ngang tàng con với cháu Chúng hào kiệt một niềm hiếu thảo Đại gia đình đàn cháu bạn con Những mong bá mẫu trăm tròn.

Chúng hào kiệt hát những lời này, rồi uống rượu thọ. Bài hát này chính là Huyền Thúy làm khi ở nhà Hùng Tín, bọn họ không phải ai cũng thuộc ngay được. Bá Đương với Công Cẩn, hai người này vốn hiểu văn, biết võ, nên cũng đã quen thuộc, nghe qua là nhớ ngay, hát không sai. Tự Xương tuy mới nghe, nhưng cũng chẳng lạ gì nên đọc vẫn trôi chảy. Nhuận Phủ chữ nghĩa ít nhiều, lại vừa đọc vừa ca. Khổ nhất là Hiền Đạo, Đại Nại, Uất Trì Nam, Uất Trì Bắc, Vưu Thông, Giảo Kim, Quốc Tuấn, Bội Chi, Kiến Uy. Giảo Kim nói: - Cái này thì đúng là khổ tiểu đệ rồi, tiểu đệ làm sao mà nhớ được đọc không ra, xin uống rượu phạt cho xong. Ai nấy đều cười rũ rượi, một hồi lâu, rồi lại cùng nâng chén rượu tràn. Phía nhà ngoài cũng kê bàn ghế đầy đủ, cũng đủ tiệc rượu để mời anh em thổ binh, bọn đẩy tớ tay chân của khách của chủ. Bỗng nghe tiếng gõ cửa ở bên ngoài rất gấp, một thổ binh cầm đèn ra cổng xem sao, thì thấy một đạo sĩ cao lớn, vai vác một thanh bảo kiếm. Thổ binh hỏi: - Đạo sĩ tới đây có việc gì? Đạo nhân đáp: - Ta đi quyên giáo! Thổ binh nói: - Quyên giáo là lúc ban ngày ban mặt. Bây giờ là lúc nào? Xin đừng quấy rầy chúng tôi. Đạo nhân vẫn khăng khăng: - Người khác đi quyên giáo ban ngày, còn bần đạo đi quyên giáo ban đêm vậy thôi! Thổ binh quát: - Nhà người ta đang có việc bận. Ai rỗi hơi mà lý sự với đạo sĩ được. Xin đạo sĩ đi ngay cho được việc. Nói rồi đẩy đạo sĩ ra, nhưng lập tức thấy thổ binh ngửa mặt kêu một tiếng rồi ngã lăn quay xuống chân tường. Đám thổ binh cùng đầy tớ bên trong nghe ra vội chạy tới xúm xít, thấy thổ binh vừa rồi vẫn nằm trên đất, đều định xăn tay áo đánh đạo sĩ một trận, nhưng chỉ thấy đạo sĩ lia tay một vòng, cả bọn đều ngã lăn quay trên nền đất. Một thổ binh hoảng hốt chạy vào nhà báo cho mọi người trên bàn tiệc. Thúc Bảo lớn tiếng quát: - Các anh chẳng biết gì cả, đạo sĩ đã đến hóa trai, thì là tiệc chay hoặc tiệc mặn, cứ mời ăn thật no là xong, sao lại kinh động lên thế? Kiến Uy đứng lên: - Xin Tần đại huynh cứ ngồi tiếp khách. Để tiểu đệ thử ra xem sao. Kiến Uy ra cửa, thấy đạo sĩ cao lớn như dáng hổ dữ, râu tóc vừa tốt vừa dài, thì biết ngay người khác thường, liền cung kính chắp tay thưa: - Đạo trưởng chỉ đến đây hóa trai hay còn điều gì chỉ giáo nữa chăng? Đạo sĩ đáp: - Ta nào phải hóa trai đâu, mà cần gặp Thúc Bảo đại huynh cho biết mặt, nói với Thúc Bảo dăm câu rồi xin đi ngay thôi! Kiến Uy đáp: - Nếu như vậy, xin đạo trưởng chờ cho một lát, tiểu nhân sẽ mời Thúc Bảo đại huynh ra ngay. Kiến Uy trở vào kể lại, Thúc Bảo vội chạy ra, thì thấy đạo sĩ đi vào hỏi: - Vị nào là Thúc Bảo đại huynh? Lúc này chúng hào kiệt nghe chuyện cũng ùa cả ra xem. Thúc Bảo lên tiếng: - Chính là tiểu đệ đây ạ! Rồi vội chắp tay chào đạo sĩ. Đạo sĩ lại hỏi tiếp: - Vị nào là Đơn Hùng Tín ở Nhị Hiền trang? Hùng Tín bước lên đáp: - Tiểu nhân chính thị là Đơn Hùng Tín. Rồi cũng chắp tay chào đạo sĩ. Bá Đương đề nghị: - Đạo trưởng, xin mời vào ngồi cùng với anh em chúng tôi uống chén rượu nhạt vậy. Để anh em chúng tôi cùng được vái chào! Thúc Bảo hỏi họ tên đạo sĩ. Đạo sĩ đáp: - Tiểu đệ họ Từ, tên Hồng Khách! Nghe xong, Thúc Bảo vui mừng thưa: - Thì ra là Từ Hồng Khách đại huynh, hôm nay không hiểu duyên may gì mà chúng tiểu đệ lại được tiếp đón ở đây? Hùng Tín tiếp: - Đại huynh Ngụy Trưng thường hay nhắc tới Từ Hồng đại huynh đây, ngợi ca đại huynh nhiều kỳ mưu dị thuật, văn vũ toàn tài, có thể bàn hoạch đại mưu đại kế. Nay được gặp mặt, thật thỏa nguyện bình sinh. Thúc Bảo kính cẩn mời ngồi, rót rượu đưa tận tay. Hồng Khách nói: - Xin hãy ngồi với bạn một chút. Tiểu đệ còn phải mừng lễ đại thọ của bá mẫu, giờ thì không dám phiền bá mẫu phải ra tiếp. Tiểu đệ ở trong núi, có pha được một ít rượu thơm gọi là "Tiên dịch hương giao". Xin phiền chư huynh dâng lên bá mẫu, tiểu đệ ở ngoài này kính bái cũng đủ rồi. Bèn gọi lấy một mâm rượu không, đầy tớ vội mang đặt lên bàn. Hồng Khách lấy từ trong ống tay áo ra một cái hồ lô, cao khoảng ba bốn thốn, ngước mặt niệm chú mấy câu, rồi lấy móng tay vạch một vạch vỏ ngoài cửa hồ lô, cấm hồ lô nghiêng khẽ rót, một mùi thơm lạ lùng tỏa đầy nhà, khói bay thấp thoáng thành những dãy trắng uốn lượn. Hồng Khách xem đã đúng vạch vừa vạch chưa, rồi dừng lại lên tiếng: - Vốn định trước tiên hãy dâng lên bá mẫu. Nhưng ngại tiểu đệ với Thúc Bảo đây mới gặp nhau lần đầu, sợ có điều gì nghi ngại, tiểu đệ xin uống trước một chén. Nói rồi rót ra một chén, tự uống một hơi cạn, lại rót thêm một chén, đưa cho Thúc Bảo nói: - Đại huynh cũng nên uống một chén, rồi sau phiền đại huynh dâng vào bá mẫu, uống tăng tuổi thọ. Thúc Bảo đáp: - Mấy khi được thấy "Tiên dịch hương giao" ở trên mẫu thân chưa uống, tiểu đệ sao dám uống trước. Chưa nói dứt lời, thì đã thấy Giảo Kim đỡ lấy chén rượu, miệng nói: - Xin để tiểu đệ cùng Tần đại huynh cùng uống là hay hơn cả! Rồi dốc cả chén vào miệng cạn sạch, thì đã thấy vị ngọt thấm khắp lục phủ ngũ tạng, người say ngây ngất. Giảo Kim bèn nài: - Xin cho một chén nữa vậy? Hồng Khách đáp: - Không nên thế! Xin mời dâng vào cho bá mẫu, còn thừa bao nhiêu, sẽ mời chư huynh sau. Thúc Bảo cầm hồ rượu, đi vào nhà trong. Hồng Khách ở ngoài này, quay mặt theo vái đủ bốn lạy. Chính là: Kính dâng thêm thẻ hạc Vâng chuốc chén đào tiên. Lát sau, Thúc Bảo ra, bái tạ Hồng Khách: - Lão mẫu sai tiểu đệ tạ ơn đại huynh vì mấy chén quỳnh tương. Lão mẫu đã uống tới ba chén. Còn bao nhiêu cho Tần Quỳnh này đem ra mời các vị nếm thử. Kiến Uy lại kể cho Thúc Bảo nghe, Hồng Khách đã bái lạy bá mẫu như thế nào, Thúc Bảo lại vội bái lạy đáp lễ. Hồng Khách kéo Thúc Bảo dậy, rồi lấy hồ lô trong tay áo ra, thổi một hơi dài, dốc hồ lô lên, rót cho mỗi người một chén, mãi đến Thúc Bảo thì hồ lô cũng vừa cạn, ai nấy đều xuýt xoa khen ngợi mãi không thôi. Thúc Bảo bèn mời Hồng Khách ngồi ngay cạnh Hùng Tín, mọi người lại ai về chỗ người ấy. Thúc Bảo nói với Hồng Khách: - Lần vừa rồi tiểu đệ có đi công cán ở Trường An, được gặp đại huynh Lý Tĩnh, Lý đại huynh cũng thường nói đến Từ đại huynh luôn. Hùng Tín hỏi: - Từ đại huynh đã lâu không thấy đến chơi với Ngụy Trưng chúng tôi. Hồng Khách đáp: - Tiểu đệ rằm tháng trước có ghé qua Tây Nhạc miếu ở Hoa Sơn, được Ngụy Trưng hiền đệ giữ lại một đêm. Có nói tới chuyện Thúc Bảo đại huynh, năm trước bị nhiễm bệnh ở Lộ Châu, ngay trong miếu Đông Nhạc. Lại được Đơn nhị ca đây hết lòng chăm sóc, bạn bè gặp gỡ có đến nửa năm. Sau đó Thúc Bảo gặp chuyện không may, phát phối đi U Châu, đến nay đã bốn năm năm rồi, ngày tháng thấm thoát lòng nào có quên được. Ngụy Trưng nhân công việc ở miếu không thể nào thoát ra được mà đi, nên có thư cho tiểu đệ đem đến Nhị Hiền trang, thăm Đơn nhị ca vừa là cùng đi Tế Châu làm lễ mừng thọ. Đến Nhị Hiền trang, thì được tin Đơn nhị ca cùng các bạn đã đi Tế Châu rồi. Vì vậy đệ ngày đêm tới đây, đề được mừng thọ bá mẫu. Nói rồi rút trong tay áo ra thư của Ngụy Trưng, Hùng Tín mở ra xem, thì cũng nhắc lại chuyện ở Lộ Châu, nhớ ơn Hùng Tín đứng làm hộ pháp trông coi công việc của miếu Đông Nhạc. Cùng là một thư gửi Thúc Bảo, kể lể chuyện xa cách, sau là những lời chúc mừng ngày sinh nhật của Tần mẫu, sau nữa là giới thiệu tài năng khác thường của Từ Hồng Khách, khuyên Thúc Bảo hãy nghe theo những lời dặn dò của Hồng Khách, sau hết là một hài từ chúc thọ Tần mẫu, Thúc Bảo xem xong cẩn thận bỏ vào ống tay áo rồi nói: - Tiểu đệ năm trước ngã bệnh trong miếu, may được Ngụy đại huynh chăm sóc thuốc men. Đến khi tiểu đệ từ U Châu trở về Lộ Châu, định quay lại miếu Đông Nhạc để tạ ơn, thì Ngụy đại huynh đã đi Hoa Sơn. Thật là tình sâu nghĩa nặng, một chút báo đền cũng chưa có, đến bây giờ vẫn thế thôi. Huyền Thúy hỏi: - Từ đại huynh đến đây từ bao giờ? Hồng Khách đáp: - Tiểu đệ trưa hôm qua mới vào đến thành Tế Châu này, trọ ở Nhan gia điếm. Nguyên định sáng sớm mai sẽ đến báo thọ bá mẫu. Nhưng xem thiên văn, thấy ở phương Tốn, đêm nay khí độc giăng đầy sợ có họa nhỏ, lại chiếu phương vị, đúng là nơi này, vì vậy dù tối rồi, cũng phải đến gặp chư huynh vậy. Ai nấy nghe nói đều nhất tề hỏi: - Có tai họa gì không? Hồng Khách đáp: - Xin chư huynh cứ đợi cho một lát sẽ rõ ngay. Mọi người thấy Hồng Khách cốt cách khách thường, phong thái siêu tài, cử chỉ hiên ngang, đều muốn được Hồng Khách chuyện trò mãi. Hết người này lại người khác đứng dậy rót rượu mời. Chính lúc ngày đêm gặp gỡ (1), bỗng thấy Hồng Khách ngừng chén, mắt nhìn vội ra bên ngoài, hét lớn: 1 Tức là giờ tý, 12 giở đêm vậy. - Nguy rồi! Hỏa tinh xuống! Hồng Khách vội vàng đứng dậy, nâng một chén rượu, ra đứng ngay thềm bán nguyệt đài, rút bảo kiếm đeo sau lưng, miệng thì thầm niệm chú, rồi bỗng quát lớn: - Biến! Lập tức hắt chén rượu lên không. Phút chốc gió lớn nổi mạnh, mây đen kéo đầy trời. Trong nhà bao đèn nến đều bập bùng, cái bạt, cái tắt ai nấy đều kinh hoàng, thì lại nghe ngoài cổng tiếng huyên náo, kêu la ầm ĩ, nhiều thổ binh, đầy tớ vào thưa: - Khốn khổ rồi, nhà phía trái phát hỏa, đang cháy dữ lắm! Thúc Bảo cùng bạn bè nghe nói, vội chạy ra xem rồi sai người cứu hỏa. Hồng Khách can rằng: - Chư huynh không nên ra vội. Bên ngoài sẽ mưa to ngay bây giờ! Lời chưa dứt, thì đã thấy bên ngoài mưa như trút từ trong chậu ra. Một lát sau, mây đen bay hết, mưa cũng tạnh, trời quang đãng trở lại. Đầy tớ lại vào thưa: - Thật là trận mưa lớn chưa từng thấy, quý báu quá chừng, tắt được cả đám cháy lớn. Nếu không có khi còn cháy lan cả sang hàng xóm cũng nên! Chúng hào kiệt lại càng phục Từ Hồng Khách. Vừa tới canh năm, ai nấy trở dậy chia tay. Hồng Khách nói với Thúc Bảo: - Sáng rồi, tiểu đệ xin từ tạ! Thúc Bảo cố mời: - Đại huynh từ xa đến đây, các bạn cùng còn ở lại cả, xin đại huynh hãy ở lại hàn huyên ít ngày đã. Hồng Khách đáp: - Tiểu đệ vẫn thường nói với Ngụy trưng hiền đệ vùng Thái Nguyên có vượng khí thiên tử, vì vậy có giao hẹn với Lưu Văn Tĩnh, thử đến đây hội ngộ một lần. Vì vậy không thể chậm hơn, sợ lỡ hẹn chăng! Thúc Bảo nói: - Nếu đã như vậy, đệ cũng xin gửi một hai phong thư, nhờ đại huynh chuyển hộ tới Lưu Văn Tĩnh, cùng Ngụy Trưng, sáng ra xin sai người đưa tới quán trọ. Hồng Khách bằng lòng. Ai nấy nhất tề vái chào từ biệt, ra khỏi cửa. Chính là:

Tiệc vui, vui mãi được nào Tiệc này đã vậy, tiệc sau xin chờ!

Hồi Thứ Hai Mươi Lăm

Lý Huyền Thúy gỡ nguy cứu bạn hiền,

Sài Tự Xương dốc bạc đút quan lớn.

Từ rằng: Cao xanh thử thách anh hào Vận đỏ chở che nghiệp lớn Bó tay tuấn kiệt Nhụt chí nam nhi Thành đồng bất chấp hiểm nguy Dạ sắt xem thường quyền thế Quyền thế, hiểm nguy nào xá kể Nặng ân tình xem nhẹ thân khu Vỗ gươm ca "thực vô ngư"(1) Sông chèo gõ nhịp, đêm chờ tiếng kê (2) Bến Dịch, Kinh Kha dựng tóc Chợ Hàn, Nhiếp Chính phô thây Huy hoàng hào khí vân nghê Tiền tài phấn thổ, đài mây danh đề. Theo điệu "Mãn giang hồng" 1 Phùng Huyên, làm khách ở nhà Mạnh Thường Quân lúc đầu bị coi thường, Phùng Huyên hát: "Về đi thôi, ăn cơm không có cá..." về sau giúp Mạnh Thường Quân được nhiều việc. Xem thêm chú thích hồi thứ hai mươi tư (Chiến Quốc sách). 2 Tổ Địch và Lưu Côn là hai bạn thân nghe gà gáy dậy múa gươm để khôi phục đất nước khỏi ách ngoại bang. Tổ Địch qua sông, gõ mạn thuyền hát, tỏ ý cương quyết diệt giặc ngoại xâm.

Xưa này tính mệnh các bậc trung thần nghĩa sĩ, mỗi khi gặp bước gian nan như không còn lối thoát, thì bỗng lại như được trời che đất chở, "tuyệt lộ phùng sinh", cho nên giữa lúc họ chưa tìm thấy đường sống, thì bỗng đâu cứu tinh xuất hiện, người quân tử vẫn hoàn bậc quân tử. Thúc Bảo lúc đầu cũng có bao giờ tính đến sẽ có Lý Huyền Thúy, Sài Tự Xương chu toàn cho, mà chính là trời đất chu toàn cho Thúc Bảo, vậy, nên mới dành sẵn hai vị cứu tinh ở đấy. Hôm ấy tiệc rượu cho đến tận nửa đêm, Hùng Tín cùng bạn bè kéo về Giả gia điếm nghỉ ngơi. Từ Hồng Khách thì về Nhan gia điếm chờ Thúc Bảo đưa thư đến, bọn Phàn Kiến Uy cũng ai về nhà nấy.

Sáng sớm hôm sau, Hùng Tín đã giục Huyền Thúy cùng Tự Xương chạy đi lo chuyện cho Thúc Bảo. Hai người bèn mỗi người mỗi đường. Huyền Thúy đến tìm gặp Lai Tổng quản, nói rõ chuyện đến Tế Châu dự lễ mừng thọ gặp phải chuyện lôi thôi ra sao, nhờ Lai Tổng quản tìm cách kéo ra khỏi đám cháy, tránh khỏi chuyện vạ lây. Nghe xong mọi chuyện, Lai Tổng quản đáp: - Thúc Bảo là một võ tướng có khí phách, tiểu đệ cũng rất để ý nâng đỡ, chẳng may gặp phải chuyện này, chỉ riêng chuyện tìm cho ra người ra của cũng không phải là khó, nhưng phủ đường Tế Châu gây đủ chuyện phiền hà. Tiểu đệ cũng có thể kiếm một cớ nào đấy để đòi Thúc Bảo về, nhưng chỉ sợ Tế Châu vẫn không chịu cho về. Nghĩ ngợi một hồi, Lai Tổng quản nói tiếp: - Có thể vịn vào cớ này là tiện hơn cả: Mới rồi đây Ma Tổng quản đưa công văn đòi tới dưới trướng Ma Tổng quản năm trăm quân tướng, để làm việc đốc thúc xây dựng cung điện ở Lạc Dương, do công trình ngày càng nhiều người, nhiều việc. Nay tiểu đệ bổ nhiệm Thúc Bảo vào việc cầm đầu toán quân này, cấp văn thư cho Thúc Bảo đi ngay. Đây lại là công vụ rất khẩn cấp, Lưu Thái thú vẫn có muốn giữ cũng không dám. Nhược bằng Lưu Thái thú vẫn giữ, tiểu đệ sẽ có cách thương lượng: ban đầu thì bảo rằng Thúc Bảo thông đồng với bọn cướp, nên không chịu làm, sau đã trách phạt đến nơi, bọn cướp vẫn không tìm thấy. Ở phủ đường nguyên có cả hai đô đầu, một đội bắt cướp lâu nay, sao lại còn xin bằng được. Rồi lại tìm cách gây khó dễ cho gia tướng của soái phủ. Vịn cớ là tướng tâm phúc dưới trướng Tổng quản, gọi ngay Thúc Bảo về chuẩn bị nhung trang, hành lý, rồi làm văn thư đi ngay. Lai Tổng quản cố giữ Huyền Thúy lại, nhưng Huyền Thúy một mực chối từ: - Chỉ xin đại huynh để ý chu toàn cho Thúc Bảo là tiểu đệ cảm tạ muôn phần rồi! Tuy thế Lai Tổng quản vẫn nhiệt tâm, khi công việc xong xuôi, mời Huyền Thúy lại soái phủ chơi vài ngày, chuyện trò, Huyền Thúy kiếm cớ từ tạ: - Chỉ ngại Lưu Thứ sử có công văn lên thẳng chỗ tổng lý Vũ Văn Khải, họ Vũ Văn tìm cách thẩm tra lại chuyện này, nên tiểu đệ cũng còn có việc phải lưu tâm, không thể ở lâu hơn được nữa. Lai Tổng quản bèn sai lấy lễ vật, lại tận Giả gia điếm đáp lễ, cùng đem quà biếu Huyền Thúy lên đường, tặng mấy trăm lạng bạc làm tiền lộ phí. Chuyện này của Thúc Bảo chính là:

Lưới Thang mở ba mặt Khó bắt được chim hồng Thợ săn đành trố mắt Nhìn chòm mây bềnh bồng. (1) 1 "Sử Ký": vua Thành Thang nhà ân thấy người bẫy chim đọc chú: "Trên bay xuống, dưới bay lên, ba bề bốn bên, vào lưới tao cả". Bắt bỏ đi ba mặt lưới, chỉ để một và bắt sửa lại cả câu chú .

Nói chuyện Tự Xương đến gặp Lưu Thứ sử, Thứ sử cũng vì thấy Tự Xương là con rể của quan trực tiếp cai quản mình, nên nhất định bày tiệc rượu khoản đãi. Trước tiên là Lưu Thứ sử kể chuyện mình cai quản Tế Châu trong sạch như nước thế nào, rồi sau đó đến việc nạp bạc vừa rồi không hề tư túi, cho nên hoàn toàn không một lời kêu ca, phàn nàn, cũng chẳng có chuyện mất mát, trách phạt gì cả. Không ngờ xảy ra chuyện phủ bên mất cướp ra sao, quan trên bắt phủ Tế Châu này bồi thường, bắt cướp thế nào, lâu nay tận tình điều tra, truy lùng mà vẫn không tăm hơi, đêm ngày lo lắng vất vả thật chẳng lúc nào yên. Tự Xương nghe xong, liền nhân đó nói: - Chính vì trong số những người bắt cướp có Tần Quỳnh, mà gần đây là công vụ tới Trường An, vốn cùng tiểu nhân đây là bạn bè "bát bái chi giao". Mới rồi đây tiểu nhân tới Tế Châu này để dự lễ mừng thọ Tần mẫu, mới biết chuyện Tần Quỳnh bị dính dáng rất khổ vì chuyện này, nên hôm nay tiểu nhân đặc biệt đến dây, để xin Thứ sử hãy tìm cách giải thoát cho Tần Quỳnh khỏi chuyện phiền toái này. Lưu Thứ sử đáp: - Nhân huynh ở xa, có điều không rõ, bọn Tần Quỳnh này chuyên thông đồng với tụi cướp, dung túng cho chúng để rồi cùng nhau chia của cướp được cốt tìm mọi cách lên được tới chức kỳ bài quan, lại tìm cách kết giao với bọn lục lâm ở khắp các châu quận xa gần. Tiểu đệ đã hỏi rõ chuyện này, vì thế mới nhất quyết khoác chặt việc bắt bọn cướp vào cổ Tần Quỳnh. Nhược bằng không bắt được bọn cướp thì phải làm bồi thường số bạc. Nếu cứ như lời nhân huynh mà khoan dung cho Tần Quỳnh, thì cướp làm sao mà bắt được, khi đó thì số bạc ba nghìn lạng, tiểu đệ sẽ phải bồi thường. Tiểu đệ định ngày mai làm công văn, giải Tần Quỳnh đi Đông Kinh cho tổng lý Vũ Văn Thuật xử lý. Hôm nay nhân huynh nói thế, tiểu đệ chỉ có thể gia hạn cho Tần Quỳnh để có thêm thời gian bắt cướp tìm bạc mà thôi. Tự Xương nói: - Tiểu đệ tưởng rằng, Đông Kinh chỉ cần có bạc cho đủ là được, người có hay không, chỉ cần nói rõ trong công văn là được rồi. Lưu Thứ sử đáp: - Thì cái khó ở chỗ ba nghìn lạng bạc. Tiểu đệ thì lấy đâu ra mà đền. Cứ bổ đầu các huyện đâu phải dễ dàng, tiền bạc là xương máu của dân, họ đâu phải dễ kiếm, dễ nạp. Vì vậy mới phải cố sống cố chết mà bắt cho kỳ được bọn cướp. Tự Xương thấy rõ ý của Lưu Thứ sử, chỉ cần bọn Thúc Bảo có đủ số bạc ba nghìn lạng là được, vì vậy Tự Xương cười mà rằng: - Thế bọn này lo đền một nửa số bạc thì xong xuôi mọi sự nhé! Lưu Thứ sử đáp: - Làm sao mà xong được, còn một nửa nữa mới đủ, bảo tiểu đệ lấy đâu ra? Tự Xương nói: - Còn một nửa, chia đều tất cả trong đội lính bắt cướp có được không? Lưu Thứ sử đáp: - Bọn này có bồi thường như vậy, thì cũng chẳng sao, chúng đều được bọn cướp lâu nay chia cho chẳng nhiều thì ít, nên có phải bồi thường thay cho chúng cũng đúng thôi.. Hơn nữa không bồi thường, bọn này đều phải giải đi Đông Kinh, mà đã giải đi, mười chết một sống, chỉ cần tiền lộ phí thôi cũng tốn kém không biết bao nhiêu rồi. Nay nhân huynh đứng ra thương lượng chuyện này, ngoài chuyện bồi thường như vậy, nhân huynh phải đòi chúng biếu nhân huynh ít ra năm trăm lạng bạc, coi như là tiền tiểu đệ kính lễ nhân huynh. Ngày mai, tiểu đệ sẽ không bắt bọn này đến để đổi trát nữa, mà chờ chúng nạp đủ tiền là được, khi bắt được bọn cướp sẽ theo giấy đó mà hoàn lại bạc vậy. Tự Xương khẽ cười đứng dậy: - Chỉ sợ bọn này đều nghèo, liệu có bồi thường nổi không đây. Lưu Thứ sử đáp: - Số bạc công này không thể thiếu được đâu. Chả cần Tần Quỳnh làm giấy tờ, tên nào nạp bao nhiêu, tiểu đệ sẽ theo giấy này mà đòi là xong. Số bạc năm trăm lạng phần nhân huynh cũng thế, đừng có nghe chúng xoen xoét nghèo khổ mà lấy thiếu. Tự Xương đáp: - Chỉ cần trả xong số bạc ba nghìn lạng. Còn tiểu đệ đã lấy cho phần mình ngay từ đầu. Rồi cáo từ ra khỏi phủ đường, Lưu Thứ sử tiễn ra đến tận cửa. Chính là:

Chỉ cần Thứ sử lành ung nhọt Mặc kệ ai người róc thịt da.

Tự Xương về đến Giả gia điếm, thì cũng là lúc Lai Tổng quản đã cho người mang công văn tới, chỉ cho Tự Xương về, để biết tin tức trong phủ cùng đến nhà Thúc Bảo. Huyền Thúy đưa công văn cho Tự Xương xem, rồi nói: - Đang chờ đại huynh trở về, ta cùng đến nhà Thúc Bảo, để Thúc Bảo còn lên đường cho kịp. Tự Xương xem xong, thở dài mà than: - Lâu nay người đời khinh thường bọn võ quan thì giờ này bọn này lại tỏ ra hào hiệp hơn nhiều. Bọn văn quan bẩn thỉu quá chừng. Bàn cãi đủ chuyện, kết cục là bắt đội thổ binh phải bồi thường số bạc, cấp cho bọn này giấy biên nhận, sau đó sẽ trả lại nếu bắt được bọn cướp. Hùng Tín lên tiếng: - Đó cũng chỉ là những chuyện suông thôi. Còn thực là bọn thổ binh này, trừ Thúc Bảo, Kiến Uy, Vạn Nhẫn, Cự Chân ra đều nghèo khổ ngoài cái áo che thân ra còn có gì khác nữa đâu, ăn còn chẳng được no, lấy đâu ra tiền bạc. Bá Đương nói: - Chính đây mới là chuyện chúng ta phải tính toán giúp cho họ. Giảo Kim bàn: - Chả cần phải bàn cãi gì lắm. Chuyện này chính tiểu đệ gây ra, thì tiểu đệ xin gánh chịu vậy. Xin Vưu viên ngoại về ngay nhà, tìm cách bù cho đủ số bạc đã tiêu, đem số bạc ấy đến đây để cứu Thúc Bảo đại huynh cho kịp. Vưu Thông đã đứng lên chuẩn bị lên đường lập tức, thì Tự Xương lên tiếng. - Chuyện này tiểu đệ cũng đã nói rồi, tiểu đệ sẽ lo đầy đủ tất cả. Công Cẩn băn khoăn: - Sao lại đổ cả mọi chuyện lên đầu đại huynh cho đáng. Tự Xương đáp: - Chẳng còn gì đáng phàn nàn đâu. Đó cũng là tiền của Thúc Bảo đại huynh cả đấy thôi. Bá Đương hỏi: - Sao tiền của Thúc Bảo mà lại ở chỗ đại huynh được? Tự Xương đáp: - Chả là dạo Thúc Bảo đại huynh cứu nhạc phụ ở Tra Thụ cương, rồi gặp tiểu đệ ở Báo Đức tự, tiểu đệ có viết thư báo, sau đó nhạc phụ cho người đem thư từ cùng vàng bạc tới Báo Đức tự, Thúc Bảo đã về Tế Châu mất rồi, mãi đến giờ, tiểu đệ mới có dịp mang tới. Đang định sau lễ mừng thọ, sẽ đưa tặng Thúc Bảo, nhưng chỉ sợ Thúc Bảo đường đường một bậc hảo hán, cứu người không vì chuyện đền ơn, sẽ không chịu nhận số bạc này, chi bằng đem quách số bạc đó dùng vào việc này là tiện hơn cả! Hiển Đạo, Nhuận Phủ cùng hưởng ứng: - Thế thì hay lắm! Bội Chi cười: - Thế mới biết dạo ấy Giảo Kim hiền đệ có mắt nhìn xa, cứ thế mà xông vào chém giết, cuối cùng có người thay lo ổn cả mọi chuyện. Giảo Kim cười ha hả: - Thế là tiện cho tiểu đệ cả hai đường. Đó là:

Ông Trương nốc rượu mà ông Lý lại say Nước Sở mất con khỉ mà để cháy lây ra cả khu rừng.

Đang lúc chuyện trò, thấy đầy tớ bên ngoài vào thưa: - Có Lưu Thứ sử lại thăm! Mọi người đều tránh vào nhà trong, chỉ để mình Tự Xương ra tiếp đón, sau khi vái chào chủ khách ngồi uống trà, Lưu Thứ sử lên tiếng: - Chuyện này hạ quan đã tính toán kỹ càng. Xin nhân huynh cứ lấy cho kỳ được năm trăm lạng bạc, lúc đó hạ quan mới cho người thu đủ số bạc, viết giấy biên nhận. Nếu không thấy chúng đưa bạc cho nhân huynh, xin nhân huynh đừng nghe, hạ quan sẽ cho giải cả năm mươi tên này lên Đông Kinh, sẽ chẳng còn mong ngày về, mà chỉ có chết! Tự Xương đáp: - Tiểu đệ cảm tạ thịnh tình của Thứ sử! Lưu Thứ sử tiếp: - Nhân huynh thấy chúng nạp không đủ, lại cho rằng hạ quan nói lấy lòng nhân huynh. Ở cái đất sỏi đá khổ sở này, nếu không làm cho ra nhẽ như thế thì mình chẳng bao giờ được miếng nào cho ra hồn đâu, xin nhân huynh đừng lưỡng lự.

Nói xong từ biệt, trèo lên kiệu về. Bí quyết làm quan phải rất keo Nửa đồng tiền rút chẳng tha đâu Rút bòn khố rách quần manh cả Để cổ quan bà vàng ngọc đeo.

Mọi người đều nghe cuộc đối đáp này, nên ai nấy đều căn dặn Tự Xương: - Vừa rồi Lưu Thứ sử khuyên đại huynh đừng lưỡng lự nghĩa là thế nào? Tự Xương đáp: - Thứ sử bảo tiểu đệ đòi Thúc Bảo tạ ơn năm trăm lạng, số bạc này Thứ sử sẽ không đụng đến, chỉ cần tiểu đệ nhận đủ thì báo với Thứ sử để Thứ sử mới làm các việc khác cho Thúc Bảo. Huyền Thúy lên tiếng: . - Nếu thế đại huynh cứ lấy năm trăm lạng vậy. Tự Xương bèn gọi gia nhân đem bạc ra, cùng Hùng Tín, Huyền Thúy, Bá Đương, bốn người ra cửa đến nhà Thúc Bảo. Kiến Uy vì đã được tay chân tâm phúc của Thứ sử đến báo cho biết về chuyện đòi tiền bồi thường, và cả năm trăm lạng biếu Tự Xương, đã chạy phần mình, nhưng vẫn còn thiếu ba trăm lạng, không kiếm đâu ra, đến bàn bạc với Thúc Bảo, vừa may gặp lúc bọn Tự Xương. Sau khi chào hỏi xong xuôi, Huyền Thúy đưa công Văn của Lai Tổng quản ra cho mọi người xem, thấy ghi:

"Khâm sai Tô Châu tổng quản phủ. Lai tướng quân cấp tờ phê sau: Theo lệnh của bản chức: Tần Quỳnh, đốc lĩnh kỵ binh của bản châu, gồm năm trăm tên có danh sách rõ ràng kèm theo, đến giao nộp ở dinh quan lớn họ Ma là khâm sai Hà đạo đại tổng quản, không được gây việc chậm trễ. Đi qua đâu, bất kỳ cửa sông, cửa thành cũng không được cản trở. Nay cấp tờ phê này cho lãnh quân hiệu úy là Tần Quỳnh tuân theo như hạn định. Đại Nghiệp (1) năm thứ sáu, tháng chín ngày hai mươi ba". 1 Đại Nghiệp: niên hiệu của Tùy Dương đế, tức năm 610 sau công nguyên. ở Việt Nam là thời kỳ Bắc thuộc, thuộc Tùy.

Huyền Thúy nói: - Lai Tổng quản sẽ cho điểm người ngựa đủ số. Khoảng trong vòng ba ngày, đại huynh đã phải lên đường. Thúc Bảo xem xong cũng không ngạc nhiên gì lắm, chỉ có Kiến Uy là kinh sợ hỏi: - Xin có lời mừng đại huynh, được cử đi làm việc vinh hạnh này, rời được nơi nước sôi lửa bỏng. Còn chúng tôi thì không biết làm thế nào để có thể bồi thường được đủ ba nghìn lạng bạc. Lại còn năm trăm lạng để đưa cho Sài đại huynh đây nữa. Hùng Tín hỏi: - Kiến Uy cũng biết rõ chuyện này rồi sao? Kiến Uy đáp: - Tiểu đệ có rất nhiều bạn bè thân tín ở trong phủ đường. Ngay sau khi Sài đại huynh nói chuyện xong, đã có người ra nói cho tiểu đệ rõ mọi điều. Sau đó Lưu Thứ sử lại sai tay chân ra nói, nên cũng chưa biết nên đối phó ra sao, phải ra bàn với Thúc Bảo đại huynh. Bá Đương nói với Kiến Uy: . - Kiến Uy đừng hiểu lầm chuyện này, Sài đại huynh không bao giờ lại thèm đến bạc của các bạn đâu. Số bạc ba nghìn lạng kia cũng chính đại huynh sẽ xuất ra. Kiến Uy ngạc nhiên: - Làm sao lại có chuyện này được! Thúc Bảo lên tiếng - Có chuyện này nhưng không có lý này. Tiểu đệ không dám để Sài đại huynh bỏ bạc ra, cũng không dám để Kiến Uy phải đóng góp. Nhà nào giàu có thì bỏ ra, nếu chưa đủ thì tiểu đệ sẽ có cách. Tự Xương nói: - Số bạc này, nguyên là của đại huynh chứ không phải của ai đâu. Tự Xương bèn đem thư của Đường Công Lý Uyên ra, rồi sai gia nhân mang túi, mang hòm vào, mở ra. Tự Xương nói: - Đây chính là thư của nhạc phụ tiểu đệ gửi tới Báo Đức tự, thì đại huynh đã về Tế Châu. Tiểu đệ đã nhiều lần định mang tới, nhưng chưa có dịp nào, lần lữa mãi tới nay. Thúc Bảo xem thư thì thấy viết: "Việc cũ Quan Trung, ơn sâu ghi dạ. Những muốn đền ơn mà chưa thỏa. Vừa tiếp được thư của con rể tới, rất lấy làm mừng rỡ. Nay có ba nghìn lạng bạc, gọi là chút lễ mọn, mừng tuổi tướng quân. Hẹn rằng bèo nước, Gặp mặt tạ ơn." Thúc Bảo xem xong biến sắc mặt nói: - Sài đại huynh, thế này thì lệnh nhạc (1) coi thường tiểu đệ quá. Kẻ trượng phu hành động trên đời nào phải để chờ báo ơn đâu? 1 Lệnh nhạc: gọi tôn kính bố vợ của người nói chuyện với mình. Tự Xương cười nói: - Tần đại huynh làm việc đó không phải chờ báo ơn. Nhưng về phía nhạc phụ tiểu đệ phải biết đến chuyện báo ơn đó. Có như thế thì mọi chuyện mới thỏa đáng chứ. Hùng Tín nói: - Thúc Bảo hiền huynh không khi nào đòi chuyện này khi cứu nguy giữa đường, cũng không có lý nào lại bắt Sài đại huynh mang số bạc này trở về. Nay đang phải cần làm cho xong chuyện này, cứu cho được hơn năm mươi mạng người, cùng với gia đình họ hàng của họ. Còn hiền huynh chẳng mảy may cần đến, cho nên lấy hay không lấy, hiền huynh cũng đừng cố chấp. Kiến Uy nói: - Đại huynh Thúc Bảo định làm chuyện bán chuông mua đồng. Đây chính là tính mạng cả năm mươi anh em chúng tôi. Sài đại huynh đã bằng lòng, tưởng Tần đại huynh cũng nên bằng lòng mới phải. Thúc Bảo vẫn không quyết hẳn. Hùng Tín khuyên: - Thúc Bảo cùng Kiến Uy đều đang gánh việc công, cả hai hãy thu lấy số bạc này mà nạp quan cho gọn chuyện đi! Bá Đương cũng giục: - Trong chuyện tiền bạc này, Sài đại huynh thêm vào một tý, thì mọi người lại bớt ra một tẹo, cũng thế cả thôi mà! Mọi người cùng cười. Thúc Bảo vẫn nói: - Nhưng riêng tiểu đệ vẫn chưa yên tâm. Rồi đi vào nhà trong, đem ra ba trăm lạng bạc, nói với Kiến Uy: - Tiểu đệ cũng nghe Lưu Thứ sử định chia phần bắt mọi người phải đền, cũng biết hiền đệ còn thiếu ba trăm lạng, nên đã định đem ba trăm lạng này đưa hiền đệ, để khỏi dính dáng người khác. Chứ cũng không nghĩ là tìm nơi đi cho xong quách đâu. Chính là:

Nghìn vàng xem tựa mây lông Nghĩa nhân sáng rực đuốc hồng nghìn thu.

Kiến Uy đáp: - Một mình tiểu đệ cũng lo không nổi, xin đại huynh cứ nhận cho, đợi tiểu đệ gọi Vạn Nhẫn cùng mọi người lại, để họ được thấy nghĩa khí của đại huynh.

Thúc Bảo bèn thu nhận số bạc, rồi dọn tiệc rượu mời mọi người, Giữa lúc ăn uống, thì thấy Vưu Thông cùng Giảo Kim tới để từ biệt ra về. Lúc đầu Giảo Kim giữa đường đón đánh Sài Tự Xương, rồi đánh bại Bội Chi, Quốc Tuấn, nhưng lại bị Bá Đương đánh bại, trong lòng đã có chỗ không thoải mái, nay thêm chuyện giết người cướp của vỡ lở Giảo Kim càng thấy đứng ngồi không yên. Vưu Thông lại càng lo nghĩ hơn, cũng miễn cưỡng phải dự lễ mừng thọ cho xong để về cho chóng. Giảo Kim lên tiếng. - Thấy rõ cảnh lao đao của Thúc Bảo đại huynh, tiểu đệ càng thấy mình không thể làm lụy đến đại huynh. Đến khi Tự Xương cùng Huyền Thúy lo lắng được hiểm lớn nữa, thì Vưu Thông, Giảo Kim lại sợ lúc đi đứng, ăn uống, nói năng có điều gì sơ xuất mà lộ chuyện ra, sẽ bị bắt bớ, vì vậy cả hai xin về trước. Nhuận Phủ sợ bị liên lụy, cho nên cũng không giữ. Thúc Bảo lưu lại, cùng ngồi tiệc rượu. Vì có Kiến Uy nên cả hai bên đều không nói chuyện gì khác. Thúc Bảo nói; - Tiểu đệ cũng muốn lưu hai vị lại chuyện trò vài ngày. Chỉ vì ngày mai đã phải lên đường, cho nên cũng không dám giữ. Sắp chia tay, Thúc Bảo mới vào nhà trong lấy một ít lễ vật, đưa Giảo Kim đem về biếu Trình mẫu và cả quà của Tần mẫu gửi riêng cho Trình mẫu. Rượu đã say rồi. Vưu Thông, Giảo Kim cùng Hùng Tín về Giả gia điếm. Sáng canh năm. Vưu Thông cùng Giảo Kim lên đường.

Sương giăng, trăng tỏa sáng đầy thềm Eo óc gà đâu rộn cuối đêm Lọt lưới kỳ lân nhanh gót thoát Cây cong vội tránh nhẹ thân chim.

Cũng sáng hôm ấy, biết Lưu Thứ sử chỉ cần đến đủ bạc, cũng chẳng để ý gì đến mình, nên Thúc Bảo chỉ đến tạ ơn Lai Tổng quản. Lai Tổng quản nói: - Ta lúc ấy không giữ được ngươi, đến nỗi ngươi gặp phải toàn chuyện nhục nhã, thôi thì bây giờ ngươi hãy tạm đi. La Tướng quân cùng Lý Huyền Thúy đều đã có lời, đến lúc trở về, ta sẽ thực sự lo lắng chuyện cất nhắc cho ngươi. Ngươi cũng chẳng phải ngồi dưới người khác lâu nữa đâu. Thúc Bảo khấu đầu từ tạ ra về. Thúc Bảo mở một tiệc lớn, mời khách xa, thêm Kiến Uy, Vạn Nhẫn, Cự Chân. Ba người này hết lời tạ ơn Tự Xương, họ không hiểu rằng, nếu không có Thúc Bảo, thì làm gì Tự Xương chịu xuất ra số bạc đó. Thúc Bảo lại nhờ Huyền Thúy viết luôn ba thư: một cái nhờ Tự Xương đem về cảm tạ Đường Công, một bức thư gửi Uất Trì Nam đem về trình La Tướng quân, cùng với lễ vật về Tần phu nhân, và một thư gửi em con cô con cậu La Thành. Lúc này cả đám bạn bè, hào kiệt mới thư thái uống hết chén này đến chén khác, hết mâm này đến mâm khác, kể chuyện cũ, nói chuyện mới, vui nhộn, thoải mái hơn nhiều.

Cạn chén trăng gần lặn Nghiêng bầu ráng đã hồng Chuyện dài đêm quá vắn Chim ríu rít ven rừng.

Mãi sáng ra, tiệc rượu vẫn chưa tàn, thì đã nghe ngoài cửa người ngựa huyên náo, chính là số năm trăm người ngựa được lệnh Lai Tổng quản kéo tới để cùng Thúc Bảo đến dinh Ma Đại tổng quản. Thúc Bảo nai nịt nhung phục, đứng trên thềm nhà gọi các thập trưởng, đội trưởng tới bên. Vừa đủ mười một đội trưởng, năm mươi thập trưởng, đội đội, hàng hàng đứng đầy sân. Điểm đủ quân số Thúc Bảo dõng dạc nói: - Lai Tổng quản đã ra lệnh, sáng ngày mai sẽ lên đường. Các anh đã lĩnh lương thực lên đường, hãy về chuẩn bị hành trang chu đáo sáng mai chờ sẵn ở cửa tây để khởi hành. Quân sĩ nghe xong nhất tề giải tán. Hùng Tín nói với Thúc Bảo: - Ngày trước Hùng Tín này từng đã dặn hiền huynh: "Cầu vinh bất tại chu môn hạ", nếu hiền huynh nghe ra, thì đâu đến nỗi thế này. Thúc Bảo đáp: - May mà có được Sài, Lý, nhị vị đại huynh nên chuyện họa thành chuyện phúc. Huyền Thúy nói: - Kẻ đại trượng phu, sự nghiệp chẳng biết thế nào mà lường trước được! Ai nấy lại về Giả gia điếm lấy thêm lễ vật lại mừng Thúc Bảo. Thúc Bảo cũng đem lễ vật ra để gửi các bạn ra về, cả hai bên chẳng ai chịu nhận. Bá Đương nói: - Thúc Bảo đại huynh mấy ngày vừa qua rất lo lắng, bận rộn. Chúng ta cũng chẳng nên ở mãi quấy rầy, để còn thu xếp hành trang lên đường, lại còn trò chuyện dặn dò bá mẫu cùng tẩu tẩu(1). Ngày mai sẽ ra cửa tây lên đường, chúng ta cũng ở gần đó, sáng mai cùng ra cáo biệt ở ngoài ấy là tiện nhất. 1 Tẩu tẩu: Vợ bạn, vợ anh.

Mọi người cùng cười rồi chia tay. Thúc Bảo gói ghém đồ đạc, xếp đặt công việc nhà. Gọi Kiến Uy đến nhận số bạc phải bồi thường đem đi, mãi tới sáng mà công việc vẫn chưa xong. Đã thấy đội trưởng tới tận nhà đón mời ra chỗ tập trung, Thúc Bảo đốt vàng, thắp hương khấn vái, từ biệt Tần mẫu cùng Trương Thị, nai nịt gọn gàng, đội mũ lớn, khoác áo ngoài màu hồng có thêu hoa, thắt lưng nạm bạc óng ánh, cưỡi ngựa hoàng phiêu, tập hợp số năm mươi đội trưởng, thập trưởng ở sân nhà, rầm rộ kéo ra cửa, so với lúc mặc áo xanh, đội mũ nhỏ ở châu thì đã khác rồi. Có bài thơ "Tập cổ thi" ghi lại cảnh này như sau:

Ngựa hí mừng vạn dặm Gươm sáng chói trời xanh Trượng phu trả nợ nước Hơn hẳn đời thư sinh.

Ra cửa tây, đến bên cầu treo, hai bên người ngựa xếp thành hàng dài. Phía đầu phố là chùa Nghênh Ân, Thúc Bảo xuống ngựa, vào chùa. Sợ có kẻ không chịu đến tập trung, Thúc Bảo lấy danh sách, điểm danh từng người. Rồi lấy tiền của mình ra: Đội trưởng thì phát cho ba tiền, thế cũng mất tất cả năm sáu chục lạng bạc. Lại tuyển lấy hai mươi anh trai trẻ, khỏe mạnh làm gia đinh, theo bên để sai phái và cũng thưởng thêm tiền. Xong xuôi, trước tiên đến uống rượu tiễn biệt với các bạn cùng làm kỳ bài quan dưới trướng Lai Tổng quán, ai nấy cùng cạn ba chén rượu rồi chia tay. Sau đó là đến bọn Đơn Hùng Tín, mỗi người cũng nâng đủ ba chén. Thúc Bảo nói: - Ơn các bạn ở xa tới, nên hãy còn dịp được ra đi thế này. Chỉ vì có Huyền Thúy đại huynh nghĩ ra chuyện tới Lai Tổng quản, nên tiểu đệ sớm phải lên đường, không được hội ngộ lâu hơn cùng các bạn. Lại nói với Tự Xương: - Sài đại huynh, xin nhờ đại huynh lo liệu. Nếu công việc chưa xong với Lưu Thứ sử, tiểu đệ đi rồi chỉ sợ lại có việc khổ đến Kiến Uy chăng? Tự Xương đáp: - Tiểu đệ còn phải lấy giấy biên nhận cho được đã, xin đại huynh đừng lo. Thúc Bảo lại nói với Uất Trì Nam, Uất Trì Bắc: - Xin nhờ nhị vị thưa lại với La tướng quân cùng Tần phu nhân, tiểu đệ việc công gấp rút, không thể đến tận U Châu tạ ơn được. Lại nói với Bá Đương cùng mọi người khác: - Chẳng mấy khi mà anh em hè bạn lại có thể tụ họp thế này, đáng nên phải trò chuyện lâu hơn nữa mới phải, không ngờ đã phải chia tay. Rồi nhờ Nhuận Phủ, Kiến Uy. - Mẫu thân tuổi cao, xin nhờ nhị vị chăm sóc thường xuyên cho. Ai nấy chia tay, lên ngựa, súng nổ ba phát làm hiệu khởi hành. Chính là:

Trông mặt cả cười Chưa no con mắt, chưa vơi nỗi lòng Cuối thu kia dải rừng phong Lá rơi hay giọt lệ hồng chia phôi Cầm tay không nói nên lời...

Thúc Bảo đi rồi, Tự Xương còn ở lại Tế Châu ngày hôm đó để thu xếp xong công việc tiền bạc, rồi cũng lên đường luôn. Nhuận Phủ sắp đủ lễ vật bày tiệc rượu tiễn hành chu đáo, Tự Xương lên đường đi Phần Dương. Anh em Uất Trì, Sử Đại Nại, cả ba người vì còn việc quan không dám lần lữa, nên theo đó Trương Công Cẩn, Bạch Hiển Đạo cũng cùng đi luôn về Ung Châu. Chỉ còn Lý Huyền Thúy, Đơn Hùng Tín, Kim Quốc Tuấn, Đổng Bội Chi cùng nhau một đoàn. Không biết về sau thế nào, xin xem hồi sau sẽ rõ .

Hồi Thứ Hai Mươi Sáu

Đậu tiểu thư cải dạng lánh quê người,

Hứa thái giám một mình vào ổ cọp.

Từ rằng: Cỏ cây quê đầm đìa nước mắt Não nùng thay một khúc Dương Quan Chia tay luống những bàng hoàng Thét roi đầu ngựa ruổi ngàn cây thưa Tiếng sấm giật gió đưa lạ hoắc Trước mặt sao gai góc đầu đường Đêm nay, núi hẻm hang cùng Mộng hồn lưởng vưởng tỉnh không mà về! Theo điệu "Tích phân phi"

Người ta sinh ra trên đời, tất có lúc thịnh lúc suy, có khi tụ khi tan, gặp thời bình thì an cư lạc nghiệp, cùng nhau yên ổn. Chẳng may gặp phải lúc loạn li, nếu là kẻ sĩ có ít nhiều tài năng, trăn trở để xây dựng cho mình một công nghiệp, thì tránh sao khỏi lúc truân chuyên phiền não, may thì được sum họp một chỗ, chẳng may thì tan nát bốn phương, làm sao lại có thể yên phận "ôm cây đợi thỏ" (1) trong xó rừng, hoặc làm kẻ chết già trong góc cửa cho được. 1 "Hàn phi tử": Có người nước Tống đang cày ruộng, thấy một con thỏ chạy đâm đầu vào gốc cây mà chết. Anh ta bỏ cày, đến đợi bên gốc cây, mong nhặt được con thỏ khác, cũng đâm đầu như thế chăng!

***

Lại nói trong số năm hào kiệt rời Tế Châu cuối cùng đó, thì Kim Quốc Tuấn, Đổng Bội Chi sợ ở công đường Lộ Châu có việc, nên cũng không thể ung dung thong thả, xin phép lên đường trước để về Lộ Châu. Đơn Hùng Tín, Vương Bá Đương, Lý Huyền Thúy, thân vô câu thúc, trong lòng cũng chẳng có sự gì phải lo lắng, gặp núi thời leo núi, gặp sông thời dong thuyền, nhởn nhơ dọc đường, mãi mới tới được địa phận Lâm Truy, Huyền Thúy nói: - Đơn nhị ca, chúng ta gặp nhau lần này, rồi không biết đến bao giờ gặp gỡ. Ý cũng muốn đưa Nhị ca về tận Nhị Hiền trang, nhưng đi lâu ngày, sợ ở nhà có việc gì chăng, cũng xin được cáo biệt nhị ca ở đây. Bá Đương cũng nói: - Tiểu đệ xa nhà đã lâu, xin hẹn với nhị ca sang năm, không có chuyện gì vướng mắc, lại hẹn xin đến hầu nhị ca. Hùng Tín lưu luyến không nỡ rời tay, bèn bàn: - Hai vị nếu không thể về cùng Hùng Tín này, thì chẳng còn cách nào khác, nhưng xin hãy tìm một quán rượu nào đó, ta uống với nhau vài chén, rồi sẽ chia tay. Bá Đương, Huyền Thúy tán đồng: - Nhị ca nói đúng lắm! Cả ba giật dây cương lao ngựa về phía trước, Hùng Tín đưa tay chỉ: - Phía trước là dãy Báo Sơn, tương truyền là nơi hai bạn thân Quản Trọng cùng Bảo Thúc Nha thường hay chia tiền lời buôn chung ở đấy. Hùng Tín này với hai vị tuy không sánh được với người xưa về tình, nhưng về nghĩa vốn chẳng kém gì. Chúng ta hãy tìm đến đó uống mấy chén được chăng? Bá Đương, Huyền Thúy bằng lòng: - Hay lắm! Cả ba nhìn xem, chỉ thấy:

Bãi dàn lưng núi Lầu tiếp chân mây Cây biếc um tùm, văng vẳng đâu nghe cọp thét Liễu xanh mườn mượt, chập chờn thoáng thấy oanh bay

Phải chăng là:

Chèo bẻo đậu hè xúm xít Kinh nghệ nhảy hề loay quay

Dưới chân Bảo Sơn có khoảng ba bốn chục nóc nhà trong đó có một quán rượu, lá cờ hiệu treo phấp phới trên cây ngay trước cửa. Cả ba xuống ngựa, vào trong quán, thì đã thấy ba con ngựa trong sân của khách đã buộc trước rồi, đang đứng nhai cỏ trong máng. Tiểu nhị vội ra mời khách vào gian phòng tranh chính giữa, rửa mặt, rửa tay. Hùng Tín hỏi tiểu nhị: - Ngựa thì ngoài kia, còn mấy vị khách đến trước đâu cả rồi tiểu nhị? Tiểu nhị giơ tay chỉ: - Đang ngồi uống rượu ở gian bên trái sạch sẽ kia, thưa quý khách! Hùng Tín đang định chào hỏi, thì thấy cửa sổ của gian bên trái ló ra một cái đầu, nhìn ngang ngửa. Bá Đương trông thấy liền cười xòa: - Thì ra là Lý hiền đệ đang ở đây sao? Lý Như Khuê vội vã: - Xin mời chư huynh ra cửa, đại huynh Bá Đương vừa đến kia. Tề Quốc Viễn cùng mọi người ra, bái chào xong xuôi. Bá Đương hỏi: - Hai vị có việc gì mà lại tới đây? Như Khuê đáp: - Chuyện dài lắm. Ở trong phòng có một vị nữa, để tiểu đệ vào mời ra đây rồi cùng nói chuyện một thể. Rồi chạy vào trước cửa phòng lớn tiếng: - Xin mời Đậu đại ca ra ngoài này. Có đại ca Đơn Hùng Tín ở Lộ Châu mới tới. Dứt lời thì thấy một người đàn ông cao lớn, đàng hoàng bước ra. Như Khuê giới thiệu: - Đây là đại huynh Đậu Kiến Đức ở Bội Châu. Hùng Tín đáp lời: - Năm ngoái đại huynh Lưu Hắc Thất có đến tiểu trang trại Hùng Tín này có được Lưu huynh nói nghe danh Đậu huynh, vốn người hào hùng, nghĩa hiệp, nay được gặp ở đây, thật là thỏa ước nguyện bình sinh. Hùng Tín sai bày tiệc rượu, rồi cả sáu người ngồi vào hàn huyên. Bá Đương nói với Như Khuê, Quốc Viễn: - Hai vị sống ở Thiếu Hoa Sơn sung sướng tự tại vậy, sao lại bỏ đi thế này? Như Khuê đáp: - Sau khi từ biệt các vị, tiểu đệ đi Thanh Hà thăm một người bạn thân thì bị Lư Minh Nguyệt chiếm mất sơn trại. Quốc Viễn một mình đánh y không được đành phải bỏ đi, chuyển sang Đào Hoa Sơn rồi cho lâu la chạy đi Thanh Hà báo cho tiểu đệ biết, mãi đến hôm trước đây, tiểu đệ mới quay về. Quốc Viễn đã được tin từ Đơn nhị ca, về chuyện đi Tế Châu mừng lễ sinh nhật Tần mẫu, Đậu đại ca cũng mộ tiếng Thúc Bảo cùng các vị, nói chuyện này ở Đào Hoa Sơn, Đậu đại ca đang cần đi Tế Châu thăm người nhà, vừa là tìm làm quen với các vị vì vậy cùng lên đường. Chẳng hay ba vị đây đã đi dự sinh nhật về, hay là mới lên đường đi? Huyền Thúy đáp: - Thúc Bảo đại huynh hiện không có nhà, có công vụ phái đi cách đây mấy ngày rồi. Quốc Viễn hỏi: - Tần đại huynh hiện đi đâu? Hùng Tín đáp: - Chuyện dài lắm! Thấy tiệc đã dọn xong, Hùng Tín tiếp: - Chúng ta hãy cùng uống rượu, rồi Hùng Tín này sẽ kể cho các vì nghe! Mọi người ngồi vào bàn, uống rượu dăm chén, Như Khuê lại hỏi: - Tần đại huynh đi công vụ ở đâu? Bá Đương ngừng chén, đem chuyện hào kiệt chuẩn bị lễ mừng như thế nào, đi Tế Châu ra sao, ở hàng Nhuận Phủ như thế nào, Giảo Kim tự nhận, Thúc Bảo đốt trát, kể ra một lượt. Quốc Viễn khoái quá vỗ tay tán thưởng, dậm chân, đập bàn mà hét. Như Khuê nói: - Như Thúc Bảo, như Giảo Kim mới thật là anh hùng, thật là hào kiệt trong thiên hạ mà không kết giao được với hai người này, thì cũng chưa đáng bậc trượng phu. Nhưng rồi chuyện ra sao nữa? Bá Đương lại kể tiếp chuyện Huyền Thúy đến gặp Lai Tổng quản, Tự Xương đến gặp Lưu Thứ sử, rồi chuyện ba nghìn lạng bạc của Đường Công tặng Thúc Bảo thế nào kể hết một lượt. Kể xong, chỉ thấy Đậu Kiến Đức đập bàn than: - Quốc gia mà còn những loại tham quan như Thứ sử họ Lưu này, thì anh em chúng ta phải giết cho bằng hết! Như Khuê nói thêm: - Lại động đến tâm sự của Đậu đại ca rồi đó! Huyền Thúy lại hỏi: - Đậu đại huynh có tâm sự ta sao. Xin được cho nghe. Đậu Kiến Đức đáp: - Tiểu đệ vốn quê ở Bội Châu, cũng có một ít sản nghiệp. Khi hai thân qua đời, tiểu đệ tính tình thô bạo, phóng túng, chẳng chăm lo gì tới sản nghiệp, với khoảng hai ba nghìn lạng vàng, mà chỉ nghĩ tới chuyện ăn chơi. Năm qua chuyết thê chẳng may qua đời. Cuối thu, tiểu đệ đi Hà Giang thăm người quen, chẳng ngờ bọn triều đình sai bọn hoạn quan đi tuyển cung nữ, trong phủ có gia thuộc một viên quan này, nên những thiếu nữ trong phủ đều được bọn chúng sắp sẵn làm ba hạng: thượng, trung, hạ. Tiểu nữ của tiểu đệ đây, tên Tuyến Nương, tuổi mới mười ba, tài sắc kiêm toàn, lại thích đọc binh thư thao lược, trong khuê phòng mà chỉ lo luyện kiếm, đường kiếm mỗi lần vung lên thì chẳng khác gì rồng cuốn. Tiểu đệ chỉ có mỗi một mình cháu, quý ngang châu ngọc. Bọn này nghe tiếng, biết chưa thành gia thất, lập tức xếp vào loại thượng đẳng. Tiểu nữ biết chuyện, lập tức bán bớt ruộng vườn, lấy một hai trăm lạng vàng, nhờ người chạy cho thoát. Khốn thay bọn châu quan cùng bọn hoạn quan nhất định không chịu. Tiểu nữ thấy thế, bán hết gia sản, chiêu tập bọn người lang thang, không nhà, định cùng đối chọi một mất một còn với quan quân. May mà trong nhà còn chị dâu góa cùng đứa cháu trai ngăn cản kịp. Tiểu đệ nghe tin vội về, tốn hết hơn một nghìn lạng vàng, mọi chuyện mới yên ổn, cháu mới được tha. Nhưng vẫn lo sinh chuyện lôi thôi, nên phải đưa cháu cùng chị đâu tránh khỏi châu nhà, tạm ở nhà người thân là Trương Thiện Sĩ ở vùng Giới Hưu. Nhân trên đường đi gặp hai vị Tề, Lý, vì vậy cùng đi cho vui vẻ hơn chăng. Hùng Tín nói: - Hiện nay Thúc Bảo không có nhà, mà cả ba vị đều đang lang thang vô định, chi bằng tới tiểu trang trại của Hùng Tín này ta cùng nhau uống rượu vài ngày cho thư thái, các vị nghĩ sao? Lại quay lại nói với Huyền Thúy, Bá Đương: - Ý cũng muốn để hai vị về quê, nhưng nay gặp ba bạn mới ở đây, hai vị hãy theo tiếp khách với Hùng Tín này, ta cùng nhau trò chuyện vài ngày. Bá Đương, Huyền Thúy không tiện chối từ, nên cũng đành theo Hùng Tín và mọi người về Nhị Hiền trang. Quốc Viễn mừng rỡ nói: - Tất cả mọi người cùng đi mới vui, tiểu đệ đang muốn đến Nhị Hiền trang ra mắt Đơn nhị ca, để còn đi lại nhiều về sau. Như Khuê nói: - Nếu như thế thì xin được ăn no để còn lên đường. Ăn xong, Hùng Tín gọi tiểu nhị trả tiền, không quên cả suất cơm rượu mà ba người bạn mới đã ăn từ trước. Mọi người ra khỏi quán rượu, nhảy lên ngựa, ra roi phóng thẳng, đi được mấy dặm, thấy quanh vách núi ven đường, có một ông già, nằm co, gối đầu lên tay mà ngủ, vứt cả khăn gói bên cạnh. Kiến Đức trông thấy, có vẻ giống người đầy tớ già Đậu Thành của mình, bèn nhảy xuống ngựa, lại gần nhìn kỹ, thì đúng là Đậu Thành. Kiến Đức vừa ngạc nhiên, vừa sợ hãi, gọi lớn: - Đậu Thành, sao lão lại ở đây? Ông già tỉnh dậy chùi mắt nhìn, nhận ra chủ nhân, bèn thưa: - Tạ ơn trời đất phù hộ cho chủ nhân. Chủ nhân vừa ra khỏi nhà, thì trong châu đã ầm lên rằng vì không kiếm ra được thiếu nữ đẹp xinh để tiến cung, thấy nhà ta bỏ trốn cả, quan châu ra lệnh truy bắt. Tiểu thư biết có tin không lành, nên sai tiểu nhân đi tìm chủ nhân về. Lúc này cả năm người đều đã xuống ngựa, đứng cạnh đường. Kiến Đức cầm tay Hùng Tín mà rằng: - Ơn nhị ca thương đến, không bỏ kẻ hoạn nạn này, đáng phải theo các vị đây về bái chào ở Nhị Hiền trang mới phải. Nhưng tiểu đệ bây giờ, lòng như tơ vò phải trở về ngay, xem chuyện tiểu thư ra sao. Sau này có dịp, sẽ xin đến hầu nhị ca. - Vừa mới quen nhau, đã lại nói xa. Núi xưa có thiêng sao vẫn lặng lẽ nhìn? Hùng Tín tiếp: - Đây là việc cần kíp của đại huynh. Hùng Tín không dám ngăn trở. Nhưng xin có lời với đại huynh thế này: Triều Tùy tuy dâm ác vô cùng, quyền gian tác quái, nhưng bốn phương nghĩa binh chưa dậy, còn phái nhẫn nại chờ thời đã. Đây chính là lúc tránh loạn vậy. Nếu như vùng Giới Hưu không thể an thân, tốt hơn cả là đại huynh nên mang lệnh ái đến tiểu trang trại, ở cùng với tiểu nữ Hùng Tín này cho vui vẻ, thì chẳng còn chuyện gì phải lo nghĩ cả. Đại huynh có việc bận rộn phải đi xa thì có chuyết thê Hùng Tín này lo liệu rồi. Quốc Viễn tán thưởng: - Đơn nhị ca không phải là người nói cho vui miệng, dù cho hoàng đế nhà Tùy có đến tận cửa Nhị Hiền trang để đòi thì nhị ca cũng nhất nhất không giao nạp đâu? Bá Đương thêm vào: - Đậu đại ca, lời Đơn nhị ca là lời gan ruột, đại ca nên tức tốc về ngay Giới Hưu là tốt hơn cả! Hùng Tín lại nói với Bá Đương, Huyền Thúy: - Bạn bè bốn biển, chỉ cần thêm một bái là đã thành cốt nhục rồi. Hùng Tín phiền hai vị đi đường vòng một chút, cùng với Đậu Đại ca đi Giới Hưu. Hai vị tài cán mẫn tiệp, hơn hẳn sự thô lỗ của Hùng Tín này, xin xem sự thể thế nào, chúng ta cũng mới yên tâm cho được. Rồi bảo bọn đầy tớ: - Số tiền đi đường lâu này, mang lại đây cho ta. Bọn đầy tớ vội mở khăn gói đưa trình Hùng Tín xem còn ít nhiều ra sao, rồi chia đôi cho Bá Đương: - Đây có năm mươi lạng bạc, hiền huynh cầm lấy. Ba vị hãy đi Giới Hưu. Nếu thấy Đậu Tiểu thư có thể ở lại an toàn, thì cứ ở lại Giới Hưu, bằng không thì xin cứ đưa ngay về tiểu trang trại Hùng Tín này. Mọi người bằng lòng. Kiến Đức cảm tạ Hùng Tín. Như Khuê, Quốc Viễn, rồi cùng Bá Đương, Huyền Thúy lên ngựa đi trước. Chính là: Vui bạn bè thắm thiết Lo cốt nhục hằn thù Cũng bởi câu nghĩa khí Khác thói đời phù du. Hùng Tín thấy ba người đã đi khuất, nói với Như Khuê, Quốc Viễn: - Giờ thì chẳng còn việc gì phải vội, xin mời hai vị đến vui tiệc rượu với Hùng Tín này ở tiểu trang trại vậy! Như Khuê đáp: - Chúng tôi bỏ bọn trẻ ranh một mình ở Đào Hoa sơn quả không an tâm, chi bằng chúng ta chia tay nhau, xin đợi lần khác gặp gỡ vậy. Hùng Tín thấy nói thế, cũng không muốn nài thêm bèn chia tay, quay ngựa về Lộ Châu. Quốc Viễn trên lưng ngựa nói với Như Khuê: - Vừa rồi hai chúng ta cùng Đậu đại ca tới đây, không ngờ Đơn nhị ca lại chọn hai người kia đi với Đậu đại ca, có lẽ sợ chúng ta là người thô lỗ, làm hỏng mọi việc chăng? Như Khuê đáp: - Tiểu đệ cũng nghĩ như vậy. Hai chúng ta dẫu có thô lỗ đi chăng nữa cũng còn được việc không chừng. Chúng ta hãy về sơn trại sắp xếp công việc rồi cùng đi Giới Hưu nghe xem tin tức Đậu tiểu thư ra sao, nếu ba người kia làm không nên chuyện, mà chúng ta lại lo liệu được để cho Đơn nhị ca sáng mắt ra, thấy rõ bọn Quốc Viễn, Như Khuê này không phải loại người đốt nhà, giết người, mà chính là kẻ được việc. Hai người trên ngựa chuyện trò, đi cả ngày lẫn đêm về sơn trại, lo liệu công việc xong xuôi rồi cùng với ba tên lâu la, tìm đường tắt đi về Giới Hưu. *** Nguyên là Đậu tiểu thư thấy sự thể không ổn, sau khi Đậu Thành ra đi được ba ngày, tự mình cũng cải dạng nam trang, cùng với mẹ con bác gái, trốn khỏi Giới Hưu. May sao giữa đường gặp được phụ thân. Kiến Đức mừng rỡ. Bá Đương cùng Huyền Thúy đều khuyên Kiến Đức đưa tất cả về Nhị Hiến trang. Lại nói Như Khuê, Quốc Viễn vừa tới Giới Hưu, lượn quanh ở ngoài cửa thành tìm chỗ nghỉ. Ngày hôm sau vào thành nghe ngóng, chẳng thấy cả Bá Đương lẫn Huyền Thúy đâu cả, cũng chẳng biết Trương Thiện Sĩ ở chỗ nào, chạy đông lại chạy tây nghe trong ngõ ngoài phố, người người thì thầm bàn tán, đều nói chuyện một nhà nào đó, đã mất đến hàng nghìn lạng hạc, nhà khác mất trăm lạng, tới nhà họ Hạ ở Hà Tây, chỉ toàn con gái, mất cả gia cơ điền sản, mới được năm trăm lạng vàng. mà bọn hoạn quan vẫn không chịu nhận cho, tên con gái vẫn phải ghi trong sổ tiến cung mà thôi! Hai người đi vào một ngõ hẻm, sẵn đang mệt mỏi, liền vào một quán rượu ngồi nghỉ. Thấy có hai người đầy tớ già, cũng vào quán ngồi, gõ mặt bàn ra hiệu đòi rượu, miệng thì kể: - Thật là cái đời ôn dịch, chẳng báo giờ có những chuyện như thế này. Vịn vào mấy cái thánh chỉ, làm khổ từ nhà giàu cho đến kẻ nghèo đâu đâu cũng thấy cảnh khóc lóc, van xin, ngày đêm không lúc nào yên cho. Người kia tiếp: - Sổ sách giờ đã cố định rồi. Khá tiếc cho mấy nhà chạy mãi mà vẫn không thoát. Chỉ đáng căm bọn hoạn quan bẩn thỉu, chẳng bao giờ có vợ con cả, thì không hiểu chúng lấy vàng bạc làm gì nhỉ? Như Khuê hỏi: - Xin hỏi hai bác. Giờ đây sứ giả nhà vua đang ở đâu? Một ông già đáp: - Vừa mới ở đây, giờ sang châu Vĩnh Ninh rồi! Như Khuê thấy nói thế, cúi đầu nghĩ ngợi, rồi kéo Quốc Viễn dậy, trả tiền rượu, ra khỏi quán về ngoài thành gọi lâu la thu lượm hành lý lên đường ngay. Quốc Viễn hỏi: - Chưa biết Đậu đại ca tình trạng ra sao, sao lại đã lên đường? Như Khuê đáp: - Cũng chẳng biết Đậu đại ca ở đâu mà tìm, nay tiểu đệ vừa nghĩ ra một việc hay lắm. Hiền đệ cứ đi theo sẽ biết. Rồi ghé tai Quốc Viễn khẽ nói: - Cứ như thế. . như thế... mà làm. Thế có xung ý không nào? Nay hiền đệ mang theo mấy tên lâu la này, theo đường nhỏ phía tây núi mà xuyên qua huyện Ninh Hương, đến vùng Thạch Lâu có một khu gọi là Thanh Hư các, bọn chúng nhất định nghỉ ngơi ở đấy. Hiền đệ cứ theo dõi cho sát đừng để lộ mình. Tiểu đệ ngày đêm vào ngay sơn trại tuyển mấy lâu la được việc, đem theo một ít đồ đạc cần thiết tới Thạch Lâu, cách Thanh Hư khoảng mười dặm gặp hiền đệ rồi sẽ khởi sự. Nói xong tất cả đều lên ngựa, đến ngã ba trước mặt mỗi người mỗi đường. Chính là: Chưa bằng Gia Cát mưu thần Cũng đáng Long Trung mẹo thánh. (1) *** Lại nói khâm sai chánh sứ Hứa Đình Phụ rời khỏi Giới Hưu, binh lính cờ gióng trống đánh đến châu Vĩnh Ninh. Họ Hứa ngồi xe bịt kín, có mười mấy thổ binh theo hầu, lại thêm mười tên quan binh đi theo bảo vệ, trên đường đi rất chậm, đã hai ngày trên đường, sang tới giờ tý ngày hôm nay vẫn còn cách địa giới Vĩnh Ninh năm mươi dặm, cách Thanh Hư các ba mươi dặm, nhìn chung quanh chỉ thấy: Gió lồng dậy đất Mây kéo đen trời Núi rừng đá lở, ầm ĩ cọp thét rồng ngâm Cây đổ cát bay, nhôn nháo vượn kêu thỏ chạy Hốt hoảng hát bài "Hành lộ nan " Đành để gió Thạch Vưu (2) múa nhảy. 1 Gia Cát, tự Khổng Minh, người đất Tùng Dương đời Tam Quốc, ở ẩn ở Long Trung, ra làm quân sư cho Lưu Bị, nổi tiếng là nhà quân sự, chính trị tài giỏi của Trung Hoa cổ xưa (Tam Quốc diễn nghĩa). 2 Gió Thạch Vưu: vợ họ Thạch, chồng họ Vưu. Chồng tham lời bỏ đi buôn xa. Vợ can không được, ở nhà buồn, ốm sắp chết, thề rằng: "Ta sẽ hóa thành gió, cản thuyền của bọn lái buôn. Cho vợ chồng khác được sum họp" (Từ Hải) Một khách đi đường, gặp phải trận cuồng phong bạo vũ này, khắp người ướt sạch, rét lạnh thấu xương, chạy vào Thanh Hư các trú nhờ, nhưng vì cửa đóng, không tài nào vào được. Nguyên do là Thanh Hư các này có tới ba tầng cửa. Phía trên cùng là ba gian các nhỏ, ngoài là ba gian hiên rộng. Sau nữa là một nhà sư già ở trong một nhà nhỏ riêng để trông coi. Lúc này sứ giả của nhà vua đang nghỉ ngơi trên các, còn bọn người tùy tùng thì vừa cởi quần áo ướt, đang đốt lửa sưởi. Trong sân mấy chiếc xe nhỏ, lính tráng của châu xúm quanh, bưng thịt lợn quay, thịt dê nướng, gà, ngỗng, các món nấu khác bánh bao các loại, bày ra mười mấy mâm. Mâm sang nhất được dành riêng cho chánh sứ khâm sai. Các vò rượu lớn cũng được bày cạnh mỗi mâm. Một viên quan tay cầm tờ thiếp, thưa với bọn lính trong đội tùy tùng: - Tiểu nhân là dịch thừa các trạm này, lo cả việc đi lại cho quan lại châu Vĩnh Ninh, được lệnh đem tiệc rượu đến để đón tiếp Khâm sai đại nhân. Bọn này nghe ra, cửa mở ngay, dẫn viên dịch thừa lên gặp quan khâm sai. Dịch thừa quỳ xuống trình: - Tiểu quan là dịch thừa Giả Văn của châu Vĩnh Ninh xin ra mắt khâm sai đại nhân. Rồi nâng lễ vật lên trình quan xem xét. Hứa Đình Phủ lên tiếng: - Cho đứng dậy! Lại hỏi: - Từ đây đến châu, đường xa gần ra sao? Dịch thừa thưa: - Dạ thưa Khâm sai đại nhân, còn bốn mươi lăm dặm nữa. Quan lớn chúng con sợ đại nhân đi đường mệt mỏi, nên phái chúng con ra đón ngài ngoài đây để được ngài sai phái. Rồi sai tay chân bưng các thứ đặt lên bàn, khiêng lại gần giường nằm của quan lớn Khâm sai, Đình Phủ lại truyền: - Hãy đem đồ ăn thức nhắm ra ngoài kia, các ngươi cùng đội lính cho phép ăn uống no say. Mọi người nghe quan lớn truyền, liền xuống các, thấy hai tiểu nội giám đứng hầu sau quan lớn, dịch thừa thưa: - Xin mời hai vị xuống dưới này uống vài chén rượu, hạ quan này xin hầu hạ tận tình. Hai tên nội giám nghe thấy thế cũng theo xuống. Đang ăn uống say sưa, bỗng thấy một người cao lớn bưng một bình rượu đã được hâm nóng, đưa mắt ra hiệu, dịch thừa cầm lấy bình rượu rót ra một chén đầy, bưng lên các, quỳ trước mặt Hứa Đình Phủ thưa: - Trình đại nhân, ở bên ngoài gió gào mưa trút, xin đại nhân cạn chén rượu nóng cho ấm lòng. Đình Phủ khen: - Viên quan dịch thừa này được việc lắm, mai kia bản chức về kinh, sẽ tâu với triều đình, thăng ngươi lên làm quan châu. Dịch thừa cúi thưa: - Xin đa tạ ơn trời biển của đại nhân! Đang thưa trình, thì đã thấy Đình Phủ dốc cạn chén rượu lớn, rồi lắc lư, lắc lư ngã lăn quay ra. Thì ra viên dịch thừa chính là Như Khuê giả trang, Quốc Viễn thì cai quản bọn thủ hạ ở bên dưới, chờ đúng lúc trên các Như Khuê hành sự, dưới này Quốc Viễn cũng dốc rượu trong bình nóng, mỗi một tên lính trong đội bảo vệ cùng hai nội giám, mỗi đứa một chén, cả bọn cùng ngã lăn. Như Khuê gọi bọn lâu la, khiêng Đình Phủ xuống các, cùng với hai nội giám vào một chỗ, rồi trói Đình Phủ vào trong kiệu, hai nội giám thì chất lên lưng ngựa, các thứ khác không thèm đụng đến, cả bọn lên ngựa, đang đêm kéo về sơn trại. Hứa Đình Phủ ở trong kiệu, bị thuốc mê mãi tới gần sáng mới tỉnh lại, thấy hai tay bị trói chặt, thân mình cũng bị quấn bằng dây lớn với kiệu, không thể nào cựa quậy gì được, sợ quá, vội la lớn không thành tiếng: - Sao lại có chuyện lạ lùng thế này, đứa nào dám đem chúng ta ra làm trò đùa thế này. Nhưng bây giờ đã vào giữa rừng núi, dù quan lớn có la hét thế nào nữa, cũng chẳng thấy ai nhòm ngó. Phương đông bắt đầu rạng, mọi người vén rèm, khiêng Đình Phủ ra. Đình Phủ nhìn quanh, thì thấy hai viên tiểu nội giám theo mình, cũng còn bị trói, đang đứng bên cạnh. Cả ba nhìn nhau mặt sắt lại, nhưng cũng không dám nói với nhau một lời nào. Chỉ nghe ba tiếng pháo lớn, thấy khoảng ba bốn chục lâu la, kéo Đình Phủ cùng hai viên tiểu nội giám tiến vào sơn trại. Nhìn lên thấy thương đao san sát, sát khí đằng đằng, chính giữa ba gian thảo đường, bày hai ghế dựa trên có trải da hổ. Như Khuê đã vứt bỏ bộ quần áo quan viên, mà mặc một bộ đồ chiến bào màu hồng, ngồi chễm chệ bên trên. Đình Phủ ngước mắt nhìn lên, nhận ra viên dịch thừa ngày hôm qua, hồn bay phách lạc, Đình Phủ quỳ lạy xuống. Như Khuê lớn tiếng quát: - Cái đồ chó thiến kia! Triều đình sai ngươi đi tìm gái đẹp, dù là có khâm lệnh của hoàng đế, thì cũng phải nghĩ tới dân tình, vì sao chỗ thì đòi nghìn lạng, chỗ thì trăm lạng, để đến nỗi nơi xa nơi gần nhà giàu, nhà nghèo đến nhà cửa tan nát, họ hàng lìa tan? Đình Phủ thưa: - Trình đại vương, chuyện nhũng nhiễu trăm họ này, là chuyện bọn nha quan ở phủ huyện, mượn gió bẻ măng, còn chúng tôi dây chẳng được dính dáng gì đến một đồng, một lạng nào cả. Như Khuê nạt lớn: - Cái thứ phân rác kia! Ta đã đi khắp nơi, nghe ngóng đầy đủ xác thực, mà mày lại còn già mồm cãi sao. Các con đâu! Hãy đem con chó thiến này cho mấy búa vào đầu cho ta. Còn hãy để hai con gà trống thiến kia lại cho ta, còn có việc cần! Đình Phủ nghe tiếng khóc lóc thảm thiết, van xin tha chết. Lại thấy lâu la vào trình: - Bẩm đại vương! Nhị đại vương đã về! Thì ra Quốc Viễn sau khi giải Đình Phủ về trại, sợ bọn lính tỉnh dậy truy tìm, nên cầm đầu một toán lâu la, mai phục giữa đường rất lâu không thấy gì mới rút cả về sơn trại, thấy các bác quan viên đang quỳ mọp dưới thềm liền lên tiếng: - Lý đại ca sao lại giở chuyện đùa nghịch thế này, mai kia mà triều đình chiêu an, chúng ta sẽ bị đánh nát đít mất thôi! Như Khuê cười đáp: - Hôm qua ở Thanh Hư các, ta cũng phải quỳ hầu nó mãi, lại còn phải dâng rượu mời nó. Hôm nay hãy đùa lại một phen, rồi sẽ bàn chuyện đứng đắn sau. Rồi hai người cúi xuống cởi trói cho cả ba, lại đưa vào thảo đường mời ngồi cẩn thận, rồi Như Khuê làm ra vẻ hối hận. - Thật có lỗi, thật có lỗi quá! Sai lâu la: - Mau mau bày tiệc rượu, đề ngài khâm sai uống cho đỡ cơn run sợ. Bọn lâu la rối rít bày tiệc rượu, ba người cùng ngồi vào bàn. Đình Phủ lên tiếng: - Hai vị hảo hán có điều chi dạy bảo, mà lại đưa chúng tôi về núi như thế này? Như Khuê đáp: - Có ngài Khâm sai ở trên, hai anh em chúng tôi hùng cứ đã hàng năm ở núi này, đốt nhà cướp của, các phủ huyện lân cận kể đã nhiều phen nhiễu nhương bách tính. Khắp nơi chúng tôi cũng lắm anh em, nên khách thương cũng chẳng còn dám lại qua. Vì vậy sơn trại lương thực thiếu thốn, cho nên muốn vay tạm ngài khâm sai khoảng một vạn lạng vàng, để có thể dư dật về lương thảo. Xin ngài khâm sai chớ chối từ. Đình Phủ đáp: - Bọn chúng tôi phụng chiếu rời đô, chứ không phải khách buôn để mang theo vàng bạc nhiều đến thể. Nếu được các châu quận quà cáp ít nhiều, thì cũng chỉ có hạn. nếu các vị hảo hán bằng lòng với cỡ trăm lạng, nghìn lạng thì còn khả dĩ xin dâng tặng được. Quốc Viễn nghe thế, mắt long sòng sọc nạt lớn: - Ngài khâm sai, ta nói thực cho mà biết: nếu ngài mang đủ một vạn lạng tới đây, thì chỉ trong nháy mắt, chúng ta nhìn thấy tiền rồi, sẽ thả ngài ra ngay. Còn chỉ cần nói nửa câu không có, là cái đầu kia sẽ không còn trên cổ nữa đâu. Nói xong, rút ngay bên hông một thanh bảo kiếm sáng loáng, vứt lên mặt bàn. Như Khuê tiếp lời: - Xin ngài khâm sai đừng sợ, ngài hãy ra bàn chuyện này với hai viên tiểu nội giám kia thì hơn. Đình Phủ đứng dậy, cùng với hai viên nội giám ra phía thềm bán nguyệt đài. Trong số hai nội giám, thì một tên nước mắt ngắn dài, một lời cũng không thốt ra được, một tên còn có gan hơn ít nhiều thì bàn: - Lúc này khóc lóc cũng chẳng ích gì, bọn cường đạo này chỉ cần tiền bạc, nếu khâm sai bằng lòng đưa chuộc mạng, thì cả ba sẽ yên ổn trở về. Còn như chúng không được thỏa nguyện, thì đừng nói cái đầu mà ngay cả đến nắm xương tàn cũng chẳng ai biết mà thu nhặt. Bọn người này đều là loại giết người không nháy mắt, chẳng có lý gì chúng tha không bọn ta đâu. Đình Phủ nghe những lời này, nhìn lại hai tên tay chân một lần nữa, rồi nói: - Nếu đã như thế, ta sẽ quay vào nói với bọn chúng, cho các anh về châu thông báo, xem bọn quan lại dưới ấy bàn bạc thế nào, thì đành phải lấy ở số bạc ta gửi ở kho các phủ huyện vậy thôi. Nói rồi lại quay vào. Như Khuê sai lâu la dọn cơm rượu cho viên nội giám có gan hơn ăn, lại sai lấy một đỉnh bạc thưởng cho làm tiền lộ phí, rồi hỏi: - Anh tên họ là gì? Viên nội giám thưa: - Thưa đại vương, tên tiều nhân là Chu Đồng! Như Khuê tiếp: - Được rồi! Đỉnh bạc này cho anh làm tiền đi đường. Hạn cho anh năm ngày, đem tiền đến đây mà chuộc ngài khâm sai. Nếu năm ngày mà vẫn không thấy lại thì hai thầy trò ở đây, đừng nghĩ đến chuyện sống. Rồi sai thủ hạ đem con ngựa mà y đã bị buộc ở trên lưng để đến sơn trại để y cưỡi về, cho hai lâu la đưa xuống núi. Còn Đình Phủ cùng tên kia đem giam vào một phòng kín. Đưa rượu ngon, thịt béo vào tận nơi. *** Lại nói nội giám Chu Đồng, cưỡi ngựa về đến Thanh Hư các, thì thấy các cửa khóa kín, không một bóng người, đành phải tìm đường về tận châu lỵ. Bọn quan nha nghe báo có chuyện cường đạo bắt mất chánh sứ khâm sai, thì vô cùng hoảng hốt, liền phi ngựa như bay đến Thanh Hư các khám xét hiện trường. Bắt từ nhà sư, thổ binh, cùng đội lính bảo vệ phủ đường. Đưa công văn đi Phần Châu, quan chủ Phần Châu vội vàng không kể ngày đêm đến Vĩnh Ninh. Lúc này quan nha Vĩnh Ninh đang xét hỏi nhà sư, thổ binh, đội lính bảo vệ, cùng các nhân chứng ở địa phương Thanh Hư các, thì thấy Chu Đồng trở về. Tất cả bọn quan lại đều xúm lại hỏi tình hình. Nội giám Chu Đồng bèn đem chuyện ở Đào Hoa Sơn đầu đuôi thế nào kể hết một lượt. Quan nha nghe xong, ai nấy mặt mày xám như bùn, ngây như tượng gỗ, cho nhà sư cùng bọn nhân chứng về, tất cả ngồi bàn kế sách đối phó. Có kẻ bàn rằng: - Việc này phải đưa công văn trình ngay lên quan trên, xin động binh tiễu trừ bằng được. Lại có kẻ cãi: - Lũ này chỉ đòi tiền thôi. Kẻ khác lại giảng giải: - Nếu chúng đòi năm trăm đưa năm trăm, đòi một nghìn đưa một nghìn, đòi hai nghìn đưa hai nghìn, thì lấy đâu ra bạc cho đủ. Chi bằng hãy chờ xem một vài ngày thấy chúng ta không chịu đưa bạc tới, chúng làm gì được hai vị của chúng ta nào. Rồi cũng đến phải tha xuống núi mà thôi! Phần Châu Thứ sử nói: - Không có thể nói liều được, quan chánh sứ khâm sai là sủng thần của triều đình, nếu chẳng may có chuyện tổn thất gì ở địa phận chúng ta, đừng nói đến chuyện cách chức hỏi tội, mà đến tính mạng họ hàng gia quyến của mỗi chúng ta cũng chẳng có gì chắc chắn, đâu chỉ có chuyện giáng cấp, phạt bổng thôi đâu. Chi bằng vay tạm trong kho khoảng vài nghìn lạng đem đi, chuộc quan khâm sai về, để mau chóng dẹp cho yên cái chuyện rầy rà này đi.

Thế là mọi người cứ theo các kho mà chia lấy hai nghìn lạng vàng, cho người đi cùng với Chu Đồng, mang tới Đào Hoa Sơn. Lý Như Khuê, Tề Quốc Viễn nhất định không chịu. Hứa Đình Phủ đành phải xuất của mình ra ba nghìn lạng nữa, ba bốn lần van xin, Lý, Tề mới cho xuống núi. Từ đó Hứa Đình Phủ hễ xuống châu quận nào, đều phải lo trước việc nai nịt gọn gàng, tiền hô hậu ủng. Nhưng rồi vẫn cố kiếm thêm nhiều vàng bạc, bằng muôn phương nghìn kế. Thế cũng mới thấy bọn cường đạo ở trên đời này, mà có được nghĩa khí như vậy cũng không phải không có.

Ai rằng núi rừng mới có hùm beo Ở đây vườn ruộng rất nhiều sói lang.

Hồi Thứ Hai Mươi Bảy

Cùng kiệt sức dân, Dượng Đế đào sông, xây cung điện, Mong làm quan hoạn, Vương Nghĩa tốt số, nên vợ chồng.

Từ rằng: Ngày ba bữa đêm đêm ngon giấc Thế đủ rồi đừng ước cao xa Lăn lưng vào cảnh phồn hoa Giang Nam phú quý, kiêu xa tột cùng Rồi đến vận thân vong quốc phá Lũ cung phi sa ngã bùn dơ Sao bằng thuở trước Thuấn Ngu Nhà tranh vách đất, áo thô nước đồng Được tiếng tốt mà lòng thanh thản Vui như vậy, vui hẳn gì hơn Người đời không rõ nguồn cơn Tham lam ganh tị oán hờn hại nhau Họa trước mắt biết chưa nào? Theo điệu "Mãn đình phương"

Trong thiên hạ, sức của sức người có hạn, mà lòng người thì không cùng, nói đến bậc vua chúa, giàu có bốn biển, thì tổn hại đến trăm họ. Nhưng thực ra không cái gì là không lấy từ dân mà có, không việc gì là không do người dân làm ra. Thử cứ xem những lâu đài đền tạ kia, có cái gì là cái không phải tay người dân. Hoàng đế ở trong chốn thâm cung, không thấy rõ chuyện nay dựng lầu, mai dựng điện, nay xây tạ, mai đào hồ, có cung điện lầu các rồi thì lại phải có kỳ trân, dị vật để trang điểm lầu các, điểm xuyết cung điện, những việc này há khác gì việc thổ mộc trên kia, lại cũng phải nhiễu nhương, tàn hại trăm họ.

Giờ nói chuyện hoang dâm của Tùy Dượng Đế ngày càng quá quắt. Ban đầu sai bọn quan thái giám Hứa Đình Phủ mười người, tìm người đẹp trong chín châu, sau nữa là phái Vũ Văn Khải, xây Hiển Nhân cung ở Lạc Dương, tiếp đó là cho Ma Thúc Mưu, Lệnh Hồ Đạt khai thông các sông ngòi, để vua có thể dùng thuyền đi chơi Giang Nam, rồi nghĩ đến cả đi chơi Giang Đô, khiến trăm họ thất điên bát đảo chạy đông, trốn tây, chẳng phục dịch dựng xây cung điện, thì lại đem thân xơ xác ra mà đào ngòi khơi sông, cùng nghìn vạn các việc lao lực khác. Các quan nha ở châu quận, chẳng khác nào nước sôi trong vạc.

Đừng nói nhà giàu muốn làm việc gì cũng đã dễ, huống chi triều đình, bất quá cũng chỉ vài trăm vạn lạng vàng là cùng, còn công sức của trăm họ dân đen cả, cho nên chẳng bao lâu cung Hiển Nhân một tòa lộng lẫy đã xong ở Đông Kinh, vừa cao vừa rộng. Đã vậy Ngu Thế Cơ còn đón được trước ý của nhà vua, dâng một tờ tấu chương: "Hiển Nhân cung tuy đã tạo thành, nhưng sợ một mình cung này không đủ thánh thượng ngự du khoái ý. Thần xin chọn đất lành phía tây Hiển Nhân, dựng một ngự uyển, để thêm đẹp cuộc ngự du". Dượng Đế xem xong, lấy làm vui lòng lắm, sắc cho Ngu Thế Cơ như sau: "Khanh thật đoán được ý trẫm, cho phép khanh cứ theo ý mà đo đạc dựng xây. Không được qua loa, để phụ lòng tin cậy trông ngóng của trẫm."

Thế là phía nam thì đào luôn trăm hồ rộng, mỗi hồ có đến mười dặm chu vi, bốn bên đều trồng hoa lạ cỏ kỳ, cạnh đó là đắp những đê dài, trên đê cứ một trăm hộ là một đình, năm mươi hộ là một tạ (1), hai bên đê đều trồng hoa đào, bờ nước thì trồng liễu thành hàng thành lối. Lại đóng nhiều thuyền rồng thuyền phượng, để dùng trong những cuộc phiếm du dọc hai bờ hoa cỏ. Phía bắc đào một hồ rất rộng, gọi là hồ Bắc Hải, chu vi có đến bốn mươi dặm, lại đào sông thông với Ngũ Hồ ở phía Nam, trong hồ đắp luôn ba hòn núi lớn: tòa thứ nhất là Bồng Lai, tòa thứ hai gọi là Phương Trượng, tòa thứ ba có tên Doanh Châu, để bắt chước ba tòa đảo có tiên ở ngoài biển. Trên núi lại cũng đủ làm đài điện các, bốn phía đều chói ngời vàng son, đinh núi cao hơn trăm trượng, có thể nhìn về Tây Kinh, lại có thể nhìn quanh phía hồ biển ở phía nam. Giữa hai vùng hồ nam bắc, quanh co uốn lượn, sông đào tiếp nối với sông lớn, rồi lại thông ra biển lớn, nơi nào cảnh đẹp, lại xây thêm lầu các, cứ thế mà làm tới mười sáu lầu viện khác nhau nữa, chỗ nào cũng có cung nữ coi giữ để sẵn sàng phục dịch khi vua ngự tới. Ngói ở tường ngự uyển, ngói ở các lầu các đều là ngói lưu ly, tường vách đều được quét bằng mẫu phấn tử chi. Ba tòa núi đều tạo những dáng kỳ lạ bằng đủ các loại đá quý hình thú kỳ dị, chất chồng hết lớp này đến lớp khác. Đài tạ đều được làm bằng các vật liệu quý hiếm, mọi chỗ đều khảm bằng vàng bạc lấp lánh, treo gấm rủ lụa màu sắc sặc sỡ, châu ngọc lung linh. Trong vườn đào hoa như suối chảy, sắc lý như mây trôi, mai hoa uốn thành vòng lượn, phù dung ôm lấy thân đê. Hạc quây quần từng bầy, gà gấm từng đôi, vượn trắng hú đài, hươu xanh ngơ ngác lượn quanh, cảnh tượng chẳng khác gì thuở trời đất mới bắt đầu, chẳng biết đã tàn hại biết bao sinh mạng dân nghèo, tốn kém không biết bao nhiêu tiền bạc gạo lương mới được như vậy. Ngu Thế Cơ lập tức dâng biểu, xin nhà vua ngự xem xét. 1 Đình: lầu nghỉ mát trên đường. Tạ: đài, lầu ở trên mặt nước để chơi mát.

Dượng Đế xem biểu, biết công việc đã xong, trong lòng mừng rỡ, liền chọn ngày tốt, cùng với Liêu Hậu, đem theo phi tần cung nữ, lên xe ngự giá Đông Kinh. Chẳng bao lâu đã tới Hiển Nhân cung, đã thấy Vũ Văn Khải, Phong Đức Di chực sẵn tiếp đón, rồi dẫn Dượng Đế đi thăm các nơi, bắt đầu từ chính cung mà đi hết nơi này đến nơi khác. Chỉ thấy:

Muôn cột chạm mây màu Nghìn gian trên sông bạc Tinh tú trước sau tường vách Nhật nguyệt ngang dọc cung lầu Then cài ngọc, khác gì tam đảo cõi tiên Thềm lát vàng, không kém cửa trời đế khuyết Rèm cuốn liên miên, mây lành rợp che muôn dặm Hương bay phảng phất, gió mát thổi khắp một trời.

Đúng là:

Hồ Thiên nga đáng bậc phong lưu Lầu ô thước rất màu phú quý.

Dượng Đế trông thấy lầu gác hoa lệ, điện các nhấp nhô, bốn phương tiến cống đủ các kỳ vật, trong lòng vô cùng hoan hỷ, bèn phán: - Công lao của hai khanh thật là đáng khen! Liền sai lấy vàng lụa, hậu thưởng cho hai người và giữ lại hậu viện cho dự tiệc rượu. Chính là : Người thiện trời xui tính thiện kề Nịnh thần hợp với chúa hôn mê Hoang dâm, kiêu xí tàn dân lực Xa giá nam du chóng trở về. Dượng Đế ở Hiển Nhân cung, rong chơi mấy ngày cũng thấy mệt mỏi, liền ngồi kiệu bay, cùng Tiêu Hậu, cung nữ, phi tần tới vườn ngự uyển phía tây; tất nhiên không thể thiếu Vũ Văn Khải, Phong Đức Di đi theo hầu. Vào ngự uyển, chỉ thấy: Ngũ Hồ nước lặng như tờ Mênh mông Bắc Hải mịt mờ sóng dâng Núi Tam Đảo phủ mây hồng Mười sáu cung điện gió lồng hây hây Bồng Lai tiên cảnh là đây Hay miền cực lạc, cung mây điện vàng. Về sau, có người làm thơ ca ngợi cảnh đẹp của Ngũ Hồ như sau: Ngũ Hồ nước biếc ánh mây trôi . Thử hỏi hoa viên hay dặm liễu Những sợ đức vua thuyền lạc bến Trúc tơ vàng ngọc rộn đất trời. Lại có thơ ca ngợi cảnh hồ Bắc Hải thần tiên như sau: Bác Hải liền trời một sắc xanh Cá rồng rỡn nước, sóng đua nhanh Mây lành Tam Đảo chiều tan hợp Tiên nữ gần xa thật hữu tình. Rồi lại thơ ca ngợi vẻ kỳ lạ của ba ngọn núi đắp giữa hồ Bắc Hải: Tam sơn muôn ngọn sóng nhấp nhô Ngút mắt gương xa thoáng cảnh lầu Những tưởng trời cao ban phúc khắp Giàu sang không vận chớ với vào. Và đây là thơ ca ngợi cảnh sông đào mỹ lệ: Quanh co nước biếc đổ vào ngòi San sát nhà hoa, sóng tiếp đuôi Khoe đẹp cung nhân tha thướt bóng Thuyền rồng thiên tử tiến hay lui. Cuối cùng là thơ ca ngợi cảnh diễm huyền của những lâu đài, đình, tạ: Mười bước một lầu năm bước đỉnh Liễu che hoa giỡn, gấm phơi mành Nữa đêm xuống lệnh chong thêm đuốc Sáng rực gần xa suốt mấy canh. Dượng Đế đi xem khắp cả, mặt rồng rạng rỡ phán: - Vườn ngự uyển dựng xây thế này thật vừa lòng trẫm, khanh thật đáng khen! Ngu Thế Cơ tâu: - Đó chính là phúc lớn của bệ hạ và cũng là sự linh ứng của đất trời, tiểu thần này thì chẳng có tài cán gì đáng kể. Dượng Đế lại phán: - Ngũ Hồ cùng mười sáu viện đã có tên đặt gì chưa? Ngu Thế Cơ tâu: - Tiểu thần không dám tự tiện, xin bệ hạ hãy ban thánh ý. Dượng Đế lại đến tận các nơi xem xét một hồi cẩn thận, rồi mới đặt tên nhất loạt như sau: - Đông Hồ, bởi bốn bề trồng toàn liễu biếc, lại thấy rõ hai ngọn núi xanh, nổi giữa sóng bạc dập dờn, nên đặt là hồ Thúy Quang. Nam Hồ, bởi lắm gác cao liền bến, bóng đổ mặt nước lung linh, bèn ban tên hồ Nghênh Dương. Tây Hồ, bởi có phù dung soi bóng, cúc vàng đầy núi, lại thêm cò trắng âu xanh, nhởn nhơ đi lại, nên đặt là hồ Kim Quang. Bắc Hồ, nhân có nhiều đá trắng kỳ hình dị dạng, cao thấp nhấp nhô, ẩn hiện mặt hồ, gió qua sóng gợn, xao xuyến lòng người nên đặt tên hồ Khiết Thủy. Trung Hồ, riêng bốn bề bát ngát, trăng chiếu mặc đầu, trời nước một màu, phải đặt là hồ Quang Minh. Viện thứ nhất, gác cao mở hướng nam, gió ấm luôn luôn qua lại, nên ban tên viện Cảnh Minh. Viện thứ hai, nhân có lan can màu đỏ quanh co uốn lượn, cửa sổ gấm hàng hàng lối lối, mặt trời mới hé, trăm hoa đua sắc, bèn có tên viện Nghênh Huy. Viện thứ ba, bởi có mấy gốc ngô đồng xanh biếc, bóng che thấp thoáng, gió thu qua lá, xào xạc bên tai, phải đặt tên viện Thu Thanh. Viện thứ tư, bởi trồng toàn mai Tây Kinh đưa về, hoa nở chẳng khác mây sớm, lấy tên là viện Thần Quang. Viện thứ năm, vì huyện Toan Tảo tiến một gốc ngọc lý, loài hoa trắng một màu, hơn cả mây bông, bèn ban tên viện Minh Hà. Viện thứ sáu, bởi có mấy cây tùng già, tán tròn như lọng, bóng yên khắp viện, thành tên viện Thúy Hoa. Viện thứ bảy, bên bờ nước có phiến bàn thạch, rêu biếc đã in, hoa văn ngang dọc, chẳng khác địa đồ xứng tên viện Văn An. Viện thứ tám, vì hạnh vì đào giăng thành bình phong như gấm như lụa, hoa phô thêu nhị, nước chảy tựa đàn, oanh non tấu sáo, nên tên viện Tích Chân. Viện thứ chín, nhân bên ngòi, bờ đá nhấp nhô sóng khẽ lăn tăn, ánh nắng dập dờn, mắt nhìn loang loáng, bên gốc còn in, đủ màu ngũ sắc, được đặt tên viện Ánh Văn. Viện thứ mười, bốn bề trúc bọc, ở giữa mọc lên một tòa lầu đỏ, chẳng khác gì chim phượng một mình khoe sắc, bèn cho tên viện Nghi Phượng. Viện thứ mười một, nhân phía trái là núi, phía phải là nước, lấy ý vui nước, vui non, bèn ban tên viện Nhân Trí. Viện thứ mười hai, bởi đá lởm chởm bao quanh, khó tiến khôn lui phải dùng thuyền nhỏ, theo ngòi mà tới, bên trong đúng cành hoa đào trôi theo nước chảy, nước trời riêng một, cõi, phán tên viện Thanh Tu. Viện thứ mười ba, tại trồng nhiều cây kỳ, hoa vàng đầy đất, chẳng khác cảnh chùa, phán tên viện Bảo Lâm. Viện thứ mười bốn nguyên có suối đào, gác quế, mùa xuân hứng gió ấm áp, tiết hạ hưởng trăng thanh, bảo gọi là viện Hòa Minh. Viện thứ mười lăm, lại bởi liễu nhỏ giăng tơ, khác gì la nhuyễn, tiện gọi viện Ỷ Am. Viện thứ mười sáu, cũng bởi hoa mai che mai, lầu các mong hơi ấm, lan can dựa xem tuyết trắng nào biết lạnh lùng, đành gọi viện Giáng Dương. Sông đào một dải uốn lượn như rồng, lầu các đình tạ, như vẩy kỳ lân, ban tên Long Lân giang. Dượng Đế đặt tên xong một lượt. nhân phi tần, cung nga đi theo rất nhiều, chưa định rõ người nào chỗ nào, nên cho phép bọn mười người Hứa Đình Phủ, đưa cung nữ mới tuyển về, chia cho trông coi các viện. *** Lại nói Đình Phủ, từ ngày bị Lý Như Khuê. Tế Quốc Viễn bắt cóc lên Đào Hoa Sơn, mất hẳn năm ngàn lạng vàng, lại càng thêm tham lam vô độ. Phàm tuyển cung nữ, có nhiều ngọc ngà, vàng bạc đút lót y, thì được xếp vào thượng đẳng, bạc vàng thiếu ít nhiều, thì chỉ được xếp vào loại trung đẳng còn nếu chẳng có gì để quà cáp, thì dù có quốc sắc thiên hương, thì cũng chỉ được xếp vào loại hạ đẳng mà thôi. Lúc này cùng bọn chín thái giám kia gặp gỡ, tuyển được đến hơn nghìn cung nữ, biết được triều đình đang ở Đông Kinh, cả bọn kéo xuống, vào ngự uyển, dâng nạp danh sách cả ba loại cung nữ mới tuyển. Dượng Đế xem qua, thì hơn nghìn người, bèn phán cho Đình Phủ. - Hãy đem loại thượng đẳng và trung đẳng về ngự uyển. Còn lại hạ đẳng thì cứ ở hậu cung để sai phái các việc khác. Đình Phủ cùng chín thái giám lĩnh ý vua ra khỏi ngự uyển, cứ theo danh sách mà gọi vào. Dượng Đế xem xét cẩn thận, thì thấy đều thuộc loại đào nhường hạnh thẹn, yến cười, oanh xấu hổ, nên rất khoái ý, cùng với Tiêu Hậu, chọn hoa đẹp nhất trong số hoa đẹp, tìm người đẹp nhất trong số người dẹp, lựa được mười sáu người, hình dung yểu điệu, phong thái u nhàn, cử chỉ đoan trang, đều được phong tứ phẩm phu nhân, chia cho cai quản mười sáu viện ở Tây Uyển. Mỗi người đều được ban một ấn ngọc nhỏ, trên có khắc tên viện, để tiện lúc dâng tấu biểu. Lại tuyển ba trăm hai mươi cung nữ, thuộc loại phong lưu, tiêu sái, dáng liễu mày hoa, xung vào hàng mỹ nhân, mỗi viện chia hai mươi người, cho học đánh đàn thổi sáo, ca múa, để hầu yến tiệc, còn thì chia ra các đội mười người, mười hai người, hoặc là đội thuyền rồng, hoặc đội thuyền phượng, hoặc ở các lâu đài, đình tạ. Bọn ở hậu cung, cũng đều chia thành nhóm, thành đội. Lại phong cho thái giám Mã Thư Trung làm Tây uyển lệnh, cai quản việc ra vào các cửa. Không bao lâu đã biến Tây Uyển thành cấm thành, hoa gấm thành hàng, lụa là thành dãy. Mười sáu viện phu nhân, chia nhau cai quản, ai cũng muốn tranh được đức vua riêng yêu. Các viện đều giở cầm kỳ thi họa học đời, cùng đủ sáo phượng sênh loan, chỉ sợ Dượng Đế bất chợt ngự giá. Viện này đốt hương long diên, viện kia thổi trầm phượng não. Viện trước hát khúc Ngô ca, viện sau múa điệu Sở vũ. Viện phía đông làm nem tố giác, viện phía tây ủ rượu quỳnh tương. Trăm thứ khôn nói hết, chỉ cần phô trương để được Dượng Đế chú ý tới, tùy đó mà vui buồn thay đổi, địa vị khác biệt vậy. Chính là: Cung đình hành lạc thưa mau Mua vui một khắc, giải sầu quân vương Miệt mài là lượt phấn hương Dân tàn nước kiệt, bốn phương mặc đời. Lại nói các đảo ngoại quốc, nghe tin vua mới ham thích tham sắc hàng lạ, của hiếm, nên cũng tìm các thứ này để tiến cống, thôi thì đủ kỳ trân, di ngoạn, người đẹp, ngựa hay. Một hôm Dượng Đế coi triều, có châu ở vùng Sở, dâng một người tên gọi Vương Nghĩa, mặt mày sáng sủa, người lùn nhỏ, nhưng hành vi cử chỉ đều rất đẹp mắt. Lại thêm mồm miệng lanh lợi, ứng đối lưu loát. Dượng Đế nhìn kỹ rồi hỏi: - Người không phải người tuyệt trần, cũng không phải của báu khó hiếm. Thế thì có gì khác lạ tốt đẹp, dám đem tiến cống? Vương Nghĩa thưa: - Bệ hạ đức cao như Nghiêu Thuấn, đạo vượt cả Thang Vũ, vùng Sở xa xôi cũng được ơn giáo hóa giữ thói kiệm cần, tuy không có được sắc đẹp khuynh thành, chẳng bằng vật báu của kỳ, nhưng thầm ơn thánh đế, nên cũng tiến kẻ hề lùn, để bệ hạ sai khiến. Thần đâu không dám hết lòng trung nghĩa, nguyện xin thánh thượng thu nạp. Dượng Đế cười phán: - Ta có vô số văn quan võ tướng, còn thần trung sĩ nghĩa, đâu phải chỉ riêng mình nhà ngươi có thôi đâu! Vương Nghĩa thưa: - Trung Nghĩa là vật báu của nước nhà, một người trung thì vẫn không đủ, sao lại có chuyện sợ nhiều mà rồi vứt bỏ. Huống chi con chó con ngựa trung thành với chủ nuôi, bậc quân tử còn không nỡ vứt bỏ. Thần tuy là người dân hèn mọn ở chốn thảo dã, nhưng vẫn có điều quan hệ đến giáo hóa, sao bệ hạ lại nỡ không nhận? Dượng Đế nghe đối đáp thế lấy làm thích ý, bèn trọng thưởng cho người đem dâng, rồi giữ Vương Nghĩa ở cạnh để tiện sai bảo. Từ đó, mỗi lần thiết triều, hoặc du ngoạn các nơi, Dượng Đế đều mang Vương Nghĩa đi theo. Vương Nghĩa lại cẩn thận, chu đáo, cử chỉ nói năng đều rất đáng yêu. Dượng Đế lại càng quý, càng ngày càng quen, lúc nào cũng ở bên vua, nhưng chỉ không được vào cung mà thôi. Hôm ấy Dượng Đế thiết triều nhưng không có việc gì, đang định bãi triều để về hậu cung, thì quay lại thấy Vương Nghĩa mặt mày ủ ê. Dượng Đế mới hỏi: - Vương Nghĩa, sao trông ngươi có chuyện gì mà âu sầu vậy? Vương Nghĩa hoảng hốt thưa: - Thần đội ơn dày của bệ hạ, ngày ngày đều được gần mặt rồng, thật là thỏa nguyện cả đời. Nhưng chỉ giận cung cấm gang tấc, mà không được ra vào hầu hạ, để đem sức chó ngựa cho thỏa lòng này, cho nên lòng đầy ưu uất, xin bệ hạ rộng lượng hải hà! Dượng Đế phán: - Ta cũng không lúc nào có thể thiếu ngươi, nhưng chỉ vướng một nỗi là ngươi không phải là kẻ có thể vào cung cấm được. Nói xong thì xe rồng đã vào cung từ lúc nào, Vương Nghĩa vẫn tần ngần ở cửa cung, không chịu trở về, cũng không dám vào cung, đứng ngây người hồi lâu. Bỗng sau lưng có người vỗ nhẹ vào vai Vương Nghĩa, rồi lên tiếng: - Vương Thù Nhu (1), nghĩ ngợi gì ở đây? 1 Thù Nhu: người lùn xấu xí, chỉ kẻ lùn chuyên làm hề ở trong cung. Vương Nghĩa quay lại nhìn, thì ra Trương Thành, Thái giám ở Hiển nhân cung, liền vội đáp: - Chào bác Trương. Bác làm đệ giật mình! Trương Thành hỏi: - Chúa thượng đối với bác rất thương yêu, cái gì cũng chẳng tiếc thế thì còn chuyện gì không vừa ý nữa, mà lại đứng đây nghĩ ngợi? Vương Nghĩa vốn đi lại thân với Trương Thành nên đáp thẳng: - Thật chẳng giám giấu bác, đệ chịu ơn sâu nặng của thánh thượng được thánh thượng muôn ngàn yêu thương, những mong được đêm ngày hầu hạ, đền đáp ơn sâu, chỉ giận cung cấm cách trở, không thỏa lòng này, cho nên lòng nặng ưu tư, không ngờ lại bị bác bắt gặp. Trương Thành cười lớn mà đáp đùa Vương Nghĩa rằng: - Vương Thù Nhu ơi! Bác muốn vào cung thì có khó gì đâu, bác cứ thiến quách cái ở đũng quần kia đi, thì làm gì mà chẳng vào cung cấm hầu hạ chúa thượng cho được. Vương Nghĩa ra chiều nghĩ ngợi: - Đệ nghe nói chuyện này phải làm lúc còn nhỏ, đã lớn rồi liệu có làm được chăng, bác cứ thành thật chỉ cho, đệ không dám quên ơn! Trương Thành đáp: - Lúc nào cũng làm được tất, chỉ sợ bác không chịu được đau thôi! Vương Nghĩa hăm hở: - Nếu mà làm được, thì sợ gì đau! Trương Thành tiếp: - Nếu bác quyết chí, tôi có loại thuốc rất hay, xin biếu bác! Vương Nghĩa quyết chí: - Làm kẻ trượng phu, há lại nói suông! Cả hai cười nói vui vẻ, dắt tay nhau ra khỏi cửa cung, về nhàTrương Thành ngồi, Trương Thành sai bày tiệc rượu, cả hai cùng chén chú chén anh, được vài ba chén, Vương Nghĩa ngỏ lời xin thuốc quý Trương Thành đáp: - Thuốc thì vẫn còn đó. Nhưng xin bác hãy nghĩ cho kỹ, tính kế lâu dài. Đừng vì chuyện cao hứng một lúc, mai kia không kiếm được một mụ già nào, không có một mụn con nào, rồi lại oán trách tôi à? Vương Nghĩa nghiêm sắc mặt mà nói: - Người ta sinh ra trong khoảng trời đất này, được thánh thượng biết đến, dẫu có chết cũng chẳng tiếc thân, sao lại còn nghĩ đến chuyện vợ con làm gì? Trương Thành bèn vào trong nhà lấy ra một con dao sắc, mà thổi sợi tóc qua có thể đứt đôi, cùng với hai gói thuốc, vứt ngay trên bàn, rồi chỉ tay: - Gói thuốc vàng kia, là thuốc mê, hòa với rượu mà uống thì sẽ không biết đau đớn gì nữa, còn gói màu ngũ sắc, là thuốc cầm máu, liền vết cắt, một loại thần dược, được chế từ các loại thuốc quý toàn là trân châu, hổ phách, các vị kỳ trân, dị bảo cả, tán thật nhỏ mà viên thành từng viên. Còn con dao kia là cái để hành sự. Với ba thứ này của tôi, bác cứ cầm về rồi theo đó mà làm là xong tất thôi mà. Vương Nghĩa lại hỏi: - Ơn bác chỉ cho, nhưng còn việc làm thì phải làm thế nào? Trương Thành đáp: - Đến cái khoản này thì cũng khó nói đây! Vương Nghĩa cam kết: - Bác chẳng còn phải giữ ý, đệ không dám để liên lụy đến bác đâu mà! Trương Thành thấy Vương Nghĩa quả tình muốn tự hoạn, liền mang thêm rượu ra, uống thả cửa một hồi, Vương Nghĩa đã gần say. Chính là: Kể gì tàn phế thân này Miễn là được chúa đêm ngày yêu thương. *** Hãy kể chuyện Dượng Đế thoái triều vào cung, Tiêu Hậu chờ đón, bày yến góp vui, gọi các cung nữ mới tuyển, thay nhau dâng rượu. Được vài tuần, Dượng Đế trông thấy một cung nữ, nhan sắc cũng bình thường, cử chỉ đoan trang. Dượng Đế bèn hỏi quê quán ở đâu. Cung nữ vội vàng quỳ lại, thưa trình mấy câu, nhưng dù chỉ một tiếng thôi, cũng chẳng ai hiểu nói gì. Bọn cung nữ đứng hầu bên cố mà nhịn cười để giữ được vẻ trang nghiêm, kính cẩn. Dượng Đế cho cung nữ này đứng dậy, rồi phán: - Vương Nghĩa vốn thông minh lanh lợi, ngôn ngữ của bốn phương lại thông thuộc nhiều, chỉ có y mới biết mà thôi! Tiêu Hậu khuyên: - Sao bệ hạ không gọi ngay y vào đây, để y giảng giải cho, càng thêm vui vẻ chứ sao? Dượng Đế bèn sai hai tiểu nội giám, đi triệu Vương Nghĩa vào cung. Hai nội giám vội ra khỏi cung cấm, đang định hỏi đến nhà Vương Nghĩa, thì gặp một thái giám chỉ: - Vương Nghĩa đi với Trương Thành về nhà Trương Thành rồi. Hai viên tiểu nội giám liền tìm tới nhà Trương Thành, tới cửa gọi rối rít. Bọn này lại chẳng vợ con họ hàng gì, lại là nội giám, chẳng có điều gì phải gìn giữ, hai viên tiểu nội giám cứ thế xông vào, đạp hết cửa này đến cửa khác, thì thấy ngay Vương Nghĩa chẳng khố chẳng quần gì cả. Trương Thành đứng bên, đang dùng thuốc xoa xoa vào hạ bộ Vương Nghĩa, rồi lăm lăm cầm dao. Thấy hai viên tiểu nội giám xồng xộc tiến vào, Trương Thành vội rụt tay lại, Vương Nghĩa cũng vội vàng bò dậy, kéo quần buộc lại. Hai viên tiểu nội giám, thấy bọn này làm những hành động như vậy, lại trên bàn thuốc men, dụng cụ còn đó, cười rũ rượi rằng: - Các người làm cái gì thế này? Trương Thành vốn biết rõ hai viên tiểu nội giám này là tay chân thân cận của Dượng Đế, không dám khinh nhờn, chỉ đành đem chuyện Vương Nghĩa tình nguyện làm việc này, nhất nhất kể lại một lượt. Một viên tiểu nội giám nói: - May mà chúng tôi tìm đến đây kịp, chỉ cần chậm một chút thôi, thì cái của Vương Thù Nhu đã bị cắt mất rồi. Chúa thượng tại hậu cung, đặc sai hai nội giám chúng tôi, tuyên triệu Vương Nghĩa vào cung, mau mau đi ngay? Lúc này Vương Nghĩa đã say đến tám chín phần, thấy nói Dượng Đế cho gọi, vội xin Trương Thành ít nước lạnh, rửa hết thuốc, lau mặt mày cho tỉnh táo hơn, rồi vội theo hai viên tiểu nội giám vào cung. Dượng Đế thấy Vương Nghĩa mặt mày hoảng hốt, cúi đầu quỳ dưới thềm, liền hỏi: - Nhà ngươi vừa uống rượu ở đâu? Vương Nghĩa mọi lần rất nhanh miệng, nhưng lần này không biết thưa gửi ra sao cho phải phép, hai viên tiểu nội giám thì cứ đứng lặng, cố nhịn cười. Dượng Đế thấy chuyện có vẻ lạ lùng, liền quay lại phía hai tiểu nội giám hỏi: - Hai người vừa rồi tìm thấy Vương Nghĩa ở đâu? Một viên thưa: - Tâu bệ hạ, chúng tiểu thần tìm thấy Vương Nghĩa ở nhà thủ cung thái giám Trương Thành! Dượng Đế lại hỏi: - Uống rượu là chuyện không đáng nói, còn có chuyện gì lạ ở nhà Trương Thành hay sao? Viên tiểu nội giám đem những lời Trương Thành cùng những vật những việc thấy ở nhà họ Trương thưa lại một lượt, Dượng Đế nghe xong, chau mày phán: - Vương Nghĩa đứng dậy! Trẫm nói cho ngươi rõ, phàm những người phải làm chuyện này, đều là những kẻ phạm tội, phải phạt cung hình, tổn thương đến cha mẹ, dòng họ. Hoặc nữa vì mộ đạo, làm tăng thì mới nguyện làm chuyện này, mong có ngày đắc đạo. Trong nội cung ta có cả một bọn thái giám lão luyện, tính toán độ số, bát quái rồi sau đó mới dám làm. Lại thêm đây là chuyện thường làm lúc còn nhỏ tuổi, ngươi năm nay đã ngoài hai mươi sao lại dám coi thường mà tự làm chuyện này, lỡ có chuyện không may, thì còn gì là tính mạng? Vương Nghĩa thưa: - Thần đội ơn sâu của bệ hạ, trời cao đất dày, thì dẫu có nát thịt tan xương, cũng chẳng có điều gì đáng tiếc. Huống hồ chỉ là những tổn thương nhỏ thì có gì là phái lo nghĩ, thần xin nguyện cam chịu. Dượng Đế phán: - Nhà ngươi có lòng trung nghĩa như vậy, trẫm biết lắm rồi. Nhưng ngươi chỉ cần lo chuyện tận trung, tận nghĩa, đừng nghĩ đến chuyện báo đền vội. Cha mẹ sinh ra ngươi, dẫu cho có là man di đi nữa, cũng mong ngươi có vợ có con, nối tiếp dòng dõi ngày càng thịnh vượng, sao lại coi nhẹ tấm thân của cha mẹ để lại làm thương tổn nó, hủy hoại nó, khiến cho trẫm cũng khó mà tránh nổi sự oán thán của linh hồn cha mẹ ngươi sau này, cho nên ngươi không thể làm như vậy. Nếu ngươi vẫn không nghe lời trẫm thì chính ngươi không phải là kẻ trung, kẻ nghĩa mà lại là phường phản nghịch mà thôi! Vương Nghĩa nghe xong, không ngăn nổi hai hàng nước mắt ngắn dài, khấu đầu dưới đan trì tạ ơn vương thượng. Dượng Đế lại tiếp: - Vừa rồi có một cung nữ mới được tuyển vào, ngôn ngữ bất đồng, gọi ngươi vào để hỏi cho rõ, cung nữ này là người ở đâu, gia cảnh thế nào? Nói xong, liền cho gọi cung nữ ra trước điện, Vương Nghĩa cùng cung nữ này, người hỏi người đáp, líu lô chẳng khác gì chim họa mi, chim oanh vũ trong đám liễu xanh thánh thót, uyển chuyển rất êm tai, khiến cho Tiêu Hậu cùng đám cung nữ theo dõi rất chăm chú thích thú, cười đùa vui vẻ. Vương Nghĩa nhỏ to một hồi, rồi quay ra thưa với Dượng Đế: - Tâu bệ hạ, cung nữ này là người ở Huy Châu, Thiệp Huyện, họ Khuông, cha ông vốn nhà gia thế, tên gọi là Đình Đình, tuổi vừa mười tám, cha mẹ đều mất, gặp phải người anh gian ngoan, tham của, định đem gả em gái để lấy trâu bò. Vừa đúng lúc chúa thượng tuyển cung nữ, Đình Đình lên đến tận châu quận, tự nguyện ghi tên, xin được vào phục dịch trong cung cấm. Dượng Đế nghe xong, bèn truyền: - Cứ thế này mà suy, thì cũng là một người con gái có chí, từ cử chỉ, diện mạo đến việc làm đều khác thường. Nay trẫm đem người con gái này thưởng cho ngươi làm vợ, làm nên một cặp vợ chồng hiền hậu, hiểu biết, liệu có được không? Vương Nghĩa nghe vua nói thế, vội vàng quỳ xuống thưa rằng: - Thần mang ơn tri ngộ của bệ hạ, đang những mong quên thân này để đền đáp, sao lại dám nghĩ đến chuyện thất gia. Phương chi, người con gái này được tuyển vào nơi cung cấm, thần thật không dám nhận vậy! Dượng Đế vẫn giữ ý: - Ý trẫm đã quyết. Người chớ chối từ! Vương Nghĩa cũng đã hiểu tính tình Dượng Đế, không dám nói thêm, chỉ cùng Đình Đình dập đầu dưới thềm tạ ơn. Tiêu Hậu lên tiếng. - Vương Nghĩa, ngươi đem Đình Đình về, dạy cho ít tiếng chúng ta, dừng để y cứ nói líu lô như chim như thế nữa. Nếu trong cung có việc gì ta sẽ truyền gọi vào sai bảo. Rồi Dượng Đế ban cho một ít vàng lụa, Tiêu Hậu cũng cho ít nhiều châu ngọc, Vương Nghĩa đem theo Đình Đình, ra khỏi cung cấm, trở thành vợ chồng. Vương Nghĩa càng cám ơn sâu của Dượng Đế cùng với Đình Đình ngày đêm hương khói, thờ sống Dượng Đế, vợ chồng hòa thuận thương yêu nhau khác thường. Chính là :

Những tưởng dọn mình báo chúa Ngờ đâu nên cửa nên nhà , Nếu mà tàn phế thân ta Chẳng khác cành hoa trong mộng.

Hồi Thứ Hai Mươi Tám

Bọn cung nhân cắt vải làm hoa, Hầu phi tử đề thơ tuyệt mệnh

Từ rằng: Một đêm vườn ngự hoa như dệt Muôn đóa ganh thơm nhuộm trăm sắc Tạo hoá khéo tay trời Phồn hoa mừng không nguôi Hồng nhan thân luống tiếc Ơn mây mưa chưa biết Nào chỗ khóc hồn oan Đau lòng khóc trướng loan. Theo điệu: "Bồ tát man"

Người đàn ông tài tình mẫn tiệp trên thế gian này, cũng như chuyện đẹp trai tuấn tú, là chuyện trời cho, so với số phụ nữ khéo léo cẩn thận thì ít hơn nhiều. Đàn ông làm thơ viết văn, hoặc làm nghệ thuật nói chung, còn có chỗ để học tập đua đòi, khác với phụ nữ mà có trí tuệ, thì sự khéo léo của họ, phần lớn đều do tự họ làm lấy. *** Lại nói chuyện Vương Nghĩa được nhà vua ban cho cung nữ Khương Đình Đình, sau khi đã thành vợ chồng, càng cảm ơn sâu của Dượng Đế, ngày nào cũng vào triều hầu hạ, càng chăm chỉ, siêng năng. Đình Đình cũng không quên ơn vua, nhưng biết lấy gì báo đáp. Một hôm, Vương Nghĩa ở triều về, nói với vợ: - Sáng nay trong triều, có một người họ Hà, tên là Điều tự chế được một chiếc xe "Giá ngự nữ xa", đem đến dâng vua, một chiếc xe thật là đẹp lạ lùng, tinh xảo lạ lùng. Khương Thị hỏi: - Làm sao lại gọi là xe "Giá ngự nữ xa"? Vương Nghĩa đáp: - Xe này ở bên trong rộng rãi, có cả giường, chăn, đệm, gối, bốn bên cùng một loại lụa mịn, gọi là lụa giao làm thành màn, ở bên ngoài nhìn vào không thấy gì cả, nhưng ở bên trong nhìn ra thì lại rất rõ ràng, nên tha hồ mà ngắm sông, ngắm núi bên ngoài. Lại thấy rất nhiều chuông bằng phiến ngọc treo thành màn thưa, lúc nào xe đi, tiếng nghe như nhạc leng keng leng keng, ở bên trong dù có cười nói ầm ĩ, thì bên ngoài cũng chẳng nghe được, chẳng phải giữ gìn kẻ ngoài nhòm ngó, vì vậy mới gọi là "Giá ngự nữ xa". Khương Thị nói: - Như thế thì chẳng qua học theo lối xe tiêu giao ngày xưa, thêm thắt ít nhiều chứ có gì lạ, rồi lấy đó làm công. Thiếp cảm tạ ơn sâu của chúa thượng, không biết lấy gì đền đáp, trong lòng lúc nào cũng thắc thỏm không yên. Thiếp định làm một thứ lạ để dâng lên chúa thượng, các vật liệu dùng đã có rồi nhưng chưa đủ, vì vậy chưa thể bắt tay vào việc được. Vương Nghĩa hỏi: - Dùng những vật liệu gì mà làm nên? Khương Thị đáp: - Chỉ cần tóc xanh của người còn sống, nhưng phải vừa dài vừa nhỏ. Thiếp đã chọn được những sợi đó ở mái tóc của thiếp cùng với tóc một vài thiếu nữ nhưng vẫn chưa đủ. Vương Nghĩa hỏi: - Tóc trên đầu ta dùng có được không? Khương Thị đáp: - Chàng là bậc trượng phu, đầu mà không còn tóc, trông khó coi lắm! Vương Nghĩa cười nói: - Ngày trước, đến cái ở dưới còn chẳng tiếc, định cắt quách đi, chẳng là mấy sợi tóc trên đầu. Rồi lôi ngay mũ đội xuống mà rằng: - Nhờ hiền thê cứ chọn sợi nào dùng được mà cắt cho kỳ kết, nếu còn thiếu, ta sẽ đi mua để về làm ngay dâng lên chúa thượng. Khương Thị thấy Vương Nghĩa nói thế, liền lấy lược chải đầu chồng đâu đấy, rồi chọn những sợi vừa đen vừa dài, cắt kỳ hết, từng sợi từng sợi rớt xuống. Chính là: Phòng khuê thoăn thoát tay tiên Để trong cung cấm ngả nghiêng vui cười. Lúc này là vào tiết trọng đông, hoa lá rụng tàn, cành gốc trơ trụi. Một hôm Dượng Đế cùng Tiêu Hậu và các phu nhân, trong ngự uyển uống rượu, Dượng Đế nói: - Phong cảnh bốn mùa, duy chỉ có cảnh mùa xuân là đẹp hơn cả muôn hoa đua thắm, vạn loài đua xanh. Màu hồng dễ làm người ta yêu dấu, màu xanh dễ làm người ta tiếc thương. Đến mùa hạ thì sen xanh đầy mặt nước, mùi thơm đầy ắp quanh người. Một vầng trăng trong mùa thu, treo trên cành ngô đồng, lại thêm cành quế đỏ dưa hương, vị thơm tràn cốc rượu, thật là ý vị biết bao. Duy chỉ có mùa đông là lặng lẽ tịch mịch, như chẳng có ý vị gì cả, chỉ có mỗi chuyện nằm trong chăn chờ ngày qua, ra khỏi cửa là chẳng còn hứng thú gì nữa. - Thiếp từng nghe, các nhà sư có một loại "thiền sàng", có thể nhiều người cùng nằm. Sao bệ hạ không sai người làm một loại giường như thế, rồi dùng một cái gối thật dài, lấy một cái chăn thật rộng, xếp nhiều cung nữ ở trên, cùng nhau ăn uống, đàn hát có phải hay không? Tiết phu nhân ở viện Thu Thanh thưa: - Có một cái giường to như thế, một cái chăn rộng như thế, lại phải có cả một bức trướng thêu thật rộng. Dượng Đế cười: - Các ngươi dù có tưởng tượng đến đâu, cũng không thể bằng quang cảnh mùa xuân được? Liễu rủ mành xanh muôn hoa muôn sắc. Đình đài cung viện, chẳng nơi nào là nơi không phô sắc, gợi tình, chẳng có lúc nào là lúc buồn bã, cô liêu. Tần phu nhân ở viện Thanh Tu lại thưa: - Nếu bệ hạ không thích cảnh tịch mịch thì cũng chẳng có gì khó. Xin chờ đêm nay thiếp lên Thọ Thiên cung, lấy hết những hoa đã nở về ngự uyển này để bệ hạ thưởng thức. Dượng Đế cũng coi như một lời nói đùa, bèn trả lời: - Nói như thế, thì đêm nay ta chẳng dám quấy rầy các khanh nữa đâu! Nói cười một hồi, uống vài chén rượu buổi sáng, rồi cùng Tiêu Hậu lên xe loan về cung. Sáng hôm sau, Dượng Đế đang ngự ăn sáng, thì thấy phu nhân mười sáu viện sang mời, Dượng Đế trong lòng cũng ngại không muốn đi. Tiêu Hậu phải hai ba lần thúc giục, Dượng Đế mới miễn cưỡng cùng lên xe với Tiêu Hậu. Vừa tới ngự uyển, thì đã thấy nghìn tía vạn hồng, đào hạnh khoe sắc, chẳng khác gì khắp trời giăng gấm ngũ sắc, Dượng Đế cùng Tiêu Hậu đều vô cùng kinh ngạc, Dượng Đế vội hỏi: - Tiết trời lạnh giữa đông thế này, làm sao chỉ có một đêm mà hoa có thể nở đến cả vườn rộng, như vậy được? Thật là kỳ quái! Nói chưa xong, đã thấy mười sáu phu nhân ra đón xa giá, theo sau rất nhiều cung nữ, mỹ nhân, âm nhạc rộn ràng, đầy vẻ xuân sang. Cả bọn đến trước xe rồng, tranh nhau lên tiếng hỏi Dượng Đế: - Bệ hạ thấy có khác gì cảnh Thọ Thiên cung không nào? Dượng Đế vừa thích thú vừa ngạc nhiên hỏi: - Các khanh có phép thuật gì lạ lùng mà có thể làm cho tất cả vườn hoa đều nở trong vòng một đêm thế này? Mọi người lại đua nhau thưa: - Bệ hạ chẳng cần hỏi kỹ làm gì. Chúng thần chẳng có phép thuật gì kỳ lạ cả. Chẳng qua tất cả đều chỉ mất một đêm vất vả mà thôi! Dượng Đế vẫn chưa hiểu ra. - Một đêm vất vả nghĩa là như thế nào? Cung nữ lại thưa: - Xin bệ hạ cứ bẻ một cành hoa mà xem sẽ .õ ngay, chẳng cần phải nghe chúng thần trả lời. Dượng Đế tin lời, lại gần một gốc hải đường, vịn một cành cây xuống nhìn kỹ, thì mới thấy rõ không phải là hoa thật, mà toàn là hoa gấm, hoa lụa màu cắt thành, rồi đem gắn, buộc vào cây, vào cành mà thôi. Dượng Đế không giấu được vẻ vui sướng, thán phục. - Ai là người nghĩ ra chuyện này, làm được những bông hoa thế này, búp lá thế này, chẳng khác gì hoa thật. Dù là bàn tay khéo léo nhưng đúng là hơn cả tạo hóa. Chúng phu nhân thưa: - Đó chính là do ý của Tần phu nhân, rồi chúng thần cùng cung nữ suốt đêm làm nên, để sáng nay bệ hạ kịp ngự lãm. Dượng Đế nhìn Tần phu nhân: - Hôm qua trẫm cũng nghĩ là khanh chỉ nói đùa cho hay, không ngờ là khanh đã nghĩ ra cách làm này. Rồi cùng Tiêu Hậu, đi chầm chậm từng dãy, từng dãy, chỉ thấy chỗ xanh biếc, chỗ hồng tươi, chẳng cần gì đông hay xuân, lạnh hay ấm, muôn hoa nghìn sắc phô bày, nếu nói kỳ công thì chẳng kém gì Đông quân. Thấy những gì nữa? Toàn là: Vôn thợ trời nghiêm đặt bốn mùa Thợ trần nhào trộn đọ hơn thua Lụa là úp mở không chồi gốc Dao kéo vun trồng mặc gió mưa Muôn đóa khoe màu mai chẳng sớm Người hoa đua nở cúc không trưa Xuân chưa hỏi, hạnh vội thưa Gió đông còn vắng, đào tơ đã cười Thược dược thắm, tuyết chưa rơi Mẫu đơn ngạo nghễ một trời móc sương Tháng ba quế vắt qua tường Tháng mười sen đỏ rỡ ràng hồ xanh Đỗ vũ tháng giêng son điểm nhị Đồ mi năm hết gấm phô cành Phất phơ dương liễu thân rung nhẹ Lách tách phù dung móc xuống nhanh Lan huệ ngọc ngà bay lả lướt Hải đường son phấn tuyết long lanh Nở ư? Chẳng đợi gió lành Rụng ư? Chẳng đợi bướm xanh rập rình Trăng lạnh thẹn, náu náu hình Khoảnh chơi dì gió phụ tình vãng lai Bốn mùa không rụng không phai Quanh năm tươi thắm xuân dài cõi tiên Càn khôn tạo hóa mất quyền Đế vương kim cổ chịu nghiêng mình chào. Dượng Đế xem một hồi, mặt hồng rạng rỡ: - Cảnh ở Bồng Lai, Lãng Uyển, chẳng qua cũng đến thế này, các khanh thật khôn khéo quá chừng, định đoạt cả quyền hóa công. Thật là một chuyện xưa nay chưa có, rất khoái ý trẫm vậy. Bèn sai nội giám đem vàng bạc, lụa gấm, châu ngọc, cùng những đồ chơi kỳ lạ, thưởng cho các viện, các phu nhân, mỹ nữ. Dượng Đế trong lòng vui vẻ, cùng Tiêu Hậu lên lầu, ngắm nhìn từ xa, rồi mới ngồi vào tiệc uống rượu. Chén ngọc, đĩa vàng lấp lánh chói mắt, tiếng tì tiếng trúc rộn ràng bên tai, ai nấy lần lượt rót rượu dâng Dượng Đế. Dượng Đế bỗng cười lớn. - Việc làm của Tần phu nhân thật mới mẻ, khác lệ thường, cắt lụa gấm làm hoa, tăng thêm vẻ đẹp của ngự uyển của đất trời đông giá này, mà chúng cung nữ vẫn chỉ hát khúc xưa, đàn điệu cũ, thì thật là không xứng. Ai mà hát được khúc mới, trẩm xin uống luôn ba chén rượu lớn để mừng. Nói chưa dứt lời, thì thấy một mỹ nhân, mặc áo lụa tím, buộc một giải thắt lưng màu ngọc bích, thiết tha yểu điệu, bước ra thưa: - Tiện thiếp bất tài, cũng xin mạnh bạo dâng chúa thượng một nụ cười mua vui. Ai nấy nhìn lại, thì là một mỹ nhân ở viện Nhân Trí, có tên là Nhã Nương. Dượng Đế khuyến khích: - Hay lắm! Hay lắm! Nhã Nương bước lại gần bàn tiệc, nhẹ nhàng gõ phách, làn môi hồng khẽ động, chẳng khác nào oanh non học hót, hát một bài theo điệu "Như mộng lệnh", sau đây: Chớ nói phồn hoa là mộng Một đêm kéo làm hạt giống Thức dậy gấm đầy cành Cười ngất gió xuân thật vụng Chúc tụng, chúc tụng Thật đúng, Bồng Lai, tiên động. Dượng Đế nghe xong. thích chí khen: - Hát hay lắm! Không thể không uống. Rồi uống đúng ba chén. Tiêu Hậu cùng các phu nhân mỗi người uống hầu một chén. Tiệc rượu xong, lại thấy một mỹ nhân, mặt mày sáng sủa, tóc chải gọn gàng, hoa nhường nguyệt thẹn, bước ra khỏi hàng quỳ tâu: - Tiện thiếp tuy bất tài, cũng xin dâng thánh thượng một bài từ để chúc mừng. Dượng Đế đưa mắt nhìn, thì đó là Chu quý Nhi ở viện Nghênh Huy. Dượng Đế cười nói: - Nếu là quỷ Nhi thì nhất định là tuyệt diệu rồi, lẽ nào mà hát không hay, lời không đẹp cho được. Quý Nhi rất khoan thai, tay uốn nhịp nhàng, chân bước yểu điệu, cùng hát một bài theo điệu "Như mộng lệnh": Con gái trời sao khéo giỡn Khóe khéo gấm mây cắt khéo Một tối thẩy đều xuân Tô điểm muôn cành thật giống Phúc lớn! Phúc lớn! Phú quý hoàng gia lồng lộng. Quý Nhi hát xong, Dượng Đế vỗ tay khen: - Hát hay lắm! Nhất là câu cuối! "Phú quý hoàng gia lồng lộng", vừa hợp với vần của câu "Tô điểm muôn cành thật giống", vừa nói được ý có trước có sau đáng khen lắm? Lại cũng uống cạn ba chén nữa, bất giác thấy người ngây ngất, rượu đã quá say, thì thái giám thú uyển Mã Thủ Trung, tiến vào quỳ tâu: - Vương Nghĩa ở ngoài cửa ngự uyển, trình rằng đã làm được một thứ rất lạ, xin dâng lên chúa thượng! Dượng Đế nghe nói đến Vương Nghĩa liền truyền: - Cho phép y vào đây. Chẳng bao lâu đã thấy đến Mã Thủ Trung dẫn Vương Nghĩa vào quỳ dưới thềm, Vương Nghĩa dâng một vật lên trước mặt Dượng Đế tâu: - Trình chúa thượng, thần thê là Khương Đình Đình cảm ơn lớn của chúa thượng, tự dệt một bức trướng, sai thần đem dâng chúa thượng! Dượng Đế sai cung nữ giở ra xem, thì ra đó là một gói nhỏ, bọc bằng gấm, bên trong là một mảnh vải rộng dệt bằng một loại lụa gì đen bóng như sơn đen, mềm nhỏ như sa. Dượng Đế lấy làm lạ, hỏi: - Vương Nghĩa, đây là loại vải gì? Vương Nghĩa thưa: - Thần thê Khương Đình Đình, ngày đêm cảm ơn sâu của chúa thượng, mà không thể nào báo đáp, tự cắt tóc trên đầu xanh của mình, chọn lấy những sợi vừa đen vừa dài. Rồi lấy một loại keo lạ nối lại dệt thành loại vải thì ở trong có thể nhìn rõ cảnh bên ngoài, mà bên ngoài nhìn vào chẳng thấy bên trong. Mùa đông rất ấm, mùa hè lại dịu mát. Mở ra thì vừa rộng vừa dài, mà gấp lại chỉ vừa chiếc gối nhỏ. Dượng Đế khen lạ, sai cung nữ mở rộng ra xem kỹ một lần nữa. Tiêu Hậu cùng các phu nhân xúm lại xem, thấy mỏng, nhẹ như mây như khói, hương thơm tỏa khắp điện, chăng khắp cả gian lớn. Tiêu Hậu nói với Dượng Đế: - Không ngờ Đình Đình lại có thể nghĩ được thế này, lại khéo tay đến thế này. Bệ hạ phải có gì ban thưởng cho họ Khương để bõ công vất vả hàng mấy tháng nay chứ? Dượng Đế nghe Tiêu Hậu nói thế, bèn sai nội giám lấy hai tấm đoạn Quảng Lăng, một chiếc áo choàng màu mây ngũ sắc ban cho Vương Nghĩa rồi phán: - Vợ ngươi thật hết lòng trung nghĩa mà dệt được tấm vải này, trẫm ban cho hai thứ này để đền công khó nhọc. Vương Nghĩa quỳ gối nhận rồi vái lạy ra khỏi ngự uyển. Dượng Đế nói với Tiêu Hậu: - Hôm vừa rồi, hoàng hậu nói chuyện "thiên sàng", có thể nhiều người cùng nằm. Nay lại có cả tấm trướng này, có thể che thừa cả cái giường nhà chùa đó của hoàng hậu. Rồi sai bọn nội thị: - Đem ngay cái giường "Hợp hoan" mà nước ngoài tiến cống và kê ngay ở gian của cung Hiển Nhân, lấy mười cái đệm gấm trải lên trên, rồi treo tấm vải rộng Đình Đình vừa dệt làm trướng cho trẫm. Sai phái đâu đó, cung nhân, nội giám rối rít vâng mệnh, chẳng mấy lúc, công việc xong xuôi. Dượng Đế nói với Tiêu Hậu và chúng phu nhân: - Tần phu nhân thì nghĩ được kế hay, Khương Đình Đình thì có bàn tay khéo léo. Một ngày mà gặp cả được hai chuyện kỳ lạ, thì thật chẳng gì thích hơn nữa. Bởi vậy chúng ta hãy cùng nhau uống rượu say mềm một phen, đêm nay hoàng hậu hãy cùng các phu nhân, kéo lên giường "Hợp hoan" này, vui chơi một tối, liệu có nên chăng? Tiêu Hậu cười: - Chúng phu nhân, mỹ nhân rất đông đủ kia rồi, thiếp thật không tiện tham dự, xin bệ hạ cho được trở về cung thôi. Dượng Đế cười: - Hoàng hậu muốn về phải uống đủ ba chén. Tiêu Hậu vâng theo, uống ba chén rồi đứng dậy về cung, Dượng Đế cùng các phu nhân, mỹ nhân lại tiếp tục vui vẻ trên giường "Hợp hoan" mới kê . Chính là: Nguồn đào nhà có xa đâu Non Vu, đỉnh Giáp chiêm bao đi về. (1) 1 Non Vu, đỉnh Giáp: Vua Sỡ đến chơi Cao Đường giữa ban ngày nằm ngủ, thấy một người con gái đến thưa: "Thiếp là thần nữ non Vu, nghe nhà vua tới, xin đến hầu chăn gối". Khi từ biệt thần nữ còn nói: "Thiếp sớm làm mây trên đỉnh Giáp, chiều làm mưa ở chân núi Dương Đài". (Cao Đường phú). Lại nói chuyện hậu cung, còn có một cung nhân là Hầu Phi tử, sinh ra đã là thiên hương quốc sắc, trăm đẹp, ngàn xinh, thật đúng nhạn sa cá lặn, hoa nhường nguyệt thẹn, trời lại phú cho nét thông minh tài văn tài thơ. Từ ngày được đưa vào cung, cậy mình có tài có sắc lại nghe Dượng Đế là kẻ hiếu sắc trọng tài, trong lòng cũng nghĩ sẽ có lúc được như A Kiều ở nhà vàng, Phi Yến ở gác Chiêu Dương. Nhưng rồi đợi đến hết ngày này sang ngày khác, nào ngờ tài mệnh ghét nhau, sắc chẳng gặp thời, tiến cung đã mấy năm nay, mà chưa bao giờ được thấy mặt Dượng Đế dù một lần. Cả ngày chỉ đốt hương ngồi một mình, hết hoàng hôn rồi lại đến đêm dài, qua bao ngày đêm trong cảnh gió sương lạnh lẽo, ngày xuân, đêm thu dằng dặc, đến nỗi hồn phách rã rời, cho dẫu là người sắt, dạ đồng, cũng không tài nào chịu nổi. Lại thêm ngày tháng trôi đi, ai người có tài kéo lại, đến khi đèn tàn, mộng tỉnh, thì quả là lệ chảy nghìn hàng. Ban đầu còn tiếc dung nhan, những gượng tô son điểm phấn, để mong có ngày quân vương thấy mặt. Nào ngờ tháng ngày như nước chảy mây trôi, ngày lại ngày, ngày nào cũng đều vô vị như nhau, bất giác sương tuyết hao gầy tuy cũng một vài chị em bạn bè thăm hỏi, nhưng cũng chỉ là người sầu thăm kẻ khổ, quang cảnh càng thêm vẻ thê lương, ảm đạm. Một hôm nghe Dượng Đế sai Hứa Đình Phủ vào hậu cung tuyển cung nữ, nhiều người khuyên Hầu phu nhân hãy lấy mấy hạt châu ngọc trang sức của mình mà cho y quách, để y tiến với chúa thượng cho, nhưng Hầu phu nhân nói: - Thiếp nghe Chiêu Quân đời Hán, thà chịu hắt hủi, nhất định không chịu đem nghìn vàng ra để mua chuộc họa sư Mạo Diên Thọ. Tuy một thời bị vứt bỏ, rồi còn bị gã cho chúa Thiên Vu, đến nỗi chỉ còn mỗi khúc tỳ bà cùng đám cỏ xanh lưu lại ngày nay. Nhưng ngược lại tiếng thơm thì nghìn đời còn đó, ai mà không thương tiếc Chiêu Quân, chẳng bao giờ mất tiếng người đẹp nghìn xưa. Thiếp nay tuy chẳng bằng Chiêu Quân, nhưng nếu phải hối lộ tụi tiểu nhân để được chúa thượng yêu vì, thì thực đáng hổ thẹn. Thiếp chỉ giận thân này bạc phận, nếu không được gặp quân vương, thì cũng thật uổng thân này một kiếp. Chỉ bằng chết quách một đường, làm con ma đáng thương của nghìn đời, cũng là một chuyện cưỡng lại cái thân phận bị cày ải ở chốn hậu cung lạnh lẽo này chăng! Về sau lại nghe Hứa Đình Phủ đã kén được một trăm cung nữ để đưa về Tây Uyển, Hầu phu nhân khóc lóc một hồi rồi nói: - Thiếp kiếp này thế là chẳng bao giờ được thấy mặt quân vương, muốn được quân vương để ý đến, thảng hoặc sau khi chết chăng? Nói xong lại khóc, mấy ngày sau cơm canh trà nước đều bỏ, gượng đến bên giường, sửa sang y phục mày mặt gọn gàng, rồi đem mấy bức hoa tiên, có những hoa văn màu đen, đem những bài thơ thổ lộ nỗi lòng, buồn vui của mình chép lại, gói chặt trong túi gấm, buộc ở bên mình, còn lại những bài thơ phú khác, đều vứt vào lửa đốt. Một mình một bóng, lặng lẽ đi vòng quanh một hồi thổn thức trước lan can, khóc rồi lại ngắm, đến chiều thì lủi thủi về phòng, thổn thức mãi hết canh hai. Không chịu nổi sự thống khổ quá đáng, bèn lấy một dải-lụa trắng, treo lên xà nhà mà thắt cổ. Chính là: Hồn thơm tán đứt, sầu thêm lặng Mặt ngọc nhòa phai, oán lại sầu. Một vài cung nữ thấy quang cảnh khác thường, vội vàng chạy vào phòng giải cứu, thì đã ngọc nát châu chìm, hương gãy bình tan, ô hô! Qua đời rồi! Khóc lóc ầm ĩ một hồi, đợi đến sáng ngày mai, việc không giấu được, đành phải đi báo với Tiêu Hoàng hậu. *** Lại nói, Tiêu Hậu khi ở Tây Uyển, uống luôn ba chén rượu lớn, Dượng Đế đành cho về cung. Sáng ngày hôm sau, Dượng Đế tỉnh dậy, vội lên xe rồng, về cung sớm, sai cung nữ chuẩn bị yến tiệc chờ sẵn, để đáp lại yến tiệc mà các phu nhân đã thết ở Tây Uyển hôm qua, bỗng thấy cung nữ của Hầu phu nhân tới thưa chuyện. Tiêu Hậu đi theo nội giám tới xem xét. Bọn cung nữ tìm thấy túi gấm bên mình Hầu phu nhân, đưa trình Tiêu Hậu. Tiêu Hậu mở ra xem, thì ra là thơ tuyệt mệnh, liền cứ như cũ bỏ vào túi gấm, sai cung nhân đem đưa trình Dượng Đế. Lúc này Dượng Đế đang ngồi ở long sàng, xem cung nữ trang điểm, vừa nói chuyện được mất xưa nay với Sa phu nhân ở viện Bảo Lâm. Dượng Đế nói: - Trụ Vương chỉ sủng ái mỗi Đắt Kỷ, Chu U Vương chỉ riêng say đắm Bao Tự, mà bỏ rơi cả thiên hạ, trẫm nay người đẹp đầy trước mặt, mà bốn biển vẫn yên như Thái Sơn, như thế là tại sao? Sa phu nhân thưa: - Đắt Kỷ, Bao Tự làm sao mà đủ sức phá nghiệp nhà Ân, nhà Chu, chính bởi tại Ân Vương, Chu Vương tham luyến sắc đẹp của Đắt Kỷ, Bao Tự, không nhìn ngó gì đến thiên hạ, vì vậy mà thiên hạ ngày càng lìa tan. Nay thì bệ hạ lúc thì đi tuần phía nam, lúc đi thú phía bắc, lưu tâm vất vả trị nước, làm sao chín châu không yên lành cho được. Nay là lúc nhàn rỗi giữa bao công việc, tự vui với cảnh cung cấm, phi tần tuy nhiều, nhưng đều có thứ tự, phép tắc đúng theo lề phong hóa cổ xưa. Dượng Đế cười: - Trụ Vương, Chu Vương tuy là hai vị vua không có đức, nhưng đãi Đắt Kỷ cùng Bao Tự như thế cũng là cùng cực, nên cũng có thể nói là có ơn sâu nặng vậy. Sa phu nhân thưa: - Chỉ trút cả vào một người, thì đó chỉ là tư ái, sủng ái, phải yêu đồng, cho khắp mới là ơn chung ơn lớn vậy. Đó chính là chỗ bại hoại của Trụ Vương, của Chu U Vương, mà cũng là chỗ an hưởng của bệ hạ vậy. Dượng Đế vui mừng: - Phu nhân bàn luận, thật là hợp ý trẫm. Trẫm tuy có hai kinh, mười sáu viện, cung nữ tuy nhiều, đủ màu xanh đỏ, nhưng trẫm đều đối xử rất tận tình, chưa bao giờ bỏ rơi một người nào, khiến họ không có nơi chốn yên ổn, cho nên trẫm luôn thư thái ung dung tự tại bởi chính có ơn mà không có oán vậy. Dượng Đế đang cùng Sa phu nhân sôi nổi bàn cãi thì thấy Tiêu Hậu sai cung nhân đưa trình túi gấm, cùng là trình việc Hầu phu nhân tự tận. Dượng Đế cho rằng đó là một cung nữ tầm thường, dẫu có chết thì chẳng có gì đáng phải hoảng hốt, vẫn cười cười nói nói giở túi gấm ra xem, thấy những tờ hoa tiên cực tinh tế, với những bài từ, bài thơ rất hoa lệ, chữ nào chữ ấy chân phương theo lối chữ khải, nét bút rất tươi tắn, mạnh mẽ, Dượng Đế đã thấy lòng không yên. Lúc này các phu nhân trang điểm đã xong, khăn áo thướt tha xúm lại trước mặt Dượng Đế cùng xem, Dượng Đế mở tờ đầu tiên, thấy hai bài thơ "Xem hoa mai": Bài 1: Thềm đá không tan tuyết Cuối rèm mày bỗng nhăn Trước sân mai khéo thương ta lắm Lấp lánh đầu nhành một nhánh xuân. Bài 2: Thương hương tàn sắc lạnh Ai biết ấy trời sinh Cánh mai là ta, hơi xuân ấm Riêng để trăm hoa tươi trước mành. Dượng Đế mới xem hết hai bài thơ đã kinh ngạc vô cùng, không ngăn được lời than thở: - Sao ở trong cung lại có người đẹp tài giỏi đến thế này? Rồi vội vàng mở xem tiểp tờ thứ hai. thấy có chép bốn bài, một bài "Điểm trang xong" và ba bài "Tự cãm" . "Điểm trang xong": Điểm trang xong tủi phận Mộng đẹp hóa cơn buồn Chẳng bằng hoa dương sớm Xuân về bay khắp thôn "Tự Cảm", bài một: Muốn khóc không còn lệ Buồn ca cổ nghẹn lời Mà hoa vẫn rực rỡ Sao thế hỡi xuân ơi! "Tự cảm" , bài hai: Trước sân, xe mất vết Đất lõm cỏ non chẹt Văng vẳng đàn sáo nào Ơn vua về đậu hót? "Tự cảm" , bài ba: Bóng xuân dài dằng dặc Một bước một ngẩn ngơ thẹn không bằng cỏ dại Mưa móc thấm chan hòa. Mở sang tờ thứ ba là một bài cổ phong, ngũ ngôn, gồm hai mươi sáu câu có tên là "Tự thương" . Buổi mới lạ vào Thừa Minh điện Cảnh thâm nghiêm ẩn hiện không nguôi Cảnh dài bảy tám năm trời Quân Vương chảng một lần vời lược gương Rét xuân buốt thấu xương Chiếc bóng lặng buồng không Quanh hè hài lệt xệt U uất lòng thương lòng Đêm khuya bỗng nhớ vòng tuổi trẻ Chẳng hơn ai cũng thể khác thường Vì đâu tươi hóa nên tàn Cái câu bạc mệnh muôn vàn xót xa Ơn chúa cao dày nhưng vắng xa Bàng hoàng lòng thiếp bóng chiều tà Quê hương cốt nhục ai là chẳng Tựa cửa chẳng vâng bóng mẹ già? Chim đất khách chơ vơ lông cánh Cổng tường cao xa lánh được sao? Mạng ta nặng nhẹ thế nào Nỡ đem cất giữ tháp cao lụa đào Kèo cao lụa một giải Gan ruột như trào sôi Đưa đau vào ngần ngại Muôn sợi thắt rối bời Lẽ tử sinh tuy hai mà một Quê suối vàng nhẹ gót từ đây. Dượng Đế đọc chưa hết đã rơi nước mắt nói: - Đây chính là lỗi của trầm. Trẫm nào có thương tài ái sắc gì đâu ngay ở trong cung này thôi mà để mất bậc tài hoa thế này. Đau xót thay, tiếc thương thay! Nói xong gạt nước mắt, giở sang tờ thứ tư, chỉ có một bài "Di ý". Tước run động kín trồng tiên thảo Trạm chỗ thâm cung nhốt ngọc nhân Diên Thọ phải đem mà chặt thủ Sao không vẽ đúng ảnh Chiêu Quân? Dượng Đế xem hết, nổi giận đùng đùng: - Thì ra có một chuyện dối trá ở đây! Sa phu nhân hỏi: - Ai dối ai, thưa bệ hạ? Dượng Đế đáp: - Trẫm trước đây sai Hứa Đình Phủ vào hậu cung tuyển người đẹp sao lại không tuyển Hầu phu nhân? Ở đây nhất định có chuyện dối trá. Bài thơ cuối cùng này là oán Hứa Đình Phủ không tuyển phu nhân, vì vậy ngậm hờn oan mà chết. Bèn sai người gọi ngay Hứa Đình Phủ tới. Giả phu nhân ở viện Giáng Dương thưa: - Hứa Đình Phủ chỉ biết đến dung mạo thôi, còn làm sao biết được tài mẫn tiệp của Hầu phu nhân thưa bệ hạ? Dù tài năng thế nữa, nhưng không chắc dung mạo đã tương xứng. Bệ hạ sao không sai người đem đến xem. Nếu như nhan sắc bình thường, thì tội Đình Phủ còn có thể tha thứ. Nếu như tài mạo kiêm toàn, hãy sai gọi đến cũng chưa muộn. Dượng Đế phán: - Nếu không phải là bậc tuyệt thế giai nhân, thì làm sao có được lời hoa gấm như thế này. Nhưng cứ như lời khuyên của các khanh, trẫm hãy tự thân đến xem sao? Bèn từ biệt đám phu nhân, lên xe rồng về cung, Tiêu Hậu ra đón, rồi cùng vào hậu cung xem xét, thấy Hầu phu nhân khoảng hai mươi tuổi trở lại, tuy đã chết, nhưng y phục, đầu tóc chỉnh tề, nhan sắc vẫn như lúc sống vậy, má hồng trán trắng mịn, chẳng khác gì đóa hoa đào sắp nở rộ. Dượng Đế thấy thế, cũng chẳng nghĩ tới tử sinh cách biệt, lại gần vuốt ve trên người Hầu phu nhân, rồi lớn tiếng khóc: - Trẫm vốn là một kẻ yêu tài, mến sắc, mà ngay trong cung cũng để mất người tài sắc bậc này. Phu nhân là kẻ tài sắc vẹn toàn, gần nhau trong tấc gang mà không được gặp gỡ. Chẳng phải là trẫm phụ phu nhân đâu, mà chính bởi phu nhân mang số bạc mệnh trong người mình đấy thôi. Không phải phu nhân không được gặp trẫm, mà chính là do trẫm vô duyên. Phu nhân ở tuyền đài, cũng đừng oán trẫm. Nói xong lại khóc, khóc xong lại nói, thổn thức rồi thổn thức, cũng chẳng khác gì Khổng Phu Tử khóc con kỳ lân chết vậy, đều mười phần bi thương. Chính là: Đức thánh khóc đạo Người thường thương sắc Đau lòng như nhau Cách xa trời vực. Tiêu Hậu khuyên: - Người mất, đàn tan, bi thương cũng chẳng ích gì, xin bệ hạ hãy giữ gìn. Dượng Đế bèn truyền lệnh bắt Đình Phủ hạ ngục, hỏi tội cẩn thận, lệnh cho thái giám chuẩn bị y phục, quan tài để hậu táng Hầu phu nhân. Lại sai cung nữ tìm thêm thơ văn của Hầu phu nhân, bọn cung nữ tâu: - Trình chúa thượng, Hầu phu nhân làm thơ rất nhiều, trước khi chết một ngày, khóc than rồi đốt hết tất cả rồi. Dượng Đế vô cùng tiếc thương, lại lấy những bài thơ trong cẩm nang đặt trên bàn xem một lần nữa, tiếc thương một lần nữa, đọc một lần nữa, muôn ngàn trân trọng. Rồi giao cho các phu nhân để phổ thành nhạc hát. Chúng phu nhân đều nghe biết chuyện Dượng Đế hậu tình làm tang lễ Hầu phu nhân, nên cũng kéo đến dự, đem theo cả lễ vật. Dượng Đế tự viết văn tế, trong đó có những câu: Năm năm đằng đẵng Trắng lạnh hương tàn Khanh không gặp trẫm Ấy ai thương khanh Khanh không gặp trẫm Gối chiếc mộng tàn Trẫm không gặp khanh Ân hận suối vàng Trẫm thương khanh mất Như thương còn khanh. Rồi lại khóc than chua xót, không thể nào nói hết. Dượng Đế làm xong, tự mình ngâm đọc một hồi, đến Tiêu Hậu cũng phải nhỏ nước mắt rồi nói: - Bệ hạ hà tất phải tiếc thương sầu thảm đến thế! Dượng Đế đáp: - Chẳng phải trẫm đa tình đâu. Mà chính là tình đến làm đau lòng, trẫm cố ngăn cũng không được. Chúng phu nhân cũng vang lời than khóc, Dượng Đế đứng tế Hầu phu nhân một lễ, rồi đem bài văn tế đốt trước linh sàng, tìm đất mai táng. Lại sắc cho quan huyện, quan quận, hậu tuất cho cha mẹ Hầu phu nhân. Còn Hứa Đình Phủ bị hình quan tra khảo, không thể chối được, bèn đem chuyện đòi hối lộ vàng ngọc thế nào cung khai rõ ràng. Hình quan cứ thế tâu trình, Dượng Đế vô cùng tức giận, đòi đem ra giữa chợ Đông chém ngang lưng. Nhưng rồi được chúng phu nhân xúm lại khuyên giải nhiều lần, nên Dượng Đế bằng lòng cho Hứa Đình Phủ phải tự chết trong ngục. Chính là: Suốt đời tham lợi cậy quyền Nào hay tài lại vần liền với tai Chóng chầy một tối một mai Cặp kè lũ lượt về nơi... vạc dầu.

Hồi Thứ Hai Mươi Chín

Tùy Dượng Đế hai viện xem hoa, Chúng phi tần một thuyền chơi biển.

Từ rằng: Buồn vừa dứt, vui tiếp ngay Nhà trời sớm đã khéo bày trò chơi Đào đào lý lý sắc tài Giải phiền một chén, u hoài vơi chưa? Đá Bắc Hải, liễu Ngũ Hồ Xa trông trời nước nào bờ bến đâu? Gối tiên chợt tỉnh chiêm bao Tựa hồng dựa biếc thì thào riêng tây. Theo điệu "Đạp sa hành"

Con người ta trong chuyện tiền tài, sắc dục, khó ai có một cái nhìn thật sáng suốt, huống chi bậc thiên tử, tột cùng của sự phú quý, giàu có bốn biển, không ai sánh nổi sự xa hoa, thì trong sự hoang dâm thanh sắc, ai là người đứng ra ngăn cản, cho nên Dượng Đế lại càng mặc sức, mặc lòng. Dù điềm trời có thể hiện ở cây cỏ, ở muôn vật nữa, thì tai như không nghe, mắt như không thấy, cho nên chuyện quốc phá, thân vong là điều không thể tránh khỏi vậy. ** Lại quay lại chuyện Dượng Đế đã bắt Hứa Đình Phủ tự vận trong ngục, nhưng vẫn chưa quên ngay được chuyện Hầu phu nhân, mọi người trong cung hết sức khuyên giải, nhưng Dượng Đế vẫn rầu rĩ không nguôi. Tiêu Hậu giảng giải: - Người chết chẳng bao giờ có thể sống lại. Có nghĩ ngợi lắm cũng chẳng ích gì. Ví như sau khi Tuyên Hoa phu nhân mất, lại có một loạt phu nhân thay thế. Nay biết đâu ở hậu cung vẫn còn nhiều bậc tài sắc, mà bệ hạ chưa biết đến cũng nên? Dượng Đế đáp: - Hoàng hậu nói có lý lắm! Liền truyền chỉ cho các cung, không kể tài nhân, mỹ nhân, tần phi, thái nữ, ai có sắc có tài, giỏi hát giỏi đàn, hoặc các tài khác lạ, cứ việc tâu tên họ rồi đến Hiển Nhân cung thi tài ngay trước mặt vua cùng hoàng hậu. Chỉ ban ra, hết ngày này sang ngày khác, có kẻ giỏi vẽ, kẻ hay hát, đàn hay, đều kéo đến Hiển Nhân cung thi tài. Dượng Đế vui mừng bày tiệc rượu ra ngay điện lớn của Hiển Nhân cung, mời Tiêu Hậu cùng mười sáu phu nhân ở mười sáu viện tới, để cùng lựa chọn. Dượng Đế cùng Tiêu Hậu ngồi trên long sàng, chúng phu nhân ngồi thành hai hàng tả hữu. Lúc xem vẽ vời, lúc nghe thơ phú, rồi lại nghe nhạc, xem múa, nghe đàn, xem các xảo thuật linh tinh. Thôi thì tha hồ cho bút mực tung hoành, âm nhạc du dương, châu ngọc rộn ràng, loan phượng tề minh. Dượng Đế thấy toàn những tài năng, những nhan sắc khác thường, lòng lấy làm vui vẻ, phán rằng: - Lần tuyển lựa này, nhất định ta sẽ không còn sót một viên ngọc quý nào nữa. Chỉ thương cho Hầu phu nhân, không sống lại được để mà dự. Rồi thưởng cho tất cả mỗi người ba chén rượu, ghi tên họ vào các hạng mục rõ ràng, kẻ thì được phong mỹ nhân, người được thăng tài nhân, cộng tất cả là hơn một trăm người, đều nhất loạt được đưa vào Tây Uyển. Mọi người đã được phân chia đâu đó, vẫn còn một cung nữ chẳng thấy thi thơ văn, cũng chẳng trổ tài họa tranh, viết chữ, chẳng ca, chẳng múa, chỉ đứng một bên. Dượng Đế nhìn kỹ, thì thấy: Quả là: Vẻ phong lưu, dáng kỳ dị Thần thanh tuấn, tướng cao quý Không son chẳng phấn khác người Thiên tư hiếm có cõi thế Dượng Đế vội vàng hỏi: - Khanh tên họ là gì? Ai nấy đều trổ tài văn thơ, họa viết, thi khéo thi khôn. Sao khanh vẫn chưa nói năng gì cả, mà lại vẫn đứng ở đây? Cung nữ vẫn không hề hoảng hốt, bước lên thong thả thưa: - Tâu chúa thượng, thiếp họ Viên, người ở Quý Khê, thuộc Giang Tây, tiểu tự là Tử Yên. Từ ngày, nhập cung đến giờ, chưa từng được thấy thiên nhan. Nay mới được dự tuyển, cũng liều chết để thưa cùng chúa thượng. Dượng Đế hỏi: - Khanh đã đến đây gặp trẫm rồi, có tài năng cao thấp thế nào, khanh cứ nói xem sao? Tử Yên thưa: - Thiếp tuy có tài mọn, nhưng lại không thuộc loại múa hay, hát giỏi, mà lại có thể làm người khác không chịu nổi nữa kia! Dượng Đế lại hỏi: - Nếu không phải tài ca, giỏi múa, thì còn là tài gì nữa kia? Tử Yên thưa: - Thiếp từ nhỏ đã học được phép xem thiên văn. Cho nên tất cả những việc nữ công, gia chánh đều bỏ không nhìn tới. Nay vẫn chẳng biết gì chuyện đó, chỉ biết xem sao, nhìn trời đất, khí tượng, đoán rõ ngũ hành, tính được vận mạng của bậc thiên tử, của quốc gia mà thôi! Dượng Đế vô cùng kinh ngạc: - Đó chính là môn học của các bậc thánh nhân. Khanh là hạng đàn bà, tuổi ít, thì làm sao hiểu thấu những chuyện cao siêu huyền bí được? Tử Yên thưa: - Thiếp lúc nhỏ, may gặp một ni cô già, nói thiếp có đôi mắt ánh sáng khác lạ, có thể nhìn được bầu trời, tinh tú, vì vậy được ni cô dạy xem thiên văn, nào là chuyển cơ, nào là ngọc hạnh đều được xem qua, kể cả ngũ vĩ, thất chính đều được ni cô giảng giải tường tận. Lại luôn luôn khuyến khích thiếp, hãy gắng mà học cho giỏi, mai kia có thể làm thầy bậc đế vương, vì vậy thiếp ngày đêm ra công cũng biết được một đôi điều. Dượng Đế phán: - Trẫm thuở nhỏ, không sách nào là không xem. Chỉ tiếc rằng các loại sách thiên văn, không được học kỹ càng. Nay các đài quan, ngày ngày trình điềm họa phúc, kể tượng đất trời, tinh tú, trẫm cũng chẳng hiểu gì lắm. Nay mà khanh lại biết được những điếu này, thì trẫm sẽ cho xây ngay đàn trong cung này, rồi phong khanh làm quý nhân, kiêm chức nữ tư thiên giám, chuyên trông coi việc đất trời, cai quản nội tư thiên giám vậy. Như thế thì trẫm lúc nào cũng được ngửa trông thiên tượng, cũng là một việc thích ý vậy. Tử Yên vội vàng lạy tạ, Dượng Đế liền cho phép ngồi sau hàng chúng phu nhân. Tiêu Hậu chúc mừng: - Lần tuyển chọn này, không những được rất nhiều người tài kẻ sắc lại được cả Viên Quý nhân, biết xem thiên văn, giúp sáng mệnh trời, thật bởi phúc lớn của bệ hạ nên vậy. Dượng Đế vui vẻ vô cùng, cùng với các phu nhân uống rượu mãi tới khi trăng lên rồi chẳng chờ cho đến khi đắp được thiên đàn, cùng Viên Quý nhân lên nguyệt đài, sai cung nhân lấy rất nhiều bàn lớn, sập rộng, chất thành một đài cao. Dượng Đế kéo Tử Yên lên, cùng nhau xem bầu trời, hai hàng cung nữ đứng hầu phía dưới. Thoạt tiên, Tử Yên chỉ cho Dượng Đế thấy tam đàn, cùng phân giới của nhị thập bát tú. Dượng Đế hỏi: - Những gì thì gọi là tam đàn? Tử Yên đáp: - Tam đàn là gồm: Tử vi đàn, Thái vi đàn, cùng Thiên thị đàn. Tử vi thì ứng cung khuyết với kinh đô của lộc tiên tử, thái vi thì ứng những chính lệnh của thiên tử với các nước chư hầu, Thiên thị chính là thể hiện quyền hành của bậc thiên tử ở các thành thị, nơi đô hội. sao rõ , khí sáng là điềm quốc gia hòa yên, phúc lộc. Sao Tuệ (1) rực rỡ chiếm xâm giới phận khác, là lúc quốc gia gặp phải hồi ly loạn, chiến tranh. 1 Sao Tuệ, Sao Bột, đều chỉ sao chổi, loại sao ngày xưa cho là điềm chiến tranh, đói kém! Dượng Đế lại hỏi: - Hai mươi tám vì sao giăng kín bầu trời, chia rõ cương phận ứng với các phần đất, biết thế nào là xấu là tốt được? Tử Yên thưa: - Giá như Ngũ tinh phạm vào Hà phận, thì biết ngay vùng Hà có hỏa tai, hoặc binh đao, việc táng thất, hoặc thủy tai. Những điểm này đều được biểu hiện bằng màu sắc thanh, hoàng, xích, hắc, bạch, gồm năm màu để phân biệt. Dượng Đế lại hỏi: - Thế còn vì sao nào thì ứng với bậc đế vương? Tử Yên đưa tay chỉ về phía bắc: - Trong Tử vi đàn kia, có năm ngôi sao làm thành một dãy liền, ngôi đầu tiên là chỉ về phía mặt trăng, về Thái tử, ngôi thứ hai chỉ về mặt trời, vừa có đủ màu đỏ, vừa lớn nhất, chính là sao đế vị đấy! Dượng Đế giương mắt nhìn theo: - Làm sao mà đế tinh lại nhấp nhánh thế kia hở khanh? Tử Yên thưa: - Sao đế dao động, không ổn định, là có ý nói chúa thượng thích đi lại nay đây mai đó. Dượng Đế cười đáp: - Trẫm quả thích ngao du đây đó thật, đó chi là việc rất nhỏ, tại sao các vì sao đó cũng ứng được những chuyện như vậy. Tử Yên đáp: - Thiên tử là người đứng chủ thiên hạ, nhất cử nhất động đều ứng với tượng trời đất. Vì vậy các bậc vua chúa xưa nay, không bao giờ tự tiện dám làm điều xằng bậy, phóng túng, chính là vì sợ mệnh trời vậy. Dượng Đế lại nhìn ngó cẫn thận một hồi nữa rồi lại hỏi Tử Yên: - Trong khu Tử vi đàn tại sao xem ra khí tượng không được sáng rõ? Tử Yên thưa: - Thiếp quả không dám nói! Dượng Đế phán: - Thiên tượng thế nào, đã bày cả ra đó. Khanh không chịu nói rõ cho trẫm, chính là khanh đã mắc tội khi quân vậy. Huống chi chuyện hưng vong đều là chuyện mệnh số, khanh có nói cũng chẳng hại gì cả? Tử Yên thưa: - Tử vi mờ tối, chỉ sợ vận nước không được lâu dài cho lắm! Dượng Đế trầm ngâm suy nghĩ một lúc rồi mới cất tiếng hỏi tiếp: - Việc này liệu có cách nào để cứu vớt được chăng? Tử Yên đáp: - Tử vi tuy có mờ tối, nhưng may mà minh đường vẫn thấy còn sáng tỏ, thái gia (1) đều là một. Phương chi chí thành thì có thể thay được mệnh trời. Nếu thánh thượng lo sửa đức lớn, thì có thể sửa được cả tượng trời, có gì phải lo rằng không cứu vớt được thiên mệnh. 1 Minh đường: tên sao, gồm ba ngôi, chủ về thiên tử. (Đừng nhầm với "minh đường" ở cuối hồi thứ hai mươi tập 1, là nhà lớn đẹp, để thiên tử tuyên giảng đạo đức, đón tiếp chư hầu hoặc tế tự). Thái Giai: đồng nghĩa với từ "tam đàn" ở trên (Nguyên là tam viên, Từ Hải) Dượng Đế phán: - Nếu còn có cơ vãn hồi được, thì chẳng có điều gì đáng lo cả! Hai người xuống đài, trông thấy từ góc tây bắc, một luồng khí đỏ như vẩy rồng thành một đám đài lớn, bốc lên ngùn ngụt. Tử Yên vội giương mắt nhìn theo, không giấu nổi vẻ kinh hoàng, vội vàng thưa: - Đó chính là khí thiên tử vậy, làm sao lại ở chỗ ấy cho được? Dượng Đế vội quay lại nhìn quả nhiên sắc đỏ bừng bừng, hiện đủ năm màu, che khắp nửa bầu trời, thật mười phần kỳ lạ. Dượng Đế bất giác cũng sợ hãi, mới hỏi: - Tại sao khanh lại biết đó là khí thiên tử? Tử Yên thưa : - Hiện đủ năm màu, có hình dáng như rồng như phượng, làm sao mà không phải cho được. Ở nơi khí bốc lên như thế, nhất định là có bậc khác thường. Dượng Đế lại hỏi: - Đám khí này ứng với địa phận nào? Tử Yên lại giơ tay chỉ: - Đây chính là phận Sâm Tĩnh, cũng chẳng đâu xa, có lẽ ở vùng Thái Nguyên chăng? Dượng Đế phán: - Thái Nguyên ở Tây Kinh không xa. Ngày mai trẫm sai người đến lặng lẽ tìm khắp nơi, nếu thấy kẻ nào ra vẻ dị tướng, dị nhân, giết quách đi, thì họa này cũng hết hẳn, chẳng còn sợ gì nữa phải không? Tử Yên thưa: - Đây chính là ý trời, chỉ sợ sức người không trừ diệt nổi. Chỉ xin bệ hạ giữ gìn cẩn thận, nêu cao đức sáng, thì may ra điềm họa có thể tự tiêu. Nhớ lúc trước, ni cô già có truyền cho thiếp ba câu kệ ngăn sau đây: Đuôi trâu, đầu cọp Binh đao loạn lạc Ai sẽ làm vua, con người thợ mộc. Nếu lấy chữ "mộc" với chữ "tử" là con mà đặt chữ "mộc" trên, "tử" dưới thì là chữ "Lý". Nhưng ý trời huyền diệu, thật khó mà suy đoán cho cùng. Dượng Đế phán: - Ý trời đã định, có lo âu sầu não cũng chẳng xong. Đêm nay đẹp thế này, hãy cùng khanh kịp thời hành lạc đã. Rồi xuống đài, cùng với Tiêu Hậu và chúng phu nhân uống thêm mấy chén rượu. Tiêu Hậu dẫn chúng phu nhân ra về, Dượng Đế ở lại Hiển Nhân cung với Tử Yên đêm ấy. Sáng hôm sau, khi Dượng Đế trở dậy rửa mặt chải đầu, bỗng thấy Dương phu nhân ở viện Minh Hà sai một nội giám lại thưa: - Thưa chúa thượng, dạo trước huyện Toan Tảo có dâng cây ngọc lý, từ bấy đến nay, chưa một lần có hoa. Đêm qua bỗng hoa nở đầy cây trắng cả một vùng lớn, khắp viện tỏa hương thơm ngát, thật là điềm phúc lớn, xin chúa thượng hãy tới thưởng ngoạn. Đêm qua Tử Yên nói đến "con thợ mộc", họ "Lý" nay lại thấy nội giám trình như vậy, Dượng Đế trong lòng có phần không vui, trầm ngâm hồi lâu, rồi hỏi: - Cây ngọc lý ấy lâu nay không nở hoa, làm sao nay lại bỗng có hoa. Nhất định có điều gì khác thường chăng? Nội giám thưa: - Quả thật là có chuyện khác thường, thưa bệ hạ. Đêm qua tất cả mọi người trong viện Minh Hà, đều nghe có tiếng thần nhân hàng nghìn người, đứng ở dưới gốc cây ngọc lý mà nói rằng: "Con thợ mộc" đang lúc thịnh thời, chúng ta nên ra tay phù trợ. Chúng con đều không dám tin, không ngờ sáng mai ra, mới thấy hoa lá đầy cành, mười phần tươi tốt. Thế này thì đúng là chúa thượng phúc lớn ngang trời mới sinh ra điềm quý như thế này. Dượng Đế nghe thế, lại càng thêm nghĩ ngợi, phân vân không định, thì lại thấy một thái giám tới tâu rằng: - Kẻ hèn mọn này được Chu phu nhân ở viện Thần Quang sai tới trình bệ hạ. Số hoa dương mai, dạo trước chuyển ở Tây Kinh về, đêm hôm qua bỗng nở đầy cây, mười phần rực rỡ. Xin mời bệ hạ hãy tới ngự lãm. Dượng Đế thấy tâu dương mai cũng thịnh khai, cây này chính hợp với Dương của nhà Tùy mình, mới thấy trong lòng vui vẻ ít nhiều: - Dương mai cũng nở rộ, hay lắm, hay lắm! Bèn hỏi thái giám: - Làm sao chỉ trong một đêm mà lại nở rộ như vậy? Thái giám thưa: - Đêm qua ở dưới cây hoa, thấy có rất nhiều thần nhân trò chuyện rằng: "Hoa này đã tới lúc khí vận cực điểm, hãy để nở cho kỳ hết". Sáng ra xem, chẳng cây nào là cây không có hoa rực rỡ. Dượng Đế phán: - Dương mai nở hoa nhiều như thế, so với ngọc lý ở viện Minh Hà thì thế nào? Thái giám thưa: - Kẻ hèn mọn này chưa thấy hoa ngọc lý. Tử Yên đứng bên cạnh thưa: - Cả hai loài hoa cùng lúc nở rộ, đúng là có quan hệ đến vận mạng của quốc gia. Sao bệ hạ không tới tận nơi xem sao? Dượng Đế nghe lời, liền phán: - Trẫm cùng khanh tới vậy! Rồi lên xe rồng, có Tử Yên đi theo, đến Tây Uyển, đã thấy Dương phu nhân và Chu phu nhân chờ sẵn, Dượng Đế hỏi: - Dương mai đưa ở Tây Kinh về, vốn là những cây lâu đời, nên ra hoa nhiều cũng còn có lý. Còn ngọc lý do huyện ngoài biên mới dâng, bất quá cũng chỉ mới quen đất lạ, sao lại cũng nở rộ cho được. Hai phu nhân thưa: - Xin thánh thượng tự tới xem sẽ rõ. Chẳng mấy chốc đã tới Minh Hà viện, Dương phu nhân mời Dượng Đế ra xem ngọc lý. Dượng Đế không chịu xuống xe rồng mà rằng: - Trước tiên hãy tới xem dương mai đã, ngọc lý xem sau. Dương phu nhân không dám nài, đành theo xe rồng đi tiếp viện Thần Quang. Dượng Đế vào viện, đến gần dãy dương mai, thì thấy đầy cành hoa gấm, chi chít khắp từ gốc tới ngọn. Dượng Đế cả mừng mà rằng: - Đúng là rực rỡ ít thấy. Vận quốc gia đến hồi thịnh vượng, chẳng cần bói toán cũng có thể thấy rõ ràng. Chẳng mấy chốc, phu nhân cung nữ các viện nghe nói hai viện nở hoa đầy cành, đều kẻo tới xem, ai nấy đều hết lời ca ngợi. Dượng Đế mười phần hoan hỉ, bèn sai bày tiệc rượu thưởng hoa. Chúng phu nhân do không rõ ý riêng của Dượng Đế đều tâu rằng: - Tâu bệ hạ, nghe nói ngọc lý cũng nở hoa rất đẹp, sao bệ hạ không tới ngự lãm? Dượng Đế phán: - Có lẽ không thể bằng dương mai được? Chúng phu nhân thưa: - Bằng hoặc hơn có gì khác nhau. Tất cả đều thử đến xem thế nào? Dượng Đế bị chúng phu nhân thúc giục, không thể chối được, đành phải cùng đến viện Minh Hà. Vào tới viện, đã thấy hương thơm kỳ lạ xộc vào mũi, hoa lạ đầy cành, nhụy phô lấp lánh. Chẳng khác gì được làm bằng châu ngọc trắng trong, soi sáng cả một vùng Tây Uyển, đúng là phải có bàn tay của quỷ thần phù trợ mới được như thế vậy thật không giống gì với những gốc dương mai. Có bài từ "Đạp sa hành" để làm chứng sau đây: Mây trắng xuôi, mây xanh kéo ngược Hạt mưa rơi đọng ngọc trên hoa Một đêm nở rộ sáng lòa Chẳng phiền xuân gọi, chẳng qua xuân mài Được trời đất tài bồi khéo léo Lại quỉ thần toan liệu tinh sao Đông hoàng trói buộc được nào Hương thiêng chợt thoảng đưa cao hóa rồng Hoa hèn đâu dám tranh hùng. Dượng Đế thấy hoa ngọc lý mười phần sáng lạn huy hoàng, chẳng giống các loài cây tầm thường mà khác gì cây ngọc cây ngà, cây quỳnh cành dao vậy, thì mắt trừng, miệng cứng, một hồi lâu không thốt ra lời. Chúng phu nhân chẳng rõ nguồn cơn, lại chỉ thi nhau ngợi ca ngọc lý. Bọn nội giám cũng thế, hết lời này khen đẹp, tiếng khác khen thơm, thi nhau ngợi tán sự kỳ lạ. Dượng Đế bỗng lớn tiếng quát: - Cái cây ty tiện này, bỗng nhiên nở hoa như vậy, nhất định là do yêu thuật, tà ma, để giống này chỉ mang họa. Rồi sai tả hữu, dùng búa chặt tận gốc. Chúng phu nhân vô cùng kinh sợ, thưa: - Hoa nở đầy cành, đúng là diễm phúc của quốc gia, làm sao lại là yêu nghiệt, cúi xin bệ hạ nghĩ lại. Dượng Đế vẫn phán: - Các khanh không thể hiểu được đâu. Chỉ có thể chặt đi là tốt hơn cả thôi. Chúng phu nhân khuyên giải trăm đường, nhưng Dượng Đế đời nào chịu nghe. Chỉ có Tử Yên là hiểu rõ đầu đuôi, liền thưa với Dượng Đế: - Hoa này tuy nở rất rực rỡ. Nhưng càng nở lắm thì càng chóng tàn, nên chỉ sợ không được lâu đâu. Nay xin bệ hạ hãy lấy rượu mà tưới vào thì yêu nghiệt cũng hết, mà trở nên điềm lành vậy. Bọn nội giám đang đứng chờ, chưa nỡ ra tay, thì thấy báo hoàng hậu tới. Nguyên là Tiêu Hậu cũng được tin hai viện hoa nở, nên cũng tới xem. Chúng phu nhân nhất tề ra đón, rồi thưa: - Hoa đẹp như vậy, nhưng chúa thượng cho là loài yêu nghiệt, bắt đem chặt đi, xin hoàng hậu khuyên giải cho. Tiêu Hậu lạy chào Dượng Đế, rồi ra xem kỹ ngọc lý, thì đúng quả như lời mọi người, Tiêu Hậu trầm ngâm lúc lâu rồi hỏi Dượng Đế: - Tại sao bệ hạ lại truyền chặt cây hoa này? Dượng Đế đáp: - Hoàng hậu là người thông minh, sao lại còn hỏi câu này? Tiêu Hậu nói: - Đây chính là ý trời, chẳng phải yêu nghiệt gì đâu. Có chặt cũng chẳng có ích gì. Bệ hạ nếu uy đức chưa đủ, thì hãy lấy cái uy đức của cái cây quý này mà thêm vào cho đủ vậy. Dượng Đế đáp: - Hoàng hậu phân xử thật sáng suốt, nhưng hãy cùng trẫm tới xem dương mai thì hơn. Rồi không bắt chặt ngọc lý nữa, cùng với Tiêu Hậu và các phu nhân quay sang viện Thần Quang xem dương mai. Tiêu Hậu thấy dương mai cũng rất rạng rỡ, tuy vẫn không sánh nổi ngọc lý, nhưng ít nhiều hiểu được tâm trạng cửa Dượng Đế, nên cũng lựa lời tâu: - Dương mai hương thanh, sắc đẹp, hấp dẫn được chính khí của đất trời. Ngọc lý chẳng qua chỉ được vẻ yêu kiều. Cứ theo như ý thiếp, thì dương mai đáng được xếp trên ngọc lý. Dượng Đế mới cười nói: - Hoàng hậu thật có mắt nhìn hơn người. Rồi sai bày lại tiệc rượu thưởng hoa, ai nấy cùng nâng chén mừng. Uống được vài chén, nhưng rượu chẳng làm nên chuyện, trong lòng mọi người đều không thư thái. Dượng Đế cũng thấy thế, nhìn chung quanh một hồi, rồi đứng ngay dậy mà truyền: - Cảnh xuân đẹp đẽ nhường nào, chỗ nào cũng như thơ như phú, sao lại ngồi giữa gốc cây này mà uống rượu cho được! Tiêu Hậu tiếp lời: - Bệ hạ phán đúng quá. Chi bằng đến quách Ngũ Hồ mà ngồi vậy. Dượng Đế lại tiếp: - Ta ra hẳn Bắc Hải một chuyến, cho tầm mắt được mở rộng nhìn trời đất. Chúng phu nhân nghe thế, liền sai nội giám cung nữ đưa mọi thứ lên thuyền rồng, xong xuôi đâu đó, Dượng Đế cùng Tiêu Hậu, các phu nhân lên thuyền. Thuyền liền rời bến ra Bắc Hải, trời trong, gió thuận, mây nước một màu, so với cảnh trong viện thì khác hẳn. Vườn ngự gió đông mượt Thổi xuân đầy mặt ngời . Rợp bờ hoa đỏ chạy Quét mái liễu xanh trôi Bóng núi dựa cây đứng Tiếng oanh theo nước xuôi Sáng nay trời đẹp thế Dong buồm Bắc Hải chơi. Dượng Đế, Tiêu Hậu cùng chúng phu nhân trên thuyền rồng cuốn tất cả các rèm gấm lên, nhìn cho rõ ràng cảnh đẹp thần tiên bốn phía, chưa gì đã ra khỏi Bắc Hải, tới gần một trong ba đảo thần tiên, cả bọn kéo nhau lên bờ. Đang lúc trèo lên, nghe một tiếng quẫy mạnh, trên mặt biển thấy một con cá lớn, những cánh vây dương rộng, vẩy sáng lấp lánh trên mặt sóng bạc, bơi đi bơi lại gần bờ đảo, trông thấy Dượng Đế như nhận ra người quen. Dượng Đế định thần nhìn kỹ, thì ra là một con cá chép lớn, dài tới một trượng ba bốn thước gì đấy. Toàn thân là những vẩy vàng đỏ sáng ngời dưới ánh nắng mặt trời, như những đốm sáng lân tinh vậy. Ở trán như có thấp thoáng nét chữ son, lúc tỏ, lúc mờ, trông như chữ "giác", Dượng Đế mới sực nhớ ra buột miệng. - Thì ra là con cá này? Tiêu Hậu vội hỏi: Con cá nào thế? Thưa bệ hạ! Dượng Đế đáp: - Hoàng hậu không biết được đâu. Dạo trước trẫm cùng Dương Tố câu cá ở Thái Dịch hồ, có một người đánh cá ở sông Lạc Thủy, bắt được một con cá chép vàng đem tới dâng, trẫm thấy cá có tướng lạ, mới lấy bút son, viết hai chữ "giải sinh" ở trán cá, rồi thả xuống hồ. Về sau, Ngu Thế Cơ đào hồ lớn làm nước lưu thông cả với Thái Dịch hồ. Nên chẳng biết từ bao giờ con cá này ra được đây, mà giờ đã lớn đến thế. Nay nhìn kỹ, thì chữ "sinh" đã bị nước rửa sạch, chỉ còn lại nửa chữ giải là chữ "giác" mà thôi (1). Không phải con cá ấy thì còn con cá nào nữa? 1 chữ "giác" gồm các chữ "giác" ở bên trái, bên phải là chữ "đạo" dưới chữ "ngưu", phần bên phải này cũng bị mờ với chữ "sinh" ngay bên, chữ "giác" còn lại này lại có nghĩa là sừng. Cá chép nguyên chữ Hán là "lý ngư". Chữ "lý", lại đồng âm với Lý là họ Lý. Nên Dượng Đế với Tử Yên mới lo sợ. Cá chép là tượng trưng cho họ Lý, cá chép hóa rồng, cá chép có sừng! Tiêu Hậu thưa: - Cá chép có sừng, thì không phải vật tầm thường! Tử Yên cũng thưa: - Hãy nhân lúc nó chưa hóa được thành rồng, xin bệ hạ trừ đi, may ra có thể trừ được họa gió mưa sau này chăng? Dượng Đế đáp: - Khanh nói có lý lắm. Rồi gọi cận thần mang ngay cung tên đến. Dượng Đế cầm cung tên, vén tay áo bào, đặt tên vào mũi dây cung, nhằm thẳng vào bụng cá phóng mũi tên ra. Bỗng trên mặt nước, một trận gió lớn nổi lên, làn sóng nổi cao cuồn cuộn, ngập tràn bốn phía, chẳng khác gì có hàng vạn con cá hóa rồng đang nhào lộn giữa sóng; nước tràn sâu vào bờ đảo, đến nỗi Dượng Đế, Tiêu Hậu cùng chúng phu nhân đều bị ướt cả xiêm y. Cả bọn hoảng kinh, hồn bay phách lạc. Tiêu Hậu cùng chúng phu nhân vội tìm chỗ tránh. Dượng Đế cũng sợ hãi, chân đứng không vững, Viên Tử Yên vội chạy lại bên Dượng Đế trấn an: - Bệ hạ đứng cho vững. Đã có thiếp đây? Dượng Đế hoảng sợ định níu lấy Tử Yên, thì thấy Tử Yên lấy trong tay áo ra một vật trông tròn như quả trứng bằng gỗ, tay trái lôi ra một cuộn dây ngũ sắc bằng lụa, xâu sợi dây vào quả trứng gỗ xong. Tử Yên giang tay phải ném mạnh ra phía biển, gần chỗ con cá. Cá trông thấy, quay đầu lặn biến mất. Tử Yên thu lại sợi dây, gỡ quả trứng gỗ ra, lúc này Dượng Đế cũng đã trở lại bình tĩnh, lại gần Tử Yên, cầm quả trứng gỗ xem xét. Thì ra đó là một viên ngọc lấp lánh đủ năm màu. Dượng Đế hỏi: - Viên ngọc này dùng làm gì, làm sao mà thủy quái cũng phải sợ được? Tử Yên thưa: - Vật này cũng chính do ni cô già ngày xưa cho thiếp. Dặn thiếp đây là quả cầu "Thái Dịch hỗn thiên", mà lúc còn ít tuổi ni cô đã luyện được, có thể kỵ tà khí, trừ được các loài thủy quái, lúc nào thiếp cũng đem bên mình, để phòng sự bất trắc. Đang nói thì Tiêu Hậu cùng chúng phu nhân kéo tới. Dượng Đế thấy tình cảnh mọi người thì vừa ngạc nhiên, vừa sợ hãi, chả còn hứng thú lên núi chơi nữa. Tất cả lại lên thuyền rồng, trở về Bắc Hải. Mới lên đến bờ nam, đã thấy trung môn sứ Đoàn Đạt, quỳ dưới đất chờ sẵn, hai tay dâng một tờ tấu chương, tâu rằng: - Ở ngoài biên ải có văn thư khẩn cấp, thần không dám trễ nải, xin trình chúa thượng xem tường để còn định đoạt cho kịp. Dượng Đế cười phán: - Hiện nay bốn biển thanh bình, vạn phương đều đến triều cống, thì có việc gì khẩn cấp, mà các ngươi phải vội vàng tất tưởi đến thế! Tả hữu vội vàng vâng lệnh cầm tờ tấu dâng lên Dượng Đế mở ra xem, thì thấy trên viết rằng: "Biên ải tâu việc: Từ quận Hoằng Hóa cho chí vùng Quan Tả, mấy năm liền hạn hán, mất mùa. Giặc cướp nổi dậy như ong. Quận huyện không thể trừ nổi, xin sai tướng giỏi, lùng bắt kỳ hết, giữ yên dân tình." Dượng Đế xem xong liền phán: - Đây là bọn quan lại ở các quận huyện, giả dối bày đặt những chuyện này. Mai kia lại tâu rằng đã dẹp yên để lĩnh thưởng đây mà. Tiêu Hậu bàn: - Những việc như thế này, không thể tin hoàn toàn, cũng không thể không tin. Bệ hạ chỉ cần phái một viên tướng giỏi đến đó, là yên mọi chuyện thôi mà? Dượng Đế lại cầm tờ biểu thứ hai xem sao. Thì ra là hai bộ, bộ lại và bộ binh, tâu rõ về công việc vùng biên ải: "Lại, Binh hai bộ, hiệp sức tâu trình rõ thêm về công việc ngoại biên: mười ba quận vùng Quan Tả, lâu nay trộm cướp phát sinh. Quận huyện đều có văn thư xin tướng giỏi. Chúng thần xin tiến cử Vệ úy thiếu khanh Lý Uyên, thao lược hơn người, đảm đương được công việc giữ yên biên ải, đang giữ chức Lưu thú Hoằng Hóa, cất binh đánh dẹp các đám giặc này. Cúi xin thánh chỉ định đoạt. " Dượng Đế xem xong, liền cấm bút ngự phê như sau: "Lý Uyên nếu có thực tài như vậy, cho xung chức Lưu thú Hoằng Hóa, Tổng quản binh mã mười ba đạo vùng Quan Tả, tiễu trừ cho kỳ hết giặc cướp, trấn an trăm họ. Chờ có công sẽ ban thưởng. Các bộ phải biết thế!" Phê xong, Dượng Đế lại đưa cho Đoàn Đạt. Đoàn Đạt cũng vì việc vùng biên giới gấp rút, không dám trù trừ, lập tức vái lạy đi ra để kịp chuyển cho hai bộ Binh, bộ Lại. Lúc này Dượng Đế mới sực nhớ đến Lý Uyên, thuở xưa lúc đánh dẹp nhà Trần, đã tìm cách giết hại Trương Lệ Hoa như thế nào, hơn nữa là người mang họ Lý, chỉ sợ lại ứng với điềm trời với lời kệ, như thế thì sao lại giao binh quyền cho Lý Uyên. Đắn đo mãi trong lòng cũng muốn đòi lại thánh chỉ vừa đưa cho Đoàn Đạt, nhưng thấy thánh chỉ đã truyền, dẫu có thay người khác, cũng chưa tìm đâu ngay tướng giỏi. Âu đây cũng là ý trời vậy. Giữa lúc Dượng Đế do dự, Đoàn Đạt lại mang thêm một tờ biểu mới vào trình. Dượng Đế mở xem, thì ra là vùng Trường An dâng mỹ nhân. Dượng Đế xem ra, trong lòng khoan khoái, quên ngay chuyện phong chức Lưu thú Hoằng Hóa cho Lý Uyên, bèn hỏi ngay Đoàn Đạt: - Nếu đã có biểu dâng đây, thì mỹ nhân hiện đang ở đâu? Đoàn Đạt tâu: - Tâu bệ hạ, mỹ nhân hiện ngoài cửa ngự uyển, bởi chưa có thánh chỉ, không dám thiện tiện vào. Dượng Đế bèn sai gọi vào. Chẳng bao lâu, nội thị dẫn mỹ nhân vào. Thấy Dượng Đế cùng Tiêu Hậu, mỹ nhân hoảng hốt quỳ lạy, lưng ong uốn éo, mặt hoa khẽ cúi. Dượng Đế nhìn kỹ, thì đúng là mười phần yểu điệu thướt tha, dáng dấp thanh cao. Có thơ làm chứng sau đây: Dáng tuyết hình mày vẻ diễm kiều Mười lăm, mười bảy đoán ra sao? Trăng non nhàn nhạt mày cong nhẹ Ráng sớm long lanh tóc uốn cao Đào kém tươi son môi chúm chím Lệ thua trong trắng, ngọc xiêu xiêu Ấy ai e lệ ngây thơ mấy Hớp cả hồn ai chuyện ghét yêu. Dượng Đế thấy mỹ nhân mười phần xinh đẹp, trong lòng hoan hĩ, lấy tay nâng dậy hỏi: - Khanh năm nay bao nhiêu tuổi, tên là gì? Mỹ nhân thưa: - Thiếp họ Viên, tiểu tự Bảo Nhi, tuổi vừa mười lăm. Phụ mẫu thiếp nghe nói chúa thượng kén ngự xa nữ (1), nên đem tiện thiếp tiến chúa thượng, xin chúa thượng thu nạp. 1 Ngự xa nữ: người con gái đánh xe rồng cho vua, hoàng hậu, một cách nói nhún nhường chăng? Dượng Đế cười đáp: - Khanh hãy yên tâm, yên tâm, nhất định không phải trả về đâu! Rồi cùng Tiêu Hậu dẫn Bảo Nhi đến mười sáu viện. Mọi người thấy Dượng Đế vừa có thêm Bảo Nhi, vội vàng bày rượu chúc mừng, uống mãi tới nửa đêm. Tiễn Tiêu Hậu về cung, đêm ấy Bảo Nhi ngủ lại ở viện Thúy Hoa. Sáng ngày hôm sau, Dượng Đế ban cho Bảo Nhi làm mỹ nhân, từ đó về sau đi đâu cũng mang Bảo Nhi theo, mười phần yêu dấu. Bảo Nhi không vì được vua yêu mà kiêu ngạo, trái lại vẫn rất nhu mì, lúc nào cũng cười đùa vui vẻ, vì vậy Dượng Đế lại càng thích ý. Phu nhân các viện đều có thiện cảm tính tình Bảo Nhi, tận tình dạy Bảo Nhi ca hát, nhảy múa đi đứng. Bảo Nhi lại thông minh, nên chỉ dạy qua là thuộc. Một hôm, trong viện, Dượng Đế ngủ trưa, Bảo Nhi từ trong viện đi ra tìm Chu Quý Nhi, Hàn Tuấn Nga, Hạnh Nương, Thỏa Nương tới. Hạnh Nương nói: - Ngày xuân như thế này, trăm hoa đua nở, chúng ta hãy cùng nhau chơi đấu cỏ gà có nên chăng? Thỏa Nương đáp: - Đấu cỏ gà, mà bốn bên đều toàn hoa cả, liệu kiếm đâu ra. Không được đâu, chi bằng hãy đi chơi đu tiên, lại được một trận cười khoái ý. Hàn Tuấn Nga cãi: - Không đâu! Không đâu! Chơi đu tiên sợ lắm. Tuấn Nga chẳng đi đâu! Chu Quý Nhi cất tiếng: - Chơi đu tiên đã đành không nên rồi. Chi bằng chúng ta kéo ra cầu Xích Lan câu cá là hay hơn cả. Viên Bảo Nhi nói: - Không đi được dâu, chẳng khi chúa thượng tỉnh giấc, gọi chúng ta, thì biết làm thế nào? Chi bằng ra hiên sau ca múa một hồi là hay nhất. Tất cả bằng lòng: - Thế thì hay hơn cả ! Rồi kéo nhau ra hiên sau, mở toang các cửa ra vào, cửa sổ, kéo rèm cửa lên, nhìn ra bên ngoài, muôn hồng nghìn tía.

Ríu rít én về, rèm động bóng Ì ồm ếch gọi, cỏ thơm hồ.

Hồi Thứ Ba Mươi

Hát bài mới, Bảo Nhi mong bề sủng ái,

Xem vẻ xưa, Tiêu Hậu toan cuộc viễn du.

Từ rằng: Tỉnh giấc trưa hè bước ngại ngần Ngại vòng lan can Vẳng nghe làn điệu mới Ong bay bướm lượn quanh lối Giọng oanh đưa, tình sao vời vợi Dưới hoa say mà chiều chưa tối Nhẹ cuốn rèm châu Vướng tua bông phơi phới Tơ lòng bên trời quay từng sợi Hôm nay đến nơi nao mong đợi? Theo điệu "Điệp luyến hoa"

Đại phàm lòng người, tĩnh lắm lại muốn động, động nhiều lại mong tĩnh, khó mà có thể học được các bậc chân tu, luyện tính dưỡng tính, suốt ngày này sang ngày khác ngồi trên chiếc chiếu trong tĩnh tọa cho được. Nếu là đàn bà, con gái, thì lại còn khó hơn nhiều, chuyện giàu chuyện nghèo, việc già, việc trẻ, sớm tối xáo động tâm can, nên kẻ thích tĩnh rất ít, người muốn động lớn hơn nhiều. Cứ từ đây mà xem xét, cũng thấy ngay được ý chí, xu hướng của mỗi người vậy.

***

Lại nói Chu Quý Nhi, Hàn Tuấn Nga, Thỏa Nương, Viên Bảo Nhi cả bọn kéo nhau ra hiên sau của viện Thúy Hoa cùng ngồi, rồi đem những điệu từ khúc mới học được, cùng nhau ca hát ôn luyện. Quý Nhi bàn: - Những khúc hát này, chỉ cần hát cho hay, chẳng có gì thú vị cả. Giữa cảnh mùa xuân rạo rực thế này, các chị trông phía trước từng dãy dương liễu xanh xanh, thật là đáng yêu. Mỗi người chúng ta, sao không tự tìm lấy tứ thơ, nhìn cảnh mà ca vịnh, làm một khúc "Dương liễu từ" có phải thú vị hơn không các chị? Liễu Nương đáp: - Như thế rồi lại phải tự mình hát. Ai mà hát hay sẽ được tặng thêm một viên minh châu ngọc. Hát không hay, thì phạt uống một cốc rượu, các chị xem có được không? Cả bốn người đều đáp: - Được đấy, được đấy! Thỏa Nương nói: - Đã làm rồi, lại còn phải hát nữa kia à? Quý Nhi đáp: - Không bắt buộc phải hát, viết vào giấy mà đọc cũng được chứ sao? Nói chưa xong, Tuấn Nga đã nhẹ nhàng gõ phách, giọng trong như oanh hót, khẽ hát:

Dương liễu xanh xanh thật đáng yêu Một giây, một sợi lạnh tan vèo Chả cần đào lý tô xuân sắc , Đã tháng hai rồi gió ấm reo.

Tuấn Nga hát xong, mọi người đều khen ngợi: - Chị Tuấn Nga hát như thế, thật là tuyệt diệu chẳng khác gì khúc "Dương Xuân Bạch Tuyết" (l) chị em chúng ta thật không dám mở miệng hát nữa. 1 Dương Xuân Bạch Tuyết: Trong bài "Trả lời câu hỏi của vua Sở" của Tống Ngọc đời Chiến Quốc có câu: "Khi mừng hát khúc "Dương Xuân Bạch Tuyết", thì người trong nước hòa theo chẳng qua chỉ được vài mươi người là cùng". (Điển cố văn học).

Tuấn Nga đáp: - Xin các chị đừng chế giễu thế, nếu phải phạt một chén rượu cũng xin vâng! Chưa nói xong thì Thỏa Nương đã lên tiếng, môi hồng khẽ nở, hàm răng trắng đẹp phô đều, tiếng du dương cất:

Dương liễu xanh xanh, xanh đến say Cành la cành vỗng, những vui vầy Hỏi rằng dệt được xuân nhiều ít Chỉ ghẹo chim oanh tối lại ngày

Thỏa Nương ca xong, mọi người lại đều khen ngợi một hồi. Quý Nhi lấy giọng, hết ho lại hắng, mãi mới thành lời:

Dương liễu xanh xanh mấy vạn cành Cành ôm cành ấp nhớ nhung tình Trong cung ai gửi lòng mong nhớ Chỉ có u sầu suốt trống canh.

Quý Nhi hát hết, tất cả đều nói: - Chỉ có chị Quý Nhi hát là tình tứ hơn cả? Quý Nhi cười đáp: - Gượng mãi mới hát nỗi, tình tứ sao được? Rồi đưa tay chỉ Liễu Nương cùng Bảo Nhi mà nói: - Chúng ta hãy nghe hai vị này hát thì mới thật thú vị này. Liễu Nương khẽ cười, cất giọng trong như sáo:

Dương liễu xanh xanh,xuân trói mình Hình xuân lã lướt nhẹ tênh tênh Ai ngờ cung cấm không sầu oán Nghĩ đến xuân, riêng chết cũng đành.

Liễu Nương ca xong, mọi người khen: - Thật là phong lưu, tao nhã, lại có cảm khái. Tất cả đều nên nhường cho khúc này vậy. Liễu Nương đáp: - Các chị đừng làm người khác xấu hổ. Xin hãy nghe tiếng vàng của Bảo Nhi. Bảo Nhi vội đáp: - Em mới học các chị cả. Làm sao mà hát được bằng các chị! Cả bốn người đều khuyến khích: - Chúng tôi đều hát linh tinh thôi. Chị mới thật là tài nghệ, xin đừng quá khiêm nhường. Bảo Nhi vốn là người biết trấn tĩnh, nên vẫn ung dung, tay cầm khăn hồng, khẽ mấp máy môi để lấy điệu, rồi phát ra những âm thanh đầu tiên rất thoải mái, nhưng đúng là du dương, trầm bổng, như quấn quýt lấy mọi người, tiếng ca tràn đầy cả hiên tây:

Dương liễu xanh xanh giữ cấm môn Treo trăng đón gió, tưởng kinh hồn Chớ khoe mình vẻ xuân tình lắm Mưa móc ơn vua thấm tận nguồn.

Bảo Nhi hát xong, ai cũng khen. Quý Nhi nói: - Nếu bàn chuyện ca có uyển chuyển không, âm luật có sai không, tiếng có rõ không, thì chẳng ai bằng Bảo Nhi. Nếu luận cái nghĩa thì ý không quên ơn chúa thượng ở bài từ của Bảo Nhi cũng rõ hơn cả, chúng ta đều không bằng. Chúng ta đều nên lấy ngọc minh châu tặng cho Bảo Nhi. Bảo Nhi cười đáp: - Xin các chị đừng cười. Đáng phải phạt rượu mới phải, đâu dám nhận minh châu. Thật là xấu hổ quá, xấu hổ quá? Liễu Nương nói: - Đúng là Bảo Nhi cả từ cả hát đều tuyệt diệu. Chúng ta đều đáng phải phạt cả. Mọi người đang lúc sôi nổi bàn cãi, thì thấy Dượng Đế từ sau bình phong đi ra lại gần, vừa cười vừa nói: - Các khanh thật là cả gan, làm sao dám trốn trẫm, ra đây ngồi thi hát? Mọi người thấy Dượng Đế, đều cười đứng ngay dậy thưa: - Bọn thiếp thi hát ở đây, để xem ai là người hát hay, từ giỏi nhất, không ngờ chúa thượng lại thấy được. Dượng Đế phán: - Trẫm đã nghe từ lâu kia! Thì ra Dượng Đế ngủ dậy, không thấy Bảo Nhi, vội hỏi tả hữu, bọn này thưa: - Chúng con thấy Viên Mỹ nhân ra phía hiên tây, cùng ca hát với các mỹ nhân. Dượng Đế bèn lặng lẽ ra theo, đến gần hiên tây, nghe các mỹ nhân người nói, người cười, sợ làm họ mất thú riêng, nên vẫn đứng nép phía sau bình phong nghe từ đầu đến cuối, không sót một câu. Dượng Đế lại phán tiếp: - Các khanh chẳng cần phải bàn cãi nhiều. Hãy nghe ta phán xét đây. Mọi người vội đứng thành hàng, trước mặt Dượng Đế lắng nghe. Dượng Đế nhìn Quý Nhi, Tuấn Nga, Thỏa Nương cùng Liễu Nương rồi nói: - Bốn khanh thì bài từ ý tứ phong lưu, lời hát trong trẻo, thật cũng khó kiếm cho được. Rồi lại chỉ Bảo Nhi mà nói: - Khanh là lớp đàn em, học hỏi chưa nhiều, nhưng cũng đã biết dùng lời đạt ý, lại xuất lộ được ý không quên ơn mưa móc của hoàng gia, đáng bậc thông minh, mẫn tiệp. Thật đáng mừng, đáng yêu! Bảo Nhi cũng không biết thưa lại thế nào, chỉ cười. Dượng Đế lại tiếp: - Nhưng tất cả các khanh đều làm được một việc rất hay, đều đáng dược trọng thưởng! Bèn gọi tả hữu, lấy gấm lụa vùng Ngô, cẩm vùng Thục thưởng cho mỗi người hai tấm, riêng Bảo Nhi thì thưởng thêm cho hai viên ngọc minh châu. Dượng Đế thưởng xong bèn phán: - Khanh không quên ơn mưa móc của hoàng gia, thì hoàng gia cũng không quên ban ơn mưa móc thêm cho khanh. Bảo Nhi cùng mọi người nhất tề tạ ơn: - Chúa thượng bình luận rất thông minh. Dượng Đế thích chí, sai bày yến tiệc, bỗng nghe cách tường tiếng người huyên náo, tả hữu vào tâu: - Chúng phu nhân đến! Dượng Đế cả cười nói với các mỹ nhân: - Các khanh hãy giấu ta đi, chờ cho họ đến, thì nói rằng trẫm không có ở đây. Tuấn Nga thưa: - Chúa thượng dạy chúng thiếp giấu chúa thượng ở đâu bây giờ? Quý Nhi vội nói: - Ở phía đầu trái, có một tấm bình phong thấp, có thể trốn ở đấy! Dượng Đế đáp: - Chỉ sợ lộ phía dưới chân, không được? Quý Nhi cười thưa: - Bụi chuối ở phía hòn non bộ trốn là tốt nhất! Dượng Đế lại cũng chê: - Chỉ sợ một trận gió, thổi lật lá, trông thấy rõ cả cũng không tốt đâu! Bảo Nhi cười thưa: - Có một nơi rất tốt, chỉ sợ chúa thượng không vừa ý lắm. Dượng Đế cười đáp: - Cái con bé trơn miệng này, nói mau xem nào? Còn cứ trù trừ mãi. Quý Nhi vội đưa tay chỉ một cửa khép thông sang nhà bếp phía sau thưa: - Ở trong ấy rất rộng rãi, phía bên lại có cả chắn song có thể nhìn ra phía ngoài, chẳng sợ ai trông thấy cả, chỉ cần một người theo hầu bệ hạ là có thể trốn được rất dễ dàng. Dượng Đế nghe nói thế, liền gật đầu cười: - Hay lắm, các khanh hãy mở rộng cửa ra, để trẫm sang trốn bên ấy! Mọi người vội mở cửa, Dượng Đế nhẹ nhàng bước sang. Chúng mỹ nhân đóng cửa, cài cả then lại cẩn thận. Ngay lúc đó, bảy tám vị phu nhân, tay dắt tay tiến vào hiên, chỉ thấy các mỹ nhân đứng đó, nhìn quanh một vòng, chẳng thấy Dượng Đế đâu cả Dương phu nhân ở viện Minh Hà nói: - Chúa thượng không có ở đây đâu! Tần phu nhân ở viện Thanh Tu liền hỏi thẳng các mỹ nhân: - Chúa thượng ở đâu? Chúng mỹ nhân cũng đáp lững lờ: - Chúng tôi không biết. Chu phu nhân ở viện Thần Quang lý sự: - Xe rồng đang còn đứng trước cửa viện. Bọn cung nữ còn đứng chờ trước hiên cả. Hay là chúa thượng có phép tàng hình, đến nỗi chúng ta không thấy được? Lương phu nhân ở viện Cảnh Minh vừa cười vừa nói với Bảo Nhi: - Những kẻ khác không thấy thì cũng thôi không đáng nói làm gì. Em thì lúc nào cũng phải theo hầu hạ, làm sao lại không biết chúa thượng ở đâu. Nếu giấu ở nơi nào, nói ra ngay, không chúng ta sẽ có cách đối phó đây. Bảo Nhi ra vẻ ngơ ngẩn đáp: - Em là đứa ít tuổi nhất ở đây, làm sao mà dám giấu được chúa thượng ở đâu? La phu nhân ở viện Nghênh Huy nói: - Cái con bé này giỏi, chỉ sợ vài năm nữa, lại không thành bà già hay sao? Chúng phu nhân nói cười ầm ĩ. Tiết phu nhân ở viện Thu Thanh nói: - Thôi đừng nói linh tinh nữa. Thiếp đã có một cách rất hay đây rồi. Nếu họ cứ nhất định không chịu nói, chi bằng chúng ta bắt cóc con bé Bảo Nhi này đi. Chúa thượng bất kỳ lúc nào cũng phải có nó. Nay không thấy nó, chúa thượng tất phải tới chỗ chúng ta tìm, chẳng phải việc gì mà rối rít cả lên. Chúng phu nhân reo ùa tán thưởng: - Đúng đấy! Đúng lắm! Ai nấy đang định xúm tay vào, thì Hoa phu nhân ở viện Thúy Hoa bỗng thấy bóng người thấp thoáng sau khe cửa, bèn vội la: - Chúa thượng đây rồi. Thiếp tìm thấy rồi! Rồi vội vàng men theo hàng cây rậm rạp, mở ngay cửa ra, chỉ nghe bên trong có tiếng cười ha hả, rồi thấy Dượng Đế nhảy ra, vỗ tay cười lớn: - Giỏi thật, các khanh định bắt cóc con bé của trẫm phải không, như thế thì còn đạo lý nào nữa chứ? Định phu nhân ở viện Văn An cười thưa: - May mà có diệu kế của Tiết phu nhân, mới động được thiên nhan, vì vậy mới lộ mất chỗ ẩn bí mật. Nếu không thì ai mà tìm được ổ của chim phượng, vực của rồng thiêng ở đâu. Từ các mỹ nhân đến các phu nhân được một phen nói cười huyên náo. Dượng Đế lúc này mới hỏi chúng phu nhân: - Các khanh cùng đi cả bọn, có việc gì mà lại tới đây? Tần phu nhân thưa: - Chúng thiếp đều có đôi tai rất tinh, biết ngay bệ hạ đang ở đây bình phẩm ca từ, nên chúng thiếp cũng muốn đến dự cho vui vẻ. Tiết phu nhân tiếp: - Tâu bệ hạ? Họ hát lời từ mới hay cũ? Dượng Đế liền đem những bài "Dương liễu từ" ra kể lại một lượt Chu phu nhân nói: - Họ làm việc này cũng hay đấy. Chúng ta cũng nên tìm một đề mục nào đó mà ngâm vịnh, cho vui cảnh xuân, chẳng hơn ngồi đánh cờ hoặc giải câu đố hay sao? Dượng Đế cười phán: - Không cần phải bị ràng buộc bởi đề mục. Chỉ cần các khanh tả được lòng mình, chí mình. Chả cứ gì cứ phải đi tìm những đề mục xa lạ làm gì. Địch phu nhân thưa: - Đề mục như thế là tốt lắm. Nhưng hiện nay chúng thiếp ở đây chỉ mới có tám người, sao chúa thượng không triệu tất cả đến để cả mười sáu viện đều được tham dự ngâm vịnh, làm thành một thi xã hẳn hoi, có phải là hứng thú hơn không? Dượng Đế đáp: - Khanh bàn phải lắm! Rồi gọi bọn cận thần phán: - Mau đi gọi cả tám phu nhân các viện còn lại đến đây ngay! Bọn này lĩnh mệnh, vội chạy như bay đi các nơi. Chính là:

Lan can, màn gấm, trướng đào Gọn thu mây nước đưa vào từ chương.

Chẳng bao lâu, đã thấy các phu nhân, tô mày điểm mặt, thướt tha kéo đến, lại chào lạy Dượng Đế, chuyện trò với các phu nhân đến trước. Dượng Đế nhìn ra, thấy chỉ có sáu người, vẫn còn thiếu hai: Lý phu nhân ở viện Nghi Phượng và Sa phu nhân ở viện Bảo Lâm, liền hỏi: - Tại sao Lý phu nhân không đến? Hạ phu nhân ở Ỷ Âm cười thưa: - Lý phu nhân chẳng làm sao cả. Chỉ vì bệ hạ chẳng chịu đến viện Nghi Phượng, cho nên phu nhân mắc bệnh tương tư không đến được. Dượng Đế cười đáp: - Các bệnh khác, trẫm không biết chữa, duy có bệnh tương tư, đến tay trẫm là bệnh khỏi ngay. Lại hỏi tiếp: - Còn Sa phu nhân nữa sao cũng không thấy đến? Giả phu nhân ở viện Giáng Dương thưa: - Phu nhân thưa, trong người không được bình thường, nên sợ không dám đến. Rồi lại tiếp: - Bệ hạ triệu chúng thiếp đến, có gì để sai bảo ạ? Tần phu nhân nói: - Chúa thượng thấy chúng mỹ nhân thi nhau làm từ, ca hát, nên cũng ra đề, để chúng ta cùng làm thơ, làm từ, hoặc tả cảnh hoặc tả tình cứ theo ý mình mà làm. Phàn phu nhân ở viện Tích Châu tâu: - Mọi người ngâm thơ vịnh nguyệt đã quen, riêng thiếp mới làm quen với bút nghiên, chỉ sợ làm bẩn mắt chúa thượng thôi! Dượng Đế đáp: - Đây cũng chẳng qua là cái thích ý một lúc, cứ làm một vài câu tiêu khiển. Phu nhân không việc gì phải quá khiêm nhường. Tạ phu nhân ở viện Anh Văn thưa: - Nếu đã làm văn thơ, thì xin bệ hạ phải có thưởng phạt rõ ràng. Khương phu nhân ở viện Trí Nhân hỏi: - Người chấm thi tất nhiên là chúa thượng rồi, thưởng thì thiếp đây chẳng mong đến phần, nhưng phạt thế nào đây? Hoa phu nhân đáp: - Ai làm hay thì được thưởng một viên ngọc minh châu, tặng chức khôi nguyên, phạt thì cứ đưa bệ hạ về viện, để bệ hạ "châm cứu" cho một đêm. Sau đó lại bắt thi lại. Tần phu nhân cãi: - Nói như thế, ai cũng làm thật dở, thì lấy đâu ra bài hay mà ngâm ngợi, ca hát nữa? Khương phu nhân ở viện Hòa Minh bàn: - Chi bằng thế này thôi. Nếu làm dở, thì bày một tiệc rượu, để chiều sẽ ăn mừng. Còn nếu có tứ hay, tưởng tượng giỏi, lời lẽ thanh tân, tất cả sẽ rước người chấm giải đến viện, hoan lạc một đêm. Chu phu nhân cười nói: - Cứ như Khương phu nhân nói, thì thiếp chẳng bao giờ biết đến ơn mưa móc của chúa thượng cả. Dượng Đế nghe các phu nhân bàn cãi, cười mãi không thôi, rồi phán: - Chúng phu nhân chẳng cần tranh luận nhiều. Cứ lo mà làm cho tốt, trẫm sẽ đối xử công bằng thôi. Các phu nhân đều cười nói ầm ĩ, xin phép Dượng Đế ngồi xuống bàn, nhiều người lại tản ra chung quanh kiếm chỗ ngồi. Trên bàn giữa viện đã đặt sẵn nghiên bút, giấy hoa tiên, ai nấy yên lặng nghĩ ngợi. Dượng Đế ngồi chính giữa, xem xét chung quanh có người đưa tay chống má phấn, có người nhăn trán chau mày ngài, cũng có người cúi nhìn giải quần, có người ngửa mặt nhìn trời, có kẻ lại đứng dựa lan can, thêm cả người đứng lững thững dạo dưới hàng cây, rồi thì ngậm móng tay, khẽ ngâm, khẽ đọc, hai tay ôm gối, như dại như ngây. Dượng Đế thấy thế, lòng cũng không yên, đứng dậy dạo quanh, chẳng khác nào xem đèn đêm nguyên tiêu vậy, lúc thì mài mực khi thì đọc giấy, rồi ngồi dựa ghế nhìn ngắm khắp các dung nhan, chán thì bước ra hiên, nhìn cảnh ngoài vườn ngự, thật đúng là bậc thiên tử phong lưu không người bì kịp. Đang giữa lúc đắc ý như thế, một viên nội giám vào quỳ tâu: - Tâu chúa thượng! Hoàng hậu thấy cây mộc lan ở vườn nở hoa rất nhiều, sai thần đến mời chúa thượng tới thưởng ngoạn. Dượng Đế nghe thế liền phán: - Cây mộc lan ở sân, từ ngày có Tây Uyển đến nay chưa ra xem. Nhưng nay lại gặp lúc chúng phu nhân làm thơ từ mà lại đi xem sao? Thôi, hãy chờ ngày mai vậy! Nội giám thưa: - Hoàng hậu đã đến sân trồng mộc lan rồi, đang chờ chúa thượng! Địch phu nhân đứng dậy tâu: - Chúng thiếp làm thơ, cũng chẳng có gì cần kíp. Chúa thượng nên đi xem mộc lan thì phải hơn. Đừng vì chúng thiếp mà làm hoàng hậu mất cả hứng thú. Dượng Đế băn khoăn một hồi rồi phán: - Nếu đã như thế, chúng phu nhân đi với trẫm có nên chăng? La phu nhân thưa: - Thế cũng không được. Hoàng hậu không truyền gọi chúng thiếp, bỗng dưng chúng thiếp đoàn đoàn lũ lũ kéo đến, đã không làm hoàng hậu vui, mà có khi còn mang vạ nữa không chừng. Dượng Đế gật đầu: - Nói thế cũng đúng, hãy đợi trẫm đến xem tình cảnh ra sao, rồi sẽ sai người triệu chúng phu nhân đến sau vậy. Còn bây giờ hãy cứ ngồi đây mà nghĩ tứ tìm lời làm cho xong thơ từ đi đã. Nói rồi đứng dậy, chúng phu nhân tiễn ra hiên. Dượng Đế còn quay lại dặn: - Chúng phu nhân ai lo phận người ấy, đừng làm hỏng cả bài thơ, bài từ của mình. Chúng phu nhân vâng lời quay vào. Dượng Đế lại thấy các mỹ nhân vẫn còn ở ngoài hiên bèn nói: - Các khanh vẫn còn đứng đây cả sao? Hãy theo trẫm đến xem hoa mộc lan nhé! Cả bọn Bảo Nhi năm người đều vui mừng đi theo. Dượng Đế lên xe rồng, qua viện Minh Hà, viện Thần Quang, sắp tới ngọn Ngọc Sơn của viện Thúy Hoa, thì thấy một chiếc xe nhỏ đi tới, Dượng Đế nhìn kỹ, thì ra là Lý phu nhân ở viện Nghi Phượng. Lý phu nhân thấy xe rồng của Dượng Đế, vội vàng xuống xe, quỳ trước xe rồng. Dượng Đế giơ tay dỡ dậy, rồi hỏi: - Hay quá! Khanh trốn ở đâu bây giờ mới thấy? Hạ phu nhân nói rằng khanh mắc bệnh tương tư. Trẫm đang định tìm cách chữa chạy cho khanh đây! Lý phu nhân cười thưa: - Bệ hạ đừng rỗi hơi mà đến, thiếp chỉ thương hoa tiếc ngọc, tham giấc ngủ nên tới chậm. Cúi xin bệ hạ tha tội. Nhưng không rõ bệ hạ triệu thiếp tới đâu bây giờ? Dượng Đế bèn đem chuyện các mỹ nhân thi ca từ, các phu nhân định thi thơ, nên gọi đủ người tới dự, rồi lại chuyện hoàng hậu mời tới xem mộc lan, không thể không đi, lại kể một lượt. Lý phu nhân thưa: - Nếu như bệ hạ tới xem hoa cùng hoàng hậu, thì thiếp có tới viện Thúy Hoa cũng chẳng thú vị gì nữa. Chi bằng thiếp xin về Nghi Phượng, làm xong thơ đưa trình bệ hạ cũng được. Dượng Đế bảo: - Nếu như khanh không được khỏe, thì cũng chẳng làm thơ viết từ làm gì. Mai kia hãy làm cũng được, cũng chẳng cần vội vàng. Hay khanh cùng trẫm tới xem hoa mộc lan. Đêm nay trẫm sẽ về viện Nghi Phượng nghỉ ngơi, trẫm còn có chuyện muốn nói. Lý phu nhân không dám chối từ, Dượng Đế kéo phu nhân cùng lên ngồi xe rồng, âu âu yếm yếm cùng nhau trò chuyện: - Chẳng bao lâu đã đến nơi. Tiêu Hậu ra đón. Lý phu nhân chào Tiêu Hậu, Tiêu Hậu thưa: - Thiếp thấy cây mộc lan trong sân, vạn hoa cùng nở, nên mới sai đến đón bệ hạ cùng thưởng thức. Lại nói với Lý phu nhân: - Hôm trước được phu nhân sai người tới thăm hỏi đem cho xuyến hoa huệ, đeo thật vừa vặn, lại rất tinh xảo, mấy hôm nay vẫn nhớ. Nay cùng đến với chúa thượng, thật hợp ý ta. Lý phu nhân thưa: - Vật nhỏ mọn, gọi là tỏ lòng kính trọng hoàng hậu, đâu dám mong hoàng hậu thương đến. Dượng Đế nói: - Ta lâu lắm không đến sân mộc lan, cũng muốn nhìn lại, không ngờ hoàng hậu cũng có ý như vậy. Cả ba vừa đi vừa trò chuyện, đã tới sân mộc lan, Dượng Đế nhìn tứ phía, chỉ thấy hoa lá đua tươi, muôn hồng nghìn tía. Thật đúng là: Hoàng gia phú quý nghiêng trời đất Cung cấm phồn hoa quá vạn phương. Dượng Đế cùng Tiêu Hậu đi loanh quanh một hồi, rồi quay vào trong sân uống rượu. Tiêu Hậu bây giờ mới hỏi: - Bệ hạ đang làm gì trong Tây Uyển mà bị thiếp mời đến đây vậy? Dượng Đế đáp: - Trẫm ngủ trưa dậy, thấy bọn Chu Quý Nhi trốn ra hiên sau, thi ca hát, trẫm rình nghe hết. Kể cũng nhiều điều thú vị. Tiêu Hậu hỏi: - Có những gì thú vị? Dượng Đế bèn đem chuyện chúng mỹ nhân ca hát ra sao, mình bình luận thế nào, kể lại tỉ mỉ. Tiêu Hậu nhìn bọn mỹ nhân rồi nói: - Các khanh giỏi hát thế, sao không thử một vài bài để ta nghe, xem chúa thượng khen ngợi có đúng không nào? Dượng Đế tán đồng ngay: - Đúng lắm! Đúng lắm! Để giúp các khanh một tay, cứ mỗi khúc hát, trẫm với hoàng hậu mỗi người uống một chén rượu. Lý phu nhân cũng uống tiếp một chén. Các mỹ nhân không dám chối từ, đành đem những khúc "Dương liễu từ" mới làm hát lại một hồi. Tiêu Hậu cũng hết lòng cổ vũ. Đến lượt Bảo Nhi, Dượng Đế định khen chuyện Bảo Nhi, không quên ơn sâu nghĩa nặng của hoàng gia, để lưu ý hoàng hậu, không ngờ Bảo Nhi vốn lanh lợi, thông minh, không chịu hát từ cũ, lại đặt ngay khúc mới để hát: Dương liễu xanh xanh sắp nẩy hoa (1) Vẻ mày non nớt, phận cung nga Cửu trùng riêng có trời xuân đó Đâu dám khoe mưa móc đậm đà. 1 cả sáu bài từ này, bài nào cũng mở đầu bằng bốn chữ "Dương liễu thanh thanh"... Chữ "Dương" này đồng âm với chữ "Dương" họ của vua Tùy, lại cùng đồng âm với Dượng (Dượng, cũng đọc là Dạng, là Dương). Dượng Đế nghe xong, vừa ngạc nhiên, vừa thích chí khen rối: - Hoàng hậu hãy xem con bé này, chuyện làm những điều không ngờ. Nó thấy có hoàng hậu ngồi đây, liền hát ngay: Cửu trùng riêng có trời xuân đó Đâu dám khoe mưa móc đậm đà. Đúng là một con bé khiêm nhường, không bao giờ dám nghĩ tới được riêng ơn mưa móc cho mình. Tiêu Hậu cũng cả mừng: - Nó tuy tuổi còn ít, mà cũng đã có nhiều tài năng, lại biết dược thân phận của mình. Liền gọi đến trước mặt, thân rót một chén rượu ban cho Bảo Nhi, rồi truyền: - Khanh tuổi này còn ít, mà đã biết cao thấp, rõ ràng thân phận, công việc của mình, lúc nào cũng nhớ tới ơn chúa thượng, không dám khoe khoang, thật xứng đáng bậc thục nữ vậy! Rút ngay một cành thoa của mình, thưởng cho Bảo Nhi. Bảo Nhi cúi đầu tạ ơn, chẳng dám nói gì chỉ ngây mặt ra cười. Tiêu Hậu nói với Dượng Đế: - Vừa rồi tay chân nói bệ hạ cùng làm thơ với chúng phu nhân ở viện Thúy Hoa, sao chẳng thấy đâu, chỉ có mỗi Lý phu nhân tới đây thôi. Dượng Đế chỉ chúng mỹ nhân mà rằng: - Nhân bọn này thi hát khúc mới, các phu nhân cũng vừa lúc tới, thấy thế, đòi trẫm ra đề mục, để làm cho vui. Lý phu nhân không thấy đến. Mãi tới lúc hoàng hậu vời trẫm tới đây, mới gặp ở Ngọc Sơn, nên cùng với Lý phu nhân tới đây xem hoa cho thêm vui. Tiêu Hậu nói: - Lý phu nhân đến đây, hoa thêm vẻ đẹp. Chỉ sợ làm dứt mất hứng thú chấm thơ thưởng từ của bệ hạ chăng? Mọi người cười nói, Dượng Đế có vẻ như say, muốn đứng dậy tìm chỗ nghỉ ngơi, bèn đi vào phía trong thì thấy trên tường treo một bức họa lớn, đường nét xanh vàng óng ánh, cũng có lâu đài điện các, có cả làng xóm nhà cửa. Dượng Đế đứng ngẩn ra nhìn. Tiêu Hậu thấy thế, sợ xảy ra chuyện gì không hay cho nhà vua chăng, liền sai Bảo Nhi mời Dượng Đế lại bàn uống rượu. Báo Nhi lại mời, nhưng Dượng Đế không chịu lại, vẫn đứng ngây ra nhìn. Tiêu Hậu gọi Bảo Nhi bưng đến cho Dượng Đế một chén trà Long Đoàn mới pha xong. Dượng Đế cũng chỉ nhìn bức tranh, không chịu uống. Tiêu Hậu thấy Dượng Đế lạ lùng như thế, vội vàng đứng dậy, kéo Lý phu nhân đến bên, khẽ hỏi: - Đây là nét vẽ tuyệt vời của bậc danh họa, có lẽ bệ hạ vì quá yêu thích, đến nỗi không rời mắt được nữa hay sao? Dượng Đế đáp: - Đây là bức họa vẽ cảnh Quảng Lăng, trẫm thấy cảnh này, bỗng nhớ tới phong cảnh Quảng Lăng trước đây, lòng lưu luyến không dứt ra được? Tiêu Hậu thưa: - Không biết giữa cảnh thực bên ngoài với cảnh trên bức họa này giống nhau nhiều ít? Dượng Đế đáp: - Nếu nói về cảnh sơn thanh thủy tú, liễu biếc hoa kiều, thì bức tranh này sao miêu tả được. Nhưng nếu chỉ nói đến đến chùa điện các thì trông cũng như được thấy trước mặt cảnh Quảng Lăng vậy! Tiêu Hậu vừa đưa tay chỉ vừa hỏi: - Con sông này là con sông gì, mà lại có những cánh buồm vòng vèo như thật vậy? Dượng Đế thấy Tiêu Hậu hỏi, vội lại gần xem kỹ, lấy tay trái đặt lên vai Tiêu Hậu, còn tay kia chỉ lên bức tranh mà giảng giải: - Đây không phải sông đào, mà chính là sông Dương Tử, sông này chảy từ Tây Trúc về, qua hơn vạn dặm núi cao rừng rậm, chảy thẳng ra biển. Vì vậy nó là đường phân giới nam bắc, từ xưa tới nay đều cho rằng chính tay thượng đế bày đặt, nên sông này càng trở nên nổi tiếng vậy. Lý phu nhân hỏi: - Men theo sông là những dãy núi gì mà nhiều đến thế, trình bệ hạ? Dượng Đế đáp: - Dãy chính giữa là Cam Tuyền Sơn, dãy bên trái là Phù Sơn, ngày xưa vua Đại Vũ trị thủy cũng đã từng qua đó. Ngày nay ở trên núi vẫn còn miếu thờ Đại Vũ. Dãy bên phải chính là dãy Đại Đồng Sơn Thời nhà Hán, Ngô Vương đã từng luyện đồng để đúc tiền ở đấy, nên mới có tên Đại Đồng. Phía sau là một dãy thấp hơn, gọi là Hoành Sơn, Thái tử Lương Chiêu Minh đã từng đọc sách ở vùng núi này. Bốn phía chung quanh, thì là Qua Bộ Sơn, La Phù Sơn, Ma Ha Sơn Lăng Sơn, Cô Sơn, đều là cửa ngõ của vùng Quảng Lăng cả. Lý phu nhân lặng lẽ gọi Quý Nhi rót hai chén trà đặc lại. Lý phu nhân bưng một chén mời Tiêu Hậu, còn một chén thì thong thả mời Dượng Đế. Dượng Đế đón lấy, Tiêu Hậu trả lại chén rồi hỏi tiếp: - Trong này có những thành nào, thuộc vùng nào thưa bệ hạ? Dượng Đế uống xong chén trà, liền đáp: - Đây chính là Vu Thành cũng gọi là Cổ Hàn, Câu Thành, chính là kinh đô xưa của vua Ngô Phù Sai thời Chiến Quốc, phía bên có sông nhỏ, chính cũng là sông do vua Ngô đào, để bảo vệ Vu Thành. Tòa thành này án ngữ vùng Quảng Lăng, lại được núi sông gìn giữ. Ngày trước trẫm từng cai quản Dương Châu, ý cũng định xây dựng kinh đô ở đây, để thu hút được tú khí của non sông vậy. Lý phu nhân hỏi: - Một tòa thành nhỏ như vậy, làm sao đủ cho bậc thiên tử lập nghiệp, kiến đô? Dượng Đế cười đáp: - Phu nhân nhìn trong bức họa thì nhỏ như thế thôi, nhưng ở ngoài thực thì rất mênh mông, tha hồ mà vùng vẫy. Lại đưa tay chỉ góc tây bắc rồi nói tiếp: - Chỉ riêng vùng này, cũng đã có tới hơn hai trăm dặm, so với Tây Uyển, cũng suýt soát bằng nhau rồi. Trẫm mà xây đô ở đây, thì cũng có thể dựng đủ mười sáu viện, chẳng kém gì Tây Uyển cả. Rồi đưa tay chỉ cả các vùng xung quanh: - Vùng này có thể xây đài, chỗ này có thể dựng lầu, đây thì phải làm cầu, còn đây là có thể đào hồ được. Dượng Đế thao thao hứng chí tay chân vung vẩy loạn xạ. Tiêu Hậu thấy thế liền cười: - Bệ hạ mới nói mà đã hứng thú đến thế. Sao không sai người làm nhanh lên, để tiện thiếp, cùng chúng phu nhân, mỹ nhân du ngoạn một chuyến cho thỏa? Dượng Đế đáp: - Trẫm vốn đã có ý đó, chỉ giận là đường bộ tuy cũng có ly cung biệt quán, cũng là trạm dịch (1). Nhưng rất khó nhọc phiền toái, lại nhiều phi tần, cung nữ theo sau, rồi đường sá xa xôi, rơi rụng dọc đường, không thể nào mà đi được đâu? 1 Ly cung, biệt quán: Nơi dành riêng cho vua chúa trong khi đi tuần du. Trạm dịch: trạm dành cho quan lại, đi lại và chuyển công văn giấy tờ. Lý phu nhân thưa: - Sao không tìm đường thủy, đóng nhiều thuyền rồng, để chúng thiếp cũng có thể tham dự mà vẫn nhàn nhã? Dượng Đế cười đáp: - Nếu có đường thuỷ như thế, thì chẳng phải chờ đến ngày nay. Tiêu Hậu hỏi: - Nếu không có đường sông nào khác, thì cũng có thể theo sông Dương Tử mà đi không được sao? Dượng Đế đáp: - Như thế thì quá xa, mà cũng không có đường thông đâu? Tiêu Hậu lại gợi ý: - Bệ hạ chẳng nên nhất quyết đến thế. Ngày mai hãy vời các quan bàn bạc xem sao. Biết đâu có đường thủy nào đó mà chưa biết thì sao. Giờ thì hãy cứ uống rượu đi đã, việc gì mà mua sầu chuốc não vội. Dượng Đế liền kéo tay Tiêu Hậu, ba người lại ra trước sân ngồi uống rượu. Người này một chén, người kia một chén, uống cho đến khi lên đèn, Lý phu nhân đứng dậy, xin phép Dượng Đế và Tiêu Hậu về viện. Dượng Đế không đáp, chỉ quay lại nhìn Tiêu Hậu. Tiêu Hậu biết ý Dượng Đế, lại thêm tính tình Lý phu nhân vốn hiền lành, ngày thường vẫn thường luôn tới cung thăm hỏi vì vậy được Tiêu Hậu đối xử rất thân thiết, nên Tiêu Hậu bèn giữ lại: - Phu nhân chứ có phải ai khác đâu, hãy ở lại với ta đêm nay, có gì phải nghi ngại. Phương chi bệ hạ cũng có ở đây, không để phu nhân phải lạnh lùng đâu? Dượng Đế cười đáp: - Hoàng hậu có chỗ không rõ, Lý phu nhân mấy hôm nay trong người không được khỏe, trẫm phải đưa tới đây để khuây khỏa ít nhiều. Tiêu Hậu liền cười: - Người không được khỏe, cũng chẳng có gì dáng ngại cả. Cứ ở lại đây chờ chốc nữa hoàng hôn xuống, ta sẽ nói với bệ hạ cho một lá bùa, nhất định sáng mai tinh thần sảng khoái hơn ngay thôi mà! Lý phu nhân chỉ đành bưng miệng mà cười, lại thấy Tiêu Hậu ân cần, uống thêm mấy chén rượu, rồi cùng Dượng Đế, Tiêu Hậu vào cung nghỉ ngơi. Đuốc hoa hai ngọn nhà vàng Đồng tâm kết giải, buộc ràng đuốc hoa. Ngày hôm sau, Dượng Đế thiết triều, quần thần cũng bàn bạc, tìm đường thủy thông thẳng tới Quảng Lăng, để vua tuần du. Quần thần đều tâu: - Đường bộ đã có, chúng thần chưa từng nghe có đường thủy nào có thể thông thương được? Dượng Đế cứ nhất định bắt quần thần phải nghĩ cách đào một con sông đào. Các quan mặt ngẩn nhìn nhau, không biết thưa bẩm thế nào, ai nấy bàn cãi một hồi, rồi đành tâu lưỡng lự: - Chúng thần ngu muội. Xin bệ hạ hãy khoan khoan, để chúng thần còn bàn bạc với các bộ, các châu quận xem sao, rồi sẽ xin tâu trình chu đáo.

Dượng Đế bằng lòng, truyền chỉ bãi chầu, quay vào hậu cung. Chính là :

Sằng này tiếp bậy kia

Dục vọng ôm kè kè

Non sông dù như đá

Cũng phải tan tành cả!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro