Tùy Đường Diễn Nghĩa 31 -4 0

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chữ Nhân Hoạch

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình

Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Ba Mươi Mốt

Tiết Dã Nhi múa kiếm góp tiệc vui,

Chúng phu nhân đề thơ mong sủng ái.

Từ rằng:

Oanh vẫn chưa già, chào én mới

Cuộc vui chung rượu ngọt chuyền tay

Múa gươm trỗ hết sắc tài

Ghẹo người khéo dướn đôi ngài cong cong

Trên tờ gấm đặt dòng chọn chữ

Câu vắn dài phượng múa nên thơ

Nhún nhường dè dặt đợi chờ

Vơi đầy hãy cạn, thẫn thờ mà chi

Tình sâu thiên tải nhất nhì...

Theo điệu "Ngọc thụ hậu đình hoa"

Từ xưa thơ từ, tuy là tả tình gợi hứng, nhưng cũng phải biết đủ khai thừa chuyển hợp, chứ không thể nào viết dây cà ra dây muống, dập dập xóa xóa cho được. Tác giả ngày nay, từ cho đẹp, ý cho mới, tứ cho khác thường, mà chẳng để ý gì đến cốt khí bên trong, chẳng đếm xỉa đến luật chung. Cũng chẳng khác gì cô gái cậy trời ban cho ít nhiều tài sắc, nhưng số mệnh chẳng may gặp phải kẻ hoang toàng, đến nỗi tâm thần bấn loạn, việc không đáng làm lại làm, việc đáng làm lại không làm.

***

Lại tiếp chuyện Dượng Đế cùng chúng thần bàn luận về việc sông nước chưa ngã ngũ, Dượng Đế lúc vào hậu cung. Tiêu Hậu ra đón hỏi:

- Bệ hạ cùng bá quan bàn về chuyện đường thủy thế nào rồi?

Dượng Đế đáp:

- Chúng thần bàn bạc hồi lâu, chẳng thấy có đường thủy nào có thể đi được. Sau đó đành phải xem xét lại, có lẽ cũng khó mà có được đâu!

Tiêu Hậu khuyên:

- Cứ để cho bá quan bàn luận xem, may ra có đường nào chăng, sau đó hãy hay. Bệ hạ chả cần phải lo những việc chưa tới, mà quên mất cả những việc trước mắt.

Dượng Đế hỏi:

- Sao không thấy Lý phu nhân đâu cả?

Tiêu Hậu đáp:

- Phu nhân nghĩ đến đề thơ, lại sợ các phu nhân khác đến tìm, thấy đang ở đây, có chỗ không tiện, nên đợi bệ hạ không được vội trở về viện rồi.

Thấy Tiêu Hậu nói thế. Dượng Đế bèn rủ:

- Sao đến bây giờ vẫn không thấy các phu nhân đem thơ đến trình. Hay hoàng hậu cùng đi với trẫm đến Tây Uyển hỏi xem sao?

Tiêu Hậu thưa:

- Thế cũng được! Hôm vừa rồi viện Ỷ Âm cho người đến nói hoa liễu nở mười phần tươi đẹp, mời thiếp đến thưởng ngoạn, nhưng vì hai ngày nay không lúc nào rỗi, nên chưa đi được. Hôm nay tiết trời ấm áp, sao bệ hạ không cùng tới đó cho vui?

Dượng Đế cười đáp:

- Hoàng hậu cũng nghĩ đến chuyện tiêu khiển sao?

Tiêu Hậu đáp:

- Thiếp vốn phận đàn bà, thì cũng tiêu khiển đến thế, làm sao mà theo kịp bệ hạ, chạy đông ngó tây, thật trăm phần khoái lạc cho được!

Dượng Đế đáp:

- Hoàng hậu mà nói thế, trẫm sẽ không đi đâu nữa, chỉ ngồi đây gối kề gối, nói chuyện tâm tình với hoàng hậu thôi, có nên chăng?

Tiêu Hậu khẽ cười:

- Thiếp chỉ mới đùa thế thôi. Chưa gì bệ hạ đã nghĩ là nói thật.

Vừa nói, Tiêu Hậu vừa kéo tay Dượng Đế ra khỏi cửa cung, quay lại gọi Bảo Nhi cùng các mỹ nhân tới viện Ỷ Âm hầu Dượng Đế.

Tiêu Hậu cùng Dượng Đế lên xe rồng đến viện Ỷ Âm. Hạ phu nhân ra đón. Dượng Đế hỏi:

- Hôm qua các phu nhân làm thơ ra sao mà không thấy đưa trình trẫm xem?

Hạ phu nhân chào Tiêu Hậu xong bèn thưa:

- Thơ chưa làm xong, thấy chúa thượng về cung, chúng thiếp cũng bỏ về cả.

Dượng Đế cười:

- Các khanh to gan thật. Thấy trẫm về cung, thế là thánh chỉ chẳng ai nghe nữa!

Hạ phu nhân cười thưa:

- Thơ phần lớn đã làm cả, đều đã nạp cho Tần phu nhân ở viện Thanh Tu, Tần phu nhân sẽ trình chúa thượng.

Rồi quay lại hỏi Tiêu Hậu:

- Hôm trước sai người sang mời hoàng hậu, sao mãi hôm nay mới được hoàng hậu giáng lâm.

Tiêu Hậu đáp:

- Được phu nhân có lời mời, cũng luôn nghĩ đến, nhưng nhiều chuyện quá, xuân chưa đi mà bệnh đã tới, thấy trong người vừa mệt vừa nhác. May bệ hạ rủ, nên mới cùng tới vậy!

Chuyện trò một hồi, dạo quanh ngắm nghía trước sau, chỉ thấy oanh hót hoa rụng, trời ấm áp, gió nhè nhẹ, giữa tiết xuân hết hạ về quang cảnh thật đáng yêu.

Chính là:

Loáng thoáng lá hoa, xem chẳng hết

Lẳng lơ trăng gió ý sao đây?

Dượng Đế nhìn ngắm một hồi, trong lòng khoan khoái, nói với Tiêu Hậu:

- May được hoàng hậu cùng thưởng ngoạn, nếu không phong cảnh tươi đẹp dường này, đành bỏ phí cả.

Hạ phu nhân vội bày tiệc rượu, Dượng Đế uống luôn mấy chén, bỗng hỏi:

- Bọn Bảo Nhi đâu, sao không thấy tới?

Mọi người vội sai đi gọi, thì chẳng thấy ở trong viện, tìm kiếm một hồi lâu, chạy dông chạy tây, Dượng Đế thấy có vẻ nhốn nháo khác thường, bèn phán:

- Chỉ có một con bé con, trốn ở đâu, sao bây giờ chưa thấy, thế là thế nào?

Mọi người thấy không thể nào giấu được, đành phải đẩy Bảo Nhi ra, Bảo Nhi quỳ thưa:

- Chúng thiếp trên núi viện Nhân Trí, xem múa kiếm, không ngờ chúa thượng cùng hoàng hậu gọi đến, không kịp về hầu hạ. Tội thật đáng chết vạn lần.

Dượng Đế hỏi:

- Ai múa kiếm mà xem?

Bảo Nhi thưa:

- Dạ, Tiết Dã Nhi!

Dượng Đế phán:

- Lâu nay trẫm có nghe Dã Nhi múa kiếm bao giờ đâu. Hay là các ngươi nói bậy?

Tiêu Hậu xen vào:

- Bậy hay không, có gì là khó thấy, chỉ cần gọi Dã Nhi lại, thì rõ ngay đầu đuôi.

Dượng Đế gật đầu, cho phép bọn mỹ nhân đứng dậy, rồi sai nội thị đi gọi Dã Nhi. Chẳng bao lâu, đã thấy Dã Nhi tới. Cách trang phục ra sao, nhìn ra chỉ thấy:

Khoác một tấm áo hồng phơn phớt

Thoáng xem như nắng sớm mong manh

Dải là loáng thoáng trắng xanh

Phải chăng nước biếc Bồng Doanh cắt thành . .

Tóc mây mấy búi hữu tình

Hai vòng ngọc bích lung linh tai ngoài

Xuyên vàng đỏng đảnh cánh loan bay

Phượng múa muôn màu một sợi dây

Trong toát hoa lê vung cánh ngọc

Xanh rờn dương liễu uốn mày mây

Không chút bụi trần, ắt hẳn vườn tiên sa xuống vậy

Có dư hào hiệp, nào ngờ cõi tục hiện về đây.

Dượng Đế thấy Dã Nhi, bèn hỏi:

- Ngươi cũng là một con bé con, nếu biết múa kiếm, sao không múa cho trẫm xem, mà lại múa ở đâu đâu để đến nỗi huyên náo cả vườn cấm?

Dã Nhi thưa:

- Múa kiếm vốn không phải phận sự bọn thiếp. Chẳng qua bị chúng mỹ nhân nài ép mãi, nên cũng múa may ít nhiều, chẳng có gì là đẹp. Đâu dám múa trước mặt chúa thượng cùng hoàng hậu khoe khoang cho được.

Dượng Đế cười:

- Người đẹp múa kiếm, chính là một cảnh rất tuyệt vời đáng xem, làm sao lại nói không phải phận sự. Hãy ban cho Dã Nhi một chén rượu, rồi múa một hồi cho trẫm xem ra sao.

Dã Nhi không dám chối, uống rượu xong, cầm hai thanh bảo kiếm, xuống phía dưới thềm vén áo, cũng không xăn tay, nhẹ nhàng khéo léo vung những đường kiếm đầu tiên. Ban đầu hãy còn phân biệt được đường qua đường tới, còn nhận ra hình dáng uyển chuyển, yểu điệu một cách mỹ nhân chẳng khác gì con chuồn chuồn đỏ xinh xắn bay chập chờn trên mặt nước xanh như con chim én bay vút trong đám hoa lá, càng rõ thêm vẻ đẹp của bậc thuyền quyên. Càng về sau đường kiếm càng nhanh hơn không thấy lưỡi kiếm đâu nữa, chỉ thấy loang loáng hai con rồng trắng quấn lên lượn xuống. Múa đến chỗ tuyệt diệu nhất thì kiếm cũng chẳng thấy, người cũng chẳng thấy, chỉ nghe thấy tiếng gió rít mạnh lạnh người, hào quang rực sáng, như mưa tuyết ngày đông. Dượng Đế cùng Tiêu Hậu nhìn xuống, mặt mày đều hớn hở, ngạc nhiên, vỗ tay khen giỏi.

Dã Nhi múa một hồi, rồi như dòng nước cuộn trào, tuôn về góc sân phía đông nam, Dượng Đế ngạc nhiên, đứng hẳn lên nhìn theo. Bỗng nghe rầm một tiếng, cây táo to đã bị chém ngã ngay góc sân, cả bọn từ nội giám cho đến phu nhân đều vội chạy vào viện tránh. Dã Nhi nhảy múa như một cái bóng, thu đôi kiếm lại, khác gì hoa tuyết thu về một mối, thôi bay phơi phới trời xuân, lại trở về hình dáng xinh đẹp như trước, nhẹ nhàng bước lại trước thềm, đặt hai thanh bảo kiếm xuống, hơi thở vẫn đều đặn, mặt cũng chẳng hồng hơn, mái tóc một sợi cũng chẳng rối loạn, Dưới thềm một hạt bụi cũng chẳng thấy dính chân. Xiêm y vẫn gọn gàng như cũ, mặt mày thật tươi tỉnh đáng yêu. Dượng Đế không ngăn nổi vui mừng, đập bàn mà tán thưởng:

- Kỳ tài thay Dã Nhi! Khiến cho người xem thích muốn chết được!

Liền gọi Dã Nhi tới bên, vuốt ve làn da thơm nức mùi hương phấn, chẳng khác gì bạch ngọc một màu, thật muôn phần đáng yêu. Trong lòng vô cùng thích thú, Dượng Đế nói với Tiêu Hậu:

- Trông dáng điệu của Dã Nhi, thật là đáng bậc anh hùng tài nữ, chẳng phải tiên phong đạo cốt thì không thể nào được thế. Nếu không có hôm nay, thì trẫm lại mắc một lỗi lầm nữa.

Tiêu Hậu thưa:

- Đúng là chưa muộn đâu. Đến thần thiếp xem mà còn hết lòng thán phục nữa là.

Dượng Đế nghe thế cả cười.

Chính là:

Diệu kỳ khó định giả hay chân

Đường kiếm tinh đến mức nhập thần

Thoát tục hãy xem người ngọc múa

Hoa lê đầy viện sạch hơi trần.

Dượng Đế trở lại chỗ ngồi, Tiêu Hậu nói:

- Hôm nay vui vẻ thế này, nên phải uống nhiều hơn hôm qua. Tất cả đều là ơn huệ của Hạ phu nhân cả đây thôi.

Hạ phu nhân thưa:

- Thiếp thì có công lao gì. May có Dã Nhi múa kiếm làm cuộc vui thêm rộn ràng. Vì vậy chúa thượng cùng hoàng hậu nên uống một chén lớn. Dã Nhi cũng đáng được đứng ra hầu một chén.

Dượng Đế cười:

- Thế thì làm sao chủ nhân không uống cho được?

Hạ phu nhân đáp:

- Thiếp cũng xin uống hầu một chén.

Giữa lúc đang rót, cung nữ vào quỳ thưa:

- Trình chúa thượng, chúng phu nhân đang vào!

Hạ phu nhân thấy, vội vàng chạy ra đón. Cả mười sáu vị phu nhân, thế là không thiếu người nào, lần lượt tiến lên chào Dượng Đế và Tiêu Hậu, sau đó thăm hỏi Hạ phu nhân vài câu. Chủ nhân sai cung nữ dọn lại bàn rượu, tất cả ngồi vào chỗ.

Dượng Đế cười nói:

- Các khanh sao mãi giờ mới tới gặp trẫm. Không sợ chủ khảo cuộc thi thơ phạt hay sao. Trước tiên hãy phạt mỗi khanh ba chén, sau đó hãy đem thơ ra trình.

Hạ phu nhân thưa:

- Chủ khảo hôm nay thì không phải là bệ hạ nữa đâu, mà là hoàng hậu kia. Bệ hạ chỉ nên làm phó chủ khảo.

Dượng Đế hỏi:

- Như thế là tại sao?

Định phu nhân thưa:

- Chủ nhân của chúng thiếp trong tường vách hậu cung chính là hoàng hậu. Bệ hạ lý ra là nên theo phép "hồi tỵ" (1), thì mới tránh được sự hiềm nghi.

Tiêu Hậu đáp:

- Kinh Dịch hay kinh Mỹ nhân thì đều chủ ở chỗ bồi đắp nhân tài cả thôi.

Dượng Đế cũng cười:

- Hoàng hậu từ lâu đã thuộc thơ "Quan thư" của Kinh Thị, vốn rất am hiểu lời dạy của các kinh sách.

Tiêu Hậu cười đáp:

- Không bằng được bệ hạ chuyên chỉ có kinh "Xuân Thu". (2)

1 Hồi tỵ: quay lại để tránh. Ngày xưa những người đi coi thi, chấm thi, nếu đến nơi có người nhà, học trò mình thì phải làm giấy, xin "hồi tỵ" để tránh chuyện gian lận.

2 Kinh "Xuân Thu": một trong ngũ kinh, bốn kinh kia là Thi, Thư, Lễ, Dịch. Ở đây Tiêu Hậu dùng chữ "Xuân Thu" theo nghĩa nữ sắc, xuân lan thu cúc, để đùa chọc.

Cả bọn từ phu nhân đến mỹ nhân đều cười rũ rượi một loạt.

Tần phu nhân lấy ở trong tay cung nữ một tập thơ, từ, dâng lên Dượng Đế. Dượng Đế giở tờ đầu tiên ra xem thấy ghi: "Thần thiếp Khương Quế ở viện Nhân Trí kính trình ngự lãm". Phía dưới là con dấu vuông nhỏ in ba chữ "Nguyệt Tiên thị". Dượng Đế thấy thế nhìn Khương phu nhân cười:

- Nếu bàn cho ra nhẽ, thì nên lấy tuổi mà xếp thứ tự. Khanh là ít tuổi nhất, vì sao lại được đặt lên trên cùng?

Khương phu nhân thưa:

- Hôm qua cũng vì Dương phu nhân cùng Chu phu nhân nói rằng ai xong trước thì xếp trước, không việc gì phải câu nệ. Thiếp vì trong lòng chẳng có chữ nghĩa gì, chẳng có vốn đâu mà nghĩ ngợi, nên làm xong trước vậy, không thể nào so với các phu nhân khác, bụng đầy các thứ; phải nghiền ngẫm rất kỹ lưỡng.

Nói chưa dứt, thì Tần phu nhân đáp:

- Chúng tôi bị Khương phu nhân đem ra trêu chọc còn được. Còn tại sao Phu nhân lại nỡ đùa cả Sa phu nhân nữa sao?

Khương phu nhân hỏi:

- Đâu dám trêu chọc Sa phu nhân?

Tần phu nhân đáp:

- Phu nhân nói "bụng đầy các thứ", không là nói tới Sa phu nhân sao?

Khương phu nhân bèn nói:

- Thật quả không biết. Xin Sa phu nhân tha tội.

Tiêu Hậu nghe nói thế, vội vàng hỏi:

- Cứ như các phu nhân bàn cãi, thì quả là Sa phu nhân có tin mừng thật sao? Đó chính là điềm linh thiêng của chín miếu, là phúc lớn của chúa thượng đây vậy!

Dượng Đế chưa biết nói sao, chỉ giương mắt nhìn Sa phu nhân, hai má đỏ hồng như hai đám hồng vân, hiện trên nền trời biếc, cúi đầu không nói. Dượng Đế vẫn chưa hiểu rõ, ghé vào tai Lương phu nhân hỏi nhỏ:

- Phu nhân vốn nổi tiếng thật thà, hãy nói cho trẫm hay, Sa phu nhân có tin mừng, là chuyện gì vậy?

Lương phu nhân giơ ba ngón tay cạnh bàn, khẽ thưa:

- Đã có ba tháng nay rồi?

Dượng Đế thấy nói thế, cả mừng:

- Hay lắm, hay lắm! Mau đem rượu ngon ra đây rót cho trẫm ba chén lớn. Hoàng hậu cũng nên uống ba chén nữa.

Dương phu nhân thưa:

- Điều này đều nhờ đức hóa của hoàng hậu mà ra, khiến cho chúng thiếp cũng dược thấm nhuần ơn sâu. Ba chén làm sao báo đáp được ơn hoàng hậu. Còn chúa thượng thì có công lao gì ở đây, mà cũng uống ba chén.

Dượng Đế cười đáp:

- Dẫu chẳng có công gì lớn lao, nhưng trẫm vẫn có ít nhiều khó nhọc chứ? Tất cả các khanh, nhất loạt đều phải uống đủ ba chén lớn vậy.

Rồi cười, nói riêng với Sa phu nhân:

- Phu nhân thì chỉ nên uống một chén là đủ.

Giả phu nhân vội hỏi:

- Bệ hạ lại không công bằng rồi. Vừa mới nói tất cả đều phải uống ba chén, vì sao Sa phu nhân lại chỉ uống một chén thôi?

Giang phu nhân tiếp:

- Chốc nữa xem thơ, từ, nếu bệ hạ cũng không công bằng nữa, phải xin hoàng hậu xem lại cho.

Dượng Đế vừa cười vừa uống rượu, vừa xem thơ của Khương phu nhân, thì thấy có một bài tuyệt cú:

Sáu cung mây tóc dám đua chen

Đừng để thiên nhan một chút nhàn

Hết múa lại ca luôn một khúc

Ấy rằng thượng giới, ấy nhân gian?

Dượng Đế cười phán:

- Khương phu nhân lâu nay chưa từng ngâm vịnh, nay mới thấy xuất hiện, mà cũng không đến nỗi nào!

Lại xem đến tờ tiếp theo, trên thấy đề: "Viện Ảnh Văn, thần thiếp Tạ Sơ Ngạc" phía dưới ấn đóng có ba chữ: "Thiên Nhiên thị".

Cũng có một bài tuyệt cú:

Chiều tà trang điểm một chồi hoa

Cánh biếc xe rồng vội lướt ra

Đêm vắng lầu ai làn điệu mới

Ngập ngừng tay lựa khúc tì bà.

Dượng Đế nói với Tạ phu nhân:

- Trong thơ lâu nay có thể tỷ, thể hứng, chẳng qua chỉ là mượn đề để ngụ ý mình cả. Khanh trái lại nói rất thực. Hôm vừa rồi, trẫm nghĩ lại ở viện Thanh Tu, cách tường mà vẫn nghe bên viện Ảnh Văn, Tạ phu nhân đàn tì bà, thật như vừa oán vừa như sầu, như khóc như than. Khiến cho người nghe không tài nào ngủ được. Nay bài thơ này cũng như vẽ lại cảnh tình ấy vậy.

Tiêu Hậu thưa:

- Nếu hay đến như vậy, xin được có dịp thỉnh giáo Tạ phu nhân.

Dượng Đế xem tiếp tờ sau: "Viện Thúy Hoa thần thiếp Hoa Thư Hà", chữ trên ấn là: "Tự Ban Hồng". Có một bài từ, Dượng Đế đọc to để mọi người cùng được nghe:

Giấc mộng bên song hỏi tỉnh say

Nỗi lòng não nuột, một hay hai

Gốc hoa nhặt được chiếc thoa cài

Ngồi lựa thềm mai

Trèo bực thềm mai

Ngân Hà trước mắt ngỡ Thiên Thai

Nào phải mây dày

Mà hóa gió bay

Cầu ô nhịp nhịp ai bày

Rằng chúa thượng xui

Hay tiện thiếp xui.

Theo điệu "Nhất tiễn mai"

Dượng Đế đọc xong, Tiêu Hậu hỏi:

- Bài này của ai? Đọc nghe cũng thú vị đấy!

Dượng Đế đáp:

- Của Hoa phu nhân đấy?

Tiêu Hậu cười:

- Chỉ sợ Hoa phu nhân đêm nay không trở dậy nổi.

Dượng Đế đáp:

- Từ cú hoa mỹ, duyên dáng, tả dược cái hình sâu sắc của người đẹp.

Hoa phu nhân thưa:

- Cũng cốt chỉ làm cho đủ bài bản, nào có tình gì đâu, mong bệ hạ bỏ qua cho.

Phàn phu nhân cũng thưa:

- Hoa phu nhân quá khiêm nhường. Xin bệ hạ hãy phạt một chén rượu.

Dượng Đế gật đầu, lại xem tiếp tờ sau: "Viện Hòa Minh, thần thiếp Giang Đào". Dấu in là: "Kinh Ba thị". Lại có hai bài tuyệt cú:

Bài một:

Một tắt Dương Châu ba tháng xuân

Cầu bên năm nhịp cỏ lăn tăn

Quân vương dù hỏi đâu nhà thiếp

Xin chỉ Quỳnh Hoa xóm cũng gần.

Bài hai:

Điểm phấn tô son sớm đã xong

Trưa về nghe vẹt nói trong lồng

Quân vương dù hỏi đêm mưa gió

Thẹn dấu bên hoa hài mũi cong.

Dượng Đế đọc xong, lại phán:

- Hai bài thơ này tình đẹp lời hay. Nhưng lòng nhớ quê, nhớ nhà có vẻ quá thiết tha chăng?

Tiêu Hậu sai cung nhân lấy ba chén lớn đến:

- Xin mời bệ hạ uống ba chén này!

Dượng Đế hỏi:

- Hoàng hậu vì cớ gì mà phạt trẫm?

Tiêu Hậu đáp:

- Bệ hạ phán xét về bài thơ này không đúng vì vậy phải phạt chứ sao?

Dượng Đế hỏi:

- Hoàng hậu bảo chỗ nào không đúng?

Tiêu Hậu đáp:

- Chỉ cần nói ra là bệ hạ thấy ngay thôi mà. Xin các phu nhân hãy lại đây mà xem.

Các phu nhân thấy nói thế, nhất tề kéo lại sau lưng Tiêu Hậu.

Tiêu Hậu chỉ vào bài thơ của Giang phu nhân mà nói:

- Hai bài thơ này là thuộc thể hứng, thể tỷ. Bài đầu, là Giang phu nhân mượn lòng nhớ quê hương để thể hiện nỗi lòng mình với quân vương, chứ thực ra đâu có phải là để nói nỗi nhớ nhà, mà chính là để nói về đức vua vậy. Bài thứ hai, từ cú cũng theo như bài đầu vậy thôi, thế thì không phải là bình không đúng là gì nữa.

Dượng Đế cười ha hả:

- Trẫm sao lại không biết tới chuyện này. Chẳng qua vì hoàng hậu cùng các phu nhân đều ở trước mặt, thật khó nói ra ý Giang phu nhân nghĩ đến trẫm. Người xem thơ đành phái nói khác ý thơ đi vậy!

Chu phu nhân nói:

- May mà có hoàng hậu sáng suốt chỉ ra được ý này của bài thơ. Nếu không chị em ta đã bị bệ hạ lừa cả rồi còn gì!

Dượng Đế phán:

- Trẫm xin rót một chén mừng hoàng hậu, vì đã có công sửa lỗi cho trẫm trở về đường chính. Còn một chén thì xin nhường Chu phu nhân đã có lời bình xác đáng. Một chén nữa trẫm xin tự uống.

Chu phu nhân cười thưa:

- Thế là nói ra thì chẳng được gì lại còn bị phạt rượu. Tại sao Giang phu nhân không uống?

Tiêu Hậu nói:

- Ba chén này của bệ hạ, hãy cùng nhau uống đỡ hai chén. Còn một thì tự bệ hạ uống vậy. Thế là công bằng.

Các phu nhân rót ra cùng uống, Dượng Đế cũng uống chén phần mình. Rồi lại xem tiếp tờ dưới: "Viên Văn An, thần thiếp Địch Huyền Nhụy". Con dấu có ba chữ: "Tự Đình Chân". Lại cũng một bài từ như Hoa phu nhân, theo điệu: "Vu Sơn nhất đoạn vân":

Mưa sao nhuần khắp núi non

Mây sao bóng mát đầu nguồn âm u?

Hoa xuân cỏ nhuốm màu thu

Dao Trì hồng biếc rộng nhờ ơn trên

Dây đàn khẽ động tay tiên

Nồng hương ngự đã nghiêng nghiêng nhẹ sầu.

Dượng Đế đọc xong, khen:

- Hay lắm! Buồn mà không thương, vui mà không lâm, học được chính thể của từ khúc vậy.

Tiêu Hậu cười:

- Khúc này thì người khác chẳng làm được đâu. Hay hơn cả là câu cuối cùng. Bệ hạ đáng uống một chén lớn để mừng vậy!

Dượng Đế cũng phụ họa:

- Đáng uống lắm, mau rót ra đây!

Xem tiếp, thấy đề: "Viện Thu Thanh, thần thiếp Ấn Hoa, kính trình ngự lâm". Con dấu in rõ: "Tiểu tự Nam Kha", bốn chữ bài tuyệt cú sau đây:

Đình viện non trưa tỉnh giấc oanh

Bờ ao những biếng hái tần xanh

Ơn riêng quyến luyến hầu quên lễ

Trong mộng mấy lần miệng gọi "Khanh".

Dượng Đế cũng khen:

- Hay lắm? Văn là người vậy. Tình ý thật tự nhiên.

Tiêu Hậu đùa:

- Nếu có thêm vài tiếng "Khanh" nữa thì bệ hạ còn khen hơn nữa kia!

La phu nhân cũng cười:

- Tiếng gọi hay đến thế sao, sao Tiết phu nhân không rót mời chúa thượng một chén?

Tiết phu nhân mặt thẹn đỏ bừng, đành gượng đứng lên, Dượng Đế trông thấy, vội ngăn:

- Khanh cứ ngồi xuống. Không cần phải nghe lời La phu nhân xúi đâu!

Lại tiếp lần này là: "Viện Tích Chân, thần thiếp Phần Quyên", con dấu là: "Tố Vân thị" cũng là một bài tuyệt cú:

Trong thơ mơ mộng ơn mưa móc

"Phú Trường Môn " không nhọc Tương Như (1)

Tắm xong được lệnh vua chờ

Áo xiêm xoa vuốt cho mờ nếp nhăn.

1 Tư Mã Tương Như, nhà văn nổi tiếng thời Hán, làm giúp cho một cung phi bị vua ghét bỏ, bài "Trường Môn phú". Vua đọc, lại yêu người cung nữ như xưa! (Từ Hải).

Dượng Đế phán:

- Tình thì sâu sắc mà ý thì mặn mà, đúng là thơ của bậc giai nhân.

Giở tiếp trang khác, trên giấy ghi: "Viện Giáng Dương, thần thiếp Gia Tế Trinh, cẩn trình ngự lãm". Con dấu có ba chữ: "Tự Lâm Vân", phía dưới là hai bài tuyệt cú.

Bài một:

Chất ngọc trắng trong chẳng bợn màu

Hương đưa thoang thoảng lạ quen nào

Tiêu Tương một giấc say rồi tỉnh

Sáng cả lan can vạt tố bào.

Bài hai:

Tương tư bài họa nghĩ rằng cao

Từ thuở thừa ân tình đã sâu

Chợt nhớ mơ màng ban xuyến ngọc

Cầu vồng rạng rỡ ánh muôn sao!

Dượng Đế khẽ cười khen:

- Chẳng cần thoa son dồi phấn, đúng là vẻ đẹp của thiên nhiên, cho nên dẫu có xù xì một chút nhưng vẫn đẹp vẫn xinh.

Bỗng thấy các phu nhân khúc khích cười, Dượng Đế hỏi:

- Các khanh cười cái gì nào?

Khương phu nhân thưa:

- Chúng thiếp cười chuyện hôm qua.

Mới nói xong, vội yên lặng một lát, rồi lại tiếp:

- Thiếp không nói nữa. Vừa rồi vì có chuyện Sa phu nhân, sao nay lại còn dại mồm dại miệng thế không biết!

Dượng Đế dọa:

- Khanh không nói, trẫm sẽ phạt tiếp ba chén.

Hoa phu nhân thưa:

- Khương phu nhân không uống được nữa đâu, xin để thiếp nói thì hơn. Hôm qua, Giả phu nhân làm thơ, một hồi lâu mới nháp xong, vừa đọc vừa lắc lắc đầu, rồi vo viên tờ giấy lại nuốt kỳ hết, như thế đến ba lần, nuốt đúng ba viên giấy tròn, về sau thấy bệ hạ đi khỏi, mới nhờ Chu phu nhân cùng Dương phu nhân viết hộ cho, hai phu nhân đều không chịu. Giả phu nhân tức giận nói rằng: "Cầu người không bằng cậy mình. Chúa thượng biết ta mới tập tành nghiên bút, chẳng may có đánh mấy phát thối ra đó, chỉ mong chúa thượng không lôi ra đánh là may rồi". Nay chúng thiếp thấy bệ hạ khen thơ của Giả phu nhân, vì vậy mà ai nấy đều cười.

Tiết phu nhân vẫn còn cười thưa:

- May mà nhờ mấy viên tròn tròn, mới có đủ mấy phát thối đó!

Dượng Đế thấy Giả phu nhân có vẻ hơi giận, bèn phạt Khương phu nhân, Hoa phu nhân, rồi Tiết phu nhân, mỗi người một chén rượu. Rồi giở nhanh sang tờ khác: "Viện Ỷ Âm thần thiếp Hạ Lục

Dao, cẩn trình ngự lãm". Lại thấy một bài từ nữa, bên dưới con dấu có ba chữ "Quỳnh Quỳnh thị".

Tây Hồ đượm khí xuân

Cao cao treo gương nguyệt

Tiếng sênh rộn đất

Đèn nến sáng trời

Quân vương về đó rượu mời ra sao?

Cỏ hoa run rẩy thì thào

Quên đem mực nhạt tô vào mày xanh

Hương lòng xin thắp một cành

Loan nghiêng phượng ngửa dám tranh dám nài

Lòng nhân Nghiêu Thuấn không sai

Thương cung nhân Hán một đời quạnh hiu.(1)

1 Không thấy nói theo điệu từ gì cả!

Dượng Đế khen:

- Từ sắc vận cho tới tính tình, như đang nhảy nhót trên giấy vậy.

Tiêu Hậu lại cười:

- Chẳng cần phải nói vừa có tình, vừa có chí, lại làm bệ hạ đêm nay phải một phen khổ sỡ.

Hạ phu nhân thưa:

- Có hoàng hậu giáng lâm, nên mới có nhiều may mắn thế, nếu không ai dám đưa những chuyện này ra với bệ hạ được.

Dượng Đế đọc tờ sau: "Viện Nghênh Huy, thần thiếp La Tiểu Ngọc, cẩn trình", dấu là ba chữ: "Bội thanh thị", rồi hai bài tuyệt cú.

Bài một:

Quanh đền rực rỡ sắc trăm hoa

Phú quý nhà ai dám đọ mà?

Phong cảnh vườn quỳnh xem lộng lẫy

Đường tơ ăn đứt khúc tỳ bà.

Bài hai:

Lơi lả tân trang nhác điểm tô

Gập ghềnh cao thấp núi đồi phô

Đừng khoe thược dược nhà Diêu Ngụy

Nhường để hoa ta báo đức vua.

Tiêu Hậu thấy Dượng Đế đã đọc xong, bèn nói:

- Hai bài này tài tình đủ vẻ, lại được nết khiêm nhường. Bệ hạ thấy có đúng không?

Dượng Đế đáp:

- Hoàng hậu bình giá không sai!

Rồi giở sang tờ khác: "Viện Thanh Tu, thần thiếp Tần Mỹ", con dấu là "Lệ Nga thị" có một bài tuyệt cú như sau:

Cung cấm xuân tàn mưa móc nhiều

Muôn hồng ngàn trắng, biếc xen điều

Chẳng hay hoa lá ai mơn trớn

Mà gió đông về như nhát dao!

Dượng Đế gật gật đầu, giở qua tờ khác: "Viện Minh Hà, thần thiếp Dương Dục". Dấu cũng rõ ba chữ: "Phiên Phiên thị", cũng có một bài tuyệt cú:

Thơ ngây được hưởng ơn dày

Gió xuân vơ hết vào tay thơm lừng

Ngẫm mình thiếp có bao lăm

Ngờ rằng hoa đã khéo nhầm quân vương.

Dượng Đế khẽ cười, xem tiếp: "Viện Thần Quang, thần thiếp Chu Hàm Hương", dấu in rõ "Tự Ấu Lan", sau đó là một bài từ theo diệu "Như mộng lệnh":

Đêm gió đông ào ào thổi

Một chồi dương mai nở vội

Rượu ngọt chuốc chén vàng

Kính chúc ngàn năm muôn tuổi

Không dối, không dối

Cùng hưởng thái bình khắp cõi.

Dượng Đế gật gật đầu, rồi xem tờ sau: "Viện Ảnh Minh, thần thiếp Lương Ngọc, cẩn trình ngự lâm", con dấu là "Huỳnh Nương thị", bên dưới ghi một bài tuyệt cú:

Lơi lả truy hoan sợ ấp yêu

Soi gương tình thấy ít hay nhiều

Màn loan ai bảo thường xu mị

Thẹn nấp sau hiên, vạt áo điều.

Dượng Đế khẽ cười, Tiêu Hậu hỏi:

- Vì sao những bài vừa rồi, bệ hạ chỉ cười một mình mà không phán gì cả?

Dượng Đế đáp:

- Hoàng hậu, hoàng hậu không biết, trong số ở sáu cung, như Dương Phiên Phiên, Chu Ấu Lan, Tần Lệ Nga, Lương Huỳnh Nương, Sa Tuyết Nga đều là bậc thi bá; chẳng khác gì quần thần làm thơ ứng chế nhưng cũng không thấy bài nào xuất sắc, chỉ là những từ ý cũ, rồi đem những chuyện đã qua mà chép vào là xong.

Các phu nhân nghe xong đều cười vui vẻ, Tiêu Hậu:

- Thì chỉ cần có thơ là xong rồi. Bệ hạ còn đòi hỏi gì nữa kia.

Dượng Đế dở tiếp, thấy: Viện Bảo Lâm, thần thiếp Sa Anh, dấu là: "Tuyết Nha thị". Sau đó là một bài ngũ ngôn bát cú.

Thuở vào cung tóc mây vừa búi

Đêm chầu hầu bối rối thẹn thò

Hoa cười oanh nói líu lo

Tình say dưới nguyệt thẫn thờ như si

Dâng một khúc hát xưa ca tụng

Hầu như quên trời sáng vừng đông

Nghìn thu tựa mạn thuyền rồng

Kìa như cây cỏ cảm lòng gió xuân.

Dượng Đế khen:

- Chính lúc nói chưa thấy một bài nào xuất sắc, thì lại có đây rồi!

Tiêu Hậu thấy nói thế, đọc lại một lần, cũng tỏ lời khen.

- Đúng là hay, vừa đoan trang trầm tĩnh, ra dáng đại gia.

Tờ tiếp theo thấy viết: "Viện Nghi Phượng, thần thiếp Lý Tiểu Hoàn". Con dấu chỉ có hai chữ "Khánh Nhi" sau là một bài tuyệt cú:

Vua ta minh thánh tựa Thuấn Nghiêu

Chẳng tháo trâm mà vẫn sớm chầu

Giảng khúc "Quan thư" nhuần giáo hóa (1)

Cánh hồng rơi đỏ mảnh hoàng bào.

1 Kinh thư: Vua thức khuya, dậy muộn, rỡ buổi chầu. Hoàng hậu tháo trâm, gỡ mũ tạ tội vì không can vua. "Quan thư là bài đầu của Kinh thi, khen hoàng hậu không ghen, rộng rãi với cung nữ.

Dượng Đế cười nói với Lý phu nhân:

- Bây giờ mới đến của khanh sao?

Tiêu Hậu cố ý hỏi Lý phu nhân:

- Có phải là mới làm đêm qua không?

Lý phu nhân thưa:

- Đêm hôm qua đề mục cũng chưa hiểu. Sáng nay may có Tần phu nhân đến sớm, phải vội vàng làm được mấy câu , chỉ sợ không đúng đề mục của bệ hạ ra.

Dượng Đế đáp:

- Nếu nói trong khuê các thôi, thì được như các phu nhân mà làm để có ngay cũng là chuyện khó. Như Sa phu nhân, luật thơ luật từ đều rất thông thuộc, bọn đàn ông, văn nhân cũng đến thế thôi. Giờ thơ từ đã xem xong rồi, chúng ta hãy uống cho say nào!

Tiêu Hậu ra lệnh tấu nhạc, thế là lời ca tiếng hát rộn chen tiếng đàn tiếng địch chén vàng lấp lánh, đĩa ngọc lung linh, người người đều vui vẻ. Tiêu Hậu nói với Hạ phu nhân:

- Nhờ hứng của chủ nhân, rượu cũng đã nhiều rồi, nên trở về cũng là hơn!

Rồi quay lại nói với Sa phu nhân:

- Phu nhân ngọc thể như vậy, cũng không nên ngồi lâu, tốt hơn cả là về trước đi!

Sa phu nhân nghe xong, liền đứng dậy. Dượng Đế giục Tiêu Hậu cùng về, Tiêu Hậu không bằng lòng nói:

- Nếu như những đêm khác thì không bàn, tùy bệ hạ thế nào cũng được. Nhưng đêm nay, là tiện thiếp làm chủ nhân, vì vậy bệ hạ nên về nghỉ ở viện Bảo Lâm, có Tiết Dã Nhi theo hầu, một chính một phó, cho đỡ lẻ loi. Không biết ý phu nhân như thế nào?

Sa phu nhân thưa:

- Thật nhờ ơn dày của hoàng hậu. Tiện thiếp đâu dám giành riêng ơn mưa móc của chúa thượng.

Chúng phu nhân nhất tề :

- Hoàng hậu cắt đặt như vậy, chúng thiếp rất phục. Sa phu nhân cũng không nên chối từ.

Tiêu Hậu lại tiếp:

- Được hay không là tùy bệ hạ. Nhường hay không nhịn là ở các phu nhân.

Dượng Đế vừa cười vừa rót một chén đầy, đưa mời Tiêu Hậu:

- Hoàng hậu hãy uống một chén này rồi hãy lên xe .

Tiêu Hậu cười :

- Thiếp thật không tài nào uống nổi nữa. Xin bệ hạ cũng uống vừa phải, để còn giữ được chân huyết khỏe mạnh thì hơn.

Nói rồi lên xe loan về cung. Các phu nhân tiễn Dượng Đế tới viện Bảo Lâm, lại sai Tiết Dã Nhi cùng đi với Sa phu nhân, rồi ai về viện ấy.

Chính là:

Vô số hoa tươi phô lộng lẫy .

Một nhành chiếm hết cả rừng xuân.

Hồi Thứ Ba Mươi Hai

Địch Khứ Tà vào hang sâu,

Hoàng Phủ Quân đánh chuột lớn.

Từ rằng:

Ngẫm thương người trần

Bị quỉ thần chòng ghẹo

Điên điên đảo đảo

Dắt dẫn theo danh giáo

Lại đem mồi chài

Dây thuyền dài

Roi ngựa ngắn

Mấy ai được thảnh thơi

Nhìn kỹ ra:

Sớm sớm gió quất tơi bời

Ngày ngày bụi vùi cay rát

Dù ai giảo hoạt anh hùng

Vực sâu ngập xuống, dây thòng lọng treo

Hám phú quý mà liều thể xác

Mộ thần tiên thuốc độc uống vô

Xương khô mà máu chẳng khô

Bừng con mắt, ủa! Rặt trò xuẩn ngu

Khuyên ai tỉnh trước mà ngừa. . .

Theo điệu "Ý nan vong"

***

Lại nói Dượng Đế về viện Bảo Lâm, qua một đêm hoan lạc với Sa phu nhân cùng Tiết Dã Nhi, sáng ra, vì nhớ tới những lời Tiêu Hậu hôm qua, nên dậy sớm rửa mặt, chải đầu rồi lên xe rồng trở về cung. Nhưng khi qua cửa cung thì đã thấy quần thần tụ họp chờ nhà vua ở dưới điện. Dượng Đế bèn bước lên điện, phán rằng:

- Các khanh bàn về chuyện đường thủy đi Quảng Lăng nay đã ra sao rồi?

Vũ Văn Thuật thưa:

- Chúng thần dã bàn bạc kỹ lưỡng với bộ Công về việc này.

Thật không có một đường nào cả. Chỉ quan gián nghị đại phu Tiêu Hoài Tĩnh, nói rằng có một đường thủy tới Quảng Lăng được. Cho nên cũng tới đây để thưa cùng bệ hạ.

Thì ra Tiêu Hoài Tĩnh chính là em của Tiêu Hậu, vốn dòng quốc cữu hiện là Thượng đại phu. Dượng Đế bèn vui mừng hỏi Hoài Tĩnh:

- Khanh biết đường thủy nào có thể đi Quảng Lăng được?

Hoài Tĩnh thưa:

- Trước kia ở phía tây bắc thành Đại Lương, hạ thần nghe nói có một đường sông, từ thời nhà Tần, đại tướng Vương Ly từng đào con sông này để lấy nước từ bến Mạnh Tân, tưới cho vùng Đại Lương. Nhưng đến nay thì sông này đã bỏ cạn. Phải tập trung dân phu, bắt đầu từ Đại Lương qua Hà âm, Trần Lưu, Ung Khâu, Thư Dương mà đào lại dòng cũ dẫn nước Mạnh Tân, cho mãi tới tiếp với sông Hoài Hà, bất quá chỉ khoảng nghìn dặm, thì có thể thẳng tới Quảng Lăng. Thần lại được nghe các quan ở Tư Thiên giám nói rằng vùng Thư Dương có vượng khí thiên tử, nay đào sông này, nhất định sẽ đi qua Thư Dương, thì vượng khí sẽ mất, địa thế hiểm trở và hậu họa cũng chẳng còn. Thần nghĩ nông cạn như vậy, không biết thánh thượng chỉ ý ra sao?

Dượng Đế vui mừng phán ngay:

- Khanh nghị luận thật sáng suốt, ngoài khanh ra có ai có thể nghĩ được những điều thuận lợi cả đôi đường như vậy!

Bèn truyền chỉ phong cho Chinh bắc đại tổng quản Ma ThúcMưu làm Khai hà đô hộ, rồi phán tiếp rằng:

- Đường sá xa xôi, công việc phiền toái, cần phải có thêm một người đắc lực giúp cho Đại tổng quản mới xong.

Lúc này Vũ Văn Thuật vẫn nghi Lý Uyên giết con út của mình là Vũ Văn Huệ Cập, muốn tước mọi binh quyền của Lý Uyên, nên thừa cơ này, tâu:

- Lưu thú Thái Nguyên Lý Uyên, vốn có tài cán, bệ hạ điều xung vào việc này. Lý Uyên có thể đỡ đần rất đắc lực những việc khó khăn cho Ma Đại tổng quản.

Dượng Đế liền điều Lý Uyên từ Lưu thú Thái Nguyên về làm Khai hà phó sứ: bắt đầu khởi công từ thành Đại Lương xuyên qua Thư Dương, đến tận Hoài Hà. Lập tức lấy ngay dân đinh, ít là mười lăm vạn, nhiều thì đến năm mươi vạn người, ai trốn tránh, tru di tam tộc. Thánh ý đã ban, chẳng ai dám cản, lập tức có sắc chỉ, đem đến tận nơi, Ma thúc Mưu cùng lý Uyên lên đường.

Nguyên lai Ma Thúc Mưu là một kẻ rất tàn ác, tham tiền tham lợi, nghe tin được thăng Khai hà đô hội trong lòng vô cùng hoan hỉ, lập tức phó nhiệm.

Lúc này vợ chồng Sài Tự Xương đang ở Ngạc Huyện, biết chuyện này báo về với Lý Uyên, khuyên Lý Uyên cáo bệnh, một mặt nên sai người đem vàng bạc về Đông Đô chạy kỳ được một kẻ thế chân, tránh bằng được họa này. Vì vậy chính Tự Xương lại một phen phải đi Đông Đô, tìm đến Lương Quốc Công Tiêu Cứ, Thiên ngưu Vũ Văn Tinh, đều là sủng thần của vua Tùy, ngày đêm ra vào cung khuyết, trong ứng ngoài hợp. Bên ngoài thì lại đến nói ngay Khai hà đô hộ, rồi cả với Trương Hành kẻ trước kia bịa sấm, mưu hại Lý Uyên chẳng qua cũng chỉ vì Thái tử, chứ vốn cũng chẳng có thù riêng với Lý Uyên, huống chi đều là bọn tiểu nhân, mắt trông thấy vàng, chuyện gì chẳng làm. Cho nên khi Lý Uyên có tờ biểu bệnh tới thì có ngay thánh chỉ bổ Tả đồn vệ tướng quân Lệnh Hồ Đạt thay cho Lý Uyên. Lý Uyên vẫn ở lại Thái Nguyên dưỡng bệnh.

Hai viên chánh phó nhận sắc chỉ, đào sông bề mặt rộng bốn mươi bộ, sâu mười lăm trượng. Lấy ba trăm sáu mươi vạn dân phu Hà Nam. Hoài Bắc, lại thêm cứ năm nhà, phải có một người già, hoặc phụ nữ đi lo chuyện cơm nước, số này cũng đã lên tới bảy mươi hai vạn người. Ngoài ra có lệnh điều vùng Hà Nam, Sơn Đông, Hoài Bắc năm vạn lính kỵ mã, để giám đốc công trình. Lúc này giữa ngày mùa bận rộn, nhưng cũng chẳng ai nghĩ đến, dù ở vùng sơn cước heo hút, dù là nơi mồ mả cha ông, hoặc thôn xóm dân cư, đều phải đào bới, không trừ nơi nào. Người đi, người ở đều nghìn vạn nỗi khổ.

Nói chuyện có một dội dân phu đang đào, bỗng thấy tường gạch của một ngôi nhà. Dân phu cứ thế đào tiếp, ngôi nhà càng ngày càng lộ rõ đến bốn năm gian, bốn chung quanh được xây bằng đá trắng, có hai cửa đá, đóng rất chặt, không tài nào mở nổi. Ai nấy cho rằng bên trong thế nào cũng có bạc vàng, châu báu gì đó, liền dùng búa, cuốc chim, chày, vồ. phá bằng được. Nhưng vẫn chẳng suy xuyển. Hồi lâu chẳng xong, mọi người mới vội báo với đội trưởng, đội trưởng lên thưa với Ma Thúc Mưu. Ma Thúc Mưu liền cùng với Lệnh Hồ Đạt tới xem. Ai nấy đều thưa:

- Đã dùng mọi cách để phá, mà vẫn không xong!

Lệnh Hồ Đạt nói :

- Đây nếu không phải là lăng tẩm một vị vua chúa xưa kia, thì cũng phải là một huyệt của tiên công, đạo gia nào đó, làm sao có thể dùng sức lực mà phá cho được. Nhất định phải thấp hương khấn vái, đọc thánh chỉ của hoàng thượng thì may ra mở được!

Ma Thúc Mưu ,cũng chẳng có cách gì hơn, đành quát tay chân bày hương án, cùng với Lệnh Hồ Đạt mặc triều phục nghiêm trang tuyên đọc thánh chỉ bái lạy đảo điên trước hương án. Bỗng một trận gió lạnh nổi lên, một tiếng nổ lớn, hai cánh cửa đá mở rộng. Ma thúc Mưu cùng mọi người tiến vào. Thấy ngay trước mặt, hàng trăm. ngọn đuốc đốt bằng nhựa sơn, vẫn cháy soi sáng như ban ngày, ở chính giữa đặt một hòm bằng đá lớn, dài đến bốn năm thước, hai đầu đều có tạc vẽ hoa văn. Thúc Mưu trông thấy vậy, đã có vẻ hoảng sợ, không dám đường đột dẫn đầu nữa, mà im lặng lui về phía sau, thì thấy phía này, có chỗ đào lũng vào phía trong như một cái động, trong động đặt một quan tài cũng bằng đá.

Thúc Mưu cùng Lệnh Hồ Đạt vội cúi lạy, rồi sai người nâng nắp quan tài lên, thì thấy một người nằm ngửa, vẻ mặt vẫn còn đầy đặn, hồng hào, chẳng khác gì người sống, khắp người da thịt trong suốt như ngọc, mái tóc đen nhánh. Từ mặt tới bụng, tới chân, đều lần lượt lộ rõ ra theo tay của bọn tả hữu. Những chiếc móng tay, chiếc nào cũng dài trên dưới một thước, Ma Thúc Mưu thấy thế, biết là di thể của một thiên thần đắc đạo, nên không dám đụng đến, bèn lệnh cho tay chân, đậy nắp quan tài lại. Rồi sai mở hòm đá ra, ở bên trong không có một thứ gì khác ngoài ba thanh đá mỏng, trên đều khắc chữ khoa đẩu (1). Chẳng ai biết đọc thứ chữ này. May ở trong núi có một vị chân tu, tuổi đã hơn trăm có thể đọc được, dịch ra như sau:

1 chữ khoa đẩu: Khoa đẩu, là con nòng nọc. Chữ khoa đẩu là một thứ chữ cổ của Trung Quốc, hình giống con nòng nọc còn được giữ lại trên mặt đá.

Ta là Đại Kim tiên

Thác đã một nghìn niên

Số đủ một nghìn niên

Sau lưng nước chảy liền

Gặp được Ma Thúc Mưu

Cải táng lên cao nguyên

Tóc xõa tới cát đen

Lạt chờ một nghìn niên

Sẽ lên miền Phật tiên.

Thúc Mưu thấy tên mình cũng được viết trên đó, kinh ngạc không thôi, càng tin đạo pháp của tiên nhân, biết được những chuyện phi thường, bàn với Lệnh Hồ Đạt, tìm một thế đất cao ráo, làm lễ di táng. Chùa Đại Phật ngày nay, chính là di tích này vậy.

Đến vùng Trần Lưu, dân phu đang đào bỗng thấy mây đen kéo đến, rồi mưa như trút, gió gào thét. Nước chảy cuồn cuộn, cuốn theo rất nhiều dân phu chạy không kịp, kẻ còn lại thất điên bát đảo mới tìm được chỗ trú. Thúc Mưu không tin, tìm đến tận nơi xem cũng bị một trận mưa gió ra trò. Phải tìm đến các bậc kỳ lão hỏi han, mới biết thổ thần của vùng này, chính là Trương Lương đời nhà Hán, rất là linh ứng. Thúc Mưu tin ngay rằng đó là Trương Lương (2) hiển linh, để giữ gìn đất đai của mình, đành phải viết biểu, dâng lên triều đình. Dượng Đế sai ngay Hàn lâm viện, viết một bài văn tế, đem theo những đồ tế tự quốc bảo, sai Thái thường khanh Ngưu Hoằng lại đem thêm một đôi ngọc bạch bích, đến Trần Lưu tế lễ, sông mới đào xong khỏi đoạn Trần Lưu.

2 Trương Lương: Vốn người nước Hán, bề tôi giỏi nhất về mưu lược của Hán Cao Tổ. Giúp Hán diệt Tần, thắng Sở lập nên nhà Hán bốn trăm năm. Công việc xong, Lương lấy cớ nhiều bệnh, bỏ đi về tiên ông Xích Tùng Tử học đạo tu tiên (Sử Ký).

Chính là:

Âm dương một lẽ không hai

Quỷ thần chứng giám đôi vai nhiệm màu.

Chẳng mấy chốc, dân phu đã đào đến vùng rừng rậm rạp của Ung Khâu, lại cũng gặp một ngôi mộ, bên trên mộ có đèn thờ. Khi đào tới đây người đội trưởng đã có ý ngờ, nên đến thưa với Thúc Mưu. Thúc Mưu tới xem, thì thấy bốn chung quanh, linh khí mù mịt, mới gọi dân sở tại tới hỏi. Một người thưa rằng:

- Đây là mộ của bậc cao nhân từ thời thượng cổ, không ai còn nhớ rõ họ tên gì nữa. Chỉ thấy đời này nổi đời khác gọi là ẩn sĩ mộ thôi.

Thúc Mưu nghe nói đến ẩn sĩ, lấy làm coi thường, bắt dân phu cứ thế đào lên. Dân phu được lệnh, toán thì phá nhà thờ, toán thì đào mộ. Không ngờ phía dưới có rất nhiều từng đá, đào mãi tới lớp thứ ba, bỗng nghe một tiếng nổ dữ dội, chẳng khác gì núi lở, đất sụt, cả người cả đất đá tụt hẳn xuống một hố sâu. Vội vàng cứu lên, người bị thương nặng, người thì chết, không thể đếm xuể là bao nhiêu. Thúc Mưu hoảng sợ, liền cho người xuống thăm dò xem sao, thì thấy sâu đến hai ba trượng, phía đáy lại có một cái huyệt, ánh sáng chợp chờn, như ở bên trong có đuốc đèn gì phát ra vậy, lại thấp thoáng nghe như có tiếng chuông, nhìn xuống thì sâu như biển cạn, không thấy đâu là đáy nữa, không ai dám xuống, đành kéo nhau lên bờ.

Lệnh Hồ Đạt trầm tư nghĩ ngợi một hồi:

- Phải có được một người này xuống, thì mới biết được rõ ràng mọi chuyện.

Thúc Mưu vội hỏi:

- Ai thế?

Lệnh Hồ Đạt đáp:

- Người này rất giỏi kiếm thuật, thường tự ví mình với Kinh Kha. Nhiếp Chính, sẵn sàng giúp khốn phò nguy, tên Khứ Tà, họ Địch, hiện làm Lang tướng ở Vũ Bình. Nhưng gần đây được điều về đây làm quản đốc lương thực ở hậu doanh. Mời được người này đến đây nhất định mọi việc sẽ rõ ràng ngay.

Thúc Mưu nghe theo, sai tay chân đi tìm. Chính lúc này Địch Khứ Tà đang xem xét lương thực ở hậu doanh, thấy Thúc Mưu cho người đến tìm đành phải mặc lễ phục vào, tới nơi ra mắt: Thúc Mưu nhìn Khứ Tà thì thấy người cao tám thước, lưng uốn mười vòng, hai mắt sáng như ánh chớp, mặt mũi phương phi lẫm lẫm, rõ ràng ra bậc trượng phu, nên lấy lời từ tốn mà rằng:

- Ta mời tướng quân đến đây, không có việc gì khác, nhân phía dưới có ẩn sĩ mộ, đào đến đại huyệt, trong huyệt thấy đèn đuốc lấp lánh, không hiểu có chuyện gì kỳ dị. Nghe nói tướng quân vừa can đảm vừa có sức khỏe, xin nhờ tường quân xuống xem sao, ta sẽ ghi công đầu cho tướng quân.

Khứ Tà thưa:

- Được hai vị đại nhân sai khiến, lẽ nào không vâng theo. Nhưng không biết huyệt ở chỗ nào?

Thúc Mưu cùng Lệnh Hồ Đạt dẫn Khứ Tà tới huyệt xem xét. Khứ Tà nhìn ngó một hồi lâu rồi nói:

- Muốn xuống được dưới này, không có lễ nghi không được đâu.

Rồi ăn mặc chỉnh tề, thay hẳn một bộ võ phục đàng hoàng, lưng giắt một thanh bảo kiếm. Sai người lấy một đoạn dây chão dài hàng chục trượng, lại buộc rất nhiều chuông đồng, rồi tự mình ngồi trong một cái rọ lớn, chắc chắn, sai người trên bờ thả dần xuống.

Khứ Tà ban đầu ở trên nhìn xuống, thấy bên dưới đèn nến huy hoàng, càng xuống sâu lại càng tối dần, nhắm mắt một lúc, rồi mở ra nhìn kỹ, thấy hình như có ánh sáng le lói. Ra khỏi cái rọ của mình, lần theo vệt sáng đó mà xuống, khoảng mấy chục bộ nữa, thì càng ngày càng sáng rõ. Lại dò dẫm thêm bốn năm chục bộ nữa, bỗng thông tới một khoảng rất rộng, chẳng khác gì có một bầu trời riêng, mặt trời riêng vậy.

Khứ Tà thấy quang cảnh này, trong lòng thầm nghĩ: "Người ta chỉ biết trên đời tranh công đoạt lợi, khổ sở trăm đường để bám lấy cõi phù sinh nhơ bẩn. Có ai ngờ được rằng trong cái huyệt sâu này, vẫn có một thế giới khác nữa, thật đúng là ngoài trời còn có trời khác vậy, thiên ngoại hữu thiên!". Cho nên trong lòng ít nhiều sinh chán ghét chuyện công danh thân phận, nhưng lại càng bình tĩnh đi tới phía trước, vượt qua một bức tường đá, thấy một tòa phủ động rộng rãi, bốn phía là tường xây bằng đá trắng, bên trong là một tòa lầu, có đường cầu thang lên lầu, hai bên hai con sư tử bằng đá ngồi chững chạc, chẳng khác gì cảnh phủ đệ của các bậc công tốt.

Cứ theo cầu thang mà lên, nhìn đông ngó tây, chẳng thấy một người nào, chỉ thấy phía nam có một lầu đá khác, nhưng cửa phòng đóng chặt, còn ở phía đông lại có một gian phòng đá khác nữa, nghe như có tiếng động. Khứ Tà cứ thế tiến lại gần, nhìn từ cửa sổ, thấy bốn góc phòng, đều có trụ đỡ bằng đá. Một trong các trụ này có dây xích bằng sắt, buộc một con thú kỳ lạ, con thú này đang lấy móng chân cào cào vào sàn gác, chính là tiếng động ban nãy Khứ Tà nghe ở bên ngoài vậy. Con thú đầu rất nhỏ, mắt trông lồi hẳn ra ngoài chân lại ngắn ngủn, thân to béo, gần giống như một con bò, trông không phải là hổ, cũng chẳng phải là báo. Khứ Tà nhìn kỹ một lúc lâu, mãi mới nghĩ ra là một con chuột già. Khứ Tà đột nhiên nghĩ mà hoảng sợ: "Con chuột mà lớn đến thế này, thì con mèo sẽ còn lớn thế nào nữa đây!".

Đang lúc ngây người nhìn, cánh cửa ở phía nam mở rộng, một tiểu đồng tử từ cửa đi ra, chỉ thấy:

Long lanh mắt tú, mày thanh

Đẹp đẽ môi hồng, răng trắng

Hai trái đào, thêm vẻ tiên phong

Áo bào vàng, càng ra đạo cốt

Nếu chẳng phải con hạt cháu tiên

Thì cũng là huyết thần, cốt đạo

Tiểu đồng thấy Khứ Tà, bèn hỏi:

- Tướng quân có phải là Địch Khứ Tà không?

Khứ Tà kinh ngạc hỏi lại:

- Đúng rồi! Nhưng sao tiểu đồng lại biết được?

Tiểu đồng đáp:

- Hoàng Phủ Quân đợi tướng quân đã lâu rồi, xin mời tướng quân nhanh lên cho.

Khứ Tà lại càng ngạc nhiên, chỉ còn biết đi theo tiểu đồng vào cửa, thì thấy bên trong điện các huy hoàng, lầu sảnh uy nghi, không giống cảnh lặng lẽ, tĩnh mịch bên ngoài nữa. Trước điện một bậc quý nhân chễm chệ ngồi, mình khoác áo bào thêu rồng, đầu đội mũ có đủ tám viên ngọc quý thêu hình mây ngũ sắc, rũ những dây ngọc quý trước sau, rõ ràng ra dáng vương giả. Hai bên là các quan văn võ đứng hầu, dưới thềm cũng hàng dãy thị vệ lập nghiêm kính cẩn. Khứ Tà đến trước điện, vội vàng cúi lạy làm lễ, thì thấy quý nhân trên điện lên tiếng:

- Địch Khứ Tà, ngươi đã tới đó phải không?

Khứ Tà thưa:

- Thần Địch Khứ Tà, vâng mệnh thánh chỉ xung việc đào sông, được Đô hộ Ma Thúc Mưu sai xuống đây, Không ngờ gặp được tiên phủ. Thực là đáng tội.

Vị quý nhân liền phán:

- Nhà ngươi vừa mới viện tới thánh chỉ của Tùy Dượng Đế phải không. Ngươi hãy đứng ra một bên. Ta sẽ cho ngươi xem vật này.

Rồi nói với viên Vũ Vệ tướng quân, mặt mũi dữ tợn đứng hầu ngay cạnh:

- Mau mau dắt A Ma vào đây! (l)

1 A Ma: tên của Tùy Dượng Đế hồi nhỏ, cũng chỉ điềm rồng vàng uốn lượn, khi Độc Cô Hoàng hậu sinh Dượng Đế (Xem hồi 1).

Vũ Vệ tướng quân nghe lệnh, vội vàng cầm côn lớn bước ra cửa ngoài. Chẳng bao lâu Vũ Vệ tướng quân cầm một sợi dây sắt dài, kéo con thú kỳ lạ vào. Khứ Tà dụi mắt nhìn kỹ thì đúng là con chuột già lớn ở phòng đá vừa rồi, Vũ Vệ tướng quân dắt vào đến trước thềm, dừng lại, con thú ngồi xuống ngay trước nguyệt dài, râu vểnh lên, răng nanh nhe ra, đầy vẻ đắc chí. Vị quỷ nhân giương mắt nhìn giận dữ, cầm một cái thước ngay trên án đập một cái vào đầu con vật mà quát:

- Ngươi là đồ súc sinh, đáng tội lột da. Làm chủ một nước, trăm họ tội gì, mà ngươi đầy đọa xương khô cốt rũ, vì việc đào sông để ngươi vui thú, hoang dâm ngang ngược đến như thế là cùng cực. Nay ta đã đánh chết ngươi, cũng bởi vậy để nguôi nỗi phẫn uất của triệu người, ức quỷ vậy.

Rồi sai nhằm đầu mà đánh thật mạnh. Vũ Vệ tướng quân tiến xăn tay áo, giơ cây côn lớn, nhằm thẳng đầu con chuột già mà giáng xuống. Chuột đau không chịu được, cứ thế mà rống, tiếng nghe lục đục như sấm. Vũ Vệ tướng quân đánh nữa, thì thấy trên không trung, hạ xuống một tiên đồng, hai tay nâng một đạo thiên phù, ngăn Vũ Vệ tướng quân:

- Không được đánh nữa!

Rồi quay lên thưa Hoàng Phủ Quân, chính là vị quý nhân ngồi trên điện:

- Thượng đế có lệnh!

Hoàng Phủ Quân vội vàng xuống điện, cúi lạy dưới thềm, tiên đồng bước lên điện, mỡ thiên phù ra, dõng dạc đọc:

"A Ma vốn đủ một kỷ (1). Số chưa đến lúc tuyệt, hãy còn năm năm nữa. Bấy giờ mới dùng một dãy lụa chắc, quấn chặt vào cổ, mà xiết cho chết, để đền tội hoang dâm ngang ngược. Nay hãy tạm tha đánh roi, phạt trượng.

1 Kỷ: cách tính thời gian cổ của Trung Quốc, theo con chi, hàng chi: Tý, Sửu... ứng với 12 năm. Đúng như số năm được ở ngôi của Dượng Đế hiệu Đại Nghiệp 105-106.

Tiên đồng đọc xong, bay lên trời biến mất. Hoàng Phủ Quân lên điện ngồi, nói:

- Hãy tạm tha cho đồ súc sinh, nếu như không có đức hiếu sinh của thượng đế, thì ta đã đánh chết ngươi rồi. Nay vẫn còn được hưởng lạc những năm năm, nếu không biết đường hối cãi, thì chẳng thể nào thoát khỏi cái vạ cổ kia đâu!

Rồi sai Vũ Vệ tướng quân dắt con chuột già buộc chặt lại như cũ. Hoàng Phủ Quân hỏi Khứ Tà:

- Ngươi đã thấy rõ ràng chưa?

Khứ Tà thưa:

- Khứ Tà chỉ là một viên lại tầm thường ở cõi đời nhơ bẩn. Những điều huyền diệu của nhà trời thì làm sao mà hiểu hết cho được.

Hoàng Phủ Quân phân tích:

- Ngươi hãy nhớ cho kỹ, ngày sau sẽ thấy ứng nghiệm rõ ràng. Đây chính là Cửu Hoa đường thượng. Ngươi vốn không có duyên nợ gì với cõi tiên, cũng không nên lưu lại lâu làm gì?

Khứ Tà vội vàng quỳ lạy thưa:

- Khứ Tà nay do lệnh trên sai, lỡ vào tiên phủ, giờ thì tiến thoái đều chẳng biết lối nào, ngửa xin thần minh chỉ giáo?

Hoàng Phủ Quân phán:

- Người vốn có một con đường tài danh rất tốt nhưng phải giữ lòng cho trong sạch, sáng suốt, đừng để rơi vào cõi nhơ bẩn. Ma Thúc Mưu là kẻ tiểu nhân đang gặp hồi đắc chí, mặc sức hoành hành, tội không tha được. Người hãy nói với y: "Vì chuyện phá thành quách của ta, không có gì để trả nợ này, sang năm sẽ xin tặng hai lưỡi dao vàng!".

Bèn sai một Lục y sứ:

- Ngươi hãy dẫn Địch Khứ Tà ra?

Khứ Tà thấy cảnh điện các uy nghiêm, không dám hỏi thêm, đành bái tạ trở ra theo Lục y sứ, nhưng lại không theo đường cũ mà theo lối mấy cây cột sơn đỏ, đi không quá một hai trăm bộ, Lục y sứ chỉ tay phía trước nói:

- Phía trước, men theo cánh rừng kia, đã là đường lớn rồi đó!

Khứ Tà quay đầu lại định hỏi, thì đã không thấy Lục y sứ đâu nữa, lại nhìn lại một lần nữa, thì cả điện các, thành quách đều chẳng còn. Khứ Tà hoảng hốt nghĩ: "Thần thông quảng đại vốn là thế này đây!". Đành cứ từng bước, từng bước đi qua khu rừng, theo chân núi, gặp một hai cánh đồng rộng nữa, bỗng thấy mấy cây kiều mộc to lớn bao lấy một thôn trang, vội vào thôn hỏi đường. Một nhà ven đường nhỏ, cửa cổng bằng tre nửa mở nửa khép, bèn cứ thế đi vào, khẽ ho đánh tiếng, làm kinh động một đôi chó khoang nhỏ nhằm Khứ Tà mà sủa loạn xạ, từ trong đi ra một ông già. Khứ Tà vội vàng lạy chào, rồi hỏi:

- Hạ quan lạc đường, xin lão ông chỉ giùm cho!

Ông già đáp lễ rồi nói:

- Tướng quân vì cớ gì mà đi bộ đến mãi đây?

Khứ Tà không dám giấu, đem chuyện xuống huyệt, gặp Hoàng Phủ Quân, chuyện đánh chuột lớn, kể lại một lượt. Nghe xong ông già cười đáp:

- Thì ra Dượng Đế vua ta, lại là một con chuột lớn biến thành. Lạ thay! Lạ thay! Có thế mới hoang tàng, ngang ngược đến vậy chăng?

Khứ Tà lại hỏi:

- Nơi đây là đâu? Đến Ung Khâu còn xa nữa không, lão ông chỉ giùm?

Ông già đáp:

- Đây chính là Tung Dương thuộc Thiểu Thất sơn, cứ theo đường lớn, đi về phía đông, chỉ độ hai dặm là huyện Ninh Lăng, cứ từ đó mà về Ung Khâu chẳng còn xa nữa. Chỉ khoảng chiều tà có thể về đến chỗ Ma Thúc Mưu. Nếu như tướng quân không chê chỗ quê mùa, để lão này bảo nấu cơm mời tướng quân rồi hãy đi cũng còn sớm chán.

Rồi mời Khứ Tà vào thảo đường, ông già sai đầy tớ làm cơm nước. Trong khi chờ đợi ông già nói với Khứ Tà:

- Cứ như việc tướng quân thấy, cứ theo lời tướng quân nói, thì vua Tùy ta nay cũng chẳng được bao nhiêu lâu nữa. Ngay cả Ma Thúc Mưu thì tiền đồ còn ngắn ngủi hơn nhiều. Lão xem tướng quân, từ dung mạo cho đến khí cốt đều có vẻ phi thường, sao lại nổi trôi theo sóng nước như vậy, theo cùng bầy với bọn quyền gian hại dân ấy làm gì?

Khứ Tà khiêm tốn đáp:

- Ơn lão ông chỉ giáo. Hạ quan cũng không ngờ việc khai sông này lại hại dân chúng đến vậy. Chỉ hiềm quan thấp, chức nhỏ, chỉ là nghe theo lệnh trên mà làm.

Ông già khẽ cười:

- Làm quan thì phải nghe lệnh. Nếu không làm quan nữa thì những lệnh đó làm gì nổi tướng quân?

Khứ Tà thưa:

- Xin cảm tạ những lời vàng ngọc của lão ông: Hạ quan tuy bất tài cũng xin nghe theo những lời dạy bảo của bậc kỳ lão.

Đầy tớ dọn cơm nước, Khứ Tà ăn một bữa no, rồi đứng dậy từ tạ xin đi. Ông già đưa ra đến tận đường lớn, rồi chỉ:

- Đi hết ngọn núi trước mặt, thì đã trông thấy huyện thành Ninh Lăng rồi!

Khứ Tà chắp tay bái biệt. Đi bộ mười bước, quay đầu nhìn lại, đã không thấy ông già đâu nữa, cả nhà cửa lô nhô lúc trước, giờ cũng thấy toàn tùng bách trên đá núi lởm chởm. Khứ Tà vô cùng kinh ngạc, hoảng hốt, vội đi như chạy về huyện thành. Thấy được đường xá người người đi lại đông đúc, mới như vừa tỉnh cơn mê, vào thành, tìm đến công quán nghỉ ngơi.

Thúc Mưu thì ngờ rằng. Khứ Tà tìm không thấy đường ra, đã chết trong huyệt, lại tiếp tục đốc thúc dân phu đào sông như cũ. Mãi đến bảy tám ngày sau, Khứ Tà theo công sai từ Ninh Lăng sang, Thúc Mưu mới biết. Khứ Tà đem chuyện ở dưới hang, nói lại kỹ càng một lượt. Thúc Mưu đời nào chịu tin. Cho rằng Khứ Tà có ít nhiều phép thuật, trốn ở trong huyệt ít ngày rồi trở lên, kiếm chuyện hoang đường, để dọa Thúc Mưu chơi, nên Thúc Mưu lại quát nạt một hồi.

Khứ Tà đành quay về hậu doanh, nhân đó nghĩ: "Ta đường đường kẻ nam nhi đứng trong trời đất, sao lại cùng với bọn lang sói này làm chuyện hại dân. Quốc gia số vận chằng còn bao, ta việc gì cứ phái bám lấy bọn mọt dân này, chỉ tiếc cho công sức của mình lâu nay. Chi bằng giả bệnh điên khùng, vào ẩn trong núi, ung dung tự tại chẳng hơn sao!". Tính toán xong xuôi, liền làm đơn từ cáo bệnh. Thúc Mưu vẫn cứ ngờ Khứ Tà nói dối, nói xấu mình, bằng lòng cho nghỉ, tìm người khác thay việc ngay. Khứ Tà liền sắm sửa hành trang, đem theo hai đầy tớ, lên đường về quê.

Trên đường đi Khứ Tà lại tự nghĩ, khi nhớ lại cảnh Hoàng Phủ Quân gọi chuột lớn là A Ma: "Làm sao có thể có chuyện thiên tử Trung Quốc mà lại là con chuột già cho được? Nếu đúng như vậy, thì mấy đòn côn giáng vào đầu chuột hôm ấy, nhất định phải làm hoàng đế nhà Tùy này đau đầu nhức óc mới đúng. Việc quỷ thần tuy không thể không tin, cũng không thể tin hoàn toàn. Sao ta chẳng về ngay Đông Kinh, nghe ngóng tin tức, thì biết ngay chuyện thật hư" . Thế là lại tìm đường về Đông Kinh luôn.

Chính là:

Thực hư cơ màu ai muốn tỏ

Phong trần lao khổ chớ nề công!

Hồi Thứ Ba Mươi Ba

Thư Dương mất chức vì chạm nọc quan,

Tế Châu mua nhà lo nâng giấc mẹ.

Thơ rằng:

Đua chen danh lợi chuyện bồng bềnh

Dẹp loạn đưa dân đến trị binh

Gươm tuốt lưỡi xanh trừ xiểm nịnh

Bút ngời chữ đỏ cứu sinh linh

Đeo xiềng vốn nghĩ oai không sợ

Cởi mũ vì xem chức đáng khinh

Cười ngất vận thời nhiều ngáng trở

Trượng phu chung thủy vững như đinh.

Đời làm quan dù nhỏ dù lớn, nếu có chí hướng thì đều có thể làm nên sự nghiệp, đi đến đâu cũng để lại ơn đức, làm việc gì cũng vì quốc gia, không sợ bọn cường quyền, không ngại kẻ phú quý. Dù một lời nói một việc làm, cũng là để phúc đức lại cho con cháu.

***

Lại nói chuyện Tần Thúc Bảo rời khỏi Tế Châu, tìm đến bản doanh của Khai hà đô hộ Ma Thúc Mưu, thì biết Thúc Mưu đang ở vùng Thư Dương, nên vội vàng đến Thư Dương nạp văn thư. Đi được vài ngày, bỗng trên đường gặp được một người, đội khăn lụa trắng, dáng như một võ quan. Người này dừng ngựa bên đường, nhường cho Thúc Bảo đi qua. Thúc Bảo trông lại, có vẻ quen quen, giống như người bạn thuở nhỏ là Địch Khứ Tà. Cả hai nhận ra nhau, chào hỏi xong xuôi. Khứ Tà hỏi Thúc Bảo đi đâu. Thúc Bảo đáp:

- Được sai đi giám đốc việc đào sông.

Thúc Bảo hỏi lại Khứ Tà, Khứ Tà đáp:

- Tiểu đệ cũng làm dưới trướng quan Khai hà đô hộ họ Ma. Rồi đem chuyện đào sông ở Ung Khâu, tìm vào huyệt đá, thấy Hoàng Phủ Quân đánh chuột, rồi khuyên bảo ra sao, cả chuyện gặp ông già thần tiên ở Tung Dương, Thiếu Thất Sơn như thế nào kể cho Thúc Bảo nghe. Thúc Bảo nói:

- Bây giờ đại huynh đi đâu?

Khứ Tà đáp:

- Tiểu đệ đã thấy rõ sự đời nhiều, nên chán ngán thác bệnh từ quan, về tìm nơi nào đó ẩn thân. Không ngờ đến lượt hiền huynh lại vướng vào bàn tay họ Ma này. Y là một kẻ tâm địa tham ác khó mà phụng sự cho được, xin hiền huynh lưu ý.

Hai người chia tay.

Thúc Bảo vốn là người chính trực, không tin chuyện quỷ thần, cho nên cũng không tin chuyện Khứ Tà kể. Mới tới Thư Dương mấy ngày đầu, hoặc qua thôn lớn, thôn nhỏ, hoặc vào vài lều tranh bên đường, thường thường Thúc Bảo vẫn nghe đây đó tiếng khóc văng vẳng, Thúc Bảo nghĩ ngợi: "Có lẽ vùng này gần nơi đào sông, dân đều bị bắt đi phu dịch, ruộng đồng, vườn tược bỏ hoang phế. Trong nhà chẳng còn manh áo lành, chẳng còn được ống gạo, cho nên khóc than thế này chăng? Nhưng đến khi nghe rõ hơn thì lại là khóc con gái bé, con trai nhỏ. Thúc Bảo lại nghĩ: "Có lẽ là trời gieo bệnh đậu mùa, cho nên trẻ con chết nhiều nên ở đâu cũng nghe khóc chăng?". Nhưng lẫn trong tiếng khóc, lại nghe cả lời rủa nguyền sau:

- Cha đời thằng giặc cướp Bát Vương, sao nỡ cướp mất con vàng con bạc của ta đi đâu?

Cũng có kẻ còn than vãn:

- Con nhỏ của ta ơi. Nay con bị giặc cướp bắt cóc con đi, không biết còn ngày nào trở về nữa không?

Thôi thì hàng trăm hàng nghìn lời khóc lóc, kể lể đại loại như thế. Thúc Bảo đắn đo: "Lạ nhỉ, nếu thế này thì cũng phải khóc con trẻ chết bệnh?". Lại ngầm nghĩ: "Hoặc giả năm mất mùa đói kém, có chuyện lường gạt trẻ con gì chăng? Nhưng tại sao lại nhiều đến như thế được? Nhất định phải có nguyên do gì chứ? ".

Chính là:

Xóm xóm vang rên khóc

Nơi nơi tiếng thở than

Dế giun kêu đứt nối

Hành khách lệ tuôn tràn.

Đến Ngưu Gia trang, quân lính thì đi trước cũng có, đi sau cũng có, Thúc Bảo cùng với hai mươi gia đinh dừng lại đây để nấu ăn. Trong lúc cơm còn chưa chín. Thúc Bảo vốn trong lòng đang có nhiều nghĩ ngợi, mới vào trong thôn xem xét, thấy trước cửa nhà, có một đám trai tráng khoảng ba bốn người, lại thêm một ông già, tay chống gậy, tay kia che vành tai để nghe chuyện cho rõ, Thúc Bảo cũng lại gần nghe ngóng. Một người nói:

- Ngày hôm qua con nhỏ nhà họ Trương cũng bị bắt mất rồi!

Một người tiếp:

- Ngày hôm kia thì thằng cháu của ông già họ Vương cũng đã bị mang đi rồi. Bố nó đã bị bắt đi đào sông, nhà ấy rồi sống sao bây giờ?

Lại một người nữa:

- Chẳng mấy nhà còn trẻ con nữa. Vợ chồng nhà họ Triệu, sinh được mỗi một thằng bé, còn quý hơn vàng, đêm qua cũng mất rồi!

Ông già gật đầu than vãn:

- Thật chẳng khác gì loài chó sói. Nghe đâu ở làng Thượng, cũng mất đến hai ba chục đứa nhỏ rồi.

Thúc Bảo bèn hỏi ông già:

- Lão trượng, xin cho hỏi ở thôn ta, đã bị bọn giám công cùng bọn lính tráng lừa mất bao nhiêu trẻ con cả thảy rồi?

Ông già đáp:

- Nào phải chuyện lừa, lừa thì may vẫn còn sống, cướp trộm để giết kia. Mà cũng chẳng dính dáng gì đến lính tráng đâu, đây chỉ là bọn trộm cướp thôi thưa ngài!

Thúc Bảo hỏi:

- Xem ra năm nay, mùa màng cũng không đến nỗi, sao lại có chuyện ăn thịt người?

Ông già đáp:

- Ngài có điều chưa rõ, trong số các quan trông coi việc đào sông, có một vị tổng quản rất thích ăn thịt trẻ con. Mổ bụng xong, ướp ngũ vị quay lên. Vì vậy mới sinh ra một bọn trộm cướp, chuyên lừa bắt trẻ con, rồi quay sẵn đem dâng để đổi lấy mấy lạng bạc thôi. Bọn này cũng không phải chỉ một đứa, mà trẻ bị bắt cũng không phải chỉ riêng thôn này đâu!

Chính là:

Cũng vì tài lợi dỗ dành

Lòng tham nên nỗi người thành hổ lang.

Thúc Bảo nói:

- Đã là bậc quan nhân, sao lại có chuyện như vậy, chỉ sợ lại chuyện hoang đường chăng?

Ông già đáp:

- Ai nói dối ngài làm gì? Ngài không thấy khắp nơi đều vang tiếng khóc than đó sao? Giờ đi khắp thôn, có nằm mơ cũng chẳng tìm ra một chỗ yên ổn. Nhà nào có con gái, con trai nhỏ, cũng phải lo giữ gìn, không dám cho ra đường. Đêm đến thì chong đèn suốt đêm để trông coi. Hoặc đóng một cái cũi thật chắc chắn, khóa kỹ lại. Ngài không tin, xin cứ đi một vòng mà xem!

Thúc Bảo vào một nhà, quả thấy một cũi gỗ, bên cạnh là chiếu chăn của người lớn để nằm canh giữ, Thúc Bảo hỏi:

- Sao lại phải đóng cửa nhốt trẻ lại như thế này?

Người này đáp.

- Ngày xưa thì nghìn ngày làm giặc cướp rồi! Nay đến lượt nghìn ngày giữ giặc cướp vậy, thưa quý quan!

Thúc Bảo bắt đầu tin thực, quay lại điếm canh ăn cơm, rồi sai phái gia đinh:

- Hôm nay mệt lắm rồi. Hãy nghĩ lại đây. Sáng mai hãy đi tiếp!

Rồi vào trong điếm, trải chăn chiếu đánh một giấc. Tỉnh dậy, nghĩ cách làm sao tóm được bọn cướp này trừ hại cho thôn dân. Trời vừa tối thôn xóm chẳng có trống mõ điểm canh gì cả, nhìn ánh trăng nhợt nhạt, lạnh lẽo, có lẽ đã hết canh một. Thúc Bảo lặng lẽ ra khỏi điếm canh, ngoài đường không một bóng người, đi đến dãy lều chợ ở phía đông, cũng chẳng gặp một ai. Thúc Bảo đang định quay trở về, bỗng nghe từ một nhà ngay cạnh đường, tiếng la hét inh ỏi, thì ra chỉ là hai vợ chồng nằm mơ không thấy con đâu, la hét cuống cuồng, làm cho đứa bé cũng hoảng hồn khóc thét.

Thúc Bảo lại đi về phía tây, nhìn từ đường xa, thấy như có hai bóng người, dáng đi lẫn lút. Thúc Bảo vội lẻn ngay vào trong điếm canh, nấp sau cửa cẩn thận nhìn theo. Một lát sau, quả có hai người, Thúc Bảo đợi cho chúng đi qua, mới lén theo sau nghe ngóng xem hai người này làm gì. Cả hai cái bóng lần lượt nghe ngóng khắp cửa nhà này, tới cửa nhà khác. Rồi mới khẽ mở một cánh cửa của nhà cuối ngõ, một bóng vào trước, một bóng vào sau. Thúc Bảo đứng chờ, thấy một bóng quay ra chạy ngay trước mặt. Thúc Bảo thét lớn:

- Chạy đi đâu!

Rồi thoi một quả thật mạnh vào sống lưng. Bất ngờ không kịp đối phó gì, tên này ngã lăn quay, vứt cả đứa bé ra cạnh đường khóc lanh lảnh. Thúc Bảo bỏ mặc, chạy vào nhà bọn này vừa vào, thì cũng vừa gặp tên trộm thứ hai chạy ra, vì nghe tiếng Thúc Bảo la thét bên ngoài, nên đứng sau cửa nhìn ra thấy Thúc Bảo vào, đang định vùng chạy. Thúc Bảo trông thấy, xấn lại, đá cho một cú trời giáng, tên này ngã lăn quay ra ngay trước cửa như một con chó.

Lúc này xung quanh nghe ồn ào mới kéo ra đông, vợ chồng nhà nọ cũng mới tỉnh dậy, thấy con không còn trên giường, gào thét chạy ra. Thúc Bảo đã lôi tên trộm ngã ngoài cửa ra phía điếm canh. Ngoài điếm, bọn gia đinh, nghe tiếng quát của Thúc Bảo, cùng tiếng huyên náo bên ngoài, đều đã trở dậy, cũng vừa may tóm được ngay tên thứ nhất đang định bỏ chạy. Tiếng la, tiếng khóc, tiếng đánh dập ầm ĩ một hồi. Thúc Bảo thấy mọi người xúm lại đánh hai tên trộm, bèn lên tiếng can:

- Xin các vị đừng quá tay. Hãy trói chúng lại, hỏi rõ những trẻ ăn trộm lâu nay để đâu hết. Bè đảng còn những đứa nào. Bọn này là người ở đâu, tên họ là gì. Phải bắt cho kỳ hết lũ hùm sói hại dân này. Nếu đánh chết chúng, thì còn lấy đâu ra kẻ khai báo nữa?

Rồi sai gia đinh lấy dây thừng, trói cả hai đứa lại, bắt đầu hỏi tra. Một tên khai Trương Yến Tử, một thằng Đào Kinh Nhi, đều là người ở thôn Thượng Mã, huyện Ninh Lăng. Chúng còn khai tên cầm đầu là Đào Liễu Nhi, chuyên đi bắt trẻ nhỏ, mổ bụng, quay lên, rồi đem đến hiến Ma Đô hộ. Thúc Bảo hỏi xong, trời cũng gần sáng, trong thôn, ngoài thôn nghe tin bắt được bọn trộm trẻ con, kéo đến xem đông nghịt. Bọn đàn ông, Thúc Bảo còn ngăn được, nhưng không tài nào ngăn nổi bọn đàn bà lăn xả vào hai tên trộm cấu xé, chửi bới, có bà còn vác cả thanh củi nện tới tấp. Thúc Bảo thấy phải giải ngay bọn này lên quan, nếu không bọn người này đánh chết, sẽ liên lụy đến mình. Thúc Bảo phải lên tiếng:

- Thưa các vị. Ma Tổng quản đường đường một vị đại thần, quyết không thể dính dáng vào chuyện xấu xa này được. Tổng quản hiện đang ở Thư Dương, tiểu nhân cũng đến đó, chi bằng giải hai tên này tới, trình với Ma Tổng quản. Nếu bọn này vu oan cho tổng quản, thì tổng quản không đời nào tha chúng. Nếu đúng có chuyện này, thì tổng quản cũng phải lo sợ mà thôi không dám làm ác nữa chăng?

Mọi người nói:

- Tướng quân nói có lý lắm. Chỉ sợ trên đường tướng quân lại tha chúng mất, chúng sẽ quay lại làm khổ dân hơn mà thôi!

Thúc Bảo nói:

- Nếu tiểu nhân thả, thì cầm bằng tiểu nhân không bắt còn hơn! ông già nói chuyện hôm qua, nhận ra Thúc Bảo:

- Thì ra là vị quan nhân hôm qua. Đúng là ngài đã vì dân mà trừ hại. Ta cũng nên kiếm lễ tạ ơn ngài chứ?

Thúc Bảo không nhận, giải hai tên cướp, vội vàng lên đường cùng với toán gia đinh của mình.

Đến Thư Dương, thì Thúc Mưu cùng Lệnh Hồ Đạt cũng mới tới chưa lâu, đang ngồi trong bản doanh.

Thúc Bảo tập trung đủ số lính tráng, cùng công văn đến nạp. Thúc Mưu thấy tướng mạo Thúc Bảo rất mừng, liền cho Thúc Bảo giữ chức Đốc lý hà công phó sứ, theo dõi công việc ở ngay Thư Dương. Thúc Bảo tạ ơn, nhưng trong lòng lại thầm nghĩ: "Khứ Tà từng nói người này tham lam, thật quả đúng vậy, chỉ cần trông qua cũng rõ. Chẳng cần phải dưới trướng lâu ngày mới nhận ra. Nay ta cứ đem chuyện hai tên cướp này thưa, chỉ sợ rồi y cho rằng ta định bêu xấu y, hoặc lại sẽ thả hai thằng cướp ra, cho chúng tiếp tục làm bậy. Nhưng cũng đành vậy, chẳng nhẽ để hàng loạt trẻ con bị ngậm oan". Thúc Bảo tới bên án thưa:

- Tế Châu lãnh binh hiệu úy Tần Quỳnh, có việc này xin thưa cùng hai vị đại nhân.

Thúc Mưu nào đã biết chuyện gì, nên vẫn rất hòa hợp nhã nhặn hỏi han, Thúc Bảo bèn thưa:

- Hạ quan đi qua Ngưu Gia trang, bắt được hai tên cướp, chúng khai đại nhân cần trẻ con, nên công nhiên cướp bắt. Một tên là Trương Yến Tử, một tên là Đào Kinh Nhi, hạ quan bắt theo đây, đang giữ ngoài cửa, xin đại nhân phân xử.

Thúc Mưu nghe xong làm ra vẻ thản nhiên:

- Ai bắt được?

Thúc Bảo thưa:

- Dạ, chính hạ quan!

Thúc Mưu phán:

- Bắt trộm cướp là bổn phận của các đô đầu địa phương. Chẳng có can hệ gì tới bản doanh. Người là một hiệu úy cai quản lính tráng, cũng chẳng phải lo đến chuyện này làm gì?

Lệnh Hồ Đạt nói:

- Nhưng nếu vu oan cho quan lớn, thì cũng nên hỏi cho ra nhẽ chăng?

Thúc Mưu đáp:

- Chỉ riêng việc đào sông mà mình coi sóc cũng chẳng nổi nữa là, hỏi đến những chuyện ấy làm gì!

Lệnh Hồ Đạt vẫn tiếp:

- Hãy giải về cho pháp ty tra vấn xem sao?

Thúc Mưu gạt đi:

- Đem về pháp ty thêm lôi thôi mất sức, tốn tiền, chi bằng ở đây ta tha quách.

Rồi không cho giải đi đâu cả, ra lệnh tha ngay, Thúc Bảo đang hăm hở, thấy thế, như bị ném vào nước lạnh vậy.

Chính là:

Mở giam tha thú dữ

Giăng lưới uổng công phu.

Phía bên ngoài, bọn lính tráng dưới quyền Thúc Bảo từ hôm phải giải hai tên cướp, nghĩ thế nào cũng được khen thưởng ít nhiều, không ngờ phải tự tay cởi trói thả chúng ra, tất cả đều không bằng lòng như Thúc Bảo vậy.

***

Lại nói chuyện Thúc Mưu, nguyên lúc đầu phụng thánh chỉ, đào sông qua Thư Dương, là vì có ý của các quan ở Tư Thiên giám, cho là thành này có vương khí, phải đào sông qua để trấn cho hết. Không ngờ, khi đào tòa cổ mộ của Tư Mã Tống Hoa Nguyên ngay gần thành, sau đó bắt đầu đào vào thành, thì khắp trăm họ từ lớn tới nhỏ, đều đến cầu xin Đốc lý hà cồn Trần Bá Cung, nhờ Trần tìm cách để nói với Thúc Mưu, giữ nguyên thành, mà tìm đường khác để đào sông. Không ngờ Thúc Mưu nổi giận đùng đùng, vịn vào thánh chỉ, suýt chém đầu Trần Bá Cung, mà vẫn giữ ý đào sông qua thành như cũ. Được tin này cả thành nhốn nháo, ngoài thành thì mồ mả, trong thành thì nhà cửa, người sống, người chết. Tổng cộng có tới một vạn tám trăm nghìn hộ lớn, góp nhau lại được tới ba nghìn lạng vàng, định đem đến nói với Thúc Mưu, nhưng chưa có người nào dẫn đường. Gặp lúc Đào Kinh Nhu vừa được cởi trói, nhởn nhơ rao lên rằng:

- Ta là người rất tin cậy của Ma tổng quản. Cần nói gì với tổng quản, cứ đến ta là xong ngay. Các ngươi cứ xem việc vừa rồi thì đủ rõ. Số phận mối kiến của các ngươi, là nằm trong tay chúng tao này.

Ai nấy đều tin y là bậc thân tín của họ Ma nên cử mấy người đến tìm gặp Kinh Nhi, to nhỏ thương lượng với y về việc đào sông qua thành. Ba hoa một hồi. Kinh Nhi nói tiếp:

- Ta còn có một người bạn rất thân, là quan hầu cận của Ma tổng quản, để ta dẫn các ngươi tới gặp viên quan hầu cận này, thì mọi việc sẽ đâu vào đấy ngay tức khắc.

Thế là y đứng làm môi giới cho mọi người tới gặp Hoàng Kim Quật, quan hầu cận của tổng quản họ Ma. Mọi người hứa tạ lễ một nghìn lạng vàng.

Kim Quật bằng lòng, và giục:

- Đem ngay số vàng ấy đến đây, thì sáng ngày mai sẽ có tin lành.

Dân chúng cử người mang vàng đến giao cho Kim Quật. Kim Quật từ lâu đã biết rõ tính Thúc Mưu, thấy vàng thì bất kể việc gì cũng làm nên thừa dịp Thúc Mưu đang ngủ phòng trong, Kim Quật đem số vàng này cùng với số ba nghìn lạng vàng được hối lộ từ trước bày khắp ra án thư, trông sáng rực cả phòng, đợi Thúc Mưu ngủ dậy, trông thấy sẽ tìm cách nói, rồi ngồi chờ ngay đấy. Gần đến giờ thân (1), Thúc Mưu bò khỏi giường, chuệnh choạng bước ra, nửa mê nửa tỉnh quát:

1 Giờ thân khoảng 15 giờ đến 17 giờ.

- Ngươi sao lại dám lừa dối ta? Dám cướp vàng của ta? Lại còn xô ta ngã nữa?

Rồi lấy tay dụi mãi, cho đến khi nhìn rõ vàng bày la liệt trên án thư, mới cả cười, ngạc nhiên:

- Ta đã nói là Tống Nhượng Công không lừa ta mà lại. Không mất đi đâu cả mà!

Kim Quật liền cười hỏi:

- Tống Nhượng Công nào mà lại biếu đại nhân vàng?

Thúc Mưu đáp:

- Đó chính là người mặc áo bào màu tím. Nhượng Công xin ta giữ yên thành Thư Dương. Ta không nghe. Lại dẫn thêm một người khác nữa vào, người này hình dung dữ, mắt to, bụng lớn, râu tốt, cũng mặc áo bào tím, gọi là Đại tư mã Tống Hoa Nguyên. Cả hai lấy thế mạnh, sai người trói ta lại, lấy nước đồng nóng chảy đổ vào miệng ta, hòng làm ta sợ mà phải nghe theo. Ta vẫn không chịu. Hai người này đành phải đấu dịu, hứa tặng ta ba nghìn lạng vàng, mong ta cứu cho. Bởi ta chưa thấy vàng đâu, sợ bị lừa, cứ phải như thế, liền bị họ đẩy mạnh một cái, ngã sóng soài. Không ngờ vàng đã bày cả ra đây rồi. Hãy chờ ta cân lại cẩn thận, không dễ bị chúng nó lừa lắm!

Kim Quật cười thưa:

- Đại nhân nằm mơ rồi. Số vàng này là trăm họ trong thành Thư Dương, đưa cho hạ quan, nhờ nói với đại nhân tha chết cho cả thành, chứ nào có Tống Nhượng Công nào đâu?

Thúc Mưu đáp:

- Sao lại có thể thế được, rõ ràng ta cùng Nhượng Công với Hoa Nguyên thương lượng, đâu có phải chuyện mộng mị cho được?

Kim Quật thưa:

- Đại nhân cứ nghĩ ra mà xem. Nếu như đại nhân đi gặp Nhượng Công hoặc Nhượng Công tìm gặp đại nhân, thì nay Nhượng Công đâu rồi, gặp nhau ở đâu?

Thúc Mưu nghĩ ngợi hồi lâu:

- Nếu không phải mộng, thì rõ ràng thấy nói thượng đế cho ba ngàn lạng vàng, lấy ở trong dân gian ấy. Số vàng ấy không phải của ta sao?

Kim Quật thưa:

- Nói lấy ở trong dân gian, thì đúng là số vàng này rồi, xin đại nhân cứ nhận cho. Thực là của trăm họ trong thành góp lại, để mong đại nhân đừng bắt họ phải dỡ nhà to nhà bé, nhà lầu nhà cỏ đi nơi khác. Quả là không phải chuyện mơ, chuyện mộng vậy!

Thúc Mưu cười:

- Ta chỉ cần có vàng là được rồi. Thượng đế cho cũng tốt, dân gian cho cũng tốt. Chỉ cần giữ yên thành Thư Dương này cho họ là được rồi!

Rồi vơ tất cả số vàng trên án thư, thu xếp mọi chuyện để sáng ngày mai còn tìm cách thay đổi hướng đào sông.

Ngày hôm sau lên công đường. Thúc Mưu gọi ngay Đốc lý hà công Trần Bá Cung đến, nhưng Bá Cung đang ở chỗ dân phu, chỉ có Đốc lý hà công phó sứ Thúc Bảo đang ở công đường vội tới nghe lệnh.

Thúc Mưu hỏi:

- Sông đào còn cách xa thành bao nhiêu nữa?

Thúc Bảo thưa:

- Còn gần mười dặm nữa. Huyện quan hiện đã ra lệnh cho trăm họ trong thành phải di chuyển ngay nhà cửa, nếu không lính tráng, dân phu sẽ phá đổ nhà cửa tường thành để đào tiếp.

Thúc Mưu phán:

- Ta thấy hôm qua Trần Bá Cung nói nên đào tránh thành là có lý lắm. Đây là một thành rất kiên cố, ngàn hộ, vạn hộ đang sống yên vui, sao nỡ nhẫn tâm đuổi họ đi. Chi bằng tìm đường khác mà đào, đừng làm kinh động dân chúng trong thành nữa. Nhà ngươi hãy ra tính toán xem sao?

Thúc Bảo thưa:

- Hôm qua đại nhân đã chỉ vẽ cách thức, quy định rõ ràng, ban bố thánh chỉ, đào sông qua thành, làm đứt vương khí. Nay sợ khó thay đổi cho được.

Thúc Mưu quát:

- Vâng lệnh thánh chỉ, đào qua vùng Thư Dương là có thể cắt đoạn vương khí, cần gì phải qua thành. Ngươi không nên cố chấp. Cứ theo lệnh ta mà làm, mau ra xem thế nào, về báo lại ta rõ.

Thúc Bảo đành vâng lệnh, ra ngoài thành xem xét tính toán chi tiết. Đi khắp các thôn xóm, dân chúng chạy theo, kêu xin đừng đào qua lăng mộ tổ tiên hoặc vườn ruộng hoặc nhà cửa, phòng ốc, kẻ xin đưa năm lạng, người dâng chục lạng, thậm chí có người xin lễ hai ba mươi lạng. Thúc Bảo đều nhất nhất từ chối, rồi ước định sơ lược đường đào sông mới, trở về thưa lại với Thúc Mưu. Vừa gặp lúc khai hà phó sứ Lệnh Hồ Đạt, nghe tin thay đổi đường đào sông, vội đến hỏi nguyên do. Cả hai tranh cãi mãi không ngã ngũ phải trái. Thúc Bảo vào bản doanh quỳ thưa:

- Hạ qua được sai đi tính toán đường đào sông mới. Nếu đào vòng để tránh việc qua thành, thì đường sông sẽ dài thêm hơn hai mươi dặm nữa.

Thúc Mưu đang lúc giận dữ, nghe Thúc Bảo nói thế liền lớn tiếng quát:

- Ta chỉ cần ngươi tìm đường đào mới là được rồi, hai mươi hay ba mươi dặm cũng chẳng sao?

Thúc Bảo thưa:

- Đường đào dài thì số dân công phải nhiều hơn, tiền công, lương thực đều phải hơn nhiều, hạn kỳ cũng dài hơn, vì vậy hạ quan phải trình minh bạch để đại nhân rõ.

Thúc Mưu lại càng tức:

- Nhân công cũng không phải nhân công của nhà ngươi, tiền lương cũng không phải tiền lương của nhà ngươi. Nhà ngươi chỉ được cái to miệng, đứng đấy nói láo phải không?

Những lời này không những chỉ chửi Thúc Bảo, mà còn định chửi cả Lệnh Hồ Đạt nữa, vì vậy Lệnh Hồ Đạt lên tiếng khuyên răn:

- Người ta cũng là kẻ nói thẳng, không biết ý tứ vòng vèo, dù lớn dù nhỏ cũng là quan của triều đình, thì cũng nên bàn bạc cho ra lẽ mà làm. Huống nữa việc đào sông đào thành này vốn đã có thánh chỉ của chúa thượng rồi!

Thúc Mưu vẫn giữ ý:

- Ngài đừng vịn vào thánh chỉ, giữ lại cái thành này, Tống Nhượng Công còn có cả thiên chỉ kia. Hôm vừa rồi, ta nằm mơ, bị gọi đến để xử tội, bị Tống Hoa Nguyên rót cả nước đồng nóng vào miệng để định giết ta, sao không thấy hai thầy trò ngươi đâu cả?

Lệnh Hồ Đạt cười lớn:

- Ở đâu ra cái chuyện ma quỷ này thế đại nhân?

Thúc Mưu lại nói với Thúc Bảo:

- Ngươi cũng đường đường là một võ quan của triều đình, lấy của dân chúng ngoài thành không biết bao nhiêu tiền bạc, vẫn còn ra vẻ giảng giải đạo lý. Ta không dùng ngươi nữa, xem ngươi làm nên trò trống gì nào?

Lệnh Hồ Đạt cãi không lại Thúc Mưu, tức giận quay ra, về chỗ ngụ của mình, viết lời biểu tâu về triều đình. Thúc Bảo cũng nối gót theo ra. Thúc Mưu liền viết bản bố cáo:

"Đốc lý hà công phó sứ Tần Quỳnh, sinh sự nhiễu dân, cản trở việc công. Rộng xử cách chức, đuổi về quê".

Thúc Bảo xem thấy, liền nghĩ: "Địch Khứ Tà từng nói khó mà phụng sự con người này, nay quả nhiên như thế". Rồi lập tức thu nhập hành lý về quê. Đây cũng chính là trời có ý cứu Thúc Bảo vậy. Vì lúc này công việc rất khẩn trương để kịp thời hạn, dân phu thì chết quá nửa, đến khi vua Tùy đi chơi phía nam, có đoạn thuyền rồng mắc cạn, lấy sào chống thuyền có mũ bịt sắt để đo, thì thấy chỉ có một trượng hai thước, dò ra, có tới hơn một trăm hai mươi chỗ như thế. Thế là dân phu đào hai bên bờ sông, cho đến lính phiêu kỵ làm đốc công đều bị chôn sống. Dân chúng đều cho rằng: sống thì làm phu đào sông, chết thì làm ma vét sông. Từ Ma Thúc Mưu trở xuống, đều bị tội chém ngang lưng, nếu Thúc Bảo vẫn còn làm Đốc lý phó sứ, thì cũng chẳng thể nào thoát tội.

Chính là :

Mất ngựa không buồn lắm

Được ngựa chẳng mừng nhiều

Trời già yêu kẻ anh hùng

Đắng cay cũng trải, long đong cũng từng.

Thúc Bảo nhân Thúc Mưu đuổi về, đang lúc thu nhập hành lý, thì thấy Lệnh Hồ Đạt sai quan hầu cận đến, thu nạp dưới trướng. Thúc Bảo cười, thầm nghĩ "Ta đi chuyến này, chẳng qua cũng là nể Lý Huyền Thúy, tìm mọi cách để ta tránh khỏi phủ đường của Lưu Thứ sử. Chứ với cái chức Đốc lý hà công phó sứ này, liệu sẽ làm nên sự nghiệp được gì. Lại thêm rặt một phường vô lại, chuyên bán mạng cho dân phu để kiếm ăn, hoặc bớt xén tiền lương, hoặc chửi mắng đánh đập, hoặc hạch sách lễ lạt, nịnh hót tâng công để được ban ơn nhiều ít, quả là không phải ý nguyện của ta, vậy thì ta ở đây làm gì nữa?". Bèn nói với viên quan hầu cận:

- Tiểu nhân ở nhà còn mẹ già đã bát tuần, gặp việc quan, bất đắc dĩ mà phải đi. Nay may được trở về, lòng như muốn mọc thêm cánh, thực không thể nào ở lại dưới trướng Lệnh Hồ đại nhân cho được.

Thế rồi từ giã lên đường, vừa đi vừa nghĩ: "Lâu nay Lai Tổng quản đối xử với ta rất chu tất, cũng chẳng phải vì có Lai Tổng quản, hoặc Lý Huyền Thúy giới thiệu. Nay ta trở về, nếu đến chỗ Lai Tổng quản, thì thế nào cũng được thu nạp. Nhưng ta danh giá mà ra đi, nay như thế này mà quay về, thì chẳng khác gì: "Thử khứ hảo bằng tam thốn thiệt, Tái lai bất trực bán văn tiên". Lúc đi khoe khoang đẹp tốt bằng ba tấc lưỡi. Lúc trở về không đáng nửa đồng tiền sứt.

Xem ra công dịch, phu phen vẫn còn nhiều, trăm họ oán giận, chẳng bao lâu thiên hạ sẽ đại loạn. Lúc ấy binh định thời cuộc sợ không thoát khỏi tay bọn ta, chuyện tước lộc, công danh chỉ là chuyện sớm muộn thôi, cần gì phải vội vàng. Huống nhà lại còn mẹ già, đang lúc cần phải xum vầy, vui vẻ, việc gì phải khổ sở bám lấy chút công danh nhỏ mọn này?". Lại nghĩ thêm "Nếu cứ về ở trong thành Tế Châu như xưa, nhất định Lai Tổng quản lại tìm đến đòi ra, rồi lại thêm Lưu Thứ sử tới gây phiền hà. Chi bằng tìm quách một chốn núi rừng nào đấy mà mai danh ẩn tích". Vì vậy, Thúc Bảo liền tìm mấy gian nhà ở ngoài thành Tế Châu, rồi chuyển cả gia quyến ra, cùng sống trong cảnh:

Trước suối ngăn, sau rừng tốt um

Vườn dâu biêng biếc, thoải sườn non

Sáng ra, lưng dậu hoa đua thắm

Chiều tốt, chái nhà chim hót ran

Khe cửa khói luồn màu ửng ửng

Ngọn tùng sóng vỗ tiếng rì rầm.

Anh hùng vững chí qua giông tố

Vẫy bút nhân đề "Lương phủ ngâm.(1)

1 Lương phủ ngâm: tên một bài thơ tỏ chí thanh cao của Khổng Minh, khi còn ở ẩn ở núi Nga Long (Tam Quốc diễn nghĩa).

Nhà trên gồm ba gian lợp cỏ, phía sau còn có thêm mấy gian nhà tranh, hai bên là rừng trúc âm u, lặng lẽ, có thêm mấy gian thư phòng ở bên phải, xung quanh vây bằng một dãy tường thấp, trồng thêm mấy dãy dâu, mấy ruộng lúa mạch, là vườn trồng táo. Trước đó Thúc Bảo đã bàn với Ninh Thị, kẻ nông nổi không hợp với người đời, mẹ già, vợ con rời về ngoài thành. Phàn Kiến Uy cùng Giả Nhuận Phủ còn khuyên Thúc Bảo nên tìm đến Lai Tổng quản, Thúc Bảo khẽ cười đáp:

- Rồi cũng đến thế mà thôi? Được nhàn thân lúc nào là hay lúc ấy việc gì bôn ba khó nhọc, lại nhục tấm thân!

Về sau Lai Tổng quản cũng có cho người tìm đến, Thúc Bảo khước từ, lấy cớ mẹ già, mình lại mang bệnh, không thể cáng đáng được công vụ, Lai Tổng quản cũng không muốn nài ép. Bạn bè thỉnh thoảng cũng có người tìm đến, cùng nhau tiệc rượu đàm đạo nhưng từ chối không ra khỏi cửa, lấy cớ mẹ già. Ngày ngày Thúc Bảo vào non ra suối, trồng trúc, trưa đến đánh vài ván cờ, tất cả chuyện anh hùng tráng chí đều chôn chặt vào trong lòng. Khiến bọn Phàn Kiến Uy, Giả Nhuận Phủ cũng phải phàn nàn với nhau:

- Đáng tiếc một bậc anh hùng như vậy, chỉ vì gặp vài lần hoạn nạn, mà đến nỗi chí khí tiêu ma, gửi đời cho cây cỏ, núi non cho được!

Chẳng biết Thúc Bảo đã thấy rõ sự đời chưa, chí đã kiên định chưa, đã hiểu ra rằng mai sau không thể không có mặt mình, cũng không thể nào gác hẳn tấm thân anh hùng đầy nhuệ khí của mình mãi mãi vào chốn lâm tuyền cho được? Lẽ như vậy chăng?

Chính là:

Bên hồ chiều tối ngại buông cần

Ngọn gió đùa lay mảnh áo đơn

Nam tử dọc ngang chưa phỉ chí

Bên mình đành mặc tiếng cười khan.

Hồi Thứ Ba Mươi Bốn

Hoa đào nước chảy tìm vui thú,

Xẻo thịt tay ngà báo ái ân.

Từ rằng:

Muôn hoa hương nở đưa nhè nhẹ

Cánh đào rơi, sống rẽ đưa vèo

Nước xanh lóng lánh chiều theo

Dường mơ mộng quấn quýt vào chân đê

Mái chèo vỗ lòng mê hay tỉnh

Dứt không ra ám ảnh hồn ma

Hồn ma ai gửi vào ta

Khói tuôn con triện nên hòa lệ châu

Sông kéo mãi, đêm sâu thăm thẳm

Ngàn sao như áo gấm rung rinh

Tóc dài, da trắng xinh xinh

Mùa xuân thần dược, bệnh lành hơn xưa!

Theo điệu "Thiên thu tuế"

Từ xưa những khi loạn lạc, người ta thường bảo là lúc trời say. Trời mà không say, đã có người say thay. Thực ra thì trời không bao giờ tự say được, mà làm nên chuyện say đó, chính bởi người vậy. Thôi thì biết bao xiềng gông trói buộc, vàng ngọc bấu víu vào thân, trước mắt bao cảnh lạc thú hấp dẫn, mấy ai giữ được sự "thanh tâm quả dục" thấy rõ lối mê?

***

Hãy nói chuyện Tùy Dượng Đế sống giữa đám khuynh quốc khuynh thành như vậy, thói dâm đãng lúc nào cũng như nước triều vỗ sóng, chẳng luận hoàng hôn bạch nhật, lúc nào cũng như con ong, điên loạn hết hoa này sang bông khác, ngày ngày như con bướm, nhởn nhơ hết khóm vàng sang bụi tía. Bọn cung nữ thấy Dượng Đế như vậy, nên cũng tìm đủ mọi cách để hấp dẫn, lôi kéo, cầu lấy cuộc vui một khắc vậy.

Một hôm, Dượng Đế dang trong viện Thanh Tu, cùng với Tần phu nhân lặng lẽ uống mấy chén rượu, nhân tiết trời ấm áp, hai người dắt tay nhau ra khỏi cửa viện, men theo đê dài, nhìn theo dòng nước. Đây vốn chỉ là một con ngòi nhỏ, nước chảy lặng lẽ qua vườn, thấy trên mặt ngòi, mấy cánh hoa dập dờn theo mặt nước trôi xuôi, Dượng Đế chỉ tay ra, xuýt xoa.

- Đẹp làm sao! Thú làm sao?

Chầm chậm, những cánh hoa đào theo dòng nước ra khỏi vườn ngự. Từ phía trên, lại một đám hồ ma (1) trôi xuống, Tần phu nhân trông thấy ngạc nhiên:

1 Hồ ma: Cây vừng đen mọc trong hang núi. Các ẩn sĩ, tu tiên thường dùng ăn trừ cơm, được gọi là "Hồ ma phạn" nên cũng như hoa đào, thường báo hiệu nơi ẩn sĩ, tiên nữ ở.

- Cái này ở đâu ra?

Dượng Đế cười đáp:

- Chính là do phu nhân hái về, chứ còn ở đâu nữa!

Tần phu nhân thưa:

- Thực là thiếp không biết.

Vội gọi cung nhân mang sào lại, kéo vào bờ xem thì chẳng những hồ ma, mà còn cả cánh hoa đào nữa, nhiều cánh vẫn còn tươi, Dượng Đế sực nghĩ:

- Như thế lại càng lạ lùng.

Tần phu nhân thưa:

- Hay là ngòi nước này được nối với nguồn suối tiên nào chăng, thưa chúa thượng?

Dượng Đế đáp:

- Con ngòi này trẫm mới đào, nước thông với hồ Thái Dịch ở Tây Kinh, thế thì chẳng có nguồn suối tiên nào cả đâu.

Tần phu nhân hỏi:

- Nếu chúa thượng nói như thế, sao lại vẫn có hoa đào trôi về đây được ?

Hai người cùng nhau nhìn đi nhìn lại, vẫn chẳng hiểu nguyên do. Tần phu nhân tiếp:

- Thiếp cùng bệ hạ tìm một thuyền nhỏ, men theo con ngòi này mà ngược lên, thì nhất định sẽ tìm ra nguồn cơn ngay mà thôi!

Dượng Đế đáp:

- Phu nhân nói có lý lắm!

Rồi cùng lên một chiếc thuyền rồng nhỏ, có cung nhân bơi chèo xuyên hoa, rẽ liễu mà đi, quanh co uốn éo theo con ngòi, thì thấy trên mặt nước, khi thì vài cánh, khi thì cả cái hoa đào, lặng lẽ trôi xuôi, qua một cầu đá nhỏ bên bờ là mấy cây liễu già, thấy một thiếu nữ, mặc áo màu tím, ngồi bên bờ nước. Vội ghé thuyền lại gần, thì ra Thỏa Nương ngồi dây bứt từng cánh hoa đào, thả trôi theo nước.

Chính là:

Trăng tròn cung nữ vẻ yêu kiều

Thông tuệ khen cho hiểu biết nhiều

Tiên động định lừa Lưu Nguyễn chắc

Theo dòng lấm tấm rắc đào hoa?

Dượng Đế thấy thế cười ha hả:

- Trẫm cứ băn khoăn mãi, thì ra cái con nhỏ này giở trò khôn khéo ở đây!

Thỏa Nương cười thưa:

- Nếu không có mấy cánh hoa đào này, thì chúa thượng đã đang vui thú ở đâu rồi, đâu có nghĩ tới theo thuyền ngược dòng mà đi tìm tiện thiếp?

Dượng Đế cười:

- Cái con bé dối trá này, còn đứng đó để làm mãi việc này sao, mau lên thuyền đi!

Thỏa Nương xuống thuyền, Tần phu nhân hỏi:

- Những chuyện khác chẳng hỏi làm gì. Nhưng hoa đào thì lấy ở đâu ra vậy?

Thỏa Nương cười đáp:

- Ngay từ tháng ba, thiếp hái trên cây, cho vào hộp sáp ong, cố giữ cho mãi đến nay vẫn tươi như mới hái xong.

Dượng Đế căn dặn:

- Giữ được hoa như thế này cũng là chuyện hiếm thấy. Nhưng khanh tuổi còn ít, lại chẳng đọc sách biết chữ gì cả, thì làm sao mà hiểu được những chuyện xưa vì hoa đào trôi theo dòng suối của Lưu Thần, Nguyễn Triệu, mà biết cả việc vứt hồ ma xuống ngòi như thế?

Thỏa Nương lại khẽ cười thưa:

- Thiếp phận con gái, làm sao mà được đọc nhiều sách cho dược, nhưng chuyện hoa đào này cũng đã từng đọc qua.

Tần phu nhân thưa với Dượng Đế:

- Thiếp theo "Hán thư", rồi "Tần thư", thấy có ít chuyện mưu mô, mánh khóe, chuyện nào cũng có thể nhặt ra. Nhưng đến thời Tần trở đi, với những "Tần sử" các loại, toàn là kẻ gian trá thì làm chủ thiên hạ, chẳng có thể thấy được điều gì hay điều gì tốt. Ngay như chuyện hoa đào này cũng chỉ là chuyện ảo tưởng khó tin.

Dượng Đế cười đáp:

- Cũng có chuyện như vậy sao? Trẫm xem "Thủy Hoàng bản kỷ", thấy ông ta tuần du khắp thiên hạ, phong thần cho núi Thái Sơn oai danh lừng lẫy một thời. Chẳng cần phải nói những việc khác, chỉ riêng một dãy Vạn lý trường thành, tới nay đã bảy tám trăm năm rồi, mà bọn giặc Hồ vẫn không thể ngang nhiên kéo vào Trung Nguyên, cũng là do công bảo vệ của thành này vậy.

Tần phu nhân thưa:

- Từ nhà Tần tới nay đã bảy tám trăm năm, trường thành cũng đã nhiều đoạn hư hoại, nếu không tu sửa kịp thời, sợ để họa cho đời sau.

Dượng Đế đáp:

- Thì rõ ràng là thế rồi. Đời trẫm đây không làm, thì còn ai làm vào đó nữa, chẳng chóng thì chầy, trẫm sẽ sai người làm việc này. "Tần sử" còn có chỗ nói về việc Thủy Hoàng xây A Phòng cung nữa, cũng là một đoạn rất thú, có thể xem là một việc làm của bậc chúa hào kiệt một thời. Quyển sách này hiện đang để ở Cảnh Minh. Chúng ta hãy tới đó lấy xem.

Đi qua đê Long Lân, xuôi về phía nam một đoạn là viện Cảnh Minh. Dượng Đế, Tần phu nhân cùng Thỏa Nương đều lên bờ, đến cửa viện, thấy xe loan dừng bên ngoài, thì ra Tiêu Hậu thấy tiết trời ấm ấp, biết rõ viện Cảnh Minh rộng rãi, thoáng mát, liền đem theo Viên Tử Yên đến đó cho mát mẻ, hiện đang đánh cờ với chủ nhân Lương phu nhân, Dượng Đế vội vàng đi vào, không cho cung nữ báo trước, Tần phu nhân cũng lặng lẽ theo sau, thấy sau rèm, tiếng quân cờ gõ lách cách. Vào đến sân, Tử Yên đứng sau rèm nhìn thấy, vội thưa:

- Hoàng hậu? Chúa thượng tới!

Tiêu Hậu vội cùng Lương phu nhân đứng dậy cùng với Tử Yên ra đón. Dượng Đế cười:

- Hoàng hậu sao không cho trẫm biết, riêng mình tới đây thế này?

Tiêu Hậu thưa:

- Bệ hạ không thấy chiêu chí (1) của thiếp sao?

1 Chiêu Chí: giấy mời của hoàng hậu. Ít khi truyền khỏi cung cấm.

Tần phu nhân vội hỏi:

- Hoàng hậu, chiêu chí viết gì thế?

Tiêu Hậu nói:

- Thiếp thấy tối qua bệ hạ không vào cung, nên viết chiêu chí, sai cung nữ đi khắp các viện, tìm gặp bệ hạ.

Dượng Đế hỏi:

- Hoàng hậu viết những gì trên chiêu chí vậy?

Tiêu Hậu thưa:

- Thiếp chỉ viết rằng: Hoàng hậu không cẩn thận, đánh mất một thiên tử rất phong lưu, trên người không có một vật gì khác. Nếu ai bắt được, xin thưởng năm trăm lạng bạc. Kẻ báo tin sẽ thường năm mươi lạng.

Dượng Đế cười ha hả:

- Trẫm mà không đáng được một nghìn lạng, chỉ có năm trăm lạng thôi sao?

Mọi người cả cười. Dượng Đế ngồi chính giữa, xem kỹ bàn cờ rồi hỏi:

- Các khanh ai thua ai được rồi?

Lương phu nhân thưa:

- Chưa được ván nào cả. Đang đánh dở ván đầu thì bệ hạ tới.

Dượng Đế lại tiếp:

- Quân bên trắng có lẽ thua. Hoàng hậu cứ nhìn kỹ phía góc trái, điểm nhãn một con của bên trắng, thì nhất định bên trắng sẽ chết thôi!

Tiêu Hậu cười:

- Điểm nhãn là tài của bệ hạ, chỉ sợ bệ hạ không chịu làm, mà dù có làm thì chưa chắc đã thắng được người vậy.

Chính lúc đang cười cười nói nói, thì thấy bên ngoài có tiếng đàn tiếng sáo ở đâu vẳng tới. Tử Yên lên tiếng hỏi:

- Tiếng sáo ở đâu không biết?

Dượng Đế nghiêng tai nghe, một trận gió lật màn, đưa mùi thơm hoa sen phảng phất khắp viện. Tiêu Hậu hỏi:

- Ở đâu mà lại có hương sen thế này?

Dượng Đế vội vén rèm lên, cùng Tiêu Hậu bước ra ngoài, thì thấy hai ba chục chiếc thuyền nhỏ, chở đầy hoa sen, lô nhô trên thuyền các cung nữ ngồi xen kẽ đang hát điệu "Thái liên khúc". Nhã

Nương, Quý Nhi, người thổi sáo, người hát họa theo. Các cung phi mới vừa từ Bắc Hải về, thấy trời gần chiều gió thổi nhẹ, nên rủ nhau dong thuyền hái sen, Dượng Đế liền vui mừng khen:

- Bọn cung nữ này, thật là vui vẻ đáng yêu!

Tiêu Hậu thưa:

- Đều nhờ công giáo dưỡng của chúa thượng?

Dượng Đế đáp:

- Đó chính vì hoàng hậu nhu mì không biết ghen!

Các thuyền con nhận ra Dượng Đế trên thềm viện Cảnh Minh, đều chưa chịu rẽ vào ngồi vội, tranh nhau ghé vào bờ, vẫy hoa vẫy khăn, đi lại trên bờ hồ, muôn tía ngàn hồng, có người bị nước tung ướt đẫm. Dượng Đế cùng Tiêu Hậu hớn hở vẫy đáp. Lương phu nhân sai bày tiệc rượu ngay bên thềm, mời Dượng Đế cùng Tiêu Hậu ngồi, Tần phu nhân, Lương phu nhân cùng Viên Quý Nhi đứng hầu bên. Dượng Đế cho gọi tất cả mỹ nhân, cung nữ lên điện, trải ra mười chiếc chiếu rộng trên thềm, bày những bàn nhỏ thấp chính giữa, trên la liệt những quả phẩm, các mỹ nhân ngồi vây xung quanh, thưởng mỗi người ba chén rượu, rồi sau đó cùng nhau hát múa đàn sáo.

Dượng Đế thấy cả viện gió hòa mát mẻ, chẳng hề có một chút nóng nực của mùa hè, nhìn mặt Tiêu Hậu cùng các phi tần cung nữ, ai nấy đều vui vẻ, mặt hoa da phấn chói ngời, nói cười hớn hở, nên lòng thư thái, uống tràn hết chén này đến chén khác, chẳng mấy lúc đã say khướt, bèn đứng dậy dắt Tiêu Hậu, vào phòng Bích Sa nghỉ ngơi. Ai nấy cũng đứng dậy, tản khắp các phía.

Ngủ được một giấc dài, Tiêu Hậu trở dậy, thấy Dượng Đế vẫn còn mê mệt, lặng lẽ ngồi dậy, cùng với Lương phu nhân, Viên Quý Nhi, rửa ráy, trang điểm. Đến khoảng giờ thìn (1), thì thấy trong phòng Bích Sa, Dượng Đế đập chân đập tay vật vã thình thình, Tiêu Hậu cùng Lương phu nhân, Viên Quý Nhi vội chạy vào, thấy Dượng Đế vẫn như ngủ, như hôn mê bất tỉnh, hai tay ôm chặt lấy đầu, miệng không ngừng hét lớn:

1 Giờ thìn: từ bảy giờ đến chín giờ.

- Đánh chết ta mất, đánh chết ta mất thôi!

Tiêu Hậu vội vàng, truyền chỉ ý, tuyên triệu ngay Thái y viện Sào Nguyên Phương vào Tây Uyển chẩn mạch, dùng thang an thần, chỉ thống. Tiêu Hậu thân đi sắc thuốc, nhẹ nhàng, cẩn thận bưng lên dâng Dượng Đế uống. Lúc này Dượng Đế vẫn chưa tỉnh, các viện biết tin, vội vàng chạy đến viện Cảnh Minh thăm hỏi. Ai nấy xúm lại trước long sàng, một đêm qua đi, mà Dượng Đế vẫn chưa khỏi cơn mê .

Chu Quý Nhi thấy vậy, ăn uống cũng không, ngồi ngay cạnh phòng Bích Sa khóc lóc không lúc nào nguôi. Hàn Tuấn Nga nói với Quý Nhi:

- Cái con bé chua ngoa này, bệnh tình chúa thượng thế này, mày có muốn chết thay cũng chẳng xong, sao mà lại ra đến nỗi này?

Quý Nhi chùi nước mắt đáp:

- Xin các chị hãy bình tâm mà nghe tôi thưa: Đại phàm làm thân đàn bà con gái, đã là một sự không may rồi, nay lại bỏ cha mẹ, bỏ cả họ hàng thân thích, để được vào đây, những tưởng hồng nhan bạc phận, chẳng khác gì cỏ mục, vùi chết ở nơi ngòi rãnh. Ai ngờ gặp được chúa thượng nhân đức, khiến chúng ta ngày ngày được thấy thiên nhan ca hát vui vẻ suốt sáng chiều. Đừng kể rằng chúng ta đều là bậc quốc sắc có một không hai cả, cứ việc uốn éo cho đẹp, là được sủng ái. Hãy cứ nghĩ nếu gặp một vị hoàng đế hung bạo, chẳng phải chỉ chuyện khinh rẻ, lăng nhục, cũng là chuyện chết già ở lãnh cung. Biết thương hoa tiếc ngọc, mấy ai được như chúa thượng ta đây tình sâu nghĩa dày, ai ai cũng có chỗ yên ổn vui vẻ. Sở dĩ có chuyện Hầu phu nhân giận phận mà quyên sinh, Vương Nghĩa cảm ơn vua mà quên cả thân mình, chính là vì chúa thượng đã làm được lòng người cảm ơn nhớ nghĩa. Không ngờ nay chúa thượng mắc bệnh này, xem ra mười phần trầm trọng, nói chẳng may qua đời, chúng ta sẽ ra sao. Nếu không làm đầy tớ cho một kẻ chết vợ, thì cũng đến làm kẻ tay chân cho một mụ già ngang ngược mà thôi, chứ hơn gì nữa?

Mọi chuyện sẽ ra sao, mọi người sẽ ra sao, mình sẽ ra sao, nói đến chuyện thương tâm này, các cung nữ đều thổn thức, giọt ngắn giọt dài. Viên Bảo Nhi nói:

- Em tưởng người ta sinh ra trên đời này, trước vì hai đấng sinh thành mà quên thân mình, chúng ta thế này coi như là xong. Nhưng ơn của quân vương thì khó mà quên được. Chi bằng đêm nay ta hãy làm lễ tế cáo thần linh, tình nguyện giảm tuổi thọ của mỗi chúng ta mười năm, rồi mỗi người đốt một nén tâm hương, may ra có động được lòng trời, chuyển hung thành cát, để vạn tuế khỏi bệnh. Cũng không uổng tấm lòng của vạn tuế lâu nay thương yêu chị em chúng ta vậy.

Các mỹ nhân nghe Bảo Nhi nói thế, đều nhất tề tán thành:

- Cái con bé nhà họ Viên này nói hay lắm!

Rồi kéo nhau vào sân, bày biện hương án.

Quý Nhi trong lòng nghĩ: "Chúng ta đều là lòng thành mà cầu lễ. Nhưng làm sao mà cảm được lòng trời, đợi trời hiển ứng. Ta là phận gái, nhớ ngày trước có truyện người xẻo thịt ở cánh tay để phụng dưỡng cha mẹ, mong cha mẹ được dài lâu tuổi trời. Thân ta nay đã thuộc thánh thượng, dẫu có chết cũng chẳng tiếc gì, nói gì đến một miếng thịt nhỏ." Nghĩ như thế rồi, liền giấu sẵn một con dao trong ống tay áo, đi ra sân. Lúc này, Tuấn Nga, Liễu Nương, Thỏa Nương, Nhã Nương cùng với Bảo Nhi, Quý Nhi quỳ lạy trước bàn thờ, ai nấy tự xưng tên tuổi, sau kể rõ ngọn nguồn, nguyện xin an khang cho thánh thượng, bớt tuổi đời của mỗi người. Lễ nguyện xong, đứng lên, định dọn dẹp án thư, lễ vật, thì thấy Quý Nhi hai mắt đầm đìa, kéo ống tay áo lên, lộ rõ bắp tay trắng muốt như ngọc bạch, tay phải cầm dao, cắt một miếng thịt ở bắp tay trái, miếng thịt lìa hẳn ra, máu tươi lênh láng, đặt ngay vào một chiếc đĩa bạc. Mọi người hoảng hốt. Nhã Nương dốc vội một cái lọ nhỏ, đổ ra một thứ bột phấn bên trong, rắc lên vết thương rồi dùng lụa buộc chặt lại.

Chính là:

Trai mày râu vô ích

Gái son phấn hữu tình

Ngày nay cắt thịt quên mình

Ngày sau tuẫn quốc sử xanh chử đề.

Quý Nhi lấy miếng thịt gói kỹ lại, giấu trong người, đi vào trong viện, gặp lúc Tiêu Hậu sắc nước thuốc thứ hai. Quý Nhi làm đỡ Tiêu Hậu, lén bỏ miếng thịt vào siêu, cứ thế đun mãi kỳ được, rót ra bưng vào Tiêu Hậu đỡ lấy cho Dượng Đế uống. Chẳng bao lâu, Dượng Đế dần dần tỉnh lại, đã nhận ra Tiêu Hậu cùng phu nhân, mỹ nhân, cất tiếng:

- Trẫm thật khổ vô cùng! Nghĩ như chẳng còn được gặp lại hoàng hậu cùng mọi người nữa?

Tiêu Hậu hỏi:

- Bệ hạ uống nhiều rượu rồi đi ngủ, tại sao lại kêu đau như vậy?

Dượng Đế đáp:

- Trẫm uống say, ngủ mê mệt, mơ thấy một võ sĩ tướng mạo rất dữ tợn, cầm một cái côn lớn, chẳng kể gì, cứ nhằm giữa trán trẫm mà đánh, đánh đến nỗi trẫm mê man không biết gì nữa, đầu như muốn vỡ toác đau không thể chịu nổi.

Tiêu Hậu cùng các phu nhân an ủi một hồi. Bá quan văn võ sau đó nghe tin, người người đều vào Tây Uyển vấn an, ai nấy đều biết chuyện trong mộng bị đánh vào đầu của Dượng Đế.

Lúc này Địch Khứ Tà cũng đã tới Đông Kinh, nghe chuyện bệnh tình của Dượng Đế, trong lòng xiết đổi bàng hoàng, càng tin vào chuyện ma quỷ, thần tiên, càng thấy chán ngán cõi trần ô trọc, quyết vào dãy Chung Nam, tìm tiên học đạo.

Chính là:

Quỷ thần dạy rất tinh thâm

Rõ ràng danh lợi là mầm oan khiên.

***

Lại nói chuyện Ngu Thế Cơ, nhân hai tháng trước, Dượng Đế thấy trong Tây Uyển, ngự đạo vừa chật hẹp vừa gồ ghề, lệnh cho Thế Cơ tu bổ. Thế Cơ lĩnh mệnh, mới trên một tháng, ngự đạo đã được mở rộng, bằng phẳng, lại còn xây thêm một tòa Trú Tất đình, một cầu Nghênh Tiên, các đồ nghi vệ, nghi trượng đều được sắm mới, hoặc tu bổ lại, chờ khỏi bệnh là tâu Dượng Đế ngự lãm. Mấy ngày sau, bệnh vừa khỏi, Dượng Đế ngồi yến tiệc với Tiêu Hậu, nghe nói ngự đạo đã sửa sang xong, nghi trượng cũng chỉnh tề, Dượng Đế liền ngự đại điện, nhận lời mừng của trăm quan, lệnh vời các quan vào ban yến tiệc ở Tây Uyển.

Dượng Đế lên xe rồng bát bảo, tiền hô hậu ủng, nghi trượng lấp lánh, trăm quan cưỡi ngựa theo sau, thật đúng là hoa khoe sắc thắm, liễu phất phơ cờ chào đón. Dượng Đế truyền chỉ, ban ngự yến dưới thuyền. Dượng Đế bước lên thuyền rồng, trăm quan lên thuyền phượng. Trước tiên là ra Bắc Hải dạo một vòng, sau đó chơi Ngũ Hồ. Dượng Đế uống kỳ say, rồi lệnh cho các quan văn làm thơ để ghi lại cuộc hội họp quân thần vui vẻ. Các quan như Hàn lâm viện đại học sĩ Ngu Thế Cơ, Tư lệ đại nhân phu Tiết Đao Hành, Quang Lộc đại phu Ngưu Hoàng, đều có bài thơ hoặc từ dâng lên, Dượng Đế xem qua, khen ngợi rồi ban cho mỗi người ba chén rượu tự mình uống chúc mừng một chén lớn, rồi phán:

- Chư khanh đều có giai tác, chẳng lẽ trẫm lại không có bài nào chăng?

Bèn viết ngay tám bài từ "Vịnh Giang Nam", vịnh tám cảnh đẹp trên hồ.

Trăng trên hồ:

Trăng trên hồ sáng, sáng nhà tiên

Đệm gối màn chăn rực ánh lên

Từng lũ rắn vàng bơi lấp lánh

Bè thần trên sóng nổi lênh đênh

Mây xa màu sắc lung linh

Sương che vầng nhỏ, gió cành quế rung

Chén mời tình ý não nùng...

Liễu trên hồ:

Liễu trên hồ nên khói cuốn quanh

Mầm nhú trông ra bỗng giật mình

Trận gió lẳng lơ đùa lá biếc

Làn mưa lất phất tắm bao cành

Rợp cầu bóng rũ mành mành

Chiều xuân khiến khách bộ hành ngẩn ngơ

Tuyết đâu nhè nhẹ bay tơ. . .

Tuyết trên hồ:

Tuyết trên hồ sợ gió tây lùa

Từng cảnh chen vào ngõ trúc thưa

Trắng muốt hoa rơi đè sóng biếc

Muôn vàn ngọc trắng liễu đung đưa

Đất trời một sắc xa mờ

Vườn ai chiều bỗng lững lờ sênh ca

Hơi men ngấm đã ngà ngà...

Cỏ trên hồ:

Cỏ trên hồ mượt bến xa xa

Chẳng vướng chân nàng mãi múa ca

Êm ái ngả lưng hơn đệm gấm

Thẫn thờ nàng đợi khách đường xa

Tình chàng ý thiếp la đà

Xa xôi giữ chặt tình ta ngại ngần

Đề thơ lòng những phân vân...

Hoa trên hồ:

Hoa trên hồ đã rộn đâm bông

Đỏ rực bên trời át ráng hồng

Muôn cánh mưa nhuần phơi vẻ ngọc

Nhị tươi nắng ấm ngậm oai rồng

Thẫn thờ ngồi tựa bên song

Xuân lành lạnh, tóc cài vòng hoa xuân

Yêu hoa sao lại tần ngần...

Thiếu nữ trên hồ:

Thiếu nữ trên hồ dáng thanh thanh

Thuyền lướt bên sen cất giọng tình

Đàn địch đêm ngày ai đó nhỉ

Chiều sương cửa vắng nhẹ buông mành

Trò chơi: đấu cỏ, đạp thanh

Xuân thiên, xuân cảnh, xuân tình bấy nhiêu

Dưới hiên lẳng lặng trông theo...

Rượu trên hồ:

Rượu trên hồ trợ hứng truy hoan

Đàn phách du dương khéo ngự làn

Trên chén quỳnh tương dừng nghịu nhắp

Tay tiên dìu dắt mắt ưa nhìn

Cảnh hồ chân giả lạ quen

Gom thu trời đất vào miền làng say

Đế vương thanh nhã là đây...

Nước trên hồ:

Nước trên hồ chảy lượn vườn tiên

Say bóng chiều thu cây cỏ chen

Hương thoảng theo dòng, dòng gợn sóng

Bèo trôi theo gió, cá vờn sen

Nhịp nhàng vung mái chèo lan

Bóng chìm, bóng nổi cùng sang non Bồng

Nước non, non nước trập trùng...

Dượng Đế làm xong, quần thần ca ngợi một hồi, mọi người lần lượt chúc mừng, Dượng Đế cùng trăm quan lại say một phen nữa, rồi mới bỏ thuyền lên cạn. Quân thần tạ ơn, lại quay ra về theo lối hoa dương liễu. Dượng Đế lên xe rồng về cung. Tiêu Hậu đón vào, hỏi:

- Hôm nay bệ hạ ban yến tiệc cho bách quan, có vui không?

Dượng Đế đáp:

- Hôm nay yến tiệc vui vẻ lắm!

Rồi đem thơ của quần thần dâng, cùng những bài từ của mình vừa làm cho Tiêu Hậu xem. Tiêu Hậu bàn:

- Đêm nay trăng thu đang dịp sáng, thật nên nghĩ chuyện mua vui đúng hơn cả là nên lên thuyền xem trăng nước đua tài, nếu không cũng nên tìm hoa hỏi liễu để khỏi phụ lòng trời đất.

Dượng Đế đáp:

- Hiện nay ngự đạo đã mở rộng, lại mới làm thêm Trú Tất đình, cầu Nghênh Tiên, qua khỏi cầu là hiên Xướng Tình dạo nọ, những cảnh đó mà xem trong dịp này cũng thú vị đấy !

Tiêu Hậu đáp:

- Nếu như vậy, ngày mai thiếp xin theo hầu chúa thượng, đi xem một lượt.

Dượng Đế nói:

- Nếu Tiêu Hậu cùng đi, thì không thể quá sơ sài. Ngày mai chờ lúc trăng thanh gió mát, nên làm một cuộc du ngoạn đêm trăng, thì tha hồ mà thích chí.

Tiêu Hậu bàn:

- Nếu đã làm thế, thì các cung nữ phi tần, ai chưa được sang Tây Uyển, đều cho sang du ngoạn một phen.

Dượng Đế đáp:

- Như thế cũng được. Ngày mai triệu Ngự lâm quân, đem ngựa tới đây cho mọi người vừa cưỡi ngựa vừa đàn hát, trẫm cùng hoàng hậu đi trên đường ngắm trăng.

Tiêu Hậu mừng rỡ:

- Như thế thì hay lắm!

Dượng Đế tiếp:

- Trên ngựa mà ca hát thì rất tuyệt rồi. Nhưng phải có những bài thơ mới, phổ vào sênh phách, đàn sáo, mới khỏi phụ cảnh tình.

Tiêu Hậu lại bàn:

- Bệ hạ vẫn nổi tiếng tài hoa, sao không ngự chế vài chương, để thiếp cho cung nữ tập suốt đêm nay, kịp tối mai cho thêm đẹp cuộc du ngoạn.

Dượng Đế bằng lòng:

- Hoàng hậu nói phải đấy. Chờ trẫm soạn vài đoạn vậy.

Thế là vừa uống rượu, vừa vẩy bút một lúc, Dượng Đế đã viết xong bài

"Thanh dạ du khúc":

Hơi thu trùm khắp Lạc Dương

Một trời mây nước mơ màng liền nhau

Ngân Hà một dãy làu làu

Giữa ngàn cây bỗng trên đầu thấy trăng

Rãi vàng cung điện từng từng

Đêm dài phẳng lặng, bụi trần sạch tinh

Xe loan tuấn mã rập rình

Vườn tiên Vương mẫu du hành vui sao!

Mép đường hoa cỏ đón chào

Tiếng tơ tiếng trúc ngọt ngào gần xa

Thử hỏi năm, thử hỏi ba

Mâý ai biết hết cao xa rộng dài

Triều Tùy sử phép muôn đời

Hậu, phi, cung nữ sắc tài mười phân

Phong lan thiên tử nghìn lần...

Dượng Đế làm xong, đưa Tiêu Hậu xem, Tiêu Hậu đọc một lần, vội khen:

- Bệ hạ thật hào hoa phong nhã, ngọc rải châu phun, các bậc đế vương từ xưa tới nay, thật không ai bì kịp!

Rồi gọi những cung nữ giỏi đàn hát, phải tập suốt đêm cho thuộc, kịp tới ngày mai sang chơi Tây Uyển. Dượng Đế lại sai nội giám, truyền cho Chu Quý Nhi ở viện Nghênh Huy, cũng phải tập cho các mỹ nhân hát. Cắt đặt xong xuôi, mới cùng Tiêu Hậu đi nghỉ.

Chính là:

Vua hư chỉ thích vui

Vợ hư chỉ thích chơi

Dân dân nước nước tơi bời

Tiệc tùng ca hát đến đời nào thôi?

Hồi Thứ Ba Mươi Lăm

Ngày vui nhộn nhịp, đóng giả Bồ Tát Quan âm,

Đêm thu lài dài, khóc thật Chiêu Quân qua ải.

Từ rằng:

Moi kim thổ huyết

Để ai đó một người vui thích

Một chút ơn

Vắt óc nghĩ trò lố lăng kỳ quặc

Ngoài ải hoa vàng, ca réo rắt

Tù và, dương liễu phô thanh sắc

Gió càng cao

Biên tái ruổi dong thân gái

Người quốc sắc

Trăng như lụa

Trời như ngọc

Lả lướt say, ngổn ngang tiệc

Quần hồng ngựa cưỡi như bay

Lời thề biển rộng sông dài miên man

Má hồng đẫm lệ quan san.

Theo điệu "Mãn giang hồng"

Sự vui sướng trong trời đất, thật không biết thế nào là cùng. Tấm lòng của phụ nữ thì lại càng lạ lùng, khiến cho dù có là bậc anh hùng hảo hán, khí phách hiên ngang, cũng dễ thành đống xương khô tan tác như trò chơi, huống chi lại là loại vua chúa hoang dâm, thì làm sao mà giữ cho trọn vẹn được.

***

Lại nói Dượng Đế cùng Tiêu Hậu, sáng ngày hôm sau, mãi tới giờ ngọ mới ngủ dậy, liền truyền cho Ngự lâm quân, đem đến một nghìn con ngựa, sắp sẵn yên cương, năm trăm con đến chờ trước cửa cung, năm trăm con trực sẵn ở cửa Tây Uyển. Lại sắc cho Quang lộc tự, trong Tây Uyển, các lầu, các viện đều phải sắp sẵn đầy đủ mọi thứ, để bất kỳ chỗ nào cũng có thể mở tiệc rượu thết đãi các phi tần cung nữ. Chẳng mấy lúc, mặt trời đã lặn về tây, vành trăng tròn dần dần nhô cao khỏi đường chân trời. Dượng Đế cùng Tiêu Hậu, sau khi ngự tiệc rượu chiều, thay thanh long bào, tay dắt tay ra khỏi cửa cung, nhìn trăng sáng như lọc, sông Ngân lấp lánh, cả hai đều hớn hở trăm phần, cùng trèo lên ngoạn nguyệt hương xa, trong xe có đến hai hàng ghế ngồi, các màn che bốn bên xe đều được cuốn cao. Hai bên thành xe còn có thể đủ chỗ cho mấy phi tần cung nữ, hầu hạ rượu trà. Cung nữ được lệnh cưỡi ngựa, chia làm hai đội, một đội đi trước dẫn đường, một đội đi sau hộ vệ, vừa đi vừa ca hát, đàn địch. Lại được trăng sáng như ban ngày soi rõ đường ngự đạo rộng thênh thang. Cung nhân đều ăn mặc lộng lẫy, ngồi trên ngựa, bọc toàn lụa là gấm vóc, tiếng ti tiếng trúc rộn ràng, từ Đại nội kéo thẳng sang Tây Uyển.

Dượng Đế ngồi trên hương xa, nhìn ra cảnh hoa lệ bên ngoài, mặt mày hớn hở, nói với Tiêu Hậu:

- Từng nghe thuở xưa Chu Mục Vương cưỡi ngựa bát tuấn, cùng với Tây Vương Mẫu đi ăn yến ở Dao Trì, nữ nhạc hòa theo, nghìn năm coi đó là chuyện đẹp đẽ hiếm có. Nhưng cứ như trẫm nghĩ, cũng đến như cảnh này là cùng.

Tiêu Hậu cười thưa:

- Chuyện Dao Trì, Lãng Uyên đều là những chuyện hư ảo không đáng tin. Cuộc du ngoạn đêm nay mới là cảnh thực ở Dao Trì của bệ hạ vậy!

Dượng Đế cười đáp:

- Nếu cuộc vui đêm nay, mà là cuộc yến tiệc ở Dao Trì, thì trẫm chính là Mục Thiên tử, còn hoàng hậu chính là Tây Vương Mẫu vậy.

Tiêu Hậu lại cười:

- Nếu thiếp là Tây Vương Mẫu, thì lại làm bệ hạ phải khổ sở, vì nhớ Đổng Song Thành cùng Hứa Phi Quỳnh mà thôi.

Cả hai nhìn nhau cả cười.

Chẳng bao lâu, hương xa đã vào đến cửa Tây Uyển, các viện đều có các phu nhân dẫn cung nữ ra nghênh giá, viện nào cũng ca hát, đàn địch, hết đội này đến đội khác, lũ lượt kéo mãi không hết, toàn là các đội cung nữ. Kéo đến Trụ tất đình, nghênh Tiên Kiều, rồi tụ lại ở Xướng Tình hiên. Hiên này có tám cạnh, vừa cao vừa rộng, nền đài đều xây bằng đá trắng, có thể chứa một lúc hàng nghìn người. Bên trong trang hoàng gấm vóc phủ kín, đèn nến thắp sáng trưng. Dượng Đế xuống xe hương xa, các cung nữ xuống ngựa, vào hiên, Dượng Đế đưa mắt nhìn, chỉ thấy có mười bốn vị phu nhân, mà chẳng thấy Hoa Bạn Hồng ở viện Thúy Hoa, cùng Hạ Quỳnh ở Quỳnh viện Y Âm đâu cả, bèn hỏi Tần Phu Nhân ở viện Thanh Tu:

- Vì sao không thấy Hoa phu nhân cùng Hạ phu nhân đâu cả?

Tần phu nhân thưa:

- Cả hai phu nhân sắp đến.

Dượng Đế đang định hỏi thêm, bỗng nghe tiếng nhạc rất lạ tai, mỗi ngày một gần. Các cung nữ ùa ra thấy một chiếc kiệu đi lại:

- Đẹp chưa kìa!Đẹp chưa kìa!

Dượng Đế cùng Tiêu Hậu bước lên nguyệt đài nhìn ra cho rõ. Thì thấy hàng chục lá cờ ngũ sắc tiến lại, trên ngù cờ lại có một chiếc đèn lồng màu đỏ, do cung nữ ngồi trên ngựa cầm. Đội cờ quạt đi qua, lại thấy có đến bảy tám người, đội mũ lông chim, trông chẳng khác gì Trần Diệu Thường, tay cầm sênh hoặc cầm địch, cầm tiêu ngọc, vừa đàn địch vừa hát khúc "Thanh dạ du". Theo sau lại có người bưng lư trầm, một người bưng khánh ngọc. Trên cầu chiếc kiệu như một tòa núi, bọc bằng lụa trắng óng ánh, chẳng cây mà cũng chẳng lá gì cả, từ từ tiến lại. Trong hang núi, ngồi một Phật Bà Quan âm, mặt trắng như ngọc, tóc búi cao, giắt đầy thoa vàng, trâm ngọc chói ngời, trước ngực là hai dải lụa xanh quấn quýt bay tung ra hai phía, toàn thân phủ một tấm áo hồng, cánh áo bay phất phơ trước gió, một tay thì cầm tĩnh bình, một tay phất cành dương chi, phía dưới nhìn rõ đôi chân vừa trắng vừa mập mạp. Đứng hầu ngay cạnh là Hồng Hài Nhi, tóc tết dài bỏ ra hai phía, lộ rõ cả hai cánh tay ngà ngọc trắng muốt, cầm một chùm chuông bát bảo, mặc một áo lụa trắng thêu nổi lấp lánh như vẩy sừng, một cái quần màu hồng, có đính những hoa nhũ càng nổi bật dưới ánh đèn ánh trăng, hai chân cũng vừa trắng vừa tròn trĩnh, mặt mày hớn hở, ngẩng lên chào Dượng Đế cùng Tiêu Hậu, rồi lại chăm chú đứng hầu Quan âm. Trước mặt Quan âm là một án thư nhỏ, trên cắm hai ngọn nến, ở giữa có bày một lư trầm, hương bay nghi ngút, khoảng bảy tám người khiêng.

Dượng Đế tay đặt trên vai Tiêu Hậu, đang nhìn theo chiếc kiệu vừa đi khỏi, thì một toán người ngựa khác như một đám mây ập tới, tiếng nghe càng rộn ràng, cả bọn đều hướng về phía nguyệt đài nghe rõ lệnh truyền:

- Chúa thượng, hoàng hậu hiện đang ở đây, các người hãy đi vòng về phía hiên tả rồi lên viện bằng cửa sau.

Chào lễ xong xuôi, Tiêu Hậu mới nói:

- Thì ra là Hoa phu nhân!

Hoa phu nhân thưa:

- Xin mời bệ hạ cùng hoàng hậu vào trong viện để mọi người được triều kiến.

Dượng Đế đỡ Tiêu Hậu, hỏi Hoa phu nhân:

- Ai đóng Phật Bà Quan âm, ai đóng Hồng Hài Nhi, là cung nữ của viện nào mà mặt mày xinh đẹp, ăn mặc cũng rực rỡ thế?

Tiêu Hậu vội đáp:

- Người đóng Phật bà, trông có vẻ giống Chu Quý Nhi. Còn Hồng Hài Nhi thì có lẽ là Viên Bảo Nhi.

Dượng Đế cười:

- Hoàng hậu nói thế chưa hẳn đã đúng, bởi Quý Nhi cùng Bảo Nhi đều có đôi chân chẳng khác gót sen vàng của Phan Phi, đằng này cả Quan âm cùng Hồng Hài Nhi đều có đôi chân rất tròn rất trắng!

Hoa phu nhân cười thưa:

- Dạo trước nghe bệ hạ nói, bệ hạ rất thích những cung nữ có đôi chân vừa trắng vừa đầy đặn, cho nên họ cố giả làm thế để vừa lòng bệ hạ đó thôi!

Đang trò chuyện thì đã thấy đám giả trang Quan âm đi vào lạy chào, phía sau là hai cung nữ đóng giả Quan âm và Hồng Hài Nhi.

Dượng Đế kéo dậy, nhìn kỹ, quả đúng là Quý Nhi và Bảo Nhi, bèn cả cười:

- Đôi mắt hoàng hậu quả không bao giờ nhầm, rõ ràng là hai con bé này, thế còn đôi chân, thì làm thế nào cho to ra được?

Quý Nhi giơ hẳn chân lên, Dượng Đế cúi nhìn, thì ra là dùng lụa trắng mà quấn thêm nhiều vòng, ngay cả ngón chân cũng vậy dưới ánh trăng, trông chẳng khác gì trời sinh ra như vậy thôi. Dượng Đế cười:

- Đúng là bọn này nghĩ ra lắm trò tinh nghịch!

Tiêu Hậu ngày thường rất thích Bảo Nhi, nay thấy Bảo Nhi giả trang Hồng Hài Nhi rất khéo, lòng càng yêu mến, liền kéo Bảo Nhi lại gần, ve vuốt đôi tay trắng như tuyết của Bảo Nhi, thấy lạnh như băng liền khuyên:

- Trong vườn sương gió rất lợi hại, các ngươi hãy mặc ngay áo ấm vào?

Dượng Đế cũng truyền bảo Quý Nhi:

- Cả khanh nữa, áo khanh mặc cũng mỏng lắm!

Nói rồi vuốt lên ống tay áo mỏng của Quý Nhi, có ngờ đâu là chỗ vết thương của Quý Nhi ở tay vẫn chưa khỏi, thấy Dượng Đế đụng đến, vội vàng rụt tay lại nhưng Dượng Đế đã sờ được phía trên cổ tay đeo vòng, thấy có buộc lụa trắng, liền hỏi Quý Nhi:

- Tay khanh làm sao mà phải buộc?

Quý Nhi đưa mắt nhìn Tiêu Hậu, cười không nói gì cả. Dượng Đế vốn cũng là người tế nhị, thấy thế liền bỏ tay ra, không hỏi thêm nữa.

Tả hữu ồn ào:

- Lại một đoàn rất đẹp đang đi đến kìa?

Dượng Đế cùng Tiêu Hậu vội bước ra hiên, nhìn lên phía cầu, dẫn đầu đoàn người có đến mười cô gái người Hồ, mặc áo chèn, vừa ngắn vừa chật, mỗi người đều đánh đàn tranh, hoặc đàn nguyệt, có người lại thổi kèn, tiếng nghe thật não nuột, ai oán, thỉnh thoảng nghe cả tiếng phách gõ nhịp nhàng. Phía sau là hai hàng cung nữ. Bốn cung nữ cưỡi ngựa, đánh đàn tỳ bà, vây lấy Chiêu Quân vào giữa.

Chiêu Quân đầu đội mũ Phiên, có hai lông chim dài, giải vàng ngọc phủ trước trán, đuôi điêu quấn quanh, mặc một áo bào ngũ sắc, hai tay cũng ôm tỳ bà. Đang xem chăm chú, thấy Hạ phu nhân đi tới, Dượng Đế bèn hỏi:

- Người đóng Chiêu Quân có phải là Tiết Dã Nhi không phu nhân?

Hạ phu nhân đáp:

- Dạ đúng?

Rồi chỉ tay vào bốn người chung quanh Chiêu Quân.

Hạ phu nhân nói tiếp:

- Kia là Tuấn Nga, sau là Liễu Nương. Kia nữa là Thỏa Nương, sau là Nhã Nương. Bệ hạ định gọi họ lên hiên để đàn hát, hay muốn họ ở dưới đường phi ngựa?

Dượng Đế cười hỏi:

- Bọn này chỉ biết đi bộ từng bước. Nay làm sao mà lại cưỡi được cả ngựa nữa?

Lương phu nhân thưa:

- Họ đều là học trò của Chu Quý Nhi cả. Lúc nào rỗi, họ lại lấy ngựa ở trong tầu của Ngự uyển để tập, ngày nào chẳng thế!

Phàn phu nhân lại chỉ tay thưa:

- Toán phía sau lại bọn Viên Bảo Nhi đang cưỡi ngựa tới kìa!

Thì ra Bảo Nhi, Quý Nhi đã ăn mặc đồ cung nữ. Tiêu Hậu cười, nói với Bảo Nhi:

- Ngươi cũng biết cưỡi ngựa sao? Ta không thấy tập bao giờ cả?

Dượng Đế vỗ tay:

- Hay lắm! Hay lắm! Trước đây trẫm có sai Bùi Cử đổi cho người Hồ ở Tây Vực một con ngựa hay lạ lùng, ngươi mà cưỡi thì hợp lắm, không biết có đem tới đây không.

Tả hữu thưa:

- Đã đem đến chờ sẵn ở đây!

Dượng Đế truyền:

- Tốt lắm, mau dẫn ra đây!

Tả hữu vội kéo một con ngựa ra trước hiên. Bảo Nhi cười cười thưa :

- Tiện thiếp cưỡi không đẹp. Xin bệ hạ, hoàng hậu cùng các phu nhân đừng cười?

Hai chân xỏ ngay vào đôi giày mũi cong, thắt thêm một dây lụa màu xanh biếc vào lưng, chạy đến bên ngựa, một tay trắng như tuyết giơ lên, đặt vào yến cương ngựa vàng. Cũng chẳng cần nhảy lên bàn đạp nhẹ nhàng nhún một cái đã ngồi ngay ngắn trên yên rồi. Dượng Đế thấy thế thích chí khen:

- Cách lên ngựa như thế thì thật là tuyệt diệu.

Hạ phu nhân liền truyền lệnh hãy cưỡi dạo một vòng, sau đó sẽ lên hiên đàn hát. Dượng Đế liền khiêng long ỷ ra ngay bên hiên, cùng Tiêu Hậu ngồi xem, xung quanh là các phu nhân cung nữ.

Bảo Nhi cưỡi ngựa ô truy phi như bay, theo sau là một đoàn cung nữ ra roi đuổi theo. Lại thêm một toán cung nữ khác, ngựa bước thong thả theo đường trong ngự uyển đầy bóng cây che, vừa đàn vừa hát. Dượng Đế thấy thế hớn hở phán:

- Thế này mới thực là huyền diệu. Các khúc đang hát kia, không phải là khúc "Thanh dạ du" của trẫm thì phải. Mà là khúc nào khác vậy, nghe cũng rất du dương.

Sa phu nhân thưa:

- Đấy là do Hạ phu nhân, bày cho họ đóng Chiêu Quân xuất tái, nên phải tự đặt ra "Tái ngoại khúc", dạy Cho họ hát thật thuần thục, nghe cũng rất nhịp nhàng.

Dượng Đế không kịp hỏi lại, chỉ giơ tay vẽ vẽ hình gì đó trên không. Bỗng thấy khoảng hai chục cung nữ cưỡi ngựa, chẳng chia dội ngũ gì cả, như một đám mây ập tới, hồng có, xanh có, cả vàng, cả trắng nhốn nháo rất vui mắt. Rồi cả bọn lần lượt vào góc hiên tây nam, vây Chiêu Quân vào giữa, giao tất cả nhạc cụ lại cho cung nữ, lại quay ngựa ra khỏi hiên, phi về phía tây bắc cùng nhau đứng thành hàng. Chỉ còn lại trước thềm Chiêu Quân với Bảo Nhi. Cả hai đều nai nịt gọn gàng, người phi về phía phải, người phi về phía trái. Hai tay giơ cao, những dải lụa màu bay phấp phới lúc bên phải lúc bên trái.

Bỗng thấy Chiêu Quân, bay như một ánh chớp, đến nỗi Dượng Đế Tiêu Hậu cùng chúng phu nhân, đều nhổm cả dậy rướn nhìn theo, nhìn chẳng rõ là người hay ngựa, chỉ thấy như một đám mây trắng, hạ xuống một vùng tuyết cũng trắng. Lại thấy Bảo Nhi như bay, lao thẳng sang, ngồi vững vàng trên con ngựa từ phía phải chạy lại, tiếng thanh la, tiếng trống rộn ràng. Hai ngựa, hai người lại như con thoi vút phải, vút trái, gặp nhau ở giữa hiên, có đến ba bốn vòng như thế, Bảo Nhi cùng Dã Nhi mới theo nhịp nhạc tấu rộn ràng, rời khỏi yên ngựa, một chân đạp vào bàn đạp, còn chân kia giơ ra khoảng không, nửa người dựa vào thân ngựa, một tay níu vào yên ngựa, một tay ra roi, ngựa lại thay nhau chạy lúc phải lúc trái, khác nào như chim yến xuyên trong đám hoa. Cuối cùng, cả hai dừng lại giữa hiên. Dượng Đế vừa kinh ngạc, vừa sung sướng vỗ tay cả cười:

- Thật đúng là kỳ quan! Kỳ quan!

Tiêu Hậu cùng mọi người đều tỏ lời khen ngợi. Cả bọn lúc này mới xuống ngựa, bước lên hiên, Dượng Đế cùng Tiêu Hậu đều đứng dậy đón. Tần phu nhân thưa:

- Xin bệ hạ hãy chờ một lát, chúng mỹ nhân sẽ đàn hát "Tái ngoại khúc". Chỉ sợ bệ hạ đến mắt hoa, đầu váng mất thôi!

Dượng Đế đang định trả lời, thì đã thấy Dã Nhi dẫn cả bọn cung nữ vừa phi ngựa đến trước lạy chào. Dượng Đế vội xua tay, rồi kéo Dã Nhi đứng dậy, thấy rõ ràng nhan sắc chẳng kém gì Chiêu

Quân thuở trước. Dượng Đế vuốt ve âu yếm Dã Nhi rồi khẽ nói:

- Dã Nhi thật tài, thật đẹp! Trẫm làm sao mà hiểu được khanh lại có nhiều điều xuất chúng đến vậy. Nếu không có hoàng hậu nghĩ ra cuộc chơi này, thì đến hàng nghìn năm trẫm cũng chẳng làm sao mà biết được.

Bèn rút từ trong ống tay áo ra một cái quạt "Hỗn kim cung phiến", ở thu quạt có đeo một hạt ngọc để giữ cho quạt khỏi rơi, ban cho Dã Nhi. Dã Nhi tạ ơn nhận quạt. Tiêu Hậu liền hỏi:

- Sao không thấy Viên Bảo Nhi đâu?

Dương phu nhân chỉ tay thưa:

- Bảo Nhi đang trốn sau lưng hoàng hậu kia!

Tiêu Hậu quay lại cười:

- Ngươi học bao giờ mà cưỡi ngựa giỏi đến thế? Cũng phải thưởng công khó nhọc của ngươi mới được!

Dượng Đế nghe thấy liền cười:

- Không phải trẫm bên trọng bên khinh, nhưng trẫm lấy gì nữa để thưởng cho Bảo Nhi bây giờ? Được rồi, để trẫm vay của hoàng hậu vật gì vậy?

Tiêu Hậu vội vàng giơ tay rút một cành trâm vàng trên đầu mình đưa cho Dượng Đế. Dượng Đế cầm ban cho Bảo Nhi. Bảo Nhi lại không tạ ơn Dượng Đế, mà quay ra tạ ơn Tiêu Hậu, Tiêu Hậu vội ngăn lại, Dượng Đế cười mắng:

- Cái con bé này gớm thật! Cả gan thế kia à?

Dã Nhi cùng chúng phu nhân đang giở tỳ bà ra để đàn hát, thì Dượng Đế phán:

- Hãy khoan đã! Bảo bọn nội thị, hãy đem nhung, gấm rải khắp trong hiên, rồi kê đôn hoa cùng án thấp bày tiệc rượu ngồi ngay trên nền điện vậy!

Tả hữu lĩnh ý chỉ, vào bày biện xong xuôi, ra mời Dượng Đế cùng Tiêu Hậu vào. Vua cùng hoàng hậu, ngồi ngay hướng chính nam, trên hai chiếc đôn hoa thấp. Đông tây hai bên, mỗi bên là bốn bàn tiệc, đều dùng đôn hoa thấp, là chỗ ngồi của các phu nhân mười sáu viện, cùng với Viên Quý Nhi. Dượng Đế lại sai bọn nội thị, bày tiệc rượu thứ hai, cũng ngay bên cạnh trong hiên, ban cho Dã Nhi ngồi đối diện, còn các mỹ nhân thì cứ thế ngồi xếp bằng ngay trên nền nhung. Dượng Đế phán:

- Đêm nay so với các cuộc vui trước thật xứng ý hơn nhiều, hoàng hậu cùng các phu nhân, không thể không uống cho thật say.

Lại nói với các mỹ nhân:

- Các khanh cũng phải uống vài chén, sau đó hãy đàn hát, cho giọng thêm ngọt ngào, say sưa.

Cười cười nói nói, uống một hồi, bọn Dã Nhi ôm tỳ bà đứng chờ sẵn, Dượng Đế nói:

- Bài từ "Thanh dạ du" của trẫm, lúc mới đến, đã nghe đàn hát mấy lần rồi, giờ chỉ cần nghe "Tái ngoại khúc" của Hạ phu nhân nữa là được.

Hạ phu nhân thưa:

- Sao lại có thể như thế được thưa chúa thượng! Lẽ đương nhiên là phải trình bài của chúa thượng trước đã.

Dượng Đế nhân nhượng:

- Bài của trẫm hãy cứ để sau đã.

Thế là các mỹ nhân bắt đầu đàn hát. Đầu tiên Chiêu Quân ôm đàn tỳ bà, hát một khúc, lời ca như cuộn lấy mái hiên, sau đó bốn cung nữ đóng người Hồ cũng đàn tỳ bà họa theo. Khúc đầu tiên là bài từ "Phấn điệp nhi":

Trăm lạy quân vương,

Thiếp tôi xin nghìn lạy quân vương

Ấy từ ai đó vẽ đường tanh hôi

Chẳng ai giúp nước cứu đời

Cống Hồ nhi nữ uổng đời quần thoa

Đất Thiền vu tít mù xa

Mối sầu đứt ruột tỳ bà lệ tuôn.

Bài tiếp theo, theo điệu từ "Khấp Nhan Hồi" (1)

1 Nhan Hồi: học trò giỏi nhất của Khổng Tử thời Xuân Thu, còn gọi Nhan Uyên, sống thanh bạch, cơm một giẻ, nước một bầu, trong ngõ hẹp. "Thương thay Nhan Tử dỡ dang; Ba mươi mốt tuổi tách đường công danh" (Lục Vân Tiên).

Rúc một tiếng còi

Thương cha nhớ mẹ vua đòi phải đi

Một bước núi Hỗ

Một bước nút Dĩ

Rời phòng khuê rầu rĩ phong sương

Thơ hồng nhan, mình tự thương

Phong quang thiên tử, Chiêu Dương huy hoàng.

Các mỹ nhân hát nghe lên bổng xuống trầm, du dương êm ái. Dã Nhi hát lại càng nghe nỉ non, như than như khóc, cứ dạo một khúc tỳ bà, lại hát một lượt, Dượng Đế rất bằng lòng, vừa khen vừa uống hết chén rượu này đến chén rượu khác. Tiêu Hậu nói với Hạ phu nhân:

- Khúc này là từ ngoài ải xa, Chiêu Quân thương cha nhớ mẹ, nghĩ đến thân phận của mình, phu nhân cứ hết lòng nghĩ ngợi, nên nghe hay lắm. Đến khúc thứ ba là khúc gì nữa?

Hạ phu nhân thưa:

- Khúc "Thạch lưu hoa", tâu hoàng hậu?

Lãnh cung cô quạnh tiếng oan ương

Hoa mộng, trăng khuya vẫn vắng trông

Đừng bảo móc mưa ơn thánh đế

Gieo mình vạn dặm bãi hoang lương

Khoe nhà Hán đường đường thiên tử

Cũng đua đòi diệu kế Chu Lang

Công lao tướng sĩ ải quan

Khoanh tay để mặc hổ lang điên cuồng

Kèn Hồ một khúc véo von

Qua sông xa để muôn dòng lệ sa.

Bài thứ tư là "Hoàng long cổn".

Buồn một nỗi Hiền Vương trên ải

Ôm lòng thương thân gái lênh đênh

Hán triều hoàng đế ươn hèn

Chia tay sùi sụt, từng phen ngập ngừng

Người hoa vàng, dặm nghìn đằng đẳng

Mây trắng đùn, đuổi vướng áo hồng

Bụi mù mịt, chẳng buồn trông

Mày cong cong chếch, lệ ròng ròng sa.

Dượng Đế nghe đến mê mẩn tâm thần, chẳng còn biết trời đất gì nữa. Tai nghiêng nghiêng như lắng nghe, như thức, như ngủ, như tỉnh, như mê, nhưng vẫn thấy Tiêu Hậu cùng mọi người vừa nghe, vừa xem vừa sụt sùi giọt đầy giọt vơi. Dượng Đế khẽ hỏi trống không:

- Tại sao các khanh lại khóc than thế? Nay chỉ mới xem cảnh giả còn như vậy, nếu chẳng may gặp phải bước này, thì tấm thân sẽ còn ra sao nữa?

Tiêu Hậu đáp:

- Ngày trước chỉ mới Hầu Phi tử mất, mà đến nỗi bệ hạ còn xử chết cả đình thần. Đừng nói là kẻ quốc sắc thiên hương, mà ngay cả đến cung nữ bình thường, cũng không thể để rơi vào tay kẻ khác cho được

Dượng Đế xua tay:

- Thôi đừng nói nữa? Hãy nghe họ hát đã!

Giờ là khúc "Tiểu đào hồng"

Nhớ quê trong mộng mà thôi

Cửu trùng cũng chẳng đoái hoài nữa đâu!

Ngày mai ngựa tới trước lều

Thế thôi, hết thấy đất trời quê hương

Lòng tơ rối cung thương lỡ nhịp.

Ba sinh này duyên kiếp còn đâu

Cầu mong bình trị một câu

Bốn phương phẳng lặng dài lâu thái bình.

Cả trăm đàn tỳ bà đều nhất loạt nức nở ai oán; nghe chẳng khác nào gió thổi qua bờm ngựa, cát vãi vào thanh la, để cuối cùng dồn dập vút lên cao rồi tắt hẳn! Dượng Đế đứng lên, nói với Sa phu nhân:

- Quả là tài tình, quả là tài tình? Lấy văn từ của khúc này để kết thúc thì quả là vượt xa khúc "Thanh dạ du" của trẫm. Lại càng thấy phu nhân thật mẫn tiệp, tài tình.

Sa phu nhân thưa:

- Toàn những lời quê mùa dân dã, có gì đâu mà chúa thượng khen!

Tiêu Hậu nói:

- Khúc này từ ý đều thật trọn vẹn, không thay được một chữ. Đó là công khó nhọc của Sa phu nhân suốt cả ngày nay, đêm qua. Người nghe khúc này, càng thấy nghĩa nặng tình sâu của bệ hạ, tưởng bệ hạ cũng nên thưởng công khó nhọc của Sa phu nhân mới phải!

Dượng Đế đáp:

- Thì trong lòng trẫm cũng nghĩ nhất định phải thưởng rồi!

Bảo Nhi liếc nhìn Dượng Đế thưa:

- Thì từ lâu bệ hạ đã thưởng còn gì?

Dượng Đế cười mắng:

- Cái con bé này không được hỗn. Hãy chờ đó rồi ta sẽ phân xử đến ngươi!

Mọi người cùng cười, rồi thay hóa trang, lại ngồi xuống chỗ cũ.

Tiếng nhạc nhẹ nhàng bài "Thanh dạ du" cất lên. Dượng Đế vội xua tay, phán:

- Người xưa nói: Phải biết dừng lại đúng chỗ. Dẫu có vui khác nữa, trẫm cũng không dám thưởng thêm. Các khanh hãy đem chén lớn ra đây, trẫm uống vài chén nữa nào?

Tiêu Hậu nhắc:

- Trăng đã sắp lặn, ai nấy nên sửa soạn về cung thì vừa.

Dượng Đế truyền cho nội thị:

- Hãy bày thêm yến tiệc ở Vạn Hoa lâu. Các cung nữ đều cưỡi ngựa, mỗi người cầm một cái đèn lồng. Chia làm hai đội, một dội theo hoàng hậu đi đường trước núi, một đội theo trẫm, đi phía sau núi, đều kéo về dự yến tiệc ở Vạn Hoa lâu đã, rồi hãy ai về cung ấy!

Chẳng mấy chốc, bên ngoài hàng vạn ngọn đèn lồng được thắp lên, chẳng khác gì sao sa, sáng rực trước hiên, ánh hắt lên cây cối, lầu các đầy vẻ lung linh huyền ảo.

Dượng Đế, Tiêu Hậu ra khỏi hiên, cùng lên xe loan, xe rồng một lúc. Các phu nhân, quý nhân, mỹ nhân đều thong thả lên ngựa. Đi khoảng được một dặm, Tiêu Hậu từ trên xe nhìn ra, đều thấy các phu nhân mỹ nhân ở trước mặt, Tiêu Hậu vội dừng xe truyền lệnh cho các mỹ nhân:

- Chúng phu nhân đi với ta là đủ rồi. Các người phải đi theo xe của chúa thượng, cớ sao lại dồn cả vào đây, chúa thượng mà thấy không có người theo hầu, chẳng trách gì các ngươi, mà lại cho lỗi ở ta. Hãy đợi kẻo chúa thượng nổi giận bây giờ.

Các phu nhân đều tán đồng:

- Hoàng hậu thật chu đáo!

Vì vậy các phu nhân thì vây theo xe của Tiêu Hậu, còn các mỹ nhân thì dừng ngựa chờ xe của Dượng Đế. Dượng Đế lúc này đi đường sau núi, thấy các phu nhân, mỹ nhân đi theo xe Tiêu Hậu cả, nên cũng lấy làm phiền lòng, nhưng sợ lâu quá, Tiêu Hậu chờ không thấy, sẽ nghi ngại gì chăng, nên cũng phải lên xe đi tiếp, thành một đoàn. Nhưng trong lòng vẫn không thư thái, liền xuống xe, nhảy lên ngựa, vòng quanh núi mà đi. Thấy phía chân núi một người một ngựa, một đèn lồng đi tới. Dượng Đế nhận ra Thỏa Nương, Thỏa Nương vội vàng xuống ngựa. Dượng Đế vội ngăn lại rồi cầm tay hỏi:

- Cái con bé dẻo miệng này, định ở chân núi này để làm nữ cường đạo hay sao?

Thỏa Nương thưa:

- Cường đạo thì không làm được. Nhưng thiếp vì sương gió lạnh, trên người thì lại toàn áo mỏng, chả như kẻ khác có người thương, nên phải quay về viện, mặc thêm áo ấm rồi mới quay lại.

Dượng Đế vừa cười vừa mắng:

- Thật đúng là dẻo miệng, Trẫm đâu có không thương các khanh, mà lại nói như vậy cho được?

Thỏa Nương cười thưa:

- Vừa rồi thiếp nghe Bảo Nhi kể chuyện bệ hạ vuốt cánh tay Quý Nhi, vô cùng thương cảm, cho nên thiếp đùa bệ hạ vậy thôi, may mà bệ hạ không bắt tội. Không biết hoàng hậu cùng các phu nhân đâu cả rồi bệ hạ?

Dượng Đế đáp:

- Khanh chẳng cần tìm họ, đi với trẫm cũng được rồi. Trẫm đang có chuyện muốn hỏi khanh ngay bây giờ đây!

Thế là hai ngựa cùng đi song song, Dượng Đế hỏi:

- Trẫm hỏi khanh, cánh tay Quý Nhi vì sao phải buộc lụa thế?

Thỏa Nương đáp:

- Cánh tay Quý Nhi chỉ vì bệ hạ, sao bệ hạ không hiểu mà còn phải đi hỏi thiếp?

Dượng Đế nghe thế liền ngạc nhiên hỏi tiếp:

- Trẫm làm sao mà hiểu được. Tại sao lại vì trẫm, khanh nói ngay đi!

Thỏa Nương đáp:

- Thiếp không nói. Bệ hạ cứ đi hỏi Quý Nhi thì rõ ngay thôi mà!

Dượng Đế dọa:

- Khanh mà không nói ngay, trẫm sẽ không để khanh yên tâm đâu nhé!

Thỏa Nương không biết làm thế nào, đành phải đem mọi chuyện kể lại: Dượng Đế đau ốm mê man ra sao, Quý Nhi cắt thịt, lén bỏ vào siêu thuốc thế nào, kể hết lại cho Dượng Đế nghe.

Chuyện kể vừa xong, thì thấy phía sau, bảy tám ngựa phi tới, Dượng Đế quay đầu lại nhìn thì ra là bọn mỹ nhân Tuấn Nga, bèn lớn tiếng hỏi:

- Các khanh sao giờ mới đến đây?

Dã Nhi cười thưa:

- Hoàng hậu sợ bệ hạ giận, nên sai chúng thiếp quay lại hộ giá!

Quý Nhi tấm tức thưa tiếp:

- Thiếp đã nói với mọi người là bệ hạ đi theo đường sau núi này, mà không đi theo đường lớn đâu, nhưng mấy cái mụ già nhà quê này, không chịu nghe theo, làm phải đi bao nhiêu là đường vòng.

Bảo Nhi ngồi trên yên cương:

- Mấy chị này, bị em lừa một bữa nhớ đến già nhé!

Dượng Đế phán:

- Thôi được rồi, các khanh đi dẫn đường đi!

Vừa nói vừa níu lấy ngựa của Quý Nhi tiếp:

- Còn khanh thì cứ từ từ, đi sau với trẫm?

Các mỹ nhân nghe thấy thế, bỏ Quý Nhi lại sau ruổi ngựa lên trước.

Dượng Đế thấy các mỹ nhân đã đi cách đến một tầm tên bắn, liền cho ngựa đi sát vào ngựa Quý Nhi, khẽ nói:

- Khanh mau sang ngồi cùng ngựa với trẫm, trẫm muốn nói chuyện với khanh.

Quý Nhi vội nhảy khỏi ngựa, Dượng Đế đỡ cho Quý Nhi cùng ngồi trên yên ngựa của mình. Quý Nhi vứt dây cương cho cung nhân theo hầu cầm. Dượng Đế liền vội vàng hỏi Quý Nhi:

- Trẫm làm sao mà biết được tấm lòng yêu mến chủ của khanh đến thế, nếu vừa rồi Thỏa Nương không nói cho trẫm hay, thì thật là phụ cả lòng sâu nặng của khanh vậy!

Nói rồi, luôn miệng xuýt xoa cảm thán, chỉ còn thiếu rơi nước mắt nữa thôi. Quý Nhi thưa:

- Tiện thiếp chịu ơn lớn của bệ hạ, dẫu có quên cả thân mình cũng chẳng tiếc, phương chi chỉ là việc nhỏ mọn như vậy. Nhưng thật là chị Thỏa Nương, thiếp đã ân cần dặn kỹ, thế mà vẫn không nghe, vẫn cứ kể lại cho bệ hạ biết. Nay xin bệ hạ hãy "thủ khẩu như bình", chẳng bao giờ nói ra, chỉ cần có một người biết, thì hoàng hậu cùng các phu nhân đều sẽ nói thiếp xảo trá, làm như thế để được bệ hạ sủng ái riêng mà thôi!

Dượng Đế đáp:

- Cung nữ khắp trong cung, hàng nghìn hàng vạn, nhưng trẫm xem ra, chẳng qua cũng chỉ là để mua vui nhất thời, làm sao mà có kẻ nào thật lòng yêu mến như khanh cho được. Nay nếu trẫm cất nhắc cho khanh ngay, chỉ sợ mọi người ghen ghét, rồi khanh cũng khó mà sống cho yên ổn. Nay trong người trẫm may sao lại có thắt chiếc đai ngọc, là vật truyền từ đời này sang đời khác, đáng giá nghìn vàng, trẫm ban cho khanh mà giữ lấy.

Rồi rút từ lưng ra, đưa cho Quý Nhi, lại nói tiếp:

- Mai sau lúc trẫm đã về chầu trời rồi, khanh lúc ấy vẫn còn xuân sắc, trẫm sẽ viết di chỉ, khanh tìm lấy một người chồng xứng đáng, để suốt đời có chỗ mà nương tựa.

Quý Nhi nghe xong, liền rút đai ngọc ra, thưa:

- Bệ hạ nói thế, thiếp không dám nhận, xin bệ hạ hãy cầm lại đai ngọc này vậy!

Dượng Đế vội hỏi:

- Vì sao thế?

Quý Nhi thưa:

- Thiếp nghe: tôi trung không thờ hai chúa, liệt nữ không lấy hai chồng. Thiếp tuy thân phận ty tiện, nhưng cũng ít nhiều hiểu được đạo nghĩa. Chẳng cần phải nói lúc bệ hạ đang khang cường, mà dẫu mai kia lúc bệ hạ trăm tuổi, xảy ra những đổi thay không ngờ đi nữa, nếu thiếp vẫn trộm sống ở đời này, kéo dài mạng già của mình, bỏ cả nhân luân, thì thật không đáng làm người.

Nói xong, nước mắt ứa đầy. Dượng Đế thấy thế, cũng không ngăn được, nghẹn ngào nói trong nước mắt:

- Khanh đã nghĩ đến chuyện thủy chung đến như vậy, trẫm xin nguyện cùng khanh sẽ được làm vợ chồng kiếp sau nhé!

Rồi chỉ lên trời mà thề:

- Đại Tùy thiên tử Dương Quảng cùng với mỹ nhân Quý Nhi họ Chu, tình sâu nghĩa nặng, xin trăng sao chứng cho, xin thề kiếp sau sẽ kết làm vợ chồng, để vẹn duyên tình. Nếu trái lời nguyền, không đáng làm người, mà phải vùi lấp nơi ngòi rãnh.

Quý Nhi thấy Dượng Đế thề, vội vàng xuống ngựa, quỳ trên mặt đường. Dượng Đế thề xong cũng ngửa mặt lên trời tiếp:

- Kính lạy hoàng thiên, kiếp sau Chu Quý Nhi này mà không cùng chăn gối với Hoàng đế Đại Tùy, thì xin nguyện thân này giữ phận cô độc, không còn thấy được mặt trời.

Dượng Đế đưa tay kéo Quý Nhi lên ngựa, Quý Nhi vừa ngồi lên yên, thì thấy Dã Nhi phi ngựa đến tâu:

- Hoàng hậu đã về cung từ lâu. Các phu nhân cũng đang chờ bệ hạ ở viện Cảnh Minh.

Dượng Đế đáp:

- Hoàng hậu vì cớ gì mà đã về cung rồi?

Dã Nhi thưa:

- Bệ hạ cứ về sẽ thấy!

Về đến viện Cảnh Minh, các phu nhân thưa:

- Vì sao bệ hạ về chậm thế? Vừa rồi chúng thiếp cùng hoàng hậu mới về đến đây, cùng kéo tới Vạn Hoa lâu chờ bệ hạ để dự yến tiệc không ngờ có một trận cuồng phong thổi bay cả cửa cả rèm, làm tất cả đèn nến đều tắt, lại vẫn chẳng thấy bệ hạ về, càng lo sợ hơn, vì vậy hoàng hậu đã về cung trước, bảo chúng thiếp ở đây chờ bệ hạ.

Dượng Đế nghe thế, cũng thấy làm kỳ lạ, trong lòng cũng muốn về viện Nghênh Huy với Quý Nhi để cùng nhau dài ngắn chuyện trò, nhưng lại sợ Tiêu Hậu nghĩ ngợi này khác, nên đành phải lên xe về cung, mọi người cũng ai về viện nấy.

Không biết sự thể sẽ ra sao, xem hồi sau sẽ rõ

Hồi Thứ Ba Mươi Sáu

Quan Văn điện, Ngu Thế Nam thảo chiếu,

Ái Liên đình, Viên Bảo Nhi khinh sinh.

Từ rằng:

Hứng thú chưa nguôi tình chưa mỏi

Sớm nghe ra lòng bồi hồi

Ngàn vui trăm thích chuyện loanh quanh

Muốn khoe vẻ tài tử

Cắn bút bài chưa thành

Đáng khen họ Ngu nguồn văn mạnh

Liếc nhìn người đẹp ngâm nga

Cớ sao hồ nước đành gieo mình?

Thấy cảnh lòng tan nát

Dứt thịt gọi "ái khanh!" .

Theo điệu "Lâm giang sơn"

Dượng Đế vốn rất hiếu thắng, việc gì cũng cậy mình tài giỏi, kịp đến khi thảo chiếu chinh phạt, thì mới thấy mình Giang Lang tài tận (1). Viên Bảo Nhi tính tình ngây thơ, liền nói vài câu châm chọc, đến tai Dượng Đế, khiến Dượng Đế buồn rầu vô hạn. Thế mới biết chuyện tài tình thật giả cũng không phải dễ mà lừa dối cho được.

1 Giang Lang, tên thật là Giang Yêm, người thời Lương, lúc ít tuổi chăm học, thơ văn được người đời đánh giá rất cao. Về già phú quý, làm tới Quang Lộc đại phu, nhưng văn chương thì mất hết khí sắc. Người ta đồn rằng, một lần Giang nằm ngủ, thần nhân đòi mất cây bút thần, hoặc tấm lụa quý trong bụng, nên "tài tận" về già (Thành Ngữ cố sự).

***

Lại nói, Dượng Đế cùng Tiêu Hậu, sau cuộc chơi trăng, một cuộc chơi mà các đời vua chúa cũng ít đời nào có cho được như thế, trở về cung, khi trống đã điểm canh năm mới cùng Tiêu Hậu đi nghỉ, nên ngày hôm sau tới giữa trưa mới dậy. Dượng Đế vì vẫn còn hứng thú chưa hết, lại nghĩ đến những lời thề thốt nhỏ to cùng với Quý Nhi trên yên ngựa, nhớ lại cảnh trăng khuya trong sáng, tình thật khó quên, chỉ giận trước kia đối với Quý Nhi chưa thật hậu tình, định ngày mai gọi Quý Nhi vào cung, cùng nhau trò chuyện, nhưng lại nghĩ: "Hôm nay, hoàng hậu có lẽ không sang Tây Uyển, chi bằng sang viện Nghênh Huy, thân thiết riêng với Quý Nhi một phen".

Toan tính xong xuôi lại thấy một người nội giám vào tâu:

- Sa phu nhân ở viện Bảo Lâm, tối qua vì cưỡi ngựa quá sức, trở về viện đau bụng dữ dội, sau đó đẻ non một nam nhi, nhưng không sống nổi. Nay phu nhân rất yếu, thần khí hôn mê, nên vội sai kẻ bề tôi này lại trình chúa thượng biết.

Dượng Đế nghe nói, dậm chân than:

- Tiếc thay! Thương thay! Đêm qua đáng ra không được cho Sa phu nhân đi, đó chính là lỗi ở trẫm không chu đáo.

Liền sai nội giám:

- Gọi Thái y Sào Nguyên Phương, tới ngay viện Bảo Lâm, xem mạch, bốc thuốc cho Sa phu nhân.

Và truyền cho nội giám ở viện Bảo Lâm:

- Ngươi về viện, thưa với phu nhân trẫm sẽ tới thăm ngay.

Tiêu Hậu nghe nói, cũng thở vắn than dài, và cho cung nữ tới hỏi thăm tin tức.

Dượng Đế ngự thiện buổi sáng xong, lên xe rồng định tới cung Bảo Lâm, thấy Trung thư thị lang Bùi Cử, tới dâng biểu triều cống của các nước, và thưa:

- Đột Quyết ở phía bắc, các nước Cao Xương ở phía tây, các tù trưởng ở vùng Sơn Khê phía nam, đều tới triều cận, duy chỉ có Vương Nguyên ở Cao Ly cậy mạnh không đến.

Dượng Đế nổi giận:

- Cao Ly tuy là nước ở góc biển, vẫn là đất phong của Cơ Tử ngày xưa, từ đời nhà Hán, đời Tấn trở lại đây, vẫn thần phục, đều là quận huyện của Trung Quốc, cớ sao bây giờ lại như vậy?

Bùi Cử thưa:

- Sở dĩ Cao Ly dám ngang ngược bởi cậy có hai mươi tư đạo, lại có ba con sông ngăn trở là Liêu Thủy, Áp Lực Giang, với Bối Thủy. Nếu muốn chinh phạt phải thủy lục cùng tiến mới xong. Hiện nay dãy Trường Thành phía bờ biển này, nghe nói đã đổ nát, mà vẫn chưa tu bổ gì được. Đường bộ thì không nói làm gì, từ Đăng Lai cho tới Bình Nhưỡng đều phải dùng dường thủy. Cho nên phải có người trí dũng kiêm toàn, mới có thể gánh vác được việc này.

Dượng Đế nghĩ ngợi hồi lâu, rồi sắc cho Vũ Văn Thuật đôn đốc chế tạo thuyền chiến, khí giới, phong cho làm Chinh Cao Ly tổng soái, Sơn Đông hành đài tổng quản Lai Hoạch Nhi phong làm Chinh Cao Ly phó sứ, còn các tướng khác, thì cho phép Vũ Văn Thuật, Lai Hoạch Nhi tùy tiện bổ dụng. Quan lại các cấp không được cản trở, theo đúng kỳ hạn mà làm, tùy theo công trạng mà thăng thường. Dượng Đế nhân Bùi Cử tâu việc Trường Thành sụt lở ở vùng duyên hải, liền nghĩ tới chuyện tu sửa, lại sợ đem ra đình thần bàn luận, lắm ý vào ra, liền viết luôn một đạo sắc chỉ, lệnh cho Vũ Văn Chúc làm Tu thành đô hộ, Vũ Văn Khải làm Tu thành phó sứ, phía tây từ Du Lâm, kéo mãi tới Tử Hà ở phía đông, phải bồi đắp các đoạn sụt lở lại như cũ. Sai phái xong, Bùi Cử vâng mệnh trở ra. Dượng Đế lên xe về Tây Uyển. Chưa được một dặm, đã thấy Thủ uyển thái giám Mã Thủ Trung chạy theo tâu:

- Đô viện Ma Thúc Mưu, hiện giờ chờ ở ngoài cửa xin được yết kiến chúa thượng.

Lúc này Ma Thúc Mưu đào sông đã xong, cưỡi ngựa về Đông Kinh phục chỉ. Dượng Đế nghe tâu lại phải vào điện ngồi, cho Mã Thủ Trung dẫn Ma Thúc Mưu vào. Thúc Mưu cùng thừa tướng Vũ Văn Đạt, Hàn Lâm học sĩ Ngu Thế Cơ tiến vào, Thúc Mưu lạy chào xong xuôi rồi thưa:

- Đường thủy đi Quảng Lăng, hạ thần đã đào xong, không rõ đến bao giờ thì bệ hạ có thể đi tuần thú phương Nam?

Dượng Đế hỏi chuyện dùng hết bao nhân công, sông sâu nông, rộng hẹp, dài ngắn ra sao, Ma cứ thế thuật lại tỷ mỉ. Dượng Đế vừa lòng lắm, thưởng cho rất hậu, lưu lại kinh đô để sai phái, chờ ngày tuần thú phương Nam. Vũ Văn Đạt tâu:

- Sông đào đã thông, bệ hạ tuần du, cần phải có mấy trăm thuyền rồng, như thế mới đúng nghi thức thiên tử, bằng đi thuyền dân chúng bình thường thì thật là bất tiện.

Dượng Đế đáp:

- Đúng lắm!

Vũ Văn Đạt lại thưa tiếp:

- Hoàng môn thị lang Vương Hoằng rất tháo vát, bệ hạ nên lệnh cho y tu tạo, nhất định sẽ vừa ý bệ hạ.

Dượng Đế bằng lòng, lại ban sắc chỉ, mệnh cho Vương Hoằng, ở vùng Giang Hoài, phải đóng mười chiếc thuyền rồng đệ nhất hạng, năm trăm chiếc thuyền rồng đệ nhị hạng, các loại thuyền linh tinh khác một nghìn chiếc, hạn trong bốn tháng phải xong. Ngu Thế Cơ lại thưa:

- Theo như ngu ý của thần, thì thuyền rồng đóng thế nào mà chẳng khác gì điện các ở trên cạn vậy. Để không thể nào gọi đó là những thuyền hình chim tu hú, thuyền hình ngỗng. Nhưng đã thế thì việc chống chèo sẽ làm thế nào?

Dượng Đế đáp:

- Việc chống chèo thì phải có thủy thủ thôi!

Ngu Thế Cơ thưa:

- Cứ theo ngu ý, chẳng gì đẹp tốt hơn là bệ hạ dùng gấm của Thục chế thành buồm, rồi lại lấy tơ ngũ sắc, bện thành dây thật chắc, buộc vào cột buồm. Có gió thì cứ giương buồm gấm Tây Thục lên mà đi, không có gió thì bắt dân phu dùng dây tơ ngũ sắc mà kéo, thật chẳng khác gì tòa lầu, điện các mà lại có chân đi được. Chẳng sợ gì thời tiết, gió mưa?

Vũ Văn Đạt vẽ thêm:

- Chuyện này rất hay rồi. Nhưng sợ rằng dùng phu kéo, trông không được đẹp. Bệ hạ sao không sai người đến vùng Ngô Việt, tuyển con gái khoảng mười lăm mười sáu, chia ra thành từng nhóm, từng đội như các cung nữ. Không có gió thì cho kéo dây đỏ ngũ sắc, có gió thì cho ngồi ôm mái chèo quanh thuyền. Bệ hạ dựa lan can mà ngắm, thật thú vị biết bao!

Dượng Đế cả mừng, lập tức sai bọn thái giám đắc lực Cao Xương, về vùng Ngô, Việt, tuyển lấy một nghìn con gái mười lăm, mười sáu tuổi, làm đội "Điệu cước nữ" (1). Ngu Thế Cơ còn tiếp thưa:

1 Đội "Điệu cước nữ": Đội con gái làm cái chân của lâu đài, điện các. Gọi cho đẹp đội phu kéo thuyền rồng con gái!

- Thánh chỉ chinh Liêu đã có, nay sông đào lại cũng đã xong, thuyền rồng cũng sẽ có ngay. Chi bằng nay cứ lấy danh nghĩa là chinh Liêu, còn chuyện tuần thú phương Nam làm sự thực, cũng không nói là trưng binh, chẳng cần phán là thu lương, chỉ cần ra một đạo chinh Liêu chiếu thư, bá cáo khắp thiên hạ. Nước Liêu là nước nhỏ, tự nhiên nhìn gió bay cờ mà hàng phục, trong khi đó thì bệ hạ vẫn đi tuần du Quảng Lăng. Thế có phải là lo một mà được hai việc không?

Dượng Đế lại càng hớn hở:

- Khanh nghĩ thật không chê vào đâu được? Cứ như lời khanh tâu mà làm.

Chúng quan lạy chào ra khỏi điện. Dượng Đế vì bàn bạc mọi chuyện, quên hẳn việc đến viện Bảo Lâm, thấy Quý Nhi cùng Bảo Nhi hai người tới. Dượng Đế hỏi:

- Các khanh từ đâu tới?

Bảo Nhi thưa:

- Bọn thiếp từ viện Bảo Lâm, thăm Sa phu nhân rồi tới đây.

Dượng Đế sực nhớ:

- Đúng rồi? Sức khỏe Sa phu nhân ra sao rồi!

Quý Nhi thưa:

- Sức khỏe thì thái y nói không có gì đáng ngại. Chỉ tiếc là không thể nào cứu được Thái tử.

Dượng Đế nói với Quý Nhi:

- Khanh hãy đi trước nói thay cho trẫm là, từ sáng tới giờ, trẫm phải lo thảo chiếu thư, không lúc nào rỗi, đợi công việc xong xuôi, trẫm sẽ tới thăm ngay. Nói xong, khanh lại đến đây.

Quý Nhi vâng mệnh trở ra.

Dượng Đế cùng Bảo Nhi tới Quảng Văn điện định tự tay viết chiếu thư, để khoe khoang với bề tôi. Nhưng ai ngờ muốn thì dễ, nói cũng dễ, chỉ có làm mới khó thôi. Dượng Đế cầm bút, nghĩ phải nghĩ trái, nghĩ đi nghĩ lại, nâng lên đặt xuống, mà chỉ được hai ba hàng, giơ lên xem lại, vẫn thấy không được, câu chẳng ra câu, ý chẳng ra ý, trong lòng vô cùng bực tức, đặt bút xuống, đứng dậy, đi loanh quanh một vòng, vừa đi vừa nghĩ ngợi. Bảo Nhi thấy thế khẽ cười thưa:

- Bệ hạ chẳng phải là từ thần, cũng chẳng phải sử quan, việc gì phải lao tâm khổ tứ đến thế?

Dượng Đế đáp:

- Nếu trẫm không ngự lãm việc này, chỉ sợ rằng các quan ở Viện Hàn Lâm, chẳng người nào chân tài thực học có thể làm được.

Bảo Nhi thưa:

- Ở Viện Hàn Lâm nhất định sẽ có người biết việc thảo chiếu, viết thư, soạn sách trình bệ hạ. Nay bệ hạ chỉ cần chọn một người vốn tài cao học rộng, gọi vào điện, cho thảo thử xem sao. Nếu chưa thật vừa ý, thì sửa lại. Việc gì phải trầm tư mặc tưởng khổ sở đến thế?

Dượng Đế lại nghĩ ngợi một hồi rồi phán:

- Có đây rồi!

Bảo Nhi vội hỏi:

- Ai thế? Thưa bệ hạ!

Dượng Đế đáp:

- Anh em nhà Hàn Lâm học sĩ Ngu Thế Cơ, tên gọi là Ngu Thế Nam, hiện đang giữ chức Bí thư lang. Người này có tài học lớn, nhưng không chịu sống hòa thuận với ai bao giờ, nên đã mấy năm nay vẫn chưa được thăng thưởng gì cả. Nay có việc thảo chiếu thư này, hãy gọi vào đây, lệnh cho viết thử xem sao?

Liền gọi hoàng môn gấp đi tuyên triệu Ngu Thế Nam, vào ngay Quảng Văn điện nghe mệnh hoàng đế.

Chẳng bao lâu, hoàng môn đã đưa Ngu Thế Nam vào. Lạy chào xong, Dượng Đế phán:

- Gần đây Liêu Đông Cao Ly cậy xa không chịu triều cống, trẫm sẽ thân chinh thảo phạt, nhưng trước hết cần phải viết một đoạn chiếu thư, báo cáo với bốn phương. Sợ Hàn Lâm Viện thảo không xứng ý trẫm, sực nhớ ra khanh là bậc tài học uyên bác, tất có những chỗ lập luận diệu kỳ, văn từ sâu sắc, nên triệu khanh vào đây, thảo cho trầm một tờ chiếu vậy.

Ngu Thế Nam thưa:

- Tiểu thần tài sức quê mùa, may ra chỉ tả được cảnh mây, gió, trăng, hoa, chứ làm sao mà hiển dương được thánh ý!

Dượng Đế đáp:

- Khanh không phải nhún nhường quá thế!

Rồi sai hoàng môn, kê một án thư riêng ngay bên phải điện Quảng Văn, rèm gấm vây quanh, đem đủ giấy, mực, nghiên, bút đặt trên án thư, lại ban cho đôn gấm để ngồi. Ngu Thế Nam tạ ơn, mở giấy ngự cũng chẳng phải nghĩ ngợi gì lâu, cầm bút mà viết, chẳng khác gì rồng cuốn rắn lượn, gió quét từng đợt trên giấy, không một lúc ngừng tay, chẳng mấy chốc đã viết xong, đưa trình Dượng Đế, Dượng Đế mở ra xem, thấy viết:

"Đại Tùy Hoàng Đế, vì Liêu Đông Cao Ly lỗi đạo lớn tôi con, nên phải cất quân chinh phạt. Trước xuống chiếu cho bốn phương thấy rõ uy vũ của thiên triều, đức dày của thánh đế.

Chiếu rằng:

Trẫm nghe:

Vũ trụ không hai vùng trời đất

Cổ kim chỉ một đạo vua tôi

Hoa Di tuy cách, nhưng hoàng đế giáo hóa không phân nội ngoại

Phong khí dù riêng, mà thần dân tôn triều chẳng kể xa gần

Nếu thuận thì lấy đức mà vỗ về, ban ơn mưa móc

Nếu nghịch thì dùng uy mà răn đánh, nổi giận búa rìu

Muôn phương triều cống, Nghiêu Thuấn nhận để mừng chữ thái bình

Một đứa ngoan ngu. Văn Vương dùng để lo câu răn dạy.

Thế cho nên:

Cao Tông có việc đánh Phương Quỷ (1), không nề khó nhọc ba năm

Hoàng Đế đem quân diệt Trác Lộc (2) chẳng ngại gian nan trăm trận

Đánh rợ Hiểm Doãn (3) vị nguyên lão nhà Chu thành công

Khắc đá núi Yên Nhiên (4) tướng Phiên diệu nhà Hán đại thắng

Từ xưa các bậc thánh đế minh quân chưa hề có việc thôn tính Di dịch, mà luôn luôn một dạ khoan dung

Huống chi Liêu Đông Cao Ly vốn trong vòng Điện Bặc (5) mà sao dám:

Ngạo nghễ không theo, tổn thương lượng cao dày của đấng vương giả

Ngông nghênh quen thói, xúc phạm uy sấm sét của trời Trung Hoa.

Cho nên:

Chỉnh đốn can qua, rạng rỡ thiên triều danh phận

Quan minh sát phạt, răn đe ngu tối lăng loàn

Hổ bôn ngàn đội, xông vào tổ mối, khác nào tuốt lá khô, bóp gỗ mục

1 phương Quỷ: miền đất thuộc vùng Quý Châu, Thanh Hải ngày nay. Vua Cao Tông nhà Thương phải tự thân dẹp loạn ba năm.

2 Trác Lộc: Hoàng Đế, một trong ngũ đế của thời tối cổ ở Trung Hoa, đem quân diệt bộ lạc Trác Lộc ở phía bắc.

3 Hiểm Doãn: Tên gọi một dân tộc thiểu số phía bắc, đã từng bị Chu Công Đán, nguyên lão của Chu Thành Vương đánh dẹp.

4 Yên Nhiên: Phiêu diệu tướng quân Đậu Kiến, nhà Hán, dẹp xong Hung Nô phương Bắc, về đến núi Yên Nhiên khắc chữ vào đá núi để ghi công trạng.

5 Điện Bặc: Vùng đất gần kinh đô, vẫn được thiên triều giáo hóa.

Châu chấu một đàn, chống cự xe trời, đúng như cày vườn trống, cuốc ruộng hoang

Bảo cho:

Nếu biết mau mau đổi nết biết điều, thì cũng được nhờ ơn như Tam

Mêu thuở trước

Bỏng như ương bướng giữ bề ngoan cố, thì sẽ chịu lây tội như Lâu

Lan ngày xưa.

Thương vì:

Cũng thể dân đen, lẽ nào gạt ra vòng che chở

Đều bầy con đỏ, không nỡ lột hết manh áo quần

Sáu quân dậy đất, há như nghìn đội vương sư

Năm sắc rợp trời, cũng để hiếu sinh một cửa

Nộp khoản kịp thời, chuộc mình còn kịp

Binh hùng kéo đến, trăm miệng khôn phân

Sớm khá trước lo

Khỏi bề sau hối.

Nay chiếu

Đại nghiệp, năm thứ 8, tháng 9, ngày 22 (1)

1 Tức năm 613, sau công nguyên, Việt Nam lúc này cũng đang ở thời kỳ thuộc Tùy.

Dượng Đế xem hết, cả mừng, cười lớn:

- Bút chạy không lúc ngừng tay, văn chẳng hề phải chữa một chữ. Khanh thực là bậc kỳ tài. Người xưa nói: văn chương Hoa Hạ, nay thấy khanh thảo chiếu, mới thật rõ thế nào là Hoa Hạ. Lần này bình định Liêu Đông, công của khanh quả là không nhỏ. Vậy phiền khanh viết luôn cho.

Liền gọi thị thần đem một tờ hoàng ma, là thứ giấy quý chuyên dùng viết chiếu thư của hoàng đế, trải lên án thư. Ngu Thế Nam, không dám không tuân, lập tức cầm bút, rõ ràng từng chữ theo lối chữ khải, viết lên giấy hoàng ma. Dượng Đế thấy thế, càng thêm trân trọng nhân tài, khen ngợi mấy câu, nhưng bởi Ngu Thế Nam phải chăm chú để viết, không thể nào trình tâu ngay được. Lúc này Bảo Nhi cũng đứng hầu một bên, nên Dượng Đế định quay lại nói chuyện với Bảo Nhi, thì thấy đôi mắt Bảo Nhi tròn như hạt châu, đang như ngây như dại nhìn Ngu Thế Nam viết chữ, đến quên cả chớp mắt, Dượng Đế thấy thế bèn không lên tiếng nữa, mặc cho Bảo Nhi nhìn.

Có lẽ Bảo Nhi thấy lúc Dượng Đế thảo chiếu, bứt đầu vò tai khổ sở mà chữ nghĩa vẫn không ra, nay thấy Ngu Thế Nam múa bút chữ như rồng bay phượng múa, trong lòng thầm nghĩ: "Vô tài dầu có gắng sức gia công cũng chẳng nên trò gì. Thực tài thì thật là tha hồ tung hoành ngang dọc". Lại thấy Ngu Thế Nam dáng người thanh thoát, nhẹ nhàng, đến như không mang nổi áo, đúng như cổ nhân thường khen: "Nhược bất thắng y", cho nên lại càng làm Bảo Nhi thất thần. Mãi lúc sau, quay đầu nhìn lại, Dượng Đế đang chăm chú nhìn mình, như thấy rõ những ý nghĩ sâu kín ấy nên giật mình sợ hãi, mặt mày đỏ bừng, trong người bứt rứt không yên, chẳng nói nên lời, nhìn Dượng Đế. Dượng Đế cũng chẳng nói gì, chỉ lặng lẽ cười, biết rõ tính tình của Bảo Nhi lâu nay, nên Dượng Đế cũng chẳng nghi hoặc gì lắm.

Ngu Thế Nam viết xong chiếu, trình lên, Dượng Đế thấy nét chữ tươi đẹp rõ ràng, trong lòng mười phần hoan hỉ, gọi ngay tả hữu, rót thưởng cho ba chén rượu, lấy làm nhuận bút. Ngu Thế Nam bái nhận cạn chén, Dượng Đế hỏi:

- Khanh thật có tài nhả ngọc phun châu, lời lời hàng hàng uẩn súc thật đáng phục. Nhưng không biết những chuyện người đời đồn đại có đáng tin không?

Ngu Thế Nam thưa:

- Chuyện ngụ ngôn của Trang Tử, là những lời phúng thích rất đẹp đẽ nhưng đều là những điều huyễn hoặc của mồm miệng từ chương. Kẻ quân tử có tình mà chưa nói hết lẽ, cũng chưa đáng tin. Nếu được như sử ghi; kinh truyện thì tuy có kỳ quái, vẫn còn có chỗ đáng tin được.

Dượng Đế lại hỏi:

- Trẫm xem "Triệu Phi Yến truyện", nghe nói Triệu có thể đứng múa trên bàn tay người khác, lưng eo nhẹ nhàng, chưa đầy chét tay, gió thổi cũng có thể bay. Thường ngờ rằng kẻ làm văn chương có thêm bớt ít nhiều, phụ nữ trên đời này, mấy ai được như thế. Nay hãy cứ trông dáng điệu của Bảo Nhi đây, mới thấy rằng người xưa kể lại cũng không phải là chuyện hư ảo cả.

Ngu Thế Nam thưa :

- Viên Mỹ nhân có dáng dấp thế nào kia? Thưa chúa thượng!

Dượng Đế đáp:

- Bảo Nhi thì có nhiều dáng dấp ngây thơ, chả cần bàn đến cả làm gì, chỉ việc thấy khanh vung bút, đã nhìn chăm chú, mắt không muốn rời, thật là có ý khâm phục tài năng, cũng không phải là một dáng dấp đẹp hay sao. Khanh là kẻ có tài, hãy đừng phụ tấm lòng như vậy, thử làm một bài thơ về việc đó, để cho Bảo Nhi có thể cùng với Phi Yến, được truyền tụng trên đời này chăng?

Ngu Thế Nam nghe ra, không tiện chối từ, bước đến bên án, chẳng nghĩ gì lâu, cầm bút viết ngay bốn câu, trình lên Dượng Đế cầm xem thấy:

Bút hạ hoa tiên nét chửa thành

Vén tà áo đỏ đứng ngây nhìn

Bởi thế dung nhan càng yểu điệu

Lên điện thường theo chúa thánh minh.

Dượng Đế xem xong thích lắm, bèn nói với Bảo Nhi:

- Thật là những câu thơ tuyệt tác, chẳng phụ lòng ngươi đứng ngây nhìn cảm phục.

Lại sai ban cho ba chén rượu, Ngu Thế Nam uống xong, từ tạ ra khỏi điện, Dượng Đế còn hứa:

- Khổ khanh phải hết văn đến thơ, ngày khác trẫm sẽ thăng thưởng.

Ngu Thế Nam lại phải tạ ơn một lần nữa.

Chính là:

Văn chương chẳng biết nơi nào bán

Chinh chiến mà yên đến bỏ thừa!

Dượng Đế thấy Ngu Thế Nam đã về, bèn đưa chiếu thư cho nội tướng, huyện lệnh cho bộ Binh đem bá cáo khắp bốn phương, để khắp miền đều biết hoàng đế sẽ ngự giá chinh phạt. Nội tướng vâng mệnh, Dượng Đế lại cầm bài thơ của Ngu Thế Nam, đưa cho Bảo Nhi:

- Ngu Thế Nam chỉ trong phút chốc mà làm được bài tứ tuyệt này. Vừa mẫn tiệp, vừa có ý, có tình vậy.

Bảo Nhi cười thưa:

- Nghĩa của bài thơ ra sao, tiện thiếp quả không hiểu. Nhưng trông chữ viết thì thật là hàng hàng gấm thêu.

Dượng Đế lại cười, khẽ nói:

- Ngày mai, trẫm sẽ đem khanh thưởng cho Ngu Thế Nam làm vợ bé, ý khanh ra sao?

Bảo Nhi thấy nói thế, vội mặt ủ mày chau, lặng yên không đáp.

Dượng Đế đang còn định đùa Bảo Nhi nữa, bỗng thấy phía khóm tường vi bên trái, nghe như có ai đang thổi tiêu. Dượng Đế bèn đứng dậy, lững thững ra xem sao, loanh quanh một lúc, quay lại, không thấy Bảo Nhi đâu cả, đang định cho người tìm, thì nghe ở phía Ái Liên đình phía tây, có tiếng la hét.

- Có người nhảy xuống hồ!

Nguyên do Bảo Nhi giận mình trong một lúc lỡ ý, xem Ngu Thế

Nam thảo chiếu, để Dượng Đế nhận ra, muốn đem Bảo Nhi tặng Ngu Thế Nam, chẳng phân biệt được lời đùa lời thật, tự giận mình, liền lặng lẽ đi ra, nhảy xuống hồ, để may ra thanh minh cho tấm lòng của mình chăng?

Dượng Đế đi lại phía hiên tây của ái Liên đình, thấy một nội tướng ẩm từ dưới hồ lên một cung nga, nhận ra Bảo Nhi, giật mình hoảng hốt. Bảo Nhi mặt mày nhợt nhạt, hai mắt nhắm chặt, cả người đầm đìa những nước, Dượng Đế vào đình, ngồi lên trên một bệ cao, gọi nội tướng khiêng Bảo Nhi lại, hỏi nguyên do:

- Có phải vừa rồi Bảo Nhi ra hồ rửa tay, hay làm gì đó, rồi trượt chân ngã xuống hồ không?

Một nội giám thưa:

- Vừa rồi kẻ hèn này ngẫu nhiên đi tới đây, thấy Viên Mỹ nhân mặt mày đẫm lệ, chạy nhanh về phía hồ, nhảy xuống rõ ràng.

Dượng Đế cười hỏi Bảo Nhi:

- Cái con bé ngớ ngẩn này, gây ra chuyện là bởi tại làm sao?

Rồi cùng với nội giám cởi áo ngoài ra cho Bảo Nhi, thì mới thấy cả quần áo trong đều đã ướt cả, liền sai cung nhân, mau lấy quần áo khác cho Bảo Nhi thay. Dượng Đế thấy mọi người đã đi xa, bèn hỏi tiếp:

- Vừa rồi trẫm chỉ mới đùa thế, sao khanh lại cho là chuyện thật. Trẫm làm sao mà thiếu khanh một giờ một khắc cho được!

Bảo Nhi thấy nói thế mới tấm tức khóc, thì Hán Tuấn Nga cùng Chu Quý Nhi, tay mang quần áo từ từ đi lại, vừa đi vừa cười. Tuấn Nga hỏi:

- Đây là vì bệ hạ cần các cô gái giặt lụa, "Hoãn sa nữ" (1) ôm đá mà gieo mình xuống sông đây mà!

1 Cô gái giặt lụa: Ngũ Viên chạy trốn, gặp một người con gái đập sợi ở bờ sông vắng. Hỏi xin cơm, ăn xong, bỏ đi. Được một đoạn quay nhìn, thấy người con gái ôm đá nhảy xuống sông tự tử. Vì trước khi đi, Ngũ Viên căn dặn mãi đừng nói chuyện với ai. Cô gái cho rằng mình có lỗi với chồng vì đã nói chuyện với đàn ông, lại bị Ngũ Viên nghi ngờ, nên ôm đá nhảy xuống sông tự tử (Đông Chu liệt quốc).

Dượng Đế đem chuyện Ngu Thế Nam thảo chiếu, cùng lời đùa của mình kể lại một lượt. Quý Nhi gật gật đầu khen:

- Phụ nữ phải cương quyết thế mới được.

Rồi cả hai thay quần áo cho Bảo Nhi, Quý Nhi thấy vạt long bào của Dượng Đế có vấy ít bùn nước, đòi đem áo khác để Dượng Đế thay, Dượng Đế không nghe mà còn nói:

- Trẫm phải mặc cái áo này, để biểu dương gương trinh liệt của mỹ nhân.

Tuấn Nga cười thưa:

- Bệ hạ không thể hiểu được chúng thiếp đã phải chiều chuộng con bé này thế nào. Thật là từ nhỏ đã không dám đụng đến nó, chỉ sợ rồi nó lại nổi cơn ngây dại, cho nên chẳng bao giờ dám nói nặng một lời.

Bảo Nhi thấy nói thế, liền cầm cái quạt ở tay Dượng Đế, đánh vào vai Tuấn Nga mà mắng:

- Thật là giống yêu tinh nhà chị! Tôi là con chị đấy hẳn?

Tuấn Nga cười đáp:

- Chị Quý Nhi thử xem, cái con yêu tinh này, thấy bệ hạ thương nó, nó lại thêm ngỗ ngược.

Rồi rũ rượi cười mãi không thôi. Dượng Đế giục:

- Thôi không nói đùa nữa. Các khanh hãy theo ta đến viện Bảo Lâm đi!

Đến viện Bảo Lâm, Dượng Đế lại trước giường, hỏi Sa phu nhân:

- Phu nhân, khanh thấy trong người thế nào? Đã uống thuốc chưa?

Sa phu nhân thưa:

- Tối qua thiếp du ngoạn, không ngờ xảy ra chuyện này, nghĩ là không còn được thấy chúa thượng nữa kia!

Dượng Đế đáp:

- Nếu phu nhân thấy đi lại đã khó khăn như thế, đáng ra là nên đi hương xa, thì đâu đến nỗi như thế. Đó chính là vì trẫm chưa thật chu đáo, không nghĩ đến chuyện điều độ, vừa phải cho các khanh, nên đến nỗi này!

Sa phu nhân đáp trong nước mắt:

- Cũng bởi tại tiện thiếp phúc mỏng mệnh bạc, đến nỗi không giữ trọn hậu duệ của chúa thượng. Thiếp thật đáng tội, bệ hạ nào có lỗi gì đâu?

Rồi lại giọt ngắn giọt dài, Dượng Đế phán:

- Phu nhân chẳng nên phiền não. Tần Vương Dương Hạo, hoàng hậu rất thương yêu. Triệu Vương Dương Cảo, nay đã bảy tuổi, do Lã Phi sinh ra, chẳng may Lã Phi đã qua đời. Trẫm đem Dương Cảo làm con của khanh, thế là kẻ mất mẹ nay có mẹ, người mất con nay có con. Không biết ý của phu nhân thế nào?

Quý Nhi đứng bên cạnh liền thưa:

- Triệu Vương cốt tướng khác thường, nếu được như vậy, thì thật là ơn sâu của bệ hạ. Sa phu nhân sao lại không mừng. Chúng thiếp rồi cũng được nhờ đội ơn sâu.

Sa phu nhân định trở dậy tạ ơn, Dượng Đế vội cản lại không cho. Bảo Nhi thưa:

- Phu nhân ngọc thể chưa an. Để chúng thiếp thay mặt lạy tạ ơn chúa thượng.

Các Mỹ nhân tề nhất quỳ lạy. Dượng Đế vội kéo dậy, rồi truyền:

- Đợi trẫm chọn ngày nhất định. Phu nhân hãy lo điều dưỡng cho chóng khỏi để rồi còn cùng trẫm tuần du Quảng Lăng nữa.

Bỗng thấy một nội giám, tay bưng một cái bình đẹp quỳ thưa:

- Tâu bệ hạ! Vương Nghĩa vừa mới nấu được cao "Vạn thọ diên niên", đến chờ ở cửa để dâng lên bệ hạ.

Dượng Đế cả mừng, nói:

- Ta đương có chuyện này định nói với y, cho gọi vào đây!

Vừa nói vừa đi ra phía điện, Vương Nghĩa vào quỳ lạy dưới thềm. Dượng Đế hỏi:

- Nhà ngươi nấu được cao gì quý vậy?

Vương Nghĩa thưa:

- Hạ thần vừa rồi nhân dịp tiết xuân, về vùng Nam Hải dâng hương. Giữa đường gặp một đạo trưởng, nói có bắt được ở trong núi một con hươu, chuyên ăn linh dược thảo, đem về nấu với nhụy của trăm hoa, thành một loại cao, uống vào có thể giữ cho khí huyết phương cương, kéo dài tuổi thọ. Hạ thần đem về, chăm chú pha chế, kính dâng bệ hạ, để tỏ chút lòng hiếu kính vậy.

Dượng Đế phán:

- Đó cũng là một việc thật đáng khen. Không lâu nữa trẫm sẽ tuần du Quảng Lăng, khanh phải thu xếp để cùng đi với trẫm. Ta ủy cho khanh coi sóc mấy chiếc thuyền rồng đệ nhất đẳng, không được sai sót.

Vương Nghĩa thưa:

- Cuộc tuần du này, nhất định hạ thần xin được theo hầu bệ hạ. Còn Khương Đình Đình xin cũng được theo hầu hoàng hậu.

Dượng Đế mừng nói:

- Ở dưới thuyền không như ở trong cung, nếu được cả hai vợ chồng khanh cùng di theo, càng thấy rõ tấm lòng hiếu thuận của khanh. Lại còn việc này nữa, đêm qua, trẫm cùng các phu nhân làm một cuộc chơi trăng, chẳng ngờ Sa phu nhân ở viện Bảo Lâm bị động thai, đẻ non mất một hoàng nam. Phu nhân đang rất đau xót. Trẫm còn thương cả Triệu Vương mất mẹ, nên đem cho làm con Sa phu nhân, cùng nương dựa lẫn nhau, khanh thấy thế nào?

Vương Nghĩa thưa:

- Hạ thần nghe Sa phu nhân vốn khoan hậu, đoan trang, Triệu Vương làm con thật là hợp ý, cũng đủ thấy tấm lòng nhân đức cao cả của bệ hạ.

Dượng Đế phán:

- Đó chính là do lòng yêu con của trẫm. Nếu như khanh nói, thì bên trong đã có Sa phu nhân cùng các mỹ nhân bảo dưỡng, còn bên ngoài thì phiền khanh trông nom hộ cho, giữ chức Phó bảo. Khanh hãy vì trẫm mà khắc một cái ấn ngọc phù hình vuông, trên có mấy chữ: "Triệu Vương, Dương Cão, tứ dữ Sa Ánh Phi tử vi tự" (l). Khắc xong, khanh cứ lặng lẽ đem vào đây cho trẫm.

1 Triệu Vương, Dương Cảo, ban cho phi tử Sa Ánh làm con.

Vương Nghĩa thưa:

- Thần hiểu rồi!

Dượng Đế truyền Bảo Nhi:

- Hãy đem ra đây cho ta hai tấm lụa dệt bằng tơ của loại sâu lạ trên núi, ban cho Vương Nghĩa.

Bảo Nhi đem tới, Vương Nghĩa lạy tạ ơn rồi ra khỏi ngự uyển.

Chính là:

Tình chàng gửi lại cho nàng

Vì yêu nhan sắc lời vàng chẳng quên

Nhưng rồi cuộc thế biến thiên

Thị phi sau trước có bền được đâu!

Hồi Thứ Ba Mươi Bảy

Tôn An Tổ thuyết phục Đậu Kiến Đức hết lẽ,

Từ Mậu Công kết giao Tần Thúc Bảo buổi đầu.

Từ rằng:

Vua sáng suốt hoang dâm hết mực,

Trời cao xanh đùa cợt đầy vơi

Đua nhau một điểm hùng tài

Mịtt mù khói bụi, sáng ngời can qua

Chẳng phân biệt đâu là thật mộng

Rối bòng bong hai giống tình hoài

Huệ lan thơm nức trên đời

Buồn vui tan hợp an bài từ lâu.

Theo điệu "Ô dạ đề".

Làm khổ trăm họ hơn cả công việc thổ mộc là việc đánh nhau giặc giã. Nó cướp đoạt tài sản, sức lực, tính mạng của dân chúng, làm cho vợ chồng, anh em, họ hàng, mỗi người một nơi, trẻ em mồ côi, đàn bà góa chồng, toàn những chuyện thương tâm, nghe ra đã thấy đỏ mắt, cay mũi.

***

Lại nói chuyện Sa phu nhân sẩy thai, Dượng Đế đem Triệu Vương, đứa con mồ côi mẹ của mình làm con Sa phu nhân, lại sai Vương Nghĩa khắc ngọc tỷ ban cho, thêm nữa, chuyển Chu Quý Nhi sang viện Bảo Lâm, để cùng lo việc chăm sóc Triệu Vương, những mong nghĩ kế lâu dài. Nhưng có thấy đâu rằng, khắp thiên hạ, chúng dân nổi lên như ong, đến nỗi nước mất nhà tan ngay trước mất.

Hãy nói Vũ Văn Chúc, Vũ Văn Khải sau khi được lệnh, lập tức làm văn thư đi khắp chín châu, lấy dân phu, đòi lương tiền, chẳng kể sức dân ra sao, chỉ cốt dùng hình phạt nặng nề để đốc thúc, đến nỗi dân lành chẳng còn đường nào khác là làm giặc cướp. Những kẻ có nhà cửa, gia đình, thì luôn bị bọn tham quan ô lại, mượn gió bẻ măng làm tình làm tội, thuế má nặng nề, lao dịch khổ sở, dầu có muốn tìm chốn Đào nguyên để tránh vạ Tần cũng khó (1).

1 Nguồn Đào: Một người đánh cá, bơi thuyền ngược suối, thấy hai bờ toàn hoa đào, đi sâu qua hang, thấy làng xóm dân cư trù phú. Hỏi ra là dân đời Tần, trốn vào đây để tránh sự hà khắc của Tần Thủy Hoàng, rồi chẳng bao giờ ra bên ngoài nữa (Đào hoa nguyên ký)

Lúc này Thôi Nhượng tụ tập ở Ngõa Cương, Chu Sán ở Thành Phụ, Cao Khai Đạo chiếm Bắc Bình, Ngụy Diêu Nhi cát cứ vùng Yên, Vương Tuy Bạt xây đồn lũy ở Thượng Cốc, Lý Tử Thông giữ Đông Hải. Tiết Cử thì vùng Lũng Tây, Lương Sư Đô ở Sóc Phương, Lưu Vũ Chu cố giữ Phần Dương, Tả Hiếu Hữu thì giành vùng Tế Quận, Hách Hiếu Đức ngồi ở Bình Nguyên, Từ Nguyên Lãng xưng vua ở Lỗ Quận, Đỗ Phục Uy tại Chương Khâu, Tiêu Tiên xưng bá vùng Giang Lăng. Bọn này phần lớn cũng đều là quan quân nhà Tùy cũ, tụ tập lính tráng, dân đinh nổi dậy làm giặc cướp, chiếm giữ một vùng. Lại thêm rất nhiều lục lâm, hảo hán, những bậc hiền đức quay về ẩn dật, ngồi đợi thời, chưa xuất đầu lộ diện.

Lại nói chuyện Đậu Kiến Đức, đem con gái cùng đến Nhị Hiền trang ở với Đơn Hùng Tín. Thỉnh thoảng cũng có đi đây đi đó, thường thì một giờ một khắc cũng lâu quá, nhưng nếu gặp tri kỷ, thì hàng năm cũng là ngắn. Hùng Tín vẫn giao kết rộng rãi, thường có bạn bè đến chơi, rủ đi quận này phủ khác, cho nên cũng biết ngay chuyện Tần Thúc Bảo trỡ về sống cuộc đời ẩn dật, phụng dưỡng mẹ già. Biết được việc này Hùng Tín rất vừa lòng, cho nên lại càng thận trọng, chưa muốn ra mặt thi thố với đời vội, vẫn ngồi ở Nhị Hiền trang, cùng Kiến Đức luyện bàn võ nghệ.

Quang âm thấm thoát, Kiến Đức ở Nhị Hiền trang đã được hơn hai năm. Một hôm, Hùng Tín có việc đi khỏi trang, Kiến Đức buồn bã ra cổng trang trại lang thang đi lại, thấy dưới bóng râm của rặng liễu bên đường, năm sáu nông phu ngồi nghỉ, có người đang ăn cơm, trước mặt là một dòng suối trong suốt, một chiếc cầu nho nhỏ bắc qua, phía nam cầu là một nhà sàn chênh vênh. Kiến Đức thong thả qua cầu, đến đứng bên nhà sàn, xem mấy con trâu lội qua suối, lại nghe cả tiếng suối chảy róc rách qua những khe đá, lẫn với tiếng chim hót thật êm ả, thanh bình. Lúc này thì lòng những quên chuyện lợi danh, để vui với cây cỏ chim muông.

Bỗng thấy từ xa, một thanh niên cao lớn đi lại, đầu đội mũ cỏ, mình mặc áo ngắn, vai khoác tay nải, ngực rộng, lộ trần hai tay vạm vỡ. Trên đường có một con chó săn, nhận ra người ở xa tới, xông vào sủa rất hăng. Hảo hán thấy con chó hung dữ, giơ chân đá một cái, vào ngay đùi sau, chó văng ngay xuống giữa dòng suối. Mấy nông phu trông thấy, một người đứng lên la lớn.

- Cái con chó sói này ở đâu đến? Dám đá con chó nhà của ta xuống suối thế này?

Hảo hán đáp:

- Anh không nhìn thấy sao? Sao lại thả rông để cho chó cắn người?

Bác nông phu nổi giận, chạy lại, giơ tay đấm một cú. Hảo hán nhanh mắt, giơ ngay tay ra đỡ, thì đã thấy bác nông phu ngã lăn quay ra đất rồi, vội lồm cồm bò dậy, lu loa. Mấy nông phu thấy thế, xông lại, nhưng đều bị hảo hán đánh cho chẳng khác gì hoa rơi nước chảy.

Kiến Đức đứng xem, hiểu rõ những nông phu của trang trại Hùng Tín đều là những người chỉ biết làm lụng, bị hảo hán đánh quá rát, vội chạy qua cầu lớn tiếng:

- Anh kia ở đâu tới, mà dám giở thói càn rỡ ngang ngược đến thế?

Hảo hán nhìn kỹ Kiến Đức, rồi mừng rỡ:

- Thì ra là Đậu đại ca! Quả nhiên là ở đây thật?

Vội vàng cúi lạy, Kiến Đức hỏi ngay:

- Ta cứ tưởng là ai, hoá ra là Tôn hiền đệ, sao lại lạc bước tới đây?

Hảo hán đáp:

- Tiểu đệ có việc cần phải gặp đại ca, cũng may lại biết đại ca đem lệnh ái đi Phần Dương. Trước đây tiểu đệ có tới Giới Hưu tìm chẳng thấy đâu, may giữa đường gặp một người bạn họ Tề, mách bảo đại ca đang ở Nhị Hiền trang, tiểu đệ cứ tới đó tìm, thế nào cũng gặp. Vì vậy tiểu đệ tìm đến, may mắn lại gặp đại ca ở đây.

Vốn là hảo hán này họ Tôn, tên An Tổ, cùng quê với Kiến Đức, dạo trước An Tổ có ăn trộm một con dê, bị huyện lệnh bắt giam, đánh đập chửi mắng trăm đường, An Tổ cầm dao đâm chết huyện lệnh, chẳng ai dám đứng ra truy bắt. Từ đó mang tên hiệu Mô dương công (1), rồi lẩn trốn trong trang trại Kiến Đức, có đến hơn năm trời. Sau đó gặp chuyện vua tuyển cung nữ, mới mỗi người một nơi, cho đến tận nay. Lúc này Kiến Đức mới bảo An Tổ:

1 Mô dương công: ông bắt trộm dê.

- Kia chính là Nhị Hiền trang!

Rồi chỉ tay ra phía trước:

- Đây chính là Đơn viên ngoại!

Hùng Tín cưỡi một con ngựa to lớn, cùng với bốn năm người theo đang trên đường về trang trại, thấy Kiến Đức, vội nhảy xuống ngựa hỏi:

- Vị này là ai?

Kiến Đức đáp:

- Đây chính là người bạn cùng quê Tôn An Tổ.

Hùng Tín liền cùng Kiến Đức mời vào trong trang trại. An Tổ cúi chào Hùng Tín rồi thưa:

- An Tổ này vốn là kẻ vong mạng, từ lâu đã nghe đại danh của viên ngoại như sét đánh bên tai, nay mới được thấy mặt, thật thỏa nguyện bình sinh.

Hùng Tín đáp:

- May được tiếp quý khách, cũng thấy rõ thịnh tình vậy.

Rồi sai đầy tớ bày tiệc rượu. Kiến Đức hỏi An Tổ:

- Vừa rồi anh bạn trẻ, nói có gặp một người bạn họ Tề, biết rõ ta ở đây, là người nào vậy?

An Tổ đáp:

- Năm ngoái tiểu đệ ở Hà Nam, ngẫu nhiên trong quán rượu, gặp một người họ Tề, tên Quốc Viễn, cũng có vẻ hảo hán ngang tàng, cùng nhau trò chuyện giang hồ, hết lời ngợi ca Đơn viên ngoại trọng nghĩa khinh tài, biết chuyện đại ca, nên mới biết chỗ mà tìm đến vậy.

Hùng Tín hỏi:

- Quốc Viễn giờ hiện ở đâu?

An Tổ đáp:

- Quốc Viễn đi Tần Trung tìm một người tên là Lý Huyền Thúy nào đó. Nói những chuyện này, mới thấy Quốc Viễn quen thuộc khá nhiều các bậc anh hùng hào kiệt, nhất định anh ta mai kia sẽ làm nên sự nghiệp.

Hùng Tín than thở:

- Đường đời thế đấy! Có được mấy đám bạn bè, chẳng ẩn nhẫn được mãi, rồi cũng phải xuất đầu lộ diện thôi!

Tiệc rượu bày ra, mọi người ngồi vào. Kiến Đức hỏi tiếp:

- Anh bạn trẽ hai năm vừa qua đi những đâu? Gần đây cảnh tượng bên ngoài ra sao rồi?

An Tổ đáp:

- Đại ca ẩn ở đây không rõ cảnh thế. Bên ngoài quả không ra đất nước nữa rồi. Tiểu đệ từ biệt đại ca, đi khắp Yên cho đến Sở cho đến Tề, trăm họ bốn phương, thì triều đình làm cho vợ chẳng thấy chồng, cha chẳng thấy con, mỗi người mỗi phương, của tiền tan nát, căm giận thấu xương, chỉ giận chưa kéo nhau làm giặc được để may ra còn sống nổi. Trước mặt, các nơi đều có người chiếm giữ, có nơi là tụ mà chính là tan, có nơi tan mà chính là tụ, nhưng nhìn lại, thì cùng chỉ thấy lợi vong nghĩa, cũng là phường tửu sắc cả thôi. Nếu được bậc huynh trưởng trí dũng kiêm toàn như hai đại ca ở đây đứng ra, xướng nghĩa tập hợp mọi người, anh em bốn phương nhất định sẽ trông gió mà theo cả.

- Vừa rồi anh bạn trẻ, nói có gặp một người bạn họ Tề, biết rõ ta ở đây, là người nào vậy?

An Tổ đáp:

- Năm ngoái tiểu đệ ở Hà Nam, ngẫu nhiên trong quán rượu, gặp một người họ Tề, tên Quốc Viễn, cũng có vẻ hảo hán ngang tàng, cùng nhau trò chuyện giang hồ, hết lời ngợi ca Đơn viên ngoại trọng nghĩa khinh tài, biết chuyện đại ca, nên mới biết chỗ mà tìm đến vậy.

Hùng Tín hỏi:

- Quốc Viễn giờ hiện ở đâu?

An Tổ đáp:

- Quốc Viễn đi Tần Trung tìm một người tên là Lý Huyền Thúy nào đó. Nói những chuyện này, mới thấy Quốc Viễn quen thuộc khá nhiều các bậc anh hùng hào kiệt, nhất định anh ta mai kia sẽ làm nên sự nghiệp.

Hùng Tín than thở:

- Đường đời thế đấy! Có được mấy đám bạn bè, chẳng ẩn nhẫn được mãi, rồi cũng phải xuất đầu lộ diện thôi!

Tiệc rượu bày ra, mọi người ngồi vào. Kiến Đức hỏi tiếp:

- Anh bạn trẽ hai năm vừa qua đi những đâu? Gần đây cảnh tượng bên ngoài ra sao rồi?

An Tổ đáp:

- Đại ca ẩn ở đây không rõ cảnh thế. Bên ngoài quả không ra đất nước nữa rồi. Tiểu đệ từ biệt đại ca, đi khắp Yên cho đến Sở cho đến Tề, trăm họ bốn phương, thì triều đình làm cho vợ chẳng thấy chồng, cha chẳng thấy con, mỗi người mỗi phương, của tiền tan nát, căm giận thấu xương, chỉ giận chưa kéo nhau làm giặc được để may ra còn sống nổi. Trước mặt, các nơi đều có người chiếm giữ, có nơi là tụ mà chính là tan, có nơi tan mà chính là tụ, nhưng nhìn lại, thì cùng chỉ thấy lợi vong nghĩa, cũng là phường tửu sắc cả thôi. Nếu được bậc huynh trưởng trí dũng kiêm toàn như hai đại ca ở đây đứng ra, xướng nghĩa tập hợp mọi người, anh em bốn phương nhất định sẽ trông gió mà theo cả.

Kiến Đức nghe An Tổ nói, đưa mắt nhìn Hùng Tín mà không

Đáp. Hùng Tín lên tiếng:

- Vũ trụ thênh thang, riêng hai chúng tôi, đáng kể vào đâu. Nhưng trời sinh ra thân mình bảy thước, nhất định phải làm nên sự nghiệp oanh liệt, tung hoành một phen, thành bại cũng do mệnh trời cả chỉ khác nhau ở chỗ chữ thời mà thôi vậy.

An Tổ tiếp lời:

- Nếu được hai vị huynh trưởng cứu dân ra khỏi chốn nước lửa, ra cửa một phen. Tiểu đệ hiện có khoảng hơn nghìn người, đang đóng giữ ở Cao Kê Bạc chờ các huynh trưởng tới sẽ hành sự.

Kiến Đức đáp:

- Chỉ khoảng nghìn người thì cũng chưa phải là nhiều, đến lúc làm rồi thì sẽ phải đông hơn, kẻo rồi vua không ra vua, cướp không ra cướp, thì chi cho bằng không ra khỏi cửa còn hơn!

Hùng Tín đáp:

- Ngắm núi cao, thưởng suối trong, nói cho cùng ra cũng không phải thân phận của anh em chúng ta. Việc thành bại cũng khó mà định liệu. Đậu đại huynh đã muốn ra đi, thì đệ Hùng Tín này xin thay lo liệu công việc nhà vậy.

Đang chuyện trò, bỗng có người nhà đến báo tin tức xa gần, Hùng Tín nghe xong, quay lại, đập bàn mà than thở:

- Thật đúng là một tên vua ngu tối, đến bây giờ mà vẫn còn lo tu bổ Trường Thành, lo đem binh đi chinh phạt Cao Ly, chẳng những nhiễu nhương dân chúng, mà còn tự làm nước mất nhà tan cho mà xem. Dù có được Lai Tổng quản tài cán đến đâu chăng nữa, thì nhà lớn đã xiêu, một cây cột khôn chống đỡ. Hôm trước Từ Mậu Công đến đây, Hùng Tín đã nhờ đưa thư cho Tần Thúc Bảo. Nay mà Lai Tổng quản xuất chinh thế này, làm sao mà lại không phiền đến Thúc Bảo cho được, rồi ra Thúc Bảo cũng khó mà ngồi ngắm hoa, nghe chim hót được đâu.

An Tổ tiếp:

- Người xưa nói rất đúng: "Dẫu có trí khôn, không bằng thừa thể". Nay mà không tìm thấy cách tung hoành, thu phục nhân tâm, để đến nỗi lòng người ngày càng ly tán, tìm nơi tụ tập rồi, thì sẽ không còn đâu thời cơ.

Kiến Đức tiếp:

- Đây cũng không phải chuyện lo gần nghĩ xa. Nhưng quả là có hai việc: Ơn che chở của Đơn nhị ca thật là chu đáo, chưa phải một lúc mà bỏ ngay đất này được, hai là còn cháu gái vẫn phải nhờ cậy Đơn nhị ca, xin phiền nhị ca lo liệu giùm cho.

Hùng Tín đáp:

- Đậu đại huynh nói thế sai rồi! Đại phàm cha con anh em, dẫu có chuyện lợi danh nữa, cũng khó mà có thể ngăn cách dược. Huống chi chuyện bạn bè sum họp, chia tay, lại thêm lệnh ái cùng với cháu trong nhà thân thiết quá ruột thịt, con của đại huynh cũng là con của Hùng Tín này. Đại huynh cứ đi trước, công việc thành bại ra sao, về đây đón lệnh ái cũng chưa muộn. Còn về phía Hùng Tín này, nếu có chuyện thay đổi, thì sẽ đưa lệnh ái đến tận chỗ đại huynh, xin cứ yên lòng.

Kiến Đức nghe nói thế, cũng ứa nước mắt, nghẹn ngào nói:

- Nếu được như vậy, cha con Kiến Đức này xin ghi xương khắc cốt vậy!

Chí đã quyết, Kiến Đức thu thập hành lý, dặn dò con gái, cùng với Hùng Tín say sưa chuyện trò suốt đêm. Sáng ngày ra, Hùng Tín lấy hai gói bạc, một gói năm mươi lạng, giao tặng Kiến Đức, một gói hai mươi lạng, đưa tiễn An Tổ. Cả hai từ tạ lên đường.

Chính là:

Lòng dạ anh hùng sáng tựa sao

Gặp nhau bèo nước chẳng rời đâu

Những phường xảo quyệt, vô nhân nghĩa

Chẳng thể giao du đến bạc đầu.

***

Nay lại nói tiếp chuyện Tần Thúc Bảo, từ ngày bị Ma Thúc Mưu đuổi về, chuyển ra ở ngoài thành Tế Châu, ngày ngày tưới hoa trồng trúc, sống trong cảnh thanh nhàn, thấm thoát đã hơn một năm trôi qua. Một hôm đang lững thững dạo chơi phía ngoài vườn, dưới gốc một cây du lớn, đưa mắt nhìn ra phía bãi trước thấy một hảo hán dung mạo khôi ngô, dáng vẻ đàng hoàng, dắt một con ngựa, đội một chiếc nón lá đi về phía Thúc Bảo lễ phép hỏi:

- Xin chỉ giùm tiểu đệ Tần gia trang đi lối nào?

Thúc Bảo bèn hỏi:

- Hiền đệ người ở đâu đến? Tìm Tần gia trang có việc gì?

Hảo hán đáp:

- Tiểu đệ là người nhà của Đơn viên ngoại ở Lộ Châu, được sai đem thư đến Tần Thúc Bảo ở Tế Châu, hỏi thăm đều được chỉ đã dọn nhà ra vùng này.

Thúc Bảo vội nói:

- Hiền đệ định tìm Thúc Bảo, thì chính là tiểu đệ rồi vậy!

Rồi cùng hảo hán dắt ngựa vào nhà. Hảo hán cởi nón lá, xốc lại quần áo. Thúc Bảo cũng vuốt lại áo ngoài, cùng nhau làm lễ lạy chào. Hảo hán lấy thư đưa. Thúc Bảo mở ra xem, thì đúng là thư của Hùng Tín, lâu ngày cách mặt, biết chuyện Thúc Bảo rời khỏi Thư Dương về quê nên viết thư hỏi thăm tin tức. Cuối thư lại giới thiệu hảo hán cầm thư, là Từ Thế Tích, tự Mậu Công, người vùng Ly Hồ, gần đây cũng là bạn "bát bái chi giao" của Hùng Tín, nhân Mậu Công đến Hoài Thượng thăm người thân, nên Hùng Tín nhờ đến thăm Thúc Bảo. Thúc Bảo xem xong, nói:

- Hiền đệ đã là bạn bè của Đơn nhị ca, thì cũng chính là bạn của Thúc Bảo này vậy.

Liền sai bày bàn, thắp hương, làm lễ kết giao huynh đệ, thề cùng sống chết. Sau đó dọn tiệc rượu cùng ngồi. Hào kiệt gặp hào kiệt, chuyện lập tức thân mật đầy vẻ thân thiết. Thúc Bảo rất mừng, mấy lần sai lấy thêm rượu, thức nhắm. Lúc to, lúc nhỏ, cùng nhau bàn chuyện người đời, thế sự.

Rượu đã ngà say, Thúc Bảo vốn có ý ngại Mậu Công tuổi còn ít, giao du chưa nhiều, hiểu chưa rộng nên hỏi thêm:

- Mậu Công hiền đệ, hiền đệ ở chỗ Đơn nhị ca lại đây, có thấy bậc anh hùng nào đến Nhị Hiền trang không?

Mậu Công đáp:

- Tiểu đệ tuổi chưa nhiều, nhưng cũng đã thấy lắm sự đời, nghe lắm tình người. Chúa thượng thì đến cha đến anh cũng giết, đạo lớn chẳng vững, nói gì đến chuyện tu dưỡng luân thường, thi hành nhân nghĩa mà chỉ chú trọng những việc thổ mộc, xây đắp Đông Kinh, đào sông khơi ngòi. Từ Trường An cho chí Dư Hàng, đất trời như đảo lộn, dân chúng đói rách, từ hàng dặm lũ lượt kéo tới để phu dịch, năm này chất năm khác, dẫu có về được thì vườn cũ, ruộng xưa đã hoang tàn, còn sức lực đâu mà khai phá, chỉ còn cách tụ tập nhau ở hang núi, cùng nhau làm giặc. Chúa thượng ngày càng hoang dâm xa xỉ, ngày hôm nay thì từ Đông Kinh ngự chơi Giang Đô, ngày mai lại từ Giang Đô ngự về Đông Kinh. Lại còn muốn tu bổ Trường Thành, ngự du Hà Bắc, chẳng lúc nào xa giá chịu yên, việc cung đốn, thiên hạ làm sao chịu nổi. Bọn gian thần, sớm tối còn ngang ngược trăm phần, đón ý vua để làm điều ác nghiệt. Chẳng cần đến bốn năm năm nữa, chín châu sẽ đại loạn, chính vì vậy mà tiểu đệ cũng muốn tìm cách kết giao với các bậc hảo hán, tìm cho kỳ được minh chủ. Cứ như con mắt của tiểu đệ thì các bậc như Đơn nhị ca, Vương Bá Đương, đều có thể là những vị tướng giỏi. Nhưng nếu nói tới việc bàn mưu tính kế nơi màn trướng, quyết thắng ngoài nghìn dặm, thì sợ chưa đủ tài. Còn ngoài ra thì không thiếu hạng ếch ngồi đáy giếng, chứ bậc minh quân thì quả là tiểu đệ chưa từng được gặp vậy. Kẻ này người khác, nhân thời mà chiếm cứ nơi nọ chỗ kia, nhưng sợ rồi đến cái đầu mình cũng chẳng giữ nổi. Đáng buồn thay, bậc minh quân vẫn chẳng thấy đâu!

Thúc Bảo nói:

- Hiền đệ đã gặp Lý Huyền Thúy chưa?

Mậu Công đáp:

- Tiểu đệ cũng đã gặp. Huyền Thúy rõ là kẻ hơn người, nhiều thông minh tài chí, lại dũng lược, biết lấy lễ mà kết giao với bậc hào kiệt, thật đáng là bậc anh hùng đời này. Nhưng thực ra thì quá ỷ vào tài năng của mình, không tin kẻ khác. Mà theo ý của tiểu đệ một vị minh chủ mở nước, khó không phải ở chỗ hạ mình để chiêu nạp nhân tài mà cái chính là ở chỗ biết dùng họ, biết quý cái mưu lược, tính toán của kẻ khác, chứ không phải chỉ khư khư ở tài chí của mình.

Cho nên nếu đặt ở ngôi chân chúa, thì Huyền Thúy sợ rằng cũng chưa xứng, Đại huynh có thấy thế chăng?

Thúc Bảo vẫn hỏi:

- Cứ như hiền đệ nói, thì tài năng của bậc tướng quân, thì xứng đáng hơn cả có lẽ là bạn thân của tiểu đệ: Trình Tri Tiết ở Đông A, vừa khỏe mạnh, vừa dũng cảm. Trước đây, Lý Dược Sư có nói chuyện với tiểu đệ: "Vượng khí hiện rõ ở vùng Thái Nguyên". Nên Dược Sư cũng đang ở vùng này tìm kiếm. Còn như tiểu đệ với hiền đệ thì thuộc loại người nào?

Mậu Công cười đáp:

- Thì cũng chỉ là bậc hào kiệt một thời. Ra trận giữ thành, chiếm đất, tiểu đệ không theo được đại huynh. Tính kế bày mưu, đại huynh lại không bằng tiểu đệ. Nhưng đều là những kẻ phò tá chân chúa, lập công một thuở, nên đều phải tìm chân chúa mà thờ. Chứ không thể có tài năng đứng đầu vậy.

Thúc Bảo tiếp:

- Người tài trong thiên hạ nhiều lắm, nhưng cứ như lời hiền đệ, thì chỉ có vậy thôi à?

Mậu Công đáp:

- Đúng là hào kiệt trên đời nhiều thật, tầm mắt chúng ta có hạn, nên phải còn xem xét thêm nhiều. Nhưng nếu bàn tới bậc tướng sĩ thì vẫn còn có thể trông cậy vào lớp trẻ phía sau. Mới rồi tiểu đệ có thấy một trong những người này; không biết đại huynh có biết không?

Thúc Bảo hỏi:

- Người nào thế?

Mậu Công đáp:

- Trên đường tìm đến đây, tiểu đệ qua thôn trước mặt, gặp lúc hai con trâu đang húc nhau, chắn ngay giữa đường. Tiểu đệ bèn dừng ngựa bên cạnh đứng nhìn, thấy có một đứa trẻ, bất quá mười tuổi, chạy đến gào lớn: "Đồ súc sinh, không được húc nhau, mau mỗi con mỗi ngả ngay!". Hai con trâu vẫn không chịu nghe, bốn sừng vẫn như quấn lấy nhau, đứa trẻ liền nạt tiếp: "Ra ngay!". Rồi mỗi tay túm sừng một con, hai chân xoãi rộng. Lập tức mỗi con một phía. Đứa trẻ liền nhảy lên lưng một con, thổi sáo đi mất. Tiểu đệ đang định hỏi họ tên, thì thấy phía sau có một đứa trẻ khác chạy tới gọi: "Anh họ La kia ơi! Làm sao mà sừng trâu nhà em gãy mất một nửa thế này?" Vì vậy tiểu đệ biết được đứa trẻ này họ La, chăn trâu ở đây, nên nhà có lẽ cũng chẳng xa đâu. Nó đã có sức lực như vậy, nếu có người bảo ban võ nghệ, nhất định sẽ trở thành một võ tướng tài năng.

Đâu chẳng có người tài,

Chưa biết nhau đấy thôi

Đánh thành rồi cướp trại

Lưới thỏ dễ tìm tòi.

Hai người tâm đầu ý hợp, cầm tay dài ngắn trò chuyện suốt ba ngày trời, Mậu Công vì đã quyết ý đến Ngõa Cương xem Địch Nhượng động tĩnh ra sao. Thúc Bảo bèn sắm quà hậu đưa tiễn, viết thư phúc đáp Đơn Hừng Tín, thêm một thư nhờ Hùng Tín chuyển cho Ngụy Trưng. Nâng chén từ biệt, cả hai ân cần dặn dò, nếu gặp được minh chủ, tiến dẫn lẫn nhau, để cùng lập nghiệp.

Thúc Bảo đưa tiễn xong, lững thững quay về, thấy từ ven rừng tiếng la hét ồn ào, một toán trẻ con có đứa mười bảy, mười tám, cũng có đứa khoảng mười lăm, mười sáu, mười hai, mười ba, kể cả có đến ba bốn chục. Sau rốt là một đứa khoảng mười tuổi. Trên người mỗi một chiếc quần rách, mình để trần, hai tay nắm chặt, mất long lanh tròn xoe, chạy theo đuổi đánh bọn này. Bọn này có đứa lấy đất đá ném túi bụi, đứa trẻ này mặc cho đất đá trúng người, vẫn lau xả vào bọn kia. Thúc Bảo thầm nghĩ: "Đây có lẽ chính là đứa bé Mậu Công kể hôm trước chăng?".

Hai bên ẩu đả, một đứa trong bọn bị đuổi riết chạy về phía Thúc Bảo ngã sóng soài. Thúc Bảo đỡ dậy hỏi:

- Này cháu, thằng bé kia là con nhà ai mà dữ tợn thế?

Đứa bé ngã vừa khóc vừa nói:

- Đó chính là thằng ở chăn trâu cho nhà Trương Thái Công. Ngày ngày đều đóng vai tướng quân, bắt chúng cháu hầu hạ. Nó thì nằm trên bãi cỏ ngủ suốt, bắt chúng cháu thay nhau chăn trâu cho nó. Không chịu chăn thì nó đánh. Hầu hạ không vừa ý, cũng bị nó đánh. Chúng cháu đánh không lại, nhưng cũng không chịu hầu hạ nó được nên đã nhiều lần rủ nhau đánh lại nó, có cả nhiều đứa hơn nó sáu bảy tuổi, vẫn không làm gì được, nên rồi vẫn phải nghe nó sai phái.

Thúc Bảo nghĩ: "Mậu Công nói thằng bé họ La, đường này lại là người họ Trương. Hay lại là đứa ở chăng?". Rồi chạy lại, nắm tay thằng bé kia, bảo:

- Chú em hãy từ từ xem nào!

Thằng bé giương to hai mắt hỏi:

- Can hệ gì đến bác. Nó họ hàng gì với bác mà bác định giúp nó một tay chăng ?

Thúc Bảo nói:

- Ta không muốn đánh nhau với chú em đâu, mà chỉ muốn hỏi chú em vài câu thôi.

Thằng bé đáp:

- Nếu muốn nói chuyện gì, hãy đợi cháu cho thằng bé tóc vàng này một trận đã.

Nói rồi cố giằng tay ra kỳ được, nhưng làm sao mà thoát khỏi tay Thúc Bảo.

Đang giằng co, thì thấy bọn trẻ vỗ tay reo ầm:

- Tới rồi! Tới rồi!

Rồi một ông già bước tới, nắm lấy trái đào của thằng bé mà kéo. Thúc Bảo nhận ra Trương xã trưởng ở thôn trước. Trương xã trưởng lớn tiếng mắng:

- Bảo mày chăn trâu, trâu chẳng chăn, chỉ chuyên đánh nhau. Từ nay trở đi thì ngồi ở nhà thôi, chứ còn cứ đánh con nhà người ta thế này, ngộ nhỡ xảy chuyện gì, ta làm sao mà cáng đáng nổi?

Thúc Bảo lên tiếng khuyên giải:

- Xin thái công nguôi giận, đây liệu có phải lệnh tôn chăng?

Trương xã trưởng đáp:

- Chúng tôi nào có con cháu thế này. Đây chính là con ông láng giềng La Đại Đức, vợ con đều chết, chỉ còn mỗi thằng này. Đại Đức bị bắt đi đào sông, đem thằng này nhờ lão cai quản hộ. Cơm nước nuôi trong nhà, rồi ngày ngày chăn trâu. Gần đây nghe nói Đại Đức đã chết ở chỗ đào sông, lão đành phải nuôi thằng báo hại này vậy.

Thúc Bảo nói:

- Chuyện này không có gì đáng ngại. Thái công cứ để thằng bé này cho Tần Thúc Bảo, tiền thuê đã trả bao nhiêu, xin trả lại đủ cho thái công.

Trương xã trưởng đáp:

- Cũng chẳng có thiếu đồng xu nào đâu. Tần đại ca đã muốn nuôi, thì xin cứ nhận cho. Nhưng mai kia có xảy ra chuyện gì, xin nhớ kỹ cho là lão đây không có tội lỗi đâu nhé.

Thúc Bảo cười:

- Chuyện này thì thái công đừng ngại. Nhưng không biết chú em có bằng lòng không?

Thằng bé họ La quay lại hỏi Trương xã trưởng:

- Thái công định giao cháu cho người này sao, làm sao mà đi với người không quen biết gì cả cho được?

Trương xã trưởng quát:

- Cai quản mày không được, lão chỉ ôm lấy bực mình suốt ngày này sang ngày khác.

Nói xong bỏ đi, Thúc Bảo nhỏ to:

- Chú em đừng lo lắng gì cả. Ta là Tần Thúc Bảo, trong nhà không có anh em, chỉ có mẹ già cùng vợ, một con trai nhỏ, nên cũng muốn kết anh em với chú, cứ về nhà ta rồi sẽ xong cả thôi.

Họ La bỗng sáng mắt nói:

- Bác chính là Tần Thức Bảo sao. Cháu là La Sĩ Tín, ngày thường cháu vẫn nghe người trong thôn nói bác bỏ quan về ở đây, lại kể bác rất giỏi võ nghệ, dùng thương, múa giản rất điêu luyện. Nếu được bác thương đến cảnh bố mẹ mất, anh em không mà bảo ban cho, đừng nói tới việc kết giao anh em khác họ, mà dẫu có làm tôi tớ, cháu cũng tình nguyện theo ngay.

Rồi định cúi lạy, Thúc Bảo vội giơ tay cản lại:

- Đừng chào lạy vội, hãy chờ về nhà, trước tiên hãy gặp mẫu thân, rồi sau sẽ làm lễ kết giao cũng chưa muộn.

Thúc Bảo đưa Sĩ Tín về nhà, trình mẫu thân, rồi sai Trương Thị tìm một bộ quần áo ngắn cho Sĩ Tín mặc. Sĩ Tín lạy chào Tần mẫu, thưa:

- Cháu lúc nhỏ cũng chẳng có mẹ, nay được có lão mẫu đây, thật là mẹ của cháu vậy.

Rồi đốt nến thắp hương, làm lễ kết nghĩa, bái lạy tám lạy, để rồi từ lúc ấy gọi Tần mẫu là mẫu thân. Sau nữa cùng Thúc Bảo, mỗi người vái bốn vái, nhận nhau là anh em, xưng là đại huynh, tiểu đệ. Cuối cùng, lạy chào Trương thị, nhận làm chị dâu, Trương thị cũng coi như em trai vậy.

Đại phàm sức lực, khí huyết người ta, khi không có chỗ dùng, thường phải tìm những việc bậy bạ để khuây khỏa, phát tiết. Nay có chỗ thi thố, thì chuyên tâm gắng sức làm cho tốt, nên bao tính cách ngang ngược đều như mất đâu cả. Người ta không gặp kẻ bảo ban dạy dỗ, thì rồi cũng đến uổng phí cả năng lực, nay như thép gặp lò, khi gặp thầy dạy giỏi, tự nhiên thuần phục, chịu cho sai bảo, vì vậy từ một La Sĩ Tín ngang dọc, biến thành một người nền nếp, chăm chỉ. Thúc Bảo ngày ngày dạy cho võ nghệ, sớm tối rèn luyện, mỗi giờ mỗi hơn.

Một hôm Thúc Bảo cùng Sĩ Tín đang tập luyện trên sân, thấy một kỳ bài quan, cưỡi ngựa, mình ngựa còn đầm đìa mồ hôi, tới gần, lên tiếng hỏi:

- Đây có phải là Tần gia trang chăng?

Thúc Bảo đáp:

- Đại nhân hỏi Tần Thúc Bảo chăng?

Kỳ bài quan đáp:

- Đúng, cần gặp Tần Thúc Bảo!

Thúc Bảo nhận:

- Thúc Bảo chính là tiểu nhân đây!

Rồi bảo Sĩ Tín dắt ngựa, mời vào nhà. Kỳ bài quan vái chào xong, lên tiếng:

- Vâng lệnh của Hải đạo đại nguyên soái, đem theo tướng lệnh, đến mời tướng quân làm tiền bộ tiên phong.

Thúc Bảo không cầm tướng lệnh, chỉ đáp:

- Tiểu nhân cũng vì có mẹ già tuổi cao, nhiều bệnh, nên về ẩn ở đây không ra nhận quan chức đã lâu. Ngày ngày cày cuốc, gân sức hao mòn, sao có thể gánh vác được trọng trách này.

Kỳ bài quan nói:

- Tướng quân không nên chối từ. Trọng trách này bao nhiêu người ước mơ mà không được, chẳng nói đến chuyện thê phong tử ấm, chỉ nói tới chuyện lương tiền, lộ phí cũng đủ để cả nhà phú quý. Tướng quân lại càng không nên phụ tình sâu nghĩa nặng của Lai Nguyên soái, ngu ý của hạ quan này là thế.

Thúc Bảo đáp:

- Quả thật là mẹ già tuổi cao sức yếu!

Rồi dọn cơm rượu thết đãi kỳ bài quan, lại đưa tặng hai mươi lạng bạc làm tiền lộ phí, viết thêm một lá thư, nhờ kỳ bài quan nói thêm ít nhiều. Kỳ bài quan thấy Thúc Bảo kiên quyết, đành lên ngựa ra đi.

Vốn là Lai Tổng quản sau khi nhận được sắc chỉ của vua Tùy, liền nghĩ: "Từ Đăng Lai tới Bình Nhưỡng, cả đường thủy lẫn đường bộ, dẹp cướp chống giặc, nhất định phải có được một võ tướng hơn người. Tần Quỳnh vốn có sức khỏe vạn người khôn địch, cử làm tiền bộ, thì chẳng còn điều gì đáng phải lo ngại". Liền sai kỳ bài quan đi mời, không ngờ thấy kỳ bài quan về thưa:

- Tần Quỳnh viện cớ mẫu thân bệnh tật già nua không chịu nhận chức, xin về trình nguyên soái rõ.

Lai Tổng quản xem thư xong liền nói:

- Tần Quỳnh chỉ vịn chuyện mẹ già, không chịu nhận chức, nhưng từ xưa muốn có trung thần, phải cầu ở cửa nhà con hiếu. Tần Quỳnh đã không phụ mẹ già, há lại có thể phụ chủ hay sao. Huống chi ta hiện nay đang không thiếu dưới trướng một người như Tần Quỳnh được.

Lai Tổng quản lại nghĩ thầm: "Ta đã có cách này!" Liền viết một phong thư, nói với kỳ bài quan:

- Ta sai ngươi đến phủ Trương Quận thừa ở Tế Châu, nhờ đến khuyên Tần Quỳnh nhận chức mới xong.

Kỳ bài quan lại lên ngựa, đến Tế Châu vào phủ Trương Quận thừa.

Viên Quận thừa này vốn họ Trương, tên Tu Đà, là người trung hậu, văn võ toàn tài, có lòng thương dân, kính trọng hiền tài, xứng đáng là bậc hào kiệt trong đời. Xem xong thư của Lai Tổng quản. Tu Đà lại hỏi kỹ thêm mọi chuyện qua kỳ bài quan, từ lâu đã nghe tiếng Thúc Bảo là bậc anh hùng, nay thấy Thúc Bảo lại giữ ý không chịu nhận chức, thấy rõ Thúc Bảo không những có tài, mà còn có phẩm cách hơn người. Liền sai đem ngựa, tìm đến Tần gia trang ngay. Được người nhà báo cho biết Trương Quận thừa tới thăm, Thúc Bảo cũng vì thấy đây là quan bản quận, không tiện gặp mặt, cho nên sai nói thác là không có nhà. Trương Quận thừa liễn xin gặp Tần mẫu, Tần mẫu đành phải ra tiếp. Sau khi chào lễ, Trương Quận thừa lên tiếng:

- Lệnh lang vốn dòng dõi tướng môn, anh hùng hơn người. Nay quốc gia hữu sự, là lúc kiến công lập nghiệp, sao lại chối từ không nhận chức?

Tân mẫu đáp:

- Cháu nhà chỉ sợ mẹ già bóng xế cành dâu. Trong người cháu lại cũng có bệnh, nên không dám mãi theo đòi việc quân.

Trương Quận thừa cười:

- Phu nhân tuy tuổi cao, nhưng tinh thần vẫn sáng suốt, hà tất quá quyến luyến. Còn như bệnh tật, thì làm kẻ trượng phu, nên chọn cách chết da ngựa bọc thây, chẳng hơn là nằm trên giường bệnh, trong vòng tay đàn bà hay sao. Phu nhân chẳng nghĩ đến tấm gương mẫu thân Vương Lăng sao? (1) Nếu phu nhân đã dạy, thì lệnh lang thế nào chẳng phải nghe. Ngày mai, hạ quan lại sẽ xin đến gặp vậy!

1 Vương Lăng thờ Lưu Bang, mẹ Vương mẫu bị Hạng Võ bắt. Lăng đi sứ sang Hạng Võ. Hạng Võ bắt Vương mẫu dụ con theo mình, Vương mẫu ngầm dặn con phải tận tụy thờ Lưu Bang, rồi cầm kiếm đâm cổ chết, để con khỏi do dự. Về sau Vương Lăng làm đến tả thừa tướng đời Hán (Từ Hải).

Nói rồi đứng dậy ra về.

Tần mẫu liền nói với Thúc Bảo:

- Khó mà không nghe Trương Quận thừa cho được, con lại phải đi một chuyến thôi. Chỉ nhờ trời phù hộ, công thành danh toại, rồi lại được về sum họp với gia quyến!

Thúc Bảo vẫn trù trừ không quyết, Sĩ Tín liền khuyên:

- Chuyện bình Liêu này, với tài cán của đại huynh, nhất định sẽ thành công, công việc trong nhà đã có chị cáng đáng. Giặc cướp giờ nhiều như ong như kiến, nếu không Sĩ Tín này cũng xin theo giúp đại huynh một phen, nhưng cũng xin ở nhà, trông coi cửa ngoài, bọn trộm cướp tất không dám bén mảng đâu!

Ba người bàn định xong xuôi, ngày hôm sau, Thúc Bảo lại sợ Trương Quận thừa lại đến, thì thật khó nói, nên vội vào thành, nai nịt gọn gàng, vào phủ gặp Trương Quận thừa. Quận thừa cả mừng, gọi kỳ bài quan, đem tướng lệnh giao ngay cho Thúc Bảo. Quận thừa lại sai mang ra hai gói bạc lớn: một gói để Thúc Bảo làm lộ phí lên đường, một gói để Thúc Bảo phụng dưỡng mẹ già. Thúc Bảo không dám chối từ, xin cáo biệt ra về. Quận thừa còn cầm tay căn dặn.

- Với tài năng của hiền huynh, lần này nhất định "Mã đáo công thành". Binh tướng Cao Ly tuy ít, nhưng hay dối trá, nên phải chia quân ra mà đóng giữ. Đường ven biển binh tướng càng ít hơn, hiền huynh lại đi tiền bộ, nhớ đừng giao chiến ở vùng sông Liêu Thủy, áp Lục Giang. Duy chỉ có sông Bối Thủy, cách Bình Nhưỡng không xa, vốn là quốc đô của Cao Ly, phải nhân lúc không phòng bị mà đánh thẳng vào. Lúc này địch có quay về, thì cả hai cánh thủy bộ cùng hiệp lực nhất định sẽ thắng.

Thúc Bảo đáp:

- Những lời chỉ giáo sáng suốt của đại nhân, xin nhớ kỹ?

Rồi cảm tạ ra khỏi phủ, về sắp xếp việc nhà, chuẩn bị hành trang, cùng kỳ bài quan lên đường. Sĩ Tín tiễn đến hai ba dặm đường, căn dặn đủ điều, kẻ đi người ở rồi mới quay về.

Thúc Bảo cùng kỳ bài quan, đi suốt ngày đêm, tới tận Đăng Châu, vào soái phủ ra mắt, Lai Tổng quản cả mừng, liền giao cho Thúc Bảo hai vạn thủy quân, thuyền thanh long, hoàng long mỗi loại trăm chiếc. Chỉ chờ có tin tức đưa về của Tả Vũ vệ tướng quân Chu Pháp Thượng, xem vua Tùy đã ra khỏi kinh đô, là lập tức xuất quân.

Chính là:

Cờ bay rợp biển oai ghê nhỉ,

Buồm gióng Cao Ly thế dữ chưa?

Hồi Thứ Ba Mươi Tám

Dương Nghĩa Thần ra quân phá giặc cỏ,

Vương Bá Đương dùng mẹo cứu bạn hiền.

Từ rằng:

Ấy việc đời như hơi bong bóng

Bọn ngu si lên giọng ta đây

Gươm đao chật đất đùn mây

Rắn rồng vật lộn, lang sài cắn nhau

Rồi gió thảm mưa sầu cũng hết

Ngẫm nguồn cơn coi chết như về

Còn ra cái xác con ve

Vợ chồng nam bắc lỗi bề keo sơn

Góc trời bể lần khân đắm đuối

Để cái danh làm lụy cái thân

Mày chau một chén rượu tàn

Mưu càng sâu, nỗi oán hờn càng to

Hạc kêu vượn hú mà lo.

Theo điệu "ý nan vong"

Người ta sinh ra gặp buổi thái bình, kẻ có gia tư sản nghiệp, đều nghĩ tới chuyện vui thú ruộng vườn, bậc anh hùng hào kiệt, nếu chẳng có chỗ thi thố tài năng, cũng chỉ đành nhìn trời mà than dài. Gặp buổi ly loạn, người người đều nghĩ mình đáng tài võ tướng, xứng mưu Gia Cát Khổng Minh. Có biết đâu chân ít giả nhiều, để rồi bỏ thân nơi đất khách, làm trò cười cho người đời. Bởi vậy chính kẻ biết thời, hiểu mình mới xứng tài tuấn kiệt. Nhưng nào đã mấy ai?

***

Chưa nói chuyện Tần Thúc Bảo ở Đăng Châu rèn luyện thủy quân, chỉ chờ Dượng Đế rời đô là xuất binh chinh phạt Liêu Đông, hãy nói chuyện Dượng Đế, một hôm ngồi vui tiệc với Tiêu Hậu, nói:

- Vương Hoằng đóng thuyền rồng, tưởng cũng sắp xong. Bộ công lo việc may buồm gấm, bện dây lụa ngũ sắc cũng đã đầy đủ. Chỉ còn việc tuyển đội "Điện cước nữ" của Cao Xương là chưa biết đến đâu rồi.

Tiêu Hậu bàn:

- "Điện cước nữ" nghe tên thì có vẻ đẹp, nhưng thiếp sợ sức lực con gái yếu đuối, thuyền rồng vừa lớn vừa nặng, dẫu có hàng trăm cô gái nữa, liệu có kéo nổi. Bằng không phải cho cả nội thị giúp vào, mới có thể xong việc.

Dượng Đế đáp:

- Dùng con gái kéo thuyền rõ ràng là rất đẹp. Nếu thêm cả nội thị vào, sợ không giữ được vẻ tự nhiên nữa.

Tiêu Hậu thưa:

- Nhưng nếu chỉ dùng toàn con gái, thuyền khó mà chạy nhanh cho được.

Dượng Đế hỏi:

- Như thế thì làm thế nào bây giờ?

Tiêu Hậu ngừng chén, nghĩ ngợi một hồi rồi thưa:

- Người xưa dùng dê kéo xe ngự, trông cũng rất tao nhã. Nay ta hãy chọn lấy khoảng một nghìn con dê to khỏe, có thể kéo được mười chiếc thuyền rồng. Cũng như kéo xe ngự vậy thôi, rất thanh tao, cứ xen lẫn giữa người với dê lại càng ngoạn mục.

Dượng Đế cả mừng:

- Hoàng hậu thật chiều ý trẫm hết lòng.

Liền sai nội thị truyền dụ cho hữu ty, chọn ngay một nghìn con dê khỏe mạnh, lông mượt, dáng đẹp để chuẩn bị kéo thuyền.

Hoàng hậu cùng chúng phu nhân bận rộn sắp xếp cung nữ, hành trang cho cuộc ngự du Giang Đô, thì thấy trung môn sứ Đoàn Đạt đem tấu chương dâng. Dượng Đế xem qua, thì ra Tôn An Tổ cùng Đậu Kiến Đức, chiếm cứ vùng Cao Kê Bạc, dẫn quân đánh vào Trác Quận, giết chết thái thú Quách Huyến, lại liên kết với Trương Kim Xứng ở Hà Khúc, và bọn Cao Sĩ Đạt ở Thanh Hà, cả ba làm thành một thế chân vạc, tương cứu lẫn nhau, cướp bóc các quận huyện, quan binh địa phương nhiều lần đánh dẹp không nổi vì vậy phải tâu về triều đình, xin binh tiễu trừ. Dượng Đế xem xong, nổi giận:

- Lũ đầu trâu mặt ngựa này dám ngang ngược đến thế. Nay cần một viên quan đại tướng, kéo đến quét sạch, đem lại yên ổn cho vùng này mới xong.

Nhưng nghĩ mãi vẫn không biết cử ai cho xứng. Lúc này quý nhân Viên Tử Yên đứng bên cạnh thưa:

- Có thái bộc Dương Nghĩa Thần, nghe nói tài kiêm văn võ, không biết hiện giờ trấn thủ ở đâu?

Dượng Đế kinh ngạc hỏi:

- Quý nhân làm sao mà biết được Nghĩa Thần tài kiêm văn võ?

Tử Yên thưa :

- Thái bộc vốn là cậu của thiếp. Thiếp tuy chưa bao giờ thấy mặt, nhưng từ nhỏ đã được nghe phụ thân thiếp lúc sinh thời thường ngợi ca tài năng của thái bộc, vì vậy thiếp mới biết.

Dượng Đế nói:

- Thì ra Dương Nghĩa Thần là cậu của quý nhân. Nếu quý nhân không nhắc kịp, thì ta cũng quên mất người này. Nghĩa Thần hiện đã về chí sĩ, đúng là một người có tài.

Nói xong, liền viết sắc chỉ cử thái bộc Dương Nghĩa Thần làm Hành quân đô tổng quản. Chu Vũ, Hầu Kiều làm tiên phong, dẫn mười vạn tinh binh, chinh thảo giặc cỏ vùng Hà Bắc. Truyền nội quan đem sắc chỉ cho bộ Binh, bộ Lại xong, Dượng Đế nói với Tử Yên:

- Nghĩa Thần thuở xưa chỉ là có nghĩa quân thần, nay lại thêm quốc thích, nhất định sẽ không phụ lòng tin cậy của trẫm. Ngày khải hoàn, trẫm sẽ cho gọi vào cung, để được gặp quý nhân.

Từ Yên cúi đầu tạ ơn.

Chính là:

Số trời muôn dứt nhà Tùy

Hôn quân cố cưỡng sao đây

Tà nịnh cặp kè bên nách

Trung trinh hết cách cứu nguy.

Lại kể, Dương Nghĩa Thần tiếp được sắc chỉ, bèn tập họp tướng sĩ chọn ngày tốt phát binh, vài ngày sau, binh tướng đã kéo tới cửa Tề Cừ. Chỉ mới nghe trong vòng bốn mươi dặm quanh vùng này, là nơi đi về cướp bóc của Trương Kim Xứng, nên vội đồn quân đóng trại.

Cũng bởi chưa rõ đường đi lối về của Kim Xứng, nên nghiêm cấm quân sĩ không được tự tiện hành động, lại cho lính đi thám sát hư thực, để tìm cách đánh gọn.

Kim Xứng nghe tin quân triều đình đến, kéo ngay lâu la tới trước doanh trại Nghĩa Thần khiêu chiến, thấy quân sĩ cố thủ không chịu ra, nên suốt ngày cho lâu la chửi bới thậm tệ, cứ như thế kéo dài hơn một tháng, ai cũng ngờ rằng Nghĩa Thần khiếp nhược, không dám giao chiến. Nguyên là Nghĩa Thần chờ cho kẻ địch mệt mỏi, rồi mới ngầm sai Chu Vũ, Hầu Kiều hai tướng, dẫn hai nghìn kỵ binh tinh nhuệ, đang đêm vượt sông ở bến Quán Đào mai phục, chờ cho lâu la của Kim Xứng rời khỏi trại, khiêu chiến.

Quân Nghĩa Thần, nghe tiếng pháo hiệu, cả hai phía cùng nhất tề tấn công. Nghĩa Thần tự thân nai nịt gọn gàng, dẫn quân nghênh địch. Kim Xứng thấy quân triều đình hàng lối lộn xộn, trận pháp chẳng nghiêm, dẫn lâu la xông vào. Hai bên giao chiến, chưa được vài hợp, quân mai phục hai bên đông tây cùng kéo ra, cắt lâu la ra làm mấy mảnh, trước sau cùng đánh, Kim Xứng đại bại, một người một ngựa chạy về cửa Thành Hà, gặp ngay quận thừa Thanh Hà Dượng

Thiện, theo lệnh kéo quân đi bắt giặc, chém chết Kim Xứng ngay ở vùng Phần Khẩu, sai người đem thủ cấp nạp ở quận doanh Nghĩa Thần. Tàn quân của Kim Xứng ngày đêm chạy về với Kiến Đức.

Nghĩa Thần đem tất cả vàng bạc, của cải, trâu bò, lừa ngựa ở sào huyệt Kim Xứng thưởng cho binh lính. Những đàn bà, con gái bị bắt đều thả cho về, rồi kéo quân về phía Bình Nguyên, tiến công Cao Kê Bạc, trừ sạch dư đảng.

Lúc này ở Cao Kê Bạc, Kiến Đức cùng An Tổ giúp Cao Sĩ Đạt đóng giữ, biết ngay tin Nghĩa Thần phá tan bọn Kim Xứng, đang thừa thắng kéo đến, nay đang hạ trại ở Vu Thương, chỉ cách Cao Kê Bạc chưa đầy hai mươi dặm. Kiến Đức nghe tin hoảng sợ, bàn với An Tổ, Sĩ Đạt:

- Từ thuở ta chưa tới đây, đã nghe tiếng Nghĩa Thần là kẻ tài kiêm văn võ, dụng binh như thần, nhưng chưa từng giao chiến lần nào. Nay đã giết Kim Xứng, thừa thắng tới đây, nhuệ khí đang hăng, khó lòng địch nổi. Sĩ Đạt hiền đệ hãy tạm dẫn quân nấp kín ở vùng hiểm trở, chờ cho khí thế đối phương suy giảm ít nhiều, khoảng một vài tháng sau, lương thực cạn dần, lúc ấy hãy chia binh công kích, thì có cơ bắt được Nghĩa Thần.

Sĩ Đạt không nghe lời khuyên của Kiến Đức, tự coi mình là vô địch, để lại ba nghìn quân ốm yếu cho Kiến Đức coi giữ sào huyệt, rồi cùng An Tổ nhân đêm kéo một vạn lâu la đi cướp trại Nghĩa Thần. Không ngờ Nghĩa Thần đã dự tính đến mưu mô này nên điều binh ra cả bốn phía mai phục. Canh ba đêm hôm đó, Sĩ Đạt kéo quân xông thẳng vào trại Nghĩa Thần, thấy trại trống không, biết là trúng kế, đang lúc quay ra, thì pháo hiệu bốn bề nổ ran, gặp ngay tướng đi đầu của Nghĩa Thần là Đặng Hữu Kiến, bắn một phát tên. Sĩ Đạt ngã ngựa, bị Hữu Kiến chém dầu, thừa thắng bốn bên tung hoành. An Tổ thấy Sĩ Đạt đã chết, vội quay ngựa chạy, Kiến Đức lập tức kéo quân ứng cứu, nhưng thế quân triều đình quá mạnh, chẳng làm gì nổi, lâu la mười phần chết đến tám chín. Kiến Đức cùng An Tổ chỉ còn hơn hai trăm quân kỵ, nhân thấy thành Nhiêu Dương không phòng bị, liền chiếm lấy. Khoảng ba bốn ngày sau, bọn lâu la thua chạy dần dần tìm về, cũng được khoảng hơn hai nghìn, bàn nhau cách chống cự quan triều đình. Kiến Đức nói với An Tổ:

- Trước mắt thế quân Nghĩa Thần rất lớn, lại thêm Nghĩa Thần túc trí đa mưu, nhất thời khó mà địch nổi, tòa thành nhỏ này khó mà giữ được.

An Tổ hỏi:

- Nghĩa Thần không rút quân, chúng ta đành ngồi trong thành này chờ chết hay sao?

Kiến Đức đáp:

- Ta có một kế này: cần có một người tin cẩn, mang theo vàng ngọc, lên ngay kinh đô, hối lộ bọn gian thần, bắt chúng điều Nghĩa Thần đi chỗ khác, thì chúng ta chẳng còn gì phải sợ nữa.

An Tổ nói:

- Nếu đã như vậy, tiểu đệ xin đi một chuyến, nhưng chưa điều y đi được ngay thì sự thể sẽ ra sao?

Kiến Đức đáp:

- Không có chuyện đó. Hôn quân chỉ tin bọn gian thần. Một khi bọn này đã nắm mọi quyền hành trong triều thì kẻ trung nghĩa chẳng làm được việc gì ở ngoài biên này đâu.

Rồi Kiến Đức thu thập vàng ngọc, châu báu, giao cho An Tổ chọn một tên tay chân tin cẩn, cõng hành lý, từ biệt Kiến Đức, đương đêm lên đường.

Hôm ấy đi đến thôn Bạch Tửu, vùng Lương Quận, trời đã về chiều, chỉ sợ phía trước không còn hàng quán, lại thấy có ngay quán trọ bên đường, thầy trò liền vào, Tiểu nhị niềm nở hỏi chào:

- Quý khách hai vị, còn ai nữa phía sau chăng?

An Tổ thật thà đáp:

- Chúng ta chỉ có hai người thôi.

Tiểu nhị liền đon đả:

- Ở đây còn một gian lớn, chưa có khách trọ, có thể chứa được bốn năm vị, nhưng sợ còn có khách tới nữa. Phía tây kia, có một gian rất sạch sẽ, yên tĩnh, hiện đã có một vị khách ở, thêm hai vị nữa là vừa, xin để tiểu nhân dẫn quý khách vào nghỉ ngơi.

Nói rồi dẫn thầy trò An Tổ vào phòng phía tây, mở cửa bước vào thấy một hảo hán, nằm ngang giữa giường, ngáy như sấm. Tiểu nhị nói:

- Quý khách chẳng qua ngủ có một đêm, như thế này cũng tươm tất chán!

An Tổ đáp:

- Được rồi!

Tiểu nhị ra khỏi, thầy trò đặt hành lý xuống một góc. An Tổ nhìn kỹ người nằm ngủ trên giường, dáng cao lớn, vai rộng, lưng có đến mười vòng, mặt mày sáng sủa, râu tóc đều rất đẹp.

An Tổ nghĩ thầm: "Ông bạn này cũng không phải kẻ tầm thường. Đợi thức dậy sẽ hỏi chuyện xem sao". An Tổ mệt mỏi bèn sai tên tay chân trải chăn chiếu, thì thấy tiểu nhị đem trà nước vào. Vị khách đang ngủ, nghe tiếng người nói chuyện, nhổm dậy, nhìn kỹ An Tổ một hồi, rồi hỏi:

- Xin được biết họ tên huynh trưởng?

An Tổ đáp:

- Tiểu nhân họ Tổ, hiệu An Sinh, xin hỏi quý tính cao danh đại huynh?

Khách đáp:

- Tiểu đệ họ Vương, tự Bá Đương.

An Tổ cả mừng:

- Thì ra đại huynh Vương Bá Đương ở Tế Dương.

Rồi vội vàng vái lạy, Bá Đương đáp lễ, hỏi:

- Hiền huynh sao biết tên tuổi tiểu đệ?

An Tổ cười:

- Tiểu đệ không phải Tổ An Sinh đâu, mà thực là Tôn An Tổ. Nhân năm ngoái ở Nhị Hiền trang, nghe Đơn viên ngoại nói tới đại danh, vì vậy mới rõ.

Bá Đương hỏi:

- Hiền huynh đến Đơn viên ngoại có việc gì? Nay đang trên đường đi đâu mà lại đến đây?

An Tổ đáp:

- Vì tìm đại huynh Đậu Kiến Đức, nên tìm đến Nhị Hiền trang.

Bá Đương lại hỏi:

- Nghe nói Đậu đại huynh dấy binh ở Cao Kê Bạc, thanh thế rất lớn, sao hiền huynh không theo, lại tới chốn này?

An Tổ bèn đem chuyện Nghĩa Thần dẫn quân giết chết Kim Xứng, Sĩ Đạt, thừa thắng dồn ép Kiến Đức, Kiến Đức về Nhiêu Dương, mình phải tìm về kinh đô, kể lại một lượt, rồi quay ra hỏi Bá Đương:

- Thế hiện nay đại huynh đi đâu mà lại một thân một mình ở đây?

Bá Đương thấy hỏi, thờ dài định lên tiếng trả lời, thì thấy tên tay chân An Tổ đi lại, nên yên lặng không nói nữa. An Tổ vội giục:

- Tên này vốn là tiểu hiệu tâm phúc của tiểu đệ, đại huynh không phải ngần ngại gì cả.

Nhân đó nói với tên tay chân:

- Mày ra ngoài kia gọi đem rượu, thức nhắm vào!

Tên này nghe lời ra bưng rượu thịt bày lên bàn tươm tất rồi bỏ ra ngoài. Hai người ngồi vào bàn, An Tổ lại hỏi. Bá Đương mới đáp:

- Tiểu đệ có một người anh em kết nghĩa, cùng là bạn bè với Đơn viên ngoại, họ Lý tên Mật, mắc phải chuyện lớn, nên tiểu đệ phải tìm đến dây.

An Tổ hỏi:

- Tiểu đệ dạo trước có gặp Tề Quốc Viễn, cũng thấy Quốc Viễn nói đang tìm Lý Mật mưu việc lớn, bây giờ thế nào rồi, xảy ra chuyện gì vậy?

Bá Đương đáp:

- Chả cần phải hỏi. Tiểu đệ nhân có việc phải tìm đến vùng Sở, cùng Huyền Thúy chia tay. Không ngờ Huyền Thúy được Dương Huyền Cảm mời về Quan Trung, cùng với Huyền Cảm dấy binh. Tiểu đệ thì rất rõ Huyền Cảm chỉ là hạng người ếch ngồi đáy giếng, cũng đồ vô dụng bỏ đi, nên đời nào theo về, nhưng không ngờ Huyền Thúy vẫn đi, tất nhiên công việc bại hoại. Huyền Cảm bị sứ của triều đình là Sử Vạn Tuế chém đầu. Lúc này đệ đang ở Ngõa Cương với Địch Nhượng, nghe tin Huyền Thúy và Quan Trung sau đó bị lính bắt, đưa về kinh đô, nghĩ tất phải giải qua đường này, nên tiểu đệ chờ sớm tối ở đây vậy.

An Tổ lên tiếng:

- Cái này thì không có chuyện gì khó, nếu như đại huynh cùng tiểu đệ đón gặp, đại huynh nói có Huyền Thúy trong bọn, tiểu đệ chỉ cần vung tay mấy cái, vài đứa về chầu Diêm vương là xong ngay thôi mà!

Bá Đương đáp:

- Nơi này là đường hiểm yếu đi kinh đô, nếu làm to chuyện quá, cũng chẳng hay ho gì, phải dùng mưu mới xong, không nên dùng sức.

Chỉ cần làm thế này... thế này... mới là kế vạn toàn vậy.

Đang thì thầm, nghe bên ngoài tiếng người ngựa huyên náo, Bá Đương cùng An Tổ ra cửa phòng nhìn, thấy có sáu bảy viên công sai, giải bốn kẻ tội phạm, đều bị đóng gông dài, đeo còng lớn, ngồi ngay trước cửa quán. Bá Đương nhìn kỹ một lượt, thấy rõ Huyền Thúy trong đó, còn ba người kia, nhận ra được Vi Phúc Tự, một người là Dương Tích Thiện, một người là Bính Nguyên Chân, nhưng vẫn yên lặng không nói, chỉ đưa mắt liếc một cái rồi bỏ đi. Bốn người nhận ra Bá Đương, Huyền Thúy thầm mong: "May lắm, có mấy tay này ở đây, ta phải tìm được kế thoát thân mới xong, nhưng không biết họ có cùng một bọn không?". Đang lúc trù trừ, thì thấy Bá Đương vứt ra bàn mấy tấm lụa, nói lớn:

- Tiểu nhị đâu rồi! Ta thiếu một ít tiền, có mang theo mười tấm lụa Lộ Châu đây, xin nhượng lại nguyên vốn, vừa khỏi mang theo nặng, vừa có cái trả hết nợ, lại có tiền ăn đường.

Tiểu nhị đứng dậy đáp:

- Quý khách, tiểu nhân lấy đâu ra tiền mà mua cả mười tấm lụa này, dù quý khách chỉ lấy vốn cũng vậy thôi. Thôi thì quý khách trọ ở quán mấy ngày, cứ thế tính ra, chứ bọn tiểu nhân đây, mấy khi dám dùng đến thứ hàng quý như thế này.

Bá Đương mở ra một tấm giơ ra trước quầy, nói với mọi người:

- Các bác xem đây, nào phải hàng giả, hàng xấu gì để phải lừa đảo người mua, đều là những tấm thượng hạng chọn lựa chu đáo. Mua ngay tận nguồn cũng đã phải hai lạng rưỡi bạc một tấm rồi. Nếu là loại bạc tốt, xin bớt cho một hai tiền gì đó cũng được.

Viên đô đầu cùng mấy người công sai cũng lại bên quầy hàng, cầm lụa lên xem. Viên đô đầu nói:

- Đúng là loại lụa tốt, vừa dày vừa nhỏ, vừa nặng, đem về vùng dưới kia, chẳng sợ không được bốn lạng một tấm hay sao. Đáng tiếc là chúng ta chẳng ai có dư tiền để mua cả.

Tất cả đang xúm lại bàn cãi, thì thấy Huyền Thúy cũng tiến lại bên quầy xem, Bá Đương đưa mắt cho Huyền Thúy, rồi lớn tiếng:

- Tay tử tù này, ngươi cũng lại xem lụa làm gì? Ngươi lấy đâu ra tiền, vì vậy mới mắc phải tội chứ.

An Tổ đứng bên cười:

- Đại huynh chẳng nên cười họ. Có khi họ có tiền mua cũng chưa biết chừng.

Huyền Thúy lên tiếng:

- Bác lái buôn ơi, bác có bao nhiêu lụa quý, xin cứ mang cả ra đây anh em chúng ta sẽ mua kỳ hết, nếu không mua, không phải là kẻ hảo hán!

Bá Đương nói với An Tổ;

- Hiền huynh, còn năm tấm ở trong phòng kia, hiền huynh đem cả ra đây.

Huyền Thúy tiến lại, gọi một tên công sai nhiều tuổi tên gọi

Trương Long:

- Trương đại ca, đại ca xem loại lụa Lộ Châu này có tốt không.

Ta có mười lạng bạc ở đây, biếu đại ca mua lấy mấy tấm, cũng đủ tiền để đại ca đi đường đấy?

Trương Long đáp:

- Chuyện ấy thì chẳng cần. Anh hãy mua lấy mấy tấm mà biếu Huệ đô đầu đây, thì ít nhiều ta còn dễ bề chiếu cố đến anh hơn.

Huyền Thúy đáp:

- Ta thì ngày chết đã định, một ngày qua là gần một ngày, giữ tiền hạc bên người cũng chẳng ích lợi gì, chi bằng mua lấy số lụa tốt này. Đem một nửa với mười lăm lạng bạc biếu Huệ đô đầu, còn thì tặng mỗi vị mỗi tấm, với năm lạng bạc. Về kinh khi chết nhờ các vị chôn cất hộ. Chúng tôi có lời thưa như vậy, nếu được, xin tặng thêm mười lạng bạc nữa để ta làm một bữa rượu vậy.

Trương Long thấy thế, liền vội nói lại với mọi người. Huệ đô đầu vốn là kẻ hám tiền, lập tức đồng tình.

Trương Long nói lại với Huyền Thúy, Huyền Thúy liền đến bên Phúc Tự cùng Tích Thiện, lấy ra đủ một trăm lạng bạc, giao cho Trương Long.

- Xin nhờ đại ca chia cho mọi người hộ.

Trương Long cầm mười lạng bạc, lại ném xuống mặt quầy, nói

Với tiểu nhị:

- Nhờ bác chủ cứ liệu tiền đó mà cân cho đúng đưa cho các vị giùm cho!

Tiểu nhị đáp:

- Xin có ngay!

Rồi vừa quay ra vừa tính toán:

- Tất cả có mười lăm tấm lụa. Tính thành tiền là ba mươi bảy lạng năm tiền. Tất cả đều là bạc loại tốt, một ly cũng không thiếu.

Cứ thế giao cho Bá Đương, còn bao nhiêu trả lại cho Huyền Thúy, Huyền Thúy lấy từng tấm trải ra xem, lóng lánh, rực rỡ một màu, tấm nào cũng như tấm nào. Bèn đưa cho Trương Long, biếu từng người, ai nấy đều lên tiếng cảm tạ. Huyền Thúy lại thò tay vào trong túi lấy ra một thỏi bạc, khoảng hơn một lạng, nói với tiểu nhị:

- Xin thêm cho một ít rượu nữa, gọi là qua cơn nhọc nhằn vậy!

Bá Đương cười:

- Ta cũng quên mất, số bạc lẻ này, bảy lạng năm tiền cả đây, cũng xin đem một lạng ra thêm vào với tiểu nhị vậy.

Vừa nói vừa lấy ra một lạng đưa cho tiểu nhị. Tiểu nhị lên tiếng:

- Tiểu nhân không dám, có nhọc nhằn gì lắm đâu mà được cả hai vị thưởng cho thế này.

Lời qua tiếng lại mãi, An Tổ khuyên:

- Tiểu đệ xin góp một lời vậy. Đại huynh của tiểu đệ góp một lạng, xin cứ đưa đây. Vị này góp một lạng. Cũng xin đưa cho tiểu đệ.

Tiểu đệ cũng xin góp vào một lạng nữa là ba. Phiền chủ quán bày cho mấy đĩa nhấm, bưng cho một hũ rượu nữa, coi như chủ quán đãi anh em chúng ta, để cùng nhau nâng chén, có phải là vui vẻ cả không?

Mấy viên công sai nhất tề hưởng ứng:

- Ông bạn này lý sự như vậy, thật chẳng sai chút nào, chúng ta cũng thêm vào ít nhiều uống cho thoải mái vậy!

Tám viên công sai lần lượt đưa tiền cho An Tổ, An Tổ cân tất cả được ba lạng bảy, liền đưa cho tiểu nhị:

- Xin chủ quán cầm cho, cứ thế mà bày rượu thịt cho chúng tôi.

Tiểu nhị cười đáp:

- Cái này thì tiểu nhân biết rồi. Xin quý khách cứ ngồi vào bàn xơi cơm trước. Chờ tiểu nhân dọn rượu cùng thức nhắm, thong thả uống sau càng ung dung.

An Tổ dặn:

- Thức nhắm không cần nhiều lắm, nhưng rượu thì phải thật ngon. Lại thêm đông người, nên phải cho nhiều nhiều vào.

Tiểu nhị đáp:

- Nhất định rồi?

Mọi người vào bàn ngồi. Chẳng mấy chốc, hoàng hôn đã xuống, chủ quán bày rượu thịt ra các bàn. Lại bày cho Huệ đô đầu một bàn riêng, xếp cho Trương Long ngồi tiếp, không ngồi cùng với công sai và tù nhân. Huệ đô đầu vốn cũng là phường xiểm nịnh, xu thời tầm thường, nay lại được ít nhiều lễ vật, liền nôi với Trương Long:

- Thôi thì cũng là ý tốt của mọi người, ta cũng chẳng đang một mình ngồi một tiệc. Vả lại ở đây là nơi thôn vắng hoang dã, ai mà biết được, cùng ngồi một bàn chẳng sao, lại càng dễ ăn uống.

Trương Long đáp:

- Với nói cho cùng, bốn tay tù nhân này, cũng đều là loại "con ông cháu cha" cả, chẳng may mang phải sự nhẹ dạ của tuổi trẻ, mà phạm tội, chỉ cần Huệ đô đầu cho phép là xong ngay. Chúng tôi xin gọi họ vào luôn.

Huệ đô đầu đáp:

- Nãy giờ đều nhờ Trương Long xếp đặt, vậy hãy ra gọi bọn họ vào đây luôn.

Thế là cả bọn bày ba bốn bàn cơm rượu tại ngay trong gian phòng lớn, kể cả chủ quán là có đến mười bảy, mười tám người. Ai nấy ngồi yên vị rồi, chén lớn, bát nhỏ, anh rót, tôi mời, thật là ầm ĩ, không còn phân biệt được nữa. Tiểu nhị cứ việc khuân rượu hết chai này đến chai khác như nước chảy. An Tổ nói với tiểu nhị:

- Bác nếu có mệt, xin cứ đi ngủ trước, đã có anh em chúng tôi đây đỡ đần bác một tay.

Tiểu nhị uống liền mấy chén nữa rồi bỏ đi ngủ. Huệ đô đầu cũng là phường tửu hữu, uống hết chén này đến chén khác, nói cười ầm ĩ.

Thấy bọn này đã say đến bảy tám phần, lúc này mới độ canh hai. Bá Đương liền nói:

- Rượu không nóng, uống buồn lắm.

An Tổ đáp:

- Hãy đợi tiểu đệ một chốc, vào bếp là có rượu nóng ngay thôi.

Rồi đi ra, lát sau bưng vào một vò rượu nóng, vừa cười vừa nói:

- Bác chủ cùng vào bếp với tiểu đệ đây. Giờ thì cứ uống thật say, rồi nằm quay ngay ra đây, cho bõ công tiểu đệ hâm rượu chứ!

Bá Đương đỡ vò rượu, rót ra một bát lớn, bưng lại cho Huệ đô đấu rót tiếp bảy tám bát nữa, nói với bọn công sai:

- Xin mời các vị cạn ngay cho, rồi sẽ đến lượt chúng tôi.

Bọn công sai nói:

- Cảm tạ thịnh tình của các vị, quả là không thể nào uống nữa.

An Tổ nói:

- Lần này thì xin các vị cứ phải cạn cho, còn bao nhiêu chúng tôi xin gánh tất.

Trương Long nâng bát, uống một hơi cạn sạch, bọn công sai cũng lần lượt uống hết. Phút chốc, cả Huệ đô đầu lẫn tám tên công sai đều ngã lăn quay ra đất, An Tổ cười nói:

- Thế, thế, đúng rồi! Chỉ sợ thuốc không mạnh, bọn này tỉnh ngay mất thôi?

Rồi vội lục trong hành lý một cây nến thắp lên. Bá Đương thì phá cả mấy cái gông, còng cho bốn người. Huyền Thúy lại ngay túi của Huệ đô đầu, tìm ra tờ công văn đốt ngay trên lửa nến. Thu lại tất cả mười lăm tấm lụa Lộ Châu, cùng số bạc đưa cho Bá Đương bỏ vào tay nải. Tên tay chân lại khoác hành lý lên vai, bảy người lặng lẽ rời khỏi quán rượu. Chỉ thấy bầu trời đầy sao, ánh sáng mờ mờ, tất cả yên lặng không một lời, rảo bước như chạy.

Khoảng năm canh, đi cách quán rượu được sáu bảy mươi dặm rồi, An Tổ nói với Bá Đương:

- Tiểu đệ phái chia tay với chư huynh ở đây thôi, không thể nào theo tiễn Lý đại huynh cùng mọi người đến Ngõa Cương được đâu.

Huyền Thúy nói với An Tổ:

- Tiểu đệ được hiền huynh thương đến, nên thoát được nạn lớn này, xin hãy đến phía trước, cùng uống với nhau ba chén rượu đã rồi hãy chia tay.

Bá Đương đỡ lời:

- Không phải thế đâu. Tôn hiển đệ còn phải có việc phải lo với Đậu đại ca, không thể trù trừ được nữa đâu.

An Tổ tiếp:

- Tiểu đệ còn có lời này, phải nói với chư huynh ngay. Nên chia làm ba nhóm, hoặc hai nhóm gì đó mà đi, chạy trốn mà đi cả bọn như thế này, thì chỉ cần một hai dặm nữa là sẽ bị tóm tất cả. Phải chia tay nhau ngay đi!

Huyền Thúy đáp:

- Điều này là lẽ đương nhiên. Xin hiền huynh cho gửi lời thăm Kiến Đức. Tiểu đệ mà tới được Ngõa Cương yên ổn, sẽ có dịp đến Nhiêu Dương. Nếu được gặp cả Đơn viên ngoại, cũng cho gửi lời thăm của Huyền Thúy này!

Nói xong, chia đông tây hai ngả. Còn lại Bá Đương, Huyền Thúy, Nguyên Chân, Phúc Tự, Tích Thiện, đi thêm vài dặm, đã tới ngã ba Tam Soa, Bá Đương lên tiếng:

- Cũng chẳng cần nói nhiều, giữa chốn lưới giăng, bẫy chờ này, sống chết là chuyện bất ngờ. Nay may đã được sổ lồng tới đây, chính là lúc mạnh ai nấy bay. Nhân đến ngã ba Tam Soa này rồi, xin mỗi người mỗi đường. Tiểu đệ xin đi cùng với Lý đại huynh vậy.

Phúc Tự cùng với Tích Thiện vốn là bạn thân với nhau, liền lên tiếng tiếp:

- Nếu đã như vậy, chúng tôi xin theo đường nhỏ, đi ngược mãi lên phía bắc vậy?

Nguyên Chân nói:

- Tiểu đệ cũng chẳng theo đường lớn, cũng chẳng chọn đường nhỏ, sẽ có cách đi riêng của mình, xin chư huynh cứ đi trước vậy.

Họ Vi cùng họ Dương chọn đường nhỏ mà đi, còn họ Vương, họ Lý theo đường lớn đi tiếp.

Chưa được hơn một dặm. Bá Đương thấy phía sau có người đuổi theo, vỗ vào hai vai Huyền Thúy mà rằng:

- Chư huynh sao không đợi tiểu đệ với, cứ thế mà đi mãi?

Bá Đương đáp:

- Đại huynh nói có cách đi riêng rồi, sao lại còn chạy theo làm gì?

Nguyên Chân đáp:

- Đại huynh thật thà quá. Lúc nãy là tiểu đệ lừa hai người kia, để họ chọn lấy đường chết đấy thôi!

Huyền Thúy hỏi:

- Tại sao thế?

Nguyên Chân đáp:

- Bọn công sai tỉnh lại, tất cả phải tìm đến nhờ lính tráng địa phương tầm nã, đường nhỏ sẽ nhiều người tìm đến, đường lớn nhất định sẽ ít hơn. Nay ba chúng ta cứ đàng hoàng mà đi, dẫu có hàng trăm quan quân kéo qua, cũng chẳng để mắt đến. Chỉ cần lúc nào thuận lợi, phải kiếm lấy vài thứ vũ khí mà giữ thân nữa là xong.

Bá Đương nói:

- Cứ đi cho nhanh đã, được bước nào hay bước đó.

Thế rồi, Huyền Thúy giả đóng Toàn Chân (1) đạo sĩ, Bá Đương cùng Nguyên Chân giả làm khách buôn, cứ nhìn phía trước mà đi.

1 Toàn Chân: Đời Kim, đạo sĩ Vương Triết, tu ở am Toàn Chân, truyền đạo "Toàn Chân giáo", từ đó đồ đệ đều xưng là Toàn Chân đạo sĩ.

Chính là:

Ruột gan chưa rõ sự tình

Mà người đã nhớ câu Bình Nguyên Quân

Hồi Thứ Ba Mươi Chín

Vua Trần, vua Tùy nhắc chuyện tình thâm u,

Nàng Trương, nàng Doãn lại mang vạ biếm trích.

Thơ rằng:

Vương sư dập khói lửa,

Đại tướng tài dọc ngang

Anh sớm chói cờ đỏ

Mây chiều phơi lọng vàng

Động rừng trống trận nổi

Rẽ sóng mái chèo vang

Lòng quyết trừ Huyền Thố (1)

Công ghi sườn Am San (2).

1 Huyền Thố. Cũng đọc Huyền Thỏ, tên một quận ở Bắc Trung Quốc, gần các tỉnh Sát Cáp Nhĩ và Nhiệt Hà. Đây chỉ Liêu Đông.

2 Am San: Dải núi sát phía bắc Trung Quốc quãng vùng Cát Lâm hiện nay.

Đại phàm chuyện các bậc vua chúa rất là rối ren, ngòi bút dù tài giỏi đến đâu, một lúc cũng không tài nào ghi chép cho tường tận. Sự việc trong vũ trụ này, từ ngày có mặt trời chiếu sáng đã đủ chuyện, trong khoảnh khắc, tài nào nói cho hết. Chỉ bằng một đôi mắt nhìn của mình, làm sao mà thấu cả mọi chuyện. Người làm sách cũng như kẻ rút một sợi tơ trong búi tơ rối, từ từ rút lần từng đoạn, có trước có sau khiến cho người xem thấy được thứ tự rõ ràng, không phải khổ công đoán trước nghĩ sau.

***

Nói chuyện Tôn An Tổ, từ biệt Lý Huyền Thúy, Vương Bá Đương về kinh đô, tìm đến bạn bè quen biết, đưa mối lần manh, đem vàng ngọc, vật quý dâng cho bọn Đoàn Đạt, Ngu Thế Cơ, cùng một loạt bọn nịnh thần khác, rồi tìm chỗ yên ổn chờ tin tức. Quả là thần tiên linh ứng không lường, chẳng qua mấy ngày sau, đã có thánh chỉ ban xuống:

"Dương Nghĩa Thần xuất binh đã lâu chưa thấy báo tin thắng trận, án binh bất động, là ý làm sao? Trẫm nghĩ thương bậc lão thần, cho về nguyên quán hưu trí. Tiên phong Chu Vũ tạm thay cầm việc quan, chờ điều tướng khác, trừ diệt dư khấu."

An Tổ nghe được tin xác thực, vội ngày đêm rời kinh đô về Nhiêu Dương báo ngay cho Đậu Kiến Đức. Chính lúc Nghĩa Thần bày xong mưu kế để phá Kiến Đức, thấy thánh chỉ ban xuống, nhìn tả hữu mà thở than rằng:

- Cơ ngơi nhà Tùy thật đáng đổ lắm rồi. Ta chỉ chưa biết nó sẽ mất về tay ai.

Rồi đem vàng bạc của riêng, khao thường ba quân, gạt nước mắt, trở về vùng hồ Lôi Hạ, thuộc Bộc Châu đổi họ tên, giấu tung tích, lấy cày cấy, suối rừng làm vui.

Kiến Đức biết Nghĩa Thần đã về, lại đem quân về Bình Nguyên, chiêu tập binh lính, cũng được vài nghìn, rồi chẳng mấy chốc những quận huyện quanh vùng đều phải quy phục, quân lên tới hơn một vạn, thanh thế ngày càng lớn, mưu đồ ngày càng cao, sai tướng tâm phúc, mang thư về Nhị Hiền trang đón con gái, mời Đơn Hùng Tín cùng nhập bọn. Chuyện không nói nữa.

Chính là:

Đừng cho cốt nhục thành Ngô Việt

Luôn nhớ anh em chốn biển trời.

Chuyện chia làm hai mối, đây nói chuyện Dượng Đế kiểm điểm cung nữ cho việc ngự du Quảng Lăng. Đại để cung nữ được kén vào cung, thì nhất định không thể nào xấu cho được, ít ra cũng phải là loại có sắc đẹp trung bình mới có thể lọt vào cung cấm. Khi đã vào cung rồi, trang điểm phấn son, tô mày bôi môi, học cười học nói, nhan sắc cũng có thể tăng thêm hai ba phần. Cũng vì thế mà luôn suốt bảy tám ngày, Dượng Đế ở trong cung kén chọn cung nữ mà chẳng thể bỏ được một người nào, người có thể loại ra, thì lại mặt mày, vóc dáng không đến nỗi nào, hoặc là chỗ quen thân quyến luyến, giở mẹo khóc cười, cho nên càng làm càng rối. Dượng Đế không biết làm thế nào, trong lòng bực bội, liền bỏ mặc việc tuyển lựa cho Tiêu Hậu cùng các phu nhân, còn mình thì dẫn Chu Quý Nhi, Viên Bảo Nhi, cùng ba bốn viên tiểu thái giám, lên thuyền rồng, ra tận Bắc Hải, trèo lên Tam Thần Sơn xem mặt trời buổi chiều. Bỗng nhiên mây kéo mù mịt, ánh mặt trời như tắt hẳn. Dượng Đế vội chạy vào Quan Lan đình (l) ngồi một hồi, tâm thần hoảng loạn, thấy mặt hồ có một chiếc thuyền nhỏ, nhấp nhô trên sóng biếc, nhằm chân đảo mà vào. Dượng Đế ngỡ là thuyền của các phu nhân theo tìm, trong lòng thấp thỏm chờ đợi. Thuyền ghé sát bờ, thì ra không phải, chỉ thấy một viên thái giám tiến vào quỳ thưa:

1 Quan Lan đình: Lầu xem sóng biển, dựng ngay trên núi giữa hồ lớn.

- Trần Hậu Chủ muốn xin gặp bệ hạ.

Nguyên lai Dượng Đế cùng Trần Hậu Chủ thuở ban đầu cũng có đi lại thân mật, nên nghe Hậu Chủ xin gặp liền mời ngay vào.

Chẳng mấy chốc, Hậu Chủ từ trong thuyền bước ra, vào Quan Lan đình, định làm lễ quân thần. Dượng Đế vội giơ tay ngăn lại mà phán:

- Trẫm với khanh là bậc cố giao, chẳng cần phải giữ lễ làm gì?

Hậu Chủ theo lời, vái dài một cái rồi ngồi xuống. Hậu Chủ lên tiếng trước:

- Nhớ lại thuở còn ít tuổi, cùng bệ hạ vui chơi, thân thiết như cùng thanh khí, xa nhau đã lâu, chẳng biết bệ hạ còn nhớ những chuyện xưa chăng?

Dượng Đế đáp:

- Chuyện chơi bời quen thuộc, thuở để tóc trái đào, tình hơn cốt nhục, lòng vẫn thường nghĩ tới, sao lại có thể quên cho được!

Hậu Chủ tiếp:

- Dẫu bệ hạ có nhớ đi chăng nữa, nhưng nay đã là thiên tử, bốn biển trong tay, khác hẳn ngày xưa, mọi người ngưỡng vọng.

Dượng Đế cười đáp:

- Phú quý chẳng qua là chuyện ngẫu nhiên. Khanh tình cờ mà mất, trẫm tình cờ mà được, chẳng nên lấy đó làm chuyện tỵ hiềm vậy.

Nhân đó bèn hỏi:

- Gần đây ba viện Lâm Xuân, Kết ỷ, Vọng Tiên quang cảnh ra sao?

Hậu Chủ đáp:

- Trăng gió vẫn cảnh xưa, chỉ có điều lầu gấm, hồ biếc nay đã thành bạch dương, cỏ mượt cả rồi!

Dượng Đế lại hỏi:

- Nghe nói khanh đã từng vì Trương Lệ Hoa mà xây Quế cung, ngay phía sau Quang Chiêu Điện, mở cửa tròn chẳng khác gì mặt trăng, bốn phía đều làm bình phong thủy tinh. Hậu đình xây bằng đá ngọc trắng, bên trong để trống không, chẳng hề bày trí gì cả, chỉ trồng một cây quế thật lớn, dưới gốc cây để sẵn chày cối giã thuốc bằng ngọc. Bên cạnh cối ngọc, lại nuôi một con thỏ trắng. Cho Trương Lệ Hoa mặc toàn đồ trắng, tóc búi cao như mây, chân đi hài giát ngọc mũi nhọn, ung dung thơ thẩn, chẳng khác gì Hằng Nga trên trăng (1). Quả có chuyện này chăng?

1 Những chi tiết này đều rút ở thần thoại, cổ thư như "Dậu Dương tạp trở",

"Hoài Nam Tử..." nói trong trăng có Hằng Nga lấy trộm thuốc trường sinh của chồng uống, rồi trốn lên cung trăng. Trên cung trăng có cây quế đỏ cao năm trăm trượng, có thỏ ngọc giã thuốc tiên...

Hậu Chủ đáp:

- Thực là có chuyện đó!

Dượng Đế nói:

- Nếu đúng như vậy thì thật là quá xa phí!

Hậu Chủ đáp:

- So với việc đền đài cung quán, để theo kịp vua chúa xưa, thì việc xây Nguyệt Cung này có đáng bao nhiêu, Thần chẳng may mất nước, vì vậy sau này mang tiếng xa hoa. Chẳng cần gì phải dẫn người xưa làm chứng, mà cứ xem ngay như Văn Hoàng Đế bệ hạ thôi, lúc còn ở ngôi, thì nào có chừng gì đâu, cũng vì Trần, Sái phu nhân dựng Tiêu Tương, Lục Ỷ bốn phía đều ghép hoa phù dung bằng vàng. Phía trên cũng lưu ly làm cột, gỗ hạnh có vân làm xà, điêu khắc đủ cảnh chim bay cá lượn, cứ một bước một nghìn vàng. Tất cả cảnh đó, mắt bệ hạ đều thấy rõ, thử hỏi có xa xỉ không? May mà thiên hạ thái bình, truyền ngôi đến bệ hạ, ngày sau sử quan ghi chép chuyện này, nếu cứ nói là tiết là kiệm, thì thử hỏi có thỏa đáng không?

Dượng Đế cười đáp:

- Khanh cũng giỏi chuyện trào phúng nhỉ. Nếu cứ như thế mà nói, thì khi tiên đế ngự Giang Nam, khanh cũng oán hận lắm thì phải?

Hậu Chủ đáp:

- Làm một ông vua mất nước thì dám oán hận gì nữa. Chỉ nghĩ tới cảnh hoa đào trước núi, theo chiến thuyền lên phía bắc. Lúc ấy Trương Lệ Hoa đương ở trên Lâm Xuân Các, thử bút Từ Hào của Đông Quách Nguy, trên giấy Hồng Tiên bóng, họa lại bài thơ "Ánh trăng chiếu vách bên sông", mà vẫn chưa xong, thì bỗng Hàn Cầm Hổ dẫn binh ập vào, rồi hết chuyện bức bách này sang sự trói buộc khác, làm cho bài thơ của Trương Lệ Hoa vẫn chưa xong, để hận mãi đến giờ vậy.

Dượng Đế hỏi:

- Giờ Trương Lệ Hoa đang ở đâu?

Hậu Chủ đáp:

- Hiện đang ở dưới thuyền.

Dượng Đế nói:

- Sao không mời lên cùng gặp gỡ?

Hậu Chủ sai thái giám xuống thuyền mời, thì thấy trong thuyền bước ra có đến mười mấy cung nữ, cầm theo đàn địch, bưng theo cả rượu thức nhắm, một đoàn đi lên, thấy Dượng Đế, nhất tề quỳ lạy.

Dượng Đế vội mời đứng dậy, nhìn kỹ trong bọn, một người hai vai như ngọc rũ xuống, mặt trắng như tuyết ngưng, phong thái mười phần yểu điệu. Dượng Đế nhìn không nháy mắt. Một hồi lâu, Hậu Chủ mới cười hỏi:

- So với dung mạo Tuyên Hoa phu nhân nhà thần (1) thì ai hơn ai kém?

1 Trần Phu nhân, được Tùy Văn Đế phong Tuyên Hoa phu nhân, vốn là con vua Trần Tuyên Đế, có họ với Trần Hậu Chủ, vì vậy Hậu Chủ xưng thế.

Dượng Đế đáp:

- Thì cũng như nàng Hinh so với nàng Doãn, suýt soát như chị như em vậy thôi.

Hậu Chủ nói:

- Bệ hạ nhìn kỹ người nào, thì người ấy chính là Trương Lệ Hoa đấy!

Dượng Đế cười:

- Thì ra là Trương Quý Phi, thật đúng là danh bất hư truyền. Từ lâu đã nghe tiếng Quý Phi, nay mới thấy mặt, chẳng khác gì được gặp lại người quen cũ, chỉ hận không tiệc rượu, để cùng vui với hai khanh.

Hậu Chủ đáp:

- Thần có đem theo mấy chén, chỉ sợ bệ hạ quen dùng ngự tửu, nên không dám dâng.

Dượng Đế nói:

- Trẫm gặp cố nhân, nhất thời thích chí, việc gì phải quá giữ lễ.

Hậu Chủ liền gọi Trương Lệ Hoa dâng rượu lên, Dượng Đế uống liền ba chén, rồi nói với Hậu Chủ:

- Trẫm nghe nói khúc hát "Hậu đình hoa", hay vào nhất trên trời dưới thế suốt từ xưa tới nay, giờ may gặp nhau đây, sao lại không cho trẫm nghe một lần?

Trương Lệ Hoa từ tạ:

- Thiếp từ ngày phí hoài năm tháng đến nay, lời ca điệu múa của nhân gian không nhớ đã lâu. Huống chi lần ở dưới giếng lên đến nay, xương cốt đau nhức, chẳng còn giữ được phong thái thuở xưa, sao lại dám trước mặt thiên tử mà cuồng ca loạn xướng cho được.

Dượng Đế nói:

- Quý phi hình dung yểu điệu, chẳng cần ca chẳng cần múa cũng làm người tiêu hồn lạc phách, lại thêm ca múa nữa, thì chưa nghe chưa xem cũng đã thấy hay thấy đẹp, hà tất phải quá khiêm nhường.

Hậu Chủ lên tiếng:

- Bệ hạ đã ân cần đến thế, khanh hãy cố múa ca một khúc vậy.

Trương Lệ Hoa không tiện chối từ, liền bảo cung nữ giải thảm, tấu nhạc, rồi bước lên, theo nhịp nhạc du dương, giải lụa phất phơ, lưng cong uốn éo, nhẹ nhàng như bướm lượn trong hoa, chập chờn như chuồn chuồn điểm nước biếc, lúc đầu thì như chập chờn đùa giỡn chẳng chậm không mau, về sau tiếng nhạc càng dồn dập, Trương Lệ Hoa cũng quay tít đến không nhận ra rõ hình người, rồi lại từ từ trở lại hiện rõ nét mặt tươi hồng, chẳng khác gì ráng mây sáng sớm, nhẹ nhàng di chuyển giữa từng không. Tiếng nhạc ngừng, điệu múa hết, lúc này Trương Lệ Hoa mới cao giọng hát:

Cảnh đẹp rừng hương kề cao các

Điểm trang diễm lệ bậc khuynh thành

Lộng lẫy dừng chân bên cửa điện

Chúm chím hoa đào hé trước mành

Sương đọng lung linh vẻ diễm kiều

Ngọc thụ ngời ngời Hậu đình hoa.

Dượng Đế hồn phách như tiêu đâu mất, ngẩn người ca ngợi, sai rót ngay hai chén rượu, một chén đưa mời Hậu Chủ, một chén mời Trương Lệ Hoa. Hậu Chủ đỡ chén rượu, bỗng nức nở mà nói:

- Thần làm ra khúc hát này, phí không biết bao nhiêu tâm lực, mà chẳng được hưởng bao nhiêu, cuối cùng hát câm, đàn lặng. Đến nay mới nghe lại, khiến lòng không ngăn nổi niềm đau mất nước.

Dượng Đế nói:

- Khanh tuy mất nước, nhưng khúc hát "Ngọc thụ Hậu đình hoa" nay nghìn thu sẽ còn mãi, hà tất phải đau đớn đến thế. Khanh vốn có tài văn chương, từ ngày xa nhau đến nay, nhất định có nhiều bài hay, hãy đọc một hai bài, để trẫm nghe thử xem sao!

Hậu Chủ đáp:

- Thần gần đây tình cảnh không được thư thái, nên chẳng có hứng làm thơ, chỉ có hai bài thơ tặng cung nữ Bích Ngọc, Tiểu Song, cũng là vụng về cho xong, xin bệ hạ đừng cười.

Rồi đọc bài tặng Tiểu Song:

Giữa trưa đang ngon giấc

Bỗng dưng sao giật mình

Bóng chiều như ý ghẹo

Cánh cửa nhỏ rung rinh.

Tiếp theo, Hậu Chủ đọc bài tặng Bích Ngọc:

Biệt ly lòng muốn dứt

Tương tư bóng hao gầy

Hồn theo mưa lất phất

Tựa cửa lặng nhìn theo.

Dượng Đế nghe xong hết lời tán thưởng, Hậu Chủ lên tiếng:

- Mất nước nằm dài, sao bằng được bệ hạ hùng tài thao lược, nổi tiếng một thời.

Trương Lệ Hoa cũng thưa:

- Thiếp nghe bệ hạ thi từ tao nhã, nay may được chiêm bái long nhan, xin được nghe một vài câu để lấy làm nỗi vinh hạnh suốt một đời.

Dượng Đế cười đáp:

- Trẫm xưa nay chưa từng biết làm thơ bao giờ, thật phụ lời thỉnh cầu của Quý phi, làm thế nào bây giờ?

Trương Lệ Hoa thưa:

- Bệ hạ trong khi say làm từ "Vọng Giang Nam" rồi ngự chế "Thanh dạ du khúc", đều trong một khoảnh khắc mà xong, sao lại nói là không biết? Hay vì thần thiếp thô lậu, không đáng để bệ hạ buông lời châu ngọc, nên nói thác ra như vậy chăng?

Dượng Đế đáp:

- Quý phi nào có lỗi gì ở đâu. Trẫm xin cố nghĩ vài câu để đáp Quý phi vậy.

Trương Lệ Hoa sai cung nữ đem văn phòng tứ bảo bày ra, Dượng Đế giở giấy hoa tiên viết ngay một bài sau đây:

Gặp mặt sao ngần ngại

Nghe danh kể những khi

Rốn ngồi trăm vẻ đẹp

Thật đáng bậc tương tri.

Dượng Đế viết xong, đưa cho Trương Lệ Hoa, Trương Lệ Hoa cầm xem một lượt, thấy lời thơ có ý khinh bạc, lại hàm cả vẻ đùa cợt, bất giác hai má ửng đỏ, một lúc lâu không nói gì. Hậu Chủ thấy Trương Lệ Hoa có vẻ giận dữ, trong lòng cũng thấy bực bội, liền hỏi Dượng Đế:

- Nhan sắc như người này, không biết nếu so với Tiêu Hậu của bệ hạ, thì hơn kém ra sao?

Dượng Đế đáp:

- Quý phi so với Tiêu Hậu thì xinh tươi hơn, Tiêu Hậu so với Quý phi yểu điệu hơn, cũng chẳng khác gì mùa xuân thì của hoa lan, mùa thu thì của hoa cúc. Mỗi hoa đều có vẻ đẹp nhất thời của riêng mình, làm sao mà so được?

Hậu Chủ nói:

- Nếu đã là vẻ đẹp nhất thời cả, sao trong lời thơ của bệ hạ lại hàm ý khinh bạc Trương Lệ Hoa đến thế?

Dượng Đế khẽ cười đáp:

- Thơ của trẫm là thơ của thiên tử, chẳng qua là cũng để ghi lại cái hứng nhất thời, làm gì có chuyện khinh bạc hay không ở đây?

Hậu Chủ giận dữ:

- Ta cũng từng làm thiên tử, nhưng không đến nỗi tự cao tự tôn như ngươi.

Dượng Đế cũng nổi giận:

- Ngươi là kẻ mất nước, sao lại dám vô lễ?

Hậu Chủ càng tức tối:

- Thử xem ngươi còn được bao lâu nữa để vênh vang, mà dám chê ta là ông vua mất nước. Chỉ sợ đến lúc ngươi mất nước, kết cục sẽ chẳng có điều gì được như ta thôi!

Dượng Đế điên cuồng:

- Trẫm đường đường thiên tử ngôi cao, sao lại thèm so với ngươi?

Rồi đứng dậy định túm lấy Hậu Chủ. Hậu Chủ hỏi:

- Ngươi định bắt ta chăng?

Trương Lệ Hoa vội kéo Hậu Chủ ra:

- Đi thôi! Đi thôi! Một hai năm sau, xuống dưới dạ đài, sẽ còn nhiều dịp gặp nhau nữa mà!

Cả hai cùng ra phía bờ biển, Dượng Đế vội chạy theo kéo lại, chỉ thấy bóng Trương Lệ Hoa lúc ẩn lúc hiện, lúc mờ lúc tỏ, rồi mất hẳn, Dượng Đế đành đứng ngây ra nhìn theo.

Dượng Đế bỗng sực tỉnh, như vừa thoát khỏi cơn mơ, liền nhớ lại cả hai người này chết đã lâu, thì sợ hãi lạnh cả chân tay, mở mắt nhìn ra, thấy trước mắt là Quý Nhi, Bảo Nhi đang lấy ống tay áo rộng che người Dượng Đế. Dượng Đế vội hỏi:

- Các khanh có thấy gì không?

Hai mỹ nhân đáp:

- Chẳng thấy gì cả. Chỉ thấy bệ hạ như ngủ thiếp đi, nói ú ớ trong mơ, chân tay nâng lên đặt xuống luôn luôn.

Dượng Đế ra lệnh:

- Mau xuống thuyền về thôi!

Tất cả kéo xuống thuyền rồng, Dượng Đế đem những điều tai nghe mắt thấy vừa rồi kể lại tỷ mỹ, Quý Nhi, Bảo Nhi vô cùng kinh sợ. Dượng Đế trong lòng cũng lo lắng, giục thuyền chèo mau hơn nữa.

Bỗng nghe tiếng đàn tiếng sáo du dương, theo gió đưa đến. Dượng Đế trong lòng nghi ngại, thì bỗng đã thấy Ỷ Âm viện xa xa, Tần phu nhân, Sa phu nhân, cùng Triệu Vương lẫn Viên Quý nhân, Tiết Dã Nhi cả bọn cùng ra đón. Lại thấy cả Hạ phu nhân đang gảy đàn, Dượng Đế vội vàng lên bờ nói:

- Các khanh hãy làm thế nào để trẫm được vui lên xem nào. Hãy cùng nhau kéo cả ra đây cho đủ mặt?

Mọi người tranh nhau thưa:

- Chúng thiếp tìm khắp nơi chẳng thấy bệ hạ đâu cả, chẳng ai ngờ bệ hạ lại ra tận Bắc Hải.

Dượng Đế đáp:

- Hạ phu nhân hôm nay tại sao lại mang theo cả đàn ra đây?

Hạ phu nhân thưa:

- Thiếp đội ơn bệ hạ đặt cho ở viện này, đã bốn năm năm nay, cũng khác nào Phật tử say mùi thiền rồi, bóng tùng xanh mát, dáng núi lại nhấp nhô, mưa nhỏ hoa thêm sắc, tường cao đón ánh trăng, đài tạ ngâm nga, lại đã cùng chứng kiến bao sự buồn vui cùng bệ hạ, nay nhất đán bỏ mà đi, sông núi linh thiêng cũng như rơi lệ. Vì vậy thiếp đem đàn theo, cũng là có ý từ biệt cùng cảnh vật, để sông núi cũng không đến nỗi cười thiếp là kẻ bạc tình vậy!

Dượng Đế nghe nói thế, cũng than thở:

- Nơi này trẫm cũng thật không muốn rời bỏ đâu, bởi hoàng hậu bỗng nổi cơn hứng muốn ngự du Giang Đô. Ngỡ là mọi việc khó mà thu xếp xong, nào ngờ giờ đây ước nguyện đã thành. Đây cũng là chuyện số trời. Sức người thì làm gì nổi?

Bỗng thấy Cao Xương cùng bảy tám kẻ tay chân tâm phúc thái giám, tới quỳ tâu:

- Một nghìn cô gái trong đội "Điện cước nữ" bọn bề tôi này đã đi về vùng Giang Nam tuyển, nay đã đủ số.

Dượng Đế cả mừng:

- Nay đang ở đâu?

Thái giám thưa:

- Vương Hoằng vâng lệnh đã chia làm thành từng đội theo số hiệu thuyền rồng, để tiện cho việc tập dượt. Không biết đến bao giờ thì bệ hạ ngự giá?

Dượng Đế nghĩ ngợi:

- Trẫm chinh Liêu chẳng qua chỉ là lấy danh vậy thôi, thực ra là tuần du Giang Đô. Nhưng nay dã mang tiếng là thiên tử thân chinh, không thể nào giống kẻ khác, lẽ ra phải phân làm hai mươi tư đội cả thảy.

Đắn đo một hồi, Dượng Đế quay về đại diện, viết một tờ sắc rằng:

"Nay ban rằng: Vũ Trọng Văn làm Tả dực vệ đại tướng quân, Tân Thế Hùng làm Hữu dực đại tướng quân, Kinh Nguyên Hằng làm Tả kiêu vệ đại tướng quân, Tiết Thế Hùng làm Hữu kiêu vệ đại tướng quân; Mạch Thiết Trượng làm Tả đồn vệ đại tướng quân, Trần Lăng làm Hữu đồn vệ đại tướng quân; Trương Cẩn làm Tả ngự uy tướng quân, Triệu Hiếu Tài làm Hữu ngự uy tướng quân; Chu Pháp Thượng làm Tả vũ vệ tướng quân, Thôi Hoằng Thăng làm Hữu vũ vệ tướng quân, Vệ Văn Thăng làm Tả ngự vệ hổ bôn lang tướng, Khuất Đột Thông làm Hữu ngự vệ hổ bôn lang tướng. Cộng tất cả là hai mươi tư viên tổng quản. Lại lệnh cho Lưu Sĩ Long làm Tuyên dụ sứ, hiệp đồng với Tổng đốc lục quân đội nguyên soái Vũ Văn Thuật, Thủy quân thống lãnh nguyên soái Lai Hoạch Nhi, làm tiểu đội vương sư, cùng tiến vào Bình Nhưỡng."

Viết xong, Dượng Đế đưa cho nội giám, truyền cho các bộ, các ty biết rõ, chọn ngày tốt, thiên tử ngự tế trời đất, miếu tổ, khao thưởng ba quân, thống lãnh một vạn Vũ lâm quân, chia đường hướng Liêu Đông cùng tiến.

Tướng quân Lai Hoạch Nhi rõ tin hoàng đế đã rời đô thành, liền lệnh cho Tần Thúc Bảo xuất quân. Thúc Bảo từ lâu đã tìm người hiểu rõ đường sông biển làm hướng đạo, lại đinh ninh lời dặn dò của Trương Tu Đà, trước tiên sai tướng hiệu tâm phúc đi trước phát hiện những ổ mai phục dọc theo áp Lục Giang, rồi chờ sẵn ở Bình Nhưỡng đón đại quân đến sau, tiễu trừ tận sào huyệt, nội ngoại cùng giáp công.

Chính là:

Mẹo thần đã chẹn họng rồi

Bọn tiểu nhân rối tơi bời, vỡ gan.

Lại nói Dượng Đế sau khi đã ban một loạt thánh chỉ cho việc ngự du Giang Đô, liền vào cung hỏi Tiêu Hậu:

- Chúng cung nữ cùng đi Giang Đô, tuyển đã xong chưa?

Tiêu Hậu cười đáp:

- Bệ hạ ra cho thiếp một cái đề thật muôn ngàn khó khăn, bảo thiếp làm sao mà làm cho xong được. Cung nữ thì nhiều kẻ chẳng nói chẳng rằng, đi cũng không nói, ở cũng chẳng một lời. Ai cũng như người say rượu, thấy bệ hạ đi khỏi, cả ba bốn trăm cung nữ nhất tề kéo đến quỳ trước thềm tâu rằng: "Chúng thiếp giữ Tây Uyển từ lúc hoa sớm nở đến lúc trăng khuya mọc, trải đủ mọi sóng hồ gió núi, rồi cũng đã từng ở điện Chiêu Dương đội nhiều ơn mưa móc của chúa thượng, bao cảnh phồn hoa đã trải đủ. Chúng thiếp cũng từ Tây Kinh lại Đông Kinh, hai phen theo ngự giá. Tuy chẳng phải châu quý ngọc lành, nên chẳng dám nghĩ tới chuyện bệ hạ sủng ái, trước mắt âu cũng chỉ là cảnh trâm gãy vòng rơi, nhưng cảnh ngoài muôn dặm, Giang Đô tiên giới, tuy tai đã được nghe, mắt chưa từng thấy, dẫu chúa thượng có bỏ chúng thiếp, xin hoàng hậu hãy nói đỡ cho vài lời vậy!"

Nói xong, tất cả như cha mẹ chết, khóc lóc ầm ĩ, thì thử hỏi thiếp làm sao mà phân xử cho được?

Dượng Đế cười đáp:

- Bọn tiện tỳ này giỏi thật, cũng biết kéo tới cả để kêu xin kia à?

Tiêu Hậu thưa:

- Cũng có nguyên cớ dấy. Nhân hai phi tử họ Trương họ Doãn xúi bẩy: "Hai chúng ta thì tuổi đã cao rồi, nhan sắc đã tàn tạ rồi, nhưng các ngươi đều còn như đóa hoa tươi cả, ngày tháng còn dài, sao không nhân lúc này mà tìm cách chiếm được sự lưu tâm của chúa thượng, còn chờ đến lúc bị bỏ rơi, bị quên lãng nữa sao?". Vì vậy mà chúng cung nữ mới cùng nhau kéo đến van xin vậy.

Dượng Đế vừa nghe vừa gật gật đầu, gọi một thái giám truyền ngay binh bộ, chuẩn bị ngay bốn mươi chiếc thuyền, thái giám lĩnh chỉ đi ngay.

Thì ra Trương Phi tử, vốn có tên Diễm Tuyết, Doãn Phi tử, vốn có tên Cầm Sắt, cả hai đều cùng một lứa với Tuyên Hoa phu nhân thời Tùy Văn Đế, tuổi tác cũng xấp xỉ như Tuyên Hoa phu nhân thôi, nhưng nhan sắc thì không bằng, lúc này khoảng ba tám, ba chín gì đó. Bởi Dượng Đế chung tình với Tuyên Hoa phu nhân, nên chẳng bao giờ để ý tới hai phi tử này. Huống chi sau khi Tuyên Hoa phu nhân chết, tiếp đó là chuyện Dương Tố ngã lăn ra ở Tây Uyển, trước khi chết còn nói đủ chuyện oan cừu, chuyện hiển linh của Văn Đế giữa ban ngày, vì vậy Dượng Đế trong lòng cũng có phần sợ hãi, không dám nối mãi gót xưa.

Trường An lại bao phen lộn xộn, Hứa Đình Phủ bao phen tuyển cung nữ, Trương Phi tử cùng Doãn Phi tử cậy mình xưa kia được Văn Đế sủng ái, chẳng có lý nào dám đầy họ nơi này nơi khác. Mà dù có đẩy họ ra lãnh cung suốt đời đi chăng nữa, thì lòng họ cũng đã như tro tàn rồi còn hy vọng gì. Tiêu Hậu vốn là kẻ nhỏ nhen, đố kỵ, chỉ thích người khác tới xum xoe, nịnh hót, nay lại thấy cả hai người này không chịu tới xu phụng, vì vậy mới dựng nên chuyện này, để nhổ quách mấy cây cỏ dại ngứa mắt, mà vẫn được tiếng khoan nhân, rộng lượng. Dượng Đế làm thế nào mà biết được những mưu đồ đen tối đó.

Ngày hôm sau, những cung nữ không được chọn đi nhìn sau rèm cửa phòng, thấy Dượng Đế đang lên xe rồng, tất cả cùng kéo ra, níu lấy xe, kêu xin thảm thiết. Lại thấy khoảng chục viên nội giám, kéo đến nơi ở của Trương Phi tử, Doãn Phi tử, cao giọng nói:

- Chúa thượng có chỉ truyền: cả bốn trăm cung nữ chưa có trong số được chọn, lệnh cho Trương Phi tử cùng Doãn Phi tử đưa số này xuống thuyền ngay, không được sai sót.

Trương, Doãn hai người đều lấy làm ngạc nhiên: "Cả hai chúng ta đều chưa từng xin triều đình việc này, cũng chẳng lụy lục gì hoàng hậu, tại sao trong cái nồi hông lạnh, mà lại có hơi bay ra cho được!".

Bọn cung nữ lập tức vui mừng, thu thập tế nhuyễn riêng tư, chất cả lên mấy xe lớn, nhất tề ra khỏi cung cấm. Đi ròng rã một ngày trời, mãi tới hoàng hôn mới được lên thuyền. Sáng ngày hôm sau, Trương, Doãn hai người đều nghi ngờ, bèn hỏi bọn nội giám:

- Thuyền của chúa thượng ở đâu?

Nội giám đáp:

- Ở phía trước!

Trương Phi tử hỏi:

- Nghe nói triều đình mới đóng một trăm chiếc thuyền rồng, nay chúng ta đang đi là thuyền trưng dụng của dân chúng, chẳng phải thuyền rồng. Trong này nhất định có gì phải giấu giếm, che dậy rồi. Các người lừa chúng ta đi đâu, hãy mau nói ra xem nào?

Bọn nội giám thấy không thể giấu nổi, đều nhất tề quỳ thưa:

- Xin nhị vị phu nhân đừng nổi giận, đây chính là làm theo thánh chỉ của chúa thượng, sai bầy tôi đưa nhị vị phu nhân cùng các cung nữ về Tấn Dương cung. Nhược bằng nhị vị không tin, hiện có sắc chỉ chính tay chúa thượng ngự phê ở đây!

Bọn nội giám đưa sắc chỉ ra, các cung nữ trong thuyền, cùng hai Trương, Doãn Phi tử xúm lại đọc thì thấy ghi rõ:

"Trương Phi tử cùng Doãn Phi tử, vốn được tiên triều sủng ái quá nhiều, nay để lại đây cung phụng khó khăn, lệnh cho đem theo hơn bốn trăm cung nữ không có tên đi Giang Đô, trở về Tấn Dương cung ở Thái Nguyên trước. Truyền cho phó giám giữ cung Bùi Tịch đối chiếu sổ sách nhận đủ, trông coi chu đáo, không được sai sót."

Các cung nữ đọc xong thánh chỉ, biết rõ không phải đi Giang Đô mà là trở về Tây Kinh, đều khóc lóc ầm lên, có cả kẻ đâm đầu xuống sông tự tử, có kẻ tìm dao đòi đâm cổ. Chỉ riêng Trương Phi tử thì cười ha hả mà nói:

- Ta xem ra các ngươi đều là một lũ ngốc. Dù có tới Giang Đô, cũng chẳng cha mẹ thân thích gì ở đó, bất quá chẳng qua là rong chơi một vùng. Việc sủng ái nào đến phần các ngươi. Cứ như ta đây còn đến thế này. Các ngươi sao không rõ số phận của mình. Về Thái Nguyên lại tự do tự tại, chẳng phải xin xỏ, chẳng phải lạy lục, chẳng người sai phái, sướng biết bao nhiêu. Cứ chờ đó mà xem bọn họ đắc ý ra thế nào!

Các cung nữ nghe nói thế, lòng cũng thanh thản hơn, lại nói nói cười cười trong vòng một tháng mới về đến Tấn Dương cung. Nội giám dẫn hai phi tử cùng bọn cung nữ, giao cho phó giám Bùi Tịch minh bạch, rồi quay về Giang Đô phục chỉ.

Không biết mọi chuyện sẽ ra sao, xin xem hồi sau phân giải.

Hồi Thứ Bốn Mươi

Đê sông Biện, ngự ban họ Dương cho cây liễu,

Trong thuyền rồng, nàng Giáng Tiên đẹp gội ơn vua.

Từ rằng:

Mây đụn mưa dầm

Hương thơm ngọc sáng

Tưởng rằng hồn vắng đã lâu

Ai dè oan trái lẫn đâu chốn này

Có hóa không, không bày ra có

Kia không hoa với nọ rượu thôi

Lời ngon ngọt miệng tươi cười

Bao nhiêu quyến rũ chào mời đong đưa

Dây lèo gấm trong mơ tay kéo

Đôi bờ xanh dương liễu thành hàng

Vì ai ai đấy bấy chầy

Tình kia canh nọ rộn ràng lòng ai.

Can qua bỗng chặn tay người lại

Chàng kịp cho mê mải thú vui

Khó mong hưởng thụ đời đời. . .

Theo điệu "Thiên hương dẫn"

* * *

Lại nói chuyện Dượng Đế rời khỏi Đông Kinh, đi xe rồng ra sông Biện, không ghé vào hành cung nào cả, lên ngay thuyền rồng cùng với Tiêu Hậu dùng mười chiếc thuyền rồng đệ nhất đẳng. Phu nhân mười sáu viện, tiệp dư, quý nhân, mỹ nhân, chia vào thuyền rồng đệ nhị đẳng gồm năm trăm chiếc. Còn có tới mấy nghìn thuyền khác chở bọn nội giám, các công sai, tạp dịch, các bộ phận cung ứng ăn uống. Lại đặc cấp cho vợ chồng Vương Nghĩa ba thuyền, để y tuần tiễu hộ vệ quanh mười thuyền rồng đệ nhất đẳng. Còn văn võ trăm quan thì cưỡi ngựa, binh lính hộ vệ, theo hai bờ đê mà hành quân đóng trại, nếu không có lệnh triệu, không được tự tiện lên thuyền.

Mười thuyền rồng đệ nhất đẳng, đều dùng dây lụa kết thành một khối, đi ở chính giữa. Năm trăm thuyền rồng đệ nhị đằng, chia một nửa đi trước, một nửa đi sau, tuần tự mà tiến. Mỗi thuyền đều có cắm cờ hiệu, ghi rõ số mục, đoàn đội, các phu nhân, mỹ nhân cứ đối chiếu số mục đó mà nhận ra thuyền mình để dễ dàng mỗi khi có thánh chỉ gọi đến. Các thuyền còn lại cũng phải cắm các cờ màu vàng, chiếu theo các thuyền rồng mà đặt các số hiệu nhỏ hơn, theo đúng hiệu lệnh sai phái, không được đi nhanh hơn, cũng không cho đi chậm quá. Thuyền lớn bắn một hiệu pháo, thì các thuyền khác cứ theo lệnh đó mà tiến theo luồng nước. Một hồi thanh la nổi, tất cả các thuyền đều phải cặp neo vào bờ, không được làm cản trở lối đi chính. Một hiệu lệnh của thiên tử đã ban ra, tất tất nghiêm chỉnh nghe theo, không ai dám nhỏ to, rối loạn.

Thật đúng là:

Lệnh vua nghiêm tựa sấm ran trời

Muôn chiếc thuyền rồng một dãy xuôi

Đừng tưởng có tài thì nước trị

Hay đâu mất nước chính do tài.

Dượng Đế đang ngồi trong thuyền rồng, thì Cao Xương dẫn cả một nghìn cô gái trong đội "Điện cước nữ" tới triều kiến. Dượng Đế thấy các cô gái, ăn mặc theo kiểu Ngô, kiểu Việt xếp hàng đứng ngay trên bờ phong tư yểu điệu, mười phần đáng yêu, nên trong lòng rất hả hê, mới hỏi Cao Xương:

- Bọn họ đã chia thành các đội ngũ chưa?

Cao Xương quỳ thưa:

- Vương Hoằng phân chia đã xong, chỉ chưa kịp đưa trình bệ hạ xem qua.

Dượng Đế phán:

- Chẳng cần phải xem làm gì. Đợi đến ngày mai kéo thuyền trẫm dựa lan can mà ngắm là được lắm rồi!

Đội "Điện cước nữ được lệnh, ai về thuyền nấy. Hôm đó, trời đã về chiều, thuyền chưa thể nhổ neo, liền bày yến tiệc ngay trên thuyền, trước là tuyên triệu, bá quan văn võ cùng ăn uống, sau đó là Tiêu Hậu cùng các phu nhân, cung nữ, tiệc tùng mãi tới nửa đêm mới tan.

Ngày hôm sau, thánh chỉ truyền nhổ neo, lại gặp phải ngày không hề có một chút gió gọi là, chẳng thể nào giương buồm, chỉ còn cách kéo mà thôi. Trước tiên là lấy nghìn con dê béo khỏe, mỗi thuyền chia đều một trăm con, đuổi cho chạy trước. Rồi đến đội "Điện cước nữ", cũng đều lên bờ kéo theo. Bọn "Điện cước nữ" đã qua diễn tập, tô son điểm phấn xinh đẹp mười phần, cứ theo số hiệu thuyền, thứ tự riêng mà xếp thành đội ngũ. Thuyền rồng đi đầu nổi hiệu, "Điện cước nữ" đều ra sức kéo, bầy dê cũng căng dây lụa ngũ sắc mà chạy. Mười chiếc thuyền rồng lớn được một trăm sợi dây đồng loạt kéo đi, từ từ, nhẹ nhàng tiến lên phía trước. Dượng Đế cùng với Tiêu Hậu, ngồi trên thuyền chăm chú theo dõi, thấy hai bờ dây ngũ sắc, màu áo, màu quần sặc sỡ, tiếng ngọc, tiếng vàng xen lẫn, thật đủ vẽ phong lưu, nghìn vẻ diễm kiều, từ xưa tới nay, chưa từng thấy cảnh kỳ thú như thế bao giờ.

Chỉ thấy:

Mày ngài thành đội, ngàn dây leo gấm kéo tay tiên

Son phấn xếp hàng, trăm bộ lưng ong gò đón chúa

Kỳ hương tỏa ngát, đôi bờ lan xạ ngát lừng

Diễm sắc đua chen, một dải the là tha thướt

Gặp khúc quanh, chân vàng rươn rướn

Tràn sóng vỗ, cánh ngọc cong cong

Lả lơi như trăng vờn nước mà không mờ

Uốn éo như hoa rung rinh mà chẳng tiếng

Thẹn thùng đỉnh Giáp non Thần

Dẫu Hằng Nga điện Quảng Hàn cũng thua

Anh Tương Phi Lạc Thủy mờ

Phi tần cung Hán thẫn thờ lảng xa

Buồn thương xuân vội vàng qua

Kéo dây ngũ sắc, căng ra lại chùng

Những lo người đẹp vẫy vùng

Dây tơ hồng buộc chân cùng, người ơi!

Thướt tha yểu điệu đi đời.

Dượng Đế cùng Tiêu Hậu dựa lan can nhìn ra, lòng hoan hỉ vô hạn. Giữa lúc chăm chú nhìn, thì đội "Điện cước nữ", kéo được khoảng trên dưới nửa dặm dường, má hồng hoen ố mồ hôi, bắt đầu thở không ra hơi. Nguyên do lúc này đã là cuối tháng ba, trời bắt đầu nóng, sáng ra, mới có bóng mặt trời phía đường đông, thì cũng chưa đáng sợ nhưng tới lúc mặt trời lên giữa đỉnh đầu, đội "Điện cước nữ" này đều là các cô gái mười sáu, mười bảy yểu điệu, làm sao chịu nổi.

Dượng Đế thấy thế, trong lòng thầm nghĩ: "Bọn con gái này, khi mà phấn điểm mày chau trông cũng ra dáng lắm, nhưng mồ hôi giọt này nối giọt khác thế kia, kéo lê từng bước khó nhọc, cũng chẳng còn thú vị gì nữa". Liền lập tức ra lệnh nổi hiệu dừng thuyền. Thuyền rồng đi đầu vội nổi thanh la, hai bên bờ, đội "Điện cước nữ" lập tức chùng dây, cùng nhau lên tiếng thở phào khoan khoái. Một hồi thanh la nữa vang lên, mọi người liền dùng dây buộc neo thuyền lại. Lại một hồi thanh la thứ ba, ai nấy thu dây kéo thuyền gọn gàng rồi lên thuyền của mình. Tiêu Hậu thấy vậy, bèn lên tiếng hỏi:

- Mới đi được một đoạn ngắn, sao bệ hạ lại lệnh cho dừng lại?

Dượng Đế đáp:

- Hoàng hậu không thấy đội "Điện cước nữ" sao, mới có nửa dặm đường, mà họ đã thở hổn hển thế kia. Chỉ cần đi một hồi nữa, mồ hôi thánh thót một hồi nữa, thì quang cảnh sẽ ra sao. Trời nóng nực thế này, lại thêm ánh nắng gay gắt, vì vậy trẫm phải ra lệnh tạm dừng, nhất định phải tìm ra cách nào đó mà thay đổi chuyện này mới được.

Tiêu Hậu cười thưa:

- Thì ra bệ hạ thương hại bọn họ, sợ họ bị nắng thiêu đen cháy. Thiếp có một cách này, chẳng biết có vừa ý bệ hạ không?

Dượng Đế hỏi:

- Hoàng hậu có kế gì hay?

Tiêu Hậu thưa:

- Đội "Điện cước nữ" này, cả hai tay đều mắc cầm dây kéo thuyền, không còn tay nào để mà che ô, che lọng gì được, thì làm thế nào cho khỏi nắng chiếu. Cứ như ngu ý của thiếp, ta ở trên thuyền rồng cho hết mùa hạ, đợi đến mùa thu hãy đi, thì dẫu có nắng nữa cũng không đáng sợ.

Dượng Đế cười:

- Hoàng hậu lại nói chuyện đùa rồi. Trẫm cũng chẳng thương hại gì họ đâu, chẳng qua trông cảnh này chẳng đẹp đẽ chút nào cả.

Tiêu Hậu cũng cười:

- Thiếp không dám đùa bệ hạ, nhưng quả thực là chẳng có cách nào che nắng cho họ cả đâu.

Dượng Đế nghĩ ngợi một hồi, chẳng tìm ra cách gì cả, liền triệu quần thần đến thương nghị. Chẳng mấy chốc, quần thần đã tới đông đủ. Dượng Đế nói rõ chuyện mồ hôi giọt ngắn giọt dài của "Điện cước nữ" truyền bá quan tìm diệu kế thay đổi hiện tình. Mọi người ra vẻ nghĩ ngợi hồi lâu, nhưng chẳng ai tìm được kế sách gì. Chỉ có Hàn lâm học sĩ Ngu Thế Cơ tâu rằng:

- Chuyện này không có gì khó. Chỉ cần đem liễu trồng kín hai bên bờ, bóng râm nối bóng râm, xanh mượt hai hàng, thì chẳng sợ gì nắng nóng nữa. Chẳng những đội "Điện cước nữ" được mát mẻ, mà những cây liễu này bốn mùa xanh tốt, lại còn giữ cho hai bờ đê thêm vững chãi, khó mà sụt lở cho được, lá lại có thể dùng làm thức ăn cho đàn dê nữa.

Dượng Đế cả mừng:

- Thật là kỳ kế, nhưng chỉ ngại đê dài đến thế, làm sao mà trồng cho khắp được?

Thế Cơ thưa:

- Nên chia ra cho các quận huyện từng đoạn, nơi này thúc bách nơi kia. Nhược bằng bệ hạ sợ kéo dài, thì bất luận dân chúng hay quan nha, cứ trồng một cây liễu, thưởng một tấm lụa, trăm họ nghèo khổ sẽ vì lợi mà quên cả khó nhọc, trồng cả ngày lẫn đêm, thần tính rằng chỉ năm sáu ngày, công việc sẽ xong xuôi.

Dượng Đế vui mừng phán:

- Khanh thật chân tài đắc dụng.

Chỉ truyền đến hai bộ Binh, bộ Công, hỏa tốc viết cáo thị hiểu dụ trăm họ thôn hương, cứ trồng một cây liễu lớn, thưởng một tấm lụa. Lại sai bọn thái giám, cùng với bộ Hộ, sắp sẵn lụa tiền, cứ theo đúng số cây đã trồng mà cấp. Thực là tiền tài có sức mạnh của quỷ thần, chỉ vì để lấy thưởng mà chẳng nghĩ đến tính mạng, từ già chí trẻ, suốt ngày suốt đêm, từng đoàn từng lũ, kéo đi không ngớt. Có những nơi không có cây, phải khiêng vác từ nơi xa hàng bốn năm mươi dặm tới. Cây nhỏ thì còn dễ, những cây một người ôm không hết, thì phải xúm nhiều người đào đào bới bới rất kỳ công mà khiêng đến.

Dượng Đế từ trên gác cao của thuyền rồng nhìn ra, thấy dân chúng lũ lượt từng đoàn như ong như kiến tới trồng liễu, lòng vô cùng hân hoan, nói với quần thần:

- Ngày xưa Chu Văn Vương có công đức với thần dân, dân vì Văn Vương mà xây đài điện, đào ao hồ, chẳng khác gì con làm cho cha, nghìn đời vẫn coi đó là tấm gương tốt đẹp. Các khanh nhìn trăm họ hai bên bờ sông kia, tranh nhau kéo đến trồng liễu, thì nào có khác gì cảnh xưa. Trẫm cũng nên thân hành trồng một cây, để ai nấy đều thấy được vua tôi cùng vui cảnh thái bình thịnh trị! Âu cũng là một việc tốt đẹp vậy!

Rồi dẫn quần thần, kéo lên bờ, trăm họ trông thấy, đều quỳ lạy sát đất. Dượng Đế truyền lệnh đứng dậy phán rằng:

- Trăm họ phải trồng cây khổ cực, trẫm thấy áy náy không yên. Trẫm muốn cùng dân chúng trồng một cây, để tỏ ý thương yêu dân chúng vậy.

Rồi đến bên hàng liễu, chọn một cây, định tự tay bưng đi đặt xuống hố đã đào sẵn, thì đã có rất nhiều bọn nội giám đỡ lấy mang đi đặt xuống hố, lấp đất xong ngay. Dượng Đế chỉ còn đưa tay vuốt ve mấy cái, thế là cây đã trồng xong. Trăm họ xúm lại tung hô vạn tuế. Sau đó đến lượt các vị dại thần, theo cách đó, mỗi vị trồng một cây. Trăm họ la hét ầm ĩ, cũng chẳng ra ca, cũng chẳng ra hát, mà chỉ là thuận miệng làm mấy câu nôm na:

Trồng liễu, trồng liễu!

Bàn tay kheo khéo

Đã có bóng mát, lại nhiều củi đun

Vua trồng lại các quan trồng

Nào mời trăm họ cùng trồng liễu đi!

Dượng Đế nghe thế, lòng càng hớn hở, sai lấy rất nhiều tiền bạc, thưởng cho mọi người, sau đó cùng kéo lên thuyền. Dân chúng được lợi chẳng ngại gần xa, đều kéo tới trồng liễu rất đông, nên chỉ hai ba ngày sau, hai bờ đê dài hàng nghìn dặm, đều đã được phủ xanh mượt mà, bóng râm mát che khắp mặt đường, ngọn đâm thẳng trời xanh. Gió khe khẽ lay động, càng thêm mát mẻ, đêm tới, trăng lên cảnh càng mơ màng huyền ảo. Dượng Đế cùng Tiêu Hậu dựa lan can mà ngắm nhìn không chán. Dượng Đế nói với Tiêu Hậu:

- Liễu rũ thật thướt tha, chẳng khác gì một tấm màn màu thanh thiên vậy!

Tiêu Hậu đáp:

- Màn thanh thiên làm gì có được vẻ tự nhiên phong lưu thế được!

Dượng Đế tiếp:

- Trẫm phải phong cho giống liễu này một chức quan nào đó. Nay nhân những hàng liễu chen lẫn lộn xộn với đám cung nữ thế kia, trông quả có chỗ không được tao nhã, trẫm ban cho những cây liễu này họ vua, gọi Dương Liễu là hợp hơn cả?

Tiêu Hậu cười đáp:

- Bệ hạ thưởng công lao của cây cỏ, mà cũng đúng thể chế lắm!

Dượng Đế sai lấy văn phòng ngự bảo, tự tay viết hai chữ to: "Dương Liễu" trên đoạn màu hồng, sai tả hữu treo lên một cây liễu cao nhất phía trước, coi như làm lễ ban quốc tính họ Dương cho giống liễu vậy.

Mọi chuyên xong xuôi, ra lệnh nhổ neo, thuyền rồng đi đâu nổi một hồi trống,"Điện cước nữ" cứ thứ tự mà kéo dây lụa ngũ sắc. Giờ thì đã có hai hàng dương liễu che, màu xanh dày kín, bóng nắng không xuống được đến mặt đường, chỉ nghe tiếng gió thổi rì rào, thật là mát mẻ khoan khoái. "Điện cước nữ" cũng vì vậy mà thoải mái hơn nhiều, không còn khó nhọc lắm, trông dáng điệu lại càng thướt tha, vừa kéo vừa cười cười, nói nói. Dượng Đế thấy thế, trong lòng vô cùng thanh thản, liền gọi phu nhân mười sáu viện, cùng các mỹ nhân tới vừa uống rượu, vừa thưởng ngoạn.

Dượng Đế uống đến nửa say nửa tĩnh, thấy lòng hớn hở, đem theo Bảo Nhi đi khắp các thuyền rồng, xem các đội "Điện cước nữ ", chỉ thấy các cô gái đất Ngô, đất Việt lụa là rực rỡ, phất phới bay theo chiều gió, càng hiện rõ vẻ yêu kiều trong hàng liễu xanh tươi, thật là trăm hoa đua nở. Đến thuyền rồng đệ nhất đẳng thứ ba, thấy một cô gái, mười phần xinh đẹp, lưng cong uốn éo, cốt cách duyên dáng, khuôn trăng đầy đặn, da trắng như tuyết, đôi mắt đen lay láy như sơn. Dượng Đế thấy thế, kinh ngạc thốt lên:

- Cô gái này dáng vẻ thần tiên, chẳng khác gì Tây Thi, Vương Chiêu Quân, sao lại lẫn lộn trong đám này. Người xưa nói: "Tú sắc khả san", sắc đẹp có thể no được. Nay đứng trước thiên hương quốc sắc thế này, không thể không nâng chén được vậy.

Bảo Nhi thưa:

- Cô này quả hơn hẳn mọi người, chúa thượng thưởng giám không sai!

Tiêu Hậu thấy Dượng Đế lâu không quay về, liền sai Quý Nhi, Dã Nhi mời về uống rượu, Dượng Đế đời nào chịu về, chỉ chăm chú nhìn người dẹp không chớp mắt. Quý Nhi mời không được, liền quay về thưa với Tiêu Hậu, Tiêu Hậu cười:

- Hoàng đế lại bị ma quỷ nào ám rồi đây!

Liền dẫn đám phu nhân đến thuyền rồng thứ ba xem xét ra sao.

Thấy cô gái này quả là nghiêng nước nghiêng thành, Tiêu Hậu lên tiếng:

- Cũng chẳng có gì ngạc nhiên khi chúa thượng chăm chú đến thế, cô gái này quả là đẹp thực.

Dượng Đế cũng cười đáp:

- Trẫm nhìn có bao giờ sai đâu?

Tiêu Hậu thưa:

- Bệ hạ chưa nên vội vàng như thế, nhìn xa thì hay thế, nhưng xem gần chưa chắc ra sao. Sao bệ hạ không triệu cô ta lên thuyền xem thế nào?

Dượng Đế bên sai nội giám gọi lên. Ban đầu Dượng Đế nhìn xa, chẳng qua chỉ nhận ra dáng điệu chung chung, nay đến trước mặt, thì mới thấy hai hàng lông mày vừa đen vừa dài, như hai vành trăng non, hàm răng đều đặn trắng óng ánh như ngọc, vẻ đen trắng càng lộ rõ, một vẻ đẹp thơm ngát như tỏa ra từ làn da, từ dáng điệu. Dượng Đế thấy thế, mười phần hớn hở, liền nói với Tiêu Hậu:

- Không ngờ hôm nay lại gặp được bậc mỹ nhân như thế này.

Tiêu Hậu cười đáp:

- Bệ hạ thật có phúc hưởng chuyện phong lưu. Cho nên trời sinh người đẹp, đem tới để bệ hạ thưởng ngoạn vậy!

Dượng Đế hỏi cô gái:

- Khanh người ở đâu? Tên gọi là gì?

Cô gái thẹn thùng thưa:

- Tiện thiếp người vùng Ngô Quận, họ Ngô, tên là Giáng Tiên.

Dượng Đế lại hỏi:

- Năm nay mười mấy tuổi?

Giáng Tiên thưa:

- Tiện thiếp năm nay mười bảy tuổi?

Dượng Đế liền tiếp:

- Đúng ở tuổi đẹp nhất?

Rồi cười hỏi:

- Đã lấy chồng chưa?

Giáng Tiên nghe hỏi, bất giác xấu hổ, cúi đầu không đáp, Tiêu Hậu cười nói:

- Chẳng việc gì phải e thẹn, chỉ sợ rồi đêm nay phải đi lấy chồng thôi?

Dượng Đế cười:

- Hoàng hậu giống như người làm mối vậy!

Tiêu Hậu thưa:

- Thì cũng không thể không nói bệ hạ giống như chú rể vậy!

Lương phu nhân thưa:

- Chúng thiếp sợ không có dịp để uống rượu mừng thôi!

Các phu nhân được dịp nói cười ầm ĩ. Trời đã về chiều, lệnh dừng thuyền ban ra, lại một hồi thanh la, dây kéo nhất tề cuốn lại, các "Điện cước nữ" được về thuyền.

Tiệc rượu được bày ra, Dượng Đế cùng Tiêu Hậu ngồi ở ngôi cao, phu nhân mười sáu Viện, cùng tài nhân, quý nhân ngồi thành hai hàng. Quý Nhi dẫn theo Triệu Vương, lúc nào cũng ở bên cạnh Sa phu nhân. Các mỹ nhân chỉnh tề đứng hầu phía sau, hết hát lại đàn, hết đàn lại múa, rồi cùng nhau say sưa ăn uống. Dượng Đế tuy uống rượu nhưng lòng thì nghĩ đến Ngô Giáng Tiên, cầm chén rượu nhưng trầm ngâm. Tiêu Hậu thấy vậy, biết ngay nguyên do, bèn lên tiếng thưa:

- Bệ hạ chẳng cần phải nghĩ ngợi. Người mới so làm sao được với người cũ. Ngô Giáng Tiên vừa được vào cung, sao không cho lên ngồi một bên bệ hạ, để cùng uống một chén rượu hợp cẩn?

Dượng Đế bị Tiêu Hậu nói một câu trúng ngay nỗi lòng, nên cất tiếng cười vang. Tiêu Hậu liền gọi Giáng Tiên rót một chén rượu, đưa mời Dượng Đế, Dượng Đế một tay đỡ lấy chén rượu, còn tay kia nâng dải tóc của Giáng Tiên rồi hỏi:

- Hoàng hậu cho khanh ngồi một bên, khanh thấy thế nào?

Giáng Tiên thưa:

- Thiếp vốn phận nghèo hèn, được đứng hầu ở đường sau đã là vạn hạnh, đâu dám ngồi.

Dượng Đế mừng đáp:

- Thế là khanh cũng biết nghi lễ, ngồi hay không cũng không sao, nhưng rượu không uống được một chén sao?

Liền gọi tả hữu, rót một chén rượu, ban cho Giáng Tiên, Giáng Tiên không dám chối từ, đỡ lấy uống cạn. Các phu nhân thấy Dượng Đế có vẻ cuồng đãng, đều cùng hứng khởi, người này chuốc một chén, người kia dâng một chén, chẳng mấy lúc, Dượng Đế đã say mềm, bèn đứng dậy, bọn cung nhân nhanh nhẩu đưa Giáng Tiên, cùng về phía hậu cung.

Tiêu Hậu miễn cưỡng cùng ăn uống với chúng phu nhân, Tử Yên lấy cớ đau bụng, xin phép về thuyền trước. Nói rằng trên thuyền rồng đệ nhất đẳng, được làm như cung như điện, nhưng vì khoảng rộng có hạn, làm sao cho bằng cung điện ở trên mặt đất cho được, tường ngăn vách cách, mặc sức cười đùa, chẳng ai nghe thấy. Ở đây, tuy Dượng Đế cùng Giáng Tiên về hậu cung, nhưng cũng trong gang tấc, gió đưa mây thoảng trước sau, sau trước đều yên tĩnh một vùng, nên tiếng cười tiếng nói líu lo, nghiêng tai nghe rõ. Dã Nhi lên tiếng:

- Đã làm người thì không nên làm đàn bà. Vì đàn bà phải chịu không biết bao nhiêu chuyện nổi trôi sóng gió.

Tiêu Hậu đáp:

- Làm đàn ông chưa chắc đã hơn làm đàn bà đâu. Đàn bà không phải lo nhiều chuyện, chỉ cần lo giữ tiết hạnh thói thường, ngộ biến tòng quyền, mặc cho biển biếc thành nương dâu, ta chỉ như con thuyền theo gió, gặp đâu cũng vừa lòng, cũng thoải mái.

Lý phu nhân đáp:

- Hoàng hậu nói đúng lắm!

Tần phu nhân quay nhìn Sa phu nhân, Sa phu nhân lại quay nhìn Địch phu nhân, Hạ phu nhân. Im lặng hồi lâu. Tiêu Hậu đứng dậy chúng phu nhân đưa tiễn ra thuyền rồng đệ nhất đẳng, rồi ai về thuyền ấy. Sa phu nhân nói với Tần, Hạ, Địch, ba phu nhân:

- Chúng ta lại xem Viên Quý nhân, vì sao lại đau bụng đi!

Các phu nhân vừa mới tới thuyền Tử Yên, thì thấy trên không một tiếng sét lớn, chẳng khác nào trời long núi sập, các phu nhân người ngã lăn quay, hàng trăm chiếc thuyền cửa đập rầm rầm, rèm màn, xiêm y bay tứ tung, Dượng Đế vội vàng gọi nội giám truyền lệnh:

- Vương Nghĩa cùng bá quan, xem xét ngay chung quanh, sét đánh nơi nào, có gây hỏa hoạn, cứ phải thực mà tâu ngay.

Vương Nghĩa vâng, cùng các quan tuần sát một vòng. Bốn vị phu nhân, sau khi đã trấn tĩnh được cơn sợ hãi, liền hỏi bọn cung nữ:

- Viên Quý nhân đã đi ngủ chưa?

Cưng nữ thưa:

- Viên Quý nhân hiện đang ở trên "Quan Tinh đài" từ lâu.

Vốn ở thuyền rồng của Tử Yên, có dựng cả một gác cao xem trăng sao. Cả bốn vị phu nhân cùng kéo lên dài, thì thấy Tử Yên, Quý nhân dẫn Triệu Vương, theo sau là vợ Vương Nghĩa, Khương Đình Đình. Sa phu nhân nói với Triệu Vương:

- Ta đang đi tìm con. May con lại ở đây sao?

Đình Đình lạy chào Sa, Tần, Hạ, Địch, bốn vị phu nhân, Đình Đình trước kia vốn cũng là cung nữ, các phu nhân cho phép cùng ngồi. Hạ phu nhân hỏi Tử Yên:

- Quý nhân vừa rồi cáo đau bụng, sao lại lên đài làm gì?

Tử Yên cười đáp:

- Thiếp không phải phường nghiện rượu Cao Dương (1) cũng không phải anh hề Mạn Thiến (2). chúa thượng đã trở về hậu cung, bọn ta đương nhiên cũng nên cáo lui, dồn cả lại một nơi, định để làm gì. Lại thêm, đêm qua thiếp xem thiên văn, thấy vùng Khảm đàn khí sắc không tốt, không ngờ lại ứng vào lúc vừa rồi, chỉ sợ tử vi đàn lung lay không biết lúc nào, có lẽ cũng chẳng lâu nữa đâu. Làm thế nào bây giờ, tính toán ra sao đây?

1 Phường nghiện rượu Cao Dương: Nguyên văn là "Cao Dương tửu đồ". Trâu

Sinh xin gặp Lưu Bang hỏi Trâu Sinh là ai, bọn tay chân thưa: "Giống nhà nho", Lưu Bang nói: "Ta không tiếp, việc của ta là cả thiên hạ, không rỗi hơi đâu mà tiếp mấy anh nhà nho".

2 Mạn Thiến: tên của Đông Phương Sóc, giỏi văn chương, hài hước, làm quan thi trung thời Hán Vũ Đế. Thường được xem như anh hề mua vui cho các bậc vua chúa. (Từ Hải)

Sa phu nhân hỏi Đình Đình:

- Chúng ta ở trong cung cấm, chẳng hiểu sự thể bên ngoài ra sao?

Đình Đình thưa:

- Cảnh tượng bên ngoài, chỉ còn có mỗi chúa thượng là chẳng thấy gì cả thôi. Công việc chín châu, cứ như vợ chồng kẻ ngu ngốc này được nghe, được thấy, thì không phải chỉ thở dài nữa, mà thực là phải khóc rống lên mới đáng!

Tần phu nhân thất kinh hỏi:

- Sao lại đến thế kia ư?

Đình Đình đáp:

- Triều đình năm này liền năm khác hưng công dựng đài xây điện, đào sông quật biển, du ngoạn liên miên, đến nỗi trăm họ nhà tan, thân chết. Gần đây lại khắp nơi giặc giã, trộm cướp, lừa đảo, cướp đoạt giết chóc, chẳng mấy chốc sẽ dẫn đến việc giặc cướp còn nhiều hơn cả dân chúng.

Tử Yên hỏi:

- Trước đây chúa thượng có sai Dương Nghĩa Thần đi dẹp giặc cướp ở vùng Hà Bắc, chẳng biết sự thể ra sao rồi?

Đình Đình đáp:

- Dương lão tướng thu được rất nhiều công trạng. Diệt được Trương Kim Xứng, đang tìm cách trừ nốt Đậu Kiến Đức. Không ngờ có kẻ ganh ty với công lao của lão tướng, nói lão tướng binh quyền quá lớn, bắt về hưu trí rồi tìm người khác thay mất.

Địch phu nhân nói:

- Xưa nay vốn vui quá hóa buồn. Tiệc rượu nào là tiệc rượu chả tan. Nhưng chẳng biết rồi đám chúng ta đây gửi mảnh xương tàn ở đâu được hay cũng đến vùi lấp ở ngòi rãnh nào đó thôi!

Quý Nhi lên tiếng:

- Sống chết, vinh nhục trên đời này, lòng trời đã xếp đâu đó cả rồi. Chẳng cần phải ngồi để chờ làm người tù nước Sở ngồi nhìn nhau làm gì. (1)

Chuyện trò một hồi, rồi ai về thuyền nấy. Thôi chẳng nói nữa!

1 Tả truyện: Tấn Hầu ngồi trong phủ, thấy Chung Nghi liền hỏi: "Người bị trói, đội mũ phương Nam kia là ai?". Bọn tay chân thưa: "Đó là người tù nước Sở..."

Thế thuyết: Những kẻ chạy giặc Hồ về nam, gặp ngày đẹp trời, tụ nhau uống rượu ở Tân Đình rồi nhìn nhau mà khóc. Vương Thừa tướng biến sắc mặt mà nói: "Phải ra sức giúp vua, lấy lại chín châu, sao lại làm người tù nước Sở nhìn nhau mà khóc thế này" (Từ Hải).

***

Lại nói Dượng Đế được người đẹp Giáng Tiên, vui vầy được bảy tám ngày, thì cũng vừa lúc thuyền đến Thư Dương, nhân thấy sông đào rất cạn, lại biết long mạch thành Thư Dương chưa bị đào bới gì cả, tìm nguyên do, sai bắt Lệnh Hồ Đạt đến tra hỏi ngay trước ngự tiền.

Lệnh Hồ Đạt đem chuyện Ma Thúc Mưu ăn thịt trẻ con, thông đồng với Đào Liễu Nhi gian trá, ăn tiền của dân sở tại. Lệnh Hồ Đạt cũng không quên thưa: mình đã dâng ba lần tấu chương kể rõ, đều bị Trung môn sứ Đoàn Đạt, ăn của Ma Thúc Mưu hàng nghìn lạng vàng, nên những tờ giấy tấu chương đó bị giữ lại không được đến tay vua.

Dượng Đế đùng đùng nổi giận, liền sai Lưu Sầm tra xét công thự của Ma Thúc Mưu, xem có những gì làm tang chứng. Lưu Sầm đi không lâu đã thấy đem những vàng bạc châu báu của Thúc Mưu về trình trước mặt vua. Thì thấy có ba nghìn lạng vàng, ngọc trắng mà Thái thường khanh Ngưu Hoàng đem đến tế ở đền Lưu Hầu cũng thấy ở đây, lại còn thấy cả con dấu ngọc truyền quốc từ đời này sang đời khác. Dượng Đế thất kinh:

- Ngọc tỷ này chính là vật báu truyền quốc của trẫm. Dạo trước bỗng nhiên mất, trẫm đã tìm khắp trong cung, tịnh không dấu vết, không ngờ thằng giặc già này sai Đào Liễu Nhi ăn trộm về đây. Cung cấm thâm nghiêm đến thế, chúng dùng cách gì mà vẫn lấy được. Hiểm nguy đến thế!

Liền truyền lệnh cho nội sứ Lý Bách Nhạc, dẫn một nghìn quân kỵ mã đến vây kín thôn Thượng Mã, huyện Ninh Lăng, bắt cả nhà Đào Liễu Nhi. Vì không biết gì cả, bị quan quân vây kín thôn, kín nhà, toàn bộ họ hàng già trẻ, cộng tám mươi bảy người, đều bị bắt gọn. Lại thêm bọn tay chân Trương Yến Tử cũng đều bị giải đến, các quan đại thần được lệnh tra kháo tàn khốc, bắt khai mọi chuyện, rồi trở về tâu lại Dượng Đế.

Dượng Đế ra lệnh: Tất cả nhà Đào Liễu Nhi đem ra chợ chém đầu. Ma Thúc Mưu chém một nhát ở cổ, một nhát ở lưng, chia làm ba đoạn, ứng đúng như lời Hoàng Phủ Quân nói với Địch Khứ Tà: "Sang năm ta sẽ tặng Ma Thúc Mưu hai lưỡi dao vàng". Đoàn Đạt ăn hối lộ, dối vua, tội đáng chém đầu, nhưng vì trước cũng có nhiều công lao, tha cho tội chết, giáng làm Giám môn lệnh Lạc Dương.

Chính là:

Lưới trời thật rộng

Quả báo rất gần!

hết: Hồi Thứ Bốn Mươi, xem tiếp: Hồi Thứ Bốn Mươi Mốt

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro