Tùy Đường Diễn Nghĩa 61 80

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chữ Nhân Hoạch

Tùy Đường Diễn Nghĩa

Dịch Giả: Lê Văn Đình

Dịch Thơ: Lê Văn Uông

Hồi Thứ Sáu Mươi Mốt

Hoa Hựu Lan nén lòng, giữ trọn chí,

Đậu Công chúa dâng sớ, rạng phô tài.

Từ rằng:

Gió sớm trăng tàn

Ngược xuôi rong ruổi

Bắc Nam vì người

Trinh bạch giữ lời

Dẫu chẳng tăm hơi

Tâm này tính nọ

Canh dài thấp cao

Hải đường ngây ngả rượu đào

Dãi dầu gió dạt sóng dào, khó thay

Sớ dâng tố chút niềm ngây

Cam lòng nhường phận nước mây duyên hài.

Hương đưa đầu núi cành mai...

Theo điệu "Nhất đầu châu"

Trên thế gian này, làm nên sự tích, là những kẻ tình thâm nghĩa trọng, bất luận nam nữ, nhẫn nhục chịu khó cũng là bậc tình sâu ý nặng mới có thể giữ được, chẳng kể gái trai. Bởi cớ sao, chỉ những bậc này, lòng trong ý sáng, không chút nhỏ nhen, thủ kinh tòng quyền, theo việc mà làm, không như lũ ngu muội, chẳng nghĩ sâu xa, chỉ thấy lợi trước mắt.

***

Nay nói chuyện La Thành cùng Hoa Hựu Lan, Trương Công Cẩn, Uất Trì Bắc, Uất Trì Nam rời thành U Châu lên đường. Trên ngựa Hựu Lan hỏi La Thành:

- La công tử định đến lăng mộ Đậu hoàng hậu ở Lôi Hạ trước, hay tới Trường An trước?

La Thành đáp:

- Tiểu tướng định tới Trường An dâng biểu chương đã, xem thánh ý ra sao, rồi sẽ về Lôi Hạ thì tiện hơn.

Hựu Lan khuyên:

- Không nên thế. Đậu Công chúa vốn rất tế nhị, ngày trước cùng công tử trên ngựa đính hôn, không phải là chuyện cẩu thả. Cũng bởi bốn phương loạn lạc, công tử chưa tìm ra được người mối manh, công chúa cũng không nghĩ công tử là kẻ bạc tình. Lại thêm nước mất, nhà tan, trên không có mệnh của cha mẹ, dưới không một lời môi giới, tình nên theo mà lẽ nên thôi, tờ thư vừa rồi, thêm lời gửi nhắn tiện muội Mộc Lan nữa, chính là để xem ý họ La, chí họ La ra sao. Rõ là công tử bạc tình, mà công chúa chẳng hề phụ tâm vậy. Nay cứ chờ mệnh vua mà làm lễ thành thân, thì chỉ càng làm công chúa thêm giận công tử, chứ chẳng có ơn nghĩa gì nữa. Công chúa không nghe đã đành, mà đến tiện thiếp đây, là gái quê mùa rơm cỏ cũng chẳng chịu. Công tử vốn loài tình chung, sao không nghĩ đến chuyện này?

Nghe thế La Thành cũng không ngăn được nước mắt, hai tay vái Hựu Lan mà rằng:

- Xin được nghe Hoa tiểu thư chỉ giáo!

Hựu Lan đáp:

- Cứ theo thiển ý, nay nên lấy tiếng sang viếng tang, một là để xem ý tứ công chúa ra sao, hai để xem tình ý thế nào. Tri kỷ từ lâu, mấy năm xa cách, lòng những ngóng trông, đây lại còn là chuyện nhân duyên thì còn khao khát hơn nhiều. Còn nếu công chúa một mực khước từ, lẽ không vãn hồi được nữa, lúc ấy hãy lấy chiếu vua, ý hoàng hậu ra mà ràng buộc, để công chúa cũng thấy chẳng qua công tử bất đắc dĩ mà phải làm thế, cảm lòng công tử, nên lúc đầu ép, nhưng sau cùng thuận theo chăng?

La Thành nghe xong liền nói:

- Tiểu thư nói thế thì thật là thấu tình đạt lý vậy?

Liền nói chuyện với Công Cẩn quay sang đi Lạc Thọ trước. Chuyện không nói nữa.

***

Lại nói Đậu Tuyến Nương, từ ngày nghe tin Hoa Mộc Lan tự vẫn, thì tin hồng càng vắng, cánh nhạn cũng không, bên đèn dưới trăng, một mình nuốt lệ, nhưng cũng đành phó mặc sự đời. Cũng may xóm giềng còn có Viên Tử Yên, mẹ con Dương Hinh Nhi để mà thỉnh thoảng chuyện trò. Lại được bốn phu nhân họ Địch, họ Tần, họ Hạ, họ Lý, nghe tiếng Tuyến Nương hiếu thảo, đi lại với Tử Yên, nên cũng thường gặp gỡ, tiêu tao ngày tháng. Tuyến Nương đem vốn liếng Đậu hoàng hậu cho, dẫu đã tiêu pha vào việc lăng mộ ít nhiều, nhờ Giả Nhuận Phủ mua ở ngay cạnh đó mấy mẫu ruộng thờ, gọi lính tráng thuở trước cho cày cấy, nhà cửa thanh bạch, chẳng hề ra khỏi cổng.

Một hôm, đang ngồi chuyện trò với Tử Yên, bỗng thấy một người vén rèm bước vào. Tử Yên giật mình, công chúa đưa mắt nhìn kỹ, nhận ra Kim Đính, bèn hỏi ngay:

- Hay lắm! Ngươi về rồi! Sao lại xảy ra chuyện Hoa cô nương như thế? Ngươi về với ai?

Kim Đính quỳ xuống lạy chào, rồi mới thưa:

- Ngô Lương lên đường về trước, còn tiện tỳ thì cùng Hoa Hựu Lan tiểu thư đều cải trang, tìm đến chỗ La tiểu tướng ở U Châu. La tiểu tướng thấy thư cùng vật làm tin, vô cùng đau đớn, mời Hoa cô nương vào phủ, ở trong thư phòng có đến nửa tháng. Cũng may La Quận Vương biết được chuyện, liền sai quân dâng biểu về kinh, lại lo liệu cho La công tử cùng đi, qua Lạc Thọ. Thứ sử Tề Thiện Hằng biết chuyện, đón vào thành, ngày mai sẽ đến lăng mộ viếng Tào Hoàng hậu, cùng là xem ý tứ công chúa ra sao. Hoa cô nương hiện đang ngoài cửa, thật là một tiểu thư tài giỏi, công chúa nên lấy lễ trọng đãi. Xin cứ ra đón, công chúa sẽ thấy rõ ngay.

Công chúa liền cùng bốn năm hầu gái theo Kim Đính ra cửa, đưa mắt nhìn, thấy Hựu Lan chẳng khác nào La Thành trên ngựa thuở trước, trong lòng hồ nghi, nhưng nhìn lại, mày ngài cong cong, mắt sáng long lanh, mới biết không phải, rõ ràng giai nhân nữ tử. Hựu Lan thấy công chúa, vội vàng thi lễ. Công chúa cười, nói:

- Đội ơn Hoa tiểu thư tới đây, xin mời vào trong thay trang phục, rồi sẽ chuyện trò.

Vào thảo đường, công chúa sai hầu gái đưa Hựu Lan vào phòng sau, lấy y phục màu cho Hựu Lan thay. Lúc này mới thấy Hựu Lan còn xinh đẹp hơn Mộc Lan nhiều. Tuyến Nương chỉ Tử Yên, nói với Hựu Lan:

- Đây là Viên Quý nhân của triều Tùy, chị em kết giao của Tuyến Nương này. Dạo trước Tuyến Nương cũng đã từng kết giao chị em khác họ với Hoa Mộc Lan. Nếu Hoa cô nương đây không từ chối, xin hãy thế chân Mộc Lan vào chỗ này, làm bạn tri kỷ trong buồng khuê. Không biết ý của Hoa cô nương ra sao?

Hựu Lan thưa:

- Lời công chúa thật thỏa lòng thiếp, nhưng chỉ ngại phận hèn, liệu có sánh kim chi ngọc diệp?

Công chúa trách:

- Sao nỡ nói thế?

Rồi sai tả hữu hương án, Tử Yên cao tuổi nhất thì làm chị cả, rồi đến công chúa, thứ ba là Hựu Lan, ai nấy lạy bốn lạy, từ đó về sau xưng với nhau là chị em. Hầu gái mời mọi người vào bàn tiệc, công chúa cất tiếng:

- Tháng trước Ngô Lương về nói chuyện Mộc Lan, thiếp lòng đau như cắt, đáng tiếc sắc tài dường ấy, quên thân để toại chí, xưa nay ít có. Nay lại thêm Hựu Lan hiền muội, không nỡ phụ lời dặn, ngàn dặm tìm gặp La công tử.

Hựu Lan thưa:

- Mộc Lan cùng tiểu muội, đều rất trọng lời nguyền, Mộc Lan đã nhận lời, không ngờ có biến, tiểu muội cũng là vâng, theo mệnh nào dám ngại khổ, phụ chí của Mộc Lan. May La công tử vốn chung tình, thấy vật cũ lời xưa, vừa đọc vừa nước mắt ngắn dài, không vì chia tay, ngày dài tháng rộng mà quên tình xưa. Lại thêm Yên Quận Vương biết rõ ý công tử, sai quan dâng biểu chương, cùng cho công tử đi lo liệu mọi chuyện.

Công chúa làm thinh không nói. Tử Yên bèn bàn vào:

- Câu chuyện nhân duyên này, đúng là cả gái cả trai đều đáng trọng. La tiểu tướng lại thân tới, hiền muội Tuyến Nương cũng mau bằng lòng là hơn.

Tuyến Nương cười đáp:

- Hãy chờ hiền thư Tử Yên vu quy, ngu muội sẽ có đường của mình thôi.

Tử Yên hỏi:

- Sao lại nói vậy? Thiếp nay nếu không có lời trăng trối của Dương Thái Bộc, trông nom Hinh Nhi, lại chẳng có chuyện Mậu Công bao lần cầu khẩn, thì cũng cam tâm thủ chí, đâu dám nghĩ đến chuyện này?

Tuyến Nương nói:

- Nếu bàn chuyện thủ chí, thì trong cảnh này, ngu muội binh trong tay, quyền trong tay, làm gì chẳng xong.

Rồi lại sụt sùi:

- Chỉ thương Hựu Lan, một lòng nhiệt thành, nay chẳng nên công nên chuyện gì mà thôi!

Hựu Lan thấy nói thế, liền nghĩ: "Cứ xem như ta, cùng với La công tử, cùng chung giường chiếu trên dưới nửa tháng trời, mà vẫn giữ được tấm thân trong sạch, chỉ có trời biết cho mà thôi!". Liền cất tiếng thưa:

- Đậu hiền thư quyết lòng thủ chí, nhưng cũng có chỗ không thể giữ được.

Hựu Lan vốn tài uống rượu, nhưng vì ở chung với La Thành, sợ uống sẽ xảy ra chuyện không lường được, nói thác không biết uống rượu. Nhưng nay ở đây, toàn chị em với nhau, chẳng cần giữ gìn, bất giác đã say, nằm ngay bên bàn. Tử Yên cáo từ ra về. Tuyến Nương sai hầu gái đỡ Hựu Lan vào buồng trong rồi gọi Kim Đính ra hỏi chuyện. Kim Đính thưa:

- La tướng quân lúc đầu không biết, về sau cũng thấy nghi ngờ, liền tìm cách tra hỏi, tiếp đến cũng định cầu hoan, nhưng Hoa cô nương chỉ trời đất mà thề, nhất định không nghe. Tiện tỳ này nghe Hoa cô nương nói: "Đợi thiếp về gặp Đậu Công chúa một lần, nói rõ nguồn cơn, chuyện hoa chúc động phòng của công chúa lo liệu xong, thì xin sẽ chiều ý công tử".

Công chúa không ngăn được lời than:

- Kỳ lạ thay. La công tử đúng bậc quân tử, Hựu Lan đáng dòng nghĩa nữ. Như Tuyến Nương ta, sợ cũng không làm thế được, Hựu Lan quyết giữ nhường ta, ta đem La công tử ra mà báo ơn vậy, thế là trọn vẹn mọi đường. Nhưng phải nhân lúc bản tấu của La công tử chưa đến bệ rồng, ta phải viết biểu tâu rõ hoàng hậu. Hoàng hậu sẽ xét cho lòng ta.

Ngay dưới đèn, ngồi dậy thảo biểu, gọi hầu gái làm bao cẩn thận cho vào. Lại viết một thư gửi cho Vũ Văn Chiêu Nghi, nhờ Chiêu Nghi dâng lên hoàng hậu, thêm một gói lễ vật trình hoàng hậu, một gói nhỏ biếu Chiêu Nghi. Vốn là năm trước, lúc Tôn An Tổ cùng Tuyến Nương chạy cứu Đậu Kiến Đức từng đem ngọc vàng để nhờ Vũ Văn Chiêu Nghi. Sáng sớm hôm sau, đem mọi thứ giao cho Kim Đính cùng Ngô Lương, lên đường về Trường An. Kim Đính bởi không thể nào bỏ được Phan Mỹ, biết rõ La công tử sẽ đến chỗ Giả Nhuận Phủ nên vội chạy ngay đến nhà Nhuận Phủ, thưa rõ mọi chuyện, để Nhuận Phủ nói rõ cho La Thành biết, rồi trở về cùng Ngô Lương lên đường.

***

Nay nói chuyện La Thành tới Lạc Thọ, Thiện Hằng mời vào thành, tiệc rượu bày ra. Công Cẩn hỏi tin tức Tuyến Nương, Thiện Hằng đáp:

- Công chúa không những có tài, có hiếu đã đành, mà còn coi sóc việc nhà rất chu đáo, rõ ràng là học được cách thức của Tào Hoàng hậu. Nay chuyển đến ở bên lăng mộ ở Lôi Hạ, rất phục người láng giềng là tiên sinh Giả Nhuận Phủ, công việc bên ngoài, chỉ có Nhuận Phủ nói là nghe.

Công Cẩn nghe nói cả mừng:

- Giả Nhuận Phủ cũng ở đó sao?

Thiện Hằng đáp:

- Hiện ở thôn Quyền Thạch trong vùng Lôi Hạ, Tần Vương đã nhiều lần mời ra làm quan, tiên sinh không chịu, ẩn cư tại đó.

Uất Trì Nam thưa:

- Hạ quan trước kia nhân đến dự lễ mừng thọ Tần thái thái, đã từng ở nhà Nhuận Phủ mấy ngày, thật là một bằng hữu có tài có tình, hào kiệt hải nội đều muốn kết thân. Công tử cũng nên đến thăm!

La Thành sai tả hữu sắp sẵn lễ vật viếng Tào Hoàng hậu, nào dê, nào lợn, cùng qua thăm Nhuận Phủ, có Thiện Hằng đi theo, ra khỏi Lạc Thọ tìm đến nhà Nhuận Phủ.

Nhuận Phủ đã được Kim Đính kể rõ mọi chuyện, lại thêm công chúa có nhờ cậy, sai người ra lăng mộ, làm hai dãy nhà cỏ, bày hương án mọi thứ chu tất, thì đã thấy người ngựa một đoàn kéo đến. Nhuận Phủ mời vào thảo đường, lễ chào xong xuôi, ai nấy an tọa, kể chuyện hàn huyên. La Thành đem chuyện đến xin công chúa làm lễ thành thân nói hết. Nhuận Phủ lên tiếng:

- Như các tiểu thư khác, thì còn có thể lường được, đường này Đậu Công chúa sâu sắc đắn đo, khó mà đoán định. Nghe tin La tướng quân tới cầu hôn, liền viết ngay tấu chương đêm hôm đó, sáng hôm sau hai người lên đường về Trường An, dâng lên hoàng hậu. Tài chí như thế, phải đâu hạng đàn bà tầm thường có được!

La Thành giật mình kinh sợ. Công Cẩn nói:

- Chúng ta chưa kịp dâng biểu, mà công chúa đã làm, phải đưa trình trước mới xong.

Nhuận Phủ nói:

- Trước sau cũng không quan hệ. La tướng quân hãy mau ra làm lễ viếng, rồi lên đường cũng chưa muộn đâu!

Nhuận Phủ cùng với Thiện Hằng dẫn La Thành ra phần mộ Dương Thái Bộc trước, thấy Dương Hinh Nhi chờ sẵn đáp lễ. Sau đổi sang phần mộ Tào Hoàng hậu, thì dọc hai bên nhà có rất nhiều người mang tang phục, một viên gia tướng già quỳ thưa:

- Công chúa cho tiểu nhân ra thưa với La tướng quân, phụ thân ở trong núi, không người đáp lễ, tướng quân tới đây cũng là tận tình, không dám để phải tới mộ hành lễ.

La Thành đáp:

- Phiền lão thần thưa lại với công chúa, tiểu tướng đây việc quân bận rộn, không dịp tới thăm hỏi, nay đã tới đây, lẽ nào không vào làm lễ. Huống chi cũng cốt nhục một nhà, sao lại nói chuyện đáp lễ.

Viên tướng già đi rồi, thấy cạnh đó, mấy hầu gái đỡ công chúa ra, mũ mấn áo gai, rõ ràng người xưa trên ngựa, lại còn duyên dáng hơn nhiều. La Thành vội thay trang phục, bước lại trước linh tiền quỳ lạy Công chúa từ sau màn bước ra, lạy trả lễ, nước mắt như suối chảy, La Thành cũng không ngăn được lệ tuôn hai hàng. Lễ xong, La Thành định tiến lại thưa chuyện, thì công chúa ôm mặt khóc lớn, rồi quay vào sau màn, mấy hầu gái đỡ theo cửa nhỏ mà đi khỏi ngay. La Thành đành quay ra, cởi bỏ tang phục. Công Cẩn, anh em Uất Trì lại trước linh tiền lạy một lạy. Nhuận Phủ lên tiếng:

- Hạ Vương hiện không có đây, công tử làm lễ, đã có công chúa đáp hoàn. Thôi thì lễ hợp với thời mà làm. Các vị mà hành lễ, lấy ai đáp hoàn, cũng thật không nên.

Một gia đinh tới gần quỳ thưa:

- Xin mời các ngài vào thảo đường uống rượu!

Nhuận Phủ đưa mọi người vào nhà, thấy đã bày sẵn bốn bàn tiệc Bàn thứ nhất là của La Thành, bàn hai là Công Cẩn, Thiện Hằng. Uất Trì Nam, Uất Trì Bắc ngồi đối diện tiếp La Thành ở bàn ba, bàn tư là Nhuận Phủ cùng với Hinh Nhi. Rượu được ba tuần, thì thấy mấy người lính, khiêng đến hai con lợn, bốn con dê béo, bốn vò rượu, ba nghìn quan tiền, quỳ xuống thưa:

- Công chúa thưa rằng rượu dê thôn dã, để khao tùy tòng, xin công tử đừng chê thô lậu, ban cho mọi người cùng hưởng.

La Thành cười:

- Cũng đều là binh lính trong nhà, hà tất công chúa phải lo lắng.

Rồi quân sĩ vào thảo đường tạ ơn cùng hưởng rượu thịt, thì thấy một hầu gái bước ra quỳ thưa:

- Công chúa truyền rằng, không cần phải tạ lễ.

Một tên lính của La Thành chỉ tay cười, nói:

- Bà chị này đúng là vị nữ tướng mồm miệng liến thoắng trước trận hồi nọ. Bà chị có nhận ra em chăng?

Ngươi hầu gái cũng cười đáp:

- Chị làm sao nhận ra được lũ quỷ sứ!

Ai ấy đều cười lớn.

La Thành đem năm mươi lạng bạc, thưởng cho gia nhân công chúa. Tuyến Nương sai một hầu gái ra tạ ơn. La Thành nói:

- Người hãy vào trình với công chúa, ta tới đây, một là viếng Tào Hoàng hậu, hai là thưa chuyện hôn lễ cùng công chúa, để sớm được thành gia thất. Xin công chúa hãy vạn phần trân trọng, đừng quá bi thương.

Hầu gái vào, lát sau ra thưa:

- Công chúa thưa lại, chuyện hôn nhân đại sự, có Đậu hoàng hậu cùng phụ thân chủ trương, công chúa không dám tiện thiện tự nhận lời.

La Thành rầu rĩ đáp:

- Ý của công chúa, ta cũng đã rõ, lúc này cũng khó mà thưa lại. Nhưng còn Hoa cô nương, trước đã có hứa cùng ta đi Trường An, nay nếu công chúa bằng lòng, xin để Hoa cô nương cùng đi.

Hầu gái vào thưa lại. Tuyến Nương hỏi Hựu Lan:

- Hoa hiền muội, La công tử đã có lời mời, nay ý hiền muội ra sao?

Hựu Lan thưa:

- Trước chỉ là nói thế cho xong chuyện, bởi lẽ tòng quyền vậy thôi, cũng chỉ một lần phải theo, chẳng nên lần nữa vậy!

Tuyến Nương nói;

- Nay trả lời ra sao, hiền muội hãy tự lo, ta chẳng biết đâu!

Hựu Lan đáp:

- Chẳng khó gì!

Liền vào án, viết ngay mười sáu chữ, gấp cẩn thận, sai hầu gái:

- Ngươi hãy cầm đưa cho La Tướng quân, khẽ thưa rằng ta tạ ơn tướng quân. Còn nhiều gặp gỡ, xin tướng quân hãy giữ gìn.

Hầu gái như lời, La Thành xem giấy, thấy viết:

Đến thì cùng đến

Đi khó cùng đi

Hương hoa có hẹn

Tạm dừng ngựa xe.

La Thành cười nói:

- Phiền ngươi thưa lại cùng công chúa, Hoa cô nương đã không thể đi cùng, xin công chúa hãy trân trọng mình vàng.

Rồi cùng mọi người ra cửa, cũng bởi ngày đã gấp nên không thể lại nhà Nhuận Phủ chuyện trò. Hầu gái vào thưa lại, công chúa chỉ mỉm cười không nói. Vừa gặp lúc bốn vị phu nhân ở Nữ Trinh am tới, công chúa liền cùng Tử Yên, Hựu Lan ra đón. Lấy lễ chị em mời ngồi đâu đấy công chúa lên tiếng:

- Bốn vị phu nhân, trận gió quý hóa nào đưa đến đây thế này?

Tần phu nhân đáp:

- Sắc xuân đầy rừng, hương bay ngàn dặm, sao lại không tới mừng công chúa, cùng là bái kiến Hoa cô nương, để cùng xem mặt cô dâu cả vậy.

Công chúa đáp:

- Đây chính là Hoa hiền muội, thiếp thì sợ mọi chuyện còn nhiêu khê. Nếu các phu nhân không tin thì hãy cứ xem người làm chứng không biết nói đây!

Rồi đưa tờ bản thảo tấu biểu cho bốn phu nhân xem. Địch phu nhân nói:

- Nếu thế này thì Hoa cô nương phải thay chỗ công chúa thôi.

Công chúa đáp:

- Ngọc liên thành, đến nay vẫn không vết, xin đừng nghi ngờ.

Tử Yên nói:

- Đậu hiền muội nói kỹ càng, nếu không, ta cũng chằng tin. Chí hướng của Hoa hiền muội thật ít có!

Bốn vị phu nhân kéo Tử Yên lại hỏi chuyện. Tử Yên đem chuyện Hựu Lan đến tìm La Thành ra sao, công chúa hỏi Kim Đính tối hôm trước thế nào, kể lại một lượt. Lý phu nhân nói:

- Cứ đúng như thế thì Hoa cô nương thật là người có chí, mà Đậu công chúa thật là bậc có lòng. La tướng quân đáng bậc trượng phu. Cả ba từ lòng dạ đến việc làm, khiến cho xung quanh kính nể vậy.

Bốn vị phu nhân lại làm lễ kết giao chị em với Hựu Lan, trò chuyện suốt đêm. Sáng mai, bốn vị phu nhân chào công chúa:

- Chúng tôi về đây! Hôm khác sẽ lại!

Rồi lần lượt cầm tay Hựu Lan:

- Hoa hiền muội lúc nào rỗi rãi, hãy cùng Tử Yên tới am chơi một phen.

Hựu Lan thưa:

- Thế nào cũng phải tới hầu các phu nhân!

Bốn vị phu nhân lên xe ra về.

***

Lại nói đoàn La Thành cùng Công Cẩn, chỉ sợ tấu chương của Tuyến Nương tới trước, nên ngày đêm vội vàng vào Trường An, khoảng trên hai mươi ngày đã tới. La Thành sai người vào thành trước, báo cho Tần Thúc Bảo. Thúc Bảo sai gia nhân sắp sẵn tiệc rượu, cùng Hoài Ngọc cưỡi ngựa ra đón. Được vài dặm đã gặp đoàn La Thành, liền cùng về nhà, làm lễ, lạy chào. La Thành vào bái kiến Tần thái thái, Thúc Bảo đưa vào hậu đường chào Trương phu nhân. Tần thái thái gặp cháu, hân hoan mà rằng:

- Phụ mẫu cháu có khỏe mạnh không? Dạo trước cháu có nhờ Tề Quốc Viễn đem thư tới, cũng bởi Thúc Bảo việc quân bận rộn, chưa có thư phúc đáp.

Thúc Bảo đỡ lời:

- Cũng bởi nhận được thư của La hiền đệ, nhờ làm băng nhân với Ái Liên tiểu thư. Nhưng tiểu đệ đương đánh nhau với Vương Thế Sung, sau đó Thế Sung đầu hàng, Đơn viên ngoại bị bắt, triều đình chẳng tha tội. Tiểu đệ nghĩ đến lời thề tử sinh cùng Đơn viên ngoại trước kia, nên hứa đem Hoài Ngọc làm rể, lúc ấy Đơn viên ngoại mới yên lòng chịu chết. Tiểu đệ nghĩ La Tổng quản danh tiếng lẫy lừng. La hiền đệ thiếu niên anh tuấn, thật đáng mặt làm rể đông sàng của các bậc vương bá. Mấy hôm nay đang định viết phúc đáp, may gặp hiền đệ tới, ta cũng cùng nhau trò chuyện. Xin hiền đệ tha tội.

La Thành nói ngay:

- Tiểu đệ đâu có nhờ đại huynh làm mối Đơn tiểu thư lần nào đâu?

Rồi kể lại chuyện hứa hôn với Đậu Công chúa:

- Tiểu đệ có biết Đậu Kiến Đức đã từng ở Nhị Hiền trang hàng năm, nên nhất định là thân thiết với Đơn viên ngoại, lại biết Đơn viên ngoại cùng với đại huynh kết nghĩa đệ huynh, nên mới cậy đại huynh đứng làm trung gian, nhờ Đơn viên ngoại lo liệu hộ. Còn nói là hỏi Đơn tiểu thư thì thật là chuyện không có vậy.

Thúc Bảo đáp:

- Thì thư còn đó, chẳng nhẽ tiểu đệ nói sai sao nữa!

Liền quay vào lấy thư. La Thành cầm xem:

- Thế thì thật lạ lùng, hoàn toàn không phải nét chữ tiểu đệ. Dạo ấy viết xong, đệ giao tận tay Tề Quốc Viễn, chẳng nhẽ Quốc Viễn định đùa tiểu đệ sao?

Thúc Bảo đáp:

- Cũng không khó, tiểu đệ mời Quốc Viễn, Lý Như Khuê, Trình Giảo Kim cùng đến gặp gỡ.

La Thành bèn hỏi:

- Quốc Viễn ở Ngạc Huyện với Sài Tự Xương, sao lại có mặt ở Trường An?

Thúc Bảo đáp:

- Cũng bởi Tự Xương có công, nên Quốc Viễn được thăng Đại lý tự bình sự. Lý Như Khuê thăng Loan nghi vệ quan quân sự.

La Thành nói:

- Nghe nói đại huynh có người em nuôi là La Sĩ Tín, thiếu niên anh hùng sao vẫn chưa thấy?

Thúc Bảo đáp:

- Hiện được thánh thượng sai đi Định Châu.

Gia tướng vào thưa:

- Các vị đã đến đủ cả!

Thúc Bảo cùng La Thành ra đón, lạy chào xong xuôi, ai nấy cùng ngồi. La Thành đem chuyện gửi thư kể lại, Quốc Viễn liền đáp:

- Tiểu đệ sau khi từ biệt hiền huynh, gặp toán quân Lưu Vũ Chu nổi loạn, chặn đường bắt làm tiên phong, gặp phải con gái Đậu Kiến Đức, đội nữ binh đánh cho một trận tơi bời, tiểu đệ bị bắt làm tù binh, lúc ấy còn cả một người họ Hoa. Con gái họ Đậu tra hỏi mấy câu họ Hoa khai là gái, liền bị lôi ra sau trại khám xét thì quả vậy, mới giữ họ Hoa làm gia tướng. Đến lượt tiểu đệ, cũng nghĩ mình chẳng có đẹp tốt, chẳng chóng thì chầy cũng sẽ được một nhát, may còn nhanh trí, tìm cách xưng tên La hiền huynh cùng tư mã Tôn An Tổ ra. Họ Đậu nghe, liền mở trói mời ngồi, trò chuyện, hình như cũng có biết hiền huynh, nên thăm hỏi rất tỉ mỉ, lại căn vặn gửi thư đi đâu Tiểu đệ vốn không biết nói dối bao giờ, nên cứ thật thà mà xưng. Họ Đậu đòi xem thư của hiền huynh, nhưng không đọc ngay, ngắm nghía một hồi rồi giấu vào hài, nói với tiểu đệ: "Thư này để lại đây lúc nào lên đường xin sẽ trả lại. Không ngờ ngày mai, tin của Đậu Kiến Đức giục về, liền sai người đưa thư trả lời cùng hai mươi lạng bạc nữa cho tiểu đệ, thật là ân cần vậy.

La Thành vội vào lấy trong hành lý thư của công chúa gửi Hựu Lan mang tới, thì rõ ràng nét chữ là một, mới biết là thư chính do công chúa thay vào. Thúc Bảo nói:

- Việc thế này, mới biết công chúa đáng bậc trí đa mưu, thực xứng với La hiền đệ .

Công Cẩn đáp lời:

- Chưa chắc đã xong đâu!

Liền đem chuyện La Thành đến điếu tang, công chúa tiếp đãi ra sao, viết biểu tâu Hoàng hậu, Kim Đính kể lại thế nào, kể lại một lượt Như Khuê cười nói:

Nếu mà như vậy, thì quả công chúa là bậc nữ tướng trong phòng khuê của La tướng quân, khiến cho Tề hiền huynh mới ba hoa đủ chuyện, làm hại La tướng quân như vậy.

Quốc Viễn vội đứng dậy tạ lỗi La Thành:

- Tiểu đệ nào biết sự lắc léo bên trong, nên mới làm khổ hiền huynh, xin thứ lỗi!

Ai nấy vỗ tay cười lớn. Bỗng gia tướng vào thưa:

- Hôm nay thánh thể bất an nên không ra triều.

Thúc Bảo nói với La Thành:

- Nếu như thế, hãy đưa tấu biểu của La Tổng quản, cùng là chức danh của các vị, nhờ dâng trình trước có nên chăng?

La Thành đáp:

- Xin đại huynh lo hộ cho mọi chuyện.

Xong xuôi, ai nấy ngồi vào bàn tiệc.

***

Lại nói Kim Đính, Ngô Lương, vâng lệnh công chúa, đem biểu chương tới Trường An, tìm vào dinh Vũ Văn Sĩ Cập, đưa lễ vật cùng thư ra, nói rõ ý của công chúa. Sĩ Cập vì công chúa đã được hoàng hậu nhận là cháu gái, không dám coi thường, vội ra hỏi chuyện Kim Đính, Ngô Lương đầu đuôi mọi chuyện, viết mấy chữ, sai gia nhân vào mời một nội giám ra, giao cho biểu chương cùng lễ vật đem vào trình Vũ Văn Chiêu Nghi. Chiêu Nghi thu lễ vật của mình, cầm tấu chương, sai cung nữ bưng lễ vật vào trình Hoàng hậu. Gặp lúc vua Đường không khỏe mình rồng, không ra triều, đang cùng đánh cờ với Đậu hoàng hậu ở nội cung. Chiêu Nghi tới lạy chào, dâng biểu, lễ của Tuyến Nương. Đậu hoàng hậu thấy lễ vật toàn là ngọc quý, lụa hiếm, liền phán:

- Tuyến Nương một thân một mình, lại còn khổ tâm thờ phụng ta thế này.

Vua Đường hỏi:

- Tuyến Nương còn có biểu chương gì nữa?

Cung nữ dâng lên, vua Đường mở ra xem, thấy viết rằng:

Muôn tâu:

Bày tỏ lòng ngu

Mong thành việc tốt

Trộm nghĩ:

Đạo trời nam nữ

Thành chữ thật gia

Lễ trọng hôn nhân

Theo lời cha mẹ

Nếu mà lỗi tình Ngô Sở thẹn thùng khi nguyệt lão chỉ hồng

Đến nỗi ôm hận Phan Dương dang dở bấy duyên may áo thắm (1)

Trên bộc thề bồi lầm lẫn

Trong dâu đính ước đinh ninh

Yếu ớt cửa bồng còn sợ mang lời ong bướm

Lênh đênh nước mắt những e trái ý tổ tiên

Thiếp tôi họ Đậu, gặp nạn tầy đình

Mong đội ơn trời, còn may hơi thở

Giấc mộng phồn hoa mấy kẻ ngâm bài thịnh thế

Nặng tình cha mẹ một mình khóc thơ "Lục nga" (2)

1 Ngô, Sở, là hai nước lớn thời Chiến Quốc, đánh nhau suốt đời này qua đời khác. Chỉ quan hệ thù địch. Phan Dương: hai họ Phan, Dương, thời xưa nhiều lần tính chuyện hôn nhân mà không thành.

2 Lục nga: Tên một bài thơ trong "Kinh thi". nói về cù lao chín chữ, ơn cha mẹ.

Lúc đầu, thiếp tôi chỉ mong cho cha mẹ được bảo toàn tính mạng, đâu dám ước đến ơn vua tha tội búa rìu, lại được hoàng hậu nhận làm con nuôi, đứng vào hàng thân quyến nhà vàng.

Thật là điều quá may cho người ở đời này vậy, cha thiếp bỏ trần tục mà đi tu, vâng lệnh vua ban, thật là mây trắng bay xa thảm thê cây đỏ người lìa nước mất, đơn chiếc áo vàng.

Thiếp tôi cùng La Thành, trước kia là nước thù địch, dù nhìn mẹ thương lòng, cũng khó định chữ duyên. Không mệnh cha mẹ chọn rể kén dâu, lỗi phân Tần Tấn.

Về tình về nghĩa đều khó đúng thay, cầu hôn dai dẳng mãi đến bây giờ, lỗi phần ai vậy? Ngày trước thiếp tôi nghiễm nhiên một nước, La Thành còn chưa hẳn hoi đính ước, nay huống chi một thân bồ liễu gió táp sương sa, thiếp tôi sao xứng nâng khăn sửa túi cho công tử họ La cửa tướng tước hầu?

Từ nay trở đi, thiếp tôi xin búi tóc, lên ngựa, cùng trời cuối đất tìm cha mà đi tu.

May mà sống thì gặp phụ thân

Rủi có chết lại nương từ mẫu

Dù thời thế khác

Dù sự người thay

Lòng đâu phải đá

Khó mà chuyển lay

Lại xin thêm rằng:

Ngày trước vào bệ kiến, Hoàng hậu ban ơn cho cả em gái kết giao là Hoa Mộc Lan, vốn đi lính thay cha, đền chữ hiếu thảo. Mộc Lan về thăm quê, thần thiếp sai thể nữ theo hầu, nhờ đem thư để trả thề xưa. Ai ngờ Khả Hãn Yết Bà Na biết nàng tài mạo song toàn, định chiếm làm vợ, Mộc Lan không chịu khuất mà tự vẫn, trọn tình, trọn hiếu, trọn trung, thật đáng làm gương cho đời.

Lạ hơn nữa, Mộc Lan trước khi chết sợ thiếp tôi bỏ đi tu, nên đinh ninh dặn em gái là Hựu Lan, cải dạng nam trang, cầm thư sang đất Yên cho La Thành. Hựu Lan theo lệnh chị, xông pha sương tuyết cầm thư trả lời về cho thiếp tôi. Lũ hầu gái về kể lại, La Thành biết Hựu Lan giả trai, nhưng Hựu Lan vẫn giữ mình, không hề trái lễ.

Dù giường chiêu cùng chung

Mà chữ trinh vẫn đó

Thiếp tôi lúc đầu thì chưa tin, nhưng sau xem ra đúng vậy. Ai ngờ trong vòng trời đất lại có được viên ngọc toàn vẹn đến thế. Kinh nghĩ rằng: Triều đình rất trọng nhân luân thì bậc quẩn thoa như thế đáng nêu gương cho đời lắm lắm.

Đối với thiếp thì chí không thể cướp, mà đối với Hựu Lan thì tình rất nên khen. Vả lại Hựu Lan, La Thành gần giường trò chuyện, sao khỏi mối hiềm nghi dưới mận trong dưa, với tay cầm kinh học, nghĩa thơ đào yêu lá thắm.

Muôn vàn kính xin hoàng hậu, tâu lên thánh đế mà tuyên dương hiếu nghĩa của Mộc Lan, cùng ngợi nết trong sạch của Hựu Lan, tha tội cho thần thiếp, xét soi đến lời tâu này, để thần thiếp được sống như loài cỏ cằn, vui với hươu nai hoẵng đồng, gội ơn mưa móc mà được tiếng bất hủ.

Trông trời cao, nhờ lượng biển, vô cùng run sợ dâng tờ tấu này.

Chờ mệnh hoàng đế

Cẩn tấu.

Đậu hoàng hậu nói:

- Tuyến Nương dạo trước bệ kiến, vẫn nói là hứa hôn với La Thành, sao bây giờ lại từ chối?

Vua Đường đáp:

- Có lẽ là sợ La Nghệ coi là con nhà mất nước, định tìm chỗ khác cũng chưa biết chừng.

Vũ Văn Chiêu Nghi thưa:

- Nhân duyên đại sự, một lời đã định, nào phải vì sự thịnh suy mà thay đổi, làm sao lại có thể để Tuyến Nương suốt đời chẳng gia thất. Lại nữa hoàng hậu đã nhận là cháu gái, thì nào có nhục gì đến La Nghệ.

Đậu hoàng hậu nói:

- Bệ hạ những nên đứng ra chủ hôn, cho Tuyến Nương thêm vinh hạnh.

Vua Đường đáp:

- Tuyến Nương vừa hiếu thuận vừa trung dũng, trẫm rất thương yêu, chỉ tiếc Mộc Lan thay cha tòng quân, thật là hiếu nữ, thủ tiết tự vận, thật đáng nêu gương. Nay lại được Hựu Lan, thay được chí Mộc Lan, cùng là La Thành "đồng sàng bất loạn", cũng thật khó có.

Chiêu nghi thưa:

- Thiếp nghe Từ Mậu Công đã đính hôn với quý nhân Viên Tử Yên của nhà Tùy, cùng ở một nơi với Tuyến Nương. Bản tấu chương này lời lẽ hoa mỹ, hoặc là do tay Tử Yên mà ra cũng chưa biết chừng.

Lại thấy thái giám nâng nhiều tấu sớ dâng lên, vua Đường cầm xem tờ trên cùng, thấy là biểu mừng của La Nghệ, liền phán:

- Vội nói La Nghệ định thay hôn thú, đã thấy ngay bản tâu trình rồi.

Vội mở ngay ra đọc, thấy viết rằng:

Muôn tâu:

Trải hết tấc hèn

Vuông tròn việc lớn

Trộm nghĩ:

Thế chính vua minh, lấy nhân nghĩa làm gốc, nhân luân dân mọn, lấy gia thất làm đầu. Từ xưa, bậc thánh triết trị đời, không khi nào thương xót dân mà lại để kẻ cô đơn, góa bụa chẳng chỗ nương tựa, không nơi tổ ấm.

Thần La Nghệ, vốn là tên lính, nhờ lượng thánh thương kẽ ngu trung, giao cho coi giữ biên thùy, thần đâu không dám không hết sức vỗ yên bờ cõi, lũ giặc cỏ ngông cuồng bị tiêu diệt toàn là nhờ uy trời. Song trước đây phản thần Đậu Kiến Đức xâm chiếm miền ải Tây, đánh vào đất vắng, thần đem binh đánh dẹp và sai con trai phá Kiến Đức, tướng tá quân binh của chúng sợ uy trời, quăng giáo chạy dài. Riêng con gái Kiến Đức là Tuyến Nương vốn là một nữ tướng kiêu dũng, ai ngờ trước trận tiền, vừa thấy con trai thần, không múa gươm vàng chống lại, mà thề nguyền chỉ đỏ buộc chân, trên ngựa một lời, trăm năm ghi dạ.

Đó là việc tư tình của bọn trẻ, không dám nhàm tai thánh đế. Con trai thần nay đã hai mươi tư tuổi, vì bốn phương nhộn nhạo, chưa kịp nghĩ đến chuyện vợ con, còn Kiến Đức đã quy phục thánh triều, tu lánh cõi đời trần tục. Thần nghe rằng, Tuyến Nương lấy mạng mình xin thay tội chết cho cha thì thật đáng khen, lại được mẫu hậu ra ân nhận làm dưỡng nữ, giá hèn côi cút, chờ ngày vu quy, còn con trai thần giải mũ cài chặt từ lâu (1) công việc chinh chiến đã quen ở ngoài cửa ải.

Thần trộm nghĩ, vợ chồng là quan hệ luân thường lễ giáo, nam nữ là đạo tín nghĩa, thủy chung, nếu bỏ gái ấy thì con trai thần khó kiếm vợ, mà không lấy được con trai thần thì gái kia cũng khó kiếm được bạn trăm năm xứng đáng.

Thần vốn là một bề tôi ở biên trấn, nhỡ có cử chỉ sai lầm chuốc lấy tội lỗi mạo muội dâng lời lên bệ ngọc, cúi rạp đất xin thánh đế xét soi xếp đặt duyên lành cho trẻ. Thần vô cùng run sợ dâng tờ biểu này

Cẩn tấu.

1 Ý nói đã quá tuổi đội mũ từ lâu. Tuổi đội mũ, tính cho con trai quý tộc, giàu có lúc đủ mười tám.

Vua Đường xem xong cười phán.

- Cũng may U Châu thứ sử Trương Công Cẩn cùng với La Thành đã tới Trường An, ngày mai trẫm xét hỏi, sẽ biết rõ ràng.

Tần Vương vào vấn an, vua Đường đưa cả hai tờ biểu cho xem, Tần Vương thưa:

- Tuyến Nương văn võ toàn tài, đã là chuyện lạ. Chị em họ Hoa, toàn trung hiếu, đủ tín nghĩa, Mộc Lan thủ chí tự vẫn, có thể là đúng Hựu Lan cùng giường mà không loạn, khó có bằng chứng.

Vua Đường phán:

- Vừa rồi Vũ Văn chiêu nghi có nói, tấu chương của Tuyến Nương, nghi là của Viên Tử Yên làm thay, chẳng biết thực giả? Tại sao Từ Mậu Công cũng chưa làm lễ thành thân?

Tần Vương đáp:

- Mậu Công vì sợ Tử Yên là cung nữ của nhà Tùy cũ, không dám tự tiện, chờ xin thánh ân, sau mới dám thành thân.

Vua Đường phán:

- Mười sáu viện nhà Tùy, cung nữ khá nhiều, đều có tên tuổi, không hiểu tại sao chẳng thấy một ai?

Tần Vương đáp:

- Kiến Đức diệt Vũ Văn Hóa Cập, Tiêu Hậu đem nhiều người theo về, cho nên phi tần cũng phần nhiều ở đó cả. Nay nhân chuyện nhân duyên của La Thành, cũng gọi cả Viên Tử Yên, làm lễ hoa chúc cho Mậu Công, có thể hỏi được ít nhiều tin tức của các phi tần khác.

Vua Đường bằng lòng, sai Vũ Văn Sĩ Cập cùng hai thái giám, đem thánh chỉ triệu Tuyến Nương, Hựu Lan, Tử Yên vào kinh gặp thánh thượng.

Chưa biết về sau ra sao, hãy xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi Thứ Sáu Mươi Hai

Nữ nữ nam nam, đẹp đôi đẹp lứa,

Văn văn võ võ, nên vợ nên chồng.

Thơ rằng:

Tuổi xanh thảo nguyên xanh,

Quen cưỡi thiên lý mã

Vốn cùng giống si tình

Mừng vẹn lời hương lửa

Chín bệ ơn xuân dày

Khắp miền mai nở rộ

Vui theo đạo xướng tùy

Đôi từng đôi đẹp quá.

Chuyện chuộng danh trọng nghĩa trong trời đất này, lại thường bởi tấm lòng hiền hậu của người phụ nữ, mà nhận ra thật giả, mà ham mê. Cũng bởi thế, anh hùng hào kiệt trong trời đất chẳng tiếc thân mình để làm việc danh nghĩa đó, nhưng rồi cũng như bọn giả học giả, ngụy quân tử là thứ mà cuối cùng thế nào cũng bị người đời nhận ra.

***

Nay lại nói chuyện La Thành, cùng với bọn Trương Công Cẩn đến nhà Tần Thúc Bảo, sáng ra dậy sớm, biết nhà vua không ra đại triều, nên sắm sửa lễ vật, ăn sáng, rồi cùng Thúc Bảo đến Tây Phủ ra mắt Tần Vương. Phan Mỹ vừa mới đi về, vào thưa với La Thành:

- Triều đình chiều qua đã có lệnh chỉ, sai Hồng lô tự chính khanh Vũ Văn Sĩ Cập, cùng với hai viên nội giám, đến Lôi Hạ tuyên triệu Đậu Công chúa, Hoa cô nương vào kính yết kiến thánh đế.

La Thành băn khoăn:

- Tin này liệu có xác thực không?

Phan Mỹ thưa:

- Vừa rồi Kim Đính nhà Đậu Công chúa đến đây, tìm tiểu nhân, nói cho biết sáng ngày mai sẽ lên đường về sớm để báo trước cho công chúa.

Thúc Bảo bàn:

- Nếu đã như thế, chúng ta hãy cùng đến nhà Từ Mậu Công hiền huynh, hỏi thử xem sao?

Công Cẩn đáp:

- Tiểu đệ cũng đang muốn đến thăm Từ Quân sư.

Cả bọn kéo đến cửa nhà Mậu Công, lính canh lễ phép thưa:

- Từ tướng quân đã đến Tây phủ rồi!

Thúc Bảo lại dẫn mọi người vào Tây phủ, báo tên tuổi, gửi lễ vật cho quan coi cửa xong. Uất Trì Bắc, Uất Trì Nam bởi quan chức còn thấp, nên chỉ lạy chào rồi quay ra, đã thấy quan đường hầu ra thưa:

- Vương phụ đang ngự ở Sùng Chính đường, xin mời vào gặp mặt.

Thúc Bảo, theo sau là bọn Công Cẩn tiến vào, bước lên thềm thấy Tần Vương ngự trên sập cao, tân khách, liêu thuộc Tây phủ ngồi hai hàng tả hữu, nhưng không thấy Mậu Công đâu cả. Tần Vương nhận ra Thúc Bảo, vội phán:

- Bất tất hành lễ, xin mời ngồi!

Thúc Bảo thưa:

- Phủ thừa U Châu Trương Công Cẩn, cùng với con trai Yên Quận Vương La Nghệ là La Thành đến ra mắt điện hạ!

Tần Vương liền lệnh cho tên hầu, tả hữu chạy xuống ra hiệu, Công Cẩn cùng La Thành vội bước lên thềm, quỳ xuống hai tay dâng thiếp lên, quan hầu đường thu lấy trình lên Tần Vương.

Tần Vương thấy Công Cẩn dạng mạo khác thường, La Thành nhân tài xuất chúng. Rất là trân trọng, ban ngay cho ngồi, cả hai vái chào bọn tân khách cùng liêu thuộc rồi ngồi xuống. Tần Vương nói với Công Cẩn:

- Từ lâu đã được nghe tài năng của khanh, giận chưa được gặp. Nay thấy đây, thật là thỏa lòng.

Công Cẩn thưa:

- Thần may được Yên Quận Vương tiến cử cho, lại mang ơn cất nhắc của điện hạ, chứ nào có tài cán gì, đội ơn điện hạ quá khen.

Tần Vương lại nói tiếp với La Thành:

- Phụ thân khanh công nghiệp huy hoàng, nay khanh cũng mang được vẻ anh tuấn phi phàm, lại gặp bậc kỳ nữ tài kiêm văn võ, sự nghiệp mai này thật còn rạng rỡ nhiều!

La Thành thưa:

- Thần vốn dòng vũ phu, được thánh đế cùng điện hạ quá thương. Cha con thần xin nguyện tận trung sớm tối, cũng khôn báo muôn một.

Tần Vương phán:

- Ta tối qua ở trong cung, xem biểu chương của Đậu tiểu thư, viết thật uyển chuyển, nhưng cũng chưa thật rõ lắm, khanh hãy thuật rõ ta nghe.

La Thành đem mọi chuyện thuật lại một hồi.

Tần Vương than:

- Trong phòng khuê gặp người tri kỷ, mà còn thương yêu nhường nhịn nhau đến thế, huống chi bậc anh hùng hào kiệt, một sớm gặp gỡ, sao không kính yêu cho được!

Đang nói thế, thì thấy Mậu Công vào, lạy chào Tần Vương, mọi người yên vị. Tần Vương nói với Mậu Công:

- Ngày tốt lành sắp tới, khanh phải sẵn sàng làm chàng rể đi chứ.

Mậu Công thưa:

- Tối qua được Vũ Văn đại huynh sai quan gọi đến nói chuyện, mới biết có thánh chỉ, thật là ơn thánh đế dồi dào, vừa kịp kỳ giai ngẫu của La tướng quân.

Tần Vương nói:

- Tối qua ở trong cung, ta nghe phụ hoàng phán: "Tấu chương của Đậu tiểu thư, ngờ rằng là do tay họ Viên mà ra". Rồi nhân hỏi ta vì sao khanh vẫn chưa làm lễ cưới, ta bèn thưa rằng vì sợ họ Viên là quý nhân của tiền triều, nên khanh không dám tự tiện, phải chờ thánh ý. Vì thế phụ hoàng định triệu vào để làm lễ thành thân cho khanh.

Mậu Công vội rời ghế, tạ ơn:

- Thật đều nhờ lòng bao dung của điện hạ!

Tần Vương liền giữ Công Cẩn, La Thành, Mậu Công cùng Thúc Bảo vào vườn sau ban yến.

***

Lại nói chuyện Hoa Hựu Lan, cùng ở nơi tuyến Nương, gặp tiết xuân ấm áp, liễu xanh tha thướt, hoa nở muôn màu. Viên Tử Yên gọi Thanh Cầm đi cùng với Hựu Lan đến am Nữ Trinh, Trinh Định vào thưa, cả bốn vị phu nhân đều ra, gối liền gối chuyện trò.

Tần phu nhân nói:

- Chúng ta mấy chị em đây, thỉnh thoảng cùng nhau gặp gỡ, chỉ sợ mai này tụ ít tán nhiều, bốn chúng tôi đây chẳng biết lấy gì khuây khỏa?

Tử Yên đáp:

- Hai vị họ Đậu cùng họ Hoa, chỉ chờ có tin mới sẽ lên đường. Thiếp vẫn ở đây thôi.

Địch phu nhân cười:

- Viên Quý nhân nói chi điều ấy, quân sư hiện đang ở kinh, thấy La tướng quân dâng biểu cầu hôn, gặp ngày xuân ấm áp, cũng sẽ tới đón quý nhân ngay thôi!

Hựu Lan thưa:

- Đậu Công chúa thì không thể nào từ chối, còn thiếp chẳng có gì trói buộc, xin được ở lại đây cùng bốn phu nhân thắp hương, tưới hoa, tiêu ma ngày tháng vậy.

Hạ phu nhân lên tiếng:

- Tấu chương vừa dâng, thấy Đậu Công chúa có ý nhún nhường không chịu, ta tính nếu thế Hựu Lan phải là chính vị còn gì!

Hựu Lan chưa hiểu nên hỏi:

- Tại sao?

Hạ phu nhân đáp:

- Đậu Công chúa vốn hiếu thảo, phụ thân ở Sơn Đông thường sai người đem y phục, các thứ tới thăm hỏi, sao dễ mà quên để đi U Châu xa xôi cho được. Dẫu có thánh ý, nhưng chưa có mệnh của phụ thân, vị tất công chúa đã chịu nghe theo, rồi còn là nhiều chuyện khác nữa kia!

Tử Yên tiếp:

- Chuyện này chưa biết thế nào?

Hựu Lan lại hỏi:

- Ẩn Linh Sơn ở đâu, có xa lắm không?

Lý phu nhân đáp:

- Trong am có Trương Lão Nhi người lo chuyện hương đèn, trước vẫn ở đó, hãy thư thả, tiểu thư hỏi họ Trương sẽ biết rành mạch.

Qua một đêm, các phu nhân đều đã dậy cả, chẳng thấy Hựu Lan đâu. Thì ra Hựu Lan thấy mọi người nói thế, lấy tiền thưởng cho Trương Lão Nhi, giả dạng quan sai, canh năm cùng với Trương Lão Nhi lên đường tới Ẩn Linh Sơn.

Các phu nhân tìm khắp nơi, người bóng đều không hỏi đến, Trương Lão Nhi cũng chẳng thấy. Tử Yên đoán:

- Đúng rồi, cùng với Lão Nhi đến Ẩn Linh Sơn tìm Đậu Kiến Đức rồi!

Lý phu nhân hỏi:

- Hoa cô nương ăn mặc thế, đi làm sao được?

Tử Yên đáp:

- Phu nhân không biết Hoa cô nương có một bộ giả trang, chuyện gì cần làm là làm ngay. Không hiểu hành lý hôm qua mang đến đây còn chăng?

Ai nấy vào phòng trong xem xét, thấy trong cái gói quần áo mang tới chỉ còn mấy bộ con gái, mấy cành trâm. Người nào cũng xuýt xoa:

- Không ngờ mới chừng tuổi, trí lược dường ấy, dám động dám làm!

Tử Yên liền sai người báo ngay cho Tuyến Nương biết.

Lại nói Hựu Lan cùng Lão Nhi đi được mấy ngày đã tới Ẩn Linh Sơn thấy một hòa thượng to khỏe đang bừa ruộng, Lão Nhi lên tiếng hỏi:

- Sư phụ, sư phụ có biết Cụ Đức hòa thượng có ở trong động chăng?

Hòa thượng dừng bừa, ngẩng đầu nhìn, rồi hỏi:

- Các người ở đâu đến?

Lão Nhi thưa:

- Từ Lôi Hạ tới!

Hòa thượng hỏi:

- Có phải công chúa nhà ta sai đến chăng?

Hựu Lan vội chối:

- Chúng tôi là do Giả Nhuận Phủ đại nhân sai đến, có chuyện trình với Vương phụ.

Hòa thượng vồn vã:

- Nếu như thế, các ngươi hãy theo ta.

Thì ra hòa thượng này vốn là Tôn An Tổ, giờ lấy pháp hiệu là Cụ Năng. Hựu Lan theo vào trong chùa, phía sau có ba gian đại điện, hai bên sáu bảy gian nhà cỏ. An Tổ vào trước, Kiến Đức ra gặp, rõ ràng một vị chân tu. Hựu Lan quỳ lạy, Kiến Đức vội đỡ dậy mà rằng:

- Không phải làm lễ thế. Lâu nay Giả đại nhân sinh sống ra sao, ngươi hãy kể bần tăng nghe xem nào?

Hựu Lan thưa:

- Giả đại nhân dặn thưa với vương phụ, nhân có con trai Yên Quận Vương U Châu tới Lôi Hạ để viếng Tào Nương nương, cùng tính chuyện hôn nhân với công chúa. Công chúa lấy cớ chưa được lệnh vương phụ, ngỏ lời từ chối, rồi dùng biểu lên hoàng thượng xin tuyệt hôn. Giả đại nhân sợ công chúa là bậc hiếu nữ, nếu đã có thánh chỉ xuống, nhất thời không dám tự quyết, nên không kịp viết thư, sai tiểu nhân cầm tờ sơ cảo tấu biểu của công chúa trình vương phụ xem. Xin vương phụ về ngay Lôi Hạ, dạy bảo đôi câu, để mọi chuyện được chu toàn.

Kiến Đức xem tờ biểu rồi đáp:

- Bần tăng đã lánh đời xuất gia, công việc trong nhà là do công chúa tự chủ, chẳng việc gì lại phải về để coi sóc đến những chuyện này.

Hựu Lan thưa:

- Công chúa có thể đến trước mặt cửu trùng, đưa lời thỉnh nguyện, ở vậy trông lăng mộ, suốt đời giữ chí tỏ rạng hiếu nữ. Nên chuyện hôn nhân đại sự, xin vương phi trông lại. Vương phụ về chậm một ngày, là một ngày việc chung thân của công chúa chưa xong. Huống chi bậc hiếu nữ như thế, lẽ nào nên suốt đời ở già trong khuê phòng, để cho người đời phàn nàn là hồng nhan bạc phận sao. Những điều này quả là ngu kiến của tiểu nhân, không hiểu nên như thế nào?

Kiến Đức thấy nói thế, nhăn mày nhíu trán, rồi đáp:

- Nếu vậy, túc hạ hãy ra phía nhà sau dùng cơm chay, rồi quay về phục mệnh Giả đại nhân, bần tăng sẽ cùng với đồ đệ xuống núi sau.

Hựu Lan nghĩ ngợi: "Trong am của nhà sư, liệu có phải là chỗ ở qua đêm của đàn bà con gái chăng?". Nên vội thưa:

- Cơm thì tiểu nhân đã ăn dưới núi, không dám nhiên nhà chùa. Giờ xin được quay về sớm. Vương phụ cũng mau thu xếp lên đường, vạn vạn xin đừng để lỡ.

Kiến Đức đáp:

- Thuở trước ta còn chẳng bao giờ quên lời, huống chi nay đã hương đèn theo giới luật nhà Phật. Sáng mai ta sẽ xuống núi.

Hựu Lan nghe thế, vội vàng xin quay về quán trọ, lấy sức ba chân bốn cẳng, ngày đi đêm nghỉ, bất giác cũng đã được ba ngày.

Đến ngày thứ tư, trời đã gần tối, lại mưa phùn giăng khắp. Hựu Lan nói:

- Mưa ngày càng nặng hạt, chẳng thể kịp đến quán trọ nào, chi bằng vào nhà dân chúng ngay đây xin ngủ nhờ một đêm vậy.

Trương Lão Nhi giơ tay chỉ:

- Phía trước thấy khói bếp, nhất định có nhà, chúng ta hãy ráo bước xem sao?

Hai người vào giữa một thôn nhỏ vắng vẻ, có khoảng hai ba chục nóc nhà, vẳng bên tai cả tiếng trẻ đọc sách. Hai người xuống ngựa buộc lại. Lão Nhi mở cửa, thấy có sáu bảy trẻ nhỏ, ngồi giữa là một người phụ nữ xinh đẹp, quay mặt hướng nam, đang dạy mấy đứa trẻ đọc sách. Thấy Lão Nhi, người phụ nữ khoảng trên dưới ba mươi tuổi đứng dậy, hỏi:

- Lão ông vào nhà có chuyện gì?

Lão Nhi đáp:

- Chúng tôi đi thăm người quen trở về, chẳng may gặp trời mưa giữa đường, xin cho ngủ trọ một đêm.

Người phụ nữ nói:

- Nhà ta toàn những đàn bà góa, không thể cho khách trọ. Xin đi hỏi nhà khác cho.

Hựu Lan đứng ngoài nghe thế, trong lòng rất mừng, vội bước vào thưa:

- Xin chớ chối từ, thiếp cũng là đàn bà cả!

Người phụ nữ nhìn lên, thấy một thiếu niên trẻ tuổi, liền biến sắc mặt, quát:

- Người ở đâu xộc vào đây? Nói lời lừa đảo, mau ra khỏi ngay đây mới yên, nếu không ta gọi hương lý sở tại, bắt giải lên quan, thì liệu hoạt

Bỗng thêm hai người phụ nữ bước từ phía nhà sau ra. Hựu Lan thấy thế, vội tháo ngay giày, lộ rõ gót son, mọi người mới tin rõ là thật đưa vào bên trong chào hỏi, mời ngồi, kể rõ lai lịch. Thì ra ba vị phu nhân này vốn là phi tần của nhà Tùy cũ, một là Giáng Dương viện Giả phu nhân, hai là Nghênh Huy viện La phu nhân, ba là Hòa Đinh viện Giang phu nhân. Năm nhà Tùy mất, cả ba cùng trốn khỏi cung nội, may gặp người chị dâu góa của Giả phu nhân là Đoàn Thị ở đây nên cả ba đều tạm xin nương náu. Đáng thương cho thuở trước xa hoa dường ấy, nay sống trong cảnh thê lương dường này. Giang, La phu nhân may vá mà sống. Giả phu nhân vì thông hiểu chữ nghĩa thì dạy mấy đứa trẻ, cũng không đến nỗi cực khổ lắm. Nay thấy Hựu Lan kể chuyện, thấy đồng điệu, từ xa đã nói: "Tìm mãi không gặp, một chiều bỗng thấy, trở thành tri kỷ". Qua một đêm, sáng ra Hựu Lan từ giã lên đường, ba vị phu nhân không chịu. Giả phu nhân cười nói:

- Gia kỳ chưa định, vội vã nỗi gì, xin hãy ở một hai ngày, chúng ta sẽ tiễn Hựu Lan đến tận Nữ Trinh am, cùng gặp gỡ bốn phu nhân, cũng là để tỏ tình quyến luyến trước kia vậy.

Hựu Lan đành vâng lời, cho Lão Nhi về trước.

***

Lại nói Tuyến Nương được Tử Yên cho biết, trong lòng thầm nghĩ: "Hựu Lan vì ta mà bôn ba khắp nơi, thật chân tình thực nghĩa, thật là sâu sắc, thật là mênh mông. Nhưng chẳng biết ý phụ thân ra sao. Chưa chừng Hựu Lan bỏ quách ta mà đi, để mình ta gánh chịu mọi việc cũng nên?" Trong lòng nghi hoặc, bỗng một hôm, Ngô Lương, Kim Đính trở về, thưa rằng:

- Tấu biểu đã đưa nhờ Hồng lô tự chính khanh Vũ Văn Sĩ Cập, chuyển cho Vũ Văn chiêu nghi trình lên Đậu hoàng hậu. Gặp giữa lúc La tiểu tướng cũng vào Trường An, tuy chưa được gặp long nhan, nhưng thánh chỉ đã ra sai Vũ Văn đại nhân cùng hai nội giám, tới triệu công chúa cùng Hoa cô nương tiến kinh làm lễ thành thân. Vì vậy chúng tiện tỳ về trước, các quan chỉ sợ khoảng mai kia sẽ tới, xin công chúa hãy xếp đặt chu đáo.

Tuyến Nương đáp:

- Hôm trước Hoa cô nương vào am thăm các phu nhân, không biết vì lẽ gì đã cùng Trương Lão Nhi đến tìm phụ thân ở Ẩn Linh Sơn

Ngô Lương thưa:

- Lỡ ngày mai các quan triều đình đến, phải có hai tiểu thư tiếp thánh chỉ, Hoa cô nương chưa về thì làm thế nào?

Lại thấy một hầu gái vào thưa:

- Giả tiên sinh vừa đến cho biết, thiên sứ sắp tới Lôi Hạ, nhắn công chúa sắp sẵn hành trang về Trường An.

Tuyến Nương đáp:

- Nếu không có lệnh của phụ thân, thì dù có lệnh của triều đình nữa cũng chối từ được.

Bỗng thấy hầu gái vội vàng vào thưa:

- Vương phụ đã về !

Tuyến Nương nghe báo, vui sướng vô cùng, vội chạy ra đón, vào thẳng trong phòng, quỳ xuống dưới gối khóc như mưa như gió. Kiến Đức cũng không ngăn được hai hàng lệ, liền đưa hai tay đỡ Tuyến Nương dậy:

- Con hãy đứng dậy. Cũng may có con hiếu nghĩa nhiều mưu mẹo, để cho cha con được hương đèn trên chùa. Nay nếu chẳng vì việc chung thân đại sự của con, cha cũng chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện xuống núi. Con hãy ngồi lên cha hỏi mấy điều.

Tuyến Nương chùi nước mắt, ngồi cạnh. Kiến Đức nói:

- Trước kia thánh thượng đã nói con hứa hôn với La công tử rồi, khiến cha cũng không tiện hỏi lại, nhưng chuyện này vốn từ đâu ra?

Tuyến Nương đem chuyện "trên ngựa định nhân duyên" trước kia kể lại. Kiến Đức nói:

- Như thế cũng được. La Nghệ vốn là đại tướng của tiên triều, La công tử cũng hàng thiếu niên anh tuấn, mai kia sẽ được nối tước của cha, con sẽ là nhất phẩm phu nhân, cũng chẳng phải nhục đến con. Chỉ tiếc cho Hoa Mộc Lan, trước kia đã cùng con về Trường An gặp thánh đế, không ngờ mất sớm, nhưng em là Hựu Lan làm sao lại cũng nguyện vì con mà bôn ba, không hiểu tính hạnh ra sao?

Tuyến Nương thưa:

- Hựu Lan có đến chùa tìm, phụ thân không gặp hay sao?

Kiến Đức đáp:

- Làm gì có cô gái nào tới, chỉ thấy Giả tiên sinh sai một thiếu niên rất lanh lợi tới cùng với một lão gia theo hầu. Chẳng có thư từ gì chỉ có một tờ sơ cảo tấu biểu của con gửi lên thánh đế, nên cha cũng tin là thật.

Tuyến Nương thưa:

- Tờ sơ cảo này, con bỏ trong hộp trang sức, mấy hôm nay không thấy, thì ra Hựu Lan đã lấy, rồi cải dạng nam trang, đi gặp phụ thân!

Kiến Đức nói:

- Cho nên ta cũng ngờ rằng nếu chỉ được sai đi làm thì sao lời ý rất là khẩn thiết, chân thành.

Tuyến Nương thưa:

- Nay tưởng Hựu Lan cùng phụ thân trở về, sao vẫn chưa thấy?

Kiến Đức nói:

- Hựu Lan vào núi gặp ta rồi về ngay, sao lại chưa thấy đâu cả được?

Tuyến Nương băn khăn:

- Hay Hựu Lan vào trong am?

Rồi sai Kim Đính:

- Ngươi vào trong am, mời Hoa cô nương về!

Kiến Đức quay ra với Tôn An Tổ, Tuyến Nương lại sai người đi mời Nhuận Phủ về tiếp phụ thân cùng An Tổ.

Mãi đến hoàng hôn, chỉ thấy Kim Đính trở về thưa rằng:

- Hoa cô nương cùng Trương Lão Nhi chưa thấy về.

Tuyến Nương nghe thế, trong lòng phiền muộn. Sang ngày hôm sau, buổi chiều, thấy trong thôn huyên náo chuyện các vị quan triều đình sắp về để mời công chúa. Quả nhiên trưa hôm sau, Tề Thiện Hằng theo Vũ Văn Sĩ Cập cùng hai quan thái giám, mặc cát phục, rầm rầm rộ rộ kéo về mộ phần. Kiến Đức cùng An Tổ không tiện ra mặt, nên tìm chỗ tránh. Tuyến Nương vội nhờ Nhuận Phủ ra tiếp ở trung đường. Thiện Hằng sai tay chân bày hương án, thì một thái giám cất tiếng hỏi:

- Trong chiếu thư nói rằng có ba vị phu nhân, nay sao lại chỉ thấy một, còn nữa ở đâu?

Nhuận Phủ hỏi:

- Không rõ những ai mà những ba vị?

Thái giám ít tuổi hơn đáp:

- Người thứ nhất là công chúa Đậu Tuyến Nương, được đương kim hoàng hậu nhận làm cháu gái; người thứ hai là Hoa Hựu Lan; người thứ ba là phu nhân của Từ Nguyên soái Viên Tử Yên.

Nhuận Phủ nghe vậy, liền nghĩ: "Thế là Mậu Công hiền huynh cũng đã được triều đình đứng ra làm lễ thành thân cho rồi!". Liền đáp:

- Viên Tử Yên cũng ở ngay đây, chi bằng xin mời tới đây nghe khai đọc thánh chỉ luôn chăng?

Rồi sai Kim Đính đi mời Tử Yên. Tử Yên vội xếp đặt để đến. Thanh Cầm lo thay áo tang cho Tuyến Nương, các hầu gái đỡ ra. Cả hai cùng đã ở trong cung cấm, mọi thứ nghi lễ đều thông thạo. Sĩ Cập mở thánh chỉ tuyên đọc. Tử Yên cùng Tuyến Nương đứng dậy tạ ơn các quan. Viên thái giám nhìn kỹ Tử Yên rồi cười nói:

- Ta cứ tưởng có chuyện trùng họ, trùng tên, thì ra Viên Quý nhân!

Tử Yên cũng nhìn kỹ hai thái giám, thì ra thái giám nhiều tuổi là thái giám họ Trương ở Hiển Nhân cung, còn thái giám ít tuổi là tiểu thái giám họ Lý ở Hoa Ngạc lâu. Tử Yên đáp:

- Hai vị thái giám thật có phúc lớn, giờ thì thật được tân thánh đế sủng ái.

Trương thái giám nói:

- Phu nhân cũng biết chúng tôi vốn là hai thái giám thực thà, chẳng bao giờ làm điều gì bậy bạ, vì vậy cũng được tân thánh đế để mắt xem. Nay Viên Quý nhân về với Từ Nguyên soái, thì chúng ta cũng càng dễ gặp nhau.

Thiện Hằng nói:

- Từ Nguyên soái cũng thật là bậc anh hùng đa tình vậy!

Trương thái giám cười:

- Tề tiên sinh thật chưa hiểu lũ nội quan chúng tôi, vốn chẳng khác gì hòa thượng xuất gia rồi vậy, cho nên cũng có nhiều điều chẳng còn kiêng kỵ lắm vậy.

Lý thái giám tiếp:

- Thánh chỉ có nói ba vị phu nhân, sao Hoa phu nhân không thấy đâu cả?

Trương Lão Nhi bỗng thấy ở đâu ra thưa:

- Hoa cô nương khoảng một hai ngày nữa mới về, tiểu nhân về trước thưa cùng công chúa biết.

Có kẻ lớn tiếng nạt:

- Lão già không biết lễ nghĩa gì, các quan lớn đang tiếp thánh chỉ, sao lại dám nói ngang vậy!

Nhuận Phủ nói với gia nhân:

- Thì ra Lão Nhi đã về, ngươi hãy ra gọi vào đây ta hỏi.

Lão Nhi vào, Nhuận Phủ hỏi:

- Ngươi cùng Hựu Lan ra đi, sao giờ về một mình?

Lão Nhi đáp:

- Trên đường về, chiều mưa, vào ngủ nhờ ở nhà quả phụ họ Đoàn. Trong nhà có ba người đàn bà khác, không hiểu đều gọi là phu nhân gì đấy, nhất định giữ Hoa cô nương lại, sai tiểu nhân về trước. Khoảng hai ba ngày sau, họ sẽ đưa Hoa cô nương về am sau.

Trương thái giám thấy nói liền hỏi:

- Có phải lão già này cùng ra đi với Hoa phu nhân?

Xung quanh thưa:

- Đúng rồi

Trương thái giám quát:

- Lão già ngu ngốc, Hoa phu nhân có thánh chỉ triệu, nay ngươi lừa mang đi đâu, lại còn đứng đó nói bậy. Tiểu thái giám hãy cùng lão già đi tìm, nếu không thấy, thì lão già phải tội chết!

Ba bốn tiểu thái giám lấy dây trói Lão Nhi lôi ra. Lão Nhi sợ hãi, nước mắt nước mũi ràn rụa. Tuyến Nương thấy thế, sai Ngô Nương lấy ra năm tiền giao cho Lão Nhi, cùng hai lạng bạc đưa cho mấy tiểu thái giám làm lộ phí. Lại bảo Ngô Lương cùng Lão Nhi ăn cơm no, rồi lên đường đón Hựu Lan.

Trương thái giám nói:

- Vũ Văn đại nhân hãy cùng Tế tiên sinh về huyện đường nghỉ ngơi, chúng tôi phải cùng lão già này đi tìm Hoa phu nhân.

Sĩ Cập đáp:

- Hoa phu nhân tự nhiên rồi cũng sẽ về thôi! Việc gì các ngài phải khó nhọc vậy!

Trương thái giám ghé tai Sĩ Cập nói nhỏ mấy câu. Sĩ Cập gật đầu rồi cùng Triệu Hằng lên đường. Hai thái giám cùng Lão Nhi ra cửa, Tuyến Nương lại sai lấy mười lạng bạc đưa cho Ngô Lương. Ai nấy lên ngựa.

***

Lại nói Hựu Lan ở nhà họ Đoàn đã hai ba ngày, sợ triều đình có thánh chỉ xuống, lòng lo lắng không yên, xin phép trở về, nhưng các phu nhân nhất quyết không chịu. Hôm ấy đang sắp trở về, thì thấy ngoài cửa vang tiếng người ngựa, rồi người người rầm rập vào, lũ học trò chạy tứ tán. Giả phu nhân vội chạy ra hỏi:

- Các người là ai vậy, sao lại chạy bữa vào đây thế này?

Lão Nhi vội vàng thưa:

- Phu nhân, Hoa cô nương hiện ở đâu mấy hôm nay, làm cho tiểu nhân khổ sở hết đường nói, xin mời ra đây ngay cho.

Giả phu nhân đáp:

- Hoa cô nương mấy hôm nay ở đây, các người đến đón về càng hay. Có việc gì mà huyên náo cả vậy?

Hai thái giám nhận ra rồi, Trương thái giám liền nói:

- Thật cũng lại không nhận ra được nhau. Thì ra các phu nhân phần lớn ở đây cả. Hay lắm! Hay lắm!

Giả phu nhân cũng nhận ra hai vị thái giám, không kịp tránh mặt, đành phải chào hỏi, kể chuyện đầu đuôi. Giả. phu nhân không ngăn nổi dòng lệ chứa chan. Trương thái giám hỏi:

- Ở đây có mấy vị phu nhân?

Giả phu nhân đáp :

- Chỉ có La phu nhân, Giang phu nhân, cộng là ba người.

Trương thái giám tiếp:

- Hay lắm rồi, hiện nay đương kim thánh đế đã có mật chỉ, lệnh tìm đủ mười sáu vị phu nhân. Vậy xin ba vị phu nhân ở đây hãy thu xếp hành trang, cùng chúng tôi về kinh. Xin còn hai vị nữa cũng ra để ta gặp mặt.

Ngô Lương cũng thưa:

- Cả Hoa cô nương cũng xin lên tiếng cho.

Chẳng mấy chốc cả Giang phu nhân, La phu nhân cùng Hựu Lan đều ra. Tất cả hàn huyên một hồi:

- Chúng ta ở đây, không thể lâu dài, chi bằng nhân lúc nhan sắc chưa tàn, hãy ra với đời vài năm, việc gì mà chịu cực ở đây, chịu đủ chuyện thê phong khổ vũ như vậy.

Ý đã định, cả ba thu tập tế nhuyễn, thuê hai chiếc xe. Ba vị phu nhân cùng Hựu Lan, từ biệt quả phụ họ Đoàn, lên đường với hai thái giám.

Đi được hai ba ngày đến gần Lôi Hạ, hai viên thái giám đưa ba vị phu nhân vào dinh của Thiện Hằng, Ngô Lương cùng với Lão Nhi lại thuê xe riêng về chỗ Đậu Công chúa. Tử Yên cũng đã thu xếp đầy đủ cho mẹ con Dương Hinh Nhi, rồi đến ở cùng Đậu Công chúa. Thiện Hằng đứng ra thu xếp đầy đủ mọi chuyện, tất cả lên đường. Tuyến Nương dặn dò phụ thân cùng An Tổ thu xếp nốt công việc còn lại, rồi quay về chùa sau, cũng nhớ đem theo cả Ngô Lương lẫn Kim Đính, cha con cùng khóc lóc một hồi, mới ai đi đường ấy.

Bốn vị phu nhân ở Nữ Trinh am, nghe nói có chuyện các phu nhân, nên không tiện ra tiễn biệt, chỉ sai Lão Nhi ra gởi lời chào. Vũ Văn Sĩ Cập cùng hai viên thái giám, đem theo ba vị phu nhân được Thiện Hằng thuê sẵn mấy chiếc xe, chưa đầy một tháng đã về gần tới Trường An.

Công Cẩn cùng La Thành, anh em Uất Trì, vẫn ở nhà Thúc Bảo, nghe tin, liền ra đón, thì thấy Mậu Công đến bảo:

- Tần đại huynh, cần phải tìm một nhà công quán nào để cho gia quyến Đậu Công chúa cùng Viên tiểu thứ ở tạm, rồi mới đón về nhà sau chứ?

Thúc Bảo đáp:

- Đậu Công chúa thuở trước ở nhà Đơn nhị ca, kết nghĩa chị em với Ái Liên. Nay mẹ con Ái Liên đều đang ở đây, họ mấy năm nay xa nhau, chi bằng cứ để ở đây, chẳng qua cũng khoảng một hai ngày, vào trình chúa thượng, rồi sẽ làm lễ thành thân, việc gì phải bày vẽ công quán.

Mậu Công thấy nói thế, vội quay về, sai khoảng mười viên gia tướng, cưỡi xe lớn, cùng mấy người đàn bà ra đón ngoài thành. La Thành cùng Công Cẩn, Uất Trì huynh đệ, Tần Hoài Ngọc, người nhà cũng làm một đoàn kéo ra.

***

Lại nói Sĩ Cập, hai thái giám với mọi người về đến mười dặm trường đình ngoài thành Trường An, đã thấy rất nhiều người và ngựa chờ đón, Công Cẩn, La Thành chạy ra thăm hỏi. Công Cẩn lên tiếng:

- Ngoài thành chẳng phải nơi dừng nghỉ lâu. Xin cả hai gia quyến tạm về nghỉ trong dinh Tần đại nhân, ngày mai sẽ vào ra mắt chúa thượng, sau đó hai nhà tính chuyện thành thân.

Sĩ Cập bằng lòng, Kim Đính lại đã cùng Phan Mỹ nhỏ to. Tuyến Nương thấy La Thành ngồi trên mình ngựa, dáng vẻ đường đường, lòng thầm nghĩ: "Hổ thẹn thay cho Tuyến Nương này, được sánh vai cùng người thế này, thì còn gì mà phải băn khoăn nữa"! Thật so với lúc khước từ thật khác xa vậy, rồi lên kiệu lớn. Hựu Lan cũng lên kiệu khác, người ngựa theo sau, như bay vào thành trước.

Gia tướng Từ Nguyên soái cũng đón Tử Yên lên kiệu, người ngựa xúm quanh đi tiếp.

Hai viên thái giám lên tiếng:

- Ba vị phu nhân, xin mời vào tạm dịch quán, chờ chúng tôi vào phục mệnh thánh hoàng, sẽ có người ra đón.

Sĩ Cập vào thành, gặp ngay Tần Vương, đứng lại chào hỏi. Cũng vì Vương Thế Sung vào Thục, vừa tới Định Châu lại làm phản, Tần Vương đang vào thưa với phụ hoàng, nên cả ba cùng Tần Vương vào triều.

Vua Đường lúc này đang cùng Đậu hoàng hậu, Doãn Phi tử, Trương Phi tử và Vũ Văn chiêu nghi xem hoa ở ngư uyển, cả bốn người liền vào ngự uyển. Trương thái giám thưa rõ công việc đầu đuôi vua Đường cả mừng liền hỏi:

- Ba cung phi năm nay tuổi tác ra sao?

Đậu hoàng hậu liền nói:

- Đó đều là thứ của nhà Tùy đã mất. Bệ hạ còn định gọi về làm gì nữa?

Trương thái giám thấy thế liền thưa ngay:

- Lúc Hứa Đình Phụ tuyển vào cung, đều khoảng mười sáu mười bảy, nay tính ra khoảng trên dưới ba mươi tuổi, nhưng ba vị này so với các phu nhân khác thì nhan sắc không bằng.

Trương Phi tử cười tiếp:

- Nay bệ hạ gọi về, làm một tòa Tây uyển, rồi đưa vào trong, thế mới thích ý chứ!

Vua Đường thấy từ lời nói, cử chỉ tất cả đều có vẻ chua chát, liền phải biện bạch:

- Các khanh không phải lo lắng. Trẫm làm việc này, chẳng phải cho trẫm đâu, mà đã có ý định khác hẳn hoi đấy!

Rồi hỏi Tần Vương:

- Các quan trong triều còn bao nhiêu người chưa thành gia thất?

Tần Vương thưa:

- Con thấy còn Ngụy Trưng, La Sĩ Tín, Uất Trì Cung, Trình Giảo Kim, chưa từng vợ con gì cả.

Đậu hoàng hậu hỏi hai thái giám:

- Tuyến Nương cùng Hựu Lan, Tử Yên hiện nay đang ở đâu?

Trương thái giám thưa:

- Cả ba đều đang ở dinh Tần tướng quân. Còn ba vị phu nhân đều đang ở quán dịch.

Vũ Văn chiêu nghi thưa:

- Tuyến Nương vốn là cháu gái của hoàng hậu, sao không gọi cả ba vào ngự uyển này để ra mắt?

Vua Đường liền lệnh cho Lý thái giám ra triệu cả ba vào kiến giá. Lúc này Tần Vương mới trình việc Thế Sung phục phản, vua Đường phán ngay rằng:

- Nghịch tặc phụ ơn như thế, hãy sai ngay tổng quản sở tại đem quân trừ khử ngay.

Chẳng bao lâu, đã thấy Lý thái giám đưa bọn Tuyến Nương vào phục lạy dưới thềm. Vua Đường cho phép bình thân. Tuyến Nương lại gần lạy chào hoàng hậu. Đậu hoàng hậu sai cung nữ đỡ dậy rồi nói:

- Đã lạy chào thánh đế rồi, chẳng cần phải đa sự!

Vua Đường xem ra bọn Tuyến Nương đều đoan trang, thuần hậu, phong thái nhuần nhã, liền phán:

- Cả ba khanh đây, một là bậc hiếu nữ, một là nghĩa nữ, một là tài nữ, so với mọi người thật khác hẳn vậy!

Liền sai cung nữ ban đôn gấm cho ngồi. Đậu hoàng hậu nói với Tuyến Nương:

- Hôm trước khanh có gửi lễ đến, ta đang định tìm vài thứ quý ban cho, thì gặp lúc thánh thượng có chỉ tiến kinh, cho nên chưa gửi.

Tuyến Nương thưa:

- Vài thứ thô lậu, không đáng để thánh mẫu để ý tới.

Đậu hoàng hậu lại khen:

- Khanh vốn nổi tiếng võ nghệ, không ngờ cả văn từ cũng thật tài hoa.

Vua Đường cười:

- Trong tấu chương vừa rồi, ý nhún nhường chị em, có phải là nói cho đẹp lời chăng?

Tuyến Nương quỳ thưa:

- Thực lòng thần thiếp nghĩ vậy, đâu dám quá lời. Lúc ấy La công tử gửi thư cho Tần tướng quân, nhờ Đơn viên ngoại nói với phụ thân thiếp, bị thiếp lấy trộm, chữa thành chuyện La công tử cầu hôn với Ái Liên tiểu thư con Đơn viên ngoại. Không ngờ tiểu thư đã hứa hôn với Tần Hoài Ngọc con trai của Tần tướng quân. Cho nên La công tử lại phải quay về với lời thề cũ.

Vua Đường phán:

- Chuyện cũng qua rồi. Nhưng khanh nói rằng Hựu Lan với La Thành đã cùng ăn ngủ, mà không thất thân, sợ có nói quá ít nhiều chăng.

Tuyến Nương thưa:

- Chuyện này đâu phải chuyện thường mà dám nói bậy trước thánh tôn, xin hoàng hậu lệnh cho cung nữ khám nghiệm, thì thấy ngay hành vi cả hai.

Đậu hoàng hậu tán đồng:

- Việc này cũng không khó!

Liền sai cung nga:

- Đem viên ngọc "Biện minh châu" ra đây!

Cung nga đưa trình, Đậu hoàng hậu gọi Hựu Lan lại gần, cầm viên ngọc màu sắc rực rỡ đủ năm màu, lau qua, là nhè nhẹ mấy lần trên lông mày Hựu Lan nhưng không thấy, lông mày Hựu Lan vẫn kết lại thành đám, mà không hề tán loạn bốn năm phía. Đậu hoàng hậu liền than:

- Đúng vẫn còn là khuê nữ vậy!

Vua Đường hỏi Hựu Lan:

- Khanh là con bé ngốc nghếch, cố chấp, may gặp La Thành là bậc quân tử, thế không thì đã ngọc nát ngói vỡ. Nay thành phu thê một nhà, thật cũng chẳng uổng công vậy!

Hựu Lan vội quỳ lạy tạ ơn. Đậu hoàng hậu, Tần Vương cùng cung nữ đều không nhịn được cười. Vua Đường lại nói với Tử Yên:

- Viên Phi tử giỏi khoa thiên văn, nay về tới Từ Nguyên soái, từ trong đến ngoài khuê phòng đều là bậc lo đời giúp nước cả vậy.

Rồi sai Trương thái giám ra dịch trạm triệu ba phu nhân vào, lại sai nội giám truyền gọi Ngụy Trưng, Mậu Công, Uất Trì Cung, Giảo Kim, còn Lý thái giám thì gọi La Thành, Thúc Bảo, Hoài Ngọc cùng mẹ con tiểu thư Ái Liên vào cả ngự uyển. Lại truyền cho bộ Lễ, làm sẵn mười ba giải hoa hồng, sắp sẵn ban nhạc. Vua Đường cùng Tần Vương ngồi trên đại điện chờ.

Ngụy Trưng, Mậu Công, Uất Trì Cung, Giảo Kim vào quỳ lạy dưới thềm. Vua Đường phán:

- Viên Tử Yên của Từ Nguyên soái đã được gọi đến. Trẫm nghĩ đến đức của Chu Văn Vương ngày xưa, trong không có lời oán của đàn bà, ngoài không có đàn ông ở một mình. Các ngươi lại đều là bậc đại thần có công lớn, mà trong nhà vẫn thiếu người lo liệu, nên sai nội giám tìm được ba mỹ nhân. Nhân nay ngày lành, các khanh hãy gieo quẻ rùa, xem duyên số trời định ra sao.

Ngụy trưng, Uất Trì Cung, Giảo Kim quỳ thưa:

- Chúng thần dẫu gắng tâm lực, vẫn chưa báo được ơn hoàng gia muôn một. Phương chi bốn biển chưa yên, đâu đã dám nghĩ tới chuyện phu thê.

Vua Đường phán:

- Thánh kinh đã dạy: "Phải lo đủ chuyện nhà cửa rồi mới nghĩ đến chuyện cai trị đất nước, ai trị được nước thì mới lo tới bình thiên hạ".

Tần Vương cũng khuyên:

- Đấy chính là việc giáo hóa của bậc đế vương, cùng với kẻ dưới hưởng phúc lớn, các khanh chẳng nên chối từ vậy.

Vua Đường liền sai cung nhân lấy một cái bình ngọc, rồi tự tay viết tên ba vị phu nhân, viên thành viên tròn, thả vào bình. Ngụy Trưng, Kính Đức, Giảo Kim, thầm khấn trời đất, mỗi người gắp một viên giấy. Ngụy Trưng được Giả phu nhân, Uất Trì Cung được La phu nhân, Giảo Kim được Giang phu nhân. Cả ba quỳ lạy tạ ơn. Trương thái giám dẫn ba phu nhân vào.

Vua Đường hỏi:

- Ai là Giả Tố Trinh, ai là La Tiểu Ngọc, còn ai là Giang Đào?

Từng phu nhân thưa. Vua Đường phán:

- Ba phu nhân đây, tuy chẳng đến quốc sắc thiên hương, nhưng cũng yểu điệu hoa nhường nguyệt thẹn, các khanh chẳng phải băn khoăn. Hãy vào nội cung gặp hoàng hậu, rồi làm lễ hoa chúc động phòng.

Lại thấy cha con Thúc Bảo, cùng mẹ con Ái Liên. Vua Đường riêng miễn lễ cho Thúc Bảo.

- Cha con khanh hãy bình thân!

Nhân chỉ Ái Liên hỏi: :

- Đây phải chăng là mẹ con họ Đơn? Ái Liên đã làm lễ thành thân chưa?

Thúc Bảo thưa:

- Dạ chưa! vua Đường thấy cũng mặt hoa da phấn, nét liễu dịu dàng, ra dáng con nhà đại gia, liền than:

- Thật là thục nữ vậy!

Liền sai nội giám dẫn vào ra mắt hoàng hậu, rồi hỏi Thúc Bảo:

- Vừa rồi Tuyến Nương có nói, từng kết chị em với Ái Liên, đã có thư làm mối cho La Thành, có chuyện này chăng?

Thúc Bảo thưa:

- Tuyến Nương dạo trước có chữa thư của La Thành, nhưng con trai thần từ lâu đã hứa hôn với ái viên. Cũng bởi thần với Đơn viên ngoại vốn kết nghĩa anh em sinh tử, đâu dám thay lời.

Vua Đường nói:

- Nếu đã hứa hôn từ lâu, trai tài gái sắc, sao chưa thành thân?

Thúc Bảo thưa:

- Cũng bởi lẽ Ái Liên muốn chờ làm lễ an táng phụ thân xong xuôi, sau mới lo chuyện gia thất!

Vua Đường tiếp:

- Thế cũng phải lẽ. Nhưng nay trẫm đứng làm chủ hôn, thấy vừa đôi đẹp lứa, lo chuyện gia thất cho con khanh, sau một tháng tứ lệnh về quê an táng phụ thân.

Rồi nói với bọn thị thần:

- Sắc phong Tuyến Nương nhị phẩm phu nhân, còn lại đều phong tứ phẩm phu nhân. Hãy mau tuyên triệu tất cả, cho kịp ngày lành, cùng làm lễ động phòng hoa chúc.

Thị thần nội mời đủ bảy phu nhân. Vua Đường gọi Ngụy Trưng, Mậu Công, Uất Trì Cung, Giảo Kim, cùng Tử Yên, Giả Tố Trinh, La Tiểu Ngọc, Giang Đào, đứng từng đôi một, ban cho mỗi người một giải hoa hồng. Bốn cặp tạ ơn, chiêng trống cờ quạt rộn ràng, ra khỏi ngự uyển.

Toán thứ hai, Hoài Ngọc cùng Ái Liên, cũng hoa, cũng trâm, ra khỏi sân rồng.

Toán thứ ba, La Thành đứng giữa, hai bên là Tuyến Nương, Hựu Lan, tạ ơn đi xuống sân rồng Vua Đường cười:

- La Thành mừng hơn cả, thật là cùng lúc được cả hai viên ngọc liên thành vậy!

La Thành cùng Tuyến Nương, Hựu Lan tạ ơn:

- Thánh ân rộng rãi không bờ, nhưng thần thiếp Tuyến Nương vốn là họ hàng hoàng hậu, chúng thần xin được tạ ơn, liệu bệ hạ có gia ân?

Vua Đường đáp:

- Đúng lắm!

Đứng dậy thoái triều, dẫn ba vợ chồng La Thành vào hậu uyển bái tạ. Đậu hoàng hậu rất đẹp ý khi thấy La Thành còn ít tuổi mà đã biết lễ, liền ban cho hai cung nữ, hai nội giám, cùng rất nhiều vàng ngọc, lụa là, lại thêm hương xa một cỗ cho hai cô dâu ngồi, rồi sai lấy cả đèn nến hoa chúc bày ở đại điện, cùng ban nhạc đưa ra khỏi nội cung, khắp thành trăm họ dân gian kéo nhau đi xem, ai cũng ngợi khen.

Chẳng biết về sau thế nào, hãy xem hồi tiếp sẽ rõ.

Hồi Thứ Sáu Mươi Ba

Vương Thế Sung quên ơn lại phản,

Tần Hoài Ngọc dẹp giặc lập công.

Từ rằng:

Giục ngựa buông cương dặm ruổi mau

Kiên trinh đồng điệu trước như sau

Dắt dìu thanh sử cùng lưu mãi

Đừng khiến mày xanh một nếp chau

Lòng cương trực làu làu như tuyết

Một nhát gươm hai giặc đầu rơi

Tử sinh thề có đất trời

Bạn vàng khăng khít hiếm hoi cõi trần.

Theo điệu " Ngộ giai kỳ"

Người xưa nói: "Lời của đàn bà không nên nghe theo". Nhưng lại cũng cổ sách dạy: "Lời phụ nữ nên nghe". Thế thì theo ai đây.

Thật ra thì trong số phụ nữ cũng có trí thông minh, có kiến thức, vượt cả đàn ông. Như thời nhà Minh, Thìn Hào định tính chuyện phản nghịch, vợ là Lâu Thị khóc lóc khuyên can, Hào không nghe, cuối cùng bị bắt, mới ngửa mặt mà than:

- Ngày xưa vua Trụ nghe lời đàn bà mà mất cả thiên hạ. Còn trẫm vì không nghe lời phụ nữ mà mất nước vậy.

Thế cũng rõ ràng trong những lời phụ nữ, có cả lời không nghe được và lẫn lời nghe được, việc này phải tùy người đàn ông, tùy theo chí hướng, thời thế mà xem xét những lời ấy có phải tai hay nghịch nhĩ.

***

Lúc đầu vua Đường sai bọn thái giám tìm các phu nhân của nhà Tùy về, vốn là để cho mình, nhưng bởi có một lời của Đậu hoàng hậu, nên thành được mấy đôi chồng vợ, đỡ bao nhiêu chuyện rầy rà. Nếu là Tiêu Hậu, thì sẽ mặc sức vun vào, làm lỗi lầm của vua càng thêm nặng. Việc vua Đường theo ý riêng, dựng vợ gả chồng như vậy, không ngờ lại làm cho bọn này, cả đàn ông lẫn đàn bà, đều rất là hoan hỷ, cảm ơn hoàng gia, vậy nên vua Đường cũng rất thích ý, vào nội cung kể lại cho hoàng hậu cùng các phi tần nghe. Nói đến chuyện Đơn Ái Liên cũng muốn lo việc tang lễ cho phụ thân Đơn Hùng Tín đã, rồi mới tính chuyện gia thất, Đậu hoàng hậu liền than thở:

- Không ngờ bọn đàn bà hiếu nghĩa, lại phần lớn xuất từ ở nơi hoang thôn, rừng núi.

Vũ Văn chiêu nghi bỗng thấy cũng nước mắt chan chứa hai hàng, vua Đường kinh ngác, hỏi:

- Chiêu nghi, cớ sao lại bi thương thế?

Chiêu nghi đáp:

- Linh cữu thân mẫu thiếp vẫn còn ở Lạc Dương, anh trai Sĩ Cập vẫn chưa lo được việc an táng.

Vua Đường phán:

- Ngày mai trẫm sẽ hỏi rõ Sĩ Cập xem sao?

Nói chuyện Trương Công Cẩn ở lại nhà Tần Thúc Bảo, nhân vì La Thành mới kết hôn, không tiện thúc giục. Lại nữa, các nhà vương phi, công hầu, đại phu, nhân hoàng hậu nhận Tuyến Nương làm cháu gái, nên càng ái mộ Tuyến Nương cùng Hựu Lan phu nhân hiếu nghĩa, tranh nhau mời mọc, đêm ngày ca ngợi. Vì vậy, Công Cẩn sợ ở U Châu xảy có chuyện gì, nên vào xin thánh thượng để về trước. Không ngờ Tần Vương vốn trọng tài năng Công Cẩn, tâu với phụ hoàng, lưu Công Cẩn ở Trường An giữ chức Tư mã kiêm đốc bổ tư. Còn chức thứ sử U Châu, giao La Thành tạm trông coi. Thánh chỉ đã ban, Công Cẩn ở lại Trường An, viết thư trình rõ, sai người đem về đưa Yên Quận Vương La Nghệ, rồi đón luôn gia quyến lên kinh đô.

La Thành nhân được cất nhắc thay chức Công Cẩn, lại sợ phụ mẫu mong chờ, nên được gần tháng sau, vào tạ ơn vua, các quan tướng thân thuộc từ biệt. Lại theo lời dặn của Tuyến Nương, tới cảm tạ vũ văn Sĩ Cập, thấy xe ngựa, lính tráng đầy sân, đang rối rít xếp dọn. La Thành tạ ơn xong, liền hỏi:

- Đại nhân đang định đi đâu, mà xe ngựa rộn ràng thế này?

Sĩ Cập đáp:

- Hạ quan nhân linh cữu tiên mẫu chưa táng, nên xin phép nghỉ hai tháng, về Lạc Dương lo xây mộ phần, lên đường ngay bây giờ, nên sợ không được tiễn tướng quân vinh quy.

La Thành đáp:

- Tiểu tướng cũng định sáng mai lên đường.

La Thành trở về, suốt đêm sắp đặt cùng Tuyến Nương, Hựu Lan, chào Tần thái thái, Thúc Bảo, Trương phu nhân. Vợ chồng Hoài Ngọc cũng ra gặp gỡ, rồi tiễn ra cửa. Anh em Uất Trì cùng hai viên thái giám được Hoàng hậu mới ban cho và bọn Phan Mỹ làm toán đi trước. La Thành, Tuyến Nương, Hựu Lan cùng các hầu gái theo sau. Từ Huệ Phi cũng sai nội giám Tây phủ, Viên Tử Yên thì sai Thanh Cầm, rồi có các phu nhân họ Giả, họ La, họ Giang đều sai người đến chào, nghẽn cả đường phố lớn, tiễn đến hơn mười dặm, tất cả lại mới quay về.

La Thành về lăng mộ Lôi Hạ, lại muốn mời Đậu Kiến Đức tới U Châu, đi suốt ngày đêm, chẳng bao lâu đã ra khỏi Đồng Quan, sắp tới cửa Thiên Châu, là một vùng dân cư đông đúc. Hôm ấy lên đường sớm, chưa ăn cơm, đang lúc toán Uất Trì hai anh em đi trước tìm một hàng cơm rộng rãi mà không ra, lại phải đi thêm mấy dặm nữa, thấy một quán rượu, ở ngay giữa phố, trên cờ treo trước cửa có viết:

Mời khách ngựa xe dừng bước

Đón phường danh lợi nghỉ chân.

Thấy thế mọi người xuống ngựa, vào quán. Phòng ăn vừa cao rộng, lại còn sớm nên vẫn vắng vẻ, Uất Trì Nam vội lệnh cho chủ quán, thu xếp ngăn nắp, bày sẵn tiệc rượu, rồi ra đón toán đi sau. Thì thấy dân chúng đang tụ tập trước cửa một ngôi chùa ở đầu phố. Uất Trì Nam hỏi nguyên cớ, có người đáp:

- Không biết, các ngài cứ lại xem sao?

Anh em Uất Trì cùng vào chùa, lên ba gian Phật dường, thấy trên điện khói hương tươm tất, bên dưới là mấy ni cô già xúm lại nước mắt ngắn dài, Uất Trì Nam hỏi một ni cô già nhất, ni cô vẫn khóc, không đáp. Lại nghe tiếng bàn tán xung quanh, một người nói:

- Vị công chúa vốn dòng cành vàng lá ngọc, chẳng ngờ nước mất nhà tan, lại còn bị mấy vị quan nha làm nhục nữa chứ!

Anh em Uất Trì không dám hỏi thêm, sợ đoàn La Thành đến, vội quay ra đón, vừa quay ra ngựa xe cũng đã tới tất cả vào quán.

La Thành vào sau, thấy ngoài phố ồn ào; mới hỏi chuyện anh em Uất Trì. Uất Trì Bắc kể lại những điều mắt thấy tai nghe. Tuyến Nương nghe được, bèn nghĩ: "Hay là họ hàng nhà Tùy, nhà Ngụy lưu lạc ở đây sao?" Liền sai tả hiệu cho gọi một ni cô đến. Ngô Lương cùng Kim Đính vội chạy ra, gọi theo mấy người lính đến chùa, nói với bọn ni cô:

- Công chúa cùng tướng quân mời ni cô trụ trì tới ngay?

Ni cô trụ trì bèn hỏi:

- Công chúa nào, tướng quân nào?

Kim Đính đáp:

- Ni cô cứ tới sẽ cho biết!

Ni cô trụ trì đành đi theo, vào quán, thấy Tuyến Nương, La Thành, cúi đầu bái chào. Tuyến Nương hỏi ngay:

- Chùa bị ai hà hiếp, có công chúa nào trong ấy?

Ni cô thưa:

- Công chúa Nam Dương của thời đầu nhà Tùy, góa chồng sớm, một lòng thủ tiết, có một người con, tên là Thiên Sư. Nhân khi Hạ Vương diệt Vũ Văn Hóa Cập, tướng của Hạ Vương là Vu Sĩ Trường, thấy công chúa mặt hoa da phấn, đòi lấy, công chúa không chịu, Sĩ Trường liền vu cho Thiên Sư là bè đảng của Hóa Cập, rồi giết chết. Công chúa xin với Hạ Vương được đi tu ở ngay Lạc Dương. Nhân gần đây giặc cướp nhiều, nên lên đường về Trường An tìm người thân, giữa đường lại gặp giặc cướp, nên mới tìm đến chùa trú chân. Cách đây ba hôm có một vị quan lớn tên là Vũ Văn Sĩ Cập, cũng đến quán này, không biết có người nào thưa chuyện, quan lớn mới tìm đến chùa, đòi gặp công chúa. Công chúa nhất định không chịu, quan lớn mới đứng ngoài cửa lên tiếng: "Công chúa ở góa một mình, hạ quan thì chết vợ, xin mang xe hoa đến đón. Rồi khoe nào là ít tuổi, nào là quan cao. Không ngờ công chúa nghe ra, đùng đùng giận dữ, từ trong cửa quát: "Ta cùng với ngươi vốn là cừu thù, nay gặp nhau đây, chỉ giận không chém được ngươi để trả tội thoán nghịch xưa. Nay nếu cứ ức hiếp, thì chỉ có chết!". Quan lớn biết không thể nên chuyện, đành bỏ đi, bọn tay chân doạ bần tăng tội che giấu cho quyến thuộc nhà Tùy, đòi phải dâng vàng lụa. Nhưng thực chẳng có, nên đang không biết lo liệu ra sao.

Tuyến Nương nói:

- Thuở trước Dương Thái bộc cho là Sĩ Cập có đức hạnh, nên mới bày cách đi về với nhà Đường, đem em gái dâng vua Đường, nên được sủng ái. Không ngờ lại cũng là phường hiếu sắc đến như thế. Thật đúng là lũ nhai văn nhai chữ này, chỉ có đến lúc đậy nắp quan tài mới biết chắc là người thế nào.

Liền sai ngay mấy hầu gái, cùng với ni cô quay về chùa, mời Nam Dương công chúa tới gặp.

Hầu gái đưa công chúa vào, khoảng ba mươi tuổi, vẫn còn mang vẻ hoa nhường nguyệt thẹn. Tuyến Nương cùng Hựu Lan đứng dậy chào hỏi, từ tốn mời ngồi. Tuyến Nương lên tiếng:

- Ni cô vừa nói chuyện, công chúa định đến Trường An thăm người thân là ai vậy?

Nam Dương công chúa đáp:

- Quang Lộc đại phu Lưu Văn Tĩnh là bạn thân của vong phu (1) thiếp, vốn là khai quốc công thần nhà Đường, nên định về Trường An nương nhờ, sống nốt kiếp sống thừa. Không ngờ lại nghe Lưu Văn Tĩnh không hòa với Bùi Giám, vu cho chuyện gì đó, cuối cùng bị giết. Nước nhà tan nát thân thích đều chẳng còn, nay lại thêm bọn đàn ông cuồng điên làm nhục.

1 Vong phu: gọi người chồng đã chết.

Nói xong nước mắt như mưa. Tuyến Nương thấy tình cảnh thế, không khỏi đau xót, nói:

- Nếu công chúa vẫn giữ ý, quy Phật pháp, thì nơi này không phải chỗ nương thân. Ta có một chỗ rất yên ổn, nhưng không biết ý công chúa ra sao?

Nam Dương thưa:

- Xin được nghe lời dạy bảo!

Tuyến Nương đáp:

- Nữ Trinh am ở vùng Lôi Hạ hiện có bốn phu nhân họ Tần, họ Đinh, họ Hạ, họ Lý, chủ chí phần hương. Nếu công chúa cũng muốn đến đó, thì xin cùng đi ngay.

Nam Dương đáp:

- Nếu được công chúa tiếp dẫn, thiếp xin ngày đêm cầu phúc.

Tuyến Nương nói:

- Chúng ta cũng về Lôi Hạ, nếu công chúa quyết đi, hãy thu xếp hành trang.

Nam Dương vui mừng, lập tức quay về chùa lấy hành lý, tạ ơn các ni cô, rồi lại quán cơm. Tuyến Nương lấy mười lạng bạc, thưởng cho các ni cô, sai tả hữu thuê một xe lừa cho Nam Dương ngồi, tất cả lên đường, Kim Đính cùng Phan Mỹ ở lại sau trả tiền cho chủ quán. Thấy ở trong quấy có một người râu quai nón, mặt vuông chữ điền, hai tai to cười hỏi:

- Hãy khoan tính tiền, xin hỏi công chúa vừa lên xe, có phải là con gái Đậu Kiến Đức chăng?

Phan Mỹ đáp:

- Đúng rồi!

Lại hỏi:

- Còn vị tướng quân là ai thế?

Kim Đính đáp:

- Con Yên Quận Vương U Châu La Nghệ, La Thành! Vừa được hoàng đế đứng ra làm chủ hôn.

Hảo hán lại hỏi tiếp:

- Thuở trước Hạ Vương có một người bề tôi là Tôn An Tổ không biết bây giờ ở đâu?

Kim Đính đáp:

- Hiện cùng với Hạ Vương, tu hành trên núi.

Hảo hán gật đầu:

- Không hiểu gia quyến Đơn viên ngoại bây giờ ra sao, thật đáng thương!

Phan Mỹ đáp:

- Con gái Đơn viên ngoại, cũng vừa được hoàng thượng làm chủ hôn cho với công chúa ta một lần, lấy con trai Tần tướng quân. Hoàng thượng lại cho phép về quê an táng viên ngoại, cũng sắp lên đường về Lộ Châu.

Hảo hán nghe nói, vỗ tay cười lớn:

- Hay lắm! Hay lắm! Thế mới là vua hiền!

Phan Mỹ giục tính tiền, hảo hán liền đáp:

- Hạ Vương cùng Tôn An Tổ đều là bạn bè thở trước, nay túc hạ bất ngờ hạ cố một bữa cơm, không phải lo lắng gì cả!

Phan Mỹ cứ đưa bạc ra, hảo hán nhất định không chịu nhận:

- Không phải khách khí, xin hãy cứ cầm lấy. Nhưng túc hạ nói linh cữu Đơn viên ngoại sắp đưa về Lộ Châu có đúng không?

Kim Đính đáp thay:

- Sao lại không đúng. Sớm muộn gì cũng sẽ lên đường.

Hảo hán lớn tiếng:

- Tốt quá rồi! Xin cảm tạ!

Phan Mỹ hỏi họ tên, hảo hán không chịu đáp, hai tay chắp lạy vái chào. Phan, Kim đành cầm lấy bạc, lên ngựa đuổi theo bọn La Thành.

Hảo hán ở trong quán cơm là ai vậy? Đó chính là bậc nổi danh trên chốn giang hồ, họ Quan tên Đại Đao, người Liêu Đông thuở xưa cũng đã từng đi buôn muối lậu, làm tướng cướp, chẳng từ điều gì. Đại Đao vốn ghét phường quan lại, không chịu luồn cúi, gần đây thấy Lý Mật, Đơn Hùng Tín gặp chuyện thảm hoạ, nên cũng thu mình, mở một cửa hàng, gặp bọn tham quan ô lại nhất định không để yên, tìm cách vét cho sạch túi, rồi mới tha cho đi, nhưng được cái là không bao giờ giết người, không chịu làm quan. Đại Đao nói: "Tổ ta là Quan Công, một vị thiên thần chính trực, ta đời nào lại giết người bậy". Còn nói: "Quan Công ngày xưa không chịu hàng Tào, ta nay cũng không chịu theo nhà Đường". Cũng vì vậy, hào kiệt bốn phương đều rất kính trọng Đại Đao.

Chính là:

Bốn biển anh hùng đâu dễ biết

Ruột gan khác hơn bọn ngu dốt

Cười kẻ "chi hồ giả dã " kia (1)

Khoe mới ta đây phường thanh khí.

1 "chi hồ giả dã": Những hư từ thường gặp trong văn ngôn cũ Trung Quốc, dùng để chỉ bọn hủ nho giáo điều.

***

Lại nói Tuyến Nương muốn đưa phụ thân về U Châu liền cho bọn Hựu Lan đi Lôi Hạ trước, Tuyến Nương cùng La Thành đến Ẩn Linh Sơn đón thân phụ. Kiến Đức cùng Đường Tam Tạng bàn luận, chán cảnh trần thế, nên Kiến Đức từ chối không xuống núi. Công chúa đành khóc mà về.

Đến Lôi Hạ, Nhuận Phủ cùng Thiện Hằng đều ra đón. Bốn vị phu nhân ở Nữ Trinh am, mời về nhà, cùng nhau gặp gỡ. Mẹ con Dương Hinh Nhi đã được Từ Mậu Công đón về Trường An. Công chúa làm lễ ở lăng Tào Hoàng hậu, giao cả mọi thứ cho hai gia tướng già cũ của Kiến Đức cai quản, thu thập hành trang, sai người đưa Nam Dương công chúa cùng bốn vị phu nhân về Nữ Trinh am, rồi cùng La Thành, Hựu Lan lên đường về Bắc.

Nhuận Phủ đưa tiễn La Thành đi xong, biết chuyện gia quyến đưa linh cữu Đơn Hùng Tín về quê, liền nghĩ: "Hùng Tín một thuở đi lại với bạn bè thật là tận tình, tận nghĩa, nhiều người được cưu mang, ta cũng từng là bạn bè cùng chung hoạn nạn. Lúc Hùng Tín lâm hình, họ Tần họ Từ cắt thịt, bàn chuyện nhân duyên, để báo ơn đức. Ta vốn tự hào là kẻ có lòng, sao chưa đền đáp được mảy may. Nay nhân dịp này, hãy ra đón linh cữu, vái một vái gọi là!". Liền thu xếp hành lý, kéo theo một số người xung quanh cũng là những bậc hào kiệt, đã từng chịu ơn Hùng Tín, lên đường đi Trường An.

***

Lại nói Tần Hoài Ngọc, cùng với tiểu thư Ái Liên, sau tuần trăng mật, từ biệt Tần thái thái, cùng phụ mẫu lên đường. Thúc Bảo lại chọn bốn gia tướng, đem theo năm chục lính hộ tống. Hoài Ngọc lúc này, vì công lao của phụ thân, vua Đường phong cho chức Điện tiền hộ vệ tả thiên ngưu, bạn bè quen thuộc đều đến tiễn đưa, Hoài Ngọc cùng mọi người xe ngựa lên đường.

Đi được mấy ngày, đã cách Trường An xa, đang giục ngựa tìm chỗ nghỉ, thấy năm bảy người cao lớn, đều mang áo trắng ngắn, khăn trắng chít đầu, đến trước ngựa hỏi:

- Xin được hỏi các vị một câu. Xe tang của Đơn viên ngoại, hiện đang ở đâu?

Bọn gia tướng trên lưng ngựa liền đáp:

- Ngay ở phía sau kia!

Mấy người liền chạy như bay lên. Gia tướng nghi hoặc sợ là người xấu, vội vàng quay ngựa theo. Bọn người kia chạy khoảng một dặm, thì thấy phía trước bụi bay mù mịt, một đội người ngựa, đi trước là biển đề chữ vàng: "Phụng chỉ tứ táng" (l). Ở giữa là một khám thờ làm bằng lụa hồng, có minh tinh cũng thêu chữ vàng: "Cố tướng quân Đơn Hùng Tín công chi cữu". Người sau người trước hộ vệ nghiêm trang. Bọn này thấy vậy, vỗ tay mà reo:

- Đúng rồi! Đúng rồi!

1 Vâng lệnh nhà vua mà làm táng lễ.

Cả bọn kéo đến trước linh cữu, quỳ lạy, khóc lóc thảm thiết. Gia tướng thấy vậy biết là người tốt. Hoài Ngọc vội vàng xuống ngựa trả lễ. Đơn phu nhân thấy thế, cung vén rèm kiệu nhìn kỹ, thì nhận ra được một người họ Triệu, tước hiệu là Mảng Nam Nhi, lúc trước giết người, may được Hùng Tín giấu ở trong nhà, tốn rất nhiều công sức. Còn năm sáu người kia đều không nhận ra. Đơn phu nhân thương cảm không ngăn được nước mắt. Các hảo hán khóc lóc một hồi rồi đứng dậy, hỏi:

- Ai là Tần tiểu tướng con rể Đơn viên ngoại?

Hoài Ngọc thưa:

- Chính tiểu tướng ạ!

Cả bọn tiến lại, cầm tay Hoài Ngọc:

- Thật xứng đáng con rể Đơn viên ngoại!

Cũng có người khen:

- Thật là con nhà Tần đại huynh!

Lại có người hỏi:

- Đơn phu nhân cùng Ái Liên tiểu thư đâu?

Hoài Ngọc đáp:

- Đang trong xe sau kia.

Người này nói:

- Anh em ta hãy lại chào Đơn phu nhân!

Các hảo hán đến trước xe, Đơn phu nhân còn chưa xuống xe, sáu bảy hảo hán đã quỳ lạy chào. Đơn phu nhân vội xuống xe đáp lễ. Các hảo hán đứng dậy, nói:

- Anh em chúng tôi nghe chuyện Đơn viên ngoại, ai nấy đều thường băn khoăn, chỉ vì không tiện đến thăm. Nay cảnh nhà đã tốt hơn, được con rể tài giỏi, có được chỗ dựa suốt đời.

Đơn phu nhân đáp:

- Vong phu bất hạnh, lại làm phiền đến các ngài quá nhiều.

Mang Nam Nhi nói:

- Trời đã chiều rồi, mời phu nhân ghé vào nghỉ, Giả tiên sinh cũng đang chờ ở đây?

Nói rồi cùng các vị hảo hán, gươm tuốt sáng xanh, đi theo hai bên linh xa hộ tống, dáng vẻ nghiêm trang kính cẩn. Vốn là Giả Nhuận Phủ rủ các vị hảo hán này, cùng đến trọ ở cửa hàng của Quan Đại Đao. Thấy linh xa đã tới, Nhuận Phủ cùng mọi người ra đón, khóc lóc một hồi, Đơn phu nhân cùng Hoài Ngọc vội hoàn lễ. Đại Đao cùng tay chân đưa linh cữu vào một gian phòng đã dọn sẵn.

Đại Đao dẫn Đơn phu nhân, Hoài Ngọc cùng Ái Liên, vào ba gian nhà phía sau rồi nói:

- Mấy gian này, mới mấy hôm trước, Đậu Công chúa cũng nghỉ nơi đây, quét dọn rất sạch sẽ. Xin phu nhân cùng tiểu tướng đừng ngại. Người đi theo ở phía ngoài kia cũng đủ.

Đơn phu nhân hỏi Nhuận Phủ:

- Các vị hào kiệt đây, sao lại biết chúng tôi qua đây mà chờ đón cả thế này?

Nhuận Phủ nói:

- Trước tiên là do Quan đại huynh dò biết thực hư, rồi báo cho mọi người cùng đến, đó là một nhóm, còn một nhóm là do Nhuận Phủ này dẫn từ Lôi Hạ tới vậy. Các vị đây trước kia đều được chịu ơn của Đơn viên ngoại ít nhiều nên mới có lòng như vậy.

Rồi cùng Hoài Ngọc bước ra nhà ngoài, thấy ở giữa nhà, kê một bàn lớn, quay mặt hướng nam, trên bàn có bài vị bằng giấy, viết: "Nghĩa hữu Hùng Tín, Đơn Công chi vị". Đại Đao cùng mọi người cúi lạy, Hoài Ngọc hoàn lễ. Đại Đao rót rượu nâng lên đặt trước bài vị, rồi đứng dậy thưa:

- Bàn thứ hai xin mời Tần tiểu tướng, phải không Giả tiên sinh?

Nhuận Phủ đáp:

- Không như thế được. Hoài Ngọc còn có lệnh nhạc ở trên, không thể ngồi đối diện. Thứ nữa Tần đại huynh vốn cùng anh em chúng ta đi lại, làm sao dám thế. Chi bằng Nhuận Phủ này cùng với Tần tiểu tướng ngồi hai bên, các vị tướng cứ lần lượt mà ngồi, anh em ta lấy nghĩa khí làm trọng, không lấy tước vị làm lớn, chính là cảnh định đoạt ngôi thứ trên giang hồ vậy!

Ai nấy nhất loạt tán đồng:

- Tiên sinh nói đúng lắm!

Ngồi yên chỗ, Đại Đao đứng dậy nâng chén nói lớn:

- Trình với Đơn viên ngoại, đêm nay anh em chúng tôi tụ họp tại đây để hầu tiếp viên ngoại. Đơn viên ngoại hãy cùng về uống rượu với chúng tôi một chén?

Cả bàn tiệc nhất loạt nâng chén, rồi chuyện cựu giao với Hùng Tín ra sao, được hết người này đến người khác kể lể, kể đến chỗ thích, ai nấy hoa tay, dậm chân, đến chỗ thương tâm thì lại nức nở, sụt sùi. Mang Nam Nhi cất tiếng:

- Tần tiểu tướng có nhớ tháng chín năm ấy, Tần thái thái làm lễ mừng lục tuần thượng thọ, Đơn viên ngoại sai đưa lệnh tiễn tới chỗ chúng tôi, lúc ấy thân phận nào được như ngày nay, đang phải lẩn trốn trong rừng rậm, không tiện xuất đầu lộ diện.

Đưa tay chỉ rồi nói tiếp:

- Chỉ cùng với ba vị này, góp lại đâu năm sáu trăm lạng, tới Tế Châu, ban ngày không dám vào, mãi tới canh hai nhảy qua cửa sau, bỏ bạc vào bao cói, vứt vào trong buồng sau. Chuyện này có lẽ Tần tiểu tướng không được biết.

Hoài Ngọc đáp:

- Tiểu tướng có được thân mẫu kể lại cho nghe.

Bỗng bên ngoài có tiếng gõ cửa rất gấp. Đại Đao vội chạy ra, mở cửa nhìn, nói lớn:

- Thì ra là Đơn chủ quản, đến đúng lúc lắm. Linh cữu Đơn viên ngoại hiện đang ở đây.

Đơn Toàn, lúc ấy vào với Hùng Tín ở Trường An, sau đó từ biệt Đơn phu nhân về quê. Thúc Bảo, Mậu Công biết rõ Đơn Toàn là bậc nghĩa khí, cũng muốn nâng đỡ để làm một việc gì đấy, nhưng Đơn Toàn không chịu, quay về Nhị Hiền trang. Thường ngày Hùng Tín đối xử rất tốt, không ai là không thương tiếc, nên ruộng đất, nhà cửa, đều được xung quanh coi sóc, nay thấy Đơn Toàn trở về, đều giao lại đầy đủ Đơn Toàn cũng không hề tính chuyện riêng tư, hoa lợi trong trang trại đều có sổ sách ghi chép cẩn thận, nay nghe tin Phu nhân đem linh cữu về quê, vội ngày đêm đi đón, trên đường nghe ngóng, nên tìm đến đây.

Đại Đao đưa Đơn Toàn vào, Nhuận Phủ trông thấy, vui mừng nói:

- Đơn chủ quản cũng đã tới rồi?

Đơn Toàn lại ngay trước bài vị quỳ lạy, sau đó chào hỏi mọi người. Đến lượt Hoài Ngọc, Hoài Ngọc vội kéo Đơn Toàn dậy, mọi người lên tiếng:

- Đơn chủ quản hãy ngồi uống rượu với chúng tôi đã.

Đơn Toàn thưa:

- Xin các ngài cứ tự nhiên. Phu nhân hiện không biết ở phòng nào, cho vào lạy chào đã.

Một hầu gái dẫn Đơn Toàn đi, chẳng mấy chốc đã quay ra ngồi vào chỗ. Nhuận Phủ hỏi:

- Chúng ta anh em đây, nghĩ đến công đức của Đơn viên ngoại lúc sống, đều đến đây theo linh xa về quê. Anh em cùng gặp gỡ vài ngày, chẳng hiểu Nhị Hiền trang công việc ra sao?

Đơn Toàn đáp:

- Mọi thứ đã sắp đặt sẵn sàng, chỉ có đất là chưa dám chọn. Hiện nay Vương Thế Sung ở Định Châu, cùng với Bính Nguyên Chân phản loạn. La Sĩ Tín đã bị mắc mưu mà chết, Thế Sung chiếm được mấy huyện thành, hôm qua nghe nói đã đến Lộ An, giờ thì có lẽ đã đến Bình Dương. Chỉ sợ đường đi lại sẽ khó khăn, làm thế nào bây giờ?

Nhuận Phủ nói:

- Trước kia chúng tôi cùng Ngụy Công ở Kim Dung thành, đàng hoàng bao nhiêu. Cũng vì trúng kế của Thế Sung mà đến nỗi thế. Đơn viên ngoại cũng vì liên lụy với y mà đến nỗi vong thân, cùng bao anh em khác phải lênh đênh. Nay lại thêm La Sĩ Tín, ta mà gặp y, tất phải tuốt đao mới thỏa dạ này.

Hoài Ngọc nghe Sĩ Tín bị giết, khóc mà nói:

- La thúc vốn là anh em khác họ với phụ thân tiểu tướng, cùng ở một nhà đến mấy năm, nay một sớm mạng vong. Phụ thân tiểu tướng nghe tin này, thế nào cũng xin đem binh đánh dẹp, báo thù cho La thúc thúc.

Đơn Toàn nói:

- Tiểu nhân hôm qua nằm ngủ ở Thất Tinh cương, khoảng canh ba, nằm mộng thấy Đơn chủ nhân, gọi tên tuổi tiểu nhân mà nói rằng: "Ta về đây! Rất căm thằng Thế Sung đã giết chết người anh em kết nghĩa của ta, cũng là kẻ tâm giao với ta lúc khởi sự. Ta biết thằng giặc này số mạng đã hết, người hãy bảo con rể ta tìm giết Thế Sung, mà lập chút công trạng".

Đại Đao bàn:

- Anh em chúng ta cùng làm việc này xem sao, để cũng là báo thù cho La Sĩ Tín vậy?

Nhuận Phủ đáp:

- Nếu anh em đều bằng lòng, thì nhất định là làm được.

Ai nấy hỏi:

- Làm thế nào bây giờ?

Nhuận Phủ đáp:

- Mưu kế thì rồi lúc lâm trận sẽ có, nên hãy khoan bàn. Nay hãy tính chuyện, phải cả Quan hiền huynh cùng đi mới xong, thế thì ai coi sóc cửa hàng cho?

Đại Đao đáp:

- Cửa hàng để kiếm lời, dẫu có đóng cửa vài ngày, cũng chẳng hề gì, nhưng cũng nên giữ Đơn chủ quản ở lại trông nom mọi việc.

Đơn Toàn nói:

- Tiểu nhân xin cùng đi với Trương phu nhân về trước vậy?

Nhuận Phủ bàn:

- Đơn phu nhân cũng hãy tạm ở đây vài ngày, nhờ vong linh Đơn viên ngoại, chúng ta ra đi làm chuyện này thành công, sẽ quay lại đưa linh xa về Nhị Hiền trang cũng chưa muộn.

Các hảo hán hoa tay dậm chân:

- Đúng lắm!

Đơn phu nhân nghe thấy bàn thế, liền mời Nhuận Phủ vào thưa:

- Hoài Ngọc còn ít tuổi, sợ gặp phải bọn giặc không vừa, xin tiên sinh liệu chu đáo cho.

Nhuận Phủ đáp:

- Phu nhân cứ yên lòng, mọi chuyện đều do anh em. Nhuận Phủ này cùng tiểu tướng chẳng qua đi sau tiếp ứng, mọi chuyện xin cáng đáng cả, phu nhân đừng lo.

Rồi quay ra nói:

- Ngày mai chúng ta sẽ vào việc sớm. Giờ hãy đi nghỉ cho khỏe đã.

Sang canh năm, Đại Đao ghé tai Nhuận Phủ nói mấy câu, lại dặn dò Đơn Toàn cẩn thận, lặng lẽ cùng các hảo hán lên đường trước, Nhuận Phủ cùng Hoài Ngọc, gia tướng theo sau.

***

Lại nói Đại Đao cùng với bọn Mang Nam Nhi, đi được hai ba ngày, đến vùng Giải Châu, gặp tiền đội của Thế Sung, thấy hai ba chục người toàn mặc tang phục trắng liền hỏi:

- Các ngươi kéo đi đâu thế này?

Ai nấy đáp:

- Chúng tôi đưa linh cữu Đơn viên ngoại về quê!

Viên tướng trên lưng ngựa liền hỏi:

- Đơn viên ngoại nào?

Đáp:

- Đơn Hùng Tín tướng quân chứ còn ai nữa!

Viên tướng:

- Hùng Tín chính là dũng tướng của chúng ta bị vua Đường sát hại. Các ngươi là ai, mà lại đi theo hộ tống linh cữu?

Đáp:

- Chúng tôi đều là binh sĩ dưới quyền của Đơn tướng quân cũ, cảm ơn đức, nên chẳng từ đường xá xa xôi. Các ngài là ai, ở đâu vậy?

Viên tướng:

- Vua Trịnh đang ở phía sau, các ngươi hãy đứng chờ một lát, sẽ biết rõ.

Bỗng thấy ở phía sau, bụi cuốn mù mịt, một đoàn người ngựa kéo đến. Bọn này vỗ tay mừng reo:

- Đúng là vua cũ của ta đây rồi!

Viên tướng lúc này đến thưa chuyện với Thế Sung. Thế Sung liền hỏi:

- Linh cữu của Đơn tướng quân, các ngươi đem về đâu?

Ai nấy đáp thưa:

- Về Nhị Hiền trang!

Bính Nguyên Chân ngồi trên ngựa ngay cạnh nói:

- Chỉ sợ là gian tế!

Liền sai lại khám người, ai nấy vẫn bình thản, không chút sợ hãi. Thế Sung hỏi:

- Các ngươi đều là binh lính, sao không về với nhà Đường mà tìm chỗ xuất thân?

Ai nấy thưa:

- Nhà Đường đã chẳng tha tội cho Đơn tướng quân, thì chúng tôi sao lại bội nghĩa mà hàng nhà Đường?

Thế Sung:

- Các ngươi nếu là binh lính của ta, hiện nay đang thiếu người, sao không theo ta. Trước các ngươi là kỵ binh hay bộ binh?

Lạy thưa:

- Lúc ấy là kỵ binh cả!

Thế Sung hỏi họ tên, sai thư ký ghi vào sổ danh, cấp cho khí giới, áo giáp, cả ngựa cưỡi, theo với đội thứ hai.

***

Lại nói Hoài Ngọc cùng với Nhuận Phủ đi được ba ngày, gần tới Giải Châu, Nhuận Phủ bảo Hoài Ngọc sai một tên lính linh lợi, giả làm hành khất, đi trước nghe ngóng, rồi cả bọn vào trong Quan Vương miếu. Cách hai ngày sau, thấy tên lính về thưa:

- Tiểu nhân mới đầu nghe tin các vị hảo hán đã được Thế Sung tuyển vào toán quân thứ hai, đêm hôm qua đã đánh Bình Dương, nay đang tiến vào Giải Châu, trên đường dân chúng chạy trốn sạch, chỉ còn nhà trống. Bọn Thế Sung hạ trại ở Miếu Nhi thôn, không hiểu để làm gì. Canh tư đêm hôm qua, chỉ nghe trong quán huyên náo, la hét có giặc, tiểu nhân vội vàng quay về thưa lại.

Nhuận Phủ vội vàng gieo quẻ bói, mừng rỡ mà rằng:

- Anh em chúng ta thành công rồi? Mau đem ngựa ra đi đón nào?

Hoài Ngọc liền cùng hai gia tướng đi trước, chưa được hai dặm đã trông thấy mấy chục người mang tang phục trắng, thì ra là bọn Mang Nam Nhi, xách hai thủ cấp, phi ngựa lại, lớn tiếng:

- Thủ cấp Thế Sung, Nguyên Chân đây rồi! Phía sau bọn lính đang đuổi, mau cứu viện cho chúng tôi với.

Nhuận Phủ sai người lấy hai thủ cấp, treo lên đầu mũi thương, rồi cùng Mang Nam Nhi quay lên phía trước, các hảo hán đang cùng bọn lính Thế Sung hỗn chiến ở ngay đầu núi. Mang Nam Nhi gào lớn:

- Binh mã Đại Đường tới rồi!

Hoài Ngọc giương cung, bắn chết ngay hai tên, Nhuận Phủ cũng lớn tiếng:

- Thế Sung cùng Nguyên Chân đều là phường phản loạn, thủ cấp đang bị bêu đây, các ngươi đừng có ham đánh mà chết oan.

Thủ hạ, binh lính Thế Sung thấy thế, liền bỏ chạy cả. Hoài Ngọc cùng mọi người đuổi theo đến tận thôn Miếu Nhi, bọn này đành bỏ lại mọi thứ mà chạy trốn. Nhuận Phủ liền sai chất đầy những thứ mà chúng vất lại, lên mấy xe, lại sợ tàn binh chưa chạy hẳn, đuổi theo thêm ba bốn chục dặm mới quay trở lại. Bỗng có gia tướng tới báo:

- Linh xa của Đơn viên ngoại đã bị rất nhiều dân đinh ở Nhị Hiền trang, đến tận cửa hàng của Quan Đại Đao đưa về Lộ Châu rồi!

Các hảo hán vội lên ngựa ngày đêm đuổi theo, kịp ngay xe tang, rồi cùng về Nhị Hiền trang.

Các quan lại sở tại, biết rõ tài năng cùng địa vị của Tần Thúc Bảo, nay lại thêm Hoài Ngọc vừa được nhận chức thiên ngưu, lập được kỳ công mới rồi, đều đến thăm viếng. Nhuận Phủ ngay trước cửa trang chọn một kiểu đất tốt, định xong chuyện chủ. Đại Đao nói với Nhuận Phủ:

- Chúng ta làm được việc vừa rồi là nhờ vong linh của Đơn viên ngoại, chẳng mất một người một ngựa. Đúng thế đấy! Tiểu đệ cùng với Triệu hiền đệ, hai anh em, nhân lúc Thế Sung cùng Nguyên Chân uống rượu ngủ say, lén vào trong trại, lấy được đầu hai thằng, cả hai vội lên ngựa trốn chạy. Kinh động bọn xung quanh, bọn này nhất tề đuổi theo. Trời vẫn tối đen, người ngựa ngay trước mặt cũng nhìn không rõ, nhớ chẳng ra đường mòn, chỉ thấy trước mặt một bóng sáng cưỡi ngựa dẫn đường, lúc ẩn lúc hiện, ai nấy cứ nghĩ rằng là tiểu đệ nên cũng chẳng buồn hỏi, cứ thế ruổi ngựa theo. Đến ba bốn dặm, trời sáng rõ, thì cả người lẫn ngựa phía trước không thấy đâu nữa. Há không phải vong linh của Đơn viên ngoại, phù hộ chúng ta hayo? Nay hãy đem tất cả những vàng ngọc, lụa là phân làm hai, một nửa tặng Đơn phu nhân làm chi phí táng lễ, một nửa cho những hộ dân xung quanh Nhị Hiền trang này, nhớ tới công họ dạo trước trông coi trang trại, nay lại còn đi thật xa để đón linh cữu nữa. Cũng gọi là chút ít thù lao.

Nhuận Phủ cùng mọi người đều bằng lòng:

- Quan đại ca nói đúng lắm!

Hoài Ngọc từ chối:

- Sao lại thế được! Xin các ngài nhận cho, đấy chính là công sức của mọi người tiểu tướng quả không dám nhận, huống chi là dân chúng xung quanh.

Giữa lúc đang đưa đi đẩy lại, thì thấy quan phủ Lộ Châu cho khiêng lợn dê tới linh tiền phúng điếu, Hoài Ngọc cùng Nhuận Phủ ra tiếp, dẫn vào làm lễ, thấy trong nhà bày đầy lụa là, vàng bạc. Hỏi duyên cớ, Nhuận Phủ đáp:

- Có mấy vị bạn bè buôn bán cũ, xưa kia từng đi lại với Đơn viên ngoại, nay tới điếu viếng, lại gặp ngay bọn Vương Thế Sung phản loạn, ai nấy đều giận dữ xông vào, diệt được cả lũ, những vật chúng cướp đoạt đều bỏ mà chạy thoát thân, nên mọi người thu về. Giờ thì ai nấy trọng nghĩa khí, không ai nhận, định đem chia cho dân nghèo.

Vị quan phủ cười nói:

- Thế là bởi các vị trọng nghĩa khinh tài, nên tính toán vậy. Nhưng dân chúng nào có công sức gì, mà dám nhận của lấy được của kẻ phản nghịch. Chi bằng gửi vào kho của công, trình lên trên, để rồi lập đền lập bia cho Đơn viên ngoại, đời đời tế lễ có phải là chuyện hay không?

Cũng bởi quan phủ nghĩ rằng: "Bọn ta đi làm quan nha thế này, kiếm được của dân chúng một lạng năm tiền, phí bao nhiêu nước bọt, nay cả một động của lớn thế, bọn này chẳng đứa nào chịu nhận, chẳng hiểu tâm địa chúng thế nào?".

Quan phủ chờ xem sao, thấy Hoài Ngọc chẳng nói năng gì, đành chào rồi quay ra. Các hảo hán liền gọi, dân nghèo xung quanh lại mà bảo:

- Số của cải đây, là của Tần tiểu tướng ban cho các người, để gọi là nhớ tới công lao. Các người hãy chia ra đều, đừng vì mấy thứ này mà tranh cạnh lẫn nhau, đến nỗi quan phủ trách phạt. Từ nay về sau các người phải thờ Tần tiểu tướng đây như Đơn viên ngoại vậy.

Dân nghèo lạy tạ ơn, lĩnh lấy mọi thứ ra về. Đại Đao nói với Nhuận Phủ:

- Giả tiên sinh, công việc chúng ta xong xuôi!

Nói với Hoài Ngọc:

- Chúng tôi chẳng tiện bái biệt Đơn phu nhân.

Ai nấy chắp tay cáo biệt, Hoài Ngọc nói:

- Của cải thì chẳng dám nói nữa. Nhưng xin các vị lấy ngựa mà đi cho.

Các hảo hán đáp:

- Chúng tôi thế này mà tới, cũng thế này mà đi thôi!

Rồi tất cả bước ra, không ngoảnh lại nữa. Xung quanh đều xuýt xoa thán phục.

Hoài Ngọc xếp đặt gia đình xong phần mộ, chọn được ngày tốt, an táng nhạc phụ. Lại thấy Đơn Toàn một lòng trung nghĩa, một dạ yêu mến chủ nhân, liền khuyên Đơn phu nhân nhận làm con nuôi, trông coi miếu đường họ Đơn, đem cả gia sản Nhị Hiền trang giao cho Đơn Toàn, xuân thu tế lễ, rồi cùng mẹ con Ái Liên lên đường về Trường An.

Gia tướng không quên mang theo hai thủ cấp Thế Sung, Nguyên Chân. Không biết rồi ra sao, xin xem hồi tiếp sẽ rõ.

Hồi Thứ Sáu Mươi Bốn

Tiểu Tần Vương treo đai cửa cung cấm,

Nàng Vũ Văn giảng thơ trước án rồng.

Từ rằng:

Nước biếc mênh mang tựa gấm hoa

Sóng sao nhè nhẹ, lượn quanh hoa

Một cành ai khiên đong đưa ghẹo

Để khiến ong kia phải lỗi hoa

Giọng ca ngọt

Ly rượu nồng

Vòng đai ngọc

Mũi kim lồng

Những nghe dẹp hết hậu lòng

Ngày sau Huyền Vũ máu hồng ngập chân

Thương thay huynh đệ tương tàn.

Theo điệu: "Cái cô thiên"

***

Nay hãy khoan chuyện Tần Hoài Ngọc triệt được bọn Vương Thế Sung, Bính Nguyên Chân, trở về Trường An, đem hai thủ cấp báo công, được vua Đường khen thưởng. Hãy nói chuyện vào năm Vũ Đức thứ bảy nhà Đường, bọn phản loạn bốn phương đều đã được Lý Thế Dân Tần Vương diệt gần hết.

Lúc này vua Đường tuổi cũng đã nhiều, nội cung cũng đã lắm, bậc sinh con có tới hơn hai mươi người, còn loại không có con cái gì thì không tài nào đếm xuể, nên ai ai cũng tìm cách khoe sắc khoe tài, để được nhà vua sủng ái, nhưng bất chấp xấu tốt, việc gì cũng dám làm thì chẳng ai sánh kịp Trương phu nhân cùng Doãn phu nhân. Cả hai vốn là phu nhân được quý được yêu của thời Tùy Văn Đế, bỗng nhiên lại rơi vào tay vua Đường, gặp hồi nước nhà nhất thống, dù chẳng được đứng ở bậc chính cung, cũng thuộc loại lời được nghe, kế được theo, muốn gì cũng được. So với Đậu hoàng hậu thì phúc lộc không bằng, nhưng hoàng hậu sớm qua đời, nên thế của hai phu nhân lại càng lớn. Cũng bởi trong cung, cành quế, cành mai còn nhiều, lại thêm trẻ tuổi hơn, cho nên hai phu nhân thường chịu lạnh lùng. Đối với thân phận người đàn bà, khác gì mành trúc đã hỏng, chẳng còn gì trói buộc cho nổi, dẫu thời thế ra sao thì cũng tỉ đành ngồi xem vậy thôi.

Gặp lúc vua Đường không khỏe, tĩnh dưỡng ở Đơn Tiêu cung, cấm ngặt các phi tần, nếu không có lệnh triệu không được đến, các cung nữ yểu điệu, thướt tha đều ở yên trong cung mình. Duy có hai phu nhân Trương, Doãn, tuổi đều đã ngoài ba mươi, những việc làm tai ngược, càng nhiều tuổi lại càng lắm. Cả hai ngày thường cùng với Kiến Thành, Nguyên Cát đã mày đưa mắt liếc, tình ý qua lại, chỉ giận chưa có dịp. Hôm ấy, gặp khi Doãn phu nhân sai cung nữ Tiểu Oanh đến mời Dương Mỹ nhân tới chơi cầu, thấy Kiến thành cùng Nguyên Cát theo sau là mấy tiểu nội giám đi qua, Tiểu Oanh liền tươi cười chào hỏi:

- Hai vị vương phụ ở đâu lại đây?

Nguyên Cát, Kiến Thành nhận ra Tiểu Oanh là nàng hầu ở Trương Doãn phu nhân, liền nói:

- Chúng ta tới đây riêng để gặp hai vị phu nhân nói chuyện. Ngươi đi đâu bây giờ?

Tiểu Oanh vừa lắc đầu vừa cười:

- Không phải hai vị vương phụ vừa ở Đơn Tiêu cung ra hay sao, may đang về để kịp vui chơi, còn tìm phu nhân chúng tôi làm gì? Nếu đúng là muốn gặp gỡ, sao không hôm qua, hôm kia, nay lại nói thế để đùa tiểu tỳ này.

Kiến Thành thấy nói thế, vui vẻ hỏi:

- Tại sao lại phải gặp hôm kia, hôm qua?

Tiểu Oanh thưa:

- Thôi đi mà, lại còn nói chuyện đâu đâu, để tiểu tỳ này còn phải đi có việc.

Rồi định bước đi, nhưng làm sao thoát khỏi được Kiến Thành là phường tửu sắc. Thấy Tiểu Oanh ăn nói linh lợi, liền kéo ngay lại cạnh bụi hoa gần đó, sai mấy tiểu nội giám gác hai bên, rồi cầm hai tay Tiểu Oanh nói:

- Con bé ngốc nghếch này? Hãy cứ thực nói chúng ta nghe xem sao, ta sẽ đem ngay quà cho.

Tiểu Oanh cười:

- Quà thì tiểu tỳ này chẳng dám nhận. Hai vị vương phụ hỏi, tiểu tỳ xin nói thật. Hôm mùng mười vừa rồi, là ngày sinh nhật Trương phu nhân, ngày mười ba, lại sinh nhật Doãn phu nhân. Hai ngày ấy, các phu nhân đến làm khó nhọc phát chán. Hôm nay thì lại nhàn rồi. Trương phu nhân kêu buồn, nói với Doãn phu nhân đi mời Dương Mỹ nhân tới chơi cầu, vì vậy tiểu tỳ nói rằng, hai vị vương phụ muốn gặp các phu nhân, sao không đến vào hai ngày trước, tất cả gặp gỡ có phải vui vẻ bao nhiêu?

Nguyên Cát nói:

- Các phu nhân đến chúc mừng ngày sinh nhật, chúng ta sao mà lại đến tỏ lòng hiếu thuận cho được. Hôm nay vô sự, chính đến chúc mừng sau vậy, có phải tiện cả hai không?

Kiến Thành nói:

- Đúng lắm, hai anh em chúng ta về sắp ít lễ vật sẽ đến, ngươi hãy nói trước cho chúng ta.

Tiểu Oanh thưa:

- Nếu hai vị vương phụ đến thật, tiểu tỳ chẳng đi mời Dương Mỹ nhân nữa, về cung để chờ hai vị giáng lâm. Chỉ sợ không phải, tiểu tỳ ăn nói làm sao?

Kiến Thành, Nguyên Cát đều nói:

- Làm gì có chuyện đó, ngươi nghe chúng ta nói dối sao? Chúng ta sẽ lấy lễ vật này, ngươi đưa về trình hai phu nhân nhé?

Tiểu Oanh thưa:

- Nếu có thế thì mới nên chờ.

Hai anh em cởi ngay đai thập cẩm hợp hoàn đính tám hạt ngọc quý đang đeo trên lưng, đưa cho Tiểu Oanh, rồi nói:

- Chúng ta hiện chẳng có gì để cho ngươi, chốc nữa vào cung, nhất định không phụ thịnh tình của ngươi đâu!

Tiểu Oanh thưa:

- Chỉ xin tới nhanh cho, đi bằng cửa lớn phía sau, gần hơn nhiều.

Cả ba chia tay.

Chính là:

Đừng khoe phú quý ba xuân đẹp

Hãy để hoa mai sánh với trăng.

Không nói chuyện Tiểu Oanh về thưa với hai phu nhân Trương, Doãn, hãy nói việc Nguyên Cát cùng Kiến Thành nghe Tiểu Oanh nói, mừng rỡ vô cùng, vội vàng quay về phủ, lấy ngọc quý trân châu, bỏ vào hai hộp vàng có chạm rồng, gọi tiểu nội giám bưng theo, cùng phía cổng sau. Quan coi cổng thấy hai điện hạ, vội mở cổng. Cả hai xuống ngựa, sai người đặt ra chờ bên ngoài Tiểu nội giám bưng lễ vật cùng đến Phân Cung lâu. Tiểu Oanh đứng trước cửa chờ, thấy hai điện hạ, vui mừng thưa:

- Hai vị vương phụ đã tới!

Kiến Thành hỏi:

- Tiểu Oanh, người đã báo cho hai phu nhân biết rồi chưa!

Tiểu Oanh gật đầu, dẫn hai người vào ngồi ở trung đường, sai hai cung nữ bưng lễ vật đưa lên. Uống xong một chén trà, hai vị phu nhân. cùng mấy hầu gái theo sau, yểu điệu bước ra, Anh em vội sai cung nữ trải thảm để làm lễ mừng, các phu nhân đời nào chịu nghe, vội bước đến ngăn lại.

Trương phu nhân nói:

- Hai vị điện hạ sao lại phải lễ tiết câu nệ đến thế, bằng như giết chị em chúng tôi còn gì?

Nguyên Cát đáp:

- Hai vị phu nhân khác nào mẹ con, nay gặp ngày sinh nhật, làm lễ mừng là phải đạo chứ sao?

Doãn phu nhân nói:

- Chỉ xin hai điện hạ chào hỏi bình thường, hai chúng tôi mới yên lòng được.

Anh em không biết thế nào, đành nghe theo. Trương phu nhân nói:

- Xin mời hai điện hạ lên trên gác ngồi thì có lẽ tiện hơn chăng?

Doãn phu nhân đáp:

- Trương phu nhân nói không sai.

Tất cả cùng lên gác. Anh em Kiến Thành nhìn ba gian gác, uốn lượn như sông xanh mát, đâu đâu cũng thấy ngọc giát vàng đeo óng ánh muôn màu. Cả hai ngồi yên vị, cùng uống trà, rồi bắt đầu kể lể nhỏ to. Trương phu nhân nói:

- Đội ơn hai vị điện hạ thỉnh thoảng để ý, chị em chúng tôi trong mộng cũng thật khó quên, không ngờ lại được cả lễ hậu thế này, làm sao chị em dám nhận!

Nguyên Cát cười:

- Sao Trương phu nhân lại nói thế, vốn tình cốt nhục, chẳng thể lúc nào cũng tỏ lòng hiếu thuận là đáng tội chúng tôi, biết nói thế nào?

Kiến Thành tiếp:

- Anh em chúng tôi cũng muốn thường được tới thăm, chỉ sợ phụ hoàng bắt gặp, sẽ sinh chuyện không hay, là một. Hai nữa chỉ sợ các phu nhân bắt tội. Vì vậy hôm nay qua đây, vừa may gặp Tiểu Oanh, báo vào thưa trước hai vị phu nhân, có thế mới yên lòng.

Doãn phu nhân cất tiếng:

- Trương phu nhân thường nói với thiếp: "Trong ba vị điện hạ, đều là do chúa thượng sinh ra cả, không hiểu tại sao Tần Vương mỗi lần thấy chúng ta chỉ vái một cái vái, ngoài ra chẳng một lời. Tần Vương ỷ được chúa thượng yêu thương, nên kiêu căng điệu bộ". Thế mà vừa rồi, chúa thượng định đưa Tần Vương về Lạc Dương, may được hai vị điện hạ sai người đến nói, chị em chúng tôi nhiều lần khuyên can trước mặt chúa thượng, nên chuyện mới thôi vậy.

Trương phu nhân tiếp:

- Thế là cả bốn người chúng ta xúm vào, không thì sợ Tần Vương bay lên trời mất!

Nguyên Cát nói:

- Được hai vị lưu tâm như thế, thật đáng bậc mẫu hậu còn gì!

Hai phu nhân cùng cười. Lúc này trên bàn đã bày đủ trân tu, kỳ vị, cùng đủ các hoa quả quý, chẳng gì không có. Bốn người say sưa bày trò, nói cười vui vẻ. Tề Vương cùng Anh Vương vốn phường tửu sắc lúc đầu còn giữ được trang nghiêm, sau đã có rượu vào rồi, chẳng cái gì câu thúc được, điều gì cũng làm. Người xưa nói: "Rượu là môi giới của sắc dục" anh em Kiến Thành tửu lượng đều khá, nay nhân ý cả hai vốn không phải ở rượu, nên giả vờ say. Nguyên Cát nói:

- Chúng tôi rượu thì đủ rồi, xin phép hai phu nhân tạm dừng một chút, rồi lại sẽ uống.

Chính là:

Vạn tội ác, dâm đứng đầu

Anh em trở mặt giết nhau, tại mày.

Dừng một lát rồi, Kiến Thành cười nói với Nguyên Cát:

- Gió mát ngọc lành, vẫn vẳng dư âm, chẳng khác nào Vu Sơn Vân Mộng, khó mà nói hết.

Nguyên Cát cũng cười nói:

- Gió lành trăng sáng, oanh hót vượn ngâm, cũng bởi chúng ta là hạng người thô lậu không được hưởng mà thôi.

Tề Vương lẫn Anh Vương mười phần hoan hỉ, liền cho tiểu nội giám trở về trước, lại cùng hai phu nhân hoan lạc, đàn hát.

Nói chuyện Tần Vương, nhân vua Đường nằm ở Đơn Tiêu cung dưỡng bệnh, nên ít khi về Tây phủ, ngày đêm chầu chực thuốc thang, có tới năm sáu ngày liền rồi. Hôm nay trời tối từ lâu, trăng đã soi sáng hoa trên cành, vua Đường bệnh tình cũng đỡ, liền nói với Tần Vương:

- Trẫm thấy trong người đã khá hơn. Con hãy về phủ nghỉ ngơi.

Tần Vương không dám chối từ, vâng mệnh ra khỏi cung, đi qua Phân Cung lâu, đàn địch vang lừng, tiếng nghe du dương thánh thót. Tần Vương dừng lại, nhận ra cung của hai phu nhân Trương, Doãn, liền nói:

- Các phu nhân đều biết phụ hoàng bất an long thể, đáng nên âu sầu lo lắng. Sao lại đàn hát vui vẻ thế này?

Đã định đánh động, lại nghe ở bên trong có tiếng nói lớn:

- Đây là cốc lớn, xin đại huynh hãy cạn, ta làm gương trước đây!

Tần Vương nghĩ: "Hai anh em ngày thường vẫn nghe nhiều điều đàm tiếu này nọ, ta vẫn hồ nghi, không ngờ trong lúc như thế này mà lại ở đây hết đàn lại ca, chẳng nghĩ gì đến bệnh tình của phụ hoàng, còn làm chuyện dâm loạn ở trong nội cung thế này, lý thực khó mà dung tha, Giờ mà ta gõ cửa, nói cho một hồi, thì cũng là đáng tội nhưng sẽ đến tai phụ hoàng, bệnh lại thêm tăng, chẳng nên chút nào".

Trù trừ hồi lâu, Tần Vương thầm tính toán: "Hãy cứ lấy cái đai ngọc của ta, treo ngay cửa, đợi lúc nào ra sẽ thấy, may ra họ thay đổi được lỗi lầm chăng?" Rồi cởi đai ngọc, treo ngay trên cửa có chạm hình rồng hình phượng, thong thả đi ra.

Anh em Kiến Thành canh năm hôm sau trở dậy, chải chuốt xong xuôi, Yêu Yêu cùng Tiểu Oanh hầu trà sáng. Kiến Thành nói với hai phu nhân:

- Anh em chúng tôi đội ơn ân tình sâu nặng của hai phu nhân, lòng dạ chẳng lúc nào quên. Nếu Tần Vương có định ám hại, xin báo ngay ra bên ngoài cho chúng tôi. Còn ở trong này, lúc nào có cơ hội gặp gỡ cũng xin báo ngay cho anh em chúng tôi với.

Hai phu nhân đáp:

- Chuyện Tần Vương là chuyện của cả bốn người chúng ta, chẳng cần phải dặn dò. Nhưng chỉ lo hội họp thì ít, chia ly thì nhiều, chị em chúng tôi làm sao mà chịu nổi?

Kiến Thành cấm tay hai phu nhân, nghẹn ngào không nói nên lời Nguyên Cát khuyên:

- Các phu nhân chẳng phải phiền não quá. Anh em chúng tôi, lúc nào thuận tiện, lại xin vào hầu các phu nhân.

Hai phu nhân chùi nước mắt, định đưa ra cửa, vừa mới mở cửa, thấy thủ giám cung môn thưa:

- Đêm hôm qua không biết ai treo đai này trước cửa cung.

Kiến Thành vội cầm ngay xem xét, nhận ra ngay đai ngọc của Tần Vương, đúng là chúng ta đang vui chơi trong này, nên cố tình để đai này lại cho biết. Làm thế nào bây giờ?

Trương Diễm Tuyết nói:

- Chẳng việc gì phải hoảng sợ. Tần Vương dẫu có ý như thế nào chăng nữa, chúng ta cứ thật già lẽ cãi thì tội lỗi lại đổ lên đầu Tần Vương cho mà xem.

Liền ghé tai Kiến Thành nói nhỏ mấy câu, Kiến Thành mặt mày lại rạng rỡ, cùng Nguyên Cát về phủ. Hai phu nhân quay vào, đem đai ngọc của Tần Vương ra xem xét, dứt đứt ra làm nhiều đoạn, cùng với Yêu Yêu, Tiểu Oanh lên ngọc kiệu đến Đơn Tiêu cung gặp vua Đường. Vua Đường kinh ngạc hỏi ngay:

- Ta không có chỉ triệu, sao các khanh lại tự tiện đến thế này?

Hai phu nhân thưa:

- Một phần là chúng thiếp lo lắng bệnh tình chúa thượng, chẳng biết ra sao, thứ nữa là cũng có việc không thể nói, nên phải tới để được gặp bệ hạ vậy.

Vua Đường hỏi:

- Có việc gì mà phải tới gặp trẫm?

Hai phu nhân khóc lóc thưa:

- Tối qua, đã khuya, bỗng thấy Tần Vương say rượu, đột ngột bước vào cung chúng thiếp, nói đủ lời ngon ngọt, định giở trò xằng bậy. Chúng thiếp không nghe, định kẻo ngay tới để trình bệ hạ, nhưng không tài nào đủ sức, nên Tần Vương thoát được, chỉ giật được đai ngọc này. Xin bệ hạ xem xét kỹ, rồi định tội cho!

Vua Đường phán:

- Mấy ngày hôm nay, Thế Dân đều không rời đây một khắc để phụng dưỡng trẫm, đêm qua nhân bệnh đã hơi đỡ, trời lại đã chiều tối trẫm mới bảo về phủ nghỉ ngơi. Vậy thì uống rượu vào lúc nào mà bảo thật say cho được?

Rồi cầm đai ngọc xem xét kỹ, đúng là của Tần Vương, bèn tiếp:

- Đai ngọc này là của Thế Dân, nhưng bên trong rõ ràng là có chuyện gì đây. Hoặc là Thế Dân có việc vội, bỏ quên đâu đấy, bọn cung nữ nhặt được rồi tìm cách vu hãm Thế Dân. Không thể nào có chuyện này được.

Doãn Cầm Sắt thưa:

- Chúng thiếp bao nhiêu năm thờ bệ hạ, đã bao giờ vu hãm ai đâu mà nay lại chịu tiếng thế này?

Cả hai làm đủ bộ điệu uốn éo, nũng nịu, nước mắt chan hòa, ôm lấy vua Đường, nức nở mãi không thôi. Vua Đường không biết làm thế nào, đành nói:

- Nếu đã như thế, hai phu nhân hãy cứ về cung, trẫm sẽ sai người đến hỏi Thế Dân xem sao đã!

Liền viết ngay mấy chữ, đưa cho nội giám, truyền ngự sử Lý Cương, đi hỏi ngay Tần Vương tại sao vô cớ vào nội cung, phải tâu rõ ràng?

Hai phu nhân tạ ơn trở về cung.

***

Lại nói chuyện Tần Vương sau khi treo đai, vội về Tây phủ, trong lòng buồn bực, đêm ấy ngủ chẳng được. Sáng dậy rất sớm, xếp đặt công việc trong phủ một hồi, đang định vào cung chăm sóc vua cha, thì thấy tả hữu vào thưa:

- Ngự sử Lý Cương đang chờ bên ngoài xin gặp điện hạ!

Tần Vương nghĩ Lý Cương đến để hỏi bệnh tình vua cha, vội ra gặp chào hỏi ngồi yên chỗ, Lý Cương mới thưa:

- Thánh thượng long thể ra sao?

Tần Vương đáp:

- Đêm qua ta về, mình rồng đã khá hơn, không biết sáng nay ra sao, đang định vào chăm sóc.

Lý Cương thưa:

- Sáng sớm có nội giám truyền thánh chỉ xuống chỗ thần, lệnh cho thần tới hỏi điện hạ, thần không dám tự mở đọc.

Tần Vương vội gọi tả hữu bày hương án rồi mở ra xem. Tần Vương đọc xong, buồn bã nghĩ? "Chuyện đêm qua ta thấy, nghĩ rằng làm thế là để cảnh tỉnh họ, không ngờ họ lại dùng để hãm hại ta được!" Liền nói với Lý Cương:

- Đêm qua ta từ chỗ phụ hoàng về phủ, có thấy một chuyện, nên cố tình lấy đai ngọc treo trước cửa cung, để cho bọn họ giật mình mà hối lỗi. Cũng lại là việc trong hoàng tộc cả, khó mà nói rõ với khanh. Ta chỉ hỏi khanh: ta là người thế nào, mà nỡ đem thân trong sạch, làm những chuyện mờ ám, bẩn thỉu cho được?

Lý Cương thưa:

- Điện hạ công cao vọng trọng, thần đâu dám nói điều gì, nhưng nay thần phải về phục chỉ. Xin điện hạ viết cho mấy chữ, niêm phong cẩn thận, để thần trình chúa thượng, lẽ nên như thế!

Tần Vương đáp:

- Đúng lắm!

Liền viết ngay mấy câu, niêm phong kỹ càng giao cho Lý Cương.

Lý Cương từ giã vào cung phục chỉ. Lúc này vua Đường đã lệnh nội giám đỡ dậy, ra ngự ở điện. Lý Cương triều bái xong, vấn an long thể, rồi sau đó đưa trình phong thư của Tần Vương. Vua Đường giở ra xem, thì thấy trên viết bốn câu thơ:

Nhà ra đi hết cả chim gà

Xấu nết dơ trò chẳng kể ra

Khó tả tình kia cùng cảnh nọ

Nói thêm phiền não đến lòng gia.

Vua Đường xem một lần, nói:

- Đây là một bài tuyệt cú, trẫm làm thế nào mà hiểu được?

Lý Cương thưa:

- Tần Vương vốn tính ngay thẳng trong sạch, bệ hạ cũng đã biết, trong thơ tất không dám nói rõ, đem đai ngọc mà treo ở cửa nội cung như vậy, tất có nguyên cớ. Bệ hạ long thể vừa bình phục, hãy quên chuyện này đi đã, sau này hỏi lại, mọi chuyện sẽ rõ ràng.

Vua Đường phán:

- Như vậy thì khanh hãy trở về, đợi trẫm nghĩ ngợi xem sao.

Lý Cương từ tạ lui ra.

Thuở xưa Tiêu Hà nhà Hán, làm ra hình luật có nói rõ: "Bắt việc gian dâm, phải bắt cả đôi, bắt việc trộm cắp, phải có chứng cứ tang vật", cho nên việc như thế này chẳng có chứng cứ đâu mà lần, mà phân phải trái, định án rõ ràng cho được, nếu nghe lời người xung quanh, lại càng khó đoán định. Chỉ cần trong một nhà, cũng đã lắm chuyện phiền phức, huống chi lại cả triều đình.

Vua Đường thấy Lý Cương đi rồi, nghĩ quanh mãi mấy câu thơ, thì Vũ Văn chiêu nghi cùng với Lưu tiệp dư vào triều kiến. Vua Đường hỏi:

- Lạ thay? Hai khanh cớ sao lại có mặt, chẳng nhẽ lại cũng có chuyện gì chăng?

Hai người cười thưa:

- Vừa rồi thấy hai phu nhân Trương, Doãn có đến vấn an, vì vậy chúng thiếp cũng xin đến để định tính vậy thôi! Nay thấy mình rồng đã khỏe, vậy xin bày trò gì để cùng vui vẻ thì thật là hay hơn cả?

Vua Đường thấy thế, khẽ thở dài không nói. Chiêu nghi trông thấy thư Tần Vương còn đặt trên án, liền nói:

- Bài thơ này chẳng khác gì thơ Trịnh Vệ (l), bệ hạ để mắt đến làm gì?

1 Theo "Hán thư", ở nước Vệ, có bãi dâu trên sông Bộc, trai gái thường tụ họp ở đó để đàn hát, tính chuyện dâm ô. Nước Trịnh cũng nổi tiếng về những bài hát dâm tình.

Vua Đường hỏi:

- Sao Chiêu nghi lại biết đó là thơ Trịnh Vệ.

Chiêu nghi thưa:

- Bệ hạ không thấy bốn chữ đầu mỗi câu chắp lại thì thành "Nhà xấu khó nói" (1), rõ ràng chữ viết, còn gì nữa.

1 Nguyên văn chữ Hán của bài thơ: Gia kê đã điểu các ly sào; Xú thái hà tu thứ đệ khao; Nan thuyết đương thời tinh dữ cảnh; Ngôn minh khủng nhược thánh tâm tao. Bốn chữ đầu câu chắp thành: "Gia xú nan ngôn" nghĩa là: "Việc trong nhà thối tha thật khó nói", tạm dịch thành " Nhà xấu khó nói" như trong bài dịch trên.

Vua Đường cũng vốn là một bậc lão thực, bèn đem chuyện hai phu nhân Trương, Doãn kể lại một lượt. Chiêu nghi thưa:

- Chuyện như thế này, không nên để nói linh tinh, phải thực người thực việc mà xét đoán. Hai phu nhân Trương, Doãn từ thời nhà Tùy đã làm lộn xộn nội cung đến thế, chẳng bao giờ họ chịu yên phận. Còn như Tần Vương tung hoành bốn biển, há lại không thể kiếm được một người con gái nào hơn các phu nhân này sao! Lại nữa trước đây, bệ hạ sai Tần Vương bình định Lạc Hạ xong, liền phái chúng thiếp đi tuyển duyệt mỹ nhân của cung nhà Tùy, thu cất vàng bạc châu báu, số người đẹp kể có hàng ngàn, Tần Vương không hề quay mặt nhìn. Nếu nói chuyện của cải, tài sản thì còn có lý. Bệ hạ không nhớ hay sao, lúc ấy thiếp cùng với hai phu nhân Trương, Doãn, đều xin bệ hạ cấp cho vài chục mẫu ruộng, để làm sản nghiệp cho cha mẹ, bệ hạ đã tự tay ban sắc chỉ cho rồi, mà Tần Vương cùng với Hoài An Vương Thần Thông vẫn giữ lấy sắc chỉ, không chịu cấp ruộng. Từ đó mà xem ra, các bậc vua hiền đều tiếc tài sản, cơ nghiệp mà coi thường việc sắc dục, làm sao được như bệ hạ vừa có tình sâu, vừa có nghĩa nặng. Hai phu nhân Trương Doãn, có thể phần nào do việc này mà để tâm, cũng chưa biết chừng.

Tiệp dư thưa:

- Ba mươi sáu cung, bốn mươi tám viện, mặt hoa da phấn hàng nghìn, hơi đâu mà đi bới lông tìm vết, sao cho khỏi đau lòng hoàng hậu dưới tuyền đài bây giờ?

Câu này động đến tâm tư thầm kín của mình nên vua Đường lên tiếng:

- Trẫm cũng chưa chắc đã đem chuyện này tra hỏi làm gì, hai khanh hãy đừng bàn luận nữa.

Lại có một nội giám vào trình:

- Bình Dương công chúa đã mất!

Vua Đường than:

- Thuở xưa công chúa thân đánh trống theo cờ hưng binh để có đại nghiệp ngày nay, lại chẳng có phúc mà hưởng, mất trước cả trẫm sao!

Nói rồi rơi nước mắt. Vũ Văn chiêu nghi cùng Lưu tiệp dư thưa:

- Bệ hạ thương công chúa bao nhiêu, lại càng nên chăm sóc các điện hạ bấy nhiêu, huống chi long thể mới yên, mọi chuyện đều có số mệnh an bài sẵn, xin bệ hạ hãy tĩnh dưỡng.

Vua Đường gật đầu. Tiệp dư cùng Chiêu nghi định đỡ vua Đường về Đơn Tiêu cung, thì lại thấy Binh bộ dâng biểu tâu. Thổ Cốc Hồn liên kết với Khả hãn Đột Quyết, đánh vào Mân Châu, xin quân cứu viện. Vua Đường nghĩ ngợi một hồi, rồi cầm bút phê:

"Lệnh cho Phò mã tổng quản Binh bộ Sài Thiệu hỏa tốc lo liệu xong việc tang ma Bình Dương công chúa, để dẫn ngay một vạn tinh binh đi Mân Châu, hợp quân với U Châu thứ sử La Thành, tiễu trừ ngay hai nghịch tặc Thổ Cốc Hồn cùng Khả hãn Đột Quyết. Không được sai sót. "

Sai ngay nội giám đưa thánh chỉ ra giao cho Binh bộ, rồi trở về Đơn Tiêu cung, di dưỡng tinh thần cho đến ngày long thể bình phục.

Hôm ấy ở trong sân đua ngựa, vua Đường đang dạo chơi, xem Tề Vương cùng Anh Vương phi ngựa múa gươm, Tần Vương cùng tướng lĩnh Tây phủ đi theo hộ giá. Bàn về chuyện võ nghệ, vua Đường nói với Uất Trì Cung:

- Bản lĩnh cao thấp phần lớn đều do rèn luyện mà có, nhưng nói đến sức lực khỏe yếu có thể nâng búa múa roi, thì như Kính Đức đây thật là thiên hạ hiếm có!

Tề Vương ưỡn ngực thưa:

- Kính Đức chẳng khác gì điên dại, còn nhớ có lần Kính Đức bảo rằng: "Khắp triều tướng sĩ, đều chỉ là tượng gỗ", thật là huênh hoang, cứ nghĩ rằng mọi người chẳng ai biết múa giáo cầm roi. Nay con xin cùng Kính Đức thử, xem ai hơn ai!

Vua Đường đáp:

- Kính Đức, ý khanh thế nào?

Kính Đức thưa:

- Thần từ nhỏ học mười tám ban thương mã, thật không phải là hư truyền. Nhưng lấy lẽ mà suy, điện hạ là bậc quân vương, thần là bề tôi, sao có thể thi đấu cho tiện.

Tề Vương bèn nói:

- Không lo, lúc này không phải là lúc luận phẩm trật, sang hèn, chỉ thi thương pháp, thế thì có gì phải sợ đâu?

Nguyên là Nguyên Cát vốn thích việc trên ngựa múa thương, thấy Kính Đức khoe khoang, nên muốn thử xem hơn kém ra sao. Liền mời Tần Vương nai nịt giáp trụ, giả như cảnh đang chạy trốn ở hang Du Sào, thuộc Ngũ Hổ Cốc, còn tự mình đóng Đơn Hùng Tín phi ngựa đuổi theo.

- Thử xem khanh một roi một ngựa, liệu có đoạt được thương của ta chăng?

Kính Đức thưa:

- Xin điện hạ tha tội chết cho thần, cánh tay của Cung này rất khỏe, sợ có thương tổn. Hãy cứ lấy thương gỗ, bỏ mũi nhọn đi, còn xin nhường điện hạ vẫn dùng cả thương có mũi đao, thần sẽ có cách để tránh.

Nguyên Cát tức giận, nói nhỏ với bộ hạ là gia tướng Hoàng Thái Tuế mấy câu, rồi nhảy lên ngựa cầm thương có mũi nhọn hô lớn:

- Có dám thử mũi thương của ta chăng?

Tần Vương nghe xong, liền giơ thương, rượt ngựa mà chạy, Nguyên Cát cầm thương đuổi theo. Đuổi đến hơn một dặm, giơ thương định đâm Tần Vương, Kính Đức phi ngựa theo sát, miệng gào lớn:

- Có Uất Trì Kính Đức đây! Không được hại chủ ta!

Nguyên Cát bèn bỏ Tần Vương, giơ thương đánh Kính Đức, bị Kính Đức sấn lại, giành lấy thương. Nguyên Cát ngã ngựa, bỏ chạy.

Bỗng thấy Hoàng Thái Tuế vượt qua Nguyên Cát, giơ thương đâm Tần Vương, Tần Vương cố hết sức chống đỡ, sắp thua đến nơi. Kính Đức phi ngựa như bay tới, Hoàng Thái Tuế quay thương đánh nhau với Kính Đức, Kính Đức quay ngay người, rút roi ở bên hông ra đánh xuống, vừa dịp thương lao qua mặt, Kính Đức giằng ngay lấy đâm nhanh như chớp. Đáng thương cho Hoàng Thái Tuế, ngã ngựa chết ngay. Kính Đức vội quay ngay lại quỳ tâu vua Đường:

- Hoàng Thái Tuế định hại Tần Vương nên thần giết đi!

Nguyên Cát cũng tâu:

- Tần Vương ra lệnh Kính Đức giết tướng yêu của thần, trái cả ỷ phụ hoàng, xin chém ngay Kính Đức, để đền mạng Hoàng Thái Tuế.

Tần Vương thưa:

- Ngay mắt mọi người đầu thấy, Nguyên Cát sai Thái Tuế hại thần, lại còn biện bác che tội. Kính Đức mà không giết Thái Tuế, thì mạng thần cũng đã mất về tay Thái Tuế rồi.

Vua Đường phán:

- Hoàng Thái Tuế, trẫm chẳng lệnh làm gì cả, sao dám cầm thương đuổi theo Tần Vương. Kính Đức có công cứu chủ, thật vừa ý trẫm. Huống chi Nguyên Cát muốn đọ thương với Kính Đức, lẽ nên miễn tội, để nêu gương trung nghĩa. Anh em các con, lẽ nên tương thân tương ái, đừng để mất tình huynh đệ (1), khiến cho lòng kẻ làm cha có thể yên vui, còn hơn cả việc các con săn sóc trẫm nhiều vậy.

1 Nguyên văn dùng chữ "bất thất hữu vu chi ý". Chữ "Hữu vu" là lấy ở câu "Duy hiếu hữu vu đệ huynh" trong "Kinh Thư", thiên "Quân trần", nghĩa là: "Hết lòng thương yêu anh em". Sau chỉ quen dùng hai chữ "Hữu vu".

Nói xong liền trở về cung.

Muốn biết về sau ra sao, xin xem hồi tiếp sẽ rõ.

Hồi Thứ Sáu Mươi Lăm

Triệu Vương hùng cứ Long Hổ quan,

Chu Hỷ bá chiếm Uyên ương trấn.

Từ rằng:

1 Việc đời không nên quá độ

Thể tât trời ghen trời phá

Hãy nhìn muôn hoa nở rộ

Báo trước mùa xuân sắp tàn

Lại hòng trên đỉnh Vu San

Ghẹo trăng cột gió, mơ màng khói sương.

2. Đừng cậy rằng trăng sáng tựa gương

Coi chừng gió quạt gãy cành sương

Nghìn ân trăm ái say sưa mãi

Đàn vận căng dây gãy phím hương.

3. Dân đàn đứt nối cậy nhau cùng

Đứt ruột nào ai đoái giúp không?

Giấc mộng năm canh bừng tỉnh dậy

Vi vu gió buốt trùm núi sông

Nắng mưa trời vẫn đạo thường

Tình người ấm lạnh, ghét thương lẽ nào?

Theo điệu "Thủy điệu ca đầu"

Lời xưa nói:

Xẩy chân để hận muôn đời

Quay đầu lại, đã thành người trăm năm.

Chẳng phải nói đàn ông gặp nghịch cảnh, cũng oán trời trách người, ngay cả đàn bà càng lắm điều than vãn.

***

Hãy khoan nói chuyện anh em Tần Vương diễn trò cướp giáo, hãy nói chuyện Tiêu Hậu nhà Tùy cũ, cùng với Sa phu nhân, Tiết Dã Nhi, Hàn Tuấn Nga, Nhã Nương sang nước Đột Quyết. Khi vua Đột Quyết chết, thì Hàn Tuấn Nga, Nhã Nương được vài năm do thủy thổ bất phục, lần lượt qua đời. Nghĩa Thành công chúa thấy chồng đã mất, buồn rầu sinh bệnh, một năm sau cũng khuất núi. Vợ Vương Nghĩa, Khương Đình Đình, chết ngay khi sinh, Sa phu nhân liền đem Dã Nhi gả cho Vương Nghĩa làm kế thất.

La La tuy hơn Triệu Vương có đến năm sáu tuổi, nhưng tính tình đoan trang thùy mị, lại thông hiểu sách vở, lễ nghĩa, Sa phu nhân bèn đem La La làm vợ Triệu Vương. Cũng bởi Đột Quyết không có con trai, Triệu Vương bèn nối ngôi Khả Hãn, lấy hiệu là Chính Thống, đóng giữ Long Hổ quan, trí dũng kiêm toàn, chính lệnh giản dị, ngoài việc triều đình thì về phụng dưỡng Sa phu nhân, cùng vui chơi trong vườn sau, rất là hiếu kính.

Hôm ấy vừa chớm tiết thu, Tiêu Hậu một mình dạo trong vườn, đứng dưới hàng lan can dâm mát, thấy ở phía ngoài vườn, ngay cạnh chuồng ngựa, có một người lính chăn ngựa, tuổi cũng còn ít, đang ngồi cắt cỏ xong xuôi đứng nhìn mấy con ngựa ăn. Tiêu Hậu ngắm tướng mạo, giống như người Trung Quốc, liền gọi lại gần hỏi:

- Ngươi tên họ là gì? Ngươi ở đâu?

Mã phu đáp:

- Tiểu nhân người ở Dương Châu, họ Vưu tên là Vĩnh.

Tiêu Hậu lại hỏi:

- Ta thấy ngươi giống người Trung Quốc ngay từ đầu mà? Ngươi có vợ con gì không? Sao lại lưu lạc tới đây?

Vưu Vĩnh đáp:

- Tiểu nhân đi lính cho Vương Thế Sung, lưu lạc tận Liêu Thành, cùng ở với một người bạn thân là Chu Phùng Xuân, không ngờ lại gặp ba người đàn bà ở trong cung của Vũ Văn Hóa Cập nói là Chu phu nhân ở viện Thần Quang, Phàn phu nhân ở viện Tích Chân, Dương phu nhân ở viện Minh Hà của nhà Tùy cũ. Chu phu nhân lại vốn là em họ của Chu Phùng Xuân, vì vậy, Phùng Xuân mới đem Cho phu nhân gán cho tiểu nhân, còn Dương phu nhân cùng phàn phu nhân thì lấy Phùng Xuân.

Tiêu Hậu kinh ngạc hỏi.

- Lại có chuyện như thế sao? Thế ba vị nhân đâu cả?

Vưu Vịnh thưa:

- Chu phu nhân theo tiểu nhân được vài năm, nhân sinh đẻ mà qua đời, Phàn phu nhân cũng gặp bệnh nặng mà mất. Chỉ còn Dương phu nhân vẫn ở với Phùng Xuân tại Uyên Ương trấn thuộc Lâm Thanh, mở hàng cơm đón khách.

Tiêu Hậu lại hỏi tiếp:

- Ngươi ở với Phùng Xuân, cớ sao lại lưu lạc mãi tới đây?

Vưu Vĩnh thưa:

- Tiểu nhân cũng bởi Chu Thị mất rồi, một mình phiêu bạt, theo mấy người bạn cùng đi lính với nhau mà trôi dạt mãi lên đây.

Tiêu Hậu vẫn hỏi:

- Ngươi năm nay bao nhiêu tuổi?

Vưu Vịnh thưa:

- Tiểu nhân ba mươi tuổi!

Tiêu Hậu nghĩ ngợi một hồi rồi nói:

- Ta là Tiêu Hoàng hậu nhà Tùy cũ. Ta thương ngươi cũng là người Trung Quốc, lại là chỗ vợ chồng với Chu phu nhân cũ, nên cũng muốn thăm nom đến ngươi ít nhiều, lại còn có chuyện muốn hỏi kỹ, nhưng giữa ban ngày ban mặt ở đây không tiện. Đợi đến tối, ta sẽ cho người ra gọi ngươi!

Vưu Vĩnh lạy tạ vâng lời rồi ra. Đêm ấy Tiêu Hậu đang định sai đi gọi Vưu Vĩnh, có người biết, báo ngay cho Triệu Vương. Triệu Vương ngờ có chuyện tư tình, nổi giận đùng đùng, liền quát đem Vưu Vĩnh ra chém, để cảnh tỉnh Tiêu Hậu một phen, lại ra lệnh nghiêm cấm, gác giữ cung cấm, ra vào tra hỏi rất cẩn thận. Tiêu Hậu thấy thế vừa buồn bực, vừa xấu hổ.

Chính là:

Chỉ vì đã nói loanh quanh

Để người thiệt mạng mà mình danh nhơ.

***

Nay lại nói Sài Tự Xương vâng thánh chỉ, sai làm ngay văn thư, lệnh cho Lý Như Khuê dẫn một nghìn quân, kéo đến U Châu gặp La Thành, báo cho La Thành điều quân tới Mân Châu trước, chống cự với Thổ Cốc Hồn, Tự Xương kéo quân đến sau, cả hai cánh sẽ cùng trước sau công kích quân giặc.

Lý Như Khuê đến U Châu, gặp La Thành. La Thành xé văn thư ra xem, liền thưa với phụ thân Yên Quân Vương La Nghệ. La Nghệ bàn:

- Mân Châu xa xôi, Khả hãn Đột Quyết cũng chẳng bao giờ xuống gần đâu. Lại thêm Khả hãn vừa chết, người thay là Chính Thống, chính là Triệu Vương con của Sa phu nhân, nghe nói Tiêu Hậu cũng đang ở đó, cả Vương Nghĩa cũng làm quan đại thần của Chính Thống, đều là những người cũ của ta thuộc Tùy triều cả. Nay con chỉ nên dẫn một đội người ngựa, đến cùng họ trò chuyện rõ ràng cho yên ổn. Thổ Cốc Hồn không thấy binh của Chính Thống xuống giúp cũng đến kéo quân về.

La Thành thưa:

- Lời của phụ vương đúng quá!

Liền quay về phủ, nói cho Tuyến Nương biết. Tuyến Nương bàn thêm:

- Tiêu Hậu trước đây có đến Lạc Thọ, cũng là một người có kiến thức. Nghe nói Sa phu nhân có chí khí, thiếp cũng muốn gặp, xin cùng đi với tướng quân một phen vậy!

La Thành đáp:

- Được phu nhân cùng đi, càng thêm vẻ oai hùng cho quân ngũ.

Hựu Lan cũng nói:

- Thiếp xin theo cùng và cả hai con nữa, nhân thể thăm mộ phần phụ mẫu một chuyến.

Thì ra, Tuyến Nương đã sinh một con trai, tên gọi A Đại, Hựu Lan cũng vậy, đặt là A Nhị, chênh nhau khoảng nửa tháng, đều tám tuổi. Tính toán xong, liền gọi Kim Đính, Ngô Lương thu thập hành trang, từ biệt Yên Quận Vương lên đường.

Chẳng bao lâu đã tới Đạo Khẩu, Khả hãn Chính Thống nghe tin, liền bàn với Sa phu nhân:

- Thổ Cốc Hồn có ước hẹn cùng ta xuất binh để quấy nhiễu Trung Nguyên, mấy hôm nay con đang tìm tướng tuyển binh. Không ngờ vua Đường đã sai con Yên Quận Vương là La Thành kéo binh tới hỏi tội, bây giờ nên làm thế nào?

Sa phu nhân đáp:

- La Nghệ nguyên là trọng thần của tiên triều ta, nay cũng là đại thần của nhà Đường, lại còn con của Đậu Kiến Đức là Tuyến Nương, được vua đứng ra làm chủ hôn, cả hai vợ chồng vốn quen chinh chiến, không thể coi thường.

Tiêu Hậu góp thêm:

- Chả cần phải nói thế, nếu kẻ khác mà cướp đoạt giang sơn của ta, đừng chờ chúng tới đánh, mà phải xúm lại đánh với chúng một phen. Còn như Lý Uyên, vua Đường hiện nay, các ngươi không biết đâu, với nhà ta còn là anh em nữa kia đấy. Hoàng hậu họ Đậu, cùng với tiên thái hậu nhà Tùy ta (l) chính là chị em ruột, thế là họ hàng còn gần lắm. Lại thêm ta cũng đã một lần gặp Đậu Tuyến Nương, đó là một cô gái thật duyên dáng, nhưng mồm miệng thật chua ngoa, chẳng biết bản lĩnh thì thế nào. Họ mà tới đây, để ta gặp xem sao.

Khả hãn Chính Thống nghe vậy, liền vội thương nghị với Vương Nghĩa, sai Vương Nghĩa dẫn một đội người ngựa đi trước, còn mình từ từ dẫn đội thứ hai ra khỏi thành. Lý Như Khuê làm tướng tiên phong, muốn giành công đầu, bị Vương Nghĩa dùng kế đánh cho thua chạy. Binh mã của Tuyến Nương kịp tới, thấy phía trước cát bụi mù mịt. Tuyến Nương giơ cao thiên phương hoạ kích xông vào, thấy một viên tướng đuổi theo Như Khuê, thương đã gần tới hậu tâm kính của Như Khuê, tiến vội vàng bắn một mũi tên, trúng ngay đầu mũi thương của viên tướng nọ. Lại thấy phu nhân của Vương Nghĩa là Tiết Dã Nhi, múa song đao tiến lên đón đánh, Tuyến Nương giơ thiên phương hoạ kích ra đỡ. Đánh được khoảng hai chục hiệp Dã Nhi liệu thế không nổi, liền quay ngựa nhảy ra khỏi vòng chiến, lên tiếng:

- Nữ tướng quân có phải Dũng An công chúa ngày xưa chăng?

1 Tiên Thái hậu: tức Hoàng hậu của Tùy Văn Đế. Vậy là Lý Uyên, tức Đường Cao Tổ hiện nay, với Tùy Văn Đế là anh em bạn rể. Tùy Dượng Đế gọi hoàng hậu của Đường Cao Tổ là dì ruột. Triệu Vương gọi bà dì!

Tuyến Nương đáp:

- Ngươi đã biết tiếng ta, cớ gì còn đi tìm cái chết?

Dã Nhi hỏi:

-Nữ tướng quân có biết Tiêu nương nương chăng?

Tuyến Nương hỏi :

-Tiêu nương nương nào?

Dã Nhi đáp:

- Là chính cung hoàng hậu của Dượng Đế nhà Tùy.

Tuyến Nương nói:

-Thế thì phụ hoàng ta đã vì họ mà được Vũ Văn Hóa Cập phản nghịch. Tiêu hoàng hậu đã từng đến Lạc Thọ một lần.

Dã Nhi cười, nói:

- Nếu như thế, ta chẳng đánh nhau với nữ tướng quân làm gì. Khả hãn của ta đến kia rồi!

Tuyến Nương cũng cười đáp:

- Ta cũng chẳng bắt ngươi làm gì! Tướng quân của ta cũng tới rồi kia!

Rồi cả hai quay về trận mình.

Dã Nhi thưa chuyện với Triệu Vương, còn Tuyến Nương quay ngựa được một đoạn, đã thấy La Thành phi ngựa tới, Tuyến Nương cũng đem mọi chuyện kể lại. La Thành nói:

- Nếu Triệu Vương dẫn quân ra, ta đã có cách đối phó rồi.

Vội dẫn quân tiến lên phía trước mời Khả hãn ra cùng nói chuyện. Triệu Vương bày thành thế trận bước ra.

Chỉ thấy:

Áo rồng hai cánh mở ngang trời

Mũ tiá đuôi điêu lúng liếng soi

Đai ngọc quanh lưng chèn lá giáp

Dao vàng cắp nách vẫy cây roi

Chưa dày sương tuyết da hồng ửng

Sạch vết kinh nghê mắt sáng ngời

Ấy chính thần thiêng tu sắp mãn

Tạm đưa nhân thế thoát luân hồi.

La Thành thấy, chắp hai tay hỏi:

- Ngài có phải Triệu Vương, con trai út của tiên đế chăng?

Triệu Vương đáp:

- Đúng vậy! Tướng quân là La Thành con trai của Yên Quận Vương phải không?

La Thành trả lời:

- Đúng thế. Ngày xưa vốn là vua tôi, nay là Tần Sở, cũng bởi lệnh trên đã ban. Không thể không đến hỏi, tại sao ngài lại đem binh giúp Thổ Cốc Hồn xâm phạm nhà Đường?

Triệu Vương thong thả:

- Chuyện này chẳng qua Thổ Cốc Hồn nói thế để phô trương thánh đế, chứ thực ra ta nào đã phát binh đâu. Huống chi nhà Đường lấy được thiên hạ từ tay Vũ Văn Hóa Cập, chẳng làm gì nên tội với phụ hoàng ta, vận số là thế, ta cũng chẳng giận gì nhà Đường. Nay mẫu hậu Tiêu Nương đang ở đây, Đậu Công chúa có lẽ cũng đi đây, xin mời phu phụ tướng quân cùng vào gặp mặt, sẽ rõ đầu đuôi.

La Thành hỏi:

- Vị nghĩa sĩ Vương Nghĩa, nay có đây chăng?

Triệu Vương chỉ một viên tướng mũ giáp đầy người ở phía sau đáp:

- Chính là vị tướng này đây!

Vương Nghĩa trên ngựa vái chào, thưa:

- Xin chào tiểu tướng quân!

La Thành nói:

- Xin điện hạ hãy về trước. Vợ chồng thần sẽ cùng với Vương đại nhân theo vào thành sau vậy.

Triệu Vương nghe xong, liền dẫn binh quay về thành. La Thành sai Lý Như Khuê trông coi quân sĩ ở ngoài thành. Vương Nghĩa cùng Dã Nhi đón Tuyến Nương rồi cả đoàn kéo theo sau.

Vào đến nơi, thấy dân cư đông đúc, đường phố chi chít như nan xe, có nhiều nhà dân treo đèn kết hoa lụa, gấm vóc rực rỡ đủ màu. Những con lạc đà nhe răng trông dáng bộ thật kỳ lạ đầy khắp phố phường. Vợ chồng La Thành trên ngựa ngắm nhìn, xuýt xoa khen ngợi.

Triệu Vương về cung trước đã nói ngay với Tiêu Hậu cùng Sa phu nhân mọi việc thật tỉ mỉ, nhất định thế nào vợ chồng La Thành cũng sẽ vào thành gặp Tiêu Hậu. Tiêu Hậu nói:

- Họ đã vào cung, nên sắp sẵn mọi thứ, từ việc tiệc rượu cho đến trần thiết cũng nên thật chu đáo.

Triệu Vương thưa:

- Lẽ nên như vậy!

Triệu Vương quay ra, lệnh cho tân khách, cùng văn võ liêu thuộc, dẫn hai nghìn quân canh giữ các nơi, cho đến tận cửa cung, gươm thương đều phải bày đặt nghiêm chỉnh, lại lệnh cho trăm họ trong thành, treo đèn kết hoa để nghênh đón thiên sứ. Sai ngay hai nội giám ra ngoài thành, báo cho Vương Nghĩa:

- Các ngươi hãy mau ra thưa với Vương đại nhân, nếu Đậu Công chúa cũng vào, thì báo Tiết phu nhân dẫn ngay vào cung nội.

Chưa được bao lâu, đã thấy bốn viên nội giám vào thưa:

- Sứ trời đã đến!

Cũng bởi La Thành hiện là thiên sứ tới nên Triệu Vương ra tận cửa ngoài đón vào. La La Quốc hậu dẫn theo hai cung nữ ra đón Đậu Công chúa, có Tiết Dã Nhi đi theo Tiêu Hậu, Sa phu nhân cùng Tuyến Nương làm lễ vái chào. Còn La Thành thì lên Long Thăng điện, bày sẵn hương án, đem xích phù lẫn cáo mệnh, cung kính đặt lên trên.

Triệu Vương bái lạy. La Thành hỏi:

- Xin Điện hạ vào thưa với Tiêu Hoàng hậu, cùng ra tiếp thánh chỉ.

Triệu Vương vội ra báo với Tiêu Hậu, Tiêu Hậu nghĩ ngợi một lúc rồi thở dài:

- Hà! Trước kia thì người đến lạy ta, bây giờ thì ta phải lạy người. Nhưng nói cho cùng, chẳng phải họ giành đoạt thiên hạ của ta, huống chi lại cũng là thân thích, giờ làm hoàng đế cả thiên hạ, nghiễm nhiên là kẻ cầm cân nẩy mực, dẫu có ra gặp cũng đáng. Nhưng chẳng có triều phục mà mặc, thì làm thế nào bây giờ!

Triệu Vương bàn:

- Pháp phục của công chúa, hiện còn giữ ở trong hòm, thử lấy ra xem, cũng còn tốt chán.

Triệu Vương sai ngay cung nữ lấy ra, mặc cho Tiêu Hậu, thấy khác hẳn những bộ y phục bình thường. Tiêu Hậu liền cùng Triệu Vương bước ra, La Thành xin Tiêu Hậu ngồi lên để mình làm lễ triều bái, Tiêu Hậu rớt nước mắt mà rằng:

- Nước mất, nhà tan. Nay nào phải xưa, còn nói gì đến triều kiến, xin tướng quân thứ cho. Triệu Vương, Vương Nghĩa cũng khuyên nên làm lễ thường, La Thành nghe theo.

Tiêu Hậu bước lên, mời Tuyến Nương vào ngồi bên trong, rồi nói:

- Ta lúc mới chạy loạn, đã từng đến cung Lạc Thọ. Lúc ấy công chúa mới khoảng mười bảy, mười tám, nay lẽ đã trên dưới ba mươi, đã được mấy công tử rồi?

Tuyến Nương đáp:

- Thiếp năm nay đã ba mươi mất, đã có hai cháu trai, đều đã tám tuổi, một là do thiếp sinh, một là do Hoa Hựu Lan sinh.

Sa phu nhân nói:

- Có phải Hựu Lan là em gái Mộc Lan, nghe nói cũng rất nghĩa khí, hiện nay đang ở đâu?

Tuyến Nương đáp:

- Hai cháu rất bướng, thấy thiếp đi như thế này, không đời nào chịu ở nhà, hiện nay đang cùng Hựu Lan ở trong trại.

Tiêu Hậu đon đả:

- Nếu thế, sao không mời luôn vào gặp gỡ.

Sa phu nhân, La La Quốc hậu sai ngay người lấy hai kiệu quý, đến ngay trại quân, đón Hựu Lan cùng A Đại, A Nhị. Tuyến Nương vội sai Kim Đính ra thưa ngay cho La Thành biết, để cùng cho người về đón. Tiêu Hậu nói:

- Trong những năm khắp trời loạn lạc, chẳng kể gì con gái hay con trai, miễn là có nơi làm ăn yên ổn là may lắm rồi. Nhưng chẳng biết bốn vị phu nhân ở Nữ Trinh am xưa, nay ra sao rồi?

Tuyến Nương đáp:

- Nương nương không rõ, bốn vị phu nhân lúc đầu có các nhà họ Dương, họ Từ, họ Tần cung cấp, nay nhân Giang Kinh Ba được gả cho Trình Giảo Kim, Giả Lâm Vân cho Ngụy Trưng, La Bội Thanh cho Uất Trì Cung đều do ơn vua, cả ba nhà đều rất thân thiết với họ Từ, họ Tần, nên đều góp lại, mua cho họ ruộng đất, việc sinh kế cũng tốt hơn nhiều.

Sa phu nhân hỏi:

- Ba vị phu nhân ở đâu, mà lại được triều đình ân sủng đến thế?

Tuyến Nương liền đem chuyện Hựu Lan về Nữ Trinh am gặp mưa, vào trú nhờ trong nhà quả phụ họ Đoàn, gặp ba phu nhân, khâm sai thái giám thấy thế, liền đem về kinh, thuật lại một lượt. Sa phu nhân nói:

- Ba vị phu nhân họ Giang, họ La, họ Giả còn được hưởng phúc lâu dài, nếu như dạo ấy cùng đi với chúng ta, thì nay cũng đang ở đây. Họ đúng là trong mệnh số có quý nhân phù trợ, nên trong bất hạnh lại gặp may vậy.

La La Quốc hậu hỏi:

- Nay các vị phu nhân ấy con cái ra sao rồi?

Tuyến Nương đáp:

- Bây giờ thì ung dung hơn nhiều lắm. Viên Tử Yên sinh một con trai, nghe nói đã đính hôn với con gái Giả Lâm Vân. Giang Kinh Ba cũng sinh một con gái, hứa gả cho con trai La Bội Thanh, tất cả đều rất thân thiết, thương yêu nhau.

Tiêu Hậu ngậm ngùi:

- Ta thường hay mong ước, có ai ở Trung Nguyên tới ta cùng về theo, thăm lại phần mộ của tiên đế. Nay thì gặp may rồi, ta sẽ cùng về với công chúa đây. Có chết cũng chết ở Trung Nguyên vậy.

Mấy nội giám vào thưa:

- Hoa phu nhân đã tới!

Sa phu nhân cùng La La Quốc hậu ra đón.

Tuyến Nương nói:

- A Đại, A Nhị mau cùng Hoa thân mẫu bái chào Tiêu nương nương cùng các vị phu nhân đi?

Hựu Lan mời Tiêu Hậu ngồi để làm lễ, Tiêu Hậu vẫn không chịu:

- Xin cứ chào hỏi bình thường, rồi chúng ta cùng chuyện trò.

Hựu Lan thưa:

- Phận rơm cỏ hèn kém, nhọc lòng nương nương cho gọi.

Tiêu Hậu nói:

- Sao lại nói thế, cũng là ngọc báu như nhau cả, lẽ nào lại sợ dựa tường nhờ sáng hay sao?

Hựu Lan chào bái Sa phu nhân, La La Quốc hậu cùng Tiết phu nhân. Tiêu Hậu thấy hai đứa nhỏ lễ phép, cũng vái cũng chào, liền gọi lại bên, mỗi tay ôm một ngồi trên gối, nói:

- Đúng là hai viên ngọc, chẳng khác gì ngọc quý được cả đôi vậy.

Tuyến Nương nói:

- Xin nương nương cho hai cháu lên được chào điện hạ!

La La Quốc hậu nói:

- Xin được dẫn hai công tử đi!

Tiêu Hậu nói:

- Thế thì tất cả chúng ta cùng đi vậy?

Triệu Vương thấy, rất hoan hỉ, liền sai lấy ghế cho ngồi, các phu nhân đến cùng thứ tự mà ngồi dự tiệc. Tiêu Hậu thấy dáng điệu Tuyến Nương thùy mị khoan thai, Hựu Lan so ra lại cũng chẳng kém gì mặt hoa da phấn, có điều chân to hơn ít nhiều. Tiêu Hậu gọi cung nữ, lấy lịch xem qua rồi nói:

- Ngày mai đúng là ngày xuất hành tốt, ta phải cùng công chúa về Trung Nguyên một phen.

Tuyến Nương cười:

- Nương nương về Trung Nguyên, chỉ sợ người Trung Nguyên không cho nương nương quay lại đây nữa thôi!

Tiêu Hậu nói:

- Trừ có tiên đế ta sống lại mới có thể làm được chuyện này thôi!

Mọi người lại cùng nâng chén. Triệu Vương dẫn hai đứa trẻ vào. Tiêu Hậu nhắc việc về Trung Nguyên thăm lăng mộ tiên đế, Sa phu nhân ba bốn lần khuyên can. Triệu Vương cùng Tiêu Hậu ngồi nói chuyện với Tuyến Nương, rồi thưa với Sa phu nhân:

- Mẫu hậu thấy đã chán đây rồi, thì cũng chẳng nên giữ, cứ để mẫu hậu theo ý mình là hay hơn cả!

Nói rồi, ra báo cho Vương Nghĩa biết. Vương Nghĩa nói:

- Mẫu hậu muốn về thăm phần mộ tiên đế, đó thật một việc làm tốt đẹp. Thần cũng xin cùng về khóc tiên đế một lần vậy!

Triệu Vương quay vào, đúng lúc Tuyến Nương cáo từ, Triệu Vương nói:

- Mẫu hậu chúng tôi định xin cùng về nam, nhờ công chúa nán cho một hai ngày để rồi cùng đi, liệu có được chăng?

Tiêu Hậu, Sa phu nhân cũng hai ba lần mời Tuyến Nương liền ở lại trong cung Tiêu Hậu. Tiêu Hậu hỏi:

- Dạo trước ta từng thấy công chúa trông coi việc quân rất nghiêm khắc, ngay cả khi trong khuê phòng, cũng thấy rất thận trọng, quy củ, không cho qua một sai sót nhỏ nào, sao bây giờ thấy lại nhu mì thuận hòa khiến cho xung quanh dễ yêu mến vậy?

Tuyến Nlơng đáp:

- Lúc ấy là thiếp theo nề nếp của Tào Hoàng hậu. Hoàng hậu trông coi việc trong khuê phòng rất nghiêm túc, nói cười không bao giờ cẩu thả. Nhưng không hiểu sao từ ngày về La tướng quân, được mấy lần trò chuyện, liền thay đổi tính tình, ngày này qua ngày khác dẫu có cười nói, giận dữ đều cũng chừng mực thế cả.

Tiêu Hậu nói:

- Nếu như thế, tình cảm phu phụ có lẽ đằm thắm lắm phải không?

Nói rồi rơi nước mắt, nghẹn ngào tiếp:

- Tiên Hoàng đối với ta cũng như vậy đấy, nhưng giờ bỏ ta lại đây, chẳng ai thèm đoái hoài, khác nào củi mục tro tàn, cảnh già càng ngày càng thảm hại, khó mà chịu nổi.

Tuyến Nương nói:

- Thiếp nghe nói thiên tử nhà Đường hiện nay, sau khi thống nhất được thiên hạ, cũng rất thích chuyện hưỡng lạc, chẳng bao lâu mà đã tuyển khá nhiều mỹ nhân.

Tiêu Hậu gật đầu, sai cung nữ sắp xếp hành trang. Hai ngày sau La Thành sai Phan Mỹ, hẹn hội sư với Sài Thiện ở cửa quan, rồi cùng Tuyến Nương làm tiền đội, Lý Như Khuê cùng vợ chồng Vương Nghĩa làm hậu đội, sắp xếp đâu đó, cáo biệt lên đường. Tiêu Hậu với Sa phu nhân, La La Quốc hậu khóc lóc một hồi, Tiêu Hậu mới lên kiệu. La Thành kéo cờ Triệu Vương như đang đi tiếp ứng cho Thổ Cốc Hồn.

Chuyện không nói nữa.

***

Lại nói Sài Thiệu vâng thánh chỉ, vội thu xếp xong lễ tang, điểm quân lên đường đến Mân Châu, giở bản đồ xem qua, gọi thổ dân đến hỏi tỉ mỉ, không một sai sót bỏ qua, dẫn quân tiến đánh. Thổ Cốc Hồn cũng biết chuyện, chọn ngay núi cao, gọi là Ngũ Cô Sơn. Cảnh núi ra sao, nhìn lên chỉ thấy:

Núi đen lởm chởm

Cây biếc từng từng

Chen chúc loanh quanh đá gấm

Rì rào chen chúc cây rừng

Trời cao gió lặng mây dừng

Đinh tai sấm nổ như rung chân tường

Ráng hồng che nửa vùng dương

Chiêng khua inh ỏi, ngập đường kín khe. . .

Chính thật là:

Giao tranh nếu chẳng vung gươm sắc

Sao khiến người ngựa phải chạy dài.

Sài Quận Vương đến cách núi khoảng một hai tầm tên bắn, liền cho binh sĩ hạ trại. Rồi lấy một số quân sĩ, làm một sàn gác thật cao, trông ra chập trùng núi thẳm, quả thật hùng vĩ vô cùng. Thổ Cốc Hồn thấy vậy, sợ Sài Quận Vương có mưu kế gì chăng, không dám tiến, chỉ trèo thẳng lên vách núi sau trại dùng tên bắn như mưa xuống. Quân lính Sài Quận Vương không hề hoảng loạn vẫn nghiêm dàn thành thế trận, tên bay đến trước mặt cũng mặc, cứ miệng ngậm, tay bắt lấy tên, chẳng hề thương tổn.

Sài Quận Vương lại sai hai cô gái, tuổi khoảng mười bảy mười tám, yểu điệu thướt tha, tay gẩy tỳ bà, tiếng nghe réo rắt, vừa hát vừa múa. Thổ Cốc Hồn cho đến quân sĩ, đều chống giáo đứng ngẩn ra xem, hai cô gái uốn éo đủ kiểu, khác nào sông dời biển lật, bướm loạn hoa bay. Múa hát một hồi, càng về sau càng uyển chuyển ly kỳ, hơn các cô gái Giặc Dương (1), cứ thế mà kéo đến hai ba giờ. Bỗng nghe sau núi, một tiếng pháo lớn, bốn phía la hét. Sài Quận Vương biết ngay là quân La Thành đã đến, liền xuất tinh binh tiến sát chân núi mà lên, trước sau cùng hiệp sức công kích, quân giặc thua to bỏ chạy. Cả hai cánh quân đuổi theo đến ba bốn mươi dặm, thắng lợi trở về.

1 Nữ tướng cướp phía bắc Trung Nguyên.

Vương Nghĩa đến chào Sài Quận Vương, thưa chuyện Tiêu Hậu xin về nam. Sài Quận Vương tới chào Tiêu Hậu, rồi cả đại quân lên đường. Sài Quận Vương sợ triều đình trông tin, lại có người ngờ vực gì chăng, viết ngay sớ báo tin thắng trận cùng là việc Tiêu Hậu về nam thăm mộ Tùy Dượng Đế, sai Lý Như Khuê đem về trình trước. Còn mình thì vì phải về Sơn Đông nên cùng đi với Tề Quốc Viễn. La Thành, Tuyến Nương cũng theo đường này về Lôi Hạ thăm lăng mộ Tào Hoàng hậu.

Hôm ấy, về đến Lâm Thanh, trời đã chiều, Tiêu Hậu hỏi Vương Nghĩa:

- Đã đến Uyên ương trấn chưa?

Vương Nghĩa thưa:

- Nhất định là đây rồi!

Tiêu Hậu nói:

- Nghe nói ở Uyên Ương trấn có một cửa hàng cơm "Chu Gia phạm điếm", chúng ta hãy tới đó nghỉ xem sao?

Mọi người vâng lời đi tìm, thì thấy ngay phía trước chiêu bài viết mấy chữ lớn: "Chu Phùng Xuân khiêu thương khách điểm". Ai nấy cùng dừng lại. Sài Thiệu, La Thành sợ không đủ chỗ, nên kiếm một chỗ nghỉ ngơi khác. Tiêu Hậu vẫn ngồi trong kiệu, nhìn vào cửa hàng thấy có một người đàn ông khoảng ba mươi tuổi đứng ngay trước cửa, sau quầy có một phụ nữ xinh xắn ngồi, nhìn kỹ, thì chính là Dương Phiên Phiên ở viện Minh Hà ngày xưa. Thấy Dương phu nhân đang nói với người đàn ông:

- Chu chủ nhân hãy ra hỏi xem khách nào thế kia, mời họ vào chứ!

Lúc này Tiết Dã Nhi đã xuống ngựa, nhìn kỹ Dương phu nhân, rồi kinh ngạc:

- Đúng là Dương phu nhân rồi! Sao lại ở đây?

Dương phu nhân ngẩng đầu nhìn, nhận ra Dã Nhi, vội chạy ra:

- Đi đâu bây giờ, ở đâu đến đây? Ngoài cửa kia là ai thế?

Dã Nhi đáp:

- Chính là Tiêu Hoàng hậu!

Dương phu nhân vội vàng:

- Xin mời vào nhà. Đem cả hành lý của Tiêu nương nương vào!

Tiêu Hậu xuống kiệu, Dương phu nhân đón vào nhà sau, lạy chào. Tiêu Hậu chỉ nhận lễ thường rồi cầm tay Dương phu nhân mà rằng:

- Ta tưởng chỉ trong mộng mới gặp được phu nhân. Không ngờ còn có lúc này!

Hàn huyên mãi vẫn chưa hết. Tiêu Hậu hỏi:

- Người đứng ngoài cửa kia, có phải Chu chủ nhân chăng?

Dương phu nhân đáp:

- Đúng rồi? Cũng vốn từ võ biền xuất thân, thiếp đã theo được sáu bảy năm nay.

Tiêu Hậu giả ý hỏi:

- Một mình phu nhân ở đây, hay còn ai nữa?

Dương phu nhân đáp:

- Còn có Phàn phu nhân, Chu phu nhân.

Tiêu Hậu hỏi tiếp:

- Hai phu nhân kia đâu rồi?

Dương phu nhân đáp:

- Phàn phu nhân cùng ở với thiếp, nhưng bị bệnh mất rồi. Chu phu nhân lấy Vưu Vĩnh, hai năm trước đây cũng đã qua đời!

Tiêu Hậu hỏi:

- Phòng riêng của phu nhân đâu?

Dương phu nhân giơ tay chỉ:

- Một gian ngay kia!

Nghe tiếng Phùng Xuân gọi bên ngoài, phu nhân chạy ra. Tiêu Hậu nhớ lại chuyện xưa, tưởng lại cảnh cũ, không giấu nổi thương tâm, nước mắt khôn ngăn, đêm ấy không tài nào ngủ được. Sáng ra người nóng, mắt hoa, ai nấy vào thăm. Sài Thiệu, La Thành sai mời thầy thuốc tới chữa chạy, ở lại đã hai ngày, Tiêu Hậu vẫn thấy tức ngực khó thở, vẫn chưa thể đi lại được.

Sài Thiệu nhận được tin báo ở trong cung Trường An anh em bất hòa, vội cáo biệt La Thành, về trước phục chỉ.

Chưa biết sự thể ra sao, hãy xem hồi sau phân giải.

Hồi Thứ Sáu Mươi Sáu

Cung Đơn Tiêu, phi tần dèm nịnh,

Cửa Huyền Vũ, anh em giết nhau.

Từ rằng:

Mừng những lúc sum vầy nồng nhiệt

Tay trong tay da diết yêu thương

Thanh xuân chưa đến tuổi tàn

Uyên ương một lứa, bướm vàng một đôi

Hương bách hợp liền chồi cùng gốc

Sao ba ngôi sáng rực chữ tâm

Hỏi trời xanh hỡi có lầm

Mà xui ruột thịt ngấm ngầm đắng cay

Giận hờn dù chất núi ngang này

Bỗng chốc trời cao sáng tối thay?

Xanh nhạt hồng phai đời thoắt biến

Núi mòn sóng cạn vận vần xoay

Những mong gặp gỡ rồng bên hổ

Mà ước dài lâu gió với mây

Hận ấy than ôi khôn kể xiết

Tương tàn huynh đệ ngẫm xưa nay.

Theo điệu "Mãn giang hồng"

***

Nay hãy khoan nói chuyện Tiêu Hoàng Hậu bị bệnh trong quán cơm của Chu Hỷ ở Uyên Ương trấn, hãy tiếp chuyện trước đó Tần Vương đem đai ngọc treo trước cửa cung Trương, Doãn hai phu nhân, vốn là muốn cho họ hối hận mà thay đổi lòng tà, để trở thành người tốt. Không ngờ vua Đường nghe theo lời xằng bậy, sai Lý Cương đi căn dặn Tần Vương. Chuyện này nếu chẳng có tình cha con kéo lại, chỉ đem pháp độ của triều đình ra mà xét xử, thì sẽ ra sao.

Cũng may Lý Cương đem thơ của Tần Vương về trình, vua Đường vốn khoan từ đại độ, lại có công của phi tần Vũ Văn chiêu nghi, cùng Lưu tiệp dư, sau này cả hai do Nguyên Cát, Kiến Thành nhiều lần đi lại quà biếu, nên cũng bớt lời, chuyện vì vậy mà nguội dần, vua Đường chẳng muốn khơi to. Tần Vương thấy phụ hoàng không hỏi tới, chẳng tiện nói rõ.

Kiến Thành, Nguyên Cát kết giao với cung phi, dò la tin tức, Trương Doãn biết rõ trong dịp lễ tang Bình Dương công chúa, hoàng tộc cho đến các đại thần đều có mặt, nên đưa tin ra, giục anh em Kiến Thành khởi sự. Anh em Kiến Thành vốn táng tận lương tâm, mặc sức điên cuồng, thấy phải chớp lấy cơ hội. Nhân khi cả đám tang dừng nghỉ ở chùa Phổ Cứu ngay bên đường, giả bộ ân cần, bày sẵn tiệc rượu tha thiết khuyên mời. Tần Vương thì như mù giở, nghĩ anh em Kiến Thành đã thực lòng hối lỗi, chẳng hề để ý, bị hai người cho uống rượu có thuốc độc. Mới uống được nửa chén thì ở nóc chùa, tiếng chim yến ríu rít, vút bay ngay, ỉa ngay đúng vào chén rượu, bẩn cả áo bào của Tần Vương. Tần Vương liền đứng dậy thay áo, bụng đau quặn, vội về ngay phủ, suốt đêm ấy đi ngoài như nước, nôn ra hàng bát máu. Liêu thuộc Tây phủ, đều tới thăm hỏi, ra sức khuyên nên trừ ngay hai anh em Kiến Thành.

Ở trong nội cung, Tần Vương cũng có tâm phúc, lén tâu cho vua Đường rõ. Vua Đường giật mình kinh hãi, nghĩ ngợi rằng giang sơn này, dân chúng này đều do công lao của Thế Dân, liền đến ngay Tây phủ thăm nom. Vua Đường cầm tay hỏi:

- Con từ ngày sinh ra đến giờ, làm gì có bệnh này, sao bỗng nhiên ở đâu đến, nhất định phải có chuyện gì chứ?

Tần Vương ứa nước mắt, đem chuyện ngày hôm qua đưa tang, giữa đường cùng Tề Vương, Anh Vương ghé vào chùa nghỉ, uống rượu ra sao, kể lại một lượt, thở dài mà tiếp:

- Sáu cung chê cười, phố phường mỉa mai. Đang lúc mưa thuận gió hòa, hoa hương đua sắc, sinh chuyện anh em bất mục. Những mong cơ nghiệp dài lâu như nhà Hán, há lại thành chuyện huynh đệ tương tàn, lòng đau máu chảy. Số con là vậy, trời cao lồng lộng, người chẳng chiều người. Nhưng vẫn còn ít nhiều ngờ vực, liệu đã phải thế chưa, thánh mẫu trên trời có linh thiêng, may có cơ vãn hồi để an ủi được lòng phụ hoàng chăng?

Nói rồi, nước mắt lại trào ra. Vua Đường thấy chuyện đến thế, trong lòng không yên, bèn nói với Tần Vương:

- Trẫm thuở trước khởi nghiệp lớn, sau cho đến bình được Trung nguyên, đều do công lao của con, ngay lúc ấy đã muốn lập con làm kẻ nối nghiệp, con cố chối từ. Nay tuổi Kiến Thành đã lớn, ở ngôi Thái tử cũng đã lâu, trẫm không đang tâm mà truất cho được. Xem ra anh em con khó mà dung nhau, nếu cùng ở một nơi, chẳng khỏi chuyện cạnh tranh. Lẽ nên cho con làm hành đài ở Lạc Dương, từ đất Thiểm trở về đông đều do con làm chủ, lại cho con được kéo cờ thiên tử, như chuyện Lương Hiếu Vương đời Hán vậy, con nghĩ thế nào?

Tần Vương nức nở từ chối:

- Cha con thì phải dựa vào nhau, đạo người là lẽ thường vậy, đâu dễ rời khỏi dưới gối, quên chuyện viếng thăm.

Vua Đường đáp:

- Nay thiên hạ đã một nhà, hai kinh đông tây, đường đi cũng gần. Trẫm mà nhớ con, lại có thể đến ngay, có việc gì phải bi thương?

Nói rồi, lên xe rồng về cung.

Gia quyến, tân khách của Tần Vương, nghe được chuyện này, thấy được thoát khỏi hố lửa, không ai là không hoa tay múa chân vui mừng. Kiến Thành biết chuyện, nghĩ rằng nơi ấy toàn gai góc, chẳng có điều gì đáng lo, vội báo ngay cho Nguyên Cát biết chuyện. Nguyên Cát dậm chân mà rằng:

- Thôi rồi! Lệnh này mà ban ra, anh em ta thật hết đường sống.

Kiến Thành kinh ngạc hỏi:

- Tại sao?

Nguyên Cát trả lời:

- Tần Vương công lớn, vừa có mưu sâu, vừa có dũng khí, trong phủ văn vũ đầy người, một khi đã khởi sự, bốn phương hưởng ứng. Cả hoàng tộc một nơi, chúng dẫu nhiều mưu kế, chỉ giữ khư khư trong tay, anh hùng không đất dụng võ. Nay đưa đi ở Lạc Dương, lập cờ hiệu thiên tử, rồi tự chúng sẽ ngày càng muốn chuyện lớn hơn. Đất đai đã rộng, lương thực đã nhiều, bọn tướng sĩ được Tần Vương cất nhắc phần lớn lại là người Thiểm Đông, mưu thành thì đừng nói địa vị của Đông Cung, mà ngay cả phụ hoàng nữa, cũng đến chắp tay mà nhường ngôi báu. Lúc ấy thì anh em ta chẳng khác gì miếng thịt trên thớt, liệu còn dám ho he gì nữa chăng?

Kiến Thành tỉnh ngộ :

- Em nói có lý lắm! Giờ thì làm thế nào để ngăn chuyện này lại?

Nguyên Cát đáp:

- Nay anh phải lập tức lệnh cho tay chân ngầm phao lên rằng: Tả hữu của Tần Vương, nghe chuyện đi Lạc Dương, không đứa nào là không vui mừng nhảy nhót, đạt được ý nguyện; chỉ sợ rồi sẽ không trở về nữa. Lại nhờ mấy cận thần, đem chuyện lợi hại tâu rõ, còn anh em ta phải vào ngay nội cung, bảo mọi người ngày đêm nói xấu Tần Vương với chúa thượng. Phụ hoàng sẽ thôi chuyện này, giữ Tần Vương lại Trường An, thì cũng chẳng khác gì thằng thất phu, sau đó kiếm chuyện đổ tội cho, chẳng khó khăn gì!

Kiến Thành cười, nói:

- Những lời em nói hay lắm, hay lắm!

Lập tức cả hai sai người đi khắp nơi thực thi mưu kế.

Chính là:

Đường đi hái củi nghẽn rồi

Còn hòng chiếm cả rừng ngoài thành đô.

Các anh hùng hảo hán trên thế gian này, đều biết rằng lời đàn bà không nên nghe theo, không biết rằng những lời trên chiếu, bên gối đỏ, vẫn có những lời lọt vào tai khi nào không biết, khiến cho dẫu có sức bạt núi nâng đỉnh, đến lúc đó cũng tiêu ma, chỉ đành yên lặng nghe theo, mặc sức nghe theo, tùy ý thay đổi vậy. Vua Đường bấy giờ, thân tuổi đã cao, chỉ muốn yên ổn, nên nghe đủ những giọng oanh lời yến, theo mưu kế của Đông cung Tề Vương Kiến Thành, đến nỗi xảy chuyện băng tan ngói vỡ. Lại còn cả những lời nịnh, xin vua Đường giết ngay Tần Vương, may vua Đường vốn nhân từ, việc mới không xong.

Liêu thuộc Tây phủ; ai ai cũng mong thánh chỉ. Lúc này tiết trời oi ả. Tần Vương dậy rất sớm để xem hoa lan, thì đã thấy Đỗ Như Hối, Trường Tôn Vô Kỵ xăm xăm đi vào. Tần Vương kinh ngạc hỏi:

- Hai khanh có việc gì, mà vào sớm vậy?

Như Hối chưa kịp nói, thì Trưởng Tôn Vô Kỵ đã lên tiếng:

- Điện hạ đã biết mưu mô của Đông cung chưa? Thế không thể dung hòa, sợ rồi chúng thần chẳng còn thờ điện hạ suốt đời được nữa đâu!

- Sao khanh lại nói thế?

Như Hối thưa:

- Trước đây Đông cung sai nội sử đi Sở Trung dẫn về đến hai ba chục loại vong mệnh, nuôi dưỡng ngay trong phủ, lại thêm thứ sử Hà Châu Lư Sĩ Lương đưa vào Đông cung đến hơn hai mươi lực sĩ, đó là chuyện tháng trước, thần ở ngay trước trạm dịch trông thấy trước mắt rõ ràng. Chiều tối hôm qua, có đến ba bốn chục người, nói là người Quan Ngoại, lại cũng tìm vào Đông cung. Điện hạ thử nghĩ xem, Đông cung không coi cấm binh, cũng chẳng cầm binh đánh Liêu, bình giặc cỏ, chẳng lo việc lấy nước, thì dùng những phường ấy làm gì?

Tần Vương đang định trả lời, lại thấy Từ Nghĩa Phù cùng Trình Giảo Kim, Uất Trì Cung vào lạy chào. Giảo Kim cầm quạt, quạt lia lịa mà rằng:

- Trời nóng bức thế này, nhân tình ấm lạnh không thường, chuyện xô cửa đổ tường đến ngay rồi, sao điện hạ vẫn ngồi an nhiên chẳng lo lắng gì cả?

Tần Vương đáp:

- Vừa rồi Như Hối cũng có nói chuyện với ta. Xưa nay vẫn thường chê cười việc cốt nhục tương tàn, ta cũng biết họa đến sớm tối nhưng hãy để cho bên kia động đậy trước, sau đó hãy ra tay trừ khử, thì tội không phải tại ta vậy!

Uất Trì Cung thưa:

- Lời của điện hạ, thật có chỗ không hay. Tính người mấy ai thích chết, thế mà nay ai cũng lấy cái chết thờ điện hạ, đó chính là trời cho điện hạ vậy. Nay họa đến từng khắc, điện hạ vẫn do dự không nghe. Điện hạ coi nhẹ thân mình, nhưng còn tôn miếu xã tắc. Nếu điện hạ không dùng lời của thần, thần xin bỏ trốn vào nơi rừng sâu núi thẳm, chẳng dám ở lại thờ điện hạ nữa đâu! Nhẽ nào lại bó tay ngồi chờ chịu giết sao?

Vô Kỵ tiếp:

- Nếu điện hạ không nghe theo lời thì đại sự hỏng mất, đến như Uất Trì Cung mà còn không ngửa cổ thờ điện hạ được nữa, thì thần cũng xin đi theo, không dám ở lại Tây phủ nữa vậy!

Tần Vương vẫn lưỡng lự:

- Lời của ta cũng chưa phải đã sai cả. Hãy chờ xem thế nào rồi hãy quyết định.

Giảo Kim thưa:

- Sáng nay con trai nhỏ của thần là Trình Nguyên, ngồi ở cửa hàng miếu ngoài phố, thấy có đến sáu bảy kẻ đàn ông ngồi ăn miến ở gian bên, đều là những tay to cao lực lưỡng. Trình Nguyên ghé tai sát tường nghe ngóng, một đứa trong bọn nói: "Điện hạ tại sao lại đối với chúng ta tốt như thế này!". Đương lúc cao hứng, có hai người đi vào, nói: "Chúng ta đi tìm khắp nơi, thì ra chúng mày ngồi đây ăn miến. Đông cung đã đi rồi, mau lên thôi!". Bọn kia mời ăn miến, hai người này không chịu, tất cả kéo nhau đi! Trình Nguyên nhận ra một trong hai người đến gọi là mãi biện Vương Khắc Sát ở trong Đông cung, nên về nói ngay cho thần biết. Thần nghĩ cơ sự này, thì chuyện nước lửa, chỉ là sớm tối. Không thể chần chừ được nữa đây!

Từ Nghĩa Phù cũng nói:

- Tề Vương cùng Anh Vương luôn tìm cách hại điện hạ, nào phải một lần thôi đâu. Hãy xem họ đưa hẳn một xe vàng bạc, tặng cho Hộ quân Uất Trì Cung, cũng may mà Uất Trì Cung không chịu nhận. Đem vàng lụa cho Đoàn Chí Nguyên, họ Đoàn cũng khước từ. Lại định tâu chúa thượng để đưa tổng quản Giảo Kim đi làm thứ sử Khang Châu, may mà Giảo Kim nhất định không chịu nghe. Những kẻ tay chân thân tín của điện hạ, dù chết cũng không đổi lòng, liệu còn ở bên cạnh được bao nhiêu người. Thế là tại sao?

Nói rồi, không ngăn được nước mắt. Tần Vương nói:

- Nếu đã như thế, khanh hãy cùng Giảo Kim đến ngay chỗ Mậu Công. Còn Vô Kỵ cùng Như Hối hãy tới chỗ Lý Tĩnh, đem những chuyện này, nói rõ cho họ biết, xem họ trả lời ra sao.

Ai nấy vâng lệnh lên đường.

***

Không nói chuyện Nghĩa Phù cùng Giảo Kim đến chỗ Mậu Công, hãy nói chuyện Vô Kỵ cùng Như Hối giả dạng thư sinh, đem theo hai tên người nhà, ngày đêm đến dinh Đại Đô đốc An Châu Lý Tĩnh. Lý Tĩnh thấy mặt, vừa mừng vừa sợ, mừng là được gặp tri kỷ, sợ vì thấy cách hai người ăn mặc khác thường. Vội mời cả hai vào thư phòng, bày tiệc rượu, kề gối kề vai chuyện trò. Như Hối đem mọi chuyện kể tỉ mỉ. Lý Tĩnh nói:

- Việc quốc gia đại sự, chúng tôi là bề tôi ở bên ngoài, phải dè dặt khi bàn luận. Huống chi có điện hạ ở trên, phận bề tôi nào dám nói sằng. Lại thêm đây là công việc trong họ hàng nhà vua. Tần Vương công nghiệp trùm thiên hạ, hiển hách khắp núi sông, mai kia phú quý nói thế nào cho hết, nay chúng tôi chẳng qua chỉ là kẻ tòng sự biết gì mà thưa? Phiền hai ngài về trình lại thật khéo cho với.

Vô Kỵ, Như Hối hai ba lần cầu xin. Lý Tĩnh vẫn mỉm cười, từ tạ không nói. Cả hai chẳng còn cách nào khác, đành ngủ lại một đêm. Canh năm hôm sau, sợ triều đình có biến, viết lại mấy chữ lưu lại trên án, rồi lặng lẽ lên đường về. Đi được bốn năm mươi dặm, trời đương thanh quang, bỗng chân trời trước mặt đùn lên một dám mây đen, kéo ngay lên đỉnh núi, chẳng mấy chốc cuồng phong mù mịt. Vô Kỵ nói:

- Trời cũng có biến rồi, cứ như thế này, đành phải tìm một nhà nào đó mà nghỉ lại thôi.

Người nhà Như Hối là Đỗ Tăng thưa:

- Xin hai ngài cố thêm ít nữa, cách đây hai ba dặm đã là nơi ở của Từ tiên sinh rồi!

Như Hối nhớ ra:

- Đúng rồi, chúng ta nhanh lên một chút vậy!

Vô Kỵ hỏi:

- Từ tiên sinh nào kia?

Như Hối đáp:

- Chính là Từ Đức Ngôn ấy mà, vợ tiên sinh chính là Lạc Xương công chúa, chị em họ với tiểu đệ đây.

Vô Kỵ hỏi thêm:

- À đấy chính là chuyện "Phá kính trùng viên", gương vỡ lại lành đó phải không? Sao lại không ra làm quan, mà ở đây?

Như Hối đáp:

- Đức Ngôn chán ngán cảnh quan trường, chỉ thích sống ẩn dật ở rừng núi thôi!

Vô Kỵ nói:

- Vợ chồng họ là những người thông minh. cũng nên vào bái kiến xem sao.

Tất cả ruổi ngựa, đến trước một thôn nhỏ, thấy suối chảy như bạc trắng, tiếng nghe róc rách, mấy hàng thùy liễu thướt tha theo gió đứng ngay bên cầu, phía bên kia là một trang viên lớn, rải theo đến bốn năm trăm nóc nhà, xung quanh là đồng ruộng xanh tốt. Một người cưỡi ngựa từ trong làng ra, qua cầu, đến trước cổng làng, xuống ngựa hỏi bọn Như Hối:

- Các vị ở đâu đến?

Đỗ Tăng đáp:

- Chúng tôi là người nhà họ Đỗ ở Trường An, nhân đi An Châu qua đây, nên đến tìm Từ tiên sinh!

Người này đáp:

- Từ đại nhân chúng tôi sáng nay có người ở thôn bên đến mời đi rồi!

Như Hối hỏi:

- Anh hãy dẫn chúng tôi vào gặp công chúa vậy!

Rồi lại sai Đỗ Tăng:

- Ngươi hãy theo vào thưa với công chúa, nói rằng có ta đến thăm.

Người kia dẫn Đỗ Tăng đi trước, lát sau thấy cửa lớn mở ra, mời Như Hối cùng Vô Kỵ vào, ngồi ở nhà trên, chẳng mấy chốc, có hai hầu gái, ra mời Như Hối vào nội thất.

Như Hối vào định quỳ lạy. Lạc Xương công chúa vội từ chối:

- Trời nóng bức, xin cứ làm lễ thường thôi!

Như Hối vái chào xong, ngồi xuống thưa:

- Từ tiên sinh đi đâu vắng?

Công chúa đáp:

- Ở trong thôn, cứ ngày mùng ba, mùng bảy, con cháu mấy nhà nông lại mời đến giảng sách, cũng là chuyện để làm việc hiếu đễ trung tín, nên từ sáng đã đem theo cả cháu Ninh Nhi đi rồi. Chị đã cho người mời về ngay thôi mà!

Hai bên trao đổi chuyện họ hàng, gia quyến. Công chúa hỏi:

- Nghe nói cậu hiện đang làm quan trong Tây phủ, sao lại có dịp đi như thế này, chắc trong triều có việc gì sao?

Như Hối đáp:

- Chị là người thần hay sao?

Liền đem chuyện Kiến Thành, Nguyên Cát kể rõ một lượt. Công chúa hỏi:

- Chuyện này thì ta đã nghe ít nhiều. Nay cậu định đi đâu?

Như Hối chau mày:

- Tần Vương sai hai chúng tôi; đến chỗ dinh Đô đốc An Châu Lý Dược Sư, hỏi kế sách ra sao, không ngờ Lý Tĩnh một lời cũng không nói. Chị bảo có đáng giận không?

Công chúa đáp:

- Theo ý của chị, đó chính là Lý Đô dốc đã đem lễ của kẻ đại thần ra mà xử dấy, chẳng có gì mà khó hiểu cả đâu. Huống chi Trương phu nhân (1) mới đây sai người đến thăm chị, có nói rằng lâu nay Lý Đô đốc cũng đang có điều lo lắng, thế nào trong triều cũng có biến sớm tối vậy!

1 Vợ Lý Tĩnh, tức Trương Xuất Trần, không phải Trương và Doãn phu nhân.

Như Hối nói:

- Chị nhìn xa trông rộng, sao lại biết Lý Tĩnh lấy lễ đại thần ra mà xử, sao lại biết tất trong triều có chuyện.

Công chúa đáp:

- Dạo còn ở trong phủ họ Đường, hai phu nhân họ Trương, họ Doãn bởi mộ tiếng ta, cũng thường đưa quà lễ tới làm thân. Nay thì không đi lại nữa rồi, nhưng trong đám phi tần cũng còn có nhiều người thân thiện từ xưa. Một người là Quách tiệp dư, mẹ của Từ Vương Lý Nguyên Lễ, một người là Lưu tiệp dư, mẹ của Đạo Vương Lý Nguyên Bá, hai tiệp dư này rất thân thiết với ta. Lưu tiệp dư gần đây có sai người đem quà đến cho, ta có hỏi việc triều chính. Người này có kể chuyện hai phu nhân Trương, Doãn cùng với hai Vương Tề Anh hại Tần Vương ra sao, bỏ vàng bạc ra mua chuộc các phu nhân có con cái trong nội cung để cùng mưu tính hãm hại Tần Vương. Hai vị tiệp dư họ Lưu, họ Quách này cũng còn khá, nhưng hai phu nhân Trương, Doãn thì hết lòng a dua với hai vương. Họ biết rõ trong Tây phủ mưu lược, tâm phúc rất đáng sợ, như Lý Tĩnh, Từ Mậu Công, nên tìm cách đưa đi xa cả. Cả đến bọn Phòng Huyền Sinh, Trưởng Tôn Vô Kỵ, sớm muộn gì cũng sẽ bị đẩy đi khỏi Trường An. Khi mà đã làm xong chuyện này, còn lại một mình Tần Vương, họ sẽ vơ như vơ củi mục, có đáng gì nữa. Nay cậu làm ở trong Tây phủ ăn lộc của Tần Vương, không nghĩ đến chuyện tận trung, mà bày mưu tính đông tìm tây, cậu nghĩ rằng bọn Lý Tĩnh, Từ Mậu Công lại không có trí của Điền Quang sao? (1)

1 Điền Quang: Nghĩa sĩ người nước Yên thời Chiến Quốc, tiến cử Kinh Kha cho thái tử Đan, để Kinh Kha giết Tần Thủy Hoàng. Thái tử Đan dặn: "Xin tiên sinh đừng tiết lộ chuyện này!". Điền Quang cười nhận lời, ra tới cửa than rằng: "Làm việc mà để người ta nghi ngờ, thì không phải là bậc tiết nghĩa!" Rồi đâm cổ tự vẫn. (Từ Hải)

Như Hối đang định phân bua, thì người nhà vào thưa:

- Chủ nhân đã về!

Từ Đức Ngôn bước vội vào chào hỏi:

- Để khách chờ lâu, ngồi ở phòng khách là vị nào thế?

Như Hối đáp:

- Chính là Trưởng Tôn Vô Kỵ?

Đức Ngôn nói:

- Vô Kỵ chưa từng đến nhà bao giờ, sao lại để ngồi một mình ở phòng khách. Tiểu đệ cùng Như Hối hãy ra ngồi trò chuyện?

Rồi quay lại nói với công chúa:

- Xin bảo dọn tiệc rượu mau cho!

Tất cả ra ngồi ngoài phòng khách. Đức Ngôn cùng Vô Kỵ chào hỏi, đúng là kẻ sĩ gặp nhau, vẫn khác người thường. Vô Kỵ kể rõ chuyện anh em Tề Vương cho Đức Ngôn nghe, Đức Ngôn nói:

- Đây vốn là chuyện trong nhà, không thể xử như chuyện quốc chính được. Người thường cũng có thể "Ngộ biến tòng quyền", huống chi điện hạ anh hùng cái thế, lại thêm bao nhiêu mưu sĩ thao lược, có gì mà lại sợ hỏng việc. Thế ý công chúa ra sao?

Như Hối đem lời Lạc Xương nói lại, Đức Ngôn tiếp:

- Lời này quả không sai. Nhưng tiểu đệ còn nghe Đột Quyết Úc Xạ Thiết, đem mấy vạn quân kỳ xuống chiếm Hà Bắc, chuyện này chẳng mấy chốc phải lo, nếu không sẽ trở tay không kịp đâu!

Hai người nghe vậy, vội vàng cơm rượu, thấy cơn mưa đã qua, vội xin phép lên đường. Đức Ngôn đáp:

- Cũng muốn giữ hai ngài lại hàn huyên vài ngày, nhưng sợ lúc này không phải lúc nhàn rỗi, chậm sợ sinh biến vậy!

Như Hối vào phòng trong từ tạ công chúa, rồi cùng Vô Kỵ lên ngựa.

Về đến Trường An, vào ngay Tây phủ, Vô Kỵ đem lời Lý Tĩnh, cùng cả chuyện gặp vợ chồng Lạc Xương công chúa thế nào thưa lại.

Tần Vương nói:

- Lạc Xương cùng Từ Đức Ngôn cũng là bậc phi phàm. Vợ chồng họ nói những gì?

Như Hối kể lại tỉ mỉ, Tần Vương nói:

- Đúng rồi, Yên Quận Vương La Nghệ vừa trình Úc Xạ Thiết Đột Quyết hung dũng, xin binh cứu viện, nên Tề Vương lại tâu điều binh tướng Tây phủ của ta đến một nửa đi rồi. Còn vừa rồi Nghĩa Phù cùng Giảo Kim về, thuật lại lời Mậu Công, cũng chẳng khác gì lắm lời Lý Tĩnh. Nhưng nghe nói Trương Công Cẩn bói rùa như thần, ta đã sai Uất Trì Cung đi gọi, sắp tới bây giờ.

Công Cẩn vào lạy chào Tần Vương xong, thưa:

- Điện hạ gọi thần, có gì sai bảo?

Tần Vương đem chuyện Tề Vương, Anh Vương dâm loạn trong cung ra sao, cùng là lời các tướng khuyên nên hành động thế nào, nói lại một lượt, rồi chỉ hương án, bảo:

- Mai rùa thiêng trên bàn, khanh hãy quyết cho ta một quẻ xem sao?

Công Cẩn cười lớn, cầm mai rùa vứt xuống đất mà rằng:

- Bói là để quyết chuyện còn nghi ngờ, nay việc đã rõ ràng, còn bói gì nữa. Nếu như bói phải quẻ xấu, thì đành thôi hay sao? Hay lại phải làm một cách bất đắc dĩ? Huống chi, chuyện này đến bậc bề tôi bên ngoài còn rõ, nay vẫn nuôi dưỡng những giống ô uế như thế trong cung thì còn thể thống nào nữa?

Bọn Lý Thuần Phong cũng hết sức vun vào, Tần Vương bèn lên tiếng:

- Nếu đã vậy, ý ta đã quyết. Ngày mai vào triều kiến, rồi sẽ đem quân hỏi tội hai vương.

Lúc này Công Cẩn làm Đô phủ, coi cửa huyền vũ, liền nói với Tần Vương:

- Chúng thần tuy là hàng tâm phúc của điện hạ, xin điện hạ cẩn mật cho. Ngày mai vào triều thần xin có cách đối phó.

Nói rồi ra khỏi phủ.

***

Lại nói Lý Như Khuê, vâng lệnh Sài Thiệu, hành quân hơn một tháng trời về đến Trường An, đem tờ biểu của Sài Quận Vương vào cung dâng lên vua Đường. Vua liền cho gọi Như Khuê vào bệ kiến, hỏi rõ chuyện chiến trận, cùng việc Tiêu Hậu về nam. Như Khuê thưa xong, vua Đường phán:

- Khanh đã có công khó nhọc, hãy ở lại kinh, chờ bổ dụng vậy!

Như Khuê bái tạ.

Hôm ấy là ngày Kỷ Mùi, có sao Thái bạch đi ngang qua bầu trời, tòa Khâm thiên giám mật tâu với vua Đường sao Thái bạch kiến Tần phận, Tần Vương sẽ được cả thiên hạ. Vua Đường lại đem những lời này nói lại riêng cho Tần Vương. Tần Vương bèn thưa luôn chuyện Kiến Thành Nguyên Cát dâm loạn trong cung ra sao, lại nói thêm cũng bởi anh em trong nhà, lòng không nỡ phụ, nhưng hai anh em Đông cung nhiều lần định hại mình, để báo thù cho Lý Mật, Thế Sung. Nay dẫu có chết, cũng phải làm rõ nghĩa quân thần, hồn về chín suối vẫn còn hận lũ giặc này. Vua Đường nghe ra, ngạc nhiên, phán:

- Trẫm sẽ hỏi rõ chuyện này, con hãy cứ chờ xem.

Tần Vương liền viết mấy phong thư, sai người cưỡi ngựa đến giao cho các liêu thuộc Tây phủ, xếp sẵn mọi thứ, để đến sáng ngày mai thì hành sự.

Hai phu nhân Trương, Doãn, nghe phong phanh những lời tâu của Tần Vương, vội sai người ra báo cho Kiến Thành cùng Nguyên Cát biết. Kiến Thành liền gọi ngay Nguyên Cát đến bàn cách. Nguyên Cát khuyên nên kéo tinh binh giữ Đông cung, rồi cáo ốm đừng vào triều, để xem động tĩnh ra sao. Kiến Thành đáp:

- Binh lính đã xếp sẵn cả rồi, chẳng sợ gì cả, ngày mai cứ vào triều, hỏi thẳng mặt Thế Dân xem sao?

Ngày Canh Thân, khoảng canh tư, Tần Vương bên trong mặc áo giáp, ngoài áo bào, cùng với Uất Trì Cung, Vô Kỵ, Huyền Linh, Như Hối, bọn này bên trong đều mặc áo giáp, đem theo khí giới, ra khỏi Tây phủ. Tần Vương nói:

- Hãy khoan, còn tín hiệu lệnh cho gia tướng, nổi ba phát pháo lệnh.

Loại pháo hoa này, chính là đem từ nước ngoài về, dài có đến năm sáu tấc, tiếng nghe tận trời mây. Một lúc ba phát pháo bắn lên, đã thấy cả bốn chung quanh kinh thành, nghe tiếng pháo đáp lại. Đi được khoảng hai phố, xa xa một đội người ngựa tiến lại. Như Hối nổ một phát pháo, bên kia cũng một phát pháo trả lời. Thì ra là Giảo Kim, Vưu Tuấn Đạt, Liên Cự Chân. Phía phố ngang cũng một đội người ngựa kéo ra, hai phát pháo hỏi, đáp, đó là toán quân của Vu Chí Ninh, Bạch Hiển Đạo, Sử Đại Nại, Lục Đức Minh. Lại thêm một tiếng pháo phía trước, nhưng chẳng thấy ai cả, không hiểu tại sao. Mọi người lặng lẽ tập trung lại ở trước cửa lầu Thiên Sách, có hai tên lính thám hiệu của Tây phủ lại thưa:

- Cửa Đông cung hiện có ba bốn trăm người vừa đi ra.

Tần Vương vội cởi hoàng bào, chỉ mặc cẩm giáp, cấm kiếm xông lên dẫn đường. Uất Trì Cung rượt ngựa theo thưa:

- Chẳng cần đến chúa công phải ra tay.

Liền dẫn khoảng mười lính kỵ dẫn đầu, toàn là những cảm tử quân, sẵn sàng liều chết, còn có quân tướng nào đánh nổi đội quân này. Uất Trì Cung nháy mắt đã quật ngã ba bốn tên đi đầu xuống khỏi lưng ngựa, Vô Kỵ cũng như bay cầm thương ruổi theo một bên. Đến điện Lâm Hồ, Tần Vương đuổi ngựa kịp Kiến Thành, Kiến Thành bắn luôn ba phát tên, nhưng đều không trúng. Tần Vương bắn một phát, trúng sau lưng Kiến Thành, ngã ngay xuống ngựa. Vô Kỵ sấn ngay ngựa lại chém một thương.

Nguyên Cát vội bỏ chạy ra phía trước đám lính kỵ. Tần Vương đuổi vội theo, lại nghe một tiếng pháo hiệu nổ, một tiểu tướng phi ngựa tới, hét lớn:

- Lũ giặc chạy đi đâu?

Rồi đâm ngay một thương, Nguyên Cát rạp người tránh, đang định nhổm dậy, thì Tần Vương ở phía sau chồm ngựa tới, chém một nhát. Nhìn lại viên tiểu tướng, thì ra là Tần Hoài Ngọc, liền hỏi:

- Vừa rồi nghe một tiếng pháo hiệu gần đây, nhưng rồi chẳng thấy ai cả. Ta đang nghĩ, thân phụ ngươi không có ở Trường An, ngươi làm thế nào mà hiểu ra ta hành sự mà tới?

Hoài Ngọc thưa:

- Tối hôm qua Trình lão bá đến nói cho tiểu thần biết chuyện!

Tần Vương quay ngựa, nói với Giảo Kim, Uất Trì Cung:

- Hai giặc đã giết xong. Xin các tướng đừng giết hại nhiều nữa.

Vì vậy ai nấy để cho lính tráng Đông phủ rút về yên ổn.

Chẳng mấy chốc, Dục vệ kỵ tướng quân Phùng Dực, Phùng Lập, nghe tin Kiến Thành chết liền than thở:

- Chẳng nhẽ sống chịu ơn, chết bỏ chạy chỗ hoạn nạn sao?

Bèn cùng Phó hộ quân Tiết Vạn Triệt, Khuất Chí, với Trực phủ tả quân kỳ Vạn Niên, Tạ Phương dẫn binh lính Đông cung ra ngoài cửa Huyền Vũ, gặp Công Cẩn cùng Vân tướng quân Kính Quân Hoàng, Trung lang tướng Lữ Thế Hành đang chém giết. Công Cẩn đâm chết Thế Hành, gặp cánh quân Phùng Dực kéo đến, Công Cẩn liền bắn chết Phùng Dực, rồi đóng ngay cửa thành lại. Quân Đông phủ tuy nhiều nhưng không tài nào vào được. Lúc này vua Đường đương dạo thuyền chơi trên hồ, nghe nói ngoài cung có loạn, gởi ngay Bùi Tịch cùng Tiêu Duệ vào bàn, thấy Uất Trì Cung được lệnh của Tần Vương, cầm roi, mặc đủ giáp trụ tiến vào làm tướng túc vệ trong cung, đến ngay trước điện. Vua Đường kinh ngạc hỏi:

- Ai đang làm loạn ở ngoài ấy? Khanh vào đây làm gì?

Uất Trì Cung tâu:

- Tần Vương thấy Thái tử cùng Tề Vương làm loạn, kéo quân trừ khử, sợ có chuyện gì động đến chúa thượng, sai thần vào đây túc vệ.

Vua Đường hỏi:

- Tề Vương cùng Anh Vương đâu rồi?

Uất Trì Cung thưa:

- Đều đã bị Tần Vương giết cả rồi?

Vua Đường đập án mà khóc rống, nói với Bùi Tịch:

- Không ngờ ngày nay lại thấy chuyện này.

Bùi Tịch, Tiêu Duệ thưa:

- Anh Vương, Tề Vương, đều không biết chuyện lược thao, lại chẳng có công lao gì với thiên hạ, ghen ghét Tần Vương công cao vọng trọng, cùng nhau bày gian kế, nay Tần Vương diệt đi, bệ hạ bất tất phải bi thương. Tần Vương công trùm vũ tục, núi sông đều theo phục, nếu giao cho nối ngôi, ủy cho việc nước, chẳng còn gì đáng lo nữa!

Vua Đường phán:

- Trẫm cũng muốn như vậy!

Uất Trì Cung xin vua Đường cho sắc chỉ gọi hàng, để hợp mọi quân sĩ cho Tần Vương phân xử. Vua Đường liền sai ngay Bùi Tịch đi với Uất Trì Cung, ra dụ quân sĩ. Lúc này hai bên vẫn còn đang đâm chém nhau. Bùi Tịch cùng Uất Trì Cung ra cửa Huyền Vũ hiểu dụ Tiết Vạn Triệt, bọn này liền giải binh bỏ chạy. Các tướng của Tây phủ định đuổi theo diệt kỳ hết, Uất Trì Cung can:

- Tội tại hai kẻ cầm đầu, nay đã đền, nếu làm đến cả vây cánh, không phải là chuyện dễ dàng yên ổn đâu!

Bèn thôi. Vua Đường hạ chiếu, xá tội cho bè đảng hung nghịch, chỉ dừng lại ở Kiến Thành, Nguyên Cát, ngoài ra không hỏi tội ai cả, lập Tần Vương làm Hoàng Thái tử, ban chiếu rằng, tất cả các việc nước, việc quân, không kể lớn nhỏ, đều giao cho Thái tử phân xử, sau đó tâu lên. Không biết sự thế ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi Thứ Sáu Mươi Bảy

Am Nữ Trinh, phi chúa tu hành,

Mộ Lôi Dương, vợ chồng tuẫn tiết.

Từ rằng

Nợ đời sám hối tội mong chuộc,

Đèn Phật, trăng sao như đốt đuốc

Vạn cổ nhìn lên trời mịt mùng

Sáng ngời xấu tối gương treo ngược

Giấc Trang Sinh rành rành phía trước

Gặp gỡ nhau mong ước từ lâu

Khói hương thỏa chút lòng nhau

Sông ngăn núi cách, những chau đôi mày

Ngàn mây cánh nhạn tung bay.

Theo điệu "Ngư gia ngạo"

Trong thiên hạ mọi chuyện đều có số mệnh, một bát cơm, một chén rượu, cũng là tiền định, huống chi là ngôi Thái tử, ngai vương bá, thiên tử vạn quốc, có phải đâu cứ cố cầu mà được. Mà đã có số đế vương, cũng khó mà mất cho được, giả như Hán Cao Tổ, hội yến ở Hồng Môn, bị vây ở Vịnh Dương nguy đến tính mệnh trong khoảnh khắc nhưng rồi vẫn yên ổn, Sở Bá Vương vẫy vùng ngang dọc, cuối cùng phải tự vẫn ở Ô Giang. Nếu như Kiến Thành, Nguyên Cát, biết phận mình, lui về để được phong ở biên trấn nào đó thì đâu đến nỗi đầu một nơi, thân một nơi.

***

Nay nói chuyện vua Đường thấy mình lỗi lầm nên đem ngay hai phu nhân Trương, Doãn đưa về Trường Lạc cung, đến ngay cả vị hoàng đế già cũng không thể bao giờ được gặp nữa, quanh đi quẩn lại chỉ có bọn Yêu Yêu, Tiểu Oanh, hết chơi cờ, lại đánh cầu, để tiêu ngày dài.

Lúc này Tần Vương đã được lập làm Thái tử, các liêu thuộc Tây phủ đều được cất nhắc vào địa vị xứng đáng, bề tôi của Kiến Thành, Nguyên Cát cũng đã được trở về chức cũ. Duy chỉ có Ngụy Trưng, lúc ở với Lý Mật, đã từng có ơn với Tần Vương, sau theo về nhà Đường, vua Đường thấy Kiến Thành học vấn bình thường, mới đưa Ngụy Trưng làm Thái tử sư phó. Tần Vương gọi Ngụy Trưng đến hỏi:

- Khanh lúc ở bên Đông cung, sao không tìm cách can gián Kiến Thành, để đến nỗi anh em xa cách, ta phải bao phen toan tính?

Ngụy Trưng vẫn bình tĩnh, thưa:

- Nếu Kiến Thành có nói với Trưng này sớm, thì làm gì xảy đến họa này.

Tần Vương nổi giận quát:

- Ngụy Trưng dã đến mức này, mà vẫn không chịu nhận tội. Đem ra chém cho ta?

Tả hữu dang định kéo ra, thì Giảo Kim quỳ xuống xin tha. Tần Vương nói:

- Ta há chẳng biết tài khanh sao. Nhưng chỉ sợ chuyện Kiến Thành vừa rồi, liệu ta có dùng được chăng?

Rồi đổi sắc mặt chào hỏi, lấy làm Thiêm sự chủ bạ, Vương Khuê, Vi Đỉnh cũng gọi cho làm Gián nghị đại phu. Vua Đường thấy Tần Vương xử việc đâu ra đấy, có nghĩa có nhân, lại đúng đắn, chúng thần đều hết dạ trung thành, bèn nhường ngôi cho Thái tử, đấy là tháng tám năm Vũ Đức thứ chín. Tần Vương lên ngôi ở Hiển Đức điện thuộc Đông cung, tôn Đường Cao Tổ làm Thái thượng hoàng, lấy niên hiệu là Trinh Quán nguyên niên (1), lập Trưởng Tôn Quý phi làm hoàng hậu, truy phong cố Thái tử Kiến Thành làm Tức An Vương, Nguyên Cát làm Hải Lăng Thích Vương. Lập con là Thừa Cán làm Hoàng Thái tử, đổi mới chính lệnh.

1 Tức năm 627, Việt Nam đang lúc thuộc Đường.

***

Lại nói chuyện Tiêu Hậu ở trong cửa hàng của Chu Hỷ, vì phong hàn cảm mạo, tức ngực khó thở, khắp người đau nhức, không thể đi lại mãi hơn một tháng mới đỡ, đem mười lạng bạc tạ ơn Dương Phiên Phiên rồi cùng Vương Nghĩa, La Thành lên đường.

Khách đi đường bàn tán:

- Trong triều anh em bất hòa, rất nhiều người bị giết!

Tiêu Hậu hỏi Vương Nghĩa:

- Trong triều anh em bất hòa ra sao?

Vương Nghĩa thưa:

- Nghe La Tướng quân nói Kiến Thành cùng Nguyên Cát không dung được Tần Vương, bị Tần Vương giết chết. Vua Đường đã nhường ngôi cho Tần Vương.

Từ đó ngày đi đêm nghỉ, chẳng mấy chốc đã đến Lộ Châu. Vương Nghĩa hỏi Tiêu Hậu:

- Nương nương cần đến Nữ Trinh am, thì từ đây đi thôn Đoạn Nhai chẳng còn mấy nữa. Thần cùng La Tướng quân dừng quân ở đây. Xin nương nương xuống thuyền đi là tiện hơn cả!

Tiêu Hậu nói:

- Nhất định ta phải tới Nữ Trinh am rồi, cần chọn đường nào dễ đi.

Vương Nghĩa thưa:

- Nếu thế xin nương nương cho người hỏi công chúa xem công chúa có cùng đi chăng?

Tiêu Hậu liền sai Tiêu Hỷ đến nơi ở của Tuyến Nương thưa chuyện, Tiêu Hỷ quay về thưa:

- Công chúa cùng Hoa phu nhân đều đi!

Lúc này có nhiều quan sở tại đến chào La Thành. La Thành sai huyện quan thuê một chiếc thuyền lớn, chọn mười nữ binh, đi theo Tuyến Nương, Hoa phu nhân cùng A Đại và A Nhị. Tuyến Nương sai Kim Đính ra đón Tiêu Hậu, cùng Tiết Dã Nhi lên thuyền. Nước biếc long lanh, núi xanh soi bóng, mái chèo nhẹ lướt, qua một khe nước nhỏ, đã thấy đến thôn Đoạn Nhai, liền sai một phu thuyền lên báo trước cho am biết.

Lại nói ở am Nữ Trinh, mẫu thân của Cao Khai Đạo đã viên tịch ba năm nay, hiện Tần phu nhân trụ trì công việc trong am, nghe thấy báo, giật mình kinh ngạc:

- Tiêu Hậu đến bằng cách nào, đến với ai?

Phu thuyền thưa:

- Đi bằng thuyền của bản huyện, cùng với một người họ La, một người họ Vương, còn ngoài ra thì tiểu nhân không biết.

Các phu nhân liền sắm sửa y phục, ra đón, khỏi cổng đã thấy một đoàn tha thướt, yểu điệu, từ phía bến sông vào. Tấn phu nhân nhận ra Tiêu Hậu, Tuyến Nương, tự nhiên không cầm nổi nước mắt.

Tất cả vào nhà khách, Tiêu Hậu nức nở nói không ra lời.

- Lang thang trên biển mãi, nay mới đến đất tiên chơi một chuyến.

Tần phu nhân đáp lời:

- Vết xưa dẫu còn, ngoảnh lại phút chốc đã hư không. Xin nương nương ngồi lên để chúng tôi làm lễ chào.

Tiêu Hậu đáp:

- Ta cùng các phu nhân, đều như đang sống trong giấc mộng Hàm Đan, ngựa đều muốn hý cả tầu, nói gì đến chuyện lễ tiết. (l)

1 Giấc mộng Hàm Đan: Lư Sinh trọ ở thành Hàm Đan gặp đạo sĩ đưa cho một cái gối: "Gối lên đây, sẽ hết khổ". Lư Sinh gối lên rồi mộng mình lấy vợ đẹp, đậu tiến sĩ, làm quan to, đánh thắng giặc, làm tể tướng mười năm, con cháu đông, sống đến tám mươi tuổi. Tỉnh giấc, nồi kê của chủ quán nấu lúc chưa ngủ vẫn chưa chín. Đạo sĩ bảo: "Việc đời cùng thế cả!" (Điển cố văn học).

Các phu nhân tiên đem lễ chủ khách ra tiếp. Tiêu Hậu chỉ từng người, nói:

- Đây chính là công tử họ La, con Đậu phu nhân, còn đây cũng là công tử họ La, con Hoa phu nhân.

Rồi chỉ Dã Nhi mà hỏi:

- Các phu nhân có nhận ra chăng?

Địch phu nhân đáp:

- Trông có vẻ giống như Tiết Dã Nhi.

Hạ phu nhân nghi ngờ:

- Nhưng sao trông to lớn hơn nhiều?

Tiêu Hậu đáp:

- Các Phu nhân không biết. Khương Đình Đình đã qua đời, Sa phu nhân liền đem Dã Nhi gá cho Vương Nghĩa, Vương Nghĩa hiện nay đã làm đại thần ở Đột Quyết, Dã Nhi cũng là một vị phu nhân.

Các phu nhân liền mời cùng ngồi. Dã Nhi đáp:

- Dã Nhi này vẫn như xưa thôi.

Các phu nhân vội đáp lễ. Rồi ai nấy ôm nhau mà khóc. Trên bàn trà nước, hoa quả đã bày ra. Tuyến Nương lên tiếng:

- Sao không thấy Nam Dương công chúa?

Lý phu nhân đáp:

- Hiện đang ngồi đọc Bảng Nghiêm kinh để sám hối, sẽ ra ngay bây giờ.

Tiêu Hậu hỏi:

- Công chúa ở đây có chịu nổi không?

Tần phu nhân đáp:

- Công chúa có chí tu luyện, lòng rất thanh thoát

Địch phu nhân hỏi:

- Vì sao Sa phu nhân cùng Triệu Vương không thấy đến?

Tiêu Hậu đem chuyện vợ chồng Khả hãn Đột Quyết chết, Triệu Vương được lập làm quốc vương, La La làm quốc mẫu kể một lượt.

Địch phu nhân nói:

- Từ xưa đã nói: "Có chí ắt làm nên". Sa phu nhân là một người chí khí, gìn giữ được Triệu Vương, nay làm vua một vùng, cũng là chuyện có thể đoán trước được vậy.

Tấn phu nhân nói:

- Tỉnh mộng thì tri kỷ mỗi người một nơi, tiếng người lặng thì hương thơm càng dễ nhận. Chỉ có khi nào đậy nắp quan tài mới rõ mọi chuyện được thôi.

Hạ phu nhân tiếp:

- Nương nương tuổi tuy nhiều, nhưng nhan sắc vẫn như xưa vậy.

Tiêu Hậu đáp:

- Làm gì có chuyện đó. Ta mới đây tại nhà Chu Hỷ ở Uyên ương trấn ốm một trận tưởng chết, còn trẻ trung gì nữa đâu!

Lý phu nhân cười:

- Nương nương ít phải lo lắng, nên lúc nào cũng thư thái.

Dã Nhi nói:

- Hạ phu nhân cùng Lý phu nhân thì nhan sắc vẫn như xưa. Chỉ có Tần phu nhân với Địch phu nhân thì có vẻ gầy hơn.

Tiểu Hỷ đứng phía sau cười, thưa:

- Chỉ có Dương phu nhân là vẫn dầy dặn như xưa.

Lý phu nhân hỏi:

- Gặp Dương Phiên Phiên ở dâu?

Tiêu Hậu đem lại chuyện Dương phu nhân, Phàn phu nhân theo Chu Hỷ, Chu phu nhân theo Vưu Vĩnh, Phàn cùng Chu phu nhân đã mất như thế nào kể lại một lượt. Lý phu nhân hỏi:

- Dương Phiên Phiên sống với Chu Hỷ ra sao?

Tiêu Hậu đáp:

- Quấn quýt với nhau chẳng khác gì keo sơn vậy!

Hạ phu nhân phàn nàn:

- Phàn phu nhân, Chu phu nhân thế là mất rồi!

Tuyến Nương hỏi:

- Bốn vị phu nhân đây, có bao nhiêu đồ đệ?

Tần phu nhân đáp:

- Thiếp cùng Địch phu nhân có ba đồ đệ. Còn Hạ phu nhân cùng Lý phu nhân chưa có.

Hựu Lan nói:

- Nay như thế này, thì những ai đứng ra làm thí chủ cho?

Tấn phu nhân đáp:

- Năm nay là Tần thái thái nhà Tần tướng quân Thúc Bảo làm lễ bát tuần thượng thọ, am này được Thúc Bảo đứng ra làm hộ pháp, xuất tiền của ra đủ chi tiêu cho đến tận lúc nào hết đời mới thôi.

Tuyến Nương nói:

- Không biết vợ chồng Đơn tiểu thư nay ra sao?

Lý phu nhân đáp:

- Vợ chồng trẻ cả thì có gì là không tốt cho được!

Địch phu nhân tiếp:

- Đơn tiểu thư cũng đã có hai công tử rồi!

Tiêu Hậu đứng dậy nói:

- Chúng ta cùng lên Phật đường xem sao!

Mọi người tay dắt tay tiến ra cửa, bỗng nghe tiếng chuông gióng giả, một ni cô thong thả đi vào, Tuyến nương nhận ra:

- Công chúa đây rồi!

Tiêu Hậu thấy một người ăn mặc bình thường, nhưng mặt mày xanh xao, nhìn kỹ mới nhận ra, bất giác thổn thức. Nam Dương công chúa quỳ ngay dưới gối nức nở mãi không thôi. Tiêu Hậu giơ hai tay nâng dậy:

- Con đừng khóc nữa, hãy ra mà gặp người xưa chứ?

Nam Dương bái chào Tuyến Nương:

- Thân hèn yếu đuối, nổi trôi khắp chốn, may được công chúa dắt dẫn, nay được gặp lại, chẳng khác gì trong mộng.

Tuyến Nương đáp lễ :

- Gặp lại tiên dung khiến cho lòng trần cũng bớt phần xao xuyến.

Nam Dương lại chào hỏi Hựu Lan, Dã Nhi. Tần phu nhân dẫn mọi người lên Phật đường, nến hương huy hoàng, vàng son sáng chói, rõ ràng cảnh Phật nghiêm trang. Tiêu Hậu chào hỏi các tiểu ni cô.

Tuyến Nương hỏi:

- Ba tiểu ni cô ít tuổi này, có lẽ là đồ đệ của hai vị phu nhân!

Tần phu nhân đáp:

- Đúng vậy, còn hai vị này là sư thái Chân Định, sư thái Chân Tĩnh, đã từng là đồ đệ của Cao lão sư thái. Tháp xá lỵ của Cao lão ở ngay phía sau, hãy chờ dùng cơm chay xong sẽ xin đưa đi thăm.

Ai nấy nói:

- Xin cho ra thăm ngay!

Tần phu nhân dẫn đường, qua lại ba dãy nhà, đến một khoảng đất trống, phía sau là tường cao chất ngất, trước là một tháp chọc trời, được xây bằng đá trắng, những cột đá chạm trổ công phu, xung quanh là cổ thụ râm bóng, phía trước lại có thêm một bái đường, trông thật trang nghiêm. Tuyến Nương hỏi:

- Đây là do các phu nhân tu tạo, hay là Cao lão để lại?

Tần phu nhân đáp:

- Cũng chẳng phải chúng tôi, chẳng phải Cao lão mà đều nhờ vào Tần tướng quân cả.

Tiêu Hậu hỏi:

- Tại sao lại thế?

Các phu nhân liền đem chuyện Thúc Bảo ngày xưa lưu lại ở Lộ Châu ra sao, gặp Cao lão như thế nào, vì vậy mà đứng ra làm hộ pháp cho am để báo đền ơn đức. Ai nấy đều xuýt xoa khen. Tuyến Nương nói:

- Tần phu nhân cho chúng tôi đến thăm phòng của các ni cô.

Tiêu Hậu lại dẫn đầu, trước tiên là vào phòng của Tần phu nhân, cũng gồm ba gian vừa phải, trước sân là một khóm cúc vàng, phía sau là phòng của Địch phu nhân cùng với Nam Dương công chúa, tuy có hai gian nhưng cũng rộng rãi. Địch phu nhân nói:

- Chúng tôi ở đây, thì đúng là nhà cỏ cửa trúc. Chỉ có phòng của Lý phu nhân cùng Hạ phu nhân mới thực suốt ngày rực rỡ nắng trời.

Tiêu Hậu hỏi:

- Ở chỗ nào?

Địch phu nhân đáp:

- Ở phía bên trái này!

Hoa phu nhân giục:

- Mau đến thăm để còn xuống thuyền nữa?

Tần phu nhân nói:

- Xin xơi cơm chay, rồi ở lại một vài ngày hãy đi. Nếu đi ngày hôm nay, sợ La tướng quân lại chê lũ xuất gia chúng tôi không có tình ý gì cả.

Vừa nói vừa đi, Tần phu nhân tiếp:

- Đây là phòng của Lý phu nhân.

Tiêu Hậu bước vào, thấy tất cả các cửa đều mở rộng, ánh sáng soi đến tận giường, có cả một cửa sổ lớn hình tròn như mặt trăng, phía ngoài cửa là một gốc ngô đồng, cành đâm cả vào nhà. Bên cửa là một tiểu ni cô, đang ngồi tập viết. Tiêu Hậu hỏi ai, Lý phu nhân đáp:

- Đây chính là em gái. Hãy mau ra lễ chào đi chứ?

Tiểu ni cô lạy chào mọi người. Phía bên trong còn thấy một gian buồng, kê hai cái giường, có cả đệm chăn, rèm cửa, toàn bằng lụa gấm. Tiêu Hậu quay ra, ngồi xuống ghế của tiểu ni cô, giở mấy tờ giấy viết ra xem, khen:

- Viết đẹp lắm, thư pháp rất tinh tế. Mấy tuổi rồi, pháp hiệu là gì?

Tiểu ni cô cúi đầu thưa:

- Tiểu tử Hoài Thanh mới bảy tuổi!

Tiêu Hậu hỏi tiếp:

- Gặp Lý phu nhân bao giờ, xuất gia đã mấy năm nay rồi?

Lý phu nhân đáp thay:

- Hoài Thanh xuất gia ngay ở quê nhà, nhưng vì quyến luyến, nên vẫn thường đi lại.

Dã Nhi giục:

- Ta lại phòng của Hạ phu nhân đi!

Tiêu Hậu nói:

- Nào, cả hai chị em Lý phu nhân cùng đi nữa?

Rồi dắt tay Hoài Thanh, đến phòng Hạ phu nhân cũng hai gian, nhưng bài trí rất thanh nhã, gần giống như phòng của Lý phu nhân.

Hạ phu nhân hỏi thăm chuyện Triệu Vương, Lý phu nhân cũng hỏi chuyện Hựu Lan từ ngày chia tay, thì thấy hai tiểu ni cô đến mời mọi người về ăn cơm chay, Tiêu Hậu lại dẫn mọi người về phòng khách.

Tiêu Hậu nói:

- Tần phu nhân thật quá cẩn thận, lại thêm thiệt có lòng, hôm nay quấy nhiễu thế này, ta thật áy náy vậy.

Tần phu nhân đáp:

- Chỉ xin nương nương cùng công chúa uống vài chén rượu, thì thật là phúc cho chúng tôi rồi.

Địch phu nhân nói:

- Những thứ này chúng tôi không dùng đến. Hạ phu nhân cùng Lý phu nhân hãy mời nương nương cùng các phu nhân uống nhiều vào.

Thì ra Tần phu nhân, Địch phu nhân cùng Nam Dương công chúa đều không uống rượu. Hạ phu nhân, Lý phu nhân rót rượu mời mọi người, uống được mấy tuần đã ngà ngà say. Tiêu Hậu nói:

- Rượu thì đừng ép nữa, sợ về thuyền không kịp nữa rồi. Xin hãy cho nghỉ một đêm vậy!

Tần phu nhân hỏi:

- Nương nương định nghỉ ở đâu?

Tiêu Hậu đáp:

- Xin đến phòng Lý phu nhân vậy.

Ai nấy cùng mời Tiêu Hậu một chén nữa, rồi Hạ phu nhân dẫn Tuyến Nương, Hựu Lan cùng hai công tử về phòng, Tiêu Hậu, Dã Nhi thì đi theo Lý phu nhân. Tiết phu nhân dọn dẹp. Tiểu Hỷ hỏi Tiêu Hậu.

- Nương nương định nằm ở giường nào?

Tiêu Hậu vừa cởi áo vừa đáp:

- Đêm nay ta ngủ chung với hai em phu nhân vậy.

Hoài Thanh không nói, đứng mân mê vải áo.

Lý phu nhân thưa:

- Hoài Thanh ngủ hỗn lắm, lại hay nói mơ, chỉ sợ phá giấc ngủ của nương nương thôi.

Tiêu Hậu đáp:

- Nếu thế thì Tiểu Hỷ nằm với Hoài Thanh, ta cùng với Lý phu nhân vậy.

Tiểu Hỷ đem chăn gối lại giường Hoài Thanh, Tiêu Hậu rửa ráy qua loa, rồi lên giường, cùng Lý phu nhân trò chuyện hết việc đạo đến việc đời, mãi tới canh hai mới ngủ.

Tới canh năm, gà gáy được ba lần. Lý phu nhân khoác áo trở dậy, thắp đèn, đến bên giường Hoài Thanh khẽ gọi:

- Hoài Thanh, ta lên tụng kinh sáng, hãy ngủ thêm một lát nữa, khi nào nương nương dậy nhớ hầu hạ cẩn thận.

Hoài Thanh ngủ thêm một chốc, thì đã nghe thấy tiếng Tiêu Hậu gọi:

- Tiểu Hỷ, Lý phu nhân đâu rồi?

Tiểu Hỷ đáp:

- Lý phu nhân lên đọc kinh trên Phật đường.

Tiêu Hậu hỏi tiếp:

- Hoài Thanh đâu?

Hoài Thanh thưa:

- Dạ cũng đang dậy.

Rồi vội vàng sang giường Tiêu Hậu, Hoài Thanh mở màn, thưa:

- Mời lệnh bà dậy, đêm qua lệnh bà ngủ có ngon không ạ?

Tiêu Hậu đáp:

- Hôm qua ta bị các phu nhân ép mấy chén rượu, lại cùng Lý phu nhân chuyện trò, nên ngủ một giấc say, mãi đến giờ.

Tiểu Hỷ thưa:

- Tần phu nhân đã đến!

Tần phu nhân ở phòng ngoài nói với Tiết phu nhân:

- Các vị quan khách đang đến tìm nương nương ở ngoài kia rồi!

Tiêu Hậu hỏi:

- Những ai ở ngoài ấy?

Tần phu nhân đáp:

- Có Vương Đại phu cùng bốn năm người khác đến tìm Tiết phu nhân sớm, đang ngồi ở trái phòng phía đông.

Các phu nhân họ Địch, họ Lý, họ Hạ đều muốn giữ lại. Dã Nhi ra gặp Vương Nghĩa, Vương Nghĩa giục lên đường. Tiêu Hậu nói:

- Còn việc chính của ta nữa, phải lên đường thôi! Ta còn phải đi viếng mộ tiên đế, cùng vào bệ kiến nữa kia.

Mọi người xúm lại sắp xếp cho Tiêu Hậu với các phu nhân, Tuyến Nương nói:

- Xin nương nương cảm tạ các phu nhân rồi chúng ta xuống thuyền thôi!

Tiêu Hậu lấy sáu lạng bạc, Tuyến Nương thì mười lạng, gói cẩn thận, đưa biếu Tần phu nhân để thêm vào việc chi dùng. Dã Nhi cũng đưa bốn lạng, Tần phu nhân không cầm, Tiêu Hậu phải đưa cho Lý phu nhân, Lý phu nhân ba bốn lần từ chối rồi mới nhận. Tiêu Hậu tặng Nam Dương công chúa mấy thứ thổ nghi, cầm tay công chúa mà rằng:

- Xưa sao đầy đặn như đóa phù dung, sao nay trông như dáng mai, dáng cúc thế này?

Nam Dương nghẹn ngào:

- Tu Phật là tu ở tâm, nào phải ở cái vẻ bề ngoài đâu.

Ai nấy đều không ngăn được nước mắt, rồi kéo nhau lên phòng khách. Tần phu nhân mời Tiêu Hậu cùng mọi người ăn cơm chay.

Tiêu Hậu đưa tặng một gói quà, Tần phu nhân đứng ra nhận. Rồi cả đoàn đứng dậy ra cửa am. Nam Dương công chúa cùng các phu nhân nước mắt chứa chan, nhằm mọi người xuống thuyền, rồi mới quay về.

Bỗng thấy Tiểu Hỷ chạy lên, Địch phu nhân hỏi:

- Sao lại quay lại?

Tiểu Hỷ thưa:

- Nương nương bỏ quên hộp trang sức ở phòng Lý phu nhân.

- Xin đa tạ các phu nhân!

Nói rồi chạy vội xuống thuyền. Thuyền giương buồm, chạy một lèo tới tận Bộc Châu. Lại lên kiệu, lên ngựa, La Thành xếp đặt sẵn sàng, sai năm mươi tên lính, hộ tống Tiêu Hậu đến tận mộ Lôi Đường, rồi hẹn đón Tiêu Hậu ở bến Thanh Giang cùng về kinh, ai nấy lại chia tay.

Chính là:

Non nước đón mừng ai bạn cũ

Khách tình suông viếng nấm mồ xưa.

***

Không nói chuyện La Thành, Tuyến Nương, Hựu Lan cùng hai công tử về Lôi Hạ viếng mộ Tào Hoàng hậu, chỉ nói chuyện Tiêu Hậu cùng vợ chồng Vương Nghĩa đi mấy ngày đã tới Dương Châu, quan nha sở tại ra đón. Tiêu Hậu nói với Vương Nghĩa:

- Lúc này là lúc nào mà đòi quan nha đón rước. Mau bảo họ trở về không phải thế nữa.

Quan lại liền quay về, chỉ thấy một người dáng thanh thoát, râu ba chòm dài đẹp, đội mũ vuông, mặc lễ phục, sai gia nhân đưa thiếp trình Vương Nghĩa. Vương Nghĩa kinh ngạc:

- Dạo trước theo hầu nhà vua đi Dương Châu, ta đã từng gặp Giả Nhuận Phủ tiên sinh một lần, sau làm tư mã cho Ngụy Công, danh tiếng rất lớn, nay sao lại giữ chữ tiết nghĩa không chịu làm quan với nhà Đường mà lại tìm đến đây vậy?

Vội vàng chạy ra đón, chào lễ chuyện trò. Nhuận Phủ nói:

- Tiểu đệ năm ngoái chuyển từ Lôi Hạ sang ở vùng này, chỉ cách lăng tiên đế khoảng hai ba dặm, nên xin cứ tạm dừng kiệu của nương nương tại tệ xá, rồi chúng ta thu xếp đâu đấy, hãy vào lăng làm lễ cũng không muộn vậy.

Vương Nghĩa chưa kịp đáp, thì đã thấy hai viên thái giám đến trước thưa rằng: .

- Vương Đại phu đã tới rồi sao, Tiêu nương nương hiện ở đâu?

Vương Nghĩa đưa tay chỉ:

- Đang ở kiệu lớn phía sau!

Hai viên thái giám vội chạy lại, quỳ ngay bên kiệu thưa:

- Tâu hoàng hậu, tiểu thần xin lạy chào!

Tiêu Hậu vén rèm, nhìn rồi hỏi:

- Các ngươi có phải là Lý Vân với Mao Đức ở Trung Thượng cung không? Sao giờ lại ở đây?

Lý Vân cùng Mao Đức thưa:

- Đương kim thiên tử lệnh cho hai tiểu thần coi sóc lăng của Tùy tiên Dượng Đế ạ!

Tiêu Hậu nói:

- Nghĩ đến ngày xưa các ngươi ở trong cung, quyền hành là thế, nay lưu lạc ra đây, coi giữ cô phần thế này sao?

Lý Mao thưa:

- Hương án, nhạc khí cùng các thứ lễ vật bày biện xong xuôi, sẵn chờ hoàng hậu vào làm lễ.

Tiêu Hậu nói:

- Những thứ này ta chẳng hề sai sắm sửa, các ngươi lấy ở đâu ra?

Lý Vân thưa:

- Ba ngày trước đây, hiến ty của La tướng quân mang đến chờ sẵn.

Tiêu Hậu nói với mấy tên lính đi theo:

- Các ngươi hãy lại thưa với Vương Đại phu, trước lăng tiên đế chỉ cần bày đủ tam sinh, cùng với rượu vàng giấy, còn lại bao nhiêu, thưởng cho lính tráng sở tại rồi cho họ về trước. Ta sẽ vào làm lễ.

Vương Nghĩa vội cùng Nhuận Phủ về nhà, xếp sẵn một ít quà thưởng, đến cửa lăng, phát cho lính tráng, cho họ về trước, rồi cùng bốn tên trong đội lính hộ tống vào xếp đặt mọi thứ. Tiêu Hậu thay áo tang trắng bằng lông chim, lên kiệu ngồi, lòng vô hạn cảm thương, mắt nhòa lệ, đến cửa lăng, lệnh cho dừng kiệu. Tiểu Hỷ đỡ xuống cùng với Dã Nhi vừa khóc vừa bước vào lăng. Bia đá cao ngất trời mây, xung quanh cây che rợp bóng, bên cạnh lăng lớn còn nhiều mộ nhỏ khác. Ở giữa trồng một cây quế lớn, bốn bên là những hàng bia đá, ghi rõ nào là "Liệt phụ Chu Quý Nhi Mỹ nhân linh vị", "Liệt phụ Viên Bảo Nhi Mỹ nhân linh vị". Hai hàng tả hữu cũng có bia của Tạ phu nhân, Lương phu nhân, Khương phu nhân, Hoa phu nhân, Tiết phu nhân cùng Ngô Giáng Tiên, Hạnh Nương, Thỏa Nương, Nguyệt Tân. Đó chính là công của Trần Lang, thái thú Quảng Lăng, tìm được hài cốt ở các nơi, đem về đây mai táng. Vương Nghĩa lẫn Tiêu Hậu xem qua, cỏ xanh phủ mộ khắp lượt, khiến Tiêu Hậu thấy lòng ngao ngán thương người cảm tình. Tiêu Hậu nằm lăn ra cỏ, khóc lóc một hồi, rồi nỉ non:

- Tiên đế đi đâu, Tiên đế chết đi còn có bao nhiêu người theo cùng, thân phận thiếp bây giờ ra sao đây?

Tiết Dã Nhi quanh quẩn bên mộ Chu Quý Nhi, đem những lời dặn dò thuở xưa, về chuyện ký thác trông coi Triệu Vương cùng với Sa phu nhân. Nay Triệu Vương đã nên Chính Thống Khả hãn, không phụ sự ký thác của Quý Nhi, kể lại một lượt trước mộ rồi gào khóc thảm thiết, tưởng như có thể chết được vậy!

Vương Nghĩa thấy Dã Nhi khóc lóc còn hơn cả Tiêu Hậu, sợ có chuyện gì, liền sai Tiểu Hỷ:

- Ngươi hãy mau mau lại khuyên giải phu nhân.

Tiểu Hỷ cùng bọn hầu gái vội lại đỡ Tiêu Hậu, đốt vàng, rót rượu. Tiêu Hậu cùng Dã Nhi lên kiệu để về. Vương Nghĩa ra trước lăng tiên đế, gào lớn:

- Tiên đế trước mặt, thần là kẻ lùn Vương Nghĩa, nay đã về đây. Lúc ấy đáng ra thần phải được chết với nước, theo bệ hạ về dưới cửu tuyền, nhưng bởi vì bệ hạ còn ký thác cho Triệu Vương, nên phải cố sống thừa mấy năm. Nay Triệu Vương đã làm chủ một phương, được làm Khả hãn Chính Thống, tiên đế hãy an lòng, thần lại xin theo để hầu hạ tiên đế như xưa!

Nói rồi đứng dậy, nhìn vào bia đá, mà lao đầu vào thật mạnh. Ai nấy gào như điên loạn:

- Vương Đại phu? Sao lại làm thế?

Lúc này Tiết Dã Nhi đang định lên kiệu, vội quay ngay lại, chạy như bay tới, hét lớn:

- Các người lui ra!

Dã Nhi xem ra, thì thấy đầu Vương Nghĩa đã vỡ đôi, máu huyết đầy đất nhưng hai mắt vẫn mở trừng trừng, không chịu khép. Dã Nhi nói như người trong mê:

- Phu quân đã làm xong chức phận thần tử nhà Tùy, phu quân hãy mau về hầu hạ tiên đế. Thiếp xin đi thưa chuyện với Chu Quý Nhi rồi sẽ quay lại.

Nhìn ra thì đôi mắt Vương Nghĩa đã khép lại, Dã Nhi liền đến bên mồ Quý Nhi, lao thẳng đầu vào bia đá. Thương ôi! Hương tan, ngọc nát, máu đỏ loang đầy cỏ xanh trước mộ, đã thành u hồn chốn dạ dài.

Nhuận Phủ vội cho người báo với Tiêu Hậu, Tiêu Hậu ngồi trên kiệu, kinh hoàng nghĩ: "Đúng là hai đứa ngu dốt. Chúng nó chết rồi, bây giờ ai đi với mình đến bến Thanh Giang đây?"

Nhuận Phủ hỏi:

- Nương nương có lại xem không?

Tiêu Hậu nghĩ ngợi, trả lời:

- Đến xem là phải muốn cùng chết với họ kia chứ. Thôi thì mau dọn dẹp đi cho xong?

Rồi lấy ra năm mươi lạng bạc, đưa cho Nhuận Phủ:

- Phiền tiên sinh mua hai quan tài, chôn cất cả hai. Còn bây giờ ta phải đến bến Thanh Giang gặp La Tướng quân, thì làm thế nào bây giờ?

Nhuận Phủ thưa:

- Xin nương nương đừng ngại, chờ thần qua nhà, sẽ đưa nương nương đi!

Tiêu Hậu nói:

- Nếu như thế thì thật khó nhọc cho tiên sinh?

Nhuận Phủ về, giao bạc cho con, sai mua quan tài lo việc khâm liệm, rồi lên ngựa, cùng Tiêu Hậu lên đường.

Không biết sự thể ra sao, hãy xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi Thứ Sáu Mươi Tám

Theo ý hoàng hậu, cung nữ được về,

Đúng lời thề xưa, âm ty tử án

Từ rằng:

Thiều quang chín chục nhanh như chớp

Cay mắt, đau lòng chịu không được

Dằng dặc ân hận này lỗi thề ước

Mưa móc cùng đội ơn trên khắp

Bỗng một sớm đổi thay sống chết

Đừng bảo rằng

Ở suối vàng

Mà không bênh vực, nể nang

Giữa vua quan

Non sông gai góc tràn lan

Bừng cơn ác mộng, chưa hoàn hồn sao?

Theo điệu "Điệp luyến hoa"

Đại phàm hay làm việc thiện, dù người không biết, sẽ có âm đức, ý nghĩa tốt, làm việc thành thực, không miễn cưỡng, không tà khuất, theo lẽ tự nhiên của người ta mà hành động. Ngạn ngữ nói rằng: "Có âm đức, sẽ được báo ngay ở cõi dương này" (1). Nhớ thuở xưa Cố Trường Hưng, là hoạn quan nên không thể nào có con được, nhưng vẫn lấy cả thê cả thiếp đến mười người, một hôm ngồi uống rượu với mấy hoạn quan khác, thê thiếp ra hầu tiệc.

1 Nguyên văn: "Hữu âm đức giả, tất hữu dương báo".

Trường Hưng than:

- Ta suốt đời nghĩ làm đều là nhưng việc âm đức, nhưng sao vẫn chịu tội tuyệt tự?

Một người thiếp thưa:

- Âm đức chẳng xa đâu!

Trường Hưng bỗng sực nhớ:

- Nếu nói chuyện âm đức, thì lẽ nên gả chồng cho đám thê thiếp này của ta:

Người thiếp thưa:

- Thiếp xin được nói, chẳng có lẽ nào thế cả, thiếp dẫu có chết, cũng xin được theo phu quân thôi.

Trường Hưng liền đem gả chồng cho hơn mười thê thiếp, sau đó sinh được ba người con, mà mẹ đẻ của chúng chính là người thiếp quyết không chịu bỏ Trường Hưng trên kia. Huống chi là chuyện lớn của triều đình, quan hệ đến tôn miếu xã tắc, thì việc âm đức, quả báo còn đến thế nào nữa.

***

Nay nói chuyện La Thành tới Trường An, giao cho Phan Mỹ trông coi quân lính, gia quyến, thong thả vào thành, tìm lại nhà Tần Thúc Bảo, thì nghe năm ngoái Sài Tự Xương đã về kinh phục mệnh, theo Thúc Bảo vào lạy chào Tần thái Thái, đem lễ vật mừng thọ lên trình. Thúc Bảo nói:

- Hiền đệ ở xa mấy nghìn dặm mà ngày sinh của thân mẫu tiểu đệ cũng không quên!

La Thành lại đem chuyện chinh Bắc, cùng Tiêu Hậu về Nam, cùng Tuyến Nương đến am Nữ Trinh gặp Tần, Địch, Hạ, Lý phu nhân, biết chuyện Tần Thái đang làm lễ bát tuần Thượng thọ ra sao, phát nguyện ở am thế nào, cũng chuyện về tế tiên đế, vợ chồng Vương Nghĩa tuẫn tiết kể lại một lượt. Tần thái thái nói:

- Hai cháu họ La cùng với hai phu nhân hiện đang ở đâu, mau mau đem kiệu đón ngay về đây.

Thúc Bảo thưa:

- Tiêu Hậu cũng hiện còn ngoài ấy. Chờ vào bệ kiến chúa thượng sẽ đón gia quyến La hiền đệ về đây.

Tần Thái Thái nói:

- Nếu đã thế hãy sai Hoài Ngọc ra đón Tiêu nương nương cùng hai vị phu nhân về chùa Thừa Phúc, tạm nghỉ một hai ngày.

Hoài Ngọc vội vàng đem theo gia đinh ra ngoài thành thu xếp chỗ nghỉ cho Tiêu Hậu cùng gia quyến La Thành.

La Thành vào triều kiến Thái Tôn, được Thái Tôn hết sức khen ngợi, ban yến thưởng công, có ngay thánh chỉ, sai bốn viên nội giám, triệu Tiêu Hậu vào cung. Đậu Công chúa, Hoa phu nhân liền đến nhà Thúc Bảo, chúc thọ Tần thái thái, gặp gỡ Trương phu nhân. Đơn Tiểu thư dẫn hai con ra chào các con của La Thành, chuyện trò tíu tít. Viên Tử Yên, các phu nhân họ Giang, họ La, họ Giả nghe tin, cũng sai người đem lễ biếu. Khoảng hơn một tháng, La Thành vào triều kiến tạ ơn rồi lại lên đường đi viếng mộ Hoa Thừa Chi. Chuyện không nói nữa.

***

Lại nói chuyện từ ngày Đường Thái Tôn lên ngôi, bốn phương biển cả thanh bình, ca hát hòa vui. Bọn bầy tôi Ngụy Trưng, Phòng Huyền Linh, chuyện gì biết thì thưa, thưa mãi cũng không hết chuyện, quân thần tương đắc. Một hôm vâng mệnh Thái Thượng Hoàng, đặt yến tiệc ở Vị Ương cung, giữa tiết thu ấm áp, gặp ngày trời trong sáng, ánh vàng rực bầu trời, mặt đất. Thái thượng hoàng lệnh cho Khả hãn Hiệt Lợi nhảy múa. Phùng Chí Đái vịnh thơ, rồi cười phán:

- Hồ Việt một nhà, từ xưa chẳng bao giờ có vậy thay!

Thái Tôn tâu:

- Đấy chính là nhờ ơn giáo hóa của thượng hoàng, chứ sức lực của chúng thần thì quả không tài nào làm được. Nhớ xưa Hán Cao Tổ cũng như Thượng Hoàng đã bày yến tiệc ở cung này, nói những lời huênh hoang thần quả không dám kể lại.

Thái thượng hoàng vui vẻ hỏi Thúc Bảo:

- Mẫu thân khanh, năm nay tuổi bao nhiêu?

Thúc Bảo quỳ thưa:

- Thân mẫu thần năm nay tám mươi ba, nhờ hồng phúc của thượng hoàng vẫn khỏe mạnh.

Liền lệnh cho trăm quan, cùng hoàng tộc, theo phẩm cấp mà ngồi, không được huyên náo. Bá quan cứ theo thứ tự ngồi xuống, lệnh cho hoàng môn bàn rượu, nhã nhạc du dương. Đang lúc vui vẻ, không ngờ Uất Trì Cung ngồi phía dưới Nhiệm Thành Vương đùng đùng nổi giận quát:

- Ngài có công lao gì, mà được ngồi trên cả ta?

Nhiệm Thành Vương không biết trả lời ra sao, Uất Trì Cung liền đấm một quả, trúng ngay vào mắt phải của Lý Đạo Tôn. Ai nấy đều đứng dậy khuyên giải. Đạo Tôn mắt nảy đom đóm, phải dụi, phải nháy mãi mới bỏ ghế mà ra khỏi điện. Thượng hoàng hỏi duyên cớ, mọi người đành thực mà tâu trình, thượng hoàng không vui phán:

- Nhiệm Thành Vương Đạo Tôn là họ hàng trẫm, thì việc gì phải nói có công hay không công. Hôm nay cùng nhau gặp gỡ vui vẻ, nên cùng giữ ý, sao lại trò chuyện bằng chân tay thế!

Thái Tôn dẫn trăm quan quỳ tạ tội, rồi lệnh bãi yến, đưa thượng hoàng về cung.

Ngày hôm sau, Thái Tôn lên điện nói với quần thần:

- Hôm qua trẫm cùng Thái thượng hoàng gặp gỡ trăm quan vui vẻ, Uất Trì Cung phạm lễ vua tôi. Trẫm thật không vừa lòng, vì Nhiệm Thành Vương vốn là thân tộc của trẫm mà Uất Trì Cung còn ngang ngạnh đến thế huống chi người khác. Trẫm nói vậy, hoàn toàn không vì riêng gì Đạo Tôn.

Tả hữu đã thấy Uất Trì Cung tự trói mình vào tạ tội, trăm quan hoảng sợ, đều quỳ thưa:

- Uất Trì Cung là viên tướng thần vũ, vốn chưa quen việc lễ tiết nay không ngờ phạm tội với hoàng gia, xin bệ hạ hãy nghĩ công chó ngựa mà tha tội cho.

Thái Tôn gọi Uất Trì Cung vào, truyền cởi trói, rồi nói với Uất Trì Cung:

- Trẫm những muốn cùng các khanh giữ lấy sự phú quý, nhưng khanh ở chức quan đã mấy lần phạm tội. Trẫm nghĩ đến công lao của khanh, mà không muốn theo cách của Hán Cao Tổ đối với Hàn Tín, Bành Việt xưa kia đem ra ướp thịt làm mắm, cũng không phải là lỗi ở Cao Tổ vậy.

Uất Trì Cung khấu đầu tạ tội. Thái Tôn tiếp:

- Kỷ cương của quốc gia, có thưởng có phạt, hưởng ơn không phải nhận mình, không thể không tính, miễn cưỡng mà cho qua, sau hối không kịp.

Uất Trì Cung bái tạ mà ra, vì vậy bị giáng bớt lương cấp.

Tháng năm, năm thứ chín đời Trinh Quán, thượng hoàng bệnh nặng, qua đời ở Thái An cung, ban chiếu cáo khắp thiên hạ, đặt tên thụy là Thần Nghiêu. Hôm ấy, Thái Tôn nhàn rỗi cùng Trưởng Tôn Hoàng hậu với phi tần đi dạo trong cung, rất nhiều cung nữ ra đón, tất cả đều tề chỉnh, nhưng già trẻ khác nhau. Thái Tôn thấy vậy, trong lòng không vui. Mấy cung nữ dâng trà, hoàng hậu mới hỏi:

- Các người được tiến cung từ bao giờ?

Các cung nữ thưa:

- Cũng có kẻ mới vào gần dây, còn số vào từ thời nhà Tùy rất nhiều.

Hoàng hậu nói:

- Nếu là từ nhà Tùy thì cũng phải trên hai mươi năm rồi còn gì?

Các cung nữ thưa:

- Khoảng mười hai, mười ba tuổi tiến cung, nay khoảng ba mươi lăm, ba mươi sáu tuổi cả.

Hoàng hậu hỏi:

- Ngày xưa nhà Tùy tần phi nhiều, nên kẻ cung nữ hầu hạ cũng nhiều hay sao?

Cung nữ thưa:

- Thời nhà Tùy có phu nhân, mỹ nhân, chiêu nghi, sung hoa, tiệp dư, tài nhân, những loại này đều xếp đặt ở các cung. Sao bằng được bây giờ, chúa thượng cùng hoàng hậu nhân từ, kiệm ước, khiến cho trong cung không ai là không được đội ơn sâu.

Thái Tôn phán:

- Trẫm nghĩ thiên tử là người đứng đầu, thì cũng đến hoàng hậu, rồi bất quá đến hai ba phi tần nữa là đủ. Tinh lực có hạn, sao lại làm khổ bao nhiêu là người chầu chực, khiến cho thanh xuân nữ sắc, phải giam hãm trong thâm cung vậy.

Tự Huệ Phi thưa:

- Trông tình cảnh của họ, thật đáng thương.

Thái Tôn nói với Hoàng hậu:

- Hoàng hậu, trẫm định đem số cung nữ này thả ra khỏi cung, cho về với dân làng, kiếm chồng con để không uổng phí quãng đời còn lại.

Hoàng hậu cười:

- Việc ân việc uy này là do lượng chúa thượng, thiếp đâu dám bàn thêm, nhưng nếu mà thả cho số cung nữ này ra, mới chỉ nghĩ đến trong lòng thôi, đã là một việc ân đức lớn lắm vậy!

Thái Tôn cười:

- Trẫm nào có định nghĩ không đâu!

Các cung nữ lập tức quỳ lạy tạ ơn. Từ hoàng hậu phi tần, cho tới cung nữ, ai nấy đều vui cười. Thái Tôn nói với nội thị:

- Ngươi hãy tìm viên thái giám coi nội cung, nói rõ làm sổ tên các cung nữ này đưa trình.

Nội thị liền tìm thủ cung Thái giám Ngụy Kinh Ngọc nói rõ. Đêm hôm ấy, cung nữ các cung chẳng khác nào nước sôi trong vạc, lập tức khai tên tuổi, quê quán cùng Ngụy Kinh Ngọc. Sáng ngày hôm sau, Thái Tôn ngự triều xong, Kinh Ngọc đưa sổ tên trình lên. Thái Tôn xem hồi rồi phán:

- Khanh hãy gọi tất cả đến Thúy Hoa điện.

Kinh Ngọc vâng mệnh quay ra, Thái Tôn về cung đưa cho hoàng hậu:

- Với số cung nữ này, thì không biết hao phí bao nhiêu máu, nước mắt của dân chúng, cùng bao nhiêu tiền của quốc gia. Nay tất cả đều đã biên chép ở đây. Muốn điểm đủ mặt, cũng phải mấy ngày khó nhọc.

Hoàng hậu thưa:

- Không ngại, bệ hạ làm một nửa, thiếp cùng Từ phu nhân làm một nửa, chẳng mấy chốc mà xong.

Thái Tôn liền cùng Hoàng hậu lên xe rồng, Huệ Phi cũng lên một xe phượng đến Thúy Hoa điện, thấy cung nữ đã đầy đủ. Thái Tôn cùng hoàng hậu ngồi trên án, Từ Huệ Phi ngồi cạnh hoàng hậu, cung nữ chia làm hai, cứ gọi tên hàng nào thì hết hàng ấy, chẳng phấn son, nhưng người nào cũng tươi tỉnh. Thái Tôn tuyển lấy những cung nữ dưới hai mươi, cho tạm trông coi các cung, còn lại đều thả cho ra, có đến hơn ba nghìn người. Lệnh cho Kinh Ngọc theo các cung viện cũ mà cho ở tạm, rồi ra bảng hiểu dụ, trong vòng một tháng, để trăm họ biết rõ, cho cha mẹ đến lĩnh con em về, tìm nơi gả chồng, nếu thân thích ở xa thì chọn lấy nơi, hoặc giao cho Kinh Ngọc tìm. Gần thì tìm đến, xa thì cho ít của cải rồi tìm nơi chốn yên thân.

Chỉ trên dưới hai tháng mọi chuyện xong xuôi, còn lại mỗi Yêu Yêu, Tiểu Oanh, người ở Quan Ngoại xa xôi, chẳng thấy họ hàng đến. Lại ngay lúc xuất cung Yêu Yêu bệnh nặng, Tiểu Oanh phải chăm nom, đành phải ở lại nhà Ngụy thái giám có đến ba bốn tháng, bệnh tình mới khỏi.

Ngụy Thái Giám có một người bạn thân, làm Cẩm vệ huy sứ, họ Vi tên Nguyên Trinh đến thăm, tuổi cũng dã gần bốn mươi, vợ chưa lần nào sinh đẻ, những cũng muốn cưới thiếp cho chồng, nhưng Nguyên Sinh không nghe. Ngụy thái giám giữ lại cho uống rượu suông, nói tới chuyện xuất cung:

- Vi đại thần vẫn chưa con cái gì, nghe nói nội quyến rất hiền đức, hôm vừa rồi sao không kiếm lấy một cung nữ vừa ý, sinh lấy vài mụn con, cũng là điều may cho họ Vi.

Nguyên Trinh xua tay:

- Tiện nội mà sinh được cũng mừng, không sinh cũng mừng vậy.

Ngụy thái giám nói:

- Hiện giờ vẫn còn hai cung nữ, chẳng khác gì hai chị em ruột, mười phần xinh xắn, xin để tiểu đệ gọi ra đây, cho đại nhân ngắm thử xem.

Liền sai ngay Tiểu thái giám đi gọi. Yêu Yêu cùng Tiểu Oanh vào lạy chào, Nguyên Trinh vội vàng đứng dậy đáp lễ, thấy cả hai dáng điệu thướt tha, mặt hoa da phấn, liền lên tiếng:

- Xin đa tạ!

Ngụy thái giám mới hỏi:

- Đại nhân thấy thế nào?

Nguyên Trinh đáp:

- Không thể được đâu, đấy là những kẻ đã được chúa thượng để mắt tới, lũ quan lại chúng ta lại lấy về làm thiếp thì còn gì là thể thống?

Ngụy thái giám cười:

- Thật là giọng lưỡi của mấy mụ già. Hôm trước Lý đại phu cũng lấy được Sái Tu Dung, Trương đại phu cũng kiếm được Triệu Ngọc Kiều, thì sao đại nhân lại không được?

Rồi thôi không nói tới nữa. Rượu xong, Nguyên Trinh ra về. Ngày hôm sau, Ngụy thái giám biết Nguyên Trinh không có nhà, mới gọi một cái xe nhỏ, cho Yêu Yêu cùng Tiểu Oanh ngồi, nói với một tiểu thái giám:

- Người đến nhà Vi đại nhân, gặp phu nhân, nói rằng ta biết đại nhân chưa có con cái gì, nên xin đưa tới hai mỹ nhân.

Tiểu Oanh, Yêu Yêu đến gặp Vi phu nhân. Phu nhân vô cùng mừng rỡ, đợi Nguyên Trinh về, giấu trước ở trong buồng gấm của thư phòng. Nguyên Trinh thấy, biết là ý tốt của phu nhân, đêm đó nghỉ ngay ở thư phòng. Sau đó cùng đến tạ ơn phu nhân, thê thiếp rất thân thiết, sinh trai, sinh gái đủ cả. Tiểu Oanh sinh một con gái, được làm Hoàng hậu thời Đường Trung Tôn, nên Nguyên Trinh được phong Thượng Lạc Vương. Đó là chuyện sau này nên chỉ nói thế thôi.

Lúc này Phòng Huyền Linh vì chuyện can gián nên nhà vua cũng không mặn mà như xưa. bèn xin cáo lão. Tháng sáu năm thứ mười đời Trinh Quán, Trưởng Tôn Hoàng hậu ốm nặng, bệnh tình ngày càng trầm trọng, liền dặn dò Thái Tôn:

- Thiếp bệnh nguy lắm rồi, liệu chẳng dậy được nữa. Bệ hạ nên gìn giữ mình rồng, để yên thiên hạ, Phòng Huyền Linh thờ bệ hạ đã lâu cẩn thận kín đáo, chẳng có chuyện gì lớn, chẳng nên bỏ vậy. Họ hàng nhà thiếp, duyên may đến phúc lộc thế này, đừng bỏ qua chuyện đức giáo mà cất nhắc, đến nỗi đảo điên. Xin bệ hạ coi trọng chuyện quyền uy. Thiếp sinh cả đời, vốn chỉ vô ích, nên sau khi chết, cũng chẳng lăng cao mả lớn, hao phí tiền của thiên hạ, hãy lấy núi làm mồ, đồ táng khí chỉ gạch ngói, gỗ mộc là đủ rồi. Xin bệ hạ thân kẻ quân tử, xa lánh kẻ tiểu nhân, nghe theo lời can gián trung thực, vứt bỏ những tiếng xiểm nịnh, bớt phu dịch, thôi chuyện săn bắn rong chơi. Thiếp dẫu có chết cũng không ân hận gì nữa vậy.

Rồi dặn dò Thái tử:

- Con nên hết lòng hết sức, để báo đền sự phó thác nặng nề của phụ hoàng.

Thái tử bái lạy mà thưa:

- Há dám không vâng theo mệnh của quốc mẫu.

Dặn dò xong xuôi, đêm ấy thì băng ở Nhân Tĩnh cung.

Ngày hôm sau, cung từ đem sự việc được mất của hoàng hậu từ nhỏ, làm thành sách "Nữ tắc" gồm ba mươi quyển đưa trình lên. Thái Tôn xem rất xúc động, liền giảng giải cho bọn cận thần:

- Sách này của hoàng hậu cũng làm gương cho trăm đời sau noi theo. Trẫm không phải là không biết thiên mệnh, mà làm chuyện thương xót vô ích, nhưng vào cung mà không được nghe những lời can gián, trung thực, mất đi một người bạn hiền, thì thật lòng không thể nào khuây được.

Liền sai Hoàng môn quan triệu Phong Huyền Linh về nhận chức cũ, tháng mười năm ấy thì táng Văn Đức Hoàng hậu ở Chiêu Lăng, cách Hiến Lăng của Đậu Thái hậu khoảng hơn một dặm. Thái Tôn thương nhớ không nguôi, bèn làm ở trong ngự uyển một Tăng Lâu quán để nhìn về Chiêu Lăng, thường cùng Ngụy Trưng lên lầu, chỉ cho Ngụy Trưng thấy. Ngụy Trưng nhìn thật kỹ, thưa:

- Mắt thần kém, chẳng thấy gì cả.

Thái Tôn lại cố chỉ rõ, Ngụy Trưng thưa:

- Thần lại cứ nghĩ bệ hạ nhìn về Hiến Lăng, còn nếu là Chiêu Lăng thì thần cũng thấy rõ rồi!

Thái Tôn khóc mà hủy Tăng Lâu quán, nhưng trong lòng thì vẫn thương tiếc.

Một hôm, Thái Tôn bỗng bị bệnh, trăm quan sớm tối vấn an, thái y ân cần chăm sóc, bốn năm ngày rồi mà bệnh tình vẫn không thuyên giảm, thỉnh thoảng lại giật mình như bị ma trêu quỉ ám. Chỉ khi nào có Tần Thúc Bảo, Uất Trì Cung vào vấn an, thì thấy tinh thần sảng khoái khác thường. Vì vậy sai vẽ tượng Thúc Bảo, Uất Trì Cung, treo ở cửa sổ để trấn quỷ ma. Đến lúc bệnh trầm trọng liền gọi bọn Mậu Công, Ngụy Trưng vào cung để nhận số mệnh. Mậu Công thưa:

- Bệ hạ xuân thu chính lúc khỏe mạnh, sao lại nói ra những điều không lành.

Ngụy Trưng tiếp:

- Xin bệ hạ đừng lo, thần có thể giữ gìn mình rồng, chuyển nguy thành an được.

Thái Tôn hỏi:

- Bệnh trẫm càng ngày càng nặng, khanh làm sao mà làm được?

Nói xong quay mặt vào tường, lại mơ mơ màng màng như cũ.

Ngụy Trưng không dám kinh động liền cùng Mậu Công ra trước cửa cung. Mậu Công hỏi:

- Ngài có thuật gì, mà có thể giữ long thể, chuyển bệnh nặng thành khỏe mạnh được?

Ngụy Trưng đáp:

- Hiện nay ở dưới âm phủ, phán quan giữ sổ sinh tử, vốn là quan giá ngự của tiên đế cũ, họ Thôi tên Giác, thuở còn sống có cùng hạ quan này đi lại. Đến giờ, trong mộng vẫn thường trò chuyện. Hạ quan mà gửi nhờ Thôi Giác chu toàn thì có thể chuyển chết thành sống vậy.

Mậu Công nghe xong cũng chỉ ậm ừ cho qua, trong lòng vẫn chưa tin. Chẳng mấy lúc, cung nhân báo ra là chúa thượng hơi thở ngày càng yếu dần. Ngụy Trưng liền vào ngay cung, viết một lá thư, thân đem đến trước long sàng đốt, rồi dặn cung nhân:

- Người chúa thượng vẫn còn ấm, không được động đến. Cứ yên lặng chờ cho đến sáng mai sẽ có tin tốt lành.

Rồi các quan ra cửa cung chầu chực.

Lại nói Thái Tôn ngủ cho tận đến chiều, mở mắt thấy âm âm u u hồn phách như bay, khỏi Ngũ Phượng lâu, một con chim cắt hung dữ bay đến, mỏ ngậm một lá thiếp. Thái Tôn ngày thường vẫn thích giống chim săn mồi này, mới nhìn kỹ trong lòng kinh ngạc:

- Kỳ lạ thay! Con chim cắt này chính là con Ngụy Trưng dâng cho ta, ta đã giết ăn thịt từ lâu, nay sao lại sống như thế này?

Vội đuổi theo bắt, chim cắt bỗng chẳng thấy đâu nữa, lá thiếp ngậm ở trong mỏ rơi xuống, Thái Tôn nhặt lấy xem, thì ra một lá thư, ngoài viết rõ :

"Nhân tào quan Ngụy Trưng, thư phụng phán huynh Thôi Công". (1) Phía dưới lại có mấy hàng ghi rõ: "Thôi Giác là tiên triều cựu thẩn, xin bệ hạ hãy đưa thư này tận tay, sẽ cầu được sống trở về nhân gian" .

1 Quan trên cỏi người là Ngụy Trưng, thư trình phán quan Thôi đại huynh.

Thái Tôn xem rất mừng, bỏ vào ống tay áo, cứ theo phía trước mà đi. Đến một nơi mênh mông, nhưng núi không, nước không, cây cỏ cũng không hề có. Đang lúc hoang mang, có người ở phía trước đi lại cất tiếng gọi lần:

- Đại Đường Hoàng đế đi lại phía này!

Thái Tôn nghe ra, ngẩng đầu nhìn thì thấy người này mặc áo thụng xanh, đội khăn sa, tay cầm hốt ngà, chân đi hia trắng, lại gần Thái Tôn, quỳ xuống bên đường mà lạy, miệng thưa:

- Xin bệ hạ tha tội cho thần không ra đón sớm?

Thái Tôn hỏi:

- Khanh là ai? Làm chức gì?

Người này thưa:

- Tiểu thần là Thôi Giác, thuở xưa đã từng làm Thị lang bộ lễ của tiên hoàng đế, nay đang làm phán quan cho Phong Đô (l).

1 phong Đô: nơi có ngự điện của mười vị Diêm Vương, vua cai quản âm phủ, theo truyền thống mê tín xưa ở Trung Quốc và Việt Nam.

Thái Tôn mừng lắm, vội cầm tay mà rằng:

- Tiên sinh thật vất vả, quan ngự tiền của trẫm là Ngụy Trưng có thư gửi tiên sinh đây, thật may mắn được gặp!

Thôi phán quan hỏi:

- Thư hiện ở đâu rồi?

Thái Tôn lấy ở ống tay áo đưa cho Thôi Giác, Thôi Giác xé ra xem rồi thưa:

- Xin bệ hạ yên tâm. Trong thư Ngụy nhân tào có nói nhờ trả bệ hạ lại nhân gian, nhưng tạm chờ gặp Thập điện Diêm Vương đã, thần sẽ xin đưa bệ hạ về dương gian, kế tục ngôi thiên tử như xưa.

Thái Tôn tạ ơn, bỗng thấy hai tiểu quan có đội mũ cánh mỏng đến thưa :

- Diêm Vương có lệnh mời bệ hạ tạm vào khách quán nghỉ ngơi, chờ để định án xong vụ Tùy Dượng Đế, sẽ gặp bệ hạ.

Thái Tôn nói:

- Việc Tùy Dượng Đế mà vẫn chưa thành án hay sao?

Hai tiểu quan thưa:

- Đúng vậy!

Thái Tôn nói với Thôi Giác:

- Trẫm cũng muốn xem Tùy Dượng Đế là người thế nào, phiền Thôi Tiên sinh dẫn cho xem có được chăng?

Thôi Giác thưa:

- Xin mời điện hạ!

Cả bọn kéo đi, bỗng thấy một tòa thành lớn, trên cổng thành có ghi mấy chữ: "U minh địa phủ Quỷ môn quan". Bảy chữ thật lớn.

Thôi Giác nói:

- Tiểu thần xin đi trước dẫn đường, sợ có kẻ xúc phạm chăng!

Liền dẫn Thái Tôn vào thành, cứ theo đường phố mà đi, gặp toàn bọn đầu bù, chân đất, chẳng khác gì ăn mày trên trần thế. Đi được khoảng hơn một dặm, thấy ngay bên đường là tiên đế Lý Uyên, theo sau là người em ruột Lý Nguyên Bá. Thái Tôn đang định lại để lạy chào phụ hoàng, nháy mắt đã không thấy đâu nữa. Đi một đoạn nữa, gặp Kiến Thành, đang dẫn tay Nguyên Cát, cùng đi với Hoàng Thái Tuế. Cả bọn gào lớn:

- Thế Dân đây rồi! Mau đền mạng cho chúng tao!

Thôi Phán quan giơ hốt ngà ra dọa:

- Đây là do Thập điện Diêm Vương mời đến. Không được vô lễ!

Ba người nghe thấy, bỗng đã biến mất.

Thái Tôn hỏi:

- Địch Nhượng, Lý Mật, Vương Bá Đương, Đơn Hùng Tín, La Sĩ Tín có hay không?

Thôi Giác thưa:

- Họ đã đầu thai ở vùng Kinh Châu, Thái Nguyên mấy năm nay rồi!

Còn đang định hỏi xem Thái Mục Hoàng hậu, Văn Đức Hoàng hậu ở đâu, thì thấy một tòa lầu, ngói lợp bằng đá xanh, đứng bên ngoài nhìn vào, rất là tráng lệ, tiếng vàng tiếng ngọc chen nhau, một mùi thơm vô cùng lạ kỳ tỏa ngát. Giương mắt nhìn kỹ thì thấy ba người đi lại, phía sau có đến hàng chục quỷ đầu trâu, mặt xanh lè, răng chìa ra áp giải. Thôi Giác hỏi:

- Bệ hạ có nhận ra ba người này chăng?

Thái Tôn nói:

- Trông cũng quen, nhưng không nhớ ra!

Thôi Giác nói:

Người thứ nhất mang hình lợn, chính là Vũ Văn Hóa Cập, người thứ hai, mang hình trâu là Vũ Văn Trí Cập, người thứ ba mang hình chó là Vương Thế Sung, bọn họ đều là thành án cả, vạn kiếp đều phải làm lợn, trâu, bò, chó, lại phải chịu cực hình bằng hàng nghìn dao băm nhỏ, để phạt tội nghịch sát lúc sống vậy.

Chính là:

Dữ lành quả báo thẳng thừng

Chẳng qua sớm muộn, xin đừng hồ nghi!

Thái Tôn đang ngẩn ra nhìn, xung quanh có người nói:

- Lại xử xong một vụ rồi!

Thôi Giác nhìn xem người nào, chỉ thấy hai đồng tử mặc áo xanh, cầm cờ, che lọng quý, cười nói hoan hỉ, dẫn theo sau một vị hoàng đế, nối tiếp là một đoàn hơn mười người mũ áo chỉnh tề, hai quan sứ theo hai bên. Thôi Giác cất tiếng hỏi:

- Trương huynh ông, đoàn nào thế này?

Quan sứ họ Trương kia đáp:

- Đây là cung nữ của Tùy Dượng Đế Chu Quý Nhi, lúc sống trung liệt, mắng giặc mà chết, đã từng cùng với Tùy Dượng Đế Dương Quảng thề thốt trên lưng ngựa, nguyền đời này sang đời khác làm vợ chồng. Phía sau chính là những kẻ tử tiết theo: Viên Bảo Nhi, Hoa Bạn Hồng, Tạ Thiên Nhiên, Khương Nguyệt Tiên, Lương Huỳnh Nương, Tiết Nam Nha, Ngô Giáng Tiên, Thảo Nương, Hạnh Nương, Nguyệt Tân. Chu Quý Nhi được làm hoàng đế, còn bọn này thì làm bề tôi, nay đưa đến Ngọc Tiêu Cung để ghi nhớ kỹ, rồi cho giáng sinh vào nhà vương, nhà chúa cả.

Thái Tôn cười mà rằng:

- Trẫm nghe nói bọn Chu Quý Nhi đều tuẫn tiết vì nạn nước, để nêu rõ đức sáng, nay quả nên làm. Nhưng nếu sinh làm thiên tử, thì không biết ở đâu?

Lại thấy hai quỷ sứ, dẫn Tùy Dượng Đế như kẻ mất hồn tới, phía sau là ba bốn hung thần, mặt mày đen như than. Thôi Giác hỏi lũ quỷ sứ dẫn đi đâu, một quỷ sứ đáp:

- Dẫn đến Chuyển Luân điện, bởi việc giết anh, giết cha chưa thành án, còn phải chịu quả báo làm thú vật, chờ bốn mươi năm sau nữa, lòng dạ thay đổi rồi, mới được giáng sinh về dương thế, thay hình mà vẫn không đổi họ Dương, chuyển thành gái nhà họ Dương, để cùng Chu Quý Nhi thực hiện lời thề trên ngựa trước kia.

Thôi Giác lại hỏi:

- Sao vẫn không bỏ tấm lụa trắng thắt cổ ngày xưa đi à?

Quỷ sứ lại đáp:

- Dượng Đế mai kia thác sinh làm hoàng hậu, cũng chỉ được hai mươi năm, rồi lại cũng sẽ chịu kết cục như thế thôi?

Thôi Giác gật đầu, Thái Tôn cất lời:

- Dượng Đế một đời tàn ngược hại dân, làm chuyện dâm loạn trong cung, nay lại được chuyển sinh làm hoàng hậu, thế thì chuyện dâm loạn, tàn nhẫn, tính toán ra sao?

Thôi Giác đáp:

- Tàn nhẫn, còn là chuyện số mệnh của người dân, chuyện dâm gian, mới là chuyện cần phải trách phạt. Mai kia làm hoàng hậu, chẳng qua cũng chỉ để giữ lời nguyền với Chu Quý Nhi mà thôi.

Thái Tôn đang định hỏi kỹ hơn, một viên lại tới thưa:

- Mười vị Vương phụ có lời mời?

Thái Tôn vội vàng đi trước, thấy phía trên có hai quỷ sứ cầm đèn soi rõ từng bậc điện để Thái Tôn bước lên chỗ mười vị Diêm Vương đang đứng lên tiếp đón Thái Tôn. Thái Tôn khiêm nhượng không dám đi trước. Mười vị Diêm Vương phán:

- Bệ hạ là vua ở cõi dương, chúng tôi là Quỷ Vương ở cõi âm, khác nhau rõ ràng, không cần phải quá nhún nhường.

Thái Tôn đáp:

- Trẫm đang là người có tội, đâu dám so chuyện người với ma, âm với dương.

Nhưng cũng không dược. Thái Tôn đành đi trước vào Sâm La Điện, cùng lễ chào xong, Tân Quảng Vương chắp tay lên tiếng:

- Năm ngoái có Lão Long Vương Kinh Hà, tố cáo điện hạ hứa cứu mà cuối cùng vẫn bị chết là tại sao?

Thái Tôn đáp:

- Lúc ấy quả là trẫm có nằm mộng thấy Lão Long Vương Kinh Hà xin cứu mạng, trẫm cũng có hứa sẽ bảo toàn tính mạng cho Long Vương, nhưng không ngờ Long Vương phạm tội đáng chết, nên tào quan là Ngụy Trưng được lệnh chém chết. Trẫm biết thế nên đã gọi Ngụy Trưng vào điện đánh cờ, nào ngờ Ngụy Trưng dựa vào án ngủ đi mà chém trong mộng. Thế là do Long Vương phạm tội đáng chết, nên quan trên trần xuất một thần cơ, bắt đền tội. Đâu phải lỗi tại trẫm.

Thập điện Diêm Vương nghe xong vái tạ mà rằng:

- Ngay từ lúc Lão Long Vương chưa sinh, trong sổ sinh tử của Nam Tào đã ghi rõ sẽ chết về tay quan nhân Ngụy Trưng, chúng tôi cũng đã biết, nhưng Lão Long cứ đòi bệ hạ xuống trả lời ở Nam Tào. Chúng tôi đã chuyển Lão Long sang thác sinh kiếp khác. Còn chuyện lệnh huynh Kiến Thành, lệnh đệ Nguyên Cát, ngày đêm khóc lóc ở dưới được đối chất với bệ hạ. Xin hỏi bệ hạ trả lời sao đây?

Thái Tôn đáp:

- Đây là chuyện anh em họ đồng mưu, muốn hại trẫm, giả vờ diễn lại chuyện đoạt giáo, rồi sai Hoàng Thái Tuế đâm trẫm, nếu không có Uất Trì Cung đến cứu, thì tính mệnh trẫm đâu còn. Lại còn về hùa với hai phu nhân họ Trương họ Doãn nói xấu với phụ hoàng, nếu phụ hoàng không nhân từ, thì mạng trẫm cũng còn đâu. Thêm chuyện dùng rượu độc ở chùa Phổ Cứu để đầu độc trẫm, nếu không có chim yến bay qua ỉa xuống chén rượu để cứu, thì một lần nữa mạng trẫm đâu còn. Bao nhiêu lần định giết trẫm không xong, lúc ấy lại định dẫn binh sĩ hại trẫm, trẫm bất đắc dĩ phải giết, vì thế không thể cùng sống chung, cũng bởi họ tự tìm cái chết, đâu phải tại trẫm. Nhớ ngày xưa, Hạng Vũ đặt Lưu Thái công trên thớt để dọa Lưu Bang Hán Cao Tổ, Lưu Bang trả lời: "Nếu làm thịt cha ta, hãy phần ta một bát canh?". Vì thiên hạ mà không thể ngó đến nhà, đến cha mẹ cũng chẳng nhìn, nữa là anh em. Xin Thập điện đại vương xét cho chỗ này!

Thập điện Diêm Vương đáp:

- Chúng tôi cũng đã bao lần hiểu dụ anh em Kiến Thành, nhưng họ vẫn quyết kiện tụng bằng được. Nên tạm phải an trí họ một nơi, đợi định đoạt đâu đó. Nay phiền bệ hạ giáng lâm, xin hãy tha lỗi cho chúng tôi.

Nói xong, liền lệnh cho phán quan đem sổ sinh tử trình tâu:

- Mau đem sổ ra đây! Xem Đường Hoàng đế tuổi dương lộc trời còn nhiều ít.

Thôi Phán quan vội quay về ty sảnh, lấy sổ "Thiên hạ vạn quốc chi vương thiên lộc tổng bạ" (1) thì thấy ở phần Đại Đường Hoàng dế thuộc Nam Thiệm bộ châu, được ở ngôi mười ba năm. Thôi Phán quan thấy thế, giật mình kinh sợ, vội lấy ngay bút, chấm mực đen, viết thêm hai nét vào chữ nhất, rồi vội vã đem sổ lên trình. Cả mười vị Diêm Vương cùng châu đầu lại xem, thấy Thái Tôn ở ngôi ba mươi ba năm (2) liền hỏi:

- Điện hạ ở ngôi được bao nhiêu năm rồi?

1 sổ cái ghi tuổi thọ lộc trời của các vị vua một vạn nước trong thiên hạ!

2 Mười ba năm là "nhất thập tam" (-+---) thêm hai nét ngang thành "tam thập tam" (---+---) là ba mươi ba năm.

Thái Tôn đáp:

- Trẫm lên ngôi đã mười ba năm nay rồi!

Thập điện Diêm Vương phán:

- Bệ hạ vẫn còn hai mươi năm ở cõi dương nữa. Chuyện đối án đã xong xuôi, xin mời bệ hạ về dương thế.

Thái Tôn cung kính tạ ơn. Thập điện Diêm Vương sai phán quan dẫn hồn, đi trước dẫn đường, thấy tòa núi âm Sơn, trông dữ tợn lạ thường. Thái Tôn hỏi:

- Nơi đây là đâu?

Thôi Phán quan đáp:

- Đây là Uổng Tử Thành, những kẻ thảo khấu của sáu mươi tư xứ ở cõi trần, cùng bọn đầu lĩnh hảo hán, thành những hồn ma do chết đao kiếm oan uổng đều tại đây cả, không ai thu, không ai quẩn, lại cũng chẳng có tiền giấy mà dùng, nên không thể siêu thoát. Bệ hạ nên thưởng cho chúng một ít tiền, thì mới đi qua yên ổn được?

Thái Tôn băn khoăn:

- Trẫm tay không mà đến đây, lấy đâu ra tiền giấy?

Thôi Phán quan đáp:

- Một bề tôi của bệ hạ là Uất Trì Cung, có tới ba kho tiền ở đây, hiện ký gửi lại âm ty. Nếu bệ hạ bằng lòng đứng tên làm giấy vay một kho, tiểu thần xin bảo lãnh, để bệ hạ phân phát cho lũ quỷ đói này. Lên đến dương gian, bệ hạ hãy trả cho Uất Trì Cung, khiến cho lũ quỷ này có thể siêu sinh, thì bệ hạ mới đi qua được.

Thái Tôn cả mừng, bằng lòng. Thôi Phán quan đưa trình giấy bút, Thái Tôn lập tức viết văn tự vay nợ. Thôi Phán quan cầm văn tự bỏ vào ống tay áo, rồi cùng đi lên phía bên núi. Tiếng quỷ khóc ma gào thảm khốc, vô số quỷ các loại diễu qua diễu lại, đứa thì mất tay, đứa mất chân, có đứa gãy lưng, nhiều đứa không có đầu, cả bọn đều gào lớn:

- Lý Thế Dân đến rồi! Trả mạng ta đây!

Thái Tôn sợ hãi, người run cầm cập, níu chặt lấy Thôi Phán quan. Thôi Phán quan hét lớn:

- Các ngươi không được vô lễ. Ta đã vay hộ Đại Đường Hoàng đế một kho tiền ở đây để phát cho các ngươi. Những quỷ đầu lĩnh hãy tới nhận về chia cho tất cả. Đại Đường Hoàng đế dương thọ chưa hết, về đến cõi trần, sẽ lập đàn Thủy lục, để siêu độ các ngươi?

Lũ quỷ nghe thế, vội giục ngay bọn quỷ đầu lĩnh tới lĩnh. Thôi Phán quan đem tiền giấy chia, bọn này vui mừng mà đi. Ba người đi được vài dặm nữa, thấy cầu đá xanh, trơn không thể nào đi nổi. Thái Tôn dò từng bước trên cầu, nghe một tiếng sấm lớn ở trên bầu trời, giật mình, ngã lăn quay, miệng gào lớn:

- Ngã chết trẫm rồi? Ngã chết trẫm rồi!

Mở mắt ra nhìn, thì thấy nào Thái tử, nào phi tần, đều đứng ngay cạnh.

Thái tử vội gọi ngay Ngụy Trưng, Ngụy Trưng đến cạnh long sàng, kéo áo mà gọi:

- May lắm rồi! Bệ hạ hồi dương rồi!

Thái Tôn tỉnh lại một chốc, thái y quan liền dâng ngay "Định tâm thang" cho uống, lại đã đứng dậy được. Ngụy Trưng hỏi:

- Bệ hạ xuống âm ty, có gặp Thôi Giác không?

Thái Tôn gật đầu:

- Đều nhờ Thôi Giác giúp cho cả!

Liền đem chuyện trong mộng kể lại cho mọi người nghe, tất cả đều lạy chúc mừng.

Thái Tôn truyền chỉ triệu pháp sư Đường Tam Tạng cùng Đậu Kiến Đức ở Ẩn Linh Sơn vào kinh. Thiên sứ tới nơi, thì Đậu Kiến Đức đã viên tịch được bốn năm ngày rồi. Thiên sứ bèn đưa Đường Tam Tạng về kinh, lập Thủy lục đạo tràng, siêu độ u hồn. Lại sai lấy một kho bạc, trả cho Uất Trì Cung. Uất Trì Cung không chịu nhận, Thái Tôn hai ba lần khuyên dụ. Uất Trì Cung đành phải lĩnh ý mà lui ra. Quan coi kho đem tiền bạc giao cho Uất Trì Cung, chiếu theo sổ sách thiếu mất năm trăm lạng. Quan coi kho kinh hoàng, thì thấy trên nóc nhà kho rơi xuống một tờ giấy, mở ra xem, chính là tờ văn tự mà năm thứ mười hai đời Đại Nghiệp, lúc Uất Trì Cung còn làm thợ rèn, đã viết rồi giao cho hai gã thư sinh (1). Mọi người nghe ra đều ngạc nhiên kinh hãi.

1 xem lại hồi thứ bốn mươi sáu.

Thái Tôn ở trong cung, tĩnh dưỡng khoảng hai ba ngày, long thể so với trước khỏe mạnh hơn nhiều. Bỗng nhiên có hoạn, cháy mất một kho lớn. Ngụy Trưng thưa:

- Lửa trời ra tay, đều do ở trong cung âm khí uất ức không tan được Xin bệ hạ xem xét những phi tần cung nữ của tiên đế đã quá tuổi, thả cho về hết.

Thái Tôn khen phải, liền đem phi tần, cung nữ nhiều tuổi cho xuất cung hết, lại đem ba nghìn người nữa, trong số này có cả Trương phu nhân, Doãn phu nhân, cũng trở về nhà. Cung cấm giờ như trống không, nên Thái Tôn sai Đường Kiểm tuyển con gái các nhà lương thiện, tuổi mười bốn, mười lăm chỉ khoảng hơn một trăm người, rồi giao cho Thái thường thiếu khanh Tô Hiếu Tôn tập cho ca múa, âm nhạc. Khoảng năm sáu tháng sau, Đường Kiểm đã tuyển xong đem về kinh. Thái Tôn đều phân cho ở hậu cung, chỉ tuyển mỗi Vũ Mị Nương làm tài nhân (1) cho ở Phúc Hoãn cung, sủng ái khác thường. Chẳng biết rồi sự thể thế nào, cứ xem hồi sau sẽ rõ.

1 Tùy từng thời gian mà nhân vật nổi tiếng này có những cách xưng hô khác nhau: Lúc còn ở nhà: Mị nương, mới vào cung: Tài nhân, ở chùa về: Chiêu nghi, sau đó là Hoàng hậu, gọi tắt là Hậu rồi Thiên hậu, Cao Tông chết là Hoàng Thái hậu. Mãi đến khi bị chết mới tôn là Tắc Thiên Đại Thánh Hoàng đế. Sau này ta vẫn quen gọi chung cả là Vũ Tắc Thiên, vùng Nghệ Tĩnh trở vào thì gọi Võ Tắc Thiên vậy!

Hồi Thứ Sáu Mươi Chín

Mã Tân Vương rửa chân rượu quý,

Tùy Tiêu Hậu dự tiệc đèn cù.

Thơ rằng:

xuân đến cung đình thật tốt tươi

Trăng hương ngọc gấm ánh trong ngoài

Nực cười Kim Cốc (1) thua cao rộng

Mà thẹn Vu Sơn kém động đài

Rèm ngọc rũ soi màu phú quý

Xe dê dắt lối dáng khoan thai

Mây mưa buồn nỗi không dài được

Trăm đóa hoa còn mỗi một người.

1 Kim Cốc: Tên đất ở Lạc Dương, Hà Nam, Trung Quốc. Đời Tấn, Thạch Sùng xây ở đây một khu vườn để hành lạc, gọi là vườn Kim Cốc, Thạch Sùng thường mở tiệc lởn, khách dự tiệc phải làm thơ, thơ không hay, phạt uống ba đấu rượu. Thơ cổ: "Nếu thơ làm không xong; Bị phạt theo số rượu ờ vườn Kim cốc". (Điển cố văn học)

Thời nhà Tống, ở Duy Dương có Tần Quân Chiêu lúc trai tráng vào kinh sư chơi, người bạn thân họ Đặng làm tiệc tiễn hành, bảo một hầu gái rất đẹp đến vái chào Quân Chiêu, rồi khẩn khoản:

- Họ Mỗ làm chủ sự ở trong kinh nhờ mua để làm thiếp, xin anh cho đi cùng thuyền lên kinh một thể.

Quân Chiêu từ chối, họ Đặng phải vật nài mãi, mới bằng lòng. Thuyền đến Lâm Thanh, trời trở nóng, đêm rất lắm muỗi, Tần bảo người hầu gái vào màn cùng ngủ, đêm nào cũng thế, cho mãi đến kinh. Chủ sự được tin báo, ra đón người hầu gái. Ba ngày sau, tới tạ ơn:

- Túc hạ thật là người khác thường. Tiểu đệ viết thư này đêm qua, nhờ túc hạ cầm về để cảm tạ họ Đặng.

Đây là loại đàn ông không thiết gì chuyện đàn bà, cũng đã lạ, nhưng còn loại ngược lại: Cửu Hầu thời nhà Thương, có một người con gái, nhan sắc nhạn sa cá lặn đem dâng cho vua Trụ, khổ thay cô gái này rất thờ ơ với chuyện sinh lý, làm vua Trụ nổi giận, giết chết cô gái, còn Cửu Hầu thì bị xé thịt ướp mắm. Ngọc Hầu can, cũng bị vua Trụ bỏ vào vạc dầu mà nấu. Đấy chính là loại phụ nữ đẹp mà không hề thích gần nam giới. Thế mới biết chuyện trai gái hay dở, cũng khó mà luận bàn.

Thái Tôn đường đường một đấng hào kiệt, hoàn toàn không để ý đến chuyện sắc dục, không ngờ sau khi Trưởng Tôn Hoàng hậu mất, tuyển được Vũ Mị Nương vào cung, tài sắc nghiêng thành, yêu quý không gì sánh nổi.

***

Lại nói chuyện Vũ Tài nhân, thân phụ là một danh sỹ, tên là Hoạch, tự Hằng Chi, đến sinh sống ở Kinh Châu, thời Đường Cao Tổ, từng làm tới đô đốc, bản tính đạm bạc, phóng khoáng, không chịu được cảnh nhơ nhớp của giới quan trường, nên bỏ quan về nhà. Vợ Dương Thị, rất hiền đức, tuổi đã bốn mươi mà chẳng con cái gì cả. Dương Thị mới hỏi một người con gái hàng xóm họ Trương cho chồng làm thiếp. Hơn một tháng sau, Trương Thị nằm ngủ, thấy mình bị đè nặng, cố sức lấy tay đẩy ra, giật mình tỉnh dậy, từ đó có mang. Sau mười tháng, Trương Thị sắp sinh. Hằng Chi nằm mộng, thấy Lý Mật hiện ra, bái tạ mà rằng:

- Hồn này đã phải chờ đợi mười năm nay, nhờ nuôi dưỡng chu đáo sau này sẽ xin báo đền!

Tỉnh ra mới biết rằng chiêm bao. Đến khi Trương Thị sinh, Hằng Chi đinh ninh thế nào cũng là con trai, ai ngờ lại là con gái. Trương Thị trong lúc sinh vì quá sợ hãi mà chết. Vợ chồng Hằng Chi vô cùng yêu quý con gái, đến năm lên bảy, mời thầy về dạy học. Thầy đồ thấy diện mạo đẹp đẽ, mới đặt tên là Mị Nương (1), đến năm mười ba tuổi, thì sắc tài càng khác, thường hay gặp gỡ, chơi đùa với các bạn đồng học, ăn cơm, uống nước, đi lại, chẳng bao giờ rời. Khoảng hơn một năm sau, thì thời vận của Mị Nương đã tới. Đường Kiểm đi tuyển cung nữ, Mị Nương được ngự phong tài nhân. Thông minh, mẫn tiệp như thế, nên phàm âm nhạc các thứ, học là thông thạo ngay, ở trong cung cấm, nhưng chẳng sợ hãi điều gì. Thái Tôn đi đâu, cũng được đi theo khác gì tri kỷ, hễ cứ động cái là đã gọi đến Mị Nương, lúc nào cũng chiều chuộng, thân thiết, ôm ấp. Xưa nay, Thái Tôn chưa hề có chuyện như thế bao giờ, khác gì người bị thu mất hồn phách, một giờ, một khắc cũng không thể xa Mị Nương cho được.

1 Mị: tươi đẹp. con gái lấy sắc đẹp để người yêu dấu, cảnh đẹp, yêu quý, nịnh hót. Nương: con gái, cô nàng. Nương nương: gọi hoàng hậu, phụ nữ một cách tôn kính.

Lại thêm chuyện Thái tử Thừa Càn, vốn là con đẻ của Trưởng Tôn Hoàng Hậu, ngay từ lúc nhỏ đã có tật khỏe cả hai chân, chỉ thích chuyện trai gái, đi săn, đua ngựa, rất ghét chuyện lôi thôi. Con Ngụy Vương tên là Thái, em ruột Thái tử, là con của Vi Phi, rất nhiều tài, được Thái Tôn rất yêu, thấy Hoàng hậu mất, có ý đoạt ngôi Thái tử, nên hạ mình để chiêu nạp kẻ sĩ, cầu tiếng thơm, ngầm kết bè đảng làm tâm phúc.

Thái tử biết chuyện, lén sai một thích khách là Hội Vu Thừa Cơ, tìm cách giết Ngụy Vương, gặp giữa lúc thượng thư bộ Lại là Hầu Quân Tập oán thán triều đình, thấy Thái tử có mưu đồ này, liền tìm cách lợi dụng, khuyên Thái tử mưu phản. Thái tử nghe ngay, đem vàng ngọc thật nhiều hối lộ cho bọn Trung lang tướng Lý An Nghiên, để làm nội ứng. Không ngờ Thái Tôn biết chuyện, liền đem Thái tử Thừa Càn phế làm dân thường, bọn Hầu Quân Tập đều bị hành hình. Lúc này Ngụy Vương Thái ngày vào cung thăm nom, Thái Tôn hứa sẽ lập làm Thái tử, nhưng Chữ Toại Lương cùng Trưởng Tôn Vô Kỵ cố xin lập Tân Vương Trị. Thái Tôn nói với thị thần:

- Ngày hôm qua chim xanh lao vào bụng trẫm mà nói rằng: "Thần mãi tới nay chưa được làm con của bệ hạ, thần có một đứa con; lúc nào thần chết, xin bệ hạ hãy giết đi!". Nếu truyền ngôi cho Tân Vương, trẫm thật thương cho Ngụy Vương.

Chữ Toại Lương thưa:

- Xin bệ hạ hãy bỏ qua những lời nói đó đi vậy. Đây là chuyện lớn của quốc gia, quan hệ đến sự mất còn, cân nhắc cẩn thận, mai kia đến lúc bệ hạ trăm tuổi. Ngụy Vương lấy thiên hạ làm trọng, dẫu có giết chết con đi để thờ Tân Vương nữa, nay cũng phải lo ngay chuyện lập Tân Vương, mới là kế yên ổn cho được.

Thái Tôn rơi nước mắt, đứng dậy vào cung, nghĩ chuyện Thái tử cùng hai vương, lòng vô cùng buồn bực, vịn lấy long sàng mà than thở. Từ Huệ Phi, Vũ Tài nhân cùng hỏi:

- Bệ hạ có điều gì phiền muộn, mà lại thở than thế này?

Thái Tôn đem chuyện Thái tử, Ngụy Vương, Tân Vương kể lại, rồi nói:

- Trẫm ra trận đánh nhau hàng vạn trận, trải bao lần nguy nan, mà chẳng bao giờ phiền não. Không ngờ chuyện trong nhà lại lắm thứ điên đầu, biết có sống nổi chăng?

Huệ Phi thưa:

- Bệ hạ bình định tứ hải, nhất thống thiên hạ mới có ngày nay, việc gì phải lo lắng lắm về những chuyện vặt trong nhà, lúc nào mà chẳng có.

Thái Tôn nói:

- Các khanh không biết, xưa kia Kiến Thành, Nguyên Cát dâm loạn trong cung, sau đó dấy binh làm càn, chuyện mới ra đến thế. Trẫm ân hận chẳng lúc nào nguôi vậy!

Rồi nằm vật ra long sàng, rút kiếm đeo ở bên người toan đâm cổ tự vẫn. Vũ Tài nhân vội vàng giật lấy kiếm mà rằng:

- Sao bệ hạ lại nhẹ dạ như thế! Kẻ bất hiếu thì đã phế bỏ, những kẻ mưu mô này khác chưa diệt hết, sao không nhân chuyện trai cò tranh nhau, mà đóng vai ngư ông ngồi thu lợi. Tân Vương cũng là do hoàng hậu sinh ra, có lập làm Thái tử cũng được chứ sao?

Huệ Phi tiếp

- Tân Vương nhân từ, hiếu thuận, lập làm Thái tử, thì chẳng có điều gì đáng lo nữa!

Thái Tôn nghe thế, lấy làm mừng, hèn ra ngự ở điện Thái cực, triệu quần thần tới, phán:

- Thừa Càn ngỗ nghịch. Ngụy Vương Thái cũng hung hiểm, thế thì lập ai bây giờ?

Trăm quan đều thưa:

- Tân Vương nhân hiếu, đáng lập làm Thái tử!

Thái Tôn liền lập Tân Vương Trị làm Hoàng Thái tử, bấy giờ đã mười sáu tuổi. Thái Tôn nói với thị thần:

- Trẫm mà lập Thái tử, tức là đem ngôi Thái tử ra làm chuyện mua bán. Từ nay trở đi, Thái tử vô đạo, thì cứ cho ra làm phiên vương, nếu không hối cải lại phế bỏ một lần nữa. Con cháu sau này, cứ thế mà theo.

Tân Vương từ ngày được ngôi Thái tử, rất là kính hiếu, trên dưới đều yên.

Tháng chín năm ấy, gặp kỳ thượng thọ chín mươi của thân mẫu Tần Thúc Bảo, Thái Tôn thân tới mừng, thấy nhà Thúc Bảo không có từ đường liền lệnh cho dỡ một điện nhỏ để xây cho, chỉ trong vòng năm ngày là xong, rồi ngự bút ba chữ "Nhân Thọ dường". Lại ban thêm cho gấm lụa để làm bình phong, làm chăn đệm. Từ Huệ Phi cũng ban thưởng rất hậu. Thúc Bảo dâng biểu tạ ơn. Thái Tôn thân viết chiếu nói rằng: "Khanh không cần phải như vậy. Trẫm chỉ vì Thái thượng hoàng mà đền ơn, việc gì phải quá băn khoăn!".

***

Chuyện chia hai mối, ở Nhẫm Bình thuộc Thanh Hà, có người họ Mã, tên Chu, tự là Tân Vương, lúc nhỏ nghèo nhưng rất hiếu học, thạo làm thơ, làm phú, vì bần hàn nên chẳng được châu quận ở quê coi trọng, từng được bổ làm trợ giáo ở Phó Châu, nhưng rồi suốt ngày say sưa, chẳng nghĩ gì đến chuyện dạy dỗ, thứ sử đã nhiều lần trách mắng. Tân Vương liền phất áo bỏ đi Trường An chơi, trọ trong chợ Tân Phong. Nhưng chủ quán chỉ chiều chuộng bọn khách buôn, chẳng chịu chứa đến thứ Tân Vương. Tân Vương không biết xoay sở ra sao, liền lấy đá Thanh Điền, làm một bia Lý Lăng tướng nhà Hán, một bia Tôn Tẩn tướng thời Chiến Quốc, đặt cả hai lên bàn thờ, mua rượu uống thật say, đập bàn mà khóc rống lên rằng:

- Lý Lăng ơi! Ngài nào cô phụ gì triều đình, mà đến nỗi nhục đến thân mình, đến vợ con. Tâm địa Hán Vương ra sao, mà đến nỗi ngài suốt đời phải ở sa mạc! (1)

Khóc một hồi, uống một hồi, hướng vào bia Tôn Tẩn mà lớn tiếng:

- Tôn Tẩn ơi! Ngài thì gì không làm được, mà có thù oán với bạn bè, đến nỗi điên đảo suốt đời. (2)

1 Lý Lăng: tướng nhà Hán, đem năm nghìn quân vào sâu trong đất Hung Nô, bị vây kín hết lương, không viện bình, phải hàng. Vũ Đế nổi giận kết tội Lý Lăng, giết cả gia quyến, tội lây đến cả người bênh vực Lý Lăng là Tư Mã Thiên (Sử Ký).

2 Tôn Tẩn: cháu Tôn Vũ, cùng học với Bàng Quyên ở Quỷ Cốc tiên sinh. Bị Bàng Quyên ghen tài, tìm cớ pháp luật, cắt gân chân, thành què suốt đời, nhưng sau vẫn nổi tiếng, trả thù được Bàng Quyên. (Đông Chu Liệt Quốc).

Lại khóc lại uống, chẳng khác gì người si, kẻ điên, vứt tất cả mọi thứ, vật mình than khóc, hận không có chùy Bác Lãng để đập Tần Thủy Hoàng, không có kiếm sắc của Kinh Kha để đâm bạo chúa!

Một hôm, Tân Vương gặp Trung lang tướng Thường Hà là quan võ không có chữ nghĩa, nhưng lại biết nhìn nhận con người, thấy ngay Tân Vương có thể làm nên việc lớn, mời về nhà, đãi làm khách quý trông coi việc giấy tờ. Lúc này điềm trời nhiều điều khác thường. Thái Tôn bèn hạ chiếu cho trăm quan, nói thẳng những điều xấu tốt. Thường Hà nhờ Tân Vương viết rõ hai mươi điều dâng lên.

Tân Vương ở trong phủ Thường Hà nhiều lúc cũng buồn chán, rời thư phòng ra khỏi cửa lang thang. Hôm ấy gặp đúng tiết thanh minh mùng ba tháng ba, khắp thành nam nữ đều ra Khúc Giang chen vai thích cánh, đàn địch đàn ca, ở các trạm, các cửa lớn đều giăng đèn kết hoa, ngay cả đường phố cũng nhộn nhịp khác thường. Tân Vương thong dong dạo chơi, vào trong một quán rượu, kiếm một cái bàn ngồi, một mình uống hết chén này đến chén khác. Nhân dịp này, rất nhiều phò mã, vương tôn thay quần đổi áo để tìm chỗ mua vui. Lại thấy một hoạn quan cùng mấy bạn bè, theo sau là lũ tay chân khá đông, ngồi ngay cạnh đó uống rượu, thấy Tân Vương tửu lượng ít người sánh nổi, liền nói:

- Ngài thật là bậc cuồng sĩ, một mình một chén mà say sưa đến thế. Ta có ở đây một vò bồ đào ngự tửu, xin biếu ngay uống thử.

Tay chân liền bưng vò rượu lại, nâng đưa Tân Vương. Tân Vương mở nút ra xem có đến bảy tám cân, hương thơm sực nức, liền cứ thế, ghé ngay vào miệng vò mà uống hết ngụm này đến ngụm khác. Liếc nhìn bàn bên, thấy có một cái chậu dùng để ngào bột làm bánh, liền lấy đổ rượu ra, miệng nói lảm nhảm:

- Cao Dương tri kỷ, cả đời chưa gặp, không ngờ hôm nay lại thấy. (1)

1 Cao Dương tri kỷ: xem chú thích về "Cao dương tửu đồ"ở hồi thứ bốn mươi.

Vừa nói, vừa cởi tất chân ra, rồi bỏ cả hai chân vào chậu rượu mà rửa. Xung quanh kinh ngạc gào lên:

- Đây là một loại rượu rất quý, sao lại dám coi thường đến thế?

Tân Vương lè nhè đáp:

- Ta nào dám khinh thị? Họ không nghe rằng thân thể cho đến da tóc, đều là của cha mẹ sinh ra, không được hủy hoại. Tăng Tử còn nói: "Chân ta ư, tay ta ư? Ta nào dám nịnh hót cái trên, mà coi thường cái dưới!".

Rửa xong, lau khô cả hai chân, bưng lấy chậu, uống một mạch kỳ cạn sạch mới thôi. Bỗng thấy bảy tám người, rầm rập rộ rộ đi vào, mừng rỡ nói lớn:

- Hay lắm! Mã Tiên sinh đây rồi!

Tân Vương hỏi:

- Tìm ta có việc gì?

Một người trong bọn gia nhân Thường Hà thưa:

- Thánh thượng truyền tiên sinh vào triều!

Thì ra Thái Tôn ở trong cung, đọc các tấu chương của liêu thuộc, đến hai mươi điều trong tấu của Thường Hà, thấy nói rõ ràng, nhiều điều rất quan hệ đến vận nước, nhưng biết rõ Thường Hà là một quan võ nào có học vấn, liền cho gọi Thường Hà để hỏi. Thường Hà cứ thực tâu:

- Đó chính là do tân khách thần là Mã Chu làm cho.

Thái Tôn thích lắm, lập tức sai nội giám gọi ngay Tân Vương vào bệ kiến. Tân Vương nghe xong, vội quay về Thường Hà, thay áo mũ, vào Văn Hoa điện. Thái Tôn đem lại mươi điều hỏi kỹ thêm. Tân Vương giảng giải từng điều minh bạch, tỏ rõ là hạng người có đủ năm xe học vấn, tám đấu tài năng. Thái Tôn cả mừng, liền phong cho làm thứ sử, lại thưởng cho Thường Hà hai mươi tấm gấm.

Thái Tôn đi đến trước cung Phượng Huy, nghe tiếng nói cười ầm ĩ, liền cùng hai cung nữ đi vào, thì thấy liễu rũ thướt tha, cảnh trí thanh nhã, biếc đón hồng đưa, gió đùa, oanh hót, tiếng cười nói càng gần rồi một bọn cung nữ chạy ra, cười nói rộn ràng, như một đàn chim yến bay vút qua, hình như đang khen người nào đó tuổi cao mà vẫn chẳng khác gì chim hạc bay cao. Thái Tôn liền gọi ngay một cung nữ lại hỏi:

- Các ngươi ở đâu về, làm sao lại nói cười ồn ào thế?

Cung nữ này vội thưa:

- Tiện tỳ ở hiên Ỷ Xuân, xem Tiêu nương nương đánh đu tiên.

Thái Tôn hỏi tiếp:

- Nay Tiêu nương nương còn ở đó không? Đánh đu có giỏi không?

Cung nữ thưa:

- Đánh rất giỏi, hiện vẫn còn đánh ở đấy!

Thái Tôn nghe thấy thế, liền đến Phượng Huy cung thì xuống xe rồng rồi lặng lẽ đến hiên Ỷ Xuân. Thấy vẫn còn nhiều người, đều đang ngửa mặt mà cười. Nhìn lên đu, một người mặc áo màu nhạt chen rồng nhỏ cuộn tròn, quần màu lá tùng, buộc chặt hai ống lại, lưng lại thắt thêm một khăn lụa màu hồng rộng, cứ thế mà bay hết phía này sang phía khác, chẳng khác gì bướm màu giữa vườn hoa, giống như chim phượng bay giữa sắc trời, thật đáng mặt phong lưu tài nữ. Thái Tôn đang đứng nấp sau tấm bình phong đá để xem, có mấy cung nữ trông thấy, vội lớn tiếng:

- Chúa thượng tới rồi?

Bọn này vội vàng bỏ chạy tán loạn.

Lúc này Thái Tôn không tiện bước tới nữa, đang định quay ra, Tiêu Hậu vội dừng đu, Tiểu Hỷ sửa lại khăn áo, bỏ dây buộc hai ống quần cho. Tiêu Hậu vội chạy tới, quỳ xuống trước gối Thái Tôn mà thưa:

- Thần thiếp không biết thánh thượng giáng lâm, không kịp nghênh đón, tội đáng chết vạn lần!

Thái Tôn lấy hai tay nâng dậy, phán:

- Tiêu nương nương đang lúc hứng chí, tìm thú vui của bậc tiên nữ.

Tiêu Hậu thưa:

- Ngẫu nhiên mua vui, đỡ cơn buồn tủi, thật là làm phiền bệ hạ, hoảng hốt vô cùng.

Thái Tôn dẫn Tiêu Hậu về cung, thấy một mùi hương thơm rất lạ. Sau khi ban cho ngồi,Tiêu Hậu khóc mà thưa:

- Thiếp nay đã hoa tàn nguyệt lặn, may được mang ơn thánh đế thật cũng không dám mong. Lúc sống thường được đội ơn sâu, lúc chết cũng xin được ở dưới đài Ngô Công, thì ý nguyện của thiếp thật trọn vẹn vậy!

Thái Tôn bằng lòng, nhân nói tiếp:

- Hôm nay nhân tiết thanh minh, trong cung có treo đèn, bày yến tiệc, nương nương hãy vào cung xem.

Tiêu Hậu thưa:

- Thanh minh, dân chúng khắp chốn đều đi tảo mộ, mộ tiên đế của thiếp chẳng ai ngó tới, nói ra thật thương tâm!

Thái Tôn đáp:

- Trẫm sẽ cắt ba trăm hộ trông coi lăng mộ, lại riêng cho năm khoảnh ruộng, đủ để xuân thu tế lễ.

Tiêu Hậu tạ ơn, Thái Tôn nói:

- Lát nữa trẫm sẽ cho người triệu nương nương.

Lại hỏi:

- Vừa rồi có mùi hương lạ, giờ sao không thấy nữa?

Tiêu Hậu chỉ cười mà không thưa. Nguyên loại hương này, tên là "Kết nguyện hương", nước ngoài chế ra, do Khả hãn Đột Quyết mang về. Đến lúc Thái Tôn truyền chỉ cho Tiêu Hậu vào cung xem đèn, Tiêu Hậu liền gọi Tiểu Hỷ đi theo, vào tiên cung Thái Tôn, chào lễ xong liền cùng Huệ Phi, Vũ Tài nhân gặp gỡ. Thái Tôn ngồi giữa, mời Tiêu Hậu ngồi ở ghế thứ nhất ở bên trái. Vũ Tài nhân lên tiếng trước:

- Sao Tiêu nương không ngồi cùng ghế với bệ hạ?

Tiêu Hậu đáp:

- Thiếp phận bồ liễu đã qua thì, gượng ngồi với bậc chí tôn, cũng không đáng chỗ, đã là không nên rồi.

Thái Tôn phán:

- Cũng là một nhà cả, chẳng nên chối từ!

Ngồi đâu đó, rượu dâng, nhạc cử, gần tối thì các cung đều thắp đèn hoa, màu sắc lóa mắt. Tiêu Hậu nói:

- Thanh minh chẳng qua là tiết nhỏ, sao ở trong cung cũng làm lễ treo đèn kết hoa như vậy?

Thái Tôn đáp:

- Trẫm sau khi bình định bốn phương, phàm cứ đến các tiết trong năm, cho đến nguyên đán, thượng nguyên đều treo đèn kết hoa ăn mừng?

Tiêu Hậu thưa:

- Vàng ngọc huy hoàng, sáng như ban ngày, thật là hoa lệ, nhưng cái đèn này, bớt khói đi thì mới sáng hơn?

Thái Tôn hỏi Tiêu Hậu:

- Những thứ này, so với Tùy Dượng Đế thì sao?

Tiêu Hậu cười không nói. Thái Tôn cố hỏi, Tiêu Hậu bèn thưa:

- Tiên đế thiếp là vua mất nước, bệ hạ là bậc chúa mở nước, việc xa xỉ xưa đã khác nhau.

Thái Tôn nói:

- Nếu đã nói đến chuyện xa xỉ, thì cũng như nhau cả thôi chứ gì?

Tiêu Hậu thưa:

- Tiên đế thiếp hưởng nước chỉ hơn mười năm, đi đâu thiếp cũng được theo, mỗi lần gặp lễ trừ tịch, trước các điện, các cung viện đều dựng mấy tòa núi để treo đèn. Mỗi tòa núi thế đều đốt đến mấy xe trầm hương, khói bay mù che cả ánh sáng đèn. Nên lại phải lấy mỡ đổ vào các xương thú, mai rùa mà đốt cao hàng mấy trượng cho sáng hương thơm bay xa hàng mấy dặm. Một đêm như thế, dùng hết hai trăm xe trầm hương, xương với mai cũng hàng hơn hai trăm thạch. Còn ở trong điện, trong cung, không thắp nến, mà treo một trăm hai mươi viên ngọc để chiếu sáng chẳng khác gì ban ngày, lại thêm những viên ngọc "Minh nguyệt bảo dạ quang" của nước ngoài đem cống, viên to có đến sáu bảy tấc, viên nhỏ cũng phải ba bốn tấc. Mỗi viên như thế, giá bằng mười vạn lạng vàng. Nay ở đây, bệ hạ chẳng có minh châu, ngọc quý, mà toàn là đèn nến, khiến cho khói hơi xông khắp người, thật chẳng thanh nhã. Nhưng đó lại là những việc của kẻ mất nước, nguyện xin bệ hạ hãy tránh xa.

Thái Tôn miệng tuy không nói, nhưng lòng nghĩ mông lung, không khỏi thầm phục sự hoa lệ của Dượng Đế: "Ngọc dạ quang, cho đến bảo ngọc, thì ngày khác nương nương cũng đến đem cho kẻ khác thôi!".

Trong ánh sáng chập chờn, chén khuyên, chén uống, mãi hết canh hai. Vũ Tài nhân thấy Tiêu hậu vô cùng tha thướt, uyển chuyển chẳng giống tuổi năm mươi chút nào, thầm nghĩ: "Mụ này còn mang được dáng vẻ thế kia, thì còn đủ sức mê hoặc được người đời lắm đây!". Tiêu Hậu cũng xem xét kỹ Vũ Tài nhân, càng nhìn càng thấy diễm lệ, nhưng không có vẻ yểu điệu, nhàn nhã. Từ Huệ Phi cùng chúng cung nữ, thấy cả ba người ngồi sát lại nhau, liền lấy cớ thay áo giục mọi người giải tiệc. Tiêu Hậu cũng từ tạ mà ra. Thái Tôn còn kéo Tiêu Hậu, Vũ Tài nhân mà nói:

- Hãy vào phòng ngủ, xen đèn một lát nữa đã!

Không biết rồi sự thể thế nào, hãy xem hồi sau phân rõ.

Hồi Thứ Bảy Mươi

Đưa linh xây mộ: Tùy Tiêu Hậu,

Cắt tóc lên chùa: Vũ Mị Nương.

Thơ rằng:

Pháp lễ hai điều quý nhất đời

Thanh danh mà mất, thảy đều rơi

Đã lây nọc độc trong cung cấm

Còn tiếc thương chi cảnh ngự đàn

Việc nước thuở dài không tính liệu

Ý dân cổ ngắn chẳng quan hoài

Nghìn thu đừng tưởng gương không sáng

Dã sử, thư kinh chuyện dẫn dài.

Người ta ở đời, chuyện gặp gỡ, chia ly đều có số mệnh, dẫu cho có xảo trí mưu toan, đắn đo sự thể bao nhiêu, cũng chẳng thế nào lường hết mọi việc. Tiêu Hoàng hậu, từ lúc nhà Tùy mất, phó mặc theo triều nước dâng, để rồi được vui vẻ, náu nương ở trong cung nhà Đường, dù được lấy lễ mà đãi, nhưng nào có tự do. Nay may được Đường Thái Tôn để ý tới, nhưng thấy ngay thân phận mình.

Tùng xem biển cả khôn là nước

Chỉ ở non Vu mới thực mây.

Không thể nào sánh được với Vũ Mị Nương như hoa như ngọc đang được Thái Tôn sủng ái, liệu mình chẳng thể nào giảm đi hai ba chục tuổi, "phản lão hoàn đồng", thì may ra mới cạnh tranh nổi. Cho nên dẫu Thái Tôn một lần thương đến, nhưng rồi cũng nhạt ngay.

Sau đêm xem đèn, được cùng Thái Tôn thâu đêm suốt sáng. Vũ Mị Nương thấy Tiêu Hoàng hậu vẫn còn yểu điệu phong lưu, liền sinh lòng ghen ghét, tìm mọi cách nói xấu để Thái Tôn lạnh nhạt Tiêu Hậu, lại sai hai cung nữ truyền gọi Tiểu Hỷ vào hầu hạ Thái Tôn. Bởi vậy Tiêu Hậu dành nuốt giận, trong lòng lúc nào cũng buồn bực, của ngon vật lạ bày ngay trước mặt, cũng chằng buồn ăn, thanh ca nhã nhạc lại chán không nghe, không xem, thỉnh thoảng sai hầu gái gọi Tiểu Hỷ về chuyện trò to nhỏ. Vũ Tài nhân vô cùng giảo hoạt, bắt hai cung nữ tâm phúc theo sát, hễ đến lúc thở vắn than dài, thì cứ thế mà bắt Tiểu Hỷ đứng dậy về cung.

Tiêu Hậu đành một mình thân cùng bóng, ôm gối ôm chăn mà khóc, lâu ngày thành bệnh, chẳng bao lâu, thì mất ở trong cung. Vua Đường nghe tin, trong lòng rất thương xót, ra lệnh khâm liệm chu tất, ban chiếu cho phục tước vị cũ, tứ hiệu là "Mẫn" (1) lệnh cho Hành nhân ty lấy lễ hoàng hậu, đưa linh cữu về dưới đài Ngô Công, hợp táng với Tùy Dượng Đế. Tiểu Hỷ xin được đi theo đến lăng mộ, nhưng Vũ Mị Nương không cho, đành phải quay về cung.

Vũ Tài nhân thấy Tiêu Hậu chết, mừng không nói đâu cho hết, tha hồ làm cho Thái Tôn điên đảo, thường uống đơn sa (2) luyện bằng bột vàng, bột đá. Gặp dịp Cao Sĩ Khiêm chết, Thái Tôn tới viếng, Trưởng Tôn Vô Kỵ, Chữ Toại Lương can rằng:

- Bệ hạ uống đơn sa, chỉ sợ không còn được làm tang ma, sao không nghĩ đến tôn miếu, xã tắc làm trọng.

1 Mẫn: xót thương, lo lắng.

2 Đơn sa: thuốc luyện của các đạo sĩ, mong trường sinh!

Thái Tôn vẫn không nghe. Vô Kỵ phải nằm lăn giữa đường để can, nước mắt nước mũi chan hoà, Thái Tôn mới về, vào vườn Đông nhìn về phía nam mà khóc, nước mắt như mưa. Lệnh cho họa hình hai mươi tư công thần ở Lăng Yên các, kê rõ tên họ, phẩm tước, quê quán, chú cả tên thụy. Gặp lúc Từ Mậu Công ốm nặng, quan thái y nói phải có râu người đốt lấy tro mà uống thời mới khỏi, Thái Tôn liền tự cắt râu mình, cho về làm thuốc, Mậu Công dập dầu khóc mà tạ ơn. Thái Tôn lại thấy Viên Tử Yên mới chết, cơ thiếp rất ít, sợ không có người hầu hạ, định tuyển lấy cung nữ, ban cho làm bạn.

Mậu Công hai ba lần từ chối. Thái Tôn liền đáp:

- Trẫm vì xã tắc mà làm, không phải vì khanh đây, khanh chẳng cần phải từ tạ!

Ngay ngày hôm ấy, sai nội giám, tuyển hai cung nữ cao tuổi, ban cho Mậu Công. Bấy giờ sao Thái bạch mấy lần thấy rõ ban ngày. Thái sử lệnh xem thiên văn tâu rằng có điềm đàn bà nắm quyền trong triều đình, trong dân gian lại truyền câu sấm ký sau đây:

Ba đời Đường trước, Đường sau

Vũ Nương nữ chúa đứng đầu làm vua.

Một hôm, Thái Tôn vời bách quan ban yến ở trong cung, một lần được mời rượu, các quan phải xưng tên riêng có từ nhỏ. Tả Vũ vệ tướng quân Lý Quân Tiễn, xưng tiểu danh là Ngũ Nương, từ quan chức cho đến ấp phong lại đều có chữ "Vũ" (1) liền đưa đi làm sứ thử ở Hoa Châu, quan ngự lại tâu Quân Tiễn vẫn có mưu mô khác. Thái Tôn liền lệnh giết cả nhà. Nhân đó bèn ngầm hỏi Thái sử lệnh Lý Phong:

- Nhưng lời sấm truyền có nên tin không?

1 Võ: cũng đọc là "Vũ", "Vũ" và "Ngũ" phát âm gần như nhau nên Ngũ Nương, cũng có thể hiểu là Vũ Nương về mặt phát âm.

Thuần Phong thưa:

- Thẩn xem thiên văn, tính toán lịch số, kẻ này ở ngay trong cung của bệ hạ, từ nay trở đi khoảng ba mươi năm nữa, sẽ có thiên hạ giết gần hết con cháu nhà Đường, thì sấm ký mới nghiệm vậy!

Thái Tôn lại hỏi:

- Những ai nghi ngờ giết cả đi, có nên chăng?

Thuần Phong thưa:

- Mệnh trời đã an bài, người ta chẳng làm gì được, kẻ có mệnh làm chúa đời nào chết, chỉ tổ giết những kẻ không có tội. Phương chi từ nay đến lúc đó, còn những ba mươi năm, người này cũng đã già rồi, may ra chuyển thành nhân từ, họa chẳng đáng sợ nữa. Nay mà giết đến thế, sợ trời giáng họa càng lớn, thù oán càng chất chồng, sợ rằng đến con cái của bệ hạ chẳng còn ai nữa kia!

Thái Tôn nghe nói thế mới thôi, trong lòng vẫn nghi cho tài nhân họ Vũ, nhưng lại thấy Vũ Mị Nương tính tình thuận hòa, nhu mì. Lúc vắng mặt thì không sao, nhưng lúc thấy Mị Nương thì mọi lo âu lại tan biến hết, nên không thể nào một lúc mà dứt ra được, vì vậy tuy có nghi ngờ, nhưng cũng chưa làm được gì. Vũ Mị Nương nghe ngóng được ít nhiều lời dị nghị của các đại thần, xem ý tứ của Thái Tôn không đến nỗi gia hình, muốn tìm nơi ẩn náu ít lâu, nhưng chưa có dịp. Hôm ấy, Thái Tôn vì lo lắng nhiều, nên bệnh lại kéo đến, Thái tử Tân Vương sớm chiều phục dưỡng ra vào hầu hạ, thấy Vũ Tài nhân, không giấu được nỗi hãi hùng mà nghĩ: "Hèn chi mà phụ hoàng nổi bệnh, thì ra là tại người đẹp thế này ngay cạnh bên, đêm dài làm sao mà yên giấc được!". Rồi nảy ý muốn tư thông, nhưng chưa gặp cơ hội thuận tiện, nên chỉ lấy mắt đưa tình mà thôi.

Một hôm, Tân Vương đang ở trong cung. Vũ Tài nhân lấy chậu vàng bưng nước lại cho Tân Vương rửa tay, thấy mặt mày tài nhân đẹp đẽ, liền lấy nước rẩy vào mặt, ngâm đùa hai câu thơ:

Mộng hồn thoả nhớ giác Vu Sơn

Cách trở Dương Đài dạ héo hon.

Vũ Tài nhân cũng đọc hai câu đáp ngay:

Trướng gấm gió mây chưa gặp dịp

Chậu vàng mưa móc đã mang ơn.

Tân Vương nghe ra rất mừng, liền dắt tay Vũ Tài nhân, dẫn vào một chỗ kín ở hiên sau cửa hậu cung, Vũ Tài nhân nói:

- Bệ hạ mà biết ra, tội không nhỏ vậy!

Tân Vương cười đáp:

- Ta với khanh thật là duyên trời, ai mà biết được.

Vũ Tài nhân nắm áo ngự Tân Vương, khóc mà rằng:

- Thiếp dẫu hạ tiện, nhưng lâu nay hầu hạ đấng chí tôn, chiều theo ý của điện hạ, lại phạm phải tội tư thông. Mai kia điện hạ lên ngôi trời, liệu sẽ đặt thiếp ở đâu?

Tân Vương nghe thế, liền lấy mũi tên bẻ ra thành hai mà thề:

- Mai kia mà làm chủ thiên hạ, nhất định sẽ lập khanh làm hoàng hậu, nếu mà không tuân lời thề này, trời sẽ tuyệt cả dòng họ.

Vũ Tài nhân lạy tạ mà thưa:

- Tuy rằng nói như thế, nhưng hiện nay đình thần đang nghị dị đủ điều nếu mà chúa thượng làm tội đến thiếp, kế nào mà tránh cho được?

Tân Vương nghĩ ngợi một hồi rồi nói:

- Nếu hoàng thượng cật vấn đủ diều, cứ thế này... thế này mà nói, không những có thể tránh được tai họa, lại yên ổn để chờ ta.

Vũ tài nhân gật đầu. Tân Vương liền cởi đai ngọc cửu long, làm bằng da dê non tặng. Vũ Tài nhân liền cầm lấy rồi mỗi người mỗi ngã .

Lúc này trong Trường An mở khoa thi, nhưng chưa ra bảng, Thái Tôn lại đang bị bệnh, gọi Lý Thuần Phong vào hỏi:

- Năm nay mở khoa thi lấy nhân tài, chẳng biết trạng nguyên thuộc về tay ai. Khanh liệu có đoán được chăng?

Thuần Phong thưa:

- Tối hôm kia thần nằm mộng lên thiên đình, thấy bảng trời đã mở, thần có được xem hết, trên có treo một lá cờ, thêu một bài thơ.

Thái Tôn hỏi:

- Bài thơ ra sao?

Thuần Phong thưa:

- Thần vẫn còn nhớ như sau:

Ở đời sắc đẹp thật là ma

Ta vợ người, người lại vợ ta

Đắm đuối tà dâm thì mất vợ

Giật mình liệu hãy tránh cho xa.

Thái Tôn nghe xong, phán:

- Hai câu thơ sau, ý tứ quả không rõ ràng, chẳng biết nói ai họ tên gì, người ở đâu?

Thuần Phong thưa:

- Thánh thượng hồng phúc rất lớn, nay trong ba vị đậu đệ nhất giáp khoa này, đều là những bậc chính trực, bảng vàng bia đá mãi còn với xã tắc. Tên họ tuy thần đã biết nhưng không thể nói ra, sợ lộ thiên cơ, thượng đế nổi giận không lường. Xin bệ hạ cho thần vào trong phòng kín, viết rõ họ tên quê quán, niêm phong vào một hộp kín, đợi đến lúc nào phóng bảng, sẽ mở hộp ra xem thì thấy ngay thần nói có đúng không.

Thái Tôn sai thái giám lấy một cái hộp nhỏ, Thuần Phong viết xong tự bỏ vào trong hộp, Thái Tôn tự tay niêm phong một lần nữa, rồi cất vào hòm kín khóa lại. Thuần Phong bái chào ra khỏi cung.

Đến ngày theo bảng, Thái Tôn mở hộp lấy giấy của ThuầnPhong ra so sánh, thì trạng nguyên là Địch Nhân Kiệt, người Sơn Tây thuộc Thái Nguyên, bảng nhãn là Lạc Tân Vương, người ở Nghĩa Ô thuộc Triết Giang, thám hoa là Lý Nhật Trị, người Vạn Niên thuộc kinh đô đều giống nhau cả. Thái Tôn không giấu nỗi kinh hoàng, mới tin những lời Thuần Phong không phải là nói láo, cho nên ngay cả những lời Thuần Phong nói về sấm truyền cũng tất không sai, nên nghĩ ngợi: "Nay ta đã bệnh tật thế này, còn đeo lấy cái khổ nghiệt súc ấy làm gì, để họa cho con cháu. Liền nói với Vũ Tài Nhân:

- Ở ngoài triều đình, đang đồn ầm lên rằng khanh ứng với lời sấm truyền, khanh định tự phân xử ra sao?

Vũ Tài nhân khóc, quỳ xuống mà tâu rằng:

- Thiếp thờ bệ hạ hàng năm nay rồi, chưa từng có một lỗi lầm nào, nay vô cớ bệ hạ định bắt thiếp chết, khiến thiếp phải ngậm oan nơi chín suối, sao mà nhắm mắt cho được. Ban dầu cùng một trăm người được tuyển vào cung, tất cả đều đội ơn làm cung nữ, chỉ riêng mình thiếp dược làm tài nhân, ơn không ai sánh kịp. Nay chỉ vì lời đồn đại của trăm họ, xin bệ hạ hãy mở lượng hiếu sinh, cho thiếp được xuống tóc vào cửa Phật, ăn chay suất đời, để đọc kinh cầu cho thánh thượng đến tận kiếp sau cũng chưa hết ân nghĩa.

Nói xong khóc rống. Thái Tôn vốn cũng không muốn giết, nay thấy Vũ Mị Nương nguyện cắt tóc đi tu, thì rất mừng và phán:

- Khanh bằng lòng làm ni cô cũng là việc phúc lớn. Trong cung có gì riêng, mau mau hãy thu thập về nhà, gặp lại cha mẹ một lần, rồi lên kinh ngay. Trẫm ban cho làm ni cô tại chùa Cảm Nghiệp này!

Vũ Tài Nhân cùng Tiểu Hỷ tạ ơn, thu xếp ra khỏi cung.

Chính là:

Rồng thiêng đã thoát lưới sâu

Yêu đương hai chữ, dài lâu liệu còn

Vũ Sĩ Hoạch nghe tin Mị Nương ra khỏi cung làm ni cô, vội sai người đón về nhà cùng gặp gỡ. Gia nhân vâng lệnh, chẳng mấy ngày sau đã đến nhà. Mẫu thân Dương Thị thấy năm xưa Mị Nương tiến cung ra sao, nay lại trở về, không ngăn nổi giọt ngắn giọt dài, làm Tiểu Hỷ cũng nhớ tới cha mẹ, cho nên cũng nức nở khóc theo. Mị Nương cất tiếng hỏi:

- Phụ thân còn có cháu nuôi Tam Tư nữa, sao không thấy đâu cả?

Dương Thị đáp:

- Nó khác hẳn ngày xưa rồi, suốt ngày đàn đúm với bạn bè, học hành một chữ cũng chẳng xong, từ sáng chí tối chẳng thấy mặt, chỉ lúc nào say khướt mới mò về.

Mị Nương hỏi:

- Con cũng không nhớ Tam Tư năm nay bao nhiêu tuổi rồi!

Dương Thị đáp:

Lúc phụ thân con nhận về làm cháu nuôi, thì nó đã ba tuổi, đến nay cũng đã mười lăm tuổi rồi, trông người cũng to lớn, chẳng biết trong bụng có những gì? (1)

1 Nguyên văn dùng "Quá kế" để chỉ Vũ Tam Tư. Quá kế là người con nuôi cháu nuôi để thửa kế. Những tài liệu khác, như Từ Hải, không thấy nói là cháu nuôi mà chỉ nói "Đường Vũ Hậu chi diệt", cháu của Vũ Hậu nhà Đường. Ở đây lại thấy Tam Tư xưng với Sĩ Hoạch, Dương Thị có lúc như con!

Đang nhắc đến, thì thấy Vũ Tam Tư đã ngà ngà say bước vào.

Dương Thị nói:

- Tam Tư, cô mày đã về rồi đó, mau lại lạy chào đi?

Mị Nương cùng Tiểu Hỷ vội đứng dậy cùng Tam Tư chào hỏi.

Tam Tư nói:

- Cô đang ở trong cung được yêu thương đến thế, sao hoàng thượng lại nghe theo lời dị nghị của các quan, bắt cô xuất cung, để cắt tóc làm ni cô là thế nào. Nếu thế thì hoàng thượng cũng vô tình nhỉ, có thế hoàng thượng mới chẳng đoái hoài gì đến cô nữa chứ?

Mị Nương nghe nói thế lại không ngăn được nước mắt. Tam Tư lại tiếp:

- Cô chẳng việc gì phải buồn phiền, cháu thấy làm ni cô cũng thích chán, việc gì mà phải khóc lóc?

Mị Nương mới xuất cung, cũng buồn phiền, nay thấy mặt mày Tam Tư tươi tắn, ăn nói ngang tàng nên cũng khuây khỏa ít nhiều.

Cơm tối xong, Tam Tư thấy phụ mẫu cùng Tiểu Hỷ đã đứng dậy ra chỗ khác cả, mới lại bên Mị Nương, nửa say nửa tỉnh hỏi:

- Cô ơi! Cháu trông mái tóc cô dày xanh như thế này, mai kia nỡ nào cắt đi cho đang tâm?

Mị Nương cũng nhân coi như máu thịt họ hàng, lại thấy tuổi Tam Tư cũng còn ít, liền kéo ôm vào lòng. Tam tư hỏi:

- Cô ngủ ở đâu?

Mị Nương đáp?

- Ở trong phòng của mẫu thân.

Tam Tư nói:

- Cháu có rất nhiều chuyện muốn hỏi cô, đêm nay cô cho cháu ngủ chung với nhé!

Mị Nương đáp:

- Có chuyện gì cũng phải chờ mẫu thân ta ngủ đã, cháu mới vào phòng mà nói được.

Tam Tư dặn:

- Như vậy, nhất định nhớ đừng khóa cửa.

Mị Nương gật đầu lia lịa.

Đêm hôm ấy, Tam Tư chờ cho cha mẹ đã ngủ cả, mới rón rén đẩy cửa vào phòng Mị Nương làm thành một sự loạn luân như chim như gà. Mấy ngày sau, Vũ Sĩ Hoạch sợ chuyện vỡ lở, liền sắp sửa cho Mị Nương cùng Tiểu Hỷ lên đường. Tam Tư đưa tiễn đến một hai dặm. Mị Nương còn dặn nhỏ:

- Cháu ơi! Nếu cháu nhớ đến cô, lúc nào đến kỳ thi, thì cứ đến chùa Cảm Nghiệp mà tìm cô nhé!

Tam Tư nhận lời, gạt nước mắt mà quay về.

Đi đường mấy ngày, đến chùa Cảm Nghiệp. Sư trụ trì tên gọi Trường Minh, ra cửa đón Mị Nương cùng Tiểu Hỷ, thấy Mị Nương thiên kiều bách mị, mặt hoa da phấn lại thêm Tiểu Hỷ cũng chỉ mới hai mươi tư, hai lăm, phong tư yểu điệu khó mà giữ cho trọn vẹn, nên thầm nghĩ: "Phong lưu dài các thế này, làm sao mà xuất gia được?".

Rồi dẫn lên Phật đường, bốn năm đồ đệ đã dao kéo chực sẵn. Lão ni Trường Minh bảo Mị Nương làm lễ, cắt tóc cho, cả Tiểu Hỷ cũng theo vậy, xong xuôi, mới xuống làm lễ chào hỏi. Tiểu Hỷ nhìn thấy một người giống như tiểu ni cô vốn ở am Nữ Trinh thuở trước, nhưng cũng chẳng rõ ràng, nên không dám nhận. Lão ni lên tiếng:

- Đây chính là đồ đệ của ta cả!

Mị Nương từ đó yên tâm ở trong chùa chờ đợi.

Một buổi chiều, thấy Tiểu Hỷ cười cười nói nói đi vào, Mị Nương hỏi:

- Làm thân đàn bà mà phải cạo đầu làm sư, thì còn vui sướng gì mà cười nói thế kia?

Tiểu Hỷ thưa:

- Phu nhân không biết, vị đồ đệ kia, chính là Hoài Thanh, em của Lý phu nhân ở am Nữ Trinh, con đã nhận ra. Vừa mới ở phòng Hoài Thanh, hỏi rõ mọi chuyện nên thấy thật đáng cười.

Mị Nương hỏi:

- Lý phu nhân ở am Nữ Trinh là ai vậy?

Tiểu Hỷ đem chuyện thuở trước theo Tiêu Hậu về nam thăm lăng mộ Dượng Đế, đến am Nữ Trinh, gặp các phu nhân họ Lý, họ Hạ, họ Địch, họ Tần cùng Nam Dương công chúa, kể lại một lần. Mị Nương lại hỏi:

- Thế tại sao Hoài Thanh lại tới đây?

Tiểu Hỷ thưa:

- Bộc Châu mấy năm nay mất mùa, lại gặp cả dịch bệnh, các phu nhân họ Tần, họ Hạ, họ Lý lần lượt qua đời. Hoài Thanh bị một người học trò bắt theo về kinh sư, không ngờ dọc đường người học trò bị kẻ cướp giết chết. Hoài Thanh nhảy xuống sông, may được thuyền buôn cứu, đem về kinh sư, giờ xin ở tạm trong chùa Cảm Nghiệp này!

Mị Nương vẫn hỏi:

- Họ thường có ai tới thăm nom không?

Tiểu Hỷ thưa:

- Hoài Thanh kể có một người em họ Phùng, ở ngay Lan Kiều mở cửa hàng thuốc, thường hay đến thăm.

Một hôm Mị Nương đang ngồi trong Phật đường xem Hoài Thanh viết chữ, nghe có tiếng gõ cửa, gặp lúc lão ni dẫn đồ đệ đi làm lễ siêu độ cho khách không có ở chùa, Hoài Thanh ra hỏi:

- Ai đó?

Ngoài cửa đáp:

- Hoài Thanh, Phùng Tiểu Bảo đây!

Hoài Thanh vui mừng, vội mở cửa ra đón:

- Sao lâu nay không thấy đến?

Tiểu Bảo đáp:

- Nghe nói trong chùa có vị Vũ Tài nhân nào đó, triều đình đưa đến tu ở đây, nên không dám đến. Hôm nay thấy cửa chùa đóng, tưởng là mọi người không có ở chùa nên họ Phùng này mới lẻn tới gặp.

Hoài Thanh nói:

- Vũ Tài nhân đang ở trong Phật đường, có muốn gặp không?

Tiểu xảo cùng Hoài Thanh vào, thấy Mị Nương vẫn dựa vào bàn xem chữ của Hoài Thanh viết. Hoài Thanh lên tiếng:

- Vũ Tài nhân, người em họ đến thăm, xin dẫn lên chào Vũ Tài nhân.

Mị Nương quay lại nhìn.

Chỉ thấy:

Vóc người nho nhỏ

Mà dáng tinh nhanh

Mũi ngọc thanh thanh

Mắt thu lồ lộ

Mày không vẽ mực mà đa tình

Môi chẳng thoa son mà ửng đỏ

Tóc mượt mượt như khói biếc sau mành

Má hây hây tựa hoa đào trước gió

Lạc Thủy đêm khuya vào mộng điệp

Vu Sơn mơ sáng gặp mây mưa.

Mị Nương vội vàng đáp lễ:

- Có phải là em của Hoài Thanh chăng?

Gặp lúc Tiểu Hỷ đến tìm Mị Nương, Tiểu Bảo chào hỏi, Tiểu Hỷ nói:

- Xin được biết họ tên quý khách?

Hoài Thanh đỡ lời:

- Đây chính là họ Phùng đã kể chuyện hôm vừa rồi!

Tiểu Hỷ cười:

- Thì ra là em họ, quả là thất lễ!

Nói xong, Hoài Thanh đưa Tiểu Bảo về phòng mình, thấy Tiểu Bảo đến ngay bên bàn, lấy một tờ hoa tiên viết một bài tuyệt cú:

Cái giống si tình há ngẫu nhiên

Gặp nhau còn lạ đã thương liền

Cười ta như bướm quanh hoa kiểng

Hồng một bên rồi tía một bên.

Hoài Thanh cười nói:

- Thiếp cũng xin có một bài tuyệt cú tặng chàng.

Rồi cầm bút, viết vào mặt sau của tờ hoa tiên:

Mới thấy mà lòng đã vấn vương

Phong lưu nhàn nhã khác ai thường

Tử vi cung mệnh đào hoa chiếu

Chàng cũng thương mà thiếp cũng thương.

Viết xong Hoài Thanh xuống nhà bếp, dọn hoa quả, rượu lên, cùng Tiểu Bảo ăn uống vui đùa. Mị Nương trong phòng mình, nghĩ ngợi một hồi, rồi cùng Tiểu Hỷ đến trước cửa phòng Hoài Thanh lặng yên xem xét, thì thấy có tiếng gọi cửa, biết ngay là lão ni đã về. Mị Nương hèn về phòng, Tiểu Hỷ thì ra mở cửa. Hoài Thanh cũng trở ra. Lão ni cùng đồ đệ cắp kinh sách về, chào hỏi một vài câu, Tiểu Hỷ quay về phòng với Mị Nương, Mị Nương giở giấy hoa tiên ra viết rằng:

Bài l:

Hoa hoa bướm bướm sớm chiều chiều

Hoa thật đa tình bướm õng ẹo

Chắc hẳn phòng hương vui thú lắm

Khéo tu cho đến dứt dây lèo.

Bài 2:

Cái thú truy hoan khó kéo dài

Thoát thôi phấn nhạt lại hương phai

Hoa thần đòi hết bao nhiêu nợ

Giành lại mảy may kiếm chút hời.

Hai người đang xem thơ, thấy Hoài Thanh vào, nói:

- Vũ Tài nhân, mời Vũ Tài nhân cùng Tiểu Hỷ sang phòng nói chuyện cho vui.

Mị Nương đáp:

- Hoài Thanh có em trai ở đấy, ta không tiện lại chút nào.

Hoài Thanh vội vàng:

- Từ xưa đã nói: bốn biển đều là anh em, "Tứ hải chi nội, giai huynh đệ". Huống chi là Hoài Thanh này với Vũ Tài nhân...

Mị Nương nói:

- Nếu đã thế, hãy cùng đến phòng ta ngồi, ta sẽ lấy trà ngon ra tiếp ngay

Hòai Thanh rủ :

- Tiểu Hỷ cùng đi, kéo họ Phùng đến vậy!

Liền kéo Tiểu Hỷ đi, lát sau đem rượu, thức nhắm tới. Mị Nương hỏi Tiểu Hỷ:

- Ngươi cầm bài thơ của ta rồi sao?

Tiểu Hỷ đáp:

- Thơ vẫn trên bàn, chưa ai đụng đến. Con vừa ở bên kia, thấy trên bàn cũng có mấy bài thơ, con bỏ ngay vào ống tay áo, đem về cho tài nhân xem đây.

Mị Nương cầm lấy xem, thì ra là hai bài thơ xướng họa của Hoài Thanh cùng Tiểu Bảo.(1)

1 Hai bài xướng họa này nguyên văn cùng vần, vì không thể glữ nguyên, phải dịch mỗi bài mỗi vần.

Hoài Thanh cùng Tiểu Bảo đến, Mị Nương lặng lẽ giấu hai bài thơ đi , rồi nói:

- Hoài Thanh, ở chỗ chúng tôi chẳng có thứ gì đáng giá, sao quá hân hạnh!

Hoài Thanh vội đáp:

- Chẳng qua là mấy đĩa rau, mấy chén rượu nhạt, chỉ sợ vũ Tài Nhân cười cho.

Rồi đem đến đặt giữa bàn, xếp Tiểu Bảo ngồi quay mặt xuống nam, đối diện với Mị Nương. Tiểu Hỷ ngồi ngay cạnh, ai nấy thay nhau chuốc rượu, nói cười ngả ngớn, tha hồ vui thú. Chuyện không nói nữa.

***

Tháng năm, năm thứ hai mươi ba đời Trịnh Quán, Thái Tôn bệnh nặng, triệu bọn Trưởng Tôn Vô Kỵ, Chủ Toại Lương, Từ Mậu Công đến bên long sàng, mà dặn:

- Trẫm cùng các khanh, quét sạch lũ hôi tanh, hao phí không biết bao tâm lực, mới được cuộc nhất thống ngày nay. Tứ phương yên tĩnh chính là lúc cùng các khanh vui hưởng thái bình, không ngờ mắc phải bệnh nặng thế này. Ngụy Trưng, Phòng Huyền Linh đã đi trước trẫm, gần đây thì trẫm lại mất thêm Lý Tĩnh, Mã Chu. Nay đến lượt trẫm vĩnh biệt các khanh. Cũng chẳng có điều dặn dò gì khác Thái tử vốn nhân hòa, kiệm ước đáng bậc con hiếu dâu hiền, các khanh hãy xúm tay mà giúp đỡ cho.

Nói xong khóc nức nỡ, bọn Vô Kỵ bái lạy mà thưa:

- Bệ hạ tuổi trời còn dài, chính là lúc nghĩ đến việc trị nước sáng suốt hơn cả, nay long thể dẫu có không khỏe cũng chưa đến lúc nói những điều không lành thế này.

Thái Tôn đáp:

- Trẫm đã biết trước, nên phải dặn kỹ thì vừa!

Cả bọn lui ra, đêm hôm ấy thì Thái Tôn qua đời. Thái tử lên ngôi, tức là Cao Tôn, ban chiếu khắp thiên hạ, lấy năm tới làm Vĩnh Huy nguyên niên.

Lúc này Vũ Tài nhân đang ở chùa Cảm Nghiệp nghe tin cũng khóc ròng. Nhân ngày lễ của Thái Tôn, Cao Tôn ngự giá đến Cảm Nghiệp dâng hương lại gặp ngay Phùng Tiểu Bảo đang ở trong chùa, lão ni không biết làm thế nào, đành cạo trọc ngay đầu Tiểu Bảo. Đến lúc Cao Tôn hỏi, xưng là cháu, đã xuất gia ở ngay bên miếu Thổ Địa, vừa mới lại thăm. Cao Tôn phán:

- Chùa Bạch Mã, ruộng đất rất nhiều, sư tiểu rất ít, trẫm sẽ cấp cho một tờ độ diệp, sáng ngày mai, người phải sang ngay trình sư trưởng chùa Bạch Mã.

Vũ Tài nhân thấy Cao Tôn bèn nức nở khóc, Cao Tôn cũng rớt nước mắt ân cần dặn dò lão ni Trường Minh búi tóc cho Vũ Tài nhân, sẽ cho người đến đón, rồi ra xe rồng về cung.

Chẳng biết sự thể ra sao, hãy xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi Thứ Bảy Mươi Mốt

Vũ Tài nhân nuôi tóc lại về cung,

Tần Quận quân dựng phường được ân sủng.

Từ rằng:

Cảnh vật chiều người đẹp xiết bao

Bụi trần không dính tẻo tèo teo

Tương phùng mừng rỡ đâu ngờ thế

Đoán định từ xưa gỡ mối sầu

Gió mát trăng thanh ước hẹn nhau

Cửa ngoài không cần bánh xe mau

Đầy hoa trần thế, ai ai biết

Vạn vật đua tươi khắp gác lầu

Tình càng sâu, ơn càng sâu

Mây trôi nước chảy khác màu năm xưa.

Theo điệu "Thiên tiên tử "

***

Nay không nói việc Đường Cao Tôn lên chùa Cảm Nghiệp hành hương trở về cung, hãy nói chuyện Vu Tài nhân trở về phòng. Hoài Thanh chúc mừng:

- Phu nhân gặp thời rồi! Hoàng thượng giáng lâm lệnh cho phu nhân để tóc, sẽ sai người đón về, lại được cai quản Chiêu Dương Cung, cũng chỉ vài ngày nữa là cùng. Nhưng phu nhân có vẻ nghĩ ngợi gì thì phải?

Vũ Mị Nương đáp:

- Trở về cung để được hoàng thượng sủng ái, từ lâu đã dự liệu thế rồi, nào phải là chuyện không tính đến. Nhưng giờ còn việc của Phùng Tiểu Bảo, vì ba người chúng ta đây mà phải cắt tóc làm hòa thượng, phải trù liệu sao cho xứng giờ?

Hoài Thanh đáp:

- Phu nhân chẳng phải băn khoăn cho Tiểu Bảo. Hãy thử hỏi xem ý họ Phùng ra sao đã.

Tiểu Bảo bước bảo phòng, hỏi:

- Sao ai nấy lại ngồi yên lặng thế này?

Tiểu Hỷ đáp:

- Vũ Phu nhân cùng Hoài Thanh đang ngồi lo lắng cho họ Phùng đấy!

Tiểu Bảo nói:

- Các người thật là ngốc nghếch. Vũ phư nhân cũng chẳng hiểu hết được việc này, chỉ có Hoài Thanh là biết ít nhiều. Họ phùng nay trên không cha mẹ, dưới chẳng anh em, vợ con gì cả, có bao giờ dám nghĩ tới chuyện mở mày mở mặt, chỉ mong sao sống yên hàn ở quê nhà. Nay may gặp phu nhân, được cùng Hoài Thanh chia lần sẻ ái, đội ơn được gần ngọc thể, lại được Tiểu Hỷ sớm tối gần gũi. Tình nặng nghĩa dày này, đừng nói vì ba người mà phải cạo trọc đầu, mà dẫu có chết chăng nữa cũng không dám tiếc.

Hoài Thanh hỏi:

- Nhưng đã xuất gia đầu Phật, chẳng còn tính chuyện gia thất, sinh con đẻ cái thì sao?

Tiểu Bão đáp:

- Thì cũng chẳng khác gì những người đàn bà, cắt tóc làm ni cô , suốt cả đời ở trong chùa chẳng đi đâu.

Vũ Phu nhân nói:

- Nếu như thế, họ Phùng gặp được chỗ ưng ý rồi, chẳng còn tưởng gì đến chúng ta nữa sao?

Tiểu Bảo đáp: .

- Chẳng làm gì có chuyện đó, Nhan sắc như phu nhân trên đời này ít có ngay đến cả hai vị đây cũng còn khó tìm. Chỉ mong sao phu nhân còn nhớ đến khi đã vào cung, tâu với triều đình, cho họ Phùng này làm sư trụ trì chùa Bạch Mã, thế đã là vinh hạnh lắm rồi. Gì chứ hạng quan tước trong đám hòa thượng thì họ Phùng này cũng làm được.

Hoài Thanh nói:

- Chuyện này thì có khi chẳng cần đến hoàng thượng nữa kia, mà chỉ biết Vũ Phu nhân cũng có thể thừa sức làm cũng chưa biết chừng.

Vũ Phu nhân cười:

- Hãy khoan tranh cãi, chỉ cần họ Phùng trong lòng còn nhớ đến chúng ta là được rồi.

Tiểu Bảo quỳ xuống mà thề:

- Có trời xanh ở trên đầu, nếu Phùng Hoài Nghĩa này mai kia mà quên ân tình của Vũ Phu nhân, cùng ni cô Hoài Thanh, Tiểu Hỷ cô nương thì trời chu đất diệt.

Vũ Phu nhân cởi chiếc áo lót, Hoài Thanh cởi vòng ngọc như ý, Tiểu Hỷ cởi áo thô đang mặc đưa tặng Tiểu Bảo. Đang lúc đinh ninh thề thốt, thì thấy Trường Minh xách một hồ rượu, bà vãi già bưng thức ăn bày trên bàn. Trường Minh nói:

- Hôm nay bần tăng rót rượu tiễn hành Phùng Hoài Nghĩa, xin đừng bao giờ quên bần tăng. Chỉ cần nhớ là trước mặt thiên tử, bần tăng đã nhận là cháu. Đêm nay đáng ra Hoài nghĩa phải ngủ ở phòng bần tăng mới đúng nhưng bần tăng tuổi đã cao rồi, chẳng dám tiếp. Chỉ mong khi đến chùa Bạch Mã, họ Phùng hãy kiếm được ít nhiều đồ đệ giỏi giang. Còn bây giờ xin uống cạn chỗ rượu này, rồi sáng mai còn lên đường đến Bạch Mã.

Nói xong, Trường Minh đi ra, Tiểu Bảo cùng Vũ phu nhân, Hoài Thanh, Tiểu Hỷ mãi tới canh năm hôm sau, nghe tiếng chuông chùa, mới trở dậy thu thập hành trang. Cả bọn nước mắt ngắn dài, tiễn tiểu Bảo rờỉ khỏi chùa. Chuyện không nóỉ nữa.

***

Lại nói Cao Tôn mấy ngày sau, sai quan tới đưa Vũ Tài nhân cùng Tiểu Hỷ về cung, phong từ tài nhân lên chiêu nghi. Cao Tôn thỏa nguyện, còn Vũ Chiêu nghi thì quả là thời vận đã đến, ngay năm sau sinh một con trai, năm tiếp lại sinh một gái. Cao Tôn lại càng quý trọng, cả đến Vương Hoàng hậu, rồi Tiêu Thục phi, giờ đây ơn cũng đã kém, nhân thấy Vũ Chiêu nghi sinh con gái, đều tới thăm. Hoàng hậu mới ra khỏi, Vũ Chiêu nghi lẻn vào, bóp cổ cho chết. Gặp lúc Cao Tôn tới cung, Chiêu nghi gọi Vũ vào chơi với con gái, kéo chăn ra xem, thấy đã chết, kinh ngạc tra xét tả hữu. Trên dưới đều thưa hoàng hậu vừa mới từ chỗ công chúa ra khỏi. Cao Tôn cả giận mà rằng:

- Hoàng hậu giết con gái trẫm!

Vũ Chiêu nghi cũng khóc lóc mà kể thêm nhiều tội của Hoàng hậu. Vương Hoàng hậu không tài nào tự thanh minh nổi cho mình, vì vậy Cao Tôn đã có ý phế hoàng hậu từ đấy.

Một hôm thoái triều, Cao Tôn với Trưởng Tôn Vô Kỵ, Từ Mậu Công (1), Chủ Toại Lương, Vu Chí Ninh vào nội điện. Toại Lương thưa:

1 Từ Mậu Công được phong quốc tính nên nhiều chỗ xưng là Lý Mậu Công.

- Nhưng việc quan trọng hiện nay đều là việc trong cung. Chúng thần chịu ơn cố thác, không dám không liều chết mà làm tròn, để mai này còn thấy tiên đế dưới chín suối.

Mậu Công cáo bệnh không vào. Vô Kỵ vào đến nội điện, Cao Tôn hỏi:

- Hoàng hậu không con. Vũ Chiêu nghi có con trai. Nay ý muốn lập Chiêu nghi làm hoàng hậu thì sao?

Toại Lương thưa:

- Tiên đế sắp mất, cầm tay bệ hạ, nói với chúng thần: "Con trai trẫm giỏi, con dâu ngoan, nay giao lại cho các khanh!". Những lời này bệ hạ cũng nghe, tưởng như còn văng vẳng bên tai. Nay hoàng hậu chưa có tội lỗi gì rõ ràng, sao lại có thể dễ dàng phế truất cho được.

Cao Tôn không bằng lòng.

Toại Lương thưa:

- Bệ hạ muốn thay hoàng hậu, thì hãy xin chọn những con gái lệnh tộc thế gia trong thiên hạ, sao lại cứ phải chọn Vũ. Bởi vì họ Vũ đã từng thờ tiên đế, người người đều biết chuyện này, mai sau bệ hạ sẽ nói năng thế nào với nghìn đời sau?

Rồi đặt hốt ở trên thềm, dập đầu đến chảy máu. Cao Tôn cả giận, sai thái giám dẫn ra khỏi cung. Chiêu nghi ở phía trong rèm quát lớn:

- Sao không giết quách thằng mọi già ấy đi?

Vô Kỵ thưa:

- Toại Lương nhận cố mệnh của tiên đế, dẫu có tội đi nữa cũng không thể gia hình được.

Hàn Viện, nhân lúc tâu việc, khóc lóc mà can gián hết lòng, nhưng Cao Tôn cũng không nghe. Cách mấy ngày sau, trung thư xá nhân Lý Nghĩa Phủ vào cung dâng biểu xin lập Vũ Chiêu nghi. Gặp lúc Mậu Công vào triều, Cao Tôn hỏi:

- Trẫm muốn lập Vũ Chiêu nghi làm hoàng hậu, trước đã hỏi Toại Lương, đều thưa không nên, ý khanh thế nào?

Mậu Công tâu:

- Đây là việc trong nhà của bệ hạ, việc gì phải hỏi người ngoài.

Hứa Kính Tôn đứng bên lại bàn vào thêm:

- Ông lão làm ruộng thu thêm được mươi đấu lúa mạch, còn muốn thay vợ, huống chi thiên tử!

Cao Tôn liền quyết ý, phế Vương Hoàng hậu, Tiêu Thục phi làm thứ dân, sai Mậu Công đem giấy thao, dùng ngọc tỷ, sắc phong làm đô đốc Đàm Châu, rồi lại biến làm Ái Châu thứ sử (1) đến nỗi phải chết. Từ đó trở đi, Vũ Hậu tha hồ làm loạn trong triều đình, ra vào chẳng còn kiêng kỵ gì nữa. Lúc nào cũng theo Cao Tôn lên điện nghe việc triều chính, trong ngoài vậy là có hai vua một lúc. Cao Tôn bị sắc dục làm cho hôn ám, trong lòng càng thêm sợ Vũ Hậu, sai quan đến phong cho Phùng Hoài Nghĩa làm trụ trì chùa Bạch Mã, lại lệnh cho Hành nhân tư đón phụ mẫu Vũ Hậu về kinh sư, phong cho Vũ Sĩ Hoạch làm tư đồ, tước Chu Quốc Công, phong Dương Thị làm Vinh Quốc Thái phu nhân, bọn Vũ Tam Tư đều được vào ra mắt Cao Tôn, ban cho quan tước ở kinh sư. Lòng căm giận với Vương Hoàng hậu cùng Tiêu Thục phi vẫn chưa nguôi, sai người chặt tay, chặt chân, vứt vào trong chum rượu mà rủa:

- Hai con tiện tỳ, xưa kia sỉ nhục ta đến thế, nay hãy cho xương thịt nát nhừ trong vài ngày, mới làm ta hả giận được.

1 Thời thuộc Đường, nước ta là Giao Châu đô hộ phủ, mãi tới năm 679 đổi thành An Nam đô hộ phủ, gồm mười hai châu. Ái Châu chính là Thanh Hóa ngày nay.

Rồi thả cửa hoang dâm.

Vũ hậu vốn vẫn ngầm giữ một ý lớn nữa, muốn sao cho Cao Tôn mau chết, nên lại càng làm ra vẻ đăm chiêu xinh đẹp, đến nỗi Cao Tôn hai mắt khô xác, đi đứng không vững, các tấu chương của trăm quan đều sai Vũ Hậu quyết đoán. Vì cũng đã từng học qua văn sử, lại vốn thông minh nhanh nhẹn, mọi sự đều rất vừa ý Cao Tôn, nên lại được ban thêm hiệu là thiên hậu.

Một hôm Cao Tôn nhân trong người đờ đẫn, mắt mờ tối phiền muộn, nên nói với Thiên Hậu:

- Trẫm với khanh suốt ngày này sang ngày khác ở trong cung, bệnh mắt làm sao cho khỏi được. Nghe nói Trung sơn rất tráng lệ, trẫm cùng khanh đi chơi một chuyến, cho mắt được mở rộng khoan khoái, có nên chăng?

Thiên Hậu dạo còn Vương hoàng hậu, Tiêu Thục phi được sủng ái chưa từng được đi đâu, liền đáp:

- Việc này nên lắm!

Cao Tôn liền lệnh cho nội cung sắp sẵn xe loan, nghi trượng, cờ quạt, đội ngũ, cung nữ. Cao Tôn cùng Thiên Hậu len xe song loan ngồi. Thiên hậu nói:

Trăm quan còn có việc công, cũng chẳng cần phải đi theo nhiều làm gì, chỉ cần đem theo bốn năm trăm ngự lâm quân là đủ rồi.

Cao Tôn liền truyền cho các quan lớn nhỏ, không phải theo ngự giá, mà trở về nha môn coi sóc công việc. Nghi vệ cũng chỉ cần một ít cờ hiệu, đội ngũ nghiêm chỉnh, gọn gàng khởi hành. Trên đường ngày đi đêm nghỉ, qua các châu huyện đã có sẵn các quan lại đón rước cung phụng.

Đến Trung Sơn, núi cao từng từng lớp lớp, chim chóc rộn ràng, trước chùa là dãy cầu đá, sông nước réo vang, lại thêm giữa tiết thu, lá đỏ như hoa, bay tung khắp cao thấp, nhìn vào cảnh chùa, vàng tía huy hoàng, chỉ đáng tiếc là tòa điện nhỏ ở sau chùa đã bị thiêu cháy, còn chưa thu dọn xong. Nhân trời đã về chiều, lại được nhìn cảnh mặt trời đỏ hồng tỏa ánh khắp núi non, ngắm nghía một hồi, liền lên xe loan trỡ về. Thiên Hậu ngồi ngây ra vẻ nghĩ ngợi. Cao Tôn hỏi:

- Hoàng hậu lo lắng điều gì chăng?

Thiên Hậu đáp:

- Xin cho nghĩ thấu đáo đã!

Rồi lấy giấy loan tiên viết bài thơ.

Cao Tôn thấy Thiên Hậu viết xong, cầm lấy đọc, tán thưởng:

- Thật là từ điệu mới mẻ, díễm kiều, mà ý tứ lại mang được cốt cách cổ xưa, thanh nhã, thật đúng ngòi bút của bậc đại thần ở viện hàn lâm, đâu phải là vài câu viết chơi của bậc giai nhân? Hay lắm! Hay lắm!

Đi vài ngày, lại đã về đến cung, đại thần ra đón xa giá tâu:

- Từ Mậu Công ốm bệnh hơn nửa tháng nay, canh ba đêm qua vừa mới qua đời.

Cao Tôn nghe nói, lấy làm thương cảm, ban tên thụy là "Trinh Vũ", cho con Kính Nghiệp, lập tước Anh Công.

Cao Tôn nhân có thiên Hậu quyết đoán, mọi sự bình thường, lòng càng hoan hỷ. Thiên Hậu nhân xem các tấu chương của công thần, thấy có Tiết Nhân Quý đi đánh dư đảng của Đột Quyết, chỉ bắn ba mũi tên, mà định yên vùng Thiên Sơn, bèn than rằng:

- Mấy vạn hùng binh, mà không bằng ba mũi tên của Nhân Quý.

Bèn hỏi Cao Tôn:

- Người này tuổi tác ra sao?

Cao tôn đáp:

- Chỉ trong vòng ba mươi tuổi.

Thiên Hậu nói:

- Đợi lúc nào vào triều kiến, thiếp phải nhìn lén xem sao?

Cao Tôn lâm triều, Nhân Quý vào phục chỉ, Thiên Hậu từ trong rèm lén nhìn thấy Nhân Quý tướng mạo oai hùng, trong lòng rất thích, liền nói khéo với Cao Tôn, đem Tiểu Hỷ ban cho Nhân Quý.

Thiên Hậu bày yến ở vườn Hoa Lâm, mời mẫu thân Vinh Quốc phu nhân cùng với Tam Tư. Cao Tôn dự một hồi, rồi phải cùng các đại thần bàn việc nên đứng dậy. Vinh Quốc phu nhân thay y phục với Thiên Hậu, Tam Tư dạo chơi xem cảnh ngự uyển.

Dạo chơi một vòng, Vinh Quốc phu nhân lên xe về phủ. Tam Tư đợi cho phu nhân đi khỏi, thay y phục, lên điện dạo, rồi quay về. Thiên Hậu cũng về cung. Chuyện không nói nữa.

***

Lại nói chuyện Bái Vương Hiền, Chu Vương Hiển, nhân trong cung vô sự, đều xuất tiền của cùng nhau lấy việc chọi gà làm vui, cũng là chuyện ăn thua luôn. Lúc này Vương Bột (1) làm bác sĩ, tuổi thiếu niên nhưng đa tài, hai vương đều rất thích giao du với Vương Bột. Bột lại thích vui chơi, ăn uống, nhân đó làm bài "Đấu kê hịch" (Hịch chọi gà) sau đây:

Mảng nghe:

Sao Liễu (2) nhị thập bát tửu, tin rừng dương đức rất tôn

Ngất trời Dịch quẻ trung phu, tên gọi hàn âm (3) thực quý

Hết đêm đến sáng gáy eo óc, đánh thức người khỏi giấc mộng hồn

Gội gió dầm mưa riêng cúc cu, gợi tông bạn nàng bầu tình tứ

Xử Tông bên cửa trò chuyện thao thao (4)

Tổ Địch trước giường múa gươm loang loáng(5)

Mượn vóc dáng làm khăn đội, cung vua Chu có tốp lính cầm canh (6)

Cắt đúng kiểu làm mũ che, cửa thành Khổng có học trò nghĩa dũng (7)

Cửa Tần gáy sớm, mừng công tử thoát bước nguy nan (8)

Đất Tề gáy ran, vui dân chúng sống đời trù phú (9)

Không một tin chắc chăng, dân làm lễ bói (10)

Có chiếu đại xá đấy, treo lên ngọn tre (11)

Ăn thừa thuốc Hoài Nam, bay lên trời, được thành tiên cả (12)

Nằm trên ổ họ Dương, nhìn xuống đất, vẫn trẻ con thôi (13)

Được gọi là đức cầm

Thật không phải phàm điểu

Đầu đội mào là văn, chân mang cựa là võ

Điền Nhiêu kể đủ năm đức cao(14)

Gặp con mái nghiệp bà, bắt con trống nghiệp vương

Tần Doanh phúc hưởng hai điềm tốt

Chính cống thật nòi kêu quang quác

Đầu thai khác kiếp gáy cúc cu (15)

Con nhặng xanh sao dám lẫn tiếng ta (16)

cái dế tía sao dám mang tên mõ (17)

Ví bằng giương đôi cánh, hòng bay cao tít

Sao lại chặt lông, để sống yên lành (18)

Đá cựa, dấn mình hiển vinh đã cực

Mài vuốt, giương cánh, chiến đấu nào chùn

Cánh ngài Hậu, cựu ông Quý, cũng quan đại phu(20)

Nhảy chuồng rộng, đậu cục cao đáng mặt địch quốc

Hai trống khó mà chung đứng

Một mõ dễ lại chịu yên

Nuôi oai điên tiết nghỉ hơi

Nổi giận thì gan chọc tức

Oai phong tựa như gỗ (21) Nào! Nhảy một giò, co hai cẳng hăng chí lên

Ứng chiến như thần. Tiến! Chống ngược đít, nguýt phao câu, chúc đầu xuống

Láng gềng, hàng xứ, nòi giống nó, đà ngay

Chú bịp, cô ngan, anh em ta, thắng hết

Dũng vô cùng như diều như ó

Phềnh hết cỡ như ưng như chiên

Dù ít dù nhiều, thề rằng: cái lông cuối cùng cũng nhổ trụi

Kẻ hèn, kẻ mạnh, nói thật cái mỏ độc nhất là cứ dài

Ngẩng đầu lên, xông vào! Dáng đứng chim hạc

Vỗ cán mạnh tiến tới kiểu bay chim bàng

Hăng hái mà còn, thì đáng dâng lên tiệc ngự

Vặt lông cho hết, không để chúng gáy xằng (22)

Chẳng cần hồn tắm nước dùng

Ắt phải mang thui lửa bếp

Tin than lông chớp nhoáng,(23) ù ù cạc cạc, ngỗng vịt hoảng hồn

Trận xương máu sấm ran, tu hú rù rì, diều hâu hoan hỷ

Thêu hình gà vào trướng lụa, thà làm đầu mỏ nhưng chẳng thẹn thùng (24)

Chạm hình gà lên đá bia, cố gặm miếng gân mà không vứt bỏ (25)

Nhược bang ải quan trái lệnh

Tức khắc cửa huyện gia hình (26)

Gà mái mà gáy, loạn đạo nhà, xẻo me!

Không nuốt như lợn nữa

Gà trống mà ấp, nghịch phép nước, cắt tiết!

Có dao mổ trâu đây!

Nay hịch!

1 . Vương Bột (649 - 676) tự Tử An, người Thái Nguyên, sáu tuổi đã nổi tiếng hay thơ. Được nhiều người biết là bài "Đằng Vương các tự", để lại một tập thơ 16 tập. Sang thăm bố làm quan ở Giao Châu (tức Việt Nam ta), bị đắm thuyền mà chết. (Từ điển tác giả)

2 Sao Liễu trong nhị thập bát tú, quy tụ nhiều khí dương, biểu thị sức mạnh nên được lấy để so sánh với tính hiếu thắng của gà.

3 Quẻ Trung phu có câu: "Hàn âm đăng vu thiên", và quẻ Tốn trong kinh Dịch, đều chỉ con gà.

4 sách "U minh lục" có kể đời Tấn, thứ sử Duyên Châu là Tống Xử Tông, mua được một con gà gáy rất hay, nuôi trong lồng, đặt trước cửa sổ. Tự nhiên con gà biết nói. Người và gà cùng trò chuyện. Xử Tông nhờ đó hiểu biết thêm nhiều, ra giúp vua; làm nên sự nghiệp hiển hách.

5 xem chú thích hồi thứ 25.

6 các Vua đều đặt lính canh đêm, đánh trống mõ cầm canh như gà gáy, đội mũ hình mào gà.

7 Tử Lộ là học trò của Khổng Tử, được Khổng Tử khen là dũng.

8 Đông Chu liệt quốc: Mạnh Thường Quân trốn sang Tần, cửa ải Hàm Cốc còn tối vẫn đóng, tay chân của Thường Quân gia làm tiếng gà gáy, gà xung quanh gáy theo, lính canh nghĩ trời sáng, mở cửa cho Thường Quân trốn thoát.

9 Khổng Tử cùng học trò qua đất Tề, nghe gà gáy ran, biết là dân tình ở đây trù phú.

10 Dân gian thường lấy xôi gà cúng, xem chân gà để đoán may rủi.

11 Theo "Bắc Tề sử". Vua mới lên ngôi, xuống chiếu đại xá thiên hạ, trong một cây tre cao ở ngay cửa thành, buộc trên một con gà trống vàng, dưới treo bảng đại xá cho thiên hạ biết. Với ý rằng sao Thiên Khê nhấp nháy báo hiệu tội phạm được tha. Các đời vua sau bắt chước thế.

12 Sách "luận hành": Hoài Nam vương Lưu An luyện được thuốc tiên, cả nhà uống thành tiên. Chó, gà ăn thuốc ở đáy cối cũng thành tiên cả, bay lên gáy, sủa vang trên mây.

13 Theo "Đông minh tục": Có người vượt biển giáp giới Quỳnh Châu gặp Dương Hà Cử, 81 tuổi, cùng về nhà, gặp bố là Thúc Liên đã 122 tuổi, ông nội Tống Khanh, 195 tuổi. Trong khi trò chuyện thì từ trên gác, trong một cái ổ, thò ra một cái đầu. Tống Khanh nói: "Đây là ông tổ chín đời của tôi, không nói không ăn, không biết tuổi. Cứ ngày rằm, mùng một con cháu quây quần quanh ổ mà lạy".

14 Theo " hàn phi ngoại truyện" Điền Nhiêu kể với Lỗ Ai Công: gà đầu đội mũ, thế là văn, chân có cựa thế là võ, gặp kẻ địch đánh đến cùng, thế là dũng, gặp thức ăn gọi bạn đến ăn cùng, thế là nhân, sáng nào cũng báo sáng thế là tin.

15 Tần Doanh gặp một gà mái, một gà trống. Quan trong triều đoán gặp gà mái thì làm nên nghiệp bá, gặp gà trống là nên nghiệp vương. Sau đúng như lời.

16 Theo "Phong tục thông" ông lão họ Chu, hóa kiếp làm gà, nên gà kêu "cu cu", là nhớ đến họ xưa.

17 Kinh Thi: "Phỉ kê tắc minh, thương thằng chi thanh". Không phải là gà sao mà cất tiếng gáy, đó là tiếng vo vo của con nhặng xanh.

18 Con dế có người gọi nhầm từ "Tuất xuất" thành "lạc vĩ" mà "lạc vĩ" còn gọi: sa kê, vu kê, thoa kê. Tiếng kêu như gà, nên mượn chữ kê của gà.

19 Tả truyện: Tâm Mạnh ra đồng gặp một con gà trống cụt đuôi, Mạnh hỏi, có người nói: "Gà trống sợ bị làm vật tế thần, nên nó tự chặt lông đuôi để được yên thân". Vật tế phải đủ cả lông cánh, lông đuôi nguyên vẹn.

20 Theo Tả truyện: Hai quan đại phu1à Hậu và Quý, ham chọi gà, ông thì khoe gà mình cánh rất khỏe ông thì khoe gà mình cựa sắc như sắt.

21 Theo "Trang Tử" thiên "Đạt sinh": Ký Sảnh Tử nuôi gà chọi cho vua, mười ngày, vua hỏi đã đá được chưa. Kỷ thưa: chưa, vì còn kiêu ngạo, còn hăng hái, dũng khí lắm. Mười ngày sau vua lại hỏi, Kỷ lại thưa: Ánh mắt nó còn quá sắc sảo, hơi thở còn mạnh, chưa được! Mười ngày sau nữa, hỏi, Kỷ thưa: Tạm được rồi, nghe tiếng gà khảc, nó không động tâm, nhìn nó như con gà bằng gỗ. Đức nó đã toàn, không con nào dám địch với nó.

22 "Tấn thư": Đời Nguyên hưng, ở Hành Dương có một con gà mái hóa ra gà trống, được tám mươi ngày thì mào đỏ teo dần, trở lại gà mái, ứng với chuyện Hoàn Nguyên nổi loạn xưng đế được tám mươi ngày.

23 Khi truyền tin cần kíp, người lính cầm thư, mang theo một gói than cháy đỏ, buộc một bó lông gà. Vì thế mà có chữ: hỏa tốc, vũ hịch.

24 Tục ngữ: "Thà làm đầu gà, còn hơn tám đuôi trâu".

25 Tào Tháo ăn canh thịt gà, gặp gân gà, ăn không được, bỏ cũng tiếc, nên có ra mật khẩu "Kê cân!".

26 "Bùi Nguyên tân ngôn": Vào ngày đầu năm huyện quan giết dê, giết gà, treo lên cửa huyện, ý nói dê ăn lộc, gà ăn hạt, đểu hại đến sự sinh sôi.

Cao Tôn thấy bài hịch, liền phán:

- Hai vương ham chọi gà, Vương Bột đã không can ngăn, lại còn làm bài hịch này, thế cũng chẳng khác gì một phường với nhau.

Lệnh đuổi Vương Bột khỏi Bái phủ. Bột được lệnh, liền gọi thuyền đi thăm thân phụ ở Hồng Đô, thuyền ghé đậu ở chân núi Mã Đương, sóng to, gió dữ không thể đi tiếp. Đêm ấy trời thu mênh mông xao động, tinh đẩu vằng vặc, khắp nơi sương giăng đầy. Bột lên bờ trông khắp bốn phía trên dưới, bỗng thấy một cụ già ngồi trên một tảng đá, râu tóc bạc như cước, đôi mắt tinh tường lạ lùng, vẫy Bột lại mà rằng:

- Cậu từ đâu tới đây? Sáng này ngày mai là tiết trùng dương, ở gác Đằng Vương có tiệc lớn, nếu mà đến dự, làm một bài văn thôi cũng đủ để tên tuổi còn mãi không mất, hơn làm "Đấu kê hịch" nhiều lắm!

Bột cười thưa:

- Đây đi Hồng Đô, đường còn đến sáu bảy trăm dặm, há một tối mà có thể đến hay sao?

Cụ già đáp:

- Cả thủy phủ của vùng Trung nguyên này là nơi ta cai quản, nếu cậu quyết chí, ta có thể giúp cho một cơn gió đưa buồm đi!

Bột liền chắp tay tạ ơn, bỗng chẳng thấy cụ già đâu nữa. Bột trở về thuyền liền lệnh cho nhổ sào, gió mát đẩy buồm chẳng mấy chốc đã tới Nam Xương. Phu thuyền lớn tiếng kinh ngạc:

- Thật là kỳ lạ? Tạ ơn trời đất? Chỉ cần kéo buồm một lần mà đã tới tận Hồng Châu rồi!

Bột nghe ra, vô cùng khoái ý!

Lúc này, Vũ Văn Quân vừa thôi chức châu mục Giang Châu, nhân biết đô đốc Diêm Bá Tự vì quá yêu con rể là Ngô Tử Chương cũng bậc thiếu niên anh tài, vốn đã làm sẵn văn bài, mong để khoa trương, vì vậy mời khách cùng liêu thuộc tới dự tiệc. Bột cùng Vũ Văn Quân đều vào hàng đi lại nhiều đời, nên cùng thay y phục đến ra mắt, được mời dự cuộc gặp mặt lớn này. Tất nhiên Bột không chối từ, sau đi cùng các hàng thiếu niên tuấn tú hỏi chào, liền ngồi vào ghế. Bởi Bột lúc này mới mười bốn tuổi, nên phải ngồi tận cuối tiệc.

Đàn địch rộn ràng, rượu được mấy tuần, Vũ Văn Quân lên tiếng:

- Nhớ xưa Đằng Vương Nguyên Anh (1) đánh đông dẹp bắc, gây dựng công nghiệp vẻ vang một đời, sau làm thứ sử vùng này, dưới chăn dân, trên kính kẻ sĩ, vỗ về khắp cõi, trăm họ vẫn chưa quen đức tốt nên mới xây gác Đằng Vương này, để làm dấu tích nghìn năm. Nhưng chỉ tiếc danh thắng bậc này, tạc vào bia đá, cho cảnh thêm toàn bích. Nay mai các bậc hiền tài hội tụ, xin hãy trổ hết anh hoa, ghi lại chuyện này, hoặc có nên chăng?

1 Tức Lý Nguyên Anh, con của Đường Cao Tổ Lý Uyên.

Liền sai tả hữu đem văn phòng tứ bảo đến từng người, ai nấy đều ngầm hiểu là việc này đã sắp sẵn cho Ngô Tử Chương, cho nên đều lấy lời lẽ khác nhau để từ tạ. Đến lượt Bột, Bột cũng muốn tỏ rõ tài năng của mình, liền không từ chối mà nhận lấy, diêm Bá Tự trong lòng thầm nghĩ: "Nực cười thay cho kẻ thiếu niên chẳng thấu lẽ đời. Hãy xem hắn ta làm ăn ra sao!". Liền đứng dậy thay áo, lệnh cho một viên lại đứng ngay cạnh Bột:

- Xem y làm được câu nào , báo cho ta biết câu ấy. Ta sẽ có cách phán xử.

Bột trải giấy ra mặt án, cất bút lên viết ngay:

Quận cũ Nam Xương, phủ mới Hồng Đô

Viên lại đọc kỹ thưa lên, Diêm Bá Tự cười:

- Ai mà chẳng viết thế!

câu tiếp:

Giữa khoảng hai sao Dực, Chẩn

Tiếp giáp hai sông Hành, Lư

Diêm Bá Tự cất tiếng:

- Đó là chuyện cũ.

Lại báo tiếp:

Do Tam giang mà nối với Ngũ Hồ

Mở Di Kinh dẫn về Âu Việt

Diêm Bá Tự không nói gì.

Các vỉên lại báo liên tiếp câu này sang câu khác, Diêm Bá Tự chống cằm ngồi ngẩn ra nghe.

Đến câu:

Chiếc cò bay với ráng xa

Sông thu cùng với trời xa một màu.(1)

1 Nguyên văn: "Lạc hà dữ cô vụ tề phi, Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc". (Nam Trân dịch)

Diêm Bá Tự kinh ngạc

- Thằng bé này kỳ lạ! Thật đúng là thiên tài! Mau đem chén lớn ra đây để rót thêm hứng cho văn từ nào!

Lát sau bài văn xong, tả hữu đọc hết, bỗng Ngô Tử Chương đứng lên nói:

- Bài văn này đâu phải xuất từ đại tài của Vương huynh, mà là một sự giả mạo. Nếu không tin, Tử Chương này xin đọc, một chữ cũng không sai.

Mọi người kinh ngạc, thấy Ngô Tử Chương đọc thuộc làu từ "Quận cũ Nam Xương..." cho đến tận câu "Còn mong các ngài xét cho". Ai nấy đều sợ hãi. Bột liền cất tiếng:

- Ngô huynh thật có công nhớ kỹ, không kém gì Lục Tích thuở xưa (1). Nhưng sau bài văn, tiểu đệ còn có một bài thơ nhỏ nữa, không rõ Ngô huynh có đọc được chăng?

1 Người đời Hán, đến dự tiệc, thấy quýt ngon, cắp bỏ tay áo đem về phần mẹ. Viên Thiệu khen là có hiếu, một trong "Nhị thập tứ hiếu".

Ngô Tử Chương không biết trả lời sao, đành ôm nỗi xấu hổ mà ngồi xuống, lại thấy Vương Bột viết một mạch xong ngay bài thơ sau:

Gác Đằng cao ngất bãi sông thu

Ngọc múa vàng reo nay thấy đâu

Nam Phố mây mai quanh nóc vẽ

Tây Sơn mưa tối cuốn rèm châu

Đầm nước mây vờn ngày tháng trôi

Mây phen vật đổi với sao dời

Đằng Vương thuở trước giờ đâu tá

Sông lớn ngoài hiên luống chảy hoài. (1)

1 Tương Như dịch. Thơ Đường I.

Diêm Bá Tự cùng Vũ Văn Quân xem xong, đều hết lời ngợi ca từng câu từng chữ, tặng ngay năm trăm tấm lụa, tài danh từ đó càng ngày càng nổi.

Lại nói chuyện Cao Tôn hoang dâm quá độ, mắt càng ngày càng mờ. Thiên Hậu vốn muốn Cao Tôn càng chết sớm càng tốt, nên lúc nào cũng quấn sát. Công việc trong triều đều mặc Thiên Hậu rủ rèm mà nghe. Một hôm, xem tấu chương, thấy bộ Lễ tân xin xây đại đường để biểu dương những gương trinh liệt của phụ nữ, Thiên Hậu bất giác đập án mà than rằng:

- Kỳ thay! Xem qua số nữ nhân có tên có tuổi mà các quan ở bộ Lễ tuần tự tâu lên sao lại có từng ấy. Thiên hạ rộng khắp, trong vòng bốn biển, số người có thể nêu gương tiết liệt, sao chỉ bằng này? Hoặc là có nhiều, nhưng lũ xuẫn ngốc này, không tai nghe, không mắt thấy, không điều gì ràng buộc, nên bao nhiêu những gương tốt trăm chiều trong khuê phòng, vẫn như kẻ bịt tai để ăn cắp chuông, không biết gì cả. Thật đáng cười thay bọn đàn ông, đều là theo nhau tin vào những điều dối trá, hòng đem một ít tiền bạc làm một cái miếu nhỏ, để rồi ra dáng ta đây lễ nghĩa, như thế phỏng có ra thể thống gì. Nay ta hãy không cho làm cái chuyện ngớ ngẩn này, mà giục ban ngay một đạo chiếu, phàm nữ nhân từ tám mươi tuổi trở lên, đều được nhận tước phong quận quân (l) được đến dự tiệc ở triều đường: Ai dám nói chiếu chỉ này không tốt hơn các điều trước?

1 Quận quân: chế độ phong tước cho phụ nữ mà không thuộc hoàng tộc của nhà Đường, mẹ hoặc vợ của các quan từ tứ phẩm trở lên. Còn ngũ phẩm thì được phong là huyện quân, thời Đường Cao Tôn và Trung Tôn đểu được nhận tước này. Đến đời Tống thì bị bỏ, thay bằng Thục nhân, Thạc nhân, đến Minh Thanh thì chỉ phụ nữ hoàng tộc mới được. (Từ Hải).

Liền viết ngay một đạo chỉ ý lệnh cho bộ Lễ tuyên dụ khắp thiên hạ, từ các nhà công hầu, phò mã, cho đến phụ nữ các nhà quan ở thôn xóm, nghe được lệnh chỉ, khai rõ quê quán tên tuổi, đưa trình triều đình.

Thiên Hậu xem qua một lượt, thấy hàng trăm người, bèn chọn lấy những người cao tuổi nhất kinh sư, độ khoảng ba bốn chục người, cho vào dự yến ở trong triều vào ngày mười sáu tới.

Đến ngày ấy, yến tiệc được bày sẵn ở điện Bảo Hoa, Thiên Hậu với mẫu thân Vinh Quốc phu nhân cùng dự, các nhà công thần, đại phu có người được dự, nghiêm chỉnh kéo vào nội cung.

Chỉ riêng Ninh Thị, thân mẫu của Tần Thúc Bảo lúc này tuổi đã một trăm linh năm, cùng với mẫu thân Thắng Thị của Trương Giản Chi, tuổi đã ngoài chín mươi, đều mặc triều phục của triều cũ vào cung. Ai nấy bái lạy xong, Thiên Hậu ban cho ngồi uống rượu, rồi phán:

- Bốn phương yên hàn, các khanh đều ở các nhà đại thần, viên quan, lâu nay vẫn được tĩnh dưỡng đầy đủ nên thần thái có vẻ thanh nhàn cả!

Tần Thái phu nhân thưa:

- Thần thiếp nghe nói thờ vua thì chẳng nghĩ đến thân mình. Chúng thần may được bậc thánh minh, đội ơn tri ngộ, tấm thân sáu thước được triều đình ân sủng, từng tấc lòng không lúc nào dám quên ơn hoàng gia.

Thiên Hậu đáp:

- Từ lệnh lang cho tới lệnh tôn, đều thờ tận trung tận lễ, sao cho khỏi công huấn giáo của Thái phu nhân?

Mẫu thân Trương Giản Chi thưa:

- Trông dáng của Tần Thái phu nhân, chẳng khác gì khoảng năm sáu mươi thôi vậy. Đền đài trăm tuổi nhất định là Thái phu nhân được ghi đầu tiên.

Vinh Quốc phu nhân nói:

- Nhưng không biết Tần Thái phu nhân sinh nhật vào ngày nào? Để chúng ta còn đến để nâng chén chúc mừng.

Tần Thái phu nhân thưa:

- Thần thật không dám, ngày sinh là hai mươi ba tháng chín thì đã qua rồi.

Rượu được vài tuần, Trương mẫu cùng Tần mẫu đứng dậy tạ ơn Thiên Hậu.

Sáng ngày hôm sau cha con Tần Thúc Bảo cùng bọn Trương Giản Chỉ đều vào triều lạy tạ. Thiên Hậu gia ơn cho Tần mẫu xây từ đường ngay ở phủ đệ, biển đề "Phúc Thọ song cao", cũng là một việc làm khoái ý buổi này.

Sự việc ra sao, hãy xem hồi sau.

Hồi Thứ Bảy Mươi Mốt

Vũ Tài nhân nuôi tóc lại về cung,

Tần Quận quân dựng phường được ân sủng.

Từ rằng:

Cảnh vật chiều người đẹp xiết bao

Bụi trần không dính tẻo tèo teo

Tương phùng mừng rỡ đâu ngờ thế

Đoán định từ xưa gỡ mối sầu

Gió mát trăng thanh ước hẹn nhau

Cửa ngoài không cần bánh xe mau

Đầy hoa trần thế, ai ai biết

Vạn vật đua tươi khắp gác lầu

Tình càng sâu, ơn càng sâu

Mây trôi nước chảy khác màu năm xưa.

Theo điệu "Thiên tiên tử "

***

Nay không nói việc Đường Cao Tôn lên chùa Cảm Nghiệp hành hương trở về cung, hãy nói chuyện Vu Tài nhân trở về phòng. Hoài Thanh chúc mừng:

- Phu nhân gặp thời rồi! Hoàng thượng giáng lâm lệnh cho phu nhân để tóc, sẽ sai người đón về, lại được cai quản Chiêu Dương Cung, cũng chỉ vài ngày nữa là cùng. Nhưng phu nhân có vẻ nghĩ ngợi gì thì phải?

Vũ Mị Nương đáp:

- Trở về cung để được hoàng thượng sủng ái, từ lâu đã dự liệu thế rồi, nào phải là chuyện không tính đến. Nhưng giờ còn việc của Phùng Tiểu Bảo, vì ba người chúng ta đây mà phải cắt tóc làm hòa thượng, phải trù liệu sao cho xứng giờ?

Hoài Thanh đáp:

- Phu nhân chẳng phải băn khoăn cho Tiểu Bảo. Hãy thử hỏi xem ý họ Phùng ra sao đã.

Tiểu Bảo bước bảo phòng, hỏi:

- Sao ai nấy lại ngồi yên lặng thế này?

Tiểu Hỷ đáp:

- Vũ Phu nhân cùng Hoài Thanh đang ngồi lo lắng cho họ Phùng đấy!

Tiểu Bảo nói:

- Các người thật là ngốc nghếch. Vũ phư nhân cũng chẳng hiểu hết được việc này, chỉ có Hoài Thanh là biết ít nhiều. Họ phùng nay trên không cha mẹ, dưới chẳng anh em, vợ con gì cả, có bao giờ dám nghĩ tới chuyện mở mày mở mặt, chỉ mong sao sống yên hàn ở quê nhà. Nay may gặp phu nhân, được cùng Hoài Thanh chia lần sẻ ái, đội ơn được gần ngọc thể, lại được Tiểu Hỷ sớm tối gần gũi. Tình nặng nghĩa dày này, đừng nói vì ba người mà phải cạo trọc đầu, mà dẫu có chết chăng nữa cũng không dám tiếc.

Hoài Thanh hỏi:

- Nhưng đã xuất gia đầu Phật, chẳng còn tính chuyện gia thất, sinh con đẻ cái thì sao?

Tiểu Bão đáp:

- Thì cũng chẳng khác gì những người đàn bà, cắt tóc làm ni cô , suốt cả đời ở trong chùa chẳng đi đâu.

Vũ Phu nhân nói:

- Nếu như thế, họ Phùng gặp được chỗ ưng ý rồi, chẳng còn tưởng gì đến chúng ta nữa sao?

Tiểu Bảo đáp: .

- Chẳng làm gì có chuyện đó, Nhan sắc như phu nhân trên đời này ít có ngay đến cả hai vị đây cũng còn khó tìm. Chỉ mong sao phu nhân còn nhớ đến khi đã vào cung, tâu với triều đình, cho họ Phùng này làm sư trụ trì chùa Bạch Mã, thế đã là vinh hạnh lắm rồi. Gì chứ hạng quan tước trong đám hòa thượng thì họ Phùng này cũng làm được.

Hoài Thanh nói:

- Chuyện này thì có khi chẳng cần đến hoàng thượng nữa kia, mà chỉ biết Vũ Phu nhân cũng có thể thừa sức làm cũng chưa biết chừng.

Vũ Phu nhân cười:

- Hãy khoan tranh cãi, chỉ cần họ Phùng trong lòng còn nhớ đến chúng ta là được rồi.

Tiểu Bảo quỳ xuống mà thề:

- Có trời xanh ở trên đầu, nếu Phùng Hoài Nghĩa này mai kia mà quên ân tình của Vũ Phu nhân, cùng ni cô Hoài Thanh, Tiểu Hỷ cô nương thì trời chu đất diệt.

Vũ Phu nhân cởi chiếc áo lót, Hoài Thanh cởi vòng ngọc như ý, Tiểu Hỷ cởi áo thô đang mặc đưa tặng Tiểu Bảo. Đang lúc đinh ninh thề thốt, thì thấy Trường Minh xách một hồ rượu, bà vãi già bưng thức ăn bày trên bàn. Trường Minh nói:

- Hôm nay bần tăng rót rượu tiễn hành Phùng Hoài Nghĩa, xin đừng bao giờ quên bần tăng. Chỉ cần nhớ là trước mặt thiên tử, bần tăng đã nhận là cháu. Đêm nay đáng ra Hoài nghĩa phải ngủ ở phòng bần tăng mới đúng nhưng bần tăng tuổi đã cao rồi, chẳng dám tiếp. Chỉ mong khi đến chùa Bạch Mã, họ Phùng hãy kiếm được ít nhiều đồ đệ giỏi giang. Còn bây giờ xin uống cạn chỗ rượu này, rồi sáng mai còn lên đường đến Bạch Mã.

Nói xong, Trường Minh đi ra, Tiểu Bảo cùng Vũ phu nhân, Hoài Thanh, Tiểu Hỷ mãi tới canh năm hôm sau, nghe tiếng chuông chùa, mới trở dậy thu thập hành trang. Cả bọn nước mắt ngắn dài, tiễn tiểu Bảo rờỉ khỏi chùa. Chuyện không nóỉ nữa.

***

Lại nói Cao Tôn mấy ngày sau, sai quan tới đưa Vũ Tài nhân cùng Tiểu Hỷ về cung, phong từ tài nhân lên chiêu nghi. Cao Tôn thỏa nguyện, còn Vũ Chiêu nghi thì quả là thời vận đã đến, ngay năm sau sinh một con trai, năm tiếp lại sinh một gái. Cao Tôn lại càng quý trọng, cả đến Vương Hoàng hậu, rồi Tiêu Thục phi, giờ đây ơn cũng đã kém, nhân thấy Vũ Chiêu nghi sinh con gái, đều tới thăm. Hoàng hậu mới ra khỏi, Vũ Chiêu nghi lẻn vào, bóp cổ cho chết. Gặp lúc Cao Tôn tới cung, Chiêu nghi gọi Vũ vào chơi với con gái, kéo chăn ra xem, thấy đã chết, kinh ngạc tra xét tả hữu. Trên dưới đều thưa hoàng hậu vừa mới từ chỗ công chúa ra khỏi. Cao Tôn cả giận mà rằng:

- Hoàng hậu giết con gái trẫm!

Vũ Chiêu nghi cũng khóc lóc mà kể thêm nhiều tội của Hoàng hậu. Vương Hoàng hậu không tài nào tự thanh minh nổi cho mình, vì vậy Cao Tôn đã có ý phế hoàng hậu từ đấy.

Một hôm thoái triều, Cao Tôn với Trưởng Tôn Vô Kỵ, Từ Mậu Công (1), Chủ Toại Lương, Vu Chí Ninh vào nội điện. Toại Lương thưa:

1 Từ Mậu Công được phong quốc tính nên nhiều chỗ xưng là Lý Mậu Công.

- Nhưng việc quan trọng hiện nay đều là việc trong cung. Chúng thần chịu ơn cố thác, không dám không liều chết mà làm tròn, để mai này còn thấy tiên đế dưới chín suối.

Mậu Công cáo bệnh không vào. Vô Kỵ vào đến nội điện, Cao Tôn hỏi:

- Hoàng hậu không con. Vũ Chiêu nghi có con trai. Nay ý muốn lập Chiêu nghi làm hoàng hậu thì sao?

Toại Lương thưa:

- Tiên đế sắp mất, cầm tay bệ hạ, nói với chúng thần: "Con trai trẫm giỏi, con dâu ngoan, nay giao lại cho các khanh!". Những lời này bệ hạ cũng nghe, tưởng như còn văng vẳng bên tai. Nay hoàng hậu chưa có tội lỗi gì rõ ràng, sao lại có thể dễ dàng phế truất cho được.

Cao Tôn không bằng lòng.

Toại Lương thưa:

- Bệ hạ muốn thay hoàng hậu, thì hãy xin chọn những con gái lệnh tộc thế gia trong thiên hạ, sao lại cứ phải chọn Vũ. Bởi vì họ Vũ đã từng thờ tiên đế, người người đều biết chuyện này, mai sau bệ hạ sẽ nói năng thế nào với nghìn đời sau?

Rồi đặt hốt ở trên thềm, dập đầu đến chảy máu. Cao Tôn cả giận, sai thái giám dẫn ra khỏi cung. Chiêu nghi ở phía trong rèm quát lớn:

- Sao không giết quách thằng mọi già ấy đi?

Vô Kỵ thưa:

- Toại Lương nhận cố mệnh của tiên đế, dẫu có tội đi nữa cũng không thể gia hình được.

Hàn Viện, nhân lúc tâu việc, khóc lóc mà can gián hết lòng, nhưng Cao Tôn cũng không nghe. Cách mấy ngày sau, trung thư xá nhân Lý Nghĩa Phủ vào cung dâng biểu xin lập Vũ Chiêu nghi. Gặp lúc Mậu Công vào triều, Cao Tôn hỏi:

- Trẫm muốn lập Vũ Chiêu nghi làm hoàng hậu, trước đã hỏi Toại Lương, đều thưa không nên, ý khanh thế nào?

Mậu Công tâu:

- Đây là việc trong nhà của bệ hạ, việc gì phải hỏi người ngoài.

Hứa Kính Tôn đứng bên lại bàn vào thêm:

- Ông lão làm ruộng thu thêm được mươi đấu lúa mạch, còn muốn thay vợ, huống chi thiên tử!

Cao Tôn liền quyết ý, phế Vương Hoàng hậu, Tiêu Thục phi làm thứ dân, sai Mậu Công đem giấy thao, dùng ngọc tỷ, sắc phong làm đô đốc Đàm Châu, rồi lại biến làm Ái Châu thứ sử (1) đến nỗi phải chết. Từ đó trở đi, Vũ Hậu tha hồ làm loạn trong triều đình, ra vào chẳng còn kiêng kỵ gì nữa. Lúc nào cũng theo Cao Tôn lên điện nghe việc triều chính, trong ngoài vậy là có hai vua một lúc. Cao Tôn bị sắc dục làm cho hôn ám, trong lòng càng thêm sợ Vũ Hậu, sai quan đến phong cho Phùng Hoài Nghĩa làm trụ trì chùa Bạch Mã, lại lệnh cho Hành nhân tư đón phụ mẫu Vũ Hậu về kinh sư, phong cho Vũ Sĩ Hoạch làm tư đồ, tước Chu Quốc Công, phong Dương Thị làm Vinh Quốc Thái phu nhân, bọn Vũ Tam Tư đều được vào ra mắt Cao Tôn, ban cho quan tước ở kinh sư. Lòng căm giận với Vương Hoàng hậu cùng Tiêu Thục phi vẫn chưa nguôi, sai người chặt tay, chặt chân, vứt vào trong chum rượu mà rủa:

- Hai con tiện tỳ, xưa kia sỉ nhục ta đến thế, nay hãy cho xương thịt nát nhừ trong vài ngày, mới làm ta hả giận được.

1 Thời thuộc Đường, nước ta là Giao Châu đô hộ phủ, mãi tới năm 679 đổi thành An Nam đô hộ phủ, gồm mười hai châu. Ái Châu chính là Thanh Hóa ngày nay.

Rồi thả cửa hoang dâm.

Vũ hậu vốn vẫn ngầm giữ một ý lớn nữa, muốn sao cho Cao Tôn mau chết, nên lại càng làm ra vẻ đăm chiêu xinh đẹp, đến nỗi Cao Tôn hai mắt khô xác, đi đứng không vững, các tấu chương của trăm quan đều sai Vũ Hậu quyết đoán. Vì cũng đã từng học qua văn sử, lại vốn thông minh nhanh nhẹn, mọi sự đều rất vừa ý Cao Tôn, nên lại được ban thêm hiệu là thiên hậu.

Một hôm Cao Tôn nhân trong người đờ đẫn, mắt mờ tối phiền muộn, nên nói với Thiên Hậu:

- Trẫm với khanh suốt ngày này sang ngày khác ở trong cung, bệnh mắt làm sao cho khỏi được. Nghe nói Trung sơn rất tráng lệ, trẫm cùng khanh đi chơi một chuyến, cho mắt được mở rộng khoan khoái, có nên chăng?

Thiên Hậu dạo còn Vương hoàng hậu, Tiêu Thục phi được sủng ái chưa từng được đi đâu, liền đáp:

- Việc này nên lắm!

Cao Tôn liền lệnh cho nội cung sắp sẵn xe loan, nghi trượng, cờ quạt, đội ngũ, cung nữ. Cao Tôn cùng Thiên Hậu len xe song loan ngồi. Thiên hậu nói:

Trăm quan còn có việc công, cũng chẳng cần phải đi theo nhiều làm gì, chỉ cần đem theo bốn năm trăm ngự lâm quân là đủ rồi.

Cao Tôn liền truyền cho các quan lớn nhỏ, không phải theo ngự giá, mà trở về nha môn coi sóc công việc. Nghi vệ cũng chỉ cần một ít cờ hiệu, đội ngũ nghiêm chỉnh, gọn gàng khởi hành. Trên đường ngày đi đêm nghỉ, qua các châu huyện đã có sẵn các quan lại đón rước cung phụng.

Đến Trung Sơn, núi cao từng từng lớp lớp, chim chóc rộn ràng, trước chùa là dãy cầu đá, sông nước réo vang, lại thêm giữa tiết thu, lá đỏ như hoa, bay tung khắp cao thấp, nhìn vào cảnh chùa, vàng tía huy hoàng, chỉ đáng tiếc là tòa điện nhỏ ở sau chùa đã bị thiêu cháy, còn chưa thu dọn xong. Nhân trời đã về chiều, lại được nhìn cảnh mặt trời đỏ hồng tỏa ánh khắp núi non, ngắm nghía một hồi, liền lên xe loan trỡ về. Thiên Hậu ngồi ngây ra vẻ nghĩ ngợi. Cao Tôn hỏi:

- Hoàng hậu lo lắng điều gì chăng?

Thiên Hậu đáp:

- Xin cho nghĩ thấu đáo đã!

Rồi lấy giấy loan tiên viết bài thơ.

Cao Tôn thấy Thiên Hậu viết xong, cầm lấy đọc, tán thưởng:

- Thật là từ điệu mới mẻ, díễm kiều, mà ý tứ lại mang được cốt cách cổ xưa, thanh nhã, thật đúng ngòi bút của bậc đại thần ở viện hàn lâm, đâu phải là vài câu viết chơi của bậc giai nhân? Hay lắm! Hay lắm!

Đi vài ngày, lại đã về đến cung, đại thần ra đón xa giá tâu:

- Từ Mậu Công ốm bệnh hơn nửa tháng nay, canh ba đêm qua vừa mới qua đời.

Cao Tôn nghe nói, lấy làm thương cảm, ban tên thụy là "Trinh Vũ", cho con Kính Nghiệp, lập tước Anh Công.

Cao Tôn nhân có thiên Hậu quyết đoán, mọi sự bình thường, lòng càng hoan hỷ. Thiên Hậu nhân xem các tấu chương của công thần, thấy có Tiết Nhân Quý đi đánh dư đảng của Đột Quyết, chỉ bắn ba mũi tên, mà định yên vùng Thiên Sơn, bèn than rằng:

- Mấy vạn hùng binh, mà không bằng ba mũi tên của Nhân Quý.

Bèn hỏi Cao Tôn:

- Người này tuổi tác ra sao?

Cao tôn đáp:

- Chỉ trong vòng ba mươi tuổi.

Thiên Hậu nói:

- Đợi lúc nào vào triều kiến, thiếp phải nhìn lén xem sao?

Cao Tôn lâm triều, Nhân Quý vào phục chỉ, Thiên Hậu từ trong rèm lén nhìn thấy Nhân Quý tướng mạo oai hùng, trong lòng rất thích, liền nói khéo với Cao Tôn, đem Tiểu Hỷ ban cho Nhân Quý.

Thiên Hậu bày yến ở vườn Hoa Lâm, mời mẫu thân Vinh Quốc phu nhân cùng với Tam Tư. Cao Tôn dự một hồi, rồi phải cùng các đại thần bàn việc nên đứng dậy. Vinh Quốc phu nhân thay y phục với Thiên Hậu, Tam Tư dạo chơi xem cảnh ngự uyển.

Dạo chơi một vòng, Vinh Quốc phu nhân lên xe về phủ. Tam Tư đợi cho phu nhân đi khỏi, thay y phục, lên điện dạo, rồi quay về. Thiên Hậu cũng về cung. Chuyện không nói nữa.

***

Lại nói chuyện Bái Vương Hiền, Chu Vương Hiển, nhân trong cung vô sự, đều xuất tiền của cùng nhau lấy việc chọi gà làm vui, cũng là chuyện ăn thua luôn. Lúc này Vương Bột (1) làm bác sĩ, tuổi thiếu niên nhưng đa tài, hai vương đều rất thích giao du với Vương Bột. Bột lại thích vui chơi, ăn uống, nhân đó làm bài "Đấu kê hịch" (Hịch chọi gà) sau đây:

Mảng nghe:

Sao Liễu (2) nhị thập bát tửu, tin rừng dương đức rất tôn

Ngất trời Dịch quẻ trung phu, tên gọi hàn âm (3) thực quý

Hết đêm đến sáng gáy eo óc, đánh thức người khỏi giấc mộng hồn

Gội gió dầm mưa riêng cúc cu, gợi tông bạn nàng bầu tình tứ

Xử Tông bên cửa trò chuyện thao thao (4)

Tổ Địch trước giường múa gươm loang loáng(5)

Mượn vóc dáng làm khăn đội, cung vua Chu có tốp lính cầm canh (6)

Cắt đúng kiểu làm mũ che, cửa thành Khổng có học trò nghĩa dũng (7)

Cửa Tần gáy sớm, mừng công tử thoát bước nguy nan (8)

Đất Tề gáy ran, vui dân chúng sống đời trù phú (9)

Không một tin chắc chăng, dân làm lễ bói (10)

Có chiếu đại xá đấy, treo lên ngọn tre (11)

Ăn thừa thuốc Hoài Nam, bay lên trời, được thành tiên cả (12)

Nằm trên ổ họ Dương, nhìn xuống đất, vẫn trẻ con thôi (13)

Được gọi là đức cầm

Thật không phải phàm điểu

Đầu đội mào là văn, chân mang cựa là võ

Điền Nhiêu kể đủ năm đức cao(14)

Gặp con mái nghiệp bà, bắt con trống nghiệp vương

Tần Doanh phúc hưởng hai điềm tốt

Chính cống thật nòi kêu quang quác

Đầu thai khác kiếp gáy cúc cu (15)

Con nhặng xanh sao dám lẫn tiếng ta (16)

cái dế tía sao dám mang tên mõ (17)

Ví bằng giương đôi cánh, hòng bay cao tít

Sao lại chặt lông, để sống yên lành (18)

Đá cựa, dấn mình hiển vinh đã cực

Mài vuốt, giương cánh, chiến đấu nào chùn

Cánh ngài Hậu, cựu ông Quý, cũng quan đại phu(20)

Nhảy chuồng rộng, đậu cục cao đáng mặt địch quốc

Hai trống khó mà chung đứng

Một mõ dễ lại chịu yên

Nuôi oai điên tiết nghỉ hơi

Nổi giận thì gan chọc tức

Oai phong tựa như gỗ (21) Nào! Nhảy một giò, co hai cẳng hăng chí lên

Ứng chiến như thần. Tiến! Chống ngược đít, nguýt phao câu, chúc đầu xuống

Láng gềng, hàng xứ, nòi giống nó, đà ngay

Chú bịp, cô ngan, anh em ta, thắng hết

Dũng vô cùng như diều như ó

Phềnh hết cỡ như ưng như chiên

Dù ít dù nhiều, thề rằng: cái lông cuối cùng cũng nhổ trụi

Kẻ hèn, kẻ mạnh, nói thật cái mỏ độc nhất là cứ dài

Ngẩng đầu lên, xông vào! Dáng đứng chim hạc

Vỗ cán mạnh tiến tới kiểu bay chim bàng

Hăng hái mà còn, thì đáng dâng lên tiệc ngự

Vặt lông cho hết, không để chúng gáy xằng (22)

Chẳng cần hồn tắm nước dùng

Ắt phải mang thui lửa bếp

Tin than lông chớp nhoáng,(23) ù ù cạc cạc, ngỗng vịt hoảng hồn

Trận xương máu sấm ran, tu hú rù rì, diều hâu hoan hỷ

Thêu hình gà vào trướng lụa, thà làm đầu mỏ nhưng chẳng thẹn thùng (24)

Chạm hình gà lên đá bia, cố gặm miếng gân mà không vứt bỏ (25)

Nhược bang ải quan trái lệnh

Tức khắc cửa huyện gia hình (26)

Gà mái mà gáy, loạn đạo nhà, xẻo me!

Không nuốt như lợn nữa

Gà trống mà ấp, nghịch phép nước, cắt tiết!

Có dao mổ trâu đây!

Nay hịch!

1 . Vương Bột (649 - 676) tự Tử An, người Thái Nguyên, sáu tuổi đã nổi tiếng hay thơ. Được nhiều người biết là bài "Đằng Vương các tự", để lại một tập thơ 16 tập. Sang thăm bố làm quan ở Giao Châu (tức Việt Nam ta), bị đắm thuyền mà chết. (Từ điển tác giả)

2 Sao Liễu trong nhị thập bát tú, quy tụ nhiều khí dương, biểu thị sức mạnh nên được lấy để so sánh với tính hiếu thắng của gà.

3 Quẻ Trung phu có câu: "Hàn âm đăng vu thiên", và quẻ Tốn trong kinh Dịch, đều chỉ con gà.

4 sách "U minh lục" có kể đời Tấn, thứ sử Duyên Châu là Tống Xử Tông, mua được một con gà gáy rất hay, nuôi trong lồng, đặt trước cửa sổ. Tự nhiên con gà biết nói. Người và gà cùng trò chuyện. Xử Tông nhờ đó hiểu biết thêm nhiều, ra giúp vua; làm nên sự nghiệp hiển hách.

5 xem chú thích hồi thứ 25.

6 các Vua đều đặt lính canh đêm, đánh trống mõ cầm canh như gà gáy, đội mũ hình mào gà.

7 Tử Lộ là học trò của Khổng Tử, được Khổng Tử khen là dũng.

8 Đông Chu liệt quốc: Mạnh Thường Quân trốn sang Tần, cửa ải Hàm Cốc còn tối vẫn đóng, tay chân của Thường Quân gia làm tiếng gà gáy, gà xung quanh gáy theo, lính canh nghĩ trời sáng, mở cửa cho Thường Quân trốn thoát.

9 Khổng Tử cùng học trò qua đất Tề, nghe gà gáy ran, biết là dân tình ở đây trù phú.

10 Dân gian thường lấy xôi gà cúng, xem chân gà để đoán may rủi.

11 Theo "Bắc Tề sử". Vua mới lên ngôi, xuống chiếu đại xá thiên hạ, trong một cây tre cao ở ngay cửa thành, buộc trên một con gà trống vàng, dưới treo bảng đại xá cho thiên hạ biết. Với ý rằng sao Thiên Khê nhấp nháy báo hiệu tội phạm được tha. Các đời vua sau bắt chước thế.

12 Sách "luận hành": Hoài Nam vương Lưu An luyện được thuốc tiên, cả nhà uống thành tiên. Chó, gà ăn thuốc ở đáy cối cũng thành tiên cả, bay lên gáy, sủa vang trên mây.

13 Theo "Đông minh tục": Có người vượt biển giáp giới Quỳnh Châu gặp Dương Hà Cử, 81 tuổi, cùng về nhà, gặp bố là Thúc Liên đã 122 tuổi, ông nội Tống Khanh, 195 tuổi. Trong khi trò chuyện thì từ trên gác, trong một cái ổ, thò ra một cái đầu. Tống Khanh nói: "Đây là ông tổ chín đời của tôi, không nói không ăn, không biết tuổi. Cứ ngày rằm, mùng một con cháu quây quần quanh ổ mà lạy".

14 Theo " hàn phi ngoại truyện" Điền Nhiêu kể với Lỗ Ai Công: gà đầu đội mũ, thế là văn, chân có cựa thế là võ, gặp kẻ địch đánh đến cùng, thế là dũng, gặp thức ăn gọi bạn đến ăn cùng, thế là nhân, sáng nào cũng báo sáng thế là tin.

15 Tần Doanh gặp một gà mái, một gà trống. Quan trong triều đoán gặp gà mái thì làm nên nghiệp bá, gặp gà trống là nên nghiệp vương. Sau đúng như lời.

16 Theo "Phong tục thông" ông lão họ Chu, hóa kiếp làm gà, nên gà kêu "cu cu", là nhớ đến họ xưa.

17 Kinh Thi: "Phỉ kê tắc minh, thương thằng chi thanh". Không phải là gà sao mà cất tiếng gáy, đó là tiếng vo vo của con nhặng xanh.

18 Con dế có người gọi nhầm từ "Tuất xuất" thành "lạc vĩ" mà "lạc vĩ" còn gọi: sa kê, vu kê, thoa kê. Tiếng kêu như gà, nên mượn chữ kê của gà.

19 Tả truyện: Tâm Mạnh ra đồng gặp một con gà trống cụt đuôi, Mạnh hỏi, có người nói: "Gà trống sợ bị làm vật tế thần, nên nó tự chặt lông đuôi để được yên thân". Vật tế phải đủ cả lông cánh, lông đuôi nguyên vẹn.

20 Theo Tả truyện: Hai quan đại phu1à Hậu và Quý, ham chọi gà, ông thì khoe gà mình cánh rất khỏe ông thì khoe gà mình cựa sắc như sắt.

21 Theo "Trang Tử" thiên "Đạt sinh": Ký Sảnh Tử nuôi gà chọi cho vua, mười ngày, vua hỏi đã đá được chưa. Kỷ thưa: chưa, vì còn kiêu ngạo, còn hăng hái, dũng khí lắm. Mười ngày sau vua lại hỏi, Kỷ lại thưa: Ánh mắt nó còn quá sắc sảo, hơi thở còn mạnh, chưa được! Mười ngày sau nữa, hỏi, Kỷ thưa: Tạm được rồi, nghe tiếng gà khảc, nó không động tâm, nhìn nó như con gà bằng gỗ. Đức nó đã toàn, không con nào dám địch với nó.

22 "Tấn thư": Đời Nguyên hưng, ở Hành Dương có một con gà mái hóa ra gà trống, được tám mươi ngày thì mào đỏ teo dần, trở lại gà mái, ứng với chuyện Hoàn Nguyên nổi loạn xưng đế được tám mươi ngày.

23 Khi truyền tin cần kíp, người lính cầm thư, mang theo một gói than cháy đỏ, buộc một bó lông gà. Vì thế mà có chữ: hỏa tốc, vũ hịch.

24 Tục ngữ: "Thà làm đầu gà, còn hơn tám đuôi trâu".

25 Tào Tháo ăn canh thịt gà, gặp gân gà, ăn không được, bỏ cũng tiếc, nên có ra mật khẩu "Kê cân!".

26 "Bùi Nguyên tân ngôn": Vào ngày đầu năm huyện quan giết dê, giết gà, treo lên cửa huyện, ý nói dê ăn lộc, gà ăn hạt, đểu hại đến sự sinh sôi.

Cao Tôn thấy bài hịch, liền phán:

- Hai vương ham chọi gà, Vương Bột đã không can ngăn, lại còn làm bài hịch này, thế cũng chẳng khác gì một phường với nhau.

Lệnh đuổi Vương Bột khỏi Bái phủ. Bột được lệnh, liền gọi thuyền đi thăm thân phụ ở Hồng Đô, thuyền ghé đậu ở chân núi Mã Đương, sóng to, gió dữ không thể đi tiếp. Đêm ấy trời thu mênh mông xao động, tinh đẩu vằng vặc, khắp nơi sương giăng đầy. Bột lên bờ trông khắp bốn phía trên dưới, bỗng thấy một cụ già ngồi trên một tảng đá, râu tóc bạc như cước, đôi mắt tinh tường lạ lùng, vẫy Bột lại mà rằng:

- Cậu từ đâu tới đây? Sáng này ngày mai là tiết trùng dương, ở gác Đằng Vương có tiệc lớn, nếu mà đến dự, làm một bài văn thôi cũng đủ để tên tuổi còn mãi không mất, hơn làm "Đấu kê hịch" nhiều lắm!

Bột cười thưa:

- Đây đi Hồng Đô, đường còn đến sáu bảy trăm dặm, há một tối mà có thể đến hay sao?

Cụ già đáp:

- Cả thủy phủ của vùng Trung nguyên này là nơi ta cai quản, nếu cậu quyết chí, ta có thể giúp cho một cơn gió đưa buồm đi!

Bột liền chắp tay tạ ơn, bỗng chẳng thấy cụ già đâu nữa. Bột trở về thuyền liền lệnh cho nhổ sào, gió mát đẩy buồm chẳng mấy chốc đã tới Nam Xương. Phu thuyền lớn tiếng kinh ngạc:

- Thật là kỳ lạ? Tạ ơn trời đất? Chỉ cần kéo buồm một lần mà đã tới tận Hồng Châu rồi!

Bột nghe ra, vô cùng khoái ý!

Lúc này, Vũ Văn Quân vừa thôi chức châu mục Giang Châu, nhân biết đô đốc Diêm Bá Tự vì quá yêu con rể là Ngô Tử Chương cũng bậc thiếu niên anh tài, vốn đã làm sẵn văn bài, mong để khoa trương, vì vậy mời khách cùng liêu thuộc tới dự tiệc. Bột cùng Vũ Văn Quân đều vào hàng đi lại nhiều đời, nên cùng thay y phục đến ra mắt, được mời dự cuộc gặp mặt lớn này. Tất nhiên Bột không chối từ, sau đi cùng các hàng thiếu niên tuấn tú hỏi chào, liền ngồi vào ghế. Bởi Bột lúc này mới mười bốn tuổi, nên phải ngồi tận cuối tiệc.

Đàn địch rộn ràng, rượu được mấy tuần, Vũ Văn Quân lên tiếng:

- Nhớ xưa Đằng Vương Nguyên Anh (1) đánh đông dẹp bắc, gây dựng công nghiệp vẻ vang một đời, sau làm thứ sử vùng này, dưới chăn dân, trên kính kẻ sĩ, vỗ về khắp cõi, trăm họ vẫn chưa quen đức tốt nên mới xây gác Đằng Vương này, để làm dấu tích nghìn năm. Nhưng chỉ tiếc danh thắng bậc này, tạc vào bia đá, cho cảnh thêm toàn bích. Nay mai các bậc hiền tài hội tụ, xin hãy trổ hết anh hoa, ghi lại chuyện này, hoặc có nên chăng?

1 Tức Lý Nguyên Anh, con của Đường Cao Tổ Lý Uyên.

Liền sai tả hữu đem văn phòng tứ bảo đến từng người, ai nấy đều ngầm hiểu là việc này đã sắp sẵn cho Ngô Tử Chương, cho nên đều lấy lời lẽ khác nhau để từ tạ. Đến lượt Bột, Bột cũng muốn tỏ rõ tài năng của mình, liền không từ chối mà nhận lấy, diêm Bá Tự trong lòng thầm nghĩ: "Nực cười thay cho kẻ thiếu niên chẳng thấu lẽ đời. Hãy xem hắn ta làm ăn ra sao!". Liền đứng dậy thay áo, lệnh cho một viên lại đứng ngay cạnh Bột:

- Xem y làm được câu nào , báo cho ta biết câu ấy. Ta sẽ có cách phán xử.

Bột trải giấy ra mặt án, cất bút lên viết ngay:

Quận cũ Nam Xương, phủ mới Hồng Đô

Viên lại đọc kỹ thưa lên, Diêm Bá Tự cười:

- Ai mà chẳng viết thế!

câu tiếp:

Giữa khoảng hai sao Dực, Chẩn

Tiếp giáp hai sông Hành, Lư

Diêm Bá Tự cất tiếng:

- Đó là chuyện cũ.

Lại báo tiếp:

Do Tam giang mà nối với Ngũ Hồ

Mở Di Kinh dẫn về Âu Việt

Diêm Bá Tự không nói gì.

Các vỉên lại báo liên tiếp câu này sang câu khác, Diêm Bá Tự chống cằm ngồi ngẩn ra nghe.

Đến câu:

Chiếc cò bay với ráng xa

Sông thu cùng với trời xa một màu.(1)

1 Nguyên văn: "Lạc hà dữ cô vụ tề phi, Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc". (Nam Trân dịch)

Diêm Bá Tự kinh ngạc

- Thằng bé này kỳ lạ! Thật đúng là thiên tài! Mau đem chén lớn ra đây để rót thêm hứng cho văn từ nào!

Lát sau bài văn xong, tả hữu đọc hết, bỗng Ngô Tử Chương đứng lên nói:

- Bài văn này đâu phải xuất từ đại tài của Vương huynh, mà là một sự giả mạo. Nếu không tin, Tử Chương này xin đọc, một chữ cũng không sai.

Mọi người kinh ngạc, thấy Ngô Tử Chương đọc thuộc làu từ "Quận cũ Nam Xương..." cho đến tận câu "Còn mong các ngài xét cho". Ai nấy đều sợ hãi. Bột liền cất tiếng:

- Ngô huynh thật có công nhớ kỹ, không kém gì Lục Tích thuở xưa (1). Nhưng sau bài văn, tiểu đệ còn có một bài thơ nhỏ nữa, không rõ Ngô huynh có đọc được chăng?

1 Người đời Hán, đến dự tiệc, thấy quýt ngon, cắp bỏ tay áo đem về phần mẹ. Viên Thiệu khen là có hiếu, một trong "Nhị thập tứ hiếu".

Ngô Tử Chương không biết trả lời sao, đành ôm nỗi xấu hổ mà ngồi xuống, lại thấy Vương Bột viết một mạch xong ngay bài thơ sau:

Gác Đằng cao ngất bãi sông thu

Ngọc múa vàng reo nay thấy đâu

Nam Phố mây mai quanh nóc vẽ

Tây Sơn mưa tối cuốn rèm châu

Đầm nước mây vờn ngày tháng trôi

Mây phen vật đổi với sao dời

Đằng Vương thuở trước giờ đâu tá

Sông lớn ngoài hiên luống chảy hoài. (1)

1 Tương Như dịch. Thơ Đường I.

Diêm Bá Tự cùng Vũ Văn Quân xem xong, đều hết lời ngợi ca từng câu từng chữ, tặng ngay năm trăm tấm lụa, tài danh từ đó càng ngày càng nổi.

Lại nói chuyện Cao Tôn hoang dâm quá độ, mắt càng ngày càng mờ. Thiên Hậu vốn muốn Cao Tôn càng chết sớm càng tốt, nên lúc nào cũng quấn sát. Công việc trong triều đều mặc Thiên Hậu rủ rèm mà nghe. Một hôm, xem tấu chương, thấy bộ Lễ tân xin xây đại đường để biểu dương những gương trinh liệt của phụ nữ, Thiên Hậu bất giác đập án mà than rằng:

- Kỳ thay! Xem qua số nữ nhân có tên có tuổi mà các quan ở bộ Lễ tuần tự tâu lên sao lại có từng ấy. Thiên hạ rộng khắp, trong vòng bốn biển, số người có thể nêu gương tiết liệt, sao chỉ bằng này? Hoặc là có nhiều, nhưng lũ xuẫn ngốc này, không tai nghe, không mắt thấy, không điều gì ràng buộc, nên bao nhiêu những gương tốt trăm chiều trong khuê phòng, vẫn như kẻ bịt tai để ăn cắp chuông, không biết gì cả. Thật đáng cười thay bọn đàn ông, đều là theo nhau tin vào những điều dối trá, hòng đem một ít tiền bạc làm một cái miếu nhỏ, để rồi ra dáng ta đây lễ nghĩa, như thế phỏng có ra thể thống gì. Nay ta hãy không cho làm cái chuyện ngớ ngẩn này, mà giục ban ngay một đạo chiếu, phàm nữ nhân từ tám mươi tuổi trở lên, đều được nhận tước phong quận quân (l) được đến dự tiệc ở triều đường: Ai dám nói chiếu chỉ này không tốt hơn các điều trước?

1 Quận quân: chế độ phong tước cho phụ nữ mà không thuộc hoàng tộc của nhà Đường, mẹ hoặc vợ của các quan từ tứ phẩm trở lên. Còn ngũ phẩm thì được phong là huyện quân, thời Đường Cao Tôn và Trung Tôn đểu được nhận tước này. Đến đời Tống thì bị bỏ, thay bằng Thục nhân, Thạc nhân, đến Minh Thanh thì chỉ phụ nữ hoàng tộc mới được. (Từ Hải).

Liền viết ngay một đạo chỉ ý lệnh cho bộ Lễ tuyên dụ khắp thiên hạ, từ các nhà công hầu, phò mã, cho đến phụ nữ các nhà quan ở thôn xóm, nghe được lệnh chỉ, khai rõ quê quán tên tuổi, đưa trình triều đình.

Thiên Hậu xem qua một lượt, thấy hàng trăm người, bèn chọn lấy những người cao tuổi nhất kinh sư, độ khoảng ba bốn chục người, cho vào dự yến ở trong triều vào ngày mười sáu tới.

Đến ngày ấy, yến tiệc được bày sẵn ở điện Bảo Hoa, Thiên Hậu với mẫu thân Vinh Quốc phu nhân cùng dự, các nhà công thần, đại phu có người được dự, nghiêm chỉnh kéo vào nội cung.

Chỉ riêng Ninh Thị, thân mẫu của Tần Thúc Bảo lúc này tuổi đã một trăm linh năm, cùng với mẫu thân Thắng Thị của Trương Giản Chi, tuổi đã ngoài chín mươi, đều mặc triều phục của triều cũ vào cung. Ai nấy bái lạy xong, Thiên Hậu ban cho ngồi uống rượu, rồi phán:

- Bốn phương yên hàn, các khanh đều ở các nhà đại thần, viên quan, lâu nay vẫn được tĩnh dưỡng đầy đủ nên thần thái có vẻ thanh nhàn cả!

Tần Thái phu nhân thưa:

- Thần thiếp nghe nói thờ vua thì chẳng nghĩ đến thân mình. Chúng thần may được bậc thánh minh, đội ơn tri ngộ, tấm thân sáu thước được triều đình ân sủng, từng tấc lòng không lúc nào dám quên ơn hoàng gia.

Thiên Hậu đáp:

- Từ lệnh lang cho tới lệnh tôn, đều thờ tận trung tận lễ, sao cho khỏi công huấn giáo của Thái phu nhân?

Mẫu thân Trương Giản Chi thưa:

- Trông dáng của Tần Thái phu nhân, chẳng khác gì khoảng năm sáu mươi thôi vậy. Đền đài trăm tuổi nhất định là Thái phu nhân được ghi đầu tiên.

Vinh Quốc phu nhân nói:

- Nhưng không biết Tần Thái phu nhân sinh nhật vào ngày nào? Để chúng ta còn đến để nâng chén chúc mừng.

Tần Thái phu nhân thưa:

- Thần thật không dám, ngày sinh là hai mươi ba tháng chín thì đã qua rồi.

Rượu được vài tuần, Trương mẫu cùng Tần mẫu đứng dậy tạ ơn Thiên Hậu.

Sáng ngày hôm sau cha con Tần Thúc Bảo cùng bọn Trương Giản Chỉ đều vào triều lạy tạ. Thiên Hậu gia ơn cho Tần mẫu xây từ đường ngay ở phủ đệ, biển đề "Phúc Thọ song cao", cũng là một việc làm khoái ý buổi này.

Sự việc ra sao, hãy xem hồi sau.

Hồi Thứ Bảy Mươi Hai

Trương Xương Tông xức gội xạ hương, vào chầu Thái Hậu,

Phùng Hoài Nghĩa giương cờ mao tiết, vỗ yên Thạc Trinh

Thơ rằng:

Gió xuân sao khéo giục tương tư

Lá biếc đa tình ý lẳng lơ

Đừng giận con oanh nhòm trướng gấm

Những thương gối quế vướng dây tơ

Tràn trề Bích Ngọc xe duyên cũ

Tha thiết Văn Cơ nối nghĩa xưa (1)

Liếc mắt quay đầu cười nửa miệng

Mặc ai phách ngẩn với hồn ngơ.

1 Văn cơ, tức Thái Diễm, con gái nhà sử học Thái Ung, bị bắt sang Hồ. Sau Tào Tháo cho chuộc về, gả cho người tình cũ, nổi tiếng về tài văn chương.

Tục ngữ nói "No cơm ấm cật dậm dật mọi nơi"(1) là nói những người tầm thường, nhưng khi đã là bậc hoàng hậu, mẫu nghi của thiên hạ, thì lý đương nhiên là phải đoan trang, trầm tĩnh, không thể nào lại dâm đãng, tà khuất. Từ xưa đến nay, được mấy người như thế? Hoàng hậu nhà Tần, Trang Tương Vương, càng về già lửa dâm càng bốc mạnh, với Lã Bất Vi vào cung Cam Tuyền vui thú. Bất Vi lại tìm được Giao Ái, rồi bày kế cùng hoàng hậu và lũ tay chân vờ bắt Ái tội thiến, cho làm hoạn quan để vui thú cùng hoàng hậu. Về sau việc phát giác, Giao Ái bị giết. Lã Bất Vi bị xé thây bằng xe (2). Đến Lữ Hoàng hậu đời nhà Hán, tư thông với Thẩm Tự Cơ ngay trong cung, rồi Hạ Hầu Thị đời Tấn, dan díu với ngay cả tên tiểu lại Ngưu Kiện mà sinh ra Nguyên Đế, làm dơ bẩn cả cung khuyết, để tiếng xấu muôn đời trong sử sách.

1 Nguyên văn: "Bảo noãn tư dâm dục".

2 Về chi tiết có khác với "Sử Ký": Giao Ái sợ vạ, làm phản bị chém chết tru di ba họ. Còn Lã Bất Vi cũng sợ bị tội nên uống thuốc độc mà chết.

***

Nay nói tiếp chuyện Thiên Hậu ở trong cung dâm loạn, thấy Đường Cao Tôn bị bệnh đã nhập cao hoàng, hả hê vô cùng. Một hôm Cao Tôn đau đầu, không thể cử động được, gọi thái y Tần Minh Hạc vào xem bệnh, Minh Hạc xin chích huyết thì may ra mới khỏi được.

Thiên Hậu vốn không muốn Cao Tôn lành bệnh, liền nổi giận:

- Thật đáng chém đầu, sao dám nghĩ chuyện chích đầu thiên tử lấy huyết.

Cao Tôn phán:

- Chích huyết chưa hẳn đã không tốt.

Bèn chích hai huyệt, lấy ra một ít máu.

Cao Tôn lên tiếng:

- Mắt trẫm lại sáng ra rồi!

Thiên Hậu tự vả vào má mình mà rằng:

- Thật là trời ban ơn!

Rồi tự vác một trăm tấm đoạn, thưởng cho Minh Hạc. Minh Hạc tạ ơn, khuyên Cao Tôn nên tĩnh dưỡng. Thiên Hậu làm ra vẻ hết lòng thương yêu, lúc nào cũng ở ngay sát Cao Tôn không rời. Bệnh Cao Tôn đã đến như thế, lại chẳng nghe theo lời dặn của thầy thuốc, vẫn hoan lạc ngày đêm với Thiên Hậu, cơn hỏa bốc lên, chẳng bao lâu thì mất, ở ngôi được ba mươi tư năm.

Thiên Hậu vội triệu bọn đại thần Bùi Diễm vào triều, lập Thái tử Anh Vương Hiển làm hoàng đế, cải tên là Triết, lấy hiệu là Trung Tôn, lập Vi Thị làm hoàng hậu, đặt năm tới là Tự Thánh nguyên niên, tôn Thiên Hậu làm hoàng thái hậu, phong cho thân phụ của Vi Hoàng hậu là Vi Nguyên Trinh làm thứ sử Dự Châu, chính sự trong triều ngoài nội đều quyết định bởi thái hậu.

Một hôm, Vi Hoàng hậu vô sự, đang ở trong cung đánh đàn, thấy một cung nữ vốn là hầu gái thân cận của thái hậu, họ Thượng Quan, tên Uyển Nhi, tuổi mới khoảng mười ba, mặt hoa da phấn, tính nết nhu mì. Mẹ nằm mộng thấy có người cho một cái cân lớn mà sinh ra Uyển Nhi, ý nói người con gái này chẳng kém gì thiên hạ. Về sau lại thông hiểu chữ nghĩa, hễ đọc qua là nhớ, đang đi loanh quanh trong cung. Vi Hoàng hậu thấy bèn hỏi:

- Thái hậu đâu mà khanh lại tới đây?

Uyển Nhi thưa:

- Đang yến ẩm trong cung, tiện nữ không được vào, nên đi dạo một vòng chơi.

Vi Hoàng hậu hỏi:

- Có phải là cùng với hai vị họ Phùng, họ Vũ chăng?

Uyển Nhi gật đầu không nói. Vi Hoàng hậu tiếp:

- Khanh chừng ấy tuổi, có vào cũng hề gì?

Uyển Nhi thưa:

- Thái hậu nói tiện nữ có hai con mắt rất độc, không bao giờ muốn cho tiện nữ nhìn thấy.

Vi Hậu nói:

- Tam Tư thì còn được, chứ con lừa trọc thì không tài nào chịu nổi.

Bỗng thấy Trung Tôn có vẻ trầm ngâm bước vào, Uyển Nhi vội ra khỏi, Vi Hoàng hậu hỏi:

- Triều đình có việc gì chăng mà bệ hạ có vẻ không vui?

Trung Tôn đáp:

- Vừa rồi trên ngự điện, có nói tới việc khuyết một chân thị trung, trẫm muốn giành cho thân phụ hoàng hậu, Bùi Diễm vẫn cố tranh, nên lại không xong. Trẫm bực mình nói thẳng vào mặt: "Trẫm muốn đem cả thiên hạ cho Vi Nguyên Trinh cũng còn được, huống chi chức thị lang sao?". Trăm quan đều yên lặng không nói gì.

Vi Hoàng hậu thưa:

- Việc này cũng chẳng gấp gì lắm, mà phải cần giận dữ với họ. Chỉ có điều bây giờ thái hậu dâm loạn như vậy, thì làm thế nào. Nghe nói họ Phùng họ Vũ đang ăn uống, cười nói trong cung kia.

Trung Tôn đáp:

- Mẫu hoàng như thế, trẫm biết làm thế nào?

Vi Hoàng hậu nói:

- Bệ hạ cũng nên kiếm lời nhẹ nhàng, chừng mực để khuyên can ít nhiều, liệu có xong chăng?

Trung Tôn đáp:

- Cũng không khó, để ngày mai trẫm thử nói xem sao!

Ngày hôm sau, sau khi tan chầu, đã có nội giám đem chuyện Trung Tôn muốn cho Vi Nguyên Trinh làm thị trung thưa với thái hậu, thái hậu liền bảo:

- Việc này không tốt đẹp gì đâu!

Trung Tôn vào gặp thái hậu, lệnh cho đám cung nữ lui ra, rồi từ tốn thưa:

- Chuyện tư tình của mẫu hoàng, chẳng qua cũng chỉ có thể mua vui trong một lúc, nhưng rồi chỉ sợ sử sách nghìn năm không thể vì mẫu hoàng mà bịt kín cho được, xin mẫu hoàng nghĩ lại cho.

Thái hậu đang lúc giận dữ, nghe nói thế, vừa tức vừa xấu hổ, liễn đáp:

- Nhà vua hãy cứ lo liệu cho tốt công việc của mình, đừng nên phỉ báng mẫu hậu làm gì. Liệu việc định đem cả thiên hạ để giao cho quốc trượng Vi Nguyên Trinh cũng còn chưa đủ sao?

Liền gọi ngay Bùi Diễm vào, phế Trung Tôn làm Lư Lăng Vương, đổi ra Phòng Châu, phong Dự Vương Lý Đán làm hoàng đế, hiệu là Duệ Tôn, cho ở một cung khác, còn quyền bính, chính sự lớn nhỏ đều trong tay thái hậu, Duệ Tôn không được nghe gì cả. Lại đã chuyển Trung Tôn ra Phòng Châu, nên càng chẳng có điều gì kiêng kỵ, tha hồ bừa bãi, có bao nhiêu tôn thất, đại thần tỏ ý oán vọng, hoặc không phục đều giết hết. Mở rộng cửa để nghe đủ mọi lời vu cáo, cứ có điều ra tiếng vào là trừ khử ngay, chẳng kể phẩm trật, quan tước là gì. Sai Sách Nguyên Lễ, Chu Hưng, Lai Tuấn Thần cùng soạn sách "La chức kinh", để dạy những người không nơi nương tựa dệt lụa, dệt vải. Trung Tôn ở Phòng Châu nghe tin, trong lòng lo lắng không yên, ngửa mặt lên trời mà khấn, rồi tung một hòn đá lên không mà rằng:

- Ta không có ý gì khác để đến nỗi bị lầm lỡ, nếu vẫn được trở về ngôi, thì hòn đá này không rơi xuống đất.

Hòn đá vướng chạc cây không rơi xuống thật, Trung Tôn mừng lắm. Vi Hoàng hậu cũng thường xuyên khích lệ, Trung Tôn hứa:

- May nay mà được trở về ngôi thì hoàng hậu muốn gì cũng được, chỉ không để hoàng hậu cai quản mọi sự thôi!

Nhưng đó là chuyện sau này, chưa nói vội.

***

Lại nói chuyện ở Lạc Dương có anh em Trương Dịch Chi, Trương Xương Tông, thân phụ vốn là người thư lễ, lên kinh đi thi, trọ ngay gần dinh Vũ Tam Tư, gặp lúc Tam Tư bất hòa với Hoài Nghĩa, muốn chiếm chỗ của Hoài Nghĩa, liền tiến cử anh em Xương Tông cho thái hậu.

Hoài Nghĩa từ ngày rời khỏi chùa Cảm Nghiệp, Hoài Thanh cũng nghĩ rằng chẳng bao giờ còn gặp lại, nhân có Trần Tiên Khách ở Mục Châu, diện mạo khôi ngô, tinh thông nhiều tà thuật, Hoài Thanh liền để tóc cùng về Mục Châu, gá duyên chồng vợ. Năm ấy Mục Châu hạn nặng, mất mùa. Một cái hồ lớn cạn sạch nước, giữa lòng hồ hiện ra một cầu đá, trên cầu có khắc hai chữ: "Hoài Tiên". Người người trèo lên cầu soi bóng, xấu tốt thế nào trông rất rõ. Vợ chồng Hoài Thanh cũng đến xem, nào ngờ thấy hiện hình hai người như hoàng đế cùng hoàng hậu sánh vai đứng vậy. Hoài Thanh lấy làm lạ lùng, nói với Tiên Khách:

- Hai chữ "Hoài Tiên" trên cầu, vừa hợp với tên tuổi vợ chồng ta, soi bóng nhìn ra thì lại thay thế này. Vũ Mị Nương còn làm được hoàng đế, vợ chồng ta lại không làm được sao?

Liền cùng Tiên Khách dựng một tòa "Sùng Nghĩa đường", không kiêng chay gì cả, chỉ không ăn thịt bò, thịt chó, dân chúng kéo đến cầu lễ ngày một đông, ngày một tin. Đàn ông thì Hoài Thanh nhận làm đồ đệ, đàn bà thì Tiên Khách thu phục. Chưa đầy một hai năm, mà đã có hơn một nghìn người. Hoài Thanh tự đặt hiệu là Thạc Trinh, kén những thiếu niên khỏe mạnh, tuấn tú, dạy cho pháp thuật, đều có thể gọi khiến mưa. Quan huyện nghe tin, sai người tới bắt, bọn đồ đệ sợ hãi báo ngay cho Tiên Khách, Thạc Trinh. Thạc Trinh liền tuyển lấy ba bốn trăm đồ đệ, kéo đến của huyện, giết chết huyện quan, chiếm lấy thành trì, cắm cờ vàng, tự xưng là Văn Giai Hoàng đế, Tiên Khách xưng là Sùng Nghĩa Vương, các vùng xa gần đều phải nạp tiền của, lương thực. Thứ sử Dương Châu là Am Nhuận, vội làm văn thư trình lên triều đình.

Gặp hôm thái hậu vô sự, sai người mời Hoài Nghĩa vào Nhị Nhã hiên yến ẩm. Thấy tấu chương của Dương Châu, thái hậu khẽ cười:

- Thiên hạ lâu nay thường nói chỉ mình ta là dám làm, dám vượt lên trên thói thường, không ngờ người đàn bà này cũng làm nổi danh bậc cân quắc anh hùng, dám tự tiện xưng hoàng đế sao?

Hoài Nghĩa nói:

- Có phải chuyện Văn Giai Hoàng đế Thạc Trinh ở Mục Châu chăng? Hôm trước có hai ni cô, nói với thần rằng Thạc Trinh dũng mãnh vô cùng, chính là Hoài Thanh ở chùa Cảm Nghiệp ngày xưa, chẳng biết có đáng tin không?

Lại thêm cả biểu của thứ sử Tượng Châu Tiết Nhân Quý, xin phát binh để tiễu trừ Thạc Trinh, kèm theo là lễ vật của phu nhân Tiểu Hỷ. Biểu tâu rõ Thạc Trinh chính là Hoài Thanh, gặp được dị nhân, truyền cho thiên thư phù chú, cường nghịch khôn đương. Nay nên đánh hay chiêu an, xin chờ lượng thánh. Thái hậu cười:

- Ta đáng khen dũng khí của người đàn bà này, không ngờ lại chính là Hoài Thanh.

Hoài Nghĩa cũng cười:

- Thật đáng đời, đàn ông toàn một lũ vô dụng, nên để đến hạng phụ nữ nhu mì, yếu đuối đến thế lại làm nên được những chuyện lớn lao.

Thái hậu cười:

- Chuyện này chẳng qua là trò trẻ con. Thuấn là ai? Ta là ai? Nếu ta có làm cũng chẳng kém gì Thuấn. Chẳng nhẽ đàn bà chỉ là thứ để đàn ông giẫm đạp như đồ vứt đi hay sao. Ta ngày trước, khi cắt đặt quan lại, đã có ý dùng phụ nữ, đàn ông chỉ dùng đủ vào các việc sai khiến, còn tất cả triều đình đều là phụ nữ, há dễ không thể nên công việc hay sao? Nay ta phiền Hoài Nghĩa hãy đi chiêu an Hoài Thanh, chẳng có gì mà ngại, Hoài Thanh lại không nghe theo cả.

Hoài Nghĩa đáp:

- Thần hiện không có quan chức gì cả, làm sao mà có thể đi làm việc này được?

Thái hậu đáp:

- Ta sẽ phong khanh chức Đại tướng quân, khanh có đi không?

Truyền chỉ phong Hoài Nghĩa làm Tả vệ đại tướng quân, đi ngay Mục Châu, chiêu dụ Trần Thạc Trinh. Văn thư làm xong, thái hậu đinh ninh dặn dò. Hoài Nghĩa từ giã kinh thành dẫn theo ba nghìn ngự lâm quân, lại lệnh cho thứ sử Tượng Châu Tiết Nhân Quý, hội binh tiếp ứng.

Gần đây vợ chồng Thạc Trinh lại không mấy hòa thuận, Tiên Khách ngờ Thạc Trinh để riêng đám đồ đệ tinh nhuệ, không cho Tiên Khách cai quản, Thạc Trinh ngờ Tiên Khách giấu đám đồ đệ mỹ miều, mặc sức dâm dật. Người này ghen người kia nhiều tay chân hơn, vì vậy mỗi kẻ mỗi nơi, ai lo phận nấy. Nhân Quý mới tới Hoàn Thượng, đã có thám mã thưa lại đầy đủ:

- Sùng Nghĩa Vương Tần Tiên Khách, đem theo hai nghìn người ngựa, cách đây khoảng ba mươi dặm, định kéo tới Từ Châu để kiếm lương thực, xin thưa rõ để thứ sử định đoạt.

Nhân Quý hạ trại, cho ba trăm quân tinh nhuệ giả làm trăm họ chạy loạn, ngày đêm rải khắp nơi, lại sai hơn một trăm tên lính nhanh nhẹn khác, giả làm người bán rượu, hai trăm lính nữa giả buôn bán hương hoa mai phục ở các trọng điểm. Nhân Quý lãnh đại quân, ngày đêm đuổi theo Tiên Khách, cách khoảng hai mươi dặm lại đóng quân chờ cho tới nửa đêm. Nghe một tiếng pháo lớn, Nhân Quý ruổi ngựa lên trước, thấy phía sau đèn đuốc sáng rực, pháo nổ liên tiếp. Nhân Quý giơ thương, xông thẳng vào trại. Đáng thương thay cho lũ giặc cỏ, chưa bao giờ được đối địch với một đội quân tinh nhuệ, nên chỉ còn cách cởi giáp trụ mà chạy trốn. Tiên Khách đang nằm ngủ trên giường ấm, trong mộng nghe tiếng hò hét, đang định bỏ chạy, mũi thương của Nhân Quý đã kề ngay. Phía sau bốn năm tên lính chạy ập tới, chạy đâu cho thoát, bị Nhân Quý đâm ngay một mũi, cắt lấy thủ cấp, còn khoảng bảy tám trăm tay chân, thấy chủ tướng đã bị giết, chỉ đành vứt vũ khí đầu hàng.

***

Lại nói Hoài Nghĩa cùng với ba nghìn ngự lâm quân lên đường, trước tiên sai bốn năm tên lính tháo vát, giả trang làm nhà sư, đi nghe ngóng xem có đúng Thạc Trinh chính là Hoài Thanh thuở xưa chăng? Còn mình thì từ từ dẫn quân theo sau. Mấy ngày sau lính quay về, dẫn theo một người đàn ông đứng tuổi. Hoài Nghĩa hỏi:

- Sự thể thực hư ra sao?

Một tên lính thưa:

- Đây là tên lính hầu hạ Văn Giai Hoàng đế, bị chúng tiểu nhân lừa về đây, xin tướng quân cứ hỏi y thì rõ.

Hoài Nghĩa lên tiếng hỏi;

- Người là người ở đâu? Họ tên gì?

Người này thưa:

- Tướng quân không nhận ra tiểu nhân sao? Tiểu nhân họ Mao, tên Nhị, người Trường An, dạo trước ở ngay bên chùa Cảm Nghiệp, làm thợ da để sống. Tiểu nhân chỉ có một thân, vẫn thường được sư phụ Hoài Thanh chu cấp ít nhiều, để lo chuyện ăn uống, trà nước. Không ngờ sau này Tần Tiên Khách ở Mục Châu tới tu ở chùa rồi lại hoàn tục, trở về Mục Châu, nên vợ nên chồng. Tiểu nhân vì vậy cũng đi theo luôn.

Hoài Nghĩa lại hỏi:

- Họ làm sao mà lại lôi kéo được nhiều người theo thế?

Mao Nhị thưa:

- Tần Tiên Khách vốn có một ít thư phù tà thuật, nay lại gặp sư phụ Hoài Thanh thông minh, học rất mau những ngón này một cách thành thạo, cho nên thiện nam tín nữ khắp nơi cứ thế mà tìm theo.

Hoài Nghĩa hỏi thêm:

- Ngươi có biết sức lực Tiên Khách mạnh yếu ra sao không?

Mao Nhị khóc mà thưa:

- Tướng quân, Tiên Khách chết rồi, còn hỏi gì đến chuyện mạnh yếu nữa!

Hoài Nghĩa cả mừng:

- Chết lâu chưa?

Mao Nhị thưa :

- Mấy hôm trước Tiết Nhân Quý kéo binh mã tới, gặp ngay trên đường, đang đêm dẫn quân vào trại. Tiên Khách ngủ say, chẳng kịp mặc áo giáp, bị Nhân Quý giết ngay.

Hoài Nghĩa hỏi:

- Ngươi không nói láo chứ?

Mao Thị thưa:

- Tiểu nhân mà nói sai, xin tướng quân cứ giết ngay.

Hoài Nghĩa hỏi:

- Nay ngươi đi đâu?

Mao Nhị thưa:

- Tiểu nhân về báo cho sư phụ Hoài Thanh tin Sùng Nghĩa Vương bị giết.

Hoài Nghĩa nói:

- Thế ngươi không biết ta với Văn Giai Hoàng đế rất thân thiết sao?

Mao Nhị đáp:

- Tiểu nhân sao lại không biết chuyện này!

Hoài Nghĩa nói:

- Triều đình biết chuyện Hoài Thanh làm phản, nên sai đi chiêu an. Nay người về báo tin Tiên Khách đã chết, hãy đi cùng với người của ta, để nói cho Hoài Thanh rõ mọi chuyện.

Nói xong, Hoài Nghĩa liền viết thư, sắp sẵn một số lễ vật, giao cho bốn năm tên tay chân, dặn dò một hồi. Bọn này liền đi cùng Mao Nhị lên đường.

Đi mấy ngày, đã tới Bái Huyện, Hoài Thanh cho dựng rất nhiều trại, ngay ở ngoài thành. Lính canh cửa thấy liền hỏi:

- Mao lão bá quay về đây có việc gì? Các bác ở bên ấy ra sao rồi?

Mao Nhị xua tay đáp:

- Chốc nữa sẽ biết. Hoàng đế đâu rồi?

Tên lính đáp:

- Hoàng đế đang trong quân doanh.

Mao Nhị vội vào trung quân, đến trước trướng Mao Nhị quỳ xuống đất, khóc lớn. Thạc Trinh sửng sốt hỏi:

- Bên chỗ Sùng Nghĩa Vương có chuyện không hay phải không, hãy nói xem nào, sao người cứ khóc mãi thế?

Mao Nhị đem chuyện Tiên Khách hành quân ra sao, Tiết Nhân Quý đánh vào trại thế nào, Tiên Khách bị giết ra sao, kể lại một lượt Thạc Trinh còn nức nở không nguôi, Mao Nhị đã tiếp ngay:

- Xin chúa thượng hãy khoan khóc lóc, hãy còn một việc nữa. Đấy là việc của tướng quân Phùng Hoài Nghĩa.

Liền lấy thư ra, Thạc Trinh cầm xem, thấy đề "Trụ trì Bạch Mã tự" liền hỏi:

- Tại sao người lại gặp Hoài Nghĩa?

Mao Nhị kể lại. Thạc Trinh mở thư ra, thấy viết:

Kính gửi Hoài Thanh hiền tỷ (1) trước lầu trang điểm

Nhớ xưa tình nồng nghĩa đượm, sớm tối vui vầy

Không ngờ cờ Thúy Hoa (2) Vụt đến, bỗng chốc chia tay

Trong lúc ruột đứt hồn bay, nào dám tưởng còn có ngày nay nữa đâu

Từ khi hiền tỉ đi xa, thăm tìm lâu nay, mới biết từ một ni cô bỗng trở thành một vũ vương, vũ sư mà nên địch quốc. Dù rằng nước cành dương vẫy khắp nghìn cành, vẫn không sao bằng góc giường cỏ thơm cùng chung tắm nước cánh sen vậy. Hội ngộ sắp đến, gửi trước thư này. Rất mong rủ lòng đoái tới.

Thư không nói hết.

Nhục ái đệ (3) phùng Hoài Nghĩa rập đầu bái.

1 Hiền tỷ: chị, chỉ Hoài Thanh.

2 Cờ Thúy Hoa: cờ của vua khi ra khỏi cung, nhắc chuyện Cao Tôn đến Cảm Nghiệp để đưa Vũ Tài nhân về cung, bắt Hoài Nghĩa về chùa Bạch Mã...

3 Nhục ái đệ: vừa là em trai, vừa là người tình.

Mao Nhị thưa tiếp:

- Hiện còn bốn vị sứ giả được Hoài Nghĩa tướng quân phái đến đang đứng chờ bên ngoài.

Thạc Trinh lệnh cho dẫn vào. Mao Nhị ra dẫn cả bốn vào trước, chỉ thấy hai bên thương chĩa như rừng, kiếm giương loang loáng, ngồi trên là một phụ nữ đầu đội mũ ngọc quý, mình khoác chiến bào có thêu hình long ám, vẫn không kém vẻ duyên dáng đoan trang. Cả bốn tên thấy thế, vội quỳ, cúi đầu sát đất thưa:

- Tướng quân của chúng tiểu nhân có lời thăm nương nương.

Thạc Trinh cất tiếng:

- Tướng quân Hoài Nghĩa các ngươi, triều đình đối đãi ra sao?

Một tên thưa:

- Tốt không thể kể hết. Tướng quân còn gửi riêng cho nương nương một vật này, nay xin dâng lại, nhưng xin nương nương hãy tạm cho tả hữu lui ra cho.

Thạc Trinh đáp:

- Đây toàn là tâm phúc của ta cả.

Tên này liền lấy trong ống tay áo ra một vật dâng lên. Thạc Trinh cầm lấy, thì ra chính là chuỗi bạch ngọc như ý mà lúc chia tay mình tặng Hoài Nghĩa, Thạc Trinh nước mắt thánh thót mà rằng:

- Ta nghĩ rằng chị em sẽ chẳng còn bao giờ gặp nhau, ai ngờ còn có ngày nay!

Liền nói với bốn tên sứ giả:

- Thế thì ngày nay đã là một nhà, các người hãy ở lại đây, đợi Phùng tướng quân tới là xong xuôi mọi chuyện ngay.

Qua một đêm, canh năm hôm sau, nghe ba tiếng pháo lớn, thám mã như bay vào thưa:

- Quân giặc đến rồi!

Thạc Trinh đáp:

- Đó chính là Phùng tướng quân, chứ đâu còn giặc nào nữa.

Các trại mặc áo giáp đội mũ, dàn thành trận thế, lại tiếp ba phát pháo lớn, cửa trại mở rộng. Thạc Trinh sai người hỏi:

- Binh mã đâu đến?

Lính của Hoài Nghĩa đáp:

- Chúng ta là lính của Tả vệ đại tướng quân Phùng Hoài Nghĩa.

- Các ngươi là ai?

Bọn này đáp:

- Hiện Văn Giai Hoàng đế đang ở đây?

Nói rồi quay vào thưa với Thạc Trinh. Thạc Trinh lấy bốn năm chục tên lên ngựa, ra đón thánh chỉ. Hoài Nghĩa cho ba nghìn ngự lâm quân xếp hàng, lại thêm bốn năm chục lính đi theo bưng thánh chỉ, hiên ngang tiến ra, gặp bọn Thạc Trinh ở giữa trại, hương án bày biện, Thạc Trinh bái lạy nhận thánh chỉ. Hai bên gặp gỡ, ôm nhau mà khóc lớn; rồi cùng vào trại sau hàn huyên to nhỏ. Giữa lúc tiệc rượu bày ra, các quan lại sở tại cũng đến ra mắt. Hoài Nghĩa sai người từ tạ, rồi nói với Thạc Trinh:

- Hiền tỷ đã chịu mệnh chiêu an, nay binh mã nên như thế nào?

Ta đã quy hàng, thì cứ hãy cùng tướng quân về kinh ra mắt thái hậu, còn binh mã thì hãy cứ đóng tại Mục Châu vậy!

Hoài Nghĩa nói:

- Như thế cũng tốt!

Thạc Trinh liền truyền cho bọn đầu mục, hãy cứ tạm đóng ở Mục Châu chờ thánh ý, còn mình dẫn ba bốn chục thân tín theo, cùng Hoài Nghĩa như keo sơn kéo về Trường An.

Đi khoảng hai ngày, gặp Tiết Nhân Quý, Hoài Nghĩa kể lại chuyện chiêu an. Nhân Quý nói:

- Nếu thế thì mọi chuyện yên ổn rồi. Phùng tướng quân cùng hiền tỷ về ra mắt thánh đế, Nhân Quý này xin dâng biểu về trình, còn thì ở lại để trông coi bản địa vậy.

Nhân Quý liền quay lại Tượng Châu, Hoài Nghĩa cùng Thạc Trinh về Trường An. Hoài Nghĩa vào cung trình với thái hậu. Thái Hậu cho lệnh Thạc Trinh tiến cung. Thấy mặt Thạc Trinh, thái hậu vừa vui vừa buồn, kể lể mọi chuyện từ ngày chia tay, rồi giữ Thạc Trinh lại hai ba ngày trong cung, tặng cho đủ loại vàng ngọc, lụa gấm, lại mua hẳn cho một tòa gác, sắc phong cho Thạc Trinh là Quy Nghĩa vương, làm Tân Khách của thái hậu, Hoài Nghĩa cũng được phong Ngạc Quốc Công.

Không biết sự thể ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi Thứ Bảy Mươi Ba

An Kim Tàng mổ bụng kêu oan

Lạc Tân Vương viết hịch kể tội

Từ rằng:

1. Thỏ chạy chim bay

Đó lại đây

Tưng bừng nước mắt

Kể tội đầy

Đặt giàm bủa lưới

Khảo tra tàn khốc

Giữa đất lòng son gan một lá

Bên trời lệ máu sầu muôn hộc.

2. Dốc hết ruột gan thảo hịch

Thấu thiên đình

Oán cừu trả sạch

Ngẫm cơn giận rượu say bầu dốc

Cảnh điện đài ngọn đuốc giơ cao

Nhìn ra gió gác trang lầu

Tột tình kể hết trước sau rạch ròi

Rồi ra ly biệt đôi hồi

Gió đông đổi lấy lòng người Thượng Lâm,

Đủ rồi hai chữ song tâm...

Theo điệu "Mãn gian hồng"

Từ xưa đến nay, kẻ sĩ chết vì nghĩa, kẻ hiếu sắc chết vì tình, bọn bỏ mạng vì tình thì vô số, còn chết vì nghĩa thì trong một trăm, không được một hai người. Trước tiên phải kể đến Hoàng Diễn người thời Xuân Thu, tự mỗ bụng mình để nhét lá gan của Vệ ý Công vào; thêm bề tôi của nước Tề là Vương Xúc, nghe tin Tề Mẫn Công chết, treo cổ lên cây mà tự tử. Những người chí hướng khác thường như thế trong thiên hạ, không nhiều.

***

Nay nói chuyện thái hậu ở trong cung truy hoan hưởng lạc, chẳng mấy chốc mà tiết thu đã tàn, trời đông sắp đến. Thái Bình công chúa, con gái yêu của thái hậu, vốn cũng khuynh quốc khuynh thành phong tư yểu điệu, tính tình nhẹ nhàng, được thái hậu yêu chiều hết mực, lúc đầu lấy Tiết Thiệu, chưa được hai ba năm thì Thiệu chết trở về cung, không chịu yên phận, chạy đông tìm tây. Thái hậu sợ xảy ra chuyện không hay, lại đem Thái Bình gả cho đại phu Vũ Du Kỵ.

Hôm ấy Vũ Tam Tư dạo chơi trong ngự uyển, thái hậu nói:

- Mấy ngày hôm nay tiết trời thật ấm áp!.

Tam Tư thưa:

- Thời khí tuy tốt nhưng cây cỏ úa vàng rơi rụng làm người ta có cảm giác lụi tàn, già cỗi, sao cho bằng cảnh mùa xuân rực rỡ, danh hoa đua sắc, muôn hồng nghìn tía cho được.

Thái hậu phán:

- Thế thì có khó gì, hôm trước ở vườn Thượng Lâm, tâu rằng hoa lê nở rất nhiều. Hoa lê đã nở được, hà cớ các hoa khác không nở, huống chi đầu xuân rồi. Ngày mai Vũ Du Kỵ tất vào tạ ơn, ban yến ngay trong vườn, đáng khiến trăm hoa cùng nở, rạng vẻ tốt tươi.

Tam Tư thưa:

- Lòng người như vậy, chẳng biết ý trời thì ra sao?

Thái hậu cười:

- Ngày mai mà hoa nở, ta sẽ phạt khanh ba chén rượu lớn!

Tam Tư cũng cười:

- Rượu trong chén bạch ngọc, lâu nay bệ hạ vẫn ban thưởng cho thần luôn. Chỉ sợ nay vào lúc cuối thu hết, đông về, làm thế nào mà trăm hoa đua nở cho được!

Thái hậu đưa mắt giận dữ nhìn Tam Tư rồi quay về cung, liền truyền gọi Quy Nghĩa Vương Trần Thạc Trinh vào triều, đem mọi chuyện kể hết, sai Thạc Trinh dùng pháp thuật để các cây trong vườn ngự đều ra hoa ngay khoảnh khắc, tỏ rõ điềm lành. Thạc Trinh thưa:

- Nếu ngày mai đã khai yên, bệ hạ chỉ cần một hai loại hoa, thần có thể mượn tạm ngay của thần hoa. Nhưng đòi vạn hoa đều nở, lại quan hệ đến cả sự chủ trì của Đông quân, xin bệ hạ viết một chiếu chỉ, để thần tuyên đọc cho thần hoa, chuyển tâu lên thiên đình, tự nhiên sẽ vâng lệnh.

Thái hậu liền giở giấy vàng, viết ngay:

Ngày mai chơi vườn ngự

Ra lệnh cho xuân hay,

Nội đêm nay hoa nở

Không đợi gió cùng mây.

Thái hậu viết xong, đưa cho Thạc Trinh, Thạc Trinh lại viết thêm một đạo hịch, từ giã thái hậu, vào trong vườn làm bùa phép, rồi hỏa thiêu cho thần hoa. Thái hậu lại truyền chỉ cho Quang lộc tự chính khanh Tô Lương Tự, sắp sẵn yến tiệc trong vườn ngự vào ngày mai.

***

Lại nói chuyện Tam Tư về nhà, gặp Hoài Nghĩa, Hoài Nghĩa hỏi:

- Đại nhân sao không ngủ trong cung mà lại phải lặn lội trên đường thế này?

Tam Tư đáp:

- Buồn cười thay, thái hậu lại định khiến cả thần hoa xuân đem tới đòi trăm hoa đều phải đủ mặt. Ta nghĩ rằng con người sinh tử có thể quyền thái hậu định đoạt, còn chuyện cây cỏ là thuộc luật lệnh của thượng đế, phải đâu quyền hành gì của thần hoa. Ngày mai đại nhân hãy cùng ta vào ngự uyển, xem ý trời ra sao.

Cả hai cười lớn mà chia tay.

Sáng hôm sau, khí trời mát mẻ. Hoài Nghĩa không thể chờ hơn, vội vào ngay vườn ngự, thì thấy vạn đóa khoe tươi, nghìn cành khoe sắc liền đi ngay vào Sướng Hoa đường. Một viên quan đang quản nơi đây, vốn là Tô Lương Tự tiếp chiếu chỉ, lệnh bày yến tiệc trong vườn, nên phải tới đây rất sớm. Thấy Hoài Nghĩa, Lương Tự liền quát:

- Con lừa trọc này ở đâu dám vào đây?

Hoài Nghĩa thấy Lương Tự chửi thế, nghĩ rằng Lương Tự mắt kém, nhìn không ra, nên cố nén giận trả lời:

- Tô Chính khanh, chẳng lẽ tiểu nhân này vào đây không được sao?

Lương Tự vẫn lớn tiếng:

- Hôm nay Vũ Phò mã vào tạ ơn thái hậu, nên mở tiệc mừng, triều đình sai ta sắp đặt ở đây. Ngươi có học hành đỗ đạt gì mà dám ngồi ở ngôi cao, tự mình làm ra vẻ ta đây. Nếu không cút ngay, ta sẽ lấy ngay hốt ngà này mà đập vào giữa trán xem ngươi có dám làm gì ta nào?

Hoài Nghĩa giương mắt nhìn, định mở miệng cãi, không ngờ Lương Tự cứ cầm hốt đánh vào giữa mặt mấy cái luôn. Hoài Nghĩa chẳng còn cách nào khác, đành phải bỏ chạy vào cung thái hậu, quỳ lạy cả hai gối. Thái Hậu hỏi:

- Sao khanh lại đến nỗi thế?

Hoài Nghĩa thưa:

- Tô Lương Tự vô lễ, trông thấy thần, cứ trán thần mà đập, ngay trong Sướng Hoa đường ở ngự uyển.

Thái hậu liền kéo Hoài Nghĩa dậy mà rằng:

- Chính trẫm sai Lương Tự chủ trì tiệc rượu tại đó. Khanh có công việc gì mà tới. Cửa nam là nơi trăm quan ra vào, từ nay về sau khanh hãy ra vào bằng lối cửa bắc thôi.

Rồi gọi viên quan coi cửa bắc tới:

- Từ nay về sau, bao giờ trưởng lão Hoài Nghĩa ra vào không được ngăn trở.

Lại nói với Hoài Nghĩa:

- Nay khanh đã vào đây, đợi chúng ta tàn tiệc rượu rồi, trẫm với khanh sẽ cùng ra dạo chơi có được chăng?

***

Lại nói chuyện Lương Tự bày biện ở Sướng Hoa đường, nào bình phong vẽ chim công, nào rèm hoa phù dung, khắp núi, khắp hồ, trăm hoa đua sắc, lại thêm tĩnh mịch thật đáng yêu. Giờ lâu ngự sử Địch Nhân Kiệt dẫn trăm quan vào, thấy quang cảnh như vậy, không khỏi lời thán phục:

- Lạ thay! Lòng trời còn thế, lòng người ra sao bây giờ?

Nội sử An Kim Tàng đáp:

- Không biết trong số muôn hoa, có loài nào không chịu nở chăng?

Các quan dạo xem một vòng, duy chỉ cây hoa dâm bụt đến mầm non cũng chẳng thấy, vẫn trong điêu tàn của tiết đông sơ. Bất giác Kim Tàng liền than thở:

- Diệu kỳ thay cho cây dâm bụt, đúng là một mình riêng giữ sự chính trực mà không chịu a dua theo thói thường vậy!

Lúc này phò mã Vũ Du Kỵ sau khi vào cung lạy chào thái hậu, kéo ra Sướng Hoa đường lĩnh yến được ban, thêm nữa là bọn cung nữ theo hầu thái hậu, lệnh cho các đại thần không phải hành lễ, cứ theo thứ tự mà ngồi. Thái Hậu lên tiếng:

- Thảo mộc điêu linh, trông cũng đau lòng. Đêm qua trẫm đặc ban chiếu chỉ, hướng thần hoa thử mượn trước mùa xuân, không ngờ sáng nay vạn hoa đều nở, cũng đủ thấy cảnh thái bình thịnh trị của triều đình. Lúc này uống cho say, ai nấy đều hãy vui vẻ mà về. Hoặc có thơ có phú ghi lại chuyện này chăng?

Lại sai tả hữu xem trong số thảo mộc có loài nào dám coi thường chiếu chỉ mà không chịu nở hoa chăng. Tả hữu thưa:

- Muôn hoa đều nở, duy chỉ hoa dâm bụt là không chịu vâng lệnh.

Thái hậu liền lệnh cho cắt hết cành, đày ra bãi hoang, làm bờ rào, không cho trồng trong vườn nữa.

Bọn Vũ Tam Tư vốn phường xiểm nịnh, tìm hết lời hoa mỹ để ngợi ca, riêng Địch Nhân Kiệt cùng một vài viên quan nữa thì tâu:

- Mùa xuân sinh sôi, mùa thu thì tàn úa, đó là lẽ thường của tạo hóa. Nay trăm hoa bỗng nở đầy, đúng là uy phúc của bệ hạ rộng lớn. Nhưng mùa đông mà lại thể hiện tiết xuân cũng cần phải tỉnh táo mà sửa mình vậy.

Rượu được ba tuần, quần thần cáo lui, thái hậu nhân Hoài Nghĩa chờ trong nội cung, nên cũng quay ngay về. Vũ Tam Tư thấy thái hậu không mời mình về cung, trong lòng nghi hoặc, đi qua Ngoạn Nguyệt đình, rẽ sang Thúy Bích hiên, thấy Thượng Quan Uyển Nhi đang dựa lan can mơ mộng.

Chính là:

Mặt tươi phấn điểm hoa lê

Lưng ong thân liễu tròn xuê nhẹ nhàng

Buồn tênh tựa hẫng lan can

Đong đưa ai biết hồn tan nơi nào

Tam Tư ở chỗ thái hậu, vẫn thường thấy Uyển Nhi đã có để ý tới, nay thấy mỗi mình Uyển Nhi ở đây, lấy làm mừng rỡ, cất tiếng:

- Uyển Nhi, một mình ở đây tư lự điều gì thế? Có phải đang nghĩ đến ta chăng

Uyển Nhi quay đầu lại, thấy Tam Tư, liền cười:

- Thiếp chẳng nghĩ đến ngài đâu, mà đã có bậc trên cao nghĩ đến rồi.

Tam Tư hỏi:

- Là ai thế?

Uyển Nhi đáp:

- Thiếp xin hỏi ngài, hôm nay dự yến ở Sướng Hoa đường kia mà, sao lại lạc bước tới đây?

Tam Tư đáp:

- Ngươi chẳng cần phải theo dõi. Ta đến tìm ngươi ở Thúy Bích hiên này, có chuyện gì muốn nói đây.

Uyển Nhi giục:

- Có chuyện gì thì hãy nói ngay xem nào

Tam Tư cười:

- Ngươi hãy vào góc này đã, ta mới nói.

Uyển Nhi đành phải theo đến. Tam Tư hỏi:

- Ai đang cùng vui đùa với thái hậu ỡ trong cung vậy?

Uyển Nhi đáp:

- Phùng Trưởng lão chứ còn ai nữa!

Tam Tư liền ôm lấy Uyển Nhi mà rằng:

- Cô em ơi, vừa rồi cô em bảo có người nghĩ đến ta, đúng ra ai thế?

Uyển Nhi liền kể chuyện lúc Vi Hoàng hậu còn ở trong cung:

- Thiếp thường vẫn trước mặt Vi Hoàng hậu khen ngợi ngài phong lưu, thân mật ra sao, lại kể ngài ở trong cung, quan hệ với thái hậu thế nào. Hoàng hậu hay thở dài, rồi cất tiếng than: "Thảo nào thái hậu yêu dấu Tam Tư đến thế! Thế không phải là hoàng hậu nghĩ đến ngài còn gì? Đáng tiếc là giờ lại đã theo chúa thượng ra tận Phòng Châu mất rồi. Nếu Hoàng hậu mà được về, thiếp sẽ dẫn ngài đến, lại không hơn trong cung kia sao?

Tam Tư đáp:

- Vi Hoàng hậu nếu đã có lòng yêu thế, ta sẽ hết sức chu toàn trước mặt thái hậu, để Lư Lăng Vương cũng sẽ được triệu về.

Nói xong, liền chia tay.

***

Lại nói Sách Nguyên Lễ, Chu Hưng, Lai Tuấn Thần cũng được dự yến ở hướng Hoa đường, thấy bọn người chính trực Địch Nhân Kiệt, An Kim Tàng dáng vẻ ngang nhiên, không coi bọn chúng vào đâu trong lòng đều giận dữ, khác nào Hoài Nghĩa căm tức Lương Tự vậy. Gặp ngay chuyện Dương Sơ Thành ở Quắc Châu, kéo bè cánh định nghênh giá nhà vua ở Phòng Châu về, thái hậu ra lệnh bắt giam. Hoài Nghĩa cùng vào hùa với bọn Chu Hưng, vu cho Tô Lương Tự, Địch Nhân Kiệt cùng An Kim Tàng liên hệ với bọn Sơ Thành để mưu phản. Lai Tuấn Thần lại vứt một cái quạt vào trong hòm đựng tấu chương của triều đình, trên có viết hai bài từ "Túy hoa Âm" nói là Lương Tự mỉa mai thái hậu, cũng nhằm mưu phản nghịch:

1. Xuân về hoa nở lẽ thường,

Phá mùa đông tuyết phải nhường cho mai.

Nhưng đâu cứ mãi thế này

Một còn không chắc dễ hai được nào

Đem "đan chiếu" (1) truyền vào thượng uyển

Bắt muôn hoa nở rộn một khi

Cỏ cây nào biết nói gì.

Mặt rồng đẹp ý là tùy tay ai?

2. Nở trái tiết, lẽ khác thường

Chẳng qua chỉ muốn tìm đường a dua

Đêm qua "đan chiếu" một tờ

Muôn hoa nở cả, ai ngờ một không!

Ấy dâm bụt dửng dừng dưng

Căm quân xiểm nịnh, ghét phường quyền gian

Muôn hồng nghìn tía thẹn chăng?

1 Dùng chữ "oan" để chế giễu. "Chiếu" theo nghĩa khác: chiếu chăn.

Thái hậu thấy thế, vô cùng giận dữ, nhưng vẫn biết Địch Nhân Kiệt vốn là viên quan trung trực lâu nay liền cầm bút xóa tên đi, còn lại lệnh cho Sách Nguyên Lễ tra hỏi. Nguyên Lễ được dịp tra tấn rất tàn khốc, chẳng rõ vu hại được nhiều ít, nhưng riêng Tô Lương Tự thì nhất quyết bắt phải nhận có mưu phản, Lương Tự gào thét:

- Còn có chín miếu linh thiêng của trời đất ở trên, nếu như Tô Lương Tự này mà có lòng khác, thì xin chịu tội chết cả họ.

Bọn này lại kéo An Kim Tàng lên tra khảo, Kim Tàng nói:

- Làm con thì phải hiếu, làm bề tôi thì phải trung, nay nhà vua đã muốn bề tôi chết, việc gì phải bức bề tôi mưu hại nhà vua, cái việc mà bề tôi không làm. Còn nếu không tin vào lời Kim Tàng này, xin được mổ bụng để rõ Kim Tàng này không hề có mưu toan phản loạn.

Liền cầm lấy đoản kiếm, tự mổ bụng mình, ngũ tạng đều lộ ra cả máu chảy lênh láng cả pháp đường. Đỗ Cảnh Kiểm, Lý Bạch biết rõ Kim Tàng lâu nay lòng dạ ngay thẳng, vội quát tả hữu giằng lấy đoản kiếm, tâu lên thái hậu rõ. Thái hậu liền truyền lệnh bọn Tuấn Thần không được tra hỏi nữa, và gọi ngay Thái y viện vào chăm sóc.

Việc làm của An Kim Tàng xa gần đều nghe, thứ sử Mị Châu là Anh Công Từ Kính Nghiệp, cùng em là Kính Du, đi qua Dương Châu, nghe tin này không giấu được giận dữ:

- Đáng tiếc thay tiên đế anh hùng khắp thiên hạ, biết bao năm xông pha chiến trường, mới có được cuộc thái bình này, để đến nay bị một con đàn bà ngang nhiên tọa hưởng, đem con cái tiên đế giết hại gần hết. Chẳng nhẽ nước non này, cuối cùng lại rơi vào tay họ Vũ? Khắp triều công khanh đều chỉ là tượng gỗ cả hay sao?

Kính Du thêm:

- Sao anh nỡ nói thế, trăm quan bây giờ đều thuộc lũ đàn em, ai cũng chỉ giữ thân mình, lo cho nhà mình. Họ có dâm loạn, nhưng kỷ cương của triều đình vẫn còn đó. Đáng giận là lũ chuột cáo, nay nếu có bậc trung thần nghĩa sĩ nào đứng ra trừ diệt bọn này, thì ai cấm nổi được.

Bỗng thấy Đường Chi Kỳ, Lạc Tân Vương tới, cũng bởi họ Đường, họ Lạc bị biếm trích nên mới về Dương Châu cả. Hai người cất tiếng hỏi:

- Các người nói chuyện bất đắc chí gì thế này?

Kính Nghiệp đáp:

- Nhị vị tới đúng lắm, có việc ở kinh vừa báo về, xin hai vị cứ xem sẽ rõ !

Hai người xem xong, Chi Kỳ không ngớt than thở, còn Tân Vương thì nói với Kính Nghiệp:

- Chuyện này, tiên nghiêm mà còn, thì may có thể vãn hồi! Nay nói cũng biết vậy thôi.

Kính Nghiệp cãi:

- Sao hiền huynh lại nói vậy. Gặp lúc hoạn nạn, hãy giương cao cờ nghĩa, kéo binh về kinh, cũng có thể thay đổi được chứ sao?

Chi Kỳ hỏi:

- Nếu đúng như thế, sao đại huynh lại ngồi yên một chỗ.

Tân Vương thêm:

- Nếu đại huynh muốn giương cao cờ nghĩa, tiểu đệ xin viết tặng một bài hịch vậy!

Kính Nghiệp đáp:

- Hiền huynh mà định giúp thực, tiểu đệ xin đứng ra gánh vác việc này, nay mai làm lễ cáo trời đất, tế Đường Cao Tổ, ra lệnh cho ba quân, giương thẳng cờ nghĩa. Giờ thì hãy thong thả uống rượu, rồi hiền huynh nghĩ dần bài hịch cho.

Tân Vương đáp:

- Việc gì mà phải nghĩ, cứ theo việc mà bàn là đã thành sách kể không hết tội còn gì!

Kính Du nói:

- Chỉ cần nói chuyện chặt tay chân hoàng hậu cùng phi tử, thì lòng dạ ấy thực đàn ông cũng không thể có vậy.

Tiểu đồng bưng rượu ra, tất cả đều dùng chén lớn uống luôn mấy chén. Tân Vương đứng dậy nói:

- Hãy để tiểu nhị viết đã, chư huynh xem qua, phủ chính cho ít nhiều.

Rồi tới bên án, mở rộng giấy viết ngay:

Ngụy triều, Vũ Thị tính đâu có hòa thuận xuất thân hàn tiện.

Xưa thời Thái Tôn được vào hầu trong cung. Kịp khi có tuổi, đã mang tiếng làm nhơ bẩn nội tẩm. Về sau, che giấu việc hầu Thái Tôn, lại được vào hầu tiên đế, sinh ra ghen tuông, nhân có chút nhan sắc, không chịu nhường ai, rồi dèm pha, nịnh hót, làm mê hoặc lòng chúa. Lên ngôi hoàng hậu đưa đường tiên đế vào thói hươu nai. Tính tình sài lang, gian ác, tàn hại trung lương, giết chị, giết anh, giết vua, giết mẹ. Thần người đều ghét, trời đất không dung, sinh lòng phản nghịch. Muốn đổi ngôi vua, giao cho họ mình quyền cao chức trọng.

Kính Nghiệp tướng quân, vốn cựu thần nhà Đường ta, dòng dõi công hầu, đã từng cùng tiên quân dựng nên nghiệp lớn, được hậu ân bản triều, như Vi Tử như Viên Quân Sơn xưa, buồn thốt ra lời than, giọt nước mắt không phải là không có cớ. Thế cho nên nghĩa khí nổi lên như mây bay, như gió cuốn, chí muốn yên xã tắc, thấy thiên hạ thất vọng, vậy thuận lòng mong muốn của dân, phất cờ khởi nghĩa để tảo trừ loài yêu nghiệt.

Các nghi hoặc ở trong đất nước, hoặc trọng hàng tôn thân, hoặc chịu lời ký thác xưa, hoặc được truyền di mệnh, lời ban còn văng vẳng bên tai, lòng trung đâu đã đổi: Đất lăng chưa ráo, vua nhỏ nhờ ai. Nếu được chuyển họa thành phúc, nhớ vua trước, giúp vua sau, cần vương nên việc, thì không phụ mệnh tiên quân, Có lòng tất có thưởng, lấy sông núi chứng minh. Nếu còn cố giữ thành trì cho giặc, do dự không theo đường chính, ngu tối không đoán việc trước, thế tất chậm trễ là bị cực hình.

Cứ xem tình hình trước mắt sẽ biết thiên hạ về ai. (1)

1 Theo bản dịch của Hoàng Khôi, "Cổ văn" tập 11, Trung tâm học liệu Sài Gòn, 1970, có thay một vài chữ.

Kính Nghiệp ngồi ở bên, vừa xem Tân Vương viết, vừa chảy nước mắt khóc, mà vẫn theo dõi Tân Vương viết cho đến tận chữ cuối cùng, chén rượu trong tay rơi vỡ lúc nào không biết, tay đập án mà thở than. Tân Vương viết xong, vứt bút xuống đất chửi thề:

- Kẻ nào đọc bài hịch này mà không động tâm, thì đúng là loài cầm thú vậy!

Mọi người xúm lại đọc một lần nữa, không ai là không rơi nước mắt. Ai có thể ngờ rằng, chỉ với một bài hịch, mà chẳng khác gì một đạo luật trị nước an dân, có thể làm cho người này đau xót, kẻ khác nước mắt ngắn dài, người người than thở, ai nấy thương tâm. Kính Du cất tiếng:

- Lúc này không phải lúc khóc than, mà chính là lúc các ngài nên bàn bạc xem phải hành động như thế nào!

Tất cả ngồi lại, Kính Nghiệp lên tiếng:

- Ngày mai xin tất cả các vị tới sớm, còn có mấy người bạn quen biết, cần phải mời họ cùng bàn luận.

Họ Lạc họ Đường nghe lời ra về.

***

Lại nói chuyện lúc này Địch Nhân Kiệt làm tể tướng, xem xét số tù nhân trong ngục chưa thành án, còn tới hơn tám trăm năm mươi người. Nhân Kiệt mới dâng sớ kể tội Sách Nguyên Lễ dùng nhục hình tàn khốc tâu lên thái hậu. Thái hậu bèn lệnh cho Nghiêm Tư Thiện tra xét. Tư Thiện liền mời Chu Hưng đến cùng uống rượu, rồi nói với Chu Hưng:

- Bọn tù phạm nhất định không chịu nhận tội, thì làm thế nào bây giờ?

Chu Hưng đáp:

- Bắt nhét vào chum, rồi đốt lửa hun thật nóng, thì tội gì mà chẳng phải nhận.

Tư Thiện gọi lấy ra một cái chum lớn, đốt than rừng rực ở bên ngoài, rồi đứng dậy nói với Chu Hưng:

- Có kẻ trong bọn tội phạm khai tội cho ngài, xin mời ngài vào chum cho!

Chu Hưng đành phải cúi đầu nhận tội, bị đày ra Lĩnh Nam, nhưng rồi những nhà bị Hưng bức hại tìm cách giết chết. Còn bọn Sách Nguyên Lễ, Lai Tuấn Thần, đem chém thây bêu ngoài chợ, dân chúng đua nhau giành cướp thịt về ăn, chẳng mấy chốc hết sạch.

Thái Hậu biết rõ thiên hạ oán ghét, bèn xuống chiếu làm tội bọn ác nghiệt này, nhiều kẻ bị tru di ba họ. Vì vậy những chuyện tàn khốc, chỉ một sớm đã hết sạch, tất cả quân cho đến dân đều mừng rỡ mà rằng:

- Từ nay ngủ lưng mới được dính chiếu.

Một hôm, Vũ Tam Tư vào cung, đem tờ hịch của Từ Kính Nghiệp cho thái hậu xem. Xem xong thái hậu rùng mình than dài, rồi hỏi:

- Ai là người viết tờ hịch này?

Tam Tư thưa:

- Lạc Tân Vương?

Thái hậu phán:

- Có tài như thế mà không dùng được, đến nỗi phải lưu lạc, tức là lỗi ở bậc tể tướng trước kia vậy!

Tam Tư nhân đó đem chuyện Kính Nghiệp có hẹn với Bùi Diễm làm nội ứng nhưng trong thư của Bùi Diễm chỉ có mỗi hai chữ "Thanh nga", chẳng ai hiểu gì cả. Thái hậu phán:

- Có gì là khó hiểu. "Thanh" nghĩa là tháng mười hai. "Nga" nghĩa là cùng với ta. (1) Chính là dặn tháng mười hai này sẽ về kinh, ta sẽ cùng hưởng ứng vậy. Nay Bùi Diễm đang đi công cán ở bên ngoài, nên chưa truy bắt vội, chỉ cần sai đại tướng Lý Hiếu Dật đi tiễu trừ Từ Kính Nghiệp là đủ. Nhưng ta nghĩ rằng Lư Lăng Vương ở Phòng Châu, vốn là con trưởng của ta, nếu vương có lòng khác, thì thật là rầy rà. Nên phải tìm một kẻ tâm phúc, đi dò xem thực hư ra sao, mà chưa tìm được ai cả.

1 "Thanh" là màu xanh, gồm chữ "nguyệt", chữ "thập", chữ "nhị" thành "thập nhị nguyệt": tháng mười hai. Chữ "Nga" gồm chữ "Ngã" là tôi, là ta, và chữ "Điều," gần giống chữ "Dữ" là cùng, với.

Tam Tư nhớ lại những lời của Uyển Nhi, nói Vi Hoàng hậu ái mộ mình ra sao, bèn thưa:

- Thần họ không phải tâm phúc của bệ hạ sao? Xin hãy cho thần được đi lần này!

Thái hậu phán:

- Khanh không đi được!

Tam Tư thưa:

- Việc này là việc quốc gia đại sự, nếu người khác đi, thật giả biết thế nào mà tin!

Thái hậu vẫn do dự, thì cung nga vào quỳ thưa:

- Phùng trưởng lão đã vào!

Thái hậu hỏi Uyển Nhi:

- Ngươi hãy đưa Vũ đại nhân ra.

Uyển Nhi nói với Tam Tư:

- Thiếp cùng ngài hãy theo phía trái mà ra thì hơn.

Tam Tư hỏi:

- Sao không đi đường đông này?

Uyển Nhi đáp:

- Phía tây sạch sẽ hơn nhiều!

Tam Tư hiểu ý, bá vai Uyển Nhi, đùa rỡn một hồi, đem chuyện thái hậu sai đi Phòng Châu kể lại, để thăm dò Uyển Nhi xem sao.

Uyển Nhi nói:

- Việc này là bởi vì thiếp, thiếp có một ít lễ vật đưa trình Vi hoàng hậu, xin có thêm một lá thư, nhắc nhở hoàng hậu, mai này có gì cũng xin đừng quên thiếp vậy nhé?

Tam Tư đáp:

- Nhất quyết là thế rồi!

Liền chia tay.

Ngày hôm sau, thái hậu xuống chỉ, sai Tam Tư lập tức đi công cán Phòng Châu. Tam Tư liền vào cung từ biệt, Thái Hậu dặn dò kỹ lưỡng. Uyển Nhi lén đem lễ vật cùng thư viết giao cho Tam Tư.

Mấy ngày sau, Tam Tư đã tới Phòng Châu, tìm quán trọ nghỉ ngơi, dặn tay chân giả xưng là khách thương tìm đến Phòng Châu mua hàng hóa.

Tam Tư chờ mãi tới đêm khuya vắng vẻ, mới vờ hỏi dò chủ quán:

- Lư Lăng Vương ở đây tiếng tăm ra sao?

Chủ quán thưa:

- Vương phụ rất tốt, thỉnh thoảng cũng có đi qua đường này. Chẳng là ở chùa Cảm Đức đây, có trưởng lão Tuệ Phạm, nên ngày rằm, mùng một, vương phụ vẫn ra chùa nghe trưởng lão giảng kinh. Thật đáng tiếc, một vị hoàng đế tốt đến thế, không biết vì lẽ gì, mà mẫu hoàng không vừa lòng, đày tận ra đây.

Tam Tư thầm nghĩ: "Lư Lăng Vương làm những việc này rõ là không có lòng nào khác. May vừa hôm nay là mười bốn, mai là ngày rằm, đợi vương ra chùa, ta vào xem sao".

Sáng ngày hôm sau, Tam Tư cùng với ba bốn tên tiểu lại, lên kiệu vào phủ. Lính canh biết Tam Tư, không hiểu sự thể ra sao, liền vội vào trình Vi Hoàng hậu. Vi Hoàng hậu liền gọi thái giám vào hỏi:

- Có những ai đi theo Vũ Đại nhân nữa?

Thái giám thưa rõ. Vi Hoàng hậu nói:

- Nếu như thế, Vũ Đại nhân vốn là chỗ họ hàng thân thích, chẳng câu nệ, hãy mời vào trong cung gặp gỡ vậy.

Thái giám ra rước vào. Tam Tư thấy Vi Hoàng hậu ra đón, đưa mắt nhìn, thì:

Thân hình yểu điệu

Phong thái thanh cao

Mũi tựa ngọn quỳnh ngọc giao chung đức

Mắt gồm sóng nước sóng tình hợp thành

Tóc xanh tha thướt

Khác nào rồng lượn giửa mây xanh

Da trắng mịn màng

Khó phân Tây Thi bên ngòi biếc.

Tam Tư vội vàng quỳ lạy, Vi Hoàng hậu hoàn lễ, rồi mời ngồi, hỏi:

- Thái hậu có khỏe không?

Tam Tư cười thưa:

- Dạo này cũng thư thái ít nhiều!

Vi Hoàng hậu rớt nước mắt:

- Lăng Vương ta vô ý nói một câu xúc phạm đến thái hậu, đến nỗi bị đuổi, giờ thì chẳng biết đến khi nào vợ chồng ta mới lại được trở về quỳ dưới gối?

Tam Tư hỏi:

- Vương phụ hiện không có trong cung sao?

Vi Hoàng hậu đáp:

- Sáng sớm ra chùa Cảm Đức, đã sai người mời về. Cũng bởi không biết Vũ Đại nhân đến vậy?

Tam Tư tiếp:

- Thượng Quan Uyển Nhi nhớ mong nương nương, nên có nhờ đưa thư trình.

Rồi lấy thư trong hia, tả hữu bưng lễ vật, trình lên. Vi Hoàng hậu bóc thư Uyển Nhi ra xem, vừa xem vừa khẽ cười. Hầu gái vào thưa:

- Vương phụ đã về !

Vi Hoàng hậu ra đón Trung Tôn vào, cùng Tam Tư chào lễ, an tọa, Trung Tôn vấn an thái hậu, rồi hàn huyên chuyện triều đình, chuyện hoàng tộc. Trung Tôn nói:

- Vũ hiền huynh (1) hiện đang ở đâu?

1 Vũ Tam Tư là cháu của thái hậu, nên Trung Tôn xưng hô thế!

Tam Tư đáp:

- Hiện đang ở quán cơm ngay trước phủ, định sáng ngày mai sẽ lên đường.

Trung Tôn nói:

- Sao lại thế được. Hiền huynh không xem ta là em sao, mà vội vàng thế, ta còn nhiều chuyện muốn hỏi.

Liền sai tả hữu:

- Hành lý của Vũ Đại nhân hiện đang ngoài quán hàng, hãy sai người lấy đem vào đây!

Rồi đưa Tam Tư vào điện tiệc rượu. Tam Tư đem chuyện Kim An Tàng mổ bụng moi ruột, cùng chuyện Từ Kính Nghiệp thảo hịch, thái hậu sai Lý Hiếu Dật đi tiễu trừ, vừa sai mình đi Dương Châu, lệnh cho Lâu Sư Đức cùng phát binh thảo phạt, kể lại một lượt. Trung Tôn giận dữ nói:

- Từ Mậu Công vốn là công thần, mẫu hậu đối đãi thế nào, mà đến nỗi con cháu phải ngang ngược đến vậy. Nay thì dẫu có bắt được Kính Nghiệp, băm xác làm trăm mảnh cũng không đủ chuộc tội vậy!

Liền lệnh cho dọn dẹp thư phòng ở phía sau. Trung Tôn lui vào thay áo. Tam Tư đã thấy bày tiệc rượu sẵn, lại thêm người hầu gái đứng hầu Vi Hoàng hậu vừa rồi giả dạng mời trà, lại gần thưa khẽ với Tam Tư.

- Xin Vũ Đại nhân đừng uống quá say rượu ngon, nương nương còn có chuyện muốn nói với đại nhân.

Trung Tôn đã ra ngồi vào bàn tiệc, mọi người cố tình mời Trung Tôn uống rõ say rồi dìu vào phòng trong.

Tam Tư thấy ở gian bên là giường đệm, sắp sẵn hoa lệ, liền lệnh cho mấy tay chân đi nghỉ trước, còn mình thì dựa án xem sách.

Chẳng mấy lúc Vi Hoàng hậu đã ra, Tam Tư vội đứng dậy đón:

- Hạ quan thật là may mắn, đội ơn nương nương thương đến!

Vi Hoàng hậu khẽ đáp:

- Đừng lên tiếng!

Rồi rút ra ở trên mái tóc ra một cái trâm có gắn ngọc minh châu, tháo ở tay ra một xuyến bích ngọc liên hoàn đặt trên bàn, lên tiếng thì thầm:

- Cũng bởi Vũ hiền huynh không thờ ơ với ta vậy!

Tam Tư đáp:

- Tam Tư này trở về, thưa ngay với thái hậu rõ vương phụ hiếu thuận ra sao, để làm thế nào vương phụ được gọi về triều ngay.

Vi Hoàng hậu đáp:

- Như thế thì còn gì bằng. Ta có một cành trâm này, gọi là tặng đại nhân để nhắc đại nhân đừng phụ ta. Còn Uyển Nhi thì ta không tiện viết thư, đại nhân hãy vì ta mà chuyển lời cảm ơn, có xuyến ngọc đây xin nhờ đại nhân đưa giùm.

Nói rồi đứng dậy từ biệt Tam Tư mà vào.

Tam Tư ở lại phủ, nhưng sợ dằng dai, thái hậu nghi ngờ, liền từ biệt Trung Tôn lên đường về kinh.

Muốn biết sự thể ra sao, xin xem hồi sau phân giải.

Hồi Thứ Bảy Mươi Bốn

Đổi tên nước, phụ nữ làm vua,

Dự tiệc quan, tiểu nhân giấu thịt.

Từ rằng:

Vũ Thị ngang nhiên đổi tên nước

Nhà Đường ngán nỗi gần hết phước

Vì đâu mộng mị đúng cùng sai

Lại khiến Lư Lăng sau hòa trước

Lạ đời sư vãi dâm ô

Bắt muôn dân phải giở trò ăn chay

A dua vô lại một bầy,

Tâng công mách lẻo phơi bày thối tha.

Theo điệu "Tây giang nguyệt"

***

Nay hãy nói chuyện có một người tên gọi Phó Duy Nghệ , quê quán đâu chẳng biết, nhân cùng với bạn là Đỗ Tiêu, vốn đi lại với Phùng Hoài Nghĩa rất thân thiết, Hoài Nghĩa tiến cử cả hai lên thái hậu, đều được sủng ái, cất ngay làm thị ngự. Du Nghệ tìm đủ mọi cách trình hót thái hậu nên thay quốc hiệu, xui lập Vũ Thừa Tự làm Thái tử. Thái hậu cả mừng, liền thay quốc hiệu Đường ra Chu, đổi ra niên hiệu Thiên Thụ nguyên niên (1), tự xưng là Thánh thần Hoàng đế lập nên bảy miếu thờ họ Vũ. Chính là:

Hoàng hậu làm hoàng đế

Vua lớn kém vua bé

Trần đời không hai hề

Muôn thuở có một nhé!

1 Tức năm 690, sử sách gọi là thời Vũ Chu, thực kéo dài 20 năm, từ 685 đến 705, thay đổi niên hiệu 18 lần.

Vũ Tam Tư về đến kinh, nghe tin Vũ Thừa Tự mưu làm Thái tử, trong lòng bất bình, liền vào ngay cung phục mệnh. Gặp Uyển Nhi, Tam Tư liền hỏi:

- Thái hậu có khỏe không?

Uyển Nhi đáp:

- Thái hậu mấy hôm nay đau mắt, hiện đang gọi thái y Thẩm Nam Cầu vào chữa. Vương phụ ở Phòng Châu sự thể ra sao.

Tam Tư đáp:

- Vương phụ hàng ngày lễ Phật, công việc Vương phủ chu đáo. Vi Nương nương rất vừa ý, nhưng không kịp viết thư, chỉ gửi cho Uyển Nhi một xuyến ngọc, nhờ ta chuyển lời cám ơn.

Rồi lấy trong ống tay áo ra chiếc xuyến đưa cho Uyển Nhi, Uyển Nhi nói:

- Lúc này thái hậu đang rỗi rãi, đại nhân vào đi. Mấy hôm nay Vũ Thừa Tự đang ở trong ấy để mưu toan làm Thái tử, đại nhân hãy đối xử cho khéo.

Tam Tư theo lời, vào cung, chúc tụng xong, kể chuyện Trung Tôn mong nhớ thái hậu ra sao, cầu niệm đức Phật cho thái hậu thế nào thưa lại tỉ mỉ. Thái hậu yên lặng không đáp một lời.

Một hôm thái hậu nằm mộng không lành, gọi Địch Nhân Kiệt vào đoán. Thái hậu phán:

- Trẫm nằm mộng thấy tiên đế ban cho một con anh vũ, hai cánh rã rời, trẫm mới vuốt ve nhẹ nhàng, thì lại thấy hai cánh chẳng cử động được nữa.

Nhân Kiệt thưa:

- Chữ "Vũ" trong anh vũ, lại đồng âm với họ của bệ hạ, cho nên có đủ con trai đủ con dâu là hai cánh thì sẽ bay được ngay thôi. (1)

1 Cùng đọc là "Vũ", có mấy chữ Vũ có nghĩa sau: Họ Vũ, chim anh Vũ, tông chi, múa, bay, các nghĩa khác không dính đến chuyện này.

Thái hậu phán:

- Khanh nói đúng lắm, nhưng hôm nay Vũ Thừa Tự đang xin làm Thái tử thì nên thế nào?

Nhân Kiệt thưa:

- Văn Hoàng đế xông pha mũi tên hòm đạn, mới định yên thiên hạ, truyền cho con cháu. Tiên đế đem hai con thác cho bệ hạ, nay lại định đổi cho họ khác, thì liệu có xứng ý trời chăng? Vả lại giữa cô cháu với mẹ con đường nào thân thiết hơn? Nếu bệ hạ lập con thì có thể dài nghìn năm vạn tuế sau này, được phối hưởng tế tự, mãi mãi không hết. Còn nếu bệ hạ định lập cháu thì từ xưa tới nay, chưa từng thấy cháu vào làm thiên tử mà thờ cô ở miếu đường cả.

Thái hậu nghe ra, nên lệnh cho gọi Trung Tôn, mẹ con gặp nhau, vui mừng buồn giận cùng đến, chuyện không nói nữa.

Một hôm thái hậu cùng Tam Tư đang to nhỏ ở bên song cửa sổ, gặp ngay anh em Xương Tông vào... Thái hậu cười nói:

- Hiện đang có chín đề thơ người đẹp ở đây, các khanh chia nhau mà làm xem sao.

Xương Tông lại án giở ra xem, thấy là những đề: Người đẹp tắm, người đẹp ngủ, người đẹp say... Chưa xem xong, lại thấy Thái Bình công chúa dắt tay Uyển Nhi bước vào, thì ra Xương Tông Dịch Chi, từ lâu cũng đã dính dáng với cả công chúa, thái hậu cũng đã hơi biết chuyện này. Hôm nay, gặp nhau cả ở đây, công chúa cất tiếng:

- Trong vườn hoa sen nở rộ, sao quốc mẫu không ra xem lại ngồi buồn tẻ cả ở đây là sao?

Thái hậu đáp:

- Nếu thế thì tất cả cùng đi nào?

Lệnh bày tiệc rượu ở trong vườn ngự. Mọi người kéo ra vườn, hạc dạo nhởn nhơ bên bờ hồ, sen nở đầy, màu hồng rực rỡ, biếc chen ánh mắt, hương đưa ngào ngạt. Thái hậu khen:

- Thật là rực rỡ, đúng lúc chưa thật quá nhiều cũng không phải ít chẳng đậm mà chẳng nhạt vậy.

Ai nấy dạo quanh nhìn ngó, rồi ngồi vào tiệc rượu một hồi, thái hậu phán:

- Tiệc rượu này, mới thực là để thưởng hoa. Nhưng lẽ nào có thơ mà lại không có hoa, có hoa mà lại không thơ hay sao?

Uyển Nhi thưa:

- Hoa, rượu, thơ, bốn cái đẹp đều có cả, xin làm thế nào để đừng phụ người, phụ cảnh.

Công chúa hỏi:

- Hoa, rượu, thơ mới chỉ có ba, sao lại nói là bốn dược?

Uyển Nhi thưa:

- Thế thì còn người nữa, không phải là cái đẹp thứ tư sao?

Ai nấy đều cười lớn. Dịch Chi cất tiếng:

- Hoa sen đã dược ngâm vịnh nhiều rồi, chẳng thể bắt chước mà cũng chẳng thể ăn cắp được của người khác.

Thái hậu phán:

- Khanh nói đúng lắm, thế thì có mấy đề thơ ở trong cung, hãy mau đem ra đây.

Xương Tông thưa:

- Hiện đang ở trong túi áo thần đây rồi!

Liền lấy ra đưa lên Thái hậu. Thái hậu cầm lấy cười nói:

- Có mười hai đề mục tất cả, chỉ cần tùy ý mà viết, nhưng không được nói tới chuyện trong cung. Mỗi người bắt thăm chọn lấy hai đề, đủ cho sáu người ở đây.

Liền lệnh cho Uyển Nhi viết mười hai thăm viên tròn lại, bỏ trong hộp. Trước tiên thái hậu bắt hai cái, còn lại các người khác lần lượt bắt. Thái hậu lại bàn cầm bút viết. Công chúa cùng Uyển Nhi, kéo lại bàn bên đông, Tam Tư với Dịch Chi, Xương Tông, ngồi ở bàn gần đó nghĩ ngợi. Thái hậu chẳng mấy chốc đã viết xong, đứng dậy phán:

- May ra thì không đến nỗi bôi nhọ, cùng lắm cũng chỉ nói chưa hết được ý của đề mà thôi!

Cung nga đem dâng mấy bó sen. Tam Tư cầm một bông, ghé sát vào tai Xương Tông mà đùa:

- Mặt Trương dại nhân chẳng khác gì đóa hoa sen này!

Thái hậu cười, nói:

- Hay là hoa sen giống tai họ Trương?

Uống rượu, cười đùa một hồi, Tam Tư, Dịch Chi, Xương Tông đứng dậy từ tạ. Thái Hậu sai nội giám Ngưu Tấn Khanh đi gọi Hoài Nghĩa, nào ngờ từ ngày Hoài Nghĩa được phong Ngạc Quốc Công, vàng lụa rất nhiều, thanh thế ngày càng lớn, giấu tìm rất nhiều mỹ nhân, ngày đêm hoan lạc, hôm ấy cũng đang say không biết trời đất. Thấy Tấn Khanh tới truyền chỉ tuyên triệu, Hoài Nghĩa tức giận nói:

- Ở đây hoa đẹp nhị non, ta còn chẳng thèm bẻ, huống hồ cây già cành khô. Ngươi cứ về trước, ta sẽ vào sau.

Tấn Khanh không biết nói thế nào, đành quay ra, đem những lời Hoài Nghĩa thực tâu lên. Thái hậu thịnh nộ quát:

- Thằng trọc này vô lễ! Từ xưa lửa thiêng chùa chiền, tàn bén đến cả nơi minh đường đều từ lũ lừa trọc này cả. Nay lại còn dám hỗn láo thế này sao.

Vừa lúc Thái Bình công chúa vào, thấy Thái Hậu giận dữ, hỏi nguyên cớ. Tấn Khanh kể lại lời Hoài Nghĩa. Công chúa nói:

- Con lừa trọc vô lễ thật, quốc mẫu chẳng việc gì phải tức tối, để ngày mai con sẽ giết quách là yên chuyện.

Thái hậu đáp:

- Phải quét sạch lũ vô tích sự này mới xong.

Công chúa lĩnh mệnh đi ra.

Sáng sớm hôm sau, tuyển hai ba chục cung nữ khỏe mạnh, phục sẵn trong ngự uyển, sai hai thái giám, đi gọi Hoài Nghĩa. Hoài Nghĩa nhân đêm qua quá say lỡ lời, hối hận thì đã không kịp, nay lại thấy thái giám tới triệu, ý mong lấp liếm tội vừa rồi, nên vội vàng cùng hai thái giám theo cửa sau vào cung. Công chúa sai cung nga đón đường truyền lệnh:

- Thái hậu hiện đang chờ ở ngự uyển, mau vào ngay.

Hoài Nghĩa chẳng chút nghi ngờ, cứ thế đi theo, cung nga dẫn đến một chỗ vắng vẻ, thấy Thái Bình công chúa đang ngồi, đưa cho một tờ mật chỉ. Hoài Nghĩa cầm lấy xem, thì ra lệnh của thái hậu truyền vào làm tội cung hình để cắt đoạn dòng dõi Hoài Nghĩa. Hai viên nội giám lập tức hành động, vừa thiến vừa đánh, chẳng mấy chốc Hoài Nghĩa tắt thở, liền cho xác vào trong bao, đưa về chùa Bạch Mã để hỏa thiêu, rồi quay về tâu lại Thái hậu. Chuyện không nói nữa.

***

Lại nói thái hậu nhân việc nhà minh đường bị lửa thiêu trụi, đến nỗi điện thờ Phật cũng bị tổn hại, rồi bốn phương hạn hán xảy ra liên tiếp năm này sang năm khác, khắp nơi tâu về những điềm quái dị, thiên tai, bèn hạ chiếu lệnh cho trăm quan tu tỉnh, cấm dân chúng không được xa xỉ, thậm chí không cho phép dân gian được bắt cá, mò tôm. Lệnh nghiêm truyền ra, không ai không dám tuân mệnh.

Lúc này Dục Quốc Công Tần Thúc Bảo đã trí sĩ ngồi ở nhà, vẫn còn được phụng dưỡng Tần Thái phu nhân. Con trai là Tần Hoài Ngọc, đội ơn Đường Cao Tổ tác thành với Ái Liên con gái Đơn Hùng Tín, sinh hai con trai, trưởng là Tần Tông, thứ là Tần Vũ. Tần Vũ lấy con gái của quan thập di Trương Đức, đẻ sinh đôi hai con trai. Trần Thái phu nhân cùng Thúc Bảo vô cùng hoan hỉ, gặp ngày đầy tháng, bèn làm lễ "Hội cơm canh". Các quan trong triều đều đến chúc mừng. Thúc Bảo bày tiệc rượu để mời quan khách, từ Trương Đức đến Phó Du Nghệ, Đỗ Tiêu đều đến chúc mừng, cùng ngồi nâng chén. Bát chén bày la liệt, sơn hào hải vị đều có đủ, Trương Đức cất tiếng với quan khách:

- Nếu vâng lệnh cấm của triều đình, thì hôm nay lẽ không nên bày biện thế này, nhưng cũng bởi lão mẫu tuổi cao, lại có được tằng tôn, thật còn vui sướng nào bằng, lại may được các ngài hạ cố, chẳng dám xem thường, nên đành trái lệnh. Xin các ngài che chở cho ít nhiều.

Cha con Thúc Bảo cũng chắp tay cung kính thưa:

- Xin các ngài thể tất cho!

Các quan không nói gì, chỉ có Du Nghệ, Đỗ Tiêu vốn phường tiểu nhân, ngoài miệng không rằng, nhưng trong lòng thì chẳng chịu yên, đã nghĩ tới chuyện về thưa với thái hậu để tâng công. Du Nghệ đưa mắt nhìn Đỗ Tiêu mà cười. Đỗ Tiêu hiểu ý, thừa lúc mọi người rượu say nghiêng ngả, liền lấy trộm một cái bánh bao nhân thịt trên bàn tiệc, giấu vào trong ống tay áo. Mãi đến chiều tiệc tan, ai về nhà nấy.

Ngày hôm sau, tan buổi chầu, trăm quan đã về cả. Du Nghệ cùng Đỗ Tiêu vẫn ở lại để thưa chuyện hôm qua, nên theo thái hậu lên điện. Thái hậu hỏi:

- Hai khanh định tâu điều gì chăng?

Đỗ Tiêu thưa:

- Bệ hạ đang gặp những chuyện thiên tai phải tính đến việc tĩnh thân, nên có lệnh cấm sát sinh, người người đều vâng lệnh, chẳng ai dám trái: Nhưng có nhà quan đại thần lại vi phạm lệnh cấm, đó chính là Tần Hoài Ngọc, con Dục Quốc Công, nhân con thứ Tần Vũ sinh con trai, bày tiệc rượu mời khách. Thần cùng Phó Du Nghệ đến dự, các thứ mĩ vị trân cam đều đủ cả, rõ ràng phạm thánh chỉ nghiêm lệnh. Thần đã lấy trộm được vật này làm chứng, xin bệ hạ lệnh cho trị tội kẻ trái lệnh, để làm cho trăm họ kính sợ, thì lệnh mới nghiêm được. (1)

1 về việc cấm sát sinh này, sách "Hước lãng", thời nhà Minh, cũng có kể một chuyện sau: Triều Vũ Tắc Thiên, lệnh cấm sát sinh rất gắt. Lâu Lư Đức thay mặt triều đình thanh tra đất Thiểm Tây, nhà bếp dâng thịt. Lâu hỏi: "Làm gì ra thịt này?" Nhà bếp thưa: "Dạ thưa, sói cắn chết dê!". Lâu tiếp: "Sói cũng được việc đấy chứ!". Nhà bếp lại dâng chả cá. Lại hỏi, thưa: "Dạ thưa, sói cắn chết cá!" Lâu quát. "Sao không nói là rái cá?"

Tâu xong, lấy bánh bao nhân thịt ăn cắp hôm qua dâng lên, Du Nghệ cũng tâu:

- Thập di Trương Đức, nhân vì thông gia, lại đứng lên mong các quan bao che, cũng là vi phạm phép nước, xin bệ hạ trị tội.

Thái hậu nghe tâu, mỉm cười, tức thì truyền chỉ triệu Tần Hoài Ngọc, Trương Đức. Thái hậu hỏi Hoài Ngọc:

- Nghe nói con thứ của khanh là Tần Vũ, sinh luôn hai trai một lần. Họ Tần được con, họ Trương được cháu, mừng lắm phải không?

Hoài Ngọc cùng Trương Đức cúi lạy tạ ơn, thái hậu tiếp:

- Ngày hôm qua mở tiệc mời khách phải không!

Hoài Ngọc thưa:

- Thân phụ thân cũng bởi tổ mẫu tuổi cao, lấy chuyện sinh cháu làm vui, cũng có mời thân thích tới uống vài chén rượu. Nhưng không hiểu sao bệ hạ lại biết?

Thái hậu truyền tả hữu đưa bánh bao ra cho Hoài Ngọc xem, rồi cười hỏi:

- Cái này có phải ở bàn tiệc nhà khanh mà ra không? Dẫu Trương Thập Di có tình che chở cho khanh, nhưng vẫn có người giấu thịt đem đến tố cáo thì làm sao bây giờ đây?

Hoài Ngọc cùng Trương Đức cả sợ vội vàng quỳ thưa:

- Chúng thần phạm lệnh cấm, tội thật vạn lần đáng chết!

Thái hậu phán:

- Trẫm xuống lệnh cấm sát sinh, là để dân thường không được vô cớ mà tụ họp ăn uống, rồi giết hại sinh vật. Nhưng việc xấu, việc tốt chuyện mừng, chuyện tang là những sự cần thiết, không nằm trong lệnh cấm đó. Phụ thân khanh là bậc khai quốc công thần, lại đã tuổi cao, thêm lão thái thái vẫn còn, nay mừng một lúc có thêm hai cháu, mở "Hội cơm canh", dẫu có bắt cá mổ lợn, cũng là lẽ tự nhiên, trẫm nào có cấm. Nhưng chỉ có điều, từ nay khanh có mời khách, cũng cần chọn lựa cho chu đáo!

Rồi chỉ Du Nghệ cùng Đỗ Tiêu mà rằng:

- Như cái lũ này, nhớ đừng bao giờ mời nữa!

Hoài Ngọc, Trương Đức tạ ơn lui ra. Du Nghệ, Đỗ Tiêu hổ thẹn không có lỗ nẻ mà chui, thái hậu cho người đuổi ra. Cả hai bị trăm quan lẫn dân chúng xỉ vả không tiếc lời.

Chính là:

Đừng bảo yêu tinh tác quái

Nhiều lúc chúng thiêng như thần

Phạm cấm không cho xuất thú

Tiêu nhân chết vẫn tiểu nhân.

Thái hậu nghĩ đến công lao các bậc đại thần khai quốc, cũng đã lần lượt ra đi gần hết, vừa lại nghe tin Trình Giảo Kim tạ thế, nhìn lại hai mươi tư công thần được vẽ hình trên gác Lăng Yên, còn lại mỗi một Tần Thúc Bảo, nay may mừng có cháu, nên thái hậu đặc mệnh đem hai mươi tấm gấm đoạn, hai xâu tiền vàng, thân mừng việc này, lại ngự ban cho hai tên, một là Tư Hiếu, hai là Khắc Hiếu.

Cha con Thúc Bảo đều vào triều tạ ơn. Không đầy một tháng sau, Tần Thái phu nhân qua đời, Thúc Bảo nhân khóc mẫu thân mà mang bệnh, chẳng bao lâu cũng mất. Thái hậu nghe báo tin, liền xuống lệnh nghỉ chầu ba ngày, thân ban lễ tế cùng tên thụy.

Chính là:

Khai quốc công thần đều rụng cả

Lang Yên tượng vẽ đứng trơ ra.

Hồi Thứ Bảy Mươi Lăm

Thỏa tình si, chồng vợ đội ơn,

Vì việc nghĩa, anh em phải chết.

Từ rằng:

Có ý nên duyên

Há cứ phải chỉ hồng xoắn xuýt?

Kìa xem như Hồng Phất tài cao

Dược Sư tình tha thiết (1)

Tư Mã Lâm cùng ngón đàn mê mệt

Văn Quân tình nồng (2)

Mới tương phùng

Mà đã biết anh hùng

Mừng khôn xiết

Có một giống

Duyên trời kết

Có một giống

Dấu bèo gặp

Than tình thơm chưa dứt

Hồn ngây chưa tuyệt.

Bất Vi nhà Tần đem chém đầu, (3)

Ngưu Kim Đông Tấn cũng bị giết

Những chuyện này

Sử sách phân minh

Nói sao hết!

Theo điệu "Mãn giang hồng"

1 xem hồi thứ mười sáu, tập 1 .

2 Tư Mã Tương Như, gảy khúc "Phụng cầu hoàng". Trác Văn Quân nghe cảm động, bỏ nhà trốn theo, cùng nhau chung thủy. (Tầm nguyên từ điển).

3 Xem hồi thứ bảy mươi hai. Nhà Tây Tấn vốn họ Tư Mã, vì vậy dân gian mới nói "Dĩ ngưu dịch mã", lấy trâu thay ngựa.

***

Nay không nói chuyện Đường Trung Tôn được về kinh nhưng còn ở Đông cung, thái hậu vẫn cai quản triều chính như cũ, tuổi ngày càng cao, nhưng lửa dâm ngày càng mạnh. Mỗi lần Trương Xương Tông vào làm Phụng thời lệnh, mỗi lần yến tiệc, hội họp, kéo cả nhà họ Vũ, anh em họ Trương vào ăn uống, đùa cợt, lại tuyển thêm nhiều thiếu niên tuấn tú, để làm Phụng thời nội cung phụng, toàn những bọn bảnh bao, gian trá, ngày đêm hành lạc. Tể tướng Ngụy Nguyên Trung tâu rằng:

- Thần tạm giữ ngôi Tể tướng, mà vẫn để bọn tiểu nhân ngay cạnh thánh chúa, thì chính là tội của thần vậy.

Nguyên Trung vốn tính ngay thẳng, không sợ quyền thế, vì vậy bọn họ Vũ, họ Trương vừa sợ vừa oán, thái hậu cũng không thích.

Xương Tông đã từng thưa với thái hậu, rằng: "Thái hậu đã già mà còn dâm loạn đến thế, chi bằng giúp cho Thái tử để tính kế lâu dài. Đông cung mà lên ngôi thì nhất định bọn tiểu nhân đều không còn đất đứng nữa".

Thái hậu nghe được, vô cùng giận dữ, muốn trị tội Nguyên Trung. Xương Tông lại sợ việc không yên ổn, liền lẻn tới tìm Phượng các xá nhân Trương Duyệt, lấy rất nhiều vàng bạc hối lộ, hứa sẽ lo cho chức quan cao, chỉ cần Trương Duyệt làm chứng cho việc làm, lời nói của Nguyên Trung. Trương Duyệt nghĩ ngợi rồi từ chối. Xương Tông biến sắc mặt, chẳng cần giữ gìn gì, nói sẽ tìm người khác, lại là kẻ ngay gần tể tướng, nhưng có nhiều điều không tiện, nên nếu không tìm ra, sẽ quay lại thương lượng với Trương Duyệt. Chuyện chưa rõ ràng thì đã mỗi người mỗi nơi.

Sáng hôm sau, thái hậu lâm triều, trăm quan đã ra về cả, chỉ giữ Nguyên Trung cùng Xương Tông ở lại. Thái hậu hỏi: Xương Tông, khanh nhiều lần nghe Nguyên Trung bàn tán thế nào, với những ai?

Xương Tông thưa:

- Nguyên Trung đi lại rất thân với các xá nhân Trương Duyệt, những chuyện này đều bàn với Trương Duyệt. Xin bệ hạ cứ hỏi Trương Duyệt thì biết thần nói sai hay đúng.

Thái hậu liền sai nội giám đi triệu Trương Duyệt. Lúc này các đại thần đều ở quẩn quanh trong triều để nghe ngóng, chưa ai về, nghe tin thái hậu gọi Trương Duyệt biết ngay là chuyện Nguyên Trung. Trương Duyệt vào. Lại bộ thượng thư Tống Cảnh khuyên:

- Trương Tiên sinh, danh nghĩa là điều thật đáng sợ, chuyện quỷ thần là chuyện khôn lường, việc đi đứng là việc phải thận trọng, đừng vì muốn yên thân mà cẩu thả, đắc tội với muôn đời. Nếu có chuyện gì nguy hiểm, bọn Cảnh này xin ghé chung vai, đồng sinh tử. Tên tuổi nghìn đời sau, chỉ vào lúc này thôi đây.

Tả thị lang bộ Lại Lưu Tri Ký cũng nói:

- Trương Tiên sinh chẳng thèm làm bẩn sử sách, liên lụy đến con cháu đâu.

Trương Duyệt gật gật đầu, rồi vào nội điện. Thái hậu hỏi, Trương Duyệt yên lặng không đáp. Xương Tông đứng bên cạnh giục mãi. Trương Duyệt bèn thưa:

- Thần thực không nghe Nguyên Trung nói những lời này bao giờ, mà chẳng qua Xương Tông cứ bức thần phải đứng ra làm chứng thôi vậy.

Thái hậu giận dữ:

- Trương Duyệt này đúng là phường tiểu nhân phản phúc, phải trị tội mới xong.

Rồi quay vào nội cung.

Mấy ngày sau, thái hậu lại triệu Trương Duyệt vào hỏi, Trương Duyệt vẫn thưa như cũ. Thái hậu giận dữ, biếm Nguyên Trung đi Cao Yếu, Trương Duyệt đi Lĩnh Biểu. Xương Tông dựa thế thái hậu, bức Trương Duyệt lên đường ngay.

***

Lại nói chuyện Trương Duyệt có người thiếp yêu họ Ninh, tên là Hoài Đường, tự Tỉnh Hoa, lúc sinh mẹ nằm mộng thấy có người cho một đóa hoa hải đường, nhân đấy có thai. Mọi người nói đùa: "Hoa hải đường ngủ chưa đẫy giấc cao?". Bà mẹ đáp: "Đã là danh hoa thì nên thức chứ không nên ngủ!". Vì vậy mới đặt tự là Tỉnh Hoa, đến lúc về với Trương Duyệt thì tuổi đã mười bảy, nhan sắc diễm kiều, văn tài mẫn tiệp, bao nhiêu công việc cơ mật, Trương Duyệt đều giao cho.

Hôm ấy có một chàng trai, tuổi cũng suýt soát, họ Giả, tên Toàn Hủ, thân phụ là Giả Khác vốn là Thượng Thư bộ Lễ. Toàn Hủ cũng vừa kịp tuổi đội mũ, lên kinh đi thi, đến ra mắt Trương Duyệt. Nhân thấy Toàn Hủ tuổi thiếu niên có tài, giữ lại làm ký thất, phàm thư từ qua lại, đều do Toàn Hủ trông coi. Vì tin yêu nên cho Toàn Hủ ở ngay trong dinh. Bỗng một chiều mùa hạ, gió thu thổi sớm đưa hương, Toàn Hủ men theo ngọc đình (1) thong thả dạo chơi, bỗng gặp ngay Hoài Đường ở lối rẽ. Toàn Hủ hoàn toàn coi như không có chuyện gì, bước tới, hai tay chắp cung kính, từ tốn mà thưa:

- Tiểu sinh là Giả Toàn Hủ ở Tô Châu; vô tình đi dạo, không kịp tránh. Xin tiểu thư tha tội!

1 Tòa tầu nhỏ, dựng giữa vườn để hóng mát, nghỉ ngơi gặp bạn bè, ít người.

Hoài Đường cũng không trả lời, chỉ đáp lễ, rồi đứng nhìn theo Toàn Hủ bước đi, trong lòng ngẫm nghĩ "Trương đại nhân nhà này nói tới tài văn chương của họ Giả, lại gia thế quý phái, hiển hách, không ngờ phong thái lại tao nhã dường ấy. Cứ trong cử chỉ mà xem, nhất định không phải người chịu lưu lạc. Ta nay thân phận thế này, có đầy đủ chăng nữa, nhưng cũng chẳng danh giá gì!" . Sau đó không một lần gặp lại, nào hiểu gì hơn, hỏi han ai bây giờ? Đành giữ kín trong lòng mà thôi.

Hôm ấy, Toàn Hủ ra ngoài phố nghe được chuyện Trương Duyệt trở về, ngồi một mình trong thư phòng, trăng sáng như ban ngày, nghe bên ngoài hành lang có tiếng ho khẽ. Toàn Hủ mở cửa ra nhìn, thấy một cô gái đang đi tới. Toàn Hủ kinh ngạc hỏi, cô gái đáp:

- Thiếp là Bích Liên, người hầu của Hoài Đường tiểu thư. Hôm trước tiểu thư có lần gặp, lòng thổn thức không yên. Nay cũng bởi Trương chủ nhân sắp lên đường, tiểu thư muốn được gặp Giả công tử một lần, nên sai thiếp đến đây thưa chuyện trước xem sao.

Nói chưa xong, đã thấy Hoài Đường lặng lẽ đi tới, hương thầm phảng phất. Toàn Hủ bước tới lạy chào:

- Duyên may ở ngọc đình ngày trước, được tiểu thư không theo thói thường tình, những mong tin nhạn vãng lai. Nay được tiểu thư giáng lâm, thật khác gì trời ban duyên kỳ ngộ. Nếu bằng tiểu thư không bỏ, xin được cùng kết nghĩa trăm năm vậy!

Hoài Đường từ tốn đáp:

- Thiếp đã ở trong phủ này hai ba năm, thấy khách quý, giàu sang cũng lắm, nhưng không có ai như công tử. Nếu công tử không coi thiếp là phường hoa tàn, lá héo, cũng xin được nâng khăn sửa áo suốt đời. Nay nhân lúc công việc bộn bề, sao chẳng theo gương Lý Vệ Công (1) với Trương Xuất Trần, hãy đi cho xa, không biết công tử có dám làm chăng?

Toàn Hủ đáp:

- May được tiểu thư thương đến. Toàn Hủ có điều gì mà chẳng dám làm. Chỉ sợ không hiểu ý tứ Trương chủ nhân sẽ thế nào?

Hoài Đường đáp:

- Việc này là việc chung thân đại sự của chúng ta, làm sao mà để ý cho khắp được, cứ đành theo mình thôi.

Bích Liên mang hũ rượu, thức nhắm tới, cả hai ngồi vào bàn. Toàn Hủ cất tiếng:

- Tiểu thư tự Tỉnh Hoa, nhưng chỉ sợ đêm nay lại ngủ say thì biết làm sao?

Hoài Đường cười đáp:

- Cùng với công tử đêm nay không ngủ, chỉ vì sợ phí mất cả một khắc nghìn vàng vậy đó. (2)

1 Tức Lý Tĩnh, về sau được phong Vệ Quốc Công.

2 Tỉnh Hoa: đóa hoa thức, không ngủ. Toàn Hủ: hoàn toàn trống rỗng, hủ không, mất mát...

Mọi người cùng cười. Bích Liên thưa:

- "Bờ vách có tai", kế sách bây giờ, thì ba mươi sáu chước, chạy trốn là hay hơn cả.

Liền vội vàng thu nhập đang đêm cùng trốn đi.

Chính là:

Vợ chồng tiền định do trời

Ai đa tình tức là người có duyên.

Chưa gì đã có người đi báo ngay cho Trương Duyệt biết, Trương Duyệt cho đi khắp nơi tìm bắt về. Trương Duyệt định giam cho đến chết. Toàn Hủ lên tiếng thưa:

- Thấy nhan sắc mà không giữ mình, cũng là chuyện thường tình của người đời. Làm trai dẫu có chết vì chuyện này cũng có gì đáng tiếc. Nhưng đại nhân danh cao, đức cả, dẫu hiện giờ có tạm bị kiếm trách đi nữa, chẳng bao lâu lại sẽ được tôn vinh hơn trước. Biết đâu sau này lại có dịp phải dùng đến hạng người như tiểu sinh này chăng, chẳng chóng thì chầy thế nào cũng vậy thôi, vậy thì lẽ nào chỉ vì mất một người con gái mà đến nỗi xử bậc trượng phu vào chỗ chết, trộm nghĩ đó là việc đại nhân không dám làm vậy. Hãy xem gương xưa Sở Trang Vương không trị kẻ bị dứt giải mũ (1); Viên Áng không truy tìm thư sinh rủ người thiếp đi trốn (2); Dương Tố không đuổi theo Lý Tĩnh, về sau được báo ơn. Nay đại nhân định vì một người con gái mà giết kẻ sĩ sao?

1 "Đông Chu liệt quốc" Sở Trang Vương đãi yến đêm gió mạnh, đèn nến đã tắt cả. Một viên quan nhân vậy, ghẹo người thiếp yêu của vua, người thiếp mách Trang Vương và trình giải mũ mình giật được của viên quan đó. Trang Vương không thắp đèn vội, bắt tất cả các quan đều phải dứt giải mũ đã. Về sau viên quan đó liều chết cứu Trang Vương xong, rồi thú tội.

2 "Từ Hải": Viên Áng làm lang trung thời Hán Văn Đế, đến thời Cảnh Đế, làm thái thường, thông minh, chính trực.

Trương Duyệt nghe những lời nói lạ lùng này, bèn đổi giận làm vui:

- Công tử nói có lý lắm. Nay xin đem Tỉnh Hoa này tặng công tử lại sai cả gia nhân sắp đủ tiền bạc, vật dùng cùng xe ngựa cho công tử vậy!

Toàn Hủ không từ chối, rồi đem theo Hoài Đường mà ra khỏi cửa. Thái hậu nghe chuyện này, cho Trương Duyệt là người biết thuận theo nhân tình, nên không tra hỏi chuyện cũ nữa, lại làm chức cũ, giao thêm ngôi sư phó cho con thứ ba của Duệ Tôn là Lý Long Cơ. Long Cơ chính là Đường Huyền Tông của thời trung hưng sau này, nhưng lúc này cũng bị thái hậu tiết chế, chưa gặp thời vậy. Kẻ được thái hậu yêu vì lúc này, ngoài con cháu họ Vũ ra, chỉ còn Thái Bình công chúa cùng An Lạc công chúa mà thôi. An Lạc vốn là con của trung Tôn, đã gã cho cháu của thái hậu là Vũ Sùng Huấn, bởi thái hậu yêu quý dòng dõi họ Vũ, nên cũng yêu lây cả An Lạc mà thôi. An Lạc ỷ thế nhà chồng, ra sức nịnh hót thái hậu, mặc sức kiêu sa dâm dật, ngang ngược tai quái chẳng kém gì Thái Bình công chúa cả.

Hôm ấy, cả hai công chúa đều ngồi nhàn trong cung, bỗng thấy trên bức tường treo bức tranh "Người đẹp đấu lá", một bức tranh rất đẹp. Có bài tư "Tây Giang nguyệt" tả rất đúng rằng:

Xuân ve tươi tốt cỏ xuân

Buồng xuân, xuân hứng nồng nàn xuân

Sai con hầu vào vườn tìm kiếm

Đủ các trại lá hiếm cỏ hay

Cỏ kia, cỏ ấy, cỏ này

So đo cùng loại khác bày ra sao

Cả cười hoan hỷ thế nào

Cỏ nghi nam dục đẻ nhiều con trai.(1)

1 "Bản thảo cương mục". Cỏ nghi nam, tên chính là huyên thảo, phụ nữ ăn nhiều hoa của cây này thường hay sinh con trai.

Thái Bình công chúa xem bức tranh, nói với An Lạc công chúa:

- Người đẹp đấu lá, chính là hợp với cảnh phòng khuê mùa xuân. Giữ mới tháng hai, cây cỏ chưa thật tươi tốt, đợi đến cuối xuân, hoa lá đủ đầy, ta cùng công chúa mở hội đấu lá, liệu có nên chăng?

An Lạc công chúa bằng lòng. Ngay tuần đầu của tháng ba, đang lúc sai cung nga vào ngự uyển hái đủ loài kỳ mộc dị thảo, thì thấy Thượng Quan Uyển Nhi vào chơi, nghe kể chuyện, bèn khuyên rằng:

- Công chúa nếu sai người tìm các loại lá, loại cỏ, chỉ sợ rằng phía bên kia cũng đều tìm được, thế thì làm sao mà thắng nổi. Phải làm thế nào mà có được thứ bên kia tìm không ra thì mới chắc thắng cho được.

Công chúa hỏi:

- Khanh bảo tìm cái gì mà bên kia không có được bây giờ?

Uyển Nhi đáp:

- Thứ này nói là cỏ mà lại không phải cỏ, chỉ là cùng loại với cỏ mà thôi!

Công chúa giục:

- Khanh nói là cái gì đi ngay xem nào?

Uyển Nhi đáp:

- Cỏ chính là lông của đất. Người ta cũng có năm thứ lông, chẳng khác gì cỏ của đất vậy. Trong số năm loại lông đó, râu là quý hơn cả. Thần nghe nói chùa Nam Hải Hằng Chi, tượng Phật Duy ma cật có bộ râu, chính là râu của danh sĩ Tạ Linh Vận đời Tấn (1), đó mới thật là vật mà ở thế gian có một không hai. Có được thứ này, thì làm gì mà không thắng.

1 Tạ Linh Vận (385 - 433), người thời Nam Bắc Triều, quê ở Dương Hạ (nay thuộc Hồ Nam), giỏi vẽ, viết chữ, là người mở đầu cho loại thơ sơn thủy nổi tiếng ở Trung Quốc. Lúc đầu làm thái thú Vĩnh Gia, chỉ dạo chơi non nước, bị cách chức, về ở ẩn ở Đông Sơn, thuộc Cối Kê... (Từ điển tác gia...)

An Lạc công chúa cả mừng. Nguyên là Tạ Linh Vận nổi tiếng một thời, được phong tước Lạc Quận Công, sinh thời, có bộ râu rất đẹp ai ai cũng ngợi khen, tự mình cũng rất trân trọng, về sau mắc tội lúc sắp chết, không nỡ chôn cả bộ râu, liền tự cắt ra giao lại cho người nhà, gặp lúc chùa Nam Hải Hằng Chi đang tô tượng Duy ma cật, liền dặn lại cúng bộ râu cho chùa để làm râu Duy ma cật. Vì vậy về sau, chùa này trở thành một thắng tích. Duy ma cật vốn đồng thời với đức Phật Thích ca mâu ni, giao du thân thiết với Văn Thù Bồ tát, việc qua lại chuyện trò này, đều có ghi rõ trong các kinh Phật. Ngay cả Tạng Kinh cũng hãy còn ghi những lời đàm luận của Duy ma cật, lại cũng là một vị cư sĩ của Tây phương chưa từng xuất gia nên chẳng cạo râu tóc, vì vậy khi làm tượng, cần phải dùng đến râu là thế.

Ngày dài chuyện vãn, An Lạc công chúa thấy Uyển Nhi nói thế, liền ngầm sai nội thị Lâm Mậu, phi ngựa ngay đến chùa Nam Hải Hằng Chi, cắt lấy một nửa bộ râu của Duy ma cật để sẵn, chờ ngày đấu lá. Sau khi Lâm Mậu ra đi, công chúa lại nghĩ "Nếu ta chỉ lấy một nửa, chẳng may Thái Bình công chúa biết được, sai người lấy nốt phần còn lại, ai ra mà ngăn cho được. Chi bằng còn một nửa cắt nốt, một là để thế nào cũng thắng trong kỳ đấu lá sắp tới, hai là có toàn cả bộ râu, cũng lưu làm một vật hiếm, có phải hơn không?". Liền sai tiếp nội thị Dương Xuân Cảnh, phi ngựa cả ngày lẫn đêm, đến giữa đường, gặp Lâm Mậu đem nửa râu về kinh. Xuân Cảnh vẫn đi tiếp cắt nốt nửa râu còn lại.

Thái Bình công chúa cũng đã kiếm sẵn đủ thứ kỳ mộc dị thảo, chất đầy cả một phần hiên Trường Xuân cung để mong thắng giải. Uyển Nhi được mời làm giám cuộc. An Lạc công chúa vui mừng, khi thấy Lâm Mậu đã đem được râu về, tin chắc thế nào phần thắng cũng về mình, vô cùng hoan hỷ, nhưng vẫn chưa nói vội. Trước tiên vẫn đem những thứ đã tìm kiếm lâu nay ra đấu, nhưng mình nhiều, người cũng không ít, ta có cái này, bên kia cũng chẳng không, nên vẫn chưa ai thắng ai. An Lạc công chúa cười nói:

- Cỏ của đất chẳng bằng cỏ của người, cháu có loại cỏ này của cổ nhân lưu lại, mới đúng là trên đời không có hai vậy.

Thái Bình công chúa hỏi cái gì. An Lạc thưa:

- Chính là bộ râu của Tạ Linh Vận, người đời Tấn!

Thái Bình hỏi:

- Ta nghe Tạ Linh Vận lúc chết, nguyện hiến râu để làm tượng Duy ma cật ở chùa Nam Hải Hằng Chi, làm sao công chúa lại có được?

An Lạc cười đáp:

- Linh Vận bỏ ra, thì cháu nhặt lấy, hiện nay đang ở đây vậy.

Liền gọi mau đem ra. Lâm Mậu đưa ra một túi gấm rồi lấy túm râu từ bên trong, đặt lên án. Quả là những sợi râu rất đẹp, chẳng khác gì vừa mới cắt ở người sống ra vậy, từng sợi, từng sợi vẫn óng ánh, mượt mà. Mọi người đang chăm chú xem, thì bỗng một cơn gió vừa mát vừa thơm từ đâu lại, cuốn tất cả những sợi râu lên không rồi mất hút. Lâm Mậu chẳng hiểu cao thấp ra sao, vội chạy đuổi theo cơn gió, nhảy lên túm được mấy sợi, không ngờ ngã xuống thềm đá cao, gãy ngay một cánh tay trái, nằm bệt dưới sân, không dậy được, bọn nội thị vội vàng đỡ dậy khiêng ra khỏi cung. Thái Bình công chúa nói:

- Râu trên cằm của Phật, vốn không nên đụng đến, bây giờ bị báo ứng đến thế, tất bởi đức Phật giận dữ rồi!

Thượng Quan Uyển Nhi thấy thế, liền nghĩ "Chuyện này, tất cả đều tại ta cả thôi!". Cho nên trong lòng lo lắng không yên, nhưng cũng không dám nói với ai. Còn An Lạc công chúa vốn tính hiếu thắng, vẫn còn cố giành:

- Dù thế nào cũng phải nói cho ra nhẽ, cuộc đấu lá này coi như cháu thắng rồi!

Thái Bình công chúa cười:

- Chưa nói tới việc râu chứ không phải là cỏ là lá, nà ngay cả râu bây giờ cũng còn đâu. Tốt hơn hết là đừng nói chuyện ai được ai thua nữa!

Vào tiệc yến ẩm một hồi, thế rồi mỗi người mỗi ngã.

An Lạc công chúa tuy không được, nhưng cũng chẳng thua, chỉ tiếc số râu bị gió cuốn mất, may ra còn một nửa, tính chuyện giữ lại để làm của lạ chăng.

Mấy ngày sau, Dương Xuân Cảnh đem nốt nửa râu còn lại về trình. Vốn là trên đường, Xuân Cảnh bị ngã ngựa, gãy mất tay phải, vì vậy mà về muộn. Công chúa thấy lấy được rồi rất mừng, cầm trong tay ngắm nghía một hồi, bỗng lại một trận gió như lần trước, cuốn rung lên không tất cả số râu còn lại. Gió thơm cuốn đi rồi, một trận gió dữ khác tiếp ngay khiến cây hoa đang nở rộ trước sân, rụng tàn kỳ hết, chỉ còn mỗi một bông hoa. Ai nấy đều vô cùng kinh hãi:

Có bài từ làm chứng sau đây:

Râu Linh Vận

Mặt Duy ma

Mặt người, mặt quỷ hay một Phật

Để râu này mà nhổ bật râu ria

Ác nghiệt chưa, chuyện chơi đùa

Râu đem về bỗng gió lùa bay xa

Không để lũ tà dâm được thấy

Đứa cắt râu tội gãy cánh tay

Liệu hồn sám hối đi ngay... (1)

1 Không thấy nói điệu gì.

An Lạc công chúa hoảng sợ, vội chắp hai tay nhìn lên trời cầu nguyện. Thái Bình công chúa cùng Uyển Nhi nghe chuyện, không hết kinh ngạc. Cả ba bèn góp lại khoảng một nghìn lạng vàng, cấp cho chùa Nam Hải Hằng Chi, sửa sang lầu các, điện đài, đắp lại tượng Phật. Chuyện không nói nữa.

***

Hãy nói chuyện các đại thần trong triều, từ sau khi Địch Nhân Kiệt chết, chỉ còn Tống Cảnh là người chính trực hơn cả, nên từ bọn gian nịnh cho đến thái hậu đều sợ hãi, kính nể, chẳng khác gì ngày xưa đối với Địch Nhân Kiệt vậy.

Lúc Địch Nhân Kiệt còn sống, gặp khi hải quốc tiến cống một áo cừu gọi là "Tập thúy cừu", vốn là do những sợi lông mềm nhất của chim tập thúy mà đan thành, vừa nhẹ vừa đẹp, thật là một vật báu có một không hai vậy. Trương Xương Tông thích lắm, tìm đủ mọi cách chiều chuộng, âu yếm để xin bằng được, thái hậu bèn cho. Xương Tông tạ ơn, mặc ngay trước điện, thái hậu ngắm một hồi rồi cười nói:

- Khanh mặc áo này, trông lại càng thêm duyên dáng!

Xương Tông dương dương đắc ý, gặp lúc Địch Nhân Kiệt vào cung, sau khi tâu trình công việc xong xuôi. Nhân muốn gây sự thân mật giữa Nhân Kiệt với Xương Tông, lại thấy trên án sẵn bày bàn cờ, thái hậu bèn lệnh cho hai người đấu cờ. Cả hai vâng mệnh, ngồi vào ghế. Thái hậu phán:

- Ai cao cờ hơn thì dùng quân trắng. Xương Tông có lẽ cao hơn chăng?

Nhân Kiệt đứng dậy thưa:

- Thần tin vào lòng trong trắng của mình, dẫu có nhận xuống bùn cũng không thể đen được. Chơi cờ tuy là việc nhỏ, nhưng cũng là thể hiện chí hướng, thần xin được chọn quân trắng.

Thái hậu phán:

- Thôi thì tùy ý khanh, nhưng đã thi đấu, thì cũng cần có giải thưởng, nay nên trao giải gì bây giờ?

Nhân Kiệt thưa:

- Nếu thần thắng, xin cho được cởi lấy áo cừu Xương Tông đang mặc vậy!

Thái hậu hỏi:

- Thế nếu khanh thua thì khanh mất cái gì?

Nhân Kiệt thưa:

- Thần cũng xin cởi áo bào tím đang mặc đây nếu thua.

Thái hậu cười:

- Áo "Tập thúy cừu" giá hơn nghìn vàng, áo bào của khanh so thế nào được?

Nhân Kiệt thưa:

- Áo bào này của thần là để vào chầu, thưa trình công việc quốc gia, còn áo cừu của Xương Tông, chẳng qua là vì được sủng ái mà có. Lấy áo bào này mà đổi cừu kia, chính thần thua thiệt nhiều mới đúng.

Thái hậu nghe ra, cười mà không nói. Xương Tông trong lòng hậm hực, thua liền mấy ván. Nhân Kiệt liền cởi ngay lấy áo cừu, khoác lên người, tạ ơn ra khỏi cung, đến cửa Quang Phạm, liền cởi ngay ra, giao cho gia nhân mặc mà về. Thái hậu cũng biết cả, nhưng không hỏi đến. Sau chuyện này, trăm quan càng kính sợ Nhân Kiệt. Trong triều những kẻ chính trực như Trương Giản Chi, Hằng Ngạn Phạm, Kính Huy, Viên Như Kỷ, Thôi Nguyên Vĩ... đều do Nhân Kiệt tiến cử, cùng với Tống Cảnh một lòng trung thành, thề quyết diệt trừ bằng được lũ nghịch thần.

Một hôm bọn năm người Giản Chi, cùng với Trung Tôn đi săn, vào một nơi vắng vẻ trong núi, năm người xuống ngựa thưa:

- Chúng thần từ lâu đã muốn thưa chuyện cùng thánh thượng, nhưng tai mắt xung quanh nên không dám hở môi. Nay sự thế đã kíp lắm rồi, không thể trù trừ nữa. Chúng thần thấy bệ hạ về tuổi tác lẫn đức hạnh đều đủ đầy. Thái Hậu thì ngày càng tin lời anh em họ Trương, cố vị không chán. Gần đây lại nghe anh em họ Trương xúi giục, đang định nhường ngôi báu cho Lục Lang, nếu quả như vậy, thì bệ hạ thật không còn đất đứng. Chúng thần thấy tình thế bức bách, xin thưa để bệ hạ rõ còn liệu trù mưu kế.

Trung Tôn cả sợ mà rằng:

- Làm thế nào bây giờ?

Giản Chi thưa:

- Phải trừng trị ngay bọn loạn thần họ Trương, họ Vũ thì bệ hạ mới trở về ngôi được.

Trung Tôn nói:

- Thái hậu còn ngồi đó, làm thế nào mà diệt trừ cho dược?

Giản Chi thưa:

- Thần đã tính toán từ lâu, chẳng cần đến bệ hạ phải lo, nhưng chỉ sợ kinh động đến tình cảm bệ hạ, nên trước tiên muốn tâu để bệ hạ rõ đã.

Trung Tôn nói:

- Anh em họ Trương thì thật đáng giết, nhưng anh em họ Vũ với ta cũng là họ hàng cả, xin các khanh hãy nể mặt Thái hậu mà tha mạng cho chăng?

Giản Chi thưa:

- Khi binh sĩ kéo vào cung khuyết, không gặp thì thôi, nếu gặp, chỉ sợ đao kiếm vô tình, khó mà giữ ý được.

Trung Tôn nói:

- Ta mà về được ngôi báu, thay lại nhà Chu bằng nhà Đường, xin phong các khanh tước vương cả.

Bọn Giản Chi tạ ơn, rồi tiếp tục giả săn bắn một hồi nữa mới quay về.

Trung Tông đến Đông cung, gặp ngay lúc Vũ Tam Tư biết được ngày hôm đó Trung Tôn đi săn, nên lại tìm đến Vi Hoàng hậu, thấy tả hữu báo Vương phụ đã về. Tam Tư kinh sợ run lẩy bẩy, Vi Hoàng hậu nói:

- Không việc gì phải sợ hãi đến thế, ta cùng khanh hãy ra phía ngoài thư phòng kia đánh song lục (1). Vương phụ lão vào, nhất định sẽ không hỏi khanh một câu nào đâu. Mọi chuyện cứ mặc ta.

1 Song lục: Một hình thức đánh cờ, cũng có nguồn gốc từ ấn Độ, đánh hai người, có bàn gồm sáu cửa, nên gọi là "Song lục", chia thành nhiều ô, mỗi bên hai mươi quân, ai vào trước cửa là thắng (Từ Hải).

Tam Tư chẳng còn cách nào khác, chỉ còn biết theo Vi Hoàng hậu mà làm. Trung Tôn vào thấy vậy, cười hỏi:

- Hai khanh hơn ta nhiều, ngồi đánh song lục thật ung dung.

Tam Tư vội đứng dậy chào, Trung Tôn hỏi tiếp:

- Các khanh đánh được thì lấy gì làm phần thưởng?

Vi Hoàng hậu thưa:

- Ai thua thì mất một viên ngọc.

Trung Tôn ngồi xuống bên cạnh tiếp:

- Hãy để ta xem thử, ai thắng ai thua nào?

Hai ván đầu, mỗi bên được một ván, thua một ván, ván thứ ba Tam Tư thua. Trung Tôn nói:

- Hoàng hậu đã nói, ai thua thì mất một viên ngọc, nay hãy đem ngọc ra đi.

Tam Tư thưa:

- Ngọc của thần xấu xí, không đáng để bệ hạ xem, xin hôm khác sẽ lại đánh với hoàng hậu. Hôm nay sắp tối rồi, thần phải xin cáo tạ bệ hạ.

Trung Tôn phán:

- Đêm nay hãy ở đây dự yến đã, ngày mai về cũng không sao.

Tam Tư cùng Trung Tôn vào thư phòng, đã thấy đèn nến huy hoàng, yến tiệc bày sẵn, cả hai ngồi xuống, Tam Tư lên tiếng thưa.

- Hôm nay may mắn được vương thượng ban ơn thế này, thần thật không rõ nguồn cơn.

Trung Tôn đáp:

- Thì hãy cứ nhân dịp này ngồi chờ xem bên ngoài có chuyện gì chăng?

Lại tiếp:

- Hay là chúng ta cùng gieo trạng nguyên (1) để xem may rủi ra sao?

1 Gieo trạng nguyên: một lối chơi hai người trở lên, bằng cách lần lượt gieo cùng một lần sáu con xúc xắc, rồi tùy theo đó mà nhận những thẻ cao thấp khác nhau, cao nhất là trạng nguyên, đến bảng nhãn. thám hoa... Khi đã hết thẻ, tính điểm ở số thẻ mỗi người lấy được, ai nhiều thì thắng. Ở Việt Nam ta, trước cách mạng vẫn thấy cỏn trò chơi này, gọi là đánh tam hường. (Chú theo Lê Nguyên Trạm).

Tam Tư thưa:

- Gieo trạng nguyên cũng vui, nhưng chỉ có hai người thì không hay lắm. .

Trung Tôn đáp:

- Ta với khanh vốn họ hàng hãy mời hoàng hậu cùng Thượng Quan Chiêu nghi ra, cả bốn người chơi thì tha hồ vui vẻ.

Tam Tư thấy nói thế, mặt mày hớn hở thưa:

- Thế thì hay lắm!

Lát sau đã thấy Vi Hoàng hậu cùng Thượng Quan Chiêu nghi tuy chẳng son phấn nhưng đầy vẻ thướt tha bước ra, cả bốn người ngồi, lần lượt gieo xúc xắc. Đến lượt Trung Tôn gieo xong, cá ba người đều vỗ tay reo lớn:

- Hay quá! Trạng nguyên về tay bệ hạ rồi! Hay quá!

Trung Tôn đáp:

- Nếu thế thì hay quá! Toàn mặt lục cả thì mấy ai theo kịp.

Tam Tư thưa:

- Chẳng cần phải thế, cũng đã tuyệt diệu rồi. Nhất định mọi chuyện sẽ như ý, mau lấy chén lớn ra đây để chúc mừng điện hạ.

Trung Tôn uống một hơi cạn sạch. Thượng Quan Chiêu nghi gieo được bốn mặt tứ, vui vẻ nói:

- Tốt lắm? Bảng nhãn phần thiếp rồi!

Vi Hoàng hậu cất tiếng:

- Chẳng biết bảng nhãn hay thám hoa, cũng nên uống một chén. Đợi ta gieo được cả sáu mặt tứ sẽ biết tay nhau.

Hai người gieo tiếp. Trung Tôn thầm nghĩ: "Bây giờ đã đầu canh một rồi, sao vẫn chưa thấy động tĩnh gì cả. Nếu họ làm không xong, thì hãy cho Tam Tư về, sai người ra nghe ngóng xem sao?". Rồi bảo Uyển Nhi:

- Khanh hãy hầu hai người chơi, xem Thám Hoa về tay ai. Ta ra ngoài này một chốc sẽ quay lại.

Tam Tư thấy Trung Tôn đi khỏi, kéo ghế lại gần Vi Hoàng hậu, ngoài mặt là gieo xúc xắc, nhưng thực ra là để vua ve tay chân Hoàng hậu. Chiêu nghi Uyển Nhỉ thấy thế cười nói:

- Nương nương, thiếp xin đi tìm điện hạ đã!

Vi hoàng hậu đang chỉ mong có thế để cùng hú hý với Tam Tư.

Lát sau, đã thấy Uyển Nhi quay lại rối rít:

- Nương nương, nguy to rồi!

Hai người nghe tiếng, vội quay ngay lại bàn ngồi, cất tiếng hỏi:

- Có chuyện gì sao?

Lại thấy Trung Tôn, từ cửa chính đi vào, lớn tiếng gọi:

- Vũ đại nhân, hãy theo Uyển Nhi ra nhà sau ngồi một lát đã.

Tam Tư hỏi:

- Vừa rồi có chuyện gì mà bên ngoài huyên náo cả thế?

Trung Tôn đem việc bọn Giản Chi năm người muốn giết họ Trương, họ Vũ, mình đã khuyên không nên giết họ Vũ như thế nào, kể lại cho Tam Tư nghe. Nghe xong, Tam Tư vội quỳ sụp xuống đất van nài:

- Xin bệ hạ hãy cứu mạng thần!

Rồi run lật bật. Vi Hoàng hậu cất tiếng:

- Chúa thượng giữ khanh lại đây, vốn là có chủ ý, việc gì mà phải sợ hãi đến thế.

Các cung nga vào quỳ thưa:

- Bách quan đã tới ngoài kia, mời diện hạ ra.

Trung Tôn vội sai Uyển Nhi dẫn Tam Tư đi, rồi quay ra. Bọn Trương Giản Chi dẫn quân sĩ vào cung gặp ngay lúc hai anh em họ Trương đang ngủ say với Thái Hậu, không kịp chạy trốn, bị quân sĩ cho mỗi đứa một đao, chia làm bốn đoạn. Thái Hậu cả kinh. Bọn Giản Chi liền mời Thái Hậu sang cung Thượng Dương, thu lại ngọc tỷ đến tìm Trung Tôn thưa:

- Thái Hậu đã được đưa sang Thượng Dương, ngọc tỷ hiện đã ở đây trăm quan đều đã tới chờ ở bên điện, xin bệ hạ hãy mau mau lên ngôi báu.

Trung Tôn lên điện, bọn Giản Chi dâng ngọc tỷ cùng đưa trình thủ cấp anh em họ Trương, sau đó các quan làm lễ chúc mừng, tuyên cáo phục hồi quốc hiệu Đường, lập họ Vi làm hoàng hậu như cũ, phong phụ thân Vi Nguyên Trinh làm Thượng Lạc Vương, mẫu thân Dương Thị làm Vinh Quốc phu nhân, bọn Giản Chi năm người đều được phong tước vương.

Giản Chi thưa:

- Một nhà Vũ Tam Tư, cũng cần giết cả đi như anh em họ Trương, đã nghe bệ hạ dặn dò, nên cũng đã tha. Nhưng vẫn được ở ngôi vương, chúng thần quả không dám sánh ngang vậy.

Trung Tôn nghe vậy, bất đắc dĩ phải giáng Tam Tư làm tư không. Trăm quan tạ ơn ra khỏi cung. Trương sử Lạc Châu Tiết Quý Sướng nói với bọn Giản Chi:

- Hai anh em họ Trương tuy đã trừ, nhưng sản nghiệp bổng lộc vẫn còn. Nhổ cỏ không trừ tận gốc, rồi lại mọc cái khác mất.

Bọn Giản Chi đáp:

- Việc lớn đã xong. Bọn chúng như miếng thịt thừa, chẳng làm gì nên chuyện.

Quý Sướng than:

- Tam Tư chưa chết, bọn ta không biết sẽ chết lúc nào?

Trung Tôn cải niên hiệu Thần Long, tôn hiệu thái hậu Vũ Tắc Thiên là Đại Thánh hoàng đế, phong em Lý Đan làm Tương Vương, đại xá thiên hạ, trăm họ đều vui mừng.

Thái hậu từ ngày bị bọn Giản Chi đưa sang cung Thượng Dương, nghĩ lại những ngày qua, thấy chẳng khác gì mộng dài, lúc nào cũng khóc than nên bệnh tình kéo đến, ngày càng trầm trọng. Tam Tư cũng chẳng phải là do thương yêu gì, vào cung thăm hỏi, thấy thái hậu nằm dài, nhan sắc võ vàng, thân hình gầy khô, không ngớt lời thở than:

- Thần cũng nhiều việc phải lo, nên không thể thường xuyên vào hầu hạ, không ngờ thánh thể gầy yếu như vậy!

Rồi đưa tay vuốt ve thái hậu. Thái hậu cất tiếng:

- Cháu của ta ơi! Lâu ngày cháu không vào, không ngờ bệnh của ta đã vào đến cao hoang, chẳng qua một sớm một chiều phải đi hẳn thôi. Chẳng biết họ Vũ ta có còn giữ nổi chăng?

Tam Tư thưa:

- Bệ hạ chẳng nên lo lắng, thánh thượng đã hứa sẽ chu toàn cho họ Vũ. Thánh thể nếu được tĩnh dưỡng, nhất định sẽ khỏe mạnh ngay.

Tam Tư lại mách chuyện bọn Giản Chi hung hãn tàn ác ra sao, nên không thể thường xuyên vào thăm nom thái hậu, vừa kể vừa khóc. Thái hậu thở dài mà than:

- Cháu ơi? Gần đây ta nghe cháu tư thông với Vi Hoàng hậu, cả hai rất hoan hỷ. Cháu hãy nói với hoàng hậu, bảo hoàng hậu lập kế, trừ được năm kẻ gian này, thì ta mới yên lòng mà nằm gối cao ngủ kỹ được.

Tam Tư gật đầu. Thái hậu lại tiếp:

- Cháu hãy mời thánh thượng vào đây, ta có chuyện muốn nói.

Tam Tư quay ra tâu, Trung Tôn vào cung Thượng Dương, thái hậu dặn dò một hồi. Sau đó hai ngày, thái hậu qua đời, Trung Tôn hạ chiếu tuyên cáo thiên hạ, làm tang lễ chu đáo.

Chuyện không nói nữa.

***

Hãy nói chuyện Tam Tư, có binh bộ thượng thư Tôn Sở Khách, Ngự sử Trung thừa Chu Lợi Dung, Thị ngư sử Nhiễm Tổ Ung, Thái bộc Lý Tuấn Quang, Lộc thừa Tống Chi Tốn, Giám sát ngự sử Đào Thiện Chi làm tay chân, tai mắt, vốn được gọi là "Ngũ cẩu", năm con chó, cùng với Vi Hoàng hậu, Uyển Nhi, ngày đêm nói xấu bọn Giản Chi. Tam Tư ngầm sai người viết bảng nói những điều xấu xa của Vi Hoàng hậu, treo ở cầu Thiên Tân, xin hoàng thượng phế truất trị tội. Cao Tôn biết ra, vô cùng giận dữ, lệnh cho Giám sát ngự sử Đào Thiện Chi tra hỏi đến cùng.

Thiện Chi thưa chính bọn năm người Kinh Huy sai làm chuyện này, ngoài là muốn phế hoàng hậu, nhưng thực ra bên trong còn mưu phản nghịch, xin được tru di cả họ nhà bọn Giản Chi, để rửa sạch mối căm giận của hoàng hậu. Trung Tôn lệnh cho phát tư kết tội, bắt bọn Giản Chi, cả năm người vừa được phong vương đày đi các châu xa. Tam Tư lại sai tay chân phục sẵn ở dọc đường giết chết. Tam Tư từ đó thả cửa, quyền hành nghiêng thiên hạ, không ai là không sợ, Trung Tôn cũng chẳng để ý, mọi việc đều hỏi Tam Tư, thường nói với Tam Tư:

- Ta cũng muốn được như cô của khanh, tự mình lên ngôi báu, mới thỏa lòng này.

Không biết sự thể đến thế nào, hãy xem hồi sau phân giải.

Hồi Thứ Bảy Mươi Sáu

Dựng lầu gấm, cung tần bình thơ,

Dạo phố phường, đế hậu hành lạc.

Từ rằng:

Thiên "Tư can " Kinh Thi dạy gái(1)

Chí phép nhà lẽ phải nào sai

Hợm mình giỏi dám khoe tài

Những là bình luận ngân dài thơ văn

Cả vua, hậu, phi tần, công chúa

Việc tôn nghiêm sao nỡ khinh thường

Trong ngoài trà trộn lăng nhăng

Dưới trên ngâm vịnh bông phèng mỉa mai.

Theo điệu "Tây giang nguyệt"

1 Tư can: tên một bài thơ trong Kinh Thi, phần Tiểu Nhã, ca hát mừng làm xong nhà mới, có ý răn dạy dàn bà con gái giữ gìn nề nếp đoan trang, lo lắng công việc trong gia đình.

Người đàn ông có đức chính là có tài, người đàn bà vô tài lại chính là đức vậy. Cũng có khi, người đàn ông vừa có đức vừa có tài, nhưng người đàn bà có tài lại thường không có đức. Vì vậy, người đàn bà có tài, thường lại không được bằng người đàn bà tầm thường. Nàng Ấp Khuông mở đầu cho loạn lạc thời nhà Chu, cũng chỉ bởi cậy tài vậy. Bản thân tài không nhất thiết gây đến lụy, chỉ khi nào người ta ỷ vào tài mình mà làm bậy thì tai họa mới đến, đó chính là việc có tài mà không có đức.

Thật đáng tiếc thay. Ở người đàn ông chữ tài có khi khuynh loát trước chữ đức, nhưng ở người đàn bà, thì đức hạnh xấu để tiếng nghìn đời, dẫu có đủ tài sắc thế nào nữa vẫn thành chuyện cười cho đời sau. Vì vậy, người đàn bà có tài, không được tự huyễn hoặc, thì đó chính là đức vậy. Nhưng sự huyễn hoặc đó của người đàn bà, phần lớn lại đều do bởi người đàn ông mà có. Việc này ở hạng sĩ dân cũng đã không xong rồi, huống chi lại ở bậc vua chúa, hoàng hậu, công chúa chí tôn. Trong cung cấm đã không nghiêm, mà từ trăm quan cho đến phi tần, hoàng hậu công chúa, rượu tiệc thơ phú đủ chuyện lố lăng. Lại thêm bọn hoạn quan, lũ hề lùn ăn nói linh tinh, không phân ngôi thứ, thành một trò cười cho mai sau.

***

Nay hãy khoan nói việc Trung Tôn hôn ám, Vi Hoàng hậu lộng quyền, hãy nói chuyện trong số triều thần, có hai tài tử: một người họ Tống, tên Chi Vấn, tự Diễn Thanh, người Phần Châu, giữ chức Khảo công viên ngoại lang, một người họ Thẩm, tên Thuyên Kỳ, tự Vân Khanh, người Nội Hoàng, giữ chức Khởi cự lang.

Nếu nói chuyện tài năng thì một người tám lạng, một kẻ nửa cân. Nhưng Tống Chi Vấn mặt mày tuấn tú, cử chỉ phong lưu, chuyện trai gái lại rất thành thạo. Chi Vấn làm quan từ thời Vũ Tắc Thiên, nhân thấy bọn Trương Dịch Chi, Trương Xương Tông, cũng vì đẹp trai mà được Tắc Thiên sủng ái, phú quý không ai bằng, cho nên trong lòng không khỏi so sánh. Mỗi lần tấu bày trước mặt Vũ Tắc Thiên, thấy mặt mày Vũ Tấc Thiên nhìn ngó đong đưa, cũng có vẻ yêu thương, nhưng cuối cùng vẫn chẳng được triệu vào nội cung. Chi Vấn không nhẫn nại được nữa, phải nhờ một nội giám thân tín với Vũ Tắc Thiên tiến dẫn, khoe đủ tài năng trong ngoài của mình. Tắc Thiên cười mà đáp rằng:

- Trẫm không phải không yêu tài, nhưng nghe nói người này miệng hôi lắm, cho nên không thể gọi vào hầu hạ ngay cạnh nữa.

Nguyên là Chi Vấn, tuy đẹp trai, nhưng từ nhỏ đã có bệnh thối miệng, có người đã thưa cho Tắc Thiên rõ, vì vậy Tắc Thiên không muốn gần. Viên nội giám lại đem những lời này nói lại cho Chi Vấn biết. Chi Vấn vô cùng hổ thẹn, từ đó, thường hay ngậm kê thiệt hương, để lỡ may được triệu đến. (1) Chỉ cần một mẩu ngắn thế, cũng đủ rõ phẩm hạnh của bậc tài tử này vậy.

1 "Tùy đường giai thoại": Vũ Hậu ra chơi Long Môn, lệnh cho các quan làm thơ, ai xong trước sẽ được thưởng cẩm bào. Có người làm xong, được thưởng chưa về tới chỗ thì Tống Chi Vấn làm xong, đưa trình, thơ rất hay, Vũ Hậu bèn cướp áo bào của người kia, thưởng cho Chi Vấn.

Thẩm Thuyên Kỳ cũng vốn đi lại với Chi Vấn một bọn, về sau làm tay chân cho An Lạc công chúa, nhận ăn hối lộ bị người tố cáo, phải đày đi Hoan Châu, may được An Lạc công chúa che chở, lại được gọi về dùng. Lúc này An Lại chiếm phủ đệ cũ của Lâm Xuyên Trường Minh Công chúa, tu tạo lại, rồi mời Trung Tôn ngự giá tới thăm, sai Thuyên Kỳ hầu yến, lệnh cho làm thơ, để ghi lại việc hiếm có, hạn vần "Thiên". Thuyên Kỳ vâng mệnh, làm ngay một bài thơ luật sau đây:

Hoàng gia phú quý bậc thần tiên

Nhà dựng sông Ngân ở sát bên

Xây núi đã hơn hòn Phượng Lĩnh

Đào hồ chẳng kém nước Long Xuyên

Màn trao phí thúy thơm lầu trước

Thềm lát hoàng kim sáng cửa bên

Kính cẩn theo xe dong đến đó

Rượu đà chúc thọ lạc quân thiên.

Trung Tôn cùng công chúa xem thơ, ca ngợi mười phần, công chúa nói thêm:

- Khanh với Tống Chi Vấn tên tuổi ngang nhau, người đời vẫn gọi chung là "Thẩm Tống ", nay làm thơ phú, lẽ nào có Thẩm mà lại không có Tống hay sao?

Liền sai nội thị, triệu Chi Vấn tới. Công chúa trước tiên đưa cho xem bài thơ của Thuyên Kỳ, sau đó nói tiếp:

- Thẩm Khanh đã làm thơ thất ngôn, nay khanh hãy làm một bài ngũ ngôn luận xem sao.

Chi Vấn thưa:

- Thuyên Kỳ đội ơn thượng hoàng ra vần, nay thần cũng xin công chúa hạn vần cho.

Công chúa cười:

- Khanh tài không trời đất, hãy lấy vần "không" có nên chăng?

Chi Vấn vâng mệnh, viết bài ngũ ngôn sau:

Tôi hiền xây quán thụ

Chúa thành ngự nhà vàng

Khách đến sông Ngân hiện

Tiên về ánh nguyệt không

Đói mồi cột én hót

Vàng chói sắc cầu vồng

Đài Tần tiêu thánh thót(1)

Tường Lỗ sách trùng trùng (2)

Điệu múa trêu làn gió

Lời ca níu ánh hồng

Tìm nơi dừng gót ngọc

Rực rỡ hoa rưng rưng.

1 Tiêu Sử thổi tiêu rất hay, vua Tần Mục Công gả công chúa Lộng Ngọc, xây Phượng Đài cho vợ chồng ở. Sử dạy Lộng Ngọc thổi tiêu, chim phượng nghe bay tới đậu trước đài. (Điển cố văn học).

2 Sau "đốt sách, chôn học trò" của Tần Thủy Hoàng, người ta tìm thấy trong vách hai lớp, ở đền Khổng Tử nước Lỗ, những thẻ tre chép ngũ kinh (Từ điển tầm nguyên).

Thơ xong, công chúa vừa xem vừa khen. Trung Tôn cũng không tiếc lời ngợi ca, lệnh thưởng cho hai tấm đoạn, công chúa lại còn thưởng thêm. Hai người tạ ơn mà ra. Lần này Thuyên Kỳ trong lòng cũng có vẻ hậm hực, vì lâu nay tiếng tăm cả hai bằng nhau, không ai trên ai dưới. Nay chỉ thấy công chúa khen tài Chi Vấn trên đời không ai sánh, nên trong lòng không phục.

Đến năm Cảnh Long thứ ba, ngày ba mươi tháng giêng. Trung Tôn đi chơi hồ Côn Minh, ban yến cho quần thần. Hồ Côn Minh này đào từ thời Hán Vũ Đế. Vũ Đế vốn là một hoàng đế "hiếu đại hý công", muốn chinh phạt nước Côn Minh, nhân nước này có hồ rộng tới ba trăm dặm, cực kỳ hiểm trở, nên mới đào hồ này ở đây, để theo đó mà tập thủy quân. Vì vậy hồ vừa rộng vừa hùng vĩ, trong hồ có lầu các đình tạ, sẵn mọi thứ cho việc ngự du. Trước đó hai ngày, Trung Tôn đã truyền dụ cho trăm quan, mỗi người phải dâng một bài ngũ ngôn bài luật tức sự, sẽ tuyển bài thơ hay nhất, để phổ vào khúc điệu mới, vì vậy các quan đua nhau đem những lời hoa diễm nhất vào thơ. Vi Hoàng hậu nói với Trung Tôn:

- Các quan trong triều tự phụ tài cao, không tin rằng phi tần trong nội cung, cũng có người sẵn tài năng chẳng kém gì đàn ông. Cứ như ngụ ý của thiếp, ngày mai nên cho những bài thơ của quần thần làm ra, lệnh cho Thượng Quan Chiêu nghi bình duyệt, để mọi người thấy trong cung cũng có bậc tài tử, từ đó về sau, mỗi lần làm thơ ứng chế, không ai là không gắng hết sức.

Trung Tôn thích ý mà rằng:

- Những lời này thật hợp ý trẫm!

Uyển Nhi vội thưa:

- Thần thiếp chỉ là một cung nga, nay đứng ra bình phẩm thơ ca của trăm quan, liệu mọi người có phục chăng?

Trung Tôn cười:

- Chỉ cần khanh bình cho công bằng xác đáng, thì chẳng có điều gì đáng ngại cả.

Liền truyền lệnh dựng ngay trên bờ hồ. Côn Minh một tòa lầu phủ đầy lụa là, gấm vóc, để Thượng Quan Chiêu nghi ngồi bình thơ.

Thánh chỉ ban ra, người người nghị luận xôn xao, kẻ cho rằng coi thường trăm quan, nên lấy làm hậm hực. Cũng có người lại vui mừng, cho rằng đó là chuyện phong nhã. Đến ngày hôm ấy, Trung Tôn cùng Vi Hoàng hậu, Thái Bình công chúa, An Lạc công chúa, Trường Ninh công chúa, Thượng Quan Chiêu nghi đến hồ Côn Minh. Tiệc rượu đã bày sẵn, trăm quan triều bái xong xuôi, Trung Tôn ban yến ngay bên bờ hồ. Hoàng hậu cùng các công chúa thì dự yến ngay trong nội điện. Tiệc rượu xong, triều thần dâng thơ. Trung Tôn phán:

- Chủ khanh đều là bậc tài cao, nhưng lý ra phải có người cao kẻ thấp. Trẫm nhất thời hãy khoác áo ngồi nhàn, để xem Thượng Quan Chiêu nghi, tài giỏi bậc nhất của nội cung, thử duyệt bình giai phẩm của bách quan, cũng là làm nên một giai thoại cho đời sau. Các khanh hãy trổ hết tài năng xem sao!

Triều thần cúi đầu tạ ơn. Trung Tôn truyền cho mọi người ngồi ngay trong điện, hoặc dọc theo lan can, chia làm hai bên, ai thơ không được chọn đứng sang phải, còn ban đầu đều đứng trình trái điện.

Lát sau thấy Thượng Quan Uyển Nhi, đầu đội mũ phượng, khoác áo gấm thêu, hai tay áo rũ dài tha thướt, chẳng khác gì tiên nữ xuống trần, trước tiến về phía Trung Tôn cùng hoàng hậu tạ ơn, rồi cung nga đỡ lên lầu gấm, ngồi ngay trước lầu. Bên ngoài lầu treo một tấm biển, viết chữ lớn bằng sơn:

Thượng Quan Chiêu nghi, vâng mệnh hoàng thượng bình thơ, chỉ chọn một bài hay nhất, dâng lên hoàng thượng ngự xem. Những bài không trúng, sẽ trả xuống lầu, của ai người nấy nhận lại.

Ngay trước lầu, bày rất nhiều án thư, đặt đủ văn phòng tứ bảo, rồi nội thị lần lượt dâng trình thơ của các quan lên lầu để Uyển Nhi cầm bút chấm. Các quan đều ngồi ngửa mặt nhìn, chẳng mấy chốc thì thấy những bài thơ không được chọn liệng bay xuống, mỗi lần như vậy, mọi người lại tranh nhau cướp xem có phải của mình chăng, nếu đúng thì giấu ngay vào ống tay áo, lẳng lặng không một lời đứng về phía bên phải điện. Riêng Thẩm Thuyên Kỳ, Tống Chi Vấn, mặc cho giấy bay xuống như bươm bướm, vẫn đứng yên không động đậy, chẳng thèm nhặt xem, họ tự tin rằng thơ của mình nhất định hơn hẳn mọi người, không thể không được chọn. Cuối cùng thơ của xung quanh đều liệng xuống lầu hết, mà thơ của Thẩm lẫn Tống đều chưa thấy ném xuống. Thuyên Kỳ nói khẽ với Chi Vấn:

- Lệnh chúa thượng chỉ chọn một bài, nên trong số hai bài này phải có một bài bỏ ra. Hai chúng ta lâu nay tài danh tương đồng, khó phân hơn kém. Chỉ cần hôm nay, bài của ai được chọn thì hơn thua rất rõ ràng, mai nay không phải tranh nhau hơn kém lôi thôi.

Chi Vấn gật đầu tán thưởng. Mãi sau mới lại thấy một tờ giấy bay xuống, ai nấy đua nhau giành xem, thì ra là của Thuyên Kỳ, bài thơ như sau:

Xe vua dẫn xuân đến

Ao thánh đem Hán về

Hai sao rơi thềm cũ

Ánh nguyệt dẫn tro đi

Kìa tượng hình sấm động

Nọ thuyền ích gặp thì

Căng gấm hoa che núi

Buông màn liễu phủ đê

Ca Phần trỗi lời đẹp(1)

Tiệc Cảo dâng điệu quê (2)

Bầy tôi phận nhỏ mọn

Lạm dự hàng đẩu khuê.

1 Phần: Thành Phần Dương, nổi tiếng thời Hán, được coi là thời thịnh của phong kiến Trung Quốc.

2 Cảo: Kinh đô nhà Chu, cũng được coi là thịnh trị.

Ở cuối bài thơ có ghi cả lời bình rằng:

"Hai bài thơ của họ Thẩm, họ Tống, tài lực tương đương. Nhưng những câu cuối của bài thơ họ Thẩm, hơi văn đã cạn, còn của họ Tống vẫn rất dồi dào, bởi vậy bài này hơn bài kia vậy!

Trăm quan đang xúm lại xem, thì Uyển Nhi đã xuống lầu phục mệnh, đưa trình bài thơ của Chi Vấn. Trung Tôn, hoàng hậu cùng các công chúa truyền tay nhau xem, đều xuýt xoa ngợi ca tài người làm thơ, sáng suốt của người chấm. Trung Tôn truyền quần thần đến bên điện, đưa cho xem bài thơ của Chi Vấn:

Hồ xuân mừng gặp hội trời

Sóng vờn trướng phủ khắp nơi điện vàng

Cá kình uốn lượn tung tăng

Đoái trông bè trẩy lên từng đẩu ngưu

Cuối mùa cây cỏ nhấp nhô

Hơi xuân chầm chậm, lơ thơ liễu mành

Cảnh tình như tắm biển xanh

Kiếp xưa ai khiến cháy thành than đen

Nhà Chu đất Cảo rượu liên

Phần Dương Hán chúa thánh hiền nhạc ca

Chớ phiền là nỗi trong tà

Mừng xem châu ngọc chói lòa ngày đêm.

Vốn khi Vũ Hán đế đào hồ Côn Minh này, xúc được đến mấy vạn hộc than đen, không biết loại gì mới gọi Đông Phương Sóc tới hỏi. Đông Phương Sóc thưa:

- Việc này phải triệu nhà sư ở Tây Vực tới hỏi thì mới biết được?

Về sau có nhà sư Trúc Pháp Lan ở Tây phương tới, nhân đem than này hỏi, Trúc Pháp Lan thưa:

- Thế giới đến lúc tận diệt, tất cả các kiếp đều bị thiêu cháy thành từng vùng lớn, cái này chính là cái kiếp đó cháy chưa hết còn lại tro tàn này vậy. Đông Phương Sóc cũng biết chuyện này, sao lại phải đợi đến bần tăng thưa trình.

Trong hồ lại có xây đài, chính là Dự Chương đài, dưới đài có tạc những con cá kình bằng đá, mỗi khi có sấm có mưa, những con cá bằng đá này cũng gào thét. Hai bên đài lại có hai tượng người đá, tương truyền đó là những phiến đá từ trên trời rơi xuống, nên mới sai tạc thành tượng, những kỳ tích đó, đều được hai bài thơ nhắc tới. Các quan xem thơ đều không ngớt lời tán thưởng. Thuyên Kỳ cũng tự thấy mình không sánh kịp. Trung Tôn cũng đòi xem cả bài thơ của Thuyên Kỳ, lại đọc cả lời bình của Uyển Nhi, liền cười phán:

- Uyển Nhi phẩm bình thế, hai khanh thấy thế nào?

Hai người thưa thật xác đáng. Trung Tôn lại phán:

- Còn như bách quan thì thấy có công bằng chăng?

Triều thần đều thưa:

- Quả là cao tài trác việt thì phải nhường cho họ Thẩm, họ Tống. Đến bọn họ cũng phải phục, huống gì chúng thần.

Trung Tôn rất vừa ý, hôm ấy tiệc rượu rất vui vẻ, say sưa mới tan. Từ đó Thuyên Kỳ phải nhường Chi Vấn một bậc, không dám tranh hơn thua nữa.

Chính là:

Khoan nói tài thơ so Thẩm Tông

Hãy nghe nữ sĩ định hơn thua.

***

Lại nói Trung Tôn ngày càng bị Vi Hoàng hậu mê hoặc, thêm một lũ hề, con hát, cùng những nịnh thần ngày đêm vây kín, nên chẳng lúc nào nghĩ đến việc nước, suốt sáng thâu đêm vui chơi yến tiệc. Ngày tháng thoi đưa, chẳng mấy chốc đông hết xuân về, đã là tháng giêng, năm thứ tư đời Cảnh Long rồi. Phong tục kinh thành mỗi tiết thượng nguyên, khắp ba sáu phố phường, ba chợ đêm đến đều treo đèn hoa, lầu lớn nhà nhỏ đều kết lụa giăng gấm, người đi lại như mắc cửi, chuông trống rộn ràng, thâu đêm suốt sáng, chẳng hề cấm đoán gì. Có bài "Niệm nô kiều" sau đây làm chứng:

Đèn đuốc tựa cây cao sáng rực

Đêm kim ngô thả mặc rong chơi

Băm sáu phố phường

Ấy kiến hay người

Ngựa xe chen chúc, ngược xuôi ồn ào

Kết mấy ả áo đào quần tía

Dáng như tiên hồn vía ngẩn ngơ

Trâm rơi, tóc xổ bơ phờ

Dưới đèn lánh mặt, thân sơ biết gì

Quay đầu nghe tiếng gọi xa xa

Tết thượng nguyên này mấy thuở mà

Nót nói cười cười khôn cất bước

Một đoàn sau trước rộn sênh ca

Trăng là là

Cán sao đẩu tà tà

Giục ngựa dong xe

Hát hết khúc thái hòa

Đêm sắp qua

Mệt mỏi trẻ già

Màn thơm đệm gấm, về nhà nghỉ thôi.

Vi Hoàng hậu nghe nói ngoài phố nhộn nhịp, lòng như phát cuồng, liền cùng Uyển Nhi, các công chúa mời Trung Tôn, thay đổi y phục ra khỏi cung xem đèn. Trung Tôn vui vẻ nghe theo, thay ngay quần áo, mũ mãng, giả làm người ngoài phố. Lại sai lũ cận thần Vũ Tam Tư, cũng thay đổi dạng đi theo. Rồi cùng kéo ra đường xem đèn, không chút thận trọng. Quan lính lẫn dân chúng, đều thầm thì bàn tán:

- Đoàn trai gái xem đèn này, nhất định là ở nội cung ra, chẳng phải công chúa thì cũng là phi tần, chẳng phải vương tử vương tôn, thì cũng công hầu phò mã. Thật đáng buồn cười cho Đại Đường Hoàng đế, khó mà nói bởi trong cung không có đèn đuốc để xem, mà phải cho họ ra phố, cùng xem đèn với trăm họ, trà trộn hỗn tạp với biển người, chẳng phân trai gái hiền dữ, chẳng chia sang hèn, thật không còn thể thống gì nữa!

Mặc cho dân chúng nghị luận xôn xao, Trung Tôn cùng hoàng hậu dẫn bọn nam nữ cứ tìm chỗ đông nhất mà tới, mặc cho xung quanh giương mắt ngạc nhiên. Lại cũng cho các cung nga hàng nghìn người, làm thành từng đội đi đâu tùy ý, lúc về đến cung điểm lại, thấy thiếu rất nhiều, nhưng rồi không tiện truy tìm, nên đành yên lặng bỏ qua.

Chính là:

Hoàng hậu xem đèn dạo phố phường

Dưới trên trố mắt dám khinh thường

Bỏ vua cung nữ theo trai mất

Chúa thượng được khen tiếng biết nhường!

Sau việc xem đèn này, tiết xuân ngày thêm ấm áp, Trung Tôn cùng hoàng hậu, công chúa ra chơi cửa Huyền Vũ, xem cung nga bơi lội lại ban yến cho quần thần, sai trăm quan đua tài mua vui. Có người đánh đàn cầm, kẻ đàn Hồ, hoặc gõ trống, đủ thứ linh tinh. Riêng tế tửu Quốc tử giám Chúc Khâm Minh xin múa điệu "Bát phong vén tay áo đến dưới điện, hoa chân múa tay, uốn lưng quỳ gối, liếc ngang ngó dọc, uốn éo đủ bề. Trung Tôn, hoàng hậu cùng các công chúa đều vỗ tay cười nghiêng ngửa, đến cả bọn nội thị, cung nga không ai là không phải bịt miệng cười. Lại bộ thị lang Lư Thặng Dung, nói khẽ với người ngồi cạnh:

- Họ Chúc thân đứng đầu Quốc tử giám, làm những trò xấu xa này, thì thực hết cả Ngũ kinh (1) rồi vậy!

1 Ngũ kinh: Năm bộ sách hàng đầu của Nho giáo: Thị, Thư, Dịch, Lễ và Xuân Thu. Tế tửu Quốc tử giám: giám đốc trường đại học lớn nhất ở kinh đô Thư nghiệp Quốc tử giám: như khoa trưởng, giáo sư của trường đại học trên.

Quốc tử giám tư nghiệp Quách Sơn Huy cũng có mặt, thấy quan tế tửu làm những chuyện lố lăng đến thế, không giấu được hổ thẹn, đợi đến khi Trung Tôn hỏi:

- Quách tư nghiệp có tài gì, hãy cho trẫm xem thử nào?

Quách Sơn Huy vội rời khỏi ghế cúi đầu thưa:

- Thần quả chẳng có trò gì, xin đọc "Kinh Thi" để trợ hứng chúa thượng vậy.

Trung Tôn phán:

- Khanh giỏi đọc "Kinh Thi" sao? Đọc bài gì bây giờ?

Sơn Huy thưa:

- Thần xin vì bệ hạ đọc bài "Lộc minh" cùng bài "Tất xuất" vậy!

Rồi lên giọng đọc đĩnh đạc, trước tiên là đọc bài "Lộc minh":

1.Tiếng hươu ao ao

Gồm cỏ đồng nào?

Khách ta đã quý lại nhiều.

Kèn, đàn cùng sáo thấp cao nhịp nhàng

Tơ lụa tốt, hãy đưa sang

Tặng cho các bạn, lại càng nêu ta

Chỉ ta các nẻo gần xa.

2. Tiếng hươu ao ao

Gặp đồng cỏ hao

Khách ta đã quí lại nhiều

Rõ ràng riêng tôi, đức cao hơn người

Dân khinh bạc đổi dời tính nết

Quân tử nay đáng thật yêu gương

Chuộc chén quỳnh tưng

Thảnh thơi dạo gót bên đường.

3. Tiếng hươu ao ao

Gặm cỏ đồng nào?

Khách ta đã quý lại nhiều

Đàn cầm đàn sắt dập dìu nổi lên

Cùng vui rót chén rượu tiên

Khiến cho lòng khách bình yên vui vầy. (1)

1 Có tham khảo ban "Thi Kinh tập truyện" của Tạ Quang Phát, tập II, Trung tâm học liệu Sài Gòn, 1669.

Sau đó lại đọc bài "Tất xuất":

1. Con dế trong nhà

Năm tháng dần dà

Ta không vui lắm

Ngày giờ lướt qua

Đời thái khanh sắp hết chăng là?

Cửa nhà coi sóc việc ta bộn bề

Vui thì vui, chớ đam mê

Đã là quân tủ sớm khuya chuyên cần.

2. Con dế trong nhà

Ngày qua tháng lại

Ta không vui lắm

Tháng trọn ngày tiêu

Đời thái khang còn chẳng bao nhiêu

Việc ngoài ta liệu chắt chiu mọi bề

Vui thi vui chớ say mê

Đã là quân tử sớm khuya nhọc nhằn.

3. Con dê trong nhà

Xe cộ nhẩn nha

Ta không vui lắm

Ngày tháng phôi pha

Đời thái khang sắp hết chăng là

Lòng ta lo lắng xót xa từng ngày

Vui thi vui chớ mê say

Đã là quân tử lòng hay chí bền.

Sơn Huy đọc xong, Trung Tôn quay lại nói với Vi Hoàng hậu:

- Chính là Quách tư nghiệp dùng thơ để can gián trẫm đó, ý tứ thật kín đáo. Vì vậy các quan khác không phải trình diễn tài nghệ gì thêm, liền lệnh bãi tiệc.

Chính là:

Thầy Tế tửu múa bài "Tám gió"

Khắp đất rơi lả tả "Ngũ kinh "

Ấy ai đọc "Tất xuất , "Lộc minh "

Là thầy Tư nghiệp giữ mình thẳng ngay.

Lúc này Công chúa An Lạc nhân dịp xin Trung Tôn cho hồ Côn Minh này làm hồ riêng, nhà vua phán:

- Từ tiên đế lại nay, chưa từng đem những thứ này cho riêng ai.

Công chúa không bằng lòng, liền khởi công đào một hồ khác, lấy tên là "Định Côn trì", với ý thi thắng cả "Côn Minh trì", nên mới đặt tên thế. Đích thân Tư nông khanh Triệu Phúc ôn đứng trông coi công việc, chẳng biết hao phí bao nhiêu sức dân, tiêu hết bao nhiêu tiền của đất nước, mới làm nên hồ này. Trên hồ cũng xây đủ cả thù nhu, con hát, kéo tới vui chơi. Công chúa bày yến tiệc, để khoản đãi ngự giá cùng tùy tòng. Trung Tôn xem xét, quả là tráng lệ hơn hẳn Côn Minh hồ, rất vừa ý, liền truyền cho quần thần, ngay trên tiệc mỗi người làm một bài thơ, để ngợi ca thắng cảnh, Bách quan vâng mệnh, đang nghĩ ngợi, thì đã thấy Hoàng môn thị lang Lý Nhật Tri rời khỏi ghế đến trước ngự tiền tâu:

- Thần phụng mệnh làm thơ, chưa thành bài, mới chỉ được hai câu xin hãy trình chúa thượng.

Rồi cao giọng đọc:

Chỉ khen người ở rung rinh thế

Đâu biết người làm vất vả thay.

Trung Tôn nghe xong, cười:

- Khanh cũng định bắt chước Quách Sơn Huy lấy thơ để can gián trẫm sao?

Trung Tôn trầm ngâm hồi lâu, truyền cho nội thị:

- Các quan không phải làm thơ nữa, chỉ cứ việc uống rượu thôi!

Rượu đã say, thù nhu, con hát diễn đủ trò vui xung quanh hồ, Trung Tôn rất thích thú, lại truyền cho trăm quan làm từ "Hồi ba khúc" để góp vui. Lúc này Tống Chi Vấn cáo ốm không có mặt, chỉ thấy Thẩm Thuyên Kỳ. Thuyên Kỳ vốn giữ chức Cấp sự trung khảo công lang, bị cách chức chịu lưu đày, nay dã được nhà vua gọi về dùng, nhưng vẫn chưa được cất nhắc, nay nhân việc làm thơ này, định viết mấy câu tự trào, để may nhà vua có rủ lòng thương đến chăng. Bài thơ như sau:

Sóng dồi này như Thuyên Kỳ

Đầy xa may sống mà về

Ơn vua gọi ra làm lại

Nhưng chưa được cấp mũ hia.

Trung Tôn nghe xong khẽ cười, còn An Lạc công chúa thì nói:

- Thẩm khanh tài quá, dẫu có ban lại cho hết ngà, áo bào không phải là quá.

Vi hoàng hậu tiếp:

- Xin bệ hạ hãy ban thánh chỉ ngay cho.

Trung Tôn phán:

- Hãy thăng cho chức Thái tử thiểm sự.

Thuyên Kỳ dập đầu tạ ơn. Lúc này có thù nhu Tang Phụng, tiến đến trước Trung Tôn cùng hoàng hậu thưa:

- Thần cũng đã làm xong bài từ, nhưng có hơi ngược ngạo, đụng chạm tới đấng chí tôn. Nếu chúa thượng cùng hoàng hậu tha cho tội chết vạn lần, mới xin đọc vậy.

Trung Tôn cùng hoàng hậu đều phán:

- Khanh cứ việc đọc, có gì cũng sẽ không bắt tội khanh.

Tang Phụng liền sang sảng đọc:

Sóng dồi này như cái bị

Sợ vợ là chuyện rất quý

Ngoài triều chỉ có Bùi Đàm

Trong cung ai bằng bác Lý (1)

Vốn là Ngự sử đại phu Bùi Đàm, rất chuộng đạo Phật, nhưng lại gặp một người vợ ngỗ nghịch. Bùi Đàm sợ chẳng khác gì đối với một vị vua hách dịch. Bài Đàm thường nói: "Đàn bà có ba điều đáng sợ: lúc còn ít tuổi, trông như Quan âm Bồ Tát sống, làm gì có người nào lại không sợ Quan âm sống cho được! Đến khi con cái đầy đàn, thì trông lại chẳng khác gì quỷ cái chín con, ai là người dám nói không sợ loại quỷ này nào? Kịp đến khi già, bôi son trát phấn, lúc xanh lúc đỏ trông khác nào con quạ khoang, ai là người dám đứng ra đối địch!". Nghe những lời này, không ai là không cười đùa, gọi Bùi Đàm là Bùi Sợ Vợ (2).

1 Trung Tôn: họ Lý, tục chưa lên ngôi là Tần Vương Lý trị.

2 Nguyên văn mọi người gọi là "Bùi Phạ Bà" và khi về già trông phụ nữ chẳng khác gì một "con tu hú", thay bằng "con quạ khoang".

Vi Hoàng hậu lâu nay đang muốn theo gót Vũ Tắc Thiên, tìm đủ cách áp chế Trung Tôn, Trung Tôn cũng rất sợ, bởi biết thế nên Tang Phụng mới dám đọc những câu này, đã có Vi Hoàng hậu đứng chắn, không sợ gì Trung Tôn làm tội.

Chính là:

Thế gian sợ vợ khinh chồng

Coi thường, ác nghiệt là không ai bằng

Lạ cho bác Lý nhà Đường

Nàng dâu giống mẹ, trai thường giống cha.

Trung Tôn nghe xong cười ha hả, còn Vi Hoàng hậu cũng chỉ thản nhiên mỉm cười. Trong số bách quan, có Gián nghị đại phu Lý Cảnh Bá nghe thế, rất lấy làm buồn phiền, trước những chuyện ngứa mắt như vậy, nghe chẳng lọt tai, liền đứng dậy, tiến lên thưa:

- Thần cũng xin đọc một bài.

Rồi cất tiếng:

Sóng dồi này rượu một ly

Bầy tôi phải giữ lễ nghi

Tiệc vua chỉ uống ba chén

Cười đùa bắt tội tức thì. (1)

1 Những bài từ theo điệu "Hồi ba khúc" này đều có bốn câu, theo thể tục ngôn, và đều bắt đầu bằng chữ "Hồi ba nhi"... tạm dịch: "Sóng dồi này"...

Trung Tôn nghe xong có ý không vui. Đồng tam phẩm Tiêu Chí Trung lại tâu:

- Thật xứng bậc gián quan, xin bệ hạ hãy nghe theo lời Lý Cảnh Bá.

Trung Tôn truyền bãi yến, lên xe rồng về cung. Ngày hôm sau lâm triều, có người xin trị tội Tang Phụng, nhưng khi nghe Vi Hoàng hậu đã sai sứ đem vàng lụa thưởng cho Tang Phụng, chỉ đành thở dài rồi thôi.

Chú hề đùa cợt thật to gan ,

Vua chẳng nói gì, hậu lại khen

Nề nếp rối mù, đành mặc kệ

Khí âm thịnh thì khí dương tan.

Không biết sự thể ra sao, xin xem hồi sau phân giải.

Hồi Thứ Bảy Mươi Bảy

Thuốc độc giết hôn quân, như trò con trẻ,

Đao hờn băm nghịch hậu, thật thỏa lòng dân

Từ rằng:

Thiên tử là bậc chí tôn

Lẽ nào phi hậu khinh nhờn lăng nhăng

Bởi vua mù điếc bất nhân

Lại thêm nhu nhược, nể nang, đốn lười

Chiếu văn sắc chỉ

Mặc kẻ lộng hành

Biến loạn cung đình

Tài tình xuống dốc

Giang sơn gấm vóc

Thế giới hương hoa

Ngoảnh đầu liếc qua

Đau thương thắt ruột

Thế mà cứ:

Gương Võ Hậu lại toan bắt chước

Thưởng cùng phạt

Một mình muốn nắm trong tay

Hòng dựng xây

Ngàn đời công nghiệp

Muôn thuở căn cơ

Nhưng hoang dâm làm trò quay quắt

Tội giết chồng, tột giết cả vua

Muôn đội hùng binh Lâm Truy

Nổi dậy phát cờ

Tội thì đền tội

Tiếng nhuốc nhơ, rửa bằng gì?

Theo điệu "Nội gia kiêu"

***

Nay lại nói chuyện Thượng Quan Uyển Nhi, từ ngày kết lầu bình thơ, danh tài nổi như sóng cồn. Trung Tôn càng thêm sủng ái, thăng lên làm tiệp dư, phục sức, ăn ở chẳng khác gì phi tử, lại thêm Vi Hoàng hậu cùng các công chúa rất vừa ý Uyển Nhi. Uyển Nhi ngày càng kiêu ngạo, ngang ngược, chẳng còn sợ ai. Trung Tôn lại đặt thêm Tụ văn quán, tuyển các công khanh giỏi văn thơ như Thẩm Thuyên Kỳ, Tống Chi Vấn, Lý Kiều... khoảng hơn hai mươi người, phong cho làm Tụ văn quán học sĩ, thường xuyên ban yến ở trong nội cung để ngâm thơ vịnh phú, đua tài thi đẹp, đều sai Thượng Quan Uyển Nhi đứng ra định giá hơn kém, ghi chép thành sách, truyền vào Nhạc phủ. Vì vậy sĩ tử trong thiên hạ, tranh nhau sao chép truyền tụng, làm cho những nhà nho học chính trực, lẫn những lời công luận xác đáng đều không sao theo nổi.

Chính là:

Chẳng thân kẻ hiền lương phương chính

Chỉ học câu tuyết nguyệt phong vân.

Uyển Nhi lại bàn riêng với Vi Hoàng hậu cùng các công chúa, tâu với Trung Tôn, xin cho Uyển Nhi được lập phủ đệ ở ngoài cung, để tiện cho các học sĩ lui tới bàn luận thơ văn, nhân đó mà những kẻ quan viên không chút phẩm hạnh, ra vào phủ đệ lén lút rất nhiều, những mong được tiến dẫn, được trọng dụng. Uyển Nhi nhân đó mà giao thiệp với bọn thiếu niên lanh lợi, đêm hôm dẫn vào nội cung, đi lại với Vi Hoàng hậu cùng các công chúa, rất suồng sã. Lại thêm bọn triều thần như Thôi Thực, Tôn Sở Khách, trước thì đến với Uyển Nhi, sau trở thành tâm phúc của Vi Hoàng hậu cùng các công chúa.

Trung Tôn từ ngày xem đèn, lại quen thói thay đổi trang phục ra khỏi cung chơi, hoặc là đến phủ đệ của Uyển Nhi một mình, hoặc cũng đi chơi ngoài phố với Hoàng hậu, công chúa. Uyển Nhi từ ngày có phủ đệ ở bên ngoài, bọn cung nga sớm tối đi vào cửa cung coi sóc tha hồ phóng túng, mặc lời dị nghị, lại cũng chẳng ai dám thẳng thắn can gián. Chỉ riêng Hoàng môn thị lang Tống Cảnh dâng lên một mật sớ, đại lược như sau:

Hạ thần vừa nghe tiếng đồn ngoài phố rằng Thiên tử cùng Hoàng hậu, Phi tần, Công chúa cải trang trà trộn ra phường chợ để xem đèn, dân chúng trố mắt lấy làm lạ lắm! Lúc đầu hạ thần nghĩ rằng không thể có việc ấy được.

Sau đó mới rõ là lời đồn không sai, thần rất lấy làm kinh sợ. Sách "Chu lễ" dạy rằng: Phu nhân mà vào chợ thì bị phạt một bức trướng, quan khanh, đại phu, sỹ nhân mà vào chợ thì phạt một tấm màn. Vua một nước mà vào chợ thì kẻ tù nhân được đại xá. Chợ búa là chốn bụi bặm huyên náo, chỉ bọn trục lợi mới lui tới, không phải là nơi đặt chân của các bậc quân tử. Xét thấy vua, thế tử, mệnh phụ, vào chợ thì đều chịu phạt, huống chi nay Hoàng đế, Hoàng hậu, Phi tần, Công chúa là bậc tôn kính, sao dám thay đổi trang phục, đoàn đoàn lũ lũ đang đêm xông vào chốn nhơ bẩn. Xưa, ba nghìn cung nữ được ra khỏi cung cấm để về nhà là do chính lệnh tốt đẹp của Thái Tông Hoàng đế, nay bệ hạ đã không theo được vết xe tốt đẹp dường ấy mà còn buông thả hàng nghìn cung nữ tha hồ ra vào đi lại, để đến nỗi nhiều kẻ bỏ trốn không thể tra hỏi gì được. Vậy thì còn thể thống gì nữa? Vả lại cung phi không thể cho ra ở nhà riêng ngoài cấm thành được, mà bề tôi bên ngoài cũng không được phép ra vào nơi ở của cung phi. Những việc đó làm nhơ bẩn quốc thể, cúi xin bệ hạ thay đổi những lỗi lầm đó, ra ngay lệnh cấm nghiêm ngặt, kiểm soát người ra vào trong cung cấm, càng không nên làm chuyện rồng vàng đổi lốt cá trắng để tùy tiện dạo chơi, cũng không nên vô cớ tụ tập yến tiệc, để bọn a dua, xiểm nịnh ngâm bậy hát càn, nhất là lũ thù nhu, con hát trà trộn vào đám triều thần, trước mắt Hoàng đế, Hoàng hậu, Cung phi, Công chúa đùa giỡn thô tục không kiêng nể gì cả, khinh nhờn cả đấng chí tôn vạn thống, làm nhục cả đến trăm quan, gây nên sự bàn tán xôn xao ngoài dân chúng vậy.

Trung Tôn xem hết không nói, không ngự phê, không gọi vào hỏi han, cũng chẳng gì thay đổi cả. Tống Cảnh không biết làm thế nào. Vi Hoàng hậu thì ngày càng ngang ngược, chẳng sợ gì nữa. Thái Bình công chúa, An Lạc công chúa từ lâu đã được phép Trung Tôn cũng xây các phủ đệ riêng bên ngoài, sắp đặt các viện riêng, đều là phường vô sỉ, hãnh tiến tìm đến để mong còn leo cao hơn nữa.

Trong phủ của An Lạc công chúa, có hai gã thiếu niên được chọn vào hàng tâm phúc, một gã họ Mã, tên Tần Khách, một gã họ Dương, tên Quân. Mã Tần Khách thì thông thạo một vài môn thuốc, còn Dương Quân lại thạo việc chế biến các món ăn. Cả hai lại đều có diện mạo rất đẹp, nên được An Lạc công chúa sủng ái, đem tiến cho Vi Hoàng hậu, lại được hoàng hậu rất thương yêu, vì vậy Tần Khách chẳng mấy chốc đã leo lên đến chức Tán kỵ thường thị. Dương Quân cũng được nhắc tới Quang lộc thiếu khanh.

Lúc này Thôi Thục cùng Tôn Sở Khách tư thông với Thượng Quan Uyển Nhi, rồi qua Vi Hoàng hậu cùng các công chúa, trước mặt Trung Tôn, lấy lời ngon ngọt khen ngợi, rằng cả hai đáng giữ chức tể tướng. Trung Tôn liền thăng Sở Khách làm Trung thư lệnh. Thôi Thực làm Đông bình chương sự. Từ đó bọn tiểu nhân dắt đàn kéo lũ tham dự việc triều đình. Trong các chức quan lúc này, vẫn còn ba chỗ trống, lắm người dòm ngó, đứng ngồi không yên, chính là chức tể tướng, ngự sử và viên ngoại lang. Lại bộ thị lang Trịnh Am nắm quyền tuyển bổ, nổi tiếng tham lam bẩn thỉu. Có người tới xin bổ dụng, đeo một trăm đồng tiền vào giày, Am hỏi tại sao, người này thưa:

- Ngày nay việc lựa chọn quan chức, không có tiền không xong!

Am nghe xong, không nói gì. Trung Tôn cũng biết chuyện, nhưng lại nghe theo lời lẽ của bọn tiểu nhân, giao mặc mọi sự cho Lại Bộ. Lại thêm những sắc phong bằng chữ đen của Thái Bình công chúa, An Lạc công chúa cùng Trường Minh công chúa, cả Thượng Quan Uyển Nhi cũng mặc sức cất nhắc quan chức.

Vua Đột Quyết là Mặc Xuyết, quấy nhiễu biên giới nhiều lần đánh bại tổng quản Sóc phương Trương Nhân Nguyên. Mặc Quyết lại ngầm liên kết với Sở Khách trong triều, hối lộ rất nhiều để Sở Khách cản trở việc bình định vùng biên cương. Giám sát ngự sử Thôi Uyển dâng sớ hạch tội ngay trước triều đình. Nguyên là phép nhà Đường, quan đại thần mà bị các quan đàn hặc, thì cứ đối mặt mà bàn cãi ngày trước mặt hoàng dế. Lần này Khách không ra đối chất, cố giấu mặt giận dữ, tâu rằng những chuyện này đều do Thôi Uyển vu cáo, Tống Cảnh mới lớn tiếng căn dặn:

- Sở Khách sao còn lớn tiếng cãi liều, rõ ràng đã phạm luật pháp triều đình.

Trung Tôn cũng phất tay áo, chẳng hỏi đến, chỉ lệnh cho Thôi Uyển cùng với Sở Khách kết là anh em để hòa giải mọi chuyện kiện cáo. Người đời kể lại, lấy đó làm chuyện cười cho vui, và gọi Trung Tôn là "Chủ hòa thiên tử".

Lúc này xử sĩ (1) Vi Nguyệt Tương dâng sớ, nói thẳng chuyện Vũ Tam Tư vào nội cung tư thông, dễ sinh chuyện nghịch loạn. Vi Hoàng hậu nghe thế, nổi giận, khuyên Trung Tôn giết đi. Tống Cảnh thưa:

- Việc Vũ Tam Tư tư thông với nội cung, bệ hạ chưa tra xét chu đáo mà đã giết người dâng sớ, thì làm sao thiên hạ phục cho được. Nếu bệ hạ giết Nguyệt Tương, thì trước hết hãy giết thần đã? Nếu không, thần không thể nào vâng mệnh được!

1 Xử sĩ: kẻ có tiếng học hành chữ nghĩa nhưng không ra làm quan.

Trung Tôn truyền lệnh tha tội chết, nhưng bắt đi đày lâu dài mãi tận Lĩnh Nam.

Từ đó Trung Tôn trong lòng phiền não, hoài nghi, lệnh tra xét nghiêm ngặt việc ra vào cung cấm, bọn tiểu nhân do vậy không yên. Thái tử Trọng Tuấn thì sáng suốt đoán rằng, Trung Tôn do dự không quyết nên mọi việc sẽ chẳng ra sao. Ngay sau đó Ngụy Nguyên Trung vào nội điện trình diện. Trung Tôn liền đem dự định lập Thái nữ, phế Thái tử hỏi riêng. Nguyên Trung tâu:

- Thái tử hiện không làm điều gì thất đức. Sao bệ hạ coi nhẹ việc lớn của nước nhà. Xưa nay chưa từng có chuyện xưng Hoàng thái nữ cả. Vả lại nếu công chúa xưng là Hoàng thái nữ, thì phò mã xưng là gì bây giờ. Việc này theo hạ thần không nên vậy.

Trung Tôn nghe ra, mới bỏ không làm. Vi Hoàng hậu lẫn công chúa đều tức tối. An Lạc công chúa liền giục Vi Hoàng hậu mau giành lấy quyền chính, để mình được phong Hoàng thái nữ, nhưng nhất thời chưa lo liệu kịp.

Một hôm Dương Quân lo việc nấu nướng xong đem vào nội cung dâng. Vi Hoàng hậu nhân đó mới gọi vào mật thất, đuổi tất cả tả hữu, ngầm bàn mưu tính kế. Vi Hoàng hậu nói:

- Lão già này gần đây hay nghe lời bọn quan lại bên ngoài, nên có ý nghi ngờ mọi việc trong nội cung, điều này không thể không lo trước đi được.

Dương Quân thưa:

- Thần trông dáng mặt nương nương rực sáng như mặt ngọc vậy. Mai kia tất sẽ vinh hạnh phú quý không lường hết, nếu mà hoàng thượng trăm tuổi, thì tất là hoàng hậu ngự triều đường mà xưng "chế" vậy, có điều gì mà phải lo lắng nhiều?

Vi Hoàng hậu ngạc nhiên hỏi:

- Nếu như lão già đã nghi hoặc, ta làm sao để chờ được đến ngày lão ta trăm tuổi cho được?

Dương Quân trầm ngâm một lúc rồi cất lời:

- Nếu đúng như lời hoàng hậu, thì việc này phải dùng mưu mẹo mới xong được.

Vi Hoàng hậu ghé tai Dương Quân:

- Có loại thuốc nào thật tốt, có thể xong được việc này không?

Dương Quân thưa:

- Thuốc thì chỉ hỏi Tần Khách là có ngay. Nhưng việc này không phải là việc nhỏ, phải chọn đúng lúc mà làm. Không có dịp làm lại một lần nữa đâu.

***

Khoan nói hai đứa ngầm bàn mưu tính kế, hãy nói chuyện Thái tử Trọng Tuấn, nghe được chuyện Vi Hoàng hậu định mưu phế nghịch, trong lòng sợ hãi, lại thêm ngờ cả Tam Tư, Uyển Nhi mưu hại, nên định làm trước để trừ nguy, liền cùng bọn liêu độc trong Đông cung là Lý Đa Tộ, kéo ngự quân đến phủ đệ của Vũ Tam Tư, gặp ngay lúc Vũ Sùng Huấn đang tiệc rượu ở đây, đều bị bắt gọn.

Thái tử rút kiếm mà chém, rồi lệnh quân sĩ băm nát thây. Tất cả già trẻ nam nữ trong phủ đều bị giết hết. Lại kéo binh lính tới phủ Uyển Nhi. Trung Tôn nghe tin hoảng sợ vô cùng, vội ra cửa Huyền Vũ, trèo lên lều cao, hiểu dụ quân sĩ, một mặt sai vi lệnh Dương Tư Trợ ra đánh Lý Đa Tộ. Đa Tộ thua, tự đâm cổ mà chết. Thái tử cũng bị giết trong đám loạn quân.

Chính là:

Thái tử trừ gian, thân bị hại

Anh hùng chớ kể việc thành bại

Cung cấm lúc đó mà quét xong.

Làm sao Lâm Truy sau thành công?

Vũ Sùng Huấn chết rồi, Trung Tôn liền lệnh cho Vũ Đình Tú nối làm phò mã, lấy An Lạc công chúa. Đình Tú chính là em ruột của Sùng Huấn, thế là em trai lấy chị dâu, luân thường bị quét sạch khỏi mặt đất. Từ đó Vi Hoàng hậu quyền hành càng lớn.

Lúc này Tham quân Hứa Chân Yên Khâm Dung dâng sớ, nói rõ việc Vi Hoàng hậu lộng quyền dâm loạn, bọn Tôn Sở Khách lắm mưu nghịch, nguy hại cho xã tắc. Trung Tôn xem xong, chưa kịp ngự phê, thì Vi Hoàng hậu dã ra lệnh giết ngay Yên Khâm Dung. Trung Tôn trong lòng bực tức, nhưng vẫn không hiện ra mặt. Vi Hoàng hậu càng nghi ngờ không yên, liền ngầm bàn với Dương Quân:

- Lão già càng ngày càng trở chứng. Hôm trước đã bàn tới việc dùng thuốc, nay nếu không làm gấp, tai họa không biết sẽ đến lúc nào mà lường.

Dương Quân thưa:

- Mã Tần Khách có một loại thuốc, uống vào thì bụng đau, nhưng miệng không nói được, nếu uống thêm nhân sâm vào, lập tức chết ngay, không để lại dấu vết gì cả.

Vi Hoàng hậu bèn nói:

- Nếu thế, hãy đem ngay thuốc vào đây!

Dương Quân cười nói:

- Sau khi công việc mà thành, phải phong cho thần làm Vũ An Quân!

Vi Hoàng hậu đáp:

- Không phải nhiều lời. Phú quý cùng hưởng?

Dương Quân liền cùng Mã Tần Khách lẻn đem thuốc độc vào cung. Vi Hoàng hậu biết rõ Trung Tôn thích ăn bánh bao nhân sữa, liền đem thuốc trộn vào làm nhân, thừa lúc Trung Tôn đang ngồi nhàn trên Thần Long điện, chưa dâng ngự thiện vội, tự thân mang bánh dâng lên, Trung Tôn ăn ngay mấy cái, ban đầu thấy bụng hơi đau, sau đó thì đau dữ dội, đứng ngồi không yên, lăn lộn trên giường.

Vi Hoàng hậu giả vờ kinh ngạc hỏi han, Trung Tôn không tài nào nói được đưa tay chỉ vào miệng. Vi Hoàng hậu vội sai ngay nội thị:

- Chúa thượng muốn uống nước, mau đem nước nhân sâm tới đây!

Thực ra nước nhân sâm cũng đã được sắp sẵn rồi. Vi Hoàng hậu cầm ngay lấy, đổ vào miệng Trung Tôn. Trung Tôn uống xong, liền không động đậy gì nữa, cứ thế đến chiều thì, Ô hô! Qua đời!

Chính là:

Thánh đế xưa đà đếm lịch quen

Ơn vua, nay bánh vội dâng lên

Thương thay chả chết vì tay bố

Lại chết vì tay bà vợ hiền.

Vi Hoàng hậu làm xong chuyện thí nghịch rồi, giữ kín không chịu phát tang. Thái Bình công chúa hay tin Trung Tôn chết đột ngột, biết ngay là có sự mờ ám, nhưng không biết làm thế nào để cho rõ ràng, nên đành phải yên lặng chờ xem, rồi cùng bàn với Uyển Nhi, thảo sẵn một di chiếu, ý muốn đưa Trương Vương lên ngôi. Nhưng Vi Hoàng hậu cùng An Lạc công chúa không chịu, đòi lập Ôn Vương Trọng Mậu. Di chiếu thảo xong liền gọi đại thần vào cung. Vi Hoàng hậu nói thác Trung Tôn mất đột ngột, có di chiếu lập Ôn Vương.

Lúc này Trọng Mậu mới mười lăm tuổi. Vi Hoàng hậu lâm triều nắm mọi việc. Tần Khách khuyên Vi Hoàng hậu bắt chước Vũ Tắc Thiên, lấy con cháu họ Vi nắm quyền binh mã trong ngoài. Sợ bọn Tương Vương cùng Thái Bình công chúa không chịu, nên muốn tìm cách trừ đi, để vọng tưởng tiếm ngôi cao. Việc này đã được bàn định, ước hẹn thời gian hẳn hoi, giữa Vi Hoàng hậu, An Lạc công chúa cùng bọn Đô tri binh mã sứ Vi ôn.

Nhưng rồi con thứ ba của Trương vương là Lâm Truy Vương Long Cơ, đã từng làm biệt giá ở Lộ Châu, bị bãi chức trở về kinh, nhân thấy bọn tiểu nhân ngang dọc, mới ngầm tụ tập bọn dũng sĩ, mưu đồ sự yên ổn cho xã tắc. Binh bộ thị lang là Thôi Nhật Dung vốn theo bọn họ Vi, nay cũng sợ tài thao lược của Long Cơ, lại thấy Sở Khách một mình nắm giữ mọi việc, biết bọn này có mưu thoán nghịch, sợ mai sau liên lụy đến thân mình; liền mật sai một nhà sư ở chùa Báo Lâm là Phổ Nhuận, tới chỗ Lâm Truy vương tố giác mọi chuyện. Lâm Truy vương cả sợ, lập tức báo cho Thái Bình công chúa biết. Mặt khác mật bàn với Nội Uyển tổng giám Chung Thiêu Kinh, Quả nghị hiệu úy Cát Phúc Thuận, Ngự sử Lưu U Cầu, Lý Tiên Phù, đều thấy phải khởi sự trước, diệt ngay lũ thoán nghịch, ai nấy đều sẵn sàng liều chết lập công. Thái Bình công chúa cũng sai ba con là Tiết Sùng Hạnh, Sùng Mẫn, Sùng Giản tới giúp. Cát Phúc Thuận còn khuyên:

- Hiền vương khởi sự, lẽ nên tấu rõ cho Tương Vương Điện hạ rõ !

Lâm Truy Vương đáp:

- Ta làm việc lớn này là vì xã tắc. Công việc thành thì thuộc về phụ vương, nếu như không, một thân ta chịu chết, không lụy đến người thân. Nay mà thưa trình, nếu được nghe thì đưa người thân vào nơi nguy hiểm, nếu phụ vương không nghe, thì hỏng cả kế lớn, chi bằng không tâu trình gì cả là hơn.

Rồi thay đổi trang phục, dẫn mọi người lẻn vào nội uyển gần nửa đêm, bỗng thấy sao sa như mưa. Lưu U Cầu thưa:

- Ý trời đã vậy, đừng để lỡ dịp!

Cát Phúc Thuận rút kiếm tranh đi trước, vào thẳng trại của Vũ lâm điển quân. Bọn Vi Ôn, Vi Tuyền, Vi Phán, Cao Tung... xuất kỳ bất ý, trở tay không kịp, đều bị Phúc Thuận giết chết. Lưu U Cầu hô lớn:

- Vi Hoàng hậu đánh thuốc độc giết chết tiên đế, mưu lật xã tắc. Đêm nay chúng ta hưng binh trừ diệt lũ thoán nghịch, lập Tương Vương để yên thiên hạ, kẻ nào ở hai lòng, mưu giúp bọn phản loạn, sẽ bị tội cả ba họ!

Bọn Vũ Lâm quân cúi đầu nghe theo, Lâm truy vương dẫn mọi người ra khỏi cửa Nam Uyển, Chung Thiệu Kinh dẫn hơn hai trăm người làm trong Nam Uyển, cầm búa xách dao đi theo, lại có thêm cả lũ vệ binh cũng tiếp ứng.

Lúc này linh cữu Trung Tôn vẫn quàn ở Thái Cực điện, nhưng không thấy Vi Hoàng hậu ở đó, Lâm Truy Vương lại kéo binh lính tới Huyền Vũ môn, phá cửa mà vào. Bọn quân sĩ túc trực bên linh cữu, hò hét ầm ĩ đi theo. Vi Hoàng hậu hoảng sợ, nhất thời chẳng biết cậy vào ai, chỉ kịp mặc một áo trong mỏng, chạy ra khỏi cửa điện, gặp ngay bọn Dương Quân, Mã Tần Khách. Vi Hoàng hậu vội kêu cứu, hai gã dìu hai bên, chạy đến Phi kỵ doanh, những hòng tạm lánh cho qua, nhưng bị ngay tướng sĩ trong doanh, chém ngay đầu Dương Quân lẫn Mã Tần Khách, rồi băm thịt nát nhừ như bùn. Vi Hoàng hậu vội van xin tha thiết, tất cả tướng sĩ đều lớn tiếng quát:

- Giết vua dâm dục, người người đều thù oán!

Nhất tề cầm dao xông lên chém loạn, Vi Hoàng hậu chết ngay dưới làn đao.

Lâm Truy vương thấy Vi Hoàng hậu đã bị giết, truyền lệnh quét sạch lũ trốn trong cung. Vũ Đình Tú cùng Vân Tòng ngủ trộm trong Ngọc thụ hiên, cũng bị Lý Tiên Phú bắt được, cho hai đứa mỗi đứa một búa. Lưu U Cầu kéo Thượng Quan Uyển Nhi đến trước mặt Lâm Truy vương. Có người tâu, kẻ đã từng cùng Thái Bình Công chúa thảo di chiếu, định lập Tương Vương, lẽ nên tha tội chết. Lâm Truy Vương đáp:

- Con tiện tỳ này vốn một phường yêu dâm, làm loạn nghịch trong nội cung, tội không thể tha vậy!

Lập tức đem chém, rồi sai Lưu U Cầu đi bắt An Lạc công chúa. Trời đã sáng rõ, An Lạc công chúa ở dinh thự riêng cách biệt hẳn, chẳng biết gì đến chuyện biến động này cả, mới trở dậy rửa mặt, tô mày trước gương, Lưu U Cầu dẫn mọi người kéo lên chém bừa, vỡ nát sọ mà chết. Tất cả già trẻ trong dinh cũng đều bị giết sạch. Tôn Sở Khách chạy trốn, ra đến cửa Thông Hóa, cũng bị tướng sĩ coi cửa bắt lại giải ngay ra chợ, chém ngang lưng. Trong ngoài thế là đều yên.

Lâm Truy vương liền đến lạy Tương Vương, tạ lỗi không tâu trình trước. Tương Vương nói:

- Xã tắc tôn miếu không đến nỗi nghiêng đổ đều là do công của con cả .

Bọn Lưu U Cầu mời Tương Vương lên ngôi. Ngay sáng hôm ấy lâm triều, Thiếu Đế Trọng Mậu lên trên điện, Thái Bình công chúa dắt tay khỏi ngai vàng mà rằng:

- Chỗ này không phải là chỗ của lũ trẻ con ngồi. Phải nhường ngay cho Tương Vương.

Thế rồi quần thần cùng tôn Tương Vương lên ngôi hoàng đế, là Duệ Tôn, đổi niên hiệu làm Cảnh Vân nguyên niên. Trọng Mậu lại quay về làm Ôn Vương. Phong Lâm Truy Vương làm Bình Vương, làm lễ tế cố Thái tử Trọng Tuấn, tặng hậu tuất cho Lý Đa Tộ, Yên Khâm Dung... Truy phục quan chức cho bọn năm người Trương Giản Thi, truy phế Vi Hoàng hậu, An Lạc công chúa làm thứ dân, lùng kỳ hết bè đảng họ Vi. Duy có Thôi Nhật Dung đã sớm ra đầu thú có công, vẫn cho giữ chức cũ, còn lại đều trị tội. Em gái Vi Hoàng hậu là Sùng Quốc phu nhân, vốn là vợ của Bí thư giám Vương Hỗ, Vương Hỗ sợ vì vợ mà mang họa, mới đánh thuốc độc giết chết vợ, rồi ra tự thú. Ngự sử đại phu Đậu Tông Nhất, vợ vốn là nhũ mẫu của Vi Hoàng hậu, tục vẫn gọi chồng nhũ mẫu là a xa. Đậu Tông Nhất ngày thường lưỡi uốn dẻo kẹo không hề biết xấu hổ, đến giờ cũng tự giết vợ mình rồi đem nạp quan.

Chính là:

Xưa nhờ thế vợ nổi uy danh

Giết vợ nay mang tiếng bạc tình

Học được chính tông Ngô Khởi dạy (1)

Bố nuôi, chú dượng trọng hay khinh?

1 Ngô Khởi: Người nước Vệ thời Đông Chu, một có tướng có tài, không đức. Hay tin mẹ chết không hề thương xót, Tăng Sâm đuổi không cho học nữa. Lỗ kéo quân đánh Tề, vua Lỗ sợ Ngô có vợ người Tề, sẽ không hết lòng. Ngô bèn giết vợ để được vua Lỗ dùng làm tướng. (Tầm nguyên tử điển).

Cảnh Vân nguyên niên, bàn việc lập Đông cung Thái tử, Duệ tôn thấy Tống Vương Thành Khí vẫn là trưởng đích đáng ở ngôi, nhưng Bình Vương Long Cơ lại có công lớn, nên do dự không quyết.

Tống Vương liền dập đầu, khóc mà thưa rằng:

- Từ xưa đến nay chọn ngôi Thái tử, lúc quốc gia yên thì lấy con đích trưởng, khi quốc gia nguy thì lấy công làm đầu. Nay Long Cơ có công với xã tắc, thần dẫu có chết cũng không dám ngồi trên.

Lưu U Cầu cũng thưa:

- Bình Vương có công lớn. Tống Vương đã có đức nhường nhịn, xin bệ hạ hãy đền đáp công lao của Bình Vương, cũng là để tác thành cho cái đức khiêm nhượng của Tống Vương vậy.

Duệ Tôn liền ban chỉ, lập Bình Vương Long Cơ làm Thái tử. Về sau có người làm thơ, ngợi ca sự hiền đức của Tống Vương như sau:

Con trưởng là để nối ngôi

Đáng khen lại biết nhường người có công

Kiến Thành xưa nếu rộng lòng

Thì anh em sống vuông tròn cùng nhau.

Không hiểu sự thể sẽ ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi Thứ Bảy Mươi Tám

Thượng hoàng tốt, không cứu nổi công chúa hư,

Trương Duyệt sống, phải chịu thua Diêu Sùng chết.

Từ rằng:

Tên là công chúa Thái Bình

Cái tên thật đẹp, thật lành lắm thay

Thế mà chẳng được mảy may

Ác nghiệt chứa đầy, trời quyết chẳng dung

Khách thì cát, chủ thì hung

Chè rượu tiệc tùng rằng phụng mệnh vua

Bài văn kia đại hùng từ

Đã bị người chết toan lo trước rồi

Theo điệu "Giám tự Mộc lan hoa"

Bốn chữ tửu, sắc, tài, khí, người ta đều muốn thoát ra nhưng cũng chẳng được. Trong bốn chữ này, thì hai chữ tài, sắc lại đứng hàng đầu, vô luận phú quý, bần tiện thông minh, ngu độn, chẳng ai thoát khỏi hiếu sắc, tham tài. Về việc tham tài chính là ở chỗ keo kiệt với cái mình có, muốn lấy cái của người khác, để rồi bị người khác lung lạc mà không tự biết. Còn kẻ hiếu sắc, chẳng kể đàn ông say mê vẻ đẹp của đàn bà, hay đàn bà say đàn ông. Đàn ông thích đàn bà, còn có điều khả dĩ, ngược lại đàn bà si mê đàn ông, đến nỗi quên cả liêm sỉ, táng tận lương tâm, bại hoại luân thường như Vũ Tắc Thiên, Vi Hoàng hậu, An Lạc công chúa, Thái Bình công chúa thì thật là ..

***

Hãy nói chuyện Thái Bình công chúa, cùng góp tay với Thái tử Long Cơ để diệt trừ Vi Hoàng hậu, lập Duệ Tôn lên ngôi hoàng đế, quả có công lớn. Duệ Tôn cũng vì coi trọng công lao đó, thêm là họ hàng gần gũi, nên càng thương yêu.

Công chúa vốn thông minh, nhiều mưu mẹo quyền biến. Phàm công việc triều đình, Duệ Tôn đều bàn bạc với công chúa. Từ ngôi tể tướng trở xuống, dựng nên hoặc hạ xuống, đều chỉ quan hệ bởi một lời. Những kẻ xu thời, muốn tìm đường tiến thân, chen vai thích cánh trước công chúa đông như chợ. Tiết Sùng Hạnh, Sùng Giản, Sùng Mẫn, đều được phong vương, dinh thự vườn rộng rải khắp trong ngoài kinh thành.

Công chúa dựa vào việc được sủng ái, ngày càng lộng quyền kiêu sa phóng túng, ngầm kéo bọn thiếu niên đẹp trai vào trong phủ để cùng dâm loạn.

Lại thêm bọn sư hổ mang Tuệ Phạm, ngày càng được yêu chìu. Cả lũ này toàn bọn tiểu nhân, dựa thế tác oai, tác quái, làm tình làm tội dân chúng trăm chiều. Cũng may, trong triều lúc này cũng còn những đại thần chính trực như Diều Sùng, Tống Cảnh... vốn đường đường ngay thẳng, không sợ quyền gian, lại có Thái tử Long Cơ, nghiêm minh anh tuấn, lũ gian tham này vẫn ít nhiều sợ sệt mà không dám quá ngang ngược trắng trợn mười phần.

Lại nói Thái tử vốn là người có công dùng binh lính để dẹp loạn, nên dẫu lúc thái bình, vẫn không quên việc khí giới. Một hôm, nhàn rỗi, mới dẫn bọn nội thị lẫn quân sĩ hộ vệ Đông cung ra ngoài thành đi săn. Đến vùng đồi núi rộng ngoài thành, theo lệnh Thái tử, ai nấy bắn cung, thả chim săn, chó nòi, huyên náo một hồi, chim thú săn được không kể hết. Đang lúc ruổi ngựa say mê, thấy một con chương màu vàng óng (1) cứ men sườn núi mà chạy, Thái tử rượt ngựa đuổi bắn một mũi tên, không trúng, con chương càng chạy nhanh hơn. Thái tử nhất định không bỏ, theo sát con vật. Bỗng đến rìa một thôn nhỏ, không thấy con chương đâu nữa, lại thấy một phụ nữ, đang hái chè ngay sườn đồi. Thái tử dừng ngựa hỏi:

- Người có thấy một con chương màu vàng chạy qua đây không?

1 Chương giống như hươu nhưng nhỏ hơn, không có sừng, lọng vàng, rất phổ biến ở rừng núi Trung Quốc, Việt Nam (Thiều Chửu).

Người này chẳng đáp một lời, lặng lẽ hái chè. Lúc bấy giờ Thái tử chỉ thấy có hai tên nội thị theo kịp, một tên lớn tiếng quát:

- Con này cả gan thật, tại sao điện hạ hỏi ngươi, mà ngươi dám không trả lời một câu là sao?

Người phụ nữ không hề hoảng sợ, đưa tay chỉ ruộng chè xung quanh mình:

- Ta trong lòng chỉ biết có chè, chứ có biết con chương nào, điện hạ nào?

Nói rồi khoác giỏ, thong thả bước vào cổng tre sơ sài. Thái tử thấy cử chỉ khác thường, liền ra hiệu cho nội thị không được quát nạt, nhìn vào trong cảnh vườn thật là u nhã đáng yêu.

Đang lúc nhìn ngó, thì một thư sinh, cưỡi lừa ở đâu về cổng, thấy Thái tử đầu đội mũ kim, thân khoác hoàng bào, biết ngay là bậc quý nhân, vội vàng xuống ngựa cúi chào. Nội thị cất tiếng:

- Đây chính là Đông cung điện hạ?

Thư sinh bái lạy, thưa:

- Kẻ quê mùa này, không biết điện hạ giáng lâm, không kịp nghênh tiếp, xin điện hạ tha tội.

Thái tử đáp:

- Ta nhân đi săn, không ngờ tới đây!

Rồi chỉ ra cổng tre mà hỏi:

- Đây có phải nhà khanh chăng?

Thư sinh thưa:

- Thần hiện nương tạm ở đây, nhà lá vách nứa, nếu được điện hạ dừng ngựa nghỉ ngơi, thì thật lấy làm vinh hạnh.

Thái tử nghe nói, lập tức xuống ngựa tiến vào cổng, hoa lá tốt tươi sân thềm thanh nhã. Vào tới thảo đường, sách vở đầy án, kiếm cung, đàn nguyệt treo đầy vách trông rất đẹp mắt, gọn gàng. Thái tử trong lòng vui vẻ ngồi xuống, mới hỏi tên tuổi, thư sinh đáp:

- Thần họ Vương, tên Cư, nguyên là người Hà Nam.

Thái tử tiếp:

- Xem khanh dung mạo hiên ngang, nhà cửa phi phàm nhất định là bậc danh sĩ. Vừa rồi lại thấy người đàn bà hái chè, ngôn từ kín đáo, liệu có phải hiền thê của khanh chăng?

Vương Cư cúi đầu thưa:

- Đàn bà quê mùa, không biết thưa gửi, tội thật đáng chết.

Thái tử cười nói:

- Nhà khanh có nghề trồng chè, tất có trà ngon uống, hãy cho ta một chén giải cơn khát xem sao?

Vương Cư lĩnh mệnh, vội vào nhà trong. Thái tử ngẫu nhiên lật xem sách vở trên án, thấy trong một quyển sách, kẹp một tờ giấy, thì ra là thư của Diều Sùng, tự tay viết khuyên Vương Cư ra làm quan đại để như sau:

"Túc hạ tài năng kỳ vĩ, lâu nay Diều Sùng này đã được biết.

May gặp buổi ra giúp đời thật tốt, thật cơ hội hiếm có vậy. Nếu cứ bo bo cất giữ ngọc quý trong rương hòm, thật uổng phí tài năng, không phải là điều đáng trông mong ở bậc chí sĩ vậy.

Một câu gửi tới

Đừng ngại đổi thay. "

Thái tử xem xong, lại bỏ vào trong sách như cũ, lòng nghĩ:

"Người này vốn đi lại với Diều Sùng, lại được Diều Sùng kính mộ thế này, tất là người có tài lạ chăng?".

Vương Cư bưng trà ra dâng lên. Thái tử uống một chén, Thái tử ban cho Vương Cư ngồi rồi hỏi:

- Kẻ sĩ ôm tài, bao giờ cũng muốn thi thố, mà còn phải nghĩ tới chuyện ra cửa cho kịp thời, sao lại cứ mai danh ẩn tích mãi ở chốn hoang dã.

Vương Cư thưa:

- Đại phàm kẻ sĩ khi ra về, không thể cẩu thả, phải xem xét thời thế, mới có thể thi thố được cái chí của mình, mà chỉ cần một lần ra khỏi cửa là đủ. Thần nghe cổ nhân nói: "Quay lui thì dễ, nhưng bước ra thì phải thận trọng". Nên không dám coi thường việc ra khỏi cửa, chứ đâu dám nằm cao ở ẩn mà cao ngạo với đời.

Thái tử gật đầu đáp:

- Khanh đúng là có phẩm tiết của kẻ sĩ vậy!

Đang lúc trò chuyện, đội tùy tòng rầm rầm rộ rộ kéo đến, Thái tử đứng dậy ra cửa, Vương Cư đưa tiễn tận cổng ngoài. Thái tử lên ngựa, trân trọng từ biệt. Chuyện không nói nữa.

***

Hãy nói chuyện Thái Bình công chúa, sợ Thái tử anh minh, nên định lập kế phế bỏ, ngày đêm xiểm nịnh Duệ Tôn, kể nhiều tội Thái tử cả việc mưu kết nhân tâm, định làm những việc không lường tới. Duệ Tôn trong lòng hoài nghi, một hôm ngồi ngay trên điện, nói riêng với thị thần Vi An Thạch:

- Gần đây trong ngoài nhiều người nghiêng theo Thái tử, khanh thấy thế nào?

Vi An Thạch thưa:

- Bệ hạ nghe những lời vong quốc đó làm gì, đây chẳng qua chỉ là âm mưu của Thái Bình công chúa. Thái tử vốn hiếu thuận thủy chung, lại có công lớn với xã tắc, xin bệ hạ đừng tin những lời sàm báng.

Duệ Tôn sực tỉnh:

- Trẫm hiểu ra rồi?

Từ đó, những lời này không làm Duệ Tôn lo ngại nữa, Thái Bình công chúa càng hành động quyết liệt hơn, sai người phao nhiều tin nhảm về một vụ phiến loạn sẽ tới. Đến tai Duệ Tôn, nhà vua hèn phán:

- Ai nấy đều đồn năm ngày tới tất có việc binh biến trong nội cung, các khanh hãy lo liệu chu đáo cho trẫm.

Trương Duyệt thưa:

- Lời này tất là do bọn gian trá dựng nên, để hòng ly gián Đông cung với chúa thượng. Nay nếu bệ hạ để cho Thái tử giám quốc, thì lập tức những lời này cũng hết.

Diêu Sùng cũng thưa:

- Những lời của Trương Duyệt, đúng là mưu kế lớn vì xã tắc, xin bệ hạ hãy nghe theo.

Duệ Tôn bèn theo lời, ngày hôm sau hạ chiếu, mật lệnh cho Thái tử giám quốc. Thái tử vâng mệnh, lập tức sai sứ, đem lễ đến mời Vương Cư vào triều. Vương Cư không dám trái mệnh, cùng sứ giả vào ngay triều kiến, gặp lúc Thái tử cùng Diêu Sùng đang ngồi nghị sự ở nội điện. Vương Cư lên điện, cố tình đi chậm rãi, sứ giả khoát tay lia lịa mà giục.

- Điện hạ đang ngồi ngay trong nội trướng, không được dềnh dàng.

Vương Cư lớn tiếng:

- Ngày nay chẳng ai biết là có điện hạ, chỉ biết có Thái Bình công chúa thôi!

Thái tử nghe, vội chạy ra cửa xem, Vương Cư lạy chào xong, Thái tử cất tiếng:

- Vừa gặp lúc bạn quen cũ của khanh đang ở đây, hay cùng gặp gỡ.

Liền dẫn Vương Cư vào nội điện, chỉ Diêu Sùng mà hỏi:

- Đây không phải là bạn cũ của khanh sao?

Vương Cư đáp:

- Diêu Sùng quả có đi lại với thần, không hiểu sao điện hạ lại biết điều này.

Thái tử cười đáp:

- Hôm trước ở nhà khanh, trên án, thấy có thư do Diễn Sùng viết nên ta mới biết. Những lời lẽ trong thư, liệu nay khanh có nghe theo được chăng.

Vương Cư cúi đầu thưa:

- Thần không phải không muốn làm quan, mà thực là do chưa hề gặp bậc biết mình, nay may mắn được thấy điện hạ, không dám không đem theo thân báo đền. Nhưng không biết những lời thần vừa nói ngoài cửa, điện hạ có nghe thấy chăng?

Thái tử đáp:

- Nghe rõ cả .

Vương Cư nhân đó tâu:

- Thái Bình công chúa chuyên quyền dâm loạn, lại nuôi chứa lũ gian tăng Tuệ Phạm, ỷ thế ngang ngược, người đi đường không dám nhìn thẳng. Công chúa càn bậy đến thế, thì trăm quan có để làm gì, đều là những việc không hay gì cho điện hạ, sao không lo sớm đi.

Diêu Sùng tiếp lời:

- Vương Cư mới đến, nhất định nói toàn lời trung nghĩa, chính thế mà thần đi lại với Vương Cư vậy.

Thái tử đáp:

- Lời này quả là đúng rồi. Nhưng phụ hoàng ta có mỗi người em gái này, nếu có chuyện ra tay, sợ có phạm đến chữ hiếu chăng?

Vương Cư thưa:

- Chữ hiếu lớn nhất, chính là việc tận tâm với tôn miếu, xã tắc, đâu phải ở những chuyện nhỏ nhặt này!

Thái tử gật đầu:

- Hãy thư thư rồi lo liệu.

Liền lệnh cho Vương Cư đứng trong Đông cung thị ban, cùng bàn bạc mưu lược.

Tháng bảy, năm đầu hiệu Thái Cực (1).có sao Tuệ mọc ở phương Tây, xâm phạm Thái vi, Thái Bình công chúa ngầm sai lục phương sĩ tâu lên Duệ Tôn:

- Sao Duệ chủ diệt trừ việc cũ, lập việc mới, mà lại xâm phạm đến đế tòa. Hoàng Thái tử sắp lên ngôi thiên tử, phải tính toán cho chu đáo bởi sự ra đời của ngôi sao loạn lạc này!

1 Nhà Đường, một đời vua, thay niên hiệu rất nhiều lần, vì vậy có rất nhiều "nguyên niên".

Những lời này làm Duệ Tôn nghĩ ngợi, nhằm đánh vào Thái tử. Nào ngờ Duệ Tôn nhân điềm trời như vậy, trong lòng cũng đã đắn đo, nay những lời biện thuyết của lũ phương sĩ, liền điềm nhiên phán rằng:

- Điềm trời đã thế, ý trời đã rõ, sửa đức để trừ tai họa, ý trẫm đã quyết.

Liền giáng chiếu, truyền ngôi cho Thái tử. Thái Bình công chúa cả kinh, ra sức can gián không được. Thái tử cũng dâng biểu từ chối. Duệ Tôn đều không nghe, liền chọn ngày tốt của tháng tám, lệnh cho Thái tử lên ngôi hoàng đế, mang hiệu Huyền Tông. Phụng đưa Duệ Tôn lên Thái thượng hoàng, lập phi Vương Thị làm hoàng hậu, đổi Thái Cực nguyên niên làm Tiên Thiên nguyên, trọng dụng bọn Diêu Sùng, Tống Cảnh, lấy Vương Cư làm trung thư thị lang, bỏ những điều gian trá, tiến tới sự rõ ràng, trong sạch, mọi việc đều khởi sắc, thiên hạ đều hân hoan chào đón.

Chỉ có Thái Bình công chúa, ỷ thế thượng hoàng, chẳng thèm coi pháp độ vào đâu. Huyền Tông mới ngỏ ý cấm ngăn, công chúa đã nổi giận cùng với bọn triều thần Tiêu Chí Trung, Sầm Hy, Đậu Hoài Trinh, Thôi Thực kết bè đảng, bàn tính mưu kế chống đối, mong sao thượng hoàng phế vua cũ, lập vua mới, mật gọi thị ngự Lực Tượng Tiên cùng vào hội. Tượng Tiên sợ hãi lên tiếng:

- Không được! Không được! Chuyện này là chuyện gì mà dám làm càn thế này.

Công chúa đáp:

- Bỏ trưởng lập thứ, đã là chuyện không thuận rồi, nay lại thất đức phế đi thì có hại gì?

Tượng Tiên đáp:

- Nếu đã nói lấy công mà lập, thì phải lấy tội mà phế. Nay chúa thượng mới lên ngôi, thiên hạ đều theo, chưa làm gì thất đức, nào có tội gì mà phế được. Tượng Tiên này không dám nghe vậy.

Nói rồi, phất tay áo mà bỏ đi.

Công chúa liền thương nghị với bọn Thôi Thực, dựa vào chuyện phế lập, sợ lòng người không nghe, lại sinh họa, chi bằng hãy dùng thuốc độc mà mưu chuyện thí nghịch thì tốt hơn. Liền tìm cách đi lại với Nguyên Thị ở trong cung, tính chuyện bỏ thuốc độc vào trong thức ăn dâng lên Thái Tông. Vương Cư nghe được mưu này. Ngày mùng một tháng bảy, năm đầu đời Khai Nguyên, tan buổi chầu sớm, Huyền Tông lui vào điện trong, Vương Cư mật tâu:

- Việc Thái Bình công chúa đã bức thiết lắm rồi, không thể không phế trừ cho được.

Huyền Tông vẫn đang do dự. Trương Duyệt có việc, phải đi làm sứ giả Đông Đô, còn kịp sai người dâng lưỡi kiếm ngày thường vẫn đeo. Trương sử Thôi Nhật Dụng tâu:

- Duyệt dâng kiếm, chính là giục bệ hạ mau hành sự. Bệ hạ hãy nhớ thuở ở Đông cung, việc còn khó hơn nhiều. Nay quyền lớn trong tay, ra lệnh diệt trừ lũ phản nghịch, ai là không nghe theo, cớ sao vẫn còn trừ trừ?

Huyền Tông nói:

- Đúng như lời khanh nói, trẫm chỉ sợ làm kinh động thượng hoàng.

Vương Cư thưa:

- Nếu như gian thần đắc ý, xã tắc đảo điên, thượng hoàng liệu có được ngồi yên một chỗ chăng?

Đang bàn cãi, thị lang Ngụy Tri Cổ tiến lên điện, thưa có một lời mật cần tâu. Huyền Tông gọi lại bên án hỏi. Tri Cổ thưa:

- Thần dò ra mưu phản của tụi gian thần, định ngày mùng bốn tháng này khởi loạn, xin gấp diệt trừ ngay.

Cũng vậy nên Huyền Tông mới định kế, cùng với Kỳ Vương Phạm, Tiết Vương Nghiệp, Binh bộ thượng thư Quách Nguyên Chấn, Long Vũ tướng quân Vương Mao Trọng. Nội thị Cao Lực Sĩ, cùng với Vương Cư, Thôi Nhật Dụng, Ngụy Tri Cổ kéo lính vào Kiến Hóa Môn, bắt Sầm Hy, Tiêu Chí Trung, chém ngay ở triều đường. Đậu Hoài Trinh thắt cổ chết, Thôi Thực cùng cung nhân Nguyên Thị đều giết chết. Thái Bình công chúa trốn vào chùa, cũng bắt ngay ra, cho phép chết ở nhà. Không quên giết cả gian tăng Tuệ Phạm, ngoài ra bè đảng cũng bị giết rất nhiều.

Thượng Hoàng nghe tin biến loạn, vô cùng kinh hãi, ngự xe nhỏ ra khỏi cung trèo lên lều Thừa Thiêm môn hỏi nguyên do. Huyền Tông vội lệnh cho Cao Lực Sĩ tâu trình, nói rõ Thái Bình công chúa kết đảng làm loạn, nên phải trừ diệt, việc đã xong xuôi, không dám làm kinh động thượng hoàng, xin đừng lo ngại. Thượng hoàng nghe xong, thở dài về cung.

Chính là:

Mang tên công chúa Thái Bình

Việc làm lại chẳng dính dinh Thái Bình

Phải giết công chúa Thái Bình

Thì thiên hạ mới thái bình làm ăn!

Huyền Tông trừ xong bọn phản nghịch, nghe chuyện Lục Tượng Tiên một mình mà vẫn không chịu theo gian đảng, giữ được lòng trung nghĩa liền thăng ngay cho làm thứ sử Bồ Châu, lại còn gọi đến trước điện rồng khuyến khích.

- Đúng là mùa đông rét giá mới biết tùng bách cứng rắn vậy.

Tượng Tiên liền thưa:

- Kinh Thư dạy: "Chỉ giết kẻ cầm đầu, còn bọn a tòng thì không thèm trị". Nay những tên chủ mưu đã trừ xong, dư đảng xin hãy mở lượng khoan hồng để yên lòng người.

Huyền Tông theo lời, tha cho tất cả, lại thấy con của Thái Bình công chúa thường khuyên can mẹ là Triết Sùng Giản, nên nhiều lần bị đánh đập, đặc chỉ cho được khỏi tội chết, lại ban cho họ Lý, vẫn cho được giữ quan tước cũ, còn các phản thần khác cũng hạ quan tước, hơn kém khác nhau. Từ đó triều đình vô sự. Huyền Tông muốn đưa Diêu Sùng lên làm tể tướng. Trương Duyệt vốn sợ họ Diêu, nên xúi Diện trung giám Khương Kiểu tâu:

- Bệ hạ đang tìm người làm tổng quản Hà Đông, thần thấy có vị này là xứng đáng hơn cả.

Huyền Tông hỏi, Khương Kiểu đáp:

- Diêu Sùng văn võ toàn tài, thật đáng chọn vậy!

Huyền Tông cười:

- Đó vốn là ý của Trương Duyệt. Khanh sao dám lừa cả trẫm.

Khương Kiểu hoảng sợ, dập đầu tạ tội. Ngay ngày hôm sau, Huyền Tông giáng chỉ phong cho Diêu Sùng làm Trung thư lệnh. Trương Duyệt hoảng sợ, ngầm hối lộ Kỳ Vương, mong được che chở. Diêu Sùng biết chuyện lấy làm khó chịu. Một hôm vào triều, bước lên điện, giả vờ đi hơi khập khễnh. Huyền Tông liền hỏi:

- Khanh có tật chân sao?

Diêu Sùng nhân đó mới tâu:

- Thần có tật ở trong lòng, nào phải tật ở chân đâu!

Huyền Tông lại hỏi:

- Thế nào là tật ở trong lòng?

Diều Sùng thưa:

- Kỳ Vương là em trai yêu của bệ hạ. Trương Duyệt vốn là đại thần, ngầm đi lại kết thân, sợ có điều gì sai sót, thì thật đáng ngại thay.

Huyền Tông giận dữ:

- Trương Duyệt định làm gì đây. Ngày mai sai ngay ngự sử tra xem sao!

Diêu Sùng về đến Trung thư tỉnh, không nói một lời. Trương Duyệt cũng không ngờ, vẫn điềm nhiên ngồi ở sảnh đường, nha lại bỗng đưa một tờ thiếp vào, thì ra là của Giả Hoàn Hủ, nói chuyện rất gấp muốn xin gặp ngay. Trương Duyệt ngạc nhiên nói:

- Từ ngày y cùng đi với Tỉnh Hoa đến nay, chẳng hề nghe tin tức gì cả hôm nay bỗng xuất hiện, nhất định là có việc lạ.

Liền sửa áo mũ ra gặp, Toàn Hủ bái chào xong mới nói:

- Kẻ ngỗ ngược này từ ngày mang ơn đại nhân ẩn thân nơi rừng sâu núi thẳm, gần đây nhân nghèo túng không biết làm gì, mới quay về kinh sư đổi tên thay họ, viết thuê cho một viên nội thần. Vừa nhân cùng ngồi chuyện vãn với đại nhân cùng Kỳ Vương. Việc này Diêu Sùng đã tâu lên với chúa thượng. Chúa thượng rất giận. Ngày mai chúa thượng sẽ làm án trị, tai họa không thể lường. Kẻ ngỗ ngược này nghe tin, vội tới báo ngay cho đại thần rõ.

Trương Duyệt hoảng sợ:

- Bây giờ thì biết làm thế nào?

Toàn Hủ đáp:

- Nay đại nhân chỉ có một cách, phải tới cầu cứu Cửu Công chúa rất được hoàng thượng yêu quý thì may ra mới thoát nạn này.

Trương Duyệt băn khoăn:

- Kế này thật hay, nhưng trong lúc vội vã như thế này thì làm sao mà đến dinh công chúa được:

Toàn Hủ đáp:

- Kẻ ngỗ ngược này đã tính sẵn đường rồi, có thể mang lễ đến thưa chuyện với công chúa, nhưng đại thần phải có được một vật gì thật đáng giá mới xong.

Trương Duyệt cả mừng, lập tức giở hết vàng bạc, châu ngọc lâu nay ra. Toàn Hủ xem qua rồi đáp:

- Đều chẳng được việc đâu!

Trương Duyệt bỗng nhớ ra:

- Quận Kế Lâm từng biếu một rèm ngọc bằng dạ minh châu có thể dùng được.

Toàn Hủ nói:

- Hãy đem ra đây xem sao?

Trương Duyệt sai tả hữu lấy ra. Toàn Hủ xem rồi nói:

- Có thể được đây! Việc không thể chậm, phải xong trong đêm nay.

Trương Duyệt liền viết ngay một thư khẩn khoản cầu xin, rồi đưa cả hai thứ cho Toàn Hủ. Ngay hôm đó, Toàn Hủ gặp Cửu Công chúa, nói rõ ngọn ngành rồi đưa trình tấm rèm ngọc, lẫn thư tay ra.

Công chúa thấy tấm rèm, thích lắm, mười phần vừa ý, lập tức nhận lời.

Chính là:

Hiến đao quyết đoán vì vua

Hiến rèm là ý muốn nhờ chở che

Trên là trung nghĩa dũng vi

Dưới là hối lộ, là vì riêng tư.

Sáng hôm sau, công chúa vào ngay trong cung gặp phụ hoàng, thì Huyền Tông đã xuống chỉ, truyền Ngự sử trung thừa cùng đến Trung thư tỉnh tra xét chuyện Trương Duyệt ngầm giao kết với thân vương. Cửu Công chúa nghe thấy thế, liền tâu:

- Trương Duyệt vốn là thị thần của Đông cung lại có công trong giữ gìn ngôi báu, nay không đắn do kỹ mà làm tội nặng, chỉ mới nghi tư thông với Kỳ Vương, sai người tra xét. Sợ sẽ làm cho các vương lo lắng, không phải là điều mà hoàng thượng lâu nay vẫn đối xử với anh em vậy.

Nguyên là anh em Huyền Tông đối với nhau rất thân thiết. Thường vẫn dùng một cái gối thật dài, một cái chân thật lớn, rồi anh em các vương cùng nằm chung mà ngủ. Ngày thường ở trong cung, có làm lễ gia đình với nhau mà thôi. Tiết Vương bị bệnh nặng, Huyền Tông tự mình sắc thuốc, thổi lửa đến nỗi cháy cả râu. Tả hữu hoảng sợ, Huyền Tông thong thả đáp:

- Chỉ mong Tiết Vương uống thuốc này khỏi ngay, râu của trẫm thì có gì đáng tiếc!

Tình anh em vốn như thế, nên nay nghe công chúa nói, Huyền Tông bỗng động lòng truyền cho Cao Lực Sĩ , sang ngay Trung thư tỉnh, ban dụ miễn nghị tội, giáng Trương Duyệt đi làm thứ sử Tương Châu.

Trương Duyệt biết rõ công lao Giả Toàn Hủ, muốn trả ơn thật hậu, nào ngờ Toàn Hủ đã đi đâu từ lúc nào, tìm không tài nào thấy, cũng chẳng biết hỏi ai, thật đúng là bậc kỳ nhân.

Chính là:

Cứu nguy gỡ nạn không cần báo

Chỉ bởi rằng xưa tặng mỹ nhân.

Diêu Sùng làm tể tướng mấy năm rồi cáo tuổi già về nghỉ, tiến cử Tống Cảnh thay mình. Thời Vũ Tắc Thiên, Tống Cảnh vốn là người không a dua, nịnh bợ, đến khi được ở ngôi tể tướng, phong thái càng chính trực, trang nghiêm, ai cũng vừa kính trọng, vừa sợ hãi.

Lúc này nội thần có Cao Lực Sĩ, cùng Nhàn cứu sứ (1) Vương Mao Trọng, cả hai đều có công dẹp phản nghịch, được cất nhắc nhiều. Mao Trọng làm tới Mục mã phiên thứ, lại được mở phủ đệ, hàm ngang với tam ty, vinh sủng không ai bằng, triều thần nhiều kẻ phải đến cửa lạy lục. Riêng Tống Cảnh coi như không có.

1 Nhàn cứu sứ: coi sóc việc nuôi ngựa trong nội cung.

Hôm ấy, con gái Mao Trọng làm lễ cưới với con một bậc tai tiếng trong triều. Mọi chuyện xếp đặt xong xuôi. Huyền Tông biết, mới hỏi:

- Khanh gả con gái, mọi chuyện đã gọn gàng cả chưa?

Mao Trọng thưa:

- Mọi chuyện thần đã lo đủ cả. Chỉ còn chuyện mời khách để cho thêm danh giá thì thật là chưa ổn.

Huyền Tông cười:

- Ai cũng mời được, chỉ còn một người mà khanh không dám mời thì tất là Tống Cảnh rồi. Việc này để trẫm sẽ lo cho khanh nhé!

Liền ban chiếu rằng từ tể tướng tới các quan đại thần, ngày mai đều phải dự yến ở nhà Vương Mao Trọng.

Ngày mai, các quan đều tới sớm, Tống Cảnh vẫn chẳng thấy đâu Mao Trọng vội sai người thăm dò xem sao. Tống Cảnh nói thác ốm, không thể tới sớm, rồi cứ dềnh dàng mãi, quan khách ai nấy cung kính chắp tay chờ. Mãi tới quá ngọ (1) Tống Cảnh mới bước vào, cũng chẳng chào hỏi gì chủ nhân lẫn khách khứa, gọi lấy ngay rượu ra, cầm chén rượu trên tay, cất tiếng:

- Hôm nay vâng chiếu vua đến đây uống rượu, trước tiên xin được tạ ơn.

Rồi hướng về phương Bắc mà lạy (2), dốc uống chưa hết một chén, đã thấy la lớn đau bụng, không thể ngồi dự tiệc, quay về phía quan khách tạ lỗi, rồi trèo lên xe mà về ngay.

1 Giờ ngọ: Tử 11 đến 13 giờ.

2 Vua ngồi quay hướng Nam, nên bề tôi quay hướng Bắc mà lạy!

Mao Trọng tức giận mười phần, nhưng Tống Cảnh vốn chính trực, trong sạch, cả triều đình đều kính sợ, làm thế nào được bây giờ. Nên chỉ dám giận mà không dám nói. Rồi cùng mọi người tiệc rượu, mãi tối mới tan.

Chính là:

Chủ nhà chọn khách mà mời

Khách phải chọn chủ mà đến

Khách xấu thì đừng có chơi

Chủ xấu thì đừng đánh bạn.

Về sau Mao Trọng cậy mình được sủng ái, có hiềm khích với Cao Lực Sĩ, nhân vợ mới sinh con trai, được ba ngày. Huyền Tông sai Cao Lực Sĩ đem vật quý đến ban cho, lại phong cho đứa trẻ mới đẻ tước quan ngũ phẩm. Mao Trọng vừa làm lễ tạ ơn, vừa giương giương tự đắc bồng đứa trẻ mới sinh ra khoe Cao Lực Sĩ xem, rồi nói thêm:

- Đứa bé như thế này mà không đáng được phong tước tam phẩm sao?

Cao Lực Sĩ yên lặng không nói, trở về cung phục mệnh, đem ngay lời này tâu lên, lại thêm vài câu hiểm độc nữa. Huyền Tông cả giận quát:

- Thằng chăn ngựa này chịu ơn sâu của trẫm như vậy, mà lại dám buông lời oán vọng sao?

Liền giáng chỉ tướt hết quan tước, lưu đày ra châu xa. Lực Sĩ lại sai người tố cáo, bới móc những chuyện kiêu ngạo, ngang ngược coi thường phép nước của Mao Trọng, cuối cùng Mao Trọng phải chịu tội chết. Nhưng đó là chuyện sau này.

***

Lại nói chuyện Diêu Sùng sau khi thôi chức tể tướng, được phong tước Lương Quốc Công, trở về ở trong dinh thự riêng của mình. Đến năm thứ chín hiệu Khai Nguyên, tuổi cũng đã cao, bị cảm gió lạnh nhiễm thành bệnh, mời thầy thuốc chữa chạy, chẳng ăn thua gì. Diêu Sùng cả đời vốn chẳng tin Phật giáo lẫn Đạo giáo, không cho người nhà làm tế lễ gì cả, mấy ngày sau, bệnh càng nặng thêm, tự biết không thể qua khỏi, bèn gọi con đến trước giường, đọc cho con viết một tờ biểu, dâng lên Huyền Tông xin triều đình bãi ngay những quan lại thừa, sửa sang lại pháp độ, tập luyện binh sĩ, cấm tiệt những mê tín nhảm nhí, các quan chức nên dùng những kẻ đã lâu năm, quen việc, nhưng pháp luật thì lại nên rộng rãi. Hết điều này sang điều khác cộng có hàng trăm mục đều là những điều rất quan yếu trong việc nước, được viết rất cẩn thận, dâng lên. Sau đó lại mới dặn dò chuyện nhà; dặn kỹ sau khi chết, không được theo thói thường của người đời, mời nhà sư, thầy pháp để đưa linh, cầu hồn, lấy đó làm phép nhà mãi mãi. Người con thứ nhất vâng theo. Mãi tới lúc lâm chung, lại nói với con rằng:

- Ta làm tể tướng mấy năm, tuy chẳng nên công nghiệp gì lớn, nhưng cũng được người đời đều gọi là "Cửu thời tể tướng", từ lời nói đến việc làm, cũng có nhiều điều đáng thuật lại. Sau khi ta chết rồi, bài văn bia khắc trên mộ, nên chọn được một tay bút đại tài, để có thể truyền cho đời sau. Điểm mặt các tay văn chương bây giờ, chỉ còn mỗi Trương Duyệt, nhưng ta với họ Trương chẳng đằm thắm gì, nếu có khuất mình mà đến xin chữ nghĩa họ Trương, nhất định y sẽ chối từ không chịu nhận. Con hãy theo kế hoạch này của ta mà làm: khi ta chết rồi, con lấy các đồ vàng ngọc, bày biện ngay cạnh linh sàng, y nghe tin ta chết, nhất định sẽ tới phúng. Nếu thấy những thứ quý giá đó, mà không thèm nhìn, bỏ đi, thế mà y vẫn còn oán ta chuyện ngày xưa mà còn nghĩ đến chuyện báo thù, thì thật là đáng ngại. Còn nếu y lại cầm lấy để xem, có ý ham muốn, thì con hãy nói rằng đó là những thứ của tiên nghiêm (l) để lại, đem biếu tất cả. Ngay sau đó nhờ y viết văn bia. Y sẽ sẵn sàng nhận lời. Con phải nói y viết nhanh, viết xong, con lập tức khắc ngay vào đá, mặt khác liền trình ngay lên cho nhà vua xem thì tốt nhất. Con người này vốn tham lam, nhiều mưu mẹo, nếu để lâu hoặc chưa kịp khắc vào bia đá, y tất sinh hối hận, đòi đưa lại. Nay đã đưa nhà vua ngự lãm, tất không thể sửa, bài văn dẫu có nhiều lời khen đi nữa, sau này muốn chữa bằng những câu "bới lông tìm vết", để báo thù xưa, cũng không kịp nữa. Nhớ lấy! Nhớ lấy!

1 Tiên nghiêm: chỉ kính trọng người cha đã mất (của mình hoặc của người đều được)

Nói xong, nhắm mắt, qua đời. Người con dậm chân than khóc, lập tức dâng biểu lên tâu trình, cáo phó các quan viên, xếp đặt tang ma.

Đại liệm xong xuôi, liền bày mành trướng để làm lễ phúng, các quan trong triều đều tới lễ lạy. Trương Duyệt lúc này đang làm học sĩ ở Tập hiền viện, cũng có mặt.

Người con theo đúng như lời dặn dò, đêm rất nhiều đồ vàng ngọc quý, bày ra bàn ngay cạnh linh sàng. Trương Duyệt phúng xong, người con cúi đầu tạ ơn, họ Trương bỗng thấy rất nhiều thứ bày trên bàn, nhân mới chỉ tay mà hỏi:

- Tại sao lại bày những thứ này ở đây?

Người con đáp:

- Những thứ này đều là những thứ tiên nghiêm ngày thường vẫn thích, chọn một vài thứ, bày ra đấy gọi là vậy.

Trương Duyệt đáp:

- Lệnh tiên công đã thích, tất phải là những thứ khác thường.

Liền bước tới bên bàn, cầm lấy từng thứ xem xét, tán thưởng không ngớt. Người con liền thưa:

- Những thứ này không đáng để tiên sinh để ý, nếu không chê là thô lậu, xin được đưa sang dâng tiên sinh.

Trương Duyệt thản nhiên đáp:

- Thật được công tử quá thương đến, nhưng chẳng lẽ lại định đoạt lấy những thứ lệnh công ngày xưa thích sao?

Người con thưa:

- Tiên sinh vốn là chỗ bạn bè của tiên nghiêm, dẫu tiên nghiêm có còn, cũng chẳng tiếc. Phương chi tiên nghiêm từng dặn lại, muốn được cây bút lớn của tiên sinh viết cho một bài văn bia, sao lại dám tiếc gì châu ngọc. Chỉ mong tiên nghiêm dẫu chết cũng còn tiếng danh, kẻ bất hiếu này xin kết cỏ ngậm vành để báo ơn, mấy thứ đồ này liệu có đáng gì đâu!

Nói xong, khóc mà lạy sát đất. Trương Duyệt nâng dậy mà rằng:

- Bút thô lỗ này lấy gì đã làm quý, nay đã được để tâm đến thế, sao lại không dám đem hết tài để ngợi ca lệnh tiên công.

Người con lại lạy tạ tạ ơn. Trương Duyệt đã về. Người con đem tất cả những thứ đã bày, sai người đưa sang, lại nhờ người dùng lời mềm mỏng, để lấy lại ngay được bài văn, gọi thợ đục đá, mài bia chờ sẵn, chỉ đợi được bài văn về là khắc ngay.

Trương Duyệt mới nhận được những đồ tặng quý của người con, trong lòng hoan hỷ, liền viết ngay một bài văn bia thật hay, ngợi ca công nghiệp của Diêu Sùng mấy năm làm tể tướng thật hùng hồn, hoa mỹ, lại thêm tỏ tình cảm phục hàng ngày của mình ra sao. Văn vừa viết xong, người nhà họ Diêu đã chờ sẵn để xin về.

Người con được bài văn, lệnh ngay cho thợ đá khắc suốt đêm ngày. Đang định đưa trình Huyền Tông, thì gặp ngay lúc Huyền Tông sai Cao Lực Sĩ tới để lấy những trước tác của Diêu Sùng. Người con nhân dịp đưa cả bài văn bia của Trương Duyệt, nhờ Cao Lực Sĩ trình ngay lên hoàng thượng, Huyền Tông xem xong liền khen:

- Con người này phải có bài văn này để biểu dương mới đáng.

Lại nói Trương Duyệt qua một đêm bỗng nghĩ ra:

"Ta với họ Diêu vốn bất hòa, mấy lần chịu họa với lão già này. Nay họ Diêu chết, ta chẳng nghĩ tới chuyện báo thù cũng là đã rộng rãi lắm rồi, sao lại còn làm văn ngợi ca. Nay đã trót khen, mai kia làm sao mà chê được nữa. Thế là dẫu có người chê họ Diêu, ta lại phải đứng ra mà bênh vực sao, điều này quả không xong rồi".

Lại nghĩ bài văn vừa đưa xong, nhất định chưa khắc, còn có thể đòi về viết thêm một bài khác, mang đầy đủ ý bao biếm của kinh "Xuân thu" Khổng Tử. Liền sai ngay người sang nhà họ Diêu đòi bài văn, nói là để thêm vào mấy câu nữa. Con trai họ Diêu liền nói với tên tay chân sang:

- Hôm qua nhờ ơn học sĩ múa bút, một chữ cũng không dám sửa, lập tức cho khắc vào bia, rồi lại đã trình lên thánh hoàng ngự lãm, thật không thể nào chữa được nữa!

Tay chân cứ thế về thưa lại, Trương Duyệt dậm chân mà than:

- Thế là hoàn toàn ở trong vòng tính toán của họ Diêu rồi. Ta là một Trương Duyệt sống hẳn hoi, mà lại thua Diêu Sùng đã chết vậy. Cũng đủ thấy tài ta không bằng họ Diêu vậy!

Chính là:

Mắc mẹo la oai oái

Ăn năn sự đã rồi.

Diêu Sùng chết rồi, triều đình ban cho thụy là Văn Hiến. Sau đó Trương Duyệt, Tống Cảnh, Vương Cư lần lượt qua đời, lại có các tướng hiền lương như Hàn Hưu, Trương Cửu Linh, đều là những người được nhà vua vừa kính, vừa sợ. Nhưng rồi cũng chẳng được bao lâu, người thì cáo tuổi già, người thì qua đời, trong triều ngày càng tiêu điều. Huyền Tông ở ngôi lâu, công việc triều chính ngày càng nhác. Lúc mới lên ngôi, chăm việc, tước ước, mấy lần đốt châu ngọc, lụa là trước điện, lại thả cho ra mấy ngàn cung nữ. Nhưng càng về sau càng học thói xa hoa, sủng ái người đẹp ngày càng quá quắt. Trong số phi tần, chỉ có Vũ Huệ Phi là người được yêu quý hơn cả. Hoàng hậu Vương Thị mấy lần bị dèm pha, vô số bị phế bỏ. Tiếp đó, Thái tử Anh, rồi Ngạc Vương, Quang Vương, đều bị giết cùng một ngày. Chuyện một ngày giết ba người con này, thiên hạ không ai là không kinh ngạc, ca thán. Không ngờ sau đó, Vũ Huệ Phi cũng nhân sinh đẻ, băng huyết mà chết. Huyền Tông không ngăn được bi thương. Từ đó, trong cung không còn người nào vừa ý. Cao Lực Sĩ khuyên Huyền Tông tìm tuyển rộng mỹ nhân để có người sẵn hầu hạ. Huyền Tông liền giáng chỉ tuyển trong dân gian những con gái có tài sắc vào cung.

Chính là:

Phải có nhân trước

Mới thành quả sau

Khai Nguyên, Thiên Bảo

Chẳng giống nhau chút nào!

Hồi Thứ Bảy Mươi Chín

Lựa ý tứ, Giang Thái Tần truy hoan,

Cậy tài sắc Dương Quý Phi đoạt sủng.

Từ rằng:

Trang quốc sắc tất là trúng tuyển

Vào thâm cung quyến luyến nhất đời

Mắt như dao, đổ đất sụp trời

Mày lá liễu chim sa cá lặn

Những tưởng: lòng này đã muốn...

Ai dè: Sợi chỉ hồng gió cuốn đứt phăng

Cho hay: nguyệt lão vô bằng

Lòng này đã chính, lửa bừng cũng qua.

Theo điệu: "Điệp luyến hoa"

Người ta trên đời, chẳng tình thì lý, trung thần hiếu tử, cứ theo lẽ tuần hoàn mà hành động. Ngược lại, bọn đại gian độc ác, việc làm đều ngược với tình lý, là điều không đáng nói. Thật ra, thì cũng là một gốc mà ra cả thôi, Mạnh Tử nói: "Kẻ mà say sắc đẹp thì tất chuộng tuổi trẻ, thích vẻ kiều mỹ, đã có vợ con thì tất phải chiều chuộng vợ con vậy". Điều này thì xưa nay đều thế, chẳng ai mà dứt cho được. Hãy xem Tô Vũ, gặp lúc cùng quẫn ở Bắc Hải, ngậm tuyết nuốt lông cừu mà sống, chuyện sống chết không thể tin nữa, nhưng vẫn phải lấy vợ Hồ, sinh con (1) bị vua đất Hồ lặng lẽ đày ra vùng Bắc Hải mười năm, đến lúc về, lại được uống chén rượu trong vườn Hồ Thị ở Tương Đàm, lại được đọc thơ tặng của người thiếp yêu là Lê Thiến. Thế mới người xa tình khác, ngay đến cả bậc hiền lương cũng không tránh khỏi, huống chi bậc phú quý thiên tử; sinh giữa thời thịnh.

1 Theo "Chiêu Quân cống Hồ", thì Tô Vũ bị đày ra vùng Tuyết Bắc Hải, lấy vợ đười ươi, sinh được hai con, một trai, một gái. Tô Vũ được về Hán, đười ươi gửi hai con về, còn mình thì tu tiên đắc đạo. Con trai tên là vô Ngọc, con gái tên là Tô Kim, sau đều là những tướng giỏi.

***

Nay hãy nói chuyện tuyển mỹ nhân, ở vùng quê huyện Hưng Hóa, thôn Chân Châu, có một người tú tài, họ Giang tên Trọng Tốn, hiệu ức Chi, phong cách hiên ngang, gia tư giàu có, tuổi mới ngoài ba mươi, vẫn chưa có con trai nối dõi. Vợ là Liêu Thị, sinh được mỗi con gái, lúc nhỏ đặt tên là A Chân, chín tuổi đã thuộc lòng "Nhị Nam" (1) nói với cha rằng:

- Con tuy là con gái, cũng có chí như trong hai bài thơ này.

Trọng Tốn lấy làm lạ, bèn đặt tên là Thái Tần (2) chẳng khác gì đóa hoa, mặt trăng vậy, dẫu cho Hằng Nga ở cung Quảng cũng phải nhường mấy phần nhan sắc. Lại thêm văn tài sâu rộng, bách gia chư tử không gì là không biết, không thuộc, cầm kỳ thi họa, mọi thứ đều tinh thông. Thái Tần lại riêng thích hoa mai, Trọng Tốn sai người vào vùng núi Giang Triết, tìm đủ các loại mai cổ quái, trồng khắp trong sân trong vườn, viết tên là "Mai Đình". Thái Tần sớm tối thưởng ngoạn, tự đặt hiệu là Mai Phương. Lại thích thơ văn, làm tới tám bài phú sau: Tiêu Lan, Lê Viên, Mai Đình, Tùng Quế, Phượng Địch, Pha Bôi, Tiễn Đao, Ỷ Song, được người bấy giờ rất là truyền tụng, tiếng tăm lừng lẫy.

1 Nhị Nam: Hai chương đầu, gồm nhiều bài của Kinh Thi, xưa cho là những bài có ý nghĩa giáo hóa các bậc vua, hoàng hậu, và cả thiên hạ. Ý nói có ước vọng cao! Chu Nam, Thiệu Nam.

2 Thái Tần: tên một bài thơ trong chương "Thiệu Nam", nghĩa: hái rau tần. Khen tặng vợ quan đại phu biết lo việc cúng tế.

Cao Lực Sĩ từ Hồ Quảng, rồi đi khắp Lưỡng Việt, chỗ nào cũng tìm kiếm, nhưng chẳng được ai vừa ý, đến Hưng Hóa nghe danh Thái Tần mới mười sáu tuổi, chẳng người sánh kịp. Huyền Tông vừa thấy, mặt rồng rạng rỡ, liền ban ngay làm tần phi, rồi đưa vào nội cung. Thưởng cho Giang Trọng Tốn một nghìn lạng vàng, một trăm tấm đoạn để về dưỡng tuổi già, lại sai Cao Lực Sĩ dẫn vào ban yến ở Quang Lộc tự. Trọng Tốn gạt nước mắt mà quay ra. Huyền Tông vào cung, lập tức lệnh bày yến tiệc, cùng ngồi với Giang Phi ăn uống. Hồi sau, cùng đi nghỉ, mãi cho tới gà gáy, trống canh điểm, ánh nắng đã lên, Huyền Tông vẫn chưa ra điện chầu để nghe triều thần trình công việc.

Một hôm, vào cung Huyền Tông thấy Giang Phi đang xem bài phú "Mai Đình", nên biết Giang Phi rất thích hoa mai, liền lệnh cho trong cung chỗ nào cũng trồng mai, để sớm thưởng thức, lại ban cho hiệu là Mai Phi. Huyền Tông phán:

- Trẫm mấy hôm nay bận rộn việc triều chính, nay thấy hoa mai nở rộ, hương thơm phảng phất quanh mình, chẳng khác gì ngọc mà có mùi thơm, khiến trong người sảng khoái, sắc đẹp của Mai Phi, dung mạo của hoa mai, khiến cho không thể rời. Người đẹp trên đời, chẳng qua cũng đến như vẻ đẹp thiên nhiên của khanh cùng Triệu Phi Yến là cùng?

Mai Phi thưa:

- Chỉ sợ mai rụng, trăng tàn, lại đến thời võ vàng ngay thôi!

Huyền Tông đáp:

- Lòng trẫm như thế, xin có thần hoa chứng giám cho?

Mai Phi thưa:

- Chỉ xin đừng phụ lời này, thiếp dẫu có nát thân, cũng không đủ báo ơn vậy!

Huyền Tông tiếp:

- Phi tử tài cao, trước đã viết tám bài phú, các quan ở Hàn lâm viện không ai là không tán thưởng. Nay khanh hãy làm một bài phú về hoa mai đi, để trẫm ban cho bách quan xem?

Mai Phi thưa:

- Tiện thiếp vốn quê mùa thô lậu, sao có thể địch nổi các bậc hàn lâm tài cao. Chỉ sợ làm xấu ý thánh chúa, chuốc lấy trò cười cho thiên hạ vậy.

Nói chưa dứt, đã thấy nội thị vào thưa:

- Thứ sử Lĩnh Nam là Vi Ủng Vật, thứ sử Tô Châu là Lưu Vũ Tích, đều đã tìm được năm cây mai lạ, ngày đêm đem về tiến, đã đến kinh.

Huyền Tông cả mừng, sai Cao Lực Sĩ để tâm thu nhận, chờ ngày ban thưởng, rồi cùng Mai Phi trở về cung.

Một hôm, Huyền Tông yến ẩm với các vương ở Mai viên, lệnh cho đội Lê Viên tử đệ đến hầu. (1)

1 Lê Viên tử đệ: Huyền Tông lấy ba trăm cung nữ, cho học âm nhạc, ca múa ở Lê Viên (vườn trồng lê), nên đội nữ nhạc về sau thường được gọi là Lê Viên tử đệ. (Tám nguyên từ điển).

Tiếng tơ tiếng trúc rộn ràng, lời trong nhạc nhẹ. Có bài thơ làm chứng sau đây:

Tinh vi chạm trổ sáng nhà vàng

Cho phượng xem công rộn phách đàn

Tiếng hát du dương vương vấn cột

Quỳnh tương ai rót dạ quang tràn.

Các vị vương uống đến nửa tiệc, bỗng nghe tiếng kêu thánh thót trong cung. Các vương hỏi nhau:

- Tiêu nghe du dương, không hiểu ai thổi, chẳng khác gì ở trên trời cao vẳng xuống vậy kìa!

Huyền Tông đáp:

- Đấy chính là Giang Phi của trẫm thổi, anh em nếu không tỵ hiềm gì xin gọi đến đây hầu rượu có nên chăng?

Các vương thưa:

- Chúng thần nguyện xin rửa tai để được nghe.

Lệnh cho Cao Lực Sĩ tuyên triệu Mai Phi tới. Mai Phi sau khi thi lễ cùng các vương. Huyền Tông phán:

- Trẫm vẫn thường khen khanh là tinh chất của hoa mai chung đúc nên, lại thêm thổi tiêu làm bằng ngọc trắng, múa điệu "Kinh hồng vũ" thì thật là một kỳ công của tạo hóa. Nay các vương cùng yến tiệc ở đây, khanh hãy múa một lần xem sao!

Mai Phi vâng lệnh, khăn áo gọn gàng xong, đến trước tiệc bắt đầu múa, có bài từ "Tây Giang Nguyệt" làm chứng sau:

Cánh én tía nhẹ nhàng phơi phớt

Đóa hải đường còn đợi sương rơi

Tà áo the bỗng vươn dài

Dừng tay chưa kịp, tiến rồi lại lui

Bướm bay bổng dường quay dường đứng

Chim tung tăng khi lượn lúc vòng

Gót tiên thoăn thoát cánh hồng

Bay loan đón gió, múa rồng vờn mây.

Múa xong, các vương ca ngợi không ngớt, Huyền Tông phán:

- Đã xem múa đẹp, không thể không uống say. Nay có rượu ngon của Gia Châu vừa đem tiến, tên gọi là rượu Thụy Lộ Châu, mùi vị rất tốt, cũng nên đem ra đây cùng uống.

Liền sai nội thị lấy rượu, rót vào chén vàng lệnh cho vai Phi đem mời khắp các vương. Lúc này Ninh Vương đã say, thấy Mai Phi đưa rượu đến mời đứng dậy đỡ chén, không ngờ một chân trượt, đá vào hài thêu của Mai Phi. Mai Phi nổi giận, lập tức quay về cung.

Huyền Tông hỏi:

- Tại sao Mai Phi không chào hỏi gì cả mà đã bỏ về?

Tả hữu thưa:

- Nương nương bị rơi hài ngọc, về thay cái khác sẽ xin quay lại.

Chờ một hồi, lại sai người triệu đến. Mai Phi thưa:

- Bỗng nhiên trong bụng thấy đau, không thể nào đứng dậy được?

Huyền Tông phán:

- Nếu đã thế thì nên bãi yến thôi?

Ai nấy ra về. Ninh Vương lo sợ hồn xiêu phách lạc, bỗng nhớ tới phò mã Dương Quýnh, vốn túc trí đa mưu, lại được thánh thượng sủng ái liền mật sai người mời đến thương nghị. Dương Quýnh đến ngay, lễ chào xong, Ninh Vương cất tiếng:

- Ta dự yến ở Mai Viên, cũng chỉ bởi uống nhiều rượu, lỡ gây chuyện không hay.

Dương Quýnh hỏi:

- Có phải là chuyện đùa Mai Phi chăng?

Ninh Vương hỏi:

- Sao phò mã biết?

Dương Quýnh thưa:

- Nếu không có người biết, trừ khi không làm. Bây giờ chỉ còn một người không biết chuyện này, đó là chúa thượng vậy.

Ninh Vương tiếp:

- Ta mời phò mã lại bàn, nếu như Mai Phi mách chuyện này với chúa thượng, ta phải làm thế nào bây giờ cho yên thân đây?

Dương Quýnh nghĩ ngợi một hồi rồi nói:

- Chẳng có điều gì đáng lo, Quýnh này có hai kế liền, khiến chẳng có việc gì cả!

Rồi ghé tai Ninh Vương nói mấy câu. Ninh Vương cả mừng, theo kế mà làm; sáng ngày mai vào triều, cởi trần, lê gối đến trước sân rồng chịu tội:

- Ơn thánh thượng ban yến, tinh thần không thắng nổi rượu mạnh, không để ý đến nỗi đụng phải hài của Mai Phi. Thần thật không còn lòng nào, tội thật đáng chết vạn lần.

Huyền Tông phán:

- Chuyện này nếu mà bàn cho kỹ, thì thiên hạ sẽ bảo trẫm trọng sắc đẹp, mà bỏ quên cả thiên luân. Nếu khanh đã vô tình như thế, trẫm cũng chẳng luận tội làm gì!

Ninh Vương dập đầu tạ ơn đứng dậy. Dương Quýnh lại tâu riêng với Huyền Tông rằng:

- Thần thấy tần phi ở các cung, có đến khoảng ba vạn người, (1) thế thì còn lệnh cho Cao Lực sĩ đi khắp nơi tìm người đẹp làm gì?

1 Nguyên văn: "Ước hữu tam vạn dư nhân".

Huyền Tông đáp:

- Phi tần vốn nhiều, người đẹp chẳng có bao, chỉ cần có được một sắc đẹp nghiêng thành cũng đủ làm nguồn vui lớn của cả đời người ?

Dương Quýnh thưa:

- Bệ hạ muốn có sắc đẹp nhạn sa cá lặn như thế thì chẳng ai bằng Dương Ngọc Hoàn, phi tử của Thọ Vương, dung mạo tuyệt thế, thực là chẳng ai sánh được.

Huyễn Tông hỏi:

- So với Mai Phi ra sao?

Dương Quýnh đáp:

- Thần quả chưa thấy được tận mắt, chỉ nghe Thọ Vương làm từ ca ngợi Ngọc Hoàn trong đó có câu rằng:

Ba tấc sóng lay màn nước xoáy

Hai bàn tay thoảng tiếng đàn thơm.

Năm thứ hai mươi mốt, đời Khai Nguyên, mùa đông, chư hầu đến Thọ để (1) có người được thấy, làm thơ ngợi ca:

Chỉ có trời xanh thẳm

Chả thấy Sơn thấy Tề. (2)

Sao bệ hạ không triệu vào xem sao.

1 Thọ để: nhà để cho các chư hầu đến hầu ở, hoặc ở dinh các vương hầu.

2 Sơn: tức Thái Sơn, núi lớn của Trung Hoa. Tề, tức nước Tề, vùng đông dân, thịnh vượng thuộc phía đông. ý nói đứng trước Dương Phi thì mọi sự lớn nhỏ đều quên hết.

Huyền Tông nghe thích lắm, sai ngay Cao Lực Sĩ, đi triệu Dương Phi tới.

Lực Sĩ lĩnh chỉ, lập tức tới Thọ Vương cung, tuyên triệu. Dương Phi hỏi:

- Thánh thượng triệu ta làm gì?

Lực Sĩ thưa:

- Kẻ nô lệ này không biết. Xin nương nương cứ tới gặp, sẽ biết ngay thôi mà.

Dương Phi lặng lẽ nói với Thọ Vương:

- Thiếp thờ điện hạ, đã nguyện đến thuở bạc đầu, không ngờ thánh thượng sai Cao Lực Sĩ tới triệu thiếp vào cung. Nghĩ lần đi này thực là vĩnh quyết với điện hạ.

Thọ Vương cầm tay Dương Phi, khóc mà nói rằng:

- Thế đã đến thế, không thể trái lệnh. Chuyến đi này, không vừa ý thánh thượng, thì may ra còn có dịp gặp lại, muôn vàn trân trọng?

Lực Sĩ giục giã bên ngoài, Dương Phi đành phải bái biệt Thọ Vương, rơi nước mắt ra khỏi cung.

Chính là:

Trân trọng tin đòi năn nỉ lắm

Về hiên nên hỏi trước gương chăng?

Lực Sĩ đưa Dương Phi về phục chỉ, Dương Phi cố giấu vẻ thẹn thùng bước ra lạy chào, rồi phủ phục dưới thềm. Huyền Tông ban cho đứng dậy. Lúc này trong cung đèn nến thắp cao, dưới ánh sáng ánh đèn, nhìn kỹ Dương Phi, chỉ thấy:

Xanh biếc đôi mày

Trán như sáp nặn

Áo bướm nửa hẹp nửa thùng

Quần loan không dài không ngắn

Lưng ong như liễu, gót sen đưa

Tóc mướt dường mây, trâm ngọc quấn

Tây Thi đất Việt cũ, hẳn kém thanh tân

Nam Tử nước Vệ xưa, còn thua phong vận

Đẹp sao mà đẹp, hương lửa lọc lừa

Xinh quá là xinh, gió mây vương vấn

Một nụ cười ngàn vạn trẻ tươi

Sáu cung son phấn phai mờ hẳn.

Huyền Tông sai Cao Lực Sĩ, hỏi ước nguyện của Dương Phi. Phi thưa xin làm nữ đạo sĩ. Huyền Tông liền ban cho đạo hiệu Thái Chân, ở cung Thái Chân, rồi nói với Dương Quýnh:

- Hai khanh hãy tạm lui, ngày mai trẫm sẽ thưởng hậu.

Ninh Vương mới đỡ lo, cùng Dương Quýnh ra khỏi điện.

Năm thứ tư đời Thiên Bảo, Huyền Tông đứng ra gả con gái của Tả vệ tướng quân Vi Chiêu Huấn cho Thọ Vương làm phi, rồi yên lặng chuyển Thái Chân vào trong cung. Lệnh cho trăm quan đến vườn Phượng hoàng, ghi vào sổ sách, đưa Thái Chân cung nữ, đạo sĩ Dương Thị làm quý phi. Phụ thân là Dương Nguyên Diễm, người ở Hoàng Nông thuộc Hoa Am, chuyển sang ở thôn Độc Đầu vùng Bồ châu, thời đầu niên hiệu Khai Nguyên làm tư hộ Thục Châu, vì vậy Dương Quý Phi sinh ở đất Thục, sớm mồ côi ở với chú làm ở dinh phủ Hà Nam là Dương Nguyên Khuê. Vào sổ quý phi rồi, liền truy phong Nguyên Diễm là Binh bộ thượng thư, mẹ là Lý Thị làm Lương Quốc phu nhân, chú Nguyên Khuê làm Quang lộc khanh. Anh tên Thiểm, làm thị ngự sử, anh con bác ruột là Chiêu, ban chức thị lang.

Người anh Dương Chiêu này vốn là con của Trương Xương Tông, gửi nuôi ở nhà họ Dương. Huyền Tông thấy tên Chiêu có ý sắt thép, dao búa (1) mới ban đổi tên là Quốc Trung. Họ Dương từ đó quyền nghiêng thiên hạ. Ngay đêm Dương Quý Phi vào cung, múa điệu "Nghê thường vũ y khúc", được ban thoa, vòng tai vàng, hộp đựng cũng bằng vàng, Huyền Tông tự lấy nước quý lệ thủy, cất ở Tử khố, mài vàng thành dây tua gài đầu, thân mang đến lầu trang điểm, gài lên mái tóc Dương Quý Phi.

1 Chữ chiêu gồm bộ kim: chỉ sắt thép, kim loại và chữ đao, nghĩa là đao kiếm.

Từ ngày sủng ái Dương Quý Phi thì càng bỏ liều Mai Phi. Mai Phi vì vậy mới hỏi cung nữ thân cận là Yên Hồng:

- Người có biết tại sao mấy hôm nay hoàng thượng không đến cung ta là tại làm sao?

Yên Hồng thưa:

- Tiện thiếp làm thế nào mà biết được. Trừ phi phải gọi Cao Lực Sĩ đến, thì mới hiểu nổi nguyên do.

Mai Phi tiếp:

- Người hãy tìm họ Cao đến đây, để ta hỏi xem sao?

Yên Hồng vâng lệnh, vào đến ngự uyển, thấy Cao Lực Sĩ ngủ ngay ở hành lang, Yên Hồng nói:

- Để ta đùa tay này chút chơi!

Liền lại cây đào thiên điệp, hoa lá xanh tươi, lấy một cành nhỏ, ngắt từng bông một cắm vào mái tóc Cao Lực Sĩ, bẻ một ngọn nhỏ, ngoáy vào mũi họ Cao. Họ Cao chợt tinh, thấy Yên Hồng, liền hỏi:

- Cô em Yên Hồng ơi! Cô em tới đây có việc gì thế?

Yên Hồng cười:

- Giang nương nương riêng sai tiện tỳ tìm Cao Thường thị đây!

Cao Lực Sĩ liền cùng Yên Hồng quay về cung Mai Phi, chào thưa xong. Mai Phi hỏi:

- Thánh thượng mấy hôm nay, vì sao không thấy đến cung ta là làm sao?

Lực Sĩ thưa:

- A hà? Thánh thượng hiện ở Nam cung, vừa mới triệu được Dương Phi của Thọ Vương, sủng ái không ai bằng. Nương nương thật không biết gì cả sao?

Mai Phi đáp:

- Ta nào có biết gì đâu. Hãy nói xem thánh thượng đối với họ Dương ra sao?

Lực Sĩ thưa:

- Từ ngày Dương Phi vào cung đến nay, mặt rồng hớn hở, tự tay ban thoa ngọc vòng vàng, lại phong quan chức cho cả họ, được ban xưng là nương tử, mọi thứ nghi thức chẳng gì khác hoàng hậu.

Mai Phi nghe xong, lập tức nước mắt ứa hai hàng lặng lẽ:

- Ta ngay từ ngày mới vào cung, đã nghĩ rồi sẽ có chuyện này, không ngờ lại thành sự thực, Cao Thường thị hãy lui ra, ta đã có dự liệu cả rồi!

Cao Lực Sĩ lui ra. Yên Hồng đem cảnh ngự uyển nhộn nhịp, vui vẻ ra sao kể lại. Mai Phi nghe xong không giấu nổi giận hờn. Yên Hồng khuyên:

- Nương nương chẳng nên phiền não, như ý nông cạn của tiện tỳ này, chi bằng nương nương cứ trang điểm gọn gàng, rồi tới Nam cung, xem ý tứ thánh hoàng ra sao.

Mai Phi nghe ra, đến bên đài gương chải tóc, trang điểm soi mình trong "Lăng Hoa bảo kính", mà than thở:

- Trời ơi! Giang Thái Tần ta dung mạo dường ấy, nay đã tiều tụy đến thế này, làm sao không đến đứt ruột cho được.

Giọt ngắn nối giọt dài, chẳng còn lòng nào mà trang điểm nữa, Yên Hồng cùng bọn cung nga khuyên nhủ mãi, cùng nhau kẻ mày, đánh phấn, giắt trâm, đeo vòng cho Mai Phi, xong đâu đó, mới cùng sáu bảy cung nga, từ từ đi đến Nam cung.

Gặp lúc Huyền Tông đang một mình, thơ thẩn dưới bóng cây mát, Mai Phi đến trước lạy chào. Huyền Tông hỏi:

- Hôm nay có trận gió tốt lành nào mà lại thổi được khanh tới đây thế?

Mai Phi khẽ cười thưa:

- Thời tiết thuận hòa, gió nam luân chuyển, đưa thần thiếp đến đây giải chút tịch liêu.

Huyền Tông phán:

- Hoa đẹp ngay bên, đang định sai người đi triệu khanh tới, để cùng được say sưa!

Mai Phi thưa:

- Nghe nói bệ hạ vừa có thêm Dương Phi, thần thiếp xin đến mừng, vừa là để xem mặt cô dâu mới vậy!

Huyễn Tông đáp:

- Chẳng qua bỗng nhiên lại được hoa đồng nội, chẳng đủ dính răng.

Mai Phi vẫn xin được gặp mặt, Huyền Tông bất đắc dĩ phải nói:

- Ái khanh vẫn có lòng mến yêu đến thế, trẫm sẽ triệu đến đây. Nhưng khi Dương Phi đã đến rồi, ái khanh dừng đem lòng phiền muộn.

Mai Phi thưa:

- Thần thiếp xin vâng mệnh, chỉ được thấy mặt là lui ngay.

Huyền Tông đáp:

- Thế thì chẳng có gì khó!

Liền lệnh triệu Dương Phi. Dương Quý Phi lễ chào Mai Phi xong, Huyền Tông truyền lệnh bày yến tiệc, rượu được hơn ba tuần,

Huyền Tông phán:

- Mai Phi vốn có tài Tự Nữ (1) đừng tiếc lời hãy làm một bài thơ xem sao?

1 Tự Nữ: tức Tạ Đạo Uẩn, vợ Vương Ngưng Chi đời Tấn, thông minh, học rộng, có tài biện bác. Hiếu Chi, em của Ngưng Chi, ăn nói không thông. Đạo Uẩn ngồi trong màn gà cho em chồng. Nhờ vậy mà Hiến Chi khuất phục được khách khứa. (Tầm nguyên từ điển).

Mai Phi thưa:

- Vạn nhất không mang được ý ngợi ca, xin mong thánh thượng tha tội.

Dương Quý Phi cất tiếng:

- Thiếp vốn chẳng mang dáng bồ vóc liễu, đâu xứng để nương nương đem văn chương ngợi ca cho được!

Huyền Tông phán:

- Cả hai khanh không cần phải quá khiêm nhường!

Sai ngay tả hữu đem một bức cẩm tiên, đặt trước mặt Mai Phi.

Mai Phi nâng bút, viết ngay một bài thất ngôn tuyệt cú:

Gạt phăng mây Sở, đổ non Vu

Xuân một đêm nghiêng ngửa ngọc lầu

Da tuyết mặi hoa ai sánh kịp

Sông trời gấm vóc những vì vua.

Mai Phi viết xong, trình lên, Huyền Tông khen thưởng không ngớt, đưa cho Dương Quý Phi. Dương Quý Phi xem qua một lần, lòng thầm nghĩ: "Bài thơ tuy hay, nhưng vẫn mang nhiều ý châm biếm, nhắc tính mây Sở, non Vu, chính là để chọc việc ta từ chỗ Thọ vương mà vào cung. "Sông trời gấm vóc những vì vua", là để chỉ chuyện ta đẫy đà béo tốt đây. Ta hãy trả lời vài câu, xem ý tứ của họ Giang này ra sao!". Liền nói với Mai Phi:

- Lời thơ của nương nương thật là dệt gấm thêu hoa, xưa nay không người sánh, xin để thiếp được họa vài câu liệu có được không?

Mai Phi đáp:

- Thơ vừa tả được muôn một, mà đã được người đẹp quá khen, thiếp thật thỏa nguyện.

Dương Quý Phi cũng lấy một tờ cẩm tiên rồi viết một bài thất ngôn tứ tuyệt:

Sắc nước chưa từng giảm vẻ xuân

Cành mai trên tuyết ánh muôn phần

Dám nhờ một sớm xuân đưa gió

Đừng để hoa nào đọ trước sân.(1)

1 Hai bài thơ của Mai Phi, Dương Phi cùng vần, vì hạn chế của việc dịch, nên phải dùng hai vần khác nhau.

Huyền Tông thấy Dương Quý Phi viết xong, liền khen ngay:

- Cũng thật đáng tài mẫn tiệp vậy!

Rồi đưa cho Mai Phi:

- Khanh hãy xem xem sao!

Mai Phi đỡ lấy xem, nghĩ thầm: "Họ Dương nói "Cành mai trên tuyết ánh muôn phần", là cười cái dáng gầy của ta, "Đừng để hoa nào đọ trước sân", là nói ta đã quá thì rồi". Cả hai đều mặt mày có vẻ giận dữ. Cao Lực Sĩ cất tiếng thưa:

- Các vị nương nương thơ từ xướng như thế này, kẻ nô lệ này xin có mấy lời thô thiển phân giải có nên chăng?

Huyền Tông phán:

- Khanh thử nói xem sao?

Cao Lực Sĩ thưa:

- Nay xin bệ hạ hãy cùng hai vị ngọc mỹ nhân thong thả dạo tới Cao Dương đài, cùng nhau uống rượu ngon, chờ trăng lên rải trên hoa hải đường, kẻ nô lệ này xin đánh ba hồi trống ca khúc "Hạ Tân Lang" (1). Tất cả đều ngà ngà say chờ đón gió đông lên, hoàng thượng cởi phanh áo bào, các nương nương cởi cả áo ngắn, một trận gió đưa hương thơm tới, cùng nhau nằm nghỉ trong Tiêu kim trướng, lúc nào lòng hoa khẽ động thời lại dậy, cả ba cùng vui vẻ. Việc gì mà phải "Niệm nô kiều" với "Tích nô kiều". Hoàng thượng thì cứ thong thả làm "Điệp luyến hoa", "Ngự du xuân thủy", có phải là sự khoái lạc vạn đời trong thiên hạ không?

1 Tên một từ khúc, nghĩa đen là "Mừng chú rể!", ý chỉ Đường Huyền Tông!

Mai Phi, Dương Phi nghe nói đến câu "lòng hoa khẽ động, thời lại dậy, cả ba cùng vui vẻ", bất giác đều khe khẽ cười. Huyền Tông phán:

- Lời của Lực Sĩ có lý lắm, hôm nay trẫm có cả người đẹp ở đây, chính là lúc nên hoan lạc, tranh cãi làm gì.

Huyền Tông kéo hai người về cung.

Mai Phi vốn tính hiền lành, về sau Dương Phi ganh ghét nói xấu phải đày ra Thượng Dương cung, nhưng đó là chuyện sau này!

***

Hôm ấy, Huyền Tông đang dạo chơi trong Mai Viên, bỗng nhớ tới Mai Phi, liền sai Cao Lực Sĩ đến xem sao. Họ Cao vâng mệnh tới Thượng Dương cung thấy Mai Phi đang sầu khổ, họ Cao vào lạy chào.

Mai Phi hỏi:

- Cao Thường thị, từ ngày ta ra đây đến giờ, chẳng có tin tức gì hay. Hôm nay Thường thị khó nhọc đến dây có việc gì?

Họ Cao thưa:

- Hôm nay thánh thượng đi dạo trong vườn Mai Viên bỗng nhớ nương nương bội phần, đặc sai kẻ nô lệ này đến thăm xem sao!

Mai Phi nghe ra, hớn hở hỏi họ Cao:

- Thánh thượng sai Thường thị tới thăm, thế là vẫn chưa bỏ rơi ta. Thường thị hãy vì ta mà tạ ơn thánh thượng, tâu rằng không ngày nào ta không ngưỡng chờ thiên nhan, cầu chúc cho ơn thánh đế mãi mãi không thay đổi.

Họ Cao đáp:

- Kẻ nô này hiểu rồi!

Rồi quay về Mai Viên, đem những lời của Mai Phi tâu lên,

Huyền Tông than thở:

- Trẫm nào có quên khanh đâu. Cao Lực Sĩ , ngươi hãy tới Lệ Viên, chọn ngay một con ngựa tốt nhất, rồi lặng lẽ triệu Mai Phi tới gác tây của cung Thúy Hoa gặp trẫm, đừng có sai sót.

Họ Cao vâng mệnh đi ngay, Huyền Tông bỗng gọi lại:

- Quay lại đã, ngươi hãy làm cho kín đáo, đừng để cho Dương Quý Phi biết.

Họ Cao thưa:

- Kẻ nô lệ này hiểu rồi!

Liền tới Lệ Viên, chọn một con ngựa thật tốt, đến Thượng Dương cung, gặp Mai Phi, Mai Phi hỏi:

- Cao Thượng thị quay lại có việc gì nữa?

Họ Cao thưa:

- Kẻ nô lệ tâu lại những lời của nương nương, hoàng thượng phàn nàn: "trẫm nào có quên khanh!". Sai kẻ nô lệ này chọn ngay một con tuấn mã, mật triệu nương nương tới Thúy Hoa lâu cùng trò chuyện.

Mai Phi hỏi:

- Đã là thánh thượng yêu mà gọi đến, thì việc gì mà phải lén lút?

Cao Lực Sĩ thưa:

- Bởi sợ Dương Quý Phi biết, rồi ra chuyện chẳng yên.

Mai Phi tức tối:

- Sao bệ hạ lại sợ cái con hầu béo ấy?

Cao Lực Sĩ thưa:

- Xin nương nương lên ngựa ngay. Thánh thượng chờ đã lâu rồi!

Mai Phi lên ngựa, đến trước gác, Huyền Tông đón đỡ xuống:

- Ái khanh, trẫm ngày nào chẳng nghĩ đến khanh.

Mai Phi quỳ lạy:

- Thần thiếp mang tội, những nghĩ suốt đời bị quên lãng, không ngờ lại được thấy mặt rồng.

Huyền Tông lệnh bày yến tiệc, uống được vài tuần, Mai Phi rót một chén, dâng lên Huyền Tông mà thưa:

- Bệ hạ quả là cuối cùng không bỏ thần thiếp, xin hãy cạn hết chén này!

Huyền Tông uống cạn, lại rót ban cho Mai Phi một chén. Mai Phi cũng đã gần say, Huyền Tông hai tay ôm hai má Mai Phi, nhìn kỹ mà rằng:

- Dung nhan ái khanh như thế này, hình như có gầy thêm ít nhiều.

Mai Phi thưa:

- Lúc nào cũng trông ngóng, làm sao mà không gầy mòn cho được!

Huyền Tông an ủi:

- Càng gầy lại trông càng thanh nhã!

Mai Phi cười:

- Chỉ sợ rằng béo lại tốt mới thôi!

Huyền Tông cũng cười:

- Cái gì cũng có cái hay.

Lại uống thêm mấy chén nữa, rồi cùng Mai Phi vào buồng, một giấc say sưa, đã thấy trời sáng từ lúc nào.

Dương Quý Phi ở trong cung, không thấy Huyền Tông tới, liền hỏi Niêm Nô:

- Thánh thượng hiện ở dâu?

Niêm Nô thưa:

- Tiện tỳ nghe chúa thượng sai Cao Lực Sĩ gọi Mai Phi tới gác tây của Thủy Hoa cung.

Dương Quý Phi nghe xong, đi bộ ngay đến gác tây. Bọn thường thị giật mình, vội vào tâu với Huyền Tông:

- Dương nương nương đã đến trước gác, làm thế nào bây giờ?

Huyền Tông khoác áo, ôm Mai Phi giấu vào phía sau màn. Dương Quý Phi đến trước mặt Huyền Tông, lễ chào xong hỏi:

- Tại sao bệ hạ lại dậy muộn thế?

Huyền Tông đáp:

- Chẳng qua vì quý phi đến quá sớm mà thôi!

Dương Quý Phi tiếp:

- Thần thiếp nghe nói Mai tinh ở đây, riêng đến để gặp mặt!

Huyền Tông đáp:

- Mai Phi ở Thượng Dương cung kia chứ?

Dương Quý Phi vẫn không chịu:

- Hôm nay được triệu đến đây để cùng nhau hoan lạc say sưa mà!

Huyền Tông không biết trả lời sao, đành nhìn tả hữu, bọn này cũng không dám nói gì. Dương Quý Phi càng làm già:

- Thức nhắm hoa quả còn bày đấy, dưới ngự tháp vẫn còn hài ngọc kia. Bên ngôi thì ngổn ngang trâm xuyến. Đêm qua ai hầu bệ hạ ngủ mà vui hoan mãi sáng bạch vẫn chưa dậy để bỏ cả buổi chầu, chẳng còn thể thống gì nữa, xin bệ hạ hãy ra ngay gặp trăm quan. Thiếp sẽ ở lại gác này, chờ ngự giá trở về.

Huyền Tông lúng túng, hổ thẹn, kéo chăn quay vào phía bình phong ngủ nữa:

- Hôm nay trẫm không được khỏe, không thể ra thị triều dược!

Dương Quý Phi càng giận dữ, nhặt trâm xuyến vứt cả xuống đất, quay về cung mình. Bọn tiểu hoàng môn thấy Dương Quý Phi như thế, sợ sinh chuyện lớn, vội đưa Mai Phi về cung. Huyền Tông chờ Quý Phi đã đi khỏi, lại nghĩ tới chuyện cùng vui vẻ với Mai Phi nhưng biết tiểu hoàng môn đã đưa Mai Phi về từ lúc nào, giận lắm, sai đem chém. Rồi tự đứng dậy nhặt trâm xuyến gói lại, lấy thêm một chuỗi ngọc của sứ giả một nước ở biên giới tiến cống, đưa cả cho Vĩnh Tân, sai đem ban cho Mai Phi.

Vĩnh Tân vâng mệnh, đến Thượng Dương cung, Mai Phi hỏi:

- Ta động đến cơn ghen của con hầu béo tốt, nó ném những thứ này của ta phải không? Thứ nào vốn của ta, ta xin nhận. Còn vòng ngọc này thì không dám. Lại có một bài thơ đây, phiền người dâng lên chúa thượng, rồi thưa không phải ta ương bướng không nhận chuỗi ngọc, chỉ sợ Dương Phi biết, lại làm khổ chúa thượng mà thôi.

Vĩnh Tân lĩnh mệnh quay về, đem theo cùng vòng ngọc dâng lên. Huyền Tông xé ra xem, thấy viết:

Lá liễu mày ngài nhác điểm tô

Phấn nhòe lệ đẫm, áo chưa khô

Lãnh cung từ ấy gương mờ bóng

Tịnh mịch buồn nâng chuỗi ngọc châu.

Huyền Tông xem xong trong dạ buồn phiền, nhưng vẫn thấy thú vị bởi những lời thơ bay bổng, lệnh cho nhạc phủ tìm điệu mới phổ vào lấy tên là khúc "Nhất đầu châu".

Về phía Dương Quý Phi, nhớ mãi mối hận này, dò biết đủ mọi chuyện to nhỏ, tìm mọi cách hại Mai Phi. Chẳng biết chuyện sẽ ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro