Tùy Đường Diễn Nghĩa 51 60

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chữ Nhân Hoạch

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình

Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Năm Mươi Mốt

Chúa chân mệnh nhà lao thân hãm,

Gái kỳ tài mẹo giúp rồng bay.

Từ rằng:

Ấy cũng bởi cậy tài lỡ bước,

Dữu Lý kia cửa ngục hãm thân

Vua tôi trông mặt lệ tràn

Chờ cho vận hạn quá lần mới hay

Mộng giai nhân chuyên xoay thời thế

Chúng anh hùng đảm trí mưu cao

Ruổi tuấn mã, khoác chiến bào

Sông sau núi thẳm biến sầu thành vui.

Theo điệu "cầm đường xuân"

Bậc triết nhân thường có thuật tiên tri mọi sự, có thể chủ động tìm đến điều lành, tránh điều họa, nhưng rồi cuối cùng cũng không thể tránh khỏi số mệnh. Thời trước có Quách Phác cùng Bốc Hủ (l), đều tinh thông dịch lý, Một hôm, Quách Phác than với Bốc Hủ:

- Đệ cũng không hơn gì, nhưng huynh thì không thể nào tránh nổi họa binh đao?

1 Quách Phác: Người đời Tần, làm thư lại cho Vương Đôn, Vương Đôn định làm phản, sai Phác bói, Phác nói quẻ bói xấu lắm. Đôn nổi giận, giết Phác. Cùng với bạn là Bốc Hủ, nổi tiếng giỏi về tướng số, bói toán, riêng Phác còn là một nhà văn tên tuổi thời này. (Từ Hải).

Bốc Hủ đáp:

- Đệ năm nay đã bốn mươi mốt tuổi rồi, làm khanh làm tướng, mắc phải vạ này cũng đành, nhưng sao huynh cũng chưa có cách gì để tránh được tai ương của mình sao?

Quách Phác than:

- Mệnh của đệ sẽ hết ở Giang Nam, từ lâu đã biết chẳng sao tránh nổi.

Bốc Hủ khuyên:

- Huynh đừng làm thư lại nữa thì may ra có thể tránh được chăng?

Quách Phác đáp:

- Đệ không tránh được cái họa khi làm thư lại cũng như huynh không trốn được cái vạ khi làm khanh tướng vậy thôi.

Về sau, Bốc Hủ làm tướng cho Lưu Thông, thua trận, chết ở Tấn Dương, còn Quách Phác vẫn phải ra làm thư lại, rồi bị Vương Đôn giết chết. Thế mới biết số mệnh là chuyện đã định sẵn, ngay đến bậc đế vương xưa nay cũng không thể tránh khỏi, đến cả kẻ tinh thông lý số, biết trước mọi sự cũng không trốn được.

***

Nay nói tiếp chuyện Hạ Vương Đậu Kiến Đức, về đến Lạc Thọ, Tào Hậu ra đón vào cung. Lạy chào xong, Tào Hậu thưa:

- Bệ hạ lâu nay việc quân khó nhọc, nhưng mừng vì lũ nghịch thần đã diệt hết, danh phận đã đường hoàng. Từ nay danh tiếng bệ hạ cao hơn nhà Đường, nhà Ngụy nhiều lắm. Nhưng hiện nay cung cũ nhà Tùy là ở Đông Đô. Bệ hạ đã liệu lý công việc ở đó ra sao?

Hạ Vương đáp:

- Cô đã sai Dương Thế Hùng đi rồi. Tất cả vàng ngọc, lụa là trong cung, cho đến phi tần cung nữ, đều được chia làm bốn phần, hai phần để thưởng công cho quân sĩ, hai phần đem cho nhà Đường, nhà Ngụy đã có công cùng cô mưu diệt họ Vũ Văn. Cô chỉ còn giữ mấy đồ quốc bảo cùng giấy tờ quan thiết mà thôi.

Tào Hậu thưa:

- Bệ hạ xử như vậy thì thật là công bằng. Nhưng còn một của quý sống hẳn hoi, không biết bệ hạ giữ lại làm gì đây.

Hạ Vương phán:

- Hoàng hậu đừng nhận nhầm cô cũng như bọn Hóa Cập. Cô từ ngày khởi binh đến nay, đánh đông dẹp bắc, chín châu bao la, đâu chỉ có một chỗ đáng dừng chân thôi sao, nếu như cô nghĩ đến chuyện hoan lạc như thế thì thiếu gì cơ hội. Cô sở dĩ cho đưa Tiêu Hậu về đây vì sợ để lại Trung nguyên sẽ bị người khác làm nhục, nên cố tình cho về cùng với công chúa, đã có chỗ xếp đặt chu đáo cả.

Tào Hậu thưa:

- Không phải vì thiếp ghen ghét, chẳng qua là để bàn kế sách cho quốc gia. Nếu được như vậy, thì thật là phúc lớn cho tôn miếu vậy.

Sáng hôm sau, Hạ Vương sai Lăng Kính đưa bọn Tiêu Hậu tới, đưa sang Đột Quyết với Nghĩa Thành công chúa. Tiêu Hậu vốn là người thích động, không thích tĩnh, mới đến đã chịu bao lời sĩ nhục của mẹ con Tào Hậu, biết rằng Tào Hậu khó mà dung mình, nay thấy nói sẽ được sang với Nghĩa Thành công chúa bên Đột Quyết, trong lòng vui sướng thầm nghĩ: "Ra nước ngoài chơi bời vài năm, còn hơn là ở lại đây để chịu cạnh khóe, mắng nhiếc của lũ người này". Liền giục Lăng Kính lên đường, thuyền lớn đi biển sắp sẵn, buồm giương cao đưa ngay sang nước Đột Quyết.

Lăng Kính sai người đem thư vào trình công chúa Nghĩa Thành, cũng vì Khả hãn Khải Thị đi mừng thọ Cao Xương Vương Khúc Bá Nha không có ở trong nước, Nghĩa Thành liền sai ngay Vương Nghĩa, đem theo ngựa, lạc đà đón tiếp Tiêu Hậu, lại sai văn thần ra mời Lăng Kính về trạm dịch khoản đãi.

Tiêu Hậu ở trong thuyền, thấy Vương Nghĩa xuống thuyền chào lạy đúng là "thiên lý tha hương ngộ cố tri", bất giác nước mắt ngắn dài hỏi:

- Vương Nghĩa, sao ngươi lại ở đây?

Vương Nghĩa thưa:

- Thần là người nước ngoài, chịu ơn sâu của tiên đế, chẳng có lòng nào mà đi thờ chủ mới nên gắng bảo hộ Triệu Vương cùng Sa phu nhân tới đây. Tiên đế chẳng nghe can gián của thần, đem cả tòa giang sơn mà vứt cho kẻ khác, nay nương nương tới đây, vốn cũng là tình cốt nhục, tất có thể yên thân qua ngày. Công chúa sai thần ra đón nương nương mau vào cung gặp gỡ.

Tiêu Hậu lên bờ, cưỡi một con ngựa tiêu dao rất đẹp, về cung. Nghĩa Thành công chúa cùng Sa phu nhân ra tận cửa đón vào, chào hỏi xong, tất cả ôm nhau mà khóc. Tiêu Hậu nói với Sa phu nhân:

- Các ngươi dẫn Triệu Vương lánh ở đây, bỏ ta lại chịu trăm nghìn khổ não.

Sa phu nhân đáp:

- Chúng tôi được nghe nương nương đã được trở về ngôi chính cung ở Chiêu Dương, chỉ còn trông trừ được lũ phản thần, lại sẽ gọi chúng tôi về lại đất cũ. Chẳng ai ngờ được lại có biến này trong biến kia vậy.

Đang chuyện trò, thấy Tiết Dã Nhi cùng Khương Đình Đình cùng vào lạy chào. Tiêu Hậu hỏi Sa phu nhân:

- Còn mấy vị phu nhân nữa, tưởng rằng đều ở đây cả?

Dã Nhi đáp:

- Cùng chạy theo còn có Địch, Tần, Lý cùng Hạ phu nhân, nhưng đã cắt tóc, vào cửa Phật, làm ni cô rồi!

Tiêu Hậu lại thở than một hồi, rồi nói với Sa phu nhân:

- Phu nhân ở đây, còn Triệu Vương sao không thấy?

Sa phu nhân đáp:

- Triệu Vương mới cùng lũ trẻ đi săn rồi!

Tiêu Hậu tiếp:

- Ta cũng thường hay nhớ tới Triệu Vương.

Sa Phu Nhân đáp lời:

- Chốc nữa trở về, thấy mẫu hậu, nhất định tha hồ mà mừng.

Yến tiệc bày ra, toàn là chim núi, thú hoang, nem hươu, bướu lạc đà. Lúc này Vương Nghĩa đã được làm thị lang của Đột Quyết, Đình Đình đã được phong phu nhân, Dã Nhi làm bảo mẫu của Triệu Vương, tất cả cùng ngồi vào, kể lể chuyện xưa sau.

Trời đã về chiều, thấy tiểu nội thị vào thưa:

- Tiểu vương phụ đã về !

Tiêu Hậu hai năm nay không thấy Triệu Vương, nay thấy đã ra dáng vẻ trượng phu tuấn tú, thân hình cao lớn, lại săn được rất nhiều chim thú đem về vào thưa:

- Mẫu thân, con đã về !

Thấy yến tiệc đang bày, Triệu Vương vội vàng quay ra, Sa phu nhân bảo:

- Quốc mẫu đang ở đây, mau vào lạy chào!

Triệu Vương vẫn đứng yên, Dã Nhi cùng Đình Đình vội thay nhau giảng giải:

- Nương nương đây là Tiêu Hoàng hậu, chính cung của phụ hoàng, là quốc mẫu của Triệu Vương, lẽ tự nhiên phải vào bái kiến chứ!

Triệu Vương thấy nói thế vội chạy tới, vái hai vái. Tiêu Hậu vội khen:

- Mới chỉ hai năm không gặp, mà nay đã trưởng thành thế này rồi!

Triệu Vương lạy xong hai lạy, bỏ chạy ra ngoài mất. Sa phu nhân bảo.

- Phải quỳ lạy cẩn thận chứ, sao đã bỏ đi?

Dã Nhi vội chạy ra kéo Triệu Vương vào. Triệu Vương cãi:

- Bảo nương, Bảo nương cũng biết lúc còn ở Tùy cung, thì Tiểu Nương nương chính là quốc mẫu của ta thật, tất nhiên phải làm đại lễ hẳn hoi, nhưng nay nghe nói nương nương đã đi với họ Vũ Văn. Mẹ đã đi lấy chồng, thì chẳng còn quan hệ gì với tôn miếu, tình mẹ con cũng hết, huống chi nương nương là người đàn bà đã thất tiết, cho nên lạy hai lạy cũng đã là quá rồi, chẳng qua vì sợ mệnh của Sa mẫu thân mà thôi!

Nói xong, rút khỏi tay Dã Nhi, bỏ chạy ra ngoài. Tiêu Hậu nghe thấy hết, bất giác thấy hổ thẹn trong lòng, cất tiếng khóc lớn, nhớ lại thuở sinh thời Dượng Đế, ân tình ra sao, sau theo Vũ Văn Hóa Cập nhục nhã ra sao, nay hết chạy đông, đuổi tây, đến nỗi con không nhận mẹ, tiết chẳng nên tiết, vui chẳng ra vui, đến thân thích cũng còn thế, càng nghĩ lại càng sùi sụt, càng sùi sụt lại càng nghĩ ngợi, chẳng khác gì vợ Chu Kỷ Lương khóc đổ cả một đoạn Vạn lý Trường thành. May có Nghĩa Thành công chúa, cùng Sa phu nhân thật tình an ủi. Từ đó Tiêu Hậu ở hẳn đây với Nghĩa Thành công chúa. Chuyện không nói nữa.

***

Lại nói Tần Vương trở về Trường An, triều kiến phụ hoàng Lý Uyên. Lý Uyên nói rõ ba cánh quân lợi hại ra sao, Tần Vương thưa:

- Lợi hại cũng chưa đáng sợ. Chỉ có Lưu Vũ Chu cùng Tiêu Tiên ở Tây Bắc, Vương Thế Sung ở giữa trung nguyên, thần sai người đưa thư đến, trước tiên là kết thân với Vương Thế Sung, để không phải lo trước sợ sau, sau đó cất binh chiếm lấy đất của Lưu Vũ Chu, Tiêu Tiên hai nơi, chẳng có gì mà không thắng được bọn này. Như vậy phụ hoàng thấy có nên không?

Vua Đường khen hay, liền viết ngay thư, sai Dương Thông cùng Trương Can đi Lạc Dương gặp Vương Thế Sung. Hai người lĩnh mệnh lên đường. Không ngờ Thế Sung xem xong nổi giận xé nát thư, lôi ngay Dương Thông chém dưới thềm, còn Trương Can thì cắt hai tai rồi đuổi về. Trương Can ôm đầu trở về Trường An khóc lóc kể với vua Đường. Lý Uyên nổi giận, định tự mình dẫn binh đánh Thế Sung, Tần Vương liền can:

- Phụ hoàng chẳng cần nổi giận rồi ra quân làm gì, con đã có cách xếp đặt đâu vào đấy. Hãy sai Lý Tĩnh làm Hành quân đại nguyên soái, dẫn mười vạn quân đi tiễu trừ Lưu Vũ Chu, con xin dẫn một cánh quân khác, thề quyết diệt kỳ được Vương Thế Sung thắng trận trở về yết kiến phụ hoàng.

Vua Đường cả mừng, liền cho Tần Vương kéo mười vạn quân, nhằm Lạc Dương mà tiến. Mỗi lần Tần Vương xuất binh, bọn tân khách của Tây phủ như Viên Thiên Cơ, Lý Thuần Phong, Hầu Quân Tập, Đào Tư Khiêm, Đỗ Như Hải, Hoàng Phủ Vô Dật, thường ngày vẫn được Tần Vương lấy lễ thầy trò mà đãi, nên bọn này đều được đi theo sát nơi màn trướng nguyên soái, trù liệu mưu kế. Tần Vương sai Ân Khai Sơn mang ấn tiên phong, Sử Nhạc, Vương Thường làm tả hữu hộ vệ, Lưu Hoàng Cơ làm trung quân chánh sự, Đoàn Chí Huyền, Bạch Hiển Đạo làm tả hữu hộ vệ, tự mình dẫn trung quân đi sau. Trưởng Tôn Vô Kỵ, Mã Tam Bảo lo việc bảo vệ thuyền bè, xe ngựa, thủy lục cùng tiến xuống Lạc Dương.

Vương Thế Sung nghe tin, liền dẫn quân ra Tuy Thủy, dàn thành trận thế nghênh địch. Tần Vương lập trại ở bờ bắc sông Tuy Thủy, hai quân đối diện, nhưng quân nhà Đường thì lính khỏe, tướng mạnh nên quân Thế Sung thua to, kéo chạy vào thành, đóng chặt cửa không chịu ra nữa.

Ngày hôm sau, trong trại quân nhà Đường, bày yến tiệc, khao thưởng ba quân, Tần Vương nhân rượu say hỏi người địa phương:

- Ở đây có nơi nào cảnh đẹp, có thể du ngoạn?

Thổ nhân đáp:

- Phía ngoài cửa bắc khoảng mười dặm, có núi Bắc Mang, chu vi có khoảng một trăm dặm, là nơi lăng mộ của các bậc vua chúa ngày xưa, cùng là mồ mả của các bậc trung thần liệt sĩ, rải rác như sao trời, như cờ trận, ở bên trong đủ các loại chim quý, thú lạ, thông xanh bách rợp, thật là một cảnh đẹp xưa nay vậy.

Tần Vương nghe nói vui mừng.

- Ta phải đến đó đi săn mới được.

Lý Thuần Phong can:

- Thần vừa xem quẻ xong, điện hạ vẫn còn cái họa một trăm ngày, hãy khoan giương cung, cưỡi ngựa, đi săn vội. Huống chi trên sắc mặt điện hạ thấy hiện rõ màu xanh thế kia, thì không đi đâu cả là hơn!

Tần Vương đáp:

- Ta sớm tối lúc nào cũng trong cảnh cung tên, xa ngựa, vẫn tâm thần sảng khoái, nào có thấy hoạn nạn gì đâu?

Rồi mặc áo giáp mỏng, áo bào nhẹ bên ngoài cùng với Mã Tam Bảo, đem theo cung tên, với khoảng mười lính kỵ, kéo lên Bắc Mang Sơn. Đến nơi Tần Vương nhìn bốn phía, cảm khái mà than rằng:

- Ta tưởng các vị vua đời trước, cai quản đất Trung Hoa này, cầm hàng trăm vạn quân trong tay, có biết bao anh hùng hào kiệt, nay may được mấy con ngựa đá bày bên, phủ đầy gai góc, làm bạn với thỏ với cáo thật là chán ngán. Mai sau có làm đến thiên tử nhà Đường, cũng đến thế này thôi sao!

Đang cảm thán đôi câu như thế, thì thấy phía tây bắc, có một con hươu trắng, nghểnh cổ đi lại, Tần Vương liền giương thẳng cung, bắn một mũi tên, trúng ngay lưng hươu, hươu mang cả tên cứ hướng tây mà chạy. Tần Vương quất ngựa đuổi theo, được đến mấy dặm, men theo sườn núi, thì con hươu lạ lùng không thấy đâu nữa, Tần Vương tìm khắp bốn phía mênh mông bãi cỏ rừng rậm, nhìn xa bỗng thấy cờ quạt rợp một góc trời, gươm giáo sáng loáng, một tòa thành mới sừng sững trước mặt, biển đề rõ ba chữ lớn: "Kim Dung thành", ánh vàng lóa mắt, Tần Vương nói:

- Thành này phải chăng là nơi của Lý Mật?

Mã Tam Bảo thưa:

- Đúng rồi! Điện hạ mau quay về, nếu bọn chúng biết thì khó mà thoát thân.

Không ngờ quân sĩ trong thành đã trông thấy, báo ngay cho Ngụy Vương, Lý Mật phán:

- Đây chính là kế dụ địch của Lý Thế Dân, không nên đuổi bắt.

Trình Giảo Kim dậm chân mà thét:

- Chúa công, không bắt lúc này thì còn đợi lúc nào nữa?

Nói rồi, cầm búa lớn, cưỡi ngựa thanh tông, phi như bay khỏi thành. Tần Thúc Bảo sợ Giảo Kim sơ xuất gì, vội đuổi theo sau. Tần Vương đang định quay ngựa, thì thấy một người một ngựa đuổi tới, miệng thét lớn:

- Lý Thế Dân đừng chạy nữa!

Tần Vương đặt ngang giáo trên lưng ngựa, rồi hỏi:

- Ngươi là ai!

Giảo Kim đáp:

- Ta là Trình Giảo Kim, riêng đến đây bắt ngươi.

Tần Vương cười:

- Thử xem sức ngươi có đủ làm ai sợ không?

Giảo Kim giơ cao hai búa, xông lên đánh, Tần Vương giơ thương ra đỡ, được khoảng ba mươi hiệp, vì Mã Tam Bảo đã bị Thúc Bảo đón đánh, Tần Vương đành phải bỏ chạy, Tam Bảo cũng không đánh nổi Thúc Bảo, nên chạy theo nốt. Giảo Kim đuổi theo Tần Vương gần kịp, Tần Vương rút tên, giương cung, bắn một phát, trúng ngay giải mũ Giảo Kim. Tần Vương thấy bắn không trúng, trong lòng hoảng sợ, quất roi ôm ngựa chạy dài, gặp ngay một tòa miếu cổ, có mấy chữ: "Lão Quân đường". Tần Vương nghĩ bụng: "Gặp được miếu này, sao không vào đây trốn quách xem sao". Rồi vội vào miếu, đóng ngay cửa lại lấy một viên đá lớn chẹn kỹ, còn ngựa thì buộc ngay ở bên thềm, nhìn lên tượng Lão Quân, cũng chẳng kịp chào, chỉ bái một vái mà khấn:

- Thánh thần tại thượng, nếu cứu được Lý Thế Dân này thoát được nạn trước mắt, xin sẽ trùng tu đền miếu đắp lại tượng vàng.

Khấn xong, liền nấp ngay dưới khám thờ.

Lão Quân ở "Lão Quân đường" vốn rất linh ứng, nên được hưởng cúng bái một vùng, nay thấy Lý Thế Dân có số mệnh hoàng đế anh minh, lúc tử vi còn cơn hoạn nạn, lẽ nào không hiển thánh, nên một trận cuồng phong bỗng nổi, xóa nhòa cả vết chân ngựa đưa Tần Vương tới, rồi lại thổi mấy chú nhện tới giăng đầy cửa miếu.

Giảo Kim đuổi Tần Vương đến ngã ba, bỗng không thấy đâu nữa, nhìn bốn chung quanh, chỉ thấy phía trước cây cối rậm rì, dây leo chằng chịt, liền cứ thế giục ngựa chạy tiếp, trèo lên sườn núi cao, thấy phía sau núi có một tòa miếu cổ, Giảo Kim vội vã phi ngựa tới trước cửa miếu, đập cửa thình thình vẫn chẳng thấy động tĩnh. Lại thấy mạng nhện giăng đầy, xung quanh bụi bám khắp trên cổng, khắp dưới đất, rõ ràng chẳng ai vào đây. Giảo Kim đành quay ngựa bước ra, lại trèo tiếp lên sườn núi, quay lại nhìn tòa miếu lần nữa, Giảo Kim giật mình kinh sợ, thấy một con mãng xà lớn màu vàng, đang nằm dọc theo nóc miếu.

Giảo Kim thầm nghĩ: "Ta nghe kể chuyện: Lưu Bang nhà Hán, chém rắn lớn ở núi Mang Đãng, về sau làm đến hoàng đế. Ta cũng đường đường một bậc trượng phu, lại không trừ nổi con nghiệt súc này sao?" Lại quay ra trước miếu, xuống ngựa, bê một hòn đá lớn, đập rầm rầm vào cửa, rồi trèo lên nhìn nóc miếu, thì chẳng thấy mãng xà đâu nữa. Giảo Kim nghĩ: "Có lẽ mãng xà này chui vào trốn trong miếu". Ra trước sân miếu thấy ngay con ngựa đang buộc ngay ở gốc cột, Giảo Kim gào lên:

- Thì ra Lý Thế Dân trốn ở trong này!

Nhìn khắp nóc nhà, vẫn chẳng thấy mãng xà đâu, lại thấy tấm rèm trước cửa khám lay động, vẻ như có đuôi mãng xà đang ngoe nguẩy ở bên trong. Thì ra Tần Vương thấy có người vào dò xét từng nơi, nên ngồi trong khám nhẹ nhàng rút kiếm ra. Lúc này Thúc Bảo cũng vừa kịp đến miếu, thấy Giảo Kim đang cuốn rèm trước khám lên, miệng quát:

- Thằng giặc! Nấp ở đâu?

Rồi giơ cao búa, cứ nhằm khám tối mà bửa, Thúc Bảo bỗng thấy hiện ra năm móng chân rồng vàng bíu chặt lấy lưỡi búa. Thúc Bảo biết ngay đó là chân mệnh hoàng đế, liền bước vội tới, giơ đôi giản, đỡ lấy lưỡi búa, nói:

- Hiền đệ, hiền đệ không biết rằng, Đường với Ngụy vốn là cùng họ, vẫn thường có thư từ qua lại, nếu mà giết chết thì không những không có công mà còn có tội nữa kia đấy!

Giảo Kim đáp:

- Đại huynh, đại huynh không biết, vừa rồi tiểu đệ thấy Thế Dân hóa thành con mãng xà vàng, nay nếu không giết, sợ lại hóa thành mãng xà mà trốn mất thôi!

Thúc Bảo lặng lẽ cười, rồi nhẹ nhàng đỡ Tần Vương từ trong khám ra, sai tả hữu dẫn ra khỏi cửa miếu. Bọn này dắt theo ngựa của Thế Dân, Thúc Bảo, Giảo Kim cưỡi ngựa kèm phía sau, kéo một hàng về Kim Dung thành. Lúc này dân hàng phố chẳng biết tốt xấu, thay nhau to nhỏ rằng:

- Ra dáng bậc trượng phu như vậy, mặt vuông, tai lớn, chẳng biết phạm phải tội gì, mà lại bị cả hai vị tướng quân phải theo giải về thành thế kia!

Mấy tên tay chân, có kẻ mau miệng nói:

- Các người đừng coi thường, đấy chính là Thái tử con của vua Đường, tự nhiên đi qua đây, bị hai tướng quân đây bắt được.

Trăm họ trầm trồ:

- Đúng là tướng mạo khác thường, thật dòng cành vàng lá ngọc. Tiếc thay! Thương thay!

Thúc Bảo trên ngựa, nghe những lời này, những muốn thả ngay Thế Dân ra, nhưng nhiều mắt, nhiều tai, không thể làm được, nên đành cứ thế, giải Thế Dân về.

Ngụy Công sai lực sĩ giải Thế Dân ra trước thềm, lớn tiếng trách mắng:

- Ngươi quả là phường gian tham, tự mình tìm đến cái chết. Cha ngươi trấn thủ Trường An, đất rộng người đông. Ta ở Dung Thành này, bất quá mấy vạn dân, mới đây lấy Hà Nam, nay lại nghe chuyện đánh úp thành này nữa sao? Thế thì còn đạo lý nào nữa?

Tần Vương đáp:

- Xin thúc phụ hãy nguôi cơn thịnh nộ, cháu xin có lời thưa, nhân vì Vương Thế Sung ở Lạc Dương, giết sứ thần của phụ thân, nên mới sai cháu lãnh binh tiễu trừ, sau một trận thua, Thế Sung đóng cửa không chịu ra khỏi thành, cháu phải lui binh về chân núi Thiên Thu Lãnh, nhân say rượu rồi đi săn. Chẳng có lòng nào mà nhìn ngó Kim Dung thành của thúc phụ, xin thúc phụ đừng nghi oan.

Ngụy Công giận dữ:

- Ngươi đừng giở giọng giảo hoạt, ta với ngươi nào có thân thích gì mà mượn tiếng gọi chú xưng cháu, chẳng qua ngươi cậy mình tài cán coi thường kẻ khác nên tới đây, nhòm ngó thực hư, để lựa kế mà hành động, nay lại lấy lời ngon ngọt lừa ta sao nổi.

Quát võ sĩ lôi ra chém đầu. Ngụy Trưng lên tiếng khuyên giải.

- Chúa công mà giết Thế Dân, thì không phải là kế an định xã tắc, mà Kim Dung thành này sẽ gặp tai họa đến nơi.

Huyền Thúy hỏi:

- Tại sao?

Ngụy Trưng thưa:

- Người này đã từng đông chinh tây thảo, giành được Trường An, cùng với cha lên ngôi trấn giữ một phương, binh tinh lương nhiều, thủ hạ nhiều như mây trời, mưu thần tài giỏi như mưa sớm.

Đường Công nếu nghe tin con yêu bị giết, tất dốc binh cả nước, trước là báo thù, sau là tàn sát kỳ hết, chẳng còn điều gì mà họ không dám làm.

Huyền Thúy liền hỏi:

- Nếu nói như thế, thì chẳng nhẽ ta thả Thế Dân ra sao?

Ngụy Trưng đáp:

- Chi bằng đem Thế Dân giam vào ngục thất, sai người báo cho Lý Uyên, nếu có thư sang triều cống, thì thả cho về, nếu không nghe theo, cứ giữ Thế Dân lại đó, thế là Đường Công suốt đời chẳng dám phạm vào đất ta, lại không tốt hơn sao!

Huyền Thúy khen:

- Khanh nói có lý lắm?

Liền sai ngục tốt dẫn vào nhốt ở Nam lao. Lúc này Đường Công ở Trường An, nghe Mã Tam Bảo thưa trình, định tự mình dẫn người ngựa đánh Lý Huyền Thúy để cứu Tần Vương, nhân Lưu Văn Tĩnh cùng Huyền Thúy là anh em con cô con cậu, khuyên Đường Công viết thư, sắp lễ vật, đến gặp Huyền Thúy. Không ngờ Huyền Thúy chẳng nhận họ hàng, đòi lôi ra chém đầu, may có Từ Mậu Công khuyên can mãi, nên mới được giam luôn vào Nam lao.

Khá thương:

Thanh long, bạch hổ ngồi tù

Anh hùng gặp nạn, thẫn thờ nhìn nhau.

Ngụy Công ra lệnh xong, đã thấy thám mã về tâu trình:

- Hiệu úy Khải Công ở Khai Châu, giết thứ sử Phó Sao, cướp ấn tín, cùng với tham quân Từ Vân, câu kết với thứ sử Ninh Lăng, đóng giữ Ung Thành làm phản, kéo người ngựa tới xâm phạm đất ta. Lại phao lên rằng: thứ sử Hà Đinh ở Hồng Châu dâng thành trì cho chúng. Lấy người ngựa của cả hai quận, cùng với Khải Công đánh vào Yển Sư, Mạnh Tân, trăm họ của hai nơi này, không người gìn giữ, thật muôn nghìn nguy cấp.

Huyền Thúy nghe thế cả sợ mà rằng:

- Yển Sư là cuống họng của ta, lương thực kho tàng đều ở đó cả, nếu bằng mất, thì thật là họa lớn cho nhà Ngụy. Ta phải tự thân dẫn đại quân đi mới xong.

Liền lệnh Trình Giảo Kim đi tiên phong, Đơn Hùng Tín, Vương Bá Đương làm tả hữu hộ vệ. Giữ Từ Mậu Công, Ngụy trưng, Thúc Bảo cùng trông coi việc nước, còn mình dẫn quân kéo thẳng tới Khai Châu.

***

Lại nói Tần Vương cùng với Văn Tĩnh bị giam ở Nam lao, may có Thúc Bảo hàng ngày vẫn đưa thêm cơm rượu, nên cũng không đến nỗi khổ sở. Cũng may là ngục quan Từ Lập Bản, tự Nghĩa Phù, vợ mất sớm, chỉ có mỗi một người con gái, tên gọi Huệ Anh, tuổi đã mười tám, vẫn chưa có nơi chốn. Tuy là quan nhỏ, nhưng Nghĩa Phù vốn hiểu biết hơn người, có con mắt tinh đời, đối với bọn tù nhân Nghĩa Phù thường cho rằng tội ít, oan nhiều, lại chẳng hiềm trước kia xấu tốt, vẫn đối đãi rất nhân từ, lấy của chu cấp thêm cho họ.

Tần Vương mới vào nhà ngục, thì ngay đêm hôm ấy, con gái Huệ Anh nằm mơ thấy 1 con Rồng vàng nằm khoanh trong nhà ngục. Huệ Anh cả sợ, lẻn nhìn trộm xem sao, thì thấy rồng vàng bay lên, cuốn lấy mình, đến khi tỉnh dậy, kể lại cho Nghĩa Phù tỉ mỉ.

Nghĩa Phù biết ngay Tần Vương chính là chân mệnh thiên tử, đã có ý định thả cho cả hai về Đường, trong lúc vội vàng, vẫn chưa tìm ra được thời cơ thuận lợi. Nhưng vẫn cứ mỗi ngày ba lần cơm nước, mời Tần Vương cùng Văn Tĩnh sang gian sạch sẽ ngay bên khoản đãi chu đáo. Hai người vô cùng cảm tạ.

Một hôm Thúc Bảo cùng Ngụy Trưng, ngồi ở trong dinh của Mậu Công uống với nhau mấy chén rượu, nói tới chuyện Tần Vương, Thúc Bảo cả cười. Từ, Ngụy hai người liền hỏi:

- Hiền huynh cớ sao lại cười vậy?

Thúc Bảo đáp:

- Tiểu đệ nghĩ rằng Trình hiền đệ quá là một người ngờ nghệch.

Mậu Công hỏi:

- Sao lại ngờ nghệch?

Thúc Bảo đáp:

- Hôm ấy ở "Lão Quân đường", đang lúc Giảo Kim giơ búa để giết Tần Vương, thì tiểu đệ thấy năm móng rồng vàng bám giữ lấy lưỡi búa, vội giơ đôi giản đỡ, nhưng không thể thả Tần Vương ra được nên đành phải giải về thành. Giảo Kim bảo rằng Tần Vương chính là mãng xà tinh, nhất định phải giết. Thế thì có đáng cười không?

Ngụy Trưng lên tiếng:

- Tiểu đệ thấy Tần Vương dáng rồng mắt phượng, đúng là bậc chân chúa ở đời. Nên hôm vừa rồi chúa công định giết, tiểu đệ phải hết lời khuyên can, mới được giam ở Nam lao. Đến lúc vận hạn đã hết, Tần Vương trở về Trường An, thì tất là ngọc đá đều nát, làm thế nào bây giờ?

Mậu Công nói:

- Chúng ta đều là anh em tâm phúc ở đây cả. Nhân lúc Tần Vương gặp hoạn nạn này mà kết thân, thì mai kia gặp gỡ, cũng dễ làm nên sự nghiệp hơn nhiều.

Thúc Bảo cũng không tiện nhắc tới chuyện có ơn với Đường Công, lại vừa cứu được Tần Vương khỏi chết, chỉ gật đầu đáp:

- Từ hiền huynh nói xác đáng lắm!

Ngụy Trưng tiếp lời:

- Cứ như tiểu đệ nghĩ, cần phải nhân lúc Ngụy Công chưa về, chúng ta cùng kéo tới gặp Tần Vương, Lưu Văn Tĩnh chuyện trò, để thấy anh em chúng ta ở đây không phải ai cũng mù cả. Không biết ý hai hiền huynh ra sao?

Thúc Bảo tán đồng:

- Tiểu đệ cũng nghĩ như thế, ngày mai, xin tới sớm rồi cùng đi!

Sáng sớm, Thúc Bảo xếp sẵn cơm rượu tươm tất lặng lẽ sai người đem vào Nam lao. Ngụy Trưng, Mậu Công tới thì cũng là lúc mặt trời sắp đứng bóng, cả ba thay y phục, dắt theo một gia đồng, lên ngồi kiệu nhỏ, thẳng tới cửa Nam lao. Gia đồng vào báo với quan ngục. Từ Nghĩa Phù vội ra mở cửa. Ngụy Trưng sai gia đồng bảo phu kiệu trở về trước. Nghĩa Phù dẫn ba người vào phòng giam gặp Tần Vương cùng Văn Tĩnh. Tần Vương, Văn Tĩnh đều bái chào tạ ơn. Mậu Công lên tiếng:

- Không phải bọn tiểu đệ đều thuộc phường đui mù, không thấy được sự anh minh của điện hạ. Chẳng qua điện hạ cùng Văn Tĩnh đang gặp cơn vận hạn. Nay nhân Ngụy Công dẫn binh thảo phạt Khải Công, không có trong cung, anh em tiểu đệ tới đây gặp gỡ một phen.

Ngụy Trưng băn khoăn:

- Chỉ có thế này, thì đứng ngồi ra sao?

Thúc Bảo nói:

- Tiệc rượu đã bày đầy đủ ở phòng bên cạnh.

Văn Tĩnh nói với Mậu Công:

- Ngục quan Từ Nghĩa Phù, tuy là quan nhỏ chức thấp, nhưng thực là bậc khác thường, may được ngục quan sớm chiều chăm nom, thực chẳng dám mong hơn. Quả là tài trí, hiểu biết của ngục quan thật hơn hẳn mọi người vậy.

Nói xong, thì mọi người cũng vừa tới phòng bên, phòng này gồm ba gian rộng rãi, sạch sẽ, khắp tường là những bức họa, những chữ viết các câu cách ngôn khuyên răn đạo lý. Ba người mời Tần Vương ngồi trên, rồi đến Văn Tĩnh, Ngụy Trưng, Thúc Bảo, Mậu Công. Tần

Vương nói:

- May được ý tốt của ba vị, Thế Dân này nào có tài cán gì, mà được ba vị ghé mắt xanh tới. Ngục quan Từ Nghĩa Phù, tuy giữ chức nhỏ, nhưng nhất định chẳng ở dưới người lâu nữa đâu, được mang ơn chu tất của ngục quan, ý của Thế Dân này cũng là "mượn hoa cúng phật", muốn mời Nghĩa Phù một ghế, không biết ba vị có bằng lòng ngồi cùng chăng?

Mậu Công đáp:

- Ngục quan nguyên xuất thân khoa giáp của nhà Tùy. Lúc trước chúa công đã xếp làm tư mã, nhưng không hiểu ý định ra sao, chỉ xin làm Hình tào giám thủ.

Ngụy Trưng nói:

- Tiểu đệ cũng nghe ngục quan Từ Nghĩa Phù thường làm việc thiện, lại hiểu biết. Trong giới quan trường mà được người như vậy thật là hiếm. Xin mời ngay ra đây cho.

Gia đồng mời Nghĩa Phù đến, khiêm nhượng một hồi, Nghĩa Phù ngồi xuống cuối tiệc. Rượu được ba tuần, thấy gia đồng nhà Nghĩa Phù bước vào thưa:

- Có lệnh của hoàng hậu!

Nghĩa Phù vội chạy ra. Ngụy Trưng cùng mọi người kinh ngạc, đều thấp thỏm chờ đợi. Nghĩa Phù quay lại, ngồi ghế cũ rồi. Ngụy Trưng mới hỏi:

- Trong cung có chuyện gì vậy?

Nghĩa Phù cười đáp:

- Quả không dám giấu. Hoàng hậu thật có duyên nợ với tiểu nữ, có biết tiểu nữ cùng theo đòi nghiên bút, lại thông hiểu âm luật, đã nhiều lần đòi vào trong cung thưởng thức, nên thường sai nội thị tới triệu. Hôm nay nhân mừng sinh Thái tử, cho người ra phán phải vào cung ngay.

Mậu Công nói:

- Lệnh ái nhất định tài mạo song toàn, không hiểu năm nay xuân xanh bao nhiêu?

Nghĩa Phù thưa:

- Tiểu nữ tên gọi Huệ Anh, tuổi vừa mười chín.

Mậu Công nghe Thúc Bảo cùng Ngụy Trưng, Tần Vương nói tới chuyện đánh úp Hà Nam, nên yên lặng nghe, chưa đáp lời Nghĩa Phù vội. Rồi tất cả đều quay sang chuyện chiến trận lập công kiến nghiệp. Chuyện đang say sưa, thì thấy gia đồng vào thưa với Ngụy Trưng:

- Quan nội thị đem thánh chỉ tới.

Ngụy Trưng nói với Thúc Bảo, Mậu Công:

- Chư huynh ngồi đây tiếp điện hạ, hãy cứ thong thả uống vài chén, tiểu đệ xin quay lại ngay.

Văn Tĩnh cùng Mậu Công vốn là bạn bè cũ, Thúc Bảo cùng Tần Vương vốn vì có ơn thâm giao, bốn người chuyện trò tâm đắc bỗng gia đồng lại vào thưa rằng:

- Ngụy đại nhân đã trở về!

Tất cả đứng dậy đón. Mậu Công nói:

- Đáng ra chúa công đánh dẹp Khải Công, mở đất chiếm thành, nên có thánh chỉ, sao thấy Ngụy hiền huynh có vẻ lo lắng?

Ngụy Trưng rút từ trong tay áo ra tờ chiếu thư:

- Xin mời chư huynh xem.

Phần trên nói về việc Khải Công cởi áo ra hàng, phía sau là nỗi mừng mới sinh Thái tử, nên ra lệnh ân xá, trừ những kẻ cường đạo, giết người trọng án, cũng không ân xá cho hai kẻ đang giam trong Nam lao là Lý Thế Dân và Lưu Văn Tĩnh. Thúc Bảo cùng Mậu Công xem xong, vò đầu nghĩ ngợi, chẳng nói một lời. Lại thấy bên ngoài tiếng người ồn ào, Ngụy Trưng hỏi:

- Sao mà huyên náo vậy?

Nghĩa Phù đáp:

- Có lẽ trong cung đưa tiểu nữ về chăng?

Gia đồng mời Nghĩa Phù ra. Mậu Công nói:

- Hôm trước Tần đại huynh định bày tiệc rượu ngay tại nhà để mời điện hạ, tiểu đệ sợ có sơ xuất gì thì chẳng thể đối phó kịp. Thuở ban đầu Ngụy Công đối xử còn có điều tình nghĩa, gần đây ngày càng kiêu căng, cậy mình thông hiểu mọi chuyện. Anh em tiểu đệ cũng muốn tìm cách giải thoát ngay cho điện hạ, nhưng mới đây Ngụy Công nhận ra chỗ thân tình ấy, cho nên lại càng cố giữ lại.

Thúc Bảo hỏi:

- Nay việc đã đến thế, làm thế nào đây?

Tần Vương thấy mọi người bàn bạc, chẳng biết nên nổi thế nào, đành lên tiếng an ủi:

- Đội ơn ba vị quá lo lắng cho. Cũng bởi hai chúng tôi đây, họa tình chưa hết, hãy cứ nấn ná ít lâu, cũng không hề gì. Chỉ phiền ba vị lại phải lâu công khó nhọc.

Ngụy Trưng bàn:

- Tiểu đệ nghĩ thế này. . .

Định nói nữa, thì thấy Nghĩa Phù bước vào, Ngụy Trưng ngừng lại, Văn Tĩnh liền nói:

- Nghĩa Phù đây cũng thuộc bạn bè tâm giao rồi, các vị có chuyện gì cứ nói, chẳng có điều gì phải lo ngại.

Ngụy Trưng nói với Văn Tĩnh:

- Xin Lưu hiền đệ xem qua chiếu ân xá, liệu chữ "bất" này, mà thêm một nét, thì nghiễm nhiên thành chữ "bản" (1). Công về cũng chẳng thể hạch sách gì được. Mà dẫu thế nào, thì đây là chuyện xương máu, ba anh em chúng ta cùng gánh chịu cũng đáng tội.

1 Trong chiếu ân xá có ý: "Bất xá Nam lao Lý Thế Dân..."chữ "bất", rất giống chữ "bản", nếu chữa vậy thì có thể hiểu thành: "Vốn cũng ân xá cho Lý Thế Dân..."

Thúc Bảo vui mừng:

- Thế thì hay lắm, phải nhờ đến Ngụy đại huynh, viết sao cho thật giống thân bút của chúa công mới được.

Mọi người đứng xúm chung quanh có người khen hay, có người lặng yên không nói. Nghĩa Phù lên tiếng:

- Tiểu nhân cũng có nghĩ ra một cách, xin ba vị đại nhân cho phép thưa xem sao.

Mậu Công đáp:

- Huynh ông có kế hay, xin nói ngay cho.

Nghĩa Phù thưa:

- Đem chữ "bất" chữa thành chữ "bản", chỉ sợ văn nghĩa không thông, mà thật gượng gạo. Lại thêm chúa công vốn thông minh, hiểu biết, chứ không hôn ám gì, chỉ cần khác nét bút của mình một chút, một người cẩn thận như thế, sẽ thấy ra ngay thì thật có nhiều điều phiền toái. Chi bằng theo cách này của tiểu nhân vậy, để tiểu nhân thả điện hạ cùng Lưu đại nhân, chúa công về hỏi; ba vị cứ thế trút tội lên đầu tiểu nhân. Bất quá cũng chỉ đến tội trông coi Nam lao không cẩn thận, chẳng đến trọng tội đâu. Còn như chữa chiếu thư thì chẳng phải chuyện đùa.

Ai nấy đều khen:

- Lý lẽ xác đáng lắm!

Ngụy Trưng nói thêm:

- Nghĩa Phù bàn thế cũng phải. Nhưng không biết nên làm cách nào bây giờ.

Nghĩa Phù thưa:

- Vừa rồi Vương hậu cho gọi tiểu nữ vào, nhân ngày đầy tháng Thái tử, muốn viết sớ đến chỗ chúa công, nhưng trong người còn mệt mỏi, cho nên gọi tiểu nữ vào viết thay, sai người đem tới Mạnh Tân. Tiểu nữ thừa cơ nói rằng nên sai tiểu nhân làm việc này, sáng mai, canh ba phải lên đường, thật đúng là cơ hội để khỏi phải chữa chiếu thư. Hiện đã có ý chỉ ở đây, sai tiểu nhân tới chỗ Từ đại nhân lấy quan quân tới bảo vệ Nam lao. Cả tờ sớ trình chúa công đã được niêm phong bằng giấy lụa vàng, tiểu nữ đã cầm về đây rồi.

Nghĩa Phù đưa ý chỉ trong tay áo ra, thì thấy hoàng hậu viết rằng:

"Gửi cho chưởng ấn Binh bộ đại thần họ Từ:

Phái ngay lại tốt hai mươi tên đến Nam lao phòng giữ, tuần sát đợi khi nào ngục quan Từ Lập Bản công cán trở về, sẽ về bản bộ như cũ. Không được sai sót."

Ngụy Trưng, Thúc Bảo cả mừng:

- Thật đây là đại phúc của nhà Đường, khiến cho điện hạ trở về triều, cha con sum họp quân thần gặp gỡ vậy!

Nghĩa Phù nói:

- Nhưng cần phải có tới năm ngựa tốt cùng với đầy đủ yên cương mới xong.

Ngụy Trưng hỏi:

- Cùng với huynh ông nữa cũng chỉ ba ngựa là đủ, còn thừa hai ngựa làm gì?

Nghĩa Phù đáp:

- Để cho tiểu nữ cùng với gia đồng.

Mậu Công nói:

- Nếu đã như thế, cũng nên mời lệnh ái ra đây ra mắt điện hạ, để rồi còn cùng lên đường.

Nghĩa Phù vội đứng dậy, rồi cùng Huệ Anh vào. Mọi người nhìn ra, thì tuy chẳng son, chẳng phấn nhưng lại càng hiện rõ vẻ đẹp trời ban. Nghĩa Phù thưa:

- Trong lúc vội vàng này, xin cho tiểu nữ lạy ba lạy.

Ai nấy đều theo đó đáp lễ. Nghĩa Phù mấy lần không dám nhận, cuối cùng cùng đành trả lễ ba vái. Huệ Anh vội quay trở ra.

Mậu Công lên tiếng:

- Tiểu đệ dạo đi đánh Hóa Cập, có lấy được hai con ngựa hay, nết rất hiền. Một con xin gửi điện hạ, một con xin tặng lệnh ái Huệ Anh.

Thúc Bảo nói:

- Con ngựa truy phong của điện hạ, hiện tiểu đệ đang nuôi trong chuồng nhà, chỉ cần thêm hai con nữa, hẹn một nơi nào đó rồi chúng ta nên chia tay nhau mà lo liệu công việc thì hơn.

Mậu Công đáp:

- Các vị nên nhanh chóng xếp đặt chu đáo cho. Tiểu đệ xin điều ngay tay chân đến đây, rồi cùng đến chỗ Thúc Bảo là hay hơn cả!

Ba người bàn bạc kỹ lưỡng một hồi, rồi Nghĩa Phù đưa ra tận cổng trại, rồi quay vào ngay, thu xếp tế nhuyễn, sắp hai bộ quần áo xanh cùng với mũ giày, đưa cho Tần Vương cùng Văn Tĩnh thay.

Nghĩa Phù lại lấy thêm hoa quả, gọi gia đồng bê thêm một vò rượu đến bày ở nhà khách. Tần Vương hỏi:

- Thêm rượu cùng các thứ nhắm này để làm gì?

Văn Tĩnh đáp thay:

- Thần hiểu những cái này của Nghĩa Phù dùng để làm gì, chốc nữa điện hạ sẽ thấy!

Bỗng nghe báo có người gọi mở cổng. Nghĩa Phù vội sai người ra xem, thì ra viên quan sai cùng mười tên lính, đến trình diện. Nghĩa Phù nói:

- Chỗ này là cửa cấm, vừa rồi Từ đại nhân đã tự thân xem xét, đã khóa kỹ lưỡng. Vừa dịp có hai người nhà, đến chỗ Đơn tướng quân có việc, nên bày tiệc rượu sẵn đây. Trời thì lạnh, rượu sẵn trong vò, xin mời cứ uống thoải mái, chỉ xin coi sóc trong ngoài cẩn thận cho thôi.

Từ Huệ Anh cầm đèn lồng đến, Tần Vương cùng Văn Tĩnh bưng hộp đựng sớ tấu, gia đồng gánh hành lý, rồi gọi một thổ binh ra mở cổng. Bọn Nghĩa Phù năm người vội vàng đi khỏi, chưa được bao lâu, đã thấy gia đồng nhà Thúc Bảo đến đón:

- Tần đại nhân đang nóng ruột đợi gặp các ngài.

Nghĩa Phù vào dinh Thúc Bảo, đã thấy bên sân buộc đủ năm ngựa, Thúc Bảo ra đón, nói với Tần Vương:

- Thúc Bảo này cũng biết điện hạ đang nóng lòng ra đi, nên không dám lưu luyến. Rồi chỉ mấy con ngựa nói tiếp:

- Mấy con ngựa này, Từ Mậu Công vừa cho người dẫn lại, con ngựa trắng lốm đốm vàng kia, xin biếu điện hạ. Còn con có yên phủ gấm thêu, xin tặng Huệ Anh tiểu thư. Ngựa của điện hạ, xin để cho Văn Tĩnh cưỡi. Còn hai con kia là của huynh ông Nghĩa Phù cùng gia đồng, đều là những ngựa thuần lại dai sức cả.

Rồi lấy ở ống tay áo ra mấy cái thư, đưa cho Văn Tĩnh, nói:

- Ba thư này phiền hiền huynh cầm hộ, một là biểu tạ ơn gửi lên vua Đường, một thư gửi Lý Dược Sư, một gửi cho Sài Tự Xương vậy, nhờ hiền huynh khó nhọc.

Văn Tĩnh vội bỏ ngay vào túi. Thúc Bảo sai gia đồng dẫn ngựa của mình để đưa Tần Vương khỏi thành.

Tần Vương ngăn:

- Ơn tướng quân biết bao tình nghĩa, Lý Thế Dân này xin khắc sâu vào tâm can, thật không dám phiền tôn giá tiễn ra khỏi thành, sợ thêm chuyện hiềm nghi.

Thúc Bảo gạt nước mắt:

- Kẻ sĩ vì tri kỷ mà chết, kẻ đại trượng phu sợ chuyện hiềm nghi thì chẳng làm nên chuyện gì cả.

Rồi lên ngựa trước, mọi người cũng đành lên theo, phi nhanh ra cửa thành, lại đinh ninh dặn dò một lần nữa, mới chắp tay cáo biệt.

Đó gọi là:

Trượng phu lòng thật ít lời

Nói ra những sợ người đời. . . ngẩn ngơ.

Hồi Thứ Năm Mươi Hai

Rắp báo ơn, Thế Dân bắt cóc mẹ bạn,

Tin việc nghĩa, Ninh Thị tự xa nhà mình.

Từ rằng:

Rèm rũ, then cài cánh cửa sâu

Xa xa núi dựng, dạ em sầu

Mưa mưa, gió gió, đi rồi lại

Xao xuyến lòng ai, bởi tự đâu?

Người ơi, người ở nơi nào

Ghềnh sông hang núi, ào ào gió xuân

Bóng nguyệt, cầu tan nhịp gãy

Chồng lo xa nên xảy tai ương

Nhìn nhau người những hoang mang

Ve sầu, bọ ngựa, sẻ vàng không hay (1)

Khen chim hồng bay cao lo trước

Chín đường quanh như ruột dê xoăn

Sóng kình muôn dậm sầu tuôn

Đỗ quyên ơi, hãy về nguồn quê xưa

Đời người thôi thế cùng vừa...

Theo điệu "Mãn giang hồng"

1 Hàn Phi tử: Một người đi săn nhằm bắn chim sẻ, chim sẻ đang rình bọ ngựa, bọ ngựa sắp chộp ve sầu. Dưới đất, kiến đang bò đến chuẩn bị đốt người đi săn...

***

Lại nói tiếp chuyện Tần Vương cùng Lưu Văn Tĩnh, Từ Nghĩa Phù, Từ Huệ Anh, ra khỏi thành Kim Dung, đi suốt ngày đêm. Trên đường đi, Tần Vương nghĩ tới Thúc Bảo, nhân đó nói Văn Tĩnh:

- Thúc Bảo thật là người ân nghĩa trọn vẹn, chẳng mấy ai được đến như vậy, thật đúng như hai câu thơ:

Nước dầm nghìn thước Đào Hoa,

Uông Luân tình bác tiễn ta sâu nhiều. (1)

Làm sao để Thúc Bảo sớm về được với ta, mới thỏa lòng mong nhớ.

1 Nguyên văn: Đào Hoa đàm thủy thâm thiên xích; Bất cập Uông Luân tống ngã tình. (Tản Đà dịch)

Văn Tĩnh thưa:

- Thúc Bảo có nhiều điều khiến chưa thể về với nhà Đường được, không nói hiện nay thế của Ngụy Công đang mạnh, thứ nữa là anh em bên ấy, phần lớn đều cùng từ Ngõa Cương mà ra với nhau cả, thứ ba nữa là Thúc Bảo cùng Hùng Tín là anh em kết nghĩa, thề cùng sống chết, không thể nào bỏ nhau. Nay ba vị vừa rồi, đều đã có chí khác cũng bởi từ chuyện Địch Nhượng trước kia, cho nên anh em sinh mỗi người một hướng, nhưng chưa đến lúc tan nát đó thôi.

Tần Vương nghe nói, không ngăn nổi buồn rầu mà rằng:

- Nếu như thế, ta chẳng bao giờ được dùng Thúc Bảo hay sao?

Nghĩa Phù thưa:

- Xin điện hạ chẳng phải lo lắng nhiều. Thần có một cách, có thể làm cho Thúc Bảo phải bỏ Ngụy mà đầu Đường.

Tần Vương vội hỏi:

- Túc hạ có kế gì hay?

Nghĩa Phù đáp:

- Thúc Bảo tuy là võ tướng, nhưng là một người rất có hiếu. Mẫu thân tuổi đã cao, cùng với con dâu là Trương Thị, hiện đang ở Ngõa Cương.

Tần Vương tiếp:

- Tướng quân nhà Ngụy đều tập trung ở Kim Dung thành. Không hiểu gia quyến của các tướng khác có ở Ngõa Cương không? Nghĩa Phù thưa:

- Ở Kim Dung thành hiện có quý quyến Ngụy Công, còn lại đều đang ở sơn trại cả. Hiện chỉ có hai người, một là Vưu Tuấn Đạt, hai là Liên Cự Chân coi sóc ở Ngõa Cương. Chi bằng đem Tần mẫu về Đường trước đã, cung phụng thật chu đáo. Thúc Bảo hay tin, tất chẳng khác gì Từ Thứ phải quay về Tào vậy thôi.

Tần Vương đáp:

- Việc thì hay đấy, nhưng sai ai làm cho tiện?

Nghĩa Phù thưa:

- Thần trước kia đã từng làm quan ở U Châu, có biết tổng quản La Nghệ, La phu nhân chính là cô ruột Thúc Bảo, họ hàng rất gắn bó. Năm nay chính vừa dịp bảy mươi tuổi Tần mẫu, chi bằng nhờ La phu nhân, giả vờ lên châu Thái An dâng hương, đi qua Ngõa Cương, mời Tần mẫu xuống thuyền gặp gỡ, chuyện trò sau trước. Tần mẫu nghe nói thế, nhất định bằng lòng, khi đã ra khỏi sơn trại rồi, thì chẳng lo gì không tới được Trường An.

Văn Tĩnh khen:

- Nên làm thế, nhưng nhanh tay mới được, về đến Trường An là phải làm ngay!

Đi vào đầu núi Thiên Thu Lãnh, thấy phía sau có tiếng người gọi theo:

- Tiểu thư đánh rơi một chiếc hài rồi!

Tần Vương nghe thấy vội quay ngựa, thấy một chân của Huệ Anh, hài đã rơi mất, lộ rõ gót sen. Huệ Anh vẫn còn mang vẻ nhút nhát, mặt mày đỏ tía thẹn thùng.

Nghĩa Phù lên tiếng:

- Rơi một chiếc rồi, sao còn một chiếc nữa, không vứt luôn đi cho xong.

Thấy vậy Tần Vương ruổi ngựa theo đường cũ, lúc lâu quay lại thì đã tìm thấy bên đường, Tần Vương cầm hài trong tay, đưa cho Huệ Anh, cười nói:

- Đây có phải là hài của Huệ Anh chăng?

Huệ Anh vội vàng xuống ngựa, đưa hai tay nhận, đi vào cẩn thận, rồi mới lên ngựa. Từ đó, trên đường tuy chưa thật khăng khít, nhưng giữa Tần Vương với Huệ Anh đã mang tình quyến luyến, thỉnh thoảng lại nhìn nhau không nói. Đoàn người ngày đi đêm nghỉ, chẳng mấy chốc đã tới sông Bá Lăng, Tần Vương nói với Văn Tĩnh:

- Ta ngẫu nhiên đi săn chơi, không ngờ gặp phải nạn lớn, nếu không có Huệ Anh, Nghĩa Phù, cùng ba vị Tần, Ngụy, Từ đồng tâm cứu giải cho thì đến chết già trong nhà tù mất.

Văn Tĩnh thưa:

- Đấy chính là điện hạ cùng với thần có cái hạn trăm ngày, may mà Nghĩa Phù ngày đêm chu toàn cho, lại được lệnh ái thi ơn bày kế. Điện hạ lại thêm một mưu sĩ hiểu biết, cùng một bạn hiền trong buồng khuê. Chẳng phải là trong họa mà sinh phúc đó sao?

Lại thấy phía trước bụi cuốn mịt mù, một đội người ngựa tiến lại trông xa thấy cờ hiệu Đại Đường. Tần Vương lên tiếng:

- Rõ ràng là phụ hoàng đã hay chuyện ta về, nên sai người đi đón đây.

Bọn Viên Thiên Cơ, Lý Thuần Phong, Lý Tĩnh phi ngựa tới ngay trước mặt cùng thưa:

- Điện hạ, chúng thần tới nghênh giá!

Tần Vương đáp:

- Ta bởi không nghe lời can ngăn của các tiên sinh, gặp phải nạn này, thôi thì sau này công việc quân binh, ta sẽ cẩn thận hơn.

Lúc này tân khách của tây phủ lần lượt kéo tới, tất cả vào ải Đồng Quan. Tần Vương nói với Nghĩa Phù:

- Túc hạ cùng lệnh ái, xin hãy tạm ở quán dịch để ta gặp phụ hoàng, rồi sẽ sắp sẵn xa giá ra đón cho thật đàng hoàng.

Nghĩa Phù xin vâng, quay vào dịch quán nghỉ ngơi. Tần Vương cùng công khanh vào triều, yết kiến vua Đường, vào cung gặp Đậu Thái hậu, cốt nhục gặp nhau tình cùng sinh tử, nước mắt chứa chan.

Tần Vương đem chuyện bị nạn kể lể đầu đuôi. Vua Đường phán:

- Tần Thúc Bảo, Từ Mậu Công, Ngụy Huyền Thành, ba vị ân nhân, trước mắt tuy chưa thể quy Đường, trẫm phải nhớ kỹ chuyện này, con cũng nên ghi xương khắc cốt. Còn nghĩa sĩ Từ Lập Bản, lập tức ban cấp nhị phẩm cùng đủ áo mũ, lại riêng mũ phượng cho Huệ Anh, đưa vào bệ kiến.

Tần Vương liền sai tả hữu về Tây phủ lấy bốn cung nữ, chỉnh đốn hương xa, mời Huệ Anh cùng phụ thân vào triều. Vua Đường thấy mặt, càng thêm ưu ái, dùng Nghĩa Phù làm Thượng đại phu, còn Từ Huệ Anh, ban tên là Từ Huệ Phi, phong làm Nhất phẩm phu nhân, gả cho Tần Vương, cùng lo việc Tây phủ, Tham tán Tây phủ quân cơ sự vụ.

Tần Vương lại đem biểu tạ ơn của Thúc Bảo trình lên, vua Đường xem xong, phán:

- Thúc Bảo trước kia đã cùng trẫm gặp gỡ giữa đường, cả nhà đều được Thúc Bảo cứu thoát, nay Thế Dân lại được Thúc Bảo chu toàn tính mạng cho, cha con đều chịu ơn, biết đến bao giờ mời được Thúc Bảo về đây để đền ơn ít nhiều.

Tần Vương thưa:

- Không cần phụ hoàng phải nghĩ ngợi, con đã có kế hay, khiến cho Thúc Bảo sẽ quy Đường ngay.

Nói rồi tất cả lạy tạ ra khỏi điện.

Mấy ngày sau, Tần Vương cùng Lý Tĩnh, Từ Nghĩa Phù, đem hai nghìn tinh binh, lại thêm mấy cung nữ theo hầu Huệ Phi lên đường.

Chuyện khoan nói đến.

***

Lại nói chuyện Ngụy Công Lý Mật, ở Yển Sư chiêu hàng được Khải Công, khao thưởng ba quân, đang định hồi triều, nhưng không lượng sức mình, lại kéo qua Hà Bắc, bị tướng của Đậu Kiến Đức là thư tướng Vương Tôn, đón đánh dưới núi Cam Tuyền. Vương Tôn bắn tên, trúng cánh tay trái Lý Mật. Thua trận buồn rầu, mất hết nhuệ khí Lý Mật lại nhận được tờ tâu của Mậu Công, trình rõ chuyện ngục quan Từ Lập Bản, giả làm quan sai trong cung, thả cho Lý Thế Dân cùng Lưu Văn Tĩnh, rồi không biết đi đâu. Ngụy Công nổi giận, ngày đêm về Kim Dung thành, Ngụy Trưng, Mậu Công, Thúc Bảo ra đón.

Ngụy Công chửi mắng ba người một trận, đổ cho không trông coi cẩn thận, thông đồng với Lập Bản trong chuyện này, nhận được hối lộ nhiều rồi tha, coi thường phép nước, định đem ba người ra chém. May được Tổ Quân Ngạn, Giả Nhuận Phủ bao lần can ngăn, mới tạm đem giam vào Nam lao, chờ lập công chuộc tội.

***

Lại nói Tần mẫu cùng Trương Thị, Tần Hoài Ngọc, ở tại Ngõa Cương, tuy Thúc Bảo vẫn thường cho người thăm nom, nhưng Tần mẫu tuổi đã bảy mươi, so không còn được như hồi ở Tế Châu. Lại thêm lúc ấy, Thúc Bảo ở ngay cạnh gối, ngày đêm chăm nom gia quyến vui vẻ, nay lại vì công danh sự nghiệp mà mỗi người một nơi.

Một hôm, thấy đầy tớ vào thưa:

- La lão tướng ở U Châu, sai người đến trại, theo lệnh Tần phu nhân, mời Tần mẫu đến gặp mặt.

Tần mẫu nghe nói, bàn với Trương Thị:

- La phu nhân thật chu đáo, nhớ dạo ta sáu mươi tuổi tròn, cũng sai người tới mừng thọ. Từ ấy đến nay, âm hao cách trở, nay lại sai người đến, liệu có phải vì năm nay ta tròn bảy mươi chăng?

Trương Thị thưa:

- Đúng hay không đúng, cũng phải ra gặp La phu nhân, thì hiểu ngay thôi.

Tần mẫu liền cùng Hoài Ngọc lên nhà trên, thấy hai vị quan sai đều quỳ xuống thưa:

- Chúng quan sai là Uất Trì Nam, Uất Trì Bắc, xin lạy chào Thái phu nhân. Trước tiên là dâng lễ của La phu nhân, để mừng lễ thọ. Rồi xin mời Thái phu nhân tới thuyền để cùng gặp gỡ La phu nhân.

Tần mẫu đáp:

- Cháu Tần Quỳnh, hiện đang mắc việc nước ở Kim Dung thành, không có ở đây, thật làm khó nhọc các vị, xin mời các vị ngồi tạm. Hoài Ngọc, cháu hãy tiếp các quý khách cho chu đáo.

Hoài Ngọc vâng dạ làm theo.

Tần mẫu liền cùng bốn người hầu gái, vào bên trong, cùng Trương Thị mở gói lễ vật của La phu nhân ra xem, thì đều là những kỳ trân dị ngoạn, đáng giá hàng hai ba nghìn vàng. Binh tướng trong trại, đều là xuất thân từ giặc cướp, đã bao giờ được thấy những thứ quý giá đến như thế cho nên cứ ngây mặt ra nhìn, ngay cả Vưu Tuấn Đạt cùng Liên Cự Chân cũng xuýt xoa khen:

- Nếu không phải là soái phủ La tướng quân thì làm sao có được lễ vật như thế này, không biết đến lúc làm lễ mừng thọ, thì còn những gì nữa?

Bốn người hầu gái lạy hai lạy chào Trương Thị xong, liền thưa:

- La phu nhân dâng hương qua đây, xin mời thái thái cùng công tử Hoài Ngọc xuống thuyền gặp gỡ, mong được gặp lại họ hàng thì mới đi được, dặn chúng tiện tỳ thưa lại cùng thái thái.

Trương Thị liền sai đầy tớ bày tiệc rượu khoản đãi mọi người, rồi hai mẹ con bàn nhau. Tần mẫu nói:

- Nếu chối rằng Tần Quỳnh không có nhà, lễ nhiều quá không dám nhận, thì cũng chẳng nên ra gặp La phu nhân, tình thân hai nhà coi như là hết. Nhược bằng đi báo với Tần Quỳnh, thì đường xá xa xôi, làm sao cho kịp.

Lúc này cũng may Trình mẫu ở đó, liền bàn:

- Đã là thân thích, chúng ta đã chẳng tới thăm được, nay họ La đã nghìn dặm tìm tới, lại đem theo hậu lễ để nhận nhau, thì có chuyện gì mà phải tính toán.

Trương Thị nói:

- Ngày trước cha cháu Hoài Ngọc phạm tội tới U Châu, may được gặp La Tổng quản, mới được thoát nạn. Lại thêm cách đây mười năm, chính lần mừng thọ sáu mươi của thái thái, con vẫn còn nhớ, La phu nhân sai hai viên gia tướng đeo dây tua bạc đến mừng thọ, đi lại như thế, không thể nói là xa cách. Nay cứ kiên tâm từ chối, thì chính hóa ra mình bạc tình chăng?

Trình mẫu bàn:

- Cứ như ý của bà già này, cả hai mẹ con dẫn theo cả Hoài Ngọc ra gặp Tần phu nhân một phen. Người ta ở đời, nghìn dặm đến tìm, nào có phải chuyện dễ dàng, cũng như chẳng còn lần lễ thọ bảy mươi nào nữa đâu. Mẹ con không có gan đi, thì ta sẵn sàng đi theo làm bạn với!

Tần mẫu nghe xong, lòng đã ưng thuận đi đến bảy tám phần.

Lại thấy Liên Cự Chân vào thưa:

- Hai vị quan sai họ Uất Trì này, cũng đã từng đến Lịch Thành bái thọ cách đây mười năm, nói ra cháu mới nhận được, thế bá mẫu không nhận ra sao?

Tần mẫu đáp:

- Lúc ấy trên nhà khách đông nghịt, ta làm sao mà thấy rõ ràng từng người. Nếu đã như thế, trời đã chiều rồi, hãy giữ họ ở lại sơn trại một đêm, sáng sớm ngày mai sẽ lên đường. Cự Chân cũng phải ở lại đây tiếp họ giúp Hoài Ngọc với!

Cự Chân đáp:

- Vâng, xin bá mẫu yên tâm!

Sáng hôm sau, cả nhà dậy ăn cơm sớm. Tần mẫu, Trình mẫu, Trương Thị, ăn mặc chỉnh tề, đem theo năm sáu hầu gái, cùng bốn người hầu gái của khách nữa, cộng đến mười hai mười ba người, lên kiệu. Tần Hoài Ngọc cũng đội mũ thắt đai, khoác áo hồng bào, lưng giắt bảo kiếm, cưỡi ngựa ngân tông. Liên Cự Chân cũng mặc phẩm phục, cưỡi ngựa, dẫn theo đến ba bốn chục lính, hộ tống xuống núi.

Cả đoàn người ngựa, kiệu xe, đi được khoảng mười dặm, thì thấy phía trước một tiếng pháo nổ vang, trống phách rộn ràng, nhìn xuống sông, một chiếc thuyền rất lớn, xung quanh vô số thuyền khác. Tần mẫu cùng mọi người đến gần bên thuyền, thấy bốn năm hầu gái và một phu nhân ăn mặc sang trọng, tuổi còn trẻ. Tần mẫu cùng mọi người dừng kiệu nhìn lên, nói:

- Không phải La phu nhân!

Hầu gái đi theo có người thưa:

- Đây làNhị Phu nhân của La Tổng quản.

Tần mẫu cũng không hỏi lại, cùng mọi người kéo lên thuyền. Bỗng thấy Bạch Hiển Đạo xuất hiện, nhìn nhìn, ngó ngó. Hoài Ngọc liền trừng mắt nhìn, hàm răng nghiến chặt, thét lớn một tiếng. Bạch Hiển Đạo giật mình kinh sợ, lui vào bên trong. Lý Tĩnh từ trên thuyền có gác cao trông thấy, giật mình hỏi:

- Có phải con trai Thúc Bảo chăng?

Có người thưa:

- Dạ đúng!

Lý Tĩnh nói:

- Tuổi chưa nhiều, nhưng khí tiết đã khiến người phải kinh sợ, đúng là dòng hổ tướng.

Rồi sai người mời ngay lên thuyền.

Ai nấy đã lên thuyền cả, một cung nữ đứng ra thưa:

- Đây là Tần Thái Thái, đây là Trình Thái Thái, còn đây là Trương phu nhân.

Nhị phu nhân vốn là Huệ Phi lần lượt chào hỏi, rồi nói với Tần mẫu:

- La phu nhân hiện đang ở thuyền trước, sai thiếp đem thuyền đến đón trước, may được thái thái giá lâm, thật muôn vàn trân trọng?

Rồi sai người cho phu kiệu cùng lính tráng trở về, hẹn ngày hôm sau tới đón. Tần mẫu nói:

- Tần Quỳnh bận việc quan ở Kim Dung thành, được La phu nhân đưa hậu lễ mừng thọ, lại thân tới thăm, thật là áy náy trong lòng không yên.

Tiệc rượu bày xong, Lý Tĩnh mời Hoài Ngọc tới gặp Nghĩa Phù, Lý Tĩnh kể chuyện Thúc Bảo gửi thư cho mình ra sao, rồi lấy ra cho Hoài Ngọc xem, Hoài Ngọc mới biết chính là Lý Dược Sư, thân phụ Thúc Bảo đã nhiều lần nhắc tới, rất là kính phục. Lại nghe ba tiếng pháo nổ, thuyền nhổ neo. Tần mẫu ở thuyền bên, không thấy Hoài Ngọc, trong lòng không yên, vội sai người tìm về, bắt ngồi ngay bên.

Thuyền đi đầu nhã nhạc rộn ràng, buồm kéo lên, cứ theo thứ tự mà đi cả đoàn. Liên Cự Chân thấy quang cảnh lạ lùng, trong lòng đã phân vân ngờ vực, đêm ấy ngủ trong thuyền Nghĩa Phù, Nghĩa Phù đem mọi chuyện kể lại rõ ràng, Cự Chân mấy trong lòng cũng thanh thản, nhưng chỉ ngại bây giờ đường đi đôi ngã biết tính sao cho trọn.

Về phía Huệ Phi, tối hôm ấy cũng thong thả kể thực với Trương Thị, vì thấy Trương Thị đoan trang, trung thực, vả lại giờ đã ở trên thuyền, dẫu có cánh cũng chẳng bay nổi. Trương Thị vội kể lại với Tần mẫu, Tần mẫu chỉ mới biết chuyện Thúc Bảo cứu Lý Uyên ở Tra Thụ Cương, còn chuyện cứu Lý Thế Dân ở Nam Lao thì hoàn toàn chưa biết. Cả hai được Huệ Phi kể lại tỉ mỉ, rồi tiếp:

- Nay điện hạ đây không thể quên được ơn đức ấy của Tần tướng quân, cho nên mới sai thiếp cùng thân phụ bày kế thế này để mời thái thái vậy!

Lúc này Tần mẫu cùng Trương Thị mới biết người nói chuyện với mình không phải là Nhị Phu nhân của La Tổng quản mà chính là Nhất Phẩm Phu nhân Huệ Phi của Tần Vương, lại mới cùng bái chào lại cho đúng lễ. Cũng may Trình mẫu vì uống mấy chén rượu, đã ngủ say ngay bên cạnh, Tần mẫu mới nói:

- Tần Quỳnh ngu tối, may được điện hạ để ý tới. Nhưng tại sao lại biết già này cùng La Tổng quản là họ hàng thân thiết?

Huệ Phi đáp:

- Phụ thân thiếp thời tiền triều đã từng làm biệt giá ở U Châu mấy năm, thường hay lui tới soái phủ của La Tổng quản, nên biết rất rõ.

Tần mẫu nói:

- Chỉ lạ một nỗi là hai người giả anh em Uất Trì rất giống. Còn nữa là hiện nay nhà Ngụy này chưa suy, Tần Quỳnh làm thế nào mà về nhà Đường ngay được. Phu nhân nên sai người gửi thư ngay thời mới xong.

Huệ Phi nói:

- Những điều này rồi sẽ lo liệu được cả, nhưng sợ có Trình mẫu ở đây nói ra chưa tiện.

Mọi người lên thuyền được hai ngày, sáng hôm thứ ba dậy sớm, thì thấy đội lính tiền tiêu báo:

- Phía trước có tới ba bốn chục chiếc thuyền giặc đã sắp tới gần!

Hoài Ngọc đang ngủ ở lâu thuyền bên cạnh, nghe thế liền chồm dậy khoác áo ra theo dõi. Lý Tĩnh gọi một viên tướng lại, chính là người hôm trước đóng giả Uất Trì Bắc, Lý Tĩnh lấy ngay một lệnh tiễn ở trên án đưa cho trung quân quan, viên tướng quỳ xuống nhận lệnh tiễn. Lý Tĩnh ngồi trên thuyền lệnh:

- Tiền tiêu báo có thuyền giặc sắp tới gần, ngươi hãy lãnh binh đi xem thế nào. Không nên giết hại, hãy cứ trói cả về đây cho ta.

Viên tướng nhận lệnh ra ngay.

Chẳng mấy chốc đã nghe tiếng pháo lớn rung trời, tiếng la hét vang mặt sông. Trên các thuyền nhỏ, binh lính nai nịt gọn gàng, cung trương, kiếm tuốt khỏi vỏ lao ra như chớp.

Khoảng một giờ sau, nghe tiếng chiêng thu quân, đã thấy viên tướng lúc trước về quỳ thưa:

- Thưa nguyên soái, thuyền địch đã bắt được, đầu mục của chúng đã bị bắt để trong thuyền, ngửa chờ nguyên soái định đoạt.

Lý Tĩnh thu lại lệnh tiễn, rồi hỏi:

- Thuyền địch mang cờ hiệu gì?

Viên tướng đáp:

- Treo cờ hiệu nhà Ngụy.

Lý Tĩnh chau mày nói:

- Nếu là nhà Ngụy, thì giải đầu mục lên đây!

Viên tướng vâng lệnh đứng dậy, các thuyền lớn thuyền nhỏ lúc này đã thả neo. Trên thuyền đầu, chúng tướng, cùng các đao phủ sắp hàng nghiêm trang, đầy oai phong, từ trong thuyền chiến dẫn ra một người cao lớn. Cự Chân đứng ở thuyền sau nhìn giật mình nói:

- Đúng là Giả Nhuận Phủ của chúng ta rồi, làm sao lại ở đây, mà bị trói dẫn đi như thế này?

Cự Chân vội chạy đi tìm báo cho Hoài Ngọc, nhưng vì thuyền nhiều, người đông, nên cả Nghĩa Phù cũng chẳng thấy đâu, đành phải lén theo Nhuận Phủ, xem tình trạng ra sao.

Lý Tĩnh cao giọng hỏi:

- Ngươi là người ở đâu, họ tên là gì?

Nhuận Phủ đáp:

- Ta là người nhà Ngụy, tên họ là Giả Hòa.

Lý Tĩnh nạt:

- Đã là người nhà Ngụy sao không trông thấy cờ hiệu của đại Đường mà dám xông vào đội thuyền của ta. Ta hỏi ngươi: ngươi vâng lệnh Lý Mật đi đâu, làm gì?

Nhuận Phủ đáp:

- Xin cứ nói thực: năm ngoái Vương Thế Sung đến Kim Dung thành vay hai vạn hộc lương, năm nay không ngờ nhà Ngụy chúng tôi mất mùa. Ngụy Công sai Giả Hòa này đi đòi nợ.

Lý Tĩnh nói:

- Vương Thế Sung là một kẻ tàn nhẫn, giáo trá, hằng ngày hằng giờ lúc nào cũng rắp tâm làm việc hiểm độc. Chúa công Lý Mật nhà ngươi, sao lại cho chúng vay lương, có khác gì cho Tấn mượn đường để diệt Ngu, để rồi lại tự làm nguy mình chăng? Thật là Lý Mật cũng chỉ là một kẻ phàm phu tục tử mà thôi!

Nhuận Phủ đáp:

- Thiên hạ đại loạn, chẳng thể nói hươu chết tay ai (1), sao ngài lại quả quyết thế được?

1 Hươu chết tay ai: Theo "Tấn thư", Thạch Lặc nhân uống rượu say, nói với khách: Trẫm nếu gặp Hán Cao Tổ, thì xin ngoảnh mặt về bắc mà thờ Cao Tổ, chỉ cùng Hàn Tín, Bành Việt đua tài, tranh lấy hàng đầu mà thôi. Nhưng nếu gặp Lưu Quang Vũ sẽ cùng rong ruổi đua sức ở Trung Nguyên, thì chưa biết hươu chết về tay ai!

Lý Tĩnh vỗ án quát:

- Thủ hạ Lý Mật đều là một bọn tầm thường ngu dốt, cũng bởi chuyện Tần Vương cùng Lưu Văn Tĩnh bị giam ở Nam lao, ta đang định cất quân hỏi tội. Nay ngươi lại dám làm loạn ở trong quân ta sao. Tả hữu đâu, đem chém đầu thằng này cho ta!

Quân sĩ dạ vâng, lôi Nhuận Phủ, dẫn đi. Cự Chân hồn tiêu phách tán, lại vội chạy đi tìm Hoài Ngọc. Nào hay Hoài Ngọc được Nghĩa Phù nói cho biết nguyên do, nên không chịu đi ngay, khi thấy đao phủ vừa lôi Nhuận Phủ ra, thì Lý Tĩnh đã vội đứng dậy, đích thân cởi trói cho Nhuận Phủ, quát tả hữu lấy mũ áo vào, mặc cẩn thận cho Nhuận Phủ, rồi mời ngồi ghế trên. Nhuận Phủ bái tạ:

- Kẻ bất tài này vô tình phạm oai nguyên soái, xin nguyên soái tha tội, thật đội ơn lớn!

Lý Tĩnh đáp:

- Vừa rồi, chẳng qua cũng chỉ để xem khí lượng ngài ra sao. Chúng tôi vốn học theo hạ sĩ cầu hiền của Tần Vương, đâu dám khinh thường bậc hiền tài, xin gọi ra đây để ngài gặp mấy người quen biết cũ.

Nói chưa xong thì thấy Nghĩa Phù, Cự Chân, Hoài Ngọc kéo ra ngay trước mặt, Nhuận Phủ ngạc nhiên, nói với Nghĩa Phù:

- Ngài thả Tần Vương cùng Lưu Văn Tĩnh ra, rồi cũng lại đến đây sao?

Rồi hỏi Cự Chân, Hoài Ngọc:

- Các người đang ở Ngõa Cương, tại sao lại tới đây?

Nghĩa Phù kể lại ngọn ngành, Nhuận Phủ nói:

- Ngài cùng Tần Vương cao chạy xa bay, chỉ khổ cho Mậu Công, Ngụy Trưng cùng Thúc Bảo ngồi tù thay ở Nam lao!

Hoài Ngọc nghe nói thế, khóc rống lên, rồi đòi Lý Tĩnh:

- Xin bác cho cháu hai nghìn người ngựa, cháu đánh vào Kim Dung thành, cứu phụ thân!

Tần mẫu ở thuyền bên cạnh, nghe tin, cũng sai ngay người đến hỏi tỉ mỉ. Nhuận Phủ nói:

- Có cả Tần mẫu ở dây, sao không mời sang đây cùng gặp gỡ, để nghe Nhuận Phủ kể đầu đuôi luôn một thể. Xin các vị chờ cho một lát.

Lý Tĩnh sai Hoài Ngọc:

- Đúng rồi, cháu Hoài Ngọc hãy sang mời bà nội sang đây, nghe Giả đại nhân kể chuyện.

Tần mẫu sang ngay, cùng mọi người chào hỏi xong, hỏi Nhuận Phủ :

- Tần Quỳnh vì sao phải giải vào Nam lao?

Nhuận Phủ thưa:

- Ngụy Công chiêu hàng được Khải Công về, nghe nói Nghĩa Phù đây thả mất Tần Vương, Lưu Văn Tĩnh, đổ hết giận dữ vào Tần đại huynh, Ngụy Trưng, Mậu Công, rồi đem giam ba người vào Nam lao. Nhuận Phủ này cùng La Sĩ Tín khuyên giải thế nào cũng không nghe, sai ngay Nhuận Phủ này đi đòi lương, cũng bởi năm ngoái, Vương Thế Sung cho người sang vay bốn vạn hộc lương. Nhuận Phủ này biết chuyện, vội chạy đến Ngụy Công khuyên không nên cho vay, nói mãi vẫn chẳng xong. Thế Sung thiếu lương, chính là trời hại họ Trịnh sao lại còn cho nó? Huống chi nhà Ngụy tuy có dự trữ được ít nhiều, nhưng mùa mưa chưa hết, vẫn phải nghĩ tới chuyện đói kém, huống chi "thực túc binh cường", chẳng khác nào giúp sức cho kẻ cướp bậc trí giả chẳng làm như thế bao giờ. Ngụy Công vẫn chẳng chịu nghe, mở kho cho vay hai vạn hộc. Ngày mở kho, lại gặp phải ngày "giáp thân", là ngày cấm kỵ của việc mở kho. Ít lâu sau, các quân coi kho đều trình chuột bọ rất nhiều, lương thực hao hụt. Toàn là những con chuột lớn, mọc hai cánh, toàn thân có vẩy như vẩy cá, men theo tường mà bay mà chạy, như những đàn ong lớn, các kho chỉ còn lại một hai phần. Ngụy Công liền sai Trình Giảo Kim làm "Huy miêu đô úy", lệnh trong toàn nước, mỗi hộ phải nạp một con mèo cho các kho, không có mèo, phạt mười thạch lúa. Nhưng rồi chuột vẫn nhiều hơn mèo, lớn hơn mèo, mèo cùng ăn cùng ngủ, cùng hội cùng thuyền với chuột, chuột chẳng hết được. Ngụy Công càng thêm giận dữ. Gần đây, Tiêu Tiên đói kém, lại đem lính sang vay năm vạn hộc, nếu không cho vay, lại phải đánh nhau. Thế nguy không thể nào khác, Ngụy Công đành tha ba vị ở Nam lao ra, sai Tần đại huynh cùng La Sĩ Tín lãnh binh đi đánh Tiêu Tiên, Mậu Công thì đi Lê Dương, Ngụy Trưng thì coi sóc các kho lương. Trước mắt lúa má khô cằn, vụ thu hoạch sắp tới cũng chẳng trông mong gì hơn, nên mới phải sai ngay Nhuận Phủ này đi đòi nợ nhà Trịnh. Nay Tần mẫu được Lý nguyên soái theo lệnh Tần Vương mời về Trường An, thì nhất định là hơn hẳn ở Ngõa Cương rồi, xin để Nhuận Phủ này nói cho Tần đại huynh biết, rồi thế nào đại huynh cũng phải tìm cách về với nhà Đường!

Lại nói với Cự Chân:

- Liên đại ca nên quay về Ngõa Cương, gia quyến anh em ta đều ở Ngõa Cương cả, mà chỉ có mỗi mình Vưu viên ngoại ở đó, sợ có chuyện gì, lấy ai ra lo liệu. Nhuận Phủ vì việc công cấp bách, xin cáo biệt?

Lý Tĩnh thấy Nhuận Phủ khí phách hiên ngang, lý lẽ thấu đáo, nhờ Nghĩa Phù khuyên Nhuận Phủ về với nhà Đường, Nhuận Phủ đáp:

- Nhuận Phủ cũng vì ngu tối, không biết chọn chủ mà thờ. Nay thời vụ cũng đã khá rõ, nhưng cũng chưa đến lúc cùng, đem chuyện thịnh suy mà liệu đường đi ở, sợ rằng là điều chúng ta không nên làm. Rồi còn gặp nhau!

Nói rồi ra đi. Lý Tĩnh vô cùng thán phục. Cũng bởi Cự Chân cùng Thúc Bảo vốn gắn bó thân thiết, nên Cự Chân cũng phải cùng đi Trường An, chờ sự yên ổn, mới dám quay lại Ngõa Cương.

Chính là:

Phau phau lau trắng, sương hoa dãi

Bịn rịn lòng son, nghĩa khí ca.

Hồi Thứ Năm Mươi Ba

Giả mộng gặp Chu Công, Vương Thế Sung diệt Ngụy,

Cơn nguy bỏ Từ Tích, Lý Huyền Thúy theo Đường

Thơ rằng:

Thành bại rằng tại trời

Lại cũng là việc người

Hễ kiêu thì bại thôi

Kém dũng cùng thua trí

Gặp may vội khoe tài

Hoạn nạn rồi ụp đến

Khi dân chán bạn rời

Rồng mà không mây nước

Thì kiến tha làm mồi

Hối hận không kịp nữa

Sử xanh mãi chê cười.

Sự đời đã đến thế cưỡi hổ, có quan hệ đến nước nhà, mà lại không có thực tài trị loạn an dân, thì khó mà đứng vững, huống chi lại vốn phường tục tử tầm thường với những mẹo vặt, đã vội ước đến những thứ không phải phận mình, mãi lúc công việc nát tan, mới sực nghĩ ra thì đã muộn rồi.

***

Nay hãy khoan nói chuyện Tần Mẫu về với nhà Đường, mà nói chuyện Giả Nhuận Phủ, từ biệt Lý Tĩnh đến Lạc Dương, nghe ngóng Vương Thế Sung đang thao diễn binh mã, xin gặp. Thế Sung đã biết ngay, không chịu tiếp, cũng không viết thư phúc đáp, chỉ cho người trả lời miệng:

- Lúc này Lạc Dương cũng đang thiếu ăn, làm gì có thừa mà trả cho Ngụy Công. Hãy chờ mai kia đến Hoài Thượng thu thóc xong, sẽ đem đến tận nơi giao trả cho Ngụy Công.

Nhuận Phủ thấy thế biết ngay Thế Sung trở mặt, không chịu trả, nên chẳng chờ thư phúc đáp, trở về tâu với Ngụy Công:

- Xem cung cách của Thế Sung, không những chỉ quỵt nợ, mà còn có ý đánh chiếm, chúa công phải cẩn thận đề phòng.

Lý Mật giận dữ:

- Lũ giặc này không thể ngồi chờ chúng tới được, mà phải đem binh tận nơi hỏi tội mới xong.

Rồi chọn ngày xuất binh, lấy Trình Giảo Kim, Phàn Văn Siêu làm tiền đội, Đơn Hùng Tín, Vương Đương Nhân làm đội thứ hai, còn mình cùng với Vương Bá Đương, Bùi Nhân Cơ làm hậu đội, nhằm Đông Đô mà tiến. Vương Thế Sung đã được mật thám mã báo tin từ trước, cũng muốn cùng Lý Mật quyết chiến một phen, nhưng ngại Lý Mật người ngựa đông, đánh gấp khó mà thắng, nên ngồi tính toán trong trướng. Bỗng thấy tả hữu vào báo:

- Lương thực trong kho của Ngụy Công bị chuột bọ làm hao tổn rất nhiều, phải sai Giả Nhuận Phủ làm Huy miếu đồ úy (1) trong cung lại sinh nhiều điềm lạ. Trăm họ trong thành đồn rằng vì chiếm phần mộ của Chu Công (2) mất cả phần hương hỏa, nên Chu Công giáng họa như thế.

1 Ở hồi thứ năm mươi hai, nói là Trình Giảo Kim, có lẽ tác giả sơ ý, vì lúc này Giả Nhuận Phủ đã được đặc sai đi đòi nợ ở Lạc Dương rồi.

2 Chu công: Tên là Đán, chú của Thành Vương, nhà Chu, Thành Vương lên ngôi từ nhỏ. Chu Công cầm quyền trị nước rất sáng suốt, rất trung thành, được sử sách phong kiến ca ngợi. (Điển cố văn học)

Thế Sung nghĩ ngợi:

- Chỉ sợ chuyện này không đúng!

Tả Hữu thưa:

- Tất cả đều nói như thế, sao lại sai được!

Thế Sung cười:

- Nếu đúng như vậy thì kế của cô xong rồi đây. Nhưng cần phải có một người lanh lợi, hiểu được ý cô, thì mới chắc thắng.

Rồi đưa mắt nhìn xung quanh, trông thấy một tay chân, người này mỉm cười không nói. Sáng hôm sau, một hồi trống tụ họp các tướng, bàn kế chống giặc. Thế Sung hỏi:

- Thành Kim Dung của Lý Mật, là thành cũ của nhà Tùy, hay là thành do Lý Mật mới xây?

Trương Vĩnh Thông thưa:

- Cung thất nhà Ngụy hiện nay, vốn là miếu thờ Chu Công. Lý Mật lấy cớ miếu thờ Chu Công thì phải xây ở đất phong của con cháu ở nước Lỗ, nơi này không phải chỗ, nên phá miếu thờ, mà xây cung thất, Chu Công nhiều lần đã thác mộng vào quần thần, nhưng quần thần không dám tâu. Thế Sung phán:

- Hèn gì cô hôm qua, vào khoảng canh ba, mộng thấy một vị thần áo mũ chỉnh tề, nói: "Ta là con của Chu Văn Vương là Cơ Đán, may được thượng giới phong thần, miếu đền ở trong thành Kim Dung, nay bị Lý Mật phá tan, lấy nền làm cung thất, gỗ ngói làm kho lẫm, khiến cho thầy trò ta lang thang không nơi yên ổn. Nay Lý Mật khí số sắp hết, vận bại thời suy. Trịnh Vương hãy vì ta mà báo thù này!".

Trăm quan liền thưa:

- Đã có thần giúp sức, đủ rõ uy thế của chúa công thế nào. Phen này đất đai của Ngụy Công, tất sẽ về tay chúa công cả!

Thế Sung phán:

- Nếu được thế thì phú quý các khanh cùng cô hưởng, một mình cô đâu dám giành cả!

Lại thấy ba bốn tên lính vào quỳ thưa:

- Trung quân tả tiêu kỳ Đinh Trần Long, bỗng xõa tóc, đi chân không, như điên như dại, miệng hét lớn: "Ta muốn gặp Trịnh Vương!"

Thế Sung nghe nói, cả cười nói với các quan:

- Viên tướng này vốn thật thà, tại sao lại sinh chuyện thế này, cô cùng các khanh hãy đến xem sao!

Tất cả lên ngựa, cùng ra giáo trường. Quân sư Hoàn Pháp Tự đến giáo trường trước, thì thấy Trần Long đang nhắm mắt nằm quay ở trên bàn, lớn tiếng đọc những câu thơ Đại Nhã trong "Kinh Thi".

Văn Vương tại thượng

Sư chiêu vu thiên

Chu tuy cựu bang

Kỳ mệnh duy tân. (1)

1 Bốn câu đầu trong bài "Văn Vương" nghĩa là: Văn Vương ở trên, Tinh thần chiếu rạng khắp trời; Nhà Chu tuy là nước cũ; Mà mệnh trời cho làm thiên tử thì mới!

Trông thấy Thế Sung tới, liền đứng ngay trên bàn, hướng về phía Thế Sung mà thét:

- Kính mời Trịnh Vương lại đây! Ta là Chu Công Đán thác vào người này đây. Những lời ta đã nói hôm qua, sao không làm ngay, đừng cho là chuyện mộng mị, mà coi thường. Nếu quân thần các ngươi đồng tâm hiệp lực, ta còn giúp cho ba ngàn âm binh, đánh bại quân Ngụy, thấy ngay nhỡn tiền. Hãy mau xuất binh. Ta đi đây!

Nói xong nhảy xuống bàn, rồi lăn lộn, múa may khắp sảnh đường. Lúc này Thế Sung cùng trăm quan đều đã khúm núm bái lạy:

- May được đại vương ra lệnh, chúng tôi nào dám không gắng diệt lũ nghịch tặc, xây lại điện miếu cao lớn hơn xưa!

Vua quan cùng đứng dậy, xem mặt Trần Long thì xám như tro, tay chân lạnh như băng, người cứng như gỗ, nằm vật ra trên cỏ. Thế Sung sai người khiêng về nhà.

Từ đó tướng sĩ nhà Trịnh, ai ai cũng như có một Chu Công ở trong người. Lâu nay trong việc quân binh, Thế Sung vốn là kẻ xảo trá, lắm mưu mẹo, lại được quân sư Hoàn Pháp Tự, vốn là đồ đệ của bàng môn tà đạo, gặp lúc loạn lạc, đua chen kiếm danh kiếm lợi, nên vạch đủ mưu chước dối lừa, núp danh thần thánh cho Thế Sung. Thế Sung về triều, lệnh cho quân sư Pháp Tự, ngày mai ra giáo trường, tuyển thêm ba nghìn lính, chọn những tên dữ tướng, cao từ tám thước trở lên, cho đi giày rơm, dùng khêu cao một trượng hai thước, đeo mặt nạ quỷ sứ, suốt mấy ngày tập luyện ở giáo trường. Pháp Tự khuyên Thế Sung:

- Cách này phải làm ngay, để lũ Lý Mật không kịp phòng bị.

Thế Sung nghe theo, vốn cũng muốn đánh thắng Lý Mật, trở thành chúa một nước lớn, nhưng nếu Lý Mật là kẻ hiểu biết, thấy trong nước bao lần thiên tai, dị họa, hãy ngồi yên mà giữ Kim Dung thành, sửa những lỗi lầm xưa, thương yêu quân sĩ, thì cũng có thể trở nên một nước mạnh. Khốn thay, Lý Mật chỉ ỷ mình tài cao lực mạnh, vội quên ngay những ngày suýt chết, lẩn trốn gian nan. Lúc nào cũng tưởng như mình là Hán Cao Tổ, giơ gươm ba thước rõ cao, thiên hạ không ai địch nổi. Trước tiên điều ngay quân sư túc trí, đa mưu là Mậu Công đi Lê Dương. Tiêu Tiên chẳng qua chỉ là bệnh ghẻ lở ngoài da, thì vội điều ngay Thúc Bảo, trung dũng song toàn cùng La Sĩ Tín đi trấn áp. Nhuận Phủ bao lần bày mưu tính kế xác đáng, chẳng được nghe theo, lại bị đày đi Lạc Khẩu, phường vong nghĩa tham lợi như Bính Nguyên Chân thì lại được tin dùng, luôn được kề bên tính kế trù mưu. Chỉ còn lại Đơn Hùng Tín, Trình Giảo Kim, cũng chỉ biết riêng chuyện lên ngựa cầm thương.

Đại quân Lý Mật đi chưa được hai ngày, thì Thế Sung cũng đã kéo người ngựa ra, gặp thám mã quay về báo, tin Thế Sung cho hạ trại cách thành khoảng ba bốn mươi dặm. Lý Mật đóng ở phía đông Thúy Bình Xuyên, Thế Sung đóng ở phía tây Thúy Bình Xuyên. Quân sư Pháp Tự, đem theo khoảng hai ba trăm người ngựa, lặng lẽ trèo lên đỉnh núi theo dõi quân Lý Mật, thấy cơ ngũ chỉnh tề, cờ hiệu nghiêm trang, khí thế xung thiên, thật đúng là "vô địch chi sư" .

Pháp Tự trong lòng thầm nghĩ: "Ta dẫu có huấn luyện thần binh, nhưng làm sao mà thắng được lũ giặc thanh thế như vậy!". Cau mày nghĩ ngợi, nhìn bốn chung quanh, bỗng thấy phía dưới góc đông bắc, có bảy tám người đang đốn củi, Pháp Tự bỗng mừng rỡ mà rằng:

- Ta nghĩ ra rồi!

Khẽ gọi một viên gia tướng lại gần, ghé tai nói thầm mấy câu, còn mình thì lập tức lên ngựa về trại. Sáng ngày hôm sau, vào trướng thưa với Thế Sung:

- Thần đêm qua mơ gặp Chu Công nói rằng: "Pháp Tự hãy nghe ta phán: ngày mai ta sẽ ngầm dẫn một người để giúp ngươi phá giặc.

Ngươi hãy tâu với Trịnh Vương, tức tốc giao chiến".

Rồi lại ghé tai Thế Sung, nói nhỏ mấy câu. Thế Sung cả mừng, Pháp Tự lại lấy ván gỗ, dùng màu xanh đỏ, vẽ hình thú dữ, đóng lại thành những thùng vuông lớn đem người ngựa giấu ở bên trong. Thế Sung ngồi giữa đại trại, xem xét việc điều khiển của quân sư, thì thấy quân lính vào thưa:

- Đã bắt được Lý Mật!

Đến lúc giải vào chính là bọn người đốn củi hôm qua, tất cả đều bị trói chặt, Thế Sung bên hỏi:

- Bắt được bọn này ở đâu?

Bọn lính thưa:

- Tiểu nhân vâng lệnh tuần tra, đến đoạn đường mòn khe núi phía đông, gặp bọn này, trong số đó có Lý Mật, chúng tiểu nhân liền vào bắt lại giải về đây trình chúa thượng.

Kẻ bị đổ oan là Lý Mật vội thưa:

- Tiểu nhân vốn là người nhà quan trợ giáo Quốc tử giám mục Lục Đức Minh, trong thành hiếm củi, nên ra đây đốn, nào phải Lý Mật, hiện có các bạn đây làm chứng.

Bọn lính cãi:

- Rõ ràng là Lý Mật, giả dạng kiếm củi để do thám quân tình.

Thế Sung hỏi kỹ bọn kiếm củi đúng là người trong thành, liền sai tả hữu cởi trói cho họ, rồi khuyên:

- Cô biết rõ các ngươi đều là dân thường rồi, nay cô có việc cần đến các người. Trong số các người, có ai biết đường tắt kín đáo lên Bắc Mang Sơn không?

Một người giơ tay chỉ vừa thưa:

- Thưa đại vương, người này là Mãn Sơn Phi Kim Dũng, người kia là Xuyên Sơn Giáp Bàng Nguyên, hai người rất quen các dường mòn trong núi, chỗ nào quanh vùng núi này cũng thạo.

Thế Sung khen:

- Hay lắm!

Trước tiên gọi người giống Lý Mật tới, thưởng cho làm chức bá tổng trong quân, còn Kim Dũng với Bàng Nguyên thì cho làm tả hữu đội trưởng, cấp cho đầy đủ quần áo, chiến bào, rồi gọi vào trong trướng, ghé tai dặn dò một hồi, bọn này lĩnh mệnh ra đi.

Chính là :

Can quan máu đổ nơi nơi

Mất còn thua được có trời mới lay.

***

Lại nói tiền quân của Lý Mật là Trình Giảo Kim, chỉ mong gặp giặc để đánh nhau, giết chóc một hồi, không ngờ binh lính Thế Sung lại lấy ván làm thành, lặng lẽ không chịu nghênh chiến, liền dốc binh lính tiến sát vào tường thành, nhưng thấy bên thành toàn những hình thù dị xanh đỏ, quay ngựa lại bỏ chạy. Đơn Hùng Tín dẫn cánh quân thứ hai vừa tới kịp, sai lấy thang mây, pháo bắn đá, cứ thế lại xông vào, nhưng cũng không phá nổi. Lý Mật dẫn hậu quân ở phía sau đóng trại, nổi lửa nấu ăn, ra lệnh tối nay chú ý phòng giặc tới cướp trại, cho nên đêm ấy trong các trại đều canh gác nghiêm cẩn, trống canh điểm đều. Khoảng canh ba, bên ngoài trại quân, bốn phía nghe tiếng pháo nổ liên tiếp, ai nấy nhớn nhác, bỗng thấy đội trần thám vào thưa:

- Các thành gỗ của Thế Sung đã thấy mở, nhưng bên trong chẳng có đèn lửa gì cả, không một bóng người, xin báo để chúa công rõ.

Giảo Kim nhân suốt mấy ngày xông vào thành trong lòng đang bực bội vì không nên chuyện, nghe lính báo thế, không nhẫn nại được nữa, tự mình dẫn đầu, kéo quân sang trại Thế Sung. Từ xa đã thấy cửa thành gỗ mở rộng, đèn đuốc sáng trưng, chẳng khác gì ban ngày, nhưng không hề thấy người ngựa nào ở bên ngoài. Giảo Kim chẳng cần nghĩ ngợi, cứ giơ cao búa, gào thét xông vào:

- Kẻ nào có gan thì theo ta!

Trong trại quân Thế Sung nghe một tiếng pháo lớn, một tướng tiến ra, đánh với Giao Kim khoảng hơn chục hiệp, thua chạy. Giảo Kim cứ thế xông bừa, được khoảng mươi dặm, lại thấy một tiếng pháo long trời, rồi liên tiếp những tiếng pháo khác, một trận cuồng phong nổi lên, quét bụi đất mù mịt, không còn thấy gì nữa. Lúc này khoảng gà gáy, trời đã gần sáng, Giảo Kim đang đốc thúc quân mã đánh chém, thì thấy bên nách xông ra bảy tám đội, toàn những kẻ mặt xanh tóc đỏ, miệng rộng hoặc, răng chìa như ngà voi áo ngũ sắc dài, giày rơm, đi khêu trong khói lửa hoàng, thuốc pháo mù mịt, cầm trường thương mà chém, đội lính phía sau ùa theo chém giết, la hét vang trời:

- Thiên binh đến rồi! Các ngươi muốn sống thì hãy đầu hàng cho sớm.

Binh lính của Hùng Tín kinh hoàng, quay ngựa xéo lên nhau mà chạy. Lại thêm lũ ngựa chiến, thấy những mặt quỷ xanh đỏ cao lênh khênh đều hý vang sợ hãi nhảy loạn xạ, hoặc cứ thế đâm đầu chạy thục mạng. Hùng Tín dẫn một số ít người ngựa can đảm, xông lên phía trước, gặp cánh quân Giảo Kim, cả hai cùng đánh giết một hồi, thì nghe quân Thế Sung hét vang:

- Lũ giặc ngu dốt kia! Chúng tao đã bắt được Lý Mật rồi đấy!

Một toán người ngựa, kéo theo Lý Mật, áo giáp vàng, khoác ngoài hoàng bào, bị trói trên lưng ngựa gào không thành lời:

- Mau lại cứu ta! Mau lại cứu ta!

Thì đã bị bọn lính kéo đi mất, Giảo Kim thấy thế kinh hoàng, liền nói với phó tướng Phàn Văn Siêu:

- Chủ tướng đã mất rồi, đánh cũng chẳng ích gì. Chạy đi thôi?

Văn Siêu đáp:

- Phương Đông cũng có Phật, phương Tây cũng có Phật, chạy đi đâu bây giờ, hàng quách cho xong.

Liền lên tiếng chủ tướng đã bị bắt, tình nguyện đầu hàng. Lính tráng nghe thấy thế, nhất tề vứt khí giới, cởi giáp trụ, quỳ xuống xin hàng. Giảo Kim nhớ còn mẫu thân, trong đám loạn quân, vứt bỏ mũ áo, lặng lẽ bỏ trốn mất.

Đơn Hùng Tín cùng Vương Đương Nhân dẫn cánh quân thứ hai, thấy phía trước đã tan vỡ, cũng chẳng rõ tại sao, lính la hét:

- Ngụy Công đã bị bắt rồi, cánh tiền quân đã hàng cả rồi!

Hùng Tín vốn chỉ là người dũng mãnh, chẳng kịp nghĩ tại sao Lý Mật lại có thể bị bắt được, trong lòng cũng hoảng hốt, nói với Đương Nhân:

- Ngụy Công bị chúng bắt đi rồi! Chúng ta ở đây, chém giết cũng vô ích, chi bằng cùng tìm đường thoát chạy.

Đương Nhân đáp:

- Thế là hơn cả !

Rồi hét lớn một tiếng, giơ đao chém mạnh mở một đường máu, nhưng bốn phía đều là lính Thế Sung, càng giết càng nhiều. Hùng Tín quay đầu nhìn lại, Đương Nhân đã không thấy đâu nữa, đang định quay ngựa tìm, thì tướng Trịnh là Trương Vĩnh Thông cưỡi ngựa sấn tới, Hùng Tín vội giơ thương đón đánh, không ngờ đến hàng chục câu liêm chĩa ra, kéo ngã ngựa, Hùng Tín đành phải đầu hàng. Chỉ còn mỗi Lý Mật dẫn đội quân tâm phúc xông vào đốc chiến, thấy tiền đội đều dã thua to, vội sai Bùi Nhân Cơ lên trước cứu viện, cũng bị lính Trịnh dùng câu liêm bắt sống. Lý Mật đang dao động thì thấy ở sườn núi phía sau, tiếng hò hét rầm trời, hai đội bộ binh, tay cầm đoản đao, lao nhanh xuống xông bừa vào hậu đội quân Ngụy mà đâm chém. Nhìn về phía trại lớn, lửa bốc ngút trời, lính giữ trại lẩn trốn bốn phía vào hang vào suối hết cả.

Thì ra lính Thế Sung có tiều phu dẫn đường, đang đêm một đội quân kéo đi, rắc đầy khắp nơi vật dễ cháy lưu hoàng, thuốc pháo, thừa lúc đại binh kéo đến, lẻn vào đốt trại lớn của quân Ngụy. Lý Mật ngày thường vẫn tự cho là mình mạnh thế, chẳng thể bị ai coi thường, hoặc lừa dối nổi, đến lúc này cũng lo sợ cuống cuồng. Đại trại thì lại làm sơ sài bằng cỏ tranh, không một chút gỗ ván, chỉ cần mấy trăm quân Trịnh xông vào, là đã thiêu xong, lại xông ra tiếp ứng cho hai cánh bộ binh. Thế là Lý Mật phía sau đã bị chẹn đánh, phía trước thì người ngựa Thế Sung cũng đã kéo đến, đón đường đâm chém. Đúng là tiền hậu giáp công, trước sau gặp địch, chẳng biết làm thế nào, chỉ còn cách đổi áo mũ, cùng toán lính hộ vệ chạy trốn về Lạc Khẩu. Nhuận Phủ nghe tin, vội đem quân tiếp ứng, lựa lời an ủi:

- Hán Cao Tổ đánh trận thua luôn, nhưng cuối cùng vẫn được thiên hạ, Hạng Vũ tuy thắng nhiều lần, nhưng rồi vẫn bị diệt. Chúa công cứ yên tâm rồi ta sẽ làm lại mọi sự.

Đêm ấy nghỉ ngơi ở Lạc Khẩu, ngày hôm sau đang định cùng mọi người bàn luận tính kế, thì thấy Giảo Kim cùng khoảng mười lính kỵ lần tới. Lý Mật giận dữ:

- Ta đang muốn hỏi ngươi, cớ làm sao tiền quân lại đến nỗi thế?

Giảo Kim thưa:

- Phía trước chúng thần bị quân Trịnh dồn đánh, chạy được khoảng năm sáu dặm, bỗng thấy một trận cuồng phong, vô số âm binh ở đâu hiện ra, thế là cả bọn chúng xông vào, không ngờ trong quân Trịnh kéo ra một người áo hoàng bào, bên ngoài là giáp vàng, bị trói trên mình ngựa, trông chẳng khác gì chúa công. Tướng sĩ chúng thần đều nhận rõ là chúa công đã bị bắt, chẳng còn lòng nào mà đánh nhau nữa, quân Trịnh như núi lở, biển trào, bốn phía kéo tới, phó tướng Phàn Văn Siêu kéo quân đầu hàng. Thần bất đắc dĩ cũng phải bỏ chạy về Thương Thành, không ngờ Bính Nguyên Chân đã đem toàn thành hàng Vương Thế Sung rồi, thần bèn cố chạy tới đây, may vẫn gặp chúa công. Thật đều do quỷ kế của lũ giặc mà ra cả!

Kể chưa xong, thì lại thấy Ngụy Trưng một người một ngựa tới, Lý Mật sợ hãi vội hỏi:

- Vì sao khanh cũng rời Kim Dung thành đến đây một mình, không phải đã xảy ra chuyện gì rồi chứ!

Ngụy Trưng thưa:

- Canh năm đêm hôm qua, có một người cưỡi ngựa, gọi mở cửa thành. Trịnh Tư mã trèo lên thành xem xét, soi đèn nhìn ra, thì rõ là chúa công ngồi trên mình ngựa. Trịnh Tư mã vội vàng mở cửa thành ra đón, thì nghe tiếng quát: "Chư tướng đâu, không ra cứu ứng?" Rồi thủ hạ tới trói lại, Bùi Nhân Nghiêm cũng bị trói nốt. Thần biết trúng kế, vội chạy ngay vào báo Vương nương nương, thế tử, chạy ra cửa Nam, may thay trên đường gặp Vương Đương Nhân, giao cho hộ tống về Ngõa Cương. Còn thần tới đây xem xét mọi chuyện ra sao, may gặp đông đủ ở đây. Vừa rồi ở trên đường, thấy binh lính trốn chạy nói: "Đại quân của Thế Sung đang kéo đến phía sau rồi!"

Thủ hạ của Nhuận Phủ đi tuần thám về thưa:

- Hổ Lao quan đã mất rồi, người ngựa Thế Sung chỉ còn cách Lạc Khẩu khoảng ba mươi dặm, ta phải mau trốn chạy mới yên!

Lúc này Ngụy Trưng cũng chẳng nghĩ được kế sách gì nữa. Lý Mật thấy Thế Sung thế như chẻ tre, liệu một góc Lạc Khẩu này, làm sao chống nổi, bèn cùng mọi người kéo về Hà Dương, là nơi Tổ Quân Ngạn đóng giữ, nhưng chưa được hai ngày, tuần thám về báo, Yển Sư, Lạc Khẩu đều đã mất. Lý Mật than:

- Ai ngờ bọn nghịch tặc này với vài quỷ kế mà ta đã mất ngay các nơi, cùng bao nhiêu tướng sĩ, đổ cũng bởi ta chỉ làm theo ý mình, nên mới đến thế này. Giờ thì lòng dạ rối bời, bảo ta phải làm gì đây?

Bá Đương thưa:

- Mưu sách bây giờ, chỉ còn lại Thư Hà, bắc thì dựa vào Thái Hằng, đông thì liên kết với Lê Dương. Từ Thế Tích vốn một lòng trung nghĩa, chẳng vì thành bại mà thay lòng, lại giỏi bày mưu tính kế, có thể chống đỡ cho mặt ấy, sai Từ giữ lấy Lê Dương, rồi chuyển quân ra Hà Bắc, cố gần với Thế Sung, thần dẫu bất tài, cũng xin nguyện tử thủ. Chúa công thì ở Thái Hằng, trông coi cả hai nơi, hãy tạm như thế, rồi bộ hạ sẽ tìm đến, lực mỏng thì dựa vào thế hiểm mà chống đỡ, mới là diệu kế.

Lý Mật bằng lòng:

- Kế ấy hay lắm!

Hỏi các tướng đều yên lặng không nói. Lý Mật cố căn dặn, thì các tướng đáp:

- Hôm trước đánh một trận ở Bắc Mang sơn, quân lính đều kinh hoàng. Hùng Tín thì đầu hàng, Nhân Cơ tài trí thì bị trói, rồi lại đến Hà Dương cũng bị mất ngay, Thương Thành đầu hàng, Yển Sư Lạc Khẩu, Lao Hổ quan cũng theo gót mà đi. Tướng thì chẳng còn lòng nào mà cố giữ, lính thì chẳng còn sức nào mà liều chết, tình người lợi theo thế, ai ai cũng thế. Nay dưới trướng chúa công còn được khoảng hai vạn, liệu kéo dài được bao lâu, sợ rồi cùng theo nhau mà trốn hết. Chúa công bảo cố giữ, thì lấy ai mà giữ cho?

Lý Mật nghe thế, bất giác sa hai hàng nước mắt, than rằng:

- Ta nhờ vào sức các tướng, giữ Lạc Khẩu, chiếm Lê Dương, bắc chống Thế Sung, nam phá Hóa Cập, không ngờ nay đánh một trận, đến nỗi thần phản, thân tín xa lìa, muốn giữ thì không có người, muốn về không có đất. Tấm thân bảy thước nay còn giữ làm gì nữa?

Nói xong rút kiếm đâm cổ, Bá Đương vội ôm lấy, rơi lệ chứa chan mà rằng:

- Chúa công, dẫu có bị khốn khổ mới nên nghiệp lớn, nay tuy thất lợi biết đâu có thể hưng thịnh, sao lại đến nỗi cạn nghĩ như vậy.

Hai người đều khóc, các tướng nhất tề sùi sụt, Lý Mật than khóc một hồi mới lên tiếng:

- Thôi ta hãy dẹp tất cả lại! Chí lớn không chịu khuất kẻ khác, nay trời hại ta, vô kế khả thi, ta cũng chẳng về Lê Dương nữa. Nay nếu các tướng vẫn không bỏ ta, thì hãy cùng ta kéo về Quan Trung theo nhà Đường, cũng chẳng mất gì phú quý.

Các tướng đồng thanh:

- Xin nguyện theo chúa công về với nhà Đường!

Lý Mật nói với Bá Đương:

- Gia quyến của các tướng đều ở Ngõa Cương, nay vào Quan Trung, xa nhà đã lâu, nay tất mong nhớ, chi bằng tướng quân hãy về Ngõa Cương.

Bá Đương thưa:

- Thuở xưa đã thề cùng sinh tử với chúa công, cớ gì bây giờ lại bỏ nhau, thân này cổ phơi trên bãi cũng cam tâm, huống gì gia quyến!

Lời của Bá Đương làm mọi người đều cảm khích, chẳng ai muốn đi nơi khác nữa. Chỉ riêng Giảo Kim nhảy ra trước mà lớn tiếng:

- Không phải Giảo Kim này vô tình. Mọi người đi thì được, nhưng Giảo Kim này đi không được!

Ai nấy hỏi:

- Sao lại như thế?

Lý Mật đỡ lời:

- Ta hiểu rồi? Trình mẫu hiện còn trên Ngõa Cương, không đi cũng được.

Giảo Kim đáp:

- Không phải thế. Mẫu thân ở Ngõa Cương, đã có Vưu viên ngoại khác gì anh em, bao giờ lại quên việc chăm nom được, Giảo Kim chẳng phải lo chuyện đó. Nhưng năm trước Lý Thế Dân bị giam ở Nam Lao một trăm ngày, phần lớn đều do Giảo Kim này mà nên!

Mọi người nói:

- Đó là việc quốc gia, mà nào đâu chỉ tội riêng gì mình Trình hiền đệ?

Giảo Kim đáp:

- Dạo ấy Thế Dân dò xét thành Kim Dung, trăm quan đều nói là mẹo lừa của Thế Dân, không ai dám ra bắt, chỉ riêng độc Giảo Kim này, chẳng sợ chết ra khỏi thành, đuổi đến "Lão Quân đường". Thế Dân trốn trong khám, tiểu đệ thấy Thế Dân biến thành một con mãng xà tinh, mới giơ búa định bổ, may mà Tần đại huynh đỡ kịp, nói rằng: "Bắt sống đem về gặp chúa công!", đến nỗi quần thần hai người, bị giam ở Nam lao. Người đời ngày nay, ân thì dễ quên, oán thì phân minh. Tiểu đệ mà về Đường, thì thật trúng ý Thế Dân, chỉ cần cho Giảo Kim này một đao, chia làm hai khúc, thì mẫu thân ai người chăm sóc. Không đi! Không đi được đâu!

Mọi người nói:

- Lúc này thì ai làm theo ý người ấy. Giảo Kim không đi, chúng ta cũng cứ theo chúa công về với nhà Đường thôi!

Lý Mật sợ kéo dài sinh biến, cũng chẳng chờ Thúc Bảo trở về, cũng chẳng báo cho Mậu Công, lệnh cho hai vạn quân sĩ kéo về phía Tây. Trước tiên sai Nguyên soái phủ duyên Liễu Tiếp, đem theo tấu chương dâng vua Đường.

Vua Đường Lý Uyên, từ lâu đã biết tài thao lược Lý Mật có thể dùng được, huống chi vùng Hà Nam, Sơn Đông, bộ hạ của Lý Mật khá nhiều, nếu thu phục được Lý Mật, thì cũng nhiều kẻ theo về, cho nên cả mừng, sai ngay tướng quân Đoàn Chí Huyền ra gặp, tìm lời an ủi lại sai ty pháp Hứa Kinh Tôn ra đón. Lý Mật tưởng tới thuở làm minh chủ, Lý Uyên bao lần ca ngợi, nào hay một sớm thất lợi, để đến nỗi phải cúi đầu làm thần tử Lý Uyên, trong lòng cũng ảo não không nguôi. Nhưng nay sự đã đến nước này, không thể không chịu dưới kẻ khác, đành phải dẫn bọn Bá Dương kéo vào Trường An, triều kiến vua Đường. Các tướng bái lạy xong, mời Lý Mật lên điện, vua Đường ban cho ngồi:

- Hiền đệ can quan lao khổ, hãy nghỉ ngơi ít lâu, rồi chờ Thế Dân ở U Châu về, sẽ cùng hiền đệ san bằng Đông Quan, trả hận cho hiền đệ.

Rồi truyền chỉ phong cho Lý Mật làm Quang lộc khanh Thượng trụ quốc, trước Hình Quốc Công. Vương Bá Đương làm Hữu vũ vệ tướng quân. Ngụy Trưng làm Tây phủ ký thất tham quân, ngoài ra các tướng sĩ đều được ban chức tước. Lý Mật tạ ơn lui ra. Vua Đường thấy Lý Mật không mang theo gia quyến, đem em họ là Độc Cô thị ban cho làm vợ, quan chức tuy không to, nhưng ơn nghĩa như thế cũng lớn.

Chính là:

Nhớ thuở xưa rồng mây nanh vuốt

Mà sao nay như chuột như dê

Cùng bầy Giáng, Quán, ê chề (1)

Hàng thần lơ láo, tôn ty bẽ bàng.

1 Bình định xong thiên hạ, Hán Cao Tổ phong Hàn Tín làm Sở Vương. Chu Bột được phong Giáng Hầu, Quán Anh phong Dĩnh Âm Hầu. Nhưng sau Hàn Tín cũng bị giáng xuống tước hầu như Giáng, Quán, nên vừa bực, vừa thẹn! (Sử Ký)

hết: Hồi Thứ Năm Mươi Ba, xem tiếp: Hồi Thứ Năm Mươi Bốn

Đánh máy: bevang

Nguồn: bevang / VNthuquan - Thư viện Online

Được bạn: Ct.Ly đưa lên

vào ngày: 16 tháng 2 năm 2010

Hồi Thứ Năm Mươi Bốn

Mẹ hưởng ơn vua, Trình Giảo Kim oán thù quên hết,

Lòng nhớ thề cũ, Vương Bá Đương tính mạng tiếc chi.

Từ rằng:

Nhớ xưa tăm tiếng nổi như cồn

Từ bốn phương

Anh hào dập dìu như sóng

Thế rồi, một sớm thất cơ

Lệ lả tả tưới ướt cả núi xác đồi xơ mộng xưa! mộng xưa!

Hãy mừng còn bạn thuở xưa cập kè!

Theo điệu "Như mộng lệnh"

Người xưa nói: biết thế nào là đủ thì không nhục, không biết bao nhiêu cho vừa, thì nỗi nhục nhã cũng kéo theo ngay.

***

Lại nói chuyện Ngụy Vương Lý Mật vào Trường An, nhớ lại thuở trước đến Đông Đô, Tần Vương tiên triều còn phong chức Thái úy coi sóc công việc trong ngoài, nay về với nhà Đường, vua Đường nhất định đãi không bạc. Hàng em út như Lý Thần Thông, Lý Đạo Huyền mà còn được phong vương, thì Lý Huyền Thúy được một tước vương cũng chưa biết chừng, nhưng rồi chỉ được phong Quang lộc khanh, trong lòng lấy làm bất bình, mà không biết rằng vua Đường rất trân trọng, rất tiếc cho họ Lý, muốn chu toàn cho họ Lý, nhưng còn sợ rằng nếu đặt ở ngôi cao ngay, triều thần sẽ ganh ghét, lại thêm Hà Nam, Sơn Đông chưa thu phục được, cần phải làm sao chiêu an được đám bộ hạ cũ của Lý Mật. Nay chưa gì đã phong tước cao lộc trọng, mai kia biết thêm chức tước gì nữa, nên mới tạm để như vậy hòng lung lạc, ma chiết ít nhiều chí khí của Lý. Lý cũng tưởng như hồi ở Kim Dung thành, Lý chẳng dung nổi Thế Dân, thì nay mình quy Đường, vua Đường cũng lấy thế đãi mình, vẫn coi mình là một kẻ đại trượng phu đội trời đạp đất, không thể cam chịu để người khác khinh khi.

Chưa được một tháng, Tần Vương chinh Lũng Tây dẹp yên con của Tiết Nhân Cảo là Tiết Cử, nhổ trại khải hoàn, đã sai tiểu hiệu về Trường An báo tin thắng trận trước. Vua Đường triệu Lý Mật vào triều, phủ dụ:

- Từ ngày khanh về đến nay, chưa từng gặp mặt Thế Dân, trẫm chỉ sợ Thế Dân nhớ tới chuyện cũ, không có lợi cho khanh, khanh nên ra đón để trọn lễ thần tử vậy!

Lý Mật bằng lòng. Lúc này Ngụy Trưng cáo ốm, nằm ở Tây phủ, Lý Mật cùng Bá Đương với khoảng hai mươi người nữa, ra khỏi Trường An, lên phía bắc, tới Bân Châu, thám mã quay lại báo người ngựa Tần Vương đã tới gần. Lý Mật hỏi Tổ Quận Ngạn:

- Nếu Tần Vương có hỏi, ta nên đối đáp như thế nào?

Quân Ngạn đáp:

- Không hỏi thì thôi, có hỏi thì cứ nói, thánh thượng sai nghênh giá, thế là không thể nào nghĩ đến việc hại ta vậy!

Bỗng tiếng trống chiêng rộn rã, pháo nổ tung trời, đội cẩm y ăn mặc sặc sỡ, hai bên là mười viên tổng quản, kiếm kích sáng ngời, đi trước là mấy viên tướng hiệu hò hét, theo sau là đội nhạc, kèn trống nhịp nhàng đi tới. Lý Mật chắc chắn Thế Dân, vội cùng mọi người đứng chờ bên đường, thì thấy một viên tướng trên ngựa, lớn tiếng:

- Ta không phải Tần Vương, mà là Trưởng Tôn Vô Kỵ cùng Lưu Hoàng Cơ. Điện hạ còn ở phía sau. Các ngươi là ai, sao lại đứng đợi ở đây?

Lý Mật lại càng bực bội, biết rõ Tần Vương cố ý sai gia tướng giả dạng như thế để làm nhục mình, nay nếu không đi tiếp, thì càng làm phật lòng Tần Vương, nhưng nếu đi tiếp thì nỗi nhục nhã càng dày vò.

Lại một đội người ngựa đi tới, ngay phía trước là biển "hồi tỵ" (1) màu vàng chóe giương cao, giữa là cờ ngũ sắc cùng kiếm thương nhọn trời, phía sau tiếng quát vang dội. Lý Mật nghĩ thầm: "Đây thật là Tần Vương rồi!". Liền vội vàng cúi lạy, thì thấy hai người trên ngựa cười nói:

- Chúng ta là Mã Tam Bảo, Bạch Hiển Đạo, dạo trước đã tới thành Kim Dung thăm ngài, nay ngài cũng có đến Trường An sao. Nếu muốn đón điện hạ, thì cứ trông ngự giá thật cao ở phía sau là đúng, hãy tới mà đón cho cẩn thận!

1 Bảng lệnh cho dân chúng tránh xa!

Lý Mật mặt mày đỏ lựng, đấm ngực đậm chân, ngửa mặt lên trời mà than:

- Đại trượng phu không tự lập được, phải khuất dưới người khác, xỉ nhục như thế, thì còn mặt mũi nào mà đứng trong trời đất này nữa?

Lại muốn rút kiếm tự vẫn, Bá Đương phải giằng lấy kiếm mà khuyên:

- Sao minh công lại nghĩ cạn như thế, Chu Văn Vương bị tù ở ngục Dữu Lý, Câu Tiễn bị nhục ở Cối Kê, mà về sau vẫn làm nên nghiệp lớn, phải biết nhẫn nại, còn mưu đồ sau này chứ.

Có người báo:

- Phía trước cờ vàng phấp phới, trên thêu chữ lớn "Tần Vương", nay thì đúng Tần Vương không sai!

Lý Mật không biết làm thế nào, đành phải đứng lại bên đường, ngước trông đội người ngựa đi tới trước lá cờ thêu ngũ sắc, võ tướng áo giáp, mũ bạc giăng hàng, cắp cung đeo tên, ánh sáng lóe mặt, yên vâng kiệu ngọc, long lanh rực trời, lực sĩ theo sau là những gia tướng Sử Nhạc, Đào Vũ Khâm, tốp tiếp là Vương Thường, Khâu Sĩ Doãn.

Bốn tướng nhận ra Lý Mật, đều giơ cao tay, ngồi trên lưng ngựa chào:

- Ngụy Vương tha lỗi, chúng tôi xin thất lễ!

Lý Mật cùng mọi người yên lặng, nước mắt ngắn dài. Bá Đương phải an ủi lần nữa.

Lại thấy Ân Khai Sơn, Lạc Dương Sử, làm tả hữu hộ vệ, Tần Vương mang mãng bào, đội kim khôi, chẳng khác gì một thiên vương, ngồi cao ngất trong màn gấm. Lý Mật trông thấy rõ ràng, vội vàng phủ phục xuống thưa:

- Kẻ thô lỗ này không ra đón sớm hơn, xin điện hạ tha tội.

Tần Vương thấy Lý Mật, bất giác "nộ phát xung quan", tóc giận đẩy mũ lên cao, tay cầm cung, tay cắp tên, giương cung cong tít, nhưng thấy các tướng Ngụy: Vương Bá Đương, Giả Nhuận Phủ, Tổ Quân Ngạn, Liễu Chu đều phủ phục dưới đất, mặt xám như đất, Lý Mật lấy hai tay che mặt, run sợ đứng không vững, cả bọn chẳng khác gì chó chực, nên cũng vốn là bậc quân tử đại lượng, liền thu cung, bỏ tên vào bao, lấy cánh cung chỉ vào mặt Lý Mật mà mắng:

- Thất phu cũng có ngày nay sao? Ta vẫn chờ bắn cho ngươi một phát, để báo ngày tội tù cũ, nhưng sợ liên lụy đến người khác, lại trách rằng ta không có lượng bao dung. Hãy tạm tha tính mạng cho ngươi.

Rồi quát lớn một tiếng mà đi. Đúng là Tần Vương đã biết có Lý Mật ra đón, nên bày đặt ra thế để làm nhục Lý Mật vậy.

Tần Vương vào triều bái kiến phụ vương, vua Đường an ủi:

- Con chinh phạt nhọc nhằn, yên cương vất vả!

Tần Vương thưa:

- Nhờ hồng phúc của phụ vương, chư tướng hết lòng hết sức, đắc thắng khải hoàn, bắt được Tiết Nhân Tiếp, La Tôn Hầu, hiện đang nhốt ở xe tù, đợi phụ vương phát lạc?

Vua Đường cả mừng, liền truyền vũ sĩ lôi ngay ra chợ chém đầu, treo thủ cấp để thị chúng, rồi lại hỏi Tần Vương:

- Con đã gặp Lý Mật chưa?

Tần Vương thưa:

- Thần đã gặp rồi.

Vua Đường tiếp:

- Lúc ấy trẫm cũng muốn cự tuyệt, không cho hàng. Nhân có Lưu Văn Tĩnh thưa: "Trịnh với Ngụy liền nhau, hai nước như môi với răng, nay Vương Thế Sung diệt được Lý Mật, chẳng khác gì Quắc vong thì Ngu cũng không còn vậy. Nay nếu không nhận cho hàng, Lý Mật tất cùng kế, kéo binh theo kẻ khác, lại tăng thêm một kẻ địch, khổ công đánh dẹp. Thật không nên?"

Tần Vương thưa:

- Vì sao mấy viên quan có ơn với thần lại không thấy đâu cả?

Vua Đường đáp:

- Ngụy Trưng đã đến đây, trẫm cũng biết là kẻ có tài nên đã cho làm Tây phủ ký thất tham quân, nay nghe nói bị bệnh, có lẽ vì thế không ra đón chăng?

Tần Vương vào thăm mẫu hậu, rồi tạ ơn ra khỏi cung. Tần Vương nguyên là kẻ có tài dẹp loạn thế, nên vẫn để ý đến chuyện cầu hiền như khát nước, lại thêm có ơn với mình thuở trước, sao lại không để ý cho được, liền trở về Tây phủ, hỏi nơi ở của Ngụy Trưng.

Ngụy Trưng vốn chẳng ốm đau gì, nhưng thấy Lý Mật cùng đi đón Tần Vương, Ngụy Trưng cũng có chỗ khó nói, nên tìm cớ cáo bệnh không đi. Nay nghe Tần Vương đến thăm, vội ra bái phục mà thưa:

- Thần bỗng nhiên trở trời, không thể ra đón, xin điện hạ tha tội cho!

Tần Vương đỡ dậy mà rằng:

- Tiên sinh với ta, đâu phải như những người khác, mà phải vái lạy như thế này?

Rồi kéo cùng ngồi. Ngụy Trưng thưa:

- Ngụy Công thất thế về hàng, xin điện hạ mở lượng hải hà, đừng nhớ lỗi lầm xưa!

Tần Vương đáp:

- Ta chịu ơn sâu của các vị, ngày đêm nhớ kỹ trong lòng, nay may các vị không bỏ, thật thỏa nguyện bình sinh. Lý Mật là kẻ thất phu, ta vừa thấy quỳ ở bên đường, mấy lấn không kìm nổi tay chân, nhưng thấy còn có các tướng cho nên lại thôi. Giờ ta dẫu không giết y cũng có ngày người khác sẽ giết mà thôi.

Lại hỏi:

- Thúc Bảo, Mậu Công sao không thấy đâu?

Ngụy Trưng thưa:

- Mậu Công đang giữ Lê Dương, vốn là kẻ sĩ túc trí đa mưu, Ngụy Công cậy tài, đàm luận không hợp với Mậu Công, cho nên phải ra giữ đất này, nhưng vẫn chẳng hề mang lòng nào khác. Còn Thúc Bảo thì đi chinh phạt Tiêu Tiên chưa về, Ngụy Công về đây, cũng chưa cho người đi báo cho họ biết đâu.

Tần Vương nói:

- Tần mẫu cùng mẹ con Hoài Ngọc hiện đang ở đây, ta thường sai người tới thăm nom luôn.

Ngụy Trưng thưa:

- Thúc Bảo đến giờ thì có lẽ đã biết rõ mọi chuyện rồi. Thật là một người hiếu thảo với mẫu thân, nghĩa khí với bạn bè. Đơn Hùng Tín thì đã hàng Vương Thế Sung rồi, sợ rằng chuyện này còn rắc rối nhiều sau này.

Tần Vương lại hỏi:

- Thế còn Trình Giảo Kim lỗ mãng cũng không thấy đâu cả là sao?

Ngụy Trưng đáp:

- Giảo Kim nhân trước kia đắc tội với điện hạ, nên không dám tới quay về với thân mẫu ở Ngõa Cương. Giảo Kim tuy thô lỗ, nhưng thờ thân mẫu rất có hiếu, lại cũng là một kẻ ngay thẳng trong sạch.

Ngày hôm trước, thần có gặp Từ Nghĩa Phù, mới biết hiện nay Trình mẫu cũng đang ở đây. Giảo Kim về đến Ngõa Cương, biết chuyện này, nhất định chẳng nghĩ gì đến thân mạng mà vào Trường An tìm. Lúc vào xin điện hạ hãy quên chuyện cũ mà bao dung cho Giảo Kim.

Tần Vương cùng Ngụy Trưng chuyện trò suốt sáng, suốt chiều, rất là thân ái.

***

Nay hãy nói chuyện Giảo Kim, về đến Ngõa Cương, không thấy mẫu thân, vội đi hỏi Vưu viên ngoại, Vưu Thông đáp:

- Bá mẫu theo Tần mẫu đi thăm họ hàng, không ngờ bị Tần Vương lập kế đưa cả về Trường An rồi còn đâu!

Giảo Kim nghe thế, cười nói:

- Vưu đại ca, đại ca hãy đi đòi về cho tiểu đệ!

Vưu Thông hỏi:

- Trình hiền đệ, hiền đệ nói thật hay nói đùa?

Liền kể lại tỉ mỉ chuyện cũ, rồi thêm:

- Bọn người này nguyên chỉ định đón Tần mẫu mà thôi, ai ngờ bá mẫu đi theo. Vưu Thông này đã mấy lần khuyên can, nhưng bá mẫu chẳng nghe, nên phải nhờ Liên Cự Chân đi theo. Hôm trước Cự Chân từ Trường An về dây, kể lại bá mẫu cùng Tần mẫu vào ở trong Tây phủ của Tần Vương rất là sung sướng yên ổn. Hiền đệ nếu không tin, thì nên đi Lê Dương, hỏi thẳng Cự Chân thì sẽ biết rõ ràng hơn.

Giảo Kim lúc này cũng mệt mỏi, ngẩn người nghĩ ngợi một lát, rồi quát tướng:

- Thôi kệ , cứ vào quách hang cọp vậy, cùng lắm là đến kết quả tính mạng họ Trình này thôi chứ gì!

Sáng hôm sau, cũng chẳng chào Vưu Thông, cùng hai kẻ thân tín, vào Trường An.

Đáng thương thay:

Nghĩa mẹ, thân con đâu dám tiếc

Ơn vua, đời trẻ thuở nào quên.

Giảo Kim sợ đường lớn có người nhận ra, nên đi theo đường mòn, ngày đi đêm nghỉ, chưa đầy một tháng đã tới Trường An, vào thành kiếm một nhà trọ, ngay ở phía trái Tây phủ nghỉ ngơi, rồi sai thân tín đến xem cửa Tây phủ bao giờ mở. Tần Vương biết Trình Giảo Kim đến, ra lệnh cho gia tướng xếp đặt trang nghiêm, gươm giáo sáng loáng, trống lớn kèn to, nổi đủ ba hồi. Tần Vương lên điện, chư tướng lạy chào, đứng hầu hai bên. Quan coi cửa vào quỳ lạy thưa:

- Giặc Ngụy là Trình Tri Tiết đã được dẫn vào!

Vũ vệ gia tướng dạ lớn một tiếng như sấm, Tần Vương ngồi trên điện cao, thấy một người đàn ông to lớn cởi trần, tóc phía gáy cắt ngắn, đường hoàng đi vào, đến trước đan trì, vẫn ngang nhiên đứng thẳng. Tần Vương nhìn kỹ, đúng là Giảo Kim rồi, bất giác lửa giận phừng phừng, mày râu dựng ngược, xô án mà quát:

- Thằng giặc kia! Hôm nay là ngày cuối cùng của mày. Mày còn nhớ năm trước, ta trốn trong "Lão Quân Đường", suýt nữa bị mày cho một búa vỡ sọ, nay ta phải bỏ mày vào vạc mà nấu nhừ, mới thỏa hận này!

Giảo Kim cười lớn mà rằng:

- Lúc ấy ta chỉ biết có Ngụy, mà không biết có Đường. Đại trượng phu thì người có ân với mình không quên trả, kẻ oán với mình thì nên quên mới phải. Ta mà sợ chết, đã không đến Trường An, muốn giết thì cứ giết, việc gì phải giận dữ. Hãy mau gọi mẫu thân của ta ra đây, cho ta gặp mặt lần cuối, rồi đâu ra đấy, các ngươi cứ chém đi!

Tần Vương quát:

- Thằng giặc già đã đến nước này mà vẫn còn ngang ngược, hãy tạm tha chết cho mày. Quân sĩ đâu, hãy giải thằng giặc này đi gặp mẫu thân rồi sẽ chịu tội sau!

Quân sĩ không cho Giảo Kim nói nữa, lôi ngay ra ngoài cửa phủ.

Tần mẫu từ ngày đến Trường An vẫn có một ngôi nhà rất to ở ngay phía đông Tây phủ, cùng với Trình mẫu, Tần Vương sai ngay gần hai chục hầu gái đến phục dịch, lại điều thêm hai mươi tên lính coi giữ. Ngày ngày có người cung phụng thức ăn vật dùng, tháng tháng lại có vàng lụa làm quà của Tần Vương gửi đến. Tần mẫu cũng không quên phần Trình mẫu, nên cả hai ở đây rất yên ổn, sung sướng, vô cùng cảm ơn Tần Vương.

Quân sĩ đem Giảo Kim dẫn đến chỗ Tần mẫu đã có người vào báo trước. Tần mẫu cùng Trình mẫu vội chạy ra cửa. Trình mẫu thấy con dáng hình ra thế, lập tức ôm lấy đầu mà khóc nức nở mãi không thôi, đến nỗi bọn lính xúm quanh cũng không nhịn được cười. Giảo Kim rầu rĩ thưa:

- Mẫu thân chẳng phải khóc, con xin hỏi mẫu thân, từ ngày đến đây mẫu thân có khỏe không, có người hầu hạ không?

Trình mẫu vẫn chỉ khóc, không nói một lời, đến nỗi Tần mẫu phải đáp thay:

- Mới đến Trường An, đã có người đến hầu hạ, ngày ngày đưa thức ăn, đồ dùng, hàng tháng có vàng bạc, lụa là, lại còn sai các cô, các bà tới thăm nom. Ta cùng Trình mẫu, thật đội ơn sâu, chẳng ai nhiều chẳng ai mỏng.

Giảo Kim vẫn gặng hỏi mẫu thân:

- Có thật thế không?

Trình mẫu gạt nước mắt, gật đầu mà rằng:

- Quả đúng như vậy!

Rồi đưa tay chỉ hai nàng hầu gái nói tiếp:

- Đây là những người Tần Vương sai đến hầu hạ ta vậy!

Giảo Kim bèn thưa:

- Mẫu thân, con thật có lỗi, không biết được Tần Vương là người tốt đến thế. Nay con có chết dưới trướng của Tần Vương, cũng thật cam lòng, mẫu thân không phải nhớ con làm gì, cứ ở mãi suốt đời với Tần mẫu cũng tốt rồi!

Rồi đứng lên vùng đi ra, nhưng Trình mẫu vẫn không chịu thả, Tần mẫu nói với Giảo Kim:

- Cháu không phải vội vàng, nghe ta nói: lúc ấy vì Tần Vương muốn Tần Quỳnh về với nhà Đường, nên cố giả nhà họ La đến đón ta, không ngờ mẫu thân cháu cũng có lòng tốt, đi cùng ta ra khỏi trại, nên cùng về Trường An. Nay Ngụy Công cũng đã hàng nhà Đường, Tần Quỳnh chẳng sớm thì muộn cũng sẽ về. Chẳng nhẽ mẫu thân cháu vì ta mà ra khỏi nhà, để rồi không còn thấy mặt con nữa sao?

Rồi nói với những người đứng hầu:

- Lấy cho ta bộ quần áo đại lễ ra đây, để ta đến gặp Tần Vương xin cho Giảo Kim.

Đang nói, thì thấy một sai quan, đi cùng ba bốn hiệu úy, tay bưng mũ, áo bào, lớn tiếng:

- Điện hạ có lệnh tha tội cho Trình Tri Tiết, truyền mặc ngay áo mũ để vào tương kiến tại Tây phủ.

Nói rồi, mấy hiệu úy cởi ngay trói cho Giảo Kim, mặc quan phục cho. Trình mẫu thấy thế, vội vàng quỳ lạy ngay dưới đất, ngửa mặt lên trời mà khấn vái:

- Cầu cho điện hạ thái bình nhất thống, vạn thọ vô cương.

Xung quanh không nín được cười. Đội mũ, mặc áo xong xuôi, Giảo Kim vái lạy mẫu thân cùng Tần mẫu, Trình mẫu níu áo dặn:

- Con chẳng cần phải lạy tạ, mau vào Tây phủ vái lạy Tần Vương, thật là vị chúa công khoan ân đại độ, con phải tận tâm báo ơn Tần Vương, ta dẫu có chết cũng nhắm được mắt rồi!

Giảo Kim vâng dạ, vội cùng sai quan quay lại Tây phủ. Lúc này Tần Vương đang ở "Tập hiền đường", với các mưu sĩ bàn luận, thì thấy sai quan quay về phục mệnh, lại nói rõ Tần mẫu cũng định xin gặp Trình mẫu tạ ơn ra sao. Tần Vương cười, nói với Ngụy Trưng cùng Lưu Văn Tĩnh:

- May mà ta sớm sai người đến tha tội cho Giảo Kim, nếu để Tần mẫu đến đây nữa thì thật nhẫn tâm vậy!

Sai quan lại nhắc, Giảo Kim hiện đang ở ngoài cửa soái chờ phục mệnh, Tần Vương phán:

- Cho Giảo Kim vào Tây đường!

Tây đường vốn là nơi tiếp khách của Tây phủ, sai quân dẫn ngay Giảo Kim đến chờ bên thềm, thì thấy Tần Vương thong thả đi tới Giảo Kim vội chạy như bay lại, quỳ xuống trước mặt Tần Vương, khóc lóc thưa:

- Thần thật vốn có mắt mà không có con ngươi, trước kia đã không biết được ra minh chủ anh hùng, để đến nỗi tội thật không tránh nổi, nay tuy được nhờ ơn lớn mà tha tội, nhưng trong thật tủi thẹn.

Tần Vương xuống thềm, kéo Giảo Kim dậy mà phán rằng:

- Vừa rồi ta thử khanh đấy thôi. Từ lâu ta đã biết đến lòng trung nghĩa của khanh, cần khanh thờ Đường như thờ Ngụy là được rồi.

Giảo Kim thưa:

- Thần đội ơn sâu của điện hạ với mẫu thân, nào dám không quên thân để báo đền.

Tần Vương hỏi chuyện đánh nhau với Thế Sung trước kia ra sao, Giảo Kim thuật lại tỉ mỉ, Tần Vương lại hỏi tiếp:

- Khanh đã gặp Thúc Bảo cùng Mậu Công chưa?

Giảo Kim thưa:

- Thần từ lúc thua trận, thấy Ngụy Công đã quy Đường, thần liền về Ngõa Cương, nghe được tin mẫu thân ngày đêm về đây, thực chưa gặp Tần, Từ nhị vị đại huynh. Nay thần cảm ơn trời biển của điện hạ, thần cũng có khoảng gần hai nghìn lính tâm phúc, đang còn ở Bắc Mang, Yển Sư, thần xin đi gọi về, cùng rủ Tần, Từ nhị vị quy Đường. Không biết điện hạ có bằng lòng cho thần đi chăng?

Tần Vương cả mừng:

- Có gì mà ta chẳng bằng lòng, thế cũng đủ thấy lòng trung nghĩa của khanh. Nhưng phải vào triều kiến thánh thượng, xem thánh ý ra sao đã.

Giảo Kim vâng mệnh. Tần Vương lệnh cho sai quan dẫn Giảo Kim vào triều điện thánh. Vua Đường thấy Giảo Kim tướng mạo đường đường, tiếng nghe như sấm, liền phong ngay làm Hổ dực đại tướng quân, kiêm Tây phủ hành quân tổng quản, tùy việc sai khiến của Tần Vương. Giảo Kim tạ ơn lui ra, quay lại Tây phủ tạ ơn Tần Vương, rồi quay về ngay gặp mẫu thân, Tần mẫu cùng mẹ con Trương thị, Tần Hoài Ngọc ra bái chào, cả nhà vui vẻ.

Sáng hôm sau, Giảo Kim từ biệt Tần Vương, nhung trang đầy đủ lên đường. Mấy hôm trước, vào Trường An thì đúng là chín phần chết, một phần sống, nay ra khỏi Trường An, áo cừu nhẹ, ngựa béo, thầy thầy tớ tớ thật khác xa lúc đầu, theo đường mà tới Đông Đô.

Chính là:

Vì tình tri kỷ mới

Nhớ nghĩa bạn bè xưa.

***

Nay lại nói chuyện Lý Mật, từ ngày bị Tần Vương sỉ nhục, mỗi ngày trở về Hình phủ, mặt mày buồn bã. Tả hữu báo tin Giảo Kim tới, Lý Mật trong lòng chỉ muốn Giảo Kim tới thăm, để hỏi chuyện tin tức ở Đông Đô chẳng ngờ Giảo Kim cũng không đến. Ba bốn ngày sau, nghe tin vua Đường phong cho Giảo Kim làm Hổ dực đại tướng quân, sai Giảo Kim ra khỏi Trường An rồi. Lý Mật trong lòng buồn rầu, nói với Bá Đương cùng các tướng khác:

- Giảo Kim vốn là bề tôi của ta, đến đây đã ba bốn ngày, cũng chẳng lại gặp ta một lần, nhân tình đơn bạc đến thế thì thôi. Nay vua Đường ban quan tước cho, ra khỏi Trường An, có lẽ là đi thu thập bộ hạ thân tín cũ về giúp nhà Đường. Còn chúng ta ở đây lặng lẽ chờ chết, ngày nào mới ló đầu ra được?

Các tướng của Lý Mật, toàn những người chiếm thành, lấn đất, vàng lụa đến tay dễ dàng, tiêu pha cũng chẳng cần nghĩ ngợi, nay vào Trường An, cái ăn tiêu hàng ngày chẳng đủ đầy, ở cũng chưa yên ổn, nay thấy Lý Mật có ý ra đi, tất cả liền bàn bạc:

- Mậu Công hiện đang ở Lê Dương, Trương Thiện Tương ở Doãn Châu, Thúc Bảo, Sĩ Tín có lẽ đã bình định xong Tiêu Tiên, nhất định sẽ về Ngõa Cương. Hùng Tín cùng các tướng khác ở Lạc Dương, chúa công vẫn còn nhiều nơi nương dựa, việc gì phải khổ sở ngồi yên một chỗ để người ta đối xử với mình như vậy.

Bá Đương cũng góp:

- Lẽ nên như thế!

Lý Mật bàn:

- Cũng nên tâu với vua Đường, rằng đi Sơn Đông, thu thập tay chân ở khắp các nơi, rồi kéo về Quan Ngoại đầy đủ.

Nhuận Phủ khuyên:

- Không nên, chúa thượng đãi minh công sâu nặng đến thế. Huống chi đại sự bây giờ đã gần như lời sấm lâu nay cả rồi, thiên hạ sắp thống nhất đến nơi, minh công vẫn có ý khác thì ngay đến Trịnh Ngạn Sư, Sử Vạn Bảo, sáng khởi sự, chiều đã thấy binh triều đình kéo đến. Dẫu có xuất quân, lính tráng đâu ra, mang tiếng phản nghịch, còn ai dung. Theo ý của minh công, chi bằng hãy ngồi yên, đợi đến lúc nào thuận lợi, mới có thể vẹn toàn vậy.

Lý Mật giận dữ:

- Khanh vốn là tâm phúc của ta, sao lại nói thế, nếu không bằng lòng, ta chém đầu trước rồi sẽ khởi sự sau vậy.

Nhuận Phủ khóc mà đáp:

- Từ ngày Địch Tư đồ bị giết đến nay, người người đều nói minh công là quên ơn nghĩa, chẳng nhớ gốc xưa, trên dưới đều thay lòng, ly tán. Nay trong lúc túng quẫn nghĩ càn, ai là người giao lại binh lính cho minh công. Giả Liễu nay mang ơn minh công đối xử hậu ân, nên nói thẳng mà không dám che giấu gì, xin minh công hãy sáng suốt nghĩ kỹ. Còn nếu đúng là minh công có thể tìm thấy chỗ nương thân tốt hơn, thì Giả Liễu này dẫu có tan xương nát thịt cũng chẳng tiếc!

Lý Mật đùng đùng dùng gươm toan đâm, Bá Đương phải ra sức khuyên can mới thôi. Tổ Quân Ngạn bàn:

- Cứ như thần nghĩ, chi bằng nói với công chúa, rồi trốn khỏi Trường An. Tần Vương có biết, sai người ngăn, công chúa cũng ở trong đám cả, tất chẳng tội nào. Ngày xưa Lưu Tiên chủ lừa Tôn Phu nhân về Hán cũng theo cách này, chẳng biết ý minh công thế nào?

Kế sách đã định, Lý Mật giữ nguyên bộ mặt giận dữ vào nội phủ. Độc Cô công chúa hỏi:

- Kẻ đại trượng phu ôm đầy chí lớn trong lòng, thiếp thấy phu quân hình như đang nghĩ ngợi điều gì?

Lý Mật đáp:

- Ta có lời muốn nói, xin công chúa thử nghe xem có được chăng?

Công chúa thưa:

- Vợ chồng với nhau, còn có điều gì phải rào đón!

Lý Mật bèn tiếp:

- Ta muốn bỏ Đường mà đi, nhưng chỉ sợ công chúa bịn rịn không thể dứt, những muốn được công chúa cùng đi, không biết có được chăng?

Công chúa đáp:

- Có đúng thế thật không? Hoàng huynh thiếp nhận phu quân về hàng, phong tước cao, lại thương phu quân không nhà không cửa, ban gả thiếp cho, thân thiết đến thế, phú quý đến thế là cùng cực. Nay chưa ngồi ấm chiếu, ơn sâu chưa báo, đã sinh lòng khác, người có lòng không ai làm thế cả.

Lý Mật nói:

- Chúa thượng ơn sủng tuy hậu, nhưng Tần Vương là cháu công chúa mà lại làm nhục ta quá lắm, thế không thể cùng sống, hãy tạm đi Sơn Đông, thu thập sĩ tốt, sau này khởi sự. Huống chi phận đàn bà theo chồng là hay hơn cả, công chúa không theo, hoặc cũng có lòng khác chăng?

Công chúa nghe thế, rơi nước mắt mà rằng:

- Thiếp những tưởng phu quân là người tốt, hết lòng đền ơn nước, hóa ra cũng chẳng khác gì phường bất trung, bất nghĩa, kiếp này thiếp biết dựa vào đâu nữa?

Lý Mật thấy nói thế, sát khí đằng đằng, may ngay cạnh còn có cung nữ, để ý thấy vậy, vội vàng khuyên giải:

- Phò mã bớt giận, cũng bởi công chúa ít tuổi, chưa biết nghĩa lớn. Cổ nhân nói thật đúng: "Phu xướng phụ tùy",thì mới không xảy ra chuyện chia lìa, lấy thuận làm đầu, chính là đạo làm vợ. Phò mã đã nói thế, thì xin cứ bàn bạc cho kỹ, dần dần sẽ làm, chẳng kẻo chỉ một lời nói, mà làm tổn thương đến tình vợ chồng thắm thiết.

Lý Mật nghe thế, cơn giận cũng nguôi ít nhiều, bỏ ra bên ngoài.

Tổ Quân Ngạn hỏi:

- Minh công đã bàn bạc với công chúa chưa?

Lý Mật buồn bực nói:

- Vừa rồi ta mới chỉ nói vài câu, công chúa đã trách ta vong ân bội nghĩa, ta những muốn ngứa ngáy chân tay rồi, nên mới vội ra ngoài này.

Bá Đương bàn:

- Tin tức đã hở ra như thế, thì không hay nữa rồi, họa đến nơi bây giờ!

Lý Mật hỏi:

- Làm thế nào cho yên bây giờ?

Quân Ngạn đáp:

- Tất cả phải lên đường ngay, nếu cứ dùng dằng thì lại càng khó ra khỏi Trường An.

Lý Mật vội vàng quay vào đóng kín cửa trong, sai Bá Đương gọi đầy đủ các tướng tới, thu thập hành trang khí giới, cộng hơn sáu mươi người, không chờ đến sáng nữa, ra cửa Bắc mà đi khỏi Trường An. Quân canh cửa vội báo ngay cho Tần Vương. Tần Vương nổi giận, đến ngay Hình phủ xem xét, thì thấy cửa trong khóa kín, gọi người mở, thấy Độc Cô công chúa, công chúa kể lại những lời tối qua. Tần Vương nghiến răng, trợn mắt, vội về báo ngay cho phụ hoàng. Vua Đường cũng vô cùng giận dữ, định sai tướng đuổi theo bắt lại. Lưu Văn Tĩnh can:

- Chẳng cần phải động binh, chỉ cần sai hổ bài quan truyền dụ cho tổng quản các nơi, nếu Lý Mật dẫn tả hữu qua cửa thì bắt sống giải vua xử tội, thử xem Lý Mật chạy đâu cho thoát.

Vua Đường khen phải, lập tức sai hổ bài quan đi các nơi truyền lệnh.

***

Lại nói Lý Mật cùng bọn Bá Đương, nhìn sao mà đi, ngựa không dừng vó, chẳng mấy chốc, đã ra khỏi Đồng Quan, qua khỏi Lam Điền.

Lý Mật nói với mọi người:

- Nếu ta đến Doãn Châu với Trương Thiện Trương, thì nên đi theo đường mòn nhanh hơn, còn định đến Lê Dương với Mậu Công thì lại đi theo đường lớn.

Nhuận Phủ đáp:

- Phía trước đường ngày một khó đi, cứ như ý Nhuận Phủ này, thì nên chia làm hai đội, một đội đến Lê Dương, một đội qua Doãn Châu.

Lý Mật nói:

- Như thế cũng được, ngươi cùng Quân Ngạn đi đường lớn tới Lê Dương. Ta cùng Bá Đương đi đường mòn tới Doãn Châu. Đến nơi, hãy sai người báo cho biết là được.

Bởi vậy Nhuận Phủ cùng Quân Ngạn với khoảng hai mươi người đi theo đường lớn. Lý Mật cùng Bá Đương với hơn ba mươi người đi theo đường nhỏ, mấy ngày sau, đến huyện Đào Lâm. Quan huyện Đào Lâm là Phương Chính Dã, cũng là một viên quan tài năng, thấy bọn này đang đêm đi qua thành, lòng nghi ngờ, sai quân sĩ tới hỏi ngọn ngành, lục soát hành trang. Bọn tướng tá cùng lính tráng của Lý Mật, đều xuất thân từ cướp đường, dã tính chưa đổi, thấy bọn lính ở một huyện nhỏ mà làm vẻ nghiêm trang khám xét, cả bọn đều không nhịn được, tính quen đường cũ, rút dao chém bọn lính canh rồi kéo vào thành. Bá Đương vội ngăn lại, nhưng làm sao mà ngăn nổi, đến nỗi huyện quan Chính Dã phải bỏ trốn về Hùng Châu.

Lý Mật cùng tay chân vào thành rồi, chẳng ai ngăn trở, túi khăn lâu nay sạch không, cứ thế vào kho vét sạch của cải qua một đêm, sáng hôm sau lại ra đi. Chính Dã đến Hùng Châu, đem mọi chuyện thuật kỹ với tướng trấn thủ Sử Vạn Bảo, Vạn Bảo lo sợ không biết nên làm thế nào. Tổng quản Thịnh Ngạn Sư nói:

- Chẳng khó gì, ta đã có cách, chỉ cần khoảng mười người ngựa, là có thể lấy được thủ cấp lũ giặc này.

Vạn Bảo hỏi vặn mãi. Ngạn Sư vẫn không chịu nói. Lúc này Lý Mật đoán rằng, quan quân Đào Lâm tất chạy về Lạc Châu, đường núi chẳng còn ai ngăn trở, nên cứ cưỡi ngựa dẫn mọi người thong thả đi, tới núi Nam của dãy Hùng Nhĩ, một bên đường là núi cao, một bên là vực sâu âm u. Lý Mật cùng Bá Đương song song đi trước, chẳng thèm nhìn ngó hai bên. Bỗng nghe một tiếng pháo nổ, trên núi trong rừng cây, tên bay ra như ong, tiến thoái đều không xong, trong người lại chẳng giáp trụ. Từ trong khe núi, lính xông ra bịt kín cả hai đầu, sau trước. Bá Đương trong lúc vội vàng cũng chẳng xoay sở kịp, lấy thân mình che cho Lý Mật, cố hết sức để cứu lấy họ Lý, nhưng rồi cả hai đều chết trong đám tên đạn bời bời. Bị bọn phục binh kéo ra, cắt lấy thủ cấp, khiêng cả xác, báo tin thắng trận lên vua Đường. Vua Đường cả mừng, sai đem hai thủ cấp, treo lên cao ở giữa chợ cho mọi người xem, những kẻ theo trốn đều tru di tam tộc.

Chính là:

Có tài chẳng biết dùng tài

Để tài nó giục nó xui tan tành

Chẳng bằng họ Tần, họ Trình

Tiếng thơm muôn thuở, sử xanh còn truyền.

hết: Hồi Thứ Năm Mươi Bốn, xem tiếp: Hồi Thứ Năm Mươi Lăm

Đánh máy: bevang

Nguồn: bevang / VNthuquan - Thư viện Online

Được bạn: Ct.Ly đưa lên

vào ngày: 16 tháng 2 năm 2010

Hồi Thứ Năm Mươi Lăm

Mậu Công khóc trước ba quân, nghiêm trang tang lễ,

Tần Vương thân dự tang lễ, tâm phục ba quân.

Từ rằng:

Chốn sa trường, gió rên thảm thiết

Dạ anh hùng, khí tiết xốn xang

Lòng này tướng sĩ biết chăng

Gian trung phách nghĩa lại càng não thương

Cay con mắt núi bằng suối đổ

Nhức thấu xương, máu nhỏ đầu tên

Một lời hiểu, nhẹ cơn phiền

Lòng trời nhìn lại, bi liền thái lai

Chim ríu rít

Núi tịch mịch

Dạ đăm đăm

Tình vắn dài

Chiếu vua ban, chói lọi dạ đài

Rượu một chén thấm tận nơi u hồn

Ba quân gạt lệ mừng rơn

Tiếng hô dậy đất đội ơn cao dày

Sống còn quyết hẳn từ đây

Sống luôn nhớ nghĩa bạn

Chết nào quên trung vua.

Theo điệu "Lăng đào sa"

***

Nay nói tiếp việc vua Đường sai đem thủ cấp Lý Mật cùng Vương Bá Đương treo lên cột cao để thị chúng. Ngụy Trưng thấy thế trong lòng thắc thỏm không yên, gạt nước mắt thưa với Tần Vương:

- Làm tôi thì phải trung, với bạn bè thì phải giữ nghĩa. Chưa từng có kẻ nào có thể trung với vua, mà lại không có nghĩa với bạn bè. Bá Đương cùng Ngụy Công lúc đầu là bạn bè "bát bái chi giao", sau mới thành phận quân thần. Chẳng ngờ Ngụy Công ỷ tài, chẳng nghe quần thần, đến nỗi bại trận, về với nhà Đường, lại phụ đức, phải chết trong rừng tên kiếm, cùng với Bá Đương kể cũng gần hai chục người, duy chỉ Bá Đương là toàn trung toàn nghĩa. Thần nhớ lại, trước kia Ngụy Công cũng từng coi thần như kẻ tâm phúc, cùng đồng tâm hiệp sức có đến ba năm. Cùng nhau sống mà không cùng nhau chết, nay cũng chưa thật trọn nghĩa được với nhau. Trước mắt thi hài vẫn phơi ngoài núi hoang, hồn phách vật vờ không nơi nương tựa, đón gió gọi trăng, khóc hoa, cười tuyết, nghĩ tới đây, thật thấy lạnh lòng. Thần xin điện hạ cho nghỉ một tháng, để đến vùng Hùng Châu, Hùng Nhĩ, tìm thi hài Bá Đương, Lý Mật, để an hồn nơi chín suối, cũng là để an ủi người sống, tỏ ơn trời bể của điện hạ vậy.

Tần Vương đáp:

- Ta cùng tiên sinh ngày đêm đàm luận, nay há vì bọn thất phu này mà đến nỗi xa lìa sao?

Ngụy Trưng thưa:

- Thực không phải thế, thần báo ơn điện hạ còn dài, báo Ngụy Công thì chỉ còn có việc này. Nhớ xưa Hán Cao Tổ cùng Hạng Vũ đánh nhau hàng mấy năm. Hạng Vũ một sớm tự vẫn ở Ô Giang, Hán Cao Tổ lấy lễ vương mà táng Hạng Vũ, đến nỗi chư hầu cảm đức ấy. Xin điện hạ đừng theo pháp độ của nhà Tần, mà hãy theo gương Nghiêu Thuấn. Huống chi phép nước này đã sáng tỏ, tướng sĩ nhà Ngụy đang trông chờ, chưa dám nhất quyết, điện hạ nên tâu với triều đình, tha tội cho quyến thuộc, bỏ những thù hận cũ. Như thế không những binh lính nhà Ngụy tin phục theo về, cả bọn nhà Hạ, nhà Trịnh cũng theo đó mà quy phục. Thần đi chuyến này, chẳng riêng gì thu xếp cho Ngụy Công, mà còn là bày kế sách xây dựng nhà Đường, xin điện hạ xét cho.

Tần Vương đáp:

- Khanh hãy thư thả, để ta nghĩ kỹ.

Ngày hôm sau, Tần Vương đem lời Ngụy Trưng tâu với vua Đường, vua Đường khen hay, lập tức phát một đạo sắc:

"Nay ban sắc xá tội:

Phàm Lý Mật, Vương Bá Đương gia quyến, cùng những kẻ tướng sĩ lính tráng nhà Ngụy trốn chạy, đều được tha tội, cho tùy ý ăn ở, các quan địa phương thôi không được bắt bớ. Hãy kính nghe theo, không được sai sót. "

Sau khi vua Đường ban sắc này, Ngụy Trưng liền từ biệt Tần Vương, lên đường đi Hùng Châu.

***

Lại nói chuyện Từ Mậu Công ở Lê Dương, nghe tin Lý Mật thua trận, kéo tướng sĩ hàng nhà Đường, đoán rằng Ngụy Công có thờ nhà Đường cũng khó mà chung thủy, tất dẫn đến chuyện đổ nát, vẫn cố giữ lấy Lê Dương, chờ Thúc Bảo về, cùng nhau bàn luận. Mấy tháng sau, Thúc Bảo cùng Sĩ Tín đánh thắng Tiêu Tiên trở về, đi qua Lê Dương, Mậu Công đã sai người ra đón. Thúc Bảo cùng Sĩ Tín vào thành gặp mặt. Mậu Công kể lại tỉ mỉ đuôi đầu câu chuyện Lý Mật, Thúc Bảo dậm chân mà than:

- Ngụy Công tự mãn đến tối mắt, không thể trách móc ai được! Thật đáng tiếc!

Mậu Công nói:

- Ngụy Công cậy mình tài cao, kẻ dưới có nói chẳng bao giờ nghe, sắp tới sẽ còn nhiều thay đổi. Nay đại huynh định về đâu?

Thúc Bảo đáp:

- Mẫu thân mấy tháng nay chẳng nghe thấy tin tức gì, nay quay về Ngõa Cương đã.

Mậu Công vội vàng:

- Tiểu đệ quên mất, đại huynh vẫn chưa biết sao, bá mẫu cùng lệnh tẩu, lệnh lang đều đã bị Tần Vương lừa đưa về Trường An rồi!

Thúc Bảo biến sắc:

- Sao lại có chuyện thế được?

Mậu Công nói:

- Liên Cự Chân cũng có đưa đi, đại huynh về hỏi Cự Chân thì biết rõ ràng.

Thúc Bảo nói với Sĩ Tín:

- Hiền đệ, hiền đệ hãy đem binh mà đóng lại đây, để ta về Ngõa Cương xem sao.

Rồi cùng ba bốn tiểu hiệu lên đường đi Ngõa Cương. Vưu Thông, Cự Chân ra đón. Thúc Bảo hỏi:

- Tần Vương sao lại lừa đem gia quyến tiểu đệ về Trường An?

Cự Chân đáp:

- Tần đại huynh hãy khoan hỏi tiểu đệ, mà cứ xem thư đây của Tần mẫu gửi, rồi ta sẽ nói chuyện thêm.

Cự Chân vào bên trong lấy thư. Vưu Thông đem chuyện Từ Huệ Phi giả đóng người nhà La Nghệ, để lừa Tần mầu thế nào kể lại một lượt Cự Chân đem thư ra đưa cho Thúc Bảo. Trước tiên xem bên ngoài, thấy đề "Tần Quỳnh con mở xem", Thúc Bảo nhận rõ nét bút của mẫu thân, bất giác lệ ứa hai hàng, rồi vội xem từ đầu chí cuối, mới đỡ sụt sùi. Sau đó xem thư của Lưu Văn Tĩnh, rồi hỏi Cự Chân:

- Hiền huynh ở lại Trường An mấy ngày?

Cự Chân đáp:

- Tiểu đệ ở lại khoảng bốn năm ngày. Chỉ một ngày sau, Tần Vương đã sai người tới tận nơi thăm hỏi, cha con Từ Huệ Phi cũng sai cung nữ đưa thức ăn vật dùng tới. Tiểu đệ sắp lên đường, bá mẫu mấy lần dặn dò, trở về Kim Dung thành thì thu thập các thứ mà quy Đường, lúc ấy Ngụy Công chưa đi. Nay thì Ngụy Công đã là bề tôi nhà Đường. Đại huynh có thể về ngay Trường An.

Vưu Thông lại kể thêm, Huệ Phi đem bao lễ vật, hiện còn giữ, rồi lấy ra đưa lại Thúc Bảo.

Thúc Bảo hỏi tiếp:

- Giảo Kim hiện nay ở đâu?

Cự Chân đáp:

- Giảo Kim lúc đầu không chịu theo Ngụy Công quy Đường, về Ngõa Cương tìm mẫu thân, khi biết chuyện cũng liều về Trường An rồi!

Thúc Bảo nghĩ ngợi: "Nếu Ngụy Công chưa cùng các tướng quy Đường, ta vì mẫu thân mà về Trường An, chẳng ai nói được. Nhưng nay Ngụy Công cũng đang ở Trường An, ta về nữa, vua Đường tất sẽ đối xử với ta tốt hơn, gia ân cho ta nhiều hơn, hoặc nếu coi ta như Ngụy Công đi nữa, thì Tần Vương sẽ thấy trong lòng không yên. Còn nếu ta coi như thượng khanh, Ngụy Công sẽ nghĩ rằng ta có lòng quy Đường từ trước, cho nên Tần Vương mới lừa mẫu thân ta về Trường An. Chuyện bây giờ càng thêm rắc rối, chi bằng hãy đến Lê Dương, bàn với Mậu Công, xem Mậu Công định liệu ra sao". Rồi vội vàng từ giã Vưu Thông, Cự Chân, gặp Mậu Công cùng Sĩ Tín, kể lại mọi chuyện. Mậu Công nói:

- Hiện nay bá mẫu đang ở Trường An, vì việc này thì đại huynh nên về ngay. Nhưng nhìn thế thời hiện nay, thì lại không nên. Ngụy Công quy Đường, quyết không thể lâu, bề tôi Ngụy Công ở đó cũng chẳng thể nào yên ổn. Nay Tần Vương đã trở về, thế nào cũng có chuyện, hãy cứ đợi mọi chuyện kết cục ra sao, đại huynh hãy định liệu mới vẹn toàn.

Thúc Bảo nghe xong, thấy thật sáng suốt, liền viết ngay thư gửi cho mẫu thân, thêm một thư nữa trả lời Lưu Văn Tĩnh, rồi sai Sĩ Tín đem theo hai ba gia đồng, lặng lẽ về Trường An an ủi mẫu thân.

Sáng hôm sau, Sĩ Tín thu thập hành trang, sai gia đồng xếp buộc chu đáo, rồi từ biệt Mậu Công lên đường. Thúc Bảo cũng lên ngựa, theo dặn dò kỹ càng mãi tới hai ba dặm môi quay trở lại, về đến dinh, nói với Mậu Công:

- Đơn nhị ca ở chỗ Thế Sung, cũng chẳng thể yên ổn, làm sao bây giờ. Tiểu đệ cùng Đơn nhị ca thề đồng sinh tử, nay mỗi người theo mỗi chủ, liệu có phải là bội ước không?

Mậu Công đáp:

- Tiểu đệ cũng vậy mà thôi, nhưng nghĩ cũng không xong. Đơn nhị ca tuy thân thiết với bốn biển anh hùng, nhưng lại không hiểu thời thế, vững mà không uyển chuyển, thẳng mà lại hay nhún nhường quá đáng, nói chung là chưa đủ kinh quyền để hành động. Lại thêm có thù vua Đường giết anh thuở xưa, đêm ngày giữ kín trong lòng, nếu không có cái lưỡi của Tô, Trương (1) thì khó mà lay chuyển được chí hướng. Nay chúng ta làm chuyến này, thì cũng chẳng khác gì đàn bà đi bước nữa, nếu mà còn lầm lỡ thì thật cùng đường.

1 Tô Tần và Trương Nghi là hai thuyết khách nổi tiếng nhất thời chiến quốc. Tô Tần vi tài thuyết khách mà được đeo ấn tể tướng sáu nước. Trương Nghi tài uốn ba tấc lưỡi mà làm cho các nước bỏ thuyết "hợp tung" mà theo thuyết "liên hoành".

Thúc Bảo gật đầu khen phải, nhưng cũng vẫn muốn tự mình lẻn đi thăm Hùng Tín một chuyến xem sao, nhưng lại sợ Hùng Tín giữ lại thoát thân chẳng được, rồi lại thân một nơi, lòng một nơi nên lại vẫn nấn ná ở Lê Dương.

Cũng may Nhuận Phủ tới kịp, Tần, Từ hai người kinh ngạc hỏi:

- Ngụy Công quy Đường ra sao?

Nhuận Phủ đáp:

- Chuyện chẳng muốn nói nữa!

Rồi đem chuyện vua Đường phong tước, gả em cho thế nào kể lại:

- Rồi sau đó bỏ công chúa trốn đi. Do các cửa quan, bến đò tuần xét nghiêm ngặt, Ngụy Công cho tiểu đệ cùng với Quân Ngạn đi Lê Dương, còn lại đi Doãn Châu. Quân Ngạn gặp Liễu Chu Thần, nên lại chia theo đường mòn mà đi. Trên đường tiểu đệ có gặp tổng quản nhà Đơn nhị ca là Đơn Toàn, Đơn Toàn có nói Đơn viên ngoại muốn gặp tiểu đệ một lần, tiểu đệ phải đến ngay cho. Nên lại phải đi một chuyến xem sao, khuyên mọi người cùng về một nơi cũng tốt. Ngụy Công có cho người tới hỏi, xin nói như thế cho.

Tần, Từ, hai người đều đáp:

- Chúng tôi ở đây cũng đang bàn về Hùng Tín, hiền huynh đi rồi, ai nấy cũng yên lòng.

Sáng ngày ra, Nhuận Phủ lên đường.

Thúc Bảo nhân trong lòng phiền muộn, kéo Mậu Công ra ngoài thành đi săn, bỗng thấy một đội người ngựa đều khoác trang phục màu trắng đi tới. Thúc Bảo nhìn kỹ nhận ra Ngụy Trưng, liền nói với Mậu Công ngay:

- Từ hiền huynh! Ngụy Huyền Thành tới!

Ai nấy xuống ngựa, chào ngay trên mặt cỏ. Thúc Bảo cầm tay, vội hỏi Ngụy Trưng:

- Đại huynh sao lại ăn mặc thế này?

Ngụy Trưng đáp:

- Chư huynh còn chưa biết hay sao, Ngụy Công cùng Bá Đương đã thành người thiên cổ rồi!

Thúc Bảo nghe thế, khóc rống kêu trời. Mậu Công nước mắt tuôn như suối. Thúc Bảo cố nén hỏi Ngụy Trưng:

- Ngụy Công cùng Bá Đương mất ở đâu?

Ngụy Trưng cau mày đáp:

- Một lời không hết!

Mậu Công giục:

- Bãi hoang không phải là nơi nói chuyện lâu, xin mau mau về dinh.

Mọi người lên ngựa vào thành, về đến nơi, cũng vừa dịp Vương Bộ cùng ba bốn tướng khác đến hỏi tin tức, Mậu Công dẫn tất cả vào thư phòng ngồi đâu đấy. Ngụy Trưng đem chuyện Ngụy Công về Trường An thế nào, bỏ trốn đi Hùng Châu ra sao, chết trong rừng thế nào, kể tỉ mỉ một lượt, Thúc Bảo lớn tiếng than:

- Không ra ngoài sự trù liệu của Mậu Công, nhưng nay sao đại huynh đến đây?

Ngụy Trưng đáp:

- Tiểu đệ lâu nay ở Tây phủ của Tần Vương, mới nghe tin này, lòng như dao cắt, nên xin Tần Vương cho nghỉ một tháng, đi tìm thi thể Ngụy Công cùng Bá Đương. Tần Vương bằng lòng, nên cùng sai tiểu đệ đi mời chư huynh luôn, lại tâu với phụ hoàng, mong phụ hoàng gia ân. Chỉ sợ dọc đường bị ngăn trở, ban cho tiểu đệ sắc chỉ nói rõ, phàm bề tôi của nhà Ngụy, đều chiêu dụ về, tùy sức, tùy tài mà dùng.

Nói rồi, lấy trong tráp ra sắc chỉ của vua Đường, đưa cho Thúc Bảo, Mậu Công xem. Mậu Công xem xong, nói:

- Chúng ta có về hay không về, chuyện hãy khoan bàn. Chỉ xin hỏi đại huynh đã tới Hùng Châu tìm thi thể họ Lý, họ Vương chưa?

Ngụy Trưng đáp:

- Tiểu đệ đã tới Hùng Châu, ở đấy núi cao ngất, vách dựng như tường, bên phải thì rừng cây rậm rạp, bên trái thì khe sâu, đường đi ở giữa chỉ vừa hai ngựa. Tiểu đệ đã tìm khắp, chẳng thấy tăm hơi, đành phải thăm dò quanh vùng, may gặp một am vắng, trong am có một nhà sư già, tiểu đệ gõ cửa, một người trong am nhận ra tiểu đệ. Đó là một gia đình chuyên theo hầu Ngụy Công, tuổi cũng đã ngoài năm mươi, cùng gặp nạn đó, nhưng nhờ trời thoát chết, vào tu luôn trong am, biết rõ chỗ mai táng hai vị Lý, Vương, nên dẫn tiểu đệ ra nhận, chỉ là một nấm đất nhỏ, liền nhờ thổ nhân khai quật. Thật đáng thương, thi thể đã nát như bùn, chẳng một tấc giáp trụ, dấu tên khắp người, áo bào vết máu loang lổ. Anh hùng đến thế, nghĩ cũng chua xót. Tiểu đệ mua ngay hai cỗ áo quan vội vàng khâm liệm, nhờ quàn tạm trong am, chờ gặp chư huynh, rồi sẽ làm tang lễ chu đáo. Nhưng còn hai thủ cấp, vẫn còn treo ở Trường An, nghiêm canh không cho người lấy trộm. Tiểu đệ lúc ấy đã định thỉnh cầu, nhưng thấy vua Đường rất giận dữ, sợ lại không cho tiểu đệ đi nữa kia, cho nên không dám xin thủ cấp. Phải nghĩ cách làm sao lấy được về Hùng Châu để làm lễ mai táng luôn!

Mậu Công nói:

- Việc này tiểu đệ xin nhận. Nhưng bây giờ anh em chúng ta dẫu không nghĩ đến chuyện làm lại sự nghiệp, đều đến cảo táng cho Ngụy Công, cũng là để toại nguyện tấc lòng. Sau đó, còn chí khí, giờ ngoài Tần Vương cũng chẳng còn ai khác. Thôi thì cũng đành phải đi vậy thôi, chẳng khác gì chim hết đường phải bay về rừng, vẫy đuôi xin thương, dẫu làm tôi nhà Đường, hay làm tôi nhà Ngụy, thì cũng lạy lục như thế cả, đều là phường cỏ lác cả thôi!

Thúc Bảo cùng mọi người đồng thanh:

- Quân sư nói đúng lắm!

Mậu Công tiếp:

- Tiểu đệ ngay đêm nay sắp sẵn, ngày mai dậy sớm đi Trường An. Còn anh em ở Ngõa Cương thì hãy đừng tiết lộ việc này vội. Tại sao vậy, bởi ta đi chuyến này, chẳng biết họa phúc ra sao, hãy cứ giữ lấy chỗ ngồi đó, làm nơi trú thân nho nhỏ đã. Thứ nữa là còn gia quyến của Đơn viên ngoại ở trên trại, viên ngoại thì quyết chẳng quy Đường đâu. Đợi đến bao giờ chúng ta có nơi chốn hẳn hoi, rồi đưa gia quyến viên ngoại về chỗ Vương Thế Sung cũng chưa muộn.

Thúc Bảo hỏi:

- Còn đất Lê Dương này thì sao?

Mậu Công đáp:

- Đất này trước mặt thì có Thế Sung, phía sau là Kiến Đức, Ngụy Công thì đã mất rồi, chỗ mũi tên hòn dạn này chẳng giữ được lâu. Nay hãy phiền phó tướng quân Vương Bộ, đợi chúng ta đi rồi, mở kho tàng chia cho dân nghèo, của cải thì cấp cho tướng sĩ, quân lính, phần thì làm quần áo, cờ hiệu, đều dùng màu tang trắng, hạn ngày nào đó kéo ba nghìn người ngựa, đến Hùng Châu dự tang lễ Ngụy Công. Cũng là để thấy hết được lòng trung nghĩa của bậc thần tử vậy!

Mọi người lại đồng thanh:

- Quân sư phân xử phải lắm!

Sáng mai ra, Mậu Công lên đường, còn dặn Thúc Bảo, Ngụy Trưng:

- Chư huynh mau chóng xếp đặt, thay y phục, cờ hiệu, đến ngay Hùng Châu, tiểu đệ xin đi trước.

Lại cùng ba bốn gia đồng, theo hướng Trường An lên đường.

Thúc Bảo ngày đêm sai quân sĩ làm đủ mọi việc, mấy ngày sau để Vương Bộ cùng quân sĩ đi trước, rồi cũng cùng Ngụy Trưng theo sau đi về Hùng Châu.

Chính là:

Sống luôn nhớ nghĩa bạn

Chết nào quên trung vua.

***

Lại nói chuyện Mậu Công rời khỏi Lê Dương, đi suốt ngày đêm đến Trường An, vào thành tìm quán trọ, ăn mặc kiểu thư sinh, gọi gia đồng đi theo, đến phố Thập Tự, thấy cây cột dựng cao, treo hai cái hộp đựng đầu lâu, lòng như dao cắt, ngửa mặt nhìn, lạy bốn lạy, rồi ôm lấy cột mà khóc rống, làm kinh động cả lũ quân canh, bốn phía vây lại, nhất tề lôi vào triều nội.

Lúc này bởi Lưu Vũ Chung ở Định Dương dám xưng hoàng đế, sai đại tướng là Tống Kim Cương dẫn hai vạn người ngựa, sai tướng tiên phong là Uất Trì Kính Đức, kéo thẳng đến Tinh Châu. Đất Tinh Châu của Thái Nguyên vốn thuộc quyền của lưu thú Tế Vương Lý Nguyên Cát, tướng Uất Trì Kính Đức hạ thủ luôn mất hai chục viên mãnh tướng, ngày đêm sai người đi Trường An xin cứu viện Vua Đường sai Bùi Tịch dẫn một vạn quân kéo lên Thái Nguyên trợ ứng.

Hôm ấy, chính là lúc Tần Vương đang ở giáo trường, thao luyện người ngựa, còn vua Đường thấy kêu có người ôm cột mà khóc thì mặt rồng giận dữ, quát trói ngay giải vào triều, quân hiệu vội dẫn vào quỳ dưới thềm rồng. Vua Đường quát:

- Thủ hạ của Lý Mật tên là gì? To gan lớn mật bất tuân hiệu lệnh, dám ôm cột mà khóc, nếu không khai thực, chém đầu tức thì!

Mậu Công cao giọng thưa luôn một hồi:

- Bậc tiên vương xưa kia, thương kẻ chết mà không nỡ để lộ thây xác, lòng nhân thấm đến cả xương khô. Vương Kinh thời Đông Tấn chết, Hướng Hùng khóc ở chợ Đông, về sau Hướng Hùng còn mai táng cho cả Chung Hội, mà Văn Đế nào có làm tội. Đổng Trác bị tru di, Sái Ung đến phục bên thây mà khóc, Ngụy Tổ nghe theo lời dèm pha mà làm tội, đến nỗi vận nước thẳng được bao lâu. Những người này, nào ai cần kể gì đến công tội lúc sống, rồi mới lo chuyện tống táng đâu? Nay Lý Mật cùng Vương Bá Đương, vương pháp đã hiện, thế cũng đủ. Thần vì cảm nghĩa quân thần, ngửa trông mà khóc viếng, xin bệ hạ là bậc Nghiêu Thuấn, cũng nên thứ cho. Nhược bằng bệ hạ thù đến cả đấng xương khô mà gia tội hạ thần, thì rồi liệu những bậc hiền giả, còn ai dám theo về chăng?

Vua Đường nghe nổi thế, mặt rồng đổi khác, phán rằng

- Ngươi họ tên là gì?

Mậu Công thưa:

- Thần họ Từ, tên là Thế Tích!

Vua Đường cười:

- Thì ra là ân nhân của Thế Dân, sao khanh không nói sớm, trẫm ở đây ngày đêm nhớ tới các khanh. Mời khanh đứng dậy, thay áo mũ rồi vào triều kiến!

Liền truyền lệnh cho tuyên vệ sứ hạ thủ cấp họ Lý họ Vương xuống. Mậu Công vẫn mặc y phục thư sinh như cũ, phủ phục trước đan trì. Vua Đường giục lấy áo mũ ban cho. Mậu Công thưa:

- Vua ban ơn lớn cho kẻ hạ thần, thì hạ thần cũng thờ vua như bậc thánh nhân. Chẳng khi nào có kẻ thờ Ngụy không trung, mà lại thờ Đường thì trung vậy. Nay thi thể Ngụy Công còn ở hai nơi thần thấy thực đau lòng, những mong ơn vua rộng lớn, xin bệ hạ ban cho thần hai thủ cấp, thần đem đi làm tang lễ. Như thế thì không riêng gì Thế Tích này cảm ân đức của bệ hạ mà chư tướng nhà Ngụy cùng đều vui mừng, vì trời Nghiêu đất Thuấn mà thờ bệ hạ hết lòng vậy.

Đường Đế cả mừng, lệnh cho trung thư viết ngay sắc chỉ, giữ nguyên quan tước cho Lý Mật, theo đúng lễ mà làm tang, lại nói với Mậu Công:

- Thế Dân trông ngóng khanh đã lâu, hãy mau quay về Trường An.

Mậu Công tạ ơn ra khỏi cung điện, lĩnh hai thủ cấp, dùng hai hòm gỗ đóng chặt lại, chở trên xe, ngay đêm ấy ra khỏi Trường An về Hùng Châu. Mấy ngày sau, Ngụy Trưng cũng về Trường An phục mệnh, tâu rằng:

- Ba nghìn binh mã ở Lê Dương, phó tướng Vương Bộ đã dẫn đến Hùng Châu cả, Tần Quỳnh cũng đã tới đó, chờ làm tang lễ. Nay thần về phục mệnh, rồi lại quay ra cùng mọi người lo liệu chu tất, sau đó xin về thờ bệ hạ.

Vua Đường bằng lòng. La Sĩ Tín lúc này đã tới Trường An, gặp Tần mẫu, biết Thúc Bảo đã đi Hùng Châu, cũng ra khỏi Trường An luôn.

***

Lại nói chuyện Giảo Kim từ biệt Tần Vương, đi mấy ngày, không ngờ giữa đường bị trúng gió lạnh, bệnh tình kéo đến, phải nửa tháng sau mới khỏi, trước tiên sai hai kẻ tâm phúc đi báo trước cho bộ hạ của mình, rồi về Ngõa Cương. Giữa đường gặp Giả Nhuận Phủ, đem theo gia quyến cùng mấy tay chân, Giảo Kim thì nói Ngụy Công còn ở Trường An, nghĩ rằng định đem gia quyến cùng về Trường An nên vội vàng xuống ngựa gặp gỡ. Nhuận Phủ vội sai dừng xe, hỏi Giảo Kim:

- Trên đường có nghe tin tức gì của Ngụy Công chăng Trình hiền đệ?

Giảo Kim đáp:

- Chẳng nghe tin gì cả!

Nhuận Phủ tiếp:

- Nghe Ngụy Công cùng Bá Đương ngộ nạn ở Hùng Châu. Lính tráng nói Thúc Bảo cùng Mậu Công với các tướng đều đã tới Hùng Châu làm tang lễ Ngụy Công.

Giảo Kim nghe xong, bất giác nước mắt nhỏ ướt cả áo đi đường:

- Ngụy Công gần đây tính tình hôn ám, tự chuốc lấy bại vong. Nhưng nếu được mọi người can gián ít nhiều khi lâm sự, thì có lẽ cũng không đến nỗi mất mạng.

Nhuận Phủ lại đáp:

- Lại nói đến chuyện ấy làm gì. Đêm ấy ở hình phủ sắp xếp, tiểu đệ đã biết chuyến này đi không yên, hai ba lần khuyên giải. Ngụy Công cho rằng tiểu đệ thay lòng đổi dạ, mặt mày biến sắc, còn định giết cả tiểu đệ, may mà có Bá Đương cản lại.

Giảo Kim hỏi:

- Hiền huynh đã gặp Thúc Bảo và Mậu Công chưa?

Nhuận Phủ đáp:

- Tiểu đệ đã từng tới Lê Dương gặp rồi, vì Đơn viên ngoại muốn gặp nên tiểu đệ tới ngay Đông Đô, khuyên Viên ngoại quy Đường, nhưng Viên ngoại không nghe, dặn tiểu đệ đem gia quyến cùng tổng quản Đơn Toàn đưa về Thế Sung. Làm xong chuyện này thì mới yên tâm được!

Giảo Kim lại hỏi:

- Rồi hiền huynh sẽ đi đâu?

Nhuận Phủ đáp:

- Tiểu đệ thờ Ngụy chẳng xong, còn lòng nào nữa nghĩ tới chuyện gì khác, chi bằng tìm cảnh sơn thủy nào đó, sống cho nết đời, theo dõi bạn bè thả sức ra sao. Nhờ hiền huynh nói lại với bạn bè, đừng nghĩ gì đến tiểu đệ nữa!

Rồi chắp tay chào, lên ngựa ra đi. Giảo Kim lên đường, lòng thầm nghĩ: "Trượng phu ở đời, tấm thân bẩy thước, chẳng trung thì hiếu, phải làm rạng mặt mày. Ta một đời ơn người tri kỷ, chẳng ai bằng Vưu viên ngoại, chẳng có người này, thì mình vẫn còn ở Ban Cưu điếm đốn củi. Nay viên ngoại đang bị ràng buộc ở Ngõa Cương, chưa mở mặt mày, nay nhân gặp hoàng đế anh minh, hãy kéo viên ngoại ra làm quan mấy năm, cũng là để báo đáp viên ngoại ít nhiều vậy Tính toán như vậy rồi, bèn về Ngõa Cương nói rõ cho Vưu Thông, Liên Cự Chân, Vương Đương Nhân, là Ngụy Công cùng Bá Đương đã mất. Vương Nương nương cùng Vương phu nhân (l) nghe ra, khóc rống một lượt. Giảo Kim nói chuyện người thu thập của cải, lương thực, cùng với lính tráng, có hơn nghìn người, nhất tề lên đường.

Đi được năm sáu ngày, đến Độc Dương Lĩnh, thấy một toán người ngựa xông ra. Cự Chân kinh ngạc, vội sai người lại sau báo cho Giảo Kim. Giảo Kim phi ngựa như bay lên trước, trông thấy cờ hiệu biết ngay đó là quân bản bộ của mình, khoảng hơn hai nghìn người ngựa, hiện đang đóng chờ tại đó. Giảo Kim vốn thẳng tính, lại hào phóng rất được lòng quân sĩ, dạo trước lúc thua Thế Sung, Giảo Kim thu thập người ngựa, đóng ngay tại Độc Dương này, để xem Ngụy

Công về Đường ra sao đã, rồi sẽ quay lại đây tính chuyện cho riêng mình. Nay thân mình đã đem thờ nhà Đường, nên cũng không đem số người ngựa này theo, vì vậy nói với quân lính:

- Các ngươi hãy làm tiền dội, kéo tới Hùng Châu.

Rồi nói với Cự Chân:

- Đây chính là quân bản bộ của tiểu đệ, chẳng có điều gì đáng ngại, mau cùng nhau nhập bọn.

1 Vương Nương nương: Tức Vương Tuyết Nhi, vợ trước của Ngụy Công. Vương phu nhân: Vợ Vương Bá Đương họ Bùi.

Chưa đầy nửa tháng, đã tới Hùng Châu, cả Tổ Quân Ngạn, Liễu Chu Thần cũng đã tới, cùng với rất nhiều quân sĩ mặc áo tang trắng.

Mậu Công, Thúc Bảo ra đón, thấy Vưu Thông, Cự Chân. Mậu Công mừng rỡ:

- Không phải là chúng tôi không định báo cho anh em ở trên Ngõa Cương, nhưng vì chưa rõ họa phúc ra sao, nên không dám báo trước.

Giảo Kim đáp:

- Ngay cả tiểu đệ cũng không biết, may giữa dường gặp Nhuận Phủ đưa gia quyến Đơn viên ngoại trở về, mới nói cho hay.

Thúc Bảo nói:

- Gia quyến Đơn nhị ca, Nhuận Phủ đã đưa đón xong xuôi, thế thì hay lắm, hay lắm! Nhưng còn Nhuận Phủ đâu không thấy?

Giảo Kim đáp:

- Nhuận Phủ không muốn lại thờ người khác, nên đem theo gia quyến, tìm thú vui sơn thủy rồi. Hiện nay chỉ có gia quyến Ngụy Công cùng Bá Đương, tiểu đệ đều đưa tới đây, không biết quân sư định liệu ý ra sao?

Mậu Công mừng nói:

- Họ Lý họ Vương thật linh thiêng, may có cả gia quyến tới đây lại chưa an táng, thật đều là công lao của hiền đệ vậy. Cạnh mộ có ba gian lán nhỏ, cũng kín đáo, đại huynh Thúc Bảo dẫn hộ cả hai gia quyến ra đó chờ làm tang lễ.

Giảo Kim cùng Vưu Thông đứng dậy, nhìn chung quanh, thì thấy một bãi dưới chân núi bằng phẳng, phía sau là dải núi đất cao cao, xung quanh là những núi đá lởm chởm, trước mặt dựng tạm năm gian nhà lá, hiên giữa kê một tấm lá lớn, ngay cạnh hai huyệt, trên huyệt kê hai quan tài, chỗ làm lễ thông ngay với thảo đường là một loạt tượng ngựa đá, người đá mới làm, trông như người thật. Xung quanh là cổ thụ xanh rờn, phía ngoài có phướn rợp trời, bia đá dựng cao, cờ lau trắng xóa, không tài nào đếm nổi.

Vưu Thông thấy thế, than rằng:

- Tần huynh, Từ huynh không biết tới đây từ bao giờ, mà đã làm cho được phần mộ thế này, cũng không hổ Ngụy Công nửa đời giao kết với bậc anh hùng.

Rồi cùng Cự Chân dẫn hậu quân tới, nói cho gia quyến họ Lý, họ Vương thay tang phục, Ngụy Trưng, Mậu Công, Thúc Bảo dẫn tướng sĩ tiến vào trước mộ phần. Vương Nương nương, Vương phu nhân ôm lấy quan tài, cất tiếng ai oán, phía ngoài là Đương Nhân, hai tay hai linh sàng mà gào lớn, các tướng cũng đều sụt sùi, sa nước mắt. Chính trong lúc thương cảm như thế, lại thấy nói vua Đường thân gửi ngự tế, Tần Vương cũng tới dự tang lễ, ai nấy đều vui mừng.

Mậu Công làm chấp sự, Ngụy Trưng, Thúc Bảo lo tiếp các mưu sĩ, Giảo Kim, Đương Nhân, thì tiếp các gia tướng Tây phủ, Vưu Thông, Cự Chân lo việc nghi lễ, đội ngũ. Vương Bộ, Liễu Chu Thần lo việc khao thưởng sĩ tốt nhà Đường. Mậu Công lại dặn các tướng sĩ phải lo tang phục, vũ khí cho nghiêm trang, cờ hiệu chỉnh tề, cứ năm dặm làm thành một doanh, mười dặm làm thành một đình. Theo thứ tự xếp đâu vào đấy lại lấy hai mươi kỵ mã, tuần thám xung quanh đêm ngày.

Mấy ngày sau, Tần Vương đến Hùng Châu, nghe ba tiếng pháo lớn, bốn năm trăm giáp sĩ mặc tang phục ra đón, hai tay chắp giơ cao, quì sát đất mà bẩm:

- Lũ chúng tôi phận cỏ rơm, xin ra nghênh tiếp thiên tuế!

Đi được khoảng bốn dặm, lại một đội tướng sĩ, sau tiếng pháo nổ, lại quỳ xuống đón, cứ thế năm sáu lần. Tần Vương ngồi trong kiệu vàng, thấy binh sĩ khôi giáp sáng loáng, cờ quạt nghiêm trang, trong lòng thầm nghĩ: "Tướng soái nhà Ngụy bộ dạng thế này, thật biết lễ, hiểu nghĩa. Lý Mật không nên sự nghiệp, thật đáng tiếc?"

Kiệu đi chầm chậm, cách Hùng Nhĩ vài dặm nữa, nghe ba tiếng pháo thật lớn, trống chiêng rầm trời. Mậu Công, Ngụy Trưng, Thúc Bảo dẫn tất cả các tướng sĩ, nghiêm chỉnh cúi đầu, đến gần kiệu vàng, cả bọn quì lạy. Tần Vương thấy vậy, vội vàng đứng dậy, lớn tiếng đáp:

- Chư vị tiên sinh xin đứng dậy cho!

Chờ cho kiệu đi qua, cả bọn nối theo, tiếng nhạc dẫn đường, hàng hàng đội dội, tới cửa mộ. Lại ba tiếng pháo lớn, Tần Vương đừng kiệu, chấp lễ dẫn Tần Vương vào ba gian chăng đầy lụa gấm, ngồi trên sàn cao phủ gấm. Tần Vương hỏi Từ Nghĩa Phù:

- Đã đặt lễ ngự tế của triều đình chưa?

Nghĩa Phù thưa:

- Thưa đã đặt rồi!

Tần Vương lập tức đứng dậy thay áo, mặc áo bào trắng có thêu rồng vàng, lưng thắt đai có gắn ngọc Lam Điền xanh, Mậu Công vội ra trước, hướng Tần Vương bái tạ, Tần Vương không nghe vẫn đòi ra đứng tế, bọn mưu sĩ, gia tướng đứng tiếp phía sau, các tướng sĩ của nhà Ngụy nghiêm trang quỳ xuống. Vào đến bái đình, Tần Vương đứng thẳng, đưa mắt nhìn, thấy mộ bên phải có bài vị chữ vàng viết:

"Đường cố Quang lộc Khanh, Thượng trụ quốc phò mã, Hình Quốc Công, Lý húy Mật chi vị".

Bên trái là một bài vị khác, trên viết:

"Đường cố Tả vệ đại tướng quân, Vương húy Dũng chi vị".

Ở bên phải là Mậu Công, Ngụy Trưng, Thúc Bảo, Giảo Kim, mặc áo thôi, mũ gai, đai gai đứng lạy trả lễ. Bên trái là Đương Nhân, nâng con trai Lý Mật, khoảng ba bốn tuổi mang tên Khải Vân, cũng mặc áo thôi, mũ gai, đai gai, quỳ sát đất. Quanh mộ tiếng khóc dậy trời, âm dương hòa lễ, Tần Vương dẫn tế, cũng có khóc. Nhớ tới thuở trước Lý Mật ở Kim Dung thành, oai phong ra sao, uy vũ thế nào, tất cả đều chẳng còn gì, kết cục thế này, huyệt mộ còn đó, chẳng đầy ba thước, khắp chỗ kêu khóc thảm thiết. Tần Vương dẫu anh hùng, thấy tình cảnh này, dẫu không muốn cũng khôn ngăn dòng lệ. Mọi người thấy Tần Vương như thế, lại càng gào khóc, cả lính cũng vậy.

Tần Vương tế xong lên kiệu, vào trong nhà khách thay y phục. Mậu Công cùng con trai Lý Mật, với các tướng sĩ cùng quỳ lạy tạ ơn.

Tần Vương đỡ Mậu Công dậy phán:

- Chư tiên sinh hãy thu xếp cho xong, mau trở về Trường An, để thỏa lòng mong của triều đình.

Mậu Công thưa:

- Chúng thần không dám lần lữa, chỉ trong vòng mấy ngày nữa, sẽ xin dẫn chư tướng về yết kiến thánh thượng!

Nói rồi quay về mộ, gặp văn vũ liêu thuộc Tây phủ, lạy chào cảm tạ. Tần Vương lên đường, tướng sĩ Ngụy đưa tiễn hơn mười dặm mới quay trở lại. Ngoài việc tế lễ, Tần Vương còn khao thưởng các tướng sĩ năm nghìn lạng bạc, lính tráng mừng rỡ hò hét vang dậy.

Mậu Công liền sai thư ký, viết ngay hai đạo tạ biểu, sai Liễu Chu Thần theo Tần Vương đi Trường An dâng trước. Rồi chọn ngày chôn cất linh cữu, mọi chuyện xong xuôi, chuẩn bị lên đường.

Vương Nương nương, cùng Vương phu nhân, xin được giữ mộ, không chịu đi theo, bọn Mậu Công không biết làm thế nào, chỉ đành sai ba bốn chục tên lính tin cậy canh giữ cạnh bên, rồi tìm cách liệu lo sau. Tất cả thống lãnh quân sĩ, lần lượt lên đường.

Về đến Trường An, trước tiên vào Tây phủ, yết kiến Tần Vương. Tần Vương dẫn cả bọn sang triều kiến vua Đường. Mậu Công dâng tên tuổi quân sĩ lên. Vua Đường xem xong, cả mừng, lập tức phong cho Từ Thế Tích làm Tả vũ vệ đại tướng quân, Tần Quỳnh làm Hữu vệ đại tướng quân, La Sĩ Tín làm Mã quân tổng quản, Vưu Tuấn Đạt làm Tả tam thống quân, Vương Bộ làm Mã bộ tổng quản. Vương Bộ liền tâu:

- Thần không dám nhận chức!

Vua Đường hỏi:

- Vì sao? Vương Bộ thưa:

- Thần một lần được thấy mặt rồng, cũng thấy ngay là "Nghiêu Thuấn chi quân", xin lạy tạ ơn lớn cho làm tế lễ. Thần liều chết, còn có một lời, xin được dâng chúa thượng!

Vua Đường phán:

- Trẫm không bắt tội, khanh hãy tâu rõ!

Vương Bộ thưa:

- Thần nghe, phép làm chính vương của cổ nhân, là kính kẻ già thương kẻ thơ dại, không làm tội kẻ yếu đuối, quan quả cô độc, luôn được thương xót. Nay chủ cũ nghĩ đến đức lớn mà quy hàng, được thánh thượng đặc cách thi ơn, tha cho lỗi lầm cũ mà lấy lễ phong cho quan tước lại gả công chúa cho, ơn sủng đến như thế là cùng cực, chẳng may cố chủ một sớm thất chí, tự táng kỳ mệnh. Nay chúng thần đều được hưởng ơn trạch, chỉ mỗi vợ góa, mấy lần những muốn quyên sinh, ôm con mồ côi nhỏ, chẳng khác gì giọt sương sớm. Thật là kẻ chết chưa đủ xót, mà thật kẻ sống mới đáng thương. Nếu nói là con dân, thì cũng đều là con dân nhà Đường, đâu phải thân thích ruột rà của nhà Đường. Nay Độc Cô công chúa còn ở hình phủ, dẫu tình vợ chồng chưa thật lâu dài, nhưng đã cùng lạy tôn miếu, cũng nghĩa phu thê, há lại không nghĩ đến con chồng, cũng chính là con mình vậy, sao nỡ đặt ngoài sương gió đất hoang rừng rậm, để khiến cho thánh thần, trăm quan, cho đến kẻ viết sử sách cho đời sau, khua môi múa lưỡi khắp bốn phương trông vào. Cho nên thần chi xin nguyện làm di dân, mà không dám nhận làm đình thần vậy.

Vua Đường nghe xong hớn hở mà phán:

- Khanh là võ quan, mà biện luận việc nghĩa thật rõ ràng, cũng đủ thấy tướng soái nhà Ngụy tài cán không vừa vậy!

Liền lệnh cho bộ Lễ, sai quân đi đón Vương Thị, cùng con trai Lý Khải Vận, đổi tên là Lý Khải Tâm, cùng với vợ con Bá Đương, về Hình phủ ở với Độc Cô công chúa nuôi con nhỏ. Lại gia ơn cho Vương Bộ làm Hổ dực đại tướng quân. Còn Tổ Quân Ngạn, Liễu Chu Thần cùng các tướng khác đều được tước phong cả. Vương Bộ, các tướng tạ ơn, lui về chỗ đứng của mình.

Đang lúc phong thưởng, thì thấy ở Tấn Dương thuộc Hội Châu có kỵ mã đưa văn thư về cáo cấp: Lưu Vũ Chu vây thành rất gấp, nguy trong sớm tối, mong vua Đường cho ngay binh mã cứu viện. Vua Đường phán:

- Tấn Dương vốn là yết hầu của Trung Nguyên, nếu mất, thì quả nguy trong sớm tối. Nhưng trong lúc cấp thiết thế này, lấy đâu ra tướng tài!

Mậu Công tâu ngay:

- Chúng thần xin đem sức trâu ngựa, tiễu trừ Vũ Chu, mong báo ơn muôn một.

Vua Đường phán:

- Trẫm từ lâu đã biết khanh túc trí đa mưu, có tài tướng soái, nhưng chỉ ngại bộ hạ của Chu Vũ, có một viên dũng tướng, tên là Uất Trì Cung, dũng mãnh tuyệt luân, khó mà đương nổi.

Rồi chỉ bức họa trên tường mà tiếp:

- Đấy chính là tượng vẽ của thằng giặc Hung Nô Uất Trì, các khanh chớ nên coi thường.

Tần Vương dẫn Mậu Công cùng các tướng đến bên bức vẽ xem kỹ thì đúng là người cao chín thước, mặt sắt, mắt lồi, miệng rộng, râu rậm mà đỏ, hai cánh mũi cao, đầu đội mũ sắt, mặc áo giáp da, tay cầm một cái roi trúc tiết cương tiên, chẳng khác gì quỷ đen đầu. Mậu Công thưa:

- Thứ này chẳng qua là vũ dũng ngu si, chẳng có gì quái dị.

Thúc Bảo thưa với Tần Vương:

- Thần tuy bất tài, cũng có thể địch nổi người này. Để làm vẻ vang triều đình, xin bệ hạ cho thần mượn bút để thần bôi nhòa tượng này đi vậy?

Tần Vương sai tả hữu lấy bút mực ra, Thúc Bảo cầm bút, nghiến răng trợn mắt, bôi đen bức tượng từ trên xuống dưới, rồi quỳ thưa:

- Thần xin ba nghìn quân, tới Tấn Dương diệt lũ giặc này, nếu không thắng được, xin chịu tội.

Vua Đường cả mừng:

- Ân khanh đã bằng lòng đi, nhất định thành công, trẫm còn lo gì nữa?

Tức thì ban lệnh Mậu Công làm Thảo lỗ đại nguyên soái, Thúc Bảo làm Thảo lỗ đại tướng quân, Vương Bộ làm chánh tiên phong, Sĩ Tín làm phó tiên phong, Giảo Kim làm Thôi lương tổng quản, Tần Vương làm Giám quân đại sứ diệt lỗ đô chiêu thảo, dẫn binh tướng nhà Đường theo sau. Ai nấy từ tạ vua Đường, ngay đêm hôm đó lên đường tới Tinh Châu.

Chính là:

Ơn sâu quyết lập công cao

Sa trường huyết chiến, anh hào rạng danh.

hết: Hồi Thứ Năm Mươi Lăm, xem tiếp: Hồi Thứ Năm Mươi Sáu

Đánh máy: bevang

Nguồn: bevang / VNthuquan - Thư viện Online

Được bạn: Ct.Ly đưa lên

vào ngày: 16 tháng 2 năm 2010

Hồi Thứ Năm Mươi Sáu

Quá ác thú, Chu Xán mổ người ăn thịt,

Hiếu như trai, Mộc Lan đi lính thay cha.

Từ rằng:

Hơi đâu mà hỏi đất trời

Bến mê lối ấy, phải nơi sa trường

Cù lao đức cả đạo thường

Dù thân gái dám ngại đường lênh đênh

Cờ bay, trống giục thình thình

Đôi bên cân nhắc tử sinh nhẹ nhàng

Lập công quyết chí viễn phương

Chớ cười ai đó anh hùng lệ sa

Can qua vững bước xông pha.

Theo điệu "Lăng đào sa"

Binh pháp nói rằng: Việc binh mà kiêu ngạo, thì tất bại vong. Kiêu bao giờ cũng là cậy mình coi thường người, ngạo chỉ còn mỗi mình mà mất hết mọi người, không còn xung quanh lấy ai ra mà chống kẻ địch, làm sao mà không thua. Khi nhà Tùy mất, cát cứ xưng hùng kể có hai ba chục nơi, nhưng cũng đều là phường gian hùng lục lâm. Đến tài cán như Lý Mật lôi kéo được vài chục hào kiệt cũng vì kiêu ngạo mà bại vong, đến lúc chết may còn có người chôn cất.

***

Nay hãy nói Từ Mậu Công cùng Tần Vương thống lĩnh binh sĩ, rời khỏi Trường An, đi được mấy ngày, đã tới Tinh Châu. Mậu Công thưa với Tần Vương:

- Chúng thần lục đục kéo đi trừ Lưu Vũ Chu, chỉ sợ Vương Thế Sung ở phía sau, lỡ có cử động gì, trong lúc cấp thiết khó mà ứng cứu. Thần nhớ Chu Xán gần đây do bị Dương Sĩ Lâm ở Hoài Nam chèn ép, nên cùng khốn về với nhà Đường, thánh thượng phong cho làm Sở Vương, đóng ở Cúc Trạch, điện hạ nên sai người mang thư úy lạo, rồi nói rõ rằng Vương Thế Sung giết vua Tùy, đoạt ngôi vua, xin túc hạ hãy dẫn một đạo quân, vì nhà Đường mà trừ thằng giặc này, rửa mối hận cho thiên hạ, bao nhiêu đất đai của nhà Trịnh, Đường, Sở sẽ cùng hưởng. Chu Xán vốn tham bẩn, sẵn sàng nghe theo.

Tần Vương đáp:

- Thằng giặc này thích ăn thịt người, trước thường làm đầy tớ cho Trước tác tả lang Lục Tùng Điển, cùng Thông sự xá nhân Nhan Dân Sở, việc gì cũng làm, hung ác khác thường. Ta từ lâu đã muốn diệt, dẫu có quy phục, nhưng làm sao mà chung sống với chúng được.

Mậu Công thưa:

- Thần không nói tới việc đó. Nếu Chu Xán bằng lòng đi, điện hạ sai ba bốn nghìn người ngựa, rao lên rằng giúp Chu Xán đánh Trịnh, đợi Sở - Trịnh dày xéo nhau, ta làm ngư ông ngồi thu lợi. Nếu như không bằng lòng, ta kéo binh đi đánh Chu Xán; xem Thế Sung động tĩnh ra sao, khi thấy có họa ở phía Nam, lại cả phía Bắc nữa, thì sẽ không dám động binh phía Tây. Đó chính là mượn tiếng diệt Ngu để đánh Quắc vậy. Điện hạ thấy thế nào.

Học sĩ Đoàn Ý thưa:

- Thần cùng Xán có quen biết, xin để thần cầm thư, nói rõ lợi hại, khích Xán khởi binh, mọi chuyện sẽ xong xuôi.

Tần Vương băn khoăn:

- Nghe nói khanh nghiện rượu nặng, chỉ sợ làm lỡ mất việc quân thôi!

Đoàn Ý thưa:

- Việc quân trọng đại đâu phải chuyện đùa của trẻ con, thần mà đi thì xin chừa rượu.

Tần Vương đáp:

- Có như thế thì ta mới yên lòng.

Đoàn Ý liền mang thư và lễ vật của Tần Vương lên đường đi Cúc Trạch.

Thời nhà Tùy, Chu Xán từng làm huyện lại Bạc Châu, vốn là bạn rượu thân thiết của Đoàn Ý, nên nghe tin Đoàn Ý đến, vội chạy như bay ra đón, chia ghế chủ khách mời ngồi. Chu Xán hỏi:

- Xa nhau đến mấy năm rồi, không biết huynh ông hiện nay ở đâu?

Đoàn Ý đáp:

- Đệ làm quan nhà Đường, trộm giữ chức học sĩ.

Chu Xán hỏi tiếp:

- Nghe nói Lý Mật bị Vương Thế Sung đánh bại, đem nhiều binh tướng về hàng nhà Đường, chuyện có đúng hay không?

Đoàn Ý lại đáp:

- Sao lại không thật, nay binh mã nhà Đường lại có thêm mấy chục vạn, đúng là lúc quốc phú binh cường. Tần Vương thấy Thế Sung giết vua Tùy, tự chiếm ngôi cao, rất bất bình, muốn cùng đại vương thực lòng liên minh, phát binh tiễu trừ lũ nghịch này. Nếu được vàng ngọc vật quý của Thế Sung, xin nhường cả cho đại vương. Còn đất đai dân chúng, thì cả hai cùng hưởng.

Chu Xán nói:

- Tần Vương đã có ý tốt như vậy, lại được người quen biết cũ đến bàn, đệ nào dám không vâng mệnh. Ngày mai xin lập tức phát binh diệt Trịnh. Các ngài chỉ cần giúp thêm vài ngàn người ngựa là đủ.

Sai bày tiệc rượu, rồi hỏi Đoàn Ý:

- Huynh ông gần đây tửu lượng có lẽ tăng tiến hơn xưa nhiều lắm?

Đoàn Ý đáp:

- Đệ đã chừa rượu, không thấy hứng thú như xưa nữa!

Chu Xán nói:

- Thuở xưa cùng huynh ông vui chén tràn đêm, nay tri kỷ gặp nhau, lý nào lại không uống. Nếu nói việc công, thì đệ đã vâng lời, nếu nói bạn bè, thì lại càng nên say sưa để còn trò chuyện tâm tình.

Chu Xán ngồi vào nâng chén, mùi thơm ngây ngất, rượu đầy trước mặt. Đại phàm những người nghiện rượu, cũng như kẻ hiếu sắc, dẫu rằng có xấu như Chung Vô Diệm chăng nữa, nhưng đã thấy trước mặt thì thế nào lửa dục cũng bừng. Nay Đoàn Ý thấy rượu trong chén kia, nước rãi đã chảy chứa chan, liền nâng cốc một hơi cạn, lại cùng trò chuyện rôm rả, chén chú chén anh tiếp mãi. Đoàn Ý quên tịt việc chừa rượu, uống đến mức không nâng nổi chén nữa. Vốn biết Chu Xán thời làm quan với nhà Tùy, nhân Dượng Đế đào hàng nghìn dặm sông, gặp mất mùa liên tiếp mấy năm, cũng đã từng ăn thịt người, nên đến lúc này, mặt mũi đỏ bừng, mắt hằn những tia máu, mọi chuyện đều chẳng coi ra gì. Đoàn Ý cười hỏi Chu Xán:

- Đại vương dạo trước rất thích ăn thịt người, nay quyền cao chức trọng, có còn ăn nữa không?

Chu Xán thấy hỏi thế, bừng bừng sát khí, trong lòng thầm chửi: "Đồ chó già, ta dẫu chưa đổi tính xưa đi nữa, trước mặt mọi người, đâu phải chỗ để nói cái xấu của người khác". Bèn đáp:

- Ta nay chỉ thích ăn thịt kẻ đọc sách thôi, bọn này thịt da đều nhỏ nhắn, mịn màng, so với thịt kẻ khác ngon hơn nhiều. Huống chi thịt kẻ đọc sách mà lại đang say rượu, thì ngon chẳng khác gì nem thịt lợn vậy.

Đoàn Ý nổi cơn điên khùng:

- Cái đồ thối tha này, mày chỉ ăn thịt được mấy thằng lính quèn, kẻ đọc sách làm gì đến phần mày?

Chu Xán quát:

- Mày bảo tao là đồ thối tha, tao ăn thịt mày thì mày làm gì nổi tao.

Đoàn Ý thách:

- Mày dám ăn thịt tao kia à? Cái đầu lừa của mày, không muốn nằm trên cổ nữa sao?

Chu Xán gọi ngay đao phủ lôi Đoàn Học sĩ ra giết, rồi nấu lên cho y nhắm rượu.

Đáng thương một vị hàn lâm

Làm thức nhắm như gà hầm, lợn quay.

Bọn lính đi theo Đoàn Ý, ngày đêm trốn về thưa với Tần Vương, Tần Vương giận dữ, định đem binh đi Cúc Trạch diệt Chu Xán, báo thù cho Đoàn Ý. Vừa may Lý Tĩnh chinh phạt Lâm Sĩ Hoằng về đi qua Doãn Châu, vừa đem ba nghìn người ngựa quy Đường, biết Tần Vương đóng quân ở đây, liền đem Trương Thiên Tương vào ra mắt Tần Vương.

Tần Vương vui mừng đem chuyện Chu Xán ăn thịt Đoàn Học sĩ kể tỉ mỉ. Lý Tĩnh hỏi:

- Bây giờ điện hạ định ra sao?

Tần Vương đáp:

- Đối với thằng giặc ác độc như thú dữ vậy, ta thân chinh trừ một phen, để rửa nỗi oan ức cho Đoàn Học sĩ ở tuyền đài.

Lý Tĩnh thưa:

- Đồ cầm thú này, không đáng để điện hạ ngự giá thân chinh. Thần nghe nói Tinh Châu đã mất một số huyện. Hội Châu nguy cấp từng ngày từng giờ, xin điện hạ hãy cứ mau tới cứu viện, còn Chu Xán, thần xin cùng Thiên Tương đi một lần, tất là bắt được, rồi sẽ quay về yết kiến điện hạ.

Tần Vương đáp:

- Được túc hạ đi cho, ta còn gì lo nữa!

Liền sai năm sáu viên tướng, lãnh một vạn quân phong Lý Tĩnh làm Chinh Sở đại tướng quân, Thiên Tương làm mã bộ tổng quản, Bạch Hiển Đạo làm tiên phong. Tần Vương phán:

- Khanh đi lần này nhất định thắng trận, cứ đóng binh ở cửa Hồng Cầu, Hà Nam. Đợi ta chinh phạt Vũ Chu xong, sẽ cùng kéo đến đó cùng đi đánh Thế Sung.

Lý Tĩnh nhận lệnh, dẫn Thiên Tương từ biệt Tần Vương, lên đường.

***

Lại nói Lưu Vũ Chu, liên kết với Khả hãn Đột Quyết là Yết Bà Na, vốn là em của Khả hãn Thủy Tất, chiếm ngôi của anh tự lập làm Tây Đột Quyết, ở đất phía cực Bắc. Thấy Vũ Chu có lẽ đến cầu thân, hẹn cùng xâm phạm Trung Nguyên, liền chiêu binh mã thêm nữa. Vậy nên mới xảy ra một chuyện khác, về một người con gái kỳ tài. Câu chuyện như sau:

Người con gái đó họ Hoa, phụ thân tên là Cô, tự Thừa Chi, vốn là người phía Bắc Hà, làm thiên phu trưởng, vợ kế là Vương Thị, người Trung Nguyên, nhân ngoài cổng có trồng một cây mộc lan, chăm bón mấy năm, chẳng chịu ra hoa, đến năm có mang cây bỗng ra rất nhiều hoa, cho nên cha mẹ đặt tên cho con gái là Mộc Lan, sau đó sinh thêm được một con gái nữa, đặt tên là Hựu Lan. Một người con trai là Thiên Lang, hãy còn ẵm ngửa. Hựu Lan kém Mộc Lan bốn tuổi, mặt mày chẳng khác gì chị.

Mộc Lan sinh ra mày thanh mắt sáng, giọng nói trong trẻo, lúc Thừa Chi chưa có con trai thường cho Mộc Lan ăn mặc như con trai, dạy cho giương cung, tập tên đến năm mười tuổi, cũng không chịu xâu tai, kết tóc, chỉ thích giả làm con trai, học cả binh pháp. Gặp lúc vua Khả hãn Đột Quyết lấy quân, Mộc Lan đã mười bảy tuổi, cao lớn chẳng khác gì một chàng trai. Các nhà ở phương Bắc này, con gái về nữ công cũng không có gì lắm, cung ngựa thì nhà nào cũng có, Mộc Lan thường cưỡi ngựa, ra thảo nguyên rong chơi. Cha mẹ thấy Mộc Lan đã lớn, định gả chồng, nhưng Mộc Lan vẫn chưa chịu nghe.

Một hôm thấy cha đi đâu về, nói chuyện với mẹ:

- Đầu mục của Khả hãn Yết Bà Na về gọi lấy lính, tên ta cũng có làm thiên phu trưởng, sợ rằng khó tránh khỏi phải ra đi lần này.

Viên Thị đáp:

- Phu quân năm nay đã nhiều tuổi, ra đi thì lấy ai mà coi sóc cửa nhà?

Thừa Chi tiếp:

- Ta lại chẳng có đứa con trai nào lớn, để có thể thay tên cho, thì làm sao cho thoát?

Viên thị hỏi:

- Liệu có thể kiếm mấy lạng bạc để xin chăng?

Thừa Chi đáp:

- Ai cũng dùng tiền bạc để xin, thì lấy đâu ra quân lính. Hơn nữa, nhà mình lấy bạc tiền đâu ra?

Viên Thị lo lắng:

- Chẳng nói tới chuyện phu quân tuổi cao sức yếu, làm sao mà phá thành hãm trận, mà ở nhà vợ già con dại, làm thế nào mà sống cho qua ngày?

Thừa Chi đáp liều:

- Thôi thì đến lúc nào, hay lúc ấy vậy!

Mấy ngày sau, quân tư đưa giấy về, gọi Thừa Chi tới điểm danh, Thừa Chi chẳng còn cách nào khác, đành phải vâng theo. Nào ngờ việc quân cần kíp, phát cho đầy đủ lương thảo, hạn trong ba ngày phải lên đường, cả nhà đều mặt ủ mày chau. Mộc Lan trong lòng thầm nghĩ:

"Thời Chiến Quốc, có chuyện Tôn Vũ thao luyện nữ binh, thế thì rõ là con gái cũng có thể đi lính được. Ta xem trong sử sách, thuở trước có Tiêu Kỳ nữ tướng, thời đầu nhà Tùy có Cẩm Triệt phu nhân, đều được coi là những người tận trung giết giặc đền nợ nước, lập nhiều chiến công lớn. Những người phụ nữ đó, khó mà nói vì không có cha mẹ, gặp phải thời thế như vậy, cũng phải đem thân ra lo việc nhà vua mà bắt buộc phải ra lính, ngược lại được sử sách lưu thơm. Ta nay, cha đã cao tuổi như thế, trên thì chẳng có con trai, dưới cũng chỉ có em nhỏ, nay nếu cha ra đi, lấy ai mà làm chỗ dựa cho gia đình. Chẳng may chết ở sa trường, làm sao mà gửi được nắm xương tàn về quê hương. Chi bằng ta giả dạng nam nhi, thay cha đi lính. Chỉ cần Mộc Lan này cẩn thận ít nhiều, chuyện làm sao mà lộ ra được, rồi khoảng một hai năm sau, còn có ngày trở về quê nhà, báo được ít nhiều công ơn cha mẹ, có phải tốt không. Nhưng chỉ sợ mình cải dạng đàn ông liệu có giống không thôi?".

Vội vào trong buồng, lấy mũ áo, trang phục của phụ thân, mặc vào cũng may đôi gót sen đỏ thì đã có đôi giày che kín, tập đi cho hùng dũng, tới bên vại nước, soi thử xem sao, rồi cất tiếng than thở:

- Thật đáng xấu hổ, trông ra như thế, chẳng phải chỉ thiên phu trưởng, mà dẫu có đóng đến tướng quân cũng được.

Chính giữa lúc đang soi ngắm bắt chước đàn ông như thế, thì Viên Thị đột nhiên vào thấy, kêu lên ngạc nhiên:

- Cái con bé này, sao lại ăn mặc như thế?

Thừa Chi nghe tiếng, vào thấy thế cười:

- Thế là tại sao?

Mộc Lan hỏi:

- Thưa cha, Mộc Lan nay ăn mặc thế này, liệu có thể thay cha đi lính được không?

Thừa Chi đáp:

- Hình dáng thế này, sao lại không được. Hôm trước điểm danh, cả hơn ba nghìn người, mấy ai có được hình dáng thế này. Nhưng chỉ tiếc cho con một điều!

Mới nói đến đây, mắt đã nhỏ lệ. Mộc Lan thấy thế, cũng khóc mà hỏi:

- Cha tiếc gì cơ?

Thừa Chi đáp:

- Chỉ tiếc là con gái, nếu là con trai, thì cha mẹ chẳng có điều gì phải lo, mà may ra còn kiến công lập nghiệp, rạng rỡ ông cha.

Mộc Lan thưa:

- Cha mẹ chẳng phải lo lắng, con đã quyết chí, ngày mai con sẽ lên đường đi lính thay cha.

Thừa Chi cùng Viên Thị đều nói:

- Con là con gái, nói chi những điều kỳ lạ đó!

Mộc Lan đáp:

- Con nghe nhiều người nói, thời buổi loạn ly, rất nhiều phu nhân, công chúa, cải trang tị nạn, mấy ai nhận ra. Con chỉ cẩn thận giữ gìn, thì chẳng ai biết được đâu.

Viên Thị ôm Mộc Lan mà rằng:

- Không được đâu con ơi, làm sao lại có chuyện con gái chưa chồng sống giữa chốn thiên quân vạn mã cho được!

Mộc Lan đáp:

- Cha mẹ không nên cố chấp, con thì một thân, lại có thể che chở cho các em, lại có thể giữ gìn được cha mẹ, kẻ trung thần hiếu tử đều làm thế cả, có chí thì mọi việc đều nên. Con đi mà chịu khó học hỏi, thì còn hơn bao đàn ông khác nữa kia. Chỉ cần cha mẹ có gan, không nên khóc lóc, xung quanh nghi ngờ con là con gái, không những không nên việc, mà còn xấu hổ nữa.

Thừa Chi cùng Viên Thị thấy con quyết chí, cả nhà đều sụt sịt, nức nở, cũng không biết quyết đoán ra sao.

Sáng hôm sau, mặt trời đỏ ối đường đông, thấy ngoài cửa gõ rất gấp rồi có tiếng người gọi:

- Hoa Thừa Chi, chúng ta đi thôi!

Thừa Chi mở cửa, ba bốn người cùng đội ngũ đang định nói gì, Mộc Lan đóng giả rất là gọn ghẽ, vội vã đỡ lời Thừa Chi:

- Cha cháu đã nhiều tuổi, cháu nguyện đi thay.

Bọn này thấy thế cười:

- Thừa Chi huynh ông, chúng tôi không ngờ ông có con trai lớn thế này, thật ra dáng trượng phu.

Thừa Chi thấy vậy, chỉ đành yên lặng, rồi nghẹn ngào đáp:

- Đúng thế!

Bọn này nói tiếp:

- Có được con trai như thế này, đúng là nên thay cho cha già, với một đao thương trong tay, sẽ trở thành quan tướng trở về, nhà huynh ông tha hồ vẻ vang.

Mộc Lan ngăn không cho cha đi tiễn, từ biệt cha mẹ, chỉ dặn:

- Xin cha mẹ giữ gìn, chăm sóc các em, con đi đây!

Lưng đeo tay nải, tay cầm giáo dài, quất roi một cái, đã ra khỏi cửa. Thừa Chi chỉ đành nhịn lời gạt nước mắt, dù muốn tiễn Mộc Lan đến quân doanh, nhưng thấy con nhất định không cho, nên đành phải quay về. Hàng xóm nhiều người biết chuyện, phần lớn đều trách vợ chồng Thừa Chi:

- Cả hai vợ chồng, chẳng hiểu tại sao để cho con gái đi vào con đường ấy rồi còn núi cao vực thẳm, làm thế nào cho yên?

Cũng có một ít người, phần đông là phụ nữ, thì lại bàn tán:

- Thật là một cô gái có chí, nghĩ không thể ai thay mình tìm người chồng vừa ý, nên tự đi vào chỗ hàng nghìn hàng vạn người, tìm lấy một kẻ xứng đáng, chẳng dại dột gì đâu!

Thừa Chi chẳng biết nói ra sao, chỉ đành coi như không nghe, trong lòng ngày đêm như dao cắt. Mộc Lan ra đi được khoảng một năm, Thừa Chi đã ốm đau rồi qua đời. Thương thay! Vợ Viên Thị, con gái con trai đều còn nhỏ, chẳng có cách gì sinh sống, đành phải cải giá, lấy một người họ Ngụy, cùng làng, nhưng đó là chuyện sau này.

***

Nay hãy nói Tần Vương cùng Mậu Công, dẫn binh cùng Lưu Vũ Chu giao chiến, đã lấy lại được năm sáu quận huyện, hiện đã đến mãi Bách Bích quan. Thúc Bảo cùng Uất Trì Cung quyết đấu bốn năm trận, bất phân thắng bại. Tống Kim Cương thấy Uất Trì Cung không thắng nổi Thúc Bảo, trong lòng nghi hoặc, sai người đốc chiến. Uất Trì Cung tức giận liền thách Thúc Bảo ra ngoài cửa quan, đánh nhau mấy trăm hiệp, nhưng cũng không làm gì được. Tần Vương trước trận thấy thế, rất phục tài Thúc Bảo, nhưng cũng thấy hâm mộ tài năng của Uất Trì Cung.

Trời đã chiều, sợ có gì sơ xuất, Tần Vương ra lệnh đánh chiêng thu quân, hai tướng cùng về bản trận. Thúc Bảo nóng lòng không thể chịu nổi, nào đã chịu nghỉ, gọi quân lính, đốt đuốc thật nhiều, đánh nhau ban đêm. Tần Vương không cho, Thúc Bảo cũng không chịu. Chỉ thấy trong trận họ Lưu, một tiếng pháo lớn nổi đèn đuốc sáng như ban ngày, Uất Trì Cung đứng trước trận lớn tiếng:

- Mau ra đây quyết chiến!

Thúc Bảo nghe ra, cười:

- Thằng giặc Hung nô này cũng nghĩ như ta!

Lập tức thay ngựa khác, ra trước trận nói với Uất Trì Cung:

- Ta đêm nay không giết được ngươi, thề không về trại.

Uất Trì Cung đáp:

- Ta đêm nay không bửa được đầu ngươi, cũng không về trại.

Cả hai phấn chấn tinh thần, đem hết tài năng, chẳng ai chịu thua ai, Uất Trì Cung cười nói:

- Đồ chết toi! Ta với ngươi võ nghệ đều đã biết nhau rồi, ngươi giờ có dám cùng ta đấu riêng lực thôi không?

Thúc Bảo hỏi:

- Thế nào là đấu lực?

Uất Trì Cung đáp:

- Ngày xưa Mạnh Bôn Hạ Dục, có sức bẻ gãy sừng trâu, Ngũ Tư nâng được đỉnh lớn, Hạng Vũ có thể bạt núi. Ta cùng ngươi, đều là những kẻ đàng hoàng, không thèm làm chuyện mờ ám, nhưng nếu bắt chước người xưa thì không đủ lạ. Nay ngươi hãy thử để ta quất mấy roi, ta cũng để ngươi đánh mấy giản, xem ai yếu ai khỏe, như thế gọi là đấu sức đấy!

Thúc Bảo nói:

- Ngươi là người lớn hẳn hoi, sao lại đi nói những chuyện con nít thế. Trâu là đồ súc vật, đỉnh là loại kim khí, núi là loại khoáng chất, đều là những vật vô tri cả. Con người ta da thịt là của cha mẹ để lại cho, không nói chuyện sống chết, thì sao lại có thể tự hủy hoại, cam chịu đao thương. Nếu chẳng có điều gì khác thường, thì phải tìm cách dương danh hậu thế, sao lại đi làm cái việc này. Ta không nghe đâu!

Uất Trì Cung thầm nghĩ: "Thằng giặc già này nói đúng, chỉ một roi thôi đủ chết, mà dẫu không chết nữa, cũng thành người tàn tật suốt đời. Liếc mắt nhìn phía bên có hai khối đá xám lớn, nặng khoảng hai nghìn cân, bèn nói với Thúc Bảo:

- Khối đá thế này đây. Ta với ngươi thi, cả hai dùng khí giới mà chém, ai chém vỡ nhỏ hơn thì thắng!

Thúc Bảo hỏi:

- Khí giới của ngươi nặng bao nhiêu?

Uất Trì Cung đáp:

- Cái roi này của ta nặng một trăm hai mươi cân!

Thúc Bảo nói:

- Giản của ta mỗi cây chỉ nặng có sáu mươi cân, cả hai cây cộng lại vẫn còn thua roi của ngươi mấy cân.

Uất Trì Cung nói:

- Ta chém bằng giản của ngươi, ngươi chém bằng roi của ta, cả hai đổi cho nhau. Nếu như ngươi thua, ngươi theo hàng về Định Dương. Ta mà thua, ta sẽ hàng nhà Đường. Chỉ chém ba lần, xem ai yếu ai mạnh!

Thúc Bảo đáp:

- Thế cũng được!

Cả hai xuống ngựa, Uất Trì Cung cởi chiến bào ra, đưa roi cho Thúc Bảo, Thúc Bảo cũng đưa đôi giản cho Uất Trì Cung. Uất Trì Cung nghiến răng trợn mắt, dùng toàn lực mà chém, mặt đá vẫn không một vết rạn, chém một lần nữa, chỉ thấy những rãnh sâu khoảng hai ba thốn. Uất Trì Cung trong lòng hoảng sợ, lần thứ ba lấy hết sức bình sinh, chém xuống, nghe choang một tiếng, viên đá đã vỡ, hóa làm hai mảnh. Uất Trì Cung cười nói:

- Thấy chưa? Nay đến lượt ngươi!

Thúc Bảo cũng cởi chiến bào ra, nhìn hòn đá xám, rồi ngửa mặt nhìn trời, thầm khấn:

- Trời xanh trên đầu! Ta là Tần Quỳnh, nay cùng gã giặc Hung nô này cùng thi. Nhờ hồng phúc của thiên tử nhà Đường, Tần Vương có thể nhất thống được thiên hạ, Tần Quỳnh nay có thể kiến công lập nghiệp, thì chẳng cần đến ba lần, viên đá này phải vỡ.

Rồi giơ hai tay cao, tận lực giáng xuống, hòn đá đã có vết, chém một lần nữa, hòn đá đã chia hai. Thúc Bảo cười:

- Thấy chưa? Đá còn như thế, nếu là người thì thịt bỗng một khắc hóa bùn. Ngươi ba lần, ta chỉ có hai. Thế là ngươi thua rồi!

Uất Trì Cung đáp:

- Khí giới của ta nặng, của ngươi nhẹ hơn!

Cả hai đương còn tranh luận, thấy năm sáu tên lính, khiêng một hũ rượu, một mâm thịt bò, quỳ trước mặt mà thưa:

- Điện hạ sợ hai vị tướng quân dùng sức thái quá, sai chúng tôi mang những thứ này tiếp thêm sức thần.

Uất Trì Cung thấy thế, bèn nói:

- Ai thèm ăn của chúng bay, hãy đánh nhau tiếp cho xong đã.

Hai người lại đổi trả binh khí cho nhau, lên ngựa, thì nghe ở phía quân nhà Đường, nổi chiêng thu quân, Thúc Bảo đành quay ngựa về trại. Uất Trì Cung cũng quay về. Đó chính là chuyện Tần Thúc Bảo cùng Uất Trì Kính Đức ba giản đổi lấy hai roi vẫn được, truyền tụng lâu nay, đúng như chuyện thời Tam Quốc, Lưu Tiên chủ với Ngô Tôn Quyền thử kiếm chém đá vậy. Sau này, có người để cho tai mắt người khác thêm sợ hãi, nên nói ra, chuyện Thúc Bảo chịu đánh ba giản, Uất Trì Cung giơ đầu chịu hai roi, đều là chuyện sai ngoa vậy.

Nay không nói chuyện Thúc Bảo về trại, hãy nói chuyện Uất Trì Cung, vì có đứa tiểu hiệu cao hứng, đem việc thi trước trận, nói cho Tống Kim Cương nghe. Kim Cương nổi giận nói:

- Đánh nhau sống chết, sao lại có chuyện uống rượu như là chuyện đùa vậy, rồi lời ra tiếng vào để tiết lộ cả việc quân.

Liền thưa với Lưu Vũ Chu, Vũ Chu nổi giận, vội gọi ngay tả hữu:

- Hãy chém ngay đầu Uất Trì Cung rồi báo ta biết!

Các tướng khổ công khuyên giải, Vũ Chu sai tìm ngay tướng khác giữ cửa quan, còn điều Uất Trì Cung đi Giới Hưu coi lương thảo. Mậu Công biết tin trong lòng mừng rỡ. Lại nghe tiêu mã về báo rằng: Khả hãn Yết Bà Na khởi binh giúp Vũ Chu. Mậu Công liền ghé tai nói nhỏ với Tần Vương mấy câu. Tần Vương liền sai tổng quản Lưu Vũ Nhượng, đem theo vàng ngọc đến quân doanh của Khả hãn Yết Bà Na, dùng kế giữ cánh quân này lại. Mậu Công lại điểm quân tướng đánh Bách Bích quan.

Tướng giữ cửa quan nay là Tầm Tương, từ lâu đã có lòng về nhà Đường, nay thấy quân Đường nhiều, tướng Đường giỏi, liệu cửa quan chẳng thể nào giữ nổi, nên mở cửa ra hàng. Bọn quân sĩ thuộc Lý Mật ngày trước nay cũng muốn lập ít nhiều công trạng, nên ai nấy đều gắng sức, định kéo thẳng tới trại quân của Tống Kim Cương, mười trại thì cướp được tám, chỉ còn lại khoảng hai ba nghìn người ngựa, Vũ Chu kinh sợ, đành phải chuyển quân về phía Bắc. Mậu Công biết rõ Kính Đức phải sai đi coi giữ lương thảo ở Giới Hưu, liền sai Sĩ Tín cùng Vương Bộ, nhận kế đến Giới Hưu trước, còn Mậu Công cùng Tần Vương với đại quân từ từ theo sau.

***

Lại nói Uất Trì Cung, được tha không giết, lòng hổ thẹn, tức tối, dẫn một đội người ngựa, rời khỏi Bách Bích quan, đi về Giới Hưu. Đến An Phong, thấy có một toán phu dịch tải lương thực tới, Kính Đức đứng ra xem xét, thấy có ba nghìn thạch, cỏ có hơn một vạn bó, trên xe đều cắm cờ hiệu nhỏ màu vàng. Trời đã gần tối, liền lệnh cho quân sĩ áp tái lương thảo lại một nơi, kết thành trại tạm qua đêm. Uất Trì Cung không dám cởi áo giáp, ngồi ở giữa trại, bỗng nghe bên ngoài huyên náo, quân lính thưa:

- Có giặc tới cướp trại!

Uất Trì Cung vội cầm roi lên ngựa, được khoảng hai ba dặm, một tiếng pháo nổ, tiếng la hét rầm trời. Uất Trì Cung trông ra, trời sáng trăng mờ mờ, đi đầu là một viên tướng. Uất Trì Cung quát hỏi:

- Ngươi từ đâu đến?

Viên tướng đáp:

- Ta là đại tướng Vương Bộ, dưới trướng Từ Nguyên soái nhà Đường! Vâng lệnh nguyên soái, tới đây mượn nhà ngươi ít lương thảo.

Uất Trì Cung lại quát:

- Thằng giặc già! Mày không nhận ra ta sao?

Vương Bộ cười đáp:

- Già này làm sao mà nhận ra thằng giặc đánh không chết kia!

Uất Trì Cung nổi giận, giơ roi xông vào, cứ mặt mà chém xuống. Vương Bộ giơ thương lên đỡ, hai người một qua một lại, đến năm sáu chục hiệp Vương Bộ không đánh nổi, bỏ chạy. Uất Trì Cung đuổi sát, bên tai nghe tiếng hò hét rầm trời, quay đầu nhìn lại, thì thấy lửa cháy rực trời. Uất Trì Cung bỏ Vương Bộ, quay ngựa lại, vẫn nghe tiếng nổ liên tiếp, chẳng mấy chốc, xe lớn xe nhỏ, cỏ to, cỏ bé cùng với ba nghìn thạch lương, bị quân nhà Đường đốt trụi. Thì ra bọn đốt lương thảo chính là cánh quân Sĩ Tín. Vương Bộ thì lừa cho Uất Trì Cung đi xa, Sĩ Tín tiến lại đốt sạch, Kính Đức thấy thế, lòng càng phiền muộn, lại sợ Vương Bộ chiếm mất thành Giới Hưu, liền phi như bay về, gặp phải quân Vương Bộ cùng Sĩ Tín, đánh nhau lần nữa, nhưng cả hai không đương nổi, đành để Uất Trì Cung về Giới Hưu, chờ đại binh của Tần Vương đến, vây kín thành Giới Hưu.

Tần Vương sai Tầm Tương vào thành dụ hàng. Uất Trì Cung nói:

- Muốn ta hàng Đường, phải chờ xem Lưu Vũ Chu thế nào đã, nếu chết, ta mới đi thờ người khác. Còn bức bách quá, thì chỉ đánh nhau đến chết mà thôi!

Tầm Tương không cách nào khác, ra khỏi thành đem chuyện thưa lại Tần Vương. Tần Vương trong lòng phiền muộn, bỗng nghe tin báo tổng quản Lưu Thế Nhượng đã trở về. Tần Vương cả mừng, gọi vào.

Thế Nhượng đưa trình thủ cấp Vũ Chu cùng Kim Cương. Tần Vương vừa ngạc nhiên, vừa vui mừng:

- Hai cái này ở đâu ra?

Thế Nhượng thưa:

- Thần vâng mệnh ra đi, qua Tinh Châu, giữa đường gặp Khả hãn Yết Bà Na, đang đóng quân dưới chân núi Vạn Phong. Thần dò được hư thực, liền vào trong doanh gặp, đưa thư cùng lễ vật trình, nói: "Vua Đường cần phải đi đánh nhà Trịnh, để hỏi tội giết vua Tùy ngày trước nên đến đây nói với đại quốc, phát binh cùng đánh". Yết Bà Na rất mừng mà rằng: "Ta đang giận Lưu Vũ Chu, nhờ ta phát binh cùng đánh nhà Đường, không ngờ Vũ Chu đi trước, bao nhiêu quận huyện chiếm được, biết mấy là ngọc ngà cùng gái đẹp đều bị Vũ Chu lấy hết, nay lại khẩn khoản nhờ ta cứu viện. Nay vua Đường nhà ngươi đem lễ vật đến để kết giao, ta sẽ phát binh cùng hội họp, trước tiên là hỏi tội Vũ Chu, sau là cùng các ngươi đánh Thế Sung cũng tiện". Việc thật là vừa vặn, thần ở trong trại của Yết Bà Na, chưa được hai ngày, thì nghe tin Vũ Chu cùng Kim Cương bị quân ta đánh bại, thế cùng lực tận, về theo Yết Bà Na. Yết Bà Na nổi giận, dùng kế giết cả hai, gọi thần đem thủ cấp về biếu triều đình.

Tần Vương nghe thế, vỗ tay:

- Rõ là trời giúp ta thành công vậy?

Lập tức thưởng cho Thế Nhượng rất hậu. Lại sai Tầm Tương đem hai thủ cấp Vũ Chu, Kim Cương vào thành Giới Hưu cho Uất Trì Cung xem, để khuyên Uất Trì Cung hàng nhà Đường. Tầm Tương vâng mệnh. Uất Trì Cung thấy hai thủ cấp, nhận ra là đúng rồi, bèn khóc rống, rồi làm lễ tế cẩn thận, lấy quan tài khâm liệm, chôn cất tử tế, rồi mở thành hàng nhà Đường. Tần Vương thấy thế, kính yêu Uất Trì Cung như khách, lập tức viết tấu chương báo tin thắng trận về triều.

Vua Đường cả mừng, liền ban cho Uất Trì Cung làm Tả phủ thống tướng quân, thăng Lưu Thế Nhượng làm thái thú Tinh Châu, tả hữu còn lại, đều được thăng thường.

Chính là :

Nước cạn mà núi chưa cùng

Đá vỡ mới thấy ngọc trong sáng ngời!

hết: Hồi Thứ Năm Mươi Sáu, xem tiếp: Hồi Thứ Năm Mươi Bảy

Đánh máy: bevang

Nguồn: bevang / VNthuquan - Thư viện Online

Được bạn: Ct.Ly đưa lên

vào ngày: 16 tháng 2 năm 2010

Hồi Thứ Năm Mươi Bảy

Đổi lời thư, Đậu công chúa từ hôn,

Cắt vạt áo Đơn Hùng Tín đoạn nghĩa

Thơ rằng:

Y, Lạc kinh thành nước chảy reo (1)

Tùy triều dượng khí chẳng bao nhiêu

Búa rìu mới xếp, can qua đấy

Son sắt vừa thề, thoán đoạn theo

Ếch giếng nhìn nam, vua Trịnh ngáp

Kiến đàn kéo bắc, lính Đường reo

Thịnh suy chớp mắt, chòm mây nổi

Gò nấm mang Sơn, nguyệt hắt hiu.

1 Y, Lạc: Hai con sông chảy quanh kinh đô Lạc Dương của nhà Tùy.

***

Nay lại nói chuyện Yết Bà Na giết Lưu Vũ Chu, Tống Kim Cương, giao hai thủ cấp cho Lưu Thế Nhượng mang đi. Tần Vương hứa với Yết Bà Na cùng kéo binh đánh Trịnh, nên nhổ trại kéo về Hà Nam. Nhân thấy Hoa Mộc Lan tướng mạo khôi ngô, cử chỉ linh lợi, liền thăng cho làm Hậu đội mã quân đầu lĩnh. Mấy nghìn người ngựa, kéo đến vùng Diêm Cương, bỗng thấy nhốn nháo trước núi, một đội người ngựa xông ra. Yết Bà Na thấy thế, liền sai tướng lên lớn tiếng hỏi:

- Các ngươi là ai ở đâu tới?

Một viên tướng trả lời:

- Ta là đại tướng Phạm Nguyện, dưới trướng Hạ Vương Đậu Kiến Đức.

Thì ra công chúa Đậu Tuyến Nương, muốn đến miếu Tây Nhạc ở Hoa Sơn để dâng hương, nên Kiến Đức sai Phạm Nguyện lãnh binh hộ giá, lúc này đã dâng hương xong, quay về gặp toán người ngựa của Yết Bà Na. Phạm Nguyện thấy thế, liền hỏi:

- Các ngươi ở Tây Đột Quyết, đến Trung Quốc chúng ta có việc gì?

Khả hãn đáp:

- Vua Đường mời ta cùng đi đánh Trịnh.

Phạm Nguyện cả giận:

- Đường cùng Trịnh đều là thần tử của nhà Tùy, còn các ngươi đều là bọn giặc giết chẳng bao giờ hết ở phía bắc, thì hãy lo giữ lấy cương giới, sao lại dám đem quân giúp kẻ khác đánh nhau?

Khả hãn cũng không vừa:

- Thằng vua của các ngươi là một đứa bán muối lậu, lôi kéo được bọn giặc cướp các ngươi, thử hỏi làm gì nên chuyện mà khua môi múa mép?

Binh lính của Phạm Nguyện, quả đã từng là giặc cướp, nghe Khả hãn nhắc đến tội cũ, đứa nào đứa ấy nghiến răng trợn mắt, cứ xông vào đám lính Khả hãn mà đâm chém, nên bọn này chỉ còn cách tìm đường chạy trốn.

Khả hãn trong lúc nguy cấp, may kịp có hậu đội của Hoa Mộc Lan đến kịp. Mộc Lan dẫn sĩ tốt vào giữa trận, cứu được Khả hãn, tập hợp người ngựa, lệnh cho toán quân bản bộ của mình, hạ ngay xuyên vân pháo trên lưng xuống, nhất tề nổ một loạt. Phạm Nguyện thấy pháo lợi hại, lập tức rút lui, Mộc Lan dẫn quân đuổi theo, không kịp nhận ra vô số nữ binh, tay cầm mộc, tay cầm kiếm, người ngựa như dưới đất chui lên, như hoa rơi, như lá rụng, như ong bay, như bướm lượn. Mộc Lan vội lệnh cho quân sĩ rút lui, nhưng đội nữ binh đã đến ngay trước ngựa. Mộc Lan ngồi trên ngựa, bị ngay một nữ binh tới chém, giữa lúc nghiêng ngửa thì lại bị lính nhà Hạ dùng câu liêm, kéo xuống ngựa. Một đại tướng cao lớn tới cứu, nhưng nghe tiếng dây cung, một viên kim hoàn đạn, bắn trúng ngay yểm tâm kính của viên tướng vỡ nát, trong lúc vội vàng, nghiêng người xuống tránh, cũng bị quân Hạ bắt trói lại nốt. Quân Bắc bị mất hai tướng, liền quay ngựa bỏ chạy.

Đậu Tuyến Nương cho dẫn Mộc Lan cùng viên tướng kia đến. Lúc này trời đã về tây, tiền đội đã đóng trại, Tuyến Nương cũng ra lệnh dừng ngựa, tất cả nổi lửa, nấu ăn. Tuyến Nương nghĩ: "Hai tên tù Hung nô mới bắt được, giữ lại trại này có lẽ không yên?". Liền gọi thủ hạ, giải vào trướng. Nữ binh vâng lệnh, giải cả hai vào. Một nữ binh thấy Mộc Lan có vẻ tuấn tú, liền lấy làm thương hại, khuyên rằng:

- Công chúa ta quân pháp rất nghiêm, hãy đối đáp cho cẩn thận.

Mộc Lan như không nghe thấy, lặng lẽ bước theo vào trướng, Công chúa ngồi trên cao, nữ binh quát:

- Hai tên tù quỳ xuống!

Người tù kia vẫn đứng, quắc mắt nhìn, Tuyến Nương nhìn Mộc Lan rồi hỏi:

- Ngươi trông mặt mày sáng sủa, tên họ là gì, xem tướng mạo đường đường, tất không chịu làm kẻ dưới mãi. Nếu ngươi chịu hàng phụ hoàng, ta sẽ cho ngươi làm gia tướng.

Mộc Lan đáp:

- Hàng thì hàng thôi, nhưng cha mẹ ta đều ở phương bắc, hãy thả cho ta về.thu xếp gia quyến yên ổn, ta sẽ quay lại tận lực, tận tâm thờ chủ mới.

Tuyến Nương giận dữ quát:

- Phường thối tha, ngươi hàng thì hàng, không hàng thì chém đầu hà tất phải múa lưỡi.

Mộc Lan tiếp:

- Ta hàng công chúa, công chúa là đàn bà con gái, thì cũng chẳng lấy gì làm nhục. Còn nếu công chúa định giết ta, ta cũng là con gái, chẳng lấy đó làm vinh được đâu!

Tuyến Nương nói:

- Khó mà bảo ngươi là đàn ông hay đàn bà!

Mộc Lan đáp:

- Đúng như thế!

Công chúa bèn sai bọn nữ binh:

- Hai người hãy dẫn tên tù này ra phía sau khám nghiệm xem sao!

Hai nữ binh kéo Mộc Lan vào phía sau, Tuyến Nương hỏi tiếp người tù kia:

- Ngươi có điều gì hãy khai ra?

Người này đáp:

- Có công chúa ở trên, ta không phải con gái, mà là đàn ông, các người chẳng dung nổi ta đâu. Nếu công chúa thả ta ra, hoặc giả sau này gặp lại, ta sẽ báo ơn thật xứng đáng.

Công chúa nghe nói thế, nổi giận:

- Thằng giặc Hung nô này ăn nói hồ đồ thật, hãy đem ra chém quách cho ta!

Năm sáu nữ binh túm lại, kéo người này đi, người này gào lớn:

- Lão Tề này dẫu có bị giết cũng chẳng sợ, chỉ ân hận là phụ mất sự ủy thác của La tiểu tướng, chẳng được cùng Tôn An Tổ gặp nhau.

Công chúa nghe nói thế, liền gọi ngay lại, hỏi:

- Vừa rồi ngươi nói gì?

Người này đáp:

- Ta không nói gì cả!

Công chúa vặn:

- Ta vừa nghe rõ ràng, là "chẳng được cùng Tôn An Tổ gặp nhau" là gì? Lại còn "phụ mất sự ủy thác của La tiểu tướng" nào nữa?

Người này lại đáp:

- Tôn An Tổ thì chỉ có một, hiện đang làm tướng cho phụ hoàng công chúa. Ngoài ra còn có người nào nữa đâu?

Tuyến Nương liền sai cởi trói, ban cho ngồi, hỏi:

- Túc hạ tên họ là gì? Quen biết ra sao với Tôn Tư mã chúng tôi?

Người này đáp:

- Tiểu nhân họ Tề, hiệu Quốc Viễn, người Sơn Tây, cùng với phụ hoàng công chúa cũng có quen biết, còn với Tôn Tư mã vốn là bạn thân, năm ngoái có nhận được thư của Tôn Tư mã, mời hai anh em chúng tôi tới cùng làm tướng, vì tiểu nhân có việc nên chưa đến được.

Thì ra Tề Quốc Viễn cùng Lý Như Khuê, nhân chuyện Lý Mật giết Địch Nhượng, bèn bỏ đi tìm Sài Tự Xương, gặp ngay lúc Lý Uyên khởi sự, Tự Xương bèn lưu hai người lại, làm Hộ quân hiệu vệ Đoàn huyện sứ. Tự Xương lại đem theo cả hai, đi đánh chiếm được khá nhiều quận huyện cho nhà Đường. Tự Xương tâu lên vua Đường, vua Đường phong cho làm Hộ quân hiệu úy, đóng quân ở Ngạc Huyện. Nhân ngày lễ ngũ tuần của U Châu thứ sử Trương Công Cẩn, vốn là bạn "bát bái chi giao" của Tự Xương, nên mới phiền Quốc Viễn đi một chuyến. Lại gặp công tử La Thành, con trai tổng quản U Châu La Nghệ, hay tới dinh thứ sử Trương Công Cẩn chơi, biết Quốc Viễn quen thân với Thúc Bảo, Hùng Tín, nên mới viết thư, nhờ Quốc Viễn gửi cho Thúc Bảo. Tuyến Nương nghe kể thế liền nói:

- Nếu túc hạ là bạn thân với Tôn Tư mã chúng tôi, lại có quen biết phụ hoàng, ở chỗ chúng tôi hiện đang thiếu nhiều nhân tài, để ta về tâu với phụ hoàng, mời túc hạ cùng giúp một tay là hay hơn cả. Nhưng vừa rồi túc hạ còn nhắc tới cả La tiểu tướng nữa là ai thế?

Quốc Viễn đáp:

- Đó là con trai tổng quản U Châu La Nghệ, La công tử cùng với Tần Thúc Bảo ở Sơn Đông vốn là anh em con cô con cậu, La Thành có chuyện nhân duyên khó khăn nào đó, nên muốn nhờ Thúc Bảo nói với Hùng Tín dàn xếp hộ cho, nên mới nhờ tiểu nhân đi gặp. Không ngờ giữa đường gặp Yết Bà Na bị Khả hãn lôi kéo, trang bị giáp trụ, cho nên mới tham gia vào vụ vừa rồi.

Tuyết Nương nghĩ ngợi một hồi rồi nói:

- Không thể có chuyện thế được, chẳng thể vì chuyện nhân duyên của riêng mình, mà bắt bạn bè đi hàng nghìn dặm như thế.

Quốc Viễn đáp:

- Họ Tề này cả đời chưa từng nói dối bao giờ, hiện còn giữ thư của La tiểu tướng kia!

Rồi đứng dậy, cởi chiến bào, trước ngực lấy ra một cái túi nhỏ, bên ngoài gói bằng giấy dầu, bên trong là thư, đưa cho Tuyến Nương.

Tuyến Nương sai tả hữu lấy xem kỹ, bao ngoài bằng giấy hồng, trên viết hai .hàng chữ lớn: "Họ La ở Soái phủ U Châu, gửi cho Tần Tướng quân, tự Thúc Bảo ở Tế Châu, Sơn Đông". Tuyến Nương liền cầm thư giắt vào hài, rồi gọi tả hữu:

- Lính canh bên ngoài vào đây!

Bốn lính canh bên ngoài có mặt. Tuyến Nương sai:

- Các ngươi đốt đèn, đưa Tề đại nhân đây đến trại Phạm soái phụ, nói rằng theo lệnh ta, hãy tiếp đãi đại nhân cẩn thận, không được coi thường.

Lại nói với Quốc Viễn:

- Thư của La tiểu tướng, ta tạm giữ ở đây, đợi lúc nào túc hạ đã gặp Tôn Tư mã rồi, sẽ hoàn lại.

Quốc Viễn cũng chẳng còn cách nào khác, đành theo lính canh đến chỗ Phạm Nguyện.

Tuyến Nương thấy Quốc Viễn đã đi khỏi, đang định đứng dậy, một nữ binh vào quỳ thưa:

- Gã mặt trắng vừa rồi đã khám nghiệm chu đáo: đúng là con gái, không phải nói bậy.

Tuyến Nương lệnh:

- Dẫn vào trong này!

Ngồi xuống, Tuyến Nương hỏi:

- Nếu ngươi là con gái, tên họ là gì? Làm sao lại tòng quân, hãy khai cho thực.

Mộc Lan khóc, thưa:

- Thiếp họ Hoa, tên Mộc Lan, vì phụ thân tuổi cao, lại không có anh trai, dưới chỉ còn mấy em vừa nhỏ vừa yếu, phụ thân đi lính, thì chẳng còn ai coi sóc việc nhà. Thiếp nghĩ rằng đàn ông làm được việc trung thần hiếu tử, thì đàn bà cũng làm được. Vì thế thiếp giả trang đi lính theo lệnh vua thay cho thân phụ, dẫu trong quân chẳng ai biết, nhưng lòng cũng lấy làm hổ thẹn, xin công chúa lượng tình tha lỗi.

Nói xong không ngăn nổi hai hàng nước mắt tuôn ra như suối.

Tuyến Nương thấy thế, cũng cảm động mà rằng:

- Nếu thế thì rõ ràng là bậc hiếu nữ, không ngờ đất Bắc là nơi ngược ngạo, phóng túng, mà lại sinh ra được bậc nhi nữ đại hiếu như vậy Thật là rạng vẻ anh thư, ta cũng thật lòng kính ái?

Tuyến Nương lấy lễ chủ khách ra đãi, Mộc Lan từ tốn không dám.

- Công chúa vốn cành vàng lá ngọc, thiếp là phận áo vải thô, ngu muội, may được rộng tha, đã thật không ngờ, đâu dám cùng ngồi hàng với công chúa.

Tuyến Nương thở dài:

- Danh tước là cái dễ kiếm, thuần hiếu mới là sự khó. Ta cũng giận là thân con gái, không thể cùng mặt trời, mặt trăng tỏa sáng, không ngờ ngươi cũng có lòng như vậy. Nay ta đang thiếu một người bạn trong thuê phòng, cũng muốn kết chị em với ngươi, vinh nhục cùng hưởng, liệu có nên chăng?

Mộc Lan đáp:

- Điều này thì thật thiếp không dám nhận?

Tuyến Nương nói:

- Ý ta đã quyết. Ngươi chẳng nên quá khiêm nhường. Không biết tuổi tác ra sao đây?

Mộc Lan thưa:

- Kẻ hèn này mười bảy tuổi!

Tuyến Nương tiếp:

- Ta hơn ba tuổi, thôi đành ngồi ghế trên vậy!

Cả hai cùng lạy trời đất bốn lạy, rồi quay mặt lại, cùng lạy nhau bốn lạy nữa. Vì ở trong quân chẳng có gì để bày tiệc dọn yến, đành phải ăn cơm tối, rồi Tuyến Nương đưa Mộc Lan vào trong trướng cùng nghỉ, Tuyến Nương hỏi:

- Hiền muội đã lấy chồng chưa?

Mộc Lan lắc đầu:

- Ở nơi hoang dã góc trời, thực chẳng có ai. Thiếp tuy được hiền thư giờ yêu quý thế này, nhưng mai kia về, còn có phò mã nữa, rồi không biết hiền thư để thiếp vào đâu?

Tuyến Nương nghe thế, hai hàng lông mày chau lại, yên lặng không nói, Mộc Lan hỏi:

- Hiền thư đã quá tuổi đào non, mà vẫn chưa chịu kén khách đông sàng, sợ rằng quá tuổi hảo cầu chăng? (l)

1 Bài "Quan thư" trong "Kinh Thi": Yểu điệu thục nữ; Quân tử hảo cầu. (Khách thục nữ yểu điệu, Đẹp đôi cùng người quân tử).

Tuyến Nương đáp:

- Mẫu hậu vốn là mẹ kế, tuy rất hiền, nhưng phải lo việc nước. Phụ vương thì đánh đông dẹp bắc, lo chuyện binh đao, chẳng có lúc nào yên mà nghĩ tới chuyện này.

Mộc Lan thưa:

- Ở trên đời này những việc đáng làm cũng nhiều, phải đâu chỉ có riêng chuyện chăn gối thôi đâu!

Thêm một vài câu chuyện phiếm khác. Mộc Lan đã ngủ kỹ, Tuyến Nương nhẹ nhàng ngồi dậy, lấy thư của La Thành trong hài ra, lòng nghĩ: "Vừa rồi họ Tề nói La Tiểu tướng có chuyện nhân duyên gì đấy, nên phải viết thư nhờ Thúc Bảo, chẳng biết là với người nào vậy. Ta phải mở ra xem, La công tử viết những gì trong này?". Tuyến Nương cầm một con dao nhỏ, nhẹ nhàng mở dấu niêm phong, lấy thư ra, đặt trên án, đọc kỹ. Phía trên chỉ là những lời thăm hỏi thông thường, đọc đến phía dưới, thì hai hàng nước mắt chan hòa: "Trời ơi! Thì ra Dương Nghĩa Thần chết rồi! Ta cứ nghĩ tại sao La lang không đến nhờ Nghĩa Thần mà lại phải nhờ Thúc Bảo mãi". Xem hết từ đầu chí cuối, không ngăn nổi thở than: "Trời ơi! La lang! La lang! La lang vẫn một lòng nghĩ tới ta, mà không chịu nghĩ đến gia thất. Thật là chuyện của ta thật khó khăn quá chừng. Nếu như Dương lão tướng chưa mất, thì may ra phụ hoàng còn nghe lời. Nay họ Dương đã qua đời, dẫu cho Đơn viên ngoại có thư đến nữa, thì chắc gì phụ hoàng đã nghe. Ta mà còn mẫu thân, còn có người mà nương dựa. Nay tuy Tào Hậu hiền minh như thế, nhưng là thân con gái, ta làm sao mà mở miệng được để nói những điều này!"

Nghĩ đi nghĩ lại, chẳng thấy cách nào, không ngăn được, bèn nức nở một hồi, lại than: "Thôi rồi! Nhân duyên của ta nay chỉ đành chờ kiếp sau vậy, nhưng ta lòng nào mà làm lỡ tuổi thanh xuân của La công tử, có lẽ ta nên làm thế này: dạo trước ta ở Nhị Hiền trang, được tiểu thư Ái Liên nhà Đơn viên ngoại, rất là yêu thương, lại đã cùng ta kết nghĩa chị em. Nay La công tử đã viết thư nhờ Thúc Bảo, chi bằng sửa mấy chữ trong thư, nói ra là nhờ Thúc Bảo cầu hôn với Đơn tiểu thư, Đơn viên ngoại nhất định sẽ bằng lòng, một là báo đáp được tấm lòng mong mỏi của ta với Đơn tiểu thư, hai là gầy dựng được cho La lang. Phải chăng là cả hai đều tốt đẹp không?". Nghĩ ngợi xong xuôi, bèn gọi viên nữ thư dậy, thay thư cũ bằng một thư khác nói rõ những ý đã định trên, rồi theo cũ mà niêm phong cẩn thận, xong xuôi, lại bỏ bao vào hài của mình.

Chẳng bao lâu, gà đã gáy sáng, Mộc Lan tỉnh giấc, chải đầu rửa mặt, Tuyến Nương liền cho Mộc Lan trang phục như mình, cùng quân sĩ ăn buổi sáng. Đang định nhổ trại lên đường, thì thấy ba bốn kỵ mã đến thưa:

- Chúa công có lệnh, đến mời công chúa lập tức về triều, bởi Vương Thế Sung đang bị nhà Đường đem quân tới đánh, nên tới cứu viện. Chúa công định thân chinh kéo quân đi, nên giục chúng hạ qua báo ngay cùng công chúa!

Tuyến Nương đáp:

- Ta biết rồi! Các ngươi cứ quay ngay về!

Lại gọi mấy tên lính đêm qua dẫn Quốc Viễn đi lấy phong thư ở gót hài, cùng hai mươi lạng bạc, đưa cho bọn này, dặn kỹ:

- Đây là thư cùng hai mươi lạng bạc, hãy mang sang trại Phạm đại nhân, giao tận tay vị họ Tề tối hôm qua các người đã dẫn tới. Nói rõ rằng vì trong nước có việc, không thể gặp lại!

Bọn này vâng lệnh, đi ngay. Tuyến Nương ra lệnh cho đội nữ binh làm tiền đội, Phạm Nguyện làm hậu đội, quay ngay về. Quốc Viễn cũng biết rõ nhà Hạ sắp xuất binh, nên cũng không tìm Tôn An Tổ nữa, mà quay đến chỗ Thúc Bảo.

Chính là:

Tướng quân đừng xuống ngựa

Ai nấy cứ lên đường.

***

Lại nói Thúc Bảo cùng Mậu Công diệt xong Vũ Chu, thu phục được Uất Trì Cung, tiếng tăm càng lừng lẫy. Mậu Công nói với Tần Vương:

- Thế Sung từ ngày diệt được Ngụy Công, được thêm rất nhiều đất đai, người ngựa, thanh thế hơn hẳn trước kia. Nay điện hạ nên thừa thế mà trừ ngay đi, kẻo càng để lâu càng khó diệt. Trước tiên hãy sai các tướng triệt dần nanh vuốt xung quanh, cắt dần đất đai, để tuyệt nguồn lương thực, khiến cho bốn phía trơ trọi, không nơi cứu ứng, bên trong một mình khó mà cầm cự, mới dần dần thắng được. Cũng giống như người ta đánh con giải lớn vậy, trước hãy lo chặt đứt tám cái chân, lúc này dẫu còn hai càng lợi hại, cũng chẳng thể ngang dọc được nữa vậy!

Tần Vương khen hay, giao binh phù, sổ sách cho Mậu Công điều hành việc quân. Mậu Công liền sai tổng quản Sử Vạn Bảo, từ huyện Nghi Dương, đánh chiếm lấy một giải Long Môn. Lại lệnh cho tướng quân Lưu Đức Uy, từ Thái Hằng Sơn, ra lấy kỳ được Hà Nội (1). Còn Thượng Cốc Công, Vương Quân Khuyến, từ Lạc Khẩu phải bắt được đường tiếp lương của Thế Sung. Tổng quản Hoàng Quân Hán, kéo từ Hồ Ân ra đánh cho được Lạc Thành, Đại tướng Khuất Đột Thông, Đậu Quỹ mai phục quân ở các nơi hiểm yếu, sẵn sàng tiếp ứng cho những chỗ nguy cấp. Vương Bộ cùng Trình Giảo Kim, Vưu Tuấn Đạt, Liên Cự Chân tới Lê Dương, khôi phục lại những đất đai của nhà Ngụy. La Sĩ Tín cùng Tầm Tương đi lấy vùng Thiên Kim Bảo, Hổ Lao. Mậu Công với Tần Vương, Thúc Bảo, Uất Trì Cung về Hà Nam, hội quân Lý Tĩnh ở Hồng Câu. Chư tướng vâng mệnh nguyên soái, kéo quân đi.

1 Không phải Hà Nội của Việt Nam, mà là tên một vùng đất nhỏ, từ đời Tam Quốc đã có, gần như nằm giữa Trung Nguyên.

Lúc này Lý Tĩnh đã đánh bại Chu Xán, Xán thế cô lực tận, kiếm ngay vài người xấu số béo tốt ở Cúc Trạch, mổ thịt ăn uống vài ngày, rồi cùng với mấy lính kỵ, trốn về Hà Nam, theo hàng Thế sung. Lý Tĩnh đem binh, đóng giữ ngay ở cửa Hồng Câu, chờ đại quân Tần Vương.

Chưa đầy một tháng, Tần Vương đã tới, hai cánh quân gặp nhau, Tần Vương nói với Lý Tĩnh:

- Chu Xán như con sói dữ, nhờ tài năng của khanh, đã thua chạy. Không hiểu thanh thế của Thế Sung thật hư ra sao?

Lý Tĩnh thưa:

- Thần đã sai người dò xét kỹ càng, bọn chúng đã biết Đại Đường sẽ kéo quân chinh phạt, nên các nơi đều được giao cho anh em cháu chắt trong họ phòng bị nghiêm ngặt. Ngụy Vương Vương Hoằng Liệt giữ Tương Dương, Kính Vương Vương Hành Bận đóng ở Hổ Lao, Tống Vương Vương Thái nằm vùng Trần Châu; Tần Vương Vương Thế Vĩ giữ Bảo Thành, Việt Vương Vương Quân Độ đóng Đông Thành, Hán Vương Vương Huyền Nhự lập quân doanh ở Hàm Gia, Lỗ Vương Vương Đạo Ngự ở Diệu Nghi thành. Thật đến nỗi một giọt nước cũng không lọt, ngày đêm đều cảnh giác tuần thám rất nghiêm.

Tần Vương cười:

- Ngu ngốc thay cho Thế Sung, đâu có chuyện công nghiệp của cả đất nước, một nhà độc chiếm được sao. Chỉ có con cháu mới là bậc hiền tài thôi sao, ta đã thấy cảnh bại vong của chúng ngay trước rồi.

Tần Vương đôn đốc tướng sĩ tới Lạc Dương. Thế Sung liền kéo hai vạn người ngựa ra cửa Phương Chủ, hạ trại ngay bên bờ sông Cốc Thủy, đối diện với quân Đường. Quân Đường đóng trại chưa xong, chỉ sợ quần Trịnh sang đánh bất ngờ, phần nhiều đều hoảng sợ. Tần Vương thường đã quen lấy ít địch nhiều, lấy kế để thắng, thì chẳng ngại gì.

- Quân giặc kết trại gần bờ sông, thế là có ý sợ ta tấn công, rõ là thấy chúng ta hoảng sợ rồi vậy.

Liền sai Thúc Bảo, Uất Trì Cung đánh thẳng vào tiền quân Thế Sung, còn Tần Vương thì dẫn bọn Giảo Kim, Sĩ Tín, Khẩu Hằng Cung, Đoàn Chí Huyền, lặng lẽ đánh vào phía sau Thế Sung. Khoảng vài nghìn kỵ binh, xông vào trước chém giết. Quân Trịnh thấy thế, liền vây kín bọn kỵ binh lại. Sử Nhạc, Vương Thưởng, tuy có giết được vài trăm lính tráng, nhưng cả bọn này cũng khó lòng thoát khỏi vòng vây. Giữa lúc ham chiến, một phát tên bắn tới, làm Tần Vương ngã ngay xuống ngựa, hai tướng Trịnh trong trận liều chết giơ cao thương xông tới. Sử Nhạc thấy thế, hét to một tiếng, chém ngay một tướng, rồi đoạt lấy ngựa cho Tần Vương cưỡi. Viên tướng còn lại, bị Vương Thưởng bắn cho một tên, trúng ngay cổ họng, ngã xuống ngựa.

Phía trước Uất Trì Cung, Thúc Bảo đánh giết đến ba bốn giờ, Thế Sung chống đỡ không nổi, đành phải rút lui, bị quân nhà Đường đuổi sát tận chân thành, chém được đến sáu bảy nghìn thủ cấp rồi mới quay trở lại.

Ngày hôm sau, Tần Vương cùng Mậu Công ra ngoài trại quan sát thấy hai ba trăm dân chúng, đều mang cung đeo tên, có cả võng lưới mà đi. Tần Vương sai thủ hạ gọi lại rồi hỏi:

- Các ngươi đi đâu, làm gì thế này?

Một người quỳ thưa:

- Người ta đồn rằng, ở trên lăng Ngụy Tuyên Vũ, hôm qua có một con chim phượng bay tới, đậu trên cây cao bên lăng, vì vậy dân đi săn chúng tôi đều lên cố bắt cho được.

Tần Vương lại hỏi:

- Đây đi lăng Ngụy Tuyên xa gần?

Người này thưa:

- Chỉ khoảng gần hai mươi dặm là cùng.

Tần Vương phán:

- Các ngươi hãy dẫn ta đi xem sao, nếu đúng vậy, ta sẽ trọng thưởng!

Mậu Công can:

- Không được đâu, làng Ngụy Tuyên Vũ ngay gần sau hậu trại của Thế Sung, nếu có mai phục thì làm thế nào?

- Thế Sung thua mấy lần, trong lòng hoảng sợ, chẳng dám ra đâu!

Liền nai nịt đầy đủ, dẫn theo năm trăm lính kỵ, ra khỏi trại, đi hết con đường mòn có cây che lớn, thì thấy có một đám đất bằng phẳng, rộng rãi, bốn xung quanh là núi rừng, bên trái là ngọn Phi Lai, bên phải có khe Bộc Giản, chim lạ thú quý đều thấy đủ mặt, cũng chính là nơi còn di tích nhà đá từ thời Hoàng Đế, sau này Ngụy Tuyên Đế làm Hoàng Lăng ở đây. Tần Vương nhìn khắp bốn phía, trầm trồ khen ngợi không ngớt. Bỗng thấy phường săn gào thét:

- Chẳng phải là chim phượng đang bay tới kia là gì?

Tần Vương nhìn kỹ, thấy một con chim lớn, theo sau là bảy tám chục chim nhỏ, đậu ngay trên ngọn cây lớn. Con chim lớn này cổ dài, đầu có mào lớn, lông năm màu sặc sỡ, lóng lánh sáng ngời, trông rất kỳ lạ. Tần Vương phán:

- Đấy là chim loan rừng ở hải ngoại, ai nấy nhầm là chim thiêng. (l)

1 Con Chim đực gọi là chim Phượng, con cái gọi là Hoàng. Giống chim của thần thoại cổ Trung Quốc, người ta cho chim này mà ra đời, là điềm xuất hiện bậc thánh chúa! (Từ điển Hán Việt - Thiều Chửu).

Phường săn đang định giăng lưới, thì lại thấy một người lấy tay chỉ :

- Phía kia thấy binh mã kéo ra. Nguy to rồi!

Ai nấy đều vội vàng bỏ chạy. Mậu Công cũng giục Tần Vương quay về. Tần Vương vội rút một mũi tên, giương cung hướng con chim lạ, bắn trúng ngay cánh, con chim liền mang cả mũi tên, bay vào trong hẻm núi.

Tần Vương ruổi ngựa theo, thấy bên ngoài toàn là cờ hiệu quân nhà Trịnh, lại có một tướng, phi ngựa như bay lên, miệng hét lớn:

- Lý Thế Dân! Ta là đại tướng Yến Doãn nước Trịnh, tới bắt ngươi đây?

Tần Vương thấy thế, cho ngựa phi nhanh vào hẻm núi, dừng lại, bắn một phát tên, trúng cổ họng Yến Doãn ngã ngay xuống ngựa.

Nhìn tìm con chim lạ, vẫn thấy đậu ở cây đối diện bên khe núi rỉa lông cánh. Tần Vương thấy đoạn khe trước mặt ngăn đường, phía sau là binh mã quân Trịnh, Mậu Công thì lạc ở phía sau, chim loan lạ thì vẫn ở bên bờ kia cất tiếng hót, như kêu như gọi nhảy qua khe. Khe này đã sâu lại rộng có đến ba bốn trượng, thế mà lạ thay, Tần Vương vẫn vượt qua được. Chim loan lạ thấy Tần Vương tới, lại bay đi mấy chục bộ, đậu trên một cành cao. Tần Vương nghe bờ bên kia trống nổi rầm trời, trong lòng cũng hoảng sợ, nhìn lên chim loan lạ mà khấn:

- Linh điểu, linh điểu! Linh điểu mà cứu được ta thoát khỏi nạn này, thì hãy quay về ta mà hót ba tiếng!

Chim liền quay ngay về phía Tần Vương, kêu đủ ba tiếng. Tần Vương nhìn thấy bờ khe đá núi gập ghềnh, liền xuống ngựa, buộc vào gốc cây, rồi theo đường chim bay mà đạp cỏ, rẽ cành đi vào núi. Trèo lên đến đỉnh, nhìn sang phía bờ xa thấy một viên tướng, sát khí đằng đằng, đang ruổi ngựa theo. Tần Vương nhận ra Đơn Hùng Tín, theo sau lại có một tướng khác, cũng cưỡi ngựa gần kề, thì ra là Mậu Công. Đang ngây người ra nhìn, lại nghe chim loan kêu một tiếng, Tần Vương vội quay đi, nghĩ vội: "Linh điểu không bay mà vẫn hót, phía này nhất định có lối ra!" Liền cứ theo chim mà chạy. Thấy ngay trước mặt, một tòa nhà bằng đá, ngoài cửa có một nhà sư đứng chờ, diện mạo sáng sủa, phong thái trang nghiêm, giơ tay vẫy linh điểu một cái, chim lập tức chui vào ống tay áo nhà sư, nhà sư yên lặng quay vào trong nhà đá. Tần Vương lấy làm lạ, cũng theo vào, thấy nhà sư đang ngồi xếp bằng. Tần Vương hỏi:

- Sư trưởng? Vừa rồi sư trưởng bắt được linh điểu, xin sư trưởng cho xem!

Nhà sư đáp:

- Linh điểu biết quân vương lúc ấy đang gặp nạn, nên từ cõi thiêng bay tới, quân vương muốn xem hay sao?

Liền bắt từ ống tay áo ra con chim loan nọ, cánh chim vẫn thấy còn mũi tên. Phút chốc bỗng biến thành con chim anh vũ màu trắng, nhà sư liền rút ngay mũi tên ra, đưa giả cho Tần Vương:

- Xin giả mũi tên này cho quân vương!

Rồi tung lên, chim bay mất, vào tầng không cao thẳm. Tần Vương lấy tên bỏ vào ống, biết là bậc thánh tăng, vội hỏi:

- Ta gặp nạn này liệu có thoát được không?

Nhà sư đáp:

- Sao nạn tinh chỉ trong khoảnh khắc, quân vương hãy tránh ngay sau lưng bần tăng, bần tăng sẽ có cách lui được nạn này.

Tần Vương liền theo lời trốn kỹ. Nhà sư tay ấn quyết, miệng niệm chú, rồi thấy từ miệng phóng ra một đạo bạch quang, che kín lấy khe núi.

Tướng nhà Trịnh Đơn Hùng Tín biết rất rõ vùng khe núi này có tên là Ngũ Hổ Cốc, dòng khe này là Đoạn Quỷ giản, không có đường ra. Hùng Tín thấy Yến Doãn phi ngựa phía trước, sợ Yến Doãn cướp mất công đầu, vội phi nhanh về phía khe núi, từ xa một con ngựa không người, vội phi lại, đã thấy Yến Doãn nằm chết vì mũi tên trúng cổ họng. Hùng Tín giận dữ nghĩ thầm: "Không giết được thằng giặc này, báo thù cho Yến Doãn, không đáng bậc hảo hán!" Thúc ngựa vào khe tìm, bỗng nghe từ phía sau có người cưỡi ngựa đuổi theo, lớn tiếng gọi.

Mậu Công đuổi kịp, níu vạt áo Hùng Tín mà xin:

- Từ ngày xa nhau đến giờ Đơn nhị ca vẫn được bình yên, trước kia ở chỗ Ngụy Công ngày đêm cùng nương tựa lẫn nhau, may được dạy dỗ nhiều, thật cảm ơn sâu. Hôm nay mới gặp, đang có điều muốn bàn, xin đừng quá bức bách chủ ta!

Hùng Tín đáp:

- Thuở trước cùng ngài sum họp một nơi, thì là anh em, nay ai thờ chủ ấy, tức là thù địch. Hùng Tín này thề diệt được Thế Dân, báo thù cho vong linh tiên huynh, cũng là để trọn đạo thần tử.

Mậu Công nói:

- Nhị ca không nhớ thuở trước thắp hương thề nguyền sao? Chủ của ta cũng là chủ của Nhị ca, Nhị ca sao bất tình đến thế?

Hùng Tín đáp:

- Đây là việc quốc gia, không phải là việc riêng của Hùng Tín. Lúc này mà Hùng Tín không nỡ giơ đao lên chém ngài, cũng bởi vì lời thề nguyền xưa vậy. Ngài hà tất phải nhiều lời!

Rồi rút đao bên mình, cắt vạt áo dài, gia roi đuổi theo tìm Tần Vương. Mậu Công thấy tình thế nguy cấp, vội phi ngựa như bay trở lại để gọi các tướng, báo tin Tần Vương gặp nạn.

Lúc này Uất Trì Kính Đức, đang ở khuỷu sông Lạc Thủy tắm cho ngựa, bỗng thấy phía đông bắc một người một ngựa phi tới. Uất Trì Cung nhận ra Mậu Công đang hét lớn:

- Chúa công bị tướng Trịnh Đơn Hùng Tín đuổi theo vào Ngũ Hổ Cốc, mau mau chạy cứu ngay!

Uất Trì Cung nghe nói, chẳng kịp mặc áo, đang từ dưới nước, mình trần trùng trục, nhảy lên ngựa không yên, cầm roi phi thẳng một mạch. Gặp đúng lúc Hùng Tín đang sục bốn phía mà chẳng thấy tung tích, nhận ra bên khe, vết chân còn in rõ trên bùn, nước khe vẫn còn đục, lại nghe tiếng ngựa ngọc tông hý vang, liền vẫn ngồi trên lưng ngựa, nhảy ngay qua khe để tìm, cũng vẫn chẳng thấy, nhận ra con ngọc tông vẫn buộc dưới gốc cây. Hùng Tín liền xuống ngựa, trèo lên đỉnh núi, lại tòa nhà đá xem xét, bỗng nhận ra một con hổ lớn, vằn loang lổ dữ tợn, ngồi ngay trước cửa, thấy mặt Hùng Tín, liền gầm một tiếng dài, làm cả khe núi vang động ầm ầm. Hùng Tín thất kinh, thầm nghĩ: "Thằng oắt con này chắc đã bị con hổ này xé xác rồi, có khi rơi xuống khe này chết quách cũng nên. Ta thử đi xuống phía dưới tìm xem!". Rồi nhảy lên ngựa của mình, lại dắt theo ngựa của Tần Vương, ra phía cửa khe. Bên sườn núi, một viên tướng, mặt như sắt luyện, tiếng nghe như sấm dậy:

- Không được hại chủ ta? Uất Trì Kính Đức đây!

Rồi cũng nhảy qua khe, Hùng Tín vội thả ngay ngựa Tần Vương, giơ thương để đâm, Uất Trì Cung nghiêng mình tránh được, giơ roi quật xuống, trúng ngay cánh tay Hùng Tín. Uất Trì Cung để ngang roi sắt của mình trên ngựa, rồi sấn lại ngay trước mặt, giằng lấy cây thương của Hùng Tín. Hùng Tín tuy khỏe, nhưng sao đương nổi sức thần của Uất Trì Cung, giằng co một lát, thì bị Uất Trì Cung cướp mất thương. Hùng Tín đành phải lui lại phía sau, nhảy qua khe núi mà đi.

***

Lại nói Tần Vương, nấp phía sau lưng nhà sư trong chùa đá, thấy nhà sư làm phép thần thông, lại thấy Hùng Tín đến ngay trước cửa, dòm ngó khắp nơi, nhưng không hiểu sao không dám tiến vào.

Bên tai chỉ nghe một tiếng thét kinh thiên động địa, nhà sư chắp hai tay tụng niệm:

- A di đà Phật! Họa tinh đã đi rồi, cứu binh đã tới. Quân vương ra động được rồi!

Tần Vương đứng dậy cảm tạ:

- Ơn thánh tăng pháp lực thần thông, cứu được ta, ta về Thái Nguyên, xin sai quan nha tới đón về cung dưỡng. Nhưng không rõ pháp hiệu thánh tăng là gì?

Nhà sư thưa:

- Bần tăng là Đường Tam Tạng, chẳng dám nói gì chuyện cung dưỡng, đã có thần linh trông coi cho rồi, chỉ xin quân vương làm một vị hoàng đế sáng suốt, đem lại thái bình là đủ rồi. Bần tăng có một bài kệ bốn câu, xin quân vương nhớ kỹ cho.

Nói rồi đọc:

Kiến nghiệp giữ lấy đức

Giúp đời tròn chữ hiếu

Hai hiếu e khó toàn

Gốc nguồn nên giữ trước.

Đọc xong, nhà sư lại ngồi nhắm mắt, nhập định như cũ. Tần Vương theo đường cũ xuống núi, men theo khe, tìm ra con ngọc tông, nhảy lên yên, thì thấy Uất Trì Cung phi ngựa tới, thưa lớn:

- May rồi! Điện hạ không bị hoảng hồn chứ?

Tần Vương đáp:

- Không đâu! Còn thằng giặc Hùng Tín đâu?

Uất Trì Cung thua:

- Bị thần giằng mất thương, chạy ra cửa khe mất rồi. Nơi này không nên đứng lâu, điện hạ mau cùng thần ra ngay thôi!

Hai người cưỡi ngựa vượt qua khe, đến thẳng cửa Ngũ Hổ Cốc, gặp tướng Trịnh Phàn Hựu, Trần Tri Lược. Uất Trì Cung chẳng nói một lời mỗi tướng mỗi roi, làm cả hai bị thương, ngã ngựa, Uất Trì Cung mở một đường máu, ra khỏi vòng vây. Thì thấy Thúc Bảo, Mậu Công dẫn các tướng giao chiến với hậu đội của Thế Sung. Kính Đức nói với Lý Tĩnh:

- Ngài hộ vệ điện hạ về trại, để ta giết sạch bọn giặc này!

Rồi xông thẳng vào đám quân Trịnh, đâm chém một hồi. Tướng Trịnh tuy nhiều, nhưng chẳng ai đương nổi Uất Trì Cung, Thúc Bảo, một ngọn roi, hai thanh giản, giết không biết bao nhiêu tướng quân của nhà Trịnh. Uất Trì Cung đang tung hoành giữa trận, bỗng thấy một người đội mũ xung thiên, đeo đai ngọc, mặc mãng bào, ngồi trên mình ngựa, ở trên cao quan sát, liền bỏ ngay đối thủ, giơ cao roi xông tới. Vương Thế Sung hoảng hốt, vội quay ngựa chạy. Uất Trì Cung cùng các tướng, đuổi theo mãi tới chân Tần Thành mới quay về. Mậu Công sai đánh chiêng trống thu quân, vào trại Tần Vương chúc mừng.

Tần Vương cười:

- Nếu không có sức thần của Uất Trì Cung, thì đã bị bọn giặc gây hại rồi!

Rồi sau lấy một tráp vàng, thưởng cho Uất Trì Cung. Từ đó Tần Vương lại càng yêu thương Uất Trì Cung. Thế Sung thấy tướng sĩ nhà Đường lợi hại, cũng không dám ra thành nghênh chiến nữa.

Giằng co mấy ngày, chính lúc Tần Vương cùng các tướng bàn kế phá địch, thì thấy tin báo từ các nơi về như hoa tuyết bay. Tần Vương cùng Mậu Công xem qua, biết Vinh Châu, Biện Châu, Thư Châu, Hoa Châu, đều đã thuộc nhà Đường. Lại còn tổng quản Dương Khánh ở Hiển Châu, cũng đem cả hai mươi lăm phủ huyện về hàng. Úy Châu thứ sử Thời Đức Duệ, cũng đem bảy châu: Kỷ, Hạ, Tùy, Trần, Hứa, Dĩnh, Ngụy ra hàng. Vương Bộ cùng Trình Giảo Kim, cũng có văn thư về báo Doãn Châu, Lê Dương, Thương Thành, đều đã hàng nhà Đường. Chỉ còn Thiên Kim Bảo cùng Hổ Lao, nghe La Sĩ Tín cùng Tầm Tương báo về là vẫn chưa hạ được. Lại còn cả việc đại tướng Khuất Đột Thông, đi tuần thú trên đường, bắt được hai kỵ binh, khai là tướng nhà Trịnh, lẻn đi Lạc Thọ, xin Uất Trì Cung đem binh cứu viện. Mậu Công nói:

- Đất đai nhà Trịnh, nhờ phúc lớn của thiên tử, ba phần đã thu được hai. Chỉ còn Hổ Lao với Thiên Kim Bảo, cùng các huyện yết hầu nữa thôi. Hai vùng này nếu không chiếm được, thì các nơi khác dẫu có chiếm cũng chẳng giữ được. Xin để thần đi một phen.

Liền từ giã Tần Vương, đêm ngày dẫn theo một nghìn lính bản bộ, nhằm Hổ Lao quan mà tiến.

Chính là:

Kinh bang tế thế kiêm văn võ

Cười nói trong quân đủ lược thao.

hết: Hồi Thứ Năm Mươi Bảy, xem tiếp: Hồi Thứ Năm Mươi Tám

Đánh máy: bevang

Nguồn: bevang / VNthuquan - Thư viện Online

Được bạn: Ct.Ly đưa lên

vào ngày: 16 tháng 2 năm 2010

Hồi Thứ Năm Mươi Tám

Đậu Kiến Đức bị bắt ở cửa hang,

Từ Mậu Công đính hôn trong lều cỏ.

Từ rằng:

1 Hai cọp mài nanh đấu rất hăng,

Mắt long sòng sọc, mặt bừng bừng

Thế rồi nước mất, thây quăng rãnh

Ngàn thu nửa tiếng có nghe chăng?

2. Say sưa thiếp mới gặp chàng,

Xướng tùy hẹn ngọc thề vàng một hai.

Chiếu vua chỉ thắm bền dai

Tướng quân khuê các khâm sai đâu quyền?

Theo điệu "Nguyễn Lang quy"

Thời Xuân Thu, có chuyện Biện Trang một lúc đâm được hai con hổ, Biện làm thế nào mà giết được cả hai. Thì ra là hai hổ đang đánh nhau, con nhỏ chết, con lớn bị thương, con chết thì cần gì phải phí sức nữa, chỉ còn phải đâm một nhát vào con bị thương. Mà nó đã bị thương thì cũng cần gì phải nhiều sức cho cam, đúng mới là "nhất cử lưỡng đắc" vậy?

***

Nói chuyện Vương Thế Sung, đem tất cả các nơi hiểm yếu phó thác cho anh em, con cháu trong nhà, để đến nỗi Tần Vương đụng vào thì đông phá tây vong. Thế Sung ngồi ở Lạc Dương, chẳng biết cậy ai, chỉ đành đem vàng ngọc, châu báu, sai Trưởng Tôn Thế An đi cầu viện Hạ Vương Đậu Kiến Đức, khiến cho Tần Vương bỗng được rơi vào cảnh "dĩ dật đãi lao, phản khách tác chủ".

Từ Mậu Công sợ Vương Bộ cùng La Sĩ Tín không làm được việc, nên lãnh quân bản bộ đến ngay Thiên Kim Bảo, nào ngờ Sĩ Tín đã dùng kế phá xong thành. Vào được thành, quân dân, bất kể già trẻ, đều giết sạch không còn một ai. Mậu Công vì thế xót xa mãi không thôi. Vương Bộ cũng đã tới được Hổ Lao, đem một nghìn tinh binh, giả làm quân nhà Trịnh, đang đêm lừa cho mở thành, rồi trói ngay được Vương Hằng Bản đang còn ngủ, chiếm được thành.

Mậu Công vui mừng, nói với Vương Bộ:

- Đất này tuy đã yên, nhưng Thế Sung đã sai Đại Vương Uyển, Trưởng Tôn Thế An đi cứu viện Kiến Đức, chẳng biết Kiến Đức bằng lòng phát binh nhiều ít. Ta hãy đem công lao của hai hiền huynh, báo cho Tần Vương biết, xem Tần Vương định liệu ra sao.

Trưởng Tôn Thế An vâng mệnh Thế Sung, mang theo rất nhiều của báu, tìm đến Lạc Thọ, trước tiên đem ngay biếu các tướng. Tướng nào cũng nhận quà, duy chỉ Tế tửu Lăng Kính là không chịu nhận, đại tướng Tào Đán cũng sai người đem trả lại lễ vật. Ngày hôm sau, Thế An vào gặp Hạ Vương sớm, đưa trình văn thư cùng lễ vật, Hạ Vương phán:

- Lân bang xin cứu viện, lẽ nên vâng mệnh, nhưng chỉ ngại lâu nay cô với nhà Đường vẫn đi lại tốt đẹp, chẳng có cớ gì để khởi binh? Phương chi, cô lại vừa phá Mạnh Hải Công thắng trận trở về chưa được bao lâu, cũng thật chưa nên làm khó nhọc quân sĩ, xáo động dân tình!

Thế An thưa:

- Trịnh với Hạ thật là như môi với răng. Môi hở răng lạnh, là lẽ tất nhiên. Nay Hạ không cứu Trịnh, Trịnh tất diệt. Trịnh mà mất thì sợ rằng Hạ cũng mất theo.

Hạ Vương phán:

- Túc hạ hãy lui, để cô cùng trăm quan bàn kỹ xem sao.

Thế An tạm ra khỏi triều. Hạ Vương cùng công khanh bàn bạc. Các tướng đều đã được vàng bạc của Thế Sung, liền tìm lời phỉnh nịnh:

- Nhà Tùy mất nước, thiên hạ nát tan. Quan Trung thuộc về nhà Đường, Hà Nam về nhà Trịnh, Hà Bắc thuộc nhà Hạ, chân vạc thế là thành rồi. Nay Đường phạt Trịnh, đất nhà Trịnh đã bị quân nhà Đường chiếm đến hai ba phần mười rồi, nay lực Trịnh không đủ, tất bị Đường diệt. Trịnh đã mất đi, Đường chỉ còn đối địch với Hạ, Hạ cũng khó mà một mình địch nổi Đường. Chi bằng nay nên phát binh cứu Trịnh, nội ngoại giáp công, thì có thể thắng. Nếu thắng Đường, uy danh thuộc về Hạ, thừa thế mà lo chuyện lấy cả Trịnh nữa, hợp cả hai đạo quân, thừa sức để đánh được quân Đường đã mệt mỏi, Quan Trung lấy được, thì việc bình thiên hạ có thể xong!

Chỉ có mấy câu, khiến cho Kiến Đức cũng vỗ tay mà khoái ý:

- Chư khanh nghị luận thật là tuyệt diệu, nhưng chỉ sợ cô lực không thể làm nổi vậy!

Lăng Kính thưa:

- Lời của chư tướng, sợ có chỗ không xong. Nay quân nhà Đường vây kín Đông Đô, còn đại tướng thì đóng ngay ở Hổ Lao quan, phát bao nhiêu binh để đối phó cho vừa. Chi bằng nên kéo đại binh qua sông, lấy đất Hoài Châu, Hà Dương, đem nhiều binh tướng mà giữ lấy. Sau đó gióng trống khua chiêng, vượt qua Thái Hằng vào Thượng Đẳng, truyền hịch cho các châu quận, tiến vào Hổ Khẩu, làm kinh động Bộ Tân, thì lấy được đất Hà Đông dễ như nhặt hạt cải, đó chính là thượng sách. Làm như thế có ba điều lợi: Quân nhà Đường đều đương ở Lạc Dương, trong nước trống không, nên có đem binh đánh thì tha hồ mà yên ổn, điều lợi thứ nhất. Cướp đất được, giành dân được mà mất ít tâm lực, điều lợi thứ hai. Tần Vương biết quân ta vào xâm chiếm đất nhà Đường tất phải dẫn quân về cứu, Trịnh được giải vây, điều lợi thứ ba. Mất cơ hội này, nghi hoặc không quyết, thì đúng như câu ngạn ngữ: "Trời cho mà không lấy, ngược lại phải chịu tội. Xin chúa công xem xét minh bạch.

Các tướng thưa:

- Tự xưa tới nay, cứu binh như cứu hỏa, nếu cứ như lời Tế tửu Lăng Kính, mà đi vòng vèo như thế, ngày dài đợi lâu, chuyện nước Trịnh là chuyện cấp thiết, lúc nào mới được giải cứu? Vạn nhất bị quân nhà Đường đánh bại, Vương Thế Sung bị giải về Trường An, thì thật là "thần vong xỉ hàn". Lúc ấy ai cũng chê chúa công là thất tín với thiên hạ vậy.

Kiến Đức cũng không nói gì, bỏ vào hậu cung. Tào Hậu từ sau bình phong ra đón, hỏi:

- Vừa rồi trong triều bàn bạc ra sao?

Kiến Đức đem mọi chuyện kể một lượt. Tào Hậu nói:

- Trăm quan bàn đều không phải. Chỉ có kế của Lăng Tế tửu là hay hơn cả, bệ hạ nên nghe theo.

Kiến Đức phán:

- Đó là những lời vu khoát!

Tào Hậu cãi:

- Từ Lạc Khẩu lặng lẽ kéo binh dần mà lên, lấy mạn Bắc, nhân đó chiêu dụ được Đột Quyết, tập kích vào Quan Trung, quân Đường tất phải quay về, quân Trịnh không phải cứu mà vẫn được giải vây, đâu phải là chuyện vu khoát?

Kiến Đức vẫn đáp:

- Cô đã có chủ ý, quốc mẫu không phải lo lắng.

Sáng ra chầu sớm, Trường Tôn Thế An lại vào kêu xin. Hạ Vương liền sai Tào Đán làm tiên phong, Lưu Hắc Thát làm Hành quân tổng quản, Hạ Vương cùng với Tôn An Tổ làm hậu đội dẫn mười lăm vạn binh mã, theo Hổ Lao quan mà tiến. Công chúa Dũng An, từ đêm thấy được thư La Thành, quá thương cảm đến nỗi sinh ốm, thì cùng với Tào Hậu, Lăng Kính, ở lại trông coi quốc gia.

Sớm hôm sau dã có tin báo cho Tần Vương, các tướng sợ chuyện trước ngực, sau lưng đều có giặc, lấy làm lo lắng, chỉ riêng Tần Vương thì mừng. Lý Tĩnh cười:

- Không ngờ lần này bệ hạ xuất sư, một mũi tên mà bắn được hai chim cắt.

Ký thất Quách Hiếu Khắc thưa:

- Lạc Dương bị phá tan, chỉ ngay trước mắt. Kiến Đức không lường được, từ xa đến cứu, đó thật là trời xui cho bệ hạ diệt dược cả hai nước. Cơ hội này thực không nên dễ mất.

Tiết Thu nói:

- Thế Sung đang lúc nguy cấp, tướng sĩ lại đều ở vùng Giang Hoài, tuy quen chiến trận, nhưng lương thực lại không đủ, nên cố mà giữ thành, bó tay chờ chết. Nếu Kiến Đức tái hợp lực, lại đem theo cả lương thực chi viện cho Thế Sung, thì thế giặc quả có mạnh hơn. Không nên coi thường!

Lý Tĩnh bàn:

- Nay tốt hơn cả là nên chia binh ra vây chặt Lạc Dương. Điện hạ lĩnh quân tinh nhuệ, chiếm ngay lấy Thành Cao, nuôi giữ lấy nhuệ khí, "dĩ dật đãi lao", xuất kỳ kế một lần mà có thể bắt được Kiến Đức. Kiến Đức đã bị phá rồi, uy danh của nhà Đường càng lừng lẫy. Thế Sung nghe ra, thì chằng cần phải đánh cũng phải tự trói mình mà xin hàng dưới trướng điện hạ.

Tần Vương cả mừng mà rằng:

- Lời khanh nói thật là vừa lòng ta, nhưng đất vùng này từng từng, lớp lớp, nhờ khanh hãy trù tính cẩn thận cho một phen.

Lý Tĩnh thưa:

- Không phải cần đến điện hạ lo nghĩ. Cái kết cục của Kiến Đức đều đã được định đoạt bởi uy lực của chúa thượng, còn Thế Sung thì sẽ không khỏi bị bắt vậy!

Tần Vương yên lòng, đem theo Thúc Bảo cùng Uất Trì Kính Đức, còn các tướng khác đều đóng ở Lạc Dương. Tần Vương dẫn theo năm nghìn quân Huyền Giáp binh, kéo thẳng tới Hổ Lao, cùng với Mậu Công, các tướng gặp gỡ. Mậu Công thưa:

- Thần biết thế nào điện hạ cũng tới, nên cùng hai tướng đến đây quân giặc sẽ phá trong sớm tối.

Tần Vương đáp:

- Nghe nói Hạ Vương kéo mười vạn quân đến, không hiểu thật hư ra sao?

Mậu Công thưa:

- Chẳng cần phải biết chúng binh tướng bao nhiêu. Thần đêm nay chỉ cần khoảng ba nghìn người sẽ làm cho chúng khiếp đảm kinh hồn.

Liền ghé tai Tần Vương, nói nhỏ mấy câu, Tần Vương vỗ tay khen:

- Hay lắm!

Mậu Công rút một cây lệnh tiễn, giao cho La Sĩ Tín và dặn:

- Tướng quân hãy cùng phó tướng Cao Táng Sinh lĩnh một ngàn quân, lên đường ngay, lẻn vào phía nam núi Thước Sơn mai phục. Đây là một cái thiếp, tướng quân hãy cầm lấy, cứ theo như trong thiếp mà làm.

Lại cũng đưa một lệnh tiễn, một cái thiếp cho Thúc Bảo cùng phó tướng Lương Kiến Phương và dặn:

- Phiền nhị vị tướng quân dẫn một ngàn quân, đến một núi đất, phía đông bắc sông Dĩ Thủy mai phục, hãy nhanh chóng xếp đặt, cứ theo cách ghi trong thiếp mà làm, rồi về dâng công!

Thúc Bảo, Kiến Phương lập tức dẫn quân đi. Mậu Công lại lấy một lệnh tiễn một lá thiếp nữa, nói với Uất Trì Cung cùng phó tướng Bạch Sĩ Nhượng:

- Nhị vị tướng quân hãy kéo quân tới góc phía tây Hổ Lao, cũng theo trong thiếp dặn mà làm. Nếu đánh đến Thước Sơn mà gặp Sĩ Tín; không bàn thắng bại, cứ lập tức quay ra.

Uất Trì Cung, Sĩ Nhượng lĩnh mệnh mà đi.

Sĩ Tín cùng Táng Sinh về trại, mở thiếp ra xem thấy ghi rõ mỗi binh sĩ phải có sẵn một cây đèn, cổ ngựa phải buộc thật nhiều lục lạc đồng, hễ thấy trong quân nổ hai phát pháo lệnh, thì phải đem hỏa thương quay về bản trận.

Thúc Bảo cùng với Kiến Phương về trại, cũng mở thiếp ra xem, thì thấy viết: mỗi binh sĩ phải có một quả hỏa cầu, một cái thanh la nhỏ, hễ nghe ba phát pháo lớn nổ, lập tức xông ra, cùng với hỏa thương, đèn sáng, cứ thế mà chém giết.

Mậu Công sai quân sĩ, ngay ở Nam Sơn làm một giàn trúc cao, lệnh Vũ Văn Sĩ Cập cùng với hai nghìn quân Huyền giáp coi giữ.

***

Lại nói tướng tiên phong của Hạ Vương là Tào Đán đến Hổ Lao, đóng trại cách đó khoảng hai mươi dặm, mỗi ngày đều tới trại quân Đường khiêu chiến, nhưng chẳng thấy ai ra, thì nghĩ rằng nhà Đường biết Hạ Vương kéo đại quân tới, nên không dám ra. Cũng có ý phòng chuyện cướp trại, nhưng thật ra quân sĩ đều vừa lười nhác vừa coi thường quân Đường. Đêm hôm ấy, cởi giáp trụ ngủ yên, bỗng nghe một tiếng pháo lớn, tiếng hò hét rấm trời, Tào Đán vội chạy lên ngựa ra khỏi trại, đã thấy vô số hỏa thương, dẫn đầu là một tướng vừa cao vừa đen. Tào Đán xông lại giơ thương đâm, viên tướng nhà Đường giơ cao roi, quất ngay vào giữa ngực: Tào Đán vội nghiêng mình tránh, lại bị hỏa thương bắn vào ngay giữa mặt, cháy trụi cả tóc râu. vội lủi chạy vào trong đám quân lính.

Kiến Đức dẫn một nghìn lính, đông xung tây đột, chẳng ai dám ngăn cản, đánh thẳng đến Thước Sơn, thì nghe tiếng pháo lớn thứ hai, Sĩ Tín ngồi trên mình ngựa, khắp nơi là đèn đỏ lấp lánh, lục lạc vang tai, chẳng khác gì thiên binh vạn mã kéo tới. Thấy vậy tướng nhà Hạ là Cao Nhã Hiền, dẫn người ngựa ra tiếp ứng, nhưng không đỡ nổi cây thương của Sĩ Tín, khác nào như rồng ra khỏi huyệt, gặp đâu giết đấy, cứ như xông vào chốn không người. Nhã Hiền bèn nói với Hắc Thát:

- Đại huynh nhìn trên núi Nam Sơn, có đèn hồng, nhất định là ám hiệu của quân Đường, tiểu đệ cùng đại huynh hãy bắn rơi đèn này, thì binh mã của chúng tất sẽ tán loạn cả.

Nói xong, cả hai liền ruổi ngựa lên trước. Hắc Thát giương cung, bắn một phát tên đi, đèn đỏ rơi xuống, lại thấy một đèn khác kéo lên, Nhã Hiền đang định bắn một phát nữa thì nghe một tiếng pháo lớn thứ ba, rồi vô số hỏa cầu từ trên không ném xuống, một viên đại tướng xông ra, miệng thét lớn:

- Tần Thúc Bảo đây! Lũ giặc chúng mày hãy xem đôi giản của ta!

Nhã Hiền vội đón đánh, bị Thúc Bảo đánh gãy thương, ngã xuống ngựa, Kiến Phương đang định xông tới đâm chết, may được Hắc Thát cứu thoát, bèn rút chạy. Thúc Bảo cùng Uất Trì Cung, Sĩ Tín hợp cả ba cánh quân chẳng khác gì có tới hàng vạn người ngựa, tả xung hữu đột, hoa rơi nước chảy. Đang giữa lúc hăng hái, quân Đường đã nghe tiếng chiêng thu quân, cả bọn quay ngựa về trại.

Tần Vương cùng Mậu Công bày tiệc rượu ăn mừng, chờ sẵn Thúc Bảo, Uất Trì Cung cùng các tướng về trại kiểm điểm người ngựa, ba nghìn cả thảy mà không hề tổn thương lấy một. Tần Vương đem dê, rượu, cùng ngân bài thưởng cho tướng sĩ. Mậu Công nói:

- Lần ra tay đêm nay, chẳng qua là để bắn tin cho chúng biết, quân tướng nhà Đại Đường lợi hại ra sao. Rồi chỉ cần một trận ngày mai, các tướng cùng quân sĩ cố gắng thêm chút nữa, thành bại mới quyết được.

Tần Vương còn lo cả ở Lạc Dương, nên cũng muốn thư hùng một trận quyết chiến.

***

Lại nói Kiến Đức, nhân trận đêm qua, người ngựa bị quân Đường quấy đảo một phen, nên canh tư hôm đó, truyền lệnh cho quân sĩ ăn uống, đem quân Hắc Thát làm tiền đội, Tào Đán làm trung doanh, từ Bản Chữ đến Ngưu Khẩn Cốc chia binh đóng giữ, phía Bắc thì đến tận sông, phía Nam kéo tới Thước Sơn, dài đến hơn hai mươi dặm. Kiến Đức vẫn thấy binh lính lội qua Dĩ Thủy. Quân Tần Vương thấy binh tướng Hạ Vương oai hùng, trong lòng cũng có khiếp sợ. Nhưng Tần Vương thì không nao núng, cùng với Mậu Công, trèo lên một gò cao, dừng ngựa trông xuống. Mậu Công thưa:

- Bọn giặc này từ Sơn Đông kéo quân xuống, chẳng qua mới chạm trán với lũ giặc cướp vài trận mà chưa từng gặp đối phương ra trò, nay kết thành trận lớn, nhưng đội ngũ không chỉnh, kỷ luật không nghiêm, thành ra cũng dễ phá.

Lại thấy cả Đại Vương Uyển, cũng đem theo người ngựa tùy tòng, đứng ở sau trận giám chiến. Uyển đội mũ kim quan, cẩm bào khoác người, bên ngoài áo giáp vàng, cưỡi ngựa thanh tông, vốn là của nước Đại Uyển xưa dâng cho Tùy Dượng Đế, phía sau là cờ bay phơ phất. Tần Vương khen:

- Viên tiểu tướng này cưỡi con ngựa đẹp quá?

Uất Trì Cung đứng lên bèn nói:

- Điện hạ nói là ngựa đẹp hay sao. Hãy đợi tiểu tướng lấy về.

Tần Vương vội can:

- Không nên! Không nên?

Uất Trì Cung đáp:

- Không hề gì đâu!

Uất Trì Cung hai chân thúc ngựa, phi thẳng đến trận quân Hạ, hai tướng đứng bên là Táng Sinh cùng Nghĩa Phương, sợ Uất Trì Cung có sơ hở gì chăng, cũng ruổi ngựa đuổi theo. Uyển đang cầm dây cương, quan sát trận chiến, bỗng nghe như tiếng sét bên tai:

- Chạy đi đâu?

Rồi chẳng khác gì con gà nhép, bị Uất Trì Cung túm lấy ngựa, không chạy nổi. Uất Trì Cung giằng ngay dây cương, Táng Sinh cũng vừa tới kịp, kéo lấy ngựa cùng về bản trận. Trong trận quân Hạ, thấy tướng nhà Đường, ngay phía hậu quân, cướp cả người ngựa của Uyển đi đều gào thét kinh hoàng, chẳng còn lòng nào muốn đánh nhau, hoảng hốt rút chạy. Mậu Công liền lớn tiếng:

- Lúc này không thừa thế xông lên giết giặc, còn đợi lúc nào nữa!

Rồi tự mình cầm dùi đánh trống lớn, các tướng Bạch Sĩ Nhượng, Dương Vũ Uy, Vương Bộ, Đào Vũ Khâm, cùng tất cả binh lính tinh nhuệ nhất tề xông lên. Tần Vương dẫn lính khinh kỵ, cùng Uất Trì Cung, Thúc Bảo, Sĩ Tín, lội qua Dĩ Thủy, đánh vào hậu quân nhà Hạ, giương cao cờ Đại Đường, trước sau cùng giáp công. Quân sĩ nhà Hạ hoảng sợ, đành vừa đỡ vừa lui. Quân nhà Đường đuổi đến hơn ba mươi dặm, chém đến hơn một vạn thủ cấp, Kiến Đức chạy dài, vội vứt áo mũ vương vị, cải trang làm một viên tướng, vừa đỡ che vừa rút, không còn lòng dạ nào nghĩ đến chuyện đánh chác, thì gặp ngay vợ chồng Sài Tự Xương, dẫn một đội "Nữ tử quân", dũng mãnh khôn đương. Kiến Đức đang chống đỡ, bị ngay một thương, vội tìm người cứu nhưng quân sĩ trong lúc hỗn loạn, mạnh ai nấy chạy, ai cũng còn lo chống đỡ cho mình không xong, nên riêng mình Kiến Đức chống trả chẳng nổi, lại thêm một vết thương nữa, may mà chưa nguy đến tính mạng.

Bỗng thấy cửa hang Ngưu Khẩu, vi lau rậm rạp, có thể lẩn trốn, liền kéo ngựa lại tìm một cái hang, bọn "Nữ tử quân" cũng không kịp nhận ra, cứ thế xông lên phía trước. Không ngờ áo giáp vàng trên lưng Kiến Đức, chiếu ánh sáng loáng, làm quân nhà Đường trông thấy, biết ngay có tướng nhà Hạ trốn ở trong. Bạch Sĩ Nhượng, Dương Vũ Uy cưỡi ngựa xông vào, cầm giáo dài cứ đám lau lách mà gạt tìm kiếm, Kiến Đức nằm bên trong dẫu có muốn chống cự thì người đầy thương tích, cũng chẳng chống nổi, nếu cứ nằm yên, lại sợ giáo đâm trúng, nên đành lớn tiếng:

- Ta là Hạ Vương đây! Tướng quân mà cứu được ta, đất Hà Bắc cùng chia, phú quý cùng hưởng.

Dương Vũ Uy đáp:

- Cần ra ngay đã. Ta sẽ cứu người!

Kiến Đức kéo ngựa bước ra, tết cả xúm lại trói nghiến, rồi dặt lên mình ngựa, vừa kịp một toán quân nữa kéo đến, áp giải về đại trại. Lại thấy Uất Trì Cung xách về thủ cấp Hắc Thát, Vương Bộ thì xách thủ cấp Phạm Nguyện, Sĩ Tín bắt sống được tướng Trịnh Trường Tôn Thế An, đều đến dâng công.

Đáng thương thay nhà Hạ, mấy chục vạn hùng binh, một trận sống mái sớm tiêu vong, chỉ chạy thoát mỗi Tôn An Tổ, đem khoảng hai ba chục kỵ binh chạy về Lạc Thọ.

Tần Vương ở đại trại, thấy tùy tướng vào thưa, đã bắt được Hạ Vương về. Các tướng không tin, Tần Vương cũng còn ngờ vực, thì thấy Dương Vũ Uy cùng Bạch Sĩ Nhượng áp giải Kiến Đức vào trung quân. Ai nấy nhìn kỹ, quả đúng Hạ Vương Đậu Kiến Đức. Hạ Vương không chịu quỳ, Tần Vương cười phán:

- Ta chinh phạt Vương Thế Sung, can gì đến ngươi vượt đường xa tới đây để mắc phải tinh binh của Đại Đường?

Kiến Đức chẳng nói gì, chỉ lẩm nhẩm vài tiếng như tỉnh, như mê :

- Nay chẳng tự đến, lại phải đi xa đem về!

Tần Vương lại cười, hỏi hai tướng Vũ, Bạch:

- Làm sao mà các ngươi lại bắt được Hạ Vương?

Sĩ Nhượng thưa:

- Gặp chỗ Sài Quận mã thống lãnh đội "Nữ tử quân" đuổi đánh quân Hạ tới Ngưu Khẩu cố, Sài Quận mã ruổi lên phía trước, Hạ Vương chạy trốn trong đám lau sậy, bị chúng tiểu tướng bắt được. Đúng như lời dân chúng vẫn nói: "Đậu vào mồm bò" (l). Thế quả là không thoát khỏi lời đồng dao.

1 "Đậu" trong họ Đậu Kiến Đức, trùng với "Đậu" là cây đậu. Ngưu Khẩu cốc: cửa Mồm Bò. "Trâu bò được ngày phá đỗ..."

Tần Vương cả cười, rồi sai giam sau trại.

Rủ áo ung dung đất Bác Hà

Không dưng thù oán nổi can qua

Khoe sức cậy tài, không người cứu

Chịu kiếp cầm tù thật xót xa.

Binh tướng Kiến Đức bị bắt, có tới hơn năm vạn, Tần Vương phán:

- Giết thì cũng đáng tiếc, chi bằng thả, mặc cho chúng quay về quê quán.

Các tướng sợ tha về lại sẽ quay ra chống trả, Mậu Công đáp:

- Đậu Kiến Đức cũng là bậc anh hùng nơi thảo trạch, có đến hai mươi vạn binh trong tay, mà tan nát đến thế, thì còn kẻ nào dám thu thập tàn binh để đánh lại chúng ta. Thả ra chính là truyền được ân uy của điện hạ vậy! Vùng Sơn Đông, Hà Bắc chẳng cần đánh mà cũng sẽ ra hàng cả thôi!

Các tướng đều thấy đúng. Tần Vương bèn bàn tới việc khác:

- Sài Quận mã dẫn binh tới đây, sao không thấy lại gặp gỡ, hay lại gặp dư đảng của Hạ Vương lừa đi đâu rồi?

Liền sai người đi hỏi các tướng sĩ ở tiền quân, có người nói đã kéo đi Lạc Dương. Tần Vương không hỏi nữa, mà chỉ nói với Mậu Công:

- Ta ở lại đây, chỉnh đốn người ngựa. Khanh trước khi đi Lạc Dương, hãy về Lạc Thọ, thu thập sổ sách của nhà Hạ, phủ dụ các quận huyện, rồi mau chóng tới Lạc Dương hội quân.

Mậu Công lĩnh mệnh, ngày hôm sau, đem quân bản bộ lên đường. Chưa đến một ngày, đã tới Lạc Thọ, Mậu Công giao một cây lệnh tiễn cho Vương Bộ, sai đi hiểu dụ quân sĩ, không được sát hại một người, không được sách nhiễu bách tính, vi phạm lập tức chém đầu.

Dân chúng trong thành Lạc Thọ, nghe tin dữ của Hạ Vương, chỉ lo quân nhà Đường đến sẽ tàn hại dân chúng, không ngờ quân sĩ Mậu Công phép tắc nghiêm minh, phủ dụ trăm họ, di đứng đàng hoàng, nên từ già tới trẻ, đều hân hoan vui mừng, ra đường chào đón Mậu Công vào thành, mở cửa kho tàng, tra xét minh bạch. Lại mời mấy vị kỳ lão, khai đủ tên họ rồi giao lương thực, quần áo, để họ cấp cho dân chúng túng đói. Năm sáu vị kỳ lão, cúi lạy sát đất, khóc mà thưa:

- Hạ Vương trị nước vốn thương dân, tiết kiệm tiêu dùng, giữ gìn con đỏ, ai cũng mang ơn trạch. Nay chẳng may mất nước, chúng tôi cùng trăm họ, như mất cha mẹ, được tướng quân đến phủ dụ bách tính, tơ hào không phạm, may mắn chẳng ngờ. Nay xin gửi lại số lương thực này, để nuôi quân sĩ. Dân Lạc Thọ dẫu chưa được hưởng những thứ này, cũng đủ cám ơn đức của tướng quân.

Mậu Công gật đầu khen phải, rồi cứ thế niêm phong kho tàng cẩn thận. Vào trong cung của Kiến Đức, thấy ngay trước triều đường, một viên quan mặc hồng bào, thắt cổ chết ở thượng lương phía tây, sắc mặt vẫn như còn sống. Trên tường lại còn viết một bài tuyệt cú rằng:

Phơi gan trải mật mấy thu tròn

Công nghiệp thôi rồi bỗng vỡ tan

Xuống trước suối vàng đền nghĩa bạn

Non xanh đâu biết khóc cô hồn.

Tế tửu nhà Hạ, Lăng Kính đề

Mậu Công dọc xong, than tiếc không nguôi, gọi ngay quân sĩ, mang quan tài khâm liệm. Đi vào nội cung, các cửa đều mở toang, rèm màn lụa là vẫn y nguyên, ngoảnh về phía nam, một người phụ nữ đội mũ phượng, thắt cổ chết trên thượng lương, hai bên là bốn cung nữ, sắc mặt bình thường như sống, cũng thắt cổ chết từ lúc nào.

Mậu Công biết ngay là Tào Hậu, vội sai người hạ xuống, đem quan tài khâm liệm chu đáo. Tìm khắp hậu cung, thấy chỉ còn khoảng mười cung nữ. Mậu Công sực nhớ: "Nghe nói Đậu Kiến Đức có một con gái, dũng cảm khác thường, sao chẳng thấy đâu?" Hỏi tra bọn cung nữ, có kẻ đáp:

- Mấy hôm trước Tôn Tổ An về, nói rõ phụ hoàng bị bắt, ngay tối hôm ấy công chúa cùng Hoa Mộc Lan ra đi, chẳng biết về hướng nào!

Mậu Công nói với Vương Bộ:

- Đậu Kiến Đức bên ngoài có lương thần, nội cung có hiền phụ, cùng nhau trị nước, có thể coi là toàn thiện. Thế mà chỉ vì thiên mệnh chẳng nên, một sớm bị bắt, đúng là mệnh, là số, người chẳng làm gì nổi vậy?

Thuở trước ngọc tỷ truyền quốc, cùng những báu vật của nhà Tùy, Kiến Đức phá được Vũ Văn Hóa Cập, đều đem về Hạ. Mậu Công cũng nhất nhất cất giữ cẩn thận cùng với các loại giấy tờ, sổ sách.

Mậu Công biết rõ có Tả bộc xạ Tề Thiện Hằng, danh tiếng trong sạch, về chí sĩ tại nhà, đến mời Thiện Hằng ra trông coi Lạc Thọ. Thiện Hằng chối từ:

- Thiện Hằng này tuổi cao, nhiều bệnh, từ lâu đã tránh xa cõi tục xin tướng quân chọn bậc hiền tài, để Thiện Hằng này được mừng thấy cảnh yên vui.

Mậu Công đáp:

- Trước mắt nào thấy người hiền tài nào? Tướng công không nên chối từ.

Thiện Hằng nói:

- Có một người, xin tiến cử trước tướng quân, có thể làm tốt việc này!

Mậu Công hỏi:

- Xin tướng công chỉ giùm?

Thiện Hằng đáp:

- Người này tên họ không rõ. Ai nấy đều gọi là Tây Bối Sinh, nghe nói trước từng dưới trướng Ngụy Công, làm chức tham quân, nay ẩn cư ở Quyền Thạch thôn, xem bói qua ngày. Người này thực có tài, cúi mình mà mời, nhất định sẽ được lòng dân chúng.

Mậu Công bàn:

- Nay xin tướng công hãy cứ ra trông coi tạm cho, đợi ta đi mời Tây Bối Sinh về, tướng công sẽ về nghỉ, có được chăng?

Thiện Hằng bất đắc dĩ phải nhận lấy ấn tín, lo lắng mọi việc vậy. Mậu Công chỉnh đốn quân mã lên đường, hỏi thổ dân:

- Quyến Thạch thôn ở đâu?

Thổ dân thưa:

- Qua Lôi Hạ, đi bốn năm dặm nữa, thì gặp Quyền Thạch thôn!

Mậu Công liền lệnh cho Vương Bộ làm tiền đội đi trước. Mấy ngày sau, Vương Bộ báo đã lên Quyền Thạch thôn. Mậu Công tìm một ngôi chùa lớn đóng quân, rồi thay mũ áo, giả dạng thư sinh, cùng với hai tiểu đồng, đi vào thôn. Thôn này vốn có khoảng ba trăm bộ, cũng đã là một thị trấn. lớn, vào đến chợ, thấy một biển hàng cao chọc trời, trên đề rõ ràng.

Tây Bối Sinh

Tài trùm vương hầu

Bói kinh quỷ thần

Kẻ nghèo đặt quẻ

Không lấy một phân.

Mậu Công hỏi dân thôn:

- Tây Bối Sinh ở chỗ nào?

Người này giơ tay chỉ phía tây, đáp:

- Đi về phía này, khoảng ba bốn nhà nữa!

Mậu Công vào ngõ, tìm đến nhà thứ tư, thấy ngay trước cổng, có một đôi câu đối:

Đành thua Gia Cát tam phân nghiệp

Hãy học Văn Vương bát quái từ.

Mậu Công biết ngay nhà này, đẩy cửa vào thấy một tiểu đồng, bước ra mời:

- Mời quý khách ngồi, tiên sinh ra ngay!

Mậu Công chờ một lát, thấy một người đội khăn vuông, mặc áo rộng, vén mành bước ra. Mậu Công nhìn kỹ vỗ tay mà cười:

- Tiểu đệ tưởng ai, hóa ra Giả hiền huynh!

Giả Nhuận Phủ cười đáp:

- Tiểu đệ cũng đã biết trước, thế nào quân sư cũng tới đất này, nên bỏ việc bói toán, ngồi đây chờ!

Hai bên cùng lạy chào, Nhuận Phủ cầm tay Mậu Công, mời vào "Độc Dịch hiên" ngồi, Nhuận Phủ lên tiếng:

- Xin có lời mừng quân sư, công thành danh toại, mai kia bậc công huân của nhà Đại Đường, thì thứ nhất là phải nói đến quân sư.

Mậu Công đáp:

- Hiền huynh là bậc tri kỷ từ xưa, nói gì đến công huân, danh tiếng, chẳng qua cũng là trọn được cái chí mình mà thôi?

Uống trà xong, tiệc rượu dọn ra, Mậu Công không lời từ chối, cạn ngay mấy chén. Nhuận Phủ hỏi:

- Quân sư việc quân không rõ, cớ sao lại tới thôn vắng này làm gì?

Mậu Công đem chuyện bắt Kiến Đức, gặp Thiên Hằng, kể một lượt Nhuận Phủ cười nghiêng ngửa mà rằng:

- Tiểu đệ từ ngày Ngụy Công xảy biến, lòng đã như cành khô, tro nguội, dứt hẳn chuyện lợi danh, chỉ nghĩ đến chuyện nơi sông núi, sống cảnh ngư tiễu. Không ngờ gặp được kỳ nhân, truyền cho tiên thiên số học, thật thấy huyền diệu thâm sâu. Tiểu đệ nghĩ kỳ thuật này, có thể cứu người, lợi vật, chẳng còn lo gì đến kiếp sống thừa, thì vừa gặp quân sư tìm đến.

Mậu Công nói:

- Tài năng kinh bang tế thế như hiền huynh, tiểu đệ thật bội phục. Nhưng không hiểu cái học lý số huyền diệu này, hiền huynh được ai truyền cho, xin được nghe thật!

Nhuận Phủ đáp:

- Xin quân sư uống hết ba chén lớn, rồi tiểu đệ nói thì nhất định quân sư phải bái phục.

Mậu Công liền nâng uống ngay ba chén lớn.

Nhuận Phủ nói:

- Ban đầu, có một lão tướng nhà Tùy là Dương Nghĩa Thần, "hung trung thao lược", thấu hiểu thiên văn lý số, nhân Tùy triều hỗn loạn, không ra làm quan nữa, ẩn cư trong vùng hồ đầm Lôi Hạ.

Mậu Công ngắt lời:

- Đúng là Dương Nghĩa Thần, tiểu đệ trước đây cũng có được biết, lại được chỉ giáo ít nhiều. Thế là Nghĩa Thần lão tướng truyền thụ cho hiền huynh sao?

Nhuận phủ đáp:

- Không phải. Dương Thái bộc có một người cháu gái, họ Viên, tên gọi Tử Yên, nhà Tùy kén làm cung nữ. Cô gái này ngay từ nhỏ chẳng thiết nữ công, chỉ thích xem trăng ngắm sao, cùng là chuyện tính toán kinh vĩ độ số, cái gì cũng thông thạo, vì vậy Tùy Dượng Đế phong làm Quý nhân. Gặp loạn thí nghịch của Vũ Văn Hóa Cập, Tử Yên tìm cách trốn về với Nghĩa Thần, ý muốn cạo đầu đi tu. Nhưng Nghĩa Thần tính rằng còn gặp được quý nhân để nên duyên chồng vợ, hưởng lộc suốt đời. Năm trước tiểu đệ ngẫu nhiên ẩn cư ở Lôi Hạ, làm láng giềng với Nghĩa Thần, sớm hôm quấn quýt, tiện nội lại mến Tử Yên, vì vậy mà được học hỏi ít nhiều.

Mậu Công hỏi:

- Nay Dương Thái bộc còn không?

Nhuận Phủ đáp:

- Dương lão tướng đã quy tiên rồi? Viên Quý nhân cùng mẹ con phu nhân, hiện đều đang thủ mộ.

Mậu Công hỏi:

- Mộ ở đâu?

Nhuận Phủ đáp:

- Ngay trong rừng, là phần mộ của Dương lão tướng, gia quyến ở ngay cạnh bên.

Mậu Công nói:

- Dương Thái bộc tuy mất, nhưng tiểu đệ đã từng được biết thái bộc lúc sinh tiền, nay đến trước mộ viếng thăm, cũng là mong gặp quý nhân một lần, không biết nên chăng?

Nhuận Phủ đáp:

- Cũng nên!

Mậu Công bèn sai tiểu đồng sắp đủ lễ vật, cùng Nhuận Phủ đi bộ tới, thấy mấy mẫu gò hoang, một nắm đất nhỏ, dẫu là cành lá rườm rà, khó tránh cáo thỏ dẫm đạp. Mậu Công than:

- Kết cục của bậc anh hùng, chẳng qua cũng đến thế này!

Nhuận Phủ vội vào báo cho Viên Tử Yên, Tử Yên gọi ngay Hinh Nhi thay tang phục, đến trước mộ đáp lễ, vái mời vào hương đường. Mậu Công xin được gặp Tử Yên, Tử Yên cũng không phải loại phụ nữ quá nhút nhát sợ người lạ, liền mặc áo tang trắng ra tiếp. Mậu Công nhìn kỹ thấy dung mạo đoan trang, thùy mị, nhan sắc thật mười phần diễm tuyệt, hoàn toàn khác hẳn với vẻ đẹp hào nhoáng phù hoa, không giấu dược kính phục, mà thưa:

- Hạ quan vâng vương lệnh về Lạc Thọ trông coi việc nhà Hạ, trong nội cung của Tào Hậu có thấy một cung nữ, tên là Thanh Cầm, vốn là cung nữ cũ của Tùy triều, nói là người hầu của phu nhân, ca tụng nhiều tài học của phu nhân, ngay cả bậc nam nhi cũng ít người có. Hạ quan định đưa Thanh Cầm về để hầu hạ bên phu nhân, nhưng chưa biết ý phu nhân ra sao?

Tử Yên đáp:

- Thiếp chỉ ngại Thanh Cầm rơi vào tay bọn lính ngỗ ngược, cũng không ngờ lại ở trong nội cung. Nhưng hiện nay thiếp cũng cảnh lâm tuyền thảo dã, heo hút một thân, thân mình còn chẳng giữ nổi, lại còn đeo thêm việc cơm áo nữa sao, thật phụ lòng quan thiết!

Nói xong, đứng dậy giã từ.

Mậu Công như tỉnh như mê, hồn vía bay biến đâu cả, chỉ đành quay ra, nói với Nhuận Phủ:

- Tiểu đệ lãng tử giang hồ, cũng bởi chí chưa toại, nên chưa nghĩ đến chuyện gia thất, nay gặp Tử Yên, thật xứng tâm hợp ý, chỉ mong hiền huynh làm nguyệt lão, không biết có thể thỏa nguyện được chăng?

Nhuận Phủ đáp:

- Đó là một việc rất đẹp, tiểu đệ không dám chối từ, còn việc có thành hay không, xin quân sư cứ về nhà cỏ của tiểu đệ ngồi chờ. Tiểu đệ xin đi một chuyến xem sao, rồi sẽ về thưa lại.

Mậu Công thong thả cùng Nhuận Phủ trở về. Mậu Công ngồi chờ một hồi lâu, Nhuận Phủ quay lại mặt mày hớn hở báo tin:

- Viên Quý nhân lúc đầu vẫn giữ ý ở vậy suốt đời, tiểu đệ phải ba bốn lần khuyên giải mới bằng lòng. Nhưng đòi phải ưng thuận ba điều, kể ra thì những điều này, quân sư cũng dễ nghe theo thôi!

Mậu Công hỏi:

- Là những điều gì vậy?

Nhuận Phủ đáp:

- Thứ nhất, phải chờ mãn tang Dương lão tướng thì mới về thờ quân sư. Thứ hai, phải đưa theo cả mẹ con Hinh Nhi cho đến khi thành đạt. Thứ ba, gần đây có am Nữ Trinh, là nơi tu của bốn phu nhân của Tùy Dượng Đế, cùng với Viên Quý nhân là chị em khác họ, trước kia thì Dương lão tướng cấp thức ăn vật dùng đầy đủ, nay nếu nhận lời Châu Trần, quân sư phải nhận làm tròn lời hứa đó của Dương lão tướng, cũng là để giữ được gắn bó chị em giữa Viên Quý nhân cùng các phu nhân. Chỉ có ba điều vậy thôi, nếu quân sư nghe theo, thì Viên Quý nhân là người của quân sư rồi đó.

Mậu Công vui mừng mà nói ngay:

- Chả phải ba điều, dẫu có bao nhiêu điều nữa tiểu đệ cũng xin nghe theo?

Rồi gọi tiểu đồng, đến ngay chỗ Vương Bộ, lấy hai trăm lạng bạc, mười tấm gấm, cởi đai ngọc đang đeo trên người, đưa cho Nhuận Phủ mà rằng:

- Việc quân bận rộn, không kịp lo cho đầy đủ, chỉ có thế này, xin hiền huynh lo hộ cho!

Nhuận Phủ nhận, rồi cùng tiểu đồng đưa đến tận thảo đường của họ Dương, nói rõ Mậu Công xin theo cả ba điều. Tử Yên nhận lễ vật lấy ra một quả cầu Thái ất hỗn thiên, rút trên đầu một cành trâm vàng, đưa cho Nhuận Phủ, nhờ giao lại cho Mậu Công. Mậu Công nói:

- Ơn hiền huynh lo cho chuyện gia thất, mai kia tiểu đệ xin có lễ mọn dâng hiền huynh, rồi cả văn thư về việc quản hạt Lạc Thọ nữa cũng sẽ đưa tới luôn, chúng ta cùng phụng sự minh quân, cũng là một việc tốt đẹp vậy.

Nhuận Phủ đáp:

- Chuyện này hãy khoan nói tới. Chỉ xin hỏi quân sư, Vương Thế Sung phá xong nay mai, thì liệu Đơn nhị ca sẽ ra sao?

Mậu Công nhăn mày đáp:

- Nếu bàn chuyện Đơn viên ngoại, sợ sẽ chẳng nên công chuyện gì cả ?

Mậu Công đem chuyện Hùng Tín đuổi bắt Tần Vương như thế nào, kể lại tỉ mỉ một lượt. Nhuận Phủ dậm chân mà than:

- Nếu mà như thế, việc Đơn nhị ca quả là đáng lo. Quân sư cùng với Tần Thúc Bảo thuở trước đều có lời thề sinh tử, cũng nên nghĩ cách thế nào để cứu vãn được ít nhiều chăng!

Mậu Công đáp:

- Điều ấy thì đương nhiên rồi!

Trời đã chiều, thấy có nhiều xe ngựa đến đón, Mậu Công đành phải chia tay với Nhuận Phủ. Sau đó đem ấn tín, sổ sách của Lạc Thọ, cùng với thư và hai trăm lạng bạc, đem theo một trăm lạng vàng, cùng với cung nữ Thanh Cầm, giao cho Viên Tử Yên. Hai tiểu đồng về thưa:

- Cung nữ cùng lễ vật, phu nhân đều đã thu nhận.

Còn sai quan thì trình rằng:

- Đem văn thư, lễ vật đến nhà Giả tiên sinh, thì cửa đóng kỹ, không một bóng người, đành phải quay về.

Mậu Công kinh ngạc:

- Chẳng nhẽ mấy hôm trước ta gặp ma hay sao?

Vội cưỡi ngay ngựa lên đường đi Quyền Thạch thôn, thì quả thế thật. Hỏi láng giềng đều nói canh năm đêm trước đã lên đường cả nhà, nói là đi dâng hương ở Thiên Đài. Mậu Công than thở:

- Giả hiền huynh sao bất tình đến thế!

Trong lòng nghi hoặc, lần đến nhà Dương Thái bộc. Viên Tử Yên gọi Hinh Nhi thay áo mũ màu ra đón, Mậu Công cầm tay hỏi han mấy câu, rồi lên ngựa, về ngay Lạc Dương.

Chính là:

Giữa đường nên nghĩa ruột rà

Chia tay non nước, đậm đà tình ai!

hết: Hồi Thứ Năm Mươi Tám, xem tiếp: Hồi Thứ Năm Mươi Chín

Đánh máy: bevang

Nguồn: bevang / VNthuquan - Thư viện Online

Được bạn: Ct.Ly đưa lên

vào ngày: 16 tháng 2 năm 2010

Hồi Thứ Năm Mươi Chín

Trai lỡ vận, họp mặt nhà tù,

Gái kỳ tài, gội ơn gác phượng.

Nhớ thuở xưa đầm rồng ổ phượng,

Thế mà nay nghiệp chướng luân hồi

Bấy nhiêu năm sự nghiệp tan khói bay hơi

Nước sông Lạc lững lờ trôi xuống bể

Môi hở răng lạnh đâu còn chi mà kể

Luống thở than cỏ bật rễ. rêu mất xanh

Bụi trần chớp mắt cuốn nhanh

Trông ra lạnh lẽo gọn vành trăng suông.

Theo điệu "Tây Gian nguyệt"

Việc trong thiên hạ, chỉ dựa vào mình là hơn cả, chứ làm sao mà trông vào người được, chẳng biết người làm hay không làm, làm có được hay không được. Còn mình, thì hãy cứ theo bốn chữ trung, hiếu, tiết, nghĩa mà hành động, thì dẫu có hung thần ác quỷ, lòng sắt dạ đá cũng chẳng đáng sợ.

***

Nay khoan nói chuyện Từ Mậu Công về Lạc Dương, hãy nói chuyện bọn Vương Thế Sung bị vây trong thành, bọn Lý Tĩnh đem binh mã giăng kín từng từng lớp lớp, đến giọt nước cũng không lọt. Tướng sĩ trong thành, ngày đêm tuần thám, ai nấy đều mệt mỏi, hoảng sợ, lại thêm lương thảo thiếu thốn, phần lớn đều muốn mở cửa thành ra hàng, chỉ riêng Đơn Hùng Tín cương quyết không chịu, một mình giữ chặt cửa Nam.

Hôm ấy trời vừa tối, bỗng thấy cờ gióng trống mở rộn ràng, một đội người ngựa tiến đến cửa thành, lớn tiếng gọi:

- Mau mau mở cửa thành, chúng ta là quân của Dũng An công chúa được Hạ Vương sai đến đây!

Binh sĩ trên thành, chạy thưa với Hùng Tín. Hùng Tín ra góc thành nhìn kỹ thấy vô số nữ binh mang cờ hiệu nhà Hạ, quân trung là một vị công chúa, vàng ngọc lấp lánh, tay cầm thiên phương họa kích, ngồi trên ngựa. Hùng Tín nhận đúng là con gái Đậu Kiến Đức, một mặt sai báo cho Thế Sung biết, một mặt dẫn lính phòng thủ mở cửa thành ra đón. Nào ngờ đó chính là vợ chồng Sài Tự Xương, dẫn đội "Nữ tử quân" đến Lạc Dương gặp Lý Tĩnh, giả làm Dũng An công chúa, lừa cho mở cửa thành. Bọn nữ binh cứ thế giơ cao kiếm mà chém giết, chưa gì đã hàng loạt lính nhà Trịnh ngã xuống, những tên chạy được gào thét:

- Nguy to rồi! Quân giặc đã vào!

Hùng Tín vội giơ thương chống đỡ, gặp ngay bọn Khuất Đột Thông, Ân Khai Sơn, Tầm Tương vây kín. Hùng Tín dẫu tài cán, nhưng quả bất địch chúng, lại thêm nữ binh vây kín, liều chết xông vào chém chân ngựa. Đáng thương thay một đời anh hùng, đành phải bó tay chịu trói. Đáng nực cười là Chu Xán, bị Lý Tĩnh đánh bại, chạy hàng Thế Sung, nghĩ là dựa được Trường thành, không ngờ thành phá, thân cũng bị bắt.

Vợ chồng Sài Tự Xương vào cung tìm giết Thế Sung. Thì đã thấy Thế Sung bưng bản đồ cùng quốc tỷ, mình trần từ trong cung ra hàng. Lý Tĩnh phân phó các tướng, bắt kỳ hết gia quyến tôn tộc Thế Sung, nhốt vào xe tù, một mặt thì hiểu dụ an dân. Giữa lúc hỗn loạn, tùy tướng vào thưa:

- Tần Vương đã tới?

Lý Tĩnh cùng các tướng, kéo dân chúng trong thành ra tận cửa đón vào điện của nhà Trịnh. Lý Tĩnh cùng mọi người vào lạy mừng, Tần Vương nói với Lý Tĩnh:

- Ta ra Hổ Lao quan, khanh liệu rằng diệt xong Hạ, thì Trịnh cũng theo đó mà đổ, nay thật quả nhiên!

Lý Tĩnh thưa:

- Thằng giặc Thế Sung muôn phương nghìn kế, phòng thủ rất chắc chắn, nay được Sài Quận mã lừa mở được cửa thành, Thế Sung mới tự trói đầu hàng.

Tần Vương cười, nói với Thế Sung:

- Mày lúc trước coi ta là trẻ con, cho mình là nhiều mưu lắm kế, nay sao lại ngồi trong xe tù của tướng nhà Đường ta?

Thế Sung ngồi trong xe tù thưa:

- Tôi thân này từ lâu đã nghĩ đến chuyện hàng phục nhà Đường. Cũng bởi chư tướng nhiều người do dự, nên chưa quyết. Lại cũng biết điện hạ không có mặt ở trong quân, cho nên mãi đến nay mới ra hàng, chỉ xin thánh ân tha chết.

Tần Vương cả cười, lệnh cho các tướng kiểm điểm kho tàng, mở cửa nhà tù, rồi vào hậu cung gặp gỡ vợ chồng Sài Tự Xương, thu lượm các đồ quý.

Đậu Kiến Đức cùng Đại Vương Uyển, Trưởng Tôn Thế An, là ba xe tù, cùng với mấy xe tù của bọn Thế Sung, Chu Xán, đỗ cách nhau chỉ khoảng một tầm tên bắn. Bọn lính gác thấy Tần Vương cùng các tướng đã đi khỏi, liền kéo tất cả các xe tù, gom lại một nơi. Thế Sung thấy thế sụt sịt rơi nước mắt, gọi to:

- "Hạ Vương! Hạ Vương". Quả nhân làm hại Hạ Vương rồi?

Kiến Đức mở mắt, nhưng vẫn không chịu mở miệng. Ở bên cạnh, Đại Vương Uyển lên tiếng:

- Thúc phụ! Thúc phụ làm sao cứu cháu với?

Thế Sung nhìn ra, nước mắt lại tuôn như suối:

- Quả nhân mà cứu được cháu, thì trước tiên đã cứu được mình rồi!

Chỉ tay ra xe của Thái tử Huyền Cảm, Thế Sung nói tiếp:

- Cháu không thấy đại huynh Huyền Cảm của cháu cũng ở đây sao? Quả nhân với cháu còn được một chỗ cùng Huyền Cảm, chẳng biết trong cung bá mẫu, các cô, các dì ra sao bây giờ đây!

Nói xong lại hu hu khóc rống. Kiến Đức thấy thế, vô cùng căm giận, thở than:

- Trời đất ơi! Ta nào biết được chúng mày lại như trẻ trong tã cả một lũ, sớm biết thế này, ta đã chẳng thèm phát binh cứu viện. Đại trượng phu sinh ra trong trời đất, chẳng nên được tiếng thơm cho trăm đời thì cũng để lại tiếng thối cho vạn năm, sao lại học theo cách của bọn đàn bà chẳng có lấy một chút khí khái!

Rồi nói với bọn lính canh đứng bên:

- Các ngươi hãy đẩy xe của ta ra một góc, để khỏi phải nghe giọng lưỡi của chúng nó, bẩn cả tai ta!

Một đám dân chúng đứng xung quanh xem, có người chỉ tay, nói:

- Đây chính là Hạ Vương, nghe nói ông ta làm vua ở Lạc Thọ, rất yêu thương dân chúng, lại rất giản dị liêm khiết, so với vua Trịnh chúng ta còn tốt hơn gấp mười. Bà hoàng hậu lại cũng là bậc hiền minh, giúp vua trị nước chuyên cần, nay không ngờ vì vua Trịnh, mất cả giang sơn, làm sao không xót xa cho được!

***

Lại nói Tần Thúc Bảo cùng Tần Vương trở về , thấy thành Lạc Dương đã hạ xong, trong lòng lúc nào cũng lo đến chuyện của Đơn Hùng Tín, tìm đến chỗ xe tù nhốt anh em, con cháu Thế Sung, cùng với đình thần họ Trịnh, nhưng không thấy Hùng Tín, mới hỏi quân sĩ thì biết rằng, Giảo Kim đã thưa với Tần Vương, đưa Hùng Tín ra phía đông thành rồi. Thúc Bảo vội chạy theo tìm, thấy một tên lính tâm phúc của Giảo Kim. Thúc Bảo hỏi:

- Trình tướng quân đâu rồi?

Tên lính thưa:

- Đang cùng với Đơn viên ngoại ở trong miếu thổ địa phía trước!

Thúc Bảo theo tên lính dẫn, thấy Hùng Tín đang ngồi trong miếu, nói chuyện với Giảo Kim, cổ đeo gông. Thúc Bảo ôm lấy Hùng Tín mà khóc. Hùng Tín nói:

- Tần hiền huynh hà tất bi thương đến thế. Hùng Tín nghe Tần Vương đem binh đánh Thế Sung, đã đem chuyện sinh tử đặt ra ngoài. Nay nước mất, thân tù, sao còn mong giữ được ngói lành. Nhưng không hiểu sao Hạ Vương thua nhanh đến thế?

Thúc Bảo đáp:

- Đơn nhị ca nói chuyện ấy làm gì? Một bọn anh em chúng ta, hoạn nạn có nhau, sinh tử cùng chia, không ngờ Ngụy Công, Bá Đương mất rồi, còn lại mỗi người mỗi nơi, xưa là hai nước, nay về một nhà. Sao lại không nhìn ngó đến nhau cho được. Huống chi với tài nghệ của Nhị ca, nếu chịu giúp nhà Đường, thì sẽ làm nên công nghiệp lẫy lừng.

Thúc Bảo đem chuyện Kiến Đức thua trận ra sao, bị bắt ra sao kể lại, bên ngoài thấy một người đẩy cửa vào, thì ra Đơn Toàn. Hùng Tín hỏi:

- Ngươi không ở xem xét công việc gia quyến, tới đây làm gì? Hay trong nhà cũng có ai đến đây nữa sao?

Đơn Toàn thưa:

- Dạo ấy, sang canh năm, Giả đại nhân đã tới nói rõ ý của viên ngoại, nên phu nhân cùng tiểu thư lập tức lên đường, nói rằng sẽ đưa tới chỗ Tần thái thái (l), bởi thế tiểu nhân này mới đến thăm viên ngoại, lại gặp cả Tần đại nhân ở đây, hỏi rõ thực hư.

1 Tần thái thái: Chỉ Ninh Thị mẹ đẻ Tần Thúc Bảo.

Hùng Tín nói với Thúc Bảo, Giảo Kim:

- Nhuận Phủ hiền đệ đã lâu không gặp, nhưng sao lại có chuyện này?

Giảo Kim đáp:

- Giả đại huynh vốn là người chu đáo, đã nói là đưa tới chỗ Tần thái thái, thì nhất định là đúng thế rồi!

Thúc Bảo cũng nói:

- Giả đại huynh là người nghĩa khí, lệnh tẩu cùng lệnh ái nhất định đã được thu xếp yên ổn, chẳng phải lo lắng.

Hùng Tín nói với Đơn Toàn:

- Ngươi hãy lên đường, xem gia quyến ra sao, ở đây ta đã có hai tiểu hiệu tâm phúc rồi!

Thúc Bảo cũng khuyên:

- Đơn Toàn không phải lo lắng cho viên ngoại nữa, hãy tìm Giả đại nhân xem sao, còn ở đây đã có chúng ta coi sóc.

Đơn Toàn gạt nước mắt trở ra. Lại có mấy tên lính kéo vào, đều là thân tín của Thúc Bảo, Thúc Bảo hỏi:

- Đã tìm được nơi nghỉ ngơi chưa?

Một tên thưa:

- Ở phố Bắc, men theo bờ sông, nhà tướng nhà Trịnh Trương Kim Đồng, cả hành lý của Trình tướng quân cũng đã mang lại. Hiện nay trong điện Bảo Hòa đã bày yến tiệc, chỉ sợ điện hạ sẽ có lệnh mời hai tướng quân.

Giảo Kim đáp:

- Chúng ta cùng ở một nơi sao, hay quá nhỉ?

Thúc Bảo nói với Hùng Tín:

- Ở nơi này không tiện, xin nhị ca lại chỗ tiểu đệ!

Hùng Tín đáp:

- Hùng Tín này nay đã là phạm nhân, lý nên như thế này, chư huynh cứ yên lòng!

Giảo Kim gào:

- Thế nào là phạm nhân với quý nhân. Đơn nhị ca là người hào kiệt. Tại sao hai chúng tôi chỉ đành đứng ngoài nhìn?

Rồi lấy ngay sợi thừng trên cổ Hùng Tín xuống, giao cho tên tiểu hiệu. Thúc Bảo cầm tay Hùng Tín ra khỏi cửa miếu, tới chỗ ngụ, sai phái tay chân sắp xếp mọi thứ, chờ sẵn.

Thúc Bảo cùng Giảo Kim vào điện Bảo Hòa, thấy Lý Tĩnh đang sai phái các tướng, giữ cửa thành, tuần tra, treo cáo thị, cấm chỉ quân sĩ không được tước đoạt, nhũng nhiễu, ai phạm sẽ bị chém đầu. Tần Vương sai ký thất Phòng Huyền Linh, vào ngay Trung thư môn hạ tỉnh, thu thập cáo chế, còn Tiêu Vũ, Đậu Quỹ thì đi niêm phong các kho tàng, coi sóc các của báu. Vàng bạc là phần việc giao cho Sài Tự Xương cùng Vũ Văn Sĩ Cập, cân đo nhiều ít để rồi ban thưởng cho các tướng sĩ, quân lính. Lý Tĩnh thấy Thúc Bảo cùng Giảo Kim bên nói:

- Theo lệnh của Tần Vương, phiền hai vị ngày mai đem quân đi chở lương thực ở Lạc Thương về để chẩn cấp cho trăm họ ở trong thành.

Thúc Báo đáp:

- Lương thực ở Lạc Thương, chỉ cần ra hiểu dụ là các bậc kỳ lão dẫn ngay dân nghèo đến để lĩnh chẩn, việc gì phải chuyển về!

Liền sai thư lại viết ngay cáo thị, thì thấy Khuất Đột Thông tới, hỏi Thúc Bảo:

- Tần tướng quân! Hiện nay Hùng Tín ở đâu? Tần Vương có chỉ điểm danh tội phạm để đưa vào vào nhà ngục, sai lính canh giữ, nhưng còn Hùng Tín vẫn chưa thấy!

Thúc Bảo hỏi:

- Chỉ đâu rồi?

Đột Thông lấy trong tay áo ra, Thúc Bảo cầm xem, thấy viết:

"Đoàn Đạt, đại thần nhà Tùy, giúp Vương Thế Sung giết vua cướp ngôi, Chu Xán tàn sát bách tính, giết sứ giả nhà Đường, Đơn Hùng Tín, Dương Công Khanh, Quách Sĩ Hành, Trương Kim Đồng, Quách Thiện Tài, đều tạm giam vào ngục, điểm binh canh gác, chờ giải về Trường An, đợi thánh ân định đoạt."

Thúc Bảo cau mày nhăn trán, chưa biết trả lời ra sao, thì Giảo Kim đã đáp:

- Khuất tướng quân, Đơn Hùng Tín chính là anh em thân thiết của chúng tôi. Hiện đang ở chỗ chúng tôi, chẳng cần phải đưa vào nhà ngục. Chờ về Trường An, giao Đơn Hùng Tín cũng không hề gì!

Tề Quốc Viễn, Lý Như Khuê, Vưu Tuấn Đạt đều đến tận nơi, thăm hỏi Hùng Tín. Như Khuê thấy tình cảnh như vậy, không chịu nổi kêu lên:

- Anh em chúng ta, cùng đem sức lực xương máu để có thành công này, mà đứng ra che chở một người cũng không được hay sao?

Đột Thông đáp:

- Hạ quan cũng là phụng mệnh Tần Vương đi xem xét, nếu như các ngài đã đảm đương như vậy, thì lẽ nào hạ quan lại từ chối.

Ngày hôm sau, lệnh cho Sài Quận mã thống lãnh đội "Nữ tử quân" lên đường trước, Quốc Viễn, Như Khuê đành lưu luyến chia tay bọn Thúc Bảo, Giảo Kim, lên đường về Ngạc Huyện. Lúc này cũng vừa dịp Từ Mậu Công từ Lạc Thọ trở về, vào ra mắt Tần Vương. Tần Vương hỏi chuyện Lạc Thọ, Mậu Công thưa:

- Thần về đến Lạc Thọ, Tế tửu Lăng Kính đã thắt cổ ở triều đường. Tào Hậu cùng bốn cung nữ tự vẫn ở hậu cung, cung tần phụ nữ, chẳng qua khoảng một hai chục người, nhưng không thấy con gái Kiến Đức đâu cả. Già trẻ trăm họ nghe tin Kiến Đức bị bắt, đều than thở đau xót. Thần mở kho phát chẩn, nhưng không ai chịu đến lĩnh. Thần cũng đã lệnh nghiêm cấm quân sĩ không được cướp bóc, nhũng nhiễu. Những của cải, lương thực đều được kê khai, gìn giữ để nuôi quân, vì vậy các thân hào xa gần đều đội ơn đức điện hạ. Thần cũng đã chọn một lão thần có tiếng tốt, tạm cầm quyền coi sóc Lạc Thọ là Tề Thiện Hằng. Không biết có vừa ý điện hạ chăng?

Tần Vương gật đầu khen ngợi, lệnh cho Vương Đạo Huyền, cùng Vũ Văn Sĩ Cập, đại tướng Khuất Đột Thông, tạm quyền trấn thủ Lạc Dương, cho quân sĩ chuẩn bị ban sư hồi triều.

Mậu Công nghe biết Hùng Tín đang ở chỗ Thúc Bảo, vội tới gặp, nói với Hùng Tín:

- Tiểu đệ dạo trước ở Lạc Thọ trở về, có gặp một người bạn, kể chuyện thấy Nhuận Phủ hộ tống gia quyến Đơn nhị ca, nghĩ rằng Nhuận Phủ đã biết lệnh của Tần Vương, đưa tất cả tù nhân về Trường An chờ phát lạc, nên Nhuận Phủ hiền huynh mới đem gia quyến Đơn nhị ca về chỗ Tần thái thái, thế là yên ổn. Tiểu đệ lúc ấy sợ trên đường có chuyện trở ngại nên sai gia tướng cùng hai mươi tên lính, đem theo ba trăm lạng bạc làm lộ phí, đuổi theo để hộ tống, nghe nói đều đã tới Trường An yên ổn!

Hùng Tín nói:

- Hùng Tín nghe nói, con chim sắp chết thì tiếng kêu ai oán, con người sắp chết thì nói lời phải lẽ. Như địa vị Hùng Tín bây giờ, không thể nói là tốt được, cũng chẳng oán trách gì được. Chỉ xin chư huynh chở che cho gia quyến, Hùng Tín dẫu chết cũng như sống vậy!

Thúc Bảo sai người thuê ngay một xe lừa, để Hùng Tín ngồi, rồi cả bọn lên đường về Trường An với Tần Vương.

Chính là:

Gươm vàng ra lệnh tan mây khói

Giáp sắt khua vang nhịp khải hoàn.

Chẳng bao lâu đã tới Trường An, tiêu mã báo trước cho vua Đường. Vua Đường lệnh cho đại thần, các liêu thuộc ở lại của Tây phủ ra ngoài thành đón tiếp. Từng từng lớp lớp trống gióng cờ mở, phía trước là một hàng tướng truyền lệnh, kỳ bài quan áp giải Vương Thế Sung, Đậu Kiến Đức, Chu Xán cùng các tướng, các quan đại thần, gia tộc nhà Trịnh, nhà Hạ, sau là xe chở các thứ quốc bảo của nhà Tùy. Tần Vương mặc cẩm bào, áo giáp vàng, cưỡi ngựa thanh tông mà Uất Trì Cung đã cướp được, tiếp theo là các tướng sĩ, nai nịt gọn gàng, rầm rập kéo vào thành. Trước tiên vào thái miếu, làm lễ dâng tù, sau đó vào triều. Tần Vương vào cung gặp mẫu hậu. Vua Đường ban thánh chỉ: Trời đã tối, các tướng về nghỉ. Sai Quang lộc tự bày yến tiệc ở Thái Hòa điện, đem các tù nhân nhà Trịnh, nhà Hạ, nhà Chu, giao cho Đại lý tự giam vào ngục thất, chờ thánh chỉ định đoạt.

Hùng Tín cũng phải theo vào trong nhà ngục. Hình bộ ra lệnh, sai mười viên hiệu úy cùng lính tráng áp giải tù nhân vào phòng giam. Tiếng truyền dõng dạc:

- Cấm tử môn! Theo đúng tên tuổi, từng tên một, từng phòng một giải vào. Đây là trọng phạm của cả hai nước, phải canh gác nghiêm mật!

Bọn lính cấm tử đồng thanh đáp:

- Vâng lệnh.

Lần lượt từng người tù, đi qua một cửa thấp, vào đến phòng giam rộng khoảng ba gian, vừa thấp vừa tối, mùi hôi thối sặc sụa. Lúc này Hùng Tín thấy trong lòng đau đớn. Kiến Đức trông sang hai bên, đã thấy hai ba chục tù nhân, cổ gông tay còng, kẻ ngồi kẻ nằm, mặt mày bẩn thỉu, gầy giơ xương, chẳng khác gì ma quỷ. Kiến Đức gan dạ là thế, cũng thấy rã rời chán ngán, cũng còn may có Đơn Hùng Tín, là bạn tri kỷ, cùng ở một nơi, thỉnh thoảng trao đổi vài câu Bỗng thấy một người cao lớn, ngấp nghé trước cửa hỏi to:

- Ai là Hạ Vương? Ai là Đơn Hùng Tín?

Kiến Đức chưa kịp đáp, còn Hùng Tín thì trong lòng buồn tủi, chẳng muốn trả lời, ngờ rằng người ta gọi mình ra để xử trảm, nên lặng lẽ lại gần mới đáp:

- Ta là Đơn Hùng Tín đây! Có chuyện gì vậy?

Thì ra là đội trưởng toán lính cấm tử. Đội trưởng nói:

- Mời hai vị ra ngoài này!

Kiến Đức cùng Hùng Tín quay ra, đội trưởng dẫn sang phòng bên trái, sạch sẽ hơn nhiều, lại có cả giường, bàn, ghế, màn chăng cẩn thận. Đội trưởng tiếp:

- Vừa rồi, hạ quan nhận lệnh trên đại đường, lại được Từ đại nhân cùng Tần đại nhân dặn dò, nhưng vì quay về muộn quá, bọn đàn em không hiểu đầu đuôi, nên đã vội đưa cả hai vị vào chung trong phòng giam lớn vừa rồi!

Chỉ giường đã có đệm hẳn hoi, y tiếp:

- Đây là của Hạ Vương!

Chỉ giường chưa có đệm:

- Đây là của Đơn đại nhân, đệm gối Tần đại nhân sẽ cho người mang ngay vào bây giờ.

Kiến Đức hỏi:

- Đơn viên ngoại thì đã có các vị lo lắng cho, còn ta, chẳng có ai đến để nhờ cậy, sao lại cũng được các ngài chiếu cố thế này?

Đội trưởng đáp:

- Hạ Vương không cần phải lo lắng. Cách đây ba ngày, có một vị họ Tôn, đinh ninh nhờ cậy hạ quan, lại cho cả quà, nói rằng bao giờ Hạ Vương tới, sẽ còn đến thăm nom, cho nên mới xếp sẵn gian phòng này để chờ các đại nhân vậy!

Kiến Đức nghĩ ngợi: "Có lẽ là Tôn An Tổ đã chạy được, giờ quay lại đây sao?" Bỗng thấy bên ngoài ồn ào, năm sáu tiểu hiệu khiêng hành lý, cùng một vò rượu lớn, các đĩa thức ăn, rồi bày ra bàn, nói với đội trưởng:

- Đây là nệm của Đơn viên ngoại, cùng với rượu thịt. Các vị tướng quân nói rằng vì bận việc công, chưa thể vào ngay, có dặn đội cấm tử hãy phục dịch chu đáo.

Bọn cấm tử vội vàng trải nệm, dọn dẹp, bày rượu thịt. Kiến Đức cùng Hùng Tín gác mọi chuyện đại sự, ngồi bên nhau nâng chén khề khà cho quên ngày tháng.

***

Lại nói chuyện Đậu hoàng hậu, thấy Tần Vương trở về, trong lòng rất mừng, dự dạ yến xong thì đã sang canh hai, bất giác ngủ say, mơ thấy một vị La Hán mình vàng, cúi đầu nói với Đậu hoàng hậu:

- Con trai hoàng hậu đã về. Ta có một đồ đệ, con trai hoàng hậu về đây, hãy mau bảo đồ đệ ta cắt tóc, rồi giao trả lại ta?

Nói xong thì chẳng thấy đâu nữa. Đậu hoàng hậu tinh ra, đem chuyện trong mộng, kể rõ cho vua Đường nghe. Vua Đường đáp:

- Chiều qua khi Thế Dân về, cũng chưa kịp hỏi kỹ. Hãy đợi ngày mai vào triều kiến, hỏi lại xem sao.

Đậu hoàng hậu trằn trọc không ngủ được, nghe trống đã điểm canh năm, nóng ruột không chờ được nữa, liền sai nội giám truyền ý chỉ, triệu Tần Vương vào cung. Lúc này Tần Vương vừa ngủ dậy, đang còn rửa mặt, chải đầu, định vào triều, thì thấy nội giám tới triệu, vội vàng theo vào. Sau lễ chào, Đậu hoàng hậu hỏi:

- Con từ ngày rời kinh đô, đánh dẹp được cả hai nước, nay hãy kể lại cho ta nghe xem sao.

Tần Vương kể lại chuyện Đoàn Ý đi sứ tới Chu Xán ra sao, bị y mổ thịt thế nào, rồi chuyện ở lăng Tuyên Vũ, bắn linh điểu, suýt bị Hùng Tín bắt thế nào, may gặp thánh tăng Đường Tam Tạng dùng pháp thuật cứu thoát, ban cho bài kệ, lại được Uất Trì Cung giải vây, kể lại một lượt. Đậu hoàng hậu nghe xong, gật đầu nói:

- Đêm qua ta nằm mộng gặp thánh tăng, thì ra là có duyên cớ cả.

Tần Vương hỏi:

- Mẫu hậu thấy những gì trong mộng?

Đậu hoàng hậu lại kể lần nữa, rồi thêm:

- Theo ta nghĩ, có lẽ trong đám tù nhân, nhất định có người tốt vậy!

Lại hỏi Tần Vương:

- Vừa rồi con nói Đường Tam Tạng có tặng một bài kệ, hãy viết ra để ta nghiền ngẫm xem sao.

Tần Vương viết xong, ai nấy nghĩ ngợi, Vũ Văn chiêu nghi cũng đứng hầu ngay cạnh, là cung nữ được Đậu hoàng hậu vừa ý hơn cả.

Đậu hoàng hậu nói với Vũ Văn chiêu nghi:

- Hay lắm, khanh vốn mẫn tuệ khác thường, nhất định sẽ đoán ra.

Đậu hoàng hậu liền thuật lại giấc mộng của mình, cùng mấy câu kệ thánh tăng cho Tần Vương, đưa cho Chiêu nghi xem. Chiêu nghi đọc kỹ một hồi, liền thưa:

- Câu thứ nhất thì ý tứ rõ ràng, mang tên Hạ Vương ở trong. Câu thứ hai có lẽ nói đến người này có con cái hiếu thảo. Câu thứ ba thì chẳng rõ ý gì, còn câu thứ tư rất dễ hiểu vậy!

Đậu hoàng hậu hỏi:

- Làm sao mà lại dễ hiểu?

Chiêu nghi thưa:

- Hoàng hậu họ Đậu, Hạ Vương cũng họ Đậu. Đậu đều nguyên là "mộc bản", là cội nguồn, vốn cùng một thể. Thế là nên tha tội cho Đậu Kiến Đức vậy!

Đậu hoàng hậu gật đầu khen phải. Tần Vương thưa:

- Kiến Đức là bậc hảo hán, chẳng khác nào mãnh hổ, tha ra thì dễ, trói thì rất khó. Nay may nhờ ơn chín miếu, một sớm mà con bắt được nếu bằng thả ra, lại gây họa thì sao?

Vua Đường phán:

- Đến giờ thì chẳng nên câu nệ. Chu Xán tàn ngược bất nhân, lý nên chém dầu. Còn thì hãy lôi Vương Thế Sung ra đây, đợi trẫm tra xét thêm trăm quan của Thế Sung, biết đâu cũng còn có bậc hiếu tử trong đám này cũng nên.

Tần Vương liền sai hiệu úy vào ngục, lôi ra chém đầu phạm nhân Chu Xán, dẫn Thế Sung vào diện thánh.

Hùng Tín cùng Kiến Đức đang ngủ trên giường nghe trống báo hết canh, đang cùng nhau chuyện trò, bỗng thấy người vào rậm rịch, đập cửa phòng bên, rồi lại nghe tiếng xích sắt loảng xoảng, gông cùm va chạm, còng khóa leng keng, xen lẫn tiếng người huyên náo. Thì ra đội cấm tử vào dẫn tù phạm ở dãy sau, xung quanh tù nhân nghe động, chẳng biết can hệ ra sao, chẳng khác gì giữa trận chiến gươm giáo rộn ràng vậy. Kiến Đức vội đứng dậy ghé vào khe cửa nhìn ra, thì thấy sáu bảy tên đao phủ, mặc áo đỏ có đuôi trĩ, lấy dây đỏ trói một tù nhân, nhìn kỹ, thì ra là Chu Xán, theo sau Vương Thế Sung cũng bị trói. Kiến Đức nói với Hùng Tín:

- Đơn nhị ca, chúng ta rồi cũng đi theo, cứ đứng dậy là xong tất!

Hùng Tín đáp:

- Mọi chuyện đều ở người khác!

Bỗng nghe đập cửa, rồi có người gọi:

- Đơn viên ngoại, có người nhà đến thăm!

Vội nhổm ngay dậy, ra mở cửa, thì ra là Đơn Toàn. Thấy chủ nhân, Đơn Toàn chắp tay quỳ xuống trước gối khóc rống. Hùng Tín cũng không ngăn nổi hai hàng nước mắt:

- Ngươi chẳng nên khóc lóc, hãy đứng dậy, ta hỏi: Phu nhân cùng tiểu thư hiện ở đâu?

Đơn Toàn đứng dậy, ghé tai Hùng Tín nói nhỏ mấy câu, Hùng Tín gật đầu:

- Việc của ta đã định liệu từ trước, ngươi chỉ cần chăm sóc phu nhân cùng tiểu thư, đó chính là yêu chủ, trung với chủ. Ta ở đây đã có các vị lo lắng, ngươi chẳng cần phải ra vào. Ngươi vào đây, lòng ta thật rối ren không chịu nổi!

Đơn Toàn lưu luyến không nỡ rời. Cấm tử quân lại mở cửa vào, nói với Kiến Đức:

- Hạ Vương có Tổ đại nhân đến thăm?

Kiến Đức chưa kịp đáp, đã thấy Tôn An Tổ đến ngay trước mặt, cùng với hai ba người nữa, tất cả nhìn nhau, cầm tay mà khóc. Kiến Đức hỏi:

- Khanh đã về Lạc Thọ, sao còn quay lại đây?

An Tổ ghé tai Kiến Đức, thì thầm một hồi, có vẻ hứng khởi.

Kiến Đức cau mày:

- Người sống trăm tuổi, rồi cũng chết cả, việc gì mà khổ lụy đến thế. Khanh hãy cùng công chúa trở về, an táng Tào Hậu cùng các kẻ khác.

An Tổ vẫn không chịu nghe.

***

Hãy nói chuyện Chu Xán bị trói, dẫn ra chợ chém đấu. Thế Sung thì dẫn vào triều điện thánh. Vua Đường mắng y giết vua cướp ngôi, Thế Sung gian xảo khác thường, đem tất cả tội lỗi đó đổ lên đầu trăm quan. Vua Đường lại hỏi đến tội cố tình chống cự, thành bị phá mới hàng. Thế Sung quỳ lạy thưa:

- Tội thần thật đáng chết, nhưng Tần Điện hạ đã hứa cho thần được sống, xin thánh ân khoan hồng đại độ?

Vua Đường nhân ý của Tần Vương, bèn lệnh giáng Thế Sung làm dân thường, anh em con cháu đều đày lên phương Bắc. Thế Sung tạ ơn ra khỏi triều. Vua Đường lại sai giải Kiến Đức vào, thì thấy hoàng môn quan vào quỳ thưa:

- Có hai cô gái, tự trói mình, ngậm đoản đao, quỳ tại triều môn, xin được vào triều kiến bệ hạ!

Vua Đường nghe tâu, lấy làm lạ lùng, sai giải ngay vào.

Chỉ thấy hai người, lụa trắng quấn thân, áo xanh ngắn, hở cả cánh tay ngà ngọc, tự trói bằng dây đỏ, miệng ngậm một lưỡi đoản đao sáng loáng quỳ trước thềm cổng. Vua Đường trông xuống, tuy không phải bậc tuyệt sắc, nhưng cũng đều là chung anh tú khí, hiếm có trên đời. Vua Đường đã thấy đáng thương ít nhiều, liền gọi lại gần:

- Hãy cất lưỡi đao ở miệng đi? Dẫn cả hai lại gần đây gặp trẫm.

Nội thị vội rút hai lưỡi đao, dẫn lên phía trước, gót sen vội bước lên quỳ trên điện. Vua Đường mới hỏi:

- Hai khanh, là người ở đâu, có việc gì mà phải xin gặp trẫm?

Đậu Tuyến Nương thưa:

- Thần thiếp họ Đậu, là con gái của phản thần Đậu Kiến Đức. Bởi thân phụ thiếp phạm phải uy trời, thật khó tha, thiếp xin đem thân chịu tội thay, nguyện đem cái chết để chuộc uy trời vậy!

Vua Đường hỏi:

- Đậu Kiến Đức há không có thần tử, tử điệt nào hay sao, mà đến nỗi khanh là hạng quần thoa phải làm việc này?

Tuyến Nương thưa:

- Các bậc trung thần lương tướng đều đã tận tiết, táng thần, còn như cháu chắt thì họ hàng chẳng ai, phụ thân thiếp chỉ sinh được mỗi mình thiếp, mong đội ơn sâu, có ngày báo đáp. Phương chi đến Thế Sung cướp ngôi giết vua, mà thánh ân vẫn còn tha chết, phụ thân thiếp chẳng qua giữ nước mà thôi. Lại từng chinh thảo Vũ Văn Hóa Cập, lo lắng chôn cất cho Tùy Dượng Đế, trước đây ở Lê Dương, đã lại đưa đón ngự đệ Lý Thần Thông cùng công chúa Đồng An thật là chu tất, so với Thế Sung, há lại không bằng sao? Ơn thánh đế lồng lộng, chỉ xin xá tội cho phụ thân, thiếp xin chịu thay, cũng là điều hợp với phép nước. Xin thánh ân trông lại, thiếp dẫu chết nhưng cũng như còn.

Vua Đường phán:

- Vừa rồi khanh nói Đậu Kiến Đức chỉ sinh mỗi một mình khanh, thế còn một người kia nữa là ai vậy?

Tuyến Nương chưa kịp đáp, Mộc Lan đã thưa:

- Thần thiếp họ Hoa, tên Mộc Lan, là con của Hoa Cô ở Hà Bắc.

Rồi đem chuyện Lưu Vũ Chu xuất binh, thay cha tòng quân, cùng Tuyến Nương kết nghĩa kể lại một lượt. Vua Đường nghe giọng oanh thỏ thẻ, không ngăn nổi thán phục:

- Thật là hai thiếu nữ kỳ tài, thánh tăng cũng từng nói: "Cả hai e khó toàn" kia mà. (l)

1 Nguyên văn chữ Hán của bài kệ là: "Kiến nghiệp duy tồn đức; Trị thế nghi toàn hiếu; Lưỡng hiếu cảnh nan năng; Bản nguyên đương thúc bảo". Các câu khác đã được Vũ Văn chiêu nghi giải thích, câu ba cũng có nghĩa là hai người con hiếu, chỉ Tuyến Nương, Mộc Lan, nhưng cũng còn ý báo trước, một trong hai người không được hưởng phúc lâu dài, chỉ Mộc Lan ở hồi sau.

Đang nói, bỗng thấy hai nội giám quỳ lạy thưa:

- Hoàng hậu có chỉ, mời điện hạ vào cung.

Tần Vương đứng dậy, theo hai nội giám.

Lúc này Kiến Đức đã được giải vào, quỳ dưới thềm son, lắng nghe hai chị em Tuyến Nương đối đáp, thì được vua Đường gọi lên trách:

- Người giúp kẻ khác làm điều ác, lẽ nên chém đầu, nhưng vì con gái ngươi xin nguyện chết thay, trẫm cũng vì noi theo đức hiếu sinh của thượng đế, không nỡ sát hại. Cứ xét tội ngươi, phải đặt ra ngoài cả pháp độ mà tha thứ cho mới xong.

Lệnh cho thị vệ cởi dây trói, bỏ còng tay, gông cổ cho Kiến Đức.

Vua Đường lại phán tiếp:

- Tha cho ngươi thì tha rồi! Nhưng ngươi cũng là bậc hào kiệt trong đời, nếu trẫm ban cho ngươi một chức tước nào đó, thì liệu ngươi có chịu khuất dưới kẻ khác chăng? Còn như trẫm phế ngươi làm thứ dân, thì liệu ngươi có quên được giang sơn gấm vóc cũ chăng? Rồi có khỏi được chuyện mưu đồ này nọ chăng?

Kiến Đức cúi lạy thưa:

- Thần ơn bệ hạ ngoại pháp mà ra ơn, để thần được sống, thật là ngoài cả ước muốn rồi, đâu còn dám sinh lòng khác. Thần từ lúc bị bắt đến nay, chuyện danh lợi chẳng khác gì tuyết tan băng vỡ, nay được như sống lại. Xin được thế phát quy y, thắp hương nguyện cho kiếp sau, báo đáp được ơn thánh đế, không dám xông vào chốn trần ai nữa.

Vua Đường cả mừng:

- Ngươi chịu là nhà sư thì thật hợp lắm, hay lắm. Trẫm sẽ thay ngươi tìm một pháp sư, nhận ngươi làm đồ đệ, chỉ sợ lòng ngươi chưa quyết mà thôi.

Kiến Đức than thở:

Thần nghe nói kẻ đồ tể, quăng con dao ra, thì sáu căn đều sách không, thấy trước mắt toàn điều nghiệp chướng, chẳng khác nào sau cơn mưa hoa đều rụng hết, còn gì nữa mà do dự vậy! (l)

1 Lục căn: Tiếng nhà Phật, chỉ sáu nguồn gốc đem đến phiền não, gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân xác, và ý nghĩ. (Hán Việt tân từ điển).

Vua Đường phán:

- Ngươi đã quyết như vậy, trẫm đổi tên cho ngươi là Cự Đức, lệnh bộ Lễ cấp độ diệp, bộ Công cấp áo mũ, ngay trước điện làm lễ thế phát cho ngươi!

Tần Vương từ trong cung ra thưa:

- Mẫu hậu biết Kiến Đức xin đi tu, rất mừng, đòi hai hiếu nữ vào gặp. Phụ hoàng thấy có nên chăng?

Vua Đường liền gọi nội thị, dẫn hai chị em Tuyến Nương vào ra mắt Hoàng hậu. Đậu hoàng hậu thấy, rất hoan hỉ, gọi cung nữ, lấy hai bộ y phục ban cho hai chị em thay, cho phép ngồi xuống đôn gấm, hỏi tên tuổi, cả hai thưa gửi lễ phép. Đậu hoàng hậu hỏi tiếp:

- Tuyến Nương đã gả cho ai chưa?

Tuyến Nương thẹn thùng không nói. Mộc Lan đáp thay:

- Đã hứa hôn với La Thành, con trai lão tướng La Nghệ, tổng quản U Châu.

Đậu hoàng hậu phán:

- La Nghệ đã theo về nhà Đường, nhiều lần lập công lớn, thánh thượng đã phong là Yên Quận vương, ban quốc tính, trấn thủ U Châu, nghe nói con trai anh hùng cái thế. Khanh mà lấy La Thành, thì có chỗ gửi thân suốt đời chắc chắn. Khanh đã hiếu nghĩa đến vậy, ta cũng họ Đậu, ta sẽ nhận làm cháu gái, cho thêm vinh hiển.

Tuyến Nương không dám từ chối đành cúi lạy tạ ơn. Đậu hoàng hậu lại hỏi lai lịch Mộc Lan, Mộc Lan nhất nhất tâu rõ. Đậu hoàng hậu cũng không tiếc lời khen ngợi, sai ngay nội thị lấy trong ngăn khố hai nghìn lạng bạc, một trăm tấm đoạn, tặng Tuyến Nương làm vốn, lại lấy một nghìn lạng, bốn mươi tấm đoạn, ban cho Mộc Lan, để phụng dưỡng phụ mẫu suốt đời, rồi sai nội giám đưa về tận quê. Hai người tạ ơn ra khỏi cung.

Kiến Đức vừa mới cắt tóc, thay áo mũ nhà sư, khoác cà sa gấm thêu, đầu đội mũ tỳ lư của nhà sư, đang làm lễ bái tạ thánh đế. Vua Đường phán:

- Nay thì khanh thật thanh thản rồi!

Thì thấy hai chị em Tuyến Nương, theo sau là một toán nội thị, khiêng nào gấm, nào bạc, ra trước sân rồng đặt xuống, rồi một viên thái giám tâu lên vua Đường rõ việc làm của hoàng hậu vừa rồi. Hai chị em Tuyến Nương lại lạy tạ ơn vua Đường. Vua Đường nói thêm với Kiến Đức:

- Ta không biết chuyện con gái khanh đã hứa hôn với La Thành, nay lại được nhận làm cháu gái của hoàng hậu, hiếu nữ lại được con rể giỏi giang. Khanh cũng đỡ băn khoăn!

Kiến Đức vốn cũng chưa rõ chuyện này, nay thấy Đậu hoàng hậu vừa cho bạc lụa, vừa xe duyên cho con, nên lại tạ ơn ra khỏi triều đình. Vua Đường còn lệnh cho một thái giám đem ra hai ngàn lạng bạc, một rương lụa trắng, gửi đến biếu Đường Tam Tạng Thánh tăng, ở Ẩn Linh Sơn thuộc Du Sào, khe Đoạn Hồn. Kiến Đức ra triều môn, thấy nhà sư với hành lý chờ sẵn, nhìn kỹ, thì ra Tôn An Tổ. Kiến Đức kinh hãi hỏi:

- Ta vì sợ nhà vua để ý, mới phải cắt tóc vào chùa, còn An Tổ cũng đi đường này làm gì?

An Tổ đáp:

- Chúa công, dạo trước còn ở nhờ Nhị Hiền trang, Tôn An Tổ này tìm đến khuyên chúa công khởi sự, nay việc không thành, thì lẽ tự nhiên là cùng ở một nơi mà thắp hương tụng niệm. Còn như lấy chuyện thịnh suy mà thay lòng đổi dạ, chẳng còn là đấng trượng phu nữa rồi!

Kiến Đức lại nói với Tuyến Nương:

- Nay con đã hứa hôn với La Thành, lại được đội ơn của hoàng hậu, nhận làm cháu gái, có nơi trông cậy suốt đời. Từ nay về sau con thì lo việc con, cha có việc của cha, đừng phải nghĩ đến cha nữa.

Tuyến Nương đòi được đưa Kiến Đức lên tận núi, viên nội giám đi theo liền nhắc:

- Chúng ta phụng mệnh của hoàng hậu, đưa công chúa về Lạc Thọ. Hòa thượng cũng sẽ có quan sai đưa đi. Không cần phải công chúa lo lắng.

Tuyến Nương không còn cách nào khác, đành cùng nội giám ra khỏi Trường An, sau một hồi khóc lóc thảm thiết. Muốn biết sự thể ra sao, hãy xem hồi sau phân giải.

hết: Hồi Thứ Năm Mươi Chín, xem tiếp: Hồi Thứ Sáu Mươi

Đánh máy: bevang

Nguồn: bevang / VNthuquan - Thư viện Online

Được bạn: Ct.Ly đưa lên

vào ngày: 16 tháng 2 năm 2010

Hồi Thứ Sáu Mươi

Ra nhà tù, anh hùng chết thảm,

Lần dặm tía, thục nữ đưa thư.

Từ rằng:

Sinh ly tử biệt bởi gì đâu

Nông nỗi dầu sôi trút đỉnh đầu

Ảm đạm gió đưa hồn vía bạt

Góc trời cây cỏ thảy âu sầu

Trên quan tái rầu rầu trăng khóc

Thương bạn cùng róc thịt nuôi nhau

Tấn Tần đôi lứa mận đào

Trịnh kia, Sở nọ cớ sao hận thù?

Chân chân đó lần mò tìm kiếm

Giả giả đây nguy hiểm xông pha

Rèm châu thềm ngọc la đà

Hương lan vẻ huệ, gần xa đượm màu

Hãy chầm chậm hỡi vó câu

Đồng cao nội thấp nông sâu còn lần

Sao cho trăng khuyết lại tròn...

Theo điệu "Mãn giang hồng"

Trong cõi trời đất này, thật mà giống giả, giả lại như thật. Trước nay vốn anh em cùng mẹ sinh ra, chỉ vì của cải, chỉ vì lời dèm pha của thê thiếp đến nỗi anh em tuyệt giao, tình xa ý khác. Ngược lại bạn bè nghĩa khí, tên họ chẳng cùng, quê quán cũng khác, nhưng lại có thể gửi vợ thác con, tình thân còn hơn cốt nhục. Chuyện Quản Trọng, Bảo Thúc Nha chia tiền, chuyện kết nghĩa vườn đào của Lưu, Quan, Trương từ xưa vẫn còn lưu tiếng tốt.

******

Lại nói chuyện vua Đường lệnh tha tội cho Đậu Kiến Đức, cùng tướng nhà Tùy của Vương Thế Sung, còn bọn Đoàn Đạt, Đơn Hùng Tín, Dương Công Khanh, Quách Sĩ Hành, Trương Kim Đồng, Quách Thiện Tài đều bị bộ Hình sai quan áp giải chém đầu giữa chợ. Từ Mậu Công, Tần Thúc Bảo, Trình Giảo Kim biết được lệnh này, vội chạy như bay đến Tây phủ xin ra mắt Tần Vương. Tần Vương ra tiếp, cả bọn quỳ lạy. Thúc Bảo thưa:

- Chúng thần xin cúi lạy điện hạ. Tướng Trịnh Đơn Hùng Tín võ nghệ hơn hẳn chúng thần, vì ngày trước chưa biết mệnh trời, nên dám phạm đến đại giá ở lăng Tuyên Vũ, nên nay vẫn chịu cấm cố. Chúng thần cùng họ Đơn, vốn là bạn bè, thề sống chết có nhau, hoạn nạn, phú quý cùng hưởng. Nay khẩn cầu điện hạ, mở đường sống, khiến chúng thần cùng họ Đơn suốt đời báo đền đức lớn của điện hạ!

Tần Vương phán:

- Chuyện vừa qua ở Tuyên Vũ lăng, có công của các tướng quân, ta cũng chẳng trách gì riêng Hùng Tín. Nhưng từ lâu Hùng Tín ôm lòng phản trắc, coi thường việc đi ở, nay dẫu hàng phục, mai kia tất lại phản loạn, không thể không trừ.

Giảo Kim thưa:

- Điện hạ nếu ngờ Hùng Tín phản loạn, chúng tiểu thần xin nguyện đem cả gia quyến để gánh chịu cho Hùng Tín, nếu xảy ra chuyện gì, tất cả xin chịu tội?

Tần Vương vẫn phán:

- Quân lệnh đã ban, không thể thay đổi!

Mậu Công thưa:

- Điện hạ chiêu hàng nạp phản, chúng tiểu tướng đây cũng từ các nơi khác nhau kéo về thờ điện hạ. Nay nếu giết họ Đơn, thì liệu còn ai dám về hàng phục. Vả lại, mùa xuân thì sinh sôi, mùa thu thì tàn lụi, cho giết được giết, cho sống được sống, đều ở nơi điện hạ, hà tất phải câu chấp?

Tần Vương vẫn khăng khăng:

- Hùng Tín tất không để ta dùng, nhất thiết không thể để sống. Cũng như con cọp ở trong cũi, không thể không giết, chờ khi cọp sổ cũi, hối cũng muộn rồi.

Cả ba rập đầu kêu xin, nạp trả quan phẩm để chuộc tội chết cho Hùng Tín. Thúc Bảo khóc như mưa, xin nguyện chết thay. Tần Vương trong lòng thấy thế không ưng, nhưng cũng không nói ra, chỉ phán:

- Chư tướng thỉnh cầu, đều từ tình riêng, nhưng với ta lại là phép nước, không thể bỏ qua. Cứ y lệnh, cả bọn đem chém giữa chợ, bêu đầu thị chúng, riêng thủ cấp Hùng Tín cho đem về mai táng, gia quyến cho miễn tội lưu đày, thích mặt, còn lại phải đầy đi châu xa.

Cả ba đành tạ ơn, ra khỏi phủ, Mậu Công bàn:

- Tần đại huynh xin dặn kỹ người nhà, không được cho gia quyến Đơn viên ngoại biết chuyện vội. Phiền bá mẫu cùng tôn tẩu chăm sóc chu đáo cho. Tiểu đệ tìm đến Từ Nghĩa Phù, nhờ nghĩa phù nói với lệnh ái Huệ Phi, may ra có thể kéo lại mệnh trời, nhưng cũng chẳng chắc chắn gì. Còn Trình hiền huynh, sắp sắn cho bàn trà, thức nhắm một vò rượu, đem trước vào trong ngục, trò chuyện với Đơn viên ngoại. Tiểu đệ cùng Tần đại huynh sẽ vào sau.

******

Lại nói chuyện Hùng Tín, thấy giải bọn Thế Sung đi, đã nghĩ mình sẽ ghép tội chết, lòng cũng không khỏi lo sợ, nay thấy Giảo Kim cho mang rượu thịt vào, đã chắc chắn ba bốn phần. Giảo Kim mời Hùng tín ngồi:

- Tối qua, tiểu đệ cùng Tần đại huynh tới thăm nhưng thấy nhị ca có khách, nên chúng tiểu đệ không dám kinh động.

Hùng Tín đáp:

- Tối đến, cũng chỉ thường cùng Đậu đại huynh trò chuyện!

Giảo Kim tiếp:

- Tiểu đệ nhớ lại, hồi còn ở Sơn Đông, anh em sum họp, rượu chè vui vẻ, thân mình không người ràng buộc. Nay còn lại chỉ mấy người, đều bảy nổi ba chìm, còn thêm bị trói buộc bởi pháp độ triều đình, luật lệnh nhà vua. Thật khiến ai ai cũng ngao ngán.

Nói rồi nhìn Hùng Tín, nước mắt rơi lã chã, lúc này Hùng Tín đã chắc chắn năm sáu phần. Cả hai im lặng, uống hết chén này đến chén khác. Thúc Bảo vào, thấy thế liền nói:

- Trình hiền đệ vào trước để cùng Đơn nhị ca trò chuyện cho khuây khỏa, sao lại ngồi lặng lẽ thế này?

Hùng Tín đáp:

- Tần hiền huynh công vụ bận rộn, sao còn khổ sở đến thăm nom Hùng Tín luôn thế này!

Thúc Bảo nói:

- Nhị ca đừng nói thế, người ta ở đời, gặp nhau một khắc cũng khó. Việc của nhị ca, chỉ giận chúng tiểu đệ không thể thế thân, nếu được nào dám tiếc chi tính mạng.

Rồi rót đấy một chén rượu lớn, đưa mời Hùng Tín, nước mắt Thúc Bảo cũng giọt ngắn giọt dài. Lúc này Hùng Tín đã chắc đến bảy tám phần. Lại thấy Mậu Công vào, xụt xịt ngồi xuống.

Giảo Kim hỏi:

- Công việc ra sao?

Mậu Công lắc đầu, cũng rót một chén rượu lớn, đưa mời Hùng Tín. Bên ngoài huyên náo, bước chân rầm rập. Hùng Tín lúc này đã rõ cả mười phần, ngang nhiên vuốt râu cười lớn:

- Đội ơn chư huynh thịnh tình. Xin đem bát lớn ra đây, Hùng Tín này uống ba bát, chư huynh mỗi người cũng uống ba bát. Hôm nay, uống một lần cuối cùng với chư huynh, ngày mai, xuống tuyền đài uống với Huyền Thúy, Bá Đương.

Thúc Bảo nghẹn ngào:

- Nhị ca nói chuyện gì vậy?

Hùng Tín đáp:

- Chư huynh chẳng cần phải giấu nữa. Việc của Hùng Tín, Hùng Tín đã biết không thoát khỏi tội chết. Hùng Tín này không phải kẻ sợ chết. Ngay từ ngày ra khỏi Nhị Hiền trang, cái đầu này đã không chắc toàn vẹn rồi.

Lúc này ba anh em Thúc Bảo một ngụm rượu cũng khó nuốt, Hùng Tín thì đã uống tới bát thứ tư, thứ năm. Lính cấm tử đã lố nhố trước cửa, thấp thoáng cả bọn đao phủ mặc áo, quấn khăn màu đỏ

Hùng Tín đưa mắt nhìn, hỏi:

- Các ngươi chờ ta phải không?

Bọn này vội quỳ thưa:

- Dạ!

Hùng Tín bình thản:

- Chư huynh hãy lo việc của chư huynh. Hùng Tín gánh việc của mình đây!

Thúc Bảo, Mậu Công cùng Giảo Kim đều không ngăn nổi nức nở, Hùng Tín khuyên giải:

- Trượng phu xem chết như về nhà, việc gì phải làm cái việc của đàn bà, để người chê cười!

Thúc Bảo gọi đao phủ lại, dặn dò:

- Đơn viên ngoại đây không phải ai khác, các ngươi hãy thờ phụng kính cẩn!

Đao phủ nhất loạt thưa:

- Chúng con biết lắm ạ?

Mậu Công bàn:

- Tần đại huynh, cùng tiểu đệ ra trước bảo giám trảm sắp đặt.

Thúc Bảo bằng lòng. Giảo Kim nói:

- Nhị vị đại huynh cứ đi trước, tiểu đệ xin đi cùng với nhị ca.

Thúc Bảo cùng Mậu Công gạt nước mắt ra khỏi nhà ngục, lên ngựa, tới pháp trường, thấy bọn Đoàn Đạt đã bị chém, thây bày đầy đất. Còn hai giá gỗ, một cái có buộc dây đỏ, giám trảm quan đứng chờ bên. Mậu Công sai bọn tay chân dọn dẹp ngăn nắp, Thúc Bảo lấy khăn lớn mà Hùng Tín tặng hồi ở Lộ Châu trải rộng ra nền đất trước giá.

Lúc này Tần thái thái cùng Trương phu nhân dìu tiểu thư Ái Liên, Thôi phu nhân, có Đơn Toàn theo bên cũng đã ra. Thấy Hùng Tín không xiềng không gông, không dây trói, quàng tay Giảo Kim, bước những bước dài đi tới. Cả bọn cất tiếng khóc rống, náo loạn.

Tần thái thái cho người gọi Thúc Bảo, Giảo Kim lại bảo:

- Đơn viên ngoại là người có ân nghĩa trước sau. Ta muốn đến trước viên ngoại, tế sống một lạy, để viên ngoại cũng thấy, chúng ta tuy là bậc nữ lưu, nhưng cũng không phải phường quên ơn bội nghĩa!

Thúc Bảo bàn:

- Mẫu thân tuổi đã cao, ra đến đây, thế cũng dã tận tình, còn cần gì phải làm thế cho thêm đau lòng!

Tần thái thái đáp:

- Con hồi ở Lộ Châu, gặp lúc bệnh nặng, rồi lại tội quan, nếu không có viên ngoại chu tất, sao có được ngày nay?

Giảo Kim đỡ lời:

- Bá mẫu đã ưng thế, cứ để bá mẫu tỏ lòng biết ơn với nhị ca, nghĩa tử là nghĩa tận!

Rồi chạy lại báo cho Hùng Tín. Tần thái thái, Trương phu nhân, cùng cả gia quyến Hùng Tín đến trước mặt Hùng Tín, Thúc Bảo đỡ Tần thái thái ràn rụa nước mắt:

- Đơn viên ngoại thật đủ nhân, đủ nghĩa, cầu cho viên ngoại sớm được về trời!

Nói xong, cùng Trương phu nhân quỳ lạy. Hùng Tín vội đáp lễ, tiểu thư Ái Liên vừa nức nở vừa quỳ lạy đáp lễ với thân phụ, rồi cả hai mẹ con ôm lấy Hùng Tín mà khóc rống. Thúc Bảo, Mậu Công, Giảo Kim cũng khóc lớn, quân lính cùng trăm họ nhiều người không nén nổi nước mắt. Hùng Tín nghẹn ngào.

- Tần đại huynh, phiền đại huynh mời lão thái thái, tôn tẩu, cùng gia quyến Hùng Tín này về trước cho. Nếu cứ thế này thì lòng dạ Hùng Tín này không sao chịu nổi?

Tần thái thái vội cùng Trương phu nhân, đám nữ tỳ, đỡ Thôi phu nhân, tiểu thư Ái Liên lên xe hoa trở về.

Thúc Bảo sai người mang đến một lò than, mỗi người rút ra một con dao, lần lượt cắt một miếng thịt đùi mình, nướng chín trên lò than, đưa mời Hùng Tín. Thúc Bảo lên tiếng:

- Anh em ta thề cùng sống chết, nay không thể theo nhau. Nếu mai kia nuốt lời thề, không trông nom gia quyến Đơn nhị ca, thì cũng như miếng thịt này, bị cắt rời ra, nướng trên than hồng!

Hùng Tín đón nhận ăn hết miếng thịt này đến miếng thịt khác.

Thúc Bảo vừa khóc vừa nói:

- Xin Đơn nhị ca hãy yên lòng!

Lại gọi Hoài Ngọc tới, bảo:

- Hãy lạy nhạc phụ đi!

Hoài Ngọc kính cẩn vâng mệnh, lạy Hùng Tín bốn lạy. Hùng Tín chớp mắt mấy cái rồi cười lớn:

- Thật đáng mừng! Đáng mặt con rể. Hùng Tín này đi đây! Các người động thủ nhanh lên nào!

Rồi ngửa cổ thụ hình. Ai nấy khóc rống. Trong đám đông một người chạy ra, đầu bù tóc rối, ôm lấy thủ cấp gào to:

- Đơn đại nhân hãy khoan khoan? Chờ Đơn Toàn này theo với!

Rút bên lưng ra một con dao, đâm thẳng vào cổ. Giảo Kim vội giằng được dao ra, may chưa việc gì. Mậu Công giận dữ quát:

- Ngươi là người coi sóc công việc trong nhà lâu nay, còn việc tuẫn táng đại sự, ngươi phải gánh vác, sao không nghĩ tới?

Vì Tần Vương đã hứa không phải thị chúng, Thúc Bảo sai Đơn Toàn lấy thủ cấp Hùng Tín, khâu lại với cổ như cũ, đem quan tài đến, dùng mọi thứ khâm liệm. Từ Ngụy Trưng, Vưu Thông, Cự Chân, Sĩ Tín, cho đến Lý Khải Tâm, con trai Huyền Thúy, đều có mặt. Bùi phu nhân, vợ Bá Đương cũng sai người mang đồ tế tới. Ai nấy đều đi theo linh cữu ra quàn ở chùa ngoài thành. Mậu Công sai hai mươi tên lính đèn hương, trông coi.

Đáng thương thay, chính là:

Tần Vương dầu lấy được Trung Nguyên

Mà báo ơn xưa chúng vẹn tuyền

Bốn biển định hùng ai chủ nhỉ

Mười phần lệ máu khóc cô phần.

***

Lại nói chuyện Tuyến Nương, khóc lóc từ biệt thân phụ, cùng Mộc Lan trở về Lạc Thọ. Thứ sử Lạc Thọ Thiện Hằng nghe tin, biết Kiến Đức đã được tha tội làm nhà sư, công chúa được hoàng hậu nhận làm cháu gái, sai nội giám đưa về, vội vội vàng vàng ra ngoài thành đón. Cũng may dạo trước Mậu Công, khi đến thu hồi sổ sách, vật quý, cung điện cũng giao bọn cung nô hai ba chục người canh gác, chưa suy xuyển gì nhiều. Tuyến Nương vào cung thấy linh cữu Tào Hậu, cùng quan tài cung nữ, lòng lại nghẹn ngào. Thiện Hằng cũng tìm vào, đem chuyện Mậu Công mời ra nhiếp chính, mình tiến cử Nhuận Phủ như thế nào, kể lại một lượt, rồi tiếp:

- Không ngờ đến lúc Mậu Công đến tìm, Nhuận Phủ đã tránh đâu mất, vì vậy thần đành phải tạm ngồi đây. Nay công chúa trở về, xin hãy chọn lấy một lương thần, thực sự cai quản, thần xin cáo thoái.

Tuyến Nương đáp:

- Từ Quân sư vốn là bậc kiến thức sâu rộng, tất rõ ràng khanh hiền năng, nên mới giao phó công việc này cho. Huống chi đất này từ lâu đã quy về nhà Đường, ta nào có tài năng, địa vị gì mà làm kẻ cai quản. Khanh cứ làm, chẳng nên chối từ. Nhưng hiện nay cữu hoàng hậu còn quàn nơi đây, không phải là chuyện lâu dài được. Khanh hãy vì ta, tìm một nơi đất tốt để an táng thì thật là trọn vẹn vậy!

Thiện Hằng nói:

- Vùng Lạc Thọ này đất thấp ẩm ướt, nghe nói lão tướng Dương Nghĩa Thần táng ở Lôi Hạ, vùng này núi cao trùng điệp, đất lại cao dày, đi lại cũng gần, khoảng độ hai ba ngày đường, không hiểu ý công chúa ra sao?

Tuyến Nương đáp:

- Dương Thái bộc lúc sinh thời, có đi lại với phụ hoàng ta khá thân thiết, nếu được táng ở vùng ấy thì thật hay quá. Khanh hãy vì ta tìm thử đất, ta sẽ trả giá thật cao là xong chứ gì?

Một số nữ binh cũ của Tuyến Nương, đều là những kẻ tháo vát, thấy nước mất, mỗi kẻ chạy mỗi nơi, nay nghe tin công chúa đã về, đều tìm đến. Tuyến Nương chọn lấy những người nhanh nhẹn biết việc, còn lại đều khuyên trở về quê quán.

Mấy ngày sau, Thiện Hằng sai người tới vùng Lôi Hạ, mua được đất. Tuyến Nương tới, xây một khu mộ lớn, bên cạnh làm thêm mấy gian nhà ở, tự mình mặc áo gai chống gậy, làm tang Tào Hậu, cả nhà đều đến ở bên mộ. Xong xuôi, viết một đạo biểu tạ ơn, cho nội giám trở về phục chỉ. Mộc Lan nhân ra đi cũng đã lâu ngày, nhớ cha mẹ, cũng từ biệt Tuyến Nương về quê. Tuyến Nương thực lòng không muốn xa, nhưng vì là hiếu nữ, không thể cưỡng ý, đành sai hai nữ binh, lại cùng góa chồng, một người họ Kim, tên Đính, một người họ Ngô, tên Lương, tặng thêm một ít tiền đi đường, quà lễ, nhờ Mộc Lan trình lên phụ mẫu, rồi sẽ cùng cả nhà về vùng Lôi Hạ tìm đất sinh sống. Sắp ra đi, Tuyến Nương đưa một phong thư, dặn Mộc Lan:

- Hà Bắc cũng gần với U Châu, thư này nhờ hiền muội gửi cho La Thành, con trai Yên Quận Vương. Hiền muội phải chờ gặp được mặt La Thành, giao thư tận tay. Nếu bằng lính canh không cho vào, thì có mũi tên dạo trước La Thành tặng ta ở đây, hãy đưa cho lính canh đem vào trình, thế nào La Thành cũng ra gặp hiền muội.

Nói xong, không ngăn được nước mắt. Mộc Lan đáp:

- Công chúa phân phó, thiếp đâu dám trái lệnh, xin sẽ đem tin tốt về!

Mộc Lan xếp hành trang, cùng với hai nữ binh, đều cải dạng nam trang lên đường. Tuyến Nương tiễn tới hai ba dặm, đinh ninh dặn dò một lần nữa, rồi gạt nước mắt chia tay.

Mộc Lan ngày đi đêm nghỉ, bất giác đã về tới Hà Bắc, cố nhận ra làng quê, thì đã khác hẳn ngày đi. Mấy người hàng xóm cao tuổi, trông thấy Mộc Lan, ngày xưa cải dạng nam trang, đi lính thay cha, liền hỏi:

- Hoa cô nương, ra đi đã mấy năm, nay mới trở về sao?

Kéo vào nhà, Mộc Lan thăm hỏi cảnh nhà mình, mới biết cha đã mất, mẹ đã lấy người họ Ngụy, ở đường trước thôn, làm ruộng qua ngày. Mộc Lan đau lòng, lệ nhỏ như mưa, chào láng giềng, chạy ngay đến trước thôn, vừa lúc người mẹ họ Viên đang kéo nước ở giếng. Mộc Lan nhìn kỹ, nhận ra vội vàng thưa lớn:

- Mẹ ! Con Mộc Lan đã về đây!

Viên Thị chùi mắt, đúng là con gái mình rồi, kéo ngay vào nhà, mẹ con chị em gặp gỡ, khóc lóc một hồi. Hựu Lan giờ cũng đã mười tám tuổi, mười phần xinh đẹp. Viên Thị đem chuyện phụ thân nhiễm bệnh ốm chết ra sao, mình phải cải giá thế nào kể lại suốt lượt. Họ Ngụy cùng với Thiên Lang đi làm trở về lại cùng chào hỏi. Ba chị em khóc lóc hỏi han suốt đêm. Sáng ra, Mộc Lan thăm mộ phụ thân, quỳ lạy thắp hương.

Đang thu xếp lên đường đi U Châu, thì không ngờ Khả hãn Yết Bà Na nghe tin, nhớ ơn giải vây của Mộc Lan thuở xưa, lại thích sắc đẹp Mộc Lan, sai người đến tuyển vào cung. Mộc Lan nghe tin kinh hoàng, nhưng cũng không biết đối phó ra sao, đêm hôm ấy nói với Hựu Lan:

- Tâm sự của chị, đã kể cho em rõ, vào cung rồi, biết ngày nào ra. Những điều ký thác của công chúa, kiếp này đâu dám phụ. Thôi thì em cũng chẳng khác gì chị, hãy cải dạng nam trang đi U Châu cho chị một phen, làm xong việc nhân duyên này của công chúa, chị có chết cũng nhắm được mắt.

Hựu Lan đáp:

- Em chưa từng ra khỏi nhà, chỉ sợ đi không được việc chăng?

Mộc Lan nói:

- Xem ra em chẳng gì mà không làm được, đời nào chịu phụ sự gửi gắm của chị!

Rồi đem thư, mũi tên cùng năm mươi lạng bạc giao lại cẩn thận.

Hựu Lan có biết ít nhiều chữ nghĩa. Mộc Lan lại gọi nữ binh, sai Kim Đính theo Hựu Lan đi U Châu. Sang ngày hôm sau, đã thấy nhiều kỵ binh ập ngay trước cửa. Viên Thị nhân Mộc Lan mới về được mấy ngày, kêu khóc ầm ĩ, không cho bắt đem đi. Mộc Lan không hề sợ hãi, chải đầu tóc gọn ghẽ, bước ra nói với bọn lính kỵ:

- Khả hãn đã có lệnh, chúng ta là dân, không hề dám trái. Chỉ cần chở ta đến phần mộ phụ thân, làm lễ bái biệt, rồi sẽ theo các người về cung.

Bọn này vâng theo, Mộc Lan lên xe, gọi Ngô Lương cùng cha mẹ đi theo. Ra đến mộ phần, Mộc Lan lạy bốn lạy, khóc lóc một hồi, rồi tự đâm cổ mà chết. Lính kỵ hoảng hốt vội quay về phục chỉ. Khả hãn nghe chuyện, vô cùng hối hận. Ngô Lương cũng quay về thưa chuyện cùng công chúa. Mộc Lan được khâm liệm cẩn thận, táng ngay cạnh mộ phụ thân Hoa Thừa Chi.

Hựu Lan thấy chị về, những mong cùng chị ra đi, kiếm ít công danh sự nghiệp. Không ngờ Khả hãn bức Mộc Lan đến kết cục như thế, biết đâu Yết Bà Na thấy còn người em, lại sai đến bắt, liệu có bắt chước được Mộc Lan không, Hựu Lan vội thu dọn hành lý, không dám nói chuyện với phụ mẫu, chỉ lặng lẽ bàn bạc với Kim Đính, cả hai giả dạng nam trang. Hựu Lan viết mấy chữ, để trong phòng, canh tư lên đường, gần sáng thì tới quán trọ, thuê xe ngựa, đi thẳng tới U Châu.

Hựu Lan vào thành, tìm chỗ nghỉ, hỏi nha môn Yên Quận Vương. Hựu Lan ăn mặc ra dáng thư sinh cùng Kim Đính tìm tới cửa Vương phủ. Bởi Yên Quận Vương làm quan thanh liêm, phép phủ nghiêm minh, cửa phủ giản dị chẳng chút lòe loẹt xa hoa, cũng không hề huyên náo, những người đến có công việc, hoặc quan lại đến trình văn thư, chẳng hề căn vặn. Kim Đính lại đã từng theo hầu công chúa, liền bàn với Hựu Lan rằng:

- Thư này của công chúa, không phải như các loại thư tầm thường khác, chẳng biết bên trong viết những gì. Nếu đưa không cẩn thận, bọn quan nha cầm vào, trình ngay lên Yên Quận Vương, có chuyện giận dữ, thì biết làm thế nào? Lúc trước Mộc Lan tiểu thư ra đi, công chúa còn đinh ninh dặn kỹ, phải thấy mặt, giao tận tay cho La tiểu tướng, vì vậy không thể bạ ai cũng đưa cho được.

Hựu Lan đáp:

- Cứ như người nói, thì làm sao mà gặp mặt La tiểu tướng cho được!

Kim Đính đáp:

- Không khó gì, cô nương cứ vào phòng trà trước mặt kia ngồi chờ, tiện thiếp sẽ vào cửa phủ, tìm một người hiểu biết đưa ra tận nơi để ta hỏi han, thế mới yên ổn.

Ngồi trong phòng trà chưa được bao lâu đã thấy Kim Đính dẫn một người dáng như kỳ bài quan ra, rồi thưa:

- Phương kỳ bài đã tới!

Hựu Lan đứng dậy mời ngồi, rồi hỏi:

- Xin dược biết đại danh kỳ bài quan?

Kỳ bài quan đáp:

- Hạ quan họ Phương, tên Hạnh Viên, xin được hỏi túc hạ có điều gì cần dạy bảo?

Hựu Lan đáp:

- Chuyện thì dài lắm, xin mời kỳ bài ngồi. Tiểu nhị hãy dọn rượu thịt ra đây đã.

Tiểu nhị nghe ra, vội vàng bày bàn. Hạnh Viên lên tiếng:

- Túc hạ có chuyện gì, xin cứ nói ngay, mới dám cùng ngồi.

Hựu Lan vừa rót rượu, vừa nói:

- Tiểu đệ vừa rồi ở Hà Bắc, có gặp người quen với La tiểu tướng trong Vương phủ, có một vật rất quan hệ, nhờ tiểu đệ trao tận tay, liệu có thể gặp La tiểu tướng chăng?

Hạnh Viên đáp:

- Tiểu tướng quân trừ khi đi săn, dự yến tiệc mới ra khỏi phủ, còn không thì khó mà gặp mặt, có thư từ gì, hạ quan xin chuyển vào, đưa cho quản gia của La tiểu tướng, nếu như có chuyện gì, thì sẽ báo ra vậy thôi!

Hựu Lan nói:

- Thư thì phải gặp mặt mới đưa được, nhưng còn vật làm tin này, phiền kỳ bài chuyển hộ, La tiểu tướng tất hiểu mọi việc.

Hạnh Viên đáp:

- Nếu như thế, xin đưa ngay, hạ quan chỉ sợ trong phủ có việc gọi đến chăng!

Hựu Lan vội lấy mũi tên bên mình ra đưa cho Hạnh Viên. Hạnh Viên nhìn kỹ là một túi gấm, bên trong có một mũi tên, trên cánh tên, có ghi rõ họ tên La Thành, liền không dám coi thường đem vào phủ, gặp một tay chân thân cận của La Thành, tên gọi Phan Mỹ, liền kể mọi chuyện. Phan Mỹ bảo:

- Kỳ bài hãy đứng chờ đây, ta sẽ ra báo tin ngay.

Rồi giấu túi tên vào trong ống tay áo, đi về thư phòng.

Từ ngày La Thành viết thư cho Thúc Bảo nhờ Tề Quốc Viễn đem đi đến nay, chẳng thấy âm hao, lòng luôn khắc khoải, thấy Phan Mỹ cầm tên đưa trình, kể lại căn nguyên vô cùng kinh dị, liền hỏi:

- Giờ người đưa tới đang ở đâu?

Phan Mỹ thưa:

- Phương kỳ bài nói hiện ngồi chờ ở phòng trà đối diện với cổng Vương phủ, còn giữ cả thư gửi cho tướng quân nữa.

La Thành cúi đầu nghĩ ngợi, rồi ghé tai Phan Mỹ nói nhỏ mấy câu. Phan Mỹ ra nói với Hạnh Viên:

- Công tử lệnh cho kỳ bài dẫn người ấy ra cửa đông chờ sẵn, công tử sẽ ra đưa vào!

Hạnh Viên vội chạy về phòng trà, Hựu Lan trả tiền cho tiểu nhị, rồi cả ba ra cửa Vương phủ xem sao. Thấy một đội người ngựa, kéo rầm rập ra khỏi phủ, La Thành đội mũ giát ngọc, đai vàng, áo bào màu tía, cưỡi tuấn mã cao lớn. Hựu Lan nghĩ ngay: "Con người anh hùng tuấn tú thế này, làm sao Đậu Công chúa không nghĩ tới cho được". Rồi cố hết sức cùng mọi người theo sau.

La Thành vốn chẳng định đi săn, nhưng nay thấy có gửi thư, nên cố tình ra khỏi phủ, vòng qua vài hẻm núi gần đó, thủ hạ mặc sức đuổi chó, thả ưng, rồi gọi ngay Phan Mỹ đến tìm người đưa thư. La Thành nhìn ra thì là thư sinh rất đẹp trai, chào hỏi xong cùng ngồi chuyện trò. Hựu Lan lấy thư giấu trong giày ra, đưa trình La Thành thấy bên ngoài giấy màu hồng ghi rõ: "Nhờ gửi đến phủ Yên Quận Vương, tận tay La tiểu tướng!". La Thành thấy xung quanh đông người, không tiện mở xem, liền cho Phan Mỹ cầm lấy, rồi hỏi:

- Túc hạ quý tính tôn danh thế nào?

Hựu Lan đáp:

- Tiểu đệ họ Hoa tên Hựu Lan?

La Thành hỏi tiếp:

- Ngươi sao lại biết công chúa?

Hựu Lan đáp:

- Người đó chính là chị ruột của tiểu đệ!

Rồi đem chuyện Khả hãn dấy binh, cho đến khi kết nghĩa chị em với công chúa, thuật lại đầy đủ. Nhưng rồi thấy gia tướng đến nhiều, Hựu Lan yên lặng không nói nữa. La Thành hỏi:

- Hiện nay túc hạ ngụ ở đâu?

Kim Đính đứng phía sau thưa:

- Hiện ở phố cửa Đông, quán Trương Nhị gia.

La Thành nói:

- Nay xin mời túc hạ vào trong phủ chuyện trò đêm nay, sáng mai sẽ đưa túc hạ về Trương Nhị gia sớm.

Hựu Lan ba bốn lần từ chối, La Thành nói:

- Tiểu đệ còn nhiều điều muốn hỏi túc hạ, túc hạ chẳng nên từ chối.

Nói rồi, cầm tay Hựu Lan, gọi gia tướng lấy ngựa cho Hựu Lan. Phan Mỹ cùng Kim Đính cưỡi một con, tất cả cùng vào thành. La Thành sai Phan Mỹ đưa Hựu Lan cùng Kim Đính vào sau thư phòng nghỉ ngơi. Thư phòng này gồm ba gian, một gian là phòng ngủ của La Thành ở bên phải, bên trái là phòng khách.

La Thành vào nội phủ, La phu nhân hỏi:

- Con hôm trước có nói, con gái Đậu Kiến Đức vừa dũng cảm vừa mưu trí. Vừa rồi phụ thân con nói ở Trường An báo về, Kiến Đức đáng ra phải chém dầu, nhưng nhờ Tuyến Nương không sợ vạ đao búa nguyện chết thay cha, cho nên triều đình tha cho. Kiến Đức nguyện cắt tóc đi tu. Kỳ nữ Tuyến Nương được hoàng hậu nhận là cháu gái, lại cho rất nhiều vàng lụa, sai hai nội giám đưa về quê. Nếu thế thì thật là thiếu nữ ít thấy vậy. Trước là hai nước thù địch, nay là một nhà. Phụ thân con nói như vậy, nên nhân cơ hội này dâng biểu chúc mừng, rồi sẽ hỏi Tuyến Nương cho con. Cũng là sớm đỡ nỗi lo lắng lâu nay của phụ mẫu vậy.

La Thành thưa:

- Vừa rồi con ra ngoài thành đi săn, có gặp một người ở Lạc Thọ đến, hỏi chuyện, mới biết là Đậu Công chúa sai mang thư đến cho con.

La phu nhân hỏi:

- Nay người ấy đâu rồi?

La Thành thưa:

- Con đang giữ lại ở thư phòng, giao cho Phan Mỹ tiếp đãi.

La phu nhân gọi hầu gái đến thư phòng, nói Phan Mỹ đưa thư đem về. Hai mẹ con mở thư ra xem, thì thấy trên giấy loan tiên viết:

Trận tiền từ biệt

Còn vảng bên tai

Trên ngựa mấy lời

Chàng đâu quên dạ

Lần lữa đông qua hạ đến

Xoay vần thịnh đó suy đây

Nhưng mà vạt áo giọt lệ vơi đầy

Vẫn y như trước một dạ chung thủy

Thương vì nước mất nhà tan

Mây mù loạn lạc khiến thành cố nhân

Thiếp tôi:

Vò võ một thân

Cánh bèo trôi dại

Còn chàng là một trang tuấn tú, chờ nối nghiệp lớn, nhưng e nước

Tề lớn, lứa đôi không xứng, mà nước Trâu nhỏ nhoi chẳng bằng vai vế đó chăng?

Buổi từ biệt, vết tuyết dấu bùn, xin đừng nhắc lại

Nào phải thiếp dám nuốt lời, thật vì duyên gương lược hẩm hiu, trắc trở đó vậy!

Tất cả nỗi lòng thành khẩn, nhờ cô em kết nghĩa trình bày, bút giấy khôn bề nói hết

Nữ nhi bị nạn nước, họ Đậu, tên Tuyến Nương khóc trình thư.

La Thành những nghĩ là thư nhắn đến để bàn chuyện cưới xin, nào ngờ lại là thư tuyệt hôn. Bất giác khóc rống, chẳng khác gì con trẻ bên cạnh La phu nhân. Cũng bởi La phu nhân chỉ sinh mỗi mình La Thành, quý hơn châu ngọc, nên vội ôm con vào lòng mà khuyên lơn:

- Con hãy nín đi, thế người làm mối là ai?

La Thành gạt nước mắt, thưa:

- Đó là một người quen thân với phụ thân, lão tướng Dương Thái bộc, Kiến Đức rất trọng người này. Tuyến Nương mách con tới nhờ Thái bộc, nhưng gần đây chín châu loạn lạc, con chưa thể đến nhờ, nay vẫn chẳng thấy tin tức gì của Thái bộc, nên mới gửi thư tới tuyệt hôn chăng? Đây chính là con đã phụ công chúa, không phải công chúa phụ con đâu mà!

Nói xong lại khóc. Bỗng thấy La tổng quản tới hỏi:

- Tại sao thế này?

La phu nhân đem chuyện La Thành thuở trước đã cùng Tuyến Nương đính hôn, nay Tuyến Nương sai người mang thư sang thế nào kể lại một lượt, lại lấy cả thư đưa cho La Tổng quản xem. La Tổng quản cười nói:

- Thằng bé ngốc nghếch! Việc này thì có gì khó, trước mắt đang cần sai người vào triều dâng biểu mừng. Ta sẽ đem cả chuyện hôn nhân này, thêm một đạo biểu. Hoàng hậu đã nhận làm cháu gái, sao lại chẳng bắt phải lấy chồng xứng đáng kia chứ!

La Thành nghe thế, lập tức hớn hở, vội thưa:

- Nếu thế con sẽ hỏi công chúa mọi chuyện xem sao!

Đêm ấy La Thành bày tiệc rượu trong hoa sảnh, Hựu Lan lại đem chuyện Tuyến Nương kể ngọn ngành, rồi đến chuyện Mộc Lan cũng vậy, phải hơn một canh mới đi ngủ.

Sáng hôm sau, Hựu Lan đợi La Thành ra liền thưa:

- Thư phúc đáp, xin đưa để tiểu đệ mang về trình công chúa. Còn nếu công tử sai người đem về Lạc Thọ, tiểu đệ xin từ biệt!

La Thành đáp:

- Túc hạ nói chi chuyện ấy. Hôm qua thư của công chúa, tiểu đệ đã đưa trình gia nghiêm, ngày mai sai quan tới Trường An dâng biểu, tiểu đệ cùng đi theo. Túc hạ cứ ở đây, rồi cùng đi Lạc Thọ, xin phiền túc hạ làm mối cho, việc mà xong xuôi, thì gì chẳng xin chiều theo!

Hựu Lan đáp:

- Hành lý của tiểu đệ hiện còn ngoài quán cả!

La Thành cầm tay Hựu Lan nói:

- Hành lý thì tiểu đệ sai người ra lấy về ngay.

Rồi vẫn không chịu thả. Không ngờ Kim Đính thấy vừa ý Phan Mỹ đang độ thanh xuân tuấn tú, cũng chẳng khác gì Hựu Lan lưu luyến khó rời La Thành vậy thôi, nên Kim Đính đã đỡ lời:

- Tướng quân đã nói thế? Tiểu nhân xin ra lấy hành lý vào phủ vậy!

La Thành khen:

- Thế mới là kẻ tay chân tháo vát vậy!

Liền sai người đi theo Kim Đính, còn La Thành với Hựu Lan, ngày đêm trò chuyện, tâm đầu ý hợp, thấm thoát thoi đưa, đã được mấy ngày.

Một đêm, La Thành dậy sớm, sợ làm Hựu Lan thức giấc, nhẹ nhàng mở cửa ra ngoài, vẫn nghe ở buồng trong. Phan Mỹ cùng Kim Đính nói nói cười cười, rất là vui vẻ, La Thành nghi ngờ, lặng lẽ nghiêng tai nghe ngóng, thấy Phan Mỹ nói: .

- Kim Đính làm thế mà lại hay. Đợi ta nói với tướng quân, rõ chuyện của Hoa cô nương, rồi cùng nhau kết duyên Tần Tấn!

Tiếng Kim Đính đáp:

- Thôi đi, ta được lệnh của công chúa đưa chị của Hoa cô nương về nhà đâu phải là người nhà Hoa cô nương. Phan Mỹ này theo hay không là do ta nhé!

Tiếng Phan Mỹ:

- Nếu tướng quân ta biết Hoa cô nương là gái, chỉ sợ không chịu thả ra đâu?

Tiếng Kim Đính:

- Biết rồi, chẳng qua cũng như ta với Phan Mỹ, cùng nhau hòa hợp vui vẻ thế này là cùng chứ gì.

Thật đúng là cách tường vẫn có tai, ngoài song nào phải không có người. La Thành nghe rõ ràng, trong lòng nghi hoặc: "Kỳ quái, chẳng nhẽ thầy trò đều là con gái!" Rồi vào nội phủ vấn an, trở ra gặp Phan Mỹ, La Thành gọi đến chỗ vắng, hỏi cặn kẽ, mới rõ đều thế thật. La Thành cả mừng! Tối hôm ấy cùng uống rượu, nói nói cười cười so với mọi hôm, cao hứng hơn nhiều, chỉ chăm chăm rót rượu cho Hựu Lan, để xem có thật hay không. Không ngờ Hựu Lan giữ ý không chịu uống. La Thành thích chí uống luôn mấy chén, cả hai đứng dậy, đầy tớ thu dọn bàn tiệc. La Thành giả say, túm vai Hựu Lan:

- Túc hạ, tiểu đệ đêm nay say rồi, muốn cùng túc hạ ngủ chung giường, tiểu đệ còn có chuyện hay muốn thưa!

Hựu Lan đáp:

- Có chuyện gì, xin công tử nói rõ ràng, tiểu đệ bình sinh không thích ngủ chung bao giờ!

La Thành cười:

- Chẳng nhẽ mai kia cũng từ chối cả cô dâu nữa chăng?

Hựu Lan cũng cười đáp:

- Công tử nếu là con gái, thì tiểu đệ không từ chối!

La Thành vẫn cười:

- Nếu túc hạ đúng là đàn ông, tiểu đệ cũng chẳng nghĩ tới chuyện chung giường!

Hựu Lan nghe câu này, giật mình, má bỗng đỏ bừng như cánh hoa đào. La Thành thấy vậy, càng yêu thích, đấy tớ xung quanh lại không có ai, đóng ngay cửa lại ôm lấy Hựu Lan, nói:

- La Thành này lâu nay tu luyện mãi ở trên đời này, nên nay mới được gặp hiền muội.

Hựu Lan lấy hai tay đẩy ra:

- Công tử sao say sưa điên cuồng đến thế, xin hãy nghiêm chỉnh cho nào!

La Thành đáp:

- Kim Đính cũng phải nhận rồi, Hoa cô nương còn chối vào đâu nữa nào?

Hựu Lan nghiêm sắc mặt:

- Mời công tử ngồi xuống cho, rồi thiếp xin thưa, nếu có gì không phải, thì xin chiều theo công tử vậy!

La Thành đành phải buông ra, cả hai lại sánh vai cùng ngồi.

Hựu Lan nói:

- Thiếp tuy xuất thân hạ tiện, ở chốn hoang dã, nhưng cả hai chị em đều hiểu lễ nghĩa, rất chuộng đạo lý. Nay đã không nghĩ đến chuyện hổ thẹn, lặn lội nghìn dặm đến đây, thứ nhất là để làm tròn lời trăng trối của Mộc Lan, thứ hai cũng để tác thành cuộc nhân duyên giữa Đậu Công chúa với công tử, đâu phải đi lo chuyện hoan lạc riêng mình. Nay thấy công tử niên thiếu anh hùng, tài kiêm văn võ thiếp thực tình kính trọng, nhưng nếu là chuyện thú vui nam nữ, thì phải lấy lễ làm chính, mới làm cho người cho thần đều chịu phục, nếu cố bức chuyện bừa bãi, thì có khác gì phường trộm cướp vậy chăng?

La Thành nghe, cả cười:

- Hoa cô nương học ở đâu được những lời hủ lậu đến thế, từ xưa đến nay, trăng tròn có hạn, gặp gỡ trai gái, đâu là chuyện vui hoan. Thử hỏi nếu Hoa cô nương là đàn ông, thì đứng trước một người đẹp như thế này, cô nương có thể ngồi yên chăng?

Hựu Lan đáp:

- Kẻ trượng phu có thể nhẫn chịu ở chỗ người khác không nhẫn chịu được, thế mới là hào kiệt. Công tử chỉ biết chuyện trong dâu trên bộc, là một lũ sắc dục, nhưng há không nhớ tới chuyện Liễu Hạ Huệ ôm người con gái vào lòng. Tần Quân Chiêu một mình ngủ với đàn bà mà vẫn không bị lòng dục mê hoặc, khiến đời sau còn ca ngợi. Thiếp đội ơn công tử không bỏ, được hầu hạ dưới gối bốn năm ngày nay, thiếp thật không thể còn thờ người nào khác suốt đời thiếp. Nhưng xin công tử hãy cho thiếp về Lạc Thọ, gặp Đậu Công chúa một lần, để nói rõ tấm lòng của Mộc Lan, nếu mai kia cùng được thờ công tử, thì cùng được phần rạng rỡ. Nay xin hãy chờ đợi ít lâu, cùng công tử tới Trường An, lúc ấy ý công tử lấy bỏ ra sao thì tùy. Nhưng bây giờ thế này, thì quyết không thể vâng mệnh.

La Thành thấy Hựu Lan nói đường đường chính chính, liệu không thể xong, đành đáp:

- Nếu Hoa cô nương đã nói thế, La Thành này nào đâu dám cưỡng cầu!

Mấy ngày sau La Nghệ viết xong biểu chương niêm phong chu đáo ủy cho thứ sử Trương Công Cẩn đem về Trường An dâng, lại nhờ coi sóc cả La Thành, sai thêm hai viên Du kích thủ bị Uất Trì Nam, Uất Trì Bắc làm bạn với La Thành đi đường. La Thành bái biệt phụ mẫu, cùng với Hoa Hựu Lan, người ngựa rời khỏi U Châu, lên đường đi Trường An.

Không biết mọi chuyện sẽ ra sao, hãy chờ hồi sau phân giải.

hết: Hồi Thứ Sáu Mươi, xem tiếp: Hồi Thứ Sáu Mươi Mốt

Đánh máy: bevang

Nguồn: bevang / VNthuquan - Thư viện Online

Được bạn: Ct.Ly đưa lên

vào ngày: 16 tháng 2 năm 2010

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro