Tùy Đường Diễn Nghĩa 41 - 50

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chữ Nhân Hoạch

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình

Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Bốn Mươi Mốt

Bước cùng, Lý Huyền Thúy lo bề hôn thú,

Thoát hiểm, Tần Thúc Bảo tiện dịp vinh quy.

Từ rằng:

Đời người chi khác cánh bồng

Dùng dằng vì sợi chỉ hồng buộc chân

Oán cừu là quả là nhân

Mà qui đặt bẫy, giật giàm thế nao?

Suy đi tính lại thấp cao

Chớ nên cậy chữ hùng hào mà nguy.

Theo điệu "Nhu mộng lệnh"

Xưa nay việc kết nghĩa bè bạn, rồi chuyện lấy vợ lấy chồng, đều là do nhân duyên từ kiếp trước. Còn nếu lấy chuyện phú quý, bần tiện để mà định đoạt tình nghĩa, thì sao có thể nói đó là tình bạn bè chân thành, nghĩa vợ chồng đằm thắm cho được, mà chẳng qua là oan gia, đường hẹp khôn tránh, thù nước khó khuây, lòng luôn day dứt, sẵn sàng tuốt gươm khỏi vỏ. Những chuyện lớn như vậy, trời xanh đã bày đặt sẵn chậm một ngày không xong, sớm một ngày chẳng nổi một giờ một khắc mà nên, mà thành chuyện cả vậy.

* * *

Nay lại nói chuyện Vương Bá Đương, Lý Huyền Thúy cùng Bính Nguyên Chân, ba người từ biệt Tôn An Tổ, đi suốt ngày đêm, chỉ còn cách Ngõa Cương hơn hai trăm dặm. Sáng hôm ấy, mọi người đã đi suốt đêm, vừa đói vừa khát, thấy trước mặt một thung lũng hẹp, có một khu nhà, trước cửa, trúc trồng thành rừng, mé bên suối chảy róc rách, lóng lánh nắng trời, quang cảnh thật mười phần thanh tĩnh. Bá Đương lên tiếng:

- Phía trước quán trọ còn xa. Chúng ta sao không vào đây, kiếm cái gì ăn, rồi hãy di tiếp cũng chưa muộn.

Huyền Thúy, Nguyên Chân tán đồng:

- Đúng rồi!

Huyền Thúy định rảo bước vào cổng hỏi trước, thì thấy một cô gái khoảng mười bảy mười tám tuổi, tay xách giỏ dâu, mặc một áo dài màu xanh sạch sẽ, quần lụa trắng, ngẩng nhìn thấy khách lạ, nhưng vẫn giữ được dáng vẻ bình tĩnh, đi đứng vẫn khoan thai, mặc nhiên như không, như có. Có bài từ "Yết kim môn" làm chứng:

Thật vô giá,

Ai khéo tô mây vẽ nguyệt

Trắng trắng xanh xanh lồng hoa đẹp

Con én sợ con oanh khiếp

Không những nàng Ban hờn, ả Tạ ghét

Tình ai dìu dặt, lời ai dặt dìu

Gặp nhau yêu ít, giận nhiều

Thôi đừng nhắc chữ hùng hào mà chi!

Cô gái vẫn lặng lẽ nâng gót sen vàng đi về phía cửa. Huyền Thúy kinh ngạc thốt lên.

- Thật hiếm thấy! Nơi này chẳng phải thôn Trữ La (l), sao lại có người đẹp đến thế!

1 Tây Thi, người ở phía tây suối Nhược Da, thôn Trữ La, sắc đẹp nổi tiếng. Câu Tiễn đem dâng Phù Sai, Phù Sai say đắm Tây Thi, bỏ chính sự bị Câu Tiễn đánh thua... (Điển cố văn học).

Bá Đương đáp:

- Người đẹp trong thiên hạ đâu cũng có. Nhưng không hợp bọn chúng ta lúc này.

Đang nói dở, trong cửa một ông già đi ra, thấy ba người chắp tay đứng trước cửa, cũng chắp tay lên hỏi:

- Các ngài ở đâu đến?

Bá Đương đáp:

- Chúng cháu mãi lo đường xa, chưa kịp ăn buổi sáng, đến đây bụng đã cồn cào, định vào quấy quá lão trượng một bữa ăn chay, sẽ xin trả tiền bạc sòng phẳng tạ ơn.

Ông già đáp:

- Nếu như thế, xin mời vào trong này!

Mọi người vào nhà cỏ, chào hỏi xong xuôi, ông già khiêm tốn:

- Nhà quê, chỉ có rau muối, sợ không đáng để đãi quý khách!

Nói xong, ông già vào nhà trong bưng bình trà cùng ấm chén, mời mọi người ra ngồi ở thủy đình, Huyền Thúy lễ phép hỏi:

- Xin được rõ quý tính, lão trượng được mấy lệnh lang?

Ông già đáp:

- Già này họ Vương, trước kia ở Trường An, nhận thấy thời cuộc đảo điên, nên rời về Thái Bình trang này đã được bốn năm. Chỉ được hai thằng con trai, một cô gái vậy.

Nguyên Chân nói:

- Lệnh lang làm nghề gì, hiện có nhà không thưa lão trượng?

Vương ông lại đáp:

- Cũng chẳng muốn nhắc đến nữa. Hôn quân mê đào sông, say xây thành, cả hai thằng con đều bị bắt đi phu dịch, hai ba năm nay không thấy về, chẳng biết còn mất, sống chết ra sao.

Vương ông vừa nói, vừa nước mắt giọt dài, giọt ngắn. Ai nấy đang góp lời than thở, thì thấy bên kia bờ suối, một chàng trai đi lại. Vương ông trông thấy, vội ngẩng nhìn rồi hỏi:

- May quá, mày đã về rồi sao?

Mọi người vội hỏi:

- Có phải lệnh lang chăng?

Vương ông đáp:

- Không phải? Thằng cháu đấy mà!

Chàng trai bước vào thủy đình, lạy chào Vương ông, dáng người cao khoảng chín thước, tóc đỏ, râu đỏ, mặt như con giải, đầu hổ lưng lang, oai phong lẫm lẫm. Bá Đương nhìn kỹ bèn nhận:

- Thì ra là hiền huynh!

Chàng trai cũng vui mừng:

- Sao đại huynh lại ở đây?

Huyền Thúy vội hỏi:

- Hai bên biết nhau sao?

Bá Đương đáp:

- Anh bạn trẻ tên gọi là Vương Đương Nhân, mấy năm trước đây tiểu đệ cũng có buôn bán ít nhiều trên chốn giang hồ, nhận ra là cùng họ, đi lại cũng thân thiết. Không ngờ xa cách mấy năm, nay lại gặp đây.

Đương Nhân hỏi họ tên Huyền Thúy cùng Nguyên Chân, Bá Đương nói rõ, Đương Nhân hớn hở vái lạy Huyền Thúy:

- Tiểu đệ từ lâu đã hâm mộ tên tuổi đại huynh nhưng chưa có duyên gặp gỡ, nay mới được thấy mặt, chẳng phải là ý trời sao?

Huyền Thúy đáp lễ:

- Tiểu đệ may được còn sống ở đời, đâu dám đủ để hiền huynh ngưỡng mộ!

Vương ông gọi Đương Nhân vào nhà trong, bưng ra một mâm đầy thức nhắm, còn mình thì cầm một chai rượu đầy:

- Thôn vắng đường mòn, chẳng có gì đáng để đãi các bậc anh hùng.

Ai nấy đỡ lời:

- Thế này thì còn gì bằng. Lão trượng quá nhún nhường, chúng cháu thật không dám!

Ngồi yên chỗ, Bá Đương lên tiếng:

- Đương Nhân hiền huynh, lâu nay làm ăn ra sao, đi lại vùng nào?

Đương Nhân đáp:

- Cái thân tiểu đệ, khác gì cánh bèo, đi khắp chân trời góc biển, tìm kiếm khắp nơi, mà vẫn không được một chỗ gửi gắm hy vọng.

Huyền Thúy hỏi:

- Hiền huynh đi những đâu rồi?

Đương Nhân đáp:

- Gần đây là Trương Kim Xứng, Cao Sĩ Đạt, xa là Tôn Nghi Nhã, Lư Minh Nguyệt. Chỗ nào cũng xây thành đắp lũy, nhưng rồi gặp đối thủ, đều nát tan chạy trốn. Chẳng biết chư huynh từ đâu lại đây nay định đi đâu vậy?

Lúc này Bá Đương mới đem chuyện Huyền Thúy cùng các bọn phạm tội, bị bắt giải về kinh, thoát khỏi hiểm nguy trong quán rượu kể lại một lượt. Đương Nhân nói:

- Tiểu đệ mấy hôm nay có nghe chuyện lạ lùng. Quán rượu Trần gia ở Bạch Tửu thôn, vùng Lương Quận, có bọn công sai bảy tám tên, uống phải rượu có thuốc mê, bốn tên tội phạm nặng trốn thoát. Cả chủ quán cũng chẳng thấy đâu. Hiện đang đưa công văn đi các nơi tầm nã, thì ra chính là các vị. Nay các vị định đi đâu?

Bá Đương lại đem chuyện Địch Nhượng tụ nghĩa ở Ngõa Cương, muốn mời Huyền Thúy cùng hiệp sức. Đương Nhân nói:

- Nếu các vị định tìm nơi khởi sự, tiểu đệ tuy bất tài, cũng xin được theo gót.

Vương ông cũng nâng chén:

- Xin các vị hào kiệt cạn chén. Già này có câu chuyện muốn thưa!

Mọi người vội đáp:

- Xin lão trượng cho nghe!

Vương ông nói:

- Già này có một mụn con gái, tên gọi Tuyết Nhi, tuổi vừa mười bảy. Từ nhỏ dã không thích việc nữ công, chỉ ham việc văn thơ, thông tuệ khác thường, lại tinh thông âm nhạc. Nay già này muốn cho theo Lý công tử để được nâng khăn sửa túi. Không biết ý Lý công tử thế nào?

Huyền Thúy thưa:

- Ơn lão trượng thương đến, nhưng Lý Mật này thân chẳng khác gì cỏ bồng, bốn biển không nhà, lấy gì để mà làm nơi nương náu cho được!

Vương ông đáp:

- Nói như vậy có chỗ không nên, bậc anh hùng hào kiệt từ xưa, không có ai là không nhà không cửa. Xưa Tấn Văn Công với Địch Thị giữ lời ước hẹn mười năm, lại xa cách Tề Thị đến năm năm, về sau mới cùng nhau sum họp, trở thành tấm gương một đời. Con gái lão vốn không phải bậc nhẹ dạ đâu, vừa rồi đi hái dâu về, thoáng thấy các ngài, vào nhà có nói với già này, có vị mặc áo màu xanh nghi dung khác thường, già này biết ý, cho nên mới nói thế này!

Mọi người nghe nói, mới biết chính là cô gái đã gặp ngoài cổng nhà, tất cả đều hùn vào:

- Lão trượng đã có ý tốt, Lý đại huynh không nên chối từ.

Đương Nhân còn bày:

- Chỉ cần Lý đại huynh trao lại một vật làm tin là xong, còn đến bao giờ đến đón dâu cũng không câu thúc, không quản ngại gì cả.

Huyền Thúy bất đắc dĩ phải mở khăn gói, lấy ra một vòng xuyến ngọc, nâng đưa Vương ông. Vương ông cầm lấy, đem ra một cành trâm vàng nhỏ mà Tuyết Nhi vừa rút trên mái tóc, trao lại cho Huyền Thúy, rồi nói:

- Thế là chuyện suốt đời của con gái già này gửi nhờ công tử, già này không dám dặn dò nhiều: Đêm nay hãy ở lại đây một đêm, sáng ngày mai sẽ lên đường.

Đương Nhân nói với Huyền Thúy:

- Tiểu đệ đáng ra nên đi cùng với đại huynh, nhưng vì hai em trai đều chưa về, chỉ cần một đứa về được, tiểu đệ sẽ ngày đêm lên ngay Ngõa Cương để tụ nghĩa.

Ai nấy chia tay.

Chính là:

Trượng phu bất đắc chí

Trôi dạt như tuyết bùn.

* * *

Nay hãy khoan nói chuyện Huyền Thúy về Ngõa Cương tụ nghĩa, hãy kể chuyện Tần Thúc Bảo làm tướng tiên phong cho Lai Tổng quản, dùng mưu lấy được Bối Thủy, cho từng đội thám binh nhỏ âm thầm vượt qua Liệu Hà, vào tận Bình Nhưỡng, ám sát được cả Đại tướng Ất Chi Văn Lễ. Lai Tổng quản làm biểu tâu về triều đình, chờ dịp kéo đại binh chiếm Bình Nhưỡng, đạp bằng Cao Ly. Dượng Đế vui mừng, ban sắc chỉ tuyên dương, phong cho Lai Hoạch Nhi tước quốc công. Thúc Bảo do đó cũng được khen thưởng. Lại giục Nguyên soái Vũ Văn Thuật, cùng Vu Trọng Văn, hỏa tốc tiến binh vào Áp Lục giang, hiệp đồng cùng Lai Tổng quản.

Mưu thần của Cao Ly là Ất Chi Văn Đức, dò biết bọn Vũ Văn Thuật cùng Vu Trọng Văn đều là bọn hám lợi, liền tìm cách đút lót ngọc châu phương bắc, nhân sâm, ngựa tốt, da điêu hắc thử... cho cả hai để được xin hàng. Vũ Văn Thuật vội tin là thật lòng, bàn chuyện làm lễ, cho phép Quốc vương Cao Ly tự trói mình, đi theo xe, đem theo bản đồ quốc gia, làm lễ ăn thề trước doanh quân. Ai ngờ Ất Chi Văn Đức vừa ra khỏi mạc trướng, liền tụ quân đóng ngay giữa vùng, khiến cho thủy lục hai cánh quân, không tiếp viện được cho nhau.

Vũ Văn Khải lúc này mới thấy ra gian kế của Ất Chi Văn Đức, vội sai hai con là Vũ Văn Hóa Cập, Trí Cập, lĩnh quân tiên phong, đuổi theo Ất Chi Văn Đức, lại bị Ất Chi Văn Đức giả thua, dụ vào vùng núi hiểm trở Bạch Thạch sơn, binh tướng mai phục cả bốn bên kéo ra, chém giết một hồi. Giữa lúc một còn mất chín, bỗng thấy chuông trống nổi lên rộn rã, từ cánh rừng bên, một lá cờ đỏ, trên có chữ "Tần" rất to kéo ra, đi đầu là một đại tướng cao lớn, mặc áo bào trắng, khoác đài bạc, sử dụng hai thanh giản, cứ thế kéo cả đoàn quân của mình, xông vào đám quân Cao Ly, tả xung hữu đột, binh lính Cao Ly vội tìm hốc núi, bụi cây chạy trốn. Ất Chi Văn Đức vội bỏ Vũ Văn Hóa Cập, quay ra đón đánh Thúc Bảo, nhưng vốn chẳng hiểu gì võ nghệ, địch sao nổi Thúc Bảo, đành quăng cả kim khôi mũ mãng, trốn trong đám loạn quân mà chạy.

Thúc Bảo nhặt được kim khôi, chém được vô số đầu giặc, đem về báo công trước dinh Lai Tổng quản. Vũ Văn Hóa Cập cũng hết lời ca ngợi tướng tiên phong họ Tần của Lai Tổng quản, đã có công giải vây cho mình thì thấy một viên gia tướng thưa:

- Thưa tiểu chủ, viên tướng này chính là kẻ thù của nhà ta đó!

Hóa Cập thất kinh hỏi:

- Sao lại là cừu thù cho được?

Gia tướng thưa:

- Dạo trước, trong hội đèn đêm nguyên tiêu, giết chết công tử Huệ Cập chính là viên tướng này.

Trí Cập nghĩ ngợi:

- Hà hà! Nơi đánh, cách đánh dẫu có khác. Nhưng diện mạo thì cũng hao hao giống tranh vẽ năm xưa, lại nữa khí giới là một. Chẳng cần phải bàn cãi gì nữa.

Hai người quay về doanh trại, kể lại mọi chuyện cho Vũ Văn Thuật nghe. Vũ Vãn Thuật hỏi:

- Nay nó là danh tướng Lai Tổng quản, thì hại làm sao được.

Trí Cập thưa:

- Con có kế này: ngày mai cha hãy ban một trăm lạng bạc, sai gia tướng đem đến thưởng công cho nó. Nhất định nó sẽ tới để tạ ơn. Nó trong trận vừa rồi, có cướp được kim khôi của giặc, nay cứ vu cho tội tư thông với giặc, được mũ rồi mà còn tha giặc, lập tức chém đầu. Đến khi Lai Hoạch Nhi biết ra, thì với cha cùng là bậc đại thần, chẳng còn cách gì để tranh cãi về một kẻ đã chết rồi.

Vũ Văn Thuật gật đầu tán thưởng:

- Hợp lý lắm!

Ngày hôm sau sai kỳ bài quan, đem tiền bạc đến gọi là thưởng cho Thúc Bảo một trăm lạng. Thúc Bảo chỉ lấy bảy tám lạng gọi là, còn bao nhiêu sai bày rượu thịt, chia đều cho mọi người, lại cảm tạ kỳ bài quan khó nhọc nữa. Thúc Bảo chưa quên sự thù hằn giữa mình và cha con họ Vũ Văn, nhưng vẫn nghĩ rằng chưa chắc nhà Vũ Văn đã nhận ra mình, hơn nữa đã có ban thường thì nhất định phải đến tạ ơn. Cho nên ngày hôm sau. Thúc Bảo giao cho Chu Mãnh giữ trại, còn mình cùng với Triệu Vũ, Trần Ký đến tận trướng phủ của Vũ Văn Thuật để tạ ơn. Lúc này doanh trại quân Tùy đang đóng trong vùng núi Bạch Thạch, để chờ đánh vào Bình Nhưỡng.

Thúc Bảo đến ngay chỗ ở của Vũ Văn Thuật, lính canh cửa vào báo, thấy kỳ bài quan chạy ra truyền lệnh:

- Nguyên soái quân lệnh, Tần tiên phong không cần phải mặc nhung phục, vào trong tương kiến.

Vũ Văn Thuật sợ Thúc Bảo mặc nhung phục, đeo giáp cầm kiếm, thì khó mà gần được, nên phải liệu ra lệnh này. Thúc Bảo vốn ngay thẳng, lại nghĩ rằng Vũ Văn Thuật lấy lễ hậu đãi mình, bèn cởi bỏ cân đai võ phục, vũ khí, tiến vào trong trướng.

Vũ Văn Thuật ngồi trên cao, hai con đứng hầu hai bên, phía dưới gia tướng xếp hàng rất nhiều đều võ phục nghiêm trang. Thúc Bảo cùng với bọn Triệu Vũ quỳ lạy trước án, Vũ Vãn Thuật không thèm đáp lễ, lên tiếng hỏi:

- Nghe nói người xử đôi giản là Tần Quỳnh phải không?

Thúc Bảo lên tiếng tự nhận. Vũ Văn Thuật liền quát:

- Bắt lấy cho ta!

Lập tức phía sau, một bọn cầm dây dợ kéo ùa ra, trói gô ngay Thúc Bảo lại. Thúc Bảo dẫu khỏe đến đâu nữa thì "quả bất địch chúng", lại toàn bọn khỏe mạnh, nên chẳng mấy chốc đã bị bọn chúng trói lại ba bốn vòng, nằm lăn quay ra đất, lớn tiếng gào:

- Ta có tội gì?

Trần Ký, Triệu Vũ cũng quỳ xuống thưa:

- Có nguyên soái bên trên. Tần tiên phong mấy lần lập kỳ công, là cánh tay đắc lực của Lai Tổng quản, chẳng hiểu có tội gì với nguyên soái, xin nguyên soái lượng thứ cho.

Vũ Văn Thuật hỏi:

- Tần Quỳnh đóng binh lâu ngày ở đất giặc, cùng với giặc giao thông. Trận vừa rồi lấy được kim khôi rồi còn tha cho Ất Chi Văn Đức chạy thoát, tội không thể tha vậy.

Triệu Vũ thưa:

- Ra trận cướp được kim khôi, chém đầu giặc, hiện đã báo công, nếu chỉ vì nghi ngờ mà hại mất hổ tướng, sợ sẽ làm mất lòng quân. Ngửa mong nguyên soái còn nể mặt Lai Tổng quản!

Vũ văn Trí Cập quát:

- Chuyện không đính gì đến Triệu Vũ, tạm tha tội cho, Triệu Vũ hãy ra ngay khỏi trướng!

Liền sai gia tướng, kéo cả Triệu Vũ, Trần Ký ra ngoài. Triệu Vũ vội quay ngay về doanh trại, định gọi thêm lính, kéo ra cướp pháp trường, nên nói với Trần Ký:

- Tướng quân hãy ở đây theo dõi thực hư, ta về sẽ quay lại ngay.

Rồi phi ngựa đi ngay. Lúc này ở bên trong, Thúc Bảo không chịu yên, vẫn lớn tiếng chất vấn:

- Vô cớ sát hại lương thần, các ngươi không coi phép nước vào đâu cả!

Kéo ra kéo vào, lôi thôi mãi gần hai giờ vẫn không xong. Vũ Văn Trí Cập tức mình quát:

- Cứ lấy đại đao mà băm nó ra là xong tất!

Vũ Văn Thuật lên tiếng:

- Cũng cần có văn thư nói rõ tội hình, rồi lôi ra chém ngay đi!

Liền gọi quân chính ty, viết tội trạng:

"Giao thông giặc ngoài, thất lỡ quân cơ. Phạm nhân Tần Quỳnh đáng tội xử chém. . ."

Lôi ngay Thúc Bảo ra khỏi trướng, nhưng Thúc Bảo nhất định không chịu phục. Vũ Văn Hóa Cập liền quát:

- Tần Quỳnh! Ngươi là một kẻ trượng phu, ngươi còn nhớ đêm nguyên tiêu năm Nhân Thọ thứ tư chăng? Nay ngươi gặp lại cha con ta, còn kêu ca nỗi gì.

Thúc Bảo nghe những lời này, khảng khái lớn tiếng:

- Thế thì rõ cả rồi, ra là thế đấy! Ta lúc ấy chính vì dân mà trừ hại. Còn ngươi giờ thì vì con mà báo thù. Nay ta đem đầu ra trả nợ là xong. Chỉ tiếc rằng ơn cha mẹ chưa kịp báo, Cao Ly chưa dẹp được. Thôi thì đi! Tha hồ cho các ngươi băm chém vậy!

Liền ngang nhiên đứng dậy, đường hoàng ra khỏi doanh quân. Không ngờ lúc này Triệu Vũ về doanh trại gọi quân lính, đi mới được hai ba dặm, gặp toán quân của hai vị tổng quản họ Lai, họ Chu, đưa hai tổng quản tới dinh Vũ Văn hội họp gì đó, liền vội vàng đón ngay giữa đường, cúi mình bên yên ngựa thưa:

- Tần tiên phong bị Vũ Văn Nguyên soái lừa gọi đến, rồi định chém đầu ngay, xin Lai tướng quân đến ngay may ra mới cứu được tính mạng Tần tiên phong.

Lai Tổng quản vội hỏi:

- Thế là tại làm sao? Ngươi mau đi trước dẫn đường, ta theo ngay!

Triệu Vũ giục ngựa chạy trước, Lai Tổng quản đuổi sát theo, tùy tướng cùng binh lính cũng vội đuổi theo như một đàn ong bay theo chúa vậy. Vừa may gặp lúc Thúc Bảo đang ngang nhiên bước ra khỏi quân doanh, Trần Kỳ theo sau. Triệu Vũ vội vàng gào lớn:

- Đừng đi nữa! Lai Đại nhân đến rồi?

Gọi chưa dứt, ngựa Lai Tổng quản chồm đến, Tổng quản biến sắc mặt quát:

- Hà cớ hà do chi mà định hại tướng tiên phong của ta?

Rồi sai thủ hạ:

- Mau cởi trói cho ta!

Lúc này Triệu Vũ, Trần Kỳ, có Lai Tổng quản chủ trương, liền xúm lại cởi trói cho Thúc Bảo. Tay chân của Vũ Văn Thuật thấy Lai Tổng quản nổi giận, cũng không dám ngăn cản. Lúc nãy thì Thúc Bảo khẳng khái chịu chết, nhưng đến lúc này thì lại chẳng còn lẽ nào để cứ cam tâm đòi chết. Lai Tổng quản liền sai Triệu Vũ dẫn ba trăm tinh binh, hộ tống Thúc Bảo trở về doanh trại, rồi kéo lính hộ tống vào quân doanh của Vũ Văn Thuật bàn cãi. Vu Trọng Văn nghe tin với gia tướng kéo đến, cùng Lai Tổng quản, Chu Tổng quản chuyện trò.

Vũ Văn Thuật biết Thúc Bảo đã được Lai Tổng quản thả cho về, đành phải mở miệng nói lấp liếm đôi câu:

- Lão tướng này mới đến đây, nghe nói Tiền bộ tiên phong sai quân vào Bình Nhưỡng, tư thông với giặc, lão tướng này chưa dám tin. Hôm qua hai tiểu tướng nhà đuổi theo Ất Chi Văn Đức, mấy lần suýt bắt được, thì Tiền bộ tiên phong lấy được kim khôi rồi tha cho Văn Đức chạy mất. Lão tướng này nghĩ: Trước mặt cả đại quân kéo đến, doanh lũy chưa xong, nếu mà Tiền bộ tiên phong tư thông với Cao Ly đến cướp ngay trại, thì họa quả không nhỏ. Cho nên trộm nghĩ, trừ ngay họa lớn bên nách, cũng là nghĩ đến toàn cục làm trọng, mà chưa kịp báo lại cho Lai Tướng quân vậy thôi.

Lai Tổng quản cười đáp:

- Vũ Văn đại nhân, người nói Tần Quỳnh án binh bất động, nhưng Tần tiên phong đã từng đánh thắng Cao Ly nhiều trận. Lại nói rằng Tần tiên phong giao thông với giặc, thì thử hỏi chứng cớ đâu ra? Còn nói tha cho giặc thì nếu thế, Tần tiên phong đã tha từ lúc ở Áp Lục giang, cần gì phải đợi mãi đến Bạch Thạch sơn kia. Chuyện mũ kim khôi, thì Tần tiên phong đã đem về nộp báo công, không hề lấy làm của riêng mình. Suốt một đời làm quan, hao phí bao nhiêu tâm lực, liệu làm được mấy việc có ích, tìm được mấy người tài, để cùng tận tâm lực giúp nước. Nếu nay mà lại giết Tần Quỳnh, sợ có mang tiếng là đố kỵ, ganh ghét bậc tài năng chăng? Ta và ngài mỗi người cai quản một đội quân khác nhau, nếu ngài giết tướng tiên phong của ta, sợ có phải là ngài đã vượt cả sang quyền hạn của ta chăng?

Vũ Văn Thuật chẳng biết trả lời ra sao, đành ngồi yên không nói một lời. Vu Trọng Văn cùng mọi người phải xúm vào khuyên giải:

- Vũ Văn đại nhân trong một lúc cũng có quá nóng giận, cho nên chưa kịp hỏi qua Lai đại nhân. Nhưng cũng còn may, chuyện chưa có gì phương hại. Nay là lúc cần phải đồng tâm diệt giặc, đừng nên để xảy ra chuyện mất hòa khí giữa hai bậc đại thần.

Chu Tổng quản cũng góp vài lời vun vào, rồi đặt tiệc rượu giải hòa. Lai Tổng quản cũng nể mặt mọi người xung quanh, miễn cưỡng uống mấy chén, rồi cùng Chu Tổng quản ra về.

Thúc Bảo ra đón, bái tạ ơn cứu mạng của Lai Tổng quản cùng Chu Tổng quản. Lai Tổng quản sợ Vũ Văn Thuật còn kiếm chuyện hại, liền đưa Vũ Mậu Công thay làm tiên phong, điều Thúc Bảo ra đồn trú ngoài cửa biển. Vũ Văn Thuật, Vu Trọng Văn, bởi lương thực tiếp tế không kịp, lại mắc phải chuyện trá hàng của Ất Chi Văn Đức, nên cũng chẳng thèm báo cho cánh quân Lai Tổng quản biết, rút quân qua sông Tát Thủy, bị quân Cao Ly khắp các thành, các trấn, đem binh đuổi theo, giết chết dược cả Tả đồn vệ đại tướng quân Mạch Thiết Trượng, còn quân lính bản bộ của Vương Nhân Cung, Tiết Thế Hùng đều chỉ còn một nửa.

Chỉ riêng quân của Vệ Văn Thăng người ngựa không mất một, các cánh quân còn lại, mười phần không còn một, đại quân kéo nhau chạy về Liêu Đông. Tùy Dượng Đế nghe tin, nổi giận đùng dùng chém đầu giám quân Lưu Sĩ Long, bỏ tù Vu Trọng Văn, bọn Vũ Văn Thuật đều bị cách chức, chỉ riêng Vệ Văn Thăng là được khen thưởng, cùng là hậu tuất cho Mạch Thiết Trượng. Cũng bởi Vũ Văn Thuật chẳng lập được công lao gì gọi là, không dám giở chuyện hại Thúc Bảo nữa.

Mãi về sau này, khi ở Giang Đô, Vũ Văn Hóa Cập giết vua Tùy, mới kiếm cách giết hại cả nhà Lai Tổng quản, cũng là do chuyện thâm thù với Tần Thúc Bảo mà có vậy. Nhưng đó lại là chuyện sau này...

Quân bộ của nhà Tùy rút về rồi. Lai tổng quản liền ra lệnh lấy hậu quân làm tiền quân. Chu Tổng quân dẫn đầu, Lai Tổng quản đi giữa, Tần Thúc Bảo đi cuối. Cờ dong, trống dóng, pháo nổ, buồm căng. Quân Cao Ly đã từng bị Thúc Bảo đánh thua hai trận, không dám đuổi theo, nên cánh quân này trở về vô sự. về đến Đăng Châu, Thúc Bảo tìm đến Lai Tổng quản xin từ chức. Lai Tổng quản nói:

- Tướng quân đã lập được công rất lớn ở Bối Thủy, đã tâu trình được tạm nhận chức Lang Tướng. Nay đem quân về, kiểm điểm mọi chuyện, có thể sẽ được cất nhắc cao hơn. Xin tướng quân đừng đi vội thế!

Thúc Bảo thưa:

- Tiểu tướng vốn chỉ muốn ở nhà chăm lo mẹ già, chẳng muốn nghĩ đến chuyện công danh, bởi nguyên soái quá yêu, nên gia sức đền đáp ơn tri ngộ, chứ bản ý không phải chỗ thưởng phạt. Nếu nguyên soái tưởng lệ quá cao, sợ rằng càng làm Vũ Văn Thuật thêm tức tối. Huống chi hiện nay suốt một dải Sơn Đông, giặc cướp hoành hành, ngày đêm lo lắng đến quê nhà, xin nguyên soái rộng ơn, cho Tần Quỳnh này được trở về.

Lai Tổng quản không thể thay đổi được ý Thúc Bảo, liền tạm phong cho Thúc Bảo chức Triết xung đô úy Tế Châu, rồi cho vinh quy, nhận việc gần nhà. Lại sai quân trung lấy ra tám mươi lạng bạc, làm tiền rượu, tiền để vinh quy, lấy của riêng hai trăm lạng, đoạn hoa tám tấm để thưởng công. Các tướng quen thuộc trong quân đều có quà tặng, Thúc Bảo bái tạ từ biệt.

Chính là:

Khi đi con khóc vợ buồn

Khi về sáo thổi, trống dồn xênh xang.

Thúc Bảo ngày đêm trở về gặp mẫu thân, Trương Thị cùng con trai nhỏ Tần Hoài Ngọc đều mừng rỡ, cả La Sĩ Tín cũng vậy. Thúc Bảo kể lại những chiến công ở Cao Ly, chuyện cha con Vũ Văn Thuật định hại, Lai Tổng quản cứu thoát, nay nhờ ơn Lai Tổng quản trở về làm quan ở Tế Châu, phủ Ủng Dương. Cả nhà nghe kể, đều mừng rỡ không để đâu cho hết. Ngày hôm sau vào thành, bái tạ Trương Quận thừa, bởi những ngày Thúc Bảo đi xa, Quận thừa vẫn thường đem quà cáp đến thăm Tần mẫu, nay thấy Thúc Bảo trở về, có thể cùng hiệp sức dẹp bọn giặc cỏ, giữ yên vùng Tề, Lỗ, tri kỷ gặp nhau, mừng mừng rỡ rỡ.

Thúc Bảo chọn ngày tốt, lên đường đi phủ Ủng Dương nhận việc đem theo cả mẹ già, vợ con vào trong phủ đường. Trương Quận thừa lại cũng biết La Sĩ Tín nổi tiếng dũng cảm, liền cho Sĩ Tín làm hiệu úy, sớm tối cùng thao luyện quân sĩ. Từ đó cả ba đồng tâm hiệp lực thêm đô đầu Đường Vạn Nhẫn, Phàn Kiến Uy, giúp đỡ thêm, giết được giặc cướp Vương Bạc ở Trường Bạch Sơn, Hách Hiếu Đức, Tôn Nghi Nhã, Bùi Trưởng Tài ở Bình Nguyên. Bọn này tuy ô hợp, nhưng cộng tất cả cũng lên tới hơn hai mươi vạn tên, vì vậy bọn Thúc Bảo cũng phải gắng hết tài sức mới diệt nổi. Sau nữa có bọn Lư Minh Nguyệt ở Trác Quận, hơn một vạn lâu la, cũng bị Thúc Bảo, Tu Đà cùng Sĩ Tín, bày mưu quét sạch.

Từ đó vùng Sơn Đông, Hà Bắc, Hoài Tây, bọn giặc cướp cứ nghe tên Thúc Bảo, Tu Đà đều thất đảm kinh hồn. Tin thắng lợi mấy lần báo về triều đình, vua Tùy thăng Trương Quận thừa làm Tế Châu thông thú, bổ thảo đại sứ ở khắp mười hai đạo của Sơn Đông, Hà Bắc, Thúc Bảo thăng Tả vệ tướng quân, hiệp quản Tế Châu, Ủng Dương phủ sự; La Sĩ Tín thăng Triết xung lang tướng, chuyên trông coi việc tiễu trừ giặc cỏ.

Có thể nói là:

Một trận, muôn thù khiếp vía

Nghìn năm, bốn biển lừng danh.

***

Chuyện chia hai mối. Nay nói chuyện Lý Huyền Thúy, Vương Bá Đương, Bính Nguyên Chân, ba người, từ lúc chia tay chú cháu Vương Đương Nhân. Trên đường đi, Huyền Thúy nói với Bá Đương:

- Ở chỗ Địch Nhượng binh mã tuy nhiều, nhưng kẻ có thể làm chuyện xung phong phá giặc thì còn ít. Tiểu đệ nghĩ Thúc Bảo cùng Hùng Tín vốn là anh em cốt nhục khác họ của chúng ta, nguyện cùng sinh tử, nay chúng ta tới đây tụ nghĩa, sao lại không báo cho họ một tiếng, mời họ cùng tới nhập bọn thì hay biết bao!

Bá Đương đáp:

- Thúc Bảo hiện nay đang ở ngoài biên, chỉ có Hùng Tín đại ca là hiện đang ở nhà, nhưng làm sao có thể khuyên đại ca bỏ gia tư điền sản để cùng nhập bọn cho được?

Huyền Thúy chắc chắn:

- Tiểu đệ đã biết rõ đất này, quen rất nhiều người, cũng chẳng tìm đâu ra bậc hào kiệt đâu. Chi bằng hiền huynh cùng với Nguyên Chân về Ngõa Cương trước, tiểu đệ quay lại gặp Hùng Tín một chuyến, trông vào ba tấc lưỡi này của tiểu đệ, một đêm đàm đạo, nhất định sẽ kéo được Đơn nhị ca cùng tới đây tụ nghĩa, cho thỏa nguyện đi lại lâu nay.

Bá Đương đáp:

- Nếu đã như vậy, tiểu đệ cùng hiền huynh lấy mười ngày làm hẹn, sau mười ngày mà vẫn không thấy hiền huynh trở về, tiểu đệ sẽ lên đường đi Lộ Châu tìm. Trên đường đi, hiền đệ phải thật cẩn thận, đừng có sinh chuyện, mà lỡ cả việc lớn?

Huyền Thúy đáp:

- Chẳng cần hiền huynh dặn dò. Tiểu đệ hiểu lắm rồi!

Nói rồi, lại vẫn cải trang làm Toàn Chân đạo sĩ, Huyền Thúy quay lại đường cũ.

Bá Đương cùng với Nguyên Chân đi hai ba ngày nữa thì về đến Ngõa Cương, gặp lúc Địch Nhượng dẫn quân ra khỏi sơn trại, chỉ còn Từ Mậu Công cùng Lý Như Khuê giữ trại, đón tiếp Bá Đương cùng Nguyên Chân, rồi hỏi:

- Lý Huyền Thúy có đến không?

Bá Đương liền đem chuyện ở quán rượu Trần gia, Bạch Tửu thôn, đánh thuốc mê cho bọn công sai, bốn người thoát khỏi lưới đầy, Vi Phúc Tự, Dương Tích Thiện chia đường đi lối khác, sau đó Huyền Thúy đi mời Đơn viên ngoại cùng đến tụ nghĩa như thế nào, kể lại đuôi đầu. Mậu Công nghe xong, đập bàn mà rằng:

- Không xong rồi! Khéo Huyền Thúy lại rơi vào tay người mất thôi!

Bá Đương kinh ngạc hỏi:

- Làm sao lại có chuyện thế được?

Mậu Công đáp:

- Ở nhà Đơn viên ngoại, gần đây tiểu đệ có sai người tới đưa thư của Thúc Bảo, Địch đại ca cũng gửi luôn thư mời Đơn viên ngoại lên Ngõa Cương cùng tụ nghĩa. Không ngờ viên ngoại đã lên đường đưa con gái Đậu Kiến Đức tới Nhiêu Dương, chỉ gửi thư trả lời thôi. Kẻ được sai đi, nói với tiểu đệ rằng: "Tới Nhiêu Dương xong, sẽ về ngay Ngõa Cương, cùng nhau gặp gỡ". Thế là bây giờ, chẳng còn ai ở Nhị Hiền trang. Nay một mình Huyền Thúy tới đó, ngỡ ngỡ ngàng ngàng, làm sao mà không đáng lo cho được?

Đang bàn luận, thì thấy Tề Quốc Viễn áp tải lương thảo trở về, mọi người cùng chào hỏi, Mậu Công lên tiếng:

- Đêm nay hãy nghỉ ngơi đã, canh năm sáng mai, xin phiền Bá Đương, Như Khuê cùng Quốc Viễn hiền đệ, kén lấy bốn năm viên tiểu hiệu lanh lợi, giả làm khách thương, giấu theo khí giới, đi gấp về Nhị Hiền trang ở Lộ Châu một chuyến. Nếu tìm thấy Huyền Thúy vô sự thì thôi, nếu có chuyện gì, thì phải cứu được Huyền Thúy. Tiểu đệ xin lĩnh người ngựa tiếp ứng.

Chẳng biết mọi chuyện ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.

hết: Hồi Thứ Bốn Mươi Mốt, xem tiếp: Hồi Thứ Bốn Mươi Hai

Đánh máy: bevang

Nguồn: bevang - VNthuquan - Thư viện Online

Được bạn: Ct.Ly đưa lên

vào ngày: 16 tháng 2 năm 2010

Hồi Thứ Bốn Mươi Hai

Ham thưởng to, Chiêm Khí Tiên bỏ mạng,

Bày kế lạ, Đơn Hùng Tín không nhà.

Thơ rằng:

Bạch lang nghìn dậm phất cao cờ (1)

Bốn cõi ba kỳ cánh xác xơ

Bắt lính trẻ già hoang ruộng đất

Thừa cơ trộm cướp loạn nhà mồ

Chận đường rắn rết tha hồ béo

Dựa núi hùm beo mặc sức vồ miễn cứ non Yên ghi chiến tích (2)

Mặc thây trăm họ sống bơ vơ.

1 Đường Thi: "Bạch lang Hà Bắc âm thư đoạn". Nhà vua đánh rợ Bắc, bắt được sáu con sói có lông trắng, nhưng binh lính ra đi thì không có tin tức gì về gia đình.

2 Non Yên: ở phía Bắc Trung Quốc, vùng Mông Cổ hiện nay. Đời Hán, Đậu Hiến đánh Hung Nô, rồi khắc đá ghi công ở núi này. "Non Yên dù chẳng tới miền (Chinh phụ ngâm).

Lại nói Lý Huyền Thúy từ biệt Vương Bá Đương, Bính Nguyên Chân, đi luôn ba bốn ngày, đã tới đất Lộ Châu. Chỉ còn cách Nhị Hiền trang khoảng ba bốn mươi dặm, trên đường bỗng gặp một người, nai nịt gọn gàng, võ khí đầy người, xăm xăm bước lại trước mặt. Người này nhìn Huyền Thúy chăm chú rồi hỏi:

- Lý đại huynh, đại huynh ở đâu lại đây?

Huyền Thúy giật mình, nhận ra là đô úy dưới trướng Dương Huyền Cảm, họ Chiêm, tên Khí Tiên, Huyền Thúy không thể chối được đành phải trả lời:

- Tiểu đệ tới đây tìm một người bạn.

Khí Tiên lên tiếng dò hỏi:

- Xin có lời mừng Lý đại huynh!

Huyền Thúy đáp:

- May gặp bạn cũ họ Vương giải cứu cho, nên thoát khỏi nạn lớn. Không biết đại ca tới đây có việc gì?

Khí Tiên cũng đáp:

- Tiểu đệ tới vùng này thăm một người bạn.

Rồi mời Huyền Thúy vào quán uống dăm chén rượu. Huyền Thúy cố từ, hai người chia tay.

Vốn Khí Tiên, lúc bọn Huyền Thúy thua chạy, thì ra quy thuận triều đình, được đưa về phủ Lộ Châu làm tay chân thám sát cho đô đầu bắt giặc cỏ: Thấy Huyền Thúy đã đi khỏi. Khí Tiên nghĩ ngợi: "Thằng này lúc còn trong trướng Dương Huyền Cảm, làm mưa làm gió một thời, thế mà vẫn còn có ngày nay, thấy ta là người cùng bọn với nhau cả, mà chuyện trò vẫn cứ gượng gạo, giữ gìn thật đáng ghét. Ta định lừa y vào quán tìm cách trói lại, nhưng y hình như đánh hơi ra nên khôn tránh mất. Ta phải ngầm sai người theo sát, xem y vào hang ổ nào, rồi về phủ đường trình báo, cho lính tráng kéo đến bắt nạp quan, nhất định ta lập công đầu, lại được cả tiền thưởng nữa. Chuyện mua bán có lời như thế này, quyết không thể rơi vào tay người khác được". Tính toán đâu đó, liền gọi thêm một kẻ tay chân vẫn lảng vảng gần đó, rồi cả hai kín đáo theo sau Huyền Thúy.

Huyền Thúy sau khi gặp Khí Tiên, tuy đã mỗi người một đường, nhưng vẫn thấy hốt hoảng, vội vàng đi nhanh tới Nhị Hiền trang. Lúc này đã hoàng hôn, cổng trang trại đã đóng kín, lặng lẽ không một bóng người. Huyền Thúy lên tiếng gọi nhiều lần, mới thấy bên trong có tiếng người đáp, rồi ánh đèn chiếu sáng, cửa mở. Huyền Thúy lâu nay vẫn thường qua lại Nhị Hiền trang, nên bọn người nhà đều biết rõ mặt, thấy Huyền Thúy, người đầy tớ lên tiếng chào:

- Thì ra Lý đại nhân, xin mời đại nhân vào!

Rồi đóng ngay cửa lại, dẫn Huyền Thúy vào nhà. Huyền Thúy hỏi:

- Viên ngoại có nhà, phiền bác vào thưa hộ!

Người đầy tớ đáp:

- Đơn đại nhân không có nhà, đã đi Nhiêu Dương rồi. Xin Lý đại nhân chờ cho, tiểu nhân sẽ báo Tổng quản ra tiếp.

Nói xong liền vào nhà trong.

Trong Nhị Hiền trang, Hùng Tín có một viên tổng quản, cũng họ Đơn, tên Toàn, khoảng hơn bốn mươi tuổi, vốn là người thành thực lại nhanh nhẹn, tháo vát, từ nhỏ đã theo hầu phụ thân Hùng Tín, nên Hùng Tín cũng coi Đơn Toàn như anh em vậy, công việc lớn nhỏ trong nhà đều do Đơn Toàn sắp đặt. Một lát sau, thấy một dứa trẻ, cầm đèn soi cho Đơn Toàn đi ra, đặt chiếc đèn lên bàn, lấy chiếc đèn cũ đem vào trong. Đơn Toàn thấy Huyền Thúy liền lên tiếng:

- Nghe nói Lý đại nhân cùng theo khởi sự với Dương đại nhân, việc chẳng như ý. Đâu đâu cũng thấy vẽ hình đại nhân, treo cao trên bảng, để nơi nơi tìm bắt đại nhân. Thế mà sao đại nhân lại một thân một mình tới đây cho được!

Huyền Thúy liền đem mọi chuyện trước sau kể một lượt, rồi hỏi:

- Viên ngoại đi Nhiêu Dương có việc gì?

Đơn Toàn thưa:

- Bởi Đậu Kiến Đức sai người đến đón con gái, lúc đầu viên ngoại hứa sẽ tự đưa đi, cho nên cùng Đậu tiểu thư đi Nhiêu Dương rồi.

Huyền Thúy hỏi tiếp:

- Chẳng biết bao giờ trở về?

Đơn Toàn đáp:

- Viên ngoại tới Nhiêu Dương xong, lại còn đến chỗ Địch Nhượng ở Ngõa Cương nữa kia. Chẳng là Địch đại nhân mới đây đã có thư mời viên ngoại. Viên ngoại cũng có đáp lời, sau khi tới Nhiêu Dương, sẽ Tìm ngay đến Ngõa Cương gặp gỡ.

Huyền Thúy lại hỏi:

- Địch Nhượng cùng với viên ngoại đây là chỗ quen cũ hay cũng chỉ mới quen gần đây?

Đơn Toàn đáp:

- Trước đây Địch đại nhân cũng có nhiều việc phiền toái, đều được viên ngoại chu toàn, nên cũng bạn bè từng giao bái.

Huyền Thúy nói:

- Thì ra là thế. Ta tìm đến đây, cũng chỉ là để rủ viên ngoại cùng đi Ngõa Cương tụ nghĩa, chỉ tiếc là đến quá chậm.

Đơn Toàn hỏi:

- Lý đại nhân về Lộ Châu lần này, có gặp ai người quen trên đường không?

Huyền Thúy đáp:

- Suốt dọc dường chẳng gặp ai cả. Chỉ gần đây có gặp người cùng chỗ trước đây với Dương Huyền Cảm là đô úy Chiêm Khí Tiên, tay này nhân Huyền Cảm thất bại, đã quy phục triều đình. Không hiểu nó tới đây làm gì, chỉ mới nói vài câu, nhưng có vẻ đáng ngờ lắm!

Đơn Toàn nghe xong, nhíu đôi lông mày:

- Nếu có chuyện như vậy, xin mời đại nhân vào thư phòng bên trong này, ta bàn một chút mới được!

Hai người cầm đèn, lần theo khắp lối ngang lối dọc vào thư phòng phía sau. Lúc Hùng Tín ở nhà, rất ưu ái bạn bè, nên thường dẫn tới phòng này nghỉ ngơi. Huyền Thúy vào, đã thấy hai người đầy tớ bày tiệc rượu ra bàn. Đơn Toàn lên tiếng:

- Đại nhân cứ uống thong thả, tiểu nhân có chuyện muốn thưa.

Nói rồi rót rượu ra chén, quay lại nói với hai người đầy tớ:

- Một người hãy vào ngay nhà trong, thưa với bà chủ, lấy cái khóa cổng sau, thắp đèn lên gọi tất cả những người làm công trong trang trại lại, ta có chuyện cần nói.

Vừa nói, Đơn Toàn vừa đi vào nhà trong. Nếu ở trong một nhà khác Huyền Thúy còn có thể ít nhiều nghi ngại, nhưng ở đây, tuy Hùng Tín không có nhà, lại biết rõ Đơn Toàn vốn là viên quản gia tháo vát, tin cẩn, nên cũng yên tâm như ở nhà mình. Bụng vừa đói vừa khát, nên mặc kệ mọi chuyện, ăn uống thật no say, đang định đứng dậy, thì thấy Đơn Toàn vào nói:

- Viên ngoại không có nhà. Xin Lý đại nhân cứ tự nhiên, ngủ ngay ở trong phòng này cho tiện. Chỉ có câu chuyện muốn thưa: cái người mà đại nhân mới gặp họ Chiêm kia, nếu là người tốt, thì thật là ơn trời đất, mọi chuyện đều yên ổn cả, nhưng nếu là người xấu, thì đêm nay chẳng được ngủ yên, nhất định có cuộc chạm trán gay go chứ chẳng không đâu!

Huyền Thúy chưa kịp đáp, người đầy tớ lúc nãy quay lại thưa:

- Tổng quản, ngoài cổng có người gọi rồi!

Đơn Toàn vội chạy ra, trèo lên chòi cao nhìn ra, thấy đến gần hai chục người lố nhố, trong đó thấy cả bóng ngựa, lại có cả bóng viên tuần kiểm, còn một viên dáng quan nha nhưng không nhận ra, liền gọi đầy tớ mở cổng, cho cả bọn ùa vào. Đơn Toàn cũng vừa kịp gọi gần hai chục gia đinh ra tiếp. Viên tuần kiểm nhận ra Đơn Toàn, liền hỏi:

- Viên ngoại có nhà không?

Đơn Toàn đáp:

- Viên ngoại đã về Tây Hương thu tô vụ này rồi. Chẳng hiểu ngài tuần kiểm có việc gì, mà đêm hôm cũng "giáng hạ" thế này?

Tuần kiểm chỉ tay đáp:

- Đây là đô đầu Chiêm đại nhân, đô đầu nói có tên trọng phạm là Lý Mật, hiện đang trốn trong trang trại, vốn triều đình đang có lệnh tróc nã, cho nên chúng ta cùng đến bắt. Quan bác vốn là tổng quản, phải biết những chuyện này, có giấu cũng chẳng được đâu, hãy nói cho thực!

Đơn Toàn đáp:

- Sao lại có chuyện này dược, chủ nhân chúng tôi không quen biết ai là Lý Mật cả, huống chi chủ nhân chúng tôi lại đã ra đi ba bốn ngày hôm nay rồi. Chúng tôi phải giữ gìn trang trại theo như lời dặn, sao lại dám giấu kẻ phạm tội, gây họa cho viên ngoại!

Khí Tiên căn dặn:

- Vừa mới ngày hôm nay, Lý Mật tới Lộ Châu này, chính ta đã gặp, sai anh bạn họ Vương này theo sau, thấy vào đây, gọi cổng rồi vào nhà hẳn hoi, nhất định là ẩn trốn ở trong trang trại này thôi!

Đơn Toàn nghe nói vậy, hai mắt long sòng sọc lớn tiếng:

- Ngài lại nói chuyện không có rồi. Ngày hôm nay ngài gặp Lý Mật, tại sao ngay lúc ấy ngài không trói ngay đem lên quan mà lĩnh thưởng, sao lại để Lý Mật chạy mất vào đây gọi cổng, cho nên cùng kéo đến bắt, thì bằng chứng đâu ra. Nay vô ảnh vô bằng, lại định kéo vào phá nhà, chủ nhân đây cũng bậc anh hùng hảo hán, chẳng sợ phường vu oan giá họa đâu!

Khí Tiên còn định đôi co nữa, thì thấy trong nhà lại kéo ra đến hơn chục trai tráng to cao khỏe mạnh, mặt mày dữ tợn. Viên tuần kiểm lại nghe Đơn Toàn nói thế, nghĩ ngay tới Hùng Tín không phải là kẻ tầm thường, hàng ngày vẫn có đi lại, quà cáp thường xuyên, tội gì mà dây vào chuyện này, nên đổi giọng phân bua:

- Chúng ta cũng chỉ vì chuyện quan hệ đến bản phủ, nên lại hỏi cho rõ ràng, nếu không có, thì chẳng có gì phải kinh động cả.

Viên tuần kiểm định quay ra, Đơn Toàn nói:

- Ngài tuần kiểm nói thế thật có lý có tình, xin chờ chủ nhân chúng tôi về, nhất định sẽ tới hậu tạ ngay.

Rồi đưa tiễn ra cổng, ai nấy lên ngựa. Đơn Toàn sai đầy tớ khóa chặt cổng lại. Huyền Thúy vẫn chưa an tâm, chạy ra nhìn theo qua chỗ tường hoa, thấy bọn quan quân đã kéo nhau đi, mới thư thả quay vào tạ ơn Đơn Toàn:

- Tổng quản, nhờ có Tổng quản cứng lý, mà ta lại thoát khỏi nạn này nữa, nếu rơi vào tay người khác, thì có khi lại bị bắt trói rồi.

Đơn Toàn đáp:

- Chỉ có mấy câu mà bọn chúng chịu đi, chỉ sợ chúng lại còn kéo đến cũng chưa biết chừng.

Ngoài cổng lại có tiếng người gọi, Huyền Thúy vội vàng lẻn vào bên trong. Đơn Toàn vội chạy ra phía sau cổng xem xét, nghe tiếng người bên ngoài, nhận ra tiếng Vương Bá Đương ở Tế Dương, Đơn

Toàn lên giọng can đảm, hỏi:

- Canh ba nửa đêm, ai còn đứng đó gọi cửa?

Bá Đương ở ngoài liền đáp:

- Ta là Vương Bá Đương đây. Tổng quản mở cổng ngay ra đi!

Đơn Toàn chạy lại mở cổng, thì thấy Bá Đương, Lý Như Khuê, Tề Quốc Viễn cùng năm sáu tiểu hiệu ùa vào, tất cả đều giả trang khách thương. Đơn Toàn cất tiếng hỏi:

- Ba vị sao lại tới vào lúc khuya khoắt như thế này?

Bá Đương cũng hỏi:

- Viên ngoại không có nhà phải không? Ta cần biết ngay Lý Huyền Thúy có đến đây không?

Đơn Toàn đáp:

- Lý đại nhân hiện đang ở đây. Xin mời các vị vào trong này ngay.

Rồi soi đèn đưa vào thư phòng phía sau. Huyền Thúy trông thấy, kinh ngạc hỏi:

- Sao đến cả vào lúc nửa đêm thế này?

Bá Đương đem chuyện đến Ngõa Cương, gặp Từ Mậu Công, bàn bạc ra sao, Mậu Công xếp đặt thế nào kể một lượt. Còn Huyền Thúy lại đem chuyện gặp Chiêm Khí Tiên, chuyện tuần kiểm đến khám xét thế nào cũng kể rõ. Quốc Viễn nghe xong gầm lên:

- Cái thằng giặc già này, liệu đầu nó bọc sắt hay sao mà dám tới đây tìm bắt người?

Đơn Toàn dẫn một loạt tôi tớ bưng rượu thịt cơm nước bày ra bàn, mời bốn vị ngồi vào, lại nói với mấy viên tiểu hiệu:

- Còn các anh em, xin mời ra nhà ngoài uống rượu thật tình.

Rồi gọi đấy tớ dẫn bọn tiểu hiệu ra. Đơn Toàn liền nói với bốn người:

- Có bốn vị ở trên, vừa rồi họ Chiêm sát khí đằng đằng, nhất định chưa chịu bỏ cuộc, sớm muộn gì cũng sẽ quay lại, chúng ta phải đối phó ra sao bây giờ?

Bá Đương đáp:

- Giờ khoảng canh ba canh tư gì đó, chúng ta hãy chờ tới sáng, nếu không có người tới làm rầy, thì sẽ cùng Huyền Thúy quay về Ngõa Cương. Nếu vẫn có người tới thăm, xem họ nhiều ít ra sao, đối phó mới hiệu quả.

Đơn Toàn thưa:

- Thế cũng được!

Bá Đương cùng mọi người mời Đơn Toàn lấy thêm ghế cùng ngồi uống rượu, chẳng mấy chốc đã nghe gà gáy sáng. Như Khuê nói:

- Đến giờ mà chẳng thấy thằng nào đến sách nhiễu, thì có lẽ chẳng có chuyện gì đâu. Mau mau đem cơm rượu ăn no rồi lên đường là xong.

Ai nấy vừa cơm nước xong, nai nịt để lên đường, đầy tớ canh cửa hoảng hốt vào thưa:

- Bên ngoài tiếng ngựa hý vang, như có người ngựa đang kéo về phía cổng trang trại ta. Xin mời các đại nhân ra xem sao!

Đơn Toàn nghe nói, cùng Bá Đương trèo lên chòi cao, cẩn thận nhìn ra, có đến ba bốn chục người ngựa, bốn năm chục bộ binh, đang kéo vào cổng trại.

Thì ra Khí Tiên thấy viên tuần kiểm rút lui, trong lòng tức tối, về ngay thành Lộ Châu báo cho Tiết Tri phủ, tri phủ liền sai ngay phủ thừa cùng đến lục soát Nhị Hiền trang. Viên phủ thừa này họ Bàng, tên Hiếu Thiện, còn có tên là Bàng Tam Hiệp. Phàm tội nhân mà đến tay Hiếu Thiện, chẳng luận đúng sai, phải trái, đều đánh cho ba hiệp côn đã. Vốn cũng là xuất thân khoa bảng, từng đậu tam giáp tiến sĩ, vì vậy mọi người xung quanh mới đặt cho tước hiệu Bàng Tam Hiệp, cũng hám lợi một phường. Mới nghe lệnh lên đường bắt trọng phạm, ngay đêm điểm binh mã, ra khỏi thành, kéo về Nhị Hiền trang.

Bá Đương cùng Đơn Toàn xuống chòi cao, đi vào nhà sau, Huyền Thúy hỏi Đơn Toàn:

- Tổng quản, trang trại có bao nhiêu tráng đinh?

Đơn Toàn đáp:

- Cầm được khí giới, chỉ hơn hai chục người.

Huyền Thúy bàn:

- Như Khuê cùng với Quốc Viễn, hai hiền đệ dẫn số tráng đinh này, ra khỏi trang trại bằng cửa sau, chờ cho binh lính xuống ngựa, nhân lúc sơ ý hoặc hỗn loạn, hãy giấu số ngựa này đi.

Rồi quay lại nói với Đơn Toàn:

- Tổng quản, ta biết trong trang trại này có một hầm lớn đến ba bốn gian, tổng quản hãy vào ngay đặt ván sàn xuống, lắp các bộ phận máy móc cho cẩn thận, chờ cho chúng nó vào đây, dẫn vào mấy gian đó, lật nhào tất cả xuống hầm này là gọn nhất.

Đơn Toàn theo lệnh vội vào xếp sắp bên trong, Huyền Thúy cùng Bá Đương nai nịt gọn gàng, cầm đoản côn, đoản đao trong tay, những thứ này thì trong Nhị Hiền trang có rất nhiều. Lát sau, Đơn Toàn lại mang thêm khí giới, ai nấy tự trang bị thêm cho mình.

Huyền Thúy lên tiếng:

- Thế là sẵn sàng cả rồi. Giờ chỉ cần một người nào lanh lợi chạy ra mở cổng dụ chúng nó vào nữa là xong.

Đơn Toàn đáp:

- Việc này tiểu nhân xin nhận là hợp hơn cả!

Đơn Toàn nai nịt gọn gàng, khoác thêm một áo thun xanh, rảo bước ra cổng, mở cửa lớn. Bọn lính tráng ùa vào, theo sau là Bàng Tam Hiệp, vào nhà, ngồi ngay vào chiếc ghế dựa, rồi lớn tiếng quát:

- Gọi ngay quản gia tới đây?

Bọn tay chân lôi Đơn Toàn tới, chỉ cho Đơn Toàn quỳ xuống, Tam Hiệp nạt:

- Trang trại sao dám giấu kẻ trọng phạm Lý Mật, mau đem ra đây nạp cho bản quan!

Đơn Toàn thưa:

- Người thì có thật, tối hôm qua có ngủ ở đây, nhưng có phải Lý Mật hay không phải Lý Mật, thì tiểu nhân quả không biết. Hiện nhốt ở trong phòng phía tây kia. Nhưng chẳng làm gì được hắn cả, ai lay cũng chẳng động. Xin quan lớn dẫn theo lính tráng, vào trói chặt hắn lại mà lôi ra, đừng để hắn chạy mất.

Tam Hiệp lại vặn:

- Chủ ngươi đâu, sao không thấy mặt?

Đơn Toàn đáp:

- Chủ nhân trong nhà sau, vẫn còn chưa dậy.

Tam Hiệp liền quát bọn bộ binh:

- Các ngươi mấy đứa, theo quản gia vào bắt trói phạm nhân lôi ra đây. Rồi gọi chủ trại ra gặp ta.

Tụi lính tráng, thấy quan phủ quát vào bắt người, chẳng kể nhiều ít, xăn tay áo, sùng sục tiến vào, khác gì một bầy ong dữ, có đến hơn hai mươi đứa, theo sau Đơn Toàn tiến vào phòng phía tây. Vào đến phòng có ván lát, cả bọn xúm lại đông đủ.

Đơn Toàn lên tiếng:

- Xin các vị nhẹ nhàng cho, đến nơi rồi!

Bỗng phía trước có kẻ la lối:

- Không xong rồi! Làm sao mà sàn nhà lại như muốn lật thế này?

Nói chưa hết câu, chỉ nghe những tiếng động mạnh liên tiếp, cả người, cả vật dụng đều theo nhau lăn xuống hầm sâu, bọn đi sau cũng đều lăn nhào xuống hầm nốt. Ngoài nhà chỉ còn lại phủ thừa cùng bọn mã binh, đang xem xét trong ngoài, nhìn nhìn ngó ngó bỗng nghe một tiếng mõ lớn, hai cánh cửa nhà kho mở rộng, mười sáu mười bảy trai tráng to cao dữ tợn xông ra, thương dài, búa lớn, cứ thế chém bừa. Tam Hiệp vội vàng bỏ chạy ra cổng, bốn năm chục mã binh vội rút dao nghênh chiến, nhưng không đánh nổi bọn Bá Đương. Bọn này thấy yếu thế, đều bỏ chạy ra cổng, mong nhảy lên ngựa bỏ chạy, nhưng ngựa nào còn, mà lại gặp một toán dữ tợn khác, búa lớn trong tay, có đến hơn chục người, xông vào đâm chém. Quan quân trước sau đều bị đánh, liệu thế chẳng xong, thằng nào còn sống đều quỳ gối chịu trói. Huyền Thúy lớn tiếng:

- Các ngươi chẳng có can hệ gì đến chuyện này. Chúng ta tha cho cả bọn, hãy tìm đường mà cút ngay. Nhưng còn vị quan phủ, cùng với thằng giặc họ Chiêm sao lại không thấy đâu cả?

Một gia đinh mách:

- Vừa rồi bị một vị đại nhân chém cho một búa rồi?

Thì ra Quốc Viễn cùng Như Khuê đem bọn gia đinh ra phục ở ngoài rừng trúc, thấy Khí Tiên cưỡi ngựa, dẫn bọn lính giữ cửa, thì một gia đinh chỉ:

- Chính thằng giặc này đây, cầm đầu một bọn, tối qua cùng với tuần kiểm đã tới một lần rồi.

Quốc Viễn thấy nói thế, chẳng nhịn được, từ trong rừng trúc rậm rạp nhảy ra hét lớn một tiếng, Khí Tiên giật mình hoảng sợ, ngã lăn quay xuống ngựa. Quốc Viễn cho ngay một búa, tính mạng đi đời.

Huyền Thúy sợ còn có tên lính nào trốn trong trại, cùng mọi người tra xét một vòng, lại thấy được một người mặc áo bào màu hồng, đang nấp kín dưới rãnh nước. Đơn Toàn chỉ tay nói:

- Đây đúng là quan phủ thừa Bàng Tam Hiệp rồi!

Quốc Viễn lôi Tam Hiệp lại, cười nói:

- Mày có phải là Bàng Tam Hiệp không? Nay các bố già của mày đổi tên là Bàng Nhất Đao cho mày nhé!

Rồi búa giơ lên, bổ làm hai đoạn. Đơn Toàn gọi tráng đinh, đem hai ba chục con ngựa, dắt vào chuồng. Còn bao nhiêu xác chết thì khiêng ra ruộng, đào một hố lớn, vứt xuống, lấp đất lại sơ sài. Huyền

Thúy gọi gia đinh, trói tất cả bọn lính tráng còn sống, đẩy cả bọn xuống hầm sâu, vứt đất đá lấp kín. Mọi thứ thu thập xong xuôi, đóng chặt cổng trang trại lại.

Mọi người đều tụ tập ở nhà lớn. Huyền Thúy liền nói với Đơn Toàn:

- Tổng quản, ta đến đây gặp viên ngoại, lại làm nên chuyện tầy đình thế này. Nay các ngươi không thể nào yên thân ở đây được rồi, cuối cùng thì viên ngoại cũng sẽ về Ngõa Cương. Tốt nhất, ngươi nên nói với bà chủ trang trại biết rõ. Rồi tức tốc thu thập tế nhuyễn, cùng chúng ta tới Ngõa Cương, tạm náu ít lâu, xem tình hình sau này ra sao sẽ định đoạt. Trong trại của Địch đại nhân có rất nhiều các gia quyến kéo đến, cũng chẳng sợ lẻ loi đâu, không biết ý của tổng quản thế nào?

Đơn Toàn cũng không biết nói thế nào, đành vào nhà trong bàn bạc một hồi. Đơn Hùng Tín lại còn người chị dâu góa chồng, là vợ của Đơn Thông, cũng ở trong trang trại. Còn vợ của Hùng Tín là Thôi Thị, cùng con gái là Ái Liên, cộng chỉ có ba người, tính cả các bà già, các cô gái hầu, thì cũng khoảng hơn hai mươi người, đều lên các xe ngồi. Sắp xếp đâu đó, Đơn Toàn lại gọi tráng đinh, đem sáu bảy con ngựa tốt của trang trại, cộng với hơn hai chục ngựa của bọn lính tráng Lộ Châu, cho ăn uống no nê rồi chia cho tráng đinh, cùng là các loại khí giới tùy thân. Huyền Thúy chia cho Đơn Toàn cùng Lý Như Khuê đi sát bảo vệ bảy tám xe ngựa, làm hậu đội. Tự mình cùng Bá Đương, Quốc Viễn và bọn tiểu hiệu làm tiền đội. Rồi đóng chặt các cửa cổng trong trang trại lại, tất cả lên ngựa khởi hành, nhằm Ngõa Cương mà tới.

Chính gọi là:

Biết rằng không bạn chẳng bầu

Trong cơn nước lửa, cầm đầu bước theo.

***

Lại nói chuyện Hùng Tín đưa con gái của Đậu Kiến Đức là Tuyến Nương lên đến Nhiêu Dương, Kiến Đức vô cùng mừng rỡ. Lúc này Kiến Đức đã có trong tay bảy tám quận huyện, binh mã dưới trướng cũng ở số dư vạn, lại rất được lòng dân chúng, quy mô ngày một lớn, nên cố sống cố chết giữ Hùng Tín lại cùng hành sự với mình. Hùng Tín cũng bởi Địch Nhượng là chỗ bạn bè rất thân cũ, đã viết thơ mời, lại nữa ở Ngõa Cương bạn bè tâm đầu ý hợp rất nhiều, thứ ba là Ngõa Cương gần Lộ Châu hơn, nên dễ bề nhìn ngó Nhị Hiền trang, ý đã định thế, nên ở lại hai ba ngày, lấy cớ ở nhà có việc cần, liền từ biệt Kiến Đức. Kiến Đức thành tâm lưu lại khoản đãi, nhưng thấy Hùng Tín vẫn giữ ý, liền đem lại nghìn lạng vàng tặng. Hùng Tín tạ biệt Kiến Đức, cùng ba bốn tên người nhà, rời khỏi Nhiêu Dương, đi về Ngõa Cương.

Đi được mấy ngày, vì giặc cướp như ong, dân chúng phu dịch nặng nề, làng xóm tan hoang, nhà cửa đóng im ỉm, đến một quán cơm cũng chẳng tìm ra. Hôm ấy, cả đoàn Hùng Tín đi đã được sáu bảy mươi đậm, nhìn mặt trời đã sát núi tây, chẳng sáng nữa mà cũng chưa tối, Hùng Tín ngồi trên ngựa nói với bọn người nhà:

- Phải tìm ngay một nơi nào nghỉ ngơi mới xong.

Người nhà, tên là Tiểu Nhị, tuổi cũng chỉ mới mười bẩy, chỉ tay mà nói:

- Hình như trong lùm cây rậm rạp kia có nhà, xin để tiểu nhân đến xem sao!

Tiểu Nhị phi ngựa lên phía trước, thì quả là có nhà, men theo dãy đê dương liễu dài thấy có hai ba gian nhà ngói, phía sau là một rừng trúc, thấp thoáng là một thủy đình, cửa ngoài khép kín. Tiểu Nhị gõ liên tiếp, cửa mở ra, thì thấy một bà già, nhìn kỹ Tiểu Nhị, liền cất tiếng:

- Cháu có phải là Kim Tiểu Nhị không? Nghe nói lâu nay cháu đi giúp việc cho Đơn viên ngoại ở Lộ Châu, sao lại ở đây?

Tiểu Nhị cũng nhìn một hồi lâu rồi mừng rỡ:

- Thì ra là bà ngoại. Cháu cùng Đơn viên ngoại đi đến đây, trời đã tối sợ phía trước tìm không ra nhà ở, nên mới tìm đến đây xin trọ một đêm, ai ngờ lại gặp được bà.

Đang nói, mọi người đã kéo đến cổng, Hùng Tín xuống ngựa, ngồi ngay xuống phiến đá lớn trước cổng. Bà già vào bên trong không lâu thì một người trai tráng cao lớn đi ra, thấy Hùng Tín dung mạo khác thường, cử chỉ hiên ngang, thì lấy làm ngạc nhiên, liền chắp hai tay, lễ phép hỏi:

- Lộ Châu có Đơn viên ngoại, có phải là ngài chăng?

Hùng Tín đáp:

- Không dám! Chính là Hùng Tín này đây!

Chàng trai liền mời vào thảo đường, rước ngồi đâu đấy rồi nói:

- Ngưỡng mộ đại danh viên ngoại đã lâu, nay mới gặp. Không biết có việc gì mà viên ngoại lại qua vùng này?

Hùng Tín đáp:

- Hùng Tín này nhân đi thăm một người bạn, chỉ sợ phía trước không hàng quán, cho nên làm phiền đến gia quyến, xin ngủ nhờ một đêm, không biết có được chăng?

Chàng trai đáp:

- Chuyện này thì có gì đáng ngại, chỉ ngại nhà cỏ vách đất, chẳng xứng nơi cho viên ngoại đặt giường thôi!

Hùng Tín hỏi:

- Nói chuyện mãi mà quên hỏi. Xin được biết quý tính cao danh bậc hảo hán?

Chàng trai liền đáp:

- Kẻ bất tài này họ Vương, tên Đương Nhân.

Hùng Tín tiếp:

- Chúng tôi có một người bạn, gọi Vương Bá Đương, hiền huynh lại có tên Vương Đương Nhân. Hình dáng trông giống nhau như anh em.

Đương Nhân hỏi:

- Có phải Vương Bá Đương ở Tế Dương không? Thế thì cũng là chỗ quen biết cả. Cách đây không lâu cũng có ghé vào tệ gia vậy.

Hùng Tín nói:

- Thì ra cũng là chỗ họ hàng cả. Bá Đương đi một mình hay đi với nhiều người?

Đương Nhân đáp:

- Cùng đi với Lý Huyền Thúy, còn một người nữa, họ Bính.

Hùng Tín vui mừng nói:

- Hùng Tín này cũng đang tới Ngõa Cương để gặp bọn họ đây.

Đương Nhân cũng vui không kém:

- Viên ngoại cũng đi Ngõa Cương sao? Thật hay quá, hiện đang có chuyện muốn nói, xin đợi tiểu đệ mời Vương bá ra ngoài này đã.

Chẳng mấy chốc đã thấy Vương ông ra, tay cầm bình trà, cùng chào lạy rồi mời Hùng Tín ngồi. Uống dăm chén trà xong. Vương ông đem việc Bá Đương, Huyền Thúy đến nhà, ngủ một đêm, rồi Huyền

Thúy định sẽ nhân duyên ra sao, kể suốt một lượt. Hùng Tín nói:

- Huyền Thúy nhiều năm lưu lạc giang hồ, không ngờ lại đến Vương lão đây định duyên Tần Tấn, thế là toại nguyện chuyện gia thất.

Vương ông thấy nói thế, liền thở dài:

- Cháu gái được hứa hôn với Lý công tử, sự vinh nhục một đời đều gửi cả vào công tử. Nhưng nay lại xảy ra chuyện đáng lo khác. Chẳng là đầu lĩnh Chu Xán ở Hào Châu bất ngờ qua đây, cháu gái đang quét tước trước cổng, đầu lĩnh nhìn thấy, đưa vàng ngọc ra làm lễ vật đòi lấy bằng được cháu đem về làm áp trại phu nhân, hẹn đầu tháng sau sẽ tới rước dâu. Nay già này lại phải sai cháu đến báo với Lý công tử, vừa đi vừa về cũng mất bảy tám ngày. Nếu cả nhà đi Ngõa Cương cả, lại sợ xảy ra chuyện lôi thôi ở dọc dường. Thật hai ngã đều rầy rà vậy?

Hùng Tín hỏi:

- Gia quyến lão trượng hiện có mấy người?

Vương ông đáp:

- Hai thằng con trai, mấy năm trước bị quan bắt đi đào sông, đến nay một đứa cũng chẳng thấy về, vợ hèn thì đã mất từ lâu, chi còn mỗi đứa con gái với thằng cháu gọi bằng bác vừa rồi thôi! Ngoài ra có hai bà già giúp việc cơm nước, cả thảy chỉ năm người thôi mà!

Hùng Tín bảo:

- Nếu như thế, lão trượng vào nói với lệnh ái thu thập của cải riêng tư, sáng mai tất cả đi sớm. Hùng Tín này sẽ đảm đương việc đưa cả gia quyến lão trượng tới Ngõa Cương gặp Huyền Thúy có được không?

Vương ông nghe nói thế, mừng rỡ vô hạn:

- Nhờ tình sâu, ý tốt của viên ngoại, xin để già này gọi con gái ra bái chào!

Lúc này Đương Nhân cùng Tiểu Nhị đã lục đục bày biện cơm rượu ra bàn, sắp nâng chén, Vương ông dẫn Vương Tuyết Nhi ra chào Hùng Tín:

- Cháu gái ra chào viên ngoại.

Hùng Tín đưa mắt nhìn, thì quả là mày thanh mắt sáng, khuôn trăng đầy đặn, tuy mặc quần áo thôn nữ, nhưng khiến khách anh hùng hồn xiêu phách lạc. Hùng Tín đáp lễ, Vương ông cùng Đương Nhân nào dám thế, cũng phải để Hùng Tín trả bốn vái. Vương ông để Đương Nhân ngồi tiếp Hùng Tín, tự mình ngồi cạnh, thỉnh thoảng mời Hùng Tín thêm một chén, hoặc sai bảo người nhà.

Sáng hôm sau, tất cả dậy sớm, thu thập đồ đạc, quần áo, chất lên xe, đến sáng rõ thì lên đường. Vương ông dành một xe trâu lớn, để Tuyết Nhi cùng hai bà già giúp việc ngồi. Còn mình thì ngồi một xe nhỏ hơn, đôn đốc mọi người. Đương Nhân đi bộ cho tự do. Hùng Tín sai tay chân xây bịt kín cổng, thấy Đương Nhân đi bộ, cũng không chịu lên ngựa. Đương Nhân nói:

- Xin viên ngoại đừng câu nệ, tiểu đệ đi bộ đã quen, lại càng thêm khỏe chân vậy.

Cả hai nhường nhịn một hồi, Hùng Tín liền lên ngựa đi trước.

Đi được ba bốn ngày, tới đất Ngõa Cương, Hùng Tín sai hai người nhà:

- Hãy lên trước xem xét sự thể ra sao, Địch Nhượng, Bá Đương cùng Huyền Thúy ở chỗ nào, chúng ta sẽ từ từ theo sau, chờ các người quay lại đón nhé!

Không bao lâu, thấy hai người nhà quay lại thưa:

- Các vị đầu lĩnh đều đang ở trại lớn, nghe nói viên ngoại tới, đều lên ngựa ra đón.

Từ đường xa, đã thấy Huyền Thúy, Bá Đương, Nguyên Chân, Quốc Viễn, Như Khuê, bảy tám hảo hán cưỡi ngựa tiến lại. Hùng Tín dừng ngựa, nói với Đương Nhân:

- Hiền đệ hãy cứ để xe lùi phía sau, Hùng Tín này lên trước, thưa rõ mọi chuyện, rồi sẽ cho người ra đón đàng hoàng phải phép.

Đương Nhân gật đầu ưng thuận.

Hùng Tín nhảy xuống ngựa, cùng mọi người chào hỏi, ai nấy cùng đi bộ vào "Chấn Nghĩa Đường". Lễ chào xong xuôi, Địch Nhượng lên tiếng trước:

- Lâu nay vẫn mong chờ, sao mãi đến nay Đơn nhị ca mới tới?

Hùng Tín đáp:

- Kiến Đức đại huynh cứ dùng dằng không cho đi, nên cũng nấn ná mất mấy ngày, phải nói quấy quá mãi mới đi được. Trên đường lại nhân tiện đem theo cả gia quyến Huyền Thúy hiền đệ, lại chậm thêm một ngày, vì vậy mãi hôm nay mới được gặp đông đủ chư huynh.

Huyền Thúy ngạc nhiên vội hỏi:

- Tiểu đệ nào có gia quyến, mà phiền đến đại huynh phải hộ tống đến đây?

Hùng Tín đáp.

- Thế thì Hùng Tín này nói đùa sao. Hiện nay lệnh nhạc phụ, cùng Vương Đương Nhân, đang dừng xe phía sau, đợi hiền đệ ra đón.

Huyền Thúy lạ lùng:

- Thế cũng là chuyện ít có xưa nay. Đó là chuyện gần đây tiểu đệ ngẫu nhiên mà gặp, mà hứa hôn. Tại sao đại huynh lại biết được?

Hùng Tín kể chuyện tìm nơi ngủ trọ, chuyện Vương ông bị Chu Xán đòi lấy Tuyết Nhi làm áp trại phu nhân thế nào, kể ra một lượt.

Bá Đương cười lớn:

- Thế thì hòa cả làng rồi. Đơn nhị ca thay Lý hiền đệ đem cô dâu mới tới đây. Còn Lý hiền đệ thì lại giúp Đơn nhị ca hộ tống gia quyến lên đây. Thế là sòng phẳng.

Hùng Tín nghe kinh ngạc hỏi:

- Vì sao chuyết thê lại đến đây?

Bá Đương đáp:

- Cả gia quyến đều đang ở trại sau, xin nhị ca cứ lại hỏi sẽ biết rõ ngay.

Bá Đương liền dẫn Hùng Tín cùng đi, Huyền Thúy cũng vội chạy ra đón gia quyến Vương ông vào trại chào hỏi. Địch Nhượng sai tay chân, mổ lợn thui dê, vừa là làm lễ cưới cho Huyền Thúy, hai là mừng đón Hùng Tín.

Chính là:

Người được điều mừng, tình dễ đậm

Cười mà có bạn, giọng thêm rôm.

hết: Hồi Thứ Bốn Mươi Hai, xem tiếp: Hồi Thứ Bốn Mươi Ba

Đánh máy: bevang

Nguồn: bevang - VNthuquan - Thư viện Online

Được bạn: Ct.Ly đưa lên

vào ngày: 16 tháng 2 năm 2010

Hồi Thứ Bốn Mươi Ba

Liên Cự Chân bày mưu lừa Giả Liễu,

Trương Tu Đà dâng sớ cứu Tần Quỳnh.

Từ rằng:

Vận nước đang nghiêng ngửa

Trời khiến anh hùng tháo gỡ

Nhiệt tâm dường bỡ ngỡ

Khăn đẫm mồ hôi

Áo hoen máu đỏ

Bạn bè mái tóc pha sương

Cùng lo chống đỡ sửa sang mối giường

Gian hùng chật ngõ đầy đường

Ghét ghen nham hiểm, trăm phương bạo tàn .

Trương Lộc sang Tần(1)

Ngũ Viên bỏ Sở (2)

Điện các sạch bóng yêu ma

Ruộng vườn xanh tốt, cỏ hoa tươi màu.

Theo điệu "Phẩm lệnh"

1 Trương Lộc: Phạm Tuy thời Xuân Thu, giúp việc cho Tu Giả ở nước Ngụy, bị Tu Giả làm nhục đuổi đi, Phạm Tuy đổi tên là Trương Lộc bỏ sang Tần, làm đến chức tướng quốc nước Tần, là một nước lớn nhất lúc ấy... (Sử Ký).

2 Ngũ Viên: xem chú thích hồi thử chín, hồi ba mươi sáu.

Chuyện oan cừu thế gian, nếu gặp được sự đại lượng của người quân tử, hoặc tấm lòng của bậc hào kiệt, thù hằn thanh toán, ân oán rõ ràng, chỉ cần một lời. Nhưng nếu ở kẻ tiểu nhân, thì dẫu trăm lời nghìn lẽ, cách này phương khác, hiềm khích vẫn còn. Trừ khi vàng nhiều bạc lớn, sắc đẹp khuynh quốc, may ra yên được ngoài mặt, bởi vậy Vũ Văn Thuật chẳng bao giờ nghĩ trách con mình dâm ô ác độc, mà chỉ ghi xương khắc cốt mối thù với Tần Thúc Bảo.

***

Nay hãy kể tiếp chuyện Đơn Hùng Tín, về hậu trại cùng chị dâu, vợ con gặp gỡ. Thôi Thị đem những chuyện vừa qua, kể lại tĩ mĩ, Hùng Tín thấy cả gia quyến đều có mặt ở Ngõa Cương yên ổn, nên cũng chẳng biết nói gì hơn, liền tìm Lý Huyền Thúy nói:

- Hiền huynh thi hành tuyệt kế, thật là hay, là giỏi, nhưng chỉ có điều khiến cho Hùng Tín này chẳng còn nhà nữa mà về thôi!

Từ Mậu Công nói:

- Đơn nhị ca chẳng cần phải nói diều ấy làm gì. Đã lo việc thiên hạ thì phải quên việc nhà thôi. Giờ nhị ca còn nói đến gia quyến của mình, mai kia có cả nhà lớn, thì làm sao lại nói là không nhà được?

Tiệc rượu đã dọn xong đâu đấy. Địch Nhượng nâng chén mời Hùng Tín ngồi ghế chủ trì, Hùng Tín đáp lời:

- Địch dại huynh nói sai rồi. Nay Hùng Tín này đã tới đây cùng các vị cùng là người một nhà cả rồi, thì phải tuân theo trật tự tôn ty vốn đã sẵn của trại, để khỏi phải bàn luận lôi thôi. Hùng Tín này dẫu là một lão già quê mùa đi nữa, nhưng cũng ít nhiều hiểu biết văn lễ đấy chứ!

Địch Nhượng lên tiếng tiếp:

- Sao Đơn nhị ca lại nói thế. Nay anh em đây may nhị ca không bỏ, đến cùng tụ nghĩa, ở nơi "Chấn Nghĩa hảo đường" này, nhị ca chủ trì là xứng đáng lắm. Ghế thứ hai, xin mời Lý Huyền Thúy đại huynh.

Huyền Thúy cười lớn:

- Đại huynh nói điều này hơi lạ đấy. Tại sao lại xếp như thế?

Địch Nhượng đáp:

- Xin các vị nghe tiểu đệ nói đây. Hôm nay là ngày tốt, chúng ta làm lễ cưới cho Lý đại huynh, đây chính là tiệc mừng, cho nên Lý đại huynh lẽ nên ngồi ghế thứ hai.

Quốc Viễn cũng góp vào:

- Địch đại huynh nói rất đúng. Hôm nay là tiệc mừng Lý đại huynh, tiệc gặp gỡ của Đơn viên ngoại, xin hai vị đừng chối từ nữa.

Mậu Công cũng nói:

- Cũng chẳng nên nói thế. Nếu đã là tiệc mừng Lý đại huynh, thì nên mời Vương lão trượng ra ngồi ghế chủ trì là hợp hơn cả.

Địch Nhượng nghe ra, bèn nói:

- Từ đại huynh nói đúng lắm, tiểu đệ vốn quê mùa, thật thiếu sót.

Rồi sai thủ hạ vào hậu trại mời Vương ông cùng Đương Nhân.

Vương ông cùng Đương Nhân ra. Địch Nhượng nâng chén mời Vương ông ngồi vào ghế chủ trì, Vương ông ba bốn lần chối từ không được, đành ngồi vào ghế thứ nhất. Ghế thứ hai định mời Đương Nhân, nhưng Bá Đương cất tiếng:

- Như thế không được. Vương lão trượng ngồi trên, sao Đương Nhân lại có thể ngồi kề được. Lại thêm Đương Nhân vốn lên đây tụ nghĩa với chúng ta, sao lại có thể vượt lên ngồi trên các vị cho được!

Mậu Công lên tiếng hỏi:

- Tiểu đệ xin có ý như thế này, các vị nghe xem có được hay không?

Mọi người đồng thanh:

- Từ đại huynh phân xử, đều rất hợp lý, xin cứ nói ngay cho.

Mậu Công nói:

- Vừa rồi Bá Đương đại huynh có nói, hiền huynh Đương Nhân không thể vượt lên cũng đúng. Nay anh em chúng ta tụ tập ở đây, đều để giương cao việc nghĩa khí. Nhưng muốn làm được việc lớn này, thì lại không thể nói đến chuyện ai khách ai chủ cho được, mà trước tiên cần phải định rõ thứ tự tôn ty, để rồi từ nay về sau còn ra lệnh, nghe lệnh, đâu ra đấy, nào phải là cuộc tiệc rượu bình thường, ai muốn ngồi đâu thì ngồi.

Nghe nói thế, mọi người đều đồng thanh:

- Nói đúng lắm!

Mậu Công tiếp:

- Cứ như ngu kiến của tiểu đệ. Ghế thứ hai nên là Địch đại huynh. Tại sao lại như thế. Địch đại huynh vốn là chủ trại, anh em chúng ta phần lớn đều do Địch đại huynh mời lên đây, chằng ai là không phải nghe theo sự điều khiển của Địch đại huynh, cho nên ngồi ghế thứ hai là hợp lý rồi. Ghế thứ ba thì xin mời Lý đại huynh.

Huyền Thúy vội thưa:

- Có mặt Đơn nhị ca ở đây, tiểu đệ đâu dám ngồi lên trước.

Mậu Công đáp:

- Địch đại huynh ghế chánh, Lý đại huynh ghế phó, diều đó thì chẳng nên thay đổi nữa, ghế thứ tư sẽ là Đơn nhị ca.

Hùng Tín nói:

- Xin cho Hùng Tín này nói một lời. Người khác thì không hiểu hết được tài trí của Từ hiền huynh, Hùng Tín này đi lại thân thiết, nên hiểu rất rõ. Đặt Địch hiền huynh cùng Lý hiền huynh trông coi mọi việc là đúng rồi. Nhưng cai quản công việc trong trại chu đáo, cẩn thận, thì phải trông cậy vào tài tính toán, trù liệu của Từ hiền huynh. Việc tùy cơ ứng biến, trù hoạch cơ mưu, không thể thoát tay Từ hiền huynh được đâu. Hùng Tín này mà ngồi trên thì thực không xứng, nên xin cáo thoái, tìm nơi thiên nhai hải giác nào đó mà lập nghiệp thôi.

Bá Đương lên tiếng:

- Mậu Công hiền huynh, Đơn nhị ca vốn rất thẳng tính, đã nói như thế, hiền huynh cũng chẳng cần phải quá khiêm nhường, mà nghe theo lời nhị ca là hay hơn cả.

Mậu Công không còn cách nào, đành lên ngồi ghế thứ tư, ghế thứ năm là Hùng Tín, ghế thứ sáu là Bá Đương, ghế thứ bảy là Nguyên Chân, ghế thứ tám là Như Khuê, ghế thứ chín là Quốc Viễn, Đương Nhân ngồi ghế thứ mười. Trừ Vương ông ra, thế là còn chín đầu lĩnh. Yên vị rồi, pháo lớn nổ hàng loạt, nâng chén say sưa. Hùng Tín hỏi Mậu Công:

- Trong trại hiện nay binh mã được bao nhiêu, lương thực nhiều

Mậu Công đáp:

- Binh mã chỉ khoảng bảy tám nghìn, nhưng không đáng lo ít, chỉ cần chiếm được nơi nào đó, thì lập tức sẽ có rất nhiều người ngựa theo ngay, lương thực thì theo đất mà lấy. Nhưng chỉ vì anh em ta còn ít, chưa thể phá được các quận huyện, mà vẫn còn phải cố thủ một nơi, nếu chiếm giữ quận huyện cần phải có nhiều tay hào kiệt cự địch. Nay mới chín mười anh em đây, thật vẫn chưa đủ. Cho nên mấy hôm trước đây, tiểu đệ đã nhờ Liên Cự Chân, đến Đoái Châu phủ, tìm mời hai hào kiệt họ Vưu, họ Trình ở Vũ Nam trang, khoảng mai mốt cũng sẽ về thôi.

Thì ra Cự Chân cũng phạm tội buôn muối lậu, sợ bị bắt nên cũng tìm đến Ngõa Cương với Địch Nhượng từ trước.

Bỗng thấy tiểu hiệu vào thưa:

- Liên đầu lĩnh đã về!

Địch Nhượng nói:

- Mau mời vào trong này.

Cự Chân vào, cùng mọi người hỏi chào, rồi ngồi vào ghế sau Bá Đương. Mậu Công hỏi:

- Liên hiền đệ! Hai vị Vưu, Trình có bằng lòng không?

Cự Chân đáp:

- Tiểu đệ đến Vũ Nam trang, trước tiên tìm bái yết Vưu viên ngoại, thấy cửa đóng mấy lần, chẳng một bóng người. Hỏi láng giềng, mới biết vì việc ở rừng Trường Diệp, có vẻ khó giữ yên, quan lại sở tại đòi viên ngoại phải chi năm nghìn lạng, cho nên viên ngoại cùng với gia quyến bỏ trốn sang huyện Đông A. Tiểu đệ lại vội sang Đông A, tìm Trình Giảo Kim, thì Giảo Kim cùng Vưu viên ngoại chiếm hang Đậu Tử ở Thất Lý cương làm sào huyệt, Tiểu đệ lại tìm đến cùng hai người chuyện trò trọng tại, đem thư của Địch đại huynh cho hai vị xem, Giảo Kim hỏi: "Đơn viên ngoại đã lên tụ nghĩa chưa?". Tiểu đệ trả lời là Địch đại huynh cũng đã viết thư mời Đơn viên ngoại, nhưng viên ngoại còn bận hộ tống con gái Đậu Kiến Đức về Nhiêu Dương, lúc trở về sẽ đến Ngõa Cương ngay. Vưu viên ngoại bèn nói: "Chuyện này sợ chưa chắc đã nên. Đậu Kiến Đức cũng đang thiếu bạn bè giúp đỡ, đời nào chịu để Đơn viên ngoại về Ngõa Cương!".Giảo Kim lại hỏi đã đi mời Tần Thúc Bảo chưa. Tiểu đệ đáp, bao giờ Đơn viên ngoại tới, thì lẽ đương nhiên là sẽ đi mời Thúc Bảo, Vưu viên ngoại liền nói: "Thúc Bảo đại huynh hiện cùng Trương Thông Thủ đem sức tài phò tá triều Tùy, chẳng chịu lên Ngõa Cương để làm cường đạo đâu . Giảo Kim liền tiếp: "Nếu Đơn viên ngoại cùng Thúc Báo đại huynh đều không có ở Ngõa Cương, thì chúng ta lên đó làm gì?". Rồi Vưu viên ngoại viết thư phúc đáp. Tiểu đệ tức tốc trở về.

Cự Chân lấy thư đưa cho Mậu Công, Mậu Công xem xong rồi nói:

- Không tới cũng xong! Ta sẽ tìm cách khác vậy.

Cự Chân tiếp:

- Tuy không đưa được hai vị họ Vưu, họ Trình về, nhưng trên đường đi, tiểu đệ nghe được một tin, xin nói để các vị nghe.

Ai nấy đều hỏi:

- Tin gì thế, nói ngay xem nào?

Cự Chân đáp:

- Trước hôm về, tiểu đệ vào trọ một đêm ở hàng cơm thôn Hạnh Hoa, thấy một viên quan cùng hai gã công sai đã vào quán từ trước. Một gã công sai, nghe giọng nói như cùng quê với tiểu đệ, vì vậy ngồi trò chuyện hỏi đi đâu. Nó trả lời ở Đông Kinh đến, hiện đang về Tế Dương để bắt người. Tiểu đệ bèn để ý. Đêm đó mua rượu thịt cùng hai gã chén chú chén anh. Hai gã rượu vào rồi, mới thực kể:

"Vụ án Dương Huyền Cảm, có bốn trọng phạm trốn thoát, một người họ Lý, một người họ Bính, một họ Vi, một họ Dương. Hai ngươi họ Lý, họ Bính không biết đi đường nào, còn hai người họ Vi, họ Dương thì mới bị bắt lại hôm trước. Hình quan tra tấn, liền xưng ra có một người là Bá Đương quê ở Vương Gia tập, thuộc Tế Dương dùng thuốc mê bỏ vào rượu để lừa công sai ở quán rượu Trần gia ở thôn Bạch Tửu, để cứu thoát cả bốn tên trọng phạm. Vì vậy mới sai hai chúng tôi theo quan nhân đây đến Vương Gia tập Tế Dương, lệnh cho quan nha sở tại, bắt kỳ được Bá Đương. Thực chính vì chuyện này, mà tiểu đệ phải ngày đêm về trại ngay.

Mậu Công hỏi Bá Đương:

- Gia quyến của Vương hiền huynh hiện có ở quê không?

Bá Đương đáp:

- Dạo tiểu đệ ở nhà ra đi, thì tiện nội ở nhà người em vợ họ Bùi, giờ không biết đã quay về nhà chưa. Tối nay, tiểu đệ sẽ xin về xem sao.

Mậu Công nói:

- Không cần hiền huynh phải đi.

Rồi nói với Cự Chân:

- Hiền huynh hãy vì anh em, phải chịu khó nhọc một phen nữa thôi. Chờ Vương hiền huynh viết cho gia quyến một lá thư, xin luôn một vài chữ của Đơn viên ngoại nữa, cùng Đương Nhân, Quốc Viễn hai người, giả đóng làm người bán hàng tạp hóa, về cửa Tây thành Tế Châu, tìm đến cửa hàng yên cương ngựa của Giả Nhuận Phủ nghỉ ngơi, nhờ Nhuận Phủ tùy cơ ứng biến, để đưa được gia quyến Bá Đương lên Ngõa Cương. Nếu hiền huynh thuyết phục được Nhuận Phủ cùng lên tụ nghĩa thì càng hay, con người như Nhuận Phủ cũng không phải dễ kiếm đâu. Địch đại huynh, Đơn viên ngoại cùng Nguyên Chân lĩnh ba nghìn quân, đến Lộ Châu vào phủ đường vay một ít lương thực, xem lại nhà cửa ở Nhị Hiền trang ra sao, cũng là để trị cho bọn quan nha tham lam, gian ác một chuyến. Tiểu đệ sẽ cùng Bá Đương, Như Khuê lĩnh binh theo sau tiếp ứng.

Huyền Thúy hỏi:

- Còn tiểu đệ?

Mậu Công cười đáp:

- Đại huynh tuy không phải là phường hiếu sắc như Lã Phụng Tiên (1), nhưng đêm nay là đêm hợp cẩn, chỉ còn đại huynh thay Địch đại huynh coi giữ trang trại, rồi về sau mới dám phiền đến đại huynh.

1 Tức Lã Bố, một võ tướng nổi tiếng thời Hán, nhưng hám tài, hám sắc. Bị Vương Doãn dùng Điêu Thuyền, khiến Lã Bố giết bố nuôi là Đổng trác, để được Điêu Thuyền ... (Tam Quốc diễn nghĩa)

Mọi người đều đứng lên lo sắp xếp công việc, sáng hôm sau, Cự Chân cùng Đương Nhân, Quốc Viễn canh năm đã lên đường, theo đường tắt, chẳng mấy ngày, đã tới cửa Tây thành Tế Châu.

* * *

Lâu nay Nhuận Phủ cũng vì thời cuộc nhiễu nhương, cũng chẳng mở hàng buôn bán. Cự Chân gõ cửa, Nhuận Phủ đỡ hành lý đón vào nhà, cùng ba người chào hỏi xong xuôi. Cự Chân giở thư của Hùng Tín ra, đưa cho Nhuận Phủ xem, Nhuận Phủ mới dẫn vào gian phòng kín phía trong, mời ngồi đâu đó, lấy trà nước cùng uống, Nhuận Phủ mới hỏi Cự Chân:

- Hiền huynh có biết đường tắt về Vương Gia tập ở Tế Dương chăng?

Cự Chân đáp:

- Đường tắt này thì tiểu đệ đã từng di, nhưng chưa từng đến nhà Bá Đương bao giờ cả. Tuy đã có thư, nhưng sợ gia quyến Bá Đương vẫn lưỡng lự, nên phải cần cả Giả Liễu hiền huynh cùng đi cho, thì mới yên ổn. Nhưng chẳng biết bọn công sai đến lúc nào, cho nên phải nhanh chóng lên đường ngay, thì mới khỏi lỡ mọi chuyện.

Nhuận Phủ nói:

- Cũng không cần vội vàng. Nếu đi đường lớn mất ba ngày. Nếu đi theo đường Điệp Tử cương, xuyên qua Tà Mai lĩnh, qua bãi Tiểu Hà, thì chỉ mất một ngày, đã đến Vương Gia tập rồi.

Vừa nói vừa sai dọn cơm rượu. Nhuận Phủ hỏi anh em trên trại có những ai, người ngựa nhiều ít. Ba người kể lại tỉ mỉ. Cự Chân cũng hỏi:

- Hiền huynh nay không mở cửa hàng nữa, ngày tháng rỗi rãi, sợ tiêu ma cả tráng khí của bậc trượng phu chăng?

Nhuận Phủ thở dài:

- Làm gì có chuyện thanh nhàn tự tại, thôi thì chuyện củi đuốc, chuyện cơm gạo cho từng ấy miệng ăn, lấy đâu ra cho đủ bây giờ. Vừa rồi Tấn đại huynh viết thư về, cũng có nói tới chuyện ra giúp đỡ đần Tần đại huynh ít nhiều, vừa là nêu danh phận cho mình. Nhưng tiểu đệ nghĩ có đến hai ba chục nơi nổi dậy như hiện nay, làm thế nào mà dẹp cho hết. Mà dẫu có làm nên chuyện gì, thì nhà vua hôn ám đến thế, bọn gian thần cầm quyền, có công cũng chẳng được thưởng, có vinh cũng chẳng được hường đâu. Cứ xem như lão tướng họ Dương, thì đáng là tấm gương cho người đời sau vậy thôi!

Cự Chân xác nhận:

- Đúng lắm!

Đương Nhân tiếp:

- Sao đại huynh không đến quách chỗ chúng tôi, mai kia Địch đại ca, Lý đại ca khởi sự, thì sẽ hơn hẳn mọi nơi ngay.

Nhuận Phủ đáp:

- Địch đại ca thì chưa biết như thế nào. Còn Lý đại ca thì đúng là người biết tiếng, lại nhún mình thờ kẻ sĩ, sự nghiệp sau này, nhất định khác người. Tiểu đệ muốn chờ đợi ít lâu, xem xét kỹ càng rồi cũng sẽ lên với anh em thôi.

Cự Chân hỏi:

- Ngày mai lúc nào thì đi Vương Gia tập?

Nhuận Phủ đáp:

- Canh năm thì vừa!

Rồi tất cả dọn dẹp đi nằm.

Canh năm, cả bốn người dậy, ăn uống xong xuôi, lên đường đi Tế Dương. Đến ngày thứ ba, chiều tối đã tới Vương Gia tập. Nơi đây vốn là một phố nhỏ, khoảng gần ba chục nóc nhà. Nhuận Phủ cùng các bạn tìm gặp ngay người em vợ họ Bùi, họ Bùi vốn là tay anh chị, võ vẽ vài đường thương bổng. Cự Chân đưa thư của Bá Đương ra cho họ Bùi, nhờ cầm sang cho chị. Cũng may nhà Bá Đương không có người già, không trẻ nhỏ, chỉ có vợ con Bá Đương, cùng hai vợ chồng người đầy tớ. Bùi Tự Phượng cũng tình nguyện đưa chị, cháu đi. Cơm rượu dọn ra, giục chị xếp đặt hành trang, thuê một chiếc xe nhỏ cho hai người đàn bà ngồi, rồi lặng lẽ đóng chặt cửa nhà, lên đường.

Nhuận Phủ nói với Cự Chân:

- Tiểu đệ không thể đi được, các vị lên đường cẩn thận!

Mọi người nhằm hướng tây mà đi, riêng Nhuận Phủ đi về hướng đông.

Cự Chân mới đi được một đoạn, nói với Đương Nhân:

- Tiểu đệ quên một cái này rồi, các vị cứ đi trước, tiểu đệ sẽ đuổi kịp.

Nói rồi đi mau về hướng đông, ai nấy đều lấy làm nghi ngờ, thì lại đã thấy Cự Chân quay lại. Quốc Viễn hỏi:

- Hiền huynh quên cái gì thế?

Cự Chân cười:

- Tiểu đệ chẳng quên cái gì cả, tiểu đệ quay lại nhà Bá Đương, cứ làm thế này... thế này... chư huynh bảo có hay không?

Đương Nhân đáp:

- Hay thì có hay. Nhưng cũng phải có một người, đi theo Nhuận Phủ mà giúp một tay, thì mới xong việc.

Cự Chân nói:

- Chưa cần vội đến phía trước, có chỗ nào tốt, gửi tạm gia quyến Vương hiền huynh, chúng ta sẽ đi xem sao.

Chính là:

Đùng lo tung tích khó dò

Cánh bèo dạt, lại có cơ trùng phùng

* * *

Lại nói Vũ Văn Thuật, vì bị mất chức quan, bèn cầu cứu Hà Điều Vũ làm một chiếc xe "Như ý", lắp tới ba mươi sáu bức bình phong bằng đồng đem dâng lên Dượng Đế. Giữa lúc Dượng Đế vừa cho xây xong lầu ngắm trăng "Mê lâu nguyệt quan", nên rất vừa ý, lập tức Thuật lại được phục hồi nguyên chức. Vi Phúc Tự cùng Dương Tích Đức rơi vào tay Thuật. Thuật liền lệnh dùng cực hình tra tấn, phải khai ra Vương Bá Đương ở Vương Gia tập, Tế Dương liền sai quan đem công văn tới Tế Quận, cho Trương Thông thủ lệnh đi bắt.

Hôm ấy, Trương Thông thủ đang làm việc trên công đường, thấy môn lại vào thưa:

- Có công văn của Viện cơ mật Đông Kinh, sai quan mang đến.

Sai quan tiến lên công đường, cùng Trương Thông thủ chào hỏi, đưa công văn. Thông thủ mở ra xem, sai quan nói:

- Việc này là việc của Viện cơ mật, xin lưu ý đại nhân bắt ngay cho.

Thông thủ đáp:

- Ta biết rồi!

Rồi quay sang hỏi môn lại:

- Từ đây đi Vương Gia tập đường xa gần ra sao?

Môn lại thưa:

- Hơn hai trăm dậm!

Thông thủ sai phái tay chân, điểm ba trăm quân, đem theo bốn năm ngày lương thực, lập tức lên đường. Vốn công đường của Trương Thông thủ cách phủ Ung Dương của Thúc Bảo không xa. Thúc Bảo đang cùng Sĩ Tín chuyện trò, thì nghe có sai quan ở Đông Kinh tới, đem theo lệnh bắt người ở Vương Gia tập, Thúc Bảo kinh sợ nghĩ thầm: "Vương Bá Đương vốn quê ở Vương Gia tập, chẳng lẽ chuyện của Bá Đương ở Bạch Tửu thôn phát giác rồi sau?". Đang lo nghĩ vẩn vơ thì thấy bên ngoài có lính canh vào báo bạn cũ họ Liên đến thăm.

Thúc Bảo chạy ngay ra đón, thì ra là Cự Chân, chào hỏi xong, kéo Cự Chân vào thư phòng phía sau, hỏi ngay:

- Lâu nay hiền đệ đi biệt những đâu. Đã được tha chưa, sao lại tới đây có việc gì?

Cự Chân lặng lẽ đáp:

- Tiểu đệ đã về Ngõa Cương với Địch Nhượng lâu nay. Nghe theo lệnh của Đơn viên ngoại, mang thư gửi Nhuận Phủ, nhờ Nhuận Phủ đem gia quyến Bá Đương lên sơn trại. Nay quan sai sẽ về tìm bắt phạm nhân, nhưng làm sao tìm ra ai nữa. Chỉ sợ có kẻ nào lỡ mồm lỡ miệng, Trương Thông thủ trở về, tìm đến Nhuận Phủ, vì vậy tiểu đệ phải đến đây báo tin. Đại huynh nghĩ lại tình thân lâu nay giữa bạn bè, tức tốc sai người báo tin này cho Nhuận Phủ, khuyên Nhuận Phủ phải trốn ngay, làm được thế, tiểu đệ phải đi Lộ Châu có việc khác.

Thúc Bảo hỏi kỹ chuyện anh em trên trại. Cự Chân trả lời đâu đó, rồi đứng dậy cáo từ. Thúc Bảo lưu lại không ở, liền đưa ra cửa, rồi quay vào bàn bạc với Sĩ Tín, bảo Sĩ Tín cưỡi ngựa ngay vào thành, báo cho Nhuận Phủ biết.

Sĩ Tín vốn biết cửa hàng yên cương của họ Giả, nhưng lại chưa biết mặt, xuống ngựa trước cửa rồi, Sĩ Tín vào gõ cửa. Thấy Sĩ Tín, Nhuận Phủ kinh ngạc. Sĩ Tín vội hỏi:

- Đại huynh có phải Giả Nhuận Phủ chăng?

Nhuận Phủ đáp:

- Đúng vậy!

Nhuận Phủ nhận ra Sĩ Tín, liền hỏi:

- La hiền huynh tới đây, có điều gì mách bảo?

Sĩ Tín kéo Nhuận Phủ ra phía sau, rồi ghé tai nói nhỏ:

- Đại huynh đem gia quyến tên phản nghịch Vương Bá Đương đi trốn, giờ mà quan Thông thủ trở về, thế nào cũng sẽ đến bắt đại huynh. Đại huynh phải trốn cho mau.

Nói xong ra cửa lên ngựa phóng như bay. Nhuận Phủ đóng chặt cửa nghĩ ngợi: "Đêm ấy ở Vương Gia tập ra đi, đến ma quỷ cũng chẳng biết, thì ai là người tiết lộ mọi chuyện cho được. Việc Sĩ Tín đến đây báo tin, nhất định là do Tần đại huynh sai đi, rõ ràng là xác thực rối. Nay mà không lo chạy, còn chờ đến bao giờ. Thôi thì tất cả cơ ngơi này cũng đành bỏ vậy, chỉ còn mỗi một con người, đành phải đi ngay thôi?" Vội nói với vợ, thu thập tế nhuyễn, sai hai người làm công cho năm sáu con ngựa trong tàu ăn thật no rồi dắt ra, đàn ông, đàn bà, cùng kéo nhau lên Ngõa Cương.

Đi đến địa đầu Tế Châu, có hai đường đều về Ngõa Cương, một đường lớn, một đường nhỏ, Nhuận Phủ tính toán: "Theo đường lớn, dễ gặp quan quân đuổi bắt. Theo đường nhỏ, thì sợ gặp cướp núi". Đang trù trừ, thì thấy ở gốc cây lớn bên đường, trên một tảng đá, hai người đàn ông khỏe mạnh nằm ngủ. Bỗng thấy một người vùng dậy, la lớn:

- Hay lắm! Tới rồi!

Nhuận Phủ ngồi trên yên ngựa, hoảng hồn, chăm chú, nhìn kỹ, nhận ra Quốc Viễn, vội nói:

- Các vị kéo tới đây để định đưa Nhuận Phủ này vào cũi lớn chăng?

Đương Nhân gạt đi:

- Thôi không nói chuyện linh tinh nữa, gia quyến Bá Đương đều ở quán rượu phía trước, nhanh lên chúng ta hợp thành một đoàn cùng đi cho tiện.

Quán rượu phía trước, vốn của một đầu mục Ngõa Cương trông coi, tên họ Triệu Đại Bàng, mở quán rượu này, để làm tai mắt xem xét người qua lại cho sơn trại. Nhuận phủ nghe thấy thế, mừng rỡ giục mọi người đi nhanh, theo Đương Nhân đến quán rượu Đại Bàng, cùng đi với gia quyến Bá Đương về Ngõa Cương. Đúng như lời:

Đời loạn dân không chúa

Ải xa khách nặng sầu.

***

Lại nói Trương Thông thủ đem lính tráng cùng sai quan tới Vương gia tập bắt gia quyến Vương Bá Đương, đi suốt ba ngày, đến tận nơi xem xét, thì thấy cửa lớn đóng chặt, sai tay chân phá vào lục lọi thì chỉ còn một ít đồ đạc nhà bếp, chẳng một bóng người. Tra hỏi bốn bên láng giềng, đều khai là canh năm đêm trước đã ra đi. Trương Thông Thủ liền phát niêm phong, sai nha lại tới đóng chặt cửa nhà Bá Đương, dán niêm phong cẩn thận, bắt bốn bên láng giềng về phủ đường, dùng cực hình tra tấn. Trong số này có một người họ Triệu thưa:

- Đêm ấy, lúc tiểu nhân mở cửa đi giải, nghe ngoài cửa có tiếng người nói: "Giả Nhuận Phủ, hiền huynh về nhé. Chúng tôi đi đây!". Vợ con Bá Đương đi về thường xuyên, nên tiểu nhân đâu biết được đó là lũ tội phạm.

Trương Thông thủ hỏi nha lại, có biết ai là Giả Nhuận Phủ, tất cả đều chối không biết, chỉ có một người thưa:

- Ở cửa Tây, có người mở cửa hàng yên cương ngựa, tên là Giả Nhuận Phủ, chẳng biết có phải người này không?

Người họ Triệu vội thưa:

- Thế thì đúng rồi, tối hôm ấy, tiểu nhân nghe ra là về cửa Tây nữa kia!

Trương Thông thủ vội dẫn lính đi bắt, thì thấy viên lại trực ngoài cổng đường vào thưa:

- Lưu Vũ Chu cùng Tống Kim Cương dẫn mấy nghìn lâu la, kéo qua gò Bác Vọng vào huyện Bình Nguyên, xin đại nhân đem quân cùng tiễu trừ bọn này.

Trương Thông thủ cho người mời Thúc Bảo đến. Chẳng mấy chốc đã thấy Thúc Bảo vào chào. Trương Thông thủ đem văn thư của Viện cơ mật, kể lại lời khai của họ Triệu, rồi nói:

- Ta phải ra quân ngay để cùng diệt bọn Lưu Vũ Chu, phiền Tần tướng quân đi bắt ngay Giả Nhuận Phủ, đem về tra khảo thật sự vào thì sẽ biết ngay họ Vương hiện đang ở đâu.

Thúc Bảo trong lòng nghĩ ngợi: "Nhuận Phủ thì ta đã sai Sĩ Tín báo cho biết tin, tất nhiên là đã chạy thoát rồi. Nhưng nếu còn ở nhà, thì làm thế nào bây giờ". Liền thưa với Trương Thông Thủ:

- Bọn giặc kéo tới cướp phá sở tại, xin để hạ quan dẫn binh tiễu trừ. Còn việc này là việc trọng đại, đại nhân nên thân hành trông coi thì hơn!

Trương Thông Thủ đáp:

- Tướng quân không nên từ chối, hãy đi ngay kẻo lại lỡ việc?

Thúc Bảo không còn cách nào, đành lên ngựa, cùng mấy tên gia đinh và bọn sai quan, rầm rộ kéo đến cửa hàng họ Giả, thấy cửa đã đóng chặt, sai người phá cửa vào, trong nhà tịnh không bóng người. Tra hỏi hàng xóm, họ đều khai rằng:

- Cửa nhà đã đóng từ ngày hôm trước, nhưng chẳng rõ người thì đi từ bao giờ.

Sai quan bèn thưa:

- Giả Nhuận Phủ đem cả nhà đi trốn, thế thì nhất định là cùng một bọn với Bá Đương rồi. Nhưng rõ ràng chạy chưa xa được, xin Tần tướng quân mau đuổi theo bắt ngay cho.

Thúc Bảo đáp:

- Ta biết đường nào mà đuổi bây giờ, hơn nữa; ta còn phải đi tiễu trừ bọn giặc cỏ với Trương Thông Thủ nữa kia.

Nói rồi lên ngựa đi mất, sai quan chẳng còn cách nào khác chỉ còn cách về trướng Trương Thông Thủ xin văn thư, trở về Đông Kinh.

Vũ Văn Thuật xem văn thư, đến đoạn hàng xóm khai ra tên Giả Nhuận Phủ, sai quan lại trình rõ chuyện cùng Thúc Bảo đi bắt Nhuận Phủ ra sao, lập tức Vũ Văn Thuật nghĩ đến thù xưa, liền nói với Hóa Cập:

- Tần Quỳnh hiện vẫn còn ở đây. Dạo ấy ta chưa hại được nó, cũng bởi Lai Hoạch Nhi quấy rối. Nay hãy làm đủ giấy tờ, ghép vào cùng một bè đảng với Dương Huyền Cảm. Rồi thương lượng với Vi Phúc Từ bảo y khai tội cho Tần Quỳnh, đi lại với bọn Bá Đương, Huyền Thúy, nay lại vẫn còn núp dưới chức quan ở Sơn Đông để mưu tiếp điều phản nghịch. Một mặt lại làm công văn, cho người đem đi giao tận tay Trương Tu Đà, lệnh cho bắt Tần Quỳnh giải về kinh, thì thù kia đã báo xong.

Hóa Cập thưa:

- Kế của cha tuy hay thật, nhưng Trương Tu Đà vừa dũng vừa mưu, Tần Quỳnh hung hãn khác thường. Lỡ may mà không bắt được nó, nó sẽ bỏ ngay theo bọn cường đạo, hay một mình đứng ra khởi sự, thì họa không nhỏ. Chi bằng bắt giam gia quyến, giải từ Tế Châu về kinh, nó thấy người thân trong tay ta, nhất định không dám làm dữ, có như thế mới khỏi lo mọi chuyện.

Vũ Văn Thuật khen:

- Con bày mưu tính kế thật chu toàn.

Bàn luận xong xuôi, Vũ Văn Thuật làm đầy đủ mọi giấy tờ, vu cho Thúc Bảo cùng bè đảng với Huyền Thúy, rồi sai hai gia tướng, một tới Trương Thông thủ, một tới phủ đường Tế Châu, lệnh bắt kỳ được phạm nhân cùng gia quyến, không được chậm trễ. Lúc này Sĩ Tín thì ở Tế Quận phòng ngừa giặc cướp, còn Trương Tu Đà cùng Thúc Bảo vẫn còn ở Bình Nguyên để tiễu trừ giặc cướp. Nhưng cũng bởi binh thì ít, giặc thì nhiều, nên chúng bỏ chạy, rồi lại nhóm lại, tụ lại tan, bên này dấn lên thì bên kia rút về, chẳng thể nào trừ cho thật hết, cho nên cả ba đều lao đao vất vả.

Ở Bình Nguyên, hôm ấy Trương Thông thủ đang cho mời Thúc Bảo bàn chuyện chiêu tập dân lưu tán để tìm cách giữ đất, thì thấy một sai quan đến trình, có văn thư của Cơ mật viện bộ Binh. Trương Thông thủ mở ra, xem bỏ ngay vào bao đặt lên bàn. Sai quan thưa:

- Vũ Văn đại nhân có dặn hạ quan trước khi đi, nhắc tướng quân thi hành ngay cho, sợ phạm nhân có thì giờ trốn mất.

Trương Thông thủ đáp:

- Ta biết rồi, ngày mai sẽ có đủ giấy tờ để nhà ngươi về phúc trình.

Trương Thông Thủ về hậu dinh, dưới đèn viết một tờ trình, thanh minh cho Thúc Bảo, không hề có dính dáng gì đến bọn Huyền Thúy, không thể nào nghe theo tụi gian nịnh, hãm hại kẻ trung thần, rồi sai một thư lại tin cẩn sao lại, kèm theo với văn thư trả về Viện Cơ mật.

Hôm sau, đang lúc xếp đặt để sai quan về kinh, thì Thúc Bảo cũng di phủ dụ dân lưu tán trở về, vào giao lại cờ xí. Sai quan thấy Thúc Bảo về, vào giục thấy Trương Thông Thủ ngồi nói chuyện rất vui vẻ với Thúc Bảo. Thúc Bảo vừa đứng dậy, sai quan sợ Thúc Bảo đi mất, vội chạy vào thưa:

- Xin cho lĩnh giấy tờ về trình lại Viện Cơ mật!

Trương Thông Thủ đáp:

- Không việc gì phải vội vã!

Rồi sai thư lại đem giấy tờ giao lại. Thấy vậy, sai quan vội hỏi:

- Hạ quan được lệnh tới đây để bắt giải phạm nhân, xin tướng quân hãy cho trói ngay để kịp giải về kinh đô.

Trương Thông Thủ đáp:

- Mọi chuyện ta đã nói rõ trong văn thư, ngươi cứ việc cầm về trình là được rồi?

Sai quan thưa:

- Lúc ra đi Vũ Văn đại nhân có dặn cẩn thận, nếu chưa bắt được phạm nhân, thì chưa được trở về. Nay phạm nhân đang còn kia xin tướng quân ra lệnh bắt ngay cho, để hạ quan còn về trình lại.

Trương Thông Thủ to tiếng:

- Ngươi thật là một sai quan đa sự, ta đã nói rõ trong văn thư, ngươi cứ thế cầm về là tốt hơn cả !

Sai quan cũng là kẻ táo tợn, vẫn cứ khăng khăng:

- Có tướng công ở trên, việc này quan hệ đến sự phản loạn, hạ quan đã trình hết mọi nhẽ, không phải như những chuyện bình thường khác. Nếu không bắt phạm nhân, sợ rằng không chỉ tội ở hạ quan che chở cho đảng nghịch, mà còn liên lụy đến cả tướng công nữa kia?

Thúc Bảo thấy vậy, chẳng rõ chuyện gì, nhưng thấy sai quan có vẻ giận dữ, vội tới khuyên giải:

- Sứ quan, phản loạn ra sao, nếu đúng sự thực, thì xin sẵn sàng giúp sứ quan một tay.

Trương Thông thủ cười gạt đi:

- Chẳng có chuyện gì đâu!

Sai quan chẳng biết làm thế nào, cực chẳng đã, liền nói tuột:

- Được lệnh bắt phạm nhân là Tần Quỳnh, mà lại cùng Tần Quỳnh ngồi chuyện trò vui vẻ. Thế là dám chống lại nghiêm lệnh tróc nã trọng phạm.

Thúc Bảo nghe xong, vội lùi mấy bước, quay về phía Trương Thông Thủ hỏi gấp:

- Đại nhân! Tần Quỳnh có tội gì với triều đình, mà lại có lệnh bắt, nếu đúng như vậy, Tần Quỳnh này xin đi, không dám để liên lụy đến đại nhân.

Trương Thông Thủ vốn chỉ muốn tự mình yên lặng dàn xếp, không muốn cho Thúc Bảo biết, đến giờ thì không thể giữ kín nữa, đành nói:

- Hôm vừa rồi, binh Bộ gửi văn thư tới, nói có một trọng phạm thuộc bè đảng Dương Huyền Cảm bỏ trốn là Vi Phúc Tự, khai ra là tướng quân cùng Vương Bá Đương tìm cách đánh tháo, che giấu cho Lý Mật, cho nên sai bắt giải về Đông Kinh ngay. Viên sai quan này, ỷ thế Cơ mật viện, nên định lớn tiếng hạch sách vậy thôi?

Thúc Bảo thưa:

- Thật giả rồi sẽ rõ ràng, xin cứ giải Tần Quỳnh này về kinh, sẽ tự mình tìm cách minh oan. Rõ ràng là do không tìm bắt được Lý Mật nhân đem chuyện này khoác lên cổ Tần Quỳnh, nếu như Tần Quỳnh này không đi, chỉ sợ tội lỗi đại nhân lại phải gánh chịu vậy.

Thúc Bảo gọi gia đinh chuẩn bị hành lý, cởi bỏ y quan để về kinh. Trương Thông Thủ can:

- Tướng quân chẳng nên làm thế. Nay một dải Sơn Đông, Hà Bắc, đều dựa vào sức tướng quân với ta, nếu không có tướng quân, ta cũng chẳng đứng nổi một mình. Kẻ trượng phu ở đời, không chết thì thôi, chết cũng phải có ích gì cho giang sơn, làm nên sự nghiệp oanh liệt nêu danh sử sách. Đừng cố chấp tiểu tiết, chỉ vì bọn cai ngục hạ độc thủ, dựng chuyện để làm hại kẻ trung thần cho được?

Nói xong sai thư lại, đem tờ trình cho Thúc Bảo xem, rồi ngay trước mặt Thúc Bảo dán kín, niêm phong cẩn thận. Sai một kỳ bài quan bày hương án, bái lạy kính cẩn. Cấp lộ phí cho kỳ bài quan, lại thưởng cho sai quan mười lạng bạc. Sai quan thấy làm dữ cũng không xong, đành phải trở về không.

Thúc Bảo vái tạ ơn Trương Thông Thủ, họ Trương đáp:

- Tướng quân không phải tạ ơn, việc này chẳng qua ta làm là vì quốc gia, vì vùng này, chứ đâu phải chỉ vì tướng quân. Chỉ cần ta với tướng quân, cùng lòng cùng sức, trừ sạch lũ giặc cỏ, vỗ yên trăm họ, vì quốc gia mà gắng sức hết lòng là hơn cả.

Từ đó Thúc Bảo nặng ơn Trương Thông Thủ, một lòng gây dựng công nghiệp, một là để báo quốc, hai là để đền đáp tri kỷ. Nhưng không ngờ được rằng ở nhà lại xảy ra chuyện rắc rối khác.

Chính là:

Cũng bởi gian hùng trò hiểm độc

Cho nên trung nghĩa nổi phong ba.

hết: Hồi Thứ Bốn Mươi Ba, xem tiếp: Hồi Thứ Bốn Mươi Bốn

Đánh máy: bevang

Nguồn: bevang - VNthuquan - Thư viện Online

Được bạn: Ct.Ly đưa lên

vào ngày: 16 tháng 2 năm 2010

Hồi Thứ Bốn Mươi Bốn

Ninh phu nhân giữa đường thoát nạn,

La Sĩ Tín đêm tối báo thù.

Thơ rằng:

Trời già kia thật đấng tri tâm,

Thương tiếc anh hùng lại giận thầm

Ông chỉ sống thêm chừng ít nữa

Giặc sao dài được tám mươi năm (1)

Dung nhan rạng rỡ đài mây vẽ

Cát bụi miên man ánh nguyệt đầm

Sớm biết Phong Ba xương trắng gửi

Ngũ Hồ một lái nhẹ tay cầm. (2)

1 Nhà Nguyên tồn tại được tám mươi năm, thì đã bị Chu Nguyên Chương diệt, lập nên nhà Minh.

2 Nhạc Phi bị Tần Cối giết ở Phong Ba đình thuộc Hàng Châu, có Tây Hồ, Ngũ Hồ là nơi Phạm Lãi bỏ đi chu du, nên không bị Câu Tiễn giết như Văn Chủng thời Chiến Quốc.

Bài thơ trên đây là do Diệp Tĩnh Dật, người đời Nguyên làm, để diễn tả tấm lòng trung sáng chói của Nhạc Phi Trung Vũ Vương đời Tống, vì bị thừa tướng Tần Cối ganh ghét hãm hại. Tuy có Hàn Thế Trung, Hà Chú... hết lòng cứu giúp, nhưng cũng chẳng xong, vẫn phải chết, giặc Kim được thể ngang ngược, không người chống cự. Đời sau bao nhiêu kẻ tiếc thương, nếu lúc ấy có một bậc đại thần có thế lực đứng ra bênh vực kẻ anh hùng, chu toàn cho Nhạc Phi, thì giặc Kim có thể dẹp yên. Nếu có thể giảng hòa hiềm khích của thừa tướng với tướng quân, khiến cho bao công sức của cả hai bên đều dốc vào lo việc nhà vua, đừng có bức bách nhau đến cùng cực như thế. Bọn người này chẳng những không vì quốc gia mà dẹp loạn, mà lại chính là kẻ sinh loạn vậy.

***

Nay hãy nói tiếp chuyện Trương Tu Đà, được thăng thông thủ, cho nên chức Tế Châu quận thừa phần một người họ Chu, tên Chí, quê ở huyện Bình Dương thuộc Sơn Tây. Một hôm Chu Quận thừa đang ngồi trên công đường, thì có sai quan đem văn thư của bộ Binh tới, lệnh bắt cả gia quyến Tần Thúc Bảo, Chu Quận thừa liền phái mấy công sai, đem trát bắt người, đến tận Ủng Dương phủ, gặp La Sĩ Tín, trình giấy tờ. Sĩ Tín giận dữ:

- Đại huynh ta hết trận này đến trận khác mới được một chút công danh, sao lại có chuyện ghép tội phản nghịch bẩn thỉu thế này cho được. Ta không nghe đâu!

Công sai nói:

- Nếu ngài nói như thế, tiểu nhân sao dám kháng lệnh trên. Ngay cả đến Chu Quận thừa cũng không dám nói năng rõ ràng là văn thư của bộ Binh, chữ đề của Vũ Văn đại nhân hiện đây, tiểu nhân chỉ làm theo lệnh thôi, xin ngài nghĩ kỹ cho!

Sĩ Tín trừng mắt quát:

- Khôn hồn thì cút đi cho mau, còn nói lôi thôi thì ta băm nhỏ ra bây giờ!

Công sai thấy Sĩ Tín nổi giận, chỉ còn cách quay ra về trình lại với Chu Quận thừa, quận thừa cũng chẳng còn cách nào khác, đành lên kiệu, tìm đến Sĩ Tín. Sĩ Tín ra cửa vái chào, Quận thừa thấy ngay Sĩ Tín là bậc anh hùng tuổi trẻ, không chịu khuất ai, nên đành phải lên tiếng ra vẻ hối lỗi:

- Vừa rồi tiểu đệ cũng có điều không phải. Tần Đô úy tuy là quan võ, nhưng cũng cùng là quan lại triều đình với nhau, cũng phải nể mặt nhau ít nhiều. Nhưng đây lại là công văn của Binh Bộ, vâng theo thánh chỉ, để lùng bắt gian đảng nghịch tặc, chuyện thật quan thiết, sai quan luôn thúc giục, tiểu đệ lại ngu tối không nghĩ hết mọi điều nên phải tự thân tới để tạ lỗi.

Sĩ Tín nói:

- Hạ quan này với Tần Đô úy vốn là anh em khác họ, lúc ra đi, đô úy đã đem mẹ, vợ con phó thác cho hạ quan, sao hạ quan lại có thể để người ta lăng nhục đô úy cho được. Xin quận thừa hiểu cho điều này.

Chu Quận thừa đáp:

- Tiểu đệ đâu dám không hiểu chuyện đó, nhưng khó là ở chỗ bây giờ trả lời Viện Cơ mật ra sao?

Sĩ Tín nói:

- Chẳng có chuyện gì lớn, cũng chẳng có chuyện gì nhỏ, nếu quận thừa đứng ra đảm đương cho. Còn phải bắt ai, thì theo hạ quan hiểu, trước tiên lại phải bắt Tần Đô úy, chứ đâu có chuyện chưa bắt đương sự đã đi bắt gia quyến cho được?

Chu Quận thừa đáp:

- Tiểu đệ đến đây, cũng chỉ vì tình thân của bạn đồng liêu với nhau, mà nghĩ rằng chẳng gì hơn là hối lộ cho bọn sai quan này ít nhiều, rồi nói khó với chúng nó, làm văn thư cho trở về kinh, nói rằng mẹ cùng vợ con Tần Quỳnh đều đã giải lên quan, nhưng đang mắc bệnh nặng, chưa thể đi được, xin đợi cho bệnh bớt ít nhiều, sẽ cho người giải ngay về kinh. Làm được kế hoãn binh này rồi, thì sai người về ngay kinh đô, lo lót mọi chuyện, là yên ổn ngay thôi mà!

Sĩ Tín dẫu sao cũng còn ít tuổi, chưa hiểu hết những chuyện mờ ám của đời người, nên đáp ngay:

- Anh em hạ quan xưa nay chưa từng lấy tiền bạc của người khác, làm sao có tiền mà làm thế được. Cứ như ý hạ quan, thì đem quách mẹ vợ con đô úy đi chỗ khác, thế là hết bắt bớ.

Quận thừa thấy có nói cũng chẳng được, bèn ra kiệu về phủ. Sai quan cứ ngày đêm thôi thúc. Quận thừa không biết làm thế nào, bèn đem ra bàn bạc với bọn thư lại. Có một tay thư lại già, giảo hoạt thưa:

- Theo lệnh bắt người, nếu không nghe thì làm sao mà trả lời được với quan trên. Nay Sĩ Tín có binh mã trong tay, dùng sức lực mà bắt, e không xong. Giờ phải làm thế nào mà đối phó được với Sĩ Tín, thì gia quyến Tần Quỳnh chẳng khó gì mà không bắt được. Huống chi Sĩ Tín với Tần Quỳnh cùng ở một nhà, lại đã tự nhận là anh em khác họ, thì cũng thuộc gia quyến rồi, dẫu có bắt giải đi chăng nữa, thì càng thêm đỡ họa sau này.

Quận thừa nói:

- Sĩ Tín dữ tợn như hổ, làm sao mà bắt được, lỡ ra có chuyện gì, thì đối phó ra sao?

Tay thư lại già đáp:

- Quan lớn quá lo xa, chỉ cần bắt được Sĩ Tín cùng gia quyến Tần Quỳnh là xong, giao ngay cho sai quan, trên đường có xảy ra chuyện gì, thì kẻ chịu tội là bọn sai quan cùng quan lại sở tại, chẳng can hệ gì đến chúng ta cả.

Quận thừa gật đầu:

- Thế thì làm thế nào mà bắt y được?

Viên thư lại già ghé tại quận thừa, nói nhỏ mấy câu, Quận thừa mặt mày rạng rỡ, sai người đi mời Sĩ Tín, nói là để bàn chuyện viết văn thư trả lời Viện Cơ mật ra sao. Sĩ Tín sốt sắng trả lời:

- Việc này thì ta sẵn sàng ngay, cứ về nói với Chu Quận thừa làm trước đi thì vừa.

Tên sai dịch đáp:

- Thì rõ ràng là Chu Quận thừa sẽ đứng ra viết, nhưng Quận thừa sợ sai gì chăng, nên muốn được ngài xem qua cho một lần, để thấy Quận thừa lo lắng công việc cho anh em ngài ra sao.

Sĩ Tín đáp:

- Thật là một tên tay chân bẻm mép, ngươi tên là gì?

Sai dịch đáp:

- Tiểu nhân họ Kế, tên Thành, ở ngay trong hậu đường của Chu Quận thừa.

Sĩ Tín tin là chuyện thực thà, lên ngựa tới công đường. Chu Quận thừa vội ra đón:

- Thật là tình đồng liêu, sao lại không cùng nhau bàn luận, nhưng chỉ sợ việc lớn khó lo xong, nên vẫn trù trừ không dám quyết đoán. Nay tiểu đệ đã sắp đặt đâu vào đó, vì hai vị anh hùng lo tròn mọi sự, đợi cho lũ sai quan này đi xong, ta sẽ nói chuyện với nhau.

Sĩ Tín đáp:

- Thôi thì mọi chuyện, đều nhờ cậy Chu Quận thừa lo lắng cả cho.

Thư lại đem văn thư phúc đáp ra, kể rõ Tần mẫu, Trương Thị bệnh tình ra sao, hiện nay đang bắt giữ ở phủ đường, khi nào đỡ sẽ giải ngay về kinh sư. Sĩ Tín nói:

- Hạ quan vốn là kẻ vũ biền thô lỗ, không hiểu rõ việc văn thư, giấy tờ, chỉ cần sao cho sai quan trở về yên ổn là được!

Chu Quận thừa vẫn cố ý nói thêm:

- Trong này sợ có chỗ chưa thật thỏa đáng.

Rồi sai thư lại đóng ấn cẩn thận, lời qua tiếng lại, dùng dằng mãi thì cũng đã nửa ngày, sai quan vào lĩnh công văn, Chu Quận thừa mời Sĩ Tín ở lại dùng cơm trưa, Sĩ Tín cố hai ba lần chối từ. Chu Quận thừa nói:

- La Tướng quân cười tiểu đệ nghèo, đến nỗi không có cơm rượu để mời khách chăng?

Rồi kéo Sĩ Tín vào hậu đường, chia ghế chủ khách mời ngồi, cùng nhau nâng chén. Sĩ Tín mới uống khoảng vài chén, thì đã choáng váng, thấy như trời đất chuyển, đầu váng mắt hoa, ngã lăn khỏi ghế. Chu Quận thừa đã sắp sẵn lính tráng, đem Sĩ Tín trói lại, ra công đường, nói với tay chân:

- La Sĩ Tín cùng Tần Quỳnh thông đồng với bọn phản nghịch, phụng thánh chỉ bắt giải về kinh, mọi người không được nhốn nháo.

Thủ hạ nghe xong, không dám nói một lời, ai lo việc nấy. Sĩ Tín đã bị bắt, phủ đường Ủng Dương vô chủ. Tần mẫu cùng Trương Thị, Tần Hoài Ngọc, không người che chở đều bị bắt giải đến công đường quận thừa, hai tay đều còng chặt, cho lên xe ngồi. Sĩ Tín cũng bị còng hai tay, nhưng phải nhốt trong xe tù bịt kín, cùng với văn thư, giao cả cho sai quan, lại phái thêm bốn mươi tên lính hộ tống, ngay đêm hôm ấy rời thành Tế Châu về kinh sư.

Canh năm hôm đó, Sĩ Tín dần tỉnh thuốc mê, nghe có tiếng đàn bà khóc lóc bên tai, mình thì lại không cựa quậy được chân tay, mở mắt nhìn ra, thấy đang bị nhốt trong xe tù, bên ngoài thì Trương Thị cùng Hoài Ngọc đều bị còng tay, khóc lóc trong chiếc xe nhỏ ngay cạnh. Thấy thế, Sĩ Tín nổi cơn giận dữ: "Chỉ vì ta vụng tính toán, trúng kế của lũ giặc già, để đến nỗi người già, trẻ con chịu khổ thế đây!" Đầu óc ngày càng tỉnh táo, nhưng vẫn chẳng thế nào cựa quậy, chỉ đành chờ đợi vậy thôi. Sang giờ thìn, tinh thần đã hoàn toàn bình thường, Sĩ Tín bèn hét to một tiếng, hai vai xoay thật mạnh, làm cái nắp trên xe tù bật tung, tay giằng mạnh, còng cũng gãy nốt, chân đạp liên tiếp, còng chân cũng chẳng còn, sàn xe cũng gãy nát rồi vặn hai càng xe đuổi đánh sai quan. Bọn sai quan vốn biết Sĩ Tín lập tức mở còng cho Tần mẫu, Trương Thị cùng Hoài Ngọc, chẳng đếm xỉa gì đến chuyện tụi phu xe đã bỏ chạy cả.

Sĩ Tín tự mình kéo xe, nghĩ ngợi: "Bên mình chẳng ai đỡ đần, nếu bọn này kéo lính tráng đuổi theo bắt, thì biết làm thế nào?" Cứ vừa đẩy xe, vừa tính toán cách này, kế khác, nhưng chẳng thấy được mưu mẹo nào hoàn hảo, lại thấy trong cánh rừng rậm rạp phía trước, khoảng chục người kéo ra, Sĩ Tín vội hạ xe xuống, với một gốc táo bên đường, định xông vào đánh hai người đi đầu, một người hét lớn:

- La tướng quân đừng ra tay nữa, Giả Nhuận Phủ đây.

Sĩ Tín đã từng đến nhà gặp Nhuận Phủ một lần, nên nhìn kỹ, cũng còn nhận ra, bèn hỏi:

- Đại huynh đã đem gia quyến gửi được ở đâu rồi, mà lại nhàn rỗi có thể tới đây gặp tiểu đệ thế này?

Nhuận Phủ đáp:

- Đã cùng đi với gia quyến của Vương đại huynh về Ngõa Cương yên ổn cả. Huyền Thúy đã tính toán chu đáo mọi chuyện, thấy rõ thế nào cũng dính líu đến Tần đại huynh, vì vậy sai hai chúng tôi, ngày đêm xuống núi, về tận thành Tế Châu nghe ngóng mọi chuyện. Thì đúng như dự tính, biết rõ chúng có giải gia quyến Tần đại huynh về kinh, tất phải đi qua đường này, vì vậy mới cùng với Đơn chủ quản dẫn lâu la phục sẵn ở đây, đợi chúng tới, sẽ giải tháo cho mọi người, không ngờ La tướng quân đã tự mình đảm đương được mọi chuyện rồi!

Sĩ Tín đáp:

- Tuy đã thoát được thân tù, đánh tan được bọn quan binh áp giải, nhưng tiểu đệ đang lo một thân một mình, vừa phải kéo xe, vừa phải ngó trước nhìn sau, chỉ sợ lính tráng đuổi theo sau, thì khó mà trông coi cả hai phía chu toàn. Nay may gặp hai vị ở đây, thì chẳng sợ gì nữa.

Đơn Toàn lên tiếng:

- Chúng ta có ngựa tốt, có vũ khí, dẫu chúng có đuổi theo, cũng chẳng có gì đáng sợ.

Nhuận Phủ tiếp:

- Đúng thế, phía trước lại là hang Đậu Tử, ở đó chúng ta sẽ có bạn bè giúp thêm một tay.

Chưa trò chuyện xong, thì đã thấy quận thừa cùng sai quan, kéo năm sáu trăm quân tới. Đơn Toàn nói với Nhuận Phủ.

- Hiền đệ hộ tống Tần mẫu, Tần phu nhân, chạy nhanh lên phía trước, Đơn Toàn này sẽ cùng Sĩ Tín cho bọn giặc già này biết tay.

Nói rồi chọn một con ngựa, cho Sĩ Tín cưỡi, Sĩ Tín lại kiếm một cây thương, đứng nép bên vách núi, lớn tiếng quát:

- Anh em chúng ta nào có phụ gì triều đình mà chúng bay dám bày mưu tính kế hãm hại. Nay ta sẽ trừ tận gốc lũ giặc tham tàn này, nếu còn một đứa sống sót trở về, thì La Sĩ Tín này không đáng mặt hảo hán!

Bọn quan binh, chỉ riêng Sĩ Tín cũng đã địch chẳng nổi, nay lại thấy thêm một hảo hán dữ tợn, đen như quỷ đói, chẳng một kẻ nào dám đương đầu, đều thi nhau quay ngựa bỏ chạy. Đơn Toàn thấy thế, cười ha hả.

- Thật đáng thương, thế mà cũng là quan là lính triều đình.

Sĩ Tín đang định đuổi theo, Đơn Toàn liền giữ lại, quay ngựa trở về. Nhuận Phủ đem theo mấy lâu la, hộ tống Tần mẫu đi nhanh về hướng Ngõa Cương, thấy ngã ba Tam Soa phía trước, một đội người ngựa kéo ra. Người đi đầu hét lớn:

- Lũ trẻ con kia! Hãy xem ta túm gọn tất cả đây!

Nhuận Phủ vội nhìn, nhận ra là Trình Giảo Kim, liền cố ý đáp:

- Hà, thằng cướp đường kia, không nhận ra ta là Tần Thúc Bảo sao?

Giảo Kim cười đáp:

- Thằng điên kia! Lại dám giả mạo cả tên họ đại huynh ta để hòng nạt ta sao?

Rồi giơ cao búa xông tới, Nhuận Phủ to tiếng:

- Trình Giảo Kim, đây chính là gia quyến Tần Thúc Bảo, cùng với hành lý, hiền đệ có dám cướp không nào?

Xe của Tần mẫu kịp tới. Sĩ Tín cùng Đơn Toàn nghe thủ hạ báo phía trước có cướp đón đường, cũng vội ruổi ngựa đuổi theo. Giảo Kim lúc này đã đến trước xe Tần mẫu, cùng mọi người gặp gỡ, lại thăm hỏi Tần mẫu. Nhuận Phủ vội kể lại mọi chuyện, Giảo Kim nói:

- Xin bá mẫu hãy vào trại của Giảo Kim này để cùng mẫu thân

Giảo Kim gặp gỡ. Nay Giảo Kim này không còn nghèo đói như xưa đâu, đủ sức để phụng dưỡng bá mẫu. Bọn quan lính cũng chẳng dám bén mảng tới đây đâu!

Vì vậy mọi người đều kéo vào trại của Giảo Kim, cũng gặp gỡ Vưu viên ngoại. Giảo Kim không quên mời Tần mẫu vào trại sau gặp mẫu thân. Tần mẫu bảo Sĩ Tín:

- Chúng ta ở đây, chẳng biết Thúc Bảo đang ở ngoài chỗ giặc giã, có biết được những việc này chưa, sống chết ra sao, khiến lòng ta không lúc nào khỏi lo lắng.

Rồi xụt xịt hai hàng lệ. Giảo Kim khuyên giải:

- Bá mẫu yên lòng. Đợi đêm nay cháu dẫn vài trăm lâu la, sẽ đón được đại ca về đây, cùng nhau đoàn tụ, chẳng sợ gì lính trước, lính sau của triều đình.

Nhuận Phủ nói:

- Tần đại huynh cùng Trương Thông Thủ dẫn sáu bảy ngàn binh mã, hiền đệ dẫu có định đến quấy rối, thì cũng vô ích thôi, mà còn làm lụy đến công việc của Tần đại huynh nữa kia.

Sĩ Tín bỗng nói:

- Xin để tiểu đệ đi một phen!

Nhuận Phủ đáp:

- Cũng không được!

Đơn Toàn nói:

- Nếu Đơn Toàn này đi thì sao?

Nhuận Phủ lại đáp:

- Hiền huynh đi thì quá là tốt. Chỉ sợ Tần đại huynh không nhận ra hiền huynh, sẽ không tin.

Đơn Toàn cãi:

- Sao lại có chuyện ấy được. Trước đây Tần tướng quân mắc bệnh, tại Nhị Hiền trang ở hơn năm trời, sao lại không biết Đơn Toàn này?

Giảo Kim hỏi:

- Vị này là ai?

Nhận Phủ đáp:

- Đây chính là vị chủ quản tháo vát của Đơn viên ngoại, nay theo viên ngoại lên Ngõa Cương, nổi tiếng là bậc hào kiệt nghĩa khí.

Giảo Kim nói:

- Xứng đáng là tay chân thân tín của Đơn viên ngoại vậy?

Tần mẫu mừng rỡ:

- Nếu được vị chủ quản bằng lòng đến chỗ Tần Quỳnh của già này thì thật quý hóa quá. Xin đợi già này viết mấy chữ, kiếm chút tiền đi đường. Rồi phiền vị chủ quản đi ngay cho.

Giảo Kim gạt ngay:

- Bá mẫu đừng làm thế mọi người cười cho. Có bá mẫu ở trên, mọi chuyện cháu phải chu tất, việc gì bá mẫu phải lo lắng.

Rồi gọi ngay lâu la, lấy ra một đĩnh bạc lớn, Giảo Kim cầm lấy đưa cho Đơn Toàn:

- Xin cầm mười lạng này làm lộ phí vậy.

Đơn Toàn đáp:

- Tiền đi đường thì trong người Đơn Toàn này lúc nào chẳng sẵn, không đáng để Tần mẫu cùng Trình Tri Tiết phải lo lắng... Xin Tần mẫu viết ngay thư, để Đơn Toàn này lên đường ngay cho kịp.

Tần mẫu viết xong thư, đưa cho Đơn Toàn, rồi ra trại sau gặp Trình mẫu.

***

Không nói chuyện Đơn Toàn đến quân doanh báo tin cho Thúc Bảo, hãy kể chuyện Giảo Kim. Nhuận Phủ, cùng Sĩ Tín, Hoài Ngọc cùng uống rượu với nhau xong thì đi nằm nghỉ sớm. Riêng Sĩ Tín vẫn không sao ngủ được, nghĩ ngợi mông lung: "Sĩ Tín này lâu nay chưa từng bị ai đè nén, coi thường, ai ngờ lại bị thằng giặc già cùng lão thư lại giảo hoạt, bày mưu thiết kế trói ta lại rồi nhốt trong xe tù, mất đúng nửa ngày với một đêm tròn. Lại còn làm lụy đến mẹ già, với vợ con của Tần đại ca. Người đời vẫn thường nói: giận lặt vặt thì không phải hạng quân tử, nhưng không dám làm những chuyện tầy trời thì lại không đáng mặt trượng phu. Sĩ Tín này mà không giết được vợ chồng thằng chó già này, thì thật không đáng đứng trong trời đất nữa". Trằn trọc nghĩ ngợi suốt đêm, vừa canh năm, đã chồm ngay dậy, ăn mặc vội vàng cho xong rồi vào ngay chuồng ngựa, chọn một con tốt nhất, nhảy lên phi ra khỏi trại. Bọn lâu la gác cửa trại hỏi:

- Đầu lĩnh đi đâu bây giờ?

Sĩ Tín đáp:

- Chủ trại của các ngươi sai ta đi công cán một phen.

Nói rồi gia roi phóng thẳng một mạch một trăm dặm đường, đến cửa thành Tế Châu, vào ngay một cửa hàng cơm, chén một bụng no, rồi nói với chủ quán:

- Ta gửi con ngựa này cho tiểu nhị, hãy cho nó ăn cho no. Ta vào thành trình công văn, nếu quay ra mà cửa thành đã đóng, thì ta sẽ ngủ tạm đêm nay ở trong thành.

Chủ quán vội vàng đáp:

- Xin ngài cứ yên tâm, ngựa của ngài sẽ được chăm sóc chu đáo.

Sĩ Tín vào thành, trời cũng bắt đầu tối, Sĩ Tín tìm một ngôi miếu hoang, ngồi chờ một hồi, cho mãi đến lúc hết canh một, mới lặng lẽ vào cửa sau của phủ đường Ủng Dương, chỉ thấy hai hàng nhà, các phòng đều đã đóng chặt cửa, thì thấy một tên tay chân bưng một bình rượu đi lại, Sĩ Tín đón hỏi:

- Xin cho hỏi, vị thư lại già ở chỗ nào?

Người này đáp:

- Ngay dãy nhà trước mặt kia, phòng trước cửa có giếng nước là đúng.

Sĩ Tín đi ngay theo lời chỉ, nhìn vào thấy phòng trống, không một bóng người. Nghe có tiếng đàn thánh thót từ phòng bên, rồi tiếng người hỏi:

- Ai đó?

Sĩ Tín đáp:

- Tiểu nhân tìm gặp vị thư lại già ở đây!

Người đánh đàn đáp:

- Không có nhà đâu. Vừa ra miếu thổ địa nói chuyện với ngài Lang Thẩm rồi.

Sĩ Tín vội quay ra, rảo bước đến miếu thổ địa, thấy một bóng người đi phía trước, vừa đi vừa lẩm nhẩm một mình, Sĩ Tín nhìn kỹ, đúng là viên thư lại rồi. Sĩ Tín vội lần lên phía trước, chạy nép sau cổng miếu thổ địa, giả giọng Giang Tây hỏi ra:

- A, ngài thư lại đến đây rồi!

Viên thư lại nhìn trong tối chẳng rõ, lại nhận ra viên sai quan của bộ Binh, liền cất tiếng:

- Chào Hùng đại nhân?

Sĩ Tín đáp:

- Không dám!

Thư lại xăm xăm bước vào. Sĩ Tín bước nhanh ra đón, thư lại nhìn kỹ, nhận ra Sĩ Tín, ba hồn bảy vía đâu mất cả, cả người run bắn, khụy ngay xuống mặt đất, Sĩ Tín đặt ngay một chân lên ngực thư lại, rút đoản đao sáng loáng ra. Thư lại van lạy:

- Không dính dáng gì đến tiểu nhân cả, xin tha cho mạng chó già này.

Sĩ Tín nạt:

- Con chó săn kia, không được mở miệng, mày hãy khai cho thực thằng quan chó của mày hiện đang ở đâu?

Thư lại thưa:

- Vừa xếp đặt xong mọi chuyện, rồi về hậu đường rồi ạ!

Sĩ Tín sợ người qua lại bắt gặp sinh chuyện lôi thôi, vội hạ ngay dao xuống, gọn một nhát, đầu đã lìa khỏi cổ. Sĩ Tín cởi áo trên người thư lại, gói thủ cấp lại, vứt ngay góc thềm miếu. Biết rõ tường sau cửa miếu, chính là phủ đường, Sĩ Tín nhảy ngay lên tường, vừa may phía trong có một cây liễu kề ngay tường, liền bám lấy mà xuống. Thì ra là nhà Chu Quận thừa đãi cơm rượu hôm trước, Sĩ Tín lần vào, cửa trong đã đóng kín cả, may còn thấy cuối tường cầu thang lên gác.

Sĩ Tín nhảy lên cửa sổ, nghiễm nhiên đã đứng ở cầu thang trong nhà, rồi từng bậc một lặng lẽ lên gác. Nhìn vào trong phòng chỉ thấy một mình Chu Quận thừa, vì không mang gia quyến đi theo, chỉ có một vài thằng nhỏ, hầu hạ hàng ngày, thì giờ đều đang ở dưới bếp cả. Sĩ Tín khẽ đẩy cửa sổ thấy Chu Quận thừa đang ngồi trước bàn với một ngọn nến, trên bàn la liệt những thỏi bạc to nhỏ nhiều loại đang dùng bút tính toán rõ ràng để gửi về quê. Sĩ Tín đẩy tiếp hai cánh cửa lớn, Chu quận thừa nhận ra có người vào, vội lấy thân mình che kín đống bạc, đang định mở miệng la cướp, thì Sĩ Tín tay cầm đoản dao, tay nắm chặt tóc quát:

- Thằng chó chết, mày có nhận ra ta chăng?

Lúc này Chu Quận thừa một lời cũng không nói được, chỉ cúi sát đất mà lạy. Sĩ Tín cúi xuống cắt lấy thủ cấp, quay sang giường, lấy chăn gói kín lại, rồi buộc ngang lưng mình, bao nhiêu bạc trên bàn, cứ nhặt từng thỏi bỏ cả vào ngực áo. Thấy trên bàn, sẵn bút mực, cầm ngay viết lên tường:

Mắc oan đêm trước

Trả thù đêm nay

Oan thù tương báo

Mới thỏa dạ này.

Viết xong vứt bút, theo lối cũ vượt tường mà ra, về đến miếu thổ địa, lấy thủ cấp của thư lại, gói vào cùng một gói với thủ cấp của Chu Quận thừa. Ra khỏi miếu, đi về cửa thành. Lúc này mới đầu canh năm, cửa thành vẫn chưa mở, bèn trèo lên mặt thành, chọn chỗ tường thấp nhảy xuống. Đi thẳng tới tửu điếm, tìm một chỗ kín đáo, giấu hai thủ cấp lại, gõ cửa. Chủ quán mở cửa ra nói ngay:

- Ngài về sớm quá! Cửa thành đã mở rồi sao?

Sĩ Tín đáp:

- Ta có việc phải đưa văn thư hỏa tốc, sợ gì chúng nó đóng cửa thành. Có cho ngựa của ta ăn no không?

Chủ quán đáp:

- Ngài đã dặn, tiểu nhân đâu dám quên?

Sĩ Tín lấy trong người ra một thỏi bạc khoảng bốn năm lạng, đưa cho chủ quán:

- Thưởng cho tiểu nhị đây! Mau dắt ngựa ra đây cho ta!

Chủ quán dắt ngựa ra. Sĩ Tín nhảy ngay lên yên, cho đi thong thả. Khi đã nghe tiếng chủ quán đóng cửa, Sĩ Tín mới cho ngựa đi nhanh hơn, tới lấy hai cái thủ cấp, buộc ở sau yên ngựa, phi một mạch đến bốn năm mươi dặm. Đến khi thấy vừa đói vừa khát, tìm vào một thôn cạnh đường, thấy một ông già ngồi ngay trước cửa nhà, bán trứng gà, rượu hâm nóng. Sĩ Tín nhảy xuống ngựa, gọi ông già mang rượu ra, rồi hỏi:

- Sao thôn xóm của lão trông thảm thương đến thế hở!

Ông già đáp:

- Dân chúng khốn khổ vì phu dịch. Ruộng vườn bỏ hoang, làm sao không thê lương, cùng khổ cho được?

Sĩ Tín nghĩ ngợi: "Trong người ta còn ít bạc đây, ở tay thằng giặc chó chết này mà ra, thì đều là máu mỡ của dân đen cả đấy thôi. Nó những hòng gửi về cho vợ con hoang phí, ai ngờ bị ta lấy mất. Ta đem cái này về sơn trại làm gì?". Bèn hỏi tiếp:

- Thôn của lão đây có bao nhiêu nhà?

Ông già đáp:

- Không nhiều, chỉ khoảng mười nhà. Đàn ông đều phải đi phu cả rồi, vứt lại toàn đàn bà, trẻ con. Khó mà sống nổi!

Sĩ Tín tiếp:

- Lão hãy gọi mọi người lại đây, họ La này sẽ cấp cho ai nấy một ít mà qua ngày vậy.

Ông già nghe thấy nói thế, liền gọi ngay mấy người đàn bà tới.

Thật đáng thương, tất cả đều áo chẳng đủ che thân, hình thể gầy gò như con cò, con chim cu vậy, Sĩ Tín hỏi:

- Tất cả có bao nhiêu nhà?

Ông già đáp:

- Cộng cả có mười một nhà.

Sĩ Tín đem tất cả số bạc trong người đổ ra, ước chừng chia ra làm mười một phần, thỏi nào cũng óng ánh như hoa tuyết. Sĩ Tín nói với những người đàn bà đáng thương:

- Mỗi người mỗi nhà, nhận lấy một phần, may ra sống được đến lúc đàn ông trở về.

Mấy người đàn bà này, mừng không thốt được một lời, quỳ sát đất lạy tạ rồi ai lấy phần người ấy. Ông già cất tiếng:

- Cũng muốn làm một mâm cơm, tạ ơn hảo hán, để thấy được lòng biết ơn của thôn nghèo, nhưng khổ một nỗi, hiện chẳng có một thứ gì trong nhà, ngay đến một hạt gạo cũng không. Chỉ có mấy cái bánh bao bột to, nếu hảo hán không chê, già này xin mang ra, mời hảo hán ăn đỡ lòng vậy.

Sĩ Tín nói ngay:

- Thế cũng được!

Ông già vội chạy vào bếp, lấy ra một đĩa trứng gà, một đĩa bánh bao. Chẳng mấy chốc, các nhà xung quanh, đều đem bánh bao, trứng gà, dưa hành, rượu nóng, bày ra đủ mười mâm, người này một chén, người kia một chén, mời Sĩ Tín, Sĩ Tín bất giác khoan khoái, ăn thật no rồi chắp tay lạy chào, lên ngựa, phi như bay về phía trước.

***

Lại nói Giảo Kim sáng hôm ấy dậy sớm, thấy Sĩ Tín đi đâu mất, vội chạy đi thưa với Tần mẫu, lại đoán rằng Sĩ Tín không muốn lên sơn trại, nên bỏ trốn mất rồi. Nhưng Tần mẫu vẫn không tin, vì biết Sĩ Tín vốn thật thà:

- Sĩ Tín vốn là một đứa thẳng thắn, chẳng bao giờ bỏ lại chúng ta đi đâu?

Lúc này Sĩ Tín đang trên ngựa ruổi nhanh, sực nhìn lại, chẳng thấy hai cái thủ cấp đâu nữa, thì ra do buộc ở sau yên không chặt, ngựa lại phi cố sống cố chết, nút buộc ngày một lỏng dần, rồi rơi quách. Sĩ Tín liền quay ngựa lại, đi chậm chậm để tìm. Đến mấy dặm, thì thấy trong khe núi, một đội người ngựa kéo ra, phía trước là hơn mười xe chở lương thảo, theo sau là bốn năm chục người ngựa hùng dũng, với hai ba đầu lĩnh dẫn dầu, người nào cũng chít khăn đầu rìu ống tay áo bó gọn gàng, cầm trường thương hoặc búa rộng bản. Sĩ Tín biết ngay là các vị hảo hán, nên nép sát ngựa bên đường tránh cho ngựa đi qua. Mấy đầu lĩnh từ trên yên ngựa, chăm chú nhìn Sĩ Tín, Sĩ Tín cũng trừng mắt nhìn lại. Đầu lĩnh đi sau cùng, dừng ngựa hỏi:

- Anh là ai?

Sĩ Tín vốn vừa gan vừa bướng, cũng hỏi lại:

- Anh là ai mà hỏi ta?

Người này cười:

- Anh trông giống như La Sĩ Tín, người nhà Tần đại huynh thì phải?

Sĩ Tín đáp:

- Ta chính là La Sĩ Tín?

Người này xuống ngựa, tiến lên trước nói:

- Tiểu đệ là Liên Minh!

Sĩ Tín nói:

- Có phải là người tới phủ, nhờ Tần đại ca báo tin cho Giả Nhuận Phủ, bảo Nhuận Phủ trốn ngay đi phải không?

Cự Chân đáp:

- Đúng như thế.

Sĩ Tín nghe nói thế, cũng xuống ngựa, cùng Cự Chân vái chào.

Cũng bởi Từ Mậu Công phái bọn này đi mượn lương thảo ở Lộ Châu về đến đây, nghe thấy thế, các đầu lĩnh đều xuống ngựa, cùng chào hỏi Sĩ Tín, Cự Chân nói:

- Nhuận Phủ gia quyến, tiểu đệ đã đưa về Ngõa Cương yên ổn, nhưng không biết tình trạng Tần Thúc Bảo cùng gia quyến ra sao?

Sĩ Tín đem chuyện Tần mẫu bị bắt kể đầu đuôi. Đơn viên ngoại nói:

- Nếu Tần mẫu đang ở chỗ Trình mẫu, thì Hùng Tín này phải đến thăm mới được!

Nguyên Chân nói:

- Nếu đã như vậy, thì chẳng bao lâu sẽ cùng gặp gỡ. Hiện nay đang phải trông coi lương thảo trên đường đi thế này, lâu la thì đông. Chi bằng, ta mời Sĩ Tín cùng về Ngõa Cương, cùng gặp Từ, Lý hai vị bàn cách giải cứu cho Tần đại huynh, mới là kế chu toàn lâu dài. Nhưng không biết ý La hiền đệ, hiện nay định đi đâu?

Sĩ Tín đáp:

- Tiểu đệ đang trên đường về hang Đậu Tử, nhân vì rơi mất một thứ này nên phải quay lại tìm.

Hùng Tín hỏi:

- Rơi cái gì?

Sĩ Tín đáp:

- Hai cái thủ cấp!

Địch Nhượng vội hỏi:

- Thủ cấp ai thế?

Sĩ Tín đem chuyện đang đêm tìm kẻ thù, cắt đầu hai mạng, đem tiền chia cho dân thôn kể lại một lượt. Địch Nhượng kêu trời.

- Hiền đệ thật đáng mặt hảo hán, chi bằng cùng lên Ngõa Cương tụ nghĩa vậy?

Sĩ Tín đáp:

- Tiểu đệ vẫn có ý lên Ngõa Cương lạy chào chư vị, nhưng sợ Tần mẫu không thấy tiểu đệ, lại thêm lo nghĩ, chi bằng để tiểu đệ về trình lại Tần mẫu rồi sẽ lên sơn trại cũng chưa muộn.

Hùng Tín nói:

- Nếu vậy, hiền đệ gặp Tần mẫu, xin thay mặt Hùng Tín này, thưa hộ vì phải lo liệu công việc sơn trại, nên chưa thể đến thăm được?

Sĩ Tín đỡ lời:

- Tiểu đệ xin nhớ!

Ai nấy chào từ biệt, lên ngựa.

***

Khoan nói chuyện Sĩ Tín về hang Đậu Tử, mà hãy theo đoàn Địch Nhượng trên đường về Ngõa Cương đã. Đi chưa được mấy dặm, thì thấy lâu la thưa:

- Chúng tiểu nhân nhặt được một cái gói bên đường, trong đó có hai thủ cấp, chẳng biết có phải của La tướng quân đánh rơi không?

Hùng Tín đáp:

- Đem đây xem sao!

Lâu la đem lại, thì vẫn là hai đầu lâu máu đã đông tím đen.

Địch Nhượng ra lệnh:

- Hãy sai người đem trả lại cho Sĩ Tín?

Hùng Tín can:

- Chẳng cần phải trả làm gì. Hai người này cũng vì dính líu đến công việc của anh em ta, một phần cũng vì nghe theo lệnh trên, ai ngờ tiền mất, mạng vong. Nếu cứ đem thủ cấp mà quăng đi ném lại, thì cũng quá nhẫn tâm, các ngươi hãy mau làm tạm lấy hai hộp gỗ, đem bỏ hai thủ cấp này vào, đào hai hố sâu, đắp thành mồ mả cẩn thận.

Sau đó cả bọn lại lên ngựa về trại.

Chính là:

Từ tâm vốn lẽ thường

Tàn nhẫn thật ít thấy!

hết: Hồi Thứ Bốn Mươi Bốn, xem tiếp: Hồi Thứ Bốn Mươi Lăm

Đánh máy: bevang

Nguồn: bevang - VNthuquan - Thư viện Online

Được bạn: Ct.Ly đưa lên

vào ngày: 16 tháng 2 năm 2010

Hồi Thứ Bốn Mươi Lăm

Huyện Bình Nguyên, Thúc Bảo gặp may thoát chết,

Chùa Đại Hải, Vạn Nhẫn vì nghĩa quên mình.

Từ rằng:

Gặp may mới biết lòng trời

Khéo dun dủi cứu lấy người thất cơ

Trí tâm đâu dám lọc lừa

Gian hùng hiểm độc, mưu mô hại đời

Mắt xanh, máu lệ tuôn rơi

Anh hùng tụ nghĩa, đầy vơi rừng tùng

Kiên trinh một tấc cô trung

Ngư Dương trận ấy anh hùng chưa nguôi(1)

Mắt còn than thở đôi lời

Ân ân, oán oán, ngược xuôi tình người.

Theo điệu "Lâm giang tiên"

1 Nể Hành, tức Nể Chính Bình thời Tam Quốc, nổi tiếng đức hạnh. Tào Tháo mời đến làm nhục. Nể Hành cởi truồng đánh trống theo điệu Ngư Dương, "nhịp nhàng nghe hay lắm, ầm ầm như có cả tiếng chuông tiếng khánh đua theo. Khách ngồi ăn yến ai nghe cũng phải bi thương rỏ nước mắt". (Tam Quốc diễn nghĩa).

Nói cho cùng ra, ở trên đời này, chẳng ai chết hai lần, đó chính là cách nghĩ của bậc trung thần khí tiết, anh hùng hào kiệt. Nhưng còn bọn đố hiền tật năng, đem cả lợi ích quốc gia làm lợi cho riêng mình, chỉ cần thỏa mãn sở thích cá nhân, chẳng cần nghĩ đến giang sơn dân chúng, như Phạm Thư chạy trốn sang Tần, mượn quân Tần đánh Ngụy để báo thù riêng, rồi Ngũ Viên chạy sang Ngô, làm cho Sở điên đảo để trả oán xưa, nếu bàn đến mục đích của hạng người này, thì cũng thế cả thôi. Hãy khoan nói chuyện người đời, khiến họ không đất dung thân, nên họ phải tìm cách đối phó với cách làm, cùng mục đích, hai chuyện khác nhau.

***

Nói chuyện Đơn Toàn, cầm thư của Tần mẫu rời khỏi hang Đậu Tử của Giảo Kim, đi suốt ngày đêm tìm tới quân doanh, vừa may lúc Thúc Bảo đang ở trong trại, nghe tay chân vào thưa:

- Tần phu nhân sai người đưa thư đến.

Thúc Bảo nghĩ ngay đến chuyện mẫu thân bệnh tật gì chăng, giật mình kinh hãi, vội nói:

- Dẫn ngay người đưa thư vào đây!

Thúc Bảo nhìn kỹ, liền nhận ra Đơn Toàn, viên chủ quản quen biết của Đơn Hùng Tín, liền nghĩ: "Nhất định là Đơn nhị ca sai Đơn Toàn đến thăm ta đây mà?". Liền đon đả chào hỏi:

- Hay lắm! Cố nhân đâu rồi, ta cứ băn khoăn không hiểu khách nào, mời vào trong này!

Thúc Bảo dẫn Đơn Toàn vào thư phòng. Đơn Toàn vái chào xong xuôi, Thúc Bảo bèn tiếp:

- Hiền huynh không phải ai xa lạ, ta được gặp hiền huynh cũng như được thấy Đơn viên ngoại vậy thôi.

Rồi sai tay chân lấy ghế dựa, ân cần mời Đơn Toàn ngồi, Đơn Toàn từ chối:

- Xin đứng nói vài câu, còn phải đi ngay!

Thúc Bảo hỏi:

- Có phải Đơn viên ngoại có thư gửi thăm ta chăng?

Đơn Toàn đáp:

- Không phải!

Thấy Đơn Toàn đáp thế, Thúc Bảo đã thấy có chuyện khác thường, liền nói ngay với tay chân:

- Các ngươi hãy mau đi làm cơm rượu lên đây!

Đơn Toàn thấy chung quanh không còn ai khác mới lấy thư của Tần mẫu gói kỹ trong miếng giấy dầu để trong ngực ra, đưa cho Thúc Bảo. Thúc Bảo thấy ngoài viết: "Tần mẫu gửi cho con là Thúc Bảo tự tay mở". Thì hai mắt đã thấy nặng, càng xem càng ngẩn người. Đơn

Toàn nói:

- Phu nhân có nói rằng gia quyến đã bị bắt bớ như thế thì Tần tướng quân tất cũng không tài nào tránh khỏi vạ, không ngờ đến giờ vẫn được yên ổn. Nhưng sợ rằng ngay trước mắt, bọn nha lại Tế Quận, nhất định sẽ làm văn thư, trình rõ chuyện Sĩ Tín giữa đường trốn thoát, đánh bại quan quân, đem gia quyến theo Bá Đương, Huyền Thúy, đều là phường phản nghịch, chuyện càng ngày càng lớn, thì dẫu Trương Thông Thủ có bênh vực nữa, thì cũng khó mà cãi lại trăm người đều nói như một.

Thúc Bảo nghe nói thế, lòng ngổn ngang trăm mối, chưa biết nên đối phó ra sao, thì lại thấy tay chân vào thưa:

- Có người nhà là Lã Minh đang đứng chờ bên ngoài.

Thúc Bảo vội giục:

- Dẫn ngay vào đây.

Lã Minh vào, thấy Thúc Bảo, vừa quỳ lạy vừa khóc. Thúc Bảo nóng lòng:

- Ta biết rồi, ngươi hãy kể lại rõ ràng xem nào.

Lã Minh đứng dậy thưa:

- Ban đầu Chu Quận thừa đến bắt gia quyến. La tướng quân không cho. Chu Quận thừa bèn lập kế, bắt trói La tướng quân, tối đến nhà bắt cả gia quyến. Ngay đêm hôm đó, tiểu nhân trốn đi báo cho đại nhân, nhưng cửa thành không cho ai ra, chỉ để bọn quan quân giải ngay La tướng quân cùng gia quyến đi. Mãi đến gần trưa, bọn quan quân này trở về, trình La tướng quân đã trốn được, lấy đá lớn đánh chết bảy tám đứa cả lính cả quan. Cửa thành càng được canh giữ nghiêm ngặt. Chẳng ngờ đến sáng ngày hôm sau, thì Chu Quận thừa bị giết ngay tại phủ đường, một viên thư lại già bị giết ngay ở cổng miếu thổ địa, lúc này cửa thành rộng mở, tiểu nhân mới ra được để đi tìm đại nhân. Chỉ sợ ngay chiều nay sẽ có văn thư đến soái phủ của Trương Thông Thủ rồi.

Thúc Bảo nói:

- Bây giờ ta phải làm gì đây! Ta cũng muốn đem thân này đền nợ nước, sau đó báo ơn tri kỷ, chẳng ngờ xảy chuyện tày trời. Tấm lòng của ta giờ chỉ có thể giãi bày với trời cao nữa thôi.

Đơn Toàn bàn:

- Tướng quân đừng nói chi việc giãi bày. Bọn thù oán với tướng quân còn ở triều đình, dẫu có hàng trăm Trương Thông Thủ, cũng chẳng gỡ nổi cho tướng quân. Thêm chuyện đang đêm giết quan, cắt cổ lại đâu chỉ liên lụy riêng gì La tiểu tướng. Nếu cứ do dự, chuyện đến chân rồi, thì ngay cả Trương Thông Thủ giữ cho riêng ngài cũng khó. Tính mạng của tướng quân thật nguy khốn không chừng, nói gì đến chuyện cảm tạ tri kỷ cho được. Nay nhân lúc sự chưa vỡ lỡ, chi bàng dẫn quân bản bộ của tướng quân cùng về sơn trại. Với võ nghệ tuyệt luân của tướng quân, lại có thêm anh em phò trợ, lớn thì thành vương, nhỏ thì thành bá. Sao lại chịu ngồi ngậm miệng để chờ bị giết sao?

Thúc Bảo nghe ra, thở dài mà than:

- Ta nay bất hạnh mà gặp chuyện tang thương dâu bể này, kéo cả nhà đi làm phản, còn lòng nào mà kéo cả binh lính cùng làm giặc nữa. Ta chỉ viết một lá thư, từ biệt Trương Thông Thủ, đêm nay cùng hiền huynh trốn đi, chỉ cốt sao mẹ con cùng đoàn tụ là tốt rồi.

Một mặt bày rượu khoản đãi Đơn Toàn, còn mình thì ngồi cạnh viết thư để lại cho Trương Thông thủ, thư viết rằng:

Xin trình dưới trướng ân chủ Trương Thông Thủ đại nhân:

Quỳnh này đội ơn mắt xanh đại nhân thương đến đã hơn năm nay, cứu Quỳnh này khỏi vạ chết trước mắt. Nhưng mong lấy da ngựa bọc thây để báo ơn riêng đó, nhưng lúc tuổi trẻ nghĩa hiệp, giết kẻ quyền thế dâm ác ở Trường An, nên kết oán ngày càng sâu với Vũ Văn Thuật. Gần đây định khép Quỳnh này vào cùng một bọn với nghịch đảng, may được ân chủ chiêu tuyết đỡ cho, nhưng khổ thay, bọn cừu thù lại bắt cả gia quyến, trói giải trên đường về kinh, thế cũng đủ thấy lũ này thật hiểm độc khôn lường, chưa giết được Quỳnh này, chưa chịu thôi. Nghĩa đệ Sĩ Tín không cam chịu, phá cũi sổ lồng, trốn theo thảo dã. Việc tuy chẳng có tay Quỳnh này, nhưng thực lại chồng thêm tội cho Quỳnh vậy! Quyền gian tại triều, biết được việc này, tất không thoát khỏi tử tội, lại thêm lão mẫu lưu lạc, lòng không thể nào yên. Cũng là cẩn thận học theo Từ Thứ về Tào (1) nhưng ngửa trông thì phụ ơn sâu của ân chủ, lòng những thẹn thùng.

Mong rằng nước bèo trôi dạt, vẫn còn có lúc, dẫu đầu lìa khỏi cổ, cũng mong được báo ơn này.

Cũng là chuyện bất đắc dĩ phải làm, xin được ân chủ xét soi cho.

Mạt tướng Tần Quỳnh cúi đầu lạy. "

1 Từ Thứ làm quân sư cho Lưu Bị đánh thắng Tào Tháo, Tháo bắt Tử Mẫu dọa giết. Từ Thứ phải bỏ Lưu Bị để về hàng Tháo mong cứu mẹ. Nhưng Từ Mẫu tức giận, thắt cổ chết. Từ Thứ thề không bao giờ bày mưu kế gì cho Tào Tháo. (Tam Quốc diễn nghĩa).

Thúc Bảo viết xong, dán kín lại, ngoài đề: "Trình dưới trướng Trương đại nhân", rồi đặt ngay trên án, chận kỹ, đem những vàng bạc mà mình được thưởng lâu nay, bỏ vào khăn gói, xách đôi giản, cùng Đơn Toàn, Lã Minh với tay chân thân tín bốn năm người, lên ngựa, ra khỏi quân doanh, nói với bọn quản doanh:

- Trương đại nhân có văn thư, lệnh cho ta đi xem xét địch tình, hai ngày sau mới về, phải để tâm xem xét quân doanh cẩn thận, không được náo động.

Rồi cả bọn cưỡi ngựa đi ngay.

Chính là:

Thân này mày thoát lưới giăng

Lòng vương mây trắng mấy tầng xa xa.

***

Lại nói chuyện đoàn lâu la của Địch Nhượng, Hùng Tín về đến Ngõa Cương, gặp Huyền Thúy, Mậu Công. Hùng Tín đem chuyện Tần mẫu bị bắt, Sĩ Tín thoát khỏi xe tù, gặp Vưu Thông, Giảo Kim về hang Đậu Tử... kể lại. Huyền Thúy nói:

- Cứ từ những chuyện này mà luận ra, thì Thúc Bảo đại huynh sớm muộn gì rồi cũng phải nhập bọn với chúng ta. Nhưng còn Tần mẫu ở chỗ Giảo Kim, lẽ nên đón lên Ngõa Cương này để mẹ con sớm được đoàn tụ.

Mậu Công bàn thêm:

- Việc này chưa vội lắm, vì chưa chắc Vưu Thông, Giảo Kim đã chịu để Tần mẫu đi. Hãy cứ đợi Thúc Bảo đến đã, ta sẽ bàn cũng chưa muộn, Gần đây có người đến mách, ở Vinh Dương thuộc Lương Quận, buôn bán thịnh vượng. Ta người ngày càng nhiều, lương thảo dự trữ cũng phải lớn hơn, ai có thể tới đó kiếm ít nhiều, làm giàu thêm cho sơn trại.

Địch Nhượng đáp:

- Tiểu đệ đi có được chăng?

Mậu Công đáp:

- Đại huynh mà đi, thì nên để Huyền Thúy, cùng với Bá Đương, Đương Nhân, dẫn hai nghìn người ngựa đi trước, đại huynh cùng Nguyên Chân, Như Khuê, dẫn hai nghìn người ngựa theo sau tiếp ứng, thế mới là kế vạn toàn.

Lại nói với Hùng Tín:

- Xin nhị ca ở lại sơn trại, còn có chuyện phải bàn, Hai cánh người ngựa lục tục lên đường. Mậu Công sai người dò thăm tin tức Thúc Bảo, thì thấy Đơn Toàn trở về thưa:

- Tần đại huynh viết thư từ biệt Trương Thông Thủ, bỏ quân doanh, về hang Đậu Tử, gặp Tần mẫu rồi.

Hùng Tín hỏi:

- Sao không mời Tần hiền huynh về đây đã rồi hãy cùng đến đón Tần mẫu.

Mậu Công lên tiếng:

- Thúc Bảo nóng lòng gặp mẫu thân, so sao được với chuyện bạn bè, nên trước tìm đến đó là phải lễ. Giờ xin nhờ Đơn viên ngoại cùng Nhuận Phủ tới hang Đậu Tử một phen.

Rồi ghé tai Hùng Tín, nói nhỏ mấy câu, Hùng Tín gật đầu rồi cùng Nhuận Phủ lên đường.

***

Lại nói Thúc Bảo chia tay với Đơn Toàn, cùng với Lã Minh và mấy tay chân thân tín, sợ đi đường lớn gặp người quen, cho nên cứ theo đường mòn mà đi, qua Trường Gia phố, chuyển sang Độc Thụ Cương, bỗng nghe có tiếng người gọi đằng sau:

- Có phải Tần đại huynh phía trước không?

Thúc Bảo dừng ngựa, quay lại nhìn, thì thấy Hùng Tín cùng Nhuận Phủ, đem theo hai ba chục lâu la, đang ruổi ngựa đi tới. Thúc Bảo vội vàng xuống ngựa, Hùng Tín, Nhuận Phủ cùng xuống ngựa.

Hùng Tín cầm tay Thúc Bảo hỏi:

- Hiền huynh lập được nhiều công lớn cho nhà Tùy lắm phải không?

Thúc Bảo đáp:

- Cũng chẳng buồn nói tới chuyện này nữa. Xin tới sơn trại của Trình Giảo Kim sẽ kể tỉ mỉ. Đơn nhị ca định đi đâu bây giờ?

Hùng Tín đáp:

- Cũng chẳng có việc gì khác, Đơn Toàn quay về, nói rõ mọi chuyện, Hùng Tín này tìm tới đây để chờ hiền huynh vậy thôi.

Mọi người đều lên ngựa, thấy một người trên sườn núi phi ngựa bay xuống, trông thấy Thúc Bảo, liền lớn tiếng:

- Hay lắm! Đại ca đến rồi!

Thúc Bảo nhận ra Sĩ Tín liền vội hỏi:

- Hiền đệ, mẫu thân sức khỏe ra sao?

Sĩ Tín đáp:

- Sức khỏe bá mẫu nay vẫn bình thường, chỉ có quá lo cho đại ca, ngày bắt tiểu đệ ra đường trông ngóng ba lần. Nay thì tha hồ mà mừng, tiểu đệ xin chạy về báo trước, đại ca cùng mọi người cứ thong thả về sau.

Nói rồi, quay ngựa phi về sơn trại. Tần mẫu được tin, muốn trông thấy mặt Thúc Bảo ngay bèn dắt cháu Hoài Ngọc, Trương Thị, Trình mẫu cùng đi ra tận Nghi Đường đón Thúc Bảo. Trương Thị thấy trên Nghi Đường đông người, vội nép sau mọi người cùng vào.

Vưu Thông cùng Giảo Kim ra đón Thúc Bảo, Hùng Tín, chào hỏi xong xuôi, Thúc Bảo mới thấy mẫu thân ra vội vàng bái lạy, thấy Trình mẫu lại lạy chào. Trình mẫu cầm tay Thúc Bảo mà xuýt xoa:

- Thái Bình Lang, về sớm một ngày là đỡ một ngày, nếu chậm vài hôm nữa, thì cháu làm cho mẫu thân đến héo mòn vì trông đợi.

Tần mẫu thấy được con về quỳ lạy dưới gối, mắt nhỏ giọt ngắn dài, nói với Thúc Bảo:

- Con đứng dậy đi? Người đứng ở kia, có phải là Đơn viên ngoại không?

Thúc Bảo đáp:

- Đúng rồi?

Hùng Tín cùng Nhuận Phủ thấy Thúc Bảo đã đứng dậy, cả hai liền lại chào Tần mẫu, thăm hỏi Trình mẫu. Tần mẫu gọi Hoài Ngọc lại, bái nhận Hùng Tín là bác, hỏi Hùng Tín:

- Lệnh ái có lẽ đã lớn nhiều rồi?

Hùng Tín đáp:

- Cháu tên là ái Liên, lớn hơn Hoài Ngọc này một tuổi. Tuy cũng còn nhỏ, nhưng cùng đã hiểu biết ít nhiều.

Tần mẫu tiếp:

- Nhất định là xinh đẹp, nết na lắm!

Trình mẫu cười nói với Tần mẫu:

- Ngày tháng trôi mau, mới lúc nào Thái Bình Lang cùng Giảo Kim còn nhỏ xíu mà nay đã vợ con. Cả cháu Hoài Ngọc này nữa cũng đã lớn từng này rồi!

Giảo Kim gắt:

- Mẫu thân, nay Tần đại ca đã làm quan rồi, sao mẫu thân vẫn còn gọi cái tên thời để tóc trái đào ấy?

Trình mẫu cười:

- Chỗ đi lại thân thiết, dẫu Thái Bình Lang có làm tới hoàng đế chăng nữa, thì ta cũng chẳng sợ, cũng chỉ gọi thế đấy thôi.

Ai nấy cả cười, Tần mẫu nói với Thúc Bảo:

- Con hãy vào trong kia gọi Trương Thị ra đây, rồi chúng ta cùng về trại sau.

Rồi cùng Trương Thị chuyện trò một lát, thì đã thấy trong Nghi Đường đã bày cơm rượu sẵn sàng. Vưu Thông mời mọi người ngồi vào, nâng chén chúc mừng gặp gỡ. Vưu Thông hỏi Thúc Bảo về chuyện chinh Liêu đã qua, Thúc Bảo kể qua một lượt, ai nấy đều ngậm ngùi phàn nàn, Thúc Bảo hỏi Vưu Thông:

- Vưu viên ngoại đang sống yên ổn ở Vũ Nam trang, sao lại bỏ lên đây?

Giảo Kim vội đáp:

- Cũng bởi chuyện ở rừng Trường Điệp rối tung lên, nên Vưu viên ngoại mới phải lên đây, nếu không đời nào viên ngoại chịu đi, để cùng chúng tiểu đệ làm những chuyện này.

Vưu Thông cãi:

- Cũng không phải thế, Đơn nhị ca có Nhị Hiền trang còn đường hoàng hơn nhiều, nay thấy bọn Huyền Thúy như vậy, cũng kéo lên Ngõa Cương cả. Thì cũng là anh em chúng ta tìm cách gây dựng nghiệp cho mỗi người chứ?

Nhuận Phủ tiếp:

- Thời thế như thế này, chẳng cần sơn trại, mà ngay ở miếu đường cũng vậy thôi, phải cùng nhau đồng tâm góp sức, thì mới có thể làm nên. Vì vậy, anh em chúng ta cũng nên dồn về một nơi mới là kế lâu dài.

Giảo Kim đáp:

- Nay đã có Tần đại ca, lại có thêm cả Đơn viên ngoại, cùng họp mặt ở đây, vốn là anh em tâm phúc cả, ta hãy cùng nhau gây dựng thật lớn, thua gì Ngõa Cương nào. Địch đại huynh làm được hoàng đế, thì Tần đại ca, Đơn viên ngoại sao lại không làm được hoàng đế?

Mọi người được dịp cười vang, rồi cùng nhau nâng chén say sưa mãi cho tới trăng lên đầu ngọn cây.

Sáng ngày hôm sau, ai nấy đang ngồi ở Nghi Đường chuyện trò, thì thấy lâu la vào báo:

- Ở Ngõa Cương sai người tới, cần gặp Đơn đại vương.

Hùng Tín vội sai tay chân ra dẫn vào. Chẳng bao lâu, một tên lâu la vào thưa:

- Từ đại vương có một phong thư mật, sai tiểu nhân đưa tận tay Đơn đại vương:

Hùng Tín cầm, xé ra xem thì thấy trong thư viết:

"Vừa ngày hôm kia do thám kỹ lưỡng, nghe nói Đông Đô có cho lệnh cho Hà Bắc Thảo bộ đại sứ Bùi Nhân Cơ, lãnh hai vạn binh mã, hiệp đồng cùng Sơn Đông Thảo bộ đại sứ Trương Tu Đà, để tiễu phạt lũ phản nghịch Lý Mật, Vương Bá Đương, cùng là truy bắt bọn Tần Quỳnh vì tội giết quan, sát lại, tóm hết gia quyến cùng quét sạch sào huyệt. Sắp tới thế nào hai viên tướng này cũng kéo đến. Đơn nhị ca tức tốc hồi trại để bàn kế cự địch. Hai vị Vưu, Trình cũng phải định sẵn mưu sách. Thúc Bảo đại huynh, lâu nay khát khao gặp gỡ, chưa được bái chào, nếu cùng về càng hay, rất mong, rất mong!"

Hùng Tín đọc to một lượt, mọi người đều kinh ngạc. Giảo Kim cất tiếng:

- Việc gì phải lo nghĩ nhiều, chờ chúng nó tới đây, cứ vác hai lưỡi búa sắt này, cho chúng nó một trận biết tay nhau.

Thúc Bảo nói:

- Giảo Kim hiền đệ không nên bàn đại khái cho xong việc. Trương Tu Đà vừa hữu dũng hữu mưu. Bùi Nhân Cơ lại là một viên túc tướng, cả hai đều kéo theo hai vạn binh mã, sức có thể lật núi lấp biển. Giờ ở sơn trại này, nếu tính cả anh em Sĩ Tín này nữa, chỉ có bốn người. Gia quyến Đơn nhị ca cùng Nhuận Phủ lại đều ở Ngõa Cương, nên nhất định còn về Ngõa Cương trông coi. Mấy người như thế này, xếp đặt ra sao?

Vưu Thông bàn:

- Trước đây Địch đại huynh cũng có gửi thư tới, mời anh em chúng tôi, nhân lúc ấy cả hai vị Tần, Đơn đều chưa lên sơn trại, nên chúng tôi không nghe. Nay Đơn viên ngoại gia quyến đã ở Ngõa Cương. Tần đại huynh cùng gia quyến lại hiện đang ở dây, sao không nghĩ tới chuyện hai nơi dồn một, lâu chóng thế nào, xin tùy anh em bàn bạc.

Thúc Bảo tán đồng:

- Như thế thì tốt rồi? Nhưng không hiểu nhà ở trên Ngõa Cương, liệu có đủ chăng?

Hùng Tín đáp:

- Hùng Tín này mới tới sơn trại, thì đã thấy mọi người dựng liền một lúc ở hậu trại bốn năm chục gian nhà, phía trước còn xây thêm cả bờ đập, gác cao, các nhà kho, rào tường, đều được tu bổ thường xuyên. Chẳng nói gì ba bốn nhà, mỗi nhà mấy gian liền cũng vẫn đủ chán.

Giảo Kim giục ngay:

- Nếu đã như vậy, chúng ta mau thu thập đi thôi!

Hùng Tín nói với Nhuận Phủ:

- Hiền đệ về ngay Ngõa Cương, báo cho Từ Mậu Công biết trước, ba vị ở đây cùng gia quyến sẽ cùng về sơn trại sau.

Nhuận Phủ vội lên ngựa đi ngay. Vưu Thông, Giảo Kim cùng Thúc Bảo sai phái gia đinh, thu thập tế nhuyễn riêng tư, cắt đặt lâu la đóng gói lương thảo, rồi cả đoàn khoảng hơn hai nghìn người, cùng kéo về nhập với anh em ở Ngõa Cương.

Chính là:

Cọp mạnh thêm nanh vuốt

Rồng thiêng gặp gió mây.

* * *

Lại nói chuyện Địch Nhượng, Lý Mật kéo hai cánh người ngựa, đi cướp lương thảo của bọn khách thương, đồng thời chiếm thành, lấy đất nên thanh thế ở Ngõa Cương càng ngày càng mạnh mẽ, rộng lớn. Lúc này Trương Thông Thủ vẫn còn ở Bình Nguyên, nhân ba bốn ngày không thấy mặt Thúc Bảo, nghĩ rằng Thúc Bảo ốm đau ra sao, liền sai Phàn Kiến Uy tìm đến quân doanh Thúc Bảo xem sao. Quản doanh thưa:

- Hai ngày trước đây, Trương đại nhân sai Tần tướng quân đi do thám địch tình chưa về.

Kiến Uy vội quay về thưa với Trương Thông Thủ, Thông Thủ băn khoăn:

- Ta có sai đi đâu bao giờ? Có chuyện gì khác thường đây!

Đang bàn luận, Tế Châu sai người đưa công văn tới, mở ngay ra xem. Thông Thủ kinh hoàng vội nhảy lên ngựa, cùng Kiến Uy, Vạn Nhẫn phi ngay đến quân doanh Thúc Bảo, vào thư phòng thấy phong thư trên án. Trương Thông Thủ vội xé ra xem, kinh ngạc nói:

- Thì ra Thúc Bảo oán cừu với Vũ Văn Thuật, nên bị họ Vũ Văn mấy lần tìm cách hãm hại, cuối cùng phải bỏ ra đi. Khá tiếc cho con người này, vừa có dũng vừa có mưu, một kẻ giúp việc đắc lực cho ta. Nay Thúc Bảo đã đi rồi, ta làm thế nào đây?

Về đến soái phủ, làm công văn phúc đáp phủ Tế Châu, lại thấy thánh chỉ điều sang làm thông thủ Vinh Dương, lệnh tiễu trừ bọn Địch Nhượng. Trương Tu Đà đành đem theo bọn Kiến Uy, Vạn Nhẫn cùng bộ hạ người ngựa, về Vinh Dương nhận chức. Kiến Uy, Vạn Nhẫn tuy xuất thân ở chốn công môn, nhưng bản lĩnh sao bằng Thúc Bảo. Cả hai cùng đều là bậc trượng phu nghĩa khí, vốn thân thiết cùng Thúc Bảo, thuở Trương Tu Đà đang còn làm quận thừa, cũng đã nhiều lần giúp đỡ tận tâm, nên giờ nghiễm nhiên trở thành tay chân tin cẩn của Trương, cùng nhau bàn cách tấn công Địch Nhượng. Nhưng không ngờ anh em Ngõa Cương cũng không phải kém cạnh gì ai, chỉ riêng một cánh quân của Huyền Thúy, chỉ gồm hơn một nghìn người ngựa, đánh phá cửa Kim Đề xong, kéo tới tiếp viện cho Vinh Dương. Giữa lúc Địch Nhượng đang coi sóc lâu la bao vây thành, bất ngờ Trương Thông thủ, theo sau là Kiến Uy, Vạn Nhẫn, cùng năm trăm tinh binh, mở cửa thành xông ra.

Địch Nhượng tuy dũng cảm, cũng không địch nổi ngọn thần thương của Trương Thông thủ, thần xuất quỷ một, Nguyên Chân, Như Khuê cũng đành bỏ chạy. Địch Nhượng bị cả hai Kiến Uy cùng Vạn Nhẫn hiệp sức đánh, phải ruổi ngựa chạy dài. Trương Thông thủ đuổi theo đến hơn mười dặm, may được đội quân của Huyền Thúy, Bá Đương kéo đến tiếp viện, Trương Thông thủ mới rút quân quay về.

Ngày hôm sau, Huyền Thúy bày mưu: xếp người ngựa mai phục bốn phía. Địch Nhượng dẫn quân dụ Trương Thông thủ đến chùa Đại Hải, thì thấy hai bên rừng hò hét xông ra, Huyền Thúy, Bá Đương, Đương Nhân cầm đầu. Kiến Uy cùng Vạn Nhẫn đã biết Huyền Thúy, Bá Đương ở lần chúc thọ Tần mẫu nhưng đến lúc quan hệ đến tính mạng cũng chẳng còn cách nào khác, phải cùng Trương Thông thủ phá vòng vây mà thoát, thì không thấy Vạn Nhẫn đâu cả. Trương Thông thủ ra lệnh:

- Phải đợi ta vào tìm Vạn Nhẫn đã!

Kiến Uy cùng Trương Thông thủ lại phải xông vào vòng vây, thấy Vạn Nhẫn bị bọn lâu la bắt trói chặt, rồi chập mấy cây trường thương lại khiêng đi. Trương Thông thủ vội xông tới, giơ thương đâm ngã mấy lâu la, khỏi vòng vây lại chẳng thấy Kiến Uy đâu. Trương Thông thủ lệnh cho bộ hạ:

- Hãy đưa Đường Vạn Nhẫn về thành, ta phải quay vào tìm Kiến Uy đã, chứ không thể về một mình được!

Lúc này Trương Thông thủ đã mỏi mệt lắm rồi, nhưng cũng vì thương tiếc kẻ dưới trướng tận tụy, nên lại cố quay vào vòng vây lần nữa, không ngờ trước đó Kiến Uy ngã ngựa, bị ngựa xéo chết, tìm sao cho được. Huyền Thúy lúc đầu thấy Kiến Uy cùng Vạn Nhẫn ở bên phía Trương Thông thủ, cũng đã có ý "ném chuột tránh đừng vỡ đồ quý", đã có nghiêm lệnh không được dùng cung tên. Nay thấy Trương Thông thủ chỉ một người một ngựa, lập tức lệnh bốn phía cùng chĩa cung tên vào, kín đặc như một đàn ong, dù Trương Tu Đà có kín người khôi giáp đi nữa, cũng chằng thể nào che hết được. Khá thương cho Trương Thông thủ, một lòng vì nước vì dân, một mực dũng cảm trung trinh, cũng đành bỏ mạng nơi chiến địa?

Chính là:

Sông Vị ánh sao chìm

Đài mây việc đành hỏng.

Địch Nhượng, Huyền Thúy bắn chết được Trương Thông thủ, đại thắng trở về. Từ Nội Hoàng, Vi Thành cho đến Ung Khâu, giờ thuộc bọn anh em Ngõa Cương, Huyền Thúy sai người về sơn trại báo tin thắng trận, hào kiệt nghe tin, đều vỗ tay vui mừng. Chỉ riêng Thúc Bảo, nghe tin Trương Thông thủ tử trận, không ngăn được nước mắt mà nghĩ: Thông thủ đãi ta vừa có tình vừa có lễ, những mong mình cùng họ Trương hoạn nạn cùng chịu, vinh hoa cùng chia. Khó khăn thì họ Trương đã đứng ta cáng đáng thay mình, ơn nghĩa bao nhiêu. Không ngờ xảy ra chuyện này, mình lại bỏ đi tìm lấy riêng đường sống, để đến nỗi họ Trương bị người khác giết chết. Thế là thây phơi chiến địa, xương cốt không biết giờ ra sao? Liền đứng dậy nói với Hùng Tín:

- Đơn nhị ca, tiểu đệ từ khi về đây, chưa một lần ra mắt Địch đại huynh, tưởng cũng có chỗ không tiện. Xin cho tiểu đệ đi Vinh Dương, để gặp Địch đại huynh, cũng là chào hai hiền đệ họ Lý họ Vương một lần, liệu có nên chăng?

Mậu Công thay lời:

- Xin đại huynh cứ đi. Cả chúng tiểu đệ cũng xin theo, nay nhiều quận huyện quy thuận, ở đấy Địch đại huynh không đủ người lo liệu, chúng ta cần phải theo giúp một tay. Ở đây thành quách kiên cố chỉ cần một hai vị trông coi là đủ rồi. Vưu Thông viên ngoại, vốn là một điền chủ giàu có, xin ở lại giữ trại cùng với Cự Chân, cũng là trông coi gia quyến mọi người. Lại cử thêm Đơn Toàn làm tổng lãnh cho viên ngoại, trông coi lũ lâu la trên sơn trại, ngày đêm tuần tiễu sau trước, lo việc xuất nhập lương thực, khí giới.

Xếp đặt xong xuôi, Mậu Công, Quốc Viễn, Giảo Kim, Nhuận Phủ làm tiền đội, Hùng Tín, Thúc Bảo, Sĩ Tín làm hậu đội, đều trang bị cung tên nhẹ nhàng, lên ngựa, dẫn lâu la rời khỏi Ngõa Cương.

Đến địa phận Trinh Châu, thì thấy tiêu mã báo người ngựa của Địch Nhượng đang đi tới. Thì ra Địch Nhượng cùng Huyền Thúy, sau khi tiến công Dĩ Thủy, Trung Mâu, thu được rất nhiều ngọc lụa, đàn bà con gái, đang muốn quay về Ngõa Cương say sưa một chuyến, nên Địch Nhượng liền chia quân cho Huyền Thúy rồi lên đường về sơn trại trước. Hai cánh quân gặp gỡ. Địch Nhượng lâu nay đã nghe danh Thúc Bảo nên chào hỏi rất thân thiết, Hùng Tín hỏi sự tình, biết Địch Nhượng có ý quay về Ngõa Cương, bèn nói:

- Địch đại huynh này, nếu chúng ta chỉ nghĩ tới việc làm cường đạo để cả đời ít ngọc lụa cùng mấy cô gái đẹp, thì đúng là chỉ cần đóng giữ ở Ngõa Cương cũng được. Nhưng định mưu đồ vương bá, thì phải cùng với Huyền Thúy, bàn cách chiếm cứ lấy châu huyện đã hàng phục mới xong.

Địch Nhượng nghe thế, nhưng cũng chưa ưng thuận ngay, lại thấy tiêu mã thưa tiếp:

- Lý đại vương đã thu phục được vùng Hàn Thành, được rất nhiều kho tàng, Lý đại vương nghe tin các đầu lĩnh kéo binh mã xuống núi, sai tiểu nhân thưa cùng Đơn đại vương, nếu có Tần Quỳnh cùng đi, thì xin dẫn ngay binh mã tới cùng Lý đại vương gặp gỡ.

Hùng Tín đáp:

- Biết rồi!

Vì vậy Địch Nhượng cũng đành thôi hẳn ý định về Ngõa Cương mà cùng kéo quân đi gặp Huyền Thúy. Qua đường Vinh Dương, Tần Thúc Bảo liền nhờ Liên Minh tìm thi thể Trương Tu Đà, thì biết rằng bọn bộ hạ bởi cảm ơn nghĩa Thông thủ họ Trương đã khâm liệm đâu đấy cùng với quan tài của Phàn Kiến Uy, đều đang được quàn trong chùa Đại Hải. Thúc Bảo bèn nói với Hùng Tín:

- Phiền nhị ca nói với Địch đại huynh, xin chư vị cứ dẫn quân đi trước, tiểu đệ xin ở lại đây một hai ngày.

Hùng Tín biết ý, nói ngay với Địch Nhượng, mọi người tiếp tục lên đường, còn lại mỗi Hùng Tín, Thúc Bảo cùng Sĩ Tín. Ngày hôm sau, sai tay chân bày biện đủ lợn dê cùng các thứ đồ lễ khác trong chùa Đại Hải, chính giữa hương án là bài vị, ghi rõ: "Tùy triều, cố Thông thủ Vinh Dương Trương Công chi vị". ở bên cạnh cũng thêm một bài vị viết: "Tùy triều, tử tiết thiên tướng Tế Châu Phàn Hổ chi cữu" Thúc Bảo cùng Sĩ Tín không ngăn nổi thương cảm, ngay cả Hùng Tín cũng không giữ nổi thổn thức.

Ba người đương lúc than vãn, thấy bên ngoài có đến bốn năm chục người khoác mũ áo tang trắng, tiến vào. Sĩ Tín trông ra, chưa rõ người xấu người tốt ra sao, tuốt ngay kiếm quát lớn:

- Các người kéo đến đây làm gì?

Bọn người này đáp:

- Chúng tôi cảm ơn sâu của ân tướng, rủ nhau đến đây trông coi linh cữu, sau lễ một trăm ngày, sẽ mỗi người đi mỗi nơi. Hôm nay biết được Tần tướng quân tới tế lễ, vì vậy tới để gặp mặt.

Thúc Bảo mời mọi người vào, thầm nghĩ: "Binh lính là phường dân đen nghèo khổ, mà hãy còn nghĩa khí như thế, ta là loại người gì mà dám vong ân bội nghĩa?" Liền mặc áo tang, đồ lễ cũng đã bày biện tươm tất, Thúc Bảo cùng Sĩ Tín vào tế, khóc lóc một hồi, bọn lính tráng đứng sau cũng dậm chân, lăn lộn ra đất khóc than, tiếng vang cả ra bên ngoài. Hùng Tín cũng ăn mặc chỉnh tề bước vào vái lạy. Đang lúc lộn xộn như thế, thấy bên ngoài một người đi vào, đầu đội mũ gai, nước mắt ngắn dài, theo sau là mấy người bạn bè, tiến vào trước linh cữu. Bọn lính mặc áo tang đứng đó, nhận ra, bảo nhau:

- Đường tướng quân đến!

Thúc Bảo lúc này mới nhận ra Đường Vạn Nhẫn, liền cầm tay Vạn Nhẫn nói:

- Hiền đệ tới đúng lúc lắm!

Vạn Nhẫn như không trông thấy, cũng không nghe thấy, điềm nhiên tới trước linh sàng khóc lớn, vừa gõ vào hương án vừa kể:

- Tướng công lúc sống chính trực, lúc mất thần minh. Đường Vạn Nhẫn này vốn bậc tiểu nhân. Ơn được tướng công lấy vào dưới trướng, đặt trên những người khác. Mấy năm gần đây, cùng nhau chia đắng xẻ bùi, nhường cơm cởi áo, ơn nghĩa của tướng công đến thế là cùng cực. Vẫn biết người tướng công yêu dấu hơn còn lắm kẻ, nhưng vì chúng tôi hai người mà rút kiếm dấn thân, để đem lại cái sống chúng tôi, nhưng tướng công thì lại mất giữa trận tiền, Đường Vạn Nhẫn này đâu dám yên tâm trộm sống, khi mà tướng công đã không còn ở đời!

Thúc Bảo đứng ở bên cạnh, thấy Vạn Nhẫn vừa khóc vừa than đến mấy câu cuối, như người mất hồn, điệu bộ ngơ ngẩn, không ai dám lại can để khuyên nhủ một lời. Hùng Tín cùng bộ hạ cũng nước mắt ngắn dài, thấy dáng điệu Thúc Bảo đầy vẻ thảm thương, nên đang định tiến lên an ủi Vạn Nhẫn, thì thấy Vạn Nhẫn gõ mạnh vào hương án mà tiếp:

- Ân tướng! Ngài vốn là thần, tất linh thiêng, Đường Vạn Nhẫn này đã không được cùng chết ở chiến trường, hôm nay xin được theo ngài về nơi địa phủ.

Nói xong, chỉ thấy ánh kiếm sáng loáng, người đã ngã lăn ra phía sau, kiếm văng một nơi, máu phun đầy đất. Thúc Bảo vội ôm lấy thi thể mà gào lớn:

- Đường Vạn Nhẫn hiền huynh, hiền huynh tìm được một cái chết thật xứng đáng! Hiền huynh đã cùng ân tướng về tuyền đài cả. Tần Quỳnh này cũng xin được học theo gương hiền huynh!

Nói rồi nhặt ngay thanh kiếm của Vạn Nhẫn vừa rơi, định đâm vào cổ, phía sau Sĩ Tín vội ôm lấy mà hét lớn:

- Đại ca ơi! Đại ca quên mẹ già rồi sao?

Sĩ Tín giằng ngay lấy kiếm, đưa cho thủ hạ mang đi chỗ khác, Thúc Bảo khóc lóc một hồi, xếp đặt lính tráng, lo liệu việc tống táng. Sau đó phân phát đồ tế, rồi cùng với Hùng Tín, Sĩ Tín, lên đường đuổi theo bọn Mậu Công.

Chính là:

Nào đòi đáp nghĩa bụi lau (*1)

Kia danh Phiếu mẫu phải nào hư danh.

*1 Ngũ Viên bỏ trốn khỏi nước Sở, được ông già chống thuyền nấp trong bụi lau, chở trộm cho sang sông. Ngũ Viên xin ông già giữ kín chuyện cho. ông già liền nhảy xuống sông tự tử để Ngũ Viên khỏi nghi hoặc, lo lắng.

(Đông Chu Liệt Quốc)

hết: Hồi Thứ Bốn Mươi Lăm, xem tiếp: Hồi Thứ Bốn Mươi Sáu

Hồi Thứ Bốn Mươi Sáu

Giết Địch Nhượng, Lý Mật phụ bạn,

Loạn cung phi, Đường Công dấy binh.

Từ rằng:

Bã vinh hoa miệng mồi ngon ngọt

Nhử đứa tham, được mất nịnh ghen

Hại sừng ốc nhỏ đua chen (1)

Chẳng bao giờ hết đê hèn nhiễu nhương

Cơ duyên lại đưa đường dẫn lối

Rượu cừu thù miệng lưỡi gươm đao

Công danh ấy, công danh nào

Cao gò xương trắng, đầy hào máu đen.

Theo điệu "Thanh sam thấp"

1 "Nam hoa kinh": Ở hai đầu sừng của con sên, có hai nước, đánh nhau suốt năm này sang năm khác, gieo vạ không cùng cho dân chúng.

* * *

Lại nói Tần Thúc Bảo ở chùa Đại Hải lo chuyện chôn cất Trương Thông thủ cùng Kiến Uy, Vạn Nhẫn, lại làm thêm mấy ngày lễ cầu siêu chu tất, rồi mới cùng Đơn Hùng Tín, La Sĩ Tín lên đường tới Khang Thành hội họp với Huyền Thúy, Bá Đương, hỏi chuyện cũ, bàn việc mới, thật là đằm thắm. Thúc Bảo khuyên Huyền Thúy dùng lính khinh kỵ đánh úp Đông Đô, để lấy làm nơi cơ bản, rồi từ đó mà yên định bốn phương. Địch Nhượng nghe được kế này, liền làm ngay, lệnh cho đầu mục Bùi Tự Phương, đem theo một số tay chân lanh lợi, đi trước thăm dò đường lối, chỗ nào sông sâu chỗ nào núi cao cửa ải, cầu cống ra sao, binh mã triều đình thế nào. Không ngờ bị quân triều đình phát hiện, bắt được ba bốn người, biết rõ là gian tế của Địch Nhượng, liền giải ngay về phủ Binh Bộ của Vũ Văn Thuật để tra khảo, rồi đem chém đầu. Chỉ còn Tư Phương cùng ba bốn người khác trốn được về. Sau việc này, Đông Đô tăng cường phòng bị.

Còn Huyền Thúy cử ngay Thúc Bảo, đem theo Giảo Kim, Sĩ Tín, dẫn khinh binh lặng lẽ tập kích Dương Thành, lẻn qua Phương Sơn, thắng chiếm Thương Thành, Địch Nhượng, Huyền Thúy mới lục đục kéo đến sau. Cả một vùng Lạc Khẩu, chẳng mất một mũi tên, rơi vào tay Địch Nhượng. Huyền Thúy mở kho lương phát không cho trăm họ bốn phương, vì vậy xung quanh vùng, dân chúng đều đua theo về. Bọn sĩ đại phu Thời Đức Duệ, huyện lệnh Túc Thành Tổ Quân Ngạn cũng bỏ theo.

Đông Đô nghe báo chuyện này, Việt Vương Đồng liền sai Hổ bôn lang tướng Lưu Nhân Cung, Quang lộc thiếu khanh Phòng Tắc, dẫn hai vạn năm nghìn binh mã, cùng Hà Nam thảo bổ đại sứ Bùi Nhân Cơ trước sau tiến công, hội quân ở Thương Thành. Không ngờ mọi sự đã được Huyền Thúy định liệu từ trước, điều năm cánh tinh binh, đánh cho quân Tùy thua to. Lưu Nhân Cung, Phòng Tắc bỏ chạy thoát thân. Bùi Nhân Cung nghe tin cánh quân Đông Đô thua trận, cũng án binh bất động. Tiếng tăm Huyền Thúy càng ngày càng lớn rộng.

Địch Nhượng có một viên quân sư là Giả Hùng, thấy Huyền Thúy yêu người đãi sĩ, liền ngầm liên kết với Huyền Thúy. Khi Địch Nhượng muốn tự tập làm vua. Giả Hùng được sai gieo quẻ bói mấy lần, đều nhìn cách nói dối là quẻ không tốt, chỉ nên làm tay chân cho Huyền Thúy, lại viện cớ rằng:

- Huyền Thúy vốn đã được tước phong Bồ Sơn Công, còn tướng quân họ Địch, Địch cũng là đầm lầy, cỏ bồ gặp đầm lầy thì sinh (1). Số mệnh đã an bài thế rồi! Huống chi gần đây thấy có câu đồng dao:

1 chữ "Địch", cũng đọc là "trạch", đồng âm với chữ "trạch" là đầm lầy. Bồ là một loại cỏ mọc ở đầm lầy, gần giống lác ở ta vậy.

Đào lý tử

Hoàng hậu lạc Lạc Dương

Quanh quẩn giữa vườn hoa

Đừng nhiều lời

Ai không nói!

"Đào Lý tử" nghĩa là "chạy về với con cái họ Lý", hai câu tiếp chỉ triều Tùy xuống Dương Châu rồi không còn về bắc nữa. Hai câu cuối chính là chỉ chữ "mật", tên riêng của Huyền Thúy (1).

1 "Đào" là cây đào, đồng âm với "đào" là trốn là theo. Chữ "mật" có nghĩa là bí mật, giữ kín không nói cho ai biết, vì thế hai câu cuối hàm ý chữ "mật" vậy!

Vì vậy Địch Nhượng bàn với chúng hào kiệt, tôn Huyền Thúy lên làm Ngụy Công, lập đàn lên ngôi, xưng hiệu là Vĩnh Bình nguyên niên, ban lệnh đại xá thiên hạ, tuyên cáo khắp cõi, đặt Nguyên soái phủ, bái Địch Nhượng làm Thượng trụ quốc tư đồ Đông Quận công, Từ Mậu Công làm Tả phiên vệ đại tướng quân, Đơn Hùng Tín làm Hữu phiên vệ đại tướng quân, Tần Thúc Bảo làm Tả vũ hầu đại tướng quân; Vương Bá Đương làm Hữu vũ hầu đại tướng quân; Trình Giảo Kim làm Hậu vệ tướng quân; La Sĩ Tín làm Phiêu ký tướng quân; Tề Quốc Viễn, Lý Như Khuê, Vương Đương Nhân đều làm Hổ bôn lang tướng, Phòng Ngạn Tháo làm Nguyên soái phủ Hữu trưởng sử; Giả Nhuận Phủ làm Tả tư mã; Liên Cự Chân làm Hữu tư mã, quan Tùy theo về, huyện lệnh Củng Huyện làm giám sát ngự sử.

Bùi Nhân Cơ tuy đóng ở Hà Nam nhưng lại không hòa thuận với giám sát ngự sử Tiêu Hoài Tĩnh. Hoài Tĩnh tìm đủ mọi cách để chèn ép Nhân Cơ, đến nỗi Nhân Cơ không thể nào chịu nổi. Nhuận Phủ vốn có quen biết cũ với Nhân Cơ, thường vẫn lén đến quân doanh thuyết phục Nhân Cơ cùng với con là Bùi Hằng Nghiễm giết Hoài Tĩnh, kéo toàn quân theo Nhuận Phủ đến hàng Ngụy Công. Ngụy Công lấy lễ đối xử rất ưu ái, phong cho Nhân Cơ làm Thượng trụ quốc, Hà Đông Công, Hằng Nghiễm làm Thượng trụ quốc, Giáng Quận công. Huyền Thúy dẫn quân lấy được Lạc Thương, Đông Đô vội làm văn thư cáo cấp về Giang Đô. Vua Tùy sai Giang Đô thông thủ Vương Thế Sung, kéo tinh binh vùng Giang Hoài về giữ Đông Đô, Huyền Thúy liền rút quân về, Thúc Bảo kéo quân đánh Vũ Dương. Vũ Dương quận thừa là Nguyên Bảo Tạng, nghe tin binh Thúc Bảo đến, vội gọi ngay ký thất Ngụy Trưng để bàn cách đối phó. Ngụy Trưng chính là Ngụy Huyền Thành, đạo sĩ ở Hoa Sơn vật. Ngụy Trưng thấy thiên hạ đại loạn, chính là lúc anh hùng đắc ý, bèn hoàn tục đến làm dưới trướng Bảo Tạng. Bảo Tạng hỏi:

- Huyền Thúy đang lúc tướng mạnh binh hùng, Thúc Bảo lừng tiếng. Bản quận đây có bao tinh binh thì đã phái đi cứu viện cho Đông Đô, làm thế nào mà chống giặc giờ?

Ngụy Trưng bàn:

- Huyền Thúy thế mạnh, Thúc Bảo anh hùng, lại thêm có tiếng hiền đức. Vũ Dương ta mà đối địch với họ, cũng chẳng khác gì lấy một hòn đất mà định ngăn dòng sông lớn vậy. Minh công nên chọn lấy kế hay, để bảo toàn lấy dân chúng, quan binh, thành quách.

Bảo Tạng đáp:

- Còn kế gì hay nữa bây giờ, chỉ có cách là theo hàng quách, giữ được yên ổn cả thành. Túc hạ hãy mau viết thư hàng, rồi thân đến quân doanh của họ một chuyến vậy.

Quân Thúc Bảo kéo đến, Ngụy Trưng đến gặp. Ba bạn cũ gặp nhau, mười phần hoan hỉ, Thúc Bảo cười nói với Ngụy Trưng:

- Tiểu đệ từ trước đã đoán tiên sinh chẳng mặc được bộ áo vàng của đạo sĩ suốt đời, nay quả nhiên như vậy.

Nhân hỏi đến tình trạng hiện thời của Vũ Dương, Ngụy Trưng đáp:

- Quận thừa Nguyên Bảo Tạng có đức độ biết thuận mệnh trời, nguyện đem toàn thành quy phục chẳng phiền cố nhân phải binh đao khó nhọc.

Thúc Bảo đáp:

- Đó chính là nhờ công dàn xếp của tiên sinh, xin hãy đến dưới trướng của Ngụy Công, trình hàng thư cho hợp lễ nghi vậy.

Rồi giữ lại trong quân doanh chuyện trò cho bõ những ngày xa cách: Thúc Bảo lại làm tờ trình, nói rõ Ngụy Trưng có tài giúp dựng nghiệp vương bá, trù liệu nơi màn trướng, Ngụy Công nên trọng dụng. Thấy được Thúc Bảo hết lòng tiến cử, Huyền Thúy liền cử Ngụy Trưng làm Nguyên soái phủ văn học tham quân ký thất, còn Bảo Tạng được giữ chức Ngụy Châu tổng quản.

***

Nay nói chuyện Địch Nhượng, lúc đầu vốn là một tay vũ dũng vô mưu, cho nên khi còn ở giữa đám lục lâm nổi bật vẻ anh hùng, đến khi có bọn Huyền Thúy đều thuộc loại túc trí đa mưu, đánh thành chiếm đất, hoạch định mưu lược, thì sao theo nổi, lại nghe theo lời bọn Giả Hùng, Lý Từ Anh, nhường cho Huyền Thúy lên ngôi Ngụy Công, còn mình cam chịu phận dưới. Về sau nhiều người về theo, Huyền Thúy càng quyền thế, trong lòng càng sinh lòng không cam chịu. Lại có thêm người anh là Địch Hoàng, được phong là Thượng trụ quốc Vinh Dương Công, vốn cũng một phường thô lỗ, Địch Hoàng nói:

- Quyền bính của nhà ta, cớ gì lại rơi vào tay kẻ khác, để rồi lại phải đi hầu hạ dưới trướng bọn chúng nó.

Lại thêm bọn tay chân cũ, nay thấy tâm phúc Huyền Thúy quyền hành ngang dọc, còn mình bị bỏ rơi, nên càng bày vẽ, xúi giục nhiều chuyện càn rỡ. Người xưa đã từng nói: "Vật tiên hủ dã, nhi hậu trùng sinh", vật trước tiên phải thối nát đã, sau ròi bọ mới theo đó mà sinh. Lúc này mà có kẻ đứng ra dàn xếp, thì cũng chẳng có chuyện gì lớn. Hùng Tín dẫu có thân thiết cả hai bên, nhưng vốn là người thẳng tính. Bá Đương, Thúc Bảo, Giảo Kim vốn chỉ thân thiết với Huyền Thúy, Mậu Công thì dẫu có tài thao lược, nhưng lại sợ đứng ra đương đầu chẳng xong, chỉ tổ mang họa.

Một hôm, Địch Nhượng vòi tiền bạc của thứ sử Yên Long Thôi Thế Khu vừa mới quy hàng, rồi dọa bỏ giam ngục tối, Huyền Thúy sai người đến đòi Thế Khu, nhưng Địch Nhượng vẫn không chịu thả. Ký thất nguyên soái phủ là Hình Nghĩa Kỳ, được Địch Nhượng gọi đến đánh cờ, đến chậm, bị Nhượng đánh cho tám mươi roi. Phòng Ngạn Tháo đánh Nhữ Nam về, Nhượng đòi chia vàng lụa, nói:

- Tại sao ngươi dâng cho Ngụy Công mà không chịu dâng cho ta. Ngụy Công là do ta lập nên, còn chuyện sau này ra sao thì ta không thèm biết.

Do những việc này, Phòng Ngạn Tháo, Hình Nghĩa Kỳ, cùng tư mã Trịnh Đinh khuyên Huyền Thúy trừ Nhượng. Huyền Thúy nói:

- Nghĩ đến ban đầu tới đây, nhờ Nhượng mà thoát khỏi họa lớn, thực là công lớn. Nay định bức hại Nhượng, người ngoài nào biết ngang ngược, mà đổ cho ta bội nghĩa ghét tài, rồi đem lòng đố kị, không thể nào làm được.

Nhưng lại thầm nghĩ: "Nhượng là kẻ hảo hán, chỉ sợ lâu ngày bị bọn thủ hạ lôi kéo làm bậy, thì đúng là nuôi họa ngay bên nách vậy", Trịnh Đinh thưa:

- Rắn cắn, chất độc lan cả cánh tay. Tráng sĩ ngang dọc, anh hùng hành sự, không thể để ý đến hết những chuyện tiếng danh, nghĩa khí lặt vặt. Nay chỉ sợ chạm đến hư danh, mai kia sẽ thực chịu vạ chu di, lúc ấy thì dẫu có hối cũng quá muộn vậy.

Phòng Ngạn Tháo tiếp:

- Địch tư đồ là người hồ nghi, không quyết đoán, minh công có được ngày nay, mà cũng lại trù trừ như vậy, thì sợ rằng theo vết của tư đồ mất thôi. Minh công phải biết rằng, đã là một kẻ vô mưu, không thể nào bày mưu tính kế cho người, thì lại có gan làm những thủ đoạn tàn ngược.

Huyền Thúy đáp:

- Các ngài vì ta mà bày mưu hay, kế lạ, nhưng phải làm sao cho chu tất.

Ngày hôm sau, Huyền Thúy đặt tiệc rượu, mời Địch Nhượng, Địch Hoàng cùng Bùi Nhân Cơ, Hách Hiếu Đức. Huyền Thúy lệnh cho tướng sĩ phải ra ngoài cửa doanh chờ, chỉ giữ mấy kẻ tâm phúc của mình ở lại phục dịch. Tiệc rượu đã bày, Tư mã phủ Vương Nhu Tín cùng tay chân của Địch Nhượng vẫn chưa chịu ra. Phòng Ngạn Tháo tâu:

- Trời lạnh, những người theo hầu tư đồ, cũng xin mời tiệc rượu khao thưởng.

Huyền Thúy đáp:

- Hãy bày thêm rượu thịt ra!

Bọn này vẫn chưa chịu đi, Địch Nhượng lên tiếng:

- Nguyên soái đã khao thưởng, các ngươi cứ ra mà nhận phần của mình.

Bọn này mới lạy tạ đi ra, còn lại một tráng sĩ dưới trướng của Huyền Thúy, tên gọi Sái Kiến Đức, cầm đao đứng hầu bên. Huyền Thúy lên tiếng:

- Gần đây có kiếm được một cái cung rất tốt, bách phát bách trúng, xin được đưa ra để các vị xem thử.

Đầu tiên đưa cho Địch Nhượng xem, nói rằng nặng tám thạch,

Địch Nhượng cãi:

- Chỉ độ sáu thạch là cùng? Để ta thử xem?

Rồi rời ghế đứng dậy, giương cung như vành trăng, bị ngay Sái Kiến Đức chém một đao vào sau gáy, ngã lăn ra tức khắc, nhưng vẫn còn kịp rống lên một tiếng như trâu vậy. Thương thay, bậc anh hùng trăm trận, khoảnh khắc mạng gửi ba thước đất.

Lúc này Hùng Tín, Mậu Công, Quốc Viễn, Như Khuê, Nguyên Chân, năm người đang ngồi tiệc rượu ở dinh Giả Tử mã, đang đưa rượu lên miệng, thì thấy tiểu hiệu vào báo:

- Địch tư đồ bị nguyên soái chém chết rồi!

Hùng Tín nghe nói hoảng hồn, chén rượu dang cầm trên tay, rơi ngay xuống đất, than:

- Như thế là tại sao? Dẫu cho họ Địch có ngang ngược ít nhiều, cũng nên tha thứ, mà nghĩ đến buổi đầu cùng tụ hội ở Ngõa Cương này, mới có được ngày nay chứ!

Nguyên Chân tiếp:

- Tự xưa đã nói rồi: hai anh hùng khó chung đứng một nhà. Việc này tiểu đệ nghĩ thế nào cũng không tránh khỏi.

Mậu Công nhận xét:

- Trước mắt hành sự, ai là người có thể tự nhận thua kém người khác. Chỉ đáng tiếc...

Như Khuê hỏi:

- Đáng tiếc cái gì?

Mậu Công đáp:

- Không phải tiếc cho Địch Nhượng đâu, mà chỉ tiếc cho Lý đại ca thôi!

Nhuận Phủ gật đầu hiểu ý.

Đang lúc bàn luận, thấy thủ hạ vào thưa:

- Ngoài kia có người xưng là bạn cũ, xin gặp Lý tướng quân.

Như Khuê chạy ra đón, dắt tay một người vào, nói rằng:

- Đơn viên ngoại, xem Viên ngoại có nhận ra người này không?

Hùng Tín đứng lên nhìn kỹ, thì ra là Đỗ Như Hối, liền cùng mọi người chào hỏi. Như Hối nói với Mậu Công:

- Từ lâu đã nghe tiếng anh tài của Từ đại huynh, nhưng chưa được gặp, nay mới được thấy mặt, thật thỏa ước bình sinh.

Mậu Công đáp lời:

- Tiểu đệ trước khi lên Ngõa Cương này, gặp Lưu Văn Tĩnh, có nói tới tài văn chương, tế thế, thông minh mẫn tiệp, thiên hạ ít có của hiền huynh, tiểu đệ đáng ra phải lùi lại phía sau mà vái đúng ba vái vậy.

Hùng Tín nói:

- Đỗ đại huynh, từ chỗ Trương Công Cẩn ở Trác Châu lên thẳng đây sao? Lâu nay không được gặp mặt khiến bọn Hùng Tín này vẫn thường nhắc tới luôn. Không biết ngọn gió nào thổi được đại huynh tới đây?

Như Hối đáp:

- Tiểu đệ ngẫu nhiên có việc qua đây, muốn gặp Thúc Bảo đại huynh, không ngờ Thúc Bảo đã dẫn quân đi Lê Dương rồi, nhân thế biết Lý hiền huynh ở đây, nên tìm gặp nhau trò chuyện một phen. Không ngờ Đơn viên ngoại, cùng các vị hào kiệt, đều ở đây cả, cũng bởi thế mà Ngụy Công chẳng cần lâu la gì đã làm được nghiệp lớn như thế này. Quả là việc tên ghi gác khói, tượng truyền đài lân, các vị chiếm mất cả rồi!

Hùng Tín thở dài:

- Đời người ta lúc thịnh lúc suy chẳng thể nào mà lường trước được nói gì đến chuyện đài lân, gác khói ghi công nghiệp. Nghe nói đại huynh ra với triều đình, làm hiệu úy Ôn Thành, sao bị đuổi về vậy?

Như Hối đáp:

- Giữa buổi bốn phương loạn lạc, dính vào chuyện đấu gạo quan tiền, bị bọn nha lại làm trò chó ngựa, sao có thể nên nghiệp lớn cho được?

Cùng nhau chuyện vãn một hồi, rồi đứng dậy từ biệt. Như Khuê, Quốc Viễn kéo Như Hối về chỗ ở của mình, bày tiệc rượu khoản đãi.

Như Hối hỏi:

- Vừa rồi tiểu đệ có đi qua soái phủ, thấy tiếng người la hét ầm ĩ không hiểu có chuyện gì?

Quốc Viễn vốn thẳng tình, đáp luôn:

- Chẳng có chuyện gì lớn, chẳng qua là ở đó giết một người thôi mà!

Như Hối hỏi tiếp:

- Giết ai thế?

Như Khuê đành phải đem chuyện bất hòa giữa Huyền Thúy và Địch Nhượng dẫn đến việc vừa rồi kể lại, rồi tiếp:

- Ban đầu, ở Ngõa Cương này, Huyền Thúy, Đơn viên ngoại, Quốc Viễn cùng tiểu đệ đều được Địch đại huynh mời về, làm thành một bọn với nhau cả, nay có sự như thế này, ai nấy trong lòng đều có đôi chút ngần ngại.

Như Hối nói:

- Vừa rồi tiểu đệ xem Đơn viên ngoại có vẻ rầu rĩ, chán chường, thấy tiểu đệ có vẻ lạnh nhạt, tiểu đệ nghĩ viên ngoại đã làm quan rồi, thay đổi tâm tính cũng là chuyện thường, không ngờ là bởi tại có việc này vậy. Huyền Thúy mà đối đãi như vậy, càng thấy nhẫn tâm. Các vị khác nghĩ đến thân phận của mình, cũng đều như cá trên thớt cả hay sao?

Quốc Viễn đáp:

- Hai anh em chúng tôi ở đây, chẳng có gia quyến để trói buộc, trơ trọi một thân, thân thiết thì ở, chẳng ra sao thì lại đi, xem họ làm được gì mình nào!

Như Hối nói:

- Có một nơi rất dễ dung thân, chỉ sợ hai vị không bằng lòng đi mà thôi!

Cả hai đều hỏi:

- Ở đâu thế?

Như Hối đáp:

- Mùa xuân vừa rồi, tiểu đệ đến công đường của Lưu Văn Tĩnh ở Tấn Dương, gặp Sài Tự Xương, vốn quen thân với tiểu đệ. Tự Xương nói chuyện về Thúc Bảo cùng hai vị, dạo ở Trường An xem hội đèn nguyên tiêu, anh hùng hào kiệt thế nào, rất là khen ngợi, lại biết các vị đã quy tụ về đây liền nhờ tiểu đệ ngầm tới thăm, nhắn rằng mai kia lệnh nhạc Đường Công sẽ khởi đại sự, rất cần đến sự giúp đỡ của các vị. Không ngờ Thúc Bảo đã được phái đi công cán. Hai vị chẳng vừa lòng lắm với nơi này, hãy cùng tiểu đệ tìm đến Tự Xương, nghiệp lớn may thành, phú quý cùng hưởng. Lại thêm người em, con lệnh nhạc Đường Công là Lý Thế Dân, vấn khoan nhân đại độ, kính hiền, đãi kẻ sĩ, các vị vốn là chỗ quen biết cũ, nhất định được đối đãi đặc biệt.

Quốc Viễn đáp:

- Tiểu đệ cũng định đi quách, ở dưới tay người khác, chẳng bằng riêng mình làm đầu lĩnh một sơn trại.

Đang nói, một người từ bên ngoài đột nhiên chạy vào, túm chặt lấy ngực áo Như Hối, quát lớn:

- To gan thật? Người dám tới dây để làm thuyết khách cho kẻ khác sao? Ta phải lôi ngay tới soái phủ mới xong?

Như Hối sợ hãi, mặt mày xanh xám, Quốc Viễn nhận ra Hách Hiếu Đức, bèn nói:

- Nguy to rồi! Tất cả hãy rút kiếm ra!

Rồi rút ngay kiếm xông vào. Hiếu Đức vội bỏ tay, cười lớn, nói:

- Xin hai vị khoan khoan đã? Những điều các vị bàn bạc, tiểu đệ đã nghe rõ ràng cả. Ý tiểu đệ cũng chẳng khác gì hai vị ở đây. Nếu được cùng đi, sống chết cũng không dám nài. Tiểu đệ trước đây đã được nghe Ngụy Trưng dạy, trên đường lại gặp Từ Hồng Khách, đều nói chân chúa đã xuất hiện ở Thái Nguyên. Huyền Thúy khó mà làm nên công trạng gì. Việc vừa rồi, đối với Địch đại huynh còn như vậy, chúng ta nào khác gì đồ bỏ đi thôi!

Như Khuê tiếp:

- Hách hiền đệ bàn thật thẳng thắn, nhưng chúng ta đi như thế nào bây giờ?

Hiền Đức đáp:

- Cái này thì không có gì khó cả. Vừa rồi tiêu mã về báo, Vương Thế Sung vừa kéo quân lên Lạc Bắc, ngày mai Ngụy Công thế nào cũng phát binh, hai vị mặc chuyện thành bại, cứ lĩnh một cánh quân, theo lối Hộ Huyện mà đi, ai ra đó mà đuổi theo các vị.

Như Khuê khen:

- Hay lắm!

Hiếu Đức hỏi Như Hối:

- Đại huynh ở đây xong thì đi đâu?

Như Hối đáp:

- Giờ thì về chỗ nghỉ. Sang canh năm sẽ lên đường sớm để về Cảnh Dương!

Hiếu Đức lại hỏi:

- Đêm nay đại huynh nghỉ ở đâu?

Như Hối đáp:

- Nhà từ Hàm Huy ngoài cửa Nam.

Hiếu Đức liền vái chào đi ra. Như Hối thấy thế, trong lòng không khỏi nghi ngại, vội thêm vài câu dặn dò rồi cũng từ biệt ra cửa. Về đến nhà Hàm Huy, thì đã thấy Hiếu Đức cùng hai tay chân, yên cương, hành lý đầy đủ chờ sẵn, lấy làm kinh ngạc hỏi:

- Sao hiền huynh vội vàng thế?

Hiếu Đức đáp:

- Ngụy Công tính hay nghi ngờ, dùng dằng chỉ tổ sinh biến. Tiểu đệ biết soái phủ đã có lệnh, sang canh năm sẽ xuất binh, cho nên phải đi ngay lúc này mới hòng yên ổn!

Cả bọn sai chủ quán dọn ăn bữa tối, rồi thu thập hành lý lên đường đi ngay Cảnh Dương.

Đi được vài ngày, đến thôn Vũ Dương thuộc Sóc Châu, vào giữa một thôn lớn, gặp tiết trọng đông (l), hoa tuyết phơi phới bay, thấy trước mắt, lá cờ hiệu của quán rượu khẽ lay nhẹ. Hiếu Đức lên tiếng:

- Đỗ đại huynh. Chúng ta hãy vào quán rượu này làm vài chén, rồi hãy đi tiếp có nên không?

1 Tiết trọng đông: giữa mùa đông, tháng theo âm lịch, là tháng mười một.

Như Hối đáp:

- Hay lắm, ta vào thôi!

Cả hai xuống ngựa, vào quán ngồi. Chủ quán bày rượu, thức nhắm ra. Ăn được mấy cái bánh bao, uống vài chén rượu nóng, thì bên tai vang tiếng búa đập đe chói tai, cả hai nghiêng đầu nhìn qua cửa sổ thì thấy cạnh quán, dưới gốc cây cổ thụ, có một lò rèn, ba bốn người đang xúm quay bể than đỏ rực, thay nhau giương búa tạ đập chí chát. Cạnh đó kê một cái bàn lớn, trên bàn bày một đĩa thịt bò, một đĩa ngỗng quay, một đĩa bánh bao lớn. Ngồi ngoảnh mặt về hướng nam là một người đàn ông to lớn, cao tới chín thước, hai vai rộng, râu đâm tua tủa, mặt đen như sắt, hai mắt sáng như sao, oai phong lẫm lẫm, khí phách hiên ngang. Hai bên là hai người nữa. Một người cầm bình rượu, một người nâng bát, rót rượu đầy đưa mời người to lớn ngồi giữa. Người này không từ chối, cầm lấy dốc cạn, xem như xung quanh không còn ai khác, cứ thế một mạch uống cạn mười bát, rồi vuốt râu cười lớn mà rằng:

- Người ta đi vay, đến nhà giàu mà vay, hai vị lại đòi kẻ cùng này phải đứng lên viết văn tự, thì thật là kỳ quặc.

Người ngồi ở bên phải lên tiếng:

- Không phải sợ đại huynh trả một hai ly bạc đâu, chỉ cần đại huynh viết cho mấy chữ, chính là đã cứu tính mạng chúng tôi rồi đấy!

Rồi lại vội vàng rót rượu tiếp. Người to lớn đáp:

- Nếu nói như thế, thì mau mang giấy mực ra, đặt trên bàn kia. Đợi ta viết xong sẽ uống tiếp. Nếu không, ta uống say, viết chẳng ra sao đâu!

Hai người này nghe nói, một người rút ngay trong ngực áo một mảnh giấy hoa tiên màu hồng, một người vào trong nhà đem nghiên bút ra bày cẩn thận trên bàn. Người ngồi bên trái vội vàng cúi lạy vị to lớn vội nói:

- Khoan hãy bái lạy, khoan hãy bái lạy! Đợi ta viết xong đã.

Rồi cầm lấy bút, giục:

- Bảo ta viết cái gì nào? Đọc to lên!

Người bên phải đáp:

- Chỉ cần viết: "Uất Trì Cung lấy ở kho bạc năm trăm lạng chẵn. Phiếu này làm ngày mùng hai, tháng giêng, năm thứ mười hai, niên hiệu Đại Nghiệp". (1)

1 Năm cuối của nhà Tùy, tức năm 616. Việt Nam đang thời Bắc thuộc, thuộc Tùy.

Người to lớn viết theo đúng như lời xong, vứt bút lên bàn, cười khà khà, rồi lại nâng bát rượu uống một hơi cạn sạch, cũng chẳng một lời cảm ơn, đi lại chỗ lò rèn cùng làm với mọi người. Chẳng bao lâu, thu thập mọi thứ linh tinh của mình, người to lớn bỏ đi về phía đông. Như Hối lúc này mới bước ra, chào hỏi hai người kia:

- Thưa hai vị, vị hảo hán vừa rồi là ai, tài đức ra sao, mà hai vị có kẻ kính trọng vậy?

Một người đáp:

- Ông ta họ Uất Trì, tên Cung, hiệu là Kính Đức, người ở Mã Ấp. Đôi tay của ông ta có thể nâng nổi hai ba nghìn cân, rất thạo dùng một cây roi sắt gọi là "Hỗn thiết đơn tiên", cũng đã từng học chữ nghĩa, đọc thi thư, từng đi thi, nhưng không muốn ra làm quan, tổ tiên lại vốn làm nghề thợ rèn, nhân nhàn rỗi, mở lò rèn ở đây làm qua ngày.

Như Hối lại hỏi:

- Vừa rồi hai vị nhờ họ Uất Trì viết mấy chữ để làm gì vậy?

Một người đáp:

- Việc này dài dòng lắm, không tiện nói ra, xin từ biệt thôi!

Như Hối thấy Uất Trì Cung đường đường hào kiệt anh hùng, mà vẫn chẳng ai dùng đến, nên định ở lại đây vài ngày, làm quen với Uất Trì, rồi tiến cử với Đường Công. Nhưng Hiếu Đức không chịu, cứ giục lên đường, Như Hối đành phải lên ngựa ra đi, trong lòng vẫn đinh ninh chuyện Uất Trì Cung.

Chính là:

Nhũng mong gặp mặt anh hùng

Rồi ra cách trở muôn trùng nước non!

***

Lại nói chuyện Đường Công Lý Uyên từ ngày bị vua Tùy hắt hủi, kén được Sài Tự Xương làm rể, không tiếc ngọc vàng của quý, đi lại với bọn nịnh thần của Dượng Đế, để được về Thái Nguyên, tránh khỏi mọi tai họa, chẳng hề có ý tranh đoạt thiên hạ. Lý Uyên có bốn người con trai, con trưởng là Kiến Thành, là một công tử tầm thường, chỉ ham ăn mặc đẹp, cưỡi ngựa hay đắm say tửu sắc, con thứ ba là Huyền Bá, chết sớm, con thứ tư là Nguyên Cát, rất mực cơ mưu, giảo hoạt, nhưng cũng chẳng có tài vương bá gì cả. Chỉ có con thứ hai là Thế Dân, sinh ở chùa Vĩnh Phúc dạo nọ, lúc mới bốn tuổi, có một thư sinh trông thấy, lấy làm lạ nói rằng:

- Dáng vẻ rồng phượng, uy nghi thiên tử, chỉ cần đến lúc làm lễ đội mũ (l) là có thể "tế thế an dân".

1 Lễ đội mũ: lễ "gia quan", thời xưa, ở Trung Quốc, con trai nhà giàu, hai mươi tuổi thì làm lễ đội mũ.

Nói xong đi mất. Lý Uyên sợ những lời này truyền rộng, mới sai người đuổi theo thư sinh để giết đi, thì không tìm thấy đâu nữa, bèn nghĩ là bậc thần nhân, nên mới bớt câu "tế thế an dân" mà đặt tên là Thế Dân. Từ nhỏ đã thông minh như trời phú sẵn, kiến thức khác hẳn người thường, đúng bậc "tướng môn chi tử". Binh thư võ nghệ, là chuyện hàng ngày, lại thích đọc cả thư sử, ham kết giao bạn bè, con nhà đại gia, tiêu vàng như bùn, chỉ cần chiêu đãi khách khứa, bạn bè xa gần đều nức tiếng. Rất thân với một người có võ nghệ, thao lược họ Lưu, tên Văn Tĩnh, hiện làm huyện lệnh Tấn Dương, người này đầy một bụng mưu trí, tài kiêm văn võ. Lại thêm một người là Lưu Hoàng Cơ ở Trì Dương, lấy vợ là Trường Tôn Thuận Đức, cũng đều võ nghệ tuyệt luân, không phải như con cái phường khố lụa ngày nay, mà thấy chín châu đại loạn, cũng mong tìm được bậc chân chúa, vâng chịu mệnh trời như Hán Cao Tổ ngày xưa.

Lưu Văn Tĩnh từng quen thuộc với Huyền Thúy, nên khi Huyền Thúy khởi sự, Văn Tĩnh bị bắt bỏ ngục Thái Nguyên. Thế Dân một lần lẻn vào nhà ngục gặp, Văn Tĩnh mới nói để gợi chuyện:

- Nay thiên hạ đại loạn, phi tài của Vũ Thang Cao Quang, thì không dẹp nổi!

Thế Dân đáp:

- Không phải là không có những bậc đó, chứ khổ là không biết họ ở đâu thôi. Ta trông dáng nhà ngươi, không phải là hạng tầm thường, hãy nói cách thay đổi thời cuộc, bàn đại sự xem sao nào?

Văn Tĩnh thưa:

- Nay vua Tùy ngự du Giang Hoài, binh lính trấn giữ dọc sông, Lý Mật vây Đông Đô, các đám giặc cỏ khác chiếm giữ châu huyện, cát cứ các vùng đầm núi, kể có hàng vạn. Giữa lúc này, có một vị chân chúa xuất hiện, chỉ cần hô lên một tiếng, thì bốn biển sẽ yên ổn ngay. Nay ở Thái Nguyên, trăm họ đều chạy vào thành để trốn tránh giặc giã. Văn Tĩnh này đã làm huyện lệnh mấy năm, biết khá rõ các bậc hào kiệt anh hùng, một sớm mà thu nạp, sẽ được vài chục vạn trong tay, lúc ấy tôn Đường Công lên nắm giữ binh quyền, thêm vài vạn tinh binh nữa, một lệnh ban xuống, ai mà chẳng theo, rồi nhằm chỗ trống mà vào trung nguyên, ban lệnh khắp thiên hạ. Chỉ cần khoảng nửa năm, nghiệp đế dựng xong vậy.

Thế Dân cười đáp:

- Ngươi nói chính hợp ý ta?

Bèn tìm cách đưa vào hàng tân khách, giúp cho việc huấn luyện binh sĩ, chờ dịp sẽ cất nhắc cao hơn. Hơn tháng sau, Văn Tĩnh đàng hoàng ra khỏi ngục. Thế Dân định khởi sự, chỉ sợ phụ thân không nghe, bèn bàn với Văn Tĩnh. Văn Tĩnh bày kế:

- Đường Công vốn rất thân thiết với phó cung giám Tấn Dương cung Bùi Tịch, Bùi Tịch bày gì cũng nghe theo. Muốn Đường Công bằng lòng khởi sự, không có người này không xong đâu!

Thế Dân cũng biết chuyện này không thể dùng miệng mà nói không với Bùi Tịch. Vì biết rõ Bùi Tịch vốn nghiện rượu, hám tiền, có thế mới hết lòng lo việc cho mình, Thế Dân liền đem hàng vạn quan tiền, sai Cao Vũ Liêm, huyện lệnh Long Sơn cùng Bùi Tịch đánh bạc, giả vờ thua luôn mấy ván. Sau Bùi Tịch biết rõ ý định của Thế Dân, cả mừng, kết thân với Thế Dân. Thế Dân bèn đem chuyện nói rõ đầu đuôi Bùi Tịch sẵn sàng đứng ra làm, nói:

- Việc này cứ giao cả cho ta?

Ngày đêm nghĩ ngợi, tính toán, bỗng nảy ra một kế, vào thẳng cung Tấn Dương, gặp ngay Trương Phi cùng Doãn Phi đang ở dinh Khánh Vân thưởng ngoạn hoa mai tháng giêng. Thấy Bùi Tịch đến, cả hai đều cất tiếng hỏi:

- Ngươi tới có việc gì?

Bùi Tịch đáp:

- Thì cũng muốn bẻ hoa cho thêm vui vẻ.

Trương phu nhân cười:

- Hoa này là của các phu nhân trồng, có can hệ gì đến ngươi đâu?

Bùi Tịch đáp:

- Phu nhân nghĩ rằng đàn ông không biết trồng sao, lòng yêu thích, ham muốn ai mà không có. Nhưng hoa dẫu đẹp bao nhiêu, mà chỉ ngắm suông thì chỉ trang sức thêm ít nhiều, chẳng thể nào thay đổi được cảnh cô đơn của con người, lại cũng chẳng thể ngăn được sự hoạn nạn đang đến.

Doãn phu nhân cười:

- Người hãy nói cách chữa bệnh cô đơn ngăn được tai họa như thế nào.

Bùi Tịch đáp:

- Nhà Tùy hoang loạn, chúa thượng thì mãi ngự du Giang Đô, vui đến quên cả quay về. Thay vua coi sóc công việc, toàn một lũ tiểu nhân, trong nước vô chủ, bốn phương anh hùng nổi dậy như ong, kẻ xưng cô, người xưng quả rất nhiều. Gần đây có tin hiệu úy Chu Vũ ở Mã Ấp chiếm cứ Phần Dương cung, xưng làm Khả hãn, rất có lợi hại. Phần Dương cách Thái Nguyên chẳng bao xa, nếu đao binh lan tới đây thì ai ra mà ngăn. Thần dẫu có nhiệm vụ coi sóc nhưng tài hèn sức mọn, đến thân mình còn khó giữ, các phu nhân thì lấy đâu chỗ yên ổn mà tránh?

Hai phu nhân hoảng hốt:

- Thế thì làm sao bây giờ? Nếu đúng như lời, chị em chúng ta đều chết cả sao?

Bùi Tịch bàn:

- Nay thần có cách này, cùng xin bàn với hai phu nhân, không những có thể giữ mình, mà lại có thể mang lại phú quý nữa.

Doãn Phu nhân đáp:

- Phú quý thì sao còn dám mong, chỉ cần tránh được tai họa là đủ rồi!

Bùi Tịch chậm rãi:

- Lưu thú Lý Uyên ở Thái Nguyên này, trong tay có mười vạn binh mã, con trai là Thế Dân, anh hùng vô địch, chiêu nạp hào kiệt chín châu, khởi lo việc lớn, chỉ sợ Lý Uyên không nghe theo, cho nên không dám tự quyết. Thần tin rằng thiên hạ chẳng sớm thì muộn sẽ vào tay người này. Nay hai phu nhân suốt đời bị đày ra ly cung, sống buồn tẻ đã có hơn năm nay rồi, sao không nhân cơ hội này, tìm cách thờ Lý Uyên, thì có thể chuyển họa thành phúc, chẳng bậc tần phi, cũng bậc hoàng hậu, phú quý khôn người sánh, có phải hay biết bao nhiêu không?

Trương phu nhân nói:

- Chúng ta từ lâu cũng muốn gặp Đường Công một lần, nhưng phận đàn bà thật khó mà mở miệng như các ngươi. Chỉ sợ Đường Công vẫn ôm lòng trung nghĩa mà cự tuyệt chăng, rồi việc vỡ lở, thì còn gì là tính mạng?

Bùi Tịch đáp:

- Chỉ sợ hai phu nhân trong lòng chưa định hẳn, nếu dã quyết chí thì chẳng sợ gì việc không thành.

Hai Phu nhân nghe nói thế, lập tức mặt mày rạng rỡ:

- Nếu việc mà thành, ơn sâu của người, chị em chúng ta suốt đời không dám quên, nhưng không biết mưu kế tính sao cho tốt?

Bùi Tịch ghé tai hai phu nhân nói nhỏ:

- Chỉ cần như thế... như thế... chẳng thể nào lo Lý Uyên không mắc!

Hai phu nhân gật đầu bằng lòng.

Ngày hôm sau, Bùi Tịch bày tiệc rượu trong cung Tấn Dương, sai người mời Lý Uyên. Chẳng mấy chốc, Lý Uyên đến, vái chào xong xuôi, vào ngồi bàn tiệc. Bùi Tịch không một lời nói đến chuyện Thế Dân định khởi sự, chỉ một mực rót rượu mời Lý Uyên say khướt, Bùi Tịch tiếp:

- Rượu buồn khó cạn, có hai mỹ nhân muốn ra mời minh công một chén, liệu có được chăng?

Lý Uyên cười đáp:

- Cùng ngồi với tri kỷ, chỉ còn thiếu chuyện này nữa thôi, sao lại không được!

Bùi Tịch sai tả hữu đi gọi. Chẳng bao lâu, tiếng ngọc ngập ngừng, hương bay sực nức, hai mỹ nhân khoan thai bước vào, mười phần kiều diễm, Lý Uyên nhìn kỹ, chỉ thấy:

Liễu cợt hoa cười, xuân ghẹo xuân

Thâm cung kiều mị khéo ần khăn

Trần ai, ai đoán, ai thiên tử

Vân vũ Tương Vương, nợ đỉnh Thần.

Hai mỹ nhân đến trước tiệc rượu, ra mắt Lý Uyên, Lý Uyên đáp lễ. Bùi Tịch sai bày hai ghế nhỏ, ngồi hai bên. Lý Uyên lúc này rượu đã say mềm, cũng chẳng hỏi lai lịch, chỉ thấy mỹ nhân nghiêng thành, khoái chí uống mãi. Hai mỹ nhân lại biết cách chiều chuộng. Bùi Tịch giúp thêm một tay, Lý Uyên chẳng mấy chốc đã nghiêng ngửa. Bùi Tịch lặng lẽ đi ra, Lý Uyên vẫn còn uống mấy chén nữa, chân đã không vững, hai mỹ nhân dìu vào giường ngủ, tai mơ màng, cũng chẳng nhận ra là cung cấm hay phủ đường.

Chính là:

Hoa dễ lây cười, rượu dễ thân

Đôi mày uốn éo lại gần gần

Đừng chê lơ lẳng Tùy Dượng Đế

Thiên tử anh minh cũng chán lần!

Lý Uyên tỉnh dậy, nhớ lại chuyện đêm qua, trong lòng băn khoăn, lại thấy nằm trên long sàng, mình khoác hoàng bào, kinh hoàng hỏi:

- Hai người là ai?

Hai phu nhân cười thưa:

- Đại nhân đừng sợ, chúng thiếp chẳng ai khác lạ, vốn là Trương Phi cùng Doãn Phi vậy.

Lý Uyên hoảng hốt:

- Bậc quý nhân trong cung cấm, sao lại có thể cùng chăn gối cho được.

Vội vàng khoác áo ngồi dậy, hai phu nhân quỳ thưa:

- Chúa thượng ngự giá xuống miền Nam chẳng thấy về, anh hùng nổi dậy khắp nới. Bùi Tịch phó giám trông vào đại nhân, nên khuyên chúng thiếp lo thờ đại nhân, để mưu chuyện lâu dài sau này.

Lý Uyên cất tiếng than:

- Bùi Tịch làm lỡ việc ta rồi!

Rồi đứng dậy, bước ra tiền điện, Bùi Tịch ra đón, hỏi vờ:

- Trong cung vắng không có ai, việc gì phải dậy sớm vậy?

Lý Uyên đáp:

- Dẫu không người biết, nhưng thực trong lòng không khỏi hoảng sợ.

Bùi Tịch nói:

- Anh hùng vì cả thiên hạ mà làm, hơi đâu mà để ý đến những chuyện lặt vặt.

Rồi gọi tả hữu hầu Lý Uyên rửa ráy, chải dầu. Bùi Tịch lại sai bày tiệc rượu. Uống được vài chén, Bùi Tịch mới nói:

- Hiện nay, vua Tùy vô dạo, trăm họ khốn cùng, anh hào đều nổi dậy, ngoài thành Tấn Dương này đều là chiến trường. Minh công tay nắm quyền lớn, lệnh lang thì ngầm chiêu binh mãi mã, sao không nghĩ chuyện khởi binh phạt Nam cứu dân, xây dựng nghiệp vạn đời.

Lý Uyên hoảng sợ đáp:

- Ngài sao lại nói những lời như vậy, để đổ cái vạ tru di ba họ lên đầu ta hay sao! Lý Uyên này vốn một lòng với nước, chịu ơn sâu của triều đình, không có lòng nào khác?

Bùi Tịch nói.

- Nay kim thượng hình phạt hà khắc, phía dưới thì giặc giã như ong như kiến, minh công cứ lo giữ cái tiểu tiết, thì cái nguy lớn sẽ có ngày đến. Chi bằng theo lòng dân mà khởi binh, chuyển họa thành phúc, đó chính là trời trao mệnh cho minh công, xin đừng để lỡ.

Lý Uyên đáp:

- Xin ngài hãy cẩn trọng cho, mọi sự tiết lộ thì tội không lường được

Bùi Tịch cười:

- Hôm qua việc hai người riêng hầu minh công, những sợ minh công không nghe, nên phải cùng lệnh lang bàn bạc. Cũng chẳng qua vì sợ lỡ dịp tốt, để mọi chuyện vỡ lở thì đúng là không tránh khỏi vạ lớn cả bọn vậy.

Lý Uyên đáp:

- Con ta đâu có tính chuyện này, ngài sao lại bức người vào chuyện bất nghĩa này?

Nói chưa dứt lời, thì thấy cửa bên, một người bước ra, đội mũ kinh khôi, mặc áo bào hoa tròn lớn, cất tiếng:

- Bùi Công thực là biết rõ thời cuộc, phụ thân nên theo vậy!

Lý Uyên nhìn ra, thì là Thế Dân, sợ to tiếng thêm họa, đành nén giận mà nói:

- Phải trói mày lại để tránh cái họa này mới xong.

Thế Dân không chút sợ hãi:

- Dẫu có bắt trói con giải đi, chết cũng không dám từ. Nhưng rồi tội của phụ thân cũng không vì thế mà khỏi. Nếu không khởi sự, thì làm sao bây giờ?

Lý Uyên than:

- Tan nhà nát cửa, không giữ được toàn thân cũng là do mày, biến nhà thành nước cũng là do mày!

Lý Uyên bèn sai người ngầm đi Hà Đông, gọi Kiến Thành, Nguyên Cát về Thái Nguyên hội họp, để có thể yên tâm lo việc lớn. Lấy tiếng phế hôn quân, lập minh chúa, tôn đại vương Dương Hựu trấn thủ Trường An hiện nay làm Tùy Cung Đế, ít lâu sau làm lễ nhường ngôi cho Lý Uyên. Lý Uyên xưng hoàng đế, lên ngôi ở Thái Nguyên, lấy quốc hiệu Đường, cải niên hiệu là Vũ Đức nguyên niên, lập Kiến Thành làm Thái tử, phong Thế Dân làm Tần Vương, Nguyên Cát làm Tề Vương. Lệnh cho Tần Vương hưng binh diệt giặc, rồi tự mình kéo quân vào cửa ải.

Chính là:

Bóng nước ánh cờ lồng rực đỏ

Tuyết rọi gươm, thương chĩa sáng ngời

Cầu vồng dựng suốt một trời

Thiên binh thần tướng phơi phơi xuống trần.

hết: Hồi Thứ Bốn Mươi Sáu, xem tiếp: Hồi Thứ Bốn Mươi Bảy

Đánh máy: bevang

Nguồn: bevang - VNthuquan - Thư viện Online

Được bạn: Ct.Ly đưa lên

vào ngày: 16 tháng 2 năm 2010

Hồi Thứ Bốn Mươi Bảy

Xem hoa quỳnh, vui tàn, Tùy hết,

Chết tiết nghĩa, trâm gãy bình rơi.

Từ rằng:

Hưng vong quay tít,

Tháng ngày thoi dệt

Xuân thu chẳng dừng

Đánh đông dẹp Bắc, anh hùng là đâu

Phương Nam tươi ấm

Cột ngà buồm gấm

Khắp chốn rong chơi

Chiều tà quạ kêu rời rạc

Bờ liễu gió thu nhớn nhác

Hồi tưởng năm xưa

Nhớ quên việc trước

Mộng đẹp qua rồi, một giấc Dương Châu

Khá thương thuở ấy thuở nào

Men hoa ủ rượu, chuốc sầu nghìn năm

Nửa đời hưởng thụ chưa cam

Xương tan vía bạt trong hầm truy hoan

Dễ nhen, dễ bén, dễ tàn

Sầu này, sau nữa, mấy lần cho nguôi

Nhắn ai, ai có tin lời

Thử nhìn dải lụa bên vai... dạ đài.

Theo điệu "Phong lưu tử"

Họa phúc thịnh suy, là chuyện nối theo nhau mà thay đổi, thật đáng nực cười cho kẻ nghĩ rằng do ơn mưa móc của tổ tiên nhà mình mà giữ mãi được giang sơn, chỉ lo đến việc "triêu hoan mộ vũ" hưởng lạc ở nơi nhà quỳnh lầu dao, để cuối cùng ngày khổ bỉ tới, thân mình cũng chẳng toàn, làm bia cười cho nghìn đời.

***

Nay hãy khoan nói chuyện Lý Uyên phát binh khởi đại sự ra một bên, hãy nói chuyện Tùy Dượng Đế ở Vũ Thành, Giang Đô, lại mới xây thêm một cung điện nữa, chẳng kém phần hoa lệ, có thêm hẳn Mê lâu quan nguyệt, với chín khúc hồ uốn quanh, dựng một cầu đá lớn ngay bên lầu. Dượng Đế suốt ngày ở trong Mê lâu quan nguyệt, nếu không ở trên xe rồng, ở sau bình phong, mặc ý dâm đãng, chẳng khác gì một gốc cây lớn, mặc cho cành lá đã xơ xác, nhưng vì gốc sâu rễ chắc, mặc cho mọi người lay chuyển, búa đao thay nhau bổ chặt, cũng chưa dễ đã đổ ngay. Lại nghĩ sức lực người ta phỏng được nhiêu, lúc nào cũng biếc đón hồng đưa, phi tần mỹ nữ, thời thời khắc khắc dâm loạn, Dượng Đế dẫu thế nào, cũng phải đến lúc tinh lực hao gầy, mệt mỏi vậy.

Một sáng mới ngủ dậy, ngồi bên cửa sổ, nhìn ra bên ngoài, Nguyệt Tân, Giáng Tiên đang đuổi bắt bướm, thì Dượng Đế thấy một nội giám vào thưa:

- Tâu chúa thượng, Phiên Ly quán hoa quỳnh nở rộ, mời chúa thượng ra thưởng ngoạn.

Dượng Đế cả mừng, ra lệnh bày yến tiệc ở Phiên Ly quán, mời Tiêu Hậu cùng mười sáu viện phu nhân cùng tới thưởng ngoạn hoa quỳnh. Chẳng bao lâu, Tiêu Hậu cùng các phu nhân đều có mặt, chỉ riêng Viên Tử Yên ốm nằm ở viện Bảo Lâm không đến. Dượng Đế phán:

- Hoa quỳnh là loại hoa đặc biệt ở Giang Đô này, thiên hạ không có nơi nào có, trẫm xưa nay chưa từng thấy. Nay nghe nói hoa nở rộ, nên đặc biệt mời hoàng hậu cùng các phu nhân đến xem cho biết. Sao Sa phu nhân không thấy đến?

Chu Quý Nhi thưa:

- Lúc thiếp ở viện ra đi, thấy Sa phu nhân nói Triệu Vương bị cảm gió, có lẽ vì thế nên không đến được chăng?

Tần phu nhân ở Thanh Tu viện gật gật đầu, Dượng Đế nói:

- Cảm gió thì có hề gì, hoa quỳnh ít được thấy, sao lại không đến xem.

Quý Nhi thưa:

- Vạn tuế không hiểu được đâu. Trong người Triệu Vương chỉ cần một chút khó chịu, Sa phu nhân cũng trăm phần lo lắng, không làm gì khác đâu.

Dượng Đế vui mừng nói:

- Triệu Vương được Sa phu nhân thương yêu chăm sóc đến thế, thực là không phụ sự ký thác của trẫm vậy.

Liền ra lệnh lên xe, rồi cùng Tiêu Hậu bước lên xe rồng, mười lăm phu nhân cùng các mỹ nhân lên hương xa kéo tới Phiên Ly quán. Bước lên thì thấy trên điện lớn bày đủ Tam Thanh thánh tượng, điện các cao rộng, nhưng phía đông đổ nát, phía tây hư hại, tượng thánh cũng cũ kỹ. Tiêu Hậu dù sao cũng là phụ nữ, thấy quang cảnh đền thánh như thế vẫn cúi xuống bái lạy, Dượng Đế vội ngăn:

- Trẫm cùng khanh đường đường bậc hoàng đế, hoàng hậu, sao lại đi bái lạy các pho tượng gỗ này?

Tiêu Hậu thưa:

- Thần thánh uy nghiêm hiển ứng, người người đều nhờ cậy che chở, bệ hạ cũng nên kính phục mới phải.

Dượng Đế hỏi tả hữu:

- Hoa quỳnh ở đâu?

Tả Hữu thưa:

- Tâu chúa thượng, ở đường sau điện kia ạ!

Vốn cây hoa quỳnh này, do một đạo sĩ có đạo hiệu là Phiên Ly, nhân nói các thứ hoa cỏ của đạo giáo là đẹp hơn tất cả, người xung quanh không tin. Phiên Ly liền lấy một viên bạch ngọc, vùi xuống đất, chẳng mấy chốc, mọc ngay một cây cao, rồi nở hoa chẳng khác gì viên ngọc quỳnh dao.

Cũng bởi vì trồng ngọc mà thành như thế, nên mới gọi là hoa quỳnh. Về sau đạo sĩ bỏ đi mất, xóm thôn thấy giống hoa đẹp, liền dựng ngay Phiên Ly quán ở bên, để ghi nhớ câu chuyện lạ. Gần đây, cây quỳnh này có một cành rất cao, hoa nở như tuyết, phô nhụy tròn trặn, đầy vẻ trinh trắng của bậc tiên phong đạo cốt, hương thơm sực nức, so với các loài hoa hoàn toàn khác xa, vì vậy trở nên nổi tiếng khắp vùng Giang Đô.

Dượng Đế cùng Tiêu Hậu ra sau điện, đã thấy trên cành cao, một đám trắng tinh khiết, hương đưa từng đợt, tỏa khắp người thơm ngát. Dượng Đế hoan hỉ phán:

- Thật là danh bất hư truyền, nay mới thực là thấy cái chưa từng thấy.

Lại gần cây để xem cho rõ, nào ngờ có chuyện không thể lường trước, vừa mới bước xuống thềm sau, bỗng thấy một trận gió hương thơm rất mạnh, Thái giám cung nữ thấy gió lớn nổi, vội vàng lấy quạt che, rồi vây kín lấy Dượng Đế cùng Tiêu Hậu vào giữa, chờ cho trận gió qua đi, mới lại tản ra. Dượng Đế ngẩng đầu nhìn hoa, thì chỉ thấy cánh bay, nhị rụng, từng điểm trắng tinh rơi đầy đất, trên cành am một cánh hoa sót lại cũng khó. Dượng Đế cùng Tiêu Hậu thấy thế, kinh ngạc ngây người. Dượng Đế bỗng nổi giận:

- Trẫm chưa thấy cho rõ ràng, đã rơi rụng cả thế này, có đáng tức giận hay không?

Quay vào trong điện, tiệc yến thưởng hoa đã bày xong hàng hàng lối lối chỉnh tề, hai bên là bọn nhạc công với những đàn sáo sênh phách, thật là đầy đủ, như chẳng biết đến hoa quỳnh đã tan tác hết, cuốn theo cả nỗi vui thưởng ngoạn của mọi người.

Dượng Đế thấy quang cảnh này, lòng càng giận dữ quát:

- Nào có phải gió thổi rụng đâu, mà chính là yêu quái càn rỡ, không muốn cho trẫm xem. Hãy đem chặt ngay đi, để làm gì cho thêm tức tối trong lòng.

Liền truyền chỉ đốn cây. Các phu nhân đều khuyên can:

- Hoa quỳnh khắp trong thiên hạ chỉ có mỗi một cây này, xin giữ lại, sang năm có hoa sẽ lại ngự lãm , nếu đốn đi sợ mất giống.

Dượng Đế vẫn chưa nguôi:

- Trẫm đường đường ở ngôi thiên tử, mà còn không được xem, thì giữ lại cho ai xem. Năm nay mà còn thế, trông mong gì sang năm, nếu dẫu có tuyệt chủng đi nữa, cũng chẳng can gì.

Rồi cứ truyền chặt cây. Bọn thái giám không dám trái mệnh, vội dùng kim qua phủ việt nhất loạt chém đổ cây, bởi vậy sau này thế gian hết giống hoa này, một cành, một mầm nhỏ cũng chẳng còn.

Dượng Đế chẳng buồn dự tiệc rượu, lập tức cùng Tiêu Hậu lên xe rồng, cùng các phu nhân trở về ngự uyển ngay. Dượng Đế nói với Tiêu Hậu:

- Trẫm cùng hoàng hậu xuống thuyền rồng, ngự chơi chín khúc hồ đã, có nên chăng?

Tiêu Hậu thưa:

- Cảnh trời trong xanh, mặt hồ sắc núi, thật đáng nên xem lắm.

Dượng Đế liền sai tả hữu bày yến tiệc trên thuyền rồng, dạo chơi trên chín đoạn hồ mới đào, còn bọn cung nữ đi theo đều cho trở về ngự uyển trước. Dượng Đế, Tiêu Hậu cùng các phu nhân xuống thuyền rồng, vừa uống rượu vừa ngắm cảnh, bên chèo bên chống, chơi đến nửa ngày trời, mới nguôi hứng thú. Dượng Đế lệnh ghé thuyền lên bờ, tất cả lại lên kiệu, lên xe rồng, đi về phía cầu đá lớn, lúc này là thượng tuần tháng tư, đã thấy trăng nhú nửa vành long lanh trên mặt nước. Xe lên tới mặt cầu, cầu vừa cao vừa rộng, đều lát bằng đá trắng vừa bóng vừa sạch như luôn được lau chùi, hai bên đại thụ rủ bóng, dưới cầu cá vàng đủ màu nhởn nhơ bơi thấp thoáng dưới ánh trăng.

Dượng Đế bởi chuyện hoa quỳnh rụng sạch, trong lòng vẫn phiền muộn chưa nguôi, nay thấy cảnh này như được uống một liều thuốc mát mẻ, trong lòng cũng thư thái ít nhiều, lệnh dừng xe rồng, sai đem tới hai cái đôn gấm, cùng Tiêu Hậu ngồi, trải đệm gấm khắp mặt cầu cho các phu nhân ngồi, yến tiệc lại bày ngay ra. Dượng Đế dựa vào lan can cầu, cùng các phu nhân vừa cười nói vừa uống rượu, Tần phu nhân cất tiếng:

- Chỗ này thật đẹp, đúng là cảnh cầu đá liễu rũ, hơn hẳn cảnh buổi ngày.

Tiêu Hậu hỏi:

- Cầu này tên là cầu gì?

Dượng Đế đáp:

- Chưa có tên!

Hạ phu nhân thưa:

- Bệ hạ sao không nhân đêm nay, đặt cho cầu này một cái tên, lưu lại cho đời sau một chuyện lý thú.

Dượng Đế đáp:

- Việc này cũng hay đấy?

Rồi cúi đầu nghĩ ngợi, nhìn quanh đếm xem bao nhiêu người, nói:

- cảnh vật vì có người mà càng đẹp, cổ nhân có Thất Hiền hương, Ngũ Lão đường, đều là lấy số người mà đặt tên. Nay trẫm cùng hoàng hậu, với mười lăm phu nhân, cộng thêm Quý Nhi, Bảo Nhi, Giáng Tiên, Dã Nhi, Hạnh Nương, Thỏa Nương, Nguyệt Tân bảy người nữa, là có hai mươi tư người đây, vậy nên đặt cho cầu này tên là "Nhị thập tứ kiều", chẳng phải không hay sao!

Mọi người đều hân hoan thưa:

- "Nhị thập tứ kiều", hay quá? Thế cũng đủ biết bệ hạ nghĩ thật sâu xa, thật rộng lớn!

Rót rượu dâng mời, Dượng Đế vô cùng khoan khoái, uống liền mấy chén, rồi phán:

- Trước đây ở viện Ảnh Văn, trẫm được nghe Hoa phu nhân thổi địch rất là réo rắt, khiến người nghe như ôm sầu ngậm tủi, sao không thổi trẫm nghe.

Lương phu nhân thưa:

- Tiếng địch nên nghe từ xa, mới thấy hết vẻ du dương, uyển chuyển.

Địch phu nhân tiếp:

- Đêm vừa rồi, ngồi ở viện Hạ phu nhân, thiếp nhìn lên Điệp lâu nghe Lý phu nhân cùng Hoa phu nhân, một người hát, một người thổi địch, cả hai đều tuyệt diệu, càng về cuối lúc thì nghe khắp nơi đều vang tiếng địch, lúc lại như chốn chốn vang tiếng ca, thật là lòng say dạ túy, khoan khoái vô cùng!

Tiêu Hậu nói:

- Có những chuyện hay như thế, sao các phu nhân không rủ ta với?

Dượng Đế lại hỏi:

- Các khanh hát khúc gì vậy, lời cũ hay lời mới?

Hạ phu nhân thưa:

- Đó là do Sa phu nhân gần đây một mình lên cầu nhỏ Ngọc Lang, nhân đó mà làm, nên từ lời đến ý đều rất hay.

Dượng Đế vui mừng hỏi:

- Các khanh ai nhớ không? Đọc cho trẫm nghe xem có thông không nào?

Hạ phu nhân bèn đọc:

Ngày xuân cung vắng, vẳng tiếng đàn.

Lơ đểnh kìa ai tóc sỗ sàng

Lạnh buốt tiếng sênh lầu gác ấy

Thì thào, dứt nối, tiếng bay sang

Tơ liễu dài dễ vịn

Vươn tay cuốn bức màn tiên

Gió đông đâu bỗng nổi lên

Lòng vơ vẩn

Lần lữa đổi khác dung nhan

Tin vời không thấy

Lệ khô tràn

Thần ngọc y nguyên, điện các này

Trăng kia còn đó bóng còn đây

Hết dãy núi này, còn dãy khác

Xuân đã về, xuân có tỉnh say?

Trời hè, hè chẳng đổi thay

Tơ trời không rối, sầu nay vẫn sầu

Sông xuân kéo ngược cách nào...

Dượng Đế nghe xong, xuýt xoa khen:

- Sa phu nhân thật đúng là một nữ học sĩ, làm được những tác phẩm toàn bích đến như thế. Chúng ta rót ra hai chén rượu, mời Lý phu nhân cùng Hoa phu nhân uống, rồi nhờ hai phu nhân ra Nguyệt đình ở phía đông cầu này, chúng ta ngồi đây để nghe lời ca tiếng nhạc vậy!

Hai phu nhân thấy ý vua đã như vậy, liệu có chối cũng chẳng xong nào, nên uống cạn ngay hai chén rượu, đứng dậy. Lý phu nhân đưa mắt liếc Địch phu nhân mà rằng:

- Cũng chỉ tại mồm mép nhanh nhẩu của phu nhân mà khiến người khác đứt từng khúc ruột vậy thôi!

Rồi cùng Hoa phu nhân trèo lên xe đi về phía Nguyệt đình. Đình này vừa cao lại vừa được che loáng thoáng bóng cổ thụ, hai phu nhân giở ngọc địch, phách gõ ra, giọng ca trong trẻo cất lên, tiếng địch hòa theo, thật khiến mây quang trời sáng gió lay hoa thẹn, Dượng Đế vừa nghe vừa tán thưởng không ngớt lời.

Tối hôm ấy, mới khoảng mùng bảy, mùng tám, ánh trăng chỉ có một chốc buổi đầu canh. Dượng Đế phán:

- Cây trùm tối um, chúng ta hãy chuyển tiệc rượu vào Nguyệt đình có phải tốt hơn không?

Bèn cùng Tiêu Hậu, các phu nhân chậm rãi lần theo tiếng địch, tiếng ca mà đi tới, gần tới Nguyệt đình, thì bài ca cũng vừa xong. Hai phu nhân trông thấy vội ra khỏi Nguyệt đình đón vào, Dượng Đế nói với Hoa phu nhân cùng Lý phu nhân:

- Lời ca tiếng nhạc từ miệng người đẹp mà ra, khiến người nghe cũng hồn tiêu phách lạc, hai khanh thật là một đôi tuyệt mỹ vậy?

Cung nữ vội vàng xếp dọn, Dượng Đế giục rót rượu mời hai phu nhân, rồi nói với Tiêu Hậu.

- Hôm nay tuy bị yêu nghiệt của hoa quỳnh làm cho mất hứng, nhưng giờ lại được hưởng những cảnh vui vẻ như thế này, mai kia có nghĩ lại cũng còn thấy thú vị.

Tiêu Hậu thưa:

- Nhờ có tài tuyệt diệu của các phu nhân cả.

Dượng Đế tiếp:

- Trăng lặn rồi, đèn đóm thì chẳng có, làm thế nào bây giờ?

Lý phu nhân khẽ cười thưa:

- Bây giờ mà mang một cây đèn "Huỳnh phượng đăng" của Địch phu nhân tới đây, thì cũng đủ sáng mà lại chẳng cần thắp lửa, thắp đóm gì cả.

Tiêu Hậu vội hỏi:

- "Huỳnh phượng đăng" là cái gì thế?

Địch phu nhân thưa:

- Chỉ là trò chơi thôi mà, có ra cái gì đâu, xin đừng nghe cái miệng hớt lẻo của Lý phu nhân. Trước mặt bệ hạ cùng hoàng hậu mà dám nói bậy, có gì thì tháng sáu may ra mới dùng được.

Dượng Đế cười nói:

- Tốt hay xấu cũng cứ đem ra đây xem sao!

Địch phu nhân nghe nói thế, đành phải sai bọn cung nữ của viện mình:

- Ngươi hãy về viện, ngay trong phòng trang điểm, đem tất cả những "Huyền phượng đăng" đã làm xong ra đây. Rồi bảo cung nữ ở viện bắt được bao nhiêu đom đóm cũng đổ tất vào hộp mang tới đây ngay.

Chẳng bao lâu, cung nữ bưng đến một cái hộp, chăng bằng sợi tơ vàng, đưa cho Địch phụ nhân. Địch phu nhân lấy một cái cần hình mỏ chim Phượng treo lên, rồi bỏ vào đến hai ba chục con đom đóm, đưa trình Tiêu Hậu. Tiêu Hậu cùng Dượng Đế nhìn kỹ, thì thấy bên ngoài được che bằng những cánh con ve mỏng, gần giống hình chim Phượng, phía trên đậy bằng những lớp the mỏng có thêu rất đẹp, đầu chim Phượng được đẽo gọt từ san hô, miệng ngậm một hạt ngọc minh châu, Trông chẳng khác gì đóm sáng của ngọn đèn, tỏa ánh ra bên ngoài, đem treo lên. Hai cánh con chim Phượng kết bằng những cánh ve nhỏ cứ theo gió nhẹ mà khẽ lay động. Dượng Đế nhìn kỹ hồi lâu, khen:

- Địch phu nhân thật khéo nghĩ khéo làm, đúng là đến mức "xuất thần nhập hóa" vậy.

Tiêu Hậu tiếp:

- Đúng là thật khéo tay!

Đưa cho cung nhân, treo cả lên. Ngoài ra lại còn đến bảy tám cái nữa, Địch phu nhân lần lượt bỏ đom đóm vào, đưa cho các phu nhân, cùng treo cả lên, thế là mấy cái "Huỳnh phượng đăng" chiếu sáng cả tiệc rượu. Dượng Đế vỗ tay cười:

- Thật lạ lùng, mấy con đom đóm này đêm nay thật có công. Sao không sai người bắt thêm ít nữa, đem vào trong ngự uyển, tuy chẳng bằng ánh trăng, nhưng cũng có thể sánh được bốn năm phần...

Tiêu Hậu hùa theo:

- Thế thì thật là kỳ quan!

Dượng Đế lại truyền chỉ: phàm các cung nữ cùng nội giám, bắt được một túi đom đóm thưởng cho một tấm lụa. Chẳng mấy chốc, cung nữ, nội giám, cả trăm họ nữa bắt được đến sáu bảy chục túi đom đóm, Dượng Đế sai lấy ngay lụa ra thưởng, sai người ra trước đình, sau đình, trong vườn, trước núi thả tất cả đom đóm ra, trông ra chốc lát chẳng khác gì hàng vạn vì sao sáng xanh rơi xuống, chiếu sáng cả bốn chung quanh. Dượng Đế cùng mọi người say sưa nhìn, vỗ tay tán thường, lại nâng chén chúc mừng mãi tới canh ba mới về cung.

***

Nay hãy thôi nói chuyện Dượng Đế ở trong cung đêm ngày dâm loạn, hãy nói chuyện Vũ Văn Hóa Cập, là con của Vũ Văn Thuật, làm tới chức Tả đồn vệ tướng quân, vốn cũng là phường tục tử. Em ruột là Tri Cập, lại là một tay giảo hoạt, đang vào lúc Dượng Đế vô đạo, cũng phường theo nước giỡn sóng, đập phá cho qua ngày, chạy đông ngó tây rồi lại viễn chinh Cao Ly, hết xây nhà chỗ này, làm phủ chỗ kia, lại làm cả lầu gác riêng ở Đơn Dương. Đến khi giặc giã bốn bề, đáng lẽ phải ra sức đánh dẹp, thì chẳng bao giờ làm cả việc cung cấp cho binh lính lương thực, khí giới, cũng chẳng hề lo lắng, vua quan ngồi cả ở Giang Đô, mặc cho một ngày kia mất một huyện, ngày qua mất một thành, hôm nay thêm một kho bị cướp, ngày mai lại mất những gì, những gì nữa... vua chẳng hề biết đến, thần chẳng hề nói đến, tất cả chỉ ngày nào biết ngày ấy.

Cho đến khi có tin báo Lý Uyên đã làm phản, đang kéo quân vào cửa quan, các quan tùy giá của Dượng Đế đều chẳng có chủ ý gì cả. Trước tiên là Lang tướng Đậu Hiền, lãnh quân bản bộ bỏ chạy vào cửa quan trước, vua Tùy nghe tin, sai quân chém đầu, nhưng rồi lại thôi, mà đưa về Giang Đô giam cho chết đói. Nhưng rồi trong cảnh cái chết đến chân, cũng phải tìm cho mình một đường sống, nên Hổ bôn lang tướng Tư Mã Đức Kham, Nguyên lễ trực các Bùi Kiến Thông, Nội sử xá nhân Nguyên Kính, Hổ nha lang tướng Triệu Hằng Khu, Ủng dương lang tướng Mạnh Bính, Huân thị Dương Sĩ Lâm cùng nhau thương nghị:

- Chúng ta đều phải lo mà thoát thân, chẳng có lính tráng nào đuổi theo bọn ta làm gì, dẫu có đuổi theo nữa, thì ta cũng chẳng có gì để mà sợ.

Bọn này chẳng có kế sách gì lạ, chẳng qua là bàn để chạy thoát lấy thân. Trong số này chỉ mỗi Vũ Văn Hóa Cập là khôn ngoan hơn cả thì nói:

- Chúa thượng vô đạo, nhưng uy lệnh vẫn còn, cho nên dẫu có bỏ chạy, chưa chắc đã thoát. Ta xem trời định làm mất nhà Tùy, anh hùng đua nhau nổi dậy. Hiện nay Vũ Văn này cũng có vạn người, chi bằng cùng nhau xúm lại lo việc lớn, đây là chuyện mưu đồ vương bá, nếu mọi chuyện thành công, phú quý ta cùng hưởng vậy.

Ai nấy nhất tề đáp:

- Hay lắm!

Rồi bầu Hóa Cập làm minh chủ, Tư Mã Đức Kham có công chiêu tập mọi người thì làm thủ lãnh, cả hai xếp đặt công việc, ai nấy nghe theo. Trước tiên là lấy trộm ngựa trong chuồng ngựa của Dượng Đế, tìm kiếm khí giới. Hóa Cập lại tìm cách lôi kéo cả Tư không Ngụy Thị, phạm vi càng ngày càng rộng, lời đồn càng ngày càng loang, ngay cả trong cung cấm cũng nhiều người biết. Hôm ấy Hạnh Nương đứng hầu yến tiệc, tâu mọi chuyện cho Dượng Đế rõ. Dượng Đế nghe xong liền lệnh cho Hạnh Nương nói chiết tự chữ "Tùy" để tìm cách tránh tai họa, Hạnh Nương thưa rằng:

- Chữ "Tùy" vốn là quốc hiệu, chỉ có một bên tai, mà lại bịt kín, ở giữa có chữ "công", chữ "công" này gần giống chữ "vương", nhưng không phải chữ "vương", ngoài ra chẳng có chữ nào nữa, cho nên có trốn cũng chẳng thoát.

Lại lệnh cho đoán chữ "trẫm". Hạnh Nương thưa:

- Chuyển phấn bên phải sang bên trái, thì giống chữ "Uyên", chỉ vào việc hiện này Lý Uyên đang khởi loạn. Giờ chỉ còn có người xưng trẫm là ngu tối, chẳng chịu thấy gì. Nếu nói thẳng với bệ hạ, thì tháng này rồi chỉ còn tám ngày nữa thôi?

Dượng Đế nổi giận quát:

- Ngươi sẽ chết vào lúc nào?

Rồi lệnh cho đoán chữ "Hạnh", Hạnh Nương đáp:

- Thiếp sợ chết ngày hôm nay!

Dượng Đế vặn:

- Làm sao ngươi biết?

Hạnh Nương đáp:

- Chữ "Hạnh" gồm các chữ "thập, bát, nhật" chẳng còn cách nào khác, hôm nay chính là ngày ấy, ngày mười tám? (1)

1 Hạnh Nương dùng cách "chiết tự" để đoán việc các chữ "Tùy", "Hạnh", đã giải thích ngay trên, riêng chữ "trẫm", thì phải hiểu đó là chỉ chữ "Quang", tên của Dượng Đế, trong số chữ "Quang", có chữ có bộ "ấp" ở bên phải gần như chữ "Quảng" của Dương Quảng!

Dượng Đế nổi giận dùng đùng, sai chém, từ đó trở đi, chẳng ai dám nói. Dượng Đế thường soi gương, rồi tự hỏi.

- Cái đầu đẹp thế này, đứa nào dám chém?

Rồi lại ngửa nhìn trời sao, nói với Tiêu Hậu:

- Bên ngoài có kẻ đang muốn giết trẫm, nhưng trẫm thì chưa mất Trường Thành Công, hoàng hậu thì vẫn không làm Thẩm hoàng hậu mà! (1)

1 Trường Thành: Lâu dài, mãi mãi, Thẩm: chìm đắm, ý nói cả hai đều còn được lâu dài. Dượng Đế cố tự huyễn hoặc!

**

Nay lại hãy nói chuyện Vương Nghĩa, từ lâu đã biết mọi việc thế xong, lại ân hận mình là người nước ngoài, chằng có cách nào cứu vớt chỉ có cách đem gia tài giấu giếm. Làm thân với thủ uyển thái giám Trịnh Lý cùng các viên túc vệ giữ cửa cung, đều là tay chân của họ Vũ Văn, để dò la xem bao giờ thì bọn này hành sự. Khi đã biết tin chắc chắn, liền sai ngay Khương Đình Đình, cùng một a hoàn nhỏ tuổi đi một chiếc xe nhẹ vào trong ngự uyển. Bởi Đình Đình ngày ngày vẫn thường ra vào, nên chẳng ai ngăn cản. Đình Đình xuống xe, cùng a hoàn vào thẳng Bảo Lâm viện, thấy cả Tần phu nhân ở Thanh Tu viện, Địch phu nhân ở Văn An Viện, Hạ phu nhân ở Ỷ Âm viện, Lý phu nhân ở Nghi Phương viện đều đang ở đây, lại thêm cả Viên Bảo Nhi, Sa phu nhân cùng Triệu Vương là bảy người cả thảy, đang xúm lại chơi cờ. Sa phu nhân thấy Đình Đình vào, vội hỏi:

- Ngươi hãy ngồi đi! Tin tức ở bên ngoài ra sao rồi!

Đình Đình thưa:

- Xin các phu nhân thứ lỗi, sự thể bên ngoài chỉ chẳng sớm thì chiều, thế mà các phu nhân vẫn ở đây ngồi nhàn cho được. Vương Nghĩa sai thiếp vào đây, hỏi xem ý Sa phu nhân như thế nào?

Các phu nhân nghe thấy thế chỉ ôm mặt khóc, chỉ riêng Sa phu nhân cùng Bảo Nhi là không. Sa phu nhân nói:

- Khóc cũng vô ích! Chị em chúng ta giờ tính chuyện đi đứng ra sao đây?

Tần phu nhân đáp:

- Trước mắt ta đây đều là chị em tâm phúc cả, xin được nghe chỉ vẽ. Mọi người mấy tối trước có nói: "Năm đầu thánh thượng đưa cung nữ vào cung còn vừa phải, cho nên ân tình còn sâu nặng. Giờ thì phía đông cũng là Phật, trời tây cũng là Phật, thánh thượng chẳng còn biết đi đâu nữa?" Chỉ riêng câu này cũng đủ biết ta phải làm gì rồi, chẳng trông mong được vào ai nữa đâu!

Sa phu nhân đáp:

- Ta cũng chẳng có ý gì cả đâu. Ta mà không có Triệu Vương, thì sống cũng có cách sống, chết cũng có cách chết, nhưng nay thánh thượng đem Triệu Vương phó thác cho ta, ta đành chỉ có cách...

Rồi chỉ Đình Đình, nói tiếp:

- Đành chỉ có cách dựa vào vợ chồng họ Vương này thôi. Các phu nhân nếu đã quyết chí xin hãy về ngay viện mình, thu thập mọi thứ rồi đến đây ngay đi!

Các phu nhân nghe nói thế, liền chạy như bay về viện. Duy chỉ có Viên Tử Yên, do biết xem thiên văn, hiểu rõ số nhà Tùy đã hết, từ lâu đã thác bệnh, thu thập tế nhuyễn riêng tư, nằm ở viện Bảo Lâm.

Ba người đang ở đấy tính chuyện thoát thân, thì thấy Tiết Dã Nhi đi thẳng vào, thấy Đình Đình, liền nói:

- Tốt lắm rồi! Ngươi đang ở đây rồi! Vừa rồi Chu Quý Nhi bảo ta đến gặp Sa phu nhân, bên ngoài mọi chuyện gấp lắm rồi, kiếp này thì chẳng còn được gặp nhau đâu. Triệu Vương là ý thánh chúa đã thác gửi, vạn lần xin đừng phụ lòng thánh chúa. Ta cũng chịu ơn dày của chúa thượng, đáng ra cũng nên chết theo chúa thượng mới phải, nhưng rồi Chu Quý Nhi ba bốn lần đinh ninh dặn dò, nên đành phải trộm sống mà theo hộ giá Triệu Vương vậy.

Sa phu nhân nói:

- Ta đang cùng Đình Đình tính toán, bảy tám người như thế này, thì đi làm sao cho được?

Dã Nhi đáp:

- Chuyện này thì không sợ, Quý Nhi cùng với Dã Nhi này đã lo liệu đầy đủ.

Rồi lấy ở trong tay áo ra một đạo thánh chỉ:

- Đây chính là do trước kia định sai người đi Phúc Kiến để tìm hoa lan, tuy viết rồi, nhưng rồi chúa thượng ngày đêm tiệc rượu, cho nên lại chưa làm. Quý Nhi nhân chuyện bảo toàn Triệu Vương, nên lặng lẽ lấy trộm, giao cho Dã Nhi này cùng các phu nhân, tùy đó mà hành sự vậy thôi.

Sa phu nhân rơi nước mắt đáp:

- Quý Nhi đúng là hai lần đều trung trinh, thật đáng phục vậy.

Đang nói thế thì thấy bốn vị Phu nhân, đem theo hành lý bước vào, Sa phu nhân đưa thánh chỉ ra cho các phu nhân xem. Tần phu nhân nói:

- Có được đạo bùa này, chẳng còn lo không đi được nữa rồi.

Tử Yên nói:

- Cứ như ý của Tử Yên này, nên đi làm hai lần thì tốt hơn.

Đình Đình thưa:

- Đã dự liệu cả rồi đây. Mau giả trang cho Triệu Vương thành con gái, đổi quần áo cho con a hoàn này để Triệu Vương mặc, còn a hoàn thì giả làm một tiểu thái giám. Thiếp cùng Triệu Vương ra trước. Còn a hoàn dẫn các phu nhân cải trang theo sau, từ từ ra khỏi cung đến nhà thiếp. Cứ thế này thì chỉ có quỷ thần mới nhận ra được.

Hạ phu nhân nói:

- Chỉ sợ trong lúc gấp gáp như thế này, lấy đâu ra sáu bảy bộ áo thái giám?

Sa phu nhân đáp:

- Chẳng cần các phu nhân phải lo. Ta từ lâu đã trữ sẵn cả đây rồi?

Sa phu nhân mở ngay rương, lấy ra một loạt quần áo thái giám, mới có, cũ có, đủ cả mũ, cả khăn. Các phu nhân vui mừng, lập tức mặc ngay vào. Sa phu nhân đang cải trang cho Triệu Vương, nhìn bốn phu nhân, nói:

- Thật xấu hổ, các phu nhân trên mặt còn đầy những phấn những sáp, sao đã vội ăn mặc ngay vào thế kia.

Các phu nhân đều rũ rượi. Đình Đình thấy Triệu Vương đã cải trang xong, trời đã về chiều, Sa phu nhân lấy một cái hộp vàng, bày rất nhiều hoa vào, đưa cho Triệu Vương bưng, Đình Đình nói với a hoàn:

- Chờ một lát, mày hãy dẫn các phu nhân về nhà!

Rồi cùng Triệu Vương, lặng lẽ ra khỏi viện, lên xe về nhà.

Vương Nghĩa ở nhà, sau khi Đình Đình vào viện, liền chạy ngay đến tìm Trịnh Lý, mời về nhà, chuốc rượu cho đến kỳ say mới cho về. Trịnh Lý say khướt về trông cửa cung, thấy tiểu thái giám bưng quả hoa, lại thấy xe của Đình Đình liền nói:

- Khương nương nương ở trong viện về đây à? Ta vừa ở đường nhà làm một tiệc say với Vương Nghĩa xong!

Đình Đình đáp:

- Đúng rồi! Nhưng cũng còn sớm chán!

Trịnh Lý tiếp:

- Lại thêm cả con a hoàn này để lấy phần hoa quả về sao?

Đình Đình đỡ lời:

- Đấy chính là ơn huệ của các phu nhân ban cho!

Nói rồi, ung dung rời khỏi cửa cung, chưa đầy một dặm, đã về đến nhà. Vương Nghĩa thấy Triệu Vương liền dặn Đình Đình đừng thay quần áo Triệu Vương làm gì, đưa vào giấu ở phòng kín bên trong, rồi chạy ngay khỏi nhà, vào cửa cung nghe ngóng, đã thấy sáu bảy nội giám, suýt soát như nhau, trong đó nhận ra cả a hoàn nhà mình, liền cùng quay về nhà cho nhanh. Các cửa thành, Vương Nghĩa đã giải tiền kết thân từ trước, chẳng ai ra mà bị ngăn trở. Cho nên đến lúc lên đèn, Vũ Văn Hóa Cập kéo lính tráng khởi sự, vào đến cửa cung, thì Vương Nghĩa đã dẫn Triệu Vương cùng các phu nhân ra khỏi cửa thành rồi.

Dượng Đế thường ngày rất sợ mọi người nói chuyện xấu, ai nói ra đều bị giết, nhưng đến lúc này, thì dù ở địa vị Dượng Đế nữa, cùng đã thấy rõ thảm cảnh trước mắt, chỉ đành cùng Tiêu Hậu ngồi ở gác Tây, nhìn nhau mà lo sợ suốt đêm, nghe bên ngoài ồn ào chấn động, tiếng la hét chuyển vang trời đất. Nội giám lúc một lại vào báo:

- Đánh đến nội điện rồi?

- Đồn vệ tướng quân Độc Cô Thịnh chết rồi!

- Thiên ngưu Độc Cô Khai Viễn bị giết rồi!

Bọn lính tràn vào cung, một toán tóm lấy một cung nữ, quát hỏi Dượng Đế ở đâu. Cung nữ khai là đang ở gác Tây, Bùi Kiền Thông cùng Nguyên Lễ chạy thẳng tới gác Tây. Nghe thấy trên gác có tiếng người, biết là Dượng Đế. Mã Văn Cử rút kiếm chạy lên, mọi người ùa theo sau, chỉ thấy Dượng Đế cùng Tiêu Hậu đang ngồi khóc. Thấy mọi người, Dượng Đế nói:

- Các khanh đều là quan thần của trẫm, năm này sang năm khác lộc trọng quyền cao ban cho các khanh, nào có phụ gì, sao lại oán nghịch như vậy?

Kiền Thông đáp:

- Bệ hạ chỉ nghĩ tới hưởng lạc, chẳng nghĩ gì đến kẻ dưới, nên mới có biến hôm nay vậy.

Lại thấy phía sau lưng, Chu Quý Nhi bước ra, chỉ tay vào mặt bọn Kiền Thông:

- Thánh ơn rộng khắp, thế vẫn chưa thỏa lòng sao. Đừng nói tới chuyện bổng lộc quanh năm, chỉ nói tới việc lo lắng cho bọn thị vệ các ngươi ở Đông Đô này, ở đất khách lâu nhớ quê nhà, tình người cô độc truyền chỉ cho cả vùng Giang Đô này, những đàn bà cô quả đều tới cung, để các ngươi tùy ý chọn lựa. Thánh ân đến thế, sao lại bảo không chăm sóc thương yêu, mà nghĩ chuyện loạn nghịch cho đặng?

Dượng Đế tiếp:

- Trẫm không phụ các khanh, chính các khanh đang phụ trẫm!

Mã Đức Kham nói:

- Đúng là chúng thần phụ bệ hạ, nhưng hiện nay cả thiên hạ đều nổi dậy làm phản, hai kinh giặc đều chiếm, bệ hạ chẳng còn chỗ mà về, chúng thần cũng chẳng còn đường sống. Hôm nay đạo nghĩa chúng thần đã đến thế này, có hối cũng chẳng kịp nữa, chỉ xin dược cái đầu bệ hạ để tạ trời đất thôi!

Quý Nhi nghe thế liền lớn tiếng quát:

- Lũ nghịch tặc sao dám nói điên cuồng. Dẫu chúa thượng có thất đức đi nữa, cũng vẫn là đấng thiên tử chí tôn, làm cha trăm họ, mũ áo đường đường danh phận. Các ngươi chẳng qua là lũ thị vệ tiểu quan, sao dám ức hiếp thánh chúa, vọng tướng phú quý, để rồi chịu tiếng phỉ báng loạn thần, nghịch tử của nghìn năm sau?

Kiền Thông thấy nói thế, nổi giận quát:

- Ngươi là con hầu ở bếp, sao dám dẻo miệng báng bổ?

Quý Nhi vẫn lớn tiếng chửi:

- Phản vua, hại chúa chúng bây, cậy có binh quyền trong tay muốn làm gì thì làm sao! Nhà Tùy ơn nghĩa khắp thiên hạ. Chín châu không khỏi có một kẻ trung thần nghĩa sĩ, vì thiên tử mà báo thù quân cần vương sẽ kéo về, lúc ấy thì các ngươi sẽ bị băm làm vạn mảnh, có hối cũng muộn rồi?

Văn Cử cũng đùng đùng nổi giận:

- Con tiện tỳ điên khùng, ngày thường thì mày chau mắt nguýt mê hoặc nhà vua, đến lúc thiên hạ nát tan, cũng nên giết chết tiện tỳ để tạ trời đất!

Kiếm giơ cao, nhằm giữa mặt Quý Nhi mà chém, Quý Nhi vẫn chửi không ngớt, rồi ngã lăn ra nền nhà. Khá thương mình vàng, vóc ngọc thành một đám máu thịt nát tan.

Văn Cử giết Quý Nhi rồi tay cầm kiếm, tay lôi Dượng Đế xuống dưới gác, thì thấy Phong Đức Di đi lên, nói với Đức Kham:

- Hứa Công có lệnh, không cần phải giải hôn quân tới gặp Đức Công làm gì, hãy mau hạ thủ đi.

Tiêu Hậu thấy nói thế, vội lạy van xin mọi người:

- Thưa các vị tướng quân, chúa thượng đúng là vô đạo, nhưng xin hãy nghĩ đến tước lộc lâu nay để chúa thượng xin nhường ngôi lại cho các vị tướng quân, giao lại tất cả ấn tín, cung khuyết, xin các vị giáng làm tam công, cho sống nốt kiếp sống thừa, như thế liệu các vị tướng quân có chấp nhận cho không?

Lại thấy Viên Bảo Nhi hầm hầm giận dữ chạy tới, thấy Tiêu Hậu khóc lóc, một điều tướng quân hai điều tướng quân, liền cười nói với Tiêu Hậu:

- Hoàng hậu việc gì phải khổ sở thế? Đối với lũ giặc này, chúng chẳng có một chút trung quân ái chúa gì cả đâu. Đời nào chúng bằng lòng cho chúa thượng yên ổn nhường ngôi, để rồi lại vẫn cùng hoàng hậu hành lạc cho được?

Lại nói với Dượng Đế:

- Bệ hạ thường cho mình là bậc anh hùng, đến nước này thì còn lưu luyến tấm thân làm gì nữa mà phải cầu xin lũ phản thần này? Người ta ai không chết? Thiếp giờ đây cũng xin chết trước mặt bệ hạ, cũng coi như là một cái chết xứng đáng. Thiếp xin đi trước, bệ hạ hãy mau mau đi theo?

Văn Cử vội vàng ngăn Bảo Nhi lại, nhưng Bảo Nhi trừng mắt nhìn, lớn tiếng quát:

- Lũ phản thần! Không được lại gần ta?

Vừa nói, vừa rút đoản đao đâm vào cổ, đầu ngửa cao, từ cổ một dòng máu đỏ tươi phun ra như mưa, rồi cả thân hình đẹp như thần tiên ngã vật xuống lan can. Tiêu Hậu thấy thế hoảng sợ chạy vội xuống gác. Dượng Đế thì hồn bay phách lạc, Kiền Thông xốc kiếm định giết. Dượng Đế gào lớn:

- Hãy khoan động thủ, thiên tử có cách chết của thiên tử, hãy đem thuốc độc ra dây!

Kiền Thông đáp:

- Thuốc độc không bằng mũi kiếm, nhanh hơn nhiều. Cái gì mà chẳng xong!

Dượng Đế rót nước mắt nói:

- Trẫm là thiên tử một đời, xin được giữ toàn thân mà chết?

Văn Cử đưa ra một tấm lụa trắng, Dượng Đế khóc mà rằng:

- Trước đây Lý Khánh Nhi ở Phượng Nghi viện nằm mộng thấy trẫm bị rồng trắng quấn cổ, đến nay mới nghiệm đây!

Bọn này liền gọi vũ sĩ tới, nhất tề ra tay, lôi Dượng Đế ra, dùng lụa trắng thắt cổ cho chết. Lúc này, Dượng Đế mới hai mươi chín tuổi.

Người đời sau có thơ điếu rằng:

Tùy gia thiên tử giống đa tình,

Chẳng sống lâu, cốt sướng lấy mình

Hoa lệ mười ba năm mãn thế

Dâm ô nghìn vạn thuở lưu danh

Mê trăng đắm rượu: dân không gốc

Cợt phấn đùa hương: mệnh hết tinh

Còn giận loạn thần tham phú quý

Máu rồng tung tóe khắp cung đình.

hết: Hồi Thứ Bốn Mươi Bảy, xem tiếp: Hồi Thứ Bốn Mươi Tám

Hồi Thứ Bốn Mươi Tám

Nhờ diệu kế, một bạn về đường,

Hủy dung nhan, bốn nàng bền chí.

Từ rằng:

Khéo thay đất, lạ thay trời

Tri âm lại trả nghĩa người tri âm

Những như ân nổi oán chìm

Trong mây nghe sấm, đen rầm xa xăm

Hận ly biệt, âm thầm nhiều ít

Trống chín châu hò hét dập dìu

Cô trung níu lấy Tùy triều

Sợi chỉ mảnh, đứt sớm chiều, hoa rơi!

Trùng hưng may lại tốt tươi...

Theo điệu "Vũ trung hoa"

Từ xưa biết người thì sẽ có người biết mình, đã là bậc tri âm tất gặp người tri âm, đã là khách chung tình sẽ có khách chung tình báo đáp. Cả đời Tùy Dượng Đế chỉ mỗi chăm chú là phụ nữ, tất cả chỉ vì phụ nữ mà hành động, đem cả giang sơn gấm vóc vứt phí vứt hoài, cũng bởi thế nên có được những phụ nữ đột xuất vì cảm ân đó mà quên thân mình để báo bậc tri kỷ, báo quốc gia, xả thân thủ tiết, hủy hoại dung nhan báo đáp kẻ chung tình, danh thơm lưu sử sách.

***

Lại nói chuyện Tư Mã Đức Kham sau khi đã sai thắt cổ Dượng Đế liền sai người đi báo cho Vũ Văn Hóa Cập. Hóa Cập lệnh cho Bùi Kiền Thông, dẫn lính tráng kéo đi giết chóc một loạt tôn thất, thân vương: Thục Vương Dương Tư, Tề Vương Dương Giản, Yên Vương Dương Đạm, không kể già trẻ, lớn bé, đều giết tuốt. Duy chỉ có Tần Vương Dương Hạo, vốn chơi thân với Trí Cập nên được Trí Cập cứu cho, thì may sống sót. Tiêu Hậu ở trong cung, lấy ván giường tủ đóng quan tài, rồi chôn cất cho Chu Quý Nhi, cùng Viên Bảo Nhi ở Lưu Châu đường thuộc Tây Viện.

Chính là:

Một gương châu gấm riêng còn mất

Ba thước mồ ma đắp thấp cao?

Hóa Cập giết xong các thân vương, tự mình đem theo giáp binh vào nội cung, định giết nốt hoàng hậu, các phi tần, để tuyệt tận gốc rễ. Đang trên đường vào chính cung, thấy một người đàn bà cùng với rất nhiều cung nữ theo sau khóc lóc, Hóa Cập lên tiếng quát:

- Ngươi là ai? Mà lại vào đây khóc lóc?

Người đàn bà này vội vàng quỳ xuống thưa:

- Thiếp chính là hoàng hậu họ Tiêu, xin tướng quân tha mạng!

Hóa Cập thấy Tiêu Hậu mặt hoa da phấn, dáng điệu thanh cao, trong lòng mười phần xứng ý, nên không đang tâm hạ sát, bèn nói:

- Chúa thượng vô đạo, ngược đãi trăm họ, kẻ có công không được thưởng, cho nên mọi người giết đi, nhưng chẳng can hệ gì đến ngươi, không việc gì phải sợ hãi. Ta tuy là hạng vũ tướng, nhưng cũng bởi vì dân mà trừ hại, thực không có lòng nào khác. Nếu không có lòng tỵ hiềm, xin cùng hưởng phú quý.

Rồi đưa tay đỡ Tiêu Hậu dậy. Tiêu Hậu thấy Hóa Cập nói năng nhẹ nhàng, nên cố lấy giọng thỏ thẻ, vừa sụt sùi:

- Chúa thượng vô đạo, lẽ nên chịu tội chết. Còn sự sống chết của thiếp xin hoàn toàn nhờ cậy ở tướng quân cả?

Hóa Cập đáp:

- Ngươi hãy cứ yên lòng. Chuyện này chủ trương là ở ta cả, không sợ mất giàu sang đâu!

Tiêu Hậu thưa:

- Tướng quân đã nói thế, sao không lập con cháu nối ngôi để tỏ rõ việc làm đại nghĩa?

Hóa Cập đáp:

- Ta cũng nghĩ như vậy!

Rồi ban lệnh: theo ý chỉ của hoàng hậu, lập Tấn Vương Dương Hạo làm vua, rồi tự mình lập làm Đại thừa tướng, cầm đầu trăm quan phong em trai là Vũ Văn Trí Cập làm Tả bộc xạ, phong em trai khác mẹ là Vũ Văn Sĩ Cập làm Hữu bộc xạ, phong con trưởng là Vũ Văn Thừa Cơ, con thứ là Vũ Văn Thừa Chỉ cùng làm tướng, coi giữ binh quyền, còn ngoài ra thì bọn tâm phúc đều được thưởng công, được trọng dụng. Nhưng bọn quan lại lâu nay có oán cừu với Vũ Văn Hóa Cập như Nội sử thị là Ngô Thế Cơ, Ngự sử đại phu Bùi Ôn, bí thư giám Viên Khắc, Tả phiên vệ tướng quân Lai Hoạch Nhi, Hữu phiên vệ tướng quân Vũ Văn Hiệp, Thiên ngưu Vũ Văn Xương, Lương Công Bùi Cử, kể cả gia quyến con cháu đều đem ra chém tất. Cấp sự lang Hứa Thiện Tâm chưa kịp đến triều dường để chúc mừng, Hóa Cập cho người tới tận nhà gọi đến, lúc được tha về, Thiện Tâm ra thẳng không tạ ơn, Hóa Cập nổi giận giết ngay. Mẹ Thiện Tâm là Phạm Thị, tuổi đã chín mươi hai, lúc làm tang không hề khóc, có người hỏi tại sao. Phạm Thị đáp:

- Nó chết vì nạn nước, ta có đứa con như thế, thì việc gì mà phải khóc?

Rồi nằm liệt, không chịu ăn mà chết.

Hóa Cập nhân tướng sĩ đều muốn về tây, liền đưa hoàng hậu cùng vua mới trở về Trường An, đem theo tất cả những mỹ nhân để hưởng lạc, bắt hết cả thuyền bè, theo đường thủy từ Bành Thành mà đi đến Hiển Phúc cung. Bọn Tư Mã Đức Kham cùng Triệu Hằng Khu, ghét Hóa Cập dâm loạn với bọn cung phi, không nghĩ gì đến tướng sĩ, mới dẫn hậu quân ập bắt Hóa Cập, không ngờ không giữ được kín, lại bị Hóa Cập giết chết. Đi đến Hoạt Đài, Hóa Cập giao cho Vương Quỹ trông coi mọi việc, còn mình thì thẳng đến Lê Dương, đánh vào Thương Thành.

***

Lại nói chuyện vợ chồng Vương Nghĩa, dẫn Triệu Vương cùng các phu nhân, đi cách Vu Thành khoảng hai ba chục dặm, nhờ một nhà dân nghỉ lại qua đêm, thì nghe phía sau tiếng pháo nổ, tiếng hò hét vang trời, tin tức người đi lại đều nói trong thành có biến lớn. Vương Nghĩa vẫn để Triệu Vương đóng giả gái như cũ, còn sấp xếp để Đình Đình, Tử Yên, cùng Dã Nhi đều cải dạng nam trang. Năm phu nhân Sa, Địch, Tần, Lý cùng với con a hoàn vẫn mặc áo quần phụ nữ cũ. Tử Yên nói:

- Ta tối qua xem thiên văn, biết rằng chúa thượng đã bị giết hại rồi, chúng ta tuy thoát khỏi lồng vây, nhưng không biết đi đâu bây giờ cho yên?

Vương Nghĩa đáp:

- Chẳng nơi nào có thể đi được cả, trừ một nơi.

Mọi người vội hỏi:

- Nơi nào thế?

Vương Nghĩa đáp:

- Thái bộc Dương Nghĩa Thần, năm trước lo chúa thượng nghe lời bọn nịnh thần, thu hết binh quyền, vì vậy Dương Thái bộc trở về quê Thái bộc biết rõ số nhà Tùy đã hết, thay tên đổi họ, ẩn cư ở vùng đầm hồ Lôi Hạ thuộc Bộc Châu. Người này trí dũng kiêm toàn, trung quân ái chúa. Chúng ta nên đến quê thái bộc, thấy ấu chúa đây, thái bộc tất sẽ có phương cách.

Tử Yên vui mừng nói:

- Thái bộc chính là cậu của ta, ta vẫn hàng ngày hay nói chuyện cùng Sa phu nhân, tìm về đấy thì yên ổn rồi, chỉ sợ không biết ý của các phu nhân ra sao?

Bàn bạc xong, mọi người thuê thuyền đi Bộc Châu.

Lại nói Nghĩa Thần, từ năm Đại Nghiệp thứ bảy bị dèm pha nên phải nạp lại ấn kiếm, phòng xa lỡ tai họa đến thân, nên thay tên đổi họ, vào ở Lôi Hạ, hàng ngày làm bạn với ông ngư ông tiều.

Hôm ấy, nghe tin ở Giang Đô, Hóa Cập giết vua loạn cung, Nghĩa Thần buồn rầu than:

- Hóa Cập là loại thất phu ngu dốt, nên mới dám ngông cuồng như thế. Khá tiếc cho người em Sĩ Cập, vốn đi lại với ta khá thân thiết, mai kia có chuyện thiên hạ cùng hợp sức đánh dẹp bọn này, ta nỡ nào ngồi yên, nhìn dòng họ Vũ Văn phải cái nạn tuyệt hậu. Phải mau mau tìm cách khiến cho Sĩ Cập có thể giữ được thân mình, tránh khỏi họa này.

Liền sai người nhà là Dương Phương, đem theo một cái bình, Nghĩa Thần tự tay lấy giấy bút niêm phong thật kín miệng, theo đường tắt đến Lê Dương, đưa cho Sĩ Cập. Sĩ Cập thấy Dương Phương, vui mừng nói:

- Ta đang ngày đêm trông ngóng tin tức, không rõ hiện thái bộc đang ở đâu, thì nhà ngươi đến!

Liền dẫn vào thư phòng, cho tả hữu ra ngoài cả, rồi hỏi:

- Thái bộc hiện đang ở đâu? Gần đây làm những gì?

Dương Phương đáp:

- Thái bộc tiểu nhân từ ngày bị điều tiếng đến nay, thay tên đổi họ, về vùng Lôi Hạ, vui với chuyện kiếm củi, câu cá.

Sĩ Cập hỏi:

- Có thư của thái bộc không?

Dương Phương thưa:

- Thư thì thái bộc không đưa gì cả, chỉ có tự tay niêm phong vật này để làm tin mà thôi!

Sĩ Cập vội mở ra xem, thì thấy bên trong chỉ có hai quả táo cùng một miếng đường hình con rùa, Sĩ Cập nhìn hồi lâu, vẫn chẳng hiểu ý nghĩa ra sao, liền gọi tả hữu dẫn Dương Phương ra hậu dinh cơm rượu, rồi lại trầm ngâm nghĩ ngợi. Bỗng bình phong vén lên, một mỹ nhân xuất hiện, đó là người em gái rất thân thiết của Sĩ Cập tên gọi Thục Cơ, tuổi vừa mười bảy, vẫn còn chưa chịu tính gia thất, tuy chẳng phải bậc khuynh quốc khuynh thành, nhưng cũng thông minh, sáng sủa. Thấy Sĩ Cập trầm ngâm không nói, liền hỏi:

- Xin hỏi anh, cái này ai đưa đến, mà anh nghĩ ngợi, băn khoăn quá thế?

Sĩ Cập đáp:

- Cái này là một người bạn cũ, thái bộc nhà Tùy Dương Nghĩa Thần gửi đến. Thái bộc rất tinh thông binh pháp, biết rõ thiên văn, nhân bị tước cả binh quyền, bỏ quan đi ở ẩn. Nay sai người gửi đến cho ta một cái bình, niêm phong cẩn thận, ở bên trong chỉ hai thứ. Thật đúng là một câu đố khó giải.

Thục Cơ xem xét một hồi, rồi nói:

- Cũng chẳng có gì là hiểm hóc đâu. Chẳng qua khuyên anh nên mau mau theo về nhà Đường, thì may thoát khỏi họa thí nghịch vậy (1)

1 Con rùa làm bằng đường, là "quy đường" nhưng "quy" là rùa, tại đồng âm với "quy" là về, theo, hàng. Nên hiểu ra là "theo về nhà Đường". Quả táo là "tảo", hai quả táo là "tảo tảo", gần âm với "tốc tốc" là mau mau. Vì vậy Thục Cơ giải là: "Mau mau theo về với nhà Đường đi!"

Sĩ Cập cả mừng:

- Em gái ta thật thông minh tài trí, nhưng ta cũng không tiện viết thư trả lời, mà cũng cần lấy một vật gì đó gửi cho thái bộc, để thái bộc hiểu được ý định của ta mới được.

Thục Cơ đáp:

- Nhưng không biết chủ ý của anh đã thật quyết chưa, nếu đã quyết thì có gì khó trả lời.

Sĩ Cập đáp:

- Hóa Cập làm những việc này, ta đứng xem cũng biết sẽ thất bại, đến lúc bị đánh lại, sẽ không thể nào chống đỡ kịp nữa rồi!

Thục Cơ liền nói:

- Thế là ý anh đã quyết, em sẽ sang bên này, tìm mấy thứ nhỏ, gửi cho thái bộc là xong.

Thục Cơ đi một lúc, quay lại, thấy tay cầm một cái hộp sơn đen, Sĩ Cập mở ra xem, thì thấy một con ngỗng làm bằng giấy cho trẻ con chơi, cổ con ngỗng lại đeo một cái thìa nhỏ tí, trên thìa lại có dính một lá bùa tính số mệnh nho nhỏ, tất cả đều được xếp gọn ghẽ. Sĩ Cập ngạc nhiên hỏi:

- Như thế nghĩa là gì?

Thúc Cơ ghé tai Sĩ Cập nói nhỏ mấy câu. Sĩ Cập khen hay, rồi đóng hộp lại, cũng niêm phong cẩn thận, rồi đưa ngay cho Dương Phương cầm về.

Ngày hôm sau Sĩ Cập vào gặp Hóa Cập, nói:

- Tần Vương Lý Thế Dân hội họp binh mã các nơi để chinh phạt, thần ý muốn dẫn một vài gia đinh, giả làm dân chạy loạn, lên trước xem xét hư thực ra sao, vài ngày xin quay về thưa kỹ.

Hóa Cập bằng lòng, Sĩ Cập liền gọi vợ con, cùng với Thúc Cơ giả dạng nam trang, thu thập tế nhuyễn, rời khỏi Lê Dương, đến thẳng Trường An. Lúc này Cung Đế đã nhường ngôi cho Lý Uyên, vua Đường Lý Uyên lên ngôi, cải hiệu Vũ Đức, Sĩ Cập đem em dâng cho vua Đường làm chiêu nghi. Vua Đường phong cho Sĩ Cập làm thượng nghi cai quản công việc tam ty quân sự.

Lại nói Dương Phương, cầm cái hộp sơn đen của Sĩ Cập về Bối Châu gặp chủ tâu trình, Nghĩa Thần mở ra xem, thấy thế vui mừng nói:

- Thế là bạn ta có nơi chốn yên ổn rồi!

Dương Phương hỏi:

- Thưa thái bộc, như thế nghĩa là làm sao?

Nghĩa Thần đáp:

- Sĩ Cập chẳng nói gì cả, xin nhắn: Tôi xin kính cẩn vâng mệnh mà thôi! (1)

1 con ngỗng là "nga" gần âm với "ngã" là tối, cái thìa là "cẩn" đồng âm với "cẩn" là kính cẩn, lá bùa tính toán số mệnh gọi là "toán mệnh" đọc chệch là "tuân mệnh". Vậy là "ngã cẩn tuân mệnh".

Nhân đó hỏi Dương Phương:

- Người ở Lê Dương, thấy được những chuyện gì? Dòng dõi tiên đế có ai thoát nạn không, các quan trong triều, ai là người giữ được tiết nghĩa?

Dương Phương thưa:

- Tiêu Hoàng hậu thì đã thất tiết, các bậc phu nhân, phi tần cũng chạy trốn được ít nhiều, chỉ có Chu Quý Nhi, Viên Bảo Nhi mắng giặc mà chết. Hoa phu nhân ở viện Thúy Hoa, Tạ phu nhân ở viện Ảnh Văn, Khương phu nhân ở viện Nhân Trí, đều tự thắt cổ chết. Hóa Cập thấy Lương phu nhân ở viện Cảnh Minh dung mạo thần tiên ý muốn giữ cho mình, nhưng phu nhân không chịu, chửi mắng thậm tệ, Hóa Cập tìm mọi cách dụ dỗ, phu nhân vẫn không theo, cuối cùng cũng bị giết. Viên Quý nhân nhà ta không hiểu đi đường nào, tiểu nhân hỏi kỹ mà vẫn không ai biết. Tôn thất, hoàng thân bị giết mất cả, chỉ có Tần Vương Hạo, thân thiết với Trí Cập, nên phải miễn cưỡng tôn lên làm vua, không ngờ gần đây đã bị Hóa Cập cho uống rượu độc giết chết. Nghe nói còn con nhỏ Triệu Vương Cảo trốn được, đang cho người lùng khắp nơi để bắt.

Nghĩa Thần nghe xong, đập bàn, rơi nước mắt:

- Nghịch tặc dám ngang ngược tàn ác đến thế, bá quan văn võ phần lớn lại là phường hám vị sợ chết, nhưng các vị đại thần ở các phiên trấn há không còn ai trung nghĩa nghĩ tới chuyện trừ diệt lũ nghịch tặc này hay sao?

Khóc than một hồi, đêm ấy trong lòng buồn bực thắp một cây nến lớn, ngồi trong thư phòng, cúi đầu xem sách, lúc lúc lại than thở.

Mãi tới canh hai thấy trong người mệt mỏi, lên giường nằm nhưng vẫn không ngủ được, ngoài cửa trăng sáng như ban ngày. Trong lúc trằn trọc chẳng yên, liền ngồi dậy ra sân, bước đi vẫn còn nghiêng ngửa, thì thấy một người đội mũ, áo bào đỏ, hoảng hốt tiến lại. Nghĩa Thần nhìn kỹ, nhưng trong lúc tâm thần bất định, ánh trăng lại chiếu từ phía sau, nên đành cất tiếng hỏi:

- Hứa Công đến đây sao?

Người này đáp:

- Thật vừa may gặp tướng công ở ngoài này, xin tướng công mau ra tiếp ngự giá.

Lúc này Nghĩa Thần quên cả chuyện Dượng Đế đã chết, vội bước ra phía cổng, thì thấy Dượng Đế đội khăn the mỏng, áo long cổn thêu rồng lúc ẩn lúc hiện, cổ lại quấn một dải lụa trắng, theo sau là hai cung nữ mà trên mặt đầy máu me, đỡ Dượng Đế. Nghĩa Thần hoảng hốt quỳ lạy, chỉ thấy Dượng Đế lấy hai tay bưng mặt, rồi nghe một cung nữ lên tiếng:

- Lão tướng quân, bệ hạ dặn lão tướng quân thế này, mẹ con Triệu Vương tới, phiền lão tướng quân giữ gìn cho. Chỉ có mỗi việc đó thôi, xin lão tướng quân hãy bình thân.

Nghĩa Thần đang định hỏi Triệu Vương ở đâu, ngẩng đầu lên nhìn, thì chẳng thấy nữa, trấn tỉnh lại, thì trăng đã lặn về Tây, tiếng gà xao xác báo sáng, phương đông đã thấy sáng mờ mờ. Nghĩa Thần trong lòng nghi hoặc, lấy làm lạ kỳ, ngồi dậy xuống giường, gọi tiểu đồng mở rộng cửa lớn, rồi dạo khắp trong sân ngoài ngõ, trông bên đông, ngó phía tây, vẫn chẳng thấy sự gì lạ. Bỗng thấy dưới suối có tiếng lao xao, rồi một chiếc thuyền ghé vào bờ. Nghĩa Thần cùng tiểu đồng núp sau gốc cây nhìn xuống, thấy một người chống thuyền, lên bờ buộc thuyền lại. Từ trên thuyền, một người đi xuống, đứng lại trên bờ cao, nhìn ngó xung quanh. Lúc này trời vẫn chưa sáng hẳn, người trong nhà vẫn chưa dậy. Nghĩa Thần không chờ được nữa, bước ra hỏi người này:

- Ngài ở đâu đến đây, định tìm nhà ai bây giờ?

Người này vội chắp tay vái chào rồi đáp:

- Chúng tôi là người Giang Đô chạy nạn đến đây!

Vừa nói vừa nhìn kỹ Nghĩa Thần từ đầu đến chân. Nghĩa Thần cũng nhìn lại một lần nữa:

- Ngài có phải họ Vương chăng?

Người này lại liếc nhìn, rồi nâng hai tay Nghĩa Thần, khẽ hỏi:

- Lão tiên sinh có phải họ Dương chăng?

Nghĩa Thần thấy nói thế, cũng nắm lấy tay người này vội hỏi:

- Ngài có phải là Tuần hà Vương đại phu chăng?

Người này đáp:

- Tiểu nhân chính là viễn thần Vương Nghĩa!

Nghĩa Thần nghe thấy thế liền kéo tay vào trong cổng. Vương Nghĩa vội ghé tai Nghĩa Thần nói nhỏ:

- Xin hãy khoan đã! Hiện còn Triệu Vương cùng các phu nhân dưới thuyền kia?

Nghĩa Thần thấy nói thế, vội giục:

- Trời sắp sáng rồi! Mau mời Triệu Vương vào nhà ngay cho!

Nghĩa Thần gọi tiểu đồng, mở rộng cửa chính, rồi vào nhà mặc đủ áo mũ cân dai, đứng chầu ngay bên cửa, để đón mọi người. Vương Nghĩa cũng đứng ngay bên giới thiệu từng người.

Viên Tử Yên, lúc này đang đóng giả đàn ông, bước tới cổng, thấy Nghĩa Thần, vội vàng thưa:

- Cậu ơi! Cháu gái cậu về đây!

Nói rồi, không ngăn được nước mắt, bái lạy đi vào, Nghĩa Thần giơ hai tay kéo lại nhìn cho rõ:

- Thì ra là con nhà họ Viên đây! Ta mấy hôm trước cũng có sai người đi hỏi thăm tin tức, nhưng chẳng ai biết, nay thì về đây rồi. Tốt lắm? Hãy khoan chào lễ vội, cứ vào trong nhà đi đã, giúp Triệu Vương cùng các phu nhân thay hành trang ngay đi.

Nghĩa Thần lấy La phu nhân, họ La mất sớm, mới lấy Vương phu nhân hiện nay, sinh chỉ một người con, mới năm tuổi tròn, tên là Hình Nhi, lúc này Vương phu nhân cũng ra tiếp đón mọi người. Nghĩa Thần cùng Vương Nghĩa ngồi trong thảo đường, Vương Nghĩa đem những chuyện vào cung, ra thành thế nào, kể lại một lượt. Sau đó Triệu Vương bước ra, tuy mới chín tuổi, nhưng hiểu biết hơn người, rồi cả Sa phu nhân, cùng các phu nhân khác cũng lần lượt kéo ra.

Nghĩa Thần thấy Triệu Vương đã thay quần áo, rõ ràng mặt vuông chữ điền, hai tai lớn, mắt sáng mi thanh, nghiễm nhiên một vị Thái tử cành vàng lá ngọc, bất giác trong lòng cũng thấy kính phục, gọi ngay tiểu đồng trải thảm, kê ghế dựa, rồi làm lễ vua tôi. Triệu Vương kéo tay Sa phu nhân mà rằng:

- Mẫu thân? Lúc này là lúc nào, mà lão tướng quân còn định làm lễ thế này? Nếu cứ lấy chuyện lễ tiết ra mà đãi như vậy, thì mẹ con ta thật không dám đến đây!

Rồi nhất định không chịu ngồi lên ghế dựa mới kê, Tử Yên nói:

- Thưa cậu! Triệu Vương ít tuổi, chẳng cần phải thế, xin cậu làm lễ vái chào bình thường là được rồi!

Nghĩa Thần đáp:

- Nếu đã như thế, cũng không dám cưỡng ép, xin mời ngồi lên đệm đây, để lão thần vái chào vậy?

Triệu Vương nói:

- Xin cứ lạy chào mẫu thân trước, sau đó mới đến ta chứ!

Sa phu nhân đáp:

- Nếu bàn đến chuyện lễ nghĩa chính thống, thì trước tiên là Triệu Vương!

Triệu Vương nói:

- Mẫu thân, lúc này đang trong thảo đường như thế này, nói gì đến chính thống. Huống chi nếu ta không được tiên đế ký thác cho mẫu thân che chở cho, thì cũng đã cùng Thục Vương Tư, Tề Vương Giản đều thành hồn oan dưới dạ đài cả rồi!

Nghĩa Thần thấy Triệu Vương nói năng đâu ra đó, nặng nghĩa đầy tình, lấy làm kinh ngạc. Tử Yên cùng Dã Nhi liền đỡ Sa phu nhân lên, rồi kéo Triệu Vương ngồi ngay bên vai phu nhân, Nghĩa Thần liền làm lễ vái lạy. Sa phu nhân rơi nước mắt mà rằng:

- Nhà Tùy giờ chỉ còn mỗi một chút này, xin được lão tiên sinh giữ gìn cho. Trời đất có linh thiêng, cũng phải cảm ơn đó!

Nghĩa Thần đáp:

- Lão thần này đâu dám không hết lòng trung nghĩa?

Rồi lạy bốn lạy, tiếp đó lạy chào các phu nhân cùng Dã Nhi. Đình Đình vội lui lại phía sau. Tử Yên cũng không dám nhận lễ. Nghĩa Thần nói với Vương Nghĩa:

- Viên Quý nhân là cháu gái của ta, đứng ở hàng phu nhân như vậy thì có gì là không phải đâu. Huống chi Triệu Vương mà không có Vương đại phu cùng mọi người đây, thì làm sao chúng ta có dịp quân thần hội họp ở đây. Trước mắt, công việc còn nhiều chuyện, phải làm

Vương đại phu còn phải khó nhọc nhiều. Xin để ta lòng thành vái một vái vậy!

Tử Yên vội kéo Đình Đình đến bên cạnh Vương Nghĩa, cùng làm lễ. Sau đó Tử Yên bước ra lạy Nghĩa Thần bốn lạy. Nghĩa Thần sai người nhà bày ra bốn bàn tiệc rượu, rồi lên tiếng:

- Đáng ra cũng muốn xin mời các phu nhân vào trong để khoản đãi, nhưng ở đây chỉ là cảnh rừng núi dân dã, cơm rau rượu quê, nào phải sang trọng gì. Phương chi cũng còn có chuyện muốn nói, nên xin hãy ngồi tạm ở thảo đường này cả, để mọi người được nâng chén cùng nhau.

Sa phu nhân cùng Triệu Vương ngồi một bàn, các phu nhân Tần, Địch, Hạ, Lý, cùng Dã Nhi, Đình Đình với Tử Yên ngồi hai bàn, Vương Nghĩa cùng Nghĩa Thần ngồi một bàn. Rượu được ba tuần, Vương Nghĩa nói với Nghĩa Thần:

- Lão tướng quân tuổi đã cao, mà vẫn còn thích dậy sớm, để may mắn tiểu nhân gặp được, khỏi phải hỏi thăm lôi thôi!

Nghĩa Thần đáp:

- Cũng chẳng phải ta thường dậy sớm đâu, mà chính tiên đế dã tới trước để báo tin, cho nên vội trở dậy ra cửa chờ đón vậy thôi!

Triệu Vương vội hỏi:

- Tiên đế báo tin ra sao?

Nghĩa Thần đem chuyện tối qua kể lại tỉ mĩ, các phu nhân khóc sướt mướt. Nghĩa Thần nói với Triệu Vương:

- Lão thần từ ngày bị đuổi về, làm một ông già thôn quê, chẳng hề ngó nhìn đến việc ngoài cửa, không ngờ tiên đế linh hiển, chẳng khác được giao phó công việc trước điện rồng. Thừa ơn Triệu Vương cùng các phu nhân giáng lâm nơi lều cỏ này, không phải lão thần này dám phụ tiên đế cùng Triệu Vương, nhưng ở nơi lều cỏ nhà tranh này, tường thấp mái dột, không phải là nơi cho rồng phượng ẩn náu, lỡ có chuyện gì sai sót, làm thế nào mà cứu chữa, mà chỉ có thể trú chân ba bốn ngày. Lâu hơn nữa thì sợ sinh biến vậy.

Sa phu nhân cất lời:

- Thế thì bây giờ nên chọn nơi nào?

Nghĩa Thần đáp:

- Chỗ ở thì cũng không phải là hiếm. Cha con Lý Huyền Thúy, đều là bậc đại thần nhà Tùy, nay nắm trong tay hai ba mươi vạn binh mã, đóng giữ Kim Dung thành; Đông bộ Việt Vương, Tả bộc xạ Vương Thế Sung, cũng có mấy vạn binh mã, đóng giữ Lạc Thương. Lý Uyên ở Tây Kinh, đã lập hoàng tôn đại vương Hưu làm vua, hưng binh thảo phạt, lúc này đang còn giả mượn danh nghĩa, lúc đã thành công, nhất định sẽ bỏ danh đó đi để tự lập, còn nếu bại thì cùng nhau chịu diệt vong, không thể tính chuyện suốt đời cho được. Vì vậy mà lão thần này vẫn trù trừ không dám quyết, chỉ có hai nơi này là có thể tin được: một là tổng quản U Châu, người này họ La tên Nghệ, tuổi tuy đã cao, nhưng vẫn dạ trung thành, vẫn còn kiên dũng, tiên đế giao cho La Nghệ trấn giữ U Châu, thủ hạ rất nhiều tay tài giỏi, bốn phương trộm cướp không dám đụng đến bờ cõi U Châu. Nếu nay Triệu Vương cùng phu nhân đến, thế nào cũng được tiếp đón chu đáo, săn sóc như một nhà, nhưng còn ngại nỗi lũ Đậu Kiến Đức, thanh thế cũng rất lớn, thường hay qua lại xung quanh, cho nên đường đi cũng có phần nguy hiểm. Tốt hơn cả có lẽ là nơi thứ hai này, chỗ Nghĩa Thành công chúa, tuy ở nước ngoài xa xôi, thuộc đất của Khả hãn, vẫn còn giữ được thói tục thuần phác trung hậu, không thể nào so sánh được với dân Trung Quốc chúng ta, tâm địa hiểm độc. Lão thần lại rõ công chúa thuộc dòng tôn thất đã suy tàn, chỉ còn mỗi dòng này là có thế lực hơn cả, nhưng lại không người nối dõi, trước đây trong dịp công chúa ở xa về chầu tiên đế, tiên đế đã đối đãi rất thân thiết, huống chi đều là bậc vua, bậc hoàng hậu của một nước láng giềng, trong tay cai quản mọi sự. Nếu Triệu Vương bằng lòng đi, công chúa nhất định sẽ lấy lễ mà tiếp đón thật lòng, có thể là nơi yên ổn lâu dài. Chỉ có chỗ này mới thật chắc chắn, còn ngoài ra, lão thần thật không dám nói tới.

- Triệu Vương cùng mọi người gật đầu ưng thuận. Sa phu nhân nói:

- Những lời vàng đá của lão tướng, đủ thấy dạ trung kiên, nhưng núi dài sông rộng, không biết đi bằng cách nào?

Nghĩa Thần đáp:

- Nếu ý của Triệu Vương đã định, lão thần này sẽ có cách chắc chắn. Nhưng chỉ nên đễ Triệu Vương, Sa phu nhân, cùng Vương đại phu. Ngoài ra nghe nói Tiết Mỹ nhân thạo nghề cung kiếm, cũng nên đi theo, còn bốn vị phu nhân đây và cháu gái lão thần đi thì có nhiều điều không tiện.

Bốn vị phu nhân, nghe đến đây, đều rơi nước mắt mà rằng:

- Chị em chúng tôi năm người thề cùng sinh tử, xin nhờ lão tướng quân nghĩ cách chu toàn cho.

Nghĩa Thần đáp:

- Xin đừng ngại, lão thần này hỏi thật bốn vị phu nhân đây, có thật cảm ơn sâu nặng của tiên đế, quyết lòng thủ tiết, hay là chẳng qua chỉ đợi thời, rồi tìm cách để sống nốt quãng đời còn lại?

Tần phu nhân đáp:

- Lão tướng quân nói ra điều ấy sao? Xin đừng nhận nhầm bốn chị em chúng tôi với hạng phụ nữ tầm thường. Cũng xin được hỏi lại lão tướng quân, lão tướng quân có định lại ra cửa theo lũ nghịch chăng? Nếu lão tướng quân còn tiếc rẻ không muốn bày cho chúng tôi kế hay chước lạ, chị em chúng tôi đến bờ sông, theo Tam Lư dại phu (1), thì cũng chẳng có gì khó.

1Tam Lư đại phu: chức quan của Khuất Nguyên, quan nước Sở, bi bọn gian lận nói xấu. vua Sở đuổi đi không dùng, bèn nhảy xuống sông Mịch La tự tử (Điển cố văn học)

Nghĩa Thần nói:

- Không phải lão thần tiếc một kế sách nhỏ, lúc này một khắc một quý, nhưng rồi ra tháng rộng ngày dài, liệu có qua được không?

Địch phu nhân lên tiếng:

- Lão tướng quân lấy địa vị của một bậc trung thần nghĩa sĩ, một kẻ trượng phu mà nhìn nhận phụ nữ chỉ là kẻ dập dờn theo sóng nước, chẳng việc gì phải tính kế lâu dài. Nhưng gần đây lão tướng quân đã được nghe chuyện Chu Quý Nhi, Viên Bảo Nhi cùng Lương phu nhân mắng lũ nghịch tặc, nêu gương tiết nghĩa, thay nhau tuẫn nạn khiến cho quân thần triều Tùy đủ thẹn với mình. Phương chi, chị em chúng tôi sống trong cảnh phồn hoa, chịu ơn dày của chúa thượng, mà lão tướng quân vẫn còn ngờ chị em chúng tôi có lòng khác. Nếu không nói rõ được chí mình, thì làm sao mà mọi người tin được?

Địch phu nhân rút ngay một lưỡi đoản đao giắt ở giải quần, rạch lên khắp má phải má trái khuôn mặt đẹp như hoa của mình. Tần, Hạ, Lý, ba phu nhân thấy Địch phu nhân làm thế, người nào cũng đều rút ra mỗi đoạn đao. Sa phu nhân, Đình Đình, Dã Nhi, Tử Yên đều hoảng hồn, vội vàng túm tay ngăn lại, nhưng trên gương mặt người nào cũng đã có mấy vết rạch cả, máu chảy loang khắp mặt. Nghĩa Thần vội đứng dậy bái lạy mà rằng:

- Thật là lão thần lỡ lời bất kính, cũng thật là không uổng tiên đế suốt một đời chung tình, nhưng cũng xin các vị phu nhân hãy tự thương lấy thân mình nữa!

Triệu Vương đứng dậy khỏi ghế, kéo Nghĩa Thần dậy. Nghĩa Thần nói với bốn vị phu nhân:

- Cách đây khoảng hai ba dặm, có thôn Đoạn Nhai, cả thôn chỉ khoảng mười nhà, tất cả đều thật thà, hiền lành, có một cái am nhỏ là am Nữ Trinh. Một lão ni cô coi sóc ở đó, vốn là mẫu thân Cao Khai Đạo người Thương Châu, chồng chết từ lúc còn ít tuổi, ở vậy thờ chồng. Ni cô hiểu biết hơn người, sáng suốt, thấy ra con mình đi làm giặc, chẳng thể nên công chuyện gì, nên cố tình rời về đây, tìm đến am này làm chỗ gửi thân suốt đời, là nơi khó thấy được vết ngựa xe qua lại. Nếu các phu nhân bằng lòng vào đây tu đạo, thì chắc chắn là có thể yên ổn suốt đời. Còn như những thứ chi dụng hàng ngày, lão thần xin cung đốn đầy đủ không thiếu một ngày, các phu nhân không cần phải lo lắng gì cả!

Bốn phu nhân đều nói:

- Thế thì thật tốt quá rồi! Đủ để sống nốt quãng đời thừa này, nhưng liệu đến ngày nào có thể đi được?

Vương Nghĩa thưa:

- Cần phải xem ngày nào tốt, sai người đến nói trước với lão ni rồi hãy đi sau.

Hạ phu nhân đáp:

- Sự đời đến như thế này, còn gì phải chọn ngày, xin lão tướng quân sai người đi bàn trước với lão ni ngay cho là hơn cả!

Nghĩa Thần sai tiểu đồng lấy lịch thư lại xem ngày, vừa may ngày mai lại là ngày tốt. Tất cả ăn uống xong, các phu nhân cùng Triệu Vương vào bên trong, Nghĩa Thần sai tiểu đồng dắt ra hai con la, dặn người nhà đóng cửa cẩn thận, tiểu đồng theo hầu rồi cùng Vương Nghĩa đến am Nữ Trinh ở thôn Đoạn Nhai, để bàn bạc với lão ni. Lão ni vốn nghe tiếng Nghĩa Thần là bậc trung thần nghĩa sĩ, lại vốn là người trụ trì, liền ưng thuận ngay, cả hai lên đường về.

Vương Nghĩa nói lại cho các phu nhân biết, am Nữ Trinh phòng ốc sạch sẽ, quang cảnh u nhàn thế nào. Các phu nhân nghe ra, cũng lấy làm vui mừng. Tử Yên nói với Nghĩa Thần:

- Thưa cậu? Cháu cũng muốn được xuất gia cùng các phu nhân, vào am sống nốt quãng đời còn lại vậy.

Nghĩa Thần đáp:

- Cháu cứ ở lại đây đã. Ta hãy còn có chuyện muốn nói.

Tử Yên lặng lẽ lui vào. Qua một đêm, canh năm hôm sau, Nghĩa Thần mới mời bốn phu nhân xuống thuyền, Sa phu nhân cùng Triệu Vương, Dã Nhi, Đình Đình đều nói:

- Giờ thì mỗi người mỗi nơi, chẳng biết rồi còn có ngày gặp nhau nữa không. May mà trời còn thương, còn có dịp trở về trung nguyên, cũng nên biết chỗ ở của nhau để mà tìm nhau, nên phải được tiễn đưa lần này!

Nghĩa Thần thấy tình cảnh như vậy, cũng không nỡ cản ngăn, đành để mọi người đưa tiễn, rồi dẫn theo Tử Yên, vợ chồng Vương Nghĩa xuống thuyền. Đến am, lão ni ra đón, cùng với hai ni cô giúp việc một người là Trinh Đình, một người là Trinh Tĩnh tuổi đều mới mười bốn, mười lăm. Lão ni cùng các phu nhân làm lễ chào hỏi họ tên, rồi sai hai ni cô cùng đưa mọi người đi lễ các điện, Nghĩa Thần đưa ra hai mươi lạng bạc gửi lão ni. Lão ni nói:

- Cháu gái lão tướng quân chưa phải lúc tu hành đâu, sau này hãy còn nhiều gặp gỡ lạ lùng dấy!

Nghĩa Thần đáp:

- Đúng thế, ta cũng không bảo Tử Yên ở am đây đâu, đưa tiễn các phu nhân đến đây rồi lại sẽ quay về đã.

Lão ni giữ mọi người lại dùng cơm chay. Mãi chiều, Sa phu nhân, Dã Nhi, Đình Đình cùng bốn vị phu nhân khóc lóc thảm thiết chia tay, bọn Sa phu nhân cùng Triệu Vương xuống thuyền quay về nhà Nghĩa Thần. Nghĩa Thần sau đó sai Dương Phương nghe ngóng tin tức, chờ dược thuyền lớn đến, liền đưa Triệu Vương, Sa phu nhân, Dã Nhi cùng vợ chồng Vương Nghĩa lên thuyền đến tận chỗ Nghĩa Thành công chúa:

Chính là:

Ở đời lắm nỗi khổ đau

Sinh ly, tử biệt, khổ nào khổ hơn?

Hồi Thứ Bốn Mươi Chín

Thuyền câu cất tiếng hát, cừu địch tạm nhận quân thần,

Trước trận trao lời thề, Ngô Việt gá duyên Tần Tấn.

Từ rằng:

Nhọc mình khấp khểnh ba đào

Tận trung trăm mối nghìn mưu

Nửa vừng trăng sáng

Một lá chèo mau

Ai tri tâm đó, hảo cầu đừng quên.

Giáo gươm chan chát trên yên

Oán thù gác lại một bên

Đường cùng ngõ hẻm chớ nên chuốc hờn

Nhớ lời hẹn nước thề non

Đầu mày cuối một, sắt son từ rày.

Theo điệu "Lãnh đào sa"

Phàm chuyện gặp gỡ lạ lùng, đều có số mệnh, dằng dặc là cừu thù bỗng nhiên trở thành tri kỷ, yêu kính lẫn nhau, ví như Tề Hoàn Công với Quản Trọng chẳng hạn. Cũng có lúc đang là hai nước đối địch, bỗng trở nên khăng khít gắn bó, như Tấn Văn Công cùng Tần Mục Công vậy. Nói cho cùng ra, thì trời đã sinh ra hạng người phi thường, tất cũng đã xếp đặt sẵn những cuộc gặp gỡ kỳ lạ chẳng thể lường trước được, khiến người ta không thể lấy thành bại thịnh suy mà định đoạt cho được. Huống chi lại là chuyện yêu đương chồng vợ, một khi dã có sợi chỉ hồng của nguyệt lão buộc chân thì nghìn dặm xa cách, cũng có lúc hội họp nên vợ nên chồng.

***

Nay hãy khoan nói chuyện Vương Nghĩa cùng Triệu Vương đến chỗ Nghĩa Thành Công chúa xa xôi, hãy nói chuyện Đậu Kiến Đức, lúc đầu xưng Trường Lạc Vương ở Hà Bắc, sai Tế tửu Lăng Kính vào thành Hà Gian chiêu hàng được quận thừa Vương Tôn, Kiến Đức cho Tôn làm thứ sử quận Hà Gian. Quận thừa Hà Bắc thấy thế, cũng viết thư xin hàng.

Mùa đông năm ấy, có một con chim lớn đến đậu ở Lạc Thọ, hàng mấy vạn chim nhỏ bay theo, một ngày sau mới bay chỗ khác, dân gian truyền rằng chim phượng đến như thế là điềm lành xưa nay.

Lại thêm một người tiều phu, tên gọi Trương Hanh, ở Tôn Thành, vào rừng đốn củi, nhặt được một viên ngọc đen huyền khuê, lẻn vào trong cung Lạc Thọ dâng hiến Kiến Đức.

Vì vậy Kiến Đức chọn lên ngôi ở Lạc Thọ, cải niên hiệu làm Ngũ Phượng nguyên niên, lấy quốc hiệu là Đại Hạ, lập Tào Thị làm hoàng hậu. Trước kia Kiến Đức đã lấy Tần Thị, chỉ sinh được một con gái, tức là Tuyến Nương. Tần Thị mất đã lâu, đến lúc khởi sự rồi, Tào Đán dẫn thủ hạ theo về, Kiến Đức biết Tào Đán có con gái, đã quá tuổi phiếu mai (1) mà vẫn chưa lấy ai, mới cưới làm kế thất. Kiến Đức thấy Tào Thị trầm tĩnh, đoan trang, cười nói khoan dung, nên mười phần kính trọng, công việc trong quân, việc gì cũng được dự bàn, thật đáng bậc bạn tốt trong phòng khuê. Lại phong Tuyến Nương làm Dũng An Công chúa.

1 phiếu mai: tên một bài thơ trong Kinh Thi, nói về người con gái đã luống tuổi nhưng nếu kịp lấy chồng vẫn còn được: "Cây mai rụng, mười phần quả còn bảy, mười phần quả còn ba", "Quả mất ba bảy đang vừa, Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì". (Truyện Kiều)

Ra trận Tuyến Nương thường xử thiên phương kích, thật là thần xuất quỷ một, lại luyện được phép kim hoàn đạn, ném trăm trúng, tuổi đã mười chín, giắt hai lông chim ngũ sắc trên mũ, mười phần xinh đẹp. Kiến Đức giục Tuyến Nương về chuyện gia thất, Tuyến Nương thường nói, phải chọn được người ngang tài ngang sức mới chịu. Mỗi lần ra quân, Kiến Đức thường sai Tuyến Nương chỉ huy hậu quân, lại rèn luyện được một đội quân bản bộ, gồm ba trăm nữ binh, theo sát bên mình, so với phụ thân thì kỷ luật hiệu lệnh còn nghiêm ngặt hơn nhiều. Nhưng cũng rất yêu thương binh lính, cho nên được xung quanh rất kính phục.

Kiến Đức lại phong Dương Chính Đạo làm Huân Quốc Công, Tề Thiện Hằng làm bộc xạ, Tống Chính Mộc làm nạp ngôn, Lăng Kính làm tế tử, Lưu Hắc Thát, Cao Nhã Hiền làm tổng quản, Tôn An Tổ làm lãnh quân tướng quân, những kẻ còn lại cũng đều được gia phong quan tước. Lúc này, dưới trướng Kiến Đức, binh mã cũng đã hơn một vạn, đang định cất quân đánh Lý Mật, thì được tin Vũ Văn Hóa Cập giết vua tự xưng đế, nên nổi giận, định tiễu trừ Hóa Cập một phen đã. Tế tửu Lăng Kính thưa:

- Phản thần Hóa Cập, tội thật đáng ghét, nhưng y trong tay hơn mười vạn binh mã, khó thể coi thường, cần phải có một viên đại tướng túc trí đa mưu mới diệt trừ được. Thần xin tiến một người như thế để giúp chúa công.

Kiến Đức hỏi:

- Ai thế?

Lăng Kính thưa:

- Người này gồm tài thao lược, ôm đủ cơ mưu, làm thái bộc triều nhà Tùy, về sau bị nịnh thần ganh ghét, lui về vườn ruộng, thực là bậc tướng tài, người ở Hoài Đông, họ Dương, tên Nghĩa Thần.

Kiến Đức vui mừng phán:

- Ngươi không nói, cô (1) cũng cơ hồ quên mất, trước đây cô cũng đã từng đọ sức với Nghĩa Thần vài trận, đúng là bậc lương đống chi tài còn về việc chiến trận, thì thiên hạ ít người theo kịp. Ngươi hãy vì cô mang lễ mời cho được.

1 Cô: quê mùa, thấp kém, trơ trọi. Tiếng tự xưng nhún mình của các vua chư hầu ngày xưa, cũng như "quả nhân". "Thiếu gì cô quả, kém gì bá vương" (Truyện Kiểu).

Lăng Kính lĩnh mệnh, từ biệt Kiến Đức lên đường. Chưa đến một ngày, đã tới Bối Châu. Lãng Kính vào nhà trọ nghỉ ngơi, hỏi thăm nơi ở của Nghĩa Thần. Dân địa phương đáp:

- Cách thành này khoảng vài dặm, trong vùng đầm hồ Lôi Hạ, có một ông già, tự xưng họ Trương, ai nấy đều gọi là Trương Công, chỉ suốt ngày trên bờ hồ câu cá làm vui, có người nói ông già vốn họ Dương.

Lăng Kính liền thuê người dẫn đường, tìm đến Lôi Hạ. Thật là núi không cao nhưng đẹp, nước không sâu nhưng trong, tùng bách giao cành tươi biếc, vượn hạc nối đuôi nhau, trên bờ thỉnh thoảng một vài gian nhà ngói xinh xắn, bóng cây che mát, vài con thuyền lớn có, nhỏ có, cái giương buồm chạy, cái nằm ven bờ cỏ, soi bóng dập dờn. Người dẫn đường đứng lại chỉ tay mà rằng:

- Ngôi nhà ngói phía trước, chính là nơi ở của Trương Công, ông già đang ngồi bên con thuyền nhỏ kia, có lẽ chính là Trương Công đấy!

Lăng Kính đưa mắt nhìn theo, thì thấy một người đầu tóc đã bạc trắng, nhưng vẫn còn quắc thước, đang dựa vào mạn thuyền, một mình ngồi nâng chén uống rượu, mũi thuyền là bốn năm đứa bé nhà quê cùng nhau ca hát đùa rỡn. Lăng Kính bảo chủ thuyền neo thuyền từ xa, rồi tự mình lên bờ, đi vào con đường, núp dưới rừng cây để lại gần, thì nghe mấy trẻ mục đồng vừa hát xong, cất tiếng hỏi ông già:

- Trương Thái Công! Hôm qua thái công hát một khúc, nghe rất hay, hôm nay sao thái công không hát lại nghe cho vui nào?

Ông già nhắm đôi mắt say mà rằng:

- Lũ bay muốn nghe ta hát, thì hãy ngồi cho yên.

Rồi cất tiếng hát khúc "Túy tam tinh" sau dây:

Giận là giận trong chậu cá rồng quẫy lộn

Cười những cười cùng chuồng hươu lợn chạy đua

Mặc lòng ta trăng ngầm sóng đùa

Tay ôm cần, tay quăng tơ giữa dòng

Ta dám hỏi, bao giờ.

Gió khe lặng

Mưa núi dừng

Để cho ta

Mà xa say tỉnh Ly tao (1) ngâm vần

Khóc viếng Sở thần.

1 Ly tao: tên một bài thơ dài, cảm khái thời thế, thân phận không may của Khuất Nguyên, bề tôi nước Sở - Sở thần. Xem chú thích hồi bốn mươi tám.

Lăng Kính nghe xong, than:

- Thật là khúc ca cảm khái thời thế của bậc đại ẩn vậy thay!

Rồi lại xuống thuyền, bảo chống lại gần. Mấy trẻ mục đồng trông thấy vội lên bờ theo đàn bò của mình, Lăng Kính sang thuyền, chắp tay chào Nghĩa Thần:

- Từ dạo xa nhau đến nay lão tướng quân vẫn được mạnh khỏe chứ?

Nghĩa Thần ngước mắt nhìn, thấy một người mặc áo bào, đội khăn Gia Cát, bèn hỏi:

- Ngài là ai vậy?

Lăng Kính đáp:

- Lăng Kính này xa thái bộc đã lâu, không ngờ thái bộc râu tóc đã bạc trắng cả. Nhớ lại thuở ở cùng nhau, được thái bộc dạy dỗ, nay vẫn nhớ đức, giờ mới được gặp lại, khác gì quang mây lại thấy mặt trời.

Nghĩa Thần thấy nói thế liền đáp:

- Thì ra Lăng Tử Tiêu, đã lâu không gặp, nay sao lại rỗi rãi tới đây, xin mời vào tệ xá!

Rồi kéo tay Lăng Kính xuống thuyền, gọi tiểu đồng chống thuyền về bến, cùng Lăng Kính vào thảo dương làm lễ, chia ngôi chủ khách mà ngồi. Nghĩa Thần hỏi:

- Không biết hiền huynh lâu nay ở đâu?

Lăng Kính đáp:

- Từ ngày chia tay, thân chẳng biết về đâu. Nhân thấy Đậu Kiến Đức có lượng bao dung, cho nên tiểu đệ theo về với nhà Hạ, được phong chức tế tửu, nhân nhớ tới huynh đài, tìm tới thăm vậy!

Nghĩa Thần bày tiệc rượu khoản đãi, chén cạn vài tuần. Lăng Kính sai thủ hạ đem vàng bạc, lụa là bày ra trước mặt Nghĩa Thần, Nghĩa Thần kinh ngạc hỏi:

- Những cái này ở đâu ra?

Lăng Kính đáp:

- Hạ Vương lâu nay vẫn mến tài huynh đài, nên đặc sai tiểu đệ đem những thứ này đến biếu huynh đài.

Nghĩa Thần nói:

- Đậu Kiến Đức với ta từng có chuyện đọ sức đọ tài, nay lại đem quà đến thế này, tất phải có duyên cớ chứ?

Lăng Kính đáp:

- Mới đây chúa thượng bị giết, anh hùng khắp nơi nổi dậy, nơi nơi chiếm cứ quận huyện, xưng vương, xưng bá, ai cũng dương dương vì trăm họ mà trừ hại, yên thiên hạ. Ai là người có tài, có võ nghệ trong tay, đều muốn thi thố một phen. Thái bộc ôm mưu lược kinh bang tế thế, sánh ngang tài giỏi Tôn Vũ, Ngô Khởi, sao nỡ gửi thân nơi đầm lầy, núi hoang, làm một ông già không tên tuổi ở chốn lâm tuyền, vui với cảnh cây cỏ, thì thật là đáng tiếc. Nay Hạ Vương làm điều nghĩa, nói điều nhân, cải xưng vương hiệu, bốn phương cùng hưởng ứng, từ lâu biết thái bộc có tài lương đống, nên sai tiểu đệ đem lễ đến mời, để cùng cứu dân ra khỏi chốn nước lửa, mong theo được bậc minh quân như Nghiêu như Thuấn. Vạn lần xin huynh đài chớ khước từ mà làm cho Hạ Vương mất cả chỗ trông cậy vậy.

Nghĩa Thần đáp:

- "Trung thần bất sự nhị quân, liệt nữ bất canh nhị phu". Ta là bề tôi của nhà Tùy, chẳng có thể cứu giúp nạn quân vương, để đến nỗi bị bị bọn nghịch thần giết hại, cũng không thể báo thù, nay lại đi thờ chủ khác, thì còn mặt mũi nào mà đứng trong cõi thế?

Lăng Kính nói:

- Thái bộc nói sai rồi. Nay anh hùng trong thiên hạ, người nào lập nước ấy, nhà Tùy thế là đã hết vận thật rồi, còn nhớ đến mà làm gì nữa. Mà dẫu có muốn báo thù cho Tùy Nhị Đế, chẳng gì bằng theo Hạ Vương, mượn binh, mượn thế, kéo tới mà diệt lũ nghịch thần, có phải là vừa hả lòng vừa thỏa nguyện thái bộc không!

Nghĩa Thần bị Lăng Kính khơi dậy nguyện ước lâu nay, bèn đáp:

- Ngẫm kỹ lời hiền đệ nói, thì hình như cũng có lý, nghe Kiến Đức có thể hạ mình để thờ kẻ sĩ, lại không mang tiếng là phường oán nghịch. Nhưng nếu ưng thuận ba điều này của ta, thì lập tức ta theo về còn nếu không, thì quyết không thể vâng mệnh.

Lăng Kính hỏi:

- Ba điều gì?

Nghĩa Thần đáp:

- Một là không làm bề tôi nhà Hạ. Hai là không nêu tên tuổi ra. Ba là bắt được Hóa Cập rồi, báo được thù của Nhị Đế rồi, thì lập tức phải thả ta về với vườn ruộng, lâm tuyền.

Lăng Kính đáp:

- Chỉ có ba điều này, thì Hạ Vương chẳng ngại ngần gì mà không chiều lòng huynh đài.

Nghĩa Thần nghe thế, liền gọi người nhà ra nhận lễ vật. Lăng Kính liền cáo biệt. Nghĩa Thần còn dặn:

- Đi qua Tào Bộc sơn, bọn cường đạo Phạm Nguyện rất là thanh thế, có đến vài ngàn lâu la, sào huyệt mãi tận Thái Sơn, thường hay cướp bóc ở vùng Phùng Châu, hiện nay sơn trại không còn lương thực, bốn phía trống không. Hiền đệ nếu thu phục dược Phạm Nguyện cùng về với nhà Hạ, cũng đủ để diệt họ Vũ Văn.

Nghĩa Thần ghé tai Lăng Kính nôi mấy câu, Lăng Kính gật đầu, từ biệt xuống thuyền.

***

Đậu Kiến Đức ngày đêm luyện tập tướng sĩ, để hòng chinh phạt Hóa Cập, bỗng nghe nhà Đường sai quan nạp ngôn là Lưu Văn Tĩnh, đem thư ước hẹn cùng họp binh để đánh Hóa Cập. Kiến Đức xem thư, thấy hẹn cùng kéo binh đến Lê Dương, liền nói với Văn Tĩnh:

- Bọn giặc này, cô đã có ý chinh phạt từ lâu, đang định xuất binh. Phiền quan nạp ngôn về thưa lại với Tần Vương, chỉ cần phái một phó tướng, dẫn binh đến trước, cùng cô diệt hết bọn này để tạ trời đất.

Văn Tĩnh thưa:

- Lúc thần vâng mệnh lên đường, thì Tần Vương đã kéo quân ra khỏi Trường An rồi!

Văn Tĩnh cáo từ trở về, Kiến Đức vào cung, Dũng An Công chúa hỏi:

- Sứ nhà Đường tới có việc gì, thưa phụ hoàng?

Kiến Đức đáp:

- Tần Vương đưa thư đến hẹn, cùng hội binh tiễu trừ Hóa Cập. Ta cùng chúng thần bàn bạc, hẹn với Tần Vương ngày kia sẽ xuất quân.

Dũng An Công chúa tiếp:

- Cứ như ngu kiến của con, phụ hoàng hà tất phải xuất binh vội. Nay tổng quản phương Bắc là La Nghệ vừa mới về hàng phục nhà Đường, đang nghẽn lối sau của ta. Ngụy Điệu Nhi cũng có vài vạn quân, đang đóng giữ vùng Thâm Trạch, tự xưng là Ngụy Vương, cướp bóc vùng Dực Định, mấy năm nay cùng ta dựa dẫm lẫn nhau, nhưng chẳng phải là kế lâu dài. Chi bằng thừa lúc họ không phòng bị, kéo quân đánh úp một chuyến, trừ được hậu quả. Đợi lúc nào Lăng Kính trở về, rồi hãy bàn chuyện này, có phải chu toàn hơn không?

Tòa Hậu cũng tán thưởng lời bàn của Dũng An Công chúa, Kiến Đức phán:

- Ta đã có kế sách cả. Các người đừng nhiều lời.

Ngày hôm sau, Kiến Đức điều mười vạn binh, cho Lưu Hắc Thát làm Chinh Nam đại tướng quân, Cao Nhã Hiện làm tiên phong, Kiến Đức cùng Tào Đán lãnh trung quân. Dũng An công chúa làm hậu đội.

Tôn An Tổ cùng Tào Hậu ở lại giữ Lạc Thọ. Lại tuyển một đội nữ nhạc gồm hai mươi người, sai người đem biếu Ngụy Điêu Nhi, nhờ Điêu Nhi cất binh đánh La Nghệ, đề phòng Di Địch ở phía đông, hứa với Điêu Nhi, sau khi diệt Hóa Cập xong, đem những phi tần mỹ nữ cùng vàng ngọc thu được trả công. Điêu Nhi cả mừng, nhận lời, tin vào lời hứa của Kiến Đức, ngày đêm đắm chìm trong tửu sắc, không chút nghi ngờ gì. Nào hay Kiến Đức thống lãnh tinh binh, cuốn cờ im trống, đêm đi ngày trốn, tới thẳng Thâm Trạch, kéo quân vây kín thành. Điêu Nhi vẫn trong cơn say, bị bộ tướng Hà Gian cũ là Quan Đào, vẫn căm Điêu Nhi ngạo mạn khinh người, không chịu dùng. Quan Đào chém giết, dâng thành đầu hàng.

Kiến Đức lấy cớ ở đất người, nhưng lại lấy đất người đem hiến, thật là phường bất nghĩa, định chém chết. Vương Tôn cố khuyên can mãi, liền cho Quan Đào làm bộ tướng của chức cũ, những đàn bà con gái bị bắt, đều tha cho về, bao nhiêu vàng bạc thu được đều chia cho tướng sĩ. Xa gần nghe tin Hạ Vương không có bụng hiếu sát đều một lòng kính phục, các cháu vùng Dực Định đều tới quy hàng. Kiến Đức gộp thêm được mấy cánh quân luôn, uy danh ngày càng lớn, đánh luôn Dực Châu. Thứ sử Dực Châu là Khúc Lăng, dũng cảm lại chí khí, lúc đầu cũng tìm trăm cách để phòng giữ, về sau thành bị phá, nên cuối cùng cũng theo về Hạ Vương.

Lại nói La Nghệ, vốn là một viên túc tướng, tuổi đã ngoài sáu mươi, nhưng tinh thần vẫn sáng suốt bội phần, vốn cùng Tần phu nhân rất mức hòa thuận, khác gì họ Mạnh "tay nâng ngang mày" (*1).

*1 Tay nâng ngang mày: Theo "Hán sử:", nàng Mạnh Quang rất kính trọng chồng, mỗi lần dọn cơm cho chồng là Lương Hồng đều nâng khay lên tận ngang mày.

Dưới trướng La Nghệ có tới hai vạn tinh binh, nhưng rồi dần dần bị vua Tùy điều hết sang đông lại về tây, nên giờ cũng chỉ còn hơn một vạn, lính kỵ mã cũng chỉ còn sáu bảy nghìn người. May nhờ có La Thành, thiếu niên anh tuấn, sức khỏe trăm người khôn đương, lại được thân phụ truyền cho thương pháp bí truyền của dòng họ La, đến mức quỷ khóc thần sầu. Nhiều lần định tính chuyện hôn nhân, La Thành đều chối rằng đại sự cả đời, tuy có cha mẹ làm chủ, nhưng cũng phải để tự mình lựa chọn, cho nên việc nhân duyên vẫn chưa định xong.

La Thành nghe tiêu mã về báo, Kiến Đức dẫn đại binh kéo đến, liền thưa với phụ thân:

- Đậu Kiến Đức chưa biết lợi hại ra sao, kéo đại binh đến xâm phạm đất ta, ý con muốn nhân lúc binh tướng mới kéo đến, chưa đóng xong trại, dẫn hai nghìn binh mã đánh ngay một trận, làm nhụt nhuệ khí của chúng, cho chúng biết sự lợi hại ra sao, mà rút quân về cũng chưa biết chừng!

La lão tướng đáp:

- Con là bậc niên thiếu, thường cậy vào sức mạnh, đừng nên nóng vội làm càn, đó chính là điều tối kỵ trong đạo làm tướng. Ta tự có cách đánh lui bọn này.

Liền tập họp chúng tướng, sai Tả doanh tổng soái Trương Công Cẩn, dẫn một nghìn tinh binh, mai phục phía phải núi Cao Sơn ở ngoài thành, nghe bao giờ trong thành tử mẫu pháo nổ vang, dẫn tinh binh xông vào tiền quân của Kiến Đức. Lại sai hữu doanh tổng soái Sử Đại Nại, dẫn một nghìn tinh binh, mai phục phía trái núi Cao Sơn, chờ tử mẫu pháo trong thành nổ, cho tinh binh xông vào trung quân của Kiến Đức. Sai con La Thành, cũng đem một nghìn tinh binh, cách thành ba mươi dặm, mai phục ở Độc Long Cương, thấy binh tướng Kiến Đức bỏ chạy, thì xông ra đánh vào hậu đội. Còn mình cùng với Tiết Vạn Triệt, Tiết Vạn Nhẫn, ngồi giữ thành. Hai tướng cùng La Thành nhận lệnh, lãnh binh ra khỏi thành.

***

Lại nói Kiến Đức kéo đại binh thẳng tới U Châu, tướng tiên phong Lưu Hắc Thát hạ trại xong xuôi, thấy cửa thành đóng chặt, không chịu ra nghênh chiến, chỉ đành ở ngoài thành chửi bới. Tiếp theo đại binh của Kiến Đức kéo đến, trong thành vẫn yên lặng, liền làm thang mây, trèo lên thành tấn công. Bỗng nhiên trong thành, pháo mẹ pháo con nổ vang, thang mây cháy rụi, đành phải rút ra. Kiến Đức lại làm mấy trăm xe xung trận, trống mõ nhất tề ầm ĩ xông vào. Trong thành ném tạ sắt, thiết trùy xuống, giăng khắp mặt thành, xung xa đều gãy nát, xoay đủ trăm kế, chẳng làm gì hạ được thành. Ròng rã mấy ngày, tướng sĩ mỏi mệt.

Đêm ấy, khoảng canh ba La Nghệ bí mật truyền lệnh, sai Tiết Vạn Triệt, Tiết Vạn Nhẫn, hai anh em, dẫn ba quân ăn thật no, rồi ai nấy ngậm tăm, mở cửa thành xông vào trại quân Hạ. Lính tráng đều đang ngủ say, chỉ nghe một tiếng khác nào núi lở biển trào. Kiến Đức bàng hoàng tỉnh giấc, vội khoác giáp lên ngựa, tùy tướng Đặng Văn Tín theo sát, gặp ngay Tiết Vạn Triệt xông vào trung quân, chém cho Văn Tín một đao ngay trước cửa trướng. Kiến Đức vội xông vào đánh với Vạn Triệt, Cao Nhã Hiền thì chống đỡ Triết Vạn Nhẫn, Lưu Hắc Thát thì đánh với La Nghệ.

Cả sáu cùng đang ham chiến lại nghe tử mẫu pháo nổ vang, phía trái, phía phải núi, quân mai phục nhất tề kéo ra. Kiến Đức biết là trúng kế, bỏ trại mà chạy như bay, được khoảng hai ba chục dặm quân sĩ vẫn chưa hoàn hồn. Bỗng nghe ở sườn núi, thanh la rộn ràng, một viên niên thiếu dũng tướng, dẫn quân kéo ra, Tiên phong Cao Nhã Hiền coi thường ít tuổi, giơ cao đại đao chém xuống, bị La Thành đâm cho một thương, trúng ngay vào đùi trái Nhã Hiền. Nhã Hiền đau quá, suýt ngã ngựa, may được Lưu Hắc Thát tới kịp đỡ cho. Đánh khoảng hơn mười hiệp, không đỡ nổi cây thương dũng mãnh của La Thành lúc nào cũng như rồng múa nước dâng, mười phần tài nghệ. Kiến Đức thấy thế, sợ xảy chuyện không hay, xông vào cứu viện.

La Thành càng phấn chấn tinh thần, nhằm mặt Hắc Thát đâm một thương quát to một tiếng, rồi quay nhanh mũi thương đâm thẳng vào ngực Kiến Đức, Kiến Đức thất kinh vội vàng bỏ chạy. Đánh mãi đến gần sáng lại thấy một đội nữ binh từ phía sau kéo tới, bày thành thế trận, giữa trận là một viên nữ tướng, đầu đội mũ bàn long, trên cắm hai lông chim phượng xanh biếc, gắn hạt châu óng ánh. Mình mặc áo cẩm chiến bào màu trắng có thêu hoa, cấm thiên phương họa kích, cưỡi ngựa thanh tông. La Thành thấy thế, vội thu thương về, cất tiếng hỏi:

- Nhà ngươi là ai?

Tuyến Nương đáp:

- Người là ai mà dám hỏi ta?

La Thành đáp:

- Ngươi không trông thấy chữ trên cờ của ta sao?

Tuyến Nương nhìn lên, lá cờ gấm màu đỏ, có thêu chữ "La" ở phía dưới, thêu hai hàng chữ nhỏ hơn: "The đại danh gia tướng, thần thương thiên hạ văn", (1) Tuyến Nương hỏi:

- Thế ra là con trai La Tổng quản sao?

La Thành lại cùng nhìn lá cờ gấm của Tuyến Nương, chính giữa thêu một chữ lớn: "Hạ", dưới cũng có thêu hai hàng chữ nhỏ hơn: "Kết trận lan khuê đình tú, thôi trang tiên tướng đàm binh". (2)

1 Nhà nối đời làm tướng nổi danh dùng thương như thần, khắp thiên hạ đều nghe tiếng.

2 Bày thế trận, khách phòng lan tạm ngưng việc thêu thùa, trang điểm vội cho xong, để trong trướng hoa sen còn bàn việc binh.

Thấy thế, La Thành trong lòng ngầm nghĩ: "Ta nghe con gái Đậu Kiến Đức rất là tài giỏi, nhất định là người này chứ chẳng sai. Đáng tiếc cho cô gái đẹp dường này, mà chẳng chịu làm cái việc đánh phấn tô son, để ta khỏi phải giết mất. Hãy để ta thử nói xấu cho mấy câu khiến cho cô ta phải hổ thẹn mà rút quân thì hơn!". Bèn cất lời khiêu khích:

- Ta tưởng phụ thân ngươi cũng là bậc anh hùng nơi đầm lầy đồng cỏ, nhưng sao dưới trướng chẳng có lấy một viên tướng liều chết, đến nỗi phải cho con gái ra mà chịu nhục sao?

Tuyến Nương cũng trả miếng:

- Ta cũng tưởng như vậy, phụ thân nhà ngươi vốn là một viên túc tướng, mà trong thành đến nỗi không có một viên thủ hạ dũng cảm không sợ chết, để đến nỗi phải sai cả con chó con ra sủa người sao?

Bọn nữ binh đứng chung quanh cười ầm ĩ, La Thành tức giận đùng đùng, giơ cao thương xông tới. Tuyến Nương cũng chuyển động thiên phương họa kích một vòng để đỡ, vòng vèo vấn vít, đến hơn hai mươi hiệp vẫn bất phân thắng bại. La Thành thấy Tuyến Nương múa cây phương họa kích thật thần xuất quỷ một, một giọt mưa cũng không lọt trong lòng thầm nghĩ: "Khá tiếc một cô gái bản lĩnh dường này, mà lại rơi vào dám cỏ rậm rừng xanh. Nay ta hãy giả quay chạy, rồi bắn mũi tên, dọa một chút, xem cô ta đối phó ra sao?". La Thành liền giơ thương đâm dứ một cái, rồi quay ngựa chạy, Tuyến Nương vội đuổi theo, chỉ nghe tiếng dây cung bật một tiếng khẽ, nhưng Tuyến Nương rất nhanh mắt, vội giơ tay trái ra, bắt ngay được mũi tên, nhưng nhìn lại thì là tên không có mũi sắt nhọn, mặt cánh có ghi bốn chữ "Tiểu tướng La Thành".

Tuyến Nương bỏ mũi tên vào túi đựng tên, rồi cau mày mà than thầm: "La lang! Rõ là chàng không nỡ lòng nào!". Rồi gác ngang cây thiên phương họa kích lên yên ngựa, rồi lấy ở trong túi gấm ra một viên hoàng kim đạn, thấy La Thành đang vừa cười vừa quay ngựa chạy. Tuyến Nương liền kéo cong cây nỏ, La Thành đang định bắn thêm một phát tên nữa, không nghĩ tới việc viên đạn bắn tới, thì viên đạn đã bay trúng ngay cán thương, suýt nữa làm cho La Thành đánh rơi cả thương. La Thành lệnh tả hữu nhặt viên đạn rơi, thì ra đó là một viên đạn tròn to hơn mắt rồng ít nhiều, trên mặt có khắc hai chữ "Tuyến Nương".

La Thành liền nghĩ: "Cừu thù mà lại có bản lĩnh đến thế này, giá mà ta được cùng Tuyến Nương này gá nghĩa vợ chồng, thì cũng thật là thỏa nguyện một đời vậy!" Mặt mày rạng rỡ. La Thành đưa mắt liếc nhìn Tuyến Nương, càng nhìn lại càng thấy lòng thêm yêu thương. Tuyến Nương ngồi trên mình ngựa, thấy La Thành tài mạo xuất chúng, phong thái hiên ngang, trong lòng cũng thấy rạo rực, thầm nghĩ: "Thật đáng hổ thẹn cho phận gái, mãi hôm nay mới dược gặp một chàng trai thế này. Đậu Tuyến Nương đây, mà lấy dược người chồng như La Thành, cũng không uổng một đời má phấn!" Hai người, bốn mắt nhìn nhau long lanh, cùng trên ngựa chẳng thể nào nói được lời nào khác, họ La nhìn họ Đậu, họ Đậu nhìn họ La, cứ thế một lúc lâu. Bọn nữ binh của quân Hạ, thấy thế cũng chẳng giữ gìn gì cười trêu La Thành:

- Cái vị tiểu tướng này, kể cũng ít thấy, đánh cũng chẳng đánh, rút cũng chẳng rút, cứ đứng nhìn ngắm mãi công chúa cành vàng lá ngọc của chúng ta. Nếu cần chiêm ngưỡng đến thế, hãy về vẽ lấy một bức tranh, rồi hàng ngày mà phụng dưỡng.

La Thành cười đáp:

- Ta xem công chúa của các ngươi cũng chỉ mười chín hai mươi là cùng chứ gì?

Tuyến Nương chỉ cúi đầu không đáp. Mấy nữ binh nhanh miệng lại ồn lên:

- Mũi tên lần này cũng trúng rồi. Nhưng công chúa không bắt cho!

Khiến Tuyến Nương cũng phải mỉm cười, khẽ hỏi La Thành:

- La công tử năm nay bao nhiêu tuổi rồi?

La Thành đáp:

- Chỉ hơn hai mươi mùa xuân!

Tuyến Nương lại hỏi:

- Phụ mẫu còn mạnh khỏe cả phải không?

La Thành lại đáp:

- Gia từ năm nay mới năm mươi chín tuổi, gia nghiêm thì sáu mươi mốt tuổi! Xin hỏi việc nhân duyên của công chúa ra sao, đã làm lễ vu quy chưa?

Tuyến Nương xấu hổ, cúi đầu không nói, lại mấy nữ binh vừa rồi đáp thay:

- Công chúa của chúng tôi quả chưa nghĩ đến chuyện nghi thất nghi gia, chỉ có một lời thề rằng...

Đang nói nữa, thì thấy Tuyến Nương đưa mặt nhìn giận dữ, nữ binh vội vàng im bặt. Lấn này đến lượt gia tướng của La Thành lên tiếng:

- Thế công chúa của các người, cùng với tiểu tướng của chúng ta hãy cùng gá nghĩa, làm thành một nhà, cho mọi người ngày này sang ngày khác khỏi phải đánh giết mãi.

La Thành giục ngựa lên mấy bước, nói:

- Công chúa nếu không chê bai, chối bỏ, xin được tìm người mối mai để đến tận quý gia làm lễ cầu hôn có được chăng?

Tuyến Nương đáp:

- Hôn nhân là chuyện đại sự, không phải là chuyện của nhi nữ. Trong chốn quân doanh, đâu có thể nói cho xong được. La công tử nếu quyết chí, thiếp xin giữ mình chờ, nhưng chỉ sợ lòng dạ La công tử chưa thật chắc chắn thôi!

La Thành đáp:

- Có trời xanh trên cao, nếu La Thành này không cùng Đậu Thị...

Lại vội hỏi:

- Xin phép hỏi quý danh công chúa?

Tuyến Nương đáp:

- Có khắc trên đạn kim hoàn vừa rồi La công tử không thấy sao?

La Thành lại mới nói tiếp:

- Ta là La Thành, kiếp này mà không được cùng Đậu Tuyến Nương nên duyên chồng vợ thì chết không có đất chôn.

Tuyến Nương thấy La Thành thề nguyền chân thật, bất giác rơi nước mắt mà tiếp:

- La công tử nếu đã có lòng nghĩ đến thiếp, thiếp cũng xin hứa sống chết cũng lấy lòng chân thật mà chờ đợi. Nhưng chỉ sợ gia nghiêm La công tử cho người đến mà phụ hoàng thiếp không bằng lòng thì làm sao bây giờ?

La Thành đáp:

- Nếu như thế, sẽ xin tìm thêm người đến thuyết phục Hạ Vương!

Tuyến Nương nghĩ một hồi, rồi nói:

- La công tử có biết thái bộc nhà Tùy Dương Nghĩa Thần không?

La Thành đáp:

- Dương Thái bộc là bạn thân của gia nghiêm ta.

Tuyến Nương tiếp:

- Người này được phụ hoàng vừa kính vừa sợ. Xin đợi Hạ Vương diệt họ Vũ Văn trở về, La công tử tới nhờ Dương Thái bộc đứng ra làm mối, thì mọi sự sẽ yên ổn.

Đang nói, thấy phía sau bụi cuốn mịt mù, nữ binh vội thưa:

- Quân ta kéo tới rồi!

Tuyến Nương gạt nước mắt thưa:

- Thế là mọi việc xong xuôi! Xin La công tử quay ngựa cho?

Tất cả đều nghe theo, cách nhau được khoảng một tầm tên bắn, Tuyến Nương ruổi ngựa đuổi theo hỏi:

- La công tử đi rồi, bao giờ sẽ trở lại?

La Thành đáp:

- Tuy đã được công chúa chân thành hứa lời, nhưng cũng xin cho La Thành này một vật làm tin, để sau này gặp nhau có cái mà nhận nhau chứ.

Tuyến Nương đáp:

- Chả cần có thêm làm gì. Mũi tên của La công tử thiếp xin giữ gìn cẩn thận. Viên kim hoàn của thiếp. La công tử hãy giữ kỹ cho, coi như vật làm tín rồi còn gì!

La Thành cho ngựa tới gần, quyến luyến chẳng muốn rời, Tuyến Nương đành lên tiếng:

- La công tử đi thôi! Thiếp không thể chiều lòng La công tử hơn được!

Rồi lấy hai tay ôm mặt quay ngựa đi, theo toán nữ binh, dặn không được lộ chuyện vừa rồi. Được vài chục bước, đã thấy Kiến Đức vì chẳng thấy Tuyến Nương đâu, không thể không lo lắng, sai Tào Đán lãnh binh quay lại cứu viện, tất cả gặp nhau cùng hợp thành một đoàn mà quay về. La Thành thấy phía trước có binh mã kéo đến, đành thở dài một tiếng, rồi ruổi ngựa cùng binh lính quay về U Châu.

Chính là:

Tương tư xa cách nghìn trùng

Núi xa, sông cách, tương phùng . . . kiếp sau.

hết: Hồi Thứ Bốn Mươi Chín, xem tiếp: Hồi Thứ Năm Mươi

Đánh máy: bevang

Nguồn: bevang - VNthuquan - Thư viện Online

Được bạn: Ct.Ly đưa lên

vào ngày: 16 tháng 2 năm 2010

Hồi Thứ Năm Mươi

Mượn tay giặc, nghĩa thần diệt phản thần,

Bày tiệc hoa, Tào hậu nhiếc Tiêu hậu.

Từ rằng:

1 . Thời loạn hùm beo nhảy tứ tung

Họa đâu phúc đó nghĩ khôn cùng

Khen ai mưu trí, công danh toại một lá thuyền câu đậu bến sông.

2. Đêm trước yêu đương,

Đêm nay thẹn thùng

Chén vàng lệ rơi

Củi đậu nấu đậu

Nhiếc chi đanh đá?

Theo điệu "Triệu trung thố"

Họa phúc, thịnh, suy trên đời này chẳng khác gì trong giấc mộng, trong cõi mờ mịt mênh mông, có người mộng thấy mình gặp phải cảnh thảm thương, buồn nản, rõ ràng là trong giấc mộng, nhưng rồi lại tới cảnh mộng khác, gặp lúc đắc ý hiển vinh, đến nỗi quên cả những cảnh mộng cũ, lúc nào cũng thấy vênh vang tự đắc, cho mình là thông minh tài bộ, thả cửa làm đủ điều tham gian ngang ngược, mãi tới lúc bước lừa khập khiễng, gà đồng xao xác, lại mới nhận ra thân phận. Phần nhiều các bậc anh hùng hảo hán, ai mà ít nhiều chẳng có bệnh này.

***

Bây giờ hãy nói tiếp chuyện Hạ Vương Đậu Kiến Đức, thấy Tuyến Nương trở về, nghĩ rằng công chúa Dũng An con mình đánh bại được cả La Thành, trong lòng vui mừng, kiểm lại binh mã, vừa chết vừa bị thương đến hơn một nửa, đành phải quay về Lạc Thọ, chỉnh đốn lại giáp binh, mới có thể bàn chuyện đánh họ Vũ Văn. Tào Hậu đón Kiến Đức cùng Tuyến Nương, hỏi tới chuyện ra binh vừa rồi, Tuyến Nương thuật lại tỉ mỉ suốt lượt. Kiến Đức nói tiếp:

- Bại thắng chưa thể bàn luận ngay, nhưng lần bại trận này, là lỗi ở cô khinh địch, nên đến nỗi dẫn đến binh bại. Chỉ tiếc thương Đặng Văn Tín một lòng trung nghĩa, vốn chẳng đáng chết. Nếu sớm biết nghe lời Tào Đán. Văn Tín, thì đâu đến nỗi thua như vậy.

Tào Hậu hỏi:

- Hai người nói những gì?

Tuyến Nương đáp:

- Khi kéo binh vây thành U Châu của La Nghệ, Tào tướng quân đã mật tâu với phụ hoàng, "Đại quân ở ngoài thành lâu ngày, chỉ sợ quân địch thấy lính tráng mỏi mệt, thừa cơ đêm đến ra khỏi thành cướp trại, một lúc không phòng bị, sợ gặp phải tay không vừa, xin cẩn trọng mới xong". Đặng Văn Tín cũng can ngăn: "Thắng luôn mấy trận, tướng sinh kiêu, lính sinh nhác, thì sợ rằng lại sẽ bại. Nay tướng sĩ, binh lính lâu ngày mỏi mệt, huống nữa La Nghệ vốn rất giỏi dùng binh, dẫu có bị chúng ta vây khốn, nhưng người ngựa trong thành đều cường tráng, quen chiến trận, xin đừng coi những lời này. là lời bàn suông". Nhưng rồi phụ hoàng đều chẳng nghe.

Tào Hậu nói:

- Bệ hạ thường có thể lấy yếu chống mạnh, mà vẫn giành phần thắng. Nhưng lại hay nổi thói kiêu căng, để đến nỗi ba quân tổn thất, nếu chẳng lấy chuyện này làm điều, thì chúng thiếp biết gửi thân phận vào đâu!

Kiến Đức nói:

- Hoàng hậu nói đúng lắm! Từ nay trở đi cô sẽ cẩn thận.

Tào Hậu thưa:

- Cứ như ý thiếp, bệ hạ nên hạ chiếu nhận lỗi lầm của mình, tự bỏ tôn hiệu, giảm thức ăn, mặc áo trắng, cởi ngựa trắng, làm lễ tang cho tướng sĩ, binh lính đã chết, chu cấp cho gia quyến của họ, thưởng công định tội rõ ràng, yên lòng kẻ dưới, nuôi dưỡng được nhuệ khí, để còn nghĩ chuyện đánh họ Vũ Văn. Có như thế, thì lo gì không thắng.

Hạ Vương nghe theo. Ngay ngày hôm sau, thưởng công phạt tội, thân đứng ra tế lễ những kẻ chết vì nhà vua, thăm hỏi chu cấp cho gia quyến. Xa gần biết chuyện, không ai là không thán phục.

Lại nghe báo Lăng Kính đã về, Hạ Vương vui mừng mà rằng:

- Tử Tiêu về rồi! Công việc của cô thế nào cũng chu tất!

Rồi gọi ngay Lăng Kính vào ngự điện, vừa an ủi vừa hỏi:

- Quan tế tửu đi đường xa vất vả. Không biết việc chiêu hiền đến đâu rồi?

Lăng Kính thưa:

- Thần vâng theo nghiêm lệnh của chúa công, tìm gặp Dương Nghĩa Thần, nói rõ ý chúa công. Nghĩa Thần lúc đầu hai ba lần từ chối. Thần mới đem chuyện Tùy Nhị Đế bị giết thảm khốc ra sao, tướng quân nên tìm cách báo thù mới phải. Nghĩa Thần liền khẳng khái bằng lòng. Nhưng vẫn xin chúa công nghe cho ba điều.

Hạ Vương hỏi.

- Là những điều gì?

Lăng Kính kể lại, Hạ Vương đáp:

- Nếu đã theo cô đi chinh phạt, thì thế nào cũng là quan thần của cô. Chỉ cần hết lòng giúp cô diệt giặc, sao lại không nghe.

Lăng Kính thưa:

- Lúc thần từ biệt Nghĩa Thần, có dặn thần thêm mấy câu bí quyết để tìm thêm cho chúa công một người giúp đỡ, chắc chắn là sẽ diệt được Hóa Cập.

Lăng Kính bèn ghé tai Kiến Đức, nói nhỏ mấy câu, Hạ Vương than rằng:

- Dẫu có Tôn Vũ, Ngô Khởi thời Chiến Quốc, thì cũng đến thế là cùng.

Ngày hôm sau thiết triều, quán thần lạy chào xong xuôi, Hạ Vương truyền cho Lưu Hắc Thát:

- Hôm trước Tần Vương nhà Đường có thư lại, xin vay hai nghìn thạch lương, cung cấp cho quân dự bị, sau khi đánh Vũ Văn về, sẽ trả cả gốc lẫn lãi. Nay cô cùng với Tần Vương hợp binh đi diệt giặc, hai nước cũng như anh em, không thể không cho vay. Người hãy cùng Lăng Kính xếp sẵn hai trăm xe lớn, đổ đầy lương thực, dẫn theo binh lính hộ tống, đem giao cho Tần Vương, không được để lỡ việc.

Hai người lĩnh mệnh lên đường. Lăng Kính dặn dò quân sĩ:

- Trên đường giặc cướp rất nhiều, các ngươi nên giả trang làm dân phu, che đậy cho kỹ lương thực. Quân trang, khí giới mang theo, phải luôn đầy đủ, ai không tuân ta sẽ trị tội.

Thế là cả đoàn hộ tống lên đường, chẳng mấy ngày, đã tới địa giới Tào Châu, Bối Châu.

***

Hãy nói chuyện ở Thái Hàng Sơn có một đầu lĩnh tên là Phạm Nguyện, tự xưng là Phi Hổ Đại vương, dưới trướng có khoảng ba nghìn lâu la, đều là những tên dũng cảm, chọn ngay vùng giữa Bối Châu, Tào Châu này dựa vào sườn núi mà lập trại, chuyên cướp đoạt của bọn khách buôn. Gần đây đang lo lương thảo không đủ, bỗng nghe lâu la về báo, phía bắc kéo xuống hai trăm xe tải lương của Hạ Vương, đem giúp quân nhà Đường, không có lính hộ tống, cướp rất dễ. Phạm Nguyện vỗ tay mừng rỡ.

- Đến đúng lúc lắm, ta đang thiếu ăn đây!

Liền dẫn hai nghìn lâu la xuống núi, lúc này mới chập choạng tối. Bọn tiền thám quay lại báo:

- Xe lương dồn thành vòng để làm thành trại, bọn dân phu quần áo lam lũ, chẳng thấy hiệu lệnh, canh gác gì cả, tất cả đều như ngủ cả rồi.

Phạm Nguyện cả mừng, kéo thẳng đến chỗ xa doanh, thì thấy bốn bề yên lặng, chẳng một tiếng người. Bỗng một tiếng pháo nổ, bọn dân phu đều chồm cả dậy, bỏ chạy toán loạn, lâu la vội lại cướp xe, thì thấy toàn xe không, chẳng hề một hạt lương thực nào cả, Phạm Nguyện lúc này mới biết trúng kế, quất ngựa bỏ chạy, thì nghe tiếng pháo rầm trời, binh lính nhà Hạ từng từng lớp lớp bốn năm nghìn người kéo ra, vây lấy Phạm Nguyện vào giữa. Rồi đuốc đốt sáng trưng như ban ngày, phía quân Hạ tiến tới trước mặt một viên tướng, mũ kim khôi lấp lánh, tay cầm búa lớn, thét như sấm:

- Thằng giặc cỏ Phạm Nguyện kia, mau mau xuống ngựa đầu hàng đi!

Phạm Nguyện hỏi:

- Nhà ngươi là ai?

Lưu Hắc Thát đáp:

- Ta là đại tướng nhà Hạ Lưu Hắc Thát?

Phạm Nguyện nói:

- Ta nghĩ là ai, thì ra Hắc Thát sao? Ta nghĩ ngươi trước kia cũng đã từng làm lục lâm ở đoạn đường này, nay sao lại vì nhà Hạ mà đem hết sức khó nhọc. Hãy nghĩ lại dạo còn làm lục lâm, ai là kẻ không đón đường đòi tiền mãi lộ. Hãy mau thả chúng ta ra, mai kia có bị người khác đánh bại, quay về nghề cũ, thì cũng còn chỗ thể tình.

Hắc Thát nổi giận quát:

- Thằng giặc cỏ lại dám bôi nhọ ta sao?

Rồi giương cao búa xông vào, Phạm Nguyện vội đỡ. Đánh khoảng hơn ba mươi hiệp, bất phân thắng bại..Bỗng thấy trong trận quân Hạ, một người cưỡi ngựa tiến ra gọi lớn:

- Hai vị tướng quân, xin hãy dừng ngựa, ta có lời giảng hòa hai vị có được không?

Phạm Nguyện hỏi:

- Lại còn ai nữa đây?

Lăng Kính đáp:

- Ta là quan tế tửu Lăng Kính nhà Hạ.

Phạm Nguyện lại hỏi:

- Tế tửu nói những gì nào?

Lăng Kính đáp:

- Nhà ngươi hiện nay như hổ bị nhốt trong hầm rồi, dẫu có cánh nữa, cũng chẳng bay nổi. Sao không bỏ tà quy chính, theo hàng Hạ Vương, cùng đi diệt Hóa Cập, báo thù cho Tùy Dượng Đế, quan sẽ được phong cực phẩm, thụ hưởng tước lộc, lại không hơn ở đây làm giặc cướp hay sao?

Phạm Nguyện đáp:

- Tế tửu nói tuy đúng, nhưng chỉ sợ Hạ Vương có dung cho không?

- Hạ Vương lâu nay vẫn nổi tiếng chiêu hiền nạp sĩ, chẳng hề nhớ oán thù cũ, có gì mà lại không dung nổi.

Phạm Nguyện nghe thế cả mừng, liền vứt giáo xuống ngựa đầu hàng. Hai nghìn lâu la cũng cởi giáp lạy theo. Phạm Nguyện mời hai người lên sơn trại nghỉ ngơi, rồi hãy dẫn binh đi tiếp. Lăng Kính đáp:

- Lưu tướng quân cùng túc hạ hãy cứ ở sơn trại nghĩ ngơi, ta còn phải đi vùng hồ Lôi Hạ, mời Lương Thái bộc tới rồi cùng đi một thể.

Nói rồi từ biệt hai người, dẫn tay chân lên đường.

***

Lại nói Dương Nghĩa Thần, từ lúc Lăng Kính đi khỏi, có đêm xem thiên văn, nhìn về góc tây bắc, thấy chòm thái ất lạc hẳn vào góc, mà ánh sáng mờ tối như muốn tắt, trong lòng vui mừng, nói với Dương Phương:

- Hóa Cập chết đến nơi rồi, ngươi hãy mau thu xếp hành trang khí giới, chờ Lăng Đại phu tới, cùng ta lên đường, giết lũ phản thần này, báo thù cho tiên đế.

Ngày hôm sau, Lăng Kính vừa đến, Nghĩa Thần mời vào nhà, Lăng Kính nói ngay:

- Vâng mệnh Hạ Vương, riêng tới mời lão tướng. Ba điều mà thái bộc cần, Hạ Vương hoàn toàn ưng thuận, Phạm Nguyện cũng đã trúng tuyệt kế của thái bộc mà về hàng, hiện đang chờ ở ngay sơn trại.

Nghĩa Thần vui mừng, bày tiệc rượu khoản đãi, rồi dặn dò gia nhân, công việc nông trang. Nghĩa Thần hẹn đi trong vòng một tháng lại sẽ trở về, rồi cùng Lăng Kính lên đường, rời Lôi Hạ, đến

Thái Hàng Sơn đã thấy Hắc Thát, Phạm Nguyện, người ngựa xuống đón, mời lên sơn trại. Phạm Nguyện đã được nghe kể Nghĩa Thần bày cách chiêu hàng mình như thế nào, nên vội bái lạy Nghĩa Thần mà rằng:

- Nguyện này vốn là kẻ lỗ mãng, may được lão tướng quân nhìn đến, chỉ xin được cầm roi theo hầu, đem hết sức khuyển mã, để tận tình đền đáp lão tướng quân.

Nghĩa Thần đáp:

- Túc hạ đã quyết cải tà quy chính, thì quả là không phụ lòng mong ngóng của ta. Nhưng còn những đàn bà con gái trên sơn trại bị bắt về, hãy nên cấp tiền đi đường cho họ, rồi thả cho về nhà. Mai kia công thành danh toại, cái gì mà chẳng có.

Phạm Nguyện nghe theo, thả cho tất cả đàn bà con gái về, đốt cả sơn trại, cùng một người với sáu bảy nghìn lâu la kẻo nhau về Lạc Thọ. Lăng Kính mời Nghĩa Thân vào quán dịch, rồi cùng Hắc Thái, Phạm Nguyện vào trình Hạ Vương. Phạm Nguyện đem bảo vật làm lễ ra mất Hạ Vương. Hạ Vương phán:

- Khanh đã bằng lòng tới đây để giúp cô, lo việc quốc gia, thế đã là vật quý của nước nhà rồi. Cô còn lấy những vàng ngọc vô dụng ấy làm gì. Khanh hãy cứ giữ lấy, về sau mà thưởng cho tướng sĩ.

Phạm Nguyện càng kính phục, Hạ Vương bây giờ mới hỏi Lăng Kính:

- Tế tửu có mời được Nghĩa Thần không?

Lăng Kính thưa:

- Dương tướng quân hiện đang ở ngoài trạm dịch. Theo như thần nghĩ, người này trước kia đã từng đối địch với chúa công, chẳng ai chịu nhường ai. Nay nếu chúa công không thân hành ra đón, chào hỏi thật trịnh trọng, thì sợ ra người này vẫn giữ vẻ khách khí, không chịu đem hết tài năng ra để giúp chúa công chăng?

Hạ Vương phán:

- Khanh bàn luận thật sáng suốt.

Sai sắp sẵn xe rồng, dẫn trăm quan ra tận ngoài thành nghênh tiếp vào đến trạm dịch, Nghĩa Thần lạy chào. Hạ Vương thấy Nghĩa Thần mày thanh tóc bạc trắng, dáng tiên phong đạo cốt, thật đáng bậc định quốc an dân, phò nguy cứu khốn, liền vội vái trả một nửa.

Nghĩa Thần thưa:

- Làm tôi của một nước đã mất, thật chịu ơn nặng của đại vương mời đến, đâu dám nhận lễ của đại vương.

Hạ Vương phán:

- Cô vẫn kính trọng thái bộc bởi lẽ trung thần nghĩa sĩ, nên cúi mình mời thái bộc tới để cùng diệt trừ lũ phản nghịch vậy.

Nghĩa Thần đáp:

- Lũ nghịch Hóa Cập, chỉ hận không thể trả ngay cừu thù để tạ đất trời. Những điều bàn bạc với tế tửu đều đã xong xuôi, chỉ xin đại vương, sau khi đã diệt xong Hóa Cập, lại cho vong thần này trở về vườn cũ.

Hạ Vương phán:

- Cô đã nói là phải giữ chữ tín với thiên hạ, nỡ lòng nào mà nuốt lời cho được.

Rồi cùng vào thành, mời Nghĩa Thần vào nhà công quán nghỉ ngơi, sai bày yến tiệc, lấy lễ chủ khách ra đãi. Hai bên luận bàn, mãi tới khi mặt trời sắp lặn về tây, Hạ Vương mới trở về cung. Chọn ngày tốt để xuất sư, phong Lưu Hắc Thát làm đại tướng quân, đeo ấn nguyên soái, Phạm Nguyện làm tiên phong, Cao Nhã Hiền lãnh tiền quân, Tôn An Tổ, Tề Thiện Hằng lãnh hậu quân, Tào Đán làm tham quân nạp ngôn, Bùi Cử, Tống Chính Bản làm vận lương nạp ngôn, Dũng An công chúa làm giám quân chánh sứ. Lăng Kính cùng Khổng Đức Thiệu ở lại giữ Lạc Thọ, giúp Tào Hậu giám quốc, Nghĩa Thần cùng ngồi trong trướng với Hạ Vương, trù mưu tính kế. Cắt mười vạn tinh binh, rầm rộ nhằm thẳng Ngụy Huyện.

Lúc này Tần Vương Lý Thế Dân, cùng với Hoài An Vương Thần Thông, đã dẫn binh tới Ngụy Huyện từ trước. Lưu Văn Tĩnh xem thư từ các nơi gửi đến xong, tâu với Tần Vương:

- Ngụy Công Lý Mật sẽ kéo quân tới, còn Vương Thế Sung chưa dám nghĩ đến việc bắc phạt. Hạ chủ Kiến Đức khuyên đại vương chẳng phải khó nhọc, chỉ cần sai một hai phó tướng, dẫn binh lính cùng tới là đủ.

Tần Vương đáp:

- Điều này vừa hợp ý ta. Hôm qua, phụ hoàng vừa có chỉ tới, nói rõ Khả hãn Lưu Vũ Chu ở Định Dương kéo binh đánh Tĩnh Châu, Vương Thế Sung ở Lạc Dương xâm phạm Doãn Châu, Lương Tiêu Tiên nhòm ngó Hiệp Châu, cả ba cánh đều rất ngang ngạnh, đòi ta phải về lo việc đối phó. Khanh hãy cùng Hoài An Vương Lý Tĩnh, cùng nhau lo việc tiễu trừ Hóa Cập.

Tần Vương liền đem ấn kiếm giao cho Thần Thông, còn mình thì theo đường tắt về Trường An.

Vốn là Lý Tĩnh từ ngày đem theo Trương Xuất Trần về vùng Thái Nguyên, tìm đến Trương Trọng Kiên, Từ Hồng Khách, gặp Lưu Văn Tĩnh, đúng lúc Tần Vương mở Chiêu Hiền Quán. Văn Tĩnh dẫn cả ba người đến gặp Tần Vương, Tần Vương thấy phong độ hiên ngang, biết ngay là hạng khác thường, lấy lễ mời về. Hồng Khách thấy Tần Vương mặt rồng mắt phượng, biết ngay là bậc chân chúa, lại thấy Tần Vương nắm tay Trọng Kiên, khiến hai tay Trọng Kiên đau không chịu nổi, lui về một góc phòng. Tần Vương lại đưa mắt liếc nhìn, Trọng Kiên phải thưa:

- Đại vương làm gì mà chiếm cứ tất cả như vậy, hãy nhường cho kẻ khác một góc chứ?

Tần Vương mỉm cười buông tay, nhân chuyện này, Hồng Khách nói với Trọng Kiên:

- Việc lớn trong thiên hạ đã xếp đặt xong rồi, hiền huynh còn cố tìm kiếm làm gì nữa?

Bọn Trọng Kiên từ biệt Tần Vương, đem cả gia tài cho Trương Xuất Trần, rồi cùng Hồng Khách bỏ đi chu du hải ngoại, tận nước Phù Dư, lập nên một sự nghiệp khác. Lý Tĩnh lại dưới trướng Tần vương, tâm đầu ý hợp, nên mới giao cho việc cùng Hạ Vương diệt Vũ Văn, nắm quyền quân cơ đại sự với Hoài An Vương Thần Thông.

***

Lại nói chuyện Vũ Văn Hóa Cập, được báo có ba cánh quân kéo đến, thế mạnh khôn đương, liền đem tất cả châu báu vàng lụa trong kho, chiêu nạp bọn cướp biển, để mong dùng chúng đánh lại chư hầu.

Từ Mậu Công biết rõ Hóa Cập binh ít, tướng đơn, liền mật sai tướng tâm phúc Vương Bộ, dẫn ba nghìn người ngựa, giấu theo hơn ba trăm cân thuốc độc, giả danh Ân Đại Dụng vào thành hàng Hóa Cập. Hóa Cập cả mừng, phong ngay làm Điện tiền độ ngu hầu.

Hoài An Vương Lý Thần Thông, được Tần Vương giao cho ấn kiếm, kéo quân đánh Hóa Cập, cách thành khoảng bốn mươi dặm dừng quân hạ trại. Hóa Cập từ trước đã rõ Tần Vương phải quay về cứu mặt tây bắc của nhà Đường, bụng khinh thường bọn Thần Thông vô mưu, dẫn ngay tướng sĩ ra ngoài thành nghênh địch. Nào ngờ Lý Tĩnh túc trí đa mưu, ngầm đem tinh binh mai phục chu đáo, chờ cho quân Hóa Cập lập trại, bày thành thế trận xong xuôi, sai Lưu Hoằng Cơ từ góc trận xông ra đánh Hóa Cập.

Thủ hạ của Hóa Cập là đại tướng Đỗ Vinh, Mã Hoa, cả hai vác họa kích, phi ngựa ra ngăn lại, hai cây họa kích đều nhằm đầu ngựa Hoằng Cơ mà đánh bừa, bị Hoằng Cơ chém một đao bên phải, một đao bên trái, kích đều gãy đôi. Đỗ Vinh, Mã Hoa đành chỉ cầm cán kích quay ngựa chạy, Hoằng Cơ cũng phi ngựa về trận mình. Đỗ Vinh giật một cây thương trong tay lính, Lý Tĩnh thấy thế, đặt một mũi tên, nhằm giữa cổ Đỗ Vinh mà bắn, dây vừa buông, Đỗ Vinh đã lăn ngay khỏi ngựa. Quân Vũ Văn đại bại, may được con cả Thừa Cơ đem quân cứu viện.

Hóa Cập bỏ Ngụy Huyện, đương đêm cùng Tiêu Hậu trốn về Liêu Thành. Quân nhà Đường dò biết, Lý Tĩnh nói:

- Quân giặc tuy thua chạy về Liêu Thành nhưng thế vẫn còn lớn, một lúc chưa thể đánh ngay. Ý Lý Tĩnh này muốn xem động tĩnh ra sao, dò thật thực hư, tìm kế lạ rồi hãy tiến công.

Thần Thông đáp:

- Đúng như ý ta vậy?

Rồi cả hai dẫn vài tùy tướng cưỡi ngựa, đang đêm ra ngoài doanh trại tới hai mươi dặm, thả ngựa trên gò cao, ngửa mặt nhìn mây gió. Lý Tĩnh nói:

- Hóa Cập là phường phản nghịch, sắp mất nước, diệt thân nay mai.

Các tướng thưa:

- Thế giặc còn mạnh lắm, sao đã chịu thua.

Lý Tĩnh đáp:

- Khí sắc trên Liêu Thành trông như đã tuyệt rồi, làm sao Hóa Cập không chết cho được. Nhưng trông khí sắc của quân doanh cả nhà Đường lẫn nhà Ngụy cũng không có điềm thắng trận, chẳng hiểu thằng giặc này sẽ chết về tay ai đây?

Nói chưa dứt lời, một đám mây đầy sát khí, xông vào giữa phận sao Ngưu, sao Đẩu, như sắp che kín cả bầu trời, nhưng rồi gió từ phương Nam tới, thổi mây như khói, như lửa của một màu. Lý Tĩnh ngửa mặt mà than:

- Thì ra đánh thắng tụi giặc này lại là binh tướng của phương Bắc vậy?

Trời đã về tối hẳn, tiếng quạ kêu rát họng, kéo nhau từng đàn về tổ. Lý Tĩnh lên tiếng bảo mọi người.

- Ta đã nghĩ được diệu kế rồi đây?

Rồi cả bọn lên ngựa trở về quân doanh, Hoài An Vương mới hỏi Lý Tĩnh :

- Diệu kế ra sao?

Lý Tĩnh ghé tai Hoài An Vương nói nhỏ mấy câu, Thần Thông gật đầu khen hay, liền ngầm sai tướng Khuất Đột Thông, chọn lấy năm trăm lính giỏi săn bắn, đem theo khí giới, lưới võng, lảng vảng ngoài thành, xem có chim nào từ thành bay ra, bắt cho kỳ hết, được con sống, tính con mà thưởng. Khuất Đột Thông theo lệnh mà làm.

***

Lại nói Hạ Vương bàn chuyện diệt Vũ Văn với Nghĩa Thần, Nghĩa Thần thưa:

- Mới vào đất giặc, chưa rõ thực hư, hãy sai Phạm Nguyện dẫn ba nghìn người ngựa, đi trước khiêu chiến, xem giặc động tĩnh ra sao, rồi sau mới định kế được thật toàn vẹn.

Hạ Vương nghe theo, Nghĩa Thần liền sai Phạm Nguyện dẫn binh mà đi.

- Chỉ cần ngươi thua, không cần ngươi thắng!

Phạm Nguyện kéo quân tới thẳng Liêu Thành. Hóa Cập sai con trai đầu Vũ Văn Thừa Cơ ra địch, hai bên giao chiến tới hơn năm mươi hiệp, Phạm Nguyện giả thua, quay ngựa chạy khoảng hai mươi dặm, Thừa Cơ cũng không đuổi, hai bên khua chiêng thu quân. Nghĩa Thần cùng lệnh cho Hắc Thát lui quân hai mươi dặm hạ trại. Chỉ riêng có Lý Tĩnh là hiểu rõ kế dụ giặc của Nghĩa Thần, liền đem tất cả quạ yến, tước, tu hú... của Khuất Đột Thông bắt được, kể không biết mấy, lấy những hạt hồ đào, hạt mận, đập ra lấy nhân, bỏ thuốc pháo vào bên trong, dùng dây buộc những thứ đó vào đuôi chim, nhất tề sai lính tráng thả chúng vào thành. Hôm ấy, Thừa Cơ đánh bại Phạm Nguyện, dẫn binh trở về thành, vào trình Hóa Cập rằng binh Kiến Đức không đáng lo, ngày mai sẽ xin lĩnh năm vạn tinh binh, kéo ra quyết chiến một lần nữa, thừa thắng lên bắc bắt sống Kiến Đức, sang Tây phá tan Lý Uyên. Vũ Văn Trí Cập khuyên:

- Cả ba cánh quân đều rất mạnh, đâu phải chỉ đánh một mặt mà xong, phải chia các tướng ra mà mai phục các cửa, bốn phía tiếp ứng lẫn nhau, thì mới không bị bất ngờ.

Hóa Cập khen phải, rồi sai đại tướng Dương Sĩ Lăm, Trịnh Thiện Quả, Tư Mã Hùng, Ninh Hổ, nhận kế sách, mai phục bốn phía. Thái tử Thừa Cơ làm tiền quán, ngự đệ Trí Cập lãnh trung quân. Hóa Cập tự lãnh hậu quân. Xếp đặt xong xuôi, tất, cả kéo ra khỏi Liêu Thành sáu mươi dặm hạ trại, lấy hiệu pháo làm lệnh ra quân, giữ Ân Khai Dụng, cùng Vũ Văn Thừa chỉ ở lại hộ giá trong thành. Các tướng lĩnh mệnh kéo quân ra khỏi thành, chỉ riêng Hóa Cập là chưa khởi hành, mà vẫn còn ngủ say trong cung với Tiêu Hậu.

Bỗng nghe báo trong thành khắp nơi phát hỏa, Hóa Cập vội vàng trở dậy tuần sát thì đã thấy khói lửa mù mịt, khắp trời, thì ra đó là diệu kế của Lý Tĩnh, chỉ trong phút chốc, cả thành đỏ rực, từ lâu đài nhà cửa cho đến kho tàng đều bị thiêu cháy. Ân Đại Dụng lại giả danh cứu hỏa, lấy số nước còn lại khoảng ba ngày, sai ngầm bỏ thuốc độc vào tất cả. Hóa Cập thấy quân sĩ lúc đầu mắt hoa đầu váng, sau ra thượng thổ hạ tả, bệnh ùn ùn kéo đến kêu khóc ầm trời đất, cho rằng thiên địa giáng tai ương, mong trừ diệt dòng họ Vũ Văn, ngày đêm kinh hoàng. Quân Hạ Vương dò biết, về báo tường tận cho Kiến Đức.

Nghĩa Thần biết ngay là mưu kế của Từ Mậu Công nhà Ngụy và Lý Tĩnh nhà Đường, bèn sai ngay Phạm Nguyện dẫn một vạn tinh binh, đóng giả lính họ Vũ Văn, nhưng có làm dấu hiệu riêng, nhân đêm tối lẻn vào đại trại của Trí Cập cách đó hai mươi dặm đợi sáng, lại điều Lưu Hắc Thát, Tào Đán, Vương Tôn lĩnh năm vạn quân đương đầu với Trí Cập, Nghĩa Thần thân dẫn hai vạn quân cướp trại, còn Cao Nhã Hiền, Tôn An Tổ, Tống Chính Bản lãnh bốn vạn binh lính, mai phục dọc đường, để sẵn sàng cứu ứng cho mọi nơi. Lại giữ lại hai vạn quân, giao cho Bùi Cử trông coi doanh trại, hộ giá công chúa Dũng An. Xếp đặt xong xuôi không quên cho quân sĩ ăn thật no, rồi ba phát pháo nổ ran. Hạ Vương dẫn quân kéo thẳng vào Liêu Thành.

Quân nhà Đường, nhà Ngụy biết rõ việc này, cũng nổ pháo giúp oai, bốn cửa đều vang động. Hóa Cập đốc thúc tướng sĩ, cùng với Ân Đại Dụng ra thành nghênh địch. Hạ Vương nhận ra Hóa Cập, không nói một lời, vác thanh nguyệt yến đao xông tới. Hóa Cập cũng cho ngựa chồm lên đỡ, đánh hơn hai mươi hiệp, nào ngờ Đại Dụng quay lại thành, mở cổng cửa, quân Hạ Vương ùa vào thành như nước. Hóa Cập nhân có Trí Cập giấu quân hai bên đường, nên vừa đánh vừa lui. Lại thấy Nghĩa Thần, sau khi đã cướp được trại quân của Trí Cập, cũng kéo quân tới tiếp ứng, nói với Hạ Vương:

- Chúa công mau vào thành phủ dụ trăm họ, thu thập lấy quốc bảo, thư tịch, để lão vong thần này chém đầu tên giặc này cho.

Hạ Vương quay ngựa dẫn binh vào thành, Nghĩa Thần xông vào đánh nhau với Hóa Cập. Được khoảng ba bốn chục hiệp, Dũng An công chúa sợ Nghĩa Thần sơ xuất gì chăng, vội lôi trong túi gấm ra một viên kim đạn, giương cung bắn viên đạn đi, trúng ngay miệng Hóa Cập. Bốn năm nữ binh cầm đoản đao, xông thẳng lên trước ngựa Hóa Cập, cứ chân ngựa mà chém, Nghĩa Thần lại bồi thêm một thương, Hóa Cập ngã lăn xuống ngựa, Nghĩa Thần sai thủ hạ trói lại, nhốt vào xe tù. Lại thấy Tào Đán đã chém được Dương Sĩ Lãm, còn Lưu Hắc Thát cùng với Trí Cập, hai ba tướng nữa vẫn còn ham đánh chưa phân thắng bại. Nghĩa Thần rẽ quân lính ra, cho đẩy xe tù nhốt Hóa Cập lên trước hướng về quân Vũ Văn, gào lớn:

- Các ngươi đều là binh sĩ nhà Tùy cũ, chỉ vì nghịch tặc ép buộc.

Gia quyến các ngươi đều ở Quan Trung. Nay nghịch tặc đã bị nhốt trong cũi này rồi, các người muốn được về Quan Trung, thì hãy quy thuận Hạ Vương, sẽ được thăng quan thưởng cấp, nếu như không hàng, sẽ chôn sống kỳ hết!

Quân Vũ Văn nghe thế, đều vứt binh khí, giáp trụ ra hàng. Trí Cập thấy anh đã bị nhốt trong xe, mình bị vây kín, lòng dạ hoang mang, lại thấy binh sĩ quay giáo, cởi áo hàng cả, liền dẫn mấy tên lính kỵ chạy trốn vào doanh trại của Vũ Văn Thừa Cơ. Không ngờ Tôn An Tổ phi ngựa lại như bay, đâm một thương vào sau lưng, ngã lăn khỏi ngựa. Nghĩa Thần quát binh lính, quàng ngay gông vào cổ Trí Cập, nhốt luôn vào xe tù, rồi kéo cả đại quân lại đánh Vũ Văn Thừa Cơ.

***

Lại nói Hạ Vương dẫn quân vào Liêu Thành, đã thấy cửa thành mở rộng, một viên tướng xách một thủ cấp, đến trước ngựa Hạ Vương mà thưa:

- Thần là bộ hạ của Ngụy Công, tùy tướng của Tả dực vệ đại tướng quân Từ Mậu Công, Vương Bộ, vâng lệnh chủ tướng giả danh Ân Đại Dụng, lãnh ba ngàn quân, giả làm cướp biển, về hàng Hóa Cập Hóa Cập cho làm Đô Ngu hầu. Hôm qua bỏ thuốc độc xuống các giếng nước, gây bệnh cho quân sĩ, hôm nay mở rộng cửa thành để đón quân của đại vương. Đây là thủ cấp con thứ của Hóa Cập là Vũ Văn Thừa Chỉ, thần xin dâng đại vương, mời đại vương vào điện, thần xin được cáo từ.

Hạ Vương đáp:

- Khanh đã có công phá thành, hãy lưu lại vài ngày, đợi có khao thưởng quân sĩ, rồi trở về cũng chưa muộn đâu?

Vương Bộ thưa:

- Từ tướng quân hiệu lệnh nghiêm túc, thật không dám ham khao thưởng, sợ lỡ hẹn của tướng quân.

Nói rồi từ biệt. Hạ Vương than:

- Vương Bộ thật là bậc trượng phu. Riêng việc này cũng đủ biết Từ Mậu Công làm chủ soái nghiêm minh đến chừng nào!

Hạ Vương kéo quân vào, mời Tiêu Hậu ra chính điện, Kiến Đức làm lễ triều kiến, lập thần vị Tùy Dượng Đế, dẫn bách quan đều mặc quần áo trắng, làm lễ phát ai. Lúc này Dũng An công chúa cũng dẫn các tướng lục tục kéo vào, đem Hóa Cập, Trí Cập đặt ngay trước điện. Tào Đán xách thủ cấp Dương Sĩ Lãm, Phạm Nguyện xách thủ cấp Vũ Văn Thừa Cơ, Lưu Hắc Thát, Tôn An Tổ giải theo các tướng của Vũ Văn đều vào báo công. Hạ Vương sai quân sĩ đem Hóa Cập, Sĩ Cập trói vào cột, lấy dao mổ bụng để hiến tế Tùy Dượng Đế, lại bắt các tướng Vũ Văn quỳ ngay trước thần vị, ai nguyện hàng đều tha cho, kẻ nào không phục đều giết cả. Bỗng thấy Bùi Cử, được coi giữ đại trại, cho một tướng vào báo:

- Dương lão tướng có thiếp đưa trình, nên phải sai mạt tướng vào tâu ngay đại vương rõ.

Hạ Vương giở thiếp ra xem, thấy thiếp viết rằng:

"Kính trình Hạ Vương:

Phản thần Hóa Cập đã bị bắt, chí nguyện của thần đã toại, mong Hạ Vương nhớ lại lời hứa buổi đầu, mở lòng nhân đức, cho vong thần này được trở về với vườn ruộng. "

Mũ treo huyền vũ sớm quay về

Chẳng mến gì hơn mến núi khe

Một lá thuyền con trôi ngơ ngác

Động Đình mây nước gió thu vèo.

Hạ Vương xem hết, thở dài:

- Nghĩa Thần đi rồi? Cô mất một cánh tay!

Lưu Hắc Thát, Tào Đán xin kéo quân đuổi theo, Hạ Vương phán:

- Cô đã hứa như vậy, nay nếu đuổi theo thì ra bội ước. Thôi thì cô cũng vun đắp thêm danh tiếng cho vị cựu thần trung nghĩa vậy!

Rồi đem châu báu, báu vật trong cung chia thưởng cho quân sĩ, đem quốc bảo, sổ sách giao cho Dũng An công chúa cất giữ, rồi nhân hỏi Tiêu Hậu:

- Nay hoàng hậu muốn về đâu?

Tiêu Hậu thưa:

- Thiếp nay nước mất, nhà tan, chuyện sống chết, vinh nhục, xin nghe theo lệnh đại vương.

Hạ Vương cười không nói gì. Dũng An công chúa đứng cạnh, sợ phụ hoàng lại theo vết xe của Hóa Cập, vội vàng trả lời:

- Nếu như thế, xin để con cùng nương nương đây về Lạc Thọ trước. Một là để mẫu thân đỡ trông ngóng, hai để đại quân dẫu có chậm về ít nhiều cũng không sao.

Hạ Vương vui mừng bằng lòng:

- Công chúa bàn đúng lắm! Ngày mai hãy dẫn hai vạn binh mã, cùng với Tào Nạp ngôn về Lạc Thọ trước.

Tối hôm ấy Tiêu Hậu mời Dũng An công chúa nghỉ lại trong cung. Sáng sớm hôm sau, Tào Đán đã lĩnh binh mã chờ sẵn, Tiêu Hậu thì đã theo Hàn Tuấn Nga, Nhã Nương, La La, Tiểu Hỉ, bốn cung nữ vừa ý nhất, lên kiệu vàng, còn Dũng An công chúa cũng tuyển trong đám cung nữ khoảng hai ba chục nữ binh khỏe mạnh, năm sáu mỹ nhân lanh lợi, rồi lên đường.

Chính là:

Bụi mịt mùa ngựa hí vang

Đoàn quân chiến thắng, rộn ràng khai ca.

Chỉ một ngày đã về tới Lạc Thọ, tiêu mã vội báo công chúa về triều, Tào Hậu sai Lăng Kính ra ngoài thành đón rước. Lăng Kính để Tiêu Hậu ở ngay quán dịch, Dũng An công chúa cùng Tào Đán vào thành ra mắt Tào Hậu. Công chúa đem quốc bảo, giấy tờ của nhà Tùy trình lên Tào Hậu, lại gọi cả bọn cung nô, mỹ nữ vào bái lạy, Tào Hậu cả mừng. Công chúa lại nói thêm:

- Tiêu Hậu hiện đang để ở ngoài quán dịch, xin để mẫu thân tùy ý định đoạt.

Tào Hậu phán:

- Cái con hồ ly già ấy làm cho nhà Tùy mất cả thiên hạ, đi làm vợ khắp người ta, còn mang về đây làm gì?

Lăng Kính thưa:

- Chúa công chẳng bao giờ lại làm như Hóa Cập, cho nên mới đưa về đây Hoàng hậu nên lấy lễ mà tiếp, đợi chúa công về, thần đã có chỗ đưa Tiêu Hậu đi vậy.

Công chúa nói:

- Lăng đại phu nói đúng lắm!

Tào Hậu tiếp:

- Nếu đã như thế, bày yến tiệc ở trong cung rồi nói rằng ta bị đau chân vẫn chưa khỏi, không thể ra đón, chờ Tiêu Hậu vào cung.

Lăng Kính nghe xong, liền ra trạm dịch thưa với Tiêu Hậu:

- Quốc mẫu vẫn định ra nghênh tiếp nương nương, nhưng vì chân đau chưa khỏi, sai thần ra trình rõ, xin loan giá vào cung gặp gỡ.

Tiêu Hậu lên xe loan, nghĩ lại buổi sinh thời Dượng Đế, trăm quan cung nữ theo hầu, nay trơ trọi mấy người, không ngăn nổi thương tâm. Chẳng mấy chốc, đã vào tới cung. Dũng An công chúa thay mặt mẫu hậu ra cửa đón. Tào Hậu đội mũ phượng, tóc tết hình rồng, áo phượng cổn, diện mạo đường đường, đoan trang chững chạc, chẳng chút yểu điệu thướt tha, cũng chẳng lưng ong thắt đáy, bốn cung nữ theo hầu xuống thềm đón Tiêu Hậu lên điện. Tào Hậu mời Tiêu Hậu ngồi lên trên, làm lễ lạy chào, nhưng đời nào Tiêu Hậu dám nhận, chối từ ba bốn bận, rồi lấy lẽ chủ khách mà chào hỏi, tả hữu mời vào chỗ ngồi. Tiêu Hậu cùng Tào Hậu, Dũng An công chúa vào cung Long An, đã thấy tiệc rượu bày đầy vẻ hoa mỹ. Tào Hậu nâng chén, nói với Tiêu Hậu:

- Ở chốn lều tranh cỏ rậm, khác nhiều so với nơi xe loan lầu ngọc, may được lưu xe phượng, thực là vinh hạnh.

Tiêu Hậu đáp:

- Gặp bước thảm thương, đành theo đuổi kẻ khác, được thượng quốc đưa về đây thực đã là may mắn, lại được khoản đãi thế này, thực đã nở nang mày mặt.

Mọi người ngồi yên chỗ, rượu được ba tuần, Tào Hậu hỏi Tiêu Hậu:

- Giữa Đông Kinh với Tây Kinh, nơi nào đẹp hơn nơi nào?

Tiêu Hậu đáp:

- Tây Kinh thì được cái quy mô to rộng, nhưng cảnh không tao nhã. Đông Kinh không những cung các hoa lệ, mà lại hơn có Tây Uyển, hồ, biển, núi đều có. Mười sáu viện quanh co uốn lượn lầu các liên tiếp, bốn mùa lúc nào phong cảnh cũng đẹp.

Tào Hậu nói:

- Được nghe những chuyện nhã nhạc, ca múa, cắt lụa làm hoa, có lẽ vì thế mà nương nương đây có làm nhiều thơ từ tuyệt diệu chăng?

Tiêu Hậu thưa:

- Phần lớn đều do các phu nhân ở mười sáu viện làm, thiếp cùng tiên hoàng chẳng qua chỉ bình duyệt vậy thôi.

Tào Hậu lại phán:

- Đã từng được nghe kể về khúc "Thanh dạ du" trên ngựa đàn hát, đóng giả Chiêu Quân, Quan âm, dưới nguyệt đài đua ngựa, thật đúng là hàng nghìn năm cũng không có được vị đế vương nào được vui chơi sung sướng đến thế.

Hàn Tuấn Nga đứng ở phía sau đỡ lời thưa:

- Đêm ấy nhân nương nương thích ý, tiên hoàng sai chọn ngựa đưa vào cung rất nhiều, làm một cuộc du ngoạn đê trăng, thật là lần vui chơi ít có.

Tào Hậu lại hỏi:

- Người này là ai?

Tiêu Hậu đáp:

- Người này là Hàn Tuấn Nga, người này là Nhã Nương, nguyên đã từng được ban hiệu mỹ nhân, còn đây là La La, Tiểu Hỉ, đều theo hầu từ thuở nhỏ.

Tào Hậu hỏi Tuấn Nga:

- Các người dạo ấy có bao nhiêu mỹ nhân?

Tuấn Nga đáp:

- Chu Quý Nhi, Viên Bảo Nhi, Tiết Dã Nhi, Hạnh Nương, Thỏa Nương, với tiện thiếp cùng Nhã Nương đây, về sau thêm Giáng Tiên, cùng Nguyệt Tân.

Tào Hậu lại hỏi:

- Hạnh Nương vì việc đoán chữ mà bị giết chết, Chu, Viên vì mắng giặc mà quên thân, còn những người khác?

Nhã Nương thưa:

- Thỏa Nương thì bị Vũ Văn Trí Cập bức bách, nhảy xuống hồ mà chết.

Tào Hậu cười:

- Người này cùng với Chu, Viên, có lẽ quá ngu si chăng. Sống ở trên đời, như cỏ chỉ có một mùa, sao không như hai người, cứ theo nương nương đây, mặc sa vào đâu cũng được, miễn là sung sướng, việc gì khổ sở đến quên thân như thế?

Tiêu Hậu vẫn nghĩ rằng Tào Hậu cùng địa vị với mình nên không chú ý. Dũng An công chúa mới cất tiếng hỏi:

- Còn có một mỹ nhân biết múa kiếm thì đi đâu?

Tuấn Nga thưa:

- Đó là Tiết Dã Nhi. Dã Nhi cùng năm vị phu nhân, thêm cả Triệu Vương, đã bỏ trốn trước một ngày, vẫn không biết là theo hướng nào.

Tào Hậu gật đầu:

- Năm vị phu nhân này dẫn theo Triệu Vương, đúng là những người hiểu biết vậy.

Lại hỏi Tiêu Hậu:

-- Thuở tiên đế còn trong ngự uyển, nghe nói tuy cùng phu nhân mười sáu viện rất yêu thương, nhưng đêm đến bao giờ cũng về với chính cung hoàng hậu phải không? Nếu đúng thế thì thật là phu phụ gắn bó keo sơn vậy!

Tiêu Hậu đáp:

- Trong một tháng, bao giờ cũng có khoảng bốn năm đêm ở lại trong các viện.

Tào Hậu lại hỏi:

- Nương nương quả là đã lấy sợi gấm mà buộc chân tiên đế vậy, ép tiên đế phải đem Ngô Giáng Tiên đày ra Nguyệt Quan, Viên Bảo Nhi vào Mê Lâu, chuyện này có không?

Tiêu Hậu trong lòng thầm nghĩ: "Đây là những chuyện trong cung cấm ngày xưa, làm sao mà mãi tận đây cũng biết rõ ràng đến thế. Chi bằng cứ chối phắt đi là hơn cả". Rồi đáp:

- Thiếp đối đãi với cung nữ rất rộng rãi, làm gì có những chuyện đó.

Tào Hậu cười:

- Hiện có người làm chứng, hãy để ta gọi ra, xem đúng hay sai nào.

Rồi sai cung nữ vào gọi, lát sau, một cung nữ khoảng mười lăm mười sáu lạy chào Tiêu Hậu, Tiêu Hậu nhìn kỹ, thì ra là Thanh Cầm, cung nữ của Viên Tử Yên, vội gọi ngay lại gần mà hỏi:

- Ta đã sai ngươi theo hầu Viên Tử Yên, sao ngươi lại ở đây?

Công chúa đỡ lời:

- Thanh Cầm vốn người phương Nam, một lần Tuyến Nương này đang ruổi ngựa trên đường bắt gặp, biết là cung nữ nhà Tùy, lại thấy lanh lợi, cho nên đem về theo.

Tào Hậu lại cười chỉ La La hỏi:

- Chỉ có con bé này là giữ đúng phép tắc của nương nương thôi. Tiên đế định ân ái, nó nhất định từ chối. Tiên đế phải làm thơ ban cho nó, mấy câu thơ tuyệt diệu này, nương nương còn nhớ chăng?

Tiêu Hậu đáp:

- Thiếp vẫn nhớ!

Nhân đó liền đọc:

Đong đưa đôi mắt sóng lao xao

Phấn sáp tô nên nét diễm kiều

Những muốn dẫn khanh vào mộng đẹp

Tần ngần khanh chối, ý là sao

Tào Hậu nghe xong liền than:

- Lời cùng ý đều đẹp, tiên đế rõ thật là giống đa tình vậy?

Dũng An công chúa nói:

- Thế còn Ngô Giáng Tiên nữa, bây giờ ở đâu?

Tuấn Nga thưa:

- Giáng Tiên nghe tin tiên đế bị nạn, liền cùng Nguyệt Tân thắt cổ tự tử ở trong Nguyệt Quan.

Dũng An công chúa lại hỏi:

- Mười sáu vị phu nhân, mới đi được năm vị, còn các vị khác ở đâu cả?

Nhã Nương thưa:

- Hoa phu nhân, Tạ phu nhân, Khương phu nhân đều thắt cổ tự tử. Lương phu nhân cùng Tiết phu nhân không chịu theo Hóa Cập nên bị giết chết. Giang phu nhân ở Hòa Minh viện, La phu nhân ở Nghênh Huy viện, Giả phu nhân ở Giáng Dương viện, sau loạn cũng chẳng biết đi đâu. Nay chỉ còn lại Phàn phu nhân ở Tích Chân viện, Dương phu nhân ở Minh Hà viện, Chu phu nhân ở Thần Quang viện, đều hiện ở cung Liêu Thành.

Tào Hậu cảm khái than:

- Cả một tòa giang sơn gấm vóc như thế, mà bị mấy con ở này làm hỏng nát cả. Cũng còn may, có kẻ tử tiết, có kẻ quyên sinh, để báo đền tri kỷ, cũng an ủi được phần nào vong linh tiên đế ở dưới dạ đài.

Lại hỏi Tiêu Hậu:

- Ba vị phu nhân ở lại Liêu Thành, sao không cùng nương nương đi chuyến này luôn?

Tuấn Nga đỡ lời:

- Không hiểu vì sao các phu nhân không chịu đi?

Dũng An công chúa cười đáp:

- Mỗi người ôm một cây tì bà, cần gì phải một cây đàn ba người hát theo nữa?

Lúc này Tiêu Hậu bị hai mẹ con Tào Hậu, câu nhanh câu chậm, câu xoa câu chém, khích bác hết lời này sang chuyện khác, chẳng biết chống đỡ thế nào cho được, chỉ đành ngồi trơ mặt, cãi liều vài câu:

- Hoàng hậu cùng công chúa ở chỗ không thấu hiểu hết. Thiếp đây cũng không phải phường tham sống sợ chết, chỉ bởi đêm ấy, nghịch tặc xông vào cung, thình lình sinh biến lớn, thây chất máu loang đầy đất, tiên đế nằm ngang trên giường đệm, Chu, Viên thì thây dựa vào lan can. Nếu không có thiếp chủ trì, lấy ván trầm hương của mấy giường chạm, đóng tạm làm quan tài, trước tiên là khâm liệm tiên đế, thu dọn tươm tất, nếu không thì làm sao tránh khỏi cảnh vương vãi thối rữa, rồi cũng chẳng thể tưởng cuối cùng ra sao!

Tào Hậu nói:

- Đó chính là việc của mẫu hậu triều đình vậy, ta cũng hiểu được chủ ý này của nương nương, không thèm học theo bọn thất phu, thất phụ, chết vùi nơi ngòi rãnh, mà vẫn còn mong giữ được sự tế tự của nhà Tùy, lập người nối nghiệp để nhà Tùy không đến nỗi tuyệt diệt.

Tiêu Hậu thấy Tào Hậu nói thế, liền thêm.

- Lời của hoàng hậu, thật là thấu hiểu lòng cho thiếp vậy!

Tào Hậu lại tiếp:

- Nghĩ như vậy thì thật đúng quá. Nhưng không hiểu tại sao, khi bọn phản thần đã lập Tần Vương Dương Hạo làm vua, chẳng được bao lâu lại còn đánh thuốc độc cho chết. Lúc bấy giờ, nương nương với phản thần tình sâu ý dậm, sao không nói cho một lời giải cứu, là duyên cớ làm sao?

Tiêu Hậu đáp:

- Lúc ấy thì kẻ vị vong này tính mệnh trong tay bọn giặc, dẫu có nói cũng chẳng cứu được ai nào!

Tào Hậu cười!

- Ba chữ "vị vong nhân" đáng ra không nên nói. Là "vị vong nhân" của họ Tùy, hay "vị vong nhân" của họ Vũ Văn? (1)

1 "Vị vong nhân": người chưa chết, người đàn bà thủ tiết với chồng tự xưng. "Bỗng dưng mà lại ra người vị vong" (Cung oán ngâm khúc). Họ Vũ Văn: Họ kép, cũng có lúc gọi Hứa, nhà Hứa, vì được phong Hứa Quốc Công.

Nói đến đây, Tiêu Hậu chỉ còn cách ôm mặt mà khóc, khiến Tuấn Nga, Nhã Nương cũng không ngăn nổi buồn thổn thức. Giữa lúc không biết nên như thế nào, thì thấy cung nhân vào thưa:

- Chúa công đã về tới nơi, xin mời hoàng hậu ra nghênh giá.

Tào Hậu nói với Tiêu Hậu:

- Vốn muốn giữ nương nương lại cùng trò chuyện, nhưng vì chúa công đã về, mời nương nương tạm nghỉ ở nhà riêng Lăng đại phu, ngày mai xin lại được gặp mặt.

Lệnh tiễn Tiêu Hậu lên loan, về nhà Lăng Kính. Chưa biết sự việc về sau ra sao, hãy chờ hồi sau phân giải.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro