Tùy Đường Diễn Nghĩa 81 100 hết

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi Thứ Tám Mươi

An Lộc Sơn vào cung gặp quý phi,

Cao Lực Sĩ khắp phố tìm tân trạng.

Từ rằng:

May mắn thay, chúa đoái mỉm cười

Nhưng đừng được thể dại trêu ngươi

Kia con sói dữ, con hùm thọt

Dũa vuốt mài nanh quyết giữ mồi

Cố dứt ra vẫn còn thôi

Người người vui kể, việc đời ghê thay. . .

Dối lừa, nham hiểm vần xoay...

Theo điệu "Thái bình thời"

Xưa nay, kẻ sĩ cùng thông, hiển loạn, đều bởi chữ thời, chữ mệnh, không thể nào cậy vào tài trí, sức lực. Dẫu có mệnh, nhưng chúng gặp thời, cũng chẳng thể nào là tung hoành, đó là lẽ thường, chẳng có gì lạ. Cái chính là ở chỗ người đàn bà, dù quý dù tiện, chẳng kể gì đến ngôi thứ, thân hèn nhưng vẫn giữ được nhân cách thanh cao, ngược lại, ngôi sang lại làm đủ điều ô nhục. Giả như Võ Tắc Thiên, Vi Hoàng Hậu, Thái Bình công chúa, An Lạc công chúa, là những đàn bà dâm loạn, để tiếng xấu, tiếng cười cho muôn đời trong sử sách. Nhưng đáng tiếc, đáng giận là đến đời Đường Huyền Tông, lại vẫn còn sinh ra một Dương Quý Phi nữa. Họ Dương thân chịu ơn sâu chẳng ai quý hiển cho bằng, huống chi thiên tử lúc này vốn là bậc phong lưu khác thường, thế mà vẫn chưa vừa lòng, vừa thấy thằng nô bộc mọi rợ ở biên ải An Lộc Sơn, lại đã cùng y thông tư, làm bẩn cả cung khuyết, để dẫn đến họa không nhỏ sau này, chuyện thế cũng đủ lạ lùng rồi.

***

Nay hãy nói chuyện An Lộc Sơn, là giống người Di ở Doanh Châu, vốn là họ Khang, lúc đầu tên là A Lạc Sơn, cũng bởi mẹ tái giá với họ An nên mới đổi họ An, tên đổi Lộc Sơn, vốn tính tình gian xảo giỏi dò ý tứ kẻ khác. Về sau bộ lạc của y tan vỡ, chạy tới U Châu, tìm đến tiết độ sứ Trương Thủ Khuê, Thủ Khuê đem lòng yêu, nhận làm con nuôi, ra vào hầu hạ.

Một hôm, Thủ Khuê rửa chân, Lộc Sơn đứng hầu ở bên, thấy Thủ Khuê ở gan bàn chân trái có tới năm nốt ruồi, nên cứ nhìn mà cười. Thủ Khuê nói:

- Năm nốt ruồi này của ta, mọi người đều nói là quý tướng, sao ngươi lại cười?

Lộc Sơn đáp:

- Con là bậc hèn hạ, mà ở cả hai gan bàn chân đều có tới bảy nốt ruồi kia. Nay thấy ân tướng là bậc quý nhân, dưới gan bàn chân cũng có nốt ruồi đen, nên bất giác không nhịn được cười.

Thủ Khuê nghe nói, bèn bảo cởi ngay giày xem sao, đúng là dưới gan cả hai bàn chân của Lộc Sơn đều có bảy nốt ruồi, xếp thành hình thất tinh (1) so với Thủ Khuê còn to hơn, liền lấy làm kỳ lạ, vì vậy lại càng yêu quý Lộc Sơn hơn. Rồi nhờ mấy lần có quân công, liền đưa Lộc Sơn làm tới Bình Lô thảo kích sứ. Lúc này, có một bộ lạc thuộc Khiết Đan, làm loạn xâm phạm biên giới. Thủ Khuê lệnh cho Lộc Sơn dẫn binh lính tiễu trừ. Lộc Sơn cậy khỏe không chịu nghe theo mưu kế của Thủ Khuê, dẫn binh coi thường xông vào, bị Khiết Đan đánh cho đại bại phải trốn chạy về. Thủ Khuê vốn nghiêm minh, các tướng mà phạm quân lệnh đến nỗi bại trận, đều chiếu theo pháp quân mà trị tội. Lộc Sơn cũng không vì là con nuôi mà được giảm nhẹ, một mặt viết sớ tâu về triều đình, một mặt lôi Lộc Sơn ra trước hàng quân để chịu chính pháp. Đến lúc lâm hình, Lộc Sơn hét to trước mặt Thủ Khuê rằng:

- Ân tướng định dẹp giặc, tại sao lại nhẹ dạ giết cả đại tướng?

1 Thất tinh: bảy ngôi sao, chỉ bảy ngôi của chòm bắc đẩu, xếp thành hình chiếc ghế dựa, còn gọi là chòm Đại hùng.

Thủ Khuê cũng động lòng, liền lệnh hoãn gia hình, đem Lộc Sơn giải về kinh sư, chờ thánh ý định đoạt. Lộc Sơn hối lộ bọn nội thị, nhờ che chở cho trước mặt Huyền Tông. Lúc này, triều thần đều đồn là Lộc Sơn coi thường phép quân đến nỗi bại trận, đáng nên chém đầu, lại thêm có tướng làm phản, không nên để sống mà gây họa về sau. Huyền Tông bởi trước đó đã nghe lời ton hót của bọn nội thị, nên cuối cùng không chịu nghe lời tâu của trăm quan, giáng chỉ tha tội chết cho Lộc Sơn, lại cho giữ nguyên chức Bình Lô thảo kích sứ, được đái tội lập công.

Lộc Sơn vốn thừa mưu mẹo nịnh hót, giả dạng hiền lương, trở về Bình Lô, phàm có bọn tay chân của Huyền Tông ghé qua, đều được tiếp đãi quà cáp rất hậu. Cho nên trong tai Huyền Tông chỉ thường được nghe những lời ngợi khen Lộc Sơn càng ngày càng tin y hiền đức, được thăng thưởng luôn luôn, chẳng mấy chốc đã tới Doanh Châu đô đốc Bình Lô tiết độ sứ. Đến năm thứ hai đời Thiên Bảo (1) triệu vào kinh, rồi được giữ lại kinh làm thị ngự. Lộc Sơn vốn giảo hoạt, bề ngoài ra vẻ ngu đần, ngay thẳng, nên được Huyền Tông cho là thành thực, ngày càng sủng ái, gặp mặt rồng lúc nào cũng được, nội cung nghiêm cấm là thế, nhưng muốn ra vào lúc nào cũng xong.

1 Tức năm 743 sau công nguyên. Việt Nam đang thuộc Đường, Bắc thuộc lần thứ ba.

Một hôm, Lộc Sơn kiếm được con chim anh vũ lông trắng, rất giỏi nói tiếng người, liền nhốt trong một cái lồng đan bằng sợi vàng, định dâng lên Huyền Tông. Biết vua đang ngoài ngự uyển, nên xách lồng chim tìm đến. Huyền Tông đang cùng Thái tử dạo trước các luống hoa, Lộc Sơn liền treo lồng chim lên cành cây, chạy đến quỳ lạy Huyền Tông, mà không hề chào hỏi Thái tử. Huyền Tông hỏi:

- Sao khanh không bái lạy Thái tử?

Lộc Sơn giả vờ hỏi:

- Thần vốn ngu độn, không hiểu Thái tử là loại quan chức gì? Mà đấng chí tôn lại lệnh cho bái lạy?

Huyền Tông cười đáp:

- Thái tử là bậc trừ quân (1) không phải là quan tước gì cả, mai kia mà trẫm thiên thu vạn tuế, là vua kế tục trẫm, sao khanh lại không lạy chào?

1 Trừ quân: chuẩn bị lên ngôi vua, hoàng tử.

Lộc Sơn thưa:

- Thần vốn nòi man di, lâu nay chỉ biết có mỗi một mình hoàng thượng, chúng thần phải tận tâm báo đền ơn đức, mà chưa biết rõ Thái tử cũng là bậc đáng kính như hoàng thượng vậy!

Huyền Tông quay lại bảo Thái tử:

- Người này quả thật là quá thật thà!

Chim anh vũ trong lồng bỗng cất tiếng:

- An Lộc Sơn mau bái Thái tử đi!

Lộc Sơn đến trước Thái tử lạy chào, rồi mới đem dâng anh vũ.

Huyền Tông hỏi:

- Chim này không những nói được tiếng người mà còn hiểu được cả ý người ta nữa. Khanh kiếm được ở đâu thế này?

Lộc Sơn liền khoác lác:

- Thần dạo trước chinh phạt Khiết Đan, đến mãi quận Bắc Bình nằm mơ thấy danh thần đã mất của triều trước là Lý Tĩnh, đòi thần phải cúng lễ, thần liền làm ngay. Trong lúc đang bái lạy trước đàn, bỗng anh vũ từ trên trời bay xuống, thần cho là điềm lành, bắt lấy nuôi, nay đã thuần thục, mới dám dâng lên.

Anh Vũ cất tiếng:

- Thôi đừng nhiều lời. Quý Phi Nương nương đã tới kia kìa!

Lộc Sơn đưa mắt trông ra, thấy rất nhiều cung nga theo hầu xung quanh một hương xa, kẻ trước người sau rộn ràng. Gần tới nơi, Dương Quý Phi xuống xe, cung nga đỡ lấy trước Huyền Tông lạy chào. Thái tử cũng làm lễ xong, mọi người ngồi. Lộc Sơn tránh mặt phía sau, Huyền Tông lệnh cho đứng lại ra mắt. Lộc Sơn liền tiến lại, lạy chào Quý Phi rồi đứng vòng tay hầu dưới thềm. Huyền Tông chỉ lồng anh vũ, nói với Quý Phi:

- Con chim này nói tiếng người rất thạo, lại còn biết cả ý người nữa kia đấy!

Rồi nhìn Lộc Sơn, nói tiếp:

- Chính là An Lộc Sơn này dâng, nên đem vào trong cung mà nuôi.

Quý Phi thưa:

- Anh vũ vốn là loài chim dễ học tiếng người, nhưng giống lông trắng như thế này hiếm lắm, nếu lại biết cả ý người nữa thì thật quý giá.

Liền sai cung nữ Niêm Nô xách về cung, nhân đó liền hỏi:

- Đây chính là An Lộc Sơn sao, hiện làm quan gì?

Huyền Tông đáp:

- Thuở trước vốn là con nuôi của Trương Thủ Khuê, nay hầu hạ trẫm đây, tức cũng như con nuôi trẫm vậy.

Quý Phi thưa:

- Nếu thực sự như ý thánh thượng, thì người chính là con nuôi thiếp sao?

Huyền Tông cười:

- Quý Phi nếu thấy có thể nhận làm con được thì cứ nhận mà nuôi.

Quý Phi thấy Huyền Tông nói thế, nhìn thật kỹ Lộc Sơn, cười mà không đáp. Lộc Sơn vội tiến sát điện, bái lạy Quý Phi mà thưa:

- Con mong quốc mẫu sống nghìn năm!

Huyền Tông cười:

- Lộc Sơn, khanh sai lễ rồi, muốn bái lạy quốc mẫu, trước tiên phải bái lạy phụ hoàng đã chứ!

Lộc Sơn quỳ lạy thưa;

- Thần vốn là người Hồ, phong tục Hồ trước mẹ rồi sau mới cha.

Huyền Tông nhìn Quý Phi, phán:

- Người này thực thà quá?

Tả hữu bày xong yến, Thái tử nhân mới ốm khỏi không thể ngồi lâu xin về Đông cung trước. Huyền Tông liền lệnh cho Lộc Sơn đứng hầu, nhân lúc rót rượu dâng lên, liếc trộm dung mạo Quý Phi, thật quả là:

Son thoa quá thắm

Phấn dồi quá trắng

Thêm vào quá dài

Cắt đi quá ngắn

Xem ra đầy đặn

Nhưng rất nhẹ nhàng

Muôn vàn kiều diễm

Dung nhan sáng ngời

Hỡi trời ơi! Hỡi vua ơi!

Nghiêng thành nghiêng nước

Nào phải riêng ai thẫn thờ!

Từ lâu Lộc Sơn đã nghe nói đến vẻ đẹp của Quý Phi, nay bỗng được thấy, mười phần say mê, lại được nhận làm mẹ con, tha hồ mà gần gũi, vì vậy lòng này đã nảy ngay những ý định bất lương. Về phía Quý Phi thì vốn phong tình quen thói, chẳng còn gì phải xem mặt mới chọn người, chỉ cần trai khỏe mạnh càng hay, nay thấy Lộc Sơn thân hình nở nang, mũi má đầy đặn, cường tráng, tưởng như có thể vốc được, liền động ngay tà tâm.

Chính là:

Sắc đẹp vốn quý thật rồi

Chê là ngắm vuốt xui người động tâm

Huyền Tông dễ dãi là nhầm

Xem hai con thú đã ngầm hẹn nhau.

***

Chuyện chia hai mối, nay hãy khoan nói việc An Lộc Sơn thân cận với Dương Quý Phi, hãy nói chuyện năm nay là có kỳ thi hội, Lễ bộ vâng mệnh mở khoa thi lấy nhân tài, nên lệnh cho các châu quận, truyền cho sĩ tử về kinh ứng thí.

Lúc này ở Cẩm Châu thuộc Tây Thục, có một bậc tài tử, họ Lý tên Bạch tự Thái Bạch, nguyên là cháu chín đời chúa Tây Lương Lý Cao, mẹ nằm mộng thấy sao Trường Canh rơi xuống bụng mà sinh, vì vậy mới lấy tên thế.(1) Lý Bạch sinh ra thiên tư mẫn tiệp, tính cách thanh kỳ, nghiện rượu hay thơ, khinh tài nghĩa hiệp, tự lấy hiệu là Thanh Liên Cư sĩ, ai nấy thấy phong điệu khác thường nên gọi là Lý Trích Tiên (2). Họ Lý cũng chẳng cầu quan chức, chỉ thích ngao du bốn bể, xem kỳ hết núi sông kỳ vĩ trong thiên hạ, nếm cho khắp rượu ngon của chín châu. Trước đã trèo núi Nga Mi, rồi dạo vùng Vân Mộng, sau đó đặt chân đến Trúc Khuê, cùng với Khổng Sào Phù, Hàn Chuẩn, Bùi Chính, Trương Thúc Minh, Đào Miện, tối ngày uống say, mang tên là nhóm "Trúc Khuê lục dật". Nhân thấy mọi người nói rượu ở Ô Trinh vùng Hồ Châu cực ngon, không ngại xa cách ngàn dặm tìm đến. Đang lúc say sưa, trong quán rượu, vừa uống vừa ngâm thơ, coi xung quanh như không có người. Tư Mã Thích Châu là Ngô Quân, tình cờ đi qua, nghe giọng ngâm như người cuồng, sai người tra hỏi, Thái Bạch thuận miệng đọc ngay một bài thơ tuyệt cú thất ngôn để trả lời:

Cư sĩ Thanh Liên, hiệu Trích Tiên

Ẩn danh quán rượu ba mươi niên

Hồ Châu tư mã hỏi gì đấy

Kiếp trước Như Lai ấy thực tên.

Ngô Quân nghe ra, vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, nói rằng:

- Thì ra Lý Trích Tiên sao! Nghe tiếng đã lâu, sao giờ có may mắn gặp ở đây!

1 Trưởng Canh: tức sao Kim, ngôi sao gần quả đất nhất của hệ mặt trời, nên ánh sáng rất rõ. Còn gọi là Thái Bạch, Kim Tinh, Minh Tinh, Khai Minh (Từ Hải).

2 Lý Trích Tiên: Ông tiên bị đày xuống trần họ Lý.

Liền xuống xe, mời về thư phòng trong dinh tư mã trò chuyện, uống rượu làm thơ, giữ suốt ngày này sang ngày khác. Ngô Quân mấy lần khuyên Lý vào ứng thí, Lý Bạch đem việc lâu nay thi cử chẳng công minh gì, ý không muốn nghe. Trong lúc trù trừ, lại khớp Ngô Quân được thăng về kinh, ngay ngày hôm sau phải lên đường, liền kéo cả Lý Bạch theo về luôn.

Một hôm, tình cờ dạo chơi ở Tử Cực cung, gặp thiếu giám Hạ Tri Chương, xưng hô họ tên, lập tức kính mộ lẫn nhau. Tri Chương mời Lý Bạch vào lầu rượu, cởi ngay thắt lưng vàng, đổi lấy rượu cùng uống, thật say sưa, vui vẻ mới chia tay.

Kỳ thi tới gần, triều đình chấm Tri Chương làm Tri cống cử, lại ra đặc chỉ, mệnh Dương Quốc Trung, Cao Lực Sĩ làm nội ngoại giám đốc kiểm điểm xếp quyển thi để quan chủ khảo phê duyệt. Hạ Tri Chương thầm nghĩ: "Nay ta phụng mệnh làm Tri cống cử, nếu Lý Bạch vào thi, nhất định là ta phải tiến cử rồi. Nhưng họ Lý vốn là một kẻ cao ngạo, nếu nói chuyện này với các quan trong trường thi thì họ Lý sẽ xem như bị coi thường lại không chịu thi. Thơ văn của họ Lý, nghìn người đều thấy, cũng chẳng cần gì phải nói trước với ai, vẫn đậu mà thôi. Chỉ cần quyển thi được các quan giám đốc sắp xếp đưa sang, nên ta cần nhắc Quốc Trung cùng Lực Sĩ, cho hai người này để ý cho là xong thôi."

Thế rồi một mặt nói với Ngô Quân, cố khuyên giải Lý Bạch ra ứng vào trường thi. Nào ngờ họ Dương, họ Cao nguyên cùng cánh với Hạ Tri Chương, vốn tiểu nhân lấy cái hẹp hòi của mình để đo lòng người quân tử, những tưởng rằng Tri Chương nhận hối lộ của người ta rồi, lại chỉ dùng lời suông để thương lượng với bọn chúng, chúng bèn nhớ kỹ tên họ Lý Bạch, tìm cách làm hại. Đến ngày thi, Lý vào trường, qua mấy vòng thi, lần nào cũng chỉ cần vẫy bút là xong, giao nạp quyển thi đầu tiên bao giờ cũng là Lý Bạch. Dương Quốc Trung thấy quyển thi đề tên họ Lý, chẳng kể hay dở, cầm bút sổ toẹt, mà rằng:

- Quyển này chữ viết ngoằn nghèo, làm sao mà đưa sang được.

Lý Bạch đứng bên định cãi, Quốc Trung lớn tiếng nạt.

Cao Lực Sĩ cũng nói thêm vào:

- Mài mực cũng không đáng, chỉ đáng cởi giày cho ta thôi!

Rồi quát tả hữu, kéo ngay Lý Bạch ra.

Chính là:

Vân chương bẻ họng

Tranh cãi ra sao

Dẫu rằng tài cao

Sổ ngang đáng hỏng.

Lý Bạch ra khỏi trường thi, tức giận thấu trời, Ngô Quân phải khuyên giải mãi. Họ Lý thề rằng, mai kia có ngày đắc chí, nhất định sẽ bắt Dương Quốc Trung mài mực, Cao Lực Sĩ cởi giày, mới hả lòng uất ức ở trong trường thi, Hạ Tri Chương duyệt quyển, cũng đã để ý tìm xem sao, gặp quyển nào có vẻ tài năng, vẫn ngờ rằng của Lý Bạch chăng. Mãi tới khi phóng bảng, tìm khắp cũng chẳng thấy tên của họ Lý đâu cả, trong lòng vô cùng băn khoăn, kinh ngạc. Mãi khi ra khỏi trường thi, mới rõ chuyện họ Dương họ Trương vứt quyển làm nhục, mọi chuyện lại chính do bởi sự dặn dò gửi gắm mà ra. Tri Chương vô cùng ân hận, không nói cũng rõ.

* * *

Lại nói đậu đầu là Tần Quốc Tinh, người anh Tần Quốc Mô, đậu tiến sĩ thứ năm, cả hai là huyền tôn (1) của Tần Thúc Bảo, tài năng từ nhỏ. Anh em đều đậu cao, người người đều ca ngợi. Đến hôm vào điện thí, cả hai vào sân hầu đối sách, mãi tới trưa, mới nạp quyển ra khỏi cung khuyết, người nhà đã trực đón sẵn. Đi đến phường Tập Khanh, nghe chiêng trống rầm trời, thì ra đó là ngày mở hội Thái Bình, lập tức bị cuốn vào đám người đông nghịt, anh em, thầy tớ mỗi người lạc mỗi nơi. Qua được đám hội, Quốc Trinh đã không thấy anh đâu nữa, đành một mình tìm đường về.

1 Huyền tôn: cháu sáu đời của Thúc Bảo, bảy đời của Tần thái thái, vậy hai người này là cháu nội của cặp sinh đôi nói ở hồi bảy mươi tư.

Một tiểu đồng bước tới thưa:

- Công tử, chủ nhân của tiểu nhân có lời mời, hiện đang ở trong vườn hoa đợi công tử!

Quốc Trinh hỏi:

- Chủ nhân của ngươi là ai?

Tiểu đồng đáp:

- Công tử cứ tới sẽ biết ngay.

Quốc Trinh cũng nghĩ đây chính là bậc tôn quý trong triều nào, nhân việc thi cử gì đó muốn hỏi chuyện, nên không dám từ. Tiểu đồng dẫn di vào một ngõ nhỏ, qua một cổng kín đáo, đi thêm vài bước, thấy một tường hoa rất cao, cứ men theo tường mà đi nữa, thì đến một vườn hoa cây cối tươi tốt, hồng đưa, biếc đón, một con đường nhỏ, lát bằng đá trắng, phía trước là hồ hai bờ trồng toàn đào, dương liễu men hồ là chim loan, chim hạ dạo nhởn nhơ, từng đôi một tình tứ Trên hồ lại có cầu, lan can màu đỏ uốn vòng xinh đẹp. Đi một đoạn nữa, lại qua một lần cửa, tiểu đồng quay người khóa ngay lại, bên trong có hành lang dài, xung quanh lầu trồng toàn trúc, một mầu xanh lục khắp vườn, từng bước lên cầu cao, có bức đại tự đề ba chữ lớn: "Tử Hư đình", chú rõ "Tây Châu Lý Bạch đề", phía sau lầu lại là bức tường cao ngất, có hai tấm cửa bằng đá đóng kín mít. Tiểu đồng thưa:

- Xin mời công tử ngồi chờ đây một lát, chủ nhân sẽ ra ngay.

Rồi chạy ngay vào dinh trong nữa. Quốc Trinh nghĩ ngợi: "Đây không hiểu là dinh của ai, mà có cả vườn hoa đến thế này?". Còn đang băn khoăn, bỗng hai tấm cửa đã mở ra, một cô hầu mặc áo xanh, nhìn Quốc Trinh một thoáng lặng lẽ cười rồi thưa:

- Chủ nhân có mời công tử vào dinh trong gặp gỡ!

Quốc Trinh hỏi:

- Chủ nhân là ai? Sao lại sai ra mời ta?

Cô hầu không trả lời, chỉ khẽ cười, đưa Quốc Trinh qua cổng đá lầu hoa cao ngất. Trước lầu, hoa muôn màu đua nở, từ trên lầu hai cô hầu khác đi xuống, cùng đón Quốc Trinh lên lầu, tiếng rèm ngọc khẽ động, trong lồng, chim anh vũ cất tiếng:

- Có khách! Có khách!

Quốc Trinh đưa mắt nhìn, trên lầu trần thiết vô cùng hoa lệ, bình phong hoa lê, rèm châu ngọc, thủy tinh, óng ánh phản chiếu lóa mắt. Trên bàn hương khẽ đưa mùi long điên hương ngây ngất cả người. Một cô hầu báo phu nhân đã ra, ở cửa phía trái, một cô hầu khác đỡ một mỹ nhân thong thả bước ra, hình dáng ra sao:

Làn thu thủy, nét xuân sơn

Lưng eo như liễu, mặt gương hoa đào

Nét cò lả yêu kiều say tỉnh

Búi tóc mây khánh ngọc rung rinh

Phất phơ tà áo bên mình

Nhà vàng có phải, người quỳnh đây chăng?

Quốc Trinh thấy vậy, vội quay ra. Hầu gái giữ lại thưa:

- Phu nhân đang cần gặp công tử!

Quốc Trinh đáp:

- Tiểu sinh này là ai, mà dám đường đột gặp phu nhân?

Vị phu nhân lên tiếng:

- Công tử là ai, hãy xin cho biết tên tuổi vậy?

Quốc Trinh vừa kinh ngạc, vừa nghi ngờ, không dám nói họ tên thật, liền đem chữ "Tần" họ mình, chữ "Trinh" tên mình, theo kiểu chiết tự mà dẫn rằng:

- Tiểu sinh họ Dư, tên Trinh Mộc (1) chưa đến trường quận bao giờ, nhân dạo chơi, gặp tiểu đồng dẫn vào dinh, ngửa xin phu nhân tha tội, ban cho được quay ra!

1 cho "Tần" bớt nét thành chữ "Dư", chữ "Trinh" là gốc là cột, chia đôi thành chữ "mộc" và chữ "trinh" đồng âm, mang nghĩa chung thủy trinh tiết.

Nói xong liền cúi chào rất thấp, phu nhân cũng vội vái trả lễ, đưa mắt liếc nhìn, thấy Quốc Trinh mặt mũi tuấn tú, cử chỉ khiêm nhường lễ phép, mười phần vừa ý, liền bước lại gần bên, giơ cánh tay trắng như ngọc mời Quốc Trinh ngồi. Quốc Trinh lúng túng từ tạ:

- Tiểu sinh đường đột vào đây, đội ơn phu nhân không bắt tội, đâu lại dám mong được cùng ngồi?

Phu nhân đáp:

- Thiếp đêm qua mơ thấy một con chim thanh loan, bay vào trong gác nhỏ, hôm nay công tử tới đây, chính là ứng vào giấc mơ

lành này. Mai kia công tử nhất định là đại quý, chẳng cần phải quá khiêm tốn đến thế!

Quốc Trinh đành ngồi xuống, hầu gái dâng trà, phu nhân truyền lệnh dọn tiệc rượu. Quốc Trinh đứng dậy cáo từ, phu nhân cười:

- Chồng thiếp hiện đi xa, ở đây chẳng ai khác, cứ việc ở lại chẳng có gì đáng ngại. Huống chi cửa khóa mấy từng, công tử đòi đi đâu bây giờ?

Quốc Trinh nghe ra, cũng liều mọi sự mà ngồi xuống. Hầu gái bày bàn xong, phu nhân kéo Quốc Trinh cùng ngồi ăn uống, chẳng cái phải kể hết sơn hào hải vị, các hầu gái đứng xung quanh. Quốc Trinh lên tiếng hỏi:

- Xin mạo muội thưa phu nhân họ gì? Chủ nhân hiện giữ quan chức gì?

Phu nhân cười:

- Công tử có duyên thế này, lại được người đẹp ngồi bên tiếp tận tình, thế đủ thỏa nguyện, hà tất phải tra hỏi nhiều.

Quốc Trinh không nói họ tên thật của mình, thấy cũng không nên hỏi kỹ. Hai người hết chén này đến chén khác, uống mãi tới chiều tối, đèn nến thắp lên, cả hai đã ngà ngà. Quốc Trinh nói:

- Tiệc rượu đã xong, xin cho tiểu sinh ra về.

Phu nhân cười:

- Hứng rượu tuy đã cạn, là lúc sóng tình nồng đượm, sao lại nói tới chuyện đi về! Gặp gỡ như hôm nay cũng là vạn nhất tình cờ, đêm khuya thanh vắng, sao lại nỡ để trôi qua vô tình cho được.

Mãi đến ngày hôm sau, phu nhân cũng chưa chịu cho Quốc Trinh về, Quốc Trinh cũng quyến luyến, không nói lời từ biệt, cứ thế mãi bốn năm ngày. Nào ngờ đến ngày phóng bảng thi đình, Tần Quốc Trinh trúng trạng nguyên cập đệ, Tần Quốc Mô trúng đệ nhị giáp tiến sĩ, đệ nhất danh. (1)

1 Đệ nhất giáp: gồm trạng nguyên, bâng nhãn, thám hoa. Đệ nhị giáp là những tiến sĩ còn lại. Số một của đệ nhị giáp tiến sĩ, ở Việt Nam còn gọi là hoàng giáp.

Truyền lô, khắp thành đều biết. Các vị tân tiến sĩ đều tới chờ sẵn ở điện, nhưng mãi vẫn không thấy tân trạng nguyên đâu cả, bộ Lễ liền sai ngay quan đi tìm khắp nơi.

Huyền Tông nghe biết Tần Quốc Mô là anh ruột Tần Quốc Trinh, liền truyền chỉ.

- Không thể để em lại trên anh. Nay nhân Quốc Trinh chưa thấy đến, có thể thay Quốc Mô là trạng nguyên, tới dự yến ngay ở vườn Quỳnh Lâm.

Quốc Mô tâu rằng:

- Em trai thần ngay hôm vào điện thí ra khỏi cung, đến phường Tập Khánh, gặp đám hội lớn, tụ tập rất đông, anh em lạc nhau, đến nay vẫn chẳng thấy về. Thần sai gia đồng đi tìm khắp nơi, vẫn chẳng thấy tung tích, lòng thần thảng thốt không yên. Xin hoàng thượng hãy phá lệ cũ, tạm hoãn cuộc ban yến ở Quỳnh Lâm, đợi lúc nào em thần quay về. Thần đâu dám thay đổi thứ tự khoa danh.

Huyền Tông chuẩn tấu, cho ngừng cuộc ban yến, lệnh cho Cao Lực Sĩ, tập hợp nha dịch, kéo về phường Tập Khánh, lùng khắp các ngõ phố, tìm trạng nguyên Tần Quốc Trinh, hạn trong ngày phải tìm cho ra về trình lại hoàng thượng.

Việc kỳ lạ này, vang động kinh thành, sớm có người thưa đến tai phu nhân. Phu nhân xem đó như một tin mới lạ, thuật lại cho Quốc Trinh nghe:

- Công tử có biết ở bên ngoài hiện không thấy tân trạng nguyên, triều đình phải sai thái giám Cao Lực Sĩ đi khắp kinh thành tìm cho ra. Thật là chuyện buồn cười.

Quốc Trinh vội hỏi:

- Tân khoa trạng nguyên là ai?

Phu nhân đáp:

- Cũng là người đứng đầu bảng thi hội, Tần Quốc Trinh, quê ở Tế Châu, trú quán Trường An, dòng dõi Tần Thúc Bảo.

Quốc Trinh nghe xong, vừa sợ vừa mừng, vội hỏi tiếp:

- Trạng nguyên không thấy, việc ban yến ở Quỳnh Lâm sẽ ra sao?

Phu nhân đáp:

- Nghe nói triều đình định đưa người đậu đầu bảng hai là Tần Quốc Mô lên thay trạng nguyên. Nhưng Quốc Mô từ chối, tâu xin hoãn cuộc ban yến Quỳnh Lâm, đợi tìm thấy trạng nguyên, sẽ xin vâng mệnh dự yến?

Quốc Trinh nghe xong, vội cúi lạy phu nhân mà rằng:

- Quý phu nhân, xin cứu tiểu sinh với.

Phu nhân nâng dậy hỏi:

- Có chuyện gì?

Quốc Trinh đáp:

- Thực không dám giấu nữa, hôm trước mới gặp không dám nói rõ họ tên, tiểu sinh thực là Tần Quốc Trinh vậy!

Phu nhân nghe xong, ngẩn người một lúc lâu, nhìn Quốc Trinh mà rằng:

- Nay công tử đã là quan trạng rồi, triều đình hiện đang tìm gấp. Thiếp cũng chẳng dám lưu giữ nữa, đành phải cùng quan trạng từ biệt thôi, thật còn khổ sở nào hơn!

Vừa nói, nước mắt lặng lẽ hoen đầy hai má đào. Quốc Trinh cũng cảm động không giấu dược:

- Tiểu sinh cùng phu nhân ân ái chừng ấy, may ra có dịp gặp lại cũng chẳng nên phiền não làm gì. Nhưng nay thánh thượng sai Cao thái giám tìm tiểu sinh, chuyện thành to, chẳng may trên có cật vấn, thì làm thế nào bây giờ?

Phu nhân nghĩ ngợi một hồi:

- Không can chi, thiếp đã có cách đây rồi!

Liền gọi ngay hầu gái cầm ra một bức tranh, giở ra cho Quốc Trinh xem, phía trên là những đám mây ngũ sắc bồng bềnh, phía dưới là lầu gác vườn hoa, đình tạ, lại có cả một mỹ nhân đang dựa lan can ngắm hoa, Phu nhân chỉ bức họa mà rằng:

- Quan trạng tới trước mặt rồng, chỉ cần tâu rằng gặp một bà già nói: "Phụng mệnh tiên nữ triệu công tử". Rồi dẫn tới thấy cảnh như thế này, người đẹp như thế này, khắp nơi, khắp chốn, từ nhà lầu cho đến đồ dùng nhỏ nhặt hàng ngày đều thật đẹp đẽ khác thường, bị giữ luôn mấy ngày không dám xưng họ tên thật cũng chẳng hỏi được lai lịch người đẹp. Mãi đến hôm nay được thả cho về, nhưng cũng bị họ lấy khăn bịt kín đầu, sai người dắt ra nên cũng chẳng biết đường lối nhà cửa ra vào làm sao. Quan trạng cứ thế mà tâu, nhất định sẽ chẳng tội tình gì cả.

Quốc Trinh hỏi:

- Cảnh này là ở đâu, người đẹp trong tranh là ai, tại sao nói rằng gặp họ thì vô sự được?

Phu nhân đáp:

- Không cần nói nhiều, quan trạng hãy nhìn cho kỹ, nhớ cho đủ rồi cứ như lời thiếp mà tâu, thiếp sẽ dặn dò cho vàng ngọc bọn nội thị, chúng sẽ ở ngay trong triều chu toàn cho. Đáng ra phải bày yến tiệc lớn để tiễn quan trạng, nhưng kỳ hạn tìm đã hết, hôm nay là ngày thứ hai rồi, không thể để lỡ. Chỉ xin được dâng ba chén rượu vậy!

Liền lấy chén vàng, rót rượu đưa mời. Lệ ngọc nhỏ cả vào chén rượu, Quốc Trinh cũng nghẹn ngào rơi nước mắt. Cả hai cùng uống hết bầu rượu. Quốc Trinh cất tiếng:

- Quý phu nhân, tiểu sinh nay dã đem họ tên thật nói rõ cùng quý phu nhân rồi, quý phu nhân cũng hãy nói cho tiểu sinh biết họ tên thật đi nào! Để rồi tiểu sinh còn biết mà ngày ngày tụng niệm.

Phu nhân đáp:

- Chồng thiếp cũng là bậc tôn quý trong triều, thiếp không tiện nói. Quan trạng nếu không quên được những ngày ân ái, hãy lo đến chuyện gặp gỡ sau này thì hơn.

Cả hai lưu luyến không rời. Phu nhân thân tiễn Quốc Trinh ra cửa, không phải đường ngõ lúc vào mà là quanh co hơn, rồi cũng theo một cổng nhỏ mà ra phố.

Vị phu nhân này là ai thế? Nguyên là mang họ kép: Đạt Hề, tên tự Doanh Doanh, cũng là phu nhân của một quý quan trong triều. Vị quý quan này đã già, không có con, nên mới sai người ra bên ngoài rồi cho Doanh Doanh riêng ở một nơi, cố tìm lấy một cách để có người nối dõi dòng giống.

Chính là:

Những mong kiếm được con nòi

Được ngày tân trạng dạo chơi vườn nhà.

Chính lúc Quốc Trinh ra cửa, cũng đã chập choạng tối, bước thấp, bước cao, trên đường dân phố tụm năm tụm ba, trao đổi chuyện trò. Có người nói:

- Tại sao có mỗi một ông trạng tân khoa, mà tìm mãi không ra, đã hai ngày nay rồi, chứ ít ỏi gì nữa dâu!

Người khác tiếp:

- Triều đình sai Cao thái giám, khắp nội ngoại thành, chùa chiền, quán trọ, cho đến các tiệm trà, nhà kỹ nữ, khắp nơi tra xét, chẳng khác nào lùng giặc cướp vậy.

Quốc Trinh nghe ra, lặng lẽ cười. Lại qua một phố, một đội cầm côn sơn đỏ, có đến hai ba chục quân lính cỡi ngựa theo sau một vị thái giám, rầm rập kéo đi. Quốc Trinh hoảng hốt, tránh không kịp, đâm sầm ngay vào toán lính đi đầu, bọn này quát tháo om sòm, còn định giơ côn đánh. Quốc Trinh vội kêu:

- Ối? Ối! Đừng đánh!

Lại thêm ngay bên cạnh một ngõ hẻm, cũng có người kêu giùm:

- Không nên đánh! Không nên đánh!

Ngõ hẹp, tường cao, tiếng kêu như phát ra từ núi sâu thẳm. Viên thái giám cưỡi ngựa, chính là Cao Lực Sĩ, vâng mệnh đi tìm tân trạng, Cao thái giám một mặt thân đi tìm khắp nơi, mặt khác sai tiểu đồng nhà họ Tần theo với bọn công sai cùng nhau rải khắp chốn. Bọn họ Tần, nhìn xa đã nhận ra chủ nhân, vội la tướng lên để cứu, khi thấy Quốc Trinh sắp bị bọn lính đánh, bọn tiểu đồng chạy như bay, hét lớn:

- Quan trạng nhà ta đây rồi!

Mọi người nghe nói, vây kín ngay lại. Cao Lực Sĩ xuống ngựa chào hỏi:

- Không biết là quan tân khoa trạng nguyên, nên lỡ xúc phạm. Cao thường thị này không chỗ nào là không tìm. Mấy ngày hôm nay tân khoa trạng nguyên ở đâu?

Quốc Trinh đáp:

- Nói ra thật kỳ quái! Không biết có phải là gặp thần thánh không mà bị giữ lại, mãi đến hôm nay mới được tha về, làm phiền quan thái giám khó nhọc, thật đáng tội. Nay phải vào triều ngay ra mắt chúa thượng, xin quan thái giám chỉ đường vạch lối cho.

Cao Lực Sĩ đáp:

- Hiện nay chúa thượng đang ngự ở Hoa Ngạc lâu, hãy tới đó ngay.

Rồi cưỡi ngựa cùng đi. Đến trước lầu, Lực Sĩ vào trước tâu trình.

Huyền Tông liền lệnh cho Quốc Trinh đến trước lầu làm lễ rồi hỏi:

- Khanh mấy ngày nay ở đâu?

Quốc Trinh cứ nghe lời Doanh Doanh mà tâu lên. Huyền Tông nghe thế, khẽ cười mà rằng:

- Cứ như lời khanh, thì đúng là khanh gặp tiên rồi, không phải hỏi kỹ làm gì nữa.

Tại sao Huyền Tông lại không muốn hỏi kỹ, vốn là Dương Quý Phi còn ba chị em, đều nổi tiếng tài sắc, vì Huyền Tông vô cùng sủng ái Quý Phi, nên cả chị em đều được đặc ân, đều được vinh phong, được gọi là "Di". Dì lớn được phong Hàn Quốc phu nhân, dì thứ ba được phong Quắc Quốc phu nhân, dì thứ tám phong Tần Quốc phu nhân. Các dì mỗi lần được Quý Phi triệu vào cung, cũng đều cùng Huyền Tông đùa nghịch đủ trò, chẳng trừ một chuyện gì.

Trong số đó, Quắc Quốc phu nhân, phong lưu, phóng đảng hơn cả vì vậy Huyền Tông cũng thường hay bỡn cợt hơn cả, phàm ở trong cung có thức ăn, đồ dùng gì đặc biệt, đều được vua sai ban cho, lại được đặc ân xây dinh ngay ở phường Tập Khánh, phu nhân đa tình, thường dụ dỗ bọn thiếu niên con nhà tới dinh thự cùng nhau vui chơi, hưởng lạc, điều này Huyền Tông biết, nhưng chẳng muốn câu thúc phu nhân quá đáng. Mẹ đẻ của Doanh Doanh đã từng ở trong phủ Quắc Quốc phu nhân, làm bảo mẫu thêu thùa kim chỉ, nên biết rõ những chuyện này. Bức họa kia, chính là vật của Quắc Quốc phủ, người mẹ ngẫu nhiên cầm về cho con gái bày biện, mỹ nhân trong tranh chính là Quắc Quốc phu nhân. Cho nên khi Quốc Trinh theo lời tâu trình, Huyền Tông nghi ngay là chuyện do Quắc Quốc phu nhân làm nên chẳng tiện hỏi kỹ. Nào ngờ lại là diệu kế của Doanh Doanh để khỏi bị tra vấn.

Chính là:

Bác Trương uống rượu, bác Lý sai điên

Chú Ba đẻ mà chú Năm nhận phần.

Huyền Tông liền truyền chỉ: Trạng nguyên Tần Quốc Trinh đã về tới ngay dự yến Quỳnh Lâm. Quốc Trinh tâu:

- Hôm vừa rồi, đội ơn thánh thượng đưa anh thần Quốc Mô làm trạng nguyên, anh thần chối từ không nhận. Nay xin thánh ân hãy định lại việc này, tiểu thần quả không dám là em lại đứng trước anh vậy

Huyền Tông phán:

- Anh em đều khiêm nhường, thật đáng tuyên dương!

Truyền lệnh ban trạng nguyên cập đệ cho cả hai, anh em Quốc Trinh tạ ơn. Nội thị liền sắp sẵn hai áo bào, hai đóa hoa vàng, đem đến Quỳnh Lâm, ban cho hai anh em họ Tần, thật chẳng còn vinh diệu nào bằng.

Trời đã tối, khắp yến tiệc đèn nến thắp lên, treo lên, các vị tân khoa tiến sĩ cùng quan trường mới ngồi vào tiệc. Sau đó cùng vào ngự uyển thưởng hoa, khoa này cũng là xem đèn nữa. Đợi đến trước cửa ngọc điện, đọc rõ bảng vàng, ai nấy mới kinh ngạc, một khoa mà có hai trạng nguyên, thật là một sự lạ, chẳng thấy xưa nay!

Ngày hôm sau, hai trạng nguyên dẫn các tân khoa tiến sĩ vào triều tạ ơn. Được thánh chỉ ban ra: Tần Quốc Mô, Tần Quốc Trinh đều được làm Hàn lâm thừa chỉ, còn những người khác cứ theo lệ mà nhận chức. Chuyện không nói nữa.

***

Lại nói chuyện trong cung bày yến tiệc thưởng hoa Dương Quý Phi triệu Quắc quốc phu nhân cùng dự. Minh Hoàng thấy Quắc quấc phu nhân, nghĩ ngay tới lời tâu của Quấc Trinh, nhân lúc Quý Phi đứng dậy vào trong thay áo, mới cười hỏi phu nhân:

- Dì ba cớ sao dám giấu thiêu niên vào trong nhà?

Nào ngờ quắc quốc phu nhân mấy hôm nay cũng được giữ rịt con trai quan Thiên ngự vệ ngay trong dinh mình, nghe Minh Hoàng nói như thế, nghĩ ngay rằng vua biết chuyện này, bèn cúi đầu, tay miết dải áo, khẽ chớp làn mi, tủm tỉm cười mà thưa:

- Cũng là chuyện nữ nhi thường tình, không thể tự trói buộc, cúi xin thánh thượng rộng ơn đừng hỏi kỹ.

Huyền Tông lấy ngón tay dí vào trán mà đùa:

- Hãy bỏ qua cho lần này!

Nói xong, cùng nhìn nhau mà cười.

Chính là:

Các dì phóng túng

Anh dượng cũng chìu

Tất cả cùng liều

Nam Kha một giấc.

Hồi Thứ Tám Mươi Mốt

Nuông chiều quá trớn: tắm con, ban tiền,

Mê hoặc đủ trò: đối sứ, cắt tóc.

Từ rằng:

Thằng con nuôi giả ngây thực khéo

Mắt mẹ nuôi thấy khéo thấy khôn

Dở trò đùa nghịch làm con

Bố nuôi liền cũng lon ton góp phần

Nào thương nào giận nào hờn

Sớm lìa cung cấm, chiều hôm gọi vào

Tóc mây cắt ngọt lưỡi dao

Đắm say mê muội lại yêu gấp mười

Theo điệu "Lương thiện hiểu giác"

Người ta sinh ra ở đời ai mà thoát khỏi "thất tình", "lục dục" (1). Trong số đó, thì sự hiếu sắc là điều khó mà dẹp hơn cả, sắc đẹp ngay trước mặt mà không động tâm, thì chẳng phải là bậc thánh nhân thì cũng phải là kẻ anh hùng, hoặc ngược lại là đứa ngu si, đần độn vậy thôi. Cho nên, ngay từ xưa, cổ nhân cũng chẳng dám cấm (2). Nhưng trong chuyện hiếu sắc, cũng phải có lẽ vậy, phóng túng việc tình dục mà không để ý đến danh nghĩa, thì tất hại đến thể thống, trên dưới đều buông tuồng, thì tiếng xấu truyền ngàn đời. Vậy thì làm thế nào cho vừa phải?

1 Thất tình: bảy loại tình cảm của con người: Hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục. Cung oán ngâm khúc: "Mối thất tình quyết dứt cho xong". Lục dục: Tiếng nhà phật, sáu điều ham muốn, do "dục căn" mà ra: Mắt muốn nhìn đẹp, tai muốn nghe hay, mũi muốn ngửi thơm, lưỡi muốn nếm ngon, thân xác muốn sướng, ý nghĩ muốn vui. (Hán Việt tân từ điển).

2 Luận ngữ, thiên "Vệ Linh Công": "Đức Khổng Tử nói: Cũng đành thôi! Ta chưa thấy người nào ham đức như ham sắc đẹp!".

***

Hãy nói chuyện Tần Quốc Mô, Tần Quốc Trinh, cả hai anh em sau khi cùng được đậu trạng nguyên một khoa, đều được riêng bổ Hàn lâm thừa chỉ. Quốc Mô vốn cương trực, chỉ việc không chịu nghe theo thánh chỉ, nhận ngôi trạng nguyên của em, cũng đủ thấy chí khí, nhân phẩm con người này ra sao. Quốc Mô thấy Dương Quý Phi cậy vua sủng ái, làm nhiều việc càn bậy, họ Dương nắm mọi quyền hành, An Lộc Sơn coi thường phép nước, ra vào cung khuyết bừa bãi, lũ tiểu nhân cậy thế chủ để thỏa mãn lòng tà, liền cùng với anh em bàn bạc, đứng chung tên, viết một tờ sớ dâng lên, xin triều đình lựa chọn lại các quan thái giám, sửa đổi lại việc hoành hành của tệ sủng ái cung phi, chỉ rõ nguồn gốc An Lộc Sơn là một thằng có sức khỏe, không đáng được giữ phủ việt, mà nên đuổi ra biên giới chuộc tội, không thể nào cho tự do ra vào cung cấm, bàn bạc công chuyện triều đình.

Lời lẽ trong bản sớ rất thống thiết, thẳng thắn, mới đọc qua, Huyền Tông không vừa lòng, lũ tiểu nhân xung quanh lại khéo buông lời dèm pha: Nào là anh em họ Tần chỉ chuyên bới móc, vượt quá chức việc, phải gia tội nặng. Huyền Tông giáng chỉ cho trăm quan bàn bạc. May có Hạ Chí Chương cùng Ngô Quân ra sức cứu đỡ, Huyền Tông mới phán rằng:

- Quốc Mô cùng Quốc Trinh vượt quá chức vụ để dâng lời càn bậy, lẽ đáng trị tội, nhưng nghĩ tới dòng dõi huân thần, lại mới được đặt ở địa vị, nên miễn cho việc tra hỏi, hãy tạm cho nghỉ việc. Từ nay về sau mà còn dâng lời càn rỡ, sẽ trị tội nặng.

Lời vua phán ra, trăm quan liếc mắt nhìn nhau. Lúc này gian thần Lý Lâm Phủ đang nắm quyền Tể tướng, muốn thừa cơ lấn vua chuyên quyền, liền nói với các gián quan:

- Ngày nay chúa thượng anh minh, phận làm tôi chỉ có nghe theo, cần gì phải nhiều lời. Các ngài không thấy lũ ngựa đứng lễ chầu sao, ngày ngày ăn ba đấu thóc, chỉ cần hý ầm ĩ, là lập tức bị đuổi ra ngay.

Từ đó các gián quan ngậm miệng, không can một lời. Huyền Tông vì vậy yên chí rằng thiên hạ thái bình vô sự, lại thường tự duyệt các kho tàng, thấy tiền của chất đầy, nên nảy ý xa hoa, hoang phí, coi vàng lụa như đất bùn, ban thưởng bừa bãi, công việc trong triều tất cả phó mặc cho lũ Lý Lâm Phủ. Lâm Phủ gian xảo khác thường, trong lòng tuy rất ghét Dương Quốc Trung, nhưng bên ngoài thì làm ra vẻ hòa hảo, lại còn sợ Thái tử thông minh, thường ngầm bàn với Quốc Trung tìm cách chèn lấn, tìm lời lẽ lắt léo để xúi bẩy, khêu gợi lòng ham muốn không đáy của Lộc Sơn, vừa là để thu phục, vừa là để cho Lộc Sơn kính phục không dám qua mặt mình, rồi mà kết thành bè đảng, đón ý nhà vua, làm cho địa vị ngày càng chắc chắn.

Huyền Tông ở trong cung sâu, tối ngày say mê chuyện thanh sắc, ngay đến việc Dương Quý Phi tư thông với Lộc Sơn cũng chẳng hề biết.

Chính là:

Lộc Sơn bụng phệ béo tròn

Quý Phi má phấn tươi son

Vì đâu sinh ra dâm loạn

Đạo người phép nước không còn?

Bởi thế Lộc Sơn cậy thế ngang ngược chẳng sợ ai. Huyền Tông còn lệnh cho Lộc Sơn với anh em Dương Quốc Trung kết làm thân thuộc cùng nhau đi lại thường xuyên ban thưởng rất nhiều phú quý giàu có không lường. Lại ban ơn cho Hàn Quốc, Tần Quốc, Quắc Quốc, ba phu nhân mỗi tháng một vạn tiền, để dùng vào việc phấn sáp. Trong số ba vị phu nhân thì Quắc Quấc phu nhân yêu kiều hơn cả, chẳng cần tô son điểm phấn cũng thật mười phần tươi xinh. Đương thời Đỗ Công Bộ (1). Cũng có thơ rằng:

Phu nhân Quắc Quốc, chúa nuông chiều

Sáng sớm cung môn cưỡi ngựa vào

Sợ nỗi phấn son hoen sắc đẹp

Chầu vua, mày liễu chẳng tô nhiều.

1 Đỗ Công Bộ: tức Đỗ Phủ (712 - 770), người huyện Củng, Hà Nam, thi không đỗ. An Lộc Sơn chiếm Trường An, theo vua lên Linh Vũ, được làm gián quan. Bất mãn bỏ quan, mang gia đình chạy loạn khắp nơi. Có "Đỗ Lang tập" gồm khoảng 1400 bài thơ. Một trong những nhà thơ nổi tiếng thời Đường. (Thơ Đường I).

Hôm ấy, gặp sinh nhật An Lộc Sơn, Huyền Tông cùng Dương Quý Phi đều có quà ban. Anh em, chị em nhà họ Dương đều bày tiệc rượu chúc mừng, rộn rịp suốt hai ngày. Lộc Sơn vào cung tạ ơn, Huyền Tông đang ngự ở Nghi Xuân viện, Lộc Sơn chào bái xong, đang định đi gặp quốc mẫu Dương Quý Phi, Huyền Tông phán:

- Quý Phi vừa mới dự yến ở đây, nay đã về cung, con hãy cứ tự vào mà gặp cũng được!

Lộc Sơn vâng mệnh, vào ngay cung Quý Phi. Quý Phi vừa dự yến trở về, đang giữa lúc mơ màng nửa say nửa tỉnh, thấy Lộc Sơn tới tạ ơn, liền luôn miệng mẹ mẹ con con, bỡn cột mà rằng:

- Ta nuôi được đứa con như vậy, ba ngày sau khi sinh, xưa nay đều có lệ tắm, nay vừa mới khớp ba ngày sau sinh nhật, ta phải đúng lệ tắm cho con mới được!

Rồi nhân cơn say chưa tỉnh, gọi ngay nội thị lẫn cung nga đến, cởi quần áo của Lộc Sơn ra, lấy gấm bọc kín lại, làm giống như kiểu tả lót của trẻ con vậy, lại kết một cái kiệu bằng lụa, đặt Lộc Sơn vào trong, rồi cho cung nga đẩy đi khắp trong nội cung, huyên náo cười đùa không ngớt.

Huyền Tông đang nằm nghỉ xem sách ở Nghi Xuân viện, liền hỏi tả hữu:

- Hậu cung có việc gì mà ồn ào thế?

Bọn bầy tôi thưa:

- Chính là Quý Phi đang chơi trò tắm con!

Huyền Tông cả cười, liền ngồi lên một xe nhỏ, vào cung Quý Phi xem, cũng là để cho vui vẻ, lại ban cho Quý Phi mười nghìn quan tiền tắm con.

Chính là:

Đánh cờ, đếm thẻ(1)

Tắm con, ban tiền

Phép nhà hoàng đế

Sau trước nối liền.

1 Đếm thẻ: Chỉ các trò chơi xúc xắc, trạng nguyên, tính số điểm trên thẻ. sau khi đã hết ván, xem ai thua cuộc, xem hài Đông lâu phú".

***

Chuyện là hai mối, Quý Phi ngày càng được sủng ái, thì ngược lại Mai Phi Giang Thái Tần ngày càng bị quên lãng trong cung Thượng Dương. Một hôm có sứ Hải Nam về kinh. Mai Phi mới hỏi cung nhân:

- Có phải sứ giả về để dâng hoa mai không?

Cung nhân trả lời là sứ giả về dâng quả cho Dương quý Phi nương nương. Nguyên là Mai Phi rất thích mai , lúc còn được sủng ái, tứ phương tranh nhau tìm hoa mai lạ để tiến, nay thất sủng, chẳng còn ai nghĩ tới chuyện dâng mai.

Dương Quý Phi là người đất Thục, rất thích ăn vải, vải vùng Hải Nam còn ngon hơn cả vải tây Thục. Muốn cho lúc dâng lên, vải vẫn còn được ngon, phải đặt các trạm dịch, không kể gì xa xôi hàng mấy nghìn dặm, ngựa thay nhau mà phi như bay. Vì thế mà Đỗ Mục đã viết:

Ngựa bay, bụi cuốn. Phi cười

Ai hay vải tiến từ nơi xa về. (1)

1 Nguyên văn: "Nhất kỵ hồng trần, phi tữ tiếu, vô nhân chi thị lộ chi lai" (Quá hoa Thanh cung). Tương Như dịch:"Bụi hồng,ngựa ruổi, Phi cười nụ; Vải tiến mang về, ai biết đâu" (Thơ Đường).

Mai Phi nghe nói không còn việc dâng hoa mai nữa, mà quả vải nghìn dặm đưa về, không ngăn nỗi lòng thương cảm, liền gọi Cao Lực Sĩ đến hỏi:

- Khanh ngày ngày hầu hạ thánh thượng, có biết thánh thượng còn lúc nào nhỡ tới ba chữ Giang Thái Tần này nữa chăng?

Lực Sĩ đáp:

- Không phải phụ hoàng không nhớ tới nương nương, mà chỉ sợ Quý Phi nương nương ngăn trở thôi.

Mai Phi nói:

- Ta cũng biết con tiện tỳ phì nộn ganh ghét ta, còn phụ hoàng chưa nỡ dứt tình. Ta từng nghe Trần hoàng hậu đời Hán bị vua lạnh nhạt đem một nghìn vàng thuê Tư Mã Tương Như làm bài "Trường môn phú", dâng lên Hán Vũ Đế, Trần Hoàng hậu lại được ơn sủng như xưa. Ngày nay nào phải không có người tài như Tương Như, để vì ta làm phú, nói rõ nguồn cơn với chúa thượng, thì ta cũng chẳng tiếc gì nghìn vàng. Khanh hãy tìm hộ ta xem sao?

Lực Sĩ sợ thế lớn của Dương Quý Phi, nên nói thác rằng hiện nay chẳng có người nào có tài làm phú. Mai Phi than:

- Đấy chính là chỗ mà nay không theo kịp xưa chăng?

Lực Sĩ thưa:

- Nương nương đại tài hơn hẳn Trần hoàng hậu, sao lại không tự làm phú mà dâng lên chúa thượng

Mai Phi cười gật đầu, Lực Sĩ lui ra, cung nhân trình bút nghiên lại Mai Phi bèn tự làm bài "Đông Lâu Phú" (1), có những đoạn sau:

1 phú lầu phía Đông: tức Thượng Dương cung, lãnh cung, nơi ở của cung phi bị ruồng bỏ, ở phía đông.

Bụi phủ gương tàn

Phấn khô hộp triện

Tóc cánh ve nhác gỡ lược ngà

Giường gỗ quế nếp nhăn áo xuyến

Bàng hoàng thức ngủ Huệ cung

Ngơ ngác vào ra Lan điện

Quả mai rơi rụng đã hết hề, không hay

Cung cấm lạnh lùng xiết bao hề, có biết

Thêm nỗi:

Lòng hoa bứt rứt

Mặt liễu âu sầu

Chim non ríu rít

Gió ấm rì rào

Trên gác chiều vàng hề, nghe tiếng phượng giật mình ngoảnh lại,

Cách non mây trắng hề, nhìn gương nga chột dạ quay vào

Suối lành nhắc đến tin xưa, cái thẻ biết nâng niu là thế

Cổng kín then cài buổi trước, con chim xanh hò hẹn ra sao?

Nhớ những khi:

Hồ rộng dạt dào

Sóng biếc lao xao

Sáo đàn yến tiệc

Hầu chúa tiêu dao

Cánh loan múa khúc Đông tường hề, dồn nhịp phách

Thuyền rong lướt dòng Tây Tử hề, vỗ mái chèo

Tình vua quyến luyến

Ý thiếp dặt dìu

Non thề biển hẹn hề mong dằng dặc

Trời thẳm đất dày hề ước dài lâu

Ai ngờ:

Thói ghét má hồng

Máu ghen lạ lùng

Cướp ta mất ân ái

Đẩy ta vào lãnh cung

Vui thôi rồi xa tít

Mộng cũ ơi hỡi mịt mùng

Não nùng chừ, trong khuya hoa sớm

Độc địa bấy! Gió thốc mưa lồng

Muốn bắt chước Tương Như mà dâng phú

Tìm đâu ra danh sĩ cho uổng công

Ngâm dứt nối thơ sầu hề, ấm ức

Vắng xa gần chuông sớm hề bính boong

Thở với than nát lòng cửa Bắc

Lui hay tới nặng gót lầu Đông.

Làm xong, đưa dâng lên, Huyền Tông đọc, trầm ngâm than thở mãi không thôi, tình xưa khơi dậy, bất giác thương cảm. Dương Quý Phi nghe tin nổi giận, mặt hầm hầm tới thưa:

- Con yêu hoa mai Giang Thái Tần quả là loài tiện tỳ, mới đó mà dám dâng lời oán trách, lẽ nên giết chết không tha!

Huyền Tông yên lặng không. đáp. Quý Phi vẫn không chịu yên lời, Huyền Tông đành phán rằng:

- Mai Phi chẳng có việc gì, làm bài phú này cũng chẳng có một lời khinh khi ngạo mạn, mà phải tội giết. Như ý trẫm hãy cứ để đó, không bàn luận gì cả là hơn.

Quý Phi thưa:

- Bệ hạ không quên được tình quyến luyến với con tiện tỳ này. Sao không làm một cuộc gặp gỡ ở gác tây Thúy Hoa cung như dạo trước?

Huyền Tông thấy nhắc đến chuyện cũ, vừa thẹn vừa tức, những vốn yêu chiều đã quen, nên cũng cố nhẫn nại. Quý Phi thấy Huyền Tông không chịu theo lời, trong lòng ấm ức, từ lúc ấy trở đi, đứng hầu bên Huyền Tông nhưng mặt mày sa sầm, khác hẳn ngày thường, không nói không thưa gì nữa.

Một hôm, Huyền Tông ban yến cho các vương ở nội diện, các vương xin được thấy mặt Quý Phi. Huyền Tông bằng lòng truyền lệnh triệu, mãi tới lần thứ hai, mới thấy tới, chào lễ với các vương xong, ngồi riêng một bàn. Tiệc rượu giữa chừng, Ninh Vương cùng với Niêm Nô hòa sáo ngọc, mãi tới khi bãi yến, các vương từ tạ ra về. Huyền Tông đứng dậy thay áo, Quý Phi ngồi một mình, thấy sáo ngọc Ninh Vương vừa thổi còn để trên giường ngự, liền giơ tay ngọc với xem, rồi cứ theo nốt cũ mà thổi. Điều này nhà thơ Trương Hổ đã có thơ rằng:

Thâm cung tĩnh viện nào ai biết

Đem sáo Ninh Vương dạo mấy bài.

Huyền Tông trông thấy thế, bèn cười, đùa:

- Khanh cũng có sáo ngọc, sao không lấy mà thổi, cái sáo làm bằng ngọc tím này là của Ninh Vương vừa mới thổi, nước miếng hãy còn, sao khanh lại lấy thổi là sao?

Quý Phi coi như không, từ từ đặt sáo ngọc xuống, trả lời:

- Ninh Vương thổi đã lâu rồi, thiếp mới thổi, cũng chẳng hề gì. Còn có người hai chân bị dầm nhừ, đến nỗi hài cũng văng cả ra ngoài, mà bệ hạ còn chẳng hỏi, sao lại chỉ trách mình thiếp thôi?

Huyền Tông cũng nhận thấy Quý Phi ghen tuông với Mai Phi, lại thêm mấy ngày nay lúc nào cũng ra vẻ ngạo mạn, trong lòng vốn đã không bình thường. Hôm nay, sau tiệc rượu, cùng Quý Phi đùa vài câu, Quý Phi đã không nhận ra lỗi lầm vừa rồi, lại buông thêm những lời khinh khi, kéo về chuyện Mai Phi cũ, nên đột nhiên nổi giận, biến sắc mặt mà quát:

- Con hầu này sao dám vô lễ đến thế!

Liền đứng dậy vào cung, mặt khác liền truyền chỉ rằng:

- Sai ngay Cao Lực Sĩ đem xe nhẹ đưa Dương Phi về nhà họ Dương, không cho vào hầu hạ nữa.

Chính là:

Ghen tư đáp lòng

Kiêu ngạo ra mặt

Ăn nói ngỗ ngược

Tai biến ập ngay.

Vốn Dương Quý Phi thường ngày được sủng ái thành quen thói, không ngờ hôm nay uy trời đột nhiên giận dữ, đang định sẽ chờ dịp vào tạ lỗi cầu xin, nhưng sợ cơn thịnh nộ còn tiếp không biết đến thế nào mà lường. Nay lại không cho gặp mặt, nên nào dám tới, chỉ đành nua nước mắt, lên xe ra khỏi cung, rồi cậy riêng Lực sĩ coi sóc một vài việc trong cung. Về tới dinh thự Dương Quốc Trung, kể lể nguồn cơn. Anh em, chị em họ Dương nghe việc này, đều kinh ngạc bàng hoàng, nhìn nhau nước mắt chứa chan, chẳng biết đối phó ra sao.

An Lộc Sơn cũng có mặt định dạng lời cứu đỡ, nhưng sợ hiềm nghi, nên không dám coi thường, vào cung cũng không dám, tránh không đi lại nhà họ Dương nhiều lần để gặp gỡ Quý Phi, chỉ ngầm sai người thăm hỏi tin tức mà thôi.

Chính là:

Gái hỗn hào trái ý

Khiến tiểu nhân thất thế

Họa phúc khó mà lường

Ân sủng đâu phải dễ.

Huyền Tông nhân lúc giận dữ, đuổi Quý Phi khỏi cung, vào nội điện, thấy trong ngoài tịch mịch, đưa mắt tìm không người vừa ý.

Những muốn gọi Mai Phi hầu hạ, nhưng không ngờ Mai Phi từ lúc nghe tin Dương Quý Phi tâu xin giết mình, trong lòng buồn bực, thương cảm, đến nỗi nhiễm bệnh mấy hôm nay, lại gặp đúng lúc nằm liệt giường, không tài nào dậy nổi. Huyền Tông buồn bã không chịu được hết đứng lại ngồi, bọn cung nga cho đến thái giám đều bị trách phạt, đánh đòn. Cao Lực Sĩ thấy vậy, biết ý Huyền Tông, liền lựa lời nói với Dương Quốc Trung:

- Nếu muốn Quý Phi lại được vào cung, tìm một viên quan đại thần nào đó xin tâu là tốt hơn cả.

Lúc này có quan pháp Tào Cát Ôn, cùng với điền trung thị ngự sử La Hy Thích đều dùng hình luật rất khắc nghiệt, người người đều sợ gọi họ là "thép già" và "kìm la sát". Cả hai đều là phường ác quan tham lại, Cát Ôn lại thêm xảo trá, được Tể tướng Lý Lâm Phủ rất ưa, vì vậy cũng được dự vào hàng thân tín của Huyền Tông. Dương Quốc Trung liền nhờ bọn này cứu cho, hứa sẽ đền đáp thật nhiều vàng ngọc.

Cát Ôn giả bộ lên điện tâu trình công việc, bình thản tâu rằng:

- Quý Phi họ Dương; dẫu có sao cũng là hạng đàn bà kiến thức hẹp hòi, làm thánh thượng không vui, nhưng cũng đã chịu ơn thánh thượng rất lớn. Nay tội quả đáng chết, nhưng nên cho chết ngay trong cung. Bệ hạ tiếc gì một miếng đất bằng chiếc chiếu ở trong này, để đến nỗi Quý Phi phải chịu nhục ở bên ngoài.

Huyền Tông nghe tâu, gật đầu ưng thuận, rồi trở về hậu điện ngay: Tả hữu dâng ngự thiện, liền lệnh cho nội thị Địch Tháo Quang, đem theo thức ăn ngự thiện trước mặt, cùng các đồ vàng ngọc, tới nhà họ Dương, ban cho Quý Phi. Quý Phi tạ ơn trước mặt sứ giả, rồi khóc mà thưa:

- Tội thiếp đáng chết vạn lần, may đội ơn trời biển của thánh thượng mà nay được rộng tha, thoát khỏi tội chết. Nhưng cũng bởi lâu nay ơn sâu được dội, bỗng chốc gặp chuyện này, còn mặt mũi nào mà sống ở trên đời? Lẽ nên chết quách, nhưng vì chưa được tạ ơn, tất cả mọi thứ, từ y phục trên người, không gì không phải của ơn thánh đế duy chỉ có da thịt, mái tóc này là của mẹ cha sinh ra, nay xin trộm cắt, gọi là để báo ơn muôn một!

Rồi cầm dao, cắt ngay một lọn tóc, đưa cho Địch Tháo Quang mà tiếp rằng:

- Hãy vì ta mà dâng lên chúa thượng. Ta từ nay dẫu có chết cũng không để chúa thượng phải khổ công nhớ tiếc nữa!

Địch Tháo Quang vâng mệnh, về ngay phục chỉ, thuật kỹ từng lời từng cử chỉ của Quý Phi, rồi đưa món tóc dâng lên. Huyền Tông vô cùng thương xót, liền truyền lệnh cho Cao Lực Sĩ, đang đêm lấy xe hương triệu Quý Phi về cung.

Quý Phi điểm trang vào nội điện, phủ phục nhận tội, không nói một lời, chỉ có nức nở mãi không thôi. Huyền Tông không ngăn nổi cảm động, đưa tay nâng dậy, gọi ngay cung nga, chải đầu thay quần áo, dùng lời thân ái an ủi, lệnh cho tả hữu bày yến tiệc. Quý Phi rót một chén rượu quỳ xuống dâng lên:

- Không ngờ đêm nay lại còn được thấy thiên nhan!

Huyền Tông chỉ ghế bên cạnh cho ngồi, đêm ấy không ngủ, ân ái còn hơn xưa.

Ngày hôm sau, anh em, chị em Dương Quốc Trung, An Lộc Sơn đều vào cung chúc mừng, Thái Hoa công chúa cùng các vương tôn cùng kéo vào dâng lời vui vẻ, Huyền Tông ban yến, ai nấy đều hoan hỉ.

Dương Quý Phi đắc tội bị đuổi, nếu như Huyền Tông căn cứ vào đó mà cắt hẳn chuyện sủng ái này, cấm không cho trở lại cung nữa thì bọn tiểu nhân hết a dua, cung cấm trở nên thanh sạch, làm gì mà lại có chuyện hoan lạc về sau này. Cũng chỉ bởi lòng đã mờ tối, nhất thời không thoát ra được, để đến nỗi kẻ cận thần bên trong giao thông được với bọn quyền gian bên ngoài, trong ứng ngoài hợp, giữa lúc lòng như "ngó sen tuy gãy nhưng dây tơ chưa dứt hẳn", đuổi mà còn triệu ngay về, để rồi gây họa lớn về sau. Lại vì cả hai vốn nghiệt duyên kiếp trước chưa xong (1), mà cũng bởi khí vận của đất nước nữa vậy

1 Xem hồi thứ sáu mươi tám, tập 3, Đường Huyền Tông là hậu thân của Chu Quý Nhi, Dương Quý Phi là hậu thân của Tùy Dượng Đế. do Thập điện Diêm Vương sắp đặt để thực hiện lời nguyền ước của họ!

Chính là:

Tóc xanh cắt tạ ơn vua

Mê hoặc từ nay gấp mấy xưa

Cuối mắt đầu mày duyên dáng thế

Thành nghiêng nước đổ đã gần chưa?

Sau khi Dương Quý Phi quay lại cung, Huyền Tông yêu quý còn gấp mười lần. Anh em, họ hàng nhà họ Dương, tác uy tác phúc, lại hơn nhiều, chẳng cần phải kể.

Không biết chuyện sẽ tới đâu, xin xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi Thứ Tám Mươi Hai

Lý Trích Tiên vâng chiếu, đáp thư nước ngoài,

Cao Lực Sĩ nịnh nọt, dèm bài từ mới.

Từ rằng:

Múa bút trước thềm

Tay đưa liền

Nhất Trích Tiên

Sứ nước Phiên

Hoảng nhiên bái phục

Cởi giày, mài mực

Ấm ức hôm xưa

Giờ đây hết bực

"Thanh bình điệu" những du dương

Hãy xem một chữ nghìn vàng xứng chưa?

Thơ thần, rượu thánh say sưa

Màng chi phú quý, rượu thừa, quan sai.

Theo điệu "Điểm giáng thần"

Nay không nói chuyện Dương Quý Phi được Đường Minh Hoàng triệu vào cung, càng ngày càng được chiều chuộng hơn, mà hãy nói chuyện các châu quận bốn phương, nghe biết Quý Phi đắc sủng, thiên tử ngày càng xa hoa, đều tìm cách đón nịnh ý trời, kiếm đủ thức để dâng nạp. Thôi thì linh cầm dị thú vật lạ của hiếm, thức ngon, đặc sản từng vùng núi cao, biển rộng đủ điều. Huyền Tông hoan hỷ mười phần.

Bỗng lần kia có một Phiên quốc, tên gọi nước Bột Hải sai sứ sang, chẳng mang vật gì để tiến cống, mà chỉ có mỗi một bức quốc thư, xin được vào triều, trình lên thánh thượng. Các quan viên lần lượt tâu từ địa phương tới kinh đô, chẳng mấy chốc sứ giả tới Trường An, theo lệ chung, nghỉ tạm ở quán dịch. Hoàng đế liền sai thiếu giám Hạ Tri Chương ra quán dịch tiếp đón sứ giả, hỏi rõ nguồn cơn. Viên thông sứ (1) của sứ đoàn Bột Hải thưa rằng:

- Mọi chuyện quốc vương đã nói rõ trong quốc thư, sứ thần chúng tôi cũng không hiểu biết, xin thiên tử Trung Hoa hãy cứ mở thư xem thì sẽ rõ ràng mọi chuyện.

1 Thông sứ: như phiên dịch của các đoàn ngoại giao ngày nay.

Tới buổi chầu, Tri Chương dẫn sứ thần vào ra mắt Huyền Tông, trình quốc thư, các xá nhân nhận lấy, Huyền Tông lệnh đệ trước án Hoàng thượng. Cho Phiên sứ hãy tạm trở về quán dịch, chờ lệnh chỉ. Rồi cho tuyên tấu quan mở thư tuyên đọc.

Hôm ấy, đến lượt thị lang Tiêu Hoa làm tuyên tấu quan; Tiêu Hoa mở thư ra xem, không giấu nổi kinh hoàng, thì ra trên thư, chữ viết chính là:

Chẳng thảo, chẳng lệ, chẳng triện

Nét chữ kỳ quái hóa biến

Dẫu Tử Vân cũng chẳng biết

Phải hỏi đến thánh Thương Hiệt. (1)

1 Thảo, lệ, triện và chân: bốn cách viết khác nhau của chữ Hán. Tử Vân là tên của Dương Hùng đời Hán, giỏi về chữ cổ. Thượng Hiệt người thời Hoàng Đế, sau được tôn là thánh, tương truyền dựa theo vết chân chim mà chế ra chữ viết.

Tiêu Hoa xem qua, một chữ cũng chẳng nhận ra, chỉ đành dập đầu mà tâu:

- Chữ của nước Phiên này, đều như hình con nòng nọc, thần thật ngu muội, không tài nào nhận ra, xin chờ thánh ý.

Huyền Tông cười, phán:

- Nghe nói khanh đọc "lạp" ra "liệp", (1) bị bạn hè cười cho mãi, thế là đến chữ Hán còn nhiều chữ chưa thông, huống chữ Phiên. Hãy đưa cho Tể tướng xem có đọc được không?

1 Hai chữ này nhiều nét, một chữ 18 nét, một chữ 21 nét, một nửa giống nhau, nửa chỉ bộ ít nét khác nhau: Lạp là lễ tế vào tháng chạp, liệp là săn bắn.

Lý Lâm Phủ, Dương Quốc Trung nhất tề cầm xem, đều như mắt mù, một chữ cũng chẳng hiểu được, người co dúm lại. Huyền Tông liền sai chuyển cho khắp trăm quan truyền tay nhau xem. Nhưng khắp triều văn võ, chẳng một người biết. Huyền Tông cả giận mắng:

- Đường đường thiên triều thế này, đông đủ bách quan văn võ, sao chỉ một thư từ của Phiên quấc, không biết lấy một chữ, để hiểu trong thư lời lẽ ra sao để còn trả lời, khỏi bị tiểu bang cười cho. Trẫm hạn trong ba ngày nếu không đọc ra, tất cả các quan viên trong triều, không kể lớn nhỏ, đều bị bãi chức ngay.

Buổi chầu tan, các quan buồn rầu ra về.

Hạ Tri Chương ra dịch quán tiếp đãi Phiên sứ, không hề đả động gì đến quốc thư, mãi tối về nhà, tíu nghỉu không vui. Lúc này Lý Bạch vẫn còn ở chơi trong dinh Tri Chương, thấy thế, liền hỏi ngay nguồn cơn, Tri Chương đem sự tình từ đầu chí cuối thuật lại tỉ mĩ, rồi tiếp:

- Nay hạn của thánh hoàng ra thật bức bách lắm rồi, làm thế nào bây giờ. Nếu có ai đọc được, chẳng cần hạng người nào, cũng phải tiến cử ngay để tránh cơn giận dữ của thánh thượng.

Lý Bạch nghe nói, khẽ cười, đáp:

- Chữ Phiên thì nào có khó chi. Chỉ tiếc Lý này không phải triều thần, để được xem qua quốc thư.

Tri Chương vừa kinh ngạc vừa vui mừng:

- Lý Bạch quả có đọc được cho Phiên sao, Tri Chương này sẽ tâu ngay lên chúa thượng.

Họ Lý cười không đáp. Sáng ngày hôm sau, Tri Chương tiến khỏi ban chầu tâu:

- Thần có một người bạn áo vải, vốn là kẻ sĩ ở Tây Thục, họ Lý tên Bạch, học rộng nhiều tài, đọc được chữ Phiên, xin bệ hạ triệu tới, sẽ đọc được quốc thư Bột Hải ngay.

Huyền Tông chuẩn tấu, lệnh cho nội thị đến nhà Tri Chương, triệu ngay Lý Bạch vào triều gặp vua. Họ Lý bái từ, nói với sứ giả rằng:

- Thần vốn là tiện sĩ ở phương xa, học thức nông cạn, không thể lấy chuyện chữ nghĩa làm đủ để vào ra mắt chúa thượng, vào triều gặp bách quan văn võ. Dẫu có ơn triệu tới, nhưng quả không dám vâng mệnh.

Nội thị cứ thế về phục chỉ. Hạ Tri Chương lại bước ra tâu:

- Thần vốn biết người này văn chương trùm trời đất, học vấn thật kinh người, chư tử bách gia chẳng sách gì là không đọc. Chỉ vì năm ngoái vào thi, bị quan ngoại trường sổ bỏ quyển thi, không đưa vào danh bạ, nên chẳng được đậu dù cuối bảng. Nay mặc áo vải vào triều, lòng cũng không khỏi hồ thẹn, vậy nên không dám vâng lời thánh triệu. Ngửa xin bệ hạ đặc ân, cho mũ đai, lệnh một triều thần tới ban, rồi triệu vào, vừa tỏ được việc cầu hiền hạ sỹ của thánh thượng.

Dương Quốc Trung cùng Cao Lực Sĩ nghe ra định ngăn trở, thì thấy Nhũ Dương Vương Tiến, Tả tướng Lý Thích Chi, kinh triệu doãn Ngô Quân, Tập hiền viện đãi chế Đỗ Phủ, đều đồng thanh tâu:

- Lý Bạch kỳ tài, chúng thần đều biết rõ, xin thánh thượng không phải ngờ vực gì, hãy cho triệu ngay vào triều kiến.

Huyền Tông thấy chúng dân đều khen tài Lý Bạch, liền truyền chỉ phong tước ngũ phẩm, ban cho mũ áo, gọi vào bệ kiến. Quốc Trung, Lực Sĩ không dám nói gì. Tri Chương phụng chỉ về dinh tuyên dụ Lý Bạch, nói rõ lòng trân trọng của thiên tử. Họ Lý không dám lại chối, lập tức mang đai, đội mũ vua ban, cùng Tri Chương cưỡi ngựa vào triều Tung hô, triều bái xong, Huyền Tông thấy Lý Bạch tướng mạo anh tài, phẩm độ phi phàm, mười phần vừa ý, ôn tồn phủ dụ:

- Khanh tài cao mà thi không đậu, nên mang lòng oán trách, nhưng trẫm cũng rõ khanh không bao giờ phải ẩn nhẫn suất đời đâu. Nay có sứ giả Phiên mang quốc thư tới, chữ nghĩa kỳ quái, chẳng ai đọc được Trẫm nghe khanh biết nhiều hiểu rộng, tất có thể giảng rõ cho trẫm.

Liền lệnh thị thần đưa quốc thư Bột Hải cho Lý Bạch, họ Lý cầm xem qua một lượt, tâu rằng:

- Chữ Phiên có nhiều loại khác nhau, đây chính là chữ nước Bột Hải. Nhưng lâu nay luật thiên triều định rõ, các thư biểu của Phiên quốc đều phải viết bằng chữ Trung Hoa, không được bỏ vào bao kín. Nay viết bằng chữ nước mình, lại dán kỹ như thế này, thì Bột Hải quả thật không một chút tuân theo nghi lễ, huống chi trong thư, lời lẽ thật ngạo mạn thật đáng giận, đáng cười.

Huyền Tông phán:

- Trong thư Bột Hải đòi những gì, nói năng ra sao? Khanh hãy đọc minh bạch cho trẫm nghe!

Lý Bạch vâng mệnh, cầm thư Phiên trong tay, đứng trước ngự điện, dịch ra âm Đường của Trung Hoa, tiếng nghe sang sảng khắp sân chầu. Trong thư đại lược nói rằng:

"Vua Đại Khả Độc nước Bột Hải

Thư gửi tới Hoàng đế Đường triều,

Từ ngày hoàng đế xâm chiếm Cao Ly, tiến sát tới biên giới nước ta, quân đội nhiều phen xâm phạm vào lãnh thổ ta, nghĩ rằng đều bởi ý của hoàng đế mà có vậy. Vì vậy nay ta không thể nhẫn nại nữa, sai quan đem thư này tới tuyên cáo rằng: Phải đem cả một trăm sáu mươi thành của Cao Ly nhường lại cho nước ta, ta sẽ có vật quý cống lễ hàng năm: Thỏ của Tháp Bạch Sơn, vải côn của vùng Nam Hải, trống của Sách Thành, hươu của Phù Dư, lợn của Giao Hiệt, ngựa của Tản Vân, bông của Yêu Đã, cá diếc của vùng Hà Đà Mi, mận của Cửu Đô, lê của Lạc Du... những thứ này của các vùng hàng năm tiến cung một lần, nước các ngươi cũng sẽ có phần.

Nhược bằng không nghe, nước ta sẽ khởi binh tàn sát, hãy chờ xem thắng bại về ai!

Văn vũ quan viên, thấy Lý Bạch đọc thư Phiên dõng dạc trôi chảy, không ai không kinh ngạc. Huyền Tông nghe lời lẽ trong thư, mặt rồng buồn rầu, hỏi trăm quan:

- Nước Phiên vô đạo, định cùng ta tranh chiếm Cao Ly, thì thật là hao người tốn của, nay nên ứng phó ra sao?

Lý Lâm Phủ tấu:

- Người Phiên chẳng qua nói cho oai, nhưng xem ra binh lực làm sao có thể chống lại thiên triều. Nay nên cảnh báo các tướng ỡ biên phòng thủ nghiêm ngặt, nếu chúng xâm phạm, phải dẫn binh tiêu diệt ngay.

Dương Quốc Trung tâu:

- Cao Ly xa xôi, vốn là vùng nằm ngoài biên giới, việc binh đao năm này qua năm khác liên miên, thật là với tay khó với tới. Bằng hãy bỏ quách mấy thành xa xôi, rồi dồn mọi tướng sĩ, binh lính, cố sức mà giữ lấy thành ở bên trong biên giới là tốt hơn cả.

Lúc này Tiết lộ sứ Sóc Phương là Vương Trung Tự cũng đang trong sân chầu. Nghe họ Lâm họ Dương, liền tiến đến tâu:

- Thuở xưa Thái Tông Hoàng đế ba lần chinh phạt Cao Ly, sức người sức của đều khô cạn, đến thời Cao Tông Hoàng đế, đại tướng Tiết Nhân Quý đem hàng mấy vạn hùng binh; lớn nhỏ đánh nhau hàng mấy chục lần, mới định yên được. Nay sao lại dễ dàng bàn chuyện bỏ đi. Nhưng lâu nay yên hòa mãi, người người quên cả chuyện đao binh, nếu bằng không muốn chuyện xảy can qua, thì dành ngồi chịu nhẫn nhục nhìn bọn nước nhỏ khinh thị thôi.

Các quan bàn luận mãi không xong, Huyền Tông cũng trầm ngâm việc chưa dám quyết. Lý Bạch bèn tâu:

- Việc này thật không để thánh thượng lo phiền đến thế. Thần nghĩ rằng vua Phiên buông những lời xấc xược như vậy, chẳng qua là để thăm dò động tĩnh của thiên triều ra sao. Ngày mai xin hãy triệu sứ Phiên vào triều, lệnh cho thần ngay trước mặt, thảo thư trả lời, lấy một thứ giấy quý, dùng ngay văn tự của Bột Hải, nói có ân có uy, để làm cho vua Phiên vừa sợ vừa phục, có thể khiến cho Khả Độc phải chắp tay mà hàng thuận.

Huyền Tông cả mừng, hỏi thêm:

- Khả Độc có phải là tên vua của nước Bột Hải chăng?

Lý Bạch thưa:

- Nước Bột này xưng vua là Khả Độc, cũng giống như vua Hồi Hột xưng là Khả Hãn, Thổ Phồn vua xưng là Tán Phổ, Nam Di là Chiếu, Khả Lăng xưng là Thái Mạc Uy, cũng đều do tục quen của từng nước mà ra vậy.

Huyền Tông thấy họ Lý đối ứng không cùng, rất là vừa lòng, liền ban chức Hàn lâm học sĩ, cho dự yến ở Kim Hoa điện, gọi nhạc công cùng con hát đến góp vui. Đêm đó lại cho ngự ngay trong điện.

Các quan thấy Lý Bạch được nhà vua yêu quý, đều không giấu dược lòng kính trọng, ao ước. Chỉ có Dương Quốc Trung, Cao Lực Sĩ trong lòng không vui, nhưng cũng không biết làm thế nào.

Sáng ngày hôm sau, Huyền Tông lên điện sớm, trăm quan đã có mặt đầy đủ. Hạ Tri Chương dẫn sứ Phiên vào triều đợi chỉ. Lý Bạch đội mũ sa đen, mặc áo bào tía, cầm hốt bằng ngà voi hình cá vàng, ung dung trước điện, phong thái chẳng khác gì bậc thần tiên, đầy vẻ thanh cao, một tay cầm quốc thư của nước Bột Hải nhìn sứ giả mà rằng:

- Tiểu bang dâng thư, ngôn từ ngạo mạn, chậm ư vô lễ, lẽ nên hưng binh trừ diệt. Nay hoàng thượng ta, đức thánh ngang trời, không theo thói ngược nghịch, sẽ có chiếu thư trả lời, nhà ngươi hãy yên lặng kính cẩn mà nghe.

Sứ Phiên run sợ, đứng như con sếu dưới thềm son. Huyền Tông truyền bày thất bảo án thư, ngay bên cạnh điện, đủ văn phòng tứ bảo, ban cho Lý Bạch được ngồi ngay trên đôn phủ gấm thêu để thảo chiếu. Họ Lý liền tâu:

- Đôi hài thần hiện mang, sợ không sạch sẽ, lo làm bẩn mất thảm quý, cúi xin bệ hạ gia ân, thần xin cởi hài rồi mới dám bước lên điện.

Huyền Tông truyền chỉ, lấy ngay loại hài vân màu đỏ của vùng Ngô Lăng, vua vẫn dùng lâu nay. Tiểu nội thị mang ra, giúp Lý học sĩ thay. Họ Lý lại tâu:

- Thần có một lời, xin bệ hạ tha cho tội cuồng vọng, mới dám tâu để bệ hạ nghe.

Huyền Tông bằng lòng phán:

- Trẫm xin ưng lời tâu của khanh?

Lý Bạch tiếp:

- Thần dạo trước vào ứng thi, chẳng may gặp phải tả tướng Dương Quốc Trung cùng thái úy Cao Lực Sĩ đuổi ra. Hiện nay có hai người đang đứng hầu trước mặt bệ hạ. Thần những thấy mà ấm ức, nay vâng mệnh bệ hạ thảo chiếu thư, thay lời thánh chúa mà tuyên dụ nước ngoài, không gì có thể so được. Cúi xin bệ hạ sai Dương Quốc Trung mài mực, Cao Lực Sĩ cởi hài, để thấy được lòng trân trọng khác thường của bệ hạ, sau nữa là để sứ Phiên ở nơi xa xôi không dám khinh chiếu thư, mà tự nhiên đem lòng quy phục vậy.

Huyền Tông thấy đang lúc cần người, vả lại trong lòng yêu tài Lý Bạch, liền y cho. Họ Dương, họ Cao đều thầm nghĩ: "Hôm trước trong trường thi, sĩ nhục hắn ta, nay nhân cơ hội này mà báo thù. Dẫu chúng ta có căm gan tím ruột đi nữa thì thư Phiên mãn triều văn võ không người đọc được, chúa thượng chỉ còn nhờ vào hắn ta, chúng ta có không tuân cũng chẳng được nào". Thế rồi một cởi hài cho Lý Bạch, một thì mài mực, cả hai đứng hầu hai bên. Lý Bạch thấy thế mới nghiễm nhiên ngồi xuống, nâng bút lông thỏ, tay không một lúc dừng. Chẳng mấy chốc thảo xong chiếu thư, lấy một tờ giấy khác viết chữ đề ngoài, rồi đem tất cả trình lên long án của Huyền Tông.

Huyền Tông xem xong vui mừng phán:

- Trông thật đường hoàng, nhất định sẽ làm cho kẻ ở xa xôi kia mất vía.

Lại cầm giấy bao ngoài xem qua, xuýt xoa ngợi khen, thấy cùng thứ chữ với quốc thư Bột Hải gửi tới, nên một chữ chẳng ai đọc được, chỉ tấm tắc ngạc nhiên khen ngợi. Huyền Tông phán:

- Học sĩ hãy tuyên đọc cho Phiên sứ nghe, rồi sau đó hãy dùng quốc ấn đóng vào mà niêm phong luôn.

Lại sai Cao Lực Sĩ thay hài cho Lý Bạch. Họ Lý xuống điện, gọi Phiên sứ lại nghe chiếu, rồi dõng dạc tuyên đọc.

Chiếu viết:

"Hoàng đế Đại Đường ban chiếu dụ Khả Độc nước Bột Hải:

Bản triều theo mệnh trời mà mỡ nước, phủ dụ bốn biển, vừa dùng ân vừa dùng uy, trong ngoài đều vâng theo.

Hiệt Lợi xưa bội ước, lập tức bị trói. Nên nỗi Tân La dâng lụa cẩm mà ngợi ca, Thiên Trúc thì dâng chim biết nói, Ba Tư tiến cống rắn biết bắt chuột, Phất Lâm thì dâng chó biết dắt ngựa, Khả Lăng dâng chim anh vũ trắng, Lâm Ấp đem mừng ngọc dạ quang, Cột Lợi hãn nạp ngựa tốt, Nề Ba La thì hiếu thuận bằng gỏi cá diếc. Đại phàm các nước xa xôi, đều có dâng cống đặc sản địa phương, cũng bởi do sợ uy mà kính đức vậy. Cũng là một cách chuộc lấy sự yên bình.

Cao Ly chống lại mệnh trời, lập tức mấy phen tiễu trừ, có kể hàng trăm lần, đến nỗi cả triều bị diệt, đấy chẳng phải là tấm gương lớn về tội nghịch thiên bạo địa hay sao?

Huống chi ngươi là nước nhỏ, phụ vào Cao Ly, so với Trung Hoa chẳng qua chỉ bằng một quận, binh tướng, giáp mã, lương thực không được một phần của muôn vạn, mà vẫn học thói bọ ngựa giơ càng chống xe, ngỗng mái đọ trời cao, thì khi thiên binh kéo tới, ngọc đá đều thành tro, vua sẽ bị trói như Hiệt Lợi, nước sẽ theo gót như Cao Ly.

Nay trẩm thể theo lòng hiếu sinh của đất trời, tha cho ngươi tội cuồng ngạo, hãy mau mau hối cải, tay rửa ruột gan, cống nạp hàng năm, đừng nghĩ đến nỗi nhục trước mắt, thì khỏi được nỗi lo diệt vong sau này, để đến nỗi mua cười cho bọn đồng loại. Vừa rồi dâng thư không chịu theo điển lệ của thiên triều, may mà vòng đất đai của ngươi ở, vốn là chốn hoang dã xa xôi bỉ lậu, chưa từng được thấy văn hiến Trung Hoa, vì vậy trẫm ban ơn mà viết chiếu thư, đóng thêm quốc ấn, lại dùng thứ chữ của nước ngươi, tưởng cũng là để ngươi biết vậy.

Hãy kính cẩn mà đọc kỹ

Không được xem làm thường."

Lý Bạch đọc, tiếng nghe sang sảng, sứ Phiên phủ phục lắng nghe, không dám ngẩng nhìn. Nghe xong, nhận chiếu thư, ra khỏi triều đường. Hạ Tri Chương đưa tiễn ra tận cổng kinh thành. Sứ Phiên hỏi riêng:

- Học sĩ là chức quan gì, mà Tả thừa tướng phải mài mực, quan Thái úy phải cởi hài?

Tri Chương đáp:

- Quan đại thần Tả thừa tướng, quan cận thần Thái úy, chẳng qua cũng chỉ là học quan cao quý trong trần gian này thôi. Còn vị học sĩ họ Lý kia vốn là vị tiên trên thượng giới bị giáng xuống trần gian, dạo qua nhân thế, giúp rập triều đình, cho nên thứ bậc phải khác nhau đến thế.

Sứ Phiên tròn mắt thán phục mà từ giã, về đến bản quốc, gặp quốc vương, tâu lại rõ ràng mọi việc. Khả Độc xem chiếu thư gắn dấu son thì kinh hãi, liền thương nghị cùng các quan trong triều:

- Thiên triều quả có thần tiên giúp đỡ, làm thế nào mà địch được?

Bèn viết ngay một biểu xin hàng, sai sứ giả vào triều tạ tội, tình nguyện đến kỳ tiến cống, không dám đổi ý, đó là chuyện sau này.

Chính là:

Chẳng cần gươm giáo, người xa phục

Tờ giấy tài hơn vạn đội binh.

***

Hãy nói chuyện Huyền Tông yêu kính Lý Bạch, định ban cho vàng ngọc lụa gấm, lại phong cho quan chức cao. Lý Bạch đều từ tạ không nhận:

- Thần cả đời chỉ thích tiêu dao nhàn tản. Làm chức cung phụng ngay trong triều, như Đông Phương Sóc đời nhà Hán cũ, chi bằng ngày nào cũng được rượu ngon uống cho thật say sưa thì hơn.

Huyền Tông liền hạ chiếu cho Quang lộc tự, ngày ngày phải dâng đủ rượu ngon, không trói buộc làm việc gì, tùy ý họ Lý du lãm, uống rượu làm thơ, luôn triệu vào cung khuyết, thưởng hoa ban yến.

Lúc này trong cung vốn rất quý loại hoa thược dược, vùng Dương Châu tiến cống, chính là loài mẫu đơn ngày nay, có nhiều loại khác nhau: đỏ thắm, tím đen, phớt vàng, hồng nhạt, trắng toát. Các loại này đều được trồng rất nhiều ở phía đông hồ Hưng Khánh, ngay dưới thềm Trầm Hương đình.

Gặp lúc thời tiết trong trẻo, ấm áp, thược dược nở rộ, Huyền Tông truyền cho nội thị bày yến trong dinh, cùng Dương Quý Phi thưởng ngoạn. Quý Phi ngắm hoa rồi thưa:

- Hoa này quả là vua trong các loài hoa, thực đáng để bậc đế vương thưởng thức.

Huyền Tông cười phán:

- Hoa tuy đẹp nhưng không biết nói, sao bằng được Quý Phi là hoa biết nói.

Đang cười nói thì nhạc công Lý Quý Niên dẫn một đội mười sáu Lê Viên đệ tử mới tuyển, tay xách nhạc cụ theo lệnh vào hầu, lạy chào xong, liền chờ chúa thượng cùng Quý Phi Nương nương uống rượu để tấu nhạc. Huyền Tông phán:

- Khoan đã, hôm nay cùng Quý Phi thưởng hoa, có lẽ nào lại dùng từ khúc cũ sao?

Rồi lập tức sai Lý Quy Niên:

- Lấy ngựa Ngọc Hoa tông trẫm thường cưỡi, lập tức triệu Lý Bạch vào đây, làm ngay một bài từ mới để cho toàn bích.

Lý Quy Niên vội chạy như bay ra khỏi cung, nhảy lên ngựa, kéo theo Ngọc Hoa tông mã, cùng mấy nhạc công khác, đến nha môn hàn lâm viện tuyên triệu Lý Học sĩ. Thấy nha dịch trong viện nói rằng:

- Lý Học sĩ sớm nay ăn mặc xuềnh xoàng, một mình ra chợ Trường An tìm quán uống rượu rồi.

Lý Quy Niên liền bảo nha dịch trong viện cầm theo áo mũ, đai ngọc, hốt ngà của Lý Bạch, cùng ra chợ, tìm khắp ngõ ngách, mãi mới thấy ở tòa cao lâu phía trước, vẳng lại giọng ngâm như người cuồng:

Ba chén hiểu đạo lớn

Một vò hợp tự nhiên

Cứ say cho túy lúy

Làm kẻ tỉnh thà điên.

Lý Quy Niên nghe ra, nói:

- Giọng ngâm oang oang thế này, chẳng Lý Học sĩ thì còn ai vào đó nữa?

Xuống ngựa, cùng mọi người xông vào cao lâu, nhảy ngay lên gác, thì quả Lý Bạch, đang ngồi chiếm cả bàn lớn trông xuống đường phố, vò rượu trên bàn còn cắm thêm một bông hoa tú cầu, riêng một mình trước hoa uống rượu, cũng đã say nghiêng ngửa rồi mà tay vẫn còn nâng chén chưa chịu buông.

Lý Quy Niên đến ngay trước mặt Lý Bạch, cao giọng:

- Phụng thánh chỉ triệu ngay Lý Học sĩ vào Trầm Hương dinh kiến giá .

Khách rượu ngồi đầy xung quanh lúc này mới chắc đó là Lý Trích Tiên, lại biết có thánh chỉ, vội đứng dẹp sang bên. Lý Bạch ngược lại hoàn toàn thản nhiên, lặng lẽ đặt chén xuống bàn, nhìn Lý Quy Niên, đọc một câu thơ của Đào Uyên Minh:

Ta say muốn ngủ, bạn biến cho.(1)

1 Đào Uyên Minh: tức Đào Tiềm người đời Tấn, quê Tầm Dương, làm huyện lệnh Bành Trạch. Thanh tra đến, ông thở dài: "Ta không nên vì năm đấu gạo mà gãy lưng". Bỏ quan về nhà, rất thích rượu (Tầm Nguyên từ điển). Nguyên văn: "Ngã túy dục niên, quân thả khứ". Chữ "Quân", hiểu là vua cũng được.

Ngâm xong, quay ra ghế định ngủ, Lý Quý Niên không biết làm thế nào, đành giục bọn người đi theo xúm lại khiêng Lý Bạch xuống lầu nâng lên ngựa Ngọc Hoa tông, rồi cả đoàn trước sau hộ tống, Lý Quy Niên theo không dám rời mắt.

Đến trước Ngũ Phượng lâu, đã có nội thị chờ sẵn truyền chỉ: cho phép Lý Học sĩ cứ cưỡi ngựa mà vào cung. Quy Niên vội mang đai mũ, áo bào, khoác vào cho Lý Bạch ngay trên ngựa, vì vậy giải áo thắt cũng chẳng hết. Qua hồ Hưng Khánh, vào thẳng Trầm Hương dính, mới đỡ Lý Bạch xuống ngựa, vẫn còn say không thể làm lễ bái mạng, Huyền Tông lệnh trải thảm lông màu tím ngày ở thềm đình cho Lý Bạch nằm nghỉ một lát, tự thân Huyền Tông lại chăm sóc, cởi ngự bào đắp lên mình, thấy miệng chảy nước dãi, thân lấy ống tay áo chùi cho. Dương Quý Phi thưa:

- Thiếp nghe nói lấy nước lạnh rảy vào mặt có thể tỉnh rượu.

Liền sai nội thị lấy nước hồ Hưng Khánh, truyền cho Niệm Nô, ngậm nước hồ mà phun vào mặt. Lý Bạch mới bàng hoàng khẽ mở đôi mắt, thấy ngay ngự giá, hoảng hốt đứng dậy, phủ phục dưới thềm tâu:

- Thần tội đáng chết vạn lần!

Huyền Tông thấy Lý Bạch vẫn còn ngơ ngác, như chưa tỉnh hẳn, sai tả hữu đỡ cho ngồi ngay thêm trước. Mặt khác truyền cho ngự trù Quang lộc tự bào nhân (1) đem chả cá tươi của nước Việt cống, làm ngay ba bát thang giải rượu.

1 Bào nhân: người làm bếp, ngự trù: nhà bếp nấu riêng cho vua. Quang Lộc tự: nơi đặc trách lo việc ăn uống, tiệc tùng của vua.

Chẳng mấy chốc, nội thị bưng thang giải rượu đựng trong bát vàng đến. Huyền Tông thấy hơi nóng còn bốc nghi ngút, tự tay cầm hốt ngà khẽ quạt khá lâu, rồi ban cho Lý Bạch. Lý Bạch ăn xong, đã thấy tâm thần tỉnh táo, liền dập đầu tạ ơn:

- Thần quá tham rượu ngon, đến mức điên đảo không còn biết trời đất. Bệ hạ đã không bắt tội kẻ điên này, mà lại còn gia ân đến thế, thần thật lấy làm hổ thẹn. Mai này ruột gan có lầy bùn đất, cũng không đủ báo muôn một ơn sâu nặng của bệ hạ hôm nay.

Huyền Tông phán:

- Hôm nay triệu khanh vào đây, cũng chẳng có việc gì lạ...

Rồi chỉ dưới thềm đình mà tiếp:

- Chỉ bởi mấy cây thược dược này thịnh khai, trẫm cùng Quý Phi thưởng ngoạn, không muốn nghe điệu nhạc cũ, nên bảo nhạc công hãy chờ khanh vào làm một bài từ mới vậy.

Lý Bạch vâng lệnh, chẳng cần nghĩ ngợi gì, làm ngay một khúc từ "Thanh bình điệu" trình lên:

Thoáng bóng mây hoa, nhớ bóng hồng

Gió xuân, dìu dắt, giọt sương trong

Ví chăng non Ngọc không nhìn thấy

Dưới nguyệt đài Dao thử ngóng trông!

Huyền Tông đọc xong, mặt rồng hớn hở khen ngợi:

- Học sĩ quả là có tài của bậc tiên vậy!

Lệnh ngay cho Lý Quy Niên đem bài từ phổ nhạc, sai Lý Mộ thổi sáo Khương, còn Hoa Nô thì đánh trống Yết Thất, Hạ Hoài Trí gõ sênh, Trịnh Quan âm gảy đàn tỳ bà, Trương Dã Cô thổi kèn, Hoàng Phiên Sước gõ phách làm nhịp, tất cả cùng hòa tấu, quả nhiên nghe thật du dương êm ái. Tiếng nhạc dừng, Huyền Tông phán?

- Bài từ của khanh hay lắm, đang lúc thích nghe thì lại đã hết rồi. Học sĩ đại tài, hãy vì trẫm mà vẫy bút thêm một khúc nữa.

Lý Bạch tâu:

- Thần vốn chỉ thích rượu, xin bệ hạ lấy chén thừa ban cho, để giúp thêm cho hứng vậy!

Huyền Tông hỏi:

- Khanh vừa mới tỉnh rượu, sao lại đòi uống, sợ lại say nữa, thì làm thơ thế nào được!

Lý Bạch thưa:

- Thẩn đã có thơ rằng: "Thèm rượu ước cạn biển, Cuồng ca muốn lên trời!". Thần cũng đã mắc tội cao ngạo mà xưng là "Ông tiên trong làng rượu", khi say, hứng thơ lại càng bay bổng, hào hùng vậy!

Huyền Tông cả cười, truyền nội thị lấy ngay Bồ đào mỹ tửu của châu Tây Lương vừa tiến cống, rót ban cho Lý Bạch một đấu bằng vàng. Lý Bạch cúi nhận, uống một hơi cạn sạch, lại nâng ngay bút lông thỏ, viết tiếp:

Hương đông móc đượm, một cành hồng

Non Giáp mây mưa những cực lòng

Ướm hỏi Hán cung ai mảng tượng

Điểm tô nàng Yến tốn bao công!

Huyền Tông xem xong, lại càng rạng rỡ mặt rồng, nức nở khen:

- Thật là mới mẻ, lạ lùng, thanh thoát. Không nên để cho bọn nhạc công này làm tạp nhiễm đi mất.

Lệnh cho Niệm Nô có giọng trong trẻo thử hát, còn tự mình thì thổi ngọc địch họa theo, nghe thật thánh thót, tinh khiết. Khúc vừa dứt, Huyền Tông lại cười nói với Lý Bạch:

- Trẫm thật đang hứng chí, phiền học sĩ hãy làm thêm một khúc nữa, để cho trọn vẹn niềm vui của ngày hôm nay.

Truyền lấy ngay nghiên mực ngự dụng Thụy Khê nghiên, bắt Dương Quý Phi hai tay nâng lên để xin chữ của bậc đại gia. Lý Bạch mấy lần từ tạ, rồi phút chốc, lấy đẫm mực vào bút lông thỏ, lại đề ngay một bài dâng lên. Bài từ viết:

Sắc nước hương trời, khéo sánh đôi,

Quân hương nhìn ngắm, những tươi cười

Sầu xuân man mác tan đầu gió

Cửa bắc đình Trầm đứng lả lơi. (1)

1 Cả ba bài "Thanh bình điệu" này theo bản dịch của Ngô Tất Tố. Thơ Đường.

Huyền Tông xem rồi, càng hớn hở, phán:

- Bài này đem mặt người đối với bóng hoa, cả hai đều tả được vẻ rực rỡ, thật là tuyệt diệu không nói hết. Lần ca này, tưởng Quý Phi cũng nên đóng góp tài năng của mình chứ.

Truyền ngay Vĩnh Tân, Niệm Nô đồng ca, Huyền Tông tự thổi ngọc địch, sai Quý Phi gảy đàn tỳ bà họa theo. Hòa xong, lại lệnh Lý Quy Niên đem cả ba khúc hòa nhạc. Quý Phi thân rót rượu mời. Huyền Tông cũng thổi ngọc địch họa theo lần nữa. Mỗi khúc lại phổ theo một điệu khác nhau, để bài ca láy đi láy lại mãi không hết. Khúc hát ngừng, Dương Quý Phi bái tạ, Huyền Tông cười phán:

- Không phải trẫm, hãy tạ ơn Lý Học sĩ kia!

Quý Phi liền lấy cốc pha lê, rót dầy rượu mời Lý Bạch, khẽ khàng tạ ơn ý thơ ngọt ngào. Lý Bạch lùi không kịp, vội quỳ xuống uống một hơi cạn cốc rượu, rồi cúi đầu tạ Quý Phi.

Huyền Tông lại truyền lấy Ngọc Hoá tông mã đưa Lý Học sĩ về Hàn Lâm viện. Từ đấy, danh tiếng, tài năng Lý Bạch càng nổi, chẳng những Huyền Tông yêu quý, mà Dương Quý Phi cũng rất kính trọng.

Nhưng Cao Lực Sĩ thì giận họ Lý, thầm nghĩ: "Ta nay được thánh chúa yêu mến, uy thế lẫy lừng, Hoàng Thái tử còn gọi bằng anh, các bậc vương bá hữu đều gọi ta bằng ông, hoặc còn gọi là cha. Chỉ riêng cái thằng học sĩ họ Lý này, dám nhớ đến mấy lời sĩ nhục của ta trước kia, mà lợi dụng dịp may để làm ô uế ta trước điện vàng. Hiện nay thiên tử đang mười phần kính trọng họ Lý, ngay cả đến Dương Nương nương cũng rất khâm phục tài năng của lão học sĩ điên khùng này. Vạn nhất mà người này được dùng vào việc lớn, thì thật là tai họa cho bọn ta. Nay phải tìm cách nào, cản trở đường tiến của họ Lý mới xong".

Lại đắn đo thêm: "Ta phải tìm trong bài "Thanh bình điệu", ý nào đó lắt léo, rồi bẻ ngoặt sang mà đánh vào lòng nghi kỵ của Dương Nương nương, dù thiên tử có muốn dùng đi nữa, cũng không thể nào đánh ngã được lòng ghen ghét của Dương Nương nương, thì chẳng còn cách nào để cứu họ Lý khỏi bị lạnh nhạt vậy?".

Kế sách đã định, Cao Lực Sĩ liền vào cung, gặp lúc Quý Phi đang một mình dựa lan can ngắm hoa, miệng lẩm nhẩm hát "Thanh bình điệu", thỉnh thoảng lại gà gật đầu tắm tắc đắc ý. Cao Lực Sĩ thấy xung quanh không ai, thừa cơ tâu ngay rằng:

- Theo ý nô tài này, thì nương nương phải căm tức bài này mới phải, cớ sao lúc nào cũng thầm hát là sao?

Quý Phi kinh ngạc hỏi:

- Tại sao lại phải căm tức?

Cao Lực Sĩ thưa:

- Họ Lý nói rằng: "Điểm tô nàng Yến tốn bao công!", là có ý so sánh nương nương với Triệu Phi Yến. Thử hỏi thuở xưa Phi Yến làm được những việc gì, nếu đã như thế, thì sẽ thấy rõ ý khích bác ở đây, sao nương nương lại không thấy ra! .

Nguyên là Huyền Tông từng đọc "Triệu Phi Yến ngoại truyện", nên biết Phi Yến thân hình nhỏ gầy, đứng trước gió, chỉ sợ bay đi mất, thường trêu Dương Quý Phi:

- Nếu là ái khanh thì gió thổi mạnh yếu thế nào cũng chẳng sợ.

Chính là để trêu Quý Phi béo tốt. Quý Phi vốn đẫy đà, đã từng bị Mai Phi rủa là "Con tiện tỳ phì nộn", cho nên từ đó Quý Phi rất căm những ai kia nói mình béo. Lý Bạch đem Phi Yến so với Quý Phi, thực ra cũng chẳng có ý xấu, mà còn là ý tốt nữa kia; nhưng nay bị Cao Lực Sĩ xuyên tạc, lại ngầm chỉ ra rằng Phi Yến thì tư thông với Yến Xích Phượng, giống như Quý Phi có tình riêng với An Lộc Sơn, lại cũng nhằm bới móc một lần nữa vậy. Những lời này của Cao Lực Sĩ, đánh trúng những chỗ khuyết tật của Quý Phi, cho nên dần dần Quý Phi cũng chuyển sang giận dữ, cho đến khi lòng riêng đầy thù hận.

Từ đó, trước mặt Huyền Tông, Quý Phi thường nói Lý Bạch là kẻ cuồng ca, rượu chè phóng túng, du đãng; không chịu tuân theo nghi lễ vua tôi. Huyền Tông nhiều lần định cất nhắc, đều bị Quý Phi cản trở. Dương Quốc Trung còn cái nhục mài mực, nên cũng góp thêm không ít lời bới móc. Huyền Tông vẫn kính yêu họ Lý, bởi trong cung không ai thích, cũng chẳng muốn triệu vào ban yến trong nội cung nữa, cũng chẳng còn chuyện giữ lại ngủ trong nội điện như ngày nào.

Lý Bạch hiểu ngay giọng lưỡi của bọn tiểu nhân, nên dâng sớ xin về nghỉ. Huyền Tông đời nào bằng lòng cho họ Lý về, ban chỉ an ủi khuyến khích, mà không cho. Lý Bạch từ đấy về sau, chỉ càng thêm phát cuồng, lúc nào cũng uống rượu say tràn rồi ngâm hết bài thơ này đến bài khác:

Chính là:

Mong trong núi chứa ngàn ngày rượu

Túy lúy say cho đến thái bình. (1)

Không rõ sự thể về sau ra sao, hãy xem hồi sau phân giải.

1 cổ thi nguyên văn: "Ân đắc sơn trung thiên nhật tửu; Minh nhiên trực đáo thái bình thi". Theo "Tửu sử": Lưu Huyền Thạch, đi vào núi Trung Sơn mua được "Thiên nhật tửu", rượu uống một lần, say nghìn ngày mới tỉnh. Lại theo "Sưu thần ký": Đích Huy, người Trung Sơn, nấu được "Thiên nhật tửu" cũng uống một lần say nghìn ngày như thế!

Hồi Thứ Tám Mươi Ba

Đưa mắt xanh, học sĩ biết anh hùng,

Tin lòng đỏ, người phiên làm phiên trấn.

Từ rằng:

Anh hùng mắc họa

Mạng gần nguy

Gặp người, phải thì

Việc kỳ

Người kỳ

Cứu lấy nam nhi

Ngày sau dẹp loạn giải nguy cho đời

Những phường đẹp mặt, tốt lời

Toan mê hoặc chúa một hai tin dùng

Biên cương chọn đứa gian hùng

Ắt là lửa loạn cháu bùng nay mai.

Theo điệu "Thái tang tử"

Từ xưa lập huân công đại nghiệp, vẫn là việc của bậc anh hùng hào kiệt, để rồi được tước cao lộc hậu. Có thể lúc đầu khốn khổ gian nguy, nhưng về sau thì giàu có vinh hiển, cũng bởi trời trao cho mệnh lớn, trị loạn giúp dời. Cũng không thiếu gì bậc đại tài nhưng không được dùng, thậm chí chẳng có nguyên cớ rõ ràng mà vẫn mang họa vào thân, tưởng như không còn đường sống, nào ngờ "tuyệt xứ phùng sinh", gặp được kẻ có mắt xanh, biết nhìn người nhìn đời, đem sức cứu đỡ may mà thoát nạn, thời cuộc chuyển dần, lập công kiến nghiệp, gia quan tiến tước, đến nỗi thiên hạ về sau, ca ngợi công lao một đời. Lúc ấy phải nhớ tới công ơn người quân tử đã cứu mình, biết tài, lân tài, vì đất nước mà chu toàn cho một bậc anh hùng cái thế.

Nếu là kẻ tiểu nhân thì hận thù nuôi mãi, thành ung, thành thư gặp dịp sẽ thả ưng, suýt chó lấy lời mỹ miều mà mê hoặc bề trên, mưu lợi cho mình, hại người khác, chẳng nghĩ đến tai họa cho quốc gia, thật là đáng giận đáng căm.

***

Chuyện nói về việc Lý Bạch bị Cao Lực Sĩ vu hãm đến nỗi Dương Quý Phi tức tối, vì vậy Huyền Tông về sau cũng không triệu vào làm cung phụng trong nội điện nữa. Lý Bạch thấy thế, dâng sớ xin về. Huyền Tông vốn rất yêu kính họ Lý, xuống chỉ ân cần giữ lại, không cho nghỉ.

Họ Lý ngày càng chìm đắm trong chén rượu, cũng là cách để tránh ghen ghét. Bạn rượu, ngoài Hạ Tri Chương ra, còn có Nhữ Dương Vương Tiến, tả hữu thừa tướng Lý Thích Chi, rồi bọn Thông Tông Chi, Tô Tấn, Trương Húc, Tiêu Toại, đều là những kẻ có tài rượu. Đỗ Công Bộ, đã từng làm "Bài ca tám ông tiên cùng uống rượu" - Ẩm trung bát tiên ca, sau đây:

Tri Chương (1) cưỡi ngựa như đi thuyền

Mắt hoa, ngả giếng vẫn ngủ liền

Nhữ Dương (2) ba hũ chầu kề bên,

Thèm nhỏ dãi khi gặp xe men

Tiếc chẳng làm quan nơi tửu tuyền

Tả tướng (3) một ngày tiêu vạn tiền

Rượu nốc như kình hút sông nghiêng

Vui cùng ông thánh, tránh ông hiền

Tông Chi (4) chững chạc bậc thiếu niên

Mắt trắng trời xanh nâng chén lên

Trước gió cây ngọc không ngả nghiêng

Tô Tấn(5) thờ phật, rằng ăn kiêng

Khi say những muốn trốn cửa thiền

Lý Bạch một vò, thơ trăm thiên

Li bì quán rượu ngủ đã quen

Vua đòi mà không chịu xuống thuyền:

"Thần là tiên rượu uống rượu tiên!"

Trương Húc(6) ba chén chữ thảo truyền

Trật mũ xõa tóc trước quan quyền

Vung bút quét giấy sinh mây thiêng

Tiêu Toại (7) năm hũ người thẳng lên

Cao đàm hùng biện vang xóm giềng.

1 Hạ Tri Chương: tự Quý Chân, xưng là "Tứ Minh cuồng khách", người miền Nam, không quen cưỡi ngựa, ngã vì say, rơi xuống giếng vẫn ngủ.

2 Nhữ Dương Vương, tên Tiến. Say rượu không thể đi từ trên điện xuống, vua phải nhờ người đỡ. Thấy hơi rượu, đồ nấu rượu đã thèm nhỏ dãi.

3. Lý Thích Chi, từ chức tể tướng về, suốt ngày uống rượu, gọi rượu trong là rượu thánh, rượu đục là rượu hiền.

4 Thôi Tông Chi: người đẹp, rượu vào càng đẹp chẳng khác nào cây bằng ngọc đứng trước gió.

5 Tô Tấn, ăn chay thờ Phật, thèm rượu bỏ chùa mà đi.

6 Trương Húc càng say viết chữ thảo càng đẹp, xõa tóc nhúng cả đầu vào nghiên mực, dùng đầu mà viết chữ, nên còn gọi là Trương Điên.

7 Tiêu Toại: nói lắp, nhưng khi sai thi lại rất lưu loát, hùng biện. (theo Từ Hải, Thơ Đường).

Lý Bạch suốt ngày cùng bảy người này uống rượu ngâm thơ, bất giác ở kinh cũng khá lâu. Một hôm, sau cuộc rượu, gặp An Lộc Sơn ngay ở cửa khuyết, Lộc Sơn coi khinh là phường say, lấy lời để trêu chọc, rất là xấc xược. Lý Bạch nhân cớ đang say, chửi Lộc Sơn một trận nên thân. Lộc Sơn vô cùng tức tối, nhưng chẳng dám làm gì vì họ Lý đang được thiên tử kính yêu, không dám hại, chỉ đành nuốt giận.

Lý Bạch từ đó đã bị lũ đàn bà cùng tiểu nhân ganh ghét, nếu không bỏ quan mà đi, tất tai họa cuối cùng sẽ đến. Lại thấy Dương Quốc rung, Lý Lâm Phủ kết bè đảng lộng quyền, mê hoặc quân vương, chính sự ngày càng bại hoại, mình chẳng phải gián quan, chẳng thể dùng lời nói thẳng mà cứu vãn thời thế, thế thì giữ cái chức vô bổ làm gì, nên dâng sớ khẩn thiết xin từ quan trở về, Huyền Tông biết ý họ Lý đã quyết, triệu đến trước điện mà phủ dụ:

- Khanh đòi bỏ trẫm mà đi, cũng chẳng tiện giữ nhiều, thôi thì trẫm bằng lòng cho khanh tạm trở về với vườn ruộng. Khanh thảo chiếu bình phiên, thật có công với quốc gia, há lại tay không mà trở về. Nhưng trẫm cũng biết khanh cao nhã, tất chẳng đòi gì cả, cái mà khanh một ngày không thể thiếu, thì chỉ có là rượu.

Liền thân viết một sắc thư mà ban cho, đại ý như sau:

"Sắc ban cho Lý Bạch, làm Nhàn Tản Tiêu Dao Học sĩ. đến nơi nào, các quan tư phải chi cấp đầy đủ tiền. Văn võ quan viên cùng binh lính, dân chúng không được khinh mạn. Nếu thấy việc gì, nghe việc gì thì được phép dâng sớ tâu trình. "

Lý Bạch bái tạ nhận sắc lệnh. Huyền Tông lại còn ban cho áo gấm, đai vàng cùng ngựa tốt xe êm. Họ Lý vái lạy ra khỏi triều đường. Vốn không có gia quyến ở kinh, chỉ có mấy gia bộc đi theo, liền thu xếp hành trang, từ biệt bạn bè ra khỏi kinh sư.

Các quan trong triều, đều bày tiệc rượu ở trường đình tiễn biệt, chỉ Dương Quốc Trung, Cao Lực Sĩ, An Lộc Sơn là mang nỗi tức tối nên không chịu ra. Hạ Tri Chương cùng mấy người nữa, tiễn đến hơn trăm dặm mới chia tay. Lý Bạch nhân thánh chỉ cho ngao du, ra khỏi kinh, không về quê ngay, hướng phía U Yên, thấy núi đẹp, sông sâu, thắng cảnh, mặc ý tha thẩn vui chơi, mặc sức lúc Bồng Châu, khi Lăng Uyển. Qua quận huyện được cấp tiền, gặp cảnh thì đề thơ, chọn nơi mà uống rượu, thoải mái tùy lòng.

Hôm ấy, đến địa phận Tinh Châu, các quan lại sở tại đều ra nghênh đón, Lý Bạch từ tạ, chỉ xin vào công quán chất hành lý, đem theo mấy tên người nhà, cưỡi ngựa ra ngoài thành để xem cảnh sông núi của Tinh Châu. Bỗng một đoàn lính, người nào người ấy cầm côn, áp giải một xe chở tù đi rất nhanh, thấy Lý Học sĩ cưỡi ngựa đi tới, đoàn người ngựa nép sang bên đường để tránh. Lý Bạch nhìn người từ trên xe, là một thanh niên khỏe mạnh, xem kỹ thì thấy:

Đầu to như chiếc đấu tròn

Tóc râu xõa rối, một khuôn chữ điền

Đôi mắt sáng, ngời ánh đèn

Đứng lên thân ắt là gần trượng cao

Vì đâu gặp vận lao đao

Xem tướng mạo quả anh hào, kém ai?

Người tù này họ Quách, tên Tử Nghi, quê ở Hoa Châu, hình dáng khôi ngô, ôm tài thao lược, vốn có tài kiến công lập nghiệp, mang chí trung quân ái quốc, nhưng chưa gặp thời, nên tạm nương nhờ dưới trướng Tiết độ sứ Kha Thư Hãn Lũng Tây, làm một viên biên tướng. Nhân vâng quân lệnh, xem xét lương thảo của quân đội, nhưng không may thủ hạ có người vô ý làm cháy hết cả một kho lương lớn, tội đến người cầm đầu, nên cứ chính sách mà chịu chém đầu.

Lúc này Kha Thư Hãn đang đi tuần ở biên giới Tinh Châu, nên quan quân chính ty giải Tử Nghi tới đây để hành tội. Lý Bạch thấy Tử Nghi dung mạo đường đường, liền dừng ngựa hỏi nguồn cơn, Tử Nghi trả lời rõ ràng, tiếng nghe như chuông đồng. Lý Bạch nghĩ: "Nghi biểu như thế này, nhất định là bậc anh hùng hào kiệt, nay chính lúc thiên hạ sắp có nhiều việc, với tướng mạo thế này, chính là người có ích cho triều đình, sẽ là rường cột của quốc gia, sao lại có thể giết dễ dàng như thế này?". Liền nói với toán lính:

- Các ngươi hãy khoan giải tới tiết độ sứ, hãy đợi ta thân tới gặp tìm cách kêu khỏi tội chết cho Tử Nghi.

Ai nấy không dám không nghe theo. Lý Bạch quay ngựa, đi theo bọn giải tù. Vừa đi vừa hỏi chuyện Tử Nghi về quân cơ thao lược. Tử Nghi đối đáp như nước chảy, Lý Bạch càng thêm mười phần kính trọng.

Đến hành doanh của Kha Thư Hãn, Lý Bạch sai tay chân đưa danh thiếp vào trước, thưa thêm có Lý Học Sĩ tới thăm, quan coi cửa vào thưa. Kha Thư Hãn vốn là một viên danh tướng thời bấy giờ, thường vẫn kính mộ tài năng của Lý Bạch như sấm bên tai, nay thấy Lý hạ cố tới, lấy làm vinh hạnh không ngờ, lệnh mở rộng của doanh mời vào, chủ lễ chào xong cùng ngồi uống trà. Lý Bạch liền nói rõ nguyên do đến thăm, mong khoan giản cho tội của Quách Tử Nghi. Kha Tư Hãn nghe xong trầm ngâm một lúc rồi đáp:

- Học sĩ đã dạy thế, đáng ra phải theo lời ngay, nhưng tiểu nhân lâu nay điều khiển tướng sĩ bộ hạ, thưởng phạt đều phải theo đúng chữ tín. Nay Quách Tử Nghi lỡ để thiêu cháy cả quân lương, quân pháp không thể nào tha, bởi việc quan hệ đến kỷ cương, lý phải tâu với thiên tử, tiểu nhân quả không dám chuyên quyền, tự ý phóng thích. Vậy nên thế nào bây giờ?

Lý Bạch liền lên tiếng:

- Nếu như vậy, họ Lý này cũng không dám coi thường quân pháp, chỉ xin kéo dài thời hạn gia hình. Quan tiết độ cứ dâng biểu trình mọi việc. Họ Lý này sẽ viết sớ tâu rõ, cùng tiện một thể đưa về kinh đô, xin thánh thượng ra lệnh.

Kha Thư Hãn lập tức bằng lòng:

- Nếu cứ như vậy thì tình lý đều đầy đủ vậy!

Liền lệnh giam Quách Tử Nghi lại, đợi chỉ định đoạt. Lý Bạch từ tạ ra ngoài.

Kha Thư Hãn một mặt tâu về triều đình, một mặt Lý Bạch dâng sớ về, nói rõ tài thao lược của Tử Nghi, đáng mặt xông pha mũi tên hòn đạn khi quốc gia hữu sự, còn việc hỏa hoạn, chẳng qua là do sơ ý của tay chân, không phải tội Tử Nghi, kính xin chúa thưởng khoan ân, để dùng về sau. Cả hai đều giao cho dịch trạm, phi như sao băng về Trường An, Lý Bạch tạm thời lưu lại công quán của Tinh Châu chờ chỉ, ngày ngày rong chơi. Kha Thư Hãn cùng văn võ tùy tòng, quan viên sở tại ngày ngày mở tiệc thiết đãi, cùng họ Lý uống rượu ngâm thơ làm vui. Chẳng bao lâu thánh chỉ đã xuống, chuẩn cho lời tâu của Lý Học sĩ đem thủ hạ của Quách Tử Nghi, chính kẻ đã gây hỏa hoạn ra chịu chính pháp, tha tội cho Tử Nghi, cho được lập công chuộc tội.

Chính là:

Nhờ có mắt tinh của thi sĩ

Nên không uổng mạng một anh hùng

Khoan hồng mừng tạm hôm nay thế

Mừng thật chờ hôm lập đại công.

Tử Nghi cảm kích ơn cứu sống của Lý Bạch, thề kết cỏ ngậm vành đền ơn. Lý Bạch từ biệt Tử Nghi, Kha Thư Hãn cùng các quan tướng, du ngoạn các nơi, lúc chia tay, không quên dặn dò Kha Thư Hãn chiếu cố Tử Nghi. Từ đó, do có quân công, Tử Nghi dần dần được thăng thưởng cao, đó là chuyện sau này.

***

Hãy nói chuyện triều đình từ ngày Lý Bạch bỏ đi, Hạ Tri Chương chẳng bao lâu cũng xin nghỉ mà đi nốt, tả tướng quốc Trương Thích Chi nhân có hiềm khích với Lý Lâm Phủ cũng bỏ chức mà về, nhưng rồi Lâm Phủ vẫn không tha, theo đuổi hãm hại, đến nỗi Thích Chi phải tự tận. Lâm Phủ ỷ thế thiên tử tín nhiệm, mặc sức hoành hành. An Lộc Sơn cũng sợ, Dương Quốc Trung cũng ganh ghét, nhưng thế cũng không làm gì nổi họ Lý.

Năm trước Huyền Tông giết luôn một lúc ba con trai, Lâm Phủ khuyên nên lập Thọ Vương Mạo làm Thái tử, Huyền Tông lại nghe theo lời Cao Lực Sĩ, lập Trung Vương Dư làm Thái tử, Lâm Phủ lấy làm tức tối tìm cách chèn ép. Bấy giờ có quan hộ tào là Dương Thân, dựa thế Dương Quốc Trung tự nhận mình là cùng họ với họ Dương, lại cùng với La Hy Thích, Cát Ôn, đều là lũ chó săn của Lý Lâm Phủ. Lâm Phủ bàn mưu, bày bọn này dâng mật sớ, vu cáo cho hình bộ thượng thư Vi Kiên liên kết với tiết độ sứ Hoàng Phủ Duy Minh để tìm cách lật đổ ngai vàng, lập Thái tử lên ngôi, lại dẫn Dương Quốc Trung làm chứng cớ.

Vi Kiên nguyên là anh ruột của Vi Thị phi tử của Thái tử. Tiết độ sứ Hoàng Phủ Duy Minh, nhân một lần tới kinh sư, từng tới bái kiến Thái tử, trước mặt Thái tử lại chê bai tể tướng lộng quyền, vì vậy Lý Lâm Phủ mang trong lòng tức tối, tìm cách vu cáo, để lay đổi ngôi Đông cung. Huyền Tông xem sớ nổi giận, may được Cao Lực Sĩ giải bày, nhưng vẫn không thoát hẳn tội, mà đều bị giáng chức. Thái tử thấy vậy, hoảng sợ vô cùng, dâng biểu xin ly hôn với Vi Thị. Huyền Tông nhân được Cao Lực Sĩ khuyên can, không cho Thái tử làm việc này. Lý Lâm Phủ lại mật tâu xin giao cho Dương Thân cùng La Hy Thích, Cát Ôn tra xét chuyện này, thêm cả Dương Quốc Trung làm giám sát. Huyền Tông giáng chỉ bắt giết Vi Kiên cùng Hoàng Phủ Duy Minh, còn sự tình không cần tra xét lôi thôi, vì thế Thái tử mới khỏi lo lắng.

Chẳng bao lâu gặp lúc tướng Đổng Duyên Quang, vâng chiếu chinh phạt Thổ Phồn, không làm được việc, lại đổ tội cho Tiết độ sứ Sóc Phương là Vương trung Tự, vu cho Tự cản trở việc quân. Lý Lâm Phủ thừa cơ, vu cho Dương Quốc Trung tâu dèm pha Tự, để lấy quân tướng gây bè cánh cho Thái tử. Huyền Tông liền gọi Tự vào kinh, lệnh cho Tam ty tra xét, Thái tử lại một phen kinh hoàng. May là Tự vốn do Kha Thư Hãn tiến cử, Kha Thư Hãn hiện có uy tín với Huyền Tông, nhưng Huyền Tông chưa thấy mặt người này, nhân đó mới gọi Kha Thư Hãn vào triều ra mắt hoàng thượng, để hỏi rõ hư thực mọi chuyện. Kha Thư Hãn vâng chiếu, vội ngày đêm vào kinh, được bọn chân tay khuyên đem thật nhiều vàng ngọc vào kinh mà dùng, để còn cứu Vương Trung Tự. Kha Thư Hãn đáp:

- Ta không phải vì tiếc vàng lụa, nhưng nếu công lý, đạo đức mà còn, thì thánh thượng không để ai phải chết oan. Còn nếu không có công đạo thì dùng vàng lụa cũng có ích gì.

Rồi cứ thế, với hành lý rỗng không lên đường, vào kinh ra mắt Huyền Tông. Huyền Tông trước tiên hỏi công việc biên cương, Kha Thư Hãn nhất nhất tâu bày, Huyền Tông rất bằng lòng. Kha Thư Hãn lại hết lòng giải bày nỗi oan khuất của Vương Trung Tự, cùng việc Thái tử bị vu cáo lời lẽ thống thiết. Huyền Tông nhận ra, bèn phán:

- Khanh hãy lui ra, để trẫm nghĩ kỹ!

Ngày mai, liền gọi cả Tam ty vào, hiểu dụ:

- Con ta ngồi trong cung sâu, làm sao có thể tư thông với bên ngoài biên giới, đấy chẳng qua chỉ là những lời bậy bạ, các khanh chẳng cần phải lục vấn. Còn việc Vương Trung Tự cản trở quân cơ, nên giáng quan tước, để trách phạt.

Liền chuyển Tự làm thái thú Hán Dương, tướng Đổng Duyên Quang cũng bị giáng chức, Kha Thư Hãn trở về Tinh Châu. Thái tử thoát tội, phủ phục khóc lóc tạ ơn trước điện, Huyền Tông dùng lời ngọt ngào an ủi, từ đó tình phụ tử trở lại hình thường. Chỉ đáng giận cho lũ Lý Lâm Phủ, Dương Quốc Trung, mưu toan đổi triều đình, theo dõi từng việc to nhỏ ở Đông cung, bày đặt đủ loại chứng cớ, may mà Thái tử là do Cao Lực Sĩ khuyên Huyền Tông lập nên họ Cao luôn vì Thái tử mà che chở cho trước Huyền Tông. Lại thêm Thái tử vốn nhân hiếu cẩn thận, chưa từng đắc tội với Dương Quý Phi, nên chẳng có hiềm khích gì bọn người nhà, anh em, chị em họ Dương, lại chỉ dựa thế Quý Phi mà kiêu sa, ngang ngược ngày càng quá quắt. Lúc này trong dân gian ta có câu ca rằng:

Sinh trai ai chớ hội mừng

Dẫu đẻ gái cũng xin đừng vội lo

Trai lêu lổng, gái lấy vua

Xe hương, lọng thắm, biển cờ đầy sân.

Dương Quốc Trung, Dương Tiêm cùng với Hàn, Quắc, Tần ba vị phu nhân nhà cửa dinh thự đều ở ngay phường Nghi Dương, lầu son san sát, chẳng thua gì cung khuyết. Quốc Trung cùng ba vị phu nhân nguyên chẳng họ hàng anh em gì. Trong số ba phu nhân, riêng Quắc phu nhân hơn hẳn về chuyện xa hoa dâm đãng, mỗi lần làm dinh làm lầu, tiền không dưới bạc vạn, nếu thấy dinh thự ai mà hơn, lập tức phá dinh cũ, làm cái mới, công việc thổ mộc chẳng lúc nào yên. Nhà ở của phu nhân, liền cung dinh của Quốc Trung, đi lại rất gần, vô cùng thuận tiện, nên cùng Quốc Trung tư thông. Quốc Trung vào triều có khi cùng kiệu của phu nhân song song mà đi, dân chúng tha hồ mà cười mà chửi rủa, nhưng cả hai điềm nhiên không còn biết hổ thẹn.

An Lộc Sơn cũng có dạo đi lại với Quắc Quốc phu nhân rất thân thiết, lại còn tặng riêng Lộc Sơn một vòng ngọc mà hàng ngày phu nhân rất quý. Lộc Sơn rất mừng, lúc nào cũng đeo ở bên người. Không ngờ trong một lần dự yến, Lộc Sơn thay áo, Quốc Trung thấy được. Lâu nay Quốc Trung ghét Lộc Sơn dám kiêu ngạo cả với mình, trong lòng đã bất bình, nay lại thấy vòng ngọc, nhận ra ngay là vật của Quắc Quốc phu nhân, mới biết hai bên có tư tình lại càng căm ghét Lộc Sơn đến tận xương tủy. Trong nói năng hằng ngày, thỉnh thoảng vẫn ám chỉ chuyện đi lại của Lộc Sơn quá lộ liễu, ngang nhiên, coi thường mọi sự bàn tán, chỉ sợ đến tai thánh thượng, thì tai họa nhất định không nhỏ. Quý Phi nghe Quốc Trung nói, trong lòng vừa nghi ngờ vừa sợ hãi.

Chính là:

Bởi Quý Phi chẳng quý mình

Cấm sao được chúng, phẩm bình nhặt thưa

Lạ gì quán chợ sớm trưa

Khen chê bia miệng ngàn xưa để đời.

Một hôm, Huyền Tông ngồi nhàn trong Chiêu Khánh cung, Lộc Sơn đứng hầu một bên. Thấy bụng Lộc Sơn to che kín cả đầu gối, Huyền Tông chỉ mà đùa rằng:

- Thằng con này bụng to như cái chum. Chẳng biết bên trong chứa những gì?

Lộc Sơn chắp tay mà thưa:

- Trong này không có gì khác chỉ có tấm lòng son, thần đã nguyện đem tấm lòng này mà thờ bệ hạ rồi.

Huyền Tông nghe xong trong lòng rất khoan khoái nào có ngờ:

Giấu kín trong lòng

Ai mà biết được

Miệng khoe lòng son

Bụng đen như mực.

Huyền Tông coi Lộc sơn như kẻ tâm phúc. Lộc Sơn đối với Huyền Tông, trái lại chỉ có lòng phản trắc, lòng lang dạ sói. Kẻ biết ra chỉ giận chưa mổ bụng y, ăn thịt y cho hả dạ, thế mà y vẫn dám mở miệng nói tới lòng son tới con đỏ. Buồn cười cho Huyền Tông vẫn chẳng hay biết gì cả, vẫn một dạ tin là y thành thực, không hề một chút ngờ vực.

Nhân nói chuyện vơ vẩn, Huyền Tông quay ra hỏi tả hữu:

- Quý Phi ở đâu?

Bây giờ là cuối mùa xuân, thời tiết đã ấm áp, Quý Phi đang trong cung hậu, tắm rửa bằng nước lan, cung nga quay ra tâu:

- Nương nương vừa mới tắm xong!

Huyền Tông khẽ cười:

- Người đẹp vừa tắm xong, chẳng khác gì đóa phù dung vừa ra khỏi nước. Cung nga hãy mời Quý Phi ra đây ngay, không cần phải trang điểm gì cả!

Chẳng mấy chốc, Quý Phi đã tới, mới tắm xong, hình dung thế nào, có bài từ "Hoàng oanh nhi" sau đây tả rất hay:

Như trứng gà bóc

Long lanh như ngọc

Da ngát hương thơm

Lả lướt mây đơm làm tóc

Quần là bước hở bước che

Tà áo mỏng, ánh nắng hè lướt qua

Phù dung trong nước hiện ra

Vẻ kiều diễm hãy kém xe Ngọc Hoàn.

Quý Phi lúc này lười chưa trang điểm, chưa khoác đủ áo, tha thướt đi tới, càng lộ vẻ đẹp khác thường. Huyền Tông trông ra, mặt đầy rạng rỡ, lại gặp lúc ngoại quốc vừa tiến cống loại son thơm dị thường liền truyền lấy ban cho, lệnh soi gương thoa ngay, Huyền Tông lại sát bên gương để ngắm cho rõ.

Quý Phi thoa son xong, còn dư một ít ở tay, liền xoa ngay lên ngực, chiếc áo vừa rộng vừa chưa buộc hết giải, trễ ngay ra, hé rõ cả hai vú. Huyền Tông thấy thế, liền xuýt xoa:

- Tuyệt vời! Mềm mềm như miếng phao gà nóng!

Lộc Sơn đứng ngay bên, bất giác buột miệng nói theo:

- Mịn mịn còn hơn tảng sữa đông!

Y nói xong rồi, mới thấy mình quá đường đột, rất dễ bị chết tươi. Quý Phi cũng kinh hãi bởi sự lỡ lời đó, chỉ sợ Huyền Tông lấy làm quái dị, nên toát cả mồ hôi. Bọn cung nga đứng xung quanh cũng nghe rõ những lời này, mặt mày đều hoảng hốt, xanh xám. Huyền Tông riêng vẫn chẳng để ý, lại còn tươi cười chỉ mặt Lộc Sơn mà rằng:

- Thật buồn cười, thằng con tộc Hồ này cũng biết món sữa đông sao?

Nói xong cười ha hả. Quý Phi mới cười theo, tiếp đó là cả bọn cung nga cũng cười hi hi.

Cũng bởi là:

Trừ phi tay đã từng qua lại

Sao biết mềm hơn tảng sữa đông?

Cứ rằng, lòng son lòng đỏ mãi

Cười xòa một tiếng, thêm xong.

Cũng bởi Lộc Sơn thường ngày đùa cợt riêng với Quý Phi đã quen thói, nay ngay trước mặt Huyền Tông, bất giác cũng buông lời bỡn cợt, may mà Huyền Tông không nghi ngờ. Quý Phi vốn đã được Quốc Trung báo trước việc này, nên cũng sợ lộ chuyện, từ đó về sau, mỗi lần gặp Lộc Sơn đều dặn phải cẩn thận, ra vào phải để ý.

Lộc Sơn cũng biết Quốc Trung ghen ghét, trước sau gì Quốc Trung cũng tìm cách trừ khử mình, nhưng lại tính rằng Quốc Trung chưa đáng sợ, mà kẻ gian hùng đáng kiềng mặt hơn cả là Lý Lâm Phủ kia. Hiện nay họ Dương họ Lý đang thân thiết với nhau, cả hai đứa này mà cùng lo việc diệt trừ mình, thì khó mà chống đỡ nổi, chi bằng hãy kiếm một chức gì đó ở bên ngoài, tạm nương náu qua thì, lo công nghiệp lâu dài sau này vậy. Nhưng chỉ sợ Quý Phi cùng Quắc Quốc phu nhân chưa chắc đã chịu cho mình ra, chính vì vậy mà trù trừ chưa quyết.

Dương Quốc Trung thì thầm nghĩ: "Lộc Sơn mai kia nhất định sẽ cùng mình tranh giành quyền hành, ta phải tìm cách trừ chẳng trước thì sau. Khổ nỗi nay y đang được thiên tử yêu vì, lại được Quý Phi cùng Quắc Quốc phu nhân nâng đỡ, không thể một lúc mà có thể xô đổ y cho được. Trước mắt, làm sao mà đẩy y ra khỏi kinh thành, tốt hơn cả là bày mưu chuyển y ra trông coi vùng phiên trấn phương Bắc, rồi sau đó hãy tính việc trừ cho tiệt giống". Toan tính như vậy rồi, gặp ngay lúc Lý Lâm Phủ dâng sớ, nên dùng người Phiên làm các tiết độ sứ phiên trấn.

Nguyên là theo thể chế nhà Đường, các tiết độ phiên trấn, đều dùng người tài lược, cổ uy danh thuộc hàng văn thần. Một khi làm việc này có công huân, sẽ được đưa vào triều làm tể tướng. Nay Lý Lâm Phủ chuyên quyền, định cắt đường các phiên trấn về triều ở ngôi tể tướng, nên Lâm Phủ mới dâng sớ, tâu rằng các văn thần ra chốn biên cương, không quen xông xáo mũi tên hòn đạn, dễ là mối lo cho triều đình, chi bằng dùng người Phiên, vừa dũng lược, vừa thạo chinh chiến, dễ trở thành chỗ dựa cho quốc gia. Huyền Tông chuẩn tấu vì vậy tiết độ sứ phiên trấn lúc này đều dùng người Phiên.

Quốc Trung nhân cơ hội này để đuổi Lộc Sơn ra khỏi triều đình, mới tâu rằng:

- Hà Đông là đất hiểm yếu, cần phải có người Phiên thật thân tín làm chủ, nhưng lại phải có tài thao lược. Ngoài An Lộc Sơn ra khó có người đảm. đương nổi trọng trách này.

Huyền Tông nghe thế, thấy cũng hợp lý, liền triệu Lộc Sơn vào mà phán rằng:

- Khanh đây một lòng son thờ trẫm, đáng ra nên lưu lại nội cung làm thị vệ, nhưng Hà Đông là vùng trọng địa không ai bằng khanh; nay khanh hãy tạm ra trị nhậm ít lâu, rồi lại có dịp sẽ về triều hầu hạ trẫm sau vậy!

Chỉ ban ra phong Lộc Sơn làm Bình Lư, Phạm Dương, Hà Đông Tiết độ sứ, tước Đông Bình Quận vương, lập tức lên đường phó nhiệm. Lộc Sơn nghe mệnh, thấy cũng hợp với tính toán riêng liền đập đầu lĩnh chỉ, vào cung từ tạ Dương Quý Phi, dùng dằng không nỡ rời tay. Quý Phi kéo vào buồng kín, cầm tay mà thì thầm:

- Lộc Sơn đi chuyến này, đều do việc ghen ghét của anh ta mà ra cả đây. Ta cùng Lộc Sơn ái ân hoan lạc đến thế, một sớm xa nhau, thật là khó mà sống nổi. Nhưng Lộc Sơn ở kinh đã lâu, dễ gây lòng ghen ghét với xung quanh nay được ra phiên trấn, không phải là không may đâu, Lộc Sơn hãy cố mưu đồ mai sau, ta sẽ cho người tâm phúc thường xuyên đưa tin, sớm tối trước mặt chúa thượng lưu tâm chiếu cố Lộc Sơn. Hãy đi mà mưu lấy công nghiệp riêng cho mình đừng lo lắng gì?

Lộc Sơn gật đầu ưng thuận, đang dặn dò to nhỏ, cung nga vào thưa:

- Ba vị phu nhân đều đã vào!

Quý Phi đón vào chào hỏi xong, Lộc Sơn cũng ra làm lễ. Quắc Quốc phu nhân nghe nói Lộc Sơn ra đi, rất lấy làm bực bội, nhưng mệnh vua đã ban, chẳng làm thế nào khác. Lộc Sơn cũng thấy không tiện ở nội cung lâu, liền xin cáo thoái. Đến lúc lên đường, Huyền Tông còn gọi vào ban yến. Lộc Sơn tạ ơn, cúi lạy lên đường.

Lý Lâm Phủ cũng bày tiệc rượu tiễn hành, trong lúc nâng chén, Lâm Phủ cất tiếng:

- An tiết độ, ra trấn một vùng biên cương rộng lớn trách nhiệm thật không nhỏ, công việc nên thận trọng, hợp tình hợp lý. Lâm Phủ này tuy ở trong triều, nhưng các việc to nhỏ ngoài phiên dậu đều lấy làm lo lắng, theo dõi hàng ngày. Nay ba trấn lớn được đại nhân làm tiết độ sứ thật sẽ là bình phong vững chắc cho triều đình, xin hãy gắng lo toan.

Những lời này, vừa như cảnh cáo, vừa như tán dương. Lộc Sơn hàng ngày vẫn sợ Lâm Phủ, nghe xong đầy vẻ kính cẩn, từ tốn đáp lại:

- Lộc Sơn này tài sơ, lại lỗ mãng, nay ra coi một vùng rộng lớn, thấp thỏm lo không tròn trọng trách, xin cố nghe theo lời dạy bảo. Việc gì không nên không phải, xin về lâu về dài được sự bảo ban của quan tể tướng.

Nói xong chắp tay kính cẩn van lạy từ biệt lên đường.

Trước đó một ngày, Dương Quốc Trung cũng làm tiệc rượu tiễn hành, mời An Lộc Sơn, Lộc Sơn kiếm cớ chối từ. Hôm nay, Quốc Trung cũng thản nhiên tới đưa tiễn. Lộc Sơn vẫn còn tức tối, mang mặt cao ngạo không thèm đáp lễ. Quốc Trung giận dữ, từ đó thù oán hai bên càng sâu.

Lộc Sơn đến nhiệm sở mới, tra xét người ngựa lương tiền, huấn luyện sĩ tốt tích trữ quân dụng, hành doanh đặt ở Phạm Dương, coi sóc cả vùng Bình Lư, Hà Đông, Phạm Dương, từ Vĩnh Bình phía đông, kéo tới Thái Nguyên phía tây, một khu lợi hại Đông Bắc, đều thuộc quyền cai quản, thanh thế ngày càng rộng lớn, uy quyền ngày càng lừng lẫy, bản thân ngày càng kiêu ngạo.

Người sau có thơ rằng:

Người Phiên nổi loạn nát rào phên

Là tại vua tôi phận đảo điên

Cọp dữ xổng chuồng khôn nhốt lại

Chờ xem đất ngửa với trời nghiêng

Hồi Thứ Tám Mươi Bốn

Thần nữ thoát bình phong, ẩn hiện mắng nhiếc,

Thiên không nổi âm nhạc, tiên trần vui chơi.

Từ rằng:

Bình phong đột hiện đủ tiên nga

Lộng lẫy chờn vờn, dáng thướt tha

Uốn lượn, vào ra, chân ảo biến

Xưng tên người, rùng rợn như ma

Mây kín đường xa

Cầu ô đưa đón lên tòa thiên không

Sáng ngày hoảng hốt mông lung

Trần gian mộng huyễn, trong vòng quẩn quanh

Theo điệu "Tương kiến hoan"

Từ xưa việc thần quái thường ít khi thấy, nhưng cũng không phải là hiếm, duy có bậc chính nhân quân tử, dẫu có thấy thần cũng không được lấy làm quái, thì thần cũng khó mà tác quái, như thế thì lòng ngay thẳng chính trực có thể thắng những chuyện quỷ thần vậy.

Khổng Tử không nói chuyện quái, cũng không nói chuyện thần, vốn là mang ý đã là quái thì không đáng nói, thần thì bất tất phải nói. Con người ta cứ đường chính tuần tự mà đi, tự nhiên yêu nghiệt không thể gây họa, tức là quỷ thần phải vâng theo mệnh của ta vậy, kẻ gian tà không thể nào bằng người có đức, có tình để mà cảm động được đến thế lực thần tiên cho được. Thế mà vẫn có một lũ phương sĩ, cao đàm khoát luận những thuật trường sinh, những phép thần thông, thì cuối cùng cũng là việc vô bổ, việc huyễn hoặc. Đời trước thì có Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế, đều đủ là những tấm gương tốt rồi còn gì!

***

Hãy nói chuyện Dương Quốc Trung thừa cơ tống được An Lộc Sơn ra khỏi kinh sư, không còn ai tranh quyền đoạt lợi với mình nữa, trước mắt chỉ còn thua mỗi Lý Lâm Phủ, con người này thì khó mà lay đổ cho được. Y sinh ra vốn đã thâm hiểm, thiên tử hiện tại lại tin yêu mười phần, sủng quyến đến điều. Một ngày kia, giáng chỉ, sai trăm quan cùng duyệt đồ cống hàng năm chất ở Trung thư tỉnh, kiểm điểm xong về tâu lại, Huyền Tông ra lệnh đem tất cả đồ cống của năm đó, lấy xe chở ban tận nhà Lý Lâm Phủ, sủng ái đến như thế.

Con của Lâm Phủ là Lâm Tự, cũng làm quan trong triều, lòng rất lo lắng tới sự hưng vong của gia tộc mình, cùng Lâm Phủ dạo trong vườn hoa sau dinh thự, thấy một người phu dịch làm vườn, nằm ngủ ngay dưới gốc cây, nhân đó nói nhỏ với Lâm Phủ:

- Phụ thân nắm triều chính đã lâu, oán cừu đầy thiên hạ, mai kia bỗng hoạn nạn một sớm kéo đến, dẫu có muốn gối cao ngủ kỹ như người phu dịch kia, liệu được chăng?

Lâm Phủ yên lặng không đáp. Từ đó thường sợ có hiệp sĩ, thích khách ám toán, nên ra khỏi nhà, người ngựa hộ vệ có tới hơn trăm, ngoài ra còn đội lính đi trước mấy trăm bộ để dẹp đường, đuổi hết kẻ qua người lại. Ở thì qua mấy lần tường, lần cửa như chống giặc dữ, một đêm như thế, thay chỗ ngủ đến mấy lần, dẫu là gia nhân cũng chẳng biết chỗ nào.

Dương Quốc Trung thì ngược lại, vốn có thú vui ở chốn tiêu phòng, quan tước cũng đã đến tả thừa tướng ngôi cao, mặc sức kiêu xa, dâm dật, chẳng sợ ai ganh ghét, hãm hại, cũng chẳng đếm xỉa đến dư luận khen chê.

Lúc này là tiết thượng ty (1), Quốc Trung phụng thánh chỉ, cùng với em là Dương Tiêm và chị em các phu nhân, ra sông Khúc Giang làm lễ "Tu hễ". Cả năm nhà làm thành một đội, mỗi nhà mặc một sắc áo khác nhau, con hầu, tiểu đồng đi theo không kể hết, áo quần sặc sỡ lóa mắt, chẳng khác gì trăm hoa khoe sắc, cưỡi ngựa đi xe, không hề dùng tàn lọng che đậy gì cả, hai bên đường, người đứng xem như nước cuốn. Quốc Trung cùng Quắc Quốc phu nhân, cầm roi giật cương lấy làm trò cười, ai nấy vui chơi mãi đến tối mịt, thắp đèn đuốc lên mà về, rơi trâm, rơi hài đầy đường đầy ngõ. Đỗ Công Bộ có bài "Lệ nhân hành" tả rằng:

1 Thượng ty: tiết đầu tháng ba âm lịch, người xưa thường ra bờ sông làm phép tế rảy nước trừ tà ma, tiệc rượu cũng coi như một lễ hội vui chơi, gọi là "Tu hễ" hay "Phất hễ", nếu làm vào thượng ty thì còn gọi là "Xuân hễ", làm vào mùa thu gọi là "Thu hễ". (Từ điển Thiều Chửu"

Mùng ba tháng ba khí trời trong

Người đẹp đất kinh chơi bên sông

Tính nết thùy mị, vẻ đượm nồng

Xương thịt đều đặn, da trắng mỏng

Áo là, xiêm vóc, ánh xuân lồng

Bạc đúc kỳ lân, vàng vác công,

Trên đầu có gì quý?

Cánh trả buông theo mái tóc cong

Sau gáy có gì đẹp?

Vạt châu lẫn gọn vừa lưng ong

Màn mây người họ ở tiêu phòng (1)

Tần Quốc, Quắc Quốc, tước vinh phong

Trên bướu lạc đà chỗ xanh biếc

Trong mâm thủy tinh cá trắng bông

Đũa ngà ngán ngấy mãi chưa gắp

Dao loan thái nhỏ đành uổng công

Thị vệ phi ngự bụi không tung (2)

Bát trân bếp ngự dâng lại dùng

Đàn sáo réo rắt, trống thì thùng

Khách mời chen chúc bạn vương công

Yên ngựa đến sau sao sượng sùng (3)

Xuống ngay đệm gấm trước thềm rồng

Hoa dương (4) rắc tuyết dày lớp rong (5)

Chim xanh bay lại ngậm khăn hồng

Hơ tay thấy nóng(6) Hách vô cùng

Ai ơi! Chớ xán gần bên trong!

Cụ lớn Thừa tướng(7) không bằng lòng.(8)

1 Nơi Dương Quý Phi ở.

2 Chỉ bọn quan thị.

3 Chỉ Dương Quốc Trung.

4 Dương Hoa, người đời Nam Bắc Triều, thông gian với Ngụy Thái hậu, sợ tội, trốn sang nước Lương. Ngụy Thái hậu tưởng nhớ mà làm ra bài "Hoa bạch dương". Ám chỉ việc Dương Quốc Trung tư thông với Quắc Quốc phu nhân.

5 Dương Quốc Trung vốn là con Trương Dịch Chi, làm con nuôi họ Dương, cũng ví như hoa dương đã rụng xuống, trà trộn trong đám rau tàn. (Bản dịch thơ là "lớp rong")

6 Nguyên văn: " Chích thủ khả nhiệt", một thành ngữ chữ Hán, như câu phương ngôn của ta "Đặt lửa lửa đỏ, đặt cỏ cỏ cháy", ý nói người có quyền thế, hách dịch.

7 Chỉ Dương Quốc Trung.

8 Bản dịch thơ của N.T. chú thích thuộc bài thơ, theo "Thơ đường", tập I, có thay vài ý.

Hôm ấy cả đoàn đi chơi vui vẻ, ngày hôm sau đều vào triều tạ ơn nhà vua. Huyền Tông lại ban yến ở nội điện. Quốc Trung tâu:

- Chúng thần vâng mệnh làm lễ "Tu hể", không hề có ý tìm vui thú, mà chính là vì thánh thượng cùng hoàng gia đón điềm lành, rước điềm phúc. Ra sông Khúc Giang, xe ngựa lộng lẫy, trăm họ đều trông vào dân chúng người người vui vẻ thật là cảnh tượng của thời thái bình, chúng thần thật muôn vàn đội ơn thánh chúa!

Huyền Tông rất vừa ý mà phán:

- Các khanh trong lúc vui chơi, mà vẫn không quên đấng bề trên, thì thật sự trung quân ái quốc rất đáng khen, lẽ nên trọng thưởng vậy!

Yến tiệc xong, ngày mai, lại xuất trong nội phủ đồ chơi bằng ngọc bằng vàng ban cho mọi người. Hàn Quốc phu nhân thì được "Chiếu dạ ngọc cơ", Quắc Quốc phu nhân ban cho bức bình phong "Tỏa tử trướng" , Tần Quốc phu nhân được ban mũ "Thất điệp quan", Quý Phi thấy thế tâu:

- Bệ hạ hôm trước đem bình phong quý mà ban cho thiếp, trên bình khắc mỹ nhân của các đời trước, để cùng sánh với thiếp, nhưng thiếp tự nghĩ hình dung xấu xí. Xin bệ hạ hãy chuyển mà ban cho anh thiếp Quốc trung liệu có được chăng?

Huyền Tông cười:

- Trẫm nghe Quốc Trung tỳ thiếp rất nhiều. Mỗi năm tới thu đông, tuyển những hầu gái vừa to vừa béo, đứng vây kín phía sau, làm thành một bình phong che gió bằng thịt. Nay đem bình phong này ra ban cho, hẹn có thắng được bình phong bằng thịt ở dinh chăng?

Nguyên là bình phong này có tên là "Hồng nghê bình" , vốn là vật cũ của triều Tùy còn lại, trên khác đủ người đẹp các triều đại, sinh động chẳng khác gì người sống, mỗi người cao khoảng hơn ba thốn, lấy thủy tinh làm nền, xung quanh là bằng đủ các loại ngọc đá quý mà khảm thành cực kỳ tinh xảo, chẳng khác gì có bàn tay của quỷ thần góp vào, chứ còn sức người, tài người không thể làm nên. Người đời sau có bài từ làm chúng:

Bức bình phong cầu vồng biến ảo

Bút mực trần thua khéo thua xinh

Chẳng dùng màu đỏ sắc xanh

Nghìn châu vạn ngọc chấp hình thuyền quyên

Nét trạm trổ rất nên tinh xảo

Này mặt hoa mày liễu cười tươi

Cứ tên mà gọi từng người

Ngàn xưa người đẹp ai nào thiếu ai. (1)

1 Không thấy nói theo điệu gì.

Huyền Tông đem bình phong này ban cho Quốc Trung, lại nói rõ cả ý của Quý Phi bảo nội thị truyền lại. Quốc Trung tạ ơn mà nhận, đem bình phong đặt ở ngay hậu dinh trên lầu cao, thường cùng thân hữu, gia quyến ngồi ngắm, không ai là không ngợi khen, thật đáng là vật báu khó kiếm trên đời.

Một hôm, Quốc Trung ngồi một mình trên lầu đón gió mát, vừa ngắm người đẹp trên bình phong, thầm nghĩ: "Thế gian liệu ai có được những thứ quý như thế này. Ta mà được lấy một hai người, cũng thật vui sướng không gì sánh?". Đang nghĩ ngợi thế, thì thấy mệt mỏi, liền quay ra giường mà nằm, vừa mới ngã xuống gối, bỗng thấy những người đẹp trên bình phong đều nháy mắt khẽ lắc đầu, rồi chẳng mấy chốc, lần lượt bước xuống khỏi bình phong, người càng cao lớn dần đến mấy thước, hình dáng uyển chuyển chẳng khác gì người sống, bước thẳng lại trước giường, lần lượt xưng tên. Người thì nói là kẻ xé lụa, kẻ kể là người bước trên hoa sen vàng, cô thì rằng giặt lụa suối xưa hoặc kẻ trông lò rượu, người đeo ngọc, kẻ nhặt lông phỉ thúy, người là Hứa Phi Quỳnh, là Tiết Dạ Lai, là Đào Nguyên tiên tử, là Vu Sơn Thần nữ, rất nhiều, rất nhiều, kể ra không hết (1)

1 Số người đẹp đây kể rất nhiều, đa số không rõ lý lịch, chỉ biết: Người xé lựa là Bao Tự, đời Chu U Vương. Người bước trên hoa sen vàng là Phan Phi, vợ Đông Hôn Hầu nước Tề. Người giặt lụa là Tây Thi nước Việt. Người trông lò rượu là Trác Văn Quân đời nhà Hán. Hứa Phi Quỳnh, người đời Hán. Vu Sơn Thần nữ thì đã nhắc nhiều. Đào Nguyên tiên tử là người tiên gặp Lưu Thần Nguyễn Triệu người đời Hán.

Dương Quốc Trung tuy mắt nhìn rõ ràng, nhưng toàn thân không thể động đậy, miệng không mở ra được. Các người đẹp đều kiếm chỗ ngồi, chỗ dựa, chốc lát, lại thấy mười cô gái lưng ong xinh đẹp ra dáng kỹ nữ, cũng từ trên bình phong bước xuống, tự xưng là đội ca nô Chương Hoa nước Sở, rồi xếp hàng nắm tay nhau mà hát, tiếng ca vừa nhẹ nhàng, vừa trong trẻo. Hát xong, tất cả đều đứng dậy, một người tự xưng là Thần nữ Vu Sơn chỉ mặt Quốc Trung mà mắng:

- Nhà ngươi nắm quyền tể tướng, nhưng thực chỉ là một đứa tiểu nhân hèn hạ, tại sao lại dám chơi trèo đến cả hạng chúng ta, những là cuồng vọng, thật là đáng cười thay, đáng ghét thay!

Những mỹ nhân khác vỗ tay cười mà rằng:

- Con Ngọc Hoàng này ngu ngốc, Tam Lang nghe theo những lời nó làm gì, hãy để cho "Hồng Nghê bảo bình" này chứng kiến cái nhục nhã của con tiện tỳ này. Mai kia nó chịu họa không nhỏ. Chúng ta đôi co với nó làm gì. Đi thôi! Đi thôi!

Rồi tất cả trở lại bình phong, Quốc Trung như tỉnh mộng, toát mồ hôi khắp cả người, vội vàng xuống lầu, sai người nhà, cất ngay tấm bình phong đi, khóa luôn cả cửa lầu lại. Từ đó mỗi đêm trăng sáng, gió trong lại nghe trên lầu phụ nữ lao xao cười nói, ca hát. Người trong nhà, đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ, chẳng một ai dám lên lầu này nữa.

Dương Quốc Trung vào cung, đem chuyện này tâu riêng với Dương Quý Phi, chỉ giấu biệt chuyện bị các mỹ nhân chửi mắng. Quý Phi nghe chuyện quái dị này, lấy làm kinh hoàng, liền thưa với Huyền Tông, xin cho hủy bình phong này đi. Huyền Tông phán:

- Người đẹp trên bình phong, đều là những bậc có tên tuổi của các triều trước, lại có cả tiên nữ, thần nữ nữa, sao lại coi thường mà phá bỏ. Hãy để trẫm hỏi Thông Nguyên tiên sinh cùng Diệp tôn sư thì sẽ biết diễm phúc họa ra sao!

Đường Huyền Tông lâu nay vẫn mê chuyện thần tiên, từ ngày Đường Cao Tông tôn Lão huynh lên làm Huyền Nguyên hoàng đế, đến Huyền Tông cũng chuyên cầu lễ tượng Lý Lão Quân, mười phần kính tín, lệnh cho khắp chín châu đều lập miếu, mời người trụ trì lo hương khói phụng thờ. Vì vậy một lũ phương sĩ đua nhau mọc ra. Có người tiến cử phương sĩ Trương Quả, vốn là bậc thần tiên, Huyền Tông liền lấy lễ, mời về Trường An, bái phong làm Ngân Thanh Quang lộc đại phu, ban hiệu là Thông Nguyên tiên sinh.

Lại còn có người tiến cử phương sĩ Diệp Pháp Thiện có thuật lạ, giỏi bùa phép, niệm chú, Huyền Tông cũng làm lễ mời về kinh sư, phong làm tôn sư. Số phương sĩ tuy nhiều, duy chỉ hai người này là được kính nể hơn cả. Huyền Tông mới đem chuyện mỹ nhân hiện hình của Quốc Trung hỏi, Trương Quả thì thưa:

- Yêu quái là do người mà có, chuyện chẳng qua Dương tể tướng ngắm những người đẹp trong bình phong, sinh nghĩ dâm tà, vì vậy yêu nghiệt theo đó mà sinh, chỉ cần Diệp Tôn sư ra tay là xong.

Diệp Pháp Thiện thì thưa:

- Phàm các vật báu thì dễ sinh tinh yêu, huống chi lòng người lại tơ tưởng, tất hiện thành linh ứng. Thần xin dâng một đạo bùa, đốt ngay trước bình phong, đừng sinh tà ý, gặp tuần sóc vọng phải dùng hương hoa cúng lễ, tự nhiên sẽ chẳng có chuyện gì đáng sợ nữa.

Huyền Tông bèn mời Pháp Thiện tự tay vẽ một đạo bùa "Chính ất linh phù , rồi sai nội thị đem ban cho Quốc Trung, nói lại cả lời của hai thầy phù thủy, Quốc Trung nghe nói yêu tà là do người tưởng niệm mà sinh ra, thì tự nhiên chân lông, chân tóc dựng sởn cả lên, lên ngay lầu, bày bình phong ra, đem đạo bùa ra mà hóa, khoảnh khắc thấy khắp lầu ánh chớp sáng lòa. Từ đấy về sau, trên lầu yên ổn, không còn nghe thấy tiếng người nữa. Chỉ đến ngày sóc, ngày vọng, khi làm lễ hương hoa, thì lạ thay những người đẹp trong bình phong lung linh phát sáng chói mắt, nhưng nhìn phong thái từng người đẹp trên bình phong, thì vẫn đoan trang hiền thục, so với trước kia thì khác hẳn.

Chính là:

Chính thì thắng tà

Tà thì thua chính

Lấy chính sửa tà

Thì tà thành chính.

Huyền Tông nghe tâu, càng thêm tin pháp thuật của Diệp Pháp Thiện. Một hôm hỏi riêng Pháp Thiện:

- Trương Quả tiên sinh đạo đức cao diệu, trẫm thường hỏi chuyện đời, tiên sinh chỉ cười mà không đáp là tại sao?

Pháp Thiện tâu:

- Bình sinh Trương Quả vốn là bậc thần tiên nên cũng không biết thế nào mà nói cho chắc chắn. Chỉ biết ngay từ thời Đường Nghiêu (1) từng làm quan thị trung, còn lai lịch ra sao, chỉ riêng thần biết, ngoài ra thì chẳng ai hiểu ra sao cả đâu.

1 Tức Đào Đường, triều đại của vua Nghiên, 2357-2256 trước công nguyên. Thế là cách Đường Minh Hoàng khoảng trên 3000 năm!

Huyền Tông khẩn khoản:

- Xin tôn sư thử nói cho nghe!

Pháp Thiện thưa:

- Thần chỉ ngại tai họa, nên không dám trình chúa thượng.

Huyền Tông phán:

- Tôn sư là bậc thần tiên, phúc họa nào còn đáng sợ nữa, xin đừng giữ ý quá thế?

Pháp Thiện trầm ngâm thưa:

- Bệ hạ chẳng cần giục thần nói. Thần mà nói tất không sống được một khắc. Xin bệ hạ hãy thương thần, triệu Trương tiên sinh vào không ngại ở ngôi thiên tử, hạ mình mà cầu, để thần được sống vậy!

Huyền Tông bằng lòng. Pháp Thiện xin cho tả hữu lui ra, mật tâu rằng:

- Trương tiên sinh lúc trời đất còn hỗn độn chưa phân, vốn là tinh của loài dơi trắng vậy!

Nói chưa dứt lời miệng đã thổ đầy máu tươi, nằm hôn mê ngay mặt điện. Huyền Tông lập tức lệnh nội thị, truyền chỉ bằng lời, triệu ngay Trương Quả vào cung kiến giá.

Trương Quả chống gậy vào, Huyền Tông xuống ngai đón, mà rằng:

- Diệp tôn sư đắc tội với tiên sinh, chính lỗi là ở trẫm, trẫm xin thay lời, tiên sinh hãy nể mặt mà tha cho!

Nói xong, định quỳ gối mà lạy, Trương Quả vội vàng nâng dậy mà tâu:

- Sao lại dám để bệ hạ cúi mình vàng. Nhưng tội uốn lưỡi thì quả là không đáng tha vậy!

Liền cầm trượng, liên tiếp đánh vào người Pháp Thiện mà rằng:

- Sao không biến ngay đi!

Pháp Thiện bỗng tỉnh táo, đứng dậy ngay, sửa sang áo khăn lạy tạ Huyền Tông rồi quay ra tạ tội Trương Quả. Trương Quả cười:

- Gậy của ta không dễ được đâu!

Pháp Thiện hai ba lần lạy tạ, Huyền Tông cả mừng, ban cho hoa quả.

Mấy ngày sau, có sứ từ vùng biển tới, dâng một loại cỏ rất độc, người vùng biển vẫn nói rằng, dẫu là bậc thần tiên cũng không dám ăn loại cỏ này. Huyền Tông liền sai Pháp Thiện hỏi rõ, rồi ngầm bỏ loại cỏ này vào trong rượu. Triệu Trương Quả vào nội điện ban yến, trước tiên là cho uống rượu ngon. Huyền Tông hỏi:

- Có thể triệu đến đây chăng?

Trương Quả đáp:

- Thần xin gọi!

Liền ngửa mặt lên không mà tâu rằng:

- Đạo đồng hãy mau tới kiến giá.

Chưa dứt lời, bỗng thấy một đạo đồng, từ trên nóc điện bay xuống, tuổi khoảng mười bốn, mười lăm, đầu nhỏ bụng nhỏ, khăn áo mặt mày trang nghiêm, bái lạy trước điện. Huyền Tông ngạc nhiên, sai lấy một đấu lớn đổ đầy rượu ban cho. Đạo đồng tạ ơn, đỡ lấy đấu rượu uống một hơi cạn. Huyền Tông thấy đạo đồng uống rất khoái ý, liền lệnh cho uống một đấu nữa, đạo đồng lại bưng lấy uống, nhưng mới được hai ba hớp, thì xương cổ, xương sườn đã nổi cả lên. Trương Quả cười:

- Nó tửu lượng có hạn, không thể uống hơn.

Liền nhặt một hột đào mà ném, tiểu đồng theo tay Trương quả ngã ngay xuống, rượu tuôn ra đầy nền điện, nhìn kỹ lại thì chẳng thấy đạo đồng đâu cả mà là một cái hồ lô đựng được khoảng một đấu rượu. Huyền Tông cười ha hả mà rằng:

- Tiên sinh làm trò vui như thế này, thì thật đáng mặt thần thông quảng đại. Xin hãy uống ngay một chén nữa.

Liền ra mật hiệu, nội thị dâng rượu có bỏ cỏ độc lên rót mời. Trương Quả không từ chối, uống một hơi cạn. Lát sau, thấy Trương Quả cúi đầu, nhắm mắt rồi ngủ ngay trên ghế ngồi. Huyền Tông lệnh cho nội thị không được ồn, để mặc Trương Quả ngủ. Hồi lâu Trương Quả tỉnh dậy, đứng lên cười mà tâu:

- Loại rượu này không tốt, nếu kẻ khác uống, thì chẳng bao giờ tỉnh nữa.

Lấy trong ống tay áo ra một cái gương, Trương Quả soi kỹ mà rằng:

- Rượu độc làm đen cả răng thần rồi!

Huyền Tông nhìn, xuýt xoa thán phục mãi không thôi.

Chính là:

Đùa đem cỏ độc thử thần tiên

Chỉ thấy tiên ông ngủ tít liền

Tỉnh dậy thân hình nguyên vẹn cả

Riêng hàm răng mới, trắng thành đen.

Từ đó, Đường Minh Hoàng lại càng tin chuyện thần tiên.

Đêm thượng nguyên, Huyền Tông sai kết lầu cao, giăng đầy gấm lụa ở nội cung, treo đèn, bày yến tiệc, chẳng gọi đình thần yến ẩm, chẳng triệu phi tần mà đòi Trương Quả, Diệp Pháp Thiện vào. Trương Quả có việc nên chưa đến ngay, Pháp Thiện vào trước. Huyền Tông cho ngồi đầu bàn tiệc, nâng chén cùng uống, một lát sau, trăng đèn cùng sáng, ca nhạc cùng nổi, mười phần vui vẻ. Huyền Tông rượu say, chỉ những đèn gấm mà phán:

- Những cái đèn này quả là đẹp, ở các nơi khác liệu có thứ này chăng?

Pháp Thiện đưa mắt, nhìn khắp bốn phía, tay chỉ hướng Tây mà thưa:

- Ở phủ thành Tây Lương, đêm nay treo đèn cũng rất nhiều, chẳng thua gì ở Trường An này.

Huyền Tông phán:

- Trẫm không thấy gì cả?

Pháp Thiện thưa;

- Bệ hạ muốn thấy cũng chẳng khó gì!

Huyền Tông vội hỏi:

- Tôn sư nếu có pháp thuật, làm cho trẫm cũng có thể trông thấy cảnh đẹp sao?

Pháp Thiện thưa:

- Thần xin bệ hạ cưỡi gió mà tới, vừa đi vừa về chẳng hết bao lâu.

Huyền Tông vội đứng ngay dậy. Cao Lực Sĩ đứng ngay bên cạnh, lại phủ phục dưới đất mà tâu:

- Diệp tôn sư tuy có diệu pháp, nhưng chúa thượng há nên thử những chuyện như thế này. Xin chúa thượng không nên xem thường.

Huyền Tông đáp:

- Tôn sư tất không lừa trẫm, khanh đừng nhiều lời, trẫm cũng chẳng cần khanh đi theo. Khanh hãy cứ ở đấy đợi trẫm.

Cao Lực Sĩ không dám nói nữa, cung kính lui về phía sau.

Pháp Thiện xin Huyền Tông tạm ngừng yến tiệc, thay áo, cùng với hai nội thị, cũng thay y phục, ra đứng ở sân điện, tất cả cùng nhắm mắt lại. Bỗng thấy hai chân bay bổng như đang đi trên mây cao, khoảnh khắc, chân đã chạm đất, bên tai nghe tiếng người huyên náo, đều là thổ âm vùng Tây Lương. Pháp Thiện lớn tiếng bảo mở mắt. Huyễn Tông thấy ngay vô số đèn lồng hoa gấm rực rỡ hàng suốt mấy dặm, người xem đi lại đông nghịt, trong lòng vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, lẫn lộn cùng đám đông, đi khắp nơi xem, khẽ hỏi Pháp Thiện:

- Đây là chuyện mộng hay là chuyện thật vậy tôn sư?

Pháp Thiện thưa:

- Bệ hạ nếu vẫn chưa tin cuộc dạo chơi đêm nay, xin hãy thử một chút xem sao?

Bèn hỏi hai nội thị:

- Các ngươi trong người có mang theo vật gì không?

Nội thị thưa:

- Chỉ có ngọc như ý mà hoàng thượng hay cầm chơi thôi!

Pháp Thiện liền cùng Huyền Tông vào một quán rượu, gọi rượu uống, xong xuôi lấy viên ngọc như ý tạm gạ tiền rượu, xin Huyền Tông viết ngay một tờ thư chiếu, hẹn ngày sai người tới chuộc, rồi ra khỏi quán đi bộ ra ngoài thành, lại bảo mọi người nhắm mắt lại, khoảnh khắc sau, bay bổng trên mây, rơi ngay xuống sân điện. Cao Lực Sĩ ra đón, cúi đầu chúc mừng.

Nhìn trên yến tiệc, ngọn nến "Kim liên bảo chúc" vẫn cháy chưa hết một nửa.

Huyền Tông còn đang kinh ngạc, thì tả hữu thưa Trương Quả đến. Huyền Tông mời ngay vào. Trương Quả thưa:

- Thần có việc xuất du, chưa thể vâng mệnh triệu đến ngay. Xin bệ hạ hãy tha tội cho?

Huyền Tông phán:

- Tiên sinh chẳng khác gì hạc nội mây ngàn, sao lại chịu trói buộc bởi chức phận thần tử cho được, nên nào có tội gì cho cam. Nhưng không biết vừa rồi tiên sinh đi đâu?

Trương Quả thưa:

- Thần đi Quảng Lăng thăm một đạo hữu, không ngờ bệ hạ triệu, cho nên tới chậm.

Huyền Tông phán:

- Quảng Lăng với kinh sư xa lắm. Tiên sinh đi về sao mà nhanh vậy?

Trương Quả cười thưa:

- Sáng sớm chơi ở Bắc Hải, chiều ngự ở bến Thương Ngô, là chuyện thường của nhà tiên, huống chi Tây Lương với Quảng Lăng, chẳng đến một bước chân!

Rồi hỏi Pháp Thiện:

- Hội đèn ở Tây Lương ra sao?

Pháp Thiện đáp:

- Cũng gần như Tây Kinh vậy thôi!

Huyền Tông hỏi:

- Tiên sinh vừa ở Quảng Lăng về, hội đèn ở Quảng Lăng có vui không?

Trương Quả thưa:

- Hội đèn ở Quảng Lăng cũng đông vui lắm, lúc này là lúc đang náo nhiệt nhất.

Pháp Thiện tâu:

- Thần không dám mời bệ hạ, nếu còn thích thì hãy đi xem luôn thể, cũng là một dịp để lưu chút tình với bệ hạ vậy.

Huyền Tông hoan hỷ phán:

- Thế thì hay lắm!

Rồi hỏi Trương Quả:

- Tiên sinh có cùng đi chăng?

Trương Quả thưa:

- Thần xin theo hầu ngự giá. Cuộc đi này chẳng cần phải cưỡi mây vượt gió, cũng chẳng phải từng bước trên đường làm gì. Thần có một thuật nhỏ, khiến bệ hạ chẳng phải lên trời, cũng chẳng cần xuống đất, xin bệ hạ thử một lần cho vui.

Huyền Tông đáp:

- Như thế càng tốt, xin tiên sinh hãy thi thố diệu thuật.

Trương Quả đáp:

- Xin mời bệ hạ thay áo, mang những mũ áo thật đẹp vào.

Bảo Cao Lực Sĩ cũng thay y phục thật rực rỡ, lại chọn trong đám Lê Viên tứ đệ mấy người nhanh nhẹn, đều áo gấm thêu hoa lóa mắt. Trương Quả cởi thắt lưng lụa trên người ra, vứt lên không, liền hóa thành một cây cầu bằng lụa, một đầu cầu ngay trước sân điện, mà vút lên mãi từng mây cao tít chẳng thấy rõ đầu cầu bên kia. Hình dáng cầu thế nào, có bài từ "Tây Giang nguyệt" sau đây làm chứng:

Cầu lát ngọc làu làu không gợn

Lơn can hồng uốn lượn đôi bên

Dao đài sáng lạn tiếp liền

Mây năm sắc tỏa dưới trên Ngân Hà

Thẳng bước chớ dùng dằng quay lại

Cứ ung dung đừng ngại ngùng chi

Trên cao nhìn cảnh thật kỳ

Thực hư, may mắn được chơi thiên đường!

Trương Quả cùng Pháp Thiện đi trước dẫn đường, Huyền Tông thong thả bước lên cầu, bọn họ Cao cùng Lê Viên tử đệ theo sau, được dặn kỹ là không quay đầu nhìn lại, cứ nhìn phía trước mà đi. Khoảng vài trăm bước, Trương Quả, Pháp Thiện đã đứng lại nói:

- Xin bệ hạ hãy dừng chân, đã tới đất Quảng Lăng rồi!

Trong thành đèn treo rất nhiều, quang cảnh rộn ràng chẳng kém gì Tây Kinh. Bỗng thấy trên không một đám mây đủ năm sắc xuất hiện, đưa tới đội mỹ nhân quần áo thướt tha xanh đỏ đủ màu, chẳng khác gì một đoàn tiên nữ, cũng đứng trên không mà lạy chào. Huyền Tông cùng mọi người đứng bên cầu, ngửa mặt nhìn trời cao, trăng sáng như ban ngày, cúi xuống thì thành Quảng Lăng đèn hoa lấp lánh, lấy làm hân hoan bội phần. Pháp Thiện bảo bọn Lê Viên tử đệ dạo "Nghê thường vũ y khúc". Nhạc xong, Trương Quả cùng Pháp Thiện dẫn Huyền Tông cùng mọi người trở về.

Vừa mới xuống khỏi cầu, Trương Quả phất tay, cầu đã chẳng thấy đâu. Trong tay Trương Quả lại cầm chiếc thắt lưng lụa, thắt vào người như cũ.

Cao Lực Sĩ cùng bọn Lê Viên tử đệ không giấu vẻ kinh ngạc.

Huyền Tông thì không ngớt lời khen:

- Tiên sinh thần thông quảng đại, thật là tài vậy!

Trương Quả tâu:

- Đây chẳng qua chỉ là một trò chơi nhỏ của nhà tiên, chẳng đáng để bệ hạ thán phục nhiều.

Huyền Tông lại lệnh thay chén để ban rượu, mãi đến sáng rõ, mới bãi yến ra về.

Đời sau có người làm thơ than rằng:

Tiên ông bày vẽ chuyện thần thông

Khiên được vua bay bổng giữa không

Đang bậc chăn dân tôn quý thế

Nỡ cho phượng sĩ hứng rồi tung!

Ngày hôm sau Huyền Tông mật sai người đến Tây Lương phủ, tìm đến tửu điếm mà Huyền Tông đã cầm ngọc như ý, đem theo chiếc nhẫn bạc để chuộc lại. Sứ giả đi mấy ngày, quả nhiên chuộc được về, nên Huyền Tông lại càng tin rằng cuộc đi chơi tối hôm thượng nguyên là thật, không phải hư.

Mấy tháng sau, quan sở lại tâu về triều: "Đêm mười lăm tháng giêng sau canh hai, trên trời bỗng thấy hàng vạn đóa mây ngũ sắc. Trong mây ẩn hiện hàng đoàn tiên nữ, từng từng lớp lớp rất rõ ràng. Lại có nghe cả tiếng nhạc du dương, không phải là thứ nhạc ở trần gian. Những điều này rõ là điềm thái bình thịnh thế. Vậy nên tâu rõ thánh thượng biết". Huyền Tông xem xong lấy làm kỳ lạ, nhưng cũng không nói gì, chỉ ngự phê vào bản tâu.

Nguyên là điệu "Nghê thường vũ y khúc", là do ở năm Khai Nguyên thời Huyền Tông, Huyền Tông thường mơ chơi cung trăng, thấy khoảng mười tiên nữ, mặc áo trắng rộng, tiếng bảo ngọc khẽ lung linh, vừa hát vừa múa trong cung Quảng Hàn, thanh điệu thánh thót, ở nhân gian không hề nghe bao giờ. Huyền Tông bèn cất tiếng hỏi:

- Khúc nhạc này có tên gì?

Bầy tiên nữ thưa:

- Gọi là "Nghê thường vũ y khúc".

Huyền Tông trong giấc mộng nhưng vẫn nhớ thanh điệu, lúc tỉnh dậy vẫn không quên, liền truyền cho nhạc công, tập thành khúc điệu quả là không phải điệu khúc của nhân gian vậy!

Huyền Tông càng thêm tin hai vị đạo sĩ, lại nghe Trương Quả mỗi lần ra khỏi cửa, thường cưỡi một con lừa trắng, đi nhanh như bay, đến khi trở về vẫn con lừa ấy, tay phẩy mấy cái lừa thành hình giấy, đem cất vào trong tráp, lúc nào muốn cưỡi lại đem ra lấy nước phun vào, nghiễm nhiên thành lừa trắng. Huyền Tông càng thán phục, nhân đó muốn kết nhân duyên họ hàng, định đem Ngọc Châu công chúa gả cho Trương Quả. Trương Quả tâu rằng:

- Thần có biệt thự dưới chân dãy Vương Ốc Sơn, trước đã từng bỏ ra ba mươi vạn tiền để cưới con gái họ Vi ở Thái Bình, nay liệu có nên thay chăng. Huống nữa, thần dã tính chẳng đổi, chẳng màng vinh lộc, vào kinh sư đã lâu, lòng nhớ núi xa, xin bệ hạ gia ân cho trở về, thực lấy làm may mắn.

Huyền Tông phán:

- Tiên sinh không bằng lòng thờ chúa, trẫm cũng chẳng dám nài, nhưng sao đã vội bỏ trẫm mà đi. Tiên sinh cùng với Diệp tôn sư phải luôn có ở bên trẫm, hai người không thể thiếu một, để sớm hôm chỉ giáo cho trẫm. Xin đừng nghĩ tới chuyện bỏ đi vội.

Trương Quả cảm lòng thành, bèn cùng Pháp Thiện ở lại Trường An.

Pháp Thiện trước kia từng ở Tùng Dương, đánh bạn với thứ sử Lý Ung, Lý Ung vốn nhiều tài, vừa giỏi văn vừa tài viết chữ. Pháp Thiện từng nhờ viết giùm một bài văn bia cho ông tổ của một người thân, rồi được triệu về kinh sư. Lý Ung cũng được thăng làm quan ở kinh sư, trong lòng không thích Pháp Thiện quảng hành thuật pháp, sợ sẽ làm huyễn hoặc lòng Huyền Tông. Pháp Thiện đã đem bài văn bia mà Lý Ung đã làm cho, đến xin Lý Ung viết luôn cho. Lý Ung nhất định không chịu, nói thẳng luôn rằng:

- Ta đã hối vì ngài mà viết bài văn rồi, nay lại còn viết cả chữ nữa sao?

Pháp Thiện cười:

- Ngài đã vì bần đạo mà viết bài văn, nay lại không vì bần đạo mà cho chữ sao? Việc không thể ép được, xin sẽ liệu cách khác vậy thôi!

Rồi lặng lẽ cười mà cáo biệt.

Đêm hôm ấy, Pháp Thiện ngồi một mình trong phòng kín, bày đủ giấy mực, bút nghiên, tới canh ba, bèn chống kiếm, chỉ đủ mười phương, rồi đốt một đạo bùa, miệng niệm thần chú lẩm nhẩm, vỗ vào bài lệnh, bỗng thấy Lý Ung từ trong tường đi ra. Pháp Thiện không một lời chào hỏi, chỉ lấy kiếm mà sai khiến, Lý Ung đem giấy bút ra viết bài văn bia, còn đạo đồng thì mài mực, cắt nến, chẳng mấy chốc bài văn viết xong. Pháp Thiện lại đốt đạo bùa thứ hai, miệng lại niệm chú, giơ kiếm chỉ, rồi quát lớn một tiếng. Lý Ung đã không thấy đâu nữa.

Thì ra ban ngày Lý Ung viết chữ chẳng xong, nên nửa đêm Pháp Thiện chiêu nhiếp hồn phách Lý Ung đến viết. Sáng ngày hôm sau Pháp Thiện thân tới nhà Lý Ung mà tạ ơn, đem cả giấy viết tối qua ra cho xem, mà rằng:

- Đây chính là ngài viết trong mộng tối hôm qua!

Lý Ung xem qua, trợn mắt há miệng ngạc nhiên, mồ hôi toát như tắm. Pháp Thiện tiếp:

- Cũng bởi quý trọng văn ngài, lại cũng không muốn mất hết chữ tài hoa của ngài, không muốn có chữ của kẻ khác thay vào, nên phải cố cầu đại bút. Nhưng vì ngài đã chẳng chịu nhận lời, cho nên phải giở trò đùa một chút, cũng biết là đáng tội, xin ngài tha thứ cho tội vô lễ này vậy?

Lý Ung vừa sợ vừa giận, không nói một lời. Pháp Thiện lại mang ra một lễ rất hậu, coi như là nhuận bút. Lý Ung nhất định không chịu nhận.

Huyền Tông nghe chuyện này, kinh ngạc mà than rằng:

- Chuyện thần tiên là chuyện không nên chống cự vậy?

Tấm bia mà Lý Ung viết, người đương thời gọi là "Truy hồn bia". Từ đó triều đình ngày càng tin chuyện thần tiên, số phương sĩ cũng nhờ vậy ngày càng tăng nhiều. Một hôm, ở vùng Ngọc Châu, thứ sử dâng sớ tiến phương sĩ là La Công Viễn, quảng địa thần thông, có nhiều thuật lạ, về kinh ra mắt hoàng đế.

Trong triều tiên cũ chưa đi

Ngoài kia tiên mới dắt dây dẫn vào

Đừng chê tiên lấy đâu nhiều

Vì vua hôn muội, tin điều viển vông.

Muốn hiểu sự thể ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi Thứ Tám Mươi Năm

La Công Viễn thư gửi Thục đương quy,

An Lộc Sơn xin dùng Phiên tướng sĩ.

Từ rằng:

Khách tiên thư viết gửi vua

Chỉ ba bốn chữ, thiên cơ lập lờ

Tên vị thuốc thực hư khó đoán

Lính thú Phiên thay Hán thú binh

Đường Minh Hoàng xử bất minh

Ai họ An, bắt gia hình cả sao

Yên nguy là ở đâu nào?

Theo điệu "Đinh Tây Phiên"

Xưa nay người ta tối kỵ ba chữ: Tham, giận, ngu, tham, sân, si, huống hồ là bậc thiên tử, vốn phải sửa mình ngay để làm gương cho chín châu bốn biển, nghĩ đến lúc loạn, lo đến điều nhỏ nhặt giữ được sự trong sáng, xây nền thái bình cho xã tắc. Đã thế phải tránh xa những điều dị đoan, mê hoặc nhảm nhí. Thiên tử vốn phú quý tột cùng, lại còn mơ tưởng tới thuật "trường sinh bất lão", cầu tiên học đạo, buông thả sự tôn kính của bản thân, mê cuồng những trò ảo thuật, học chẳng được dẫn đến oán giận, làm bậy giết càn, thì rõ là vừa tham, lại vừa giận. Con người ấy nếu quả giết được, tức là không phải thần tiên, nếu là thần tiên, có giết cũng chẳng được nào, họ vốn là bất tử kia mà. Không những thế họ lại còn có mê ngữ, sấm ký, báo trước cho biết chuyện sau này, mà vẫn không tỉnh ngộ, tin theo chuyện quàng xiên, thay đổi phép xưa, dẫn đến tai họa cho mai sau, cũng bởi nhìn kẻ xấu ra người tốt, rõ là cực ngu chứ còn gì nữa.

***

Hãy nói chuyện Đường Minh Hoàng cầm giữ bọn Trương Quả, không cho về núi, thái thú Ngọc Châu lại tiến cử La Công Viễn, tán dương pháp thuật cao cường của họ La, đưa về kinh đô. Họ La này chẳng hiểu quê quán ở đâu, cũng không rõ sinh năm nào, đời nào, nhưng dung mạo thì lúc nào cũng như đứa trẻ mười sáu, mười bảy, vân du khắp nơi, tung tích khôn dò.

Hôm ấy, họ La đến Ngọc Châu, gặp lúc quan thái thú, nhân hạn hán lâu ngày, mời pháp sư về đàn xã tắc, tác pháp thiêu bùa để cầu mưa. Người kéo tới đông nghịt, trong số đó thấy có người y phục màu trắng, thấp thoáng chỗ này chỗ khác xem xét. Người này cao hơn một trượng, mắt sáng như sao, nên mọi người xúm lại xem. Có kẻ hỏi họ tên, quê quán, người này đáp:

- Ta họ Long, vốn quê ở ngay đây!

Đang nói thế, họ La đi tới, thấy người này, trừng mắt giận dữ:

- Cả vùng nắng hạn đã lâu, ngươi không đi làm mưa cứu dân, mà lại rong chơi ở đây sao?

Người này vòng tay cung kính đáp:

- Không có thiên phù ra lệnh, biết lấy nước ở đâu ra?

Họ La đáp:

- Ngươi hãy cứ làm đi, ta sẽ giúp một tay.

Người kia vâng dạ, bỏ đi ngay, ai nấy kinh ngạc vây kín lại hỏi:

- Người ấy là ai thế?

Họ La đáp:

- Chính là Long Thần cai quản thủy phủ của vùng này vậy. Ta đã ra lệnh đi làm mưa cứu đồng ruộng khỏi khô cháy, vì Long Thần chưa được lệnh của Thượng Đế, không dám tự quyền lấy nước. Ta phải đi kiếm vài giọt nước giúp vào, cứu lấy hoa màu.

Vừa nói, vừa đưa mắt nhìn bốn phía, trên án tụng kinh của pháp sư, thấy có nghiên mực lớn hình vuông, mới dùng để vẽ bùa chú, trong nghiên vẫn còn ít mực đen. Họ La liền nâng ngay nghiên lên, dốc uống cạn, rồi ngửa mặt mà phun lên không trung, quát lớn:

- Mau làm mưa đi!

Lập tức, mặt trời bị mây mù che kín, gió lớn thình lình nổi. Họ La quay ra quát mọi người.

- Mưa tới ngay bây giờ, mau tìm chỗ tránh, kẻo ướt hết quần áo?

Nói chưa dứt lời mưa lớn kéo đến, chẳng khác gì nghiêng chậu, dốc vô mà đổ, được tới mấy thước nước mới tạnh. Lạ nữa là, nước mưa dù thấm áo, hay đọng trên mặt đất, đều đen kịt một màu. Thì ra Long Thần múa kiếm làm phép, khiến cho số mực ngậm trong miệng họ La thành cơn mưa lớn, nên nước mưa đều có màu mực vậy.

Người người đều kinh ngạc ngợi ca không ngớt, hỏi họ tên Công Viễn, rước vào gặp quan thái thú, kể rõ mọi chuyện. Thái thú đi đem vàng lụa ra tặng, họ La cười mà không nhận. Thái thú bèn nói:

- Nay thiên tử kính trọng bậc thần tiên, ngài đã có phép thuật tài giỏi đến thế, ta sẽ tiến cử, nhất định sẽ được chúa thượng kính trọng.

Họ La đáp:

- Bần đạo vốn không muốn vào chốn triều đình, nhưng nghe nói hai vị họ Trương, họ Diệp đang ở Trường An, bần đạo cũng muốn gặp một lần cho biết. Nay gặp dịp này, cũng nên đi một chuyến xem sao, chuyện gì mà chẳng được?

Thái thú viết sớ lại sai người tiến dẫn về kinh. Sớ dâng lên, Huyền Tông xem xong, liền truyền chỉ gọi vào.

Huyền Tông đang ngụ ở Khánh Vân Đình, xem Trương Quả cùng Diệp Pháp Thiện đánh cờ, nội thị dẫn họ La đến dưới thềm.

Huyền Tông nhìn họ Trương, họ Diệp phán:

- Đây là dị nhân do Ngọc Châu tiến cử, họ La tên Công Viễn, xin hai tiên sinh hãy cùng đàm đạo xem sao.

Họ Trương, họ Diệp cùng chăm chú nhìn, thấy họ La chẳng khác gì trẻ nhỏ, vừa gầy vừa yếu, mới làm lễ đội mũ là cùng, đều cười mà thưa:

- Trẻ nhỏ còn đang phải dắt thế này, được bao kiến thức mà cũng là dị nhân cho được!

Họ La chẳng chút hoang mang, đến ngay bên thềm. Huyền Tông miễn lễ, truyền cho lên điện ban cho ngồi, chỉ hai họ Trương họ Diệp mà phán:

- Khanh có biết hai vị này không? Đây chính là Trương Quả tiên sinh cùng Diệp Pháp Thiện đạo sư.

Họ La thưa:

- Tên thì đã nghe nhưng chưa gặp mặt, mãi đến hôm nay thần mới hân hạnh vậy.

Trương Quả cười:

- Phường hậu sinh cũng biết đến ta sao?

Pháp Thiện thêm:

- Sao lại có người trong làng thần tiên mà lại chưa từng gặp mặt Trương tiên sinh sao?

Họ La đáp:

- Trên cuộc thế không thể không có loại thần tiên không hiểu chữ lễ. Huống chi hai người kiêu ngạo đến thế, bần đạo có không biết, cũng không lấy gì làm ân hận.

Trương Quả cả cười:

- Ta chưa vội nói chuyện với trẻ con. Nay mọi người nói người là dị nhân có nhiều phép lạ, hãy thử vài trò cho ta xem sao, nếu thật tuyệt diệu, ta cũng sẵn sàng mở lớn mắt mà đứng trông vậy.

Liền cùng Pháp Thiện, mỗi người cầm mấy con cờ trong tay, nắm chặt lại, hỏi:

- Hãy đoán thử trong tay chúng ta có bao nhiêu con cờ nào?

Họ La đáp:

- Đều chẳng có con nào cả!

Hai người cười vang, mở ngay bàn tay ra, quả nhiên một con cờ cũng chả có trong cả hai tay. Lại thấy họ La giở ở ống tay áo mình một nắm con cờ mà cười:

- Con cờ đã vào tay bần đạo cả rồi còn đâu, hai vị tiên ông gặp phải kẻ hậu sinh này, nên nỗi cả hai tay không vậy!

Họ Trương họ Diệp đều ngạc nhiên, hoảng hốt, đứng dậy cúi đầu làm lễ.

Chính là:

Học không sau trước, giỏi là trên

Đừng cậy già mà khinh thiếu niên

Trương Quả dẫu sinh đời Bàn Cổ

Đều cùng Công Viễn chỉ là tiên.

Huyền Tông vô cùng thích ý, ban yến ngay ở Khánh Vân Đình, đem mũ áo thưởng, lại nhận Công Viễn làm Để đệ (1), tên gọi là La tiên sư. Từ đó Công Viễn cùng hai họ Trương họ Diệp, đàm luận đạo lý của tiên gia, kính phục lẫn nhau.

1 Để: em trai, đệ: dinh thị của vương hầu, trạm dịch đón vua, sứ chư hầu của thiên tử. Để đệ: em trai thuộc hàng vương hầu.

Ít lâu sau, họ Trương họ Diệp lại đều dâng sớ xin được quay về núi.

- Đạo thuật của La Công Viễn hơn hẳn chúng thần, xin lưu giữ La tiên sinh ở kinh, cũng đủ để bệ hạ hỏi han. Chúng thần rời núi đã lâu lòng những muốn về, kính xin bệ hạ, để chúng thần được toàn dã tính vậy?

Huyền Tông thấy hai người quyết chí, cũng không tiện ép nài, bên chuẩn tấu, cho tạm trở về, hỏi rõ nơi ở, phòng khi cần triệu đến.

Hai người tạ ơn ra khỏi Trường An. Phàm những thứ Huyền Tông ban cho, cùng những của quý mà các quan tặng, không hề lấy một vật nào. Cả hai thư thái ra đi.

Chính là:

Mây ngàn hạc nội

Biển rộng trời cao

Ung dung ra vào

Phá lồng xổ cũi.

Từ đó bọn phương sĩ ở kinh sư, chỉ còn họ La được Huyền Tông tin kính hơn cả, hay triệu vào cung, hỏi về cách tu luyện thuật "Trường sinh bất tử". Có lần Công Viễn thưa:

- Làm gì có cách trường sinh. Chỉ là chuyện "Thanh tâm quả dục" thì có thể bớt được bệnh tật, kéo dài tuổi thọ mà thôi.

Huyền Tông đành nghe theo, thường ở riêng hẳn ra một cung, phi tần không được tới, vì vậy những yến tiệc vui chơi ở hậu cung, từ đó cũng ngày một ít dần. Dương Quý Phi trong lòng không vừa ý, gặp tiết trung thu trăng sáng như ban ngày, Huyền Tông vẫn chẳng triệu phi tần tới ban yến, chỉ cùng Công Viễn ngồi dưới trăng riêng bàn luận, kể tới chuyện tiết thượng nguyên năm ngoái từng cùng hai vị họ Trương họ Diệp bay trên không đi chơi Quảng Lăng, Tây Lương, vô cùng kỳ dị ra sao, nhân đó hỏi Công Viễn:

- Thiên sư liệu có phép thuật này không?

Công Viễn thưa:

- Phép này có khó khăn gì đâu. Năm ngoái bệ hạ đã đến chơi cung Quảng Hàn trong mộng, nhưng mắt chưa thật thấy. Nay bệ hạ có chuẩn tấu cho lời của thần mời bệ hạ dạo chơi thật sự ở cung trăng một chuyến chăng?

Huyền Tông cả mừng ưng thuận, Công Viễn đứng dậy, lại cây quế trước sân điện bẻ mấy cành, dùng dây lụa kết lại, đặt ngay giữa sân, chúm miệng thổi biến thành một cái xe màu sắc sặc sỡ, mời Huyền Tông lên ngồi chễm chệ, rồi biến cái hốt ngọc như ý trong tay thành một con hươu trắng, đóng ngay vào xe, ruổi thẳng lên cung trăng.

Lúc này Cao Lực Sĩ cùng thái giám đắc sủng là Phụ Cầu Lâm quỳ mà tâu rằng:

- Thuở trước hai vị tiên sư họ Trương họ Diệp phụng giá ngư du, cho rất nhiều nội thị cùng đi, nay chúng nô lệ xin nguyện đi theo hộ giá.

Công Viễn đáp:

- Cung nguyệt không phải như các nơi khác, các người là đấng bậc gì mà cũng đòi tới xem. Chỉ mình ta đi theo hầu xa giá là đủ rồi.

Nói xong quát lớn một tiếng, hươu trắng kéo ngay xe lụa màu, thẳng lên không trung Tiêu Hán. Công Viễn đi vút ngay theo sau xe không rời một bước, dặn kỹ Huyền Tông hai mắt nhìn thẳng vào cung trăng, nhất thiết không được quay đầu nhìn lại, cũng không được nhìn ra các thứ khác.

Nháy mắt, đã gần cung trăng, Công Viễn giơ tay níu xe lại, Huyền Tông chú mục nhìn kỹ thấy cung trăng điện các từng từng lớp lớp lâu đài cửa cái đóng, cái mở, nhìn xa muôn loài hoa cỏ đua tươi, rực rỡ, chiếu lóa mắt, hơn hẳn cảnh thấy trong mộng năm xưa.

Huyền Tông liền hỏi:

- Có thể vào chăng?

Công Viễn đáp:

- Bệ hạ tuy là thiên tử quý giá, nhưng vẫn là xác phàm, không nên xem thường mà vào, chỉ nên đứng ngoài nhìn thôi!

Một mùi hương lạ phảng phất quanh người, rồi tiếng nhạc réo rắt, nghe rõ ra, thì chính là điệu "Nghê thường vũ y khúc". Nghe xong, Huyền Tông hỏi khẽ:

- Người đời thường vẫn nói sắc đẹp của đàn bà, chẳng thể ai sánh nổi Thường Nga trong cung trăng, nay Thường Nga chỉ cách vài thước liệu trẫm có thể được thấy dung mạo một lần chăng?

Công Viễn thưa:

- Nhớ thuở xưa Mục Thiên Tử cùng Vương Mẫu gặp gỡ, cũng bởi có tiền duyên, bệ hạ không có chuyện đó, nay được ngắm kỹ cung Quảng Hàn thế này đã là kỳ phúc rồi, sao lại còn nghĩ đến những ước nguyện viển vông thế?

Bỗng thấy trong cung trăng tất cả các cửa đều đóng chặt, ánh sáng rực rỡ biến đâu mất, gió lạnh phủ khắp người. Công Viễn vội giật dây cho hươu trắng kéo ngay xe, theo gió mà bay theo chẳng khác gì đôi cánh chim, đã lại thấy về đến mặt đất. Công Viễn thưa:

- Bệ hạ đã làm Thường Nga giận dữ, may mà vẫn được bình yên.

Huyền công xuống xe, lại thấy xe lụa thành mấy cành quế, hươu trắng cũng chẳng thấy đâu, trong tay Công Viễn ngọc như ý đã cầm như cũ rồi. Huyền Tông vừa mừng vừa sợ. Công Viễn cáo từ về ngụ sở. Huyền Tông ngồi một mình nghĩ ngợi mông lung âu sầu than tiếc.

Thái giám Cầu Lâm, nhân Công Viễn không cho theo, liền lựa lời tâu:

- Đó chẳng qua là trò ảo thuật làm mê hoặc người ta, có lấy gì làm đủ lạ lùng. Xin thánh thượng đừng nhẹ dạ mà tin.

Huyền Tông phán:

- Dẫu có là ảo thuật, cũng vẫn vừa lạ lùng, vừa thích thú. Trẫm dẫu có học được một phần thôi, cũng đủ vui sướng rồi.

Cầu Lâm liền lựa theo ý Huyền Tông mà thưa:

- Trong những ảo thuật, thì chỉ có phép ẩn thân là dễ học hơn cả. Chúa thượng mà học được phép này, thì tha hồ mà dò xét những việc thầm kín trong ngoài cung cấm.

Huyền Tông mừng lắm:

- Khanh nói đúng lắm!

Ngày hôm sau liền triệu Công Viễn vào, nói thẳng ý muốn học phép ẩn thân. Công Viễn thưa:

- Phép ẩn thân chẳng qua là các nhà tiên đạo dùng để chối bỏ những sự ràng buộc phiền nhiễu của thói tục, hoặc chẳng may gặp phải chuyện bất ngờ nguy hiểm nào đó, mới phải cậy đến phép ẩn thân mà giữ mình. Bệ hạ đường đường thiên tử ngôi cao, lẽ lúc nào cũng rõ ràng giữa thanh thiên bạch nhật, cũng như "Kinh Dịch đã nói: "Bậc thánh nhân làm việc gì, thì vạn vật đều nhìn vào". Thế thì bệ hạ định học phép ẩn thân này làm gì?

Huyền Tông đáp:

- Trẫm học phép này cũng chỉ là để phòng thân.

Công Viễn thưa:

- Bệ hạ ở ngôi cao quý có vạn cỗ xe, lại gặp thời buổi thái bình, xe đi đến đâu, hàng nghìn hàng vạn người hộ vệ, còn có điều gì phải lo nữa, mà phải học ẩn thân pháp để đề phòng. Bệ hạ mà học phép này, chẳng qua ở trong cung, ngẫu nhiên thử xem sao, cũng còn chẳng nên. Còn nếu ra ngoài, mang mệnh thiên tử mà vào nhà người ta, làm cái diều không đáng làm, chẳng may lại gặp một phương sĩ nào đó, phá được phép này, thì lại chẳng khác nào rồng thiêng nằm trong bụng cá, chuyện khốn đốn rõ ràng là có thể dự liệu trước vậy.

Huyền Tông liền phán:

- Trẫm mà học được phép này, chẳng qua cũng chỉ để làm vui ở trong cung, quyết không dám xem thường mà đem ra thử ở bên ngoài, xin được truyền cho, nguyện thiên sư đừng tiếc công chỉ giáo.

Công Viễn lúc này cũng thấy Huyền Tông ba bốn phen cầu khẩn, đành phải đem những bí quyết về lời khấn, về bùa phép dạy bảo cẩn thận. Huyền Tông cả mừng, cứ như lời dạy mà luyện tập ở ngay trong cung. Đến khi đã thành thục rồi, định làm thử, thì lần chỉ giấu được nửa người, còn nửa người vẫn lộ rõ, hoặc có giấu được cả, thì vết chân hoặc bóng in lại vẫn còn, lúc thì rõ đôi hia, lúc thì thấy vương miện, lúc trông rõ long bào, nên cứ bị bọn cung nga nhận ra.

Huyền Tông triệu ngay Công Viễn vào cung, đòi Công Viễn biểu diễn ẩn thân pháp ngay trước ngự tiền. Công Viễn lấy ngón tay vẽ thư phù lên không trung, miệng niệm chú mấy lời, thì chẳng thấy hình bóng đâu cả, bỗng chốc lại thấy Công Viễn ngoài cửa điện đi vào. Huyền Tông cũng đi theo hệt cách của Công Viễn, vẫn chỉ biến được thân hình, áo mũ vẫn y nguyên lộ rõ, bọn nội thị không nhịn được cười. Huyền Tông hỏi:

- Cũng đều thư phù, niệm chú như nhau, nhưng tại sao trẫm làm lại không được trọn vẹn là thế nào?

Công Viễn thưa:

- Bệ hạ lấy xác phàm để học phép tiên, thì làm sao mà tận thiện được?

Huyền Tông nhân học ẩn thân pháp này không xong, lại bị bọn tả hữu cười, thầm thấy hổ thẹn không để đâu cho hết, nay lại trước mặt mọi người Công Viễn nói thẳng chuyện "Xác phàm học đạo" nên trong lòng không vui, bèn phán:

- Chẳng nhẽ các bậc thần tiên, ban đầu không phải là xác phàm sao. Thế sao những xác phàm ấy vẫn học được tiên thuật. Cùng ra đều bởi người truyền pháp thuật, không chịu truyền đủ các phép màu vậy thôi!

Phán xong, phất áo đi vào truyền cho Công Viễn lui ra. Từ đó trong lòng Huyền Tông đã mang ý giận.

Lại gặp lúc vợ chồng tể tướng Lý Lâm Phủ mắc bệnh rất nặng. Nghe nói Công Viễn thường vẫn làm bùa cứu người thoát nhiều bệnh hiểm nghèo, Lâm Phủ tự thân đến xin Công Viễn chữa chạy cho vợ mình. Công Viễn đáp:

- Phu nhân mệnh cùng lộc đều đã hết, chẳng thể chạy chữa nữa cả. Huống chi phu nhân còn có cái may là được chết có mặt tướng công ngay cạnh. Sống thì vinh hiển, chết lại đau xót, chữ phúc của phu nhân gấp tướng công mười lần, hà tất phải cầu thêm.

Lâm Phủ tức giận vì những lời đầy ngạo mạn này, nên trong lòng rất căm ghét. Ngay đêm ấy người vợ quả nhiên qua đời.

Một ngày sau, Tần Quốc phu nhân cũng tự nhiên mang bệnh nặng, Dương Quốc Trung theo lệnh của Quý Phi cũng tự thân tới gặp Công Viễn xin chữa chạy cho, Công Viễn đáp:

- Phép tiên chỉ cứu được những người có duyên phận thôi, hoặc cùng ra là người có thể tu luyện thành chính đạo. Phu nhân cả đời chẳng hề có dính dáng gì đến đạo tiên, cũng chẳng có đức hạnh gì thật tốt đẹp, chỉ hưởng cái phúc không đúng phận của mình, mà còn không biết tự tu tính, nghiệp chướng nào phải dễ mà trừ nổi, nay may được mệnh chung ngay trong dinh trong điện, so ra với chị em, thì thật là điều may mắn muôn một rồi đó. Nào thể có sức nào, phép nào chạy chữa? Chỉ bảy ngày sau thôi, thì tên tuổi đã ghi vào sổ ma quỷ rồi vậy!

Quốc Trung tức giận quát:

- Chẳng thể cứu được thì thôi. Sao lại dám buông lời phỉ báng?

Quay về thưa lại với Quý Phi, Quý Phi giận lắm, khóc lóc mà thưa với Huyền Tông, rồi thêm:

- La Công Viễn phỉ báng cung quyến, lại còn làm thư phù, phép thuật. Thật là phạm tội đại bất kính với chúa thượng vậy!

Lâm Phủ cũng kể tội Công Viễn dùng lời lẽ dùng yêu thuật để mê hoặc dân chúng. Huyền Tông vốn đã căm giận, nay cả trong ngoài đều góp lời phỉ báng, nên nổi giận đùng đùng, mười phần tức tối, truyền đem La Công Viễn chém đầu ở chợ cửa Tây. Công Viễn ở ngụ sở nghe lệnh, cất tiếng cười như cuồng, cũng không chịu để cho trói, tự đi thẳng đến chợ cửa Tây, vươn cao cổ chịu chém. Đao thép loáng qua cổ, tịnh không một vết máu, lại thấy một luồng khí xanh, từ cổ xông thẳng lên trời cao.

Chính là:

Vua nước Kế Tân

Chém hòa thượng Sư tử (1)

Thật là đại triết nhân

Bởi giết là công đó!

1 Kế Tân, tên một nước nhỏ thuộc tây vực đời nhà Hán. Từ Hải có chú là "Da thấp Nhĩ La", tức là vùng Cashmir, thủ phủ của Pakistan ngày nay. Phật Thích Ca thuyết giáo, tiếng vang như sư tử gầm, vì vậy đồ đệ đạo Phật có sách gọi là "Sư tử hòa thượng".

Huyền Tông nhân giận dữ nhất thời, lệnh chém La Công Viễn, nghĩ lại thì thấy Công Viễn là người có phép thuật, sao lại có thể dễ dàng giết được, vội sai ngay nội thị chạy ra truyền đình chỉ việc hành hình. Đến nơi thì đao phủ đã chém rồi. Huyền Tông hối hận vô cùng, lệnh cho thu thập tử thi, lấy gỗ hương mộc làm quan quách khâm liệm chôn cất chu đáo.

Bảy ngày sau, Tần Quốc phu nhân quả nhiên chết. Huyền Tông nghe tâu, vô cùng thương tiếc, phủ tuất rất hậu.

Chính là:

Chị em thế vững như kiềng

Mà sao Tần Quốc lên tiên sớm vầy?

Chết trước đi, thế mà hay

Tang ma trọn vẹn, xưa rày đều mong.

Huyền Tông nhân Tần Quốc phu nhân chết, tin lời La Công Viễn là đúng, thắc thỏm không thể quên nhưng cũng chẳng biết cách nào khác, nghĩ tới Trương Quả cùng Diệp Pháp Thiện, liền sai Phụ Cầu Lâm đến Vương ốc Sơn tìm Trương Quả, nếu Trương Quả không chịu về thì phải tìm cho được một. Cầu Lâm vâng chỉ, đem theo quân lính, ngựa xe rời khỏi kinh thành, chẳng bao lâu nghe người đi dường bàn tán:

- Trương Quả tiên sinh đã chết ở vùng Dương Châu rồi?

Cầu Lâm bán tin bán nghi, thì được ở kinh sư sai người báo rằng: Thái thú Dương Châu dâng sớ, ngày ấy, tháng ấy trong năm, Trương Quả đang ngồi rất ngay ngắn trong Quỳnh Hoa quán, bỗng qua đời, trong ống tay áo còn cả một biểu tạ ơn hoàng đế, thi thể chưa chôn cất, thì đã thấy tiêu biến mất rồi!

Cầu Lâm được tin này, liền không đi Vương ốc Sơn nữa, chỉ tìm hỏi nơi ở của Diệp Pháp Thiện, có người mách thấy họ Diệp ở phủ Thành Đô vùng Thục Xuyên. Cầu Lâm liền lệnh người ngựa hướng đường vào Thục mà đi. Vào đến đất Thục đường núi gập ghềnh, thật quả là khó đi, bỗng thấy ở đỉnh núi bên đường, một đạo sĩ còn ít tuổi, dáng nhàn nhã đi ngược chiều, nghêu ngao ngân vang bài thơ sau:

Đường núi cheo leo thật khó đi

Chư tiên đã trốn tìm đâu thấy

Mới hay người chết chưa hề chết

Kẻ sống hãy lo khó sống đời.

Đạo sĩ vừa ngâm vừa đi, dần dần đã tới ngay trước đoàn ngựa xe. Cầu Lâm nhìn kỹ hoảng hồn, thì ra chẳng ai khác, mà chính là La Công Viễn. Cầu Lâm vội xuống ngựa quỳ lạy, hỏi:

- Tiên sư không hề gì cả sao?

Công Viễn cười đáp:

- Thiên tử tin phục thần tiên, sao lại đem bần đạo ra đùa như vậy. Nay Trương Quả tiên sinh cũng sợ bị giết, nên đã giả chết, Diệp tôn sư cũng hoảng hồn mà bỏ di hải ngoại rồi, không thể nào tìm ra đâu. Chi bằng về kinh phục chỉ là hơn.

Cầu Lâm nói:

- Thiên tử hối hận vì việc làm quá đáng vừa rồi, cúi xin tiên sinh hãy cùng về kinh lại ra mắt thiên tử, để thỏa nỗi băn khoăn của thiên tử.

Công Viễn cười:

- Ta về kinh sao bằng thiên tử hãy đến đây, ngươi chẳng cần nhiều lời. Ta có một lá thư cùng một vật này gởi thiên tử. Ngươi hãy vì ta mà đem về dâng.

Lấy ngay trong ống tay áo một lá thư, ở trong có một vật nhỏ, bên ngoài có dây lụa quấn kỹ, giao cho Cầu Lâm. Cầu Lâm nói:

- Thiên tử có nhiều điều muốn cúi hỏi tiên sư, xin tiên sư hãy về kinh một lần nữa.

Công Viễn đáp:

- Chẳng phải nhiều lời. Hãy nên tránh xa con gái trong cung, cẩn trọng đề phòng con gái ở biên thùy, thì tự nhiên thiên hạ thái bình vô sự.

Cầu Lâm lại hỏi riêng thân phận các vị đại thần sống chết ra sao, Công Viễn đáp:

- Lý tể tướng tội ác chất đầy, ngày chết đã gần, mà vẫn không thể tránh nổi họa sau khi chết nữa kia. Còn Dương tể tướng vẫn còn vài năm hưởng phúc treo trên sợi chỉ mỏng, sau thế nào thì nghĩ cũng có thể rõ vậy.

Cầu Lâm hỏi chuyện cát hung của mình, Công Viễn đáp:

- Phàm người ta không tham tài, cũng không có họa lớn vậy.

Nói xong chắp tay vái chào, bay thằng lên không trung mà đi mất.

Cầu Lâm cùng tùy tùng xuýt xoa kinh ngạc, thán phục. Cầu Lâm nghĩ ngợi: "Diệp Pháp Thiện cũng khó mà tìm ra, chi bằng quay về kinh phục chỉ là hơn".

Cả bọn quay về, vào cung ra mắt Huyền Tông, tâu rõ chuyện gặp La Công Viễn ra sao, rồi đưa thư dâng lên. Huyền Tông vô cùng ngạc nhiên mở thư ra xem, chỉ thấy bốn chữ lớn, phía dưới chú thêm một hàng chữ nhỏ như sau:

"An mạc vong nguy

Ngoại hữu nhất dược vật Thục Đương quy cẩn phụ thương"

Huyền Tông nhìn mãi thư cùng vị thuốc, trầm ngâm không nói một lời. Cầu Lâm lại tâu riêng những lời của La Công Viễn về "con gái trong cung, con gái trên biên thùy". Huyền Tông nghĩ ngợi: "Công Viễn vẫn khuyên ta "Thanh tâm quả dục" thì có thể kéo dài tuổi thọ, nên nay khuyên ta xa hẳn con gái thì còn hiểu được, rồi lại nói "lúc yên ổn đừng quên lúc nguy nan", chắc cũng ý ấy cả. Còn Thục đương quy có lẽ là vị thuốc, có thể đắc thọ nữa chăng, chẳng hiểu sao được? Nhưng rõ ràng Công Viễn đã bị chém đầu, làm sao lại còn thấy được? Liền cho nội thị đào quan quách lên xem sao, thì ra trong hòm tịnh chẳng có một thứ gì cả. Huyền Tông thở than:

- Thần tiên biến hóa như thế, trẫm thật chỉ làm trò cười cho mọi người?

Về những lời này, thì "Con gái trong cung", rõ ràng là chỉ Dương Quý Phi rồi. Còn "Con gái trên biên thùy", chính là để chỉ An Lộc Sơn, bởi do chữ "An" bên trong có chữ "nữ" mà ra vậy. Còn "Thục đương quy", vốn là một câu sấm ký không lời vậy. Mấy chữ lớn "An mạc vong nguy" cũng nhằm để nhấn mạnh chữ An mà thôi.(l)

1 "An mạc vong nguy": Lúc yên ổn đừng quên lúc nguy nan. Câu sau là: "Ngoài ra còn có một vị thuốc Thục đương quy cũng kính cẩn dâng thêm vào đây" Cả câu này ý ở chữ "Thục đương quy", nghĩa là vị thuốc đương quy ở vùng đất Thục, nhưng có ý "Sấm ký" là: "Đáng rút về, quay về vùng Thục", báo trước việc Huyền Tông phải chạy trốn vào Tây Thục sau này.

Huyền Tông không hiểu ra ý đó chút nào. Lúc này An Lộc Sơn đang thâu tóm cả ba trấn rộng lớn: Phạm Dương, Bình Lư, Hà Đông, trong tay rất nhiều người ngựa, tướng sĩ, dọc cả một vùng biên thùy dài, có cả mối dây nối với cung khuyết, thanh thế không vừa, lại nghĩ ngay từ đầu ra mắt, không chịu bái lạy Thái tử, nhất định Thái tử mang lòng căm giận. Huyền Tông thì tuổi đã cao, chẳng biết lúc nào qua đời, Thái tử lên ngôi nhất định đối xử với mình chẳng ra sao, bởi vậy Lộc Sơn lo lắng không yên, thường nghĩ tới những việc này khác.

Lộc Sơn ngày thường chỉ sợ có Lý Lâm Phủ, thường tôn xưng Lâm Phủ là Thập Lang, anh Mười, mỗi lần sứ giả về kinh, tất hỏi kỹ Thập Lang nói những gì. Nếu được Lâm Phủ khen, thì vô cùng hoan hỷ, còn nếu Lâm Phủ chê trách điều gì, thì cau mày, nhức trán, lo lắng than thở, nằm ngồi không yên. Lâm Phủ cũng thường gởi thư để khêu gợi Lộc Sơn điều này điều nọ, khích động những băn khoăn của Lộc Sơn, nhưng cũng bày tỏ những trở ngại để trói buộc chưa để Lộc Sơn hành động, mà chỉ nằm trong vòng lung lạc, điều khiển của mình thôi.

Nhưng từ ngày vợ Lâm Phủ qua đời đến nay, bệnh hoạn cũng kéo đến, lại gặp lúc Phụ Cầu Lâm về kinh, Lâm Phủ lúc này đã nằm liệt trên giường không dậy được nữa rồi, bỗng nghe tin Công Viễn chưa chết, thì bàng hoàng, hoảng hốt nghĩ: "Ta đã từng xiểm tấu Công Viễn, nếu Công Viễn quả là bậc thần tiên, chém đầu không chết, nay tới trả oán, không phải như người phàm mà phòng ngừa cho được, làm thế nào cho thoát bây giờ?". Từ đó đêm ngày run sợ, bệnh càng nặng hơn. Mấy ngày sau thì, Ô hô! Chết rồi!

Chính là:

Thiên tử vừa thoát tên gian tướng

Diêm vương phải nhận đứa ác tù.

Đáng tội thay Lý Lâm Phủ, thân ở ngôi tể tướng, gian xảo với xung quanh, không theo ý chúa thượng, để cố giữ được sủng ái, ngăn cấm lời can gián, lập thành một bè gian trá, đố kỵ kẻ có tài có đức, gạt bỏ kẻ hơn mình, để giữ được ngôi cao, lập nhiều nhà ngục kiên cố giết bỏ, bài xích kẻ hiền thần, để mở rộng thanh thế, từ Đông cung trở xuống đều sợ, chỉ dám đưa mắt liếc mà chẳng bao giờ dám nhìn thẳng. Làm tể tướng mười chín năm, nuôi thành mối loạn cho thiên hạ. Đến lúc y chết, Huyền Tông vẫn không biết y là kẻ gian thần nên rất là thương tiếc. Đông cung Thái tử nghe Lâm Phủ chết, cũng lại than rằng:

- Nay ta nằm lưng mới được dính chiếu vậy!

Dương Quốc Trung vốn cũng rất căm ghét Lăm Phủ, nhưng vì y vẫn được Huyền Tông sủng ái, nên không thể tranh đoạt, nỗi hờn đã nung nấu lâu ngày, nay thừa lúc y chết rồi, mới bới những lỗi lầm đã qua, từ những chuyện nuôi riêng quân lính trong dinh, nói thác là để giữ thân, kỳ thực là có ngầm mưu thoán nghịch, lại còn bao lần hãm hại Đông cung, làm lay chuyển xã tắc, ngồi ngoài mưu lợi. Quốc Trung còn gợi cho các quan viết tấu biểu, trình rõ những tội khác của y.

Dương Quý Phi thì căm ghét Lâm Phủ chèn ép An Lộc Sơn, lại cũng kể những điều xấu của y với Huyền Tông. Mãi đến lúc này, Huyền Tông mới tỉnh ngộ, hạ chiếu ban rõ tội trạng cho khắp thiên hạ biết, truy tước hết quan chức, phá hòm quách, tịch thu hết gia sản. Con là Lý Tụ đang làm thị lang cũng bị cách chức, vĩnh viễn không được dùng nữa. Cũng đúng như lời La Công Viễn nói về các họa sau khi chết.

Chính là:

Lúc sống quyền gian, ác đủ điều

Nào khi hay chết xác băm nhừ

Phải đâu vì nước vì dân nhỉ

Dựa điều quốc pháp thỏa riêng tư.

Lý Lâm Phủ chết, Dương Quốc Trung kiêm cả tả hữu thừa tướng, một mình nắm mọi quyền hành, mặc sức tác oai tác quái, trăm quan văn võ không ai không sợ. Duy An Lộc Sơn là không chịu cúi phục, Lộc Sơn chỉ vì Lâm Phủ xảo quyệt hơn mình, cho nên mới sợ Lâm Phủ, còn với Quốc Trung, trước đó thường tranh hơn đọ kém, vẫn có ý coi thường Quốc Trung, nay tuy nắm mọi quyền hành, Lộc Sơn vẫn không coi vào đâu. Bốn phương Phiên trấn đều có lễ đến mừng họ Dương, duy Lộc Sơn không chịu. Quốc Trung giận lắm, mật tâu với Huyền Tông:

- An Lộc Sơn vốn giống Phiên, nay hùng cứ ở cả ba trấn lớn, dễ có ý khác, nên đề phòng thì hơn.

Huyền Tông không tin. Quốc Trung liền bí mật đi lại với Kha Thư Hãn, tiết độ sứ Lũng Tả, để cùng Thư Hãn kiềm chế Lộc Sơn. Lũng Tả lâu nay vẫn giàu có đứng đầu thiên hạ, kéo từ cửa An Viễn đến tận Đường Cảnh, rộng đến hơn một vạn hai nghìn dặm, xóm làng liên tiếp, vừng day khắp đồng. Quốc Trung tâu lên với nhà vua rằng: Kha Thư Hãn phủ dụ, cai quản có nhiều công trạng, lẽ nên tuyên dương. Huyền Tông liền giáng chỉ cho Kha Thư Hãn kiêm quản Hà Tây tiết độ sứ, coi sóc hai trấn. Lộc Sơn nghe tin, biết ngay là Quốc Trung kết bè kéo cánh, lòng càng tức tối, nên thường trong lúc say rượu, ngay trước mặt mọi người, đem Quốc Trung ra mà chửi thẳng, Quốc Trung được ngầm báo những chuyện này, căm lắm, lại mật tâu với Huyền Tông rằng:

- An Lộc Sơn vốn gian xảo cùng bầy với Lý Lâm Phủ. Nay Lâm Phủ chết rồi, tội trạng phơi bày, nên Lộc Sơn trong lòng băn khoăn, nhất định có tính toán này khác. Bệ hạ nếu không tin, xin hãy sai sứ triệu Lộc Sơn về kinh triều cận, nhất định Lộc Sơn sẽ không chịu vâng mệnh, bấy giờ bệ hạ sẽ thấy rõ tâm địa Lộc Sơn.

Huyền Tông ậm ừ đứng dậy, quay vào cung, vẫn trù trừ không quyết. Dương Quý Phi hỏi:

- Bệ hạ có chuyện gì mà có vẻ đắn đo?

Huyền Tông đáp:

- Quốc Trung anh Quý Phi, nhiều lần tâu Lộc Sơn tất sẽ phản loạn, trẫm vẫn chưa tin. Nay khuyên trẫm sai sứ triệu Lộc Sơn về triều cận, nếu y không về, thì lòng dạ đã rõ ràng, cứ thế mà hỏi tội. Trẫm nghĩ Lộc Sơn chịu ân sâu của trẫm đến thế, vị tất đã mang lòng phụ trẫm, vì vậy nghĩ ngợi mãi không xong.

Quý Phi cả sợ vội tâu:

- Anh thiếp căn cứ vào đâu mà nói An Lộc Sơn tất làm loạn. Nay đã hoài nghi như thế, bệ hạ hãy cứ như lời tâu, sai nội thị tới triệu Lộc Sơn. Nếu Lộc Sơn về, bệ hạ cùng anh thiếp dẫn giải được hiềm nghi.

Huyền Tông nghe lời, viết ngay thư sắc, sai Phụ Cầu Lâm, mang đến Phạm Dương triệu An Lộc Sơn về triều cận hoàng đế, Cầu Lâm vâng mệnh ra đi. Chưa kịp lên đường, Quý Phi ngầm cho người đem vàng lụa ban, rồi sai cầm một lá thư viết tay, niêm phong cẩn thận giao cho An Lộc Sơn, lại dặn thêm Lộc Sơn tiếp được chiếu hãy về ngay, mọi sự đã có Quý Phi chu toàn, nhất định có lợi chứ không có điều gì đáng lo cả, không được về chậm để gây lòng nghi ngờ cho thiên tử. Cầu Lâm nhất nhất vâng mệnh, đi suốt ngày đêm không dám nghỉ, tới Phạm Dương. Lộc Sơn nghênh bái sắc dụ, Cầu Lâm lên công đường, dõng dạc đọc rằng:

"Hoàng đế thân viết sắc ban cho Đông Bình Quận vương, tiết độ sứ Phạm Dương, Bình Lư, Hà Đông An Lộc Sơn:

Khanh trước kia vốn thờ trẫm ngay dưới thềm son, vui vẻ chuyện trò như trong một nhà, nay ra trấn ngoài Phiên ải, xa xôi cách trở trẫm vẫn một lòng tưởng nhớ. Lòng khanh chắc hẳn cũng như vậy, nhưng điều mong nhớ cũng không dám không có sắc triệu mà về chầu. Nay một khi đã nhận được sắc này, lập tức về cung khuyết, nếu không về là có ý phản loạn. Đừng lấy cớ đường xá xa xôi khó nhọc, trẫm cũng cần hỏi kỹ về công việc ở biên đình. Tiếp dụ này, phải về kinh sư ngay, không được sai sót."

Lộc Sơn tiếp xong sắc chỉ, bày tiệc rượu đãi thiên sứ, rồi hỏi:

- Thiên tử triệu ta về là ý ra làm sao?

Cầu Lâm đáp:

- Chẳng qua thiên tử mong nhớ ngài quá!

Lộc Sơn trầm ngâm:

- Dương tể tướng có nói gì không?

Cầu Lâm đáp:

- Triệu ngài về là ý của thiên tử, không phải ý tể tướng!

Lộc Sơn cười:

- Ý thiên tử tức là ý tể tướng vậy!

Cầu Lâm đuổi tả hữu đứng hầu, đưa thư cùng kể lại những lời dặn dò của Dương Quý Phi ra, Lộc Sơn lúc này mới vui vẻ.

Ngay ngày hôm sau, lên ngựa ngày đêm về kinh, vào triều cận thiên tử. Huyền Tông cả mừng mà phán:

- Người ta nói rằng khanh không chịu về, riêng trẫm thì tin khanh sẽ về, nay quả như vậy!

Liền cho làm lễ như người trong nhà, ban yến ngay trong nội điện. Lộc Sơn khóc lóc mà tâu:

- Thần vốn người Phiên, nay được bệ hạ tin yêu mà cất nhắc đến thế này, dẫu thây có phân làm muôn mảnh cũng chẳng đủ báo đền. Nhưng chỉ vì Dương Quốc Trung ghen ghét, thần quả không biết chết ngày nào vậy.

Huyền Tông an ủi:

- Còn có trẫm ở đây kia mà, khanh không có điều gì phải lo cả.

Đêm ấy, giữ lại cho ngủ ngay trong cung.

Ngày hôm sau vào chào Dương Quý Phi, lại ban yến trong nội cung, tình càng đằm thắm. Lộc Sơn thưa:

- Con không phải không thương nhớ, nhưng thế không thể ở lâu ngày mai xin lên đường.

Quý Phi đáp:

- Ta cũng không dám giữ khanh lâu, ngày mai ra chầu rồi tạ ơn lên đường ngay, đừng dềnh dàng nữa?

Lộc Sơn gật đầu hiểu ý, ngày mai tâu rằng công việc biên đình không thể chậm, chẳng dám ở lâu, cáo xin về trấn. Huyền Tông bằng lòng thân cởi ngự bào ban cho, Lộc Sơn khóc lóc bái lạy mà nhận, rồi làm lễ tạ ơn ra khỏi cung điện. Cũng bởi sợ Quốc Trung tâu với Huyền Tông tìm cách giữ lại, nên phải vội về ngay. Đi qua dinh Dương Quốc Trung trừng mắt mà nhìn mãi, không thèm xuống ngựa, phi như bay ra khỏi kinh sư, không kể ngày đêm.

Từ đó, Huyền Tông càng thêm tin, thêm thân thiết. Dẫu có người đứng ra tố cáo Lộc Sơn mưu phản, thì Huyền Tông lại trói ngay người ấy giải tới Phạm Dương, cho Lộc Sơn tra khảo nghiêm trị. Vì vậy chẳng ai dám nói một lời. Lộc Sơn từ đó càng chẳng sợ gì nữa, tính toán: "Trong ba trấn đây, giữ các cửa hiểm yếu, đều là người Hán, mai kia nếu có hành động gì, nhất định ta sẽ chẳng dùng được bọn này. Chi bằng hãy dùng tướng Phiên mà thay ngay đi là hơn cả".

Bèn dâng sớ trình rõ rằng: Các nơi hiểm yếu của biên đình, nếu không phải là tướng vừa dũng cảm vừa mưu trí, sức lực hơn người, thì không thể giữ nổi, tướng người Hán đều hèn yếu, không bằng tướng Phiên kiêu dũng, nên xin cho ba mươi mốt tướng Phiên thay các tướng Hán coi giữ biên thùy.

Sớ dâng lên, Đông bình chương sự Vi Kiến Tố liền dâng sớ tâu:

- Lộc Sơn từ lâu đã có ý khác, nay lại dâng sớ thế này, ý phản nghịch quá rõ. Lời tâu không thể nghe theo được.

Huyền Tông không vui, phán rằng:

- Lâu nay công việc ở biên trấn đều dùng quan văn, đến nỗi công việc quan đều bỏ trễ nải. Nay dùng người Phiên làm tiết độ sứ, quang cảnh quan ải một phen thay đổi, từ đó mà xem, thì làm sao lại bảo tướng Phiên không thay được tướng Hán? Lộc Sơn vì mưu tính chuyện quốc gia mà mưu chuyện phòng thủ lâu dài, có tâu trình điều gì, các khanh lại mỡ miệng nói làm phản!

Rồi không nghe lời tâu của Vi Kiến Tố, truyền ngay chỉ rằng:

"Y theo lời tâu của An Lộc Sơn, các nơi hiểm yếu của ba trấn, đều thay bằng tướng Phiên làm lưu thú trấn giữ, các tướng Hán giữ các nơi này đã lâu, điều về nội địa, sai phái công việc khác. "

Từ đó, người Phiên giữ các nơi trọng địa. Lộc Sơn càng đắc thế, công việc ngoài biên trấn chẳng còn điều gì đáng nói nữa.

Chính là:

Đất Hán giao quyền cho tướng Phiên

Thế là nhà Hán biến thành Phiên

Mắc lừa Phiên, dại khờ vua Hán

Mưu sĩ Hán thua cái miệng Phiên.

Không biết sau này sự việc ra sao, xin xem hồi sau phân giải.

Hồi Thứ Tám Mươi Sáu

Điện Trường Sinh, nửa đêm thề nguyền,

Lầu Cần Chánh, suốt sáng yến tiệc.

Từ rằng:

Ân sâu ái sâu

Tìm tha ý thiết

Riêng ta với nhau

Dưới trăng sao nhất tịch

Thề nguyền khăng khít

Chỉ có Ngưu Lang, Chức Nữ trên cao

Được biết

Biết thời bình, biết thế bình

Quên dân, quên nước, quên mình, say mê

Cần Cầm, Chính Chính, là gì?

Cái tên thực, nghĩa thì trống không (1)

Vua già, ngại việc phải chăng?

Theo điệu "Túy thái bình"

1 Trường Sinh điện: điện sống lâu mãi mãi. Cần Chánh lâu: Cần là siêng năng, Chánh hay Chính chỉ công việc chung, việc nước, Lâu: lầu gác, gác cao.

Đạo Phật rất trọng sự thề nguyền, một người nào đó buông lời thề nguyền, chỉ mình mình biết, nhưng đã có quỷ thần chứng minh, kiếp này, kiếp sau tất phải làm bằng được như lời thề. Thực ra cũng còn phải xem xét lời thề đó nội dung ra sao, có hợp lý hay không, có thể thực hiện được hay không. Nhược bằng không có lý, không làm được thì lời thề đó, có cũng như không. Đại để trong việc thề nguyền, phần lớn là thề nguyền của trai gái, nào chỉ non thề biển, đều trong cảnh khác thường đêm hôm, một mình hoặc với một người biết với nhau. Trong việc này lại còn phải tính đến những lời thề đó có chính đáng nữa không, có thay đổi hay không thay đổi, còn nếu như đường đường ngôi thiên tử, sáu cung phi tần mỹ nữ không kể hết, mọi chuyện đều phải đường đường chính chính thì dùng những lời "thệ hải minh sơn", thề riêng nguyền kín ấy làm gì. Chẳng qua vì sự đam mê thái quá, chết đuối trong sắc dục, đem sự yêu thương của cả ba ngàn cung nữ dồn vào một người (1), thì quả là hưởng lạc kiếp này chưa thỏa, lại muốn kiếp sau cứ thế mà thỏa lòng dục tiếp nữa sao? Nào có biết rằng cuộc gặp gỡ ở kiếp này, chính là bởi kết quả của những đức tính kiếp trước, vốn là "túc thế tiền duyên" thôi, vậy thì kiếp này còn mơ ước viển vông gì nữa, mà vẫn đắm mê trong vòng sắc dục, chỉ một mực nghe theo lời lẽ của kẻ nữ nhân, ngày càng xa xỉ, những tưởng là phong lưu, thanh cao. Đem việc lớn của xã tắc phó mặc cho lũ tiểu nhân, thiên hạ điên đảo như trong vạc dầu sôi mà vẫn ảo tưởng là thái bình thịnh trị, vẫn "cuộc vui suốt sáng, trận cười thâu đêm", thì thật chẳng khác gì mấy con chim yến chim sẻ trên nóc nhà vậy thôi!

1 Hồi thứ bảy mươi chín, Dương Quýnh đã nói: "Thần thấy tần phi ở các cung, có đến hơn ba vạn người!".

***

Hãy nói Huyền Tông nghe theo lời tâu của An Lộc Sơn, đem ba trấn hiểm yếu, thay tướng coi giữ toàn bằng người Phiên. Vi Kiến Tố can gián không nghe.

Một hôm, Kiến Tố cùng Dương Quốc Trung đều có trước điện, Cao Lực Sĩ bên cạnh. Huyền Tông phán rằng:

- Trẫm xuân thu càng cao, công việc triều chính ngày càng mỏi mệt, nay đem mọi sự phó cho tể tướng, việc biên cương thì đã có các tướng trông coi, thật cũng chẳng còn gì đáng lo nữa vậy!

Lực Sĩ tâu:

- Cũng mong được như lời thánh dạy, nhưng gần đây nghe Nam Chiếu làm phản, bao nhiêu lần đánh bại quân triều đình. Lại thêm các tướng biên trấn, binh quyền quá lớn, triều đình phải có cách để trói buộc, không thì sợ tai họa sẽ đến.

Huyền Tông phán:

- Khanh hãy khoan tâu những chuyện ấy, tể tướng sẽ có cách để phân xử.

Vốn là dân Nam Chiếu, nay là vùng Vân Nam, dân vùng Nam này xưng vua của họ là "Chiếu". Cả vùng có sáu Chiếu, trong số đó có Mông Xá Chiếu, ở tận vùng cực nam, nên còn xưng là Nam Chiếu mạnh hơn cả, còn năm Chiếu kia, đều yếu nhỏ. Vua Nam Chiếu tên là Bì La Hạp, hối lộ bọn quan viên biên trấn, để dồn cả sáu Chiếu vào một. Triều đình nghe theo, ban hiệu là Quy Nghĩa, phong làm Vân Nam Vương. Về sau cậy mạnh thế, dấy binh phản nghịch.

Kiến Nam tiết độ sứ là Tiên Vu Trọng, kéo binh đánh mấy lần, đều bị Quy Nghĩa đánh bại, tướng sĩ, quân lính chết nhiều không đếm hết. Dương Quốc Trung vốn là chỗ quen biết cũ của Vu Trọng, nên che giấu ngay việc bại trận, lại còn tâu rằng nhiều chiến tích, lệnh cho lưu thú Kiếm Nam là Lý Mật dẫn bảy vạn lính tiến đánh, vẫn thua to toàn quân tan nát. Quốc Trung cũng giấu kỹ, chuyển thành thắng lớn, lại điều đại binh đánh tiếp. Cho nên người chết chẳng ai lường nổi, cũng chẳng ai dám bàn luận. Nay Cao Lực Sĩ bỗng nói tới, Quốc Trung vội vàng lấp liếm:

- Bọn Nam di bội phản, vương sư chính thảo, mọi chuyện sẽ yên ngay, bệ hạ hà tất phải lo. Riêng việc các tướng Phiên trấn uy quyền quá lớn thì quả là đúng vậy: Ví như An Lộc Sơn hùng cứ cả ba trấn lớn rộng, binh cường ngựa khỏe, rõ ràng là có ý khác, không thể không coi.

Huyền Tông nghe xong, trầm ngâm không đáp.

Kiến Tố lại tâu:

- Thần có một kế, có thể làm mất hẳn những ý định đen tối của An Lộc Sơn.

Huyền Tông hỏi:

- Kế ra sao?

Kiến Tố thưa:

- Nay chi bằng thăng An Lộc Sơn làm Bình chương sứ, triệu vào cung đình rồi đưa ngay cho ba đại thẩn cai quản ba trấn Phạm Dương, Bình Lư, Hà Đông. Thế là binh quyền của Lộc Sơn mất hết, mưu gian cũng chẳng thể còn.

Quốc Trung phụ họa:

- Kế này hay lắm?

Huyền Tông tuy bằng lòng, nhưng thực vẫn do dự chưa quyết. Về cung, nói rõ cho Dương Quý Phi biết. Quý Phi tuy lòng rất muốn Lộc Sơn về triều để cùng tình tự, nhưng lại sợ khó thoát khỏi mưu hại của Quốc Trung, liền tâu riêng với Huyền Tông:

- An Lộc Sơn chưa lộ rõ mặt phản loạn, vì sao trăm quan lại vẫn đoán chắc rằng Lộc Sơn thoán nghịch đến nơi. Nay Lộc Sơn cầm quân ở biên cương chẳng có cớ rõ ràng, gọi về thì rõ ý nghi ngờ, sợ hãi, chi bằng sai sứ ra xem xét thực tình, nhược bằng đáng ngờ thì hãy triệu về, xem Lộc Sơn đối phó ra sao!

Huyền Tông lại nghe theo lời, sai ngay nội thị Phụ Cầu Lâm, đem theo một số hoa quả thật quý, đến ban cho Lộc Sơn, ngầm xem sự thể ra sao. Cầu Lâm vâng mệnh, đến thẳng Phạm Dương. Lộc Sơn đã được tin báo từ trong cung ngay từ trước, biết rõ nguyên do có mặt của Cầu Lâm, nên bày vẽ khoản đãi Cầu Lâm rất long trọng, lại đem vàng ngọc, các đồ quý tặng để nhờ Cầu Lâm chu toàn cho. Cầu Lâm nhận hối lộ, hứa làm hết sức mình, ngày đêm trở lại triều đình, ngợi ca Lộc Sơn một lòng trung với xã tắc, không hề có chuyện hai lòng.

Huyền Tông nghe vậy, tin ngay, triệu ngay cho Quốc Trung đến trước ngự tiền mà dụ ràng:

- Quốc gia đãi An Lộc Sơn rất hậu, Lộc Sơn rất hết lòng vì triều đình, quyết chẳng dám phụ trẫm. Trẫm có thể đứng ra bảo cử cho Lộc Sơn. Các khanh bất tất đa nghi.

Quốc Trung không dám cãi, chỉ ậm ừ rồi quay ra ngay.

Từ đó, Huyền Tông càng tin biên cương yên ổn, chẳng ngó ngàng chi đến, lại nữa tuổi ngày càng cao, chỉ nghĩ đến chuyện kịp thời hưởng lạc. Suốt ngày đêm cùng phi tần, nội thị với bọn Lê Viên tử đệ, những ca cùng múa, mười phần khoái ý.

Dương Quý Phi cùng Quắc Quốc phu nhân, Hàn Quốc phu nhân, mặc sức kiêu sa dâm dật, ở ngay Hoa Thanh cung dựng mười sáu phòng tắm thơm, cực điểm xa hoa, sắp đầy phi tần, cung nga để lúc nào cũng có thể tắm rửa. Bể tắm của nhà vua, được xây bằng đá quý Văn Giao bảo thạch, nước nóng thơm Ngọc Liên dẫn vào tận nơi, lại lấy gỗ quý khắc thành hình chim cu, chim nhạn, uyên ương, cò trắng và các loại chim nước, bọc kín bên ngoài bằng gấm thêu, cho bày nổi trên mặt nước. Mỗi lần gặp ngày ấm áp, sau khi rượu đã hơi tỉnh rồi, nước bể vừa nóng, Huyền Tông cùng Quý Phi đều mặc áo lót ngắn, cưỡi thuyền nhỏ dạo quanh bể, đến những chỗ cảnh tượng thanh tú, kín đáo, cũng là lúc đã nóng bức, liền lệnh cho cung nga đỡ Quý Phi xuống tắm.

Mỗi lần chị em họ hàng tắm như vậy xong, nước trong bể theo ngòi mà chảy ra ngoài cung, Vòng vàng, hạt châu theo nước trôi, người đi đường có khi nhặt được. Thật không thể nói hết sự xa hoa.

Dương Quý Phi vì đẫy đà, nên rất sợ nóng nực, mỗi khi mùa hạ tới chỉ mặc áo lụa mỏng, bắt cung nga thay nhau quạt, mà vẫn không hết mồ hôi. Nhưng lại cũng là một sự kỳ quái không hai, mồ hôi trên người Quý Phi khác hẳn của mọi người, mang màu hồng hồng lại thơm nức, thử lấy khăn mà chùi, chẳng khác gì màu hoa đào, rõ là vật quý của trời sinh ra vậy, chứ người ta thì không thể nào làm được những điều kỳ diệu này. Lại thêm có bệnh khô háo phổi, thường phải ngậm ngọc cá ở trong miệng, để lấy khí mát mà chữa bệnh phổi. Một hôm Quý Phi đau răng, không thể ngậm ngọc cá được, bèn lấy tay đỡ má đào, buồn rầu ngồi trước cửa sổ. Huyền Tông thấy thế, lại càng cho là tuyệt thế, vừa thương, vừa yêu, vỗ về:

- Trẫm chỉ giận không thể chia nỗi đau này cùng ái khanh!

Người đời sau có vẽ bức tranh Dương Quý Phi đau răng, Phùng Hải Túc có đề lên bức tranh này bốn câu thơ:

Cung Thanh Hoa một cái răng đau

Gò Mã Ngôi một cái thân đau

Trống trận Ngư Dương vang dữ dội

Thiên hạ đau!

Mùa hạ năm thứ mười đời Thiên Bảo, Huyền Tông cùng Quý Phi đi tránh nắng ở Ly Sơn cung. Cung này có mật điện, tên gọi Trường Sinh điện, rất cao, rất rộng, rất mát. Đêm mùng bảy, tháng bảy năm ấy, là đêm "xin khéo" (1), tiết trời nóng nực, Huyền Tông ngồi hóng mát ở Trường Sinh điện, Quý Phi ngồi hầu bên cạnh, mãi đến hết canh hai, mới vào nội cung nằm, cung nga cũng mới được nghỉ ngơi. Quý Phi nóng bức, ngủ không yên giấc, đến kéo Huyền Tông dậy, cũng chẳng gọi cung nga theo hầu, hai người cùng ngồi mãi tới khuya. Trời vẫn còn nóng, tay phẩy quạt nhẹ, ngửa mặt nhìn trời sao, lúc này cảnh vật yên tĩnh. Ngồi một lát nữa, trời đã mát dần, Huyền Tông nói rất khẽ:

- Đêm nay hai sao Ngưu Lang, Chức Nữ gặp nhau, không hiểu họ có mừng không?

1 "Xin khéo" Tục "khất xảo", đêm mùng bảy, phụ nữ Hán lấy chỉ ngũ sắc, thi xâu kim bảy lỗ dưới ánh trăng. Bày hoa quả ra giữa sân, nếu có nhện giăng lên là tốt. Giữa trưa thì đặt một cái chén giữa sân, thi thả kim, làm thế nào để kim nằm trên mặt nước không chìm. (Tầm nguyên từ điển)

Quý Phi thưa:

- Chuyện Ô thước bắc cầu qua sông, không hiểu có thực không, nếu đúng vậy, thì sự vui sướng ở thiên đình không thể nào so với trần gian được!

Huyền Tông cười:

- Thật họ gặp nhau thì ít, xa nhau thì nhiều, sao cho bằng trẫm cùng ái khanh, ngày đêm vui vầy.

Quý Phi thưa:

- Hoan lạc ở nhân gian, thế nào mà chẳng nát tan, sao bằng như hai vì sao trên thiên đình, mãi mãi là vợ chồng.

Nói xong bất giác thở dài. Huyền Tông cũng cảm động ngậm ngùi:

- Trẫm cùng ái khanh yêu thương đến chừng ấy, sao nỡ xa cách. Đêm nay dưới trăng sao, trẫm cùng khanh hãy riêng cùng thề nguyền, hết kiếp này sang kiếp khác, mãi mãi là vợ chồng!

Quý Phi nghe Huyền Tông nói thế, gật đầu mà thưa:

- Quý Phi này cũng xin thề như vậy, có Chức Nữ, Ngưu Lang làm chứng?

Huyền Tông thấy Quý Phi thề, mừng lắm.

Về sau, Bạch Cư Dị, trong bài "Trường hận ca" cũng có nói tới việc này:

Là đêm trùng thất nguyền chung

Trường sinh sẳn điện vắng không bóng người

Xin kết nguyện chim trời liền cánh

Xin làm cây cành nhánh liền nhau. (1)

1 Bản dịch của Tản Đà, Thơ Đường II. Bạch Cư Dị: 772-846 người Thiểm Tây, đỗ tiến sĩ làm đến Thượng thư bộ Hình. Có công đề xướng phong trào thơ hiện thực đời Đường, bản thân thơ ông cũng có tính hiện thực cao. Là một trong ba nhà thơ lớn thời Đường. Nổi tiếng nhất là bài "Trường hận ca" này và bài "Tỳ bà hành". (Thơ Đường I).

Cũng sau này, có người làm thơ châm biếm Huyền Tông, say đắm riêng tây, mơ ước hão huyền:

Hoàng hậu khi không bị biếm oan

Vợ chồng đạo nghĩa kiếp này tan

Quý Phi riêng được thề khăng khít

Kiếp nối kiếp ân ái chứa chan!

Lại còn có cả thơ cười Dương Quý Phi:

Thề riêng để hận muôn đời

Điện Trường Sinh luống thẹn lời Ngưu Lang

Duyên Huyền Tông chẳng bẽ bàng

Nợ Lộc Sơn hỏi là vàng hay thau?

Huyền Tông ngày càng say đắm Quý Phi. Tháng chín, mùa thu năm ấy, cam cùng quýt ở cung Bồng Lai rất sai quả, các giống cây quý này đều do vùng Giang Lăng tiến cống từ năm Khai Nguyên, vốn vị rất ngọt, mùi thơm. Huyền Tông sai đem mấy gốc trồng ở cung Bồng Lai, nhưng từ bấy đến nay chỉ nở hoa mà không bao giờ kết quả, có năm ngay cả hoa cũng chẳng thấy. Năm nay, không hiểu sao đậu tới hơn hai trăm quả, so với cam quýt vùng Giang Lăng, Thục xuyên chẳng kém gì. Huyền Tông mừng lắm, tự thân ra xem, lệnh hái xuống đem ban cho các quan. Dương Quốc Trung dẫn các quan, dâng biểu, phủ phục ở thềm vàng chúc mừng, tờ biểu đại lược như sau:

"Muôn tâu

Trộm nghĩ:

Ơn trời chăm bón thì muôn vật không thay đổi tinh thường, vật nào xưa nay chưa từng có thì phải xem đó là vật phi thường báo trước điềm lành, phúc lớn vậy

Cam quýt thật là nhiều loại

Bắc Nam tên gọi khác nhau

Bởi bệ hạ vòi vọi đức cao, sáu cõi gom về một mối

Nên mưa móc thu về, khắp vùng trời chói lọi

Cỏ cây xúm lại, hưởng khí đất tràn trề

Cây quý từ miền Nam đất thánh

Quả lành sinh ở giữa cung thần

Cuống biếc sáng ngời

Thơm tràn điện gấm

Võ vàng lấp lánh

Sắc ửng sân hoa

Chúng thần nay:

Ơn trên ban cấp

Thẹn chẳng công lao

Vui mừng chiêm ngưỡng bệ cao

Run sợ kính dâng lời mọn

Cẩn tấu!"

Huyền Tông xem xong, vừa lòng lắm, ban lời ngợi khen.

Trong số những quả này, có hai quả dính nhau, người đời thường gọi là quả "Hợp hoan", nghĩa là cùng xum vầy, vui vẻ. Tả hữu mới dâng lên, Huyền Tông lại càng thích ý, cùng Quý Phi ngắm nghía mãi, Huyền Tông còn phán:

- Hai quả này thực là khéo biết chìu người, Trẫm với ái khanh cũng chẳng khác gì một thân hình, hệt như hai quả "Hợp hoan" này vậy Khanh hãy ăn cùng trẫm, để ứng với điềm lành này.

Liền kéo Quý Phi cùng ngồi, bóc quýt ra, rồi mớm cho nhau. Sai thợ vẽ ngay một bức tranh "Hợp hoan cam quất đồ" để truyền cho đời sau, Quốc Trung lại dâng lời tán tụng, xin cho mở yến tiệc cho trăm quan, bách tính cùng được vui mừng bởi điềm lành của buổi thái bình:

Chính là:

Đời hoàng đế, có thiên khuất dật (1)

Trỏ lũ gian vạch mặt tỏ tường

Báu gì cam quýt nhà Đường

Khua môi múa mép toàn phường bất nhân.

Huyền Tông nghe theo những lời nịnh hót của Quốc Trung, liền giáng chỉ ban yến tiệc cho dân chúng. Chọn ngày lành, kéo phi tần cùng các vương ra Cần Chánh lâu, đủ đội Lê Viên ca múa, tấu nhạc, bày hàng trăm trò, tùy ý vui chơi cùng với trăm họ.

Nhà nhà trong kinh thành, già trẻ trai gái, kéo đến trước lầu, muôn phần náo nhiệt. Trong bọn Lê Viên, có một người đàn bà, tên gọi Vương Đại Nương, có tài múa sào. Với một sào trúc dài tới một trượng tám thước, đội ngay trên trán một đầu sào trúc dựng đứng, đầu kia đặt một tòa núi đẽo bằng gỗ, theo dáng đảo Doanh Châu Phương Trượng (2). Lại có một đứa trẻ, ôm lấy sào trúc mà trèo lên, trèo vào động trong đảo Doanh Châu bằng gỗ đó, miệng hát véo von. Vương Đại Nương đội cây trúc trên trán như thế, vẫn múa rất thoải mái theo đúng như điệu hát của đứa trẻ trên cao.

1 Cỏ khuất dật: Theo truyền thuyết, loài cỏ này chỉ đúng mặt lũ gian nịnh trong triều, có ở thời Tam Hoàng, Ngũ Đế, thuộc cổ đại Trung Quốc (Bác vật chí...)

2 Doanh Châu: Biển Bột Hải, tương truyền có ba đảo có tiên ở: Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu. (Tầm nguyên tử điển).

Huyền Tông cùng phi tần, các vương đều không ngớt khen ngợi. Lúc này lại có thần đồng Lưu Yến, mới chín tuổi, thông minh hơn người, nhân triều tiến cử, đã được làm Bí thư tỉnh chính tự, hôm ấy cũng được Huyền Tông triệu đến hầu yến, liền lệnh cho Lưu Yến làm thơ vịnh Vương Đại Nương biểu diễn. Lưu Yến làm ngay bài tứ tuyệt như sau:

Tài giỏi trăm trò diễn trước sân

Múa sào tài nghệ thật như thần

Dẫu nhờ gấm vóc thêm màu sắc

Chính bởi lòng người nặng nhẹ cân.

Mọi người thấy Lưu Yến mẫn tiệp, lời thơ bao hàm cả ý hài hước, nên càng tán thưởng. Dương Quý Phi ôm Lưu Yến cho ngồi trên lòng, âu yếm chải tóc cho. Chải xong, Huyền Tông gọi đến bên, thân cầm tay mà hỏi đùa rằng:

- Khanh tuổi còn nhỏ, quan tới chức chính tự, vậy có biết bao nhiêu chữ "chính" cả thảy.

Lưu Yến tâu ngay:

- Các chữ đều "chính" cả, chỉ có mỗi chữ "bằng" là xiên mà thôi!

Câu trả lời này lại còn hàm ý chỉ ở triều đình lúc này chia bè kéo cánh, chẳng còn ra thể thống gì nữa, hệt như hình dáng khác thường của chử "bằng", không đứng thẳng nghiêm chỉnh như các chữ khác. Huyền Tông nghe xong, ngợi khen không ngớt, quay nhìn xung quanh mà phán:

- Thằng bé này không những thông minh, mà còn hiểu biết khác thường. Mai kia làm việc quan nhất định sẽ tha hồ rạng rỡ.

Mọi người đều dâng lời mừng triều đình được người tài phù trợ. Huyền Tông bằng lòng lắm, truyền đem hốt ngà, cẩm bào ban cho, rồi phán tiếp:

- Trẫm nghĩ mai kia khanh sẽ làm nên, chẳng bao giờ chịu đứng nép bóng kẻ khác.

Người đời sau có thơ khen Lưu Yến:

Đồng đạo đồng tâm xứng đáng thay

Chính là rành rọt, hẳn nên tài

Chữ "bằng" phải viết cho ngay ngắn

Vua có ngay thì tôi mới ngay.

Hôm ấy yến mãi tới tối mịt, trên lầu đèn treo lên, xanh đỏ lóa mắt. Huyền Tông đang ngắm nghía, thấy ở dưới lầu huyên náo, tiếng cười đùa gọi nhau chí chóe, thật khác hẳn ngày thường. Huyền Tông hỏi nguyên do, nội thị tâu rằng trăm họ đang xem đèn dưới lầu, chen chúc nhau, hò hét để dẹp vẫn không được.

Huyền Tông phán:

- Phải lệnh các quan, cùng thị vệ ra uy dẹp cho yên. Nếu vẫn không xong, bắt ngay vài tên mà nghiêm trị làm gương cho tất cả.

Lưu Yến vội tâu:

- Dân chúng tụ tập đông, không thể coi thường mà trừng trị được. Huống chi hôm nay bệ hạ cùng trăm họ vui chơi, đã lệnh cho dân chúng như vậy, sao lại nỡ trị tội. Cứ như ý của thần, chi bằng sai Lê Viên tử đệ, ra trước lầu biểu diễn tài nghệ, truyền dụ trăm họ yên lặng, không được lớn tiếng. Dân chúng vì được nghe những thứ chưa nghe bao giờ, lập tức sẽ yên lặng ngay.

Huyền Tông gật đầu:

- Đúng lắm thay!

Nội thị nói thánh ý cho dân chúng rõ. Lê Viên tử đệ, người người áo mũ lấp lánh, đem các loại nhạc khí, ra ngay trước lầu, xếp hàng nghiêm chỉnh, dưới ánh đèn. Dân chúng quây lại xem, tiếng cười đùa tuy chưa tắt ngay, nhưng đã khác trước. Cao Lực Sĩ thưa:

- Trong số nhạc công, duy chỉ sáo Khương của Lý Mô là nổi tiếng hơn cả, trăm họ thích nghe nhất, nay hãy nói rõ, dưới lầu sẽ yên ngay.

Huyền Tông nghe theo, truyền Lý Mô hãy một mình thổi sáo. Lý Mô vâng lệnh, ra ngay trước lầu, lên tiếng dõng dạc:

- Ta là Lý Mô, vâng thánh chỉ, xin ra thổi sáo Khương để ai nấy nghe. Các người nếu quả biết thưởng thức, xin hãy im lặng.

Nói rồi nâng ngay sáo làm bằng loại trúc Tử Vân ở Vân Mộng lên, tiếng nghe réo rắt trong trẻo, như thấu đến chín tầng trời cao, hạc múa phượng vũ. Dưới lầu hàng nghìn hàng vạn người, đều lặng như tờ, nghiêng tai lắng nghe, không một tiếng động nhỏ. Huyền Tông càng khoan khoái.

Chính là:

Đừng bảo ồn ào khôn cấm chỉ

Một lời lặng ngắt cả muôn lời.

Vì sao tiếng sáo Lý Mô huyền diệu đến thế? Cũng bởi Huyền Tông rất hiểu âm nhạc. Từ các loại đàn dây, cho đến nhạc hơi đều rất thành thạo. Có khi còn tự chế ra các khúc điệu, tùy trong đục, thấp cao mà thay đổi. Trong các loại nhạc cụ đó, lại thường không thích các thứ đàn dây, cứ mỗi lần nghe tiếng đàn, liền bắt cử ngay loại nhạc khác để rửa tai, thường gọi là "tẩy uế". Thích nhất là nghe trống của tộc Yết Thất, cùng tiếng sáo của tộc Khương, cho hai thứ này là đứng đầu trong bát âm, vì vậy bọn nhạc công đều giỏi hai loại này. Mỗi lần có yến tiệc trong nội cung, Huyền Tông thường tự mình đánh trống, hoặc thổi sáo ngọc hòa theo. Dương Quý Phi cũng rất giỏi thổi sáo!

Đầu năm thời Thiên Bảo, gặp thượng tuần tháng hai, sáng ra, rửa mặt chải tóc xong, trời mới mưa xong, cảnh sắc trong sáng, tươi mắt, sân điện nội cung, liễu hạnh vừa môi nhú mầm xanh, Huyền Tông thư thái nhìn bốn phía, thong thả phán:

- Cảnh vật như thế này, chẳng thể ngồi yên cho được!

Liền lệnh Dương Quý Phi thổi sáo ngọc, rồi bước ra ngoài hiên, gõ một hồi trống Yết Thất, theo điệu "Xuân qua hảo", cũng là điệu do Huyền Tông tự đặt ra vậy. Tiếng trống vừa dứt, nhìn ra trước sân, lá liễu cành hạnh như vươn dài thêm, mặt rồng hớn hở, cười chỉ cho phi tần trông thấy mà phán:

- Chỉ riêng việc này, trẫm cũng đáng là bậc sáng tạo rồi còn gì!

Mọi người đều quỳ xuống tung hô:

- Vạn tuế!

Lại một hôm, Huyền Tông ngủ ngày ở Ngọc Thanh cung, bỗng thấy mấy tiên nữ, từ từng không bay xuống, dung mạo cực kỳ xinh đẹp tay đều cầm nhạc cụ, đến trước Huyền Tông vừa múa vừa cử nhạc. Tiếng nhạc nghe rất khác thường, trong đó, nổi rõ tiếng sáo Khương lại tuyệt diệu hơn cả. Tiên nữ thưa:

- Đây chính là những điệu nhạc thần tiên, tên gọi "Tử Vân hồi". Bệ hạ rất hiểu âm nhạc, xin hãy nhớ cho kỹ.

Huyền Tông tỉnh mộng, tiếng nhạc nghe như còn bên tai, liền lấy ngay sáo ngọc ra tập, nhớ rất kỹ từng tiết tấu. Sau hai ba ngày, nhân đêm trăng sáng, Huyền Tông cùng Cao Lực Sĩ thay đổi y phục, ra khỏi cung vi hành tìm thú vui.

Đi qua mấy phố, lại quay về cầu lớn ngay cạnh tường cung điện đứng ngắm trăng, bỗng nghe xa xa tiếng sáo vẳng véo von, nghe kỹ ra, thì chính là điệu "Tử Vân hồi". Huyền Tông kinh ngạc mà rằng:

- Đây chính là điệu nhạc trẫm được truyền trong mộng, rồi tự mình tập luyện thành thục mấy hôm này, chưa hề dạy cho kẻ khác, làm sao ở bên ngoài cũng đã có người biết được?

Lệnh ngay Cao Lực Sĩ:

- Ngày mai phải tra cho ra kẻ thổi sáo. Nhưng không được làm y kinh hãi, rồi dẫn vào gặp trẫm.

Lực Sĩ vâng mệnh, sáng ngày mai đem theo tay chân, tìm đến chỗ thổi sáo tối qua, gõ cửa từng nhà mà hỏi, có người mách:

- Ở đây có thiếu niên họ Lý, thổi sáo rất giỏi, nếu thổi sáo đêm qua thì đúng là người này rồi!

Lực Sĩ sai dẫn đến nhà họ Lý, lấy lệnh thiên tử, triệu vào cung gặp Huyền Tông. Vua hỏi:

- Điệu sáo thổi đêm qua, học được ở đâu?

Thiếu niên thưa:

- Thần họ Lý, tên Mô, từ nhỏ đã rất thích thổi sáo, vì vậy cũng biết được ít nhiều. Mấy đêm trước, tình cờ đi dạo trên cầu gần cung điện, nghe trong cung vẳng ra tiếng sáo, lắng kỹ ra, âm điệu rất khác thường, thật ra chưa hề thấy ở cõi người, nên cố nhớ kỹ, lại thầm nhớ bằng đốt ngón tay, về nhà lập tức theo điệu mà thổi thử, càng thấy kỳ lạ. Đêm qua lại tự luyện, không ngờ đến tai thánh chúa. Tội thần thật đáng chết, xin bệ hạ tha cho!

Huyền Tông khen có tài âm nhạc, lệnh cho cai quản đội Lê Viên tử đệ, vẫn thường được hầu hạ bên mình. Đó chính là việc mà bài "Liên xương cung từ" đã nói tới:

Cách tường tiếng sáo Lý Mô

Nhập thần khúc mới điệu sao tài tình!

Từ đó Lý Mô được học hết những điệu nhạc nội cung, tài nghệ càng tinh diệu. Đêm ấy biểu diễn trước lầu Cần Chánh, vạn dân đều nghe, thiên tử càng đẹp dạ. Tiếng sáo vừa tắt, các nhạc cụ khác hòa theo, thật là rộn ràng, dân chúng dưới lầu đều nghiêm chỉnh đứng xem, tai nghiêng lắng kỹ từng khắc, không chút ồn ào, Huyền Tông cùng vui vẻ, mãi tới chuông báo sáng gióng giả mới quay về nội cung.

Chính là:

Câu ca tiếng nhạc bên lầu

Cần chẳng phải, chính ở đâu chẳng cần!

Không biết sự thể ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi Thứ Tám Mươi Bảy

Chim anh vũ tụng kinh thành phật,

An Lộc Sơn quên chúa hại dân.

Từ rằng:

Sống chết mệnh trời chẳng thoát đâu

Kìa như cầm thú dại khôn đều

Từ bi Phật tổ thần thông độ

Thoát kiếp đi về thanh thản sao!

Con nuôi một đứa tin yêu

Trở thành phản ngịch, trăm điều tàn hung

Xưa khoe son sắc một lòng

Nục cười thay, hóa bất lương vô nghì.

Theo điệu: "Triều trung thố "

Bậc thánh nhân nói: "Sống chết có mệnh, phú quý bởi trời". Điều này không phải chỉ dùng với con người ta, mà ngay cả những vật nhỏ cũng thế cả. Cái chết sắp tới, ai cũng thường thấy như có điều báo trước, cứ từ đó mà suy ra, tất cả chúng sinh, phàm đã là vật biết nghĩ, có tình, lúc sắp qua đời, đều như biết trước. Ta nhìn ngoài tuy có lúc không thấy, nhưng kẻ trong cuộc thì nhận ra rõ ràng, chỉ nói hoặc không nói ra được thôi. Đại để sinh tử đến kỳ, khó mà tránh khỏi mệnh số vậy, hãy coi như sống là gửi, thác là về, mà thuận theo lẽ tự nhiên, hướng về điều thiện, việc phúc để vun đắp chữ quả cho kiếp sau.

Cho đến chữ phú quý, thì con người ta ai mà chẳng mong muốn như nhau, nhưng đó lại là điều sức người không thể tranh đoạt. Đừng nói chuyện giàu lớn, cao sang, đã là do trời định đoạt, ngay cả sự vinh nhục nhỏ của một người, sự được mất của một đồng kẽm, cũng không thoát khỏi ý riêng của trời, trời chính là sự biểu hiện của lẽ phái vậy! (1) Đáng cười thay là lũ người không có lý đó, làm chuyện phi lý, nghĩ điều phi lý, để mong có sự phú quý phi lý, không nghĩ rằng bây giờ được hưởng phú quý không phải của phận mình, mà vẫn là những điều trái ý trời, dối vua, vô đạo, mặc sức tác oai tác quái, thật đúng là đang chuốc tội với trời vậy, tai họa không nhỏ đâu!

1 Nguyên văn: "Thiên giả lý nhi dĩ hỹ".

***

Tiếp chuyện Huyền Tông ngự ở lầu Cần Chánh, ban yến tiệc cho dân chúng, suốt đêm đàn hát, tự cho rằng thiên hạ thái bình, điềm lành vô sự, phó mặc cho Dương Quốc Trung thao túng triều đình, gặp việc thì lừa vua, thâu tóm quyền hành mặc sức ăn bẩn, để cho bọn tiểu nhân tham tiền ham tước vây tới dinh, chẳng khác gì vào chợ.

Trong số quan lại, chỉ riêng Trương Thoán, đậu tiến sĩ, người vùng Thiểm Tây, đang ở Trường An để chờ bổ dụng, thấy quang cảnh như thế, thì thở dài mà than rằng:

- Bọn này dựa vào Dương Quốc Trung coi như Thái Sơn. Nhưng cứ như mắt ta, thì xem Quốc Trung chẳng khác gì núi băng vậy, mặt trời mà xuất hiện, thì bọn này lập tức mất chỗ dựa ngay. Ta nên vén áo mà tránh cho xa, kẻo rồi sóng nước lại đập ướt người vậy, chứ không thể nào cùng làm việc với bọn này được!

Bèn tuyệt hẳn ý ra làm quan với đời, rời khỏi kinh đô về ẩn cư ở Trung Sơn.

Những kẻ có kiến thức, đều biết thiên hạ sắp loạn đến nơi. Huyền Tông vẫn tự huyễn hoặc là thái bình để không phải lo lắng, suốt ngày ở trong cung tìm mọi cách hưởng lạc. Dương Quý Phi ngày càng kiêu sa, bọn tay chân hầu hạ Quý Phi ở hậu cung thêu thùa trang điểm có đến hàng mấy trăm người, lo chuyện phục dịch ngày thường, ngày lễ tiết. Huyền Tông lại còn sai trung sứ, đi khắp các nơi, chạy cho kỳ ra các loại đồ chơi, y phục lạ kỳ để đem về tận kinh hiến Quý Phi. Huyền Tông mỗi lần ngự du các nơi, cùng Quý Phi ngồi chung một xe rồng. Nhưng Quý Phi thường không thích đi xe mà lại đòi cưỡi ngựa. Nên quan giám mã vẫn phải lo chọn ngựa quý, luyện cho thật thuần, sẵn sàng khi Quý Phi dùng đến. Mỗi khi Quý Phi lên ngựa, cung nga xúm lại đỡ tận yên. Cao Lực Sĩ bên cạnh, tay nắm dây cương tay cầm roi, cung nga theo hầu xung quanh hàng mấy chục người, tiền hô hậu ủng. Quý Phi nai nịt gọn gàng, áo ngắn khăn mỏng, cầm roi ngựa yểu điệu, từng bước thong thả, vẻ đẹp càng thướt tha.

Huyền Tông cũng cưỡi ngựa, lúc đi trước khi theo sau, giơ roi tiến thoái, lấy thế làm khoái ý. Quý Phi cười thưa:

- Thiếp bỏ xe đi ngựa, lại mới tập lên yên, sao cho bằng bệ hạ hàng ngày thường săn bắn, yên cương là việc luôn luôn. Nên chỉ xin bệ hạ hãy dìu dắt thêm cho.

Huyền Tông đùa:

- Tính đến chuyện cưỡi ngựa, trẫm hẳn hơn ái khanh, ngay cả việc phong lưu thượng mã khi ra trận tiền, khanh cũng phải nhường trẫm vậy!

Quý Phi cũng cười:

- Thế mới gọi là "lão đương ích tráng" vậy! (l)

1 "Lão đương ích tráng": càng già thì lại càng khỏe mạnh, cường tráng.

Nói xong, hai người nhìn nhau, cười mãi không thôi. Người đời sau có thơ:

Quắc Quốc chầu vua cưỡi ngựa tài

Chỉ cần tô nhạt nét mày ngài

Nghênh ngang Phi tử trên tuấn mã

Hãy tập mà đi đến Mã Ngôi.

Từ đó mỗi lần trong cung có yến tiệc, thường diễn "Phong lưu trận" để mua vui. Huyền Tông cùng Quý Phi rượu đã ngà ngà say, Quý Phi dẫn khoảng hơn một trăm cung nga, Huyền Tông cũng cầm đầu khoảng hơn trăm tiểu nội thị, ra ngay trước sân, mỗi bên bày thành thế trận, lấy trướng gấm trương lên làm bàn cờ, nổi thanh la, đánh trống nhỏ, hai phía đều cấm gậy trúc hoa, côn ngắn có vẽ hình, cười đùa la hét, xông vào nhau mà múa tít. Cung nga thắng, bọn tiểu nội mỗi người phải uống một bát rượu lớn. Huyền Tông phải uống trước tiên. Phía tiểu nội thị thắng, cung nga phải nhất tề hát múa, Dương Quý Phi phải gảy đàn tỳ bà họa theo.

Kiểu chơi như thế, gọi là "phong lưu trận". Người thời bấy giờ, cho những trò đùa này chính là điềm xảy ra giặc giã sau này, vốn là việc không lành vậy. Nên có thơ rằng.

Cung nga lại tập làm lính chiến

Đủ ngựa gươm diễn "Trận phong lưu "

Ngư Dương trống nổi dập dìu

Mới hay giả giả, ra điều chân chân.

"Trận phong lưu" hôm ấy, cung nữ thắng tiểu nội thị. Dương Quý Phi cứ theo lệ bày ra hai đấu rượu lớn, rồi rót ngay một chén vàng dâng lên. Huyền Tông cầm lấy ban cho Quý Phi:

- Ái khanh cũng nên uống một chén!

Quý Phi thưa:

- Thiếp vốn không phải uống, nhưng ơn bệ hạ thưởng cho, nên xin đem chén rượu này làm hình phạt để thiếp với bệ hạ cùng gieo xúc xắc bệ hạ mà được, thiếp xin uống ngay.

Huyền Tông cười mà nghe theo. Cao Lực Sĩ đem bát xúc xắc dâng lên. Huyền Tông cùng Quý Phi mỗi người gieo hai lần mà vẫn không phân thắng bại. Đến lần thứ ba, Quý Phi điểm cao, Huyền Tông giờ muốn thắng, phải gieo được hai con tứ, nên vừa gieo, vừa lẩm nhẩm:

- Hai con tứ này!

Chỉ thấy hai con xúc xắc quay tít một hồi lâu, rồi hiện ra cả hai mặt tứ. Huyền Tông hớn hở cười vang, phán:

- Trẫm đã nói là được ngay mà, khanh hãy uống ngay chén rượu này đi!

Quý Phi nâng chén tâu:

- Phúc lớn của bệ hạ như trời, thiếp đã chịu thua rồi, đành phải uống vậy thôi?

Huyền Tông nói:

- Trẫm được ván xúc xắc, ái khanh được chén rượu. Phúc lớn cùng hưởng vậy!

Quý Phi bái tạ mà uống, tung hô:

- Vạn tuế!

Huyền Tông quay lại nói với Cao Lực Sĩ:

- Hai con tứ này biết làm vừa lòng ta, hãy ban ơn trang sức thêm cho nó!

Lực Sĩ vâng mệnh, ngửa hai mặt tứ của hai con xúc sắc, lấy son đỏ thoa lên. Vì thế về sau mặt tứ của xúc sắc đều có màu đỏ vậy.

Chính là:

Con xúc sắc vua ban chấm đỏ

Nghĩa vuông tròn chẳng bỏ xương khô

Tâm son gửi gắm từ giờ

Ơn vua ghi nhớ nghìn thu không nhòa. (1)

1 Con xúc xắc, ta còn gọi là con "thò lò sáu mặt", gọt bằng xương. Ý nói vua không quên công trạng của kẻ phơi xương vì nước. Cách gieo, cách tính điểm mỗi thời mỗi nơi một khác. Ở đây, gieo kiểu hai con cùng một lúc. Ở Việt Nam, ngoài mặt tứ được bôi đỏ, mặt nhất cũng được bôi đỏ là hai, chưa rõ lý do.

Hôm ấy vì Huyền Tông thắng cuộc, trong lòng rất khoan khoái, cùng Quý Phi uống đến mấy chén nên chuếnh choáng, giở xúc xắc ra đánh tiếp, tay cầm run run, rơi mất một con xuống nền, họ Cao cúi xuống nhặt. Huyền Tông thấy thế, liền lấy ngay cái bát, đặt trên lưng họ Cao, kéo Quý Phi cùng ngồi phệt xuống nền, cứ thế mà gieo xúc xắc trên lưng họ Cao. Hết người này lại đến ngươi kia, lúc xướng "lục" khi la "tứ" không lúc nào yên. Họ Cao hai chân quỳ xuống đất, hai tay cũng chống đất, không dám động dậy một chút nào, nhưng may cũng còn khỏe mạnh. Bỗng thấy có tiếng ríu rít trên nóc điện, tiếp đó là tiếng người cất lên:

- Thánh thượng cùng nương nương chỉ cốt xem "tứ" hay "lục" nhưng phải cho Cao Lực Sĩ đứng dậy cho thẳng lưng chứ?

Ba chữ "cho thẳng lưng" vốn là "trực trực yêu", phát âm cũng gần giống "trịch trịch yêu", là gieo xúc sắc. Huyền Tông cùng Quý Phi nghe thấy thế, cả hai đều cười rũ rượi, truyền nội thị dọn các thứ, kéo họ Cao đứng dậy. Họ Cao lạy tạ lui ra. Huyền Tông cùng Quý Phi vào phòng ngủ.

Những lời nói vừa rồi ở trên nóc điện vốn là lời của chim anh vũ trắng. Thuở An Lộc Sơn vừa vào triều đình, dâng lên Quý Phi nuôi ở nội cung, tính rất thuần, nên không phải nhốt gì cả, cứ đúng theo lời người mà bay hay đậu, thường chẳng bao giờ rời Quý Phi, nói tiếng người rất giỏi, lại hiểu ý người, thông tuệ khác thường. Quý Phi coi như bảo vật, đặt tên là "Tuyết Y nữ", người con gái cớ bộ y phục trắng như tuyết.

Một hôm, Tuyết Y bay đến đậu ngay ở bàn trang điểm của Quý Phi mà rằng:

- Tuyết Y này tối qua thấy một giấc mơ không lành, bị chim ác bắt được. Chỉ sợ số mệnh có hạn không còn được hầu hạ bên nương nương nữa.

Nói xong có vẻ buồn rầu không vui. Quý Phi an ủi:

- Mộng triệu không thể tin được, chẳng cần phải lo lắng. Tuyết Y nếu không yên lòng, nên tụng kinh Phật luôn luôn, tự nhiên điều phúc sẽ đến, tai họa sẽ tiêu.

Anh Vũ thưa:

- Thế thì hay lắm, xin nương nương hãy dạy cho ít nhiều.

Quý Phi liền sai thị nữ đốt lò trầm hương, tự mình giở Bát Nhã Tâm kinh viết tay, hàng ngày vẫn tụng niệm ra, chắp hai tay, đọc vài lượt. Anh vũ đậu bên lẩm nhẩm đọc theo, rồi tự mình đọc thuộc rõ ràng, một chữ cũng không sai. Quý Phi thích lắm, từ đó về sau, Tuyết Y tùy lúc tùy nơi mà đọc Bát Nhã Tâm kinh, hoặc đọc thành lời réo rắt, hoặc nhắm mắt mà nhẩm, cứ như thế hai ba tháng trôi qua.

Một hôm, Huyền Tông cùng Quý Phi dạo chơi ở vườn sau, Huyền Tông giương cung bắn con chim khách. Còn Quý Phi thì đứng trên Vọng Viễn lầu mà nhìn, anh vũ cũng bay đến, đậu ngay ở thanh ngang của cửa sổ lầu. Bỗng một viên nội thị chuyên việc nuôi chim săn của nhà vua, thả một con chim cắt xanh, bay vút từ dưới lầu lên, thấy anh vũ, tức thì bay xẹt ngang qua cửa sổ, cứ thế mà chộp ngay lấy. Anh Vũ kinh hoàng, hoảng loạn la:

- Thôi nguy rồi!

Rồi vội bay ngay vào trong lầu, may có một thị nữ cầm chổi lông, tiện tay đánh thật mạnh, trúng ngay vào mắt, chim cắt vội quay đầu xuống lầu. Quý Phi vội quay lại xem anh vũ, thì thấy nằm không động đậy trên sàn gác, mãi một hồi lâu sau mới tỉnh lại. Quý Phi vỗ về:

- Tuyết Y! Tuyết Y! Không có điều gì phải sợ nữa đâu!

Anh Vũ thưa:

- Ác mộng đã thành sự thực, lòng này hoảng sợ đến tan nát mất cả rồi, liệu khó mà sống nổi, nhưng còn may mắn chưa bị ăn thịt. Quả là việc tụng kinh cũng có phúc phận thật?

Rồi nhắm hai mắt, không ăn, cũng không nói, chỉ thấy cổ họng động đậy như thầm đọc kinh vậy. Quý Phi suốt ngày chăm nom. Ba ngày sau, anh vũ bỗng mở mắt nói với Quý Phi:

- Tuyết Y này toàn nhờ vào việc tụng kinh mà may được thoát kiếp cầm thú, được về nước Phật. Xin nương nương hãy giữ mình?

Nói xong hót thêm mấy tiếng dài, quay đầu về phương tây, nhắm mắt xếp cánh, nằm ngay ngắn mà chết.

Chính là:

Người cùng vật đều mang tính phật

Tính người tốt, tính vật sáng thay

Vẹt kia mới rõ gian ngay

Ngẫm ra người lại chẳng tày chim muông.

Tuyết Y chết rồi, Quý Phi mười phần thương xót, lệnh cho nội giám liệm trong một cái hộp bạc, táng ở vườn sau, gọi là "Mồ Anh vũ" Lại tự thân đọc cho một trăm lần Bát Nhã Tâm kinh, để chuốc phúc ở cõi âm. Huyền Tông nghe chuyện, cũng không ngớt phàn nàn, lệnh cho số chim anh vũ nói được nuôi ở trong cung, tất cả được mười con, đem đến rồi hỏi rằng:

- Loài chim các ngươi, có nhớ nơi quê cũ không? Nay trẫm mở lồng, thả các ngươi về nhé?

Cả bầy chim đều nhất loạt hô:

- Vạn tuế!

Huyền Tông sai nội thị đem các lồng chim vào tận trong núi Quảng Nam. Chuyện không nói nữa.

***

Lại kể Quý Phi nhớ Tuyết Y ngày ngày than thở, long lanh lệ ngọc, trông lại càng kiều diễm. Vì vậy lũ thị nữ trong cung, cũng muốn bắt chước, trang điểm xong xuôi, điểm thêm hai nốt phấn trong ở bên má, gọi là nước mắt giả, "Lệ trang", để rồi tự an ủi rằng mình cũng đẹp lắm. Kẻ hiểu biết thì sớm thấy ngay chính là điềm không hay gì.

Có thơ rằng:

Không nước mắt bôi hàng lệ giả

Dẫu a dua thật quả bất tường

Mã Ngôi mưa gió phũ phàng

Phấn son xưa cũ điểm trang kiểu gì?

Ngày thường Quý Phi yêu quý Tuyết Y phần bởi chim anh vũ quả đáng yêu, đáng quý, nhưng phần cũng bởi do An Lộc Sơn dâng lên, yêu người nên yêu chim. Nỗi bi thương cũng một phần cảm vật nhớ người mà ra.

Về phía Lộc Sơn ở ngoài Phạm Dương, cũng thường nhớ tới Quý Phi cùng Quắc Quốc phu nhân, nhưng vẫn ngại Dương Quốc Trung ghen ghét, nên không dám nối dây tình xưa. Lộc Sơn nghĩ nếu không cướp được ngôi vua, đoạt được xã tắc, thì khó mà đoàn tụ, vì vậy ngày đêm lo chuyện cất binh làm phản, chỉ vì nghĩ đến Huyền Tông đối với mình ơn rất sâu nặng, nên định nén lòng chờ bao giờ Huyền Tông qua đời sẽ khởi loạn. Lại thêm Dương Quốc Trung thường vẫn kiếm mọi cớ để hạch sách Lộc Sơn, thầm ý những muốn Lộc Sơn phải làm phản, để chứng tỏ với triều đình là mình nói đúng. Cũng vì thế mà Lộc Sơn càng ngày càng rõ ý không tuân thủ triều đình, viết một đạo sớ xin dâng ngựa tốt về kinh đô, sớ này đại để như sau:

"Muôn tâu:

Bề tôi hèn mọn là An Lộc Sơn, ở miền biên giới, sản nhiều loại ngựa hay, chọn được hơn ba ngàn con, thành tâm hiến lên triều đình. Dẫu vậy, so với Vương Mao Trọng ngày xưa nuôi ngựa quý, hạ thần hãy còn kém xa. Những ngựa này đưa vào tàu ngựa hoàng gia, nếu chúa thượng đi tuần thú các nơi, cũng thêm phần tráng quan, uy vũ vậy. Cứ mỗi ngựa cần hai tên lính coi yên cương, nên xin sai hai mươi tư tên Phiên tướng hộ tống nữa, mong chọn ngày tốt lên đường. Cúi xin thánh thượng hạ sắc cho quan lại các nơi dự sẵn lương thảo cung ứng, để khi đến nơi, không sai trái tổn thất. vậy kính sớ tâu lên!"

Tờ sớ này của Lộc Sơn, rõ ràng là viện cớ dâng ngựa, mưu để khởi quân phản loạn thừa cơ chiếm cứ các nơi, thử xem triều đình động tĩnh ra sao, Huyền Tông xem sớ xong, trầm ngâm phán:

- Lộc Sơn muốn dâng ngựa, quả là một việc làm hiếu thuận. Nhưng làm sao mà có đủ binh lính, tướng sĩ để làm việc này cho yên ổn.

Bèn chuyển tờ sớ cho Trung thư tỉnh xem xét rồi tâu lại. Dương Quốc Trung sáng hôm sau tâu rằng:

- Triều thần ở biên cương dâng ngựa, cũng là chuyện thường. Nay An Lộc Sơn lại định dâng những ba nghìn ngựa cho binh tướng đi kèm. Riêng số lính trông yên cương cũng đã tới sáu nghìn người, thêm hai mươi tư viên tướng Phiên, lại các loại binh lính, tướng sĩ người Phiên, người Hán đi theo, tổng cộng hơn một vạn là ít, khác gì lũ lính cướp thành lấn đất. Lòng người trắc trở, khó có thể cả tin. Lẽ nên giáng chỉ trừng phạt, cho tuyệt mưu gian trá.

Huyền Tông phán:

- Việc này vốn do ý dâng tiến tốt lành, lại mượn tiếng xin trước, khó có cớ để làm tội. Chỉ nên thác rằng người ngựa quá nhiều, chứ cũng chẳng nên nói tới ý khác, chẳng nên trách phạt, vả lại cũng cần phải bớt người phục dịch mới được.

Quốc Trung thưa:

- Y chỉ mượn tiếng dâng ngựa, thực lòng là phản loạn, nếu không nghiêm trị trừ khử mưu sâu, y lại nghĩ rằng triều đình không còn ai biết.

Huyền Tông phán:

- Việc chưa thật gấp lắm, hãy để trẫm nghĩ lại xem đã.

Quốc Trung không bằng lòng lui ra. Huyền Tông vẫn do dự chưa quyết thì Đạt Hề Tuân thứ sử Hà Nam vốn cùng họ với Đạt Hề Doanh Doanh, nhân có người quen ở kinh đô báo cho biết chuyện Lộc Sơn hiến ngựa, vô cùng hoảng sợ, lập tức dâng biểu mật về tâu, có đoạn sau:

"Muôn tâu thánh thượng

Thần sợ hãi, kính cẩn giãi bày.

...An Lộc Sơn, dâng sớ hiến ngựa, lại xin đem theo nhiều binh lính, tướng Phiên để hộ tống rất nhiều. Việc đáng ngờ lắm. Xin hãy đem lời ôn tồn phủ dụ, ngừng ngay việc này lại cho..."

Huyền Tông xem xong vẫn cứ nghĩ ngợi phân vân. Hôm ấy vừa ngự yến xong, Cao Lực Sĩ đứng hầu dưới thềm. Huyền Tông truyền lại trước mặt, phán rằng:

- Trẫm đãi An Lộc Sơn rất hậu, y đã được yêu quý đến như thế, lẽ thật không phụ trẫm, trẫm vẫn đinh ninh như vậy. Trước đây trẫm đã sai Phụ Cầu Lâm ra tận nơi xem xét, cũng trở về tâu rằng y một dạ trung quân ái quốc, không hề hai lòng. Chẳng nhẽ nay bỗng nhiên lại thay đổi đột ngột thế sao?

Cầu Lâm thường ngày vẫn cậy mình được nhà vua sủng ái, không coi đồng liêu ra gì, vốn chẳng hòa thuận với Lực Sĩ, vì vậy Lực Sĩ nhân cơ hội này mới tâu rằng:

- Lòng người khôn lường, xin bệ hạ cũng đừng quá tin mà lầm lỡ. Cứ như kẻ hèn này nghe, Phụ Cầu Lâm hai lần vâng mệnh đi Phạm Dương, đều nhận rất nhiều hối lộ của An tộc Sơn, cho nên mỗi lần về phục chỉ, hết lời tán dương, không thể tin được.

Huyền Tông kinh ngạc:

- Có chuyện này sao? Cầu Lâm nhận của đút lót của Lộc Sơn sao khanh lại biết được.

Lực Sĩ tâu:

- Từ lâu kẻ hèn này đã có nghe phong phanh chuyện này, nhưng chưa dám tin cả. Gần đây nhân Cầu Lâm vâng mệnh đi công tác về kẻ hèn này tới thăm, gặp lúc Cầu Lâm đang tắm, nên phải ngồi chờ, thấy trên án ở thư phòng, có một thư riêng của An Lộc Sơn, trong thư hỏi rất nhiều chuyện tỉ mỉ của triều đình cũng như nội cung, lại ân cần nhờ tán dương, chu toàn cho trước mặt chúa thượng, có công việc gì cần kíp nhờ báo ngay cho. Kẻ hèn này xem trộm chưa hết, Cầu Lâm đã ra lấy ngay thư cất đi. Cứ như thế mà suy, thì rõ là Cầu Lâm nhận hối lộ của ngoài Phiên là chuyện có thật. Kẻ hèn này nhiều lần định tâu với chúa thượng, nay nhân được hỏi, xin tâu lại rõ ràng để chúa thượng rõ.

Huyền Tông giận dữ:

- Cầu Lâm thật dáng chết! Trẫm tin cậy giao cho những việc quan hệ như thế, mà dám cả gan nhận đút lót để dối chúa, khi quân. Thật đáng giận.

Truyền lệnh triệu ngay Cầu Lâm vào tra hỏi, lệnh Cao Lực Sĩ dẫn Vũ Lâm quân vây phủ đệ, tìm cho ra những thư từ tang vật tư thông với ngoại Phiên.

Chẳng mấy chốc, Cầu Lâm được gọi đến, những thư từ cùng của hối lộ cũng tìm ra, trình lên Huyền Tông xem. Thì ra thư từ qua lại giữa Lộc Sơn cùng Cầu Lâm rất nhiều. Lực Sĩ tìm những thư có quan hệ đến Dương Quý Phi đem hủy hết, vì vậy riêng tư trong cung vẫn chưa bại lộ. Nhưng chỉ riêng vậy, Huyền Tông đã vô cùng tức giận, truyền lệnh giết ngay Cầu Lâm. Lực Sĩ mật tâu rằng:

- Nay chúa thượng định tử tội Cầu Lâm, cần làm cẩn thận, ban chỉ rằng Cầu Lâm phạm tội nào đó mà không nên nói rõ tội nhận hối lộ cùng giao thông với ngoại phiên, sợ sinh biến chăng!

Huyền Tông gật đầu khen phải, truyền đem Cầu Lâm ra chịu chính pháp, chỉ ban rằng Cầu Lâm không chịu vâng mệnh công cán nên đáng tội chết.

Nực cười thay cho Cầu Lâm, chỉ vì tham của đến nỗi táng thân. Trước kia La Công Viễn tiên sinh đã từng khuyên Cầu Lâm chớ tham lam, thì sẽ tai qua nạn khỏi. Cầu Lâm vẫn không tỉnh ngộ.

Chính là:

Thấy của không tham là quý nhất

Hối lộ vào cháy xác tan thây

Chẳng theo lời dặn của thầy,

Tai vạ ập đến, rơi ngay vạc dầu.

Huyền Tông thấy Lộc Sơn hối lộ, tư thông với Cầu Lâm để dò xét công việc triều đình cùng nội cung, thì bắt đầu nghi ngờ, ngay đến Dương Quý Phi cũng không dám khuyên giải, chỉ riêng mình than thở mà thôi.

Huyền Tông theo lời tâu của Đạt Hề Cầu tự thân viết chiếu thư truyền Lộc Sơn ngừng việc dâng ngựa, sai trung sứ Phùng Thần Uy tới tận nơi phủ dụ.

Chiếu thư đại lược như sau:

"Trẫm xem tờ biểu tiến ngựa của khanh, thật xứng là kẻ bề tôi trung kiên ở ngoài cõi. Trẫm rất đẹp lòng. Song ngựa cần giong ruổi về mùa đông thì mới hợp. Nay mới là đầu thu, công việc nhà nông bề bộn, chưa nên đưa ngựa về kinh đô. Chờ qua mùa đông, quan lại các nơi sẽ phải nhận di chuyển số ngựa này, không nên để binh lính, tướng sĩ phải lặn lội khó nhọc! Vậy bảo khanh biết!"

Phùng Thần Uy lĩnh chiếu thư, ngày đêm đi Phạm Dương. Lộc Sơn vốn đã biết ý triều đình, còn dò biết cả từng lời tâu của Dương Quốc Trung, nên vô cùng tức tối, nghe báo có sứ mang chiếu tới, chẳng thèm ra đón.

Phùng Thần Uy thấy vậy, đành phải bưng chiếu đến tận soái phủ. Lộc Sơn sắp sẵn lính tráng, vũ khí, từng từng lớp lớp, kiếm kích sáng ngời, cờ quạt rợp sân, trống đánh như sấm vang. Thần Uy thấy vậy càng thêm kinh hãi. Lộc Sơn ngồi trên trướng Hồ chễm chệ, thấy Thần Uy bưng chiếu vào, cũng chẳng thèm đứng dậy nghênh tiếp Thần Uy mở chiếu tuyên đọc xong, Lộc Sơn mặt hầm hầm, lớn tiếng:

- Nghe nói trong cung gần đây Quý Phi tập cưỡi ngựa, ta nghĩ rằng quan gia (1) cũng thích cưỡi ngựa, nên mới chọn những ngựa tốt để dâng lên. Nay đã có chiếu như vậy, ta chẳng dâng nữa càng hay.

1 Quan gia: Cũng là từ tự xưng của nhà vua. Nhà Trần ta cũng gọi vua và vua xưng là quan gia, gốc sâu xa hơn chưa tra được.

Thần Uy thấy cử chỉ nói năng của Lộc Sơn đầy vẻ hống hách, khinh quân, nên chẳng thể hứa hẹn gì tốt đẹp hơn, không dám tranh cãi gì cả chỉ ậm ừ cho qua. Lộc Sơn cũng chẳng bày tiệc rượu khoản đãi mà sai người đưa ra nghỉ ngơi ngoài quán dịch.

Mấy ngày sau, Thần Uy về kinh phục chỉ, vào phủ gặp lại Lộc Sơn, hỏi có biểu tấu gì về triều đình. Lộc Sơn đáp:

- Chiếu thư đã nói, chờ đến mùa đông, nếu ta không dâng ngựa cũng sẽ tự thân về kinh, để xem xét công việc triều đình. cho nên cũng chẳng cần phải viết tấu biểu gì nữa. Hãy tâu rõ như vậy cho ta.

Thần Uy không dám nhiều lời, vội vàng quay ra cửa, đi gấp về Trường An, yết kiến Huyền Tông, đem những cử chỉ, lời nói vô lễ tâu rõ. Huyền Tông vừa sợ hãi, vừa xấu hổ, vừa giận dữ. Dương Quý Phi lúc này ngồi ngay bên, Huyền Tông nhìn Quý Phi giận dữ phán:

- Trẫm cùng ái khanh đãi thằng lùn này không bạc, nay mới rõ bộ mặt tráo trở, mưu đồ phản loạn cũng đã rõ ràng. Bởi vậy mới nhiều kẻ bàn tán đến thế. Từ nay lời dị nghị không thể không tin cho được vậy.

Nói xong, vỗ án mà than thở. Quý Phi cũng cúi đầu vờ xót xa.

Chính là:

Nay mới hay là thằng phụ bạc

Xưa vẫn khen là bậc thủy chung.

Chưa biết sự việc ra sao, xem hồi sau sẽ rõ!

Hồi Thứ Tám Mươi Tám

Đất Phạm Dương, tiết độ sứ làm phản,

Thành Đông Kinh, Phong Thường Thanh mộ binh.

Từ rằng:

An Lộc Sơn vốn loài lang sói

Chẳng hề thương hề đoái đến ai

Chẳng vương phụ, không vương phi

Bắc phương khởi loạn, chín châu lửa tràn

Ngựa què, giáo gãy, xe tan

Triều đình nghiêng ngả, lệ tràn thấm khăn.

Theo điệu "Xú nô nhi"

Từ xưa nay, bề tôi phản loạn, con cái bất hiếu, người người đều nguyền rủa. Đã là bậc vua sáng phải thấy ngay thuở ban đầu, mà lập tức tiêu trừ, không để cho tràn lan, còn nếu là hàng đại thần vì chúa, vì nước, khử gian trừ bạo, lo việc khi chưa rõ, nghĩ nạn khi hoạn chưa đến, thì mới không phải là kẻ ngu đần. Còn nếu thiên tử mà ngộ nhận gian thần ra lương thần, kẻ nghịch ngay cạnh hông dưới nách vẫn không hay, chẳng khác gì cái ung, cái nhọt. Kịp đến khi chuyện xảy ra rồi thì trăm quan lâu nay vẫn cùng lũ giặc chung thờ vua, nay lại buông lời oán thán. Gian thần chưa quyết dấy loạn, thì đã vội gieo điều tiếng, hết cách này đến cách khác, làm tình thế càng thêm nguy ngập, để tỏ ra rằng lời tâu của mình đúng, để khoái ý riêng mình. Nhưng nào biết cách dẹp loạn, chỉ giỏi ở cửa miệng vậy thôi, thì cũng đáng là phường dối vua hại nước, chẳng rõ việc tiến lui, không xem xét nổi tình thế, việc binh chẳng biết, lính cũ không hay, lính mới cũng tốt, trăm sự rối loạn, thật đáng giận thay! Đáng thương thay?

***

Lại nói Đường Huyền Tông nghe Phùng Thần Uy thưa chuyện An Lộc Sơn tiếp chiếu thư ra sao, trong lòng vô cùng căm giận. Thần Uy lại còn tâu:

- Cứ cung cách này mà nói, kẻ nô tỳ này khác gì vào hang cọp, chẳng còn nghĩ đến được về trông thấy thiên nhan nữa kia?

Nói rồi khóc nức nở. Huyền Tông lại càng nghiến răng tức tối, từ bấy trở đi, sớm tối trong cung, lúc thì quát mắng Lộc Sơn là kẻ vong ân bội nghĩa, lúc thì trầm ngâm, ảo não. Dương Quý Phi cũng không biết làm thế nào, chỉ đành lựa chiều mà khuyên giải rằng:

- An Lộc Sơn vốn là dòng Phiên, không biết lễ nghĩa, ngày thường lại được bệ hạ quá yêu thương, coi như cha con trong một nhà, vậy nên thành thói quen kiêu ngạo, ngang ngược. Chẳng qua nhất thời lăng loàn, xin thánh thượng đừng quá lo lắng. Lúc đầu Lộc Sơn dâng biểu hiến ngựa, cũng chưa chắc đã có ý phản loạn. Hiện nay Lộc Sơn có con ở Trường An này, kết hôn với hàng tôn thất triều đình, nếu Lộc Sơn ở ngoài biên nổi loạn, không nghĩ đến con ở kinh sư sao?

Vốn con trai trưởng của Lộc Sơn là An khánh Tôn, con thứ là Khánh Tự. Khánh Tôn đã hỏi Vinh Nghĩa Quận chúa, vốn dòng tôn thất, đến khi Lộc Sơn ra trấn Phạm Dương, lưu Khánh Tôn ở lại làm hôn lễ. Từ bấy đến nay, vẫn ở trong kinh đô, chưa ra Phạm Dương lần nào. Huyền Tông thấy Quý Phi nói thế, nghĩ ngợi một hồi mà rằng:

- Dạo trước Khánh Tôn cùng Vinh Nghĩa Quận chúa làm hôn lễ, trẫm đã lệnh cho lễ quan, triệu Lộc Sơn về kinh để dự luôn. Y lấy cớ việc biên cương bận rộn mà từ chối, không chịu về. Nay chi bằng bắt Khánh Tôn viết thư cho cha, khuyên Lộc Sơn về triều nhận tội, xem y về hay không thì biết ngay lòng dạ thật ra sao.

Liền lệnh Cao Lực SI, truyền Khánh Tôn viết thư, sai sứ đưa ngay đi Phạm Dương, nói rõ thêm thánh thượng vừa xây một loạt nhà tắm nước nóng ở Hoa Thanh cung, vẫn chờ Lộc Sơn về tắm, để xem y có còn nhớ việc "tắm con" ngày nào chăng. Cả trong thư nữa, cũng truyền Khánh Tôn nói rõ ý này.

Khánh Tôn vâng mệnh, viết ngay thư rồi dâng lên cho Huyền Tông xem, ngay hôm đó sai sứ mang đi.

Không ngờ Dương Quốc Trung thầm tính toán rằng, Lộc Sơn xem thư con, sẽ thật lòng về Trường An, triều đình tất giữ lại. Y đã có dây ràng buộc chặt chẽ trong cung, lại sẽ được trọng dụng, thế nào rồi cũng sinh đoạt sủng giành quyền với Quốc Trung này, chi cho bằng hãy đẩy mạnh nữa để y phải làm phản, vừa chứng thực được lời biện bác của mình lại tuyệt hắn được sự giành giật với mình, có phải là muôn đường thuận lợi không?

Môn khách của Lộc Sơn là Lý Siêu, lúc này vẫn ở kinh. Quốc Trung liền tìm cách vu hãm Lý Siêu, lo lót đủ đường, để đưa vào nhà giam của Ngự sử đài, ghép vào tội chết, làm cho Lộc Sơn càng lo ngại hơn. Quốc Trung lại mật tâu với Huyền Tông:

- Khánh Tôn tuy vâng chỉ viết thư cho cha, nhất định còn viết thư riêng khác nữa. Thần tính Lộc Sơn chẳng chịu về, sớm muộn rõ ràng sẽ hành động.

Một mặt sai tay chân thân tín, ngày đêm đi Phạm Dương, tùy nơi tùy lúc mà phao rộng rằng:

- Thiên tử thấy An Lộc Sơn khinh mạn chiếu thư quát nạt sứ giả, lại tìm ra việc tư thông của Lộc Sơn với nội cung, nên mười phần giận dữ, đem con Khánh Tôn giam lại, lừa cho cha vào kinh, để hỏi tội rồi sẽ giết cả hai cha con một thể.

Lộc Sơn nghe được lời đồn này, vừa ngạc nhiên kinh hãi, vừa tức tối. Chẳng bao lâu lại có thư của Khánh Tôn tới, Lộc Sơn vội mở ra xem, đại lược như sau:

"Trước đây phụ thân dâng biểu hiến ngựa tốt, thiên tử rất lấy làm vừa ý. Nhưng vì binh tính, tướng sĩ hộ tống quá nhiều. chỉ sợ phiền nhiễu, nên ban chỉ dụ tạm hoãn, chứ cũng không có ý gì khác.

Nhưng gần đây thiên sứ phục chỉ, rằng phụ thân có những lời không thật khiêm nhường, thiên tứ lấy làm quái lạ. Nhưng cũng may thay, thiên tử vốn khoan nhân đại độ, không chấp những lỗi đã qua.

Phụ thân nên về triều ngay để tạ tội, thì lập tức những nghi ngờ trên dưới sẽ cởi hết, lời đàm tiếu cũng sẽ không còn, thân danh đều yên ổn, tước vị cũng sẽ mãi mãi há không phải là điều hay sao?

Hôm vừa rồi thánh chỉ tại vừa ban: ở cung Hoa Thanh vừa xây xong một loạt nhà tắm nước nóng, vẫn có ý chờ phụ thân về tắm, để nhớ lại cảnh "tắm con" năm nào vui đùa. Thế há là ơn của thiên tử thật là cao đấy sao!

Huống chi hôn nhân của con hiện nay đã hoàn tất, việc viếng thăm lâu nay cũng thiếu sót, lòng những khát khao được sum họp với phụ thân. Đó cũng chính là lòng thành thật của vợ chồng đứa con cả này vậy. Con bất hiếu là Khánh Tôn trình thư này trước án. Mong được thấy phụ thân về phục mệnh thiên tử."

Lộc Sơn xem xong thư, căn dặn sứ giả:

- Con ta có việc gì không?

Sứ giá thưa:

- Kẻ đầy tớ này ra khỏi kinh sư, thì đại nhân cùng cả nhà vẫn không hề gì. Nhưng trên đường đi, thì nghe môn khách của quan lớn là Lý Siêu, phạm tội hạ ngục. Lại nghe tin đồn, gần đây trong cung có phát giác ra được chuyện gì đó, đại nhân đã bị tống ngục, không hiểu thực hư ra sao!

Lộc Sơn nói:

- Ta cũng nghe lời bàn tán này rồi, tất cũng phải có nguyên cớ nào chứ!

Lại xuống giọng hỏi nhỏ:

- Lúc ngươi ra đi. Quý Phi nương nương có truyền mật chỉ gì cho ngươi không?

Sứ giả thưa:

- Kẻ đầy tớ này vâng mệnh đại nhân, nhận thư đi ngay không dám trù trừ, không thấy Quý Phi truyền dặn gì cả.

Lộc Sơn nghe ra, càng băn khoăn nghĩ ngợi. Tại sao Dương Quý Phi lâu nay vẫn chu toàn cho Lộc Sơn, luôn luôn có thư từ đi lại, lần này sao lại không có. Cũng bởi Khánh Tôn vâng mệnh viết thư, sai sứ mang đi, Quý Phi ngại không dám gửi thư từ gì. Trong lòng rất muốn Lộc Sơn vào kinh gặp gỡ, nhưng chỉ sợ Lộc Sơn vào hang cọp, sẽ bị kẻ khác ám hại không biết lúc nào, còn nếu không về, lại sợ thiên tử nổi giận, nên định sai nội thị tăm phúc, đem thư cho Lộc Sơn khuyên Lộc Sơn hãy khoan về kinh, chỉ nên viết ngay biểu về tạ tội là hay hơn cả. Thư viết xong, không ngờ Dương Quốc Trung đã sai ngay bọn lính thân tín, rải dọc đường đi Phạm Dương, nhất là ở các trạm dịch, quán xá, tra xét rất kỹ lưỡng người qua kẻ lại, đề phòng thư từ tư thông. Nên Quý Phi cũng không dám gửi mật thư, sợ bị phát giác, nguy hại không nhỏ, vì vậy trù trừ vẫn chưa cho người đi.

Ở ngoài biên, Lộc Sơn không thấy thư riêng của Quý Phi, lại đoán rằng việc trong cung bại lộ là có thật, thầm nghĩ: "Quả việc đã phát giác, thì ta chẳng có cách nào cứu vãn nữa. Cái thế bấy giờ: không phản cũng không xong". Liền cùng với bộ hạ tâm phúc là Khổng mục Thái bộc thừa Nghiêm Trang, Thư ký đồn điền Viên ngoại lang Cao Thượng, Tả tướng quân A Sử Na Thừa Khánh, bàn mưu tính kế khởi sự.

Nghiêm Trang, Cao Thượng cực lực tán đồng mà thưa:

- Nay minh công tinh binh trong tay, lại coi giữ nơi đất hiểm yếu lúc này mà không dựng nghiệp lớn, còn đợi đến bao giờ nữa!

Lộc Sơn đáp:

- Ta từ lâu nay đã có ý này, chỉ vì hoàng thượng đãi ta rất hậu, định đợi đến ngày hoàng thượng qua đời, sẽ khởi binh cũng chưa muộn.

Nghiêm Trang thưa:

- Thiên tử nay tuổi đã nhiều, đắm say trong tửu sắc, quyền hành trong tay bọn gian thần, triều chính đổ nát, lòng dân ly tán, chính là đúng lúc nên khởi sự. Nếu chờ được hoàng thượng băng hà, vua mới lên thay, nếu biết dùng người hiền, bỏ kẻ nịnh, lo toan việc nước thì liệu chúng ta có còn đứng vững, hay tai họa tránh không kịp.

A Sử Na Thừa Khánh tiếp:

Nói chuyện hoạn nạn, chẳng cần phải đợi vua mới, mà ngay trước mắt cũng chẳng phải không có. Nay không khó ở chuyện khởi sự mà khó có thành sự không thôi. Vì vậy phải trù mưu tính kế cho vẹn toàn, chỉ cần nhất tề hành động là có thể thâu tóm được về một mối!

Cao Thượng bàn:

- Nay quốc gia phép binh chẳng có kỷ cương rõ ràng, vũ khí, lính tráng tan rã, hư hỏng, tướng soái tuy nhiều, nhưng gian thần thao túng triều đình. Kẻ muốn làm cũng chẳng có đất, chỉ đành giậm chân tức tối. Chúng ta chỉ cần đồng tâm hợp lực, góp sức, gắng công thì chẳng ai có thể cản nổi, chẳng mấy lúc mà thành công. Đấy chính là kế vẹn toàn vậy.

Lộc Sơn mừng lắm, ý phản nghịch mới càng quyết.

Ngay hôm sau, lập tức triệu các tướng sĩ lớn nhỏ ngay trong phủ. Lộc Sơn nhung phục đầy đủ, đeo kiếm dài, ngồi ngay trên điện cao. Trước tiên là giả một đạo sắc thư của thiên tử, rút ngay trong tay áo ra, hiểu dụ các tướng:

- Hôm vừa rồi có sứ giả ở chỗ con ta An Khánh Tôn tới, đem theo mật sắc của hoàng thượng, đòi An Lộc Sơn ta dẫn binh về triều, trừ diệt gian thần Dương Quốc Trung. Các ngươi phải cùng lòng gắng sức giúp ta một tay, trước mắt là quét sạch rác bẩn quanh hoàng thượng, công thành quả mãn, ban thưởng không nhỏ, hãy cố gắng lên.

Các tướng nghe ra, đều ngạc nhiên tái mặt, sợ hãi nhìn nhau, không dám nói một lời. Nghiêm Trang, Cao Thượng, A Sử Na Thừa Khánh, cầm kiếm đứng dậy, nhìn thẳng mặt mọi người mà lớn tiếng:

- Thiên tử đã có mật sắc, cứ theo lệnh mà làm, ai dám không tuân.

Lộc Sơn cũng chống kiếm lên tiếng quát:

- Ai không tuân, cứ theo quân pháp mà trị!

Các tướng thường ngày vẫn sợ Lộc Sơn vừa quyền uy vừa hung dữ, lại thấy bọn Nghiêm Trang sẵn sàng ra lệnh, nên chẳng ai dám hó hé một lời. Lộc Sơn liền ra lệnh khởi mười lăm vạn binh, từ Phạm Dương kéo đi, giả xưng là hai mươi vạn. Ngay hôm đó, mở tiệc đãi tướng sĩ, binh lính. Sai phó tiết độ sứ Phạm Dương là Giả Tuần, ở lại trông coi Phạm Dương. Phó tiết độ sứ Bình Lư Lã Tri Hồi coi Bình Lư. lại sai biệt tướng Cao Tú Nham giữ Đại Đồng, còn các tướng khác đều dẫn quân về nam, khí thế trùm trời đất. Lúc này là tháng mười một năm thứ mười bốn, đời Thiên Bảo. (1)

1 Tức năm 753 sau công nguyên. Việt Nam ta vẫn là thời thuộc Đường, Bắc thuộc lần thứ 3.

Về sau có người làm thơ than:

Tướng Phiên phản nghịch lộ rành rành.

Vua vẫn tin là hạng chí thành

Đừng tưởng rồng chèo không nổi sóng

Đường Thục muôn dân trước gập ghềnh.

Ngày trước khi tể tướng Trương Cửu Linh còn đương tại triều, đã từng nói An Lộc Sơn có tướng phản, nếu không trừ khử, thì quả là nuôi họa trong người. Huyền Tông vẫn không tin, lại vẫn thường bày trận chơi trước lầu Cần Chánh, gọi Lộc Sơn tới xem. Huyền Tông ngồi trên long sàng, cho phép Lộc Sơn đứng ngay bên, trong khi đó các quan đại thần, cho chí Hoàng Thái tử đều phải ngồi ở phía dưới.

Đến lúc Huyền Tông đứng dậy thay áo, Thái tử theo sau, mật tâu rằng:

- Xem suốt xưa nay, chưa bao giờ thấy Vua với bầy tôi lại cùng ngoảnh mặt hướng nam để xem trò vui. Phụ hoàng đối đãi với Lộc Sơn như vậy, liệu có thái quá chăng? Sợ trăm quan nhìn vào, có chỗ không thật yên ổn chăng?

Huyền Tông khẽ cười phán:

- Lâu nay người ngoài ai cũng bảo Lộc Sơn có dị tướng, trẫm cứ thử trêu tức xem sao?

Mỗi lần yến hội, Lộc Sơn thường ngày ở ngay trong cung, mượn cớ say rồi ngủ luôn. Cung nhân nhiều người nhòm ngó, thấy thân hình hóa thành rồng, nhưng đầu lại thành đầu lợn, lấy làm kỳ dị, liền mật tâu với Huyền Tông. Huyền Tông cũng xem thường, cho rằng loài rồng lợn như thế, không thể nổi mây tuôn sóng, chẳng đủ sợ, rồi sai lấy bức bình phong "gà vàng" che kín lại, mặc cho Lộc Sơn ngủ. Nào ngờ có ngày nay, trở thành họa lớn cho Quốc gia, bài thơ của người đời sau làm trên đây chính là nhắc tới việc này vậy.

Lại kể chuyện Lộc Sơn khởi loạn, kéo binh về nam. Kỵ binh, bộ binh đều tinh nhuệ, phong trần nổi khắp nghìn dặm, gặp lúc thiên hạ bình yên đã lâu, trăm họ hằng mấy đời không thấy chuyện binh đao, đến khi thấy Phạm Dương binh lửa, xa gần đều kinh hoàng. Cả một vùng Hà Bắc rộng lớn đều thuộc quyền Lộc Sơn lâu nay, các phủ huyện mà quân y kéo qua, chẳng khác gì trúc chẻ, ngói tan, hoặc bỏ thành mà chạy, hoặc có người bị y bắt sống, hoặc có nơi chống cự.

Viên quan lưu trú Thái Nguyên Dương Quang Hối, họ với Dương Quốc Trung, An Lộc Sơn ý muốn giết, liền sai một đội người ngựa kéo về Thái Nguyên, mặt khác lại truyền cho bộ tướng Hà Thiên Niên, Các Mạc, dẫn hơn hai mươi người ngựa, mượn tiếng đi săn thú dâng thiên tử, theo đường dịch trạm tới Thái Nguyên. Lúc này Quang Hối vẫn chưa được tin Lộc Sơn phản loạn, nghĩ rằng có đoàn sứ giả của Phạm Dương đi qua, nên ra khỏi thành nghênh tiếp, liền bị bọn này bắt sống, giải đến trước hành trướng An Lộc Sơn mà giết chết.

Huyền Tông nghe tin Lộc Sơn đã làm phản, vẫn còn nghĩ rằng người ta đồn bậy vậy thôi, đến khi nghe tin Quang Hối bị giết, do Thái Nguyên báo về mới tin là Lộc Sơn phản thật, giật mình kinh hãi. Quý Phi cũng há miệng, trợn mắt hoảng sợ. Huyền Tông triệu trăm quan để bàn về việc này. Bàn luận mãi vẫn chưa ra sao, có người thưa nên trừ diệt, có kẻ bàn nên chiêu an. Riêng Dương Quốc Trung dương dương tự đắc mà rằng:

- Thằng đầy tớ này từ lâu đã ôm lòng phản trắc, thần đã biết rõ gan ruột y, bao lần tâu trình hoàng thượng, nay hoàng thượng mới thấy lời thần quả không sai mảy may vậy!

Huyền Tông phán:

- Tên nô lệ người Phiên nay đã phụ ơn làm phản, tội không thể không diệt. Nay y dựa vào quân đông, ngựa mạnh tiến như nước lũ, lấy gì mà chống đỡ cho được bây giờ?

Quốc Trung tâu:

- Bệ hạ không lo, kẻ thực tâm phản nghịch chỉ mình Lộc Sơn, còn tướng sĩ chẳng có lòng nào, đều bị Lộc Sơn bức bách cả thôi. Triều đình chỉ cần sai một đạo quân, bá truyền rộng rãi cho thiên hạ là hưng binh hỏi tội, chẳng qua trong vòng một tuần thì đã lấy được thủ cấp về kinh, có điều gì đáng ngại!

Huyền Tông tin lời, cũng không tính toán gì thêm.

Chính là:

Gian thần bạc ác

Xã tắc loạn lạc

Dối vua hại dân

Đùa dai với giặc.

Lại nói An Khánh Tôn từ khi sai người đưa thư, ngày đêm trông chờ phụ thân vào kinh, cha con gặp gỡ, không ngờ sinh việc phản loạn, hoảng hốt không biết tính liệu ra sao, đành phải cởi trần tự trói, đến trước điện vàng chịu tội. Huyền Tông thương là rể của tôn thất, ý cũng muốn tha.

Dương Quốc Trung tâu rằng:

- Lộc Sơn đã từ lâu nuôi chí làm phản, bệ hạ không trừ ngay được, để đến nỗi ngày nay xảy ra chuyện này. Khánh Tôn là con cả của y, pháp luật không thể dung, có thể nào tha tội, để rồi lại nuôi mầm họa sau này nữa sao?

Huyền Tông do dự, Quốc Trung tiếp:

- Khi Lộc Sơn còn ở kinh sư, được thánh thượng đứng ra cho làm thân với thần này, nên thường ngày với thần chỉ có ơn mà chẳng có oán gì, nhưng Lộc Sơn vẫn vô cớ mang lòng căm ghét thần đến tận xương tủy. Dương Quang Hối chỉ do ngẫu nhiên cùng họ với thần, mà Lộc Sơn đã xử đến như thế. Khánh Tôn lại là con trưởng của Lộc Sơn, nay bệ hạ vẫn tha không giết, thì làm sao mà thiên hạ phục cho được.

Huyền Tông đành phải nghe theo, truyền xử tử Khánh Tôn. Quốc Trung còn tâu đem mẹ con Vinh Nghĩa Quận chúa bắt thắt cổ cả lượt.

Chính là:

Chưa diệt thằng đầu têu

Thì hãy chém con nó trước

Mai sau giết đến cha

Giờ hãy cứ thế đã.

Huyền Tông giết Khánh Tôn rồi hạ chiếu ban bố tội trạng Lộc Sơn sai tướng quân Trần Thiên Lý đi Hà Đông chiêu mộ dân binh, rồi sai các đoàn luyện sứ dẫn binh chống giặc. An Tây Tiết độ sứ Phong Thường Thanh, lúc này vào kinh công cán, Huyền Tông hỏi tới phương lược dẹp loạn. Phong Thường Thanh chính là dòng dõi Phong Đức Di vốn là kẻ có chí lớn nhưng mồm miệng còn lớn hơn nữa, thấy việc thì vội khoa trương, đón ý của Huyền Tông mà tâu rằng:

- Lâu nay thiên hạ thái bình, việc binh bỏ bê, vũ khí thiếu hỏng, nên dân chúng rất sợ giặc giã, trông theo gió mà chạy cả. Nhưng lẽ thuận nghịch xưa nay, dẫu có chuyển biến gì đi nữa, cũng chẳng có điều gì đáng băn khoăn. Nay thần xin đi Đông Kinh, mở cửa kho tàng, chiêu mộ dân binh rồi lên ngựa mà vượt sông, đánh thẳng vào lũ loạn nghịch, có thể đêm ngày lấy được thủ cấp, dâng dưới cửa khuyết.

Huyền Tông mừng lắm, liền phong ngay Thường Thanh làm Phạm Dương, Bình Lư tiết độ sứ, lập tức theo đường trạm dịch về Đông Kinh, mộ binh giết giặc cho tùy nghi mà làm việc.

Từ xưa đã nói: nuôi quân nghìn ngày, dùng quân một sớm. "Dưỡng binh thiên nhật, dụng tại nhất triêu", thế nghĩa là lính phải nuôi dưỡng thường ngày, thì đến lúc có việc mới có thể có mà dùng ngay. Ngược lại, việc xảy ra rồi mới lo mộ binh, thì đúng là Lộc Sơn có quân lính, mà triều đình thì không vậy.

Nguyên là thời Sơ Đường, chế độ quân binh rất hay, chia thiên hạ ra làm mười đạo, gồm sáu trăm ba mươi tư quân phủ, một nữa là vùng trung nguyên đều thuộc các vệ quản hạt, có danh hiệu riêng, nhưng đều gọi là Triết xung phủ, tùy theo số lính nhiều ít mà chia làm ba hạng, một nghìn hai trăm người là thượng đẳng, một nghìn người là trung đẳng. Tráng binh từ hai mươi tuổi tòng quân, đến sáu mươi tuổi thì miễn, nghỉ ngơi tùy từng lúc, điều động tùy từng việc. Các Triết xung phủ đều có làm hiệu ước bằng gỗ, bằng đồng hình con cá trên dưới cùng hợp đính trước, triều đình cần động binh, thì đem chiếu thư, cùng hiệu ước, quận phủ khám xét đều phù hợp, mới phát binh. Phần quân trang, từ mũ áo giáp trụ, đều phải tự lo lấy, nhà nước hoàn toàn không có chi phí dưỡng nuôi binh lính, xong việc thì lại cho ngay về làm ruộng, tướng soái đều không có quyền cầm giữ binh sĩ. Phép quân như thế rất giống với thời cổ xưa.

Nhưng vì những nhà có người tòng quân, lại vẫn phải đốn những tạp dịch khác, nên ngày càng nghèo khó, cho nên đến việc thường bỏ trốn. Trương Duyệt lúc này mới xin với triều đình, lấy một ít lính khỏe mạnh, giữ ở quân đội lâu dài gọi là "Khoắc kỵ" (l). Binh lính ở các phủ càng ngày càng hao mòn, người chết không được điều thân, lại còn bị điều vào tội "Khoắc kỵ". Các quan tướng ở các phủ, đối với binh lính chẳng khác gì nô lệ. Còn ở biên cương, đối với binh lính lại càng tàn ngược hơn, sống đã khổ lại dễ chết, cũng chẳng được một chút an ủi gì. Vì vậy bọn này đều bỏ trốn hết.

1 Khoắc: cái nỏ đã giương sẵn, Kỵ: cưỡi ngựa. Tên riêng để chỉ bộ phận quân, thường trực làm việc bảo vệ cung khuyết của thời Đường. (Từ điển Thiều Chữu)

Đến Lý Lâm Phủ, xin bỏ các quyền hạn Triết xung phủ, nên chỉ còn hư danh. Đến những năm Thiên Bảo, đều quy vào chế độ "Khoắc kỵ". Nhưng mọi sự đã rã rời, binh lính kén được đều là phường vô lại chẳng hề được luyện tập gì. Lại thêm thái bình đã lâu, những kẻ có quyền bàn bạc, đều cho rằng việc binh bị trong nước nên giảm bớt, càng cấm được càng hay. Trong dân gian có ai giữ giấu vũ khí, có con em theo đòi binh nghiệp, họ hàng đều chê cười không thèm nhìn đến. Tướng giỏi binh cường đều dồn ra ngoài biên ải, nhất là ở vùng tây bắc, Trung nguyên hoàn toàn trống rỗng. Một sớm có biến, chẳng có một đội quân nào mà dùng, vì vậy không thể không mộ lính mới. Nhưng những thứ tổ tiên đã gây dựng nên, thì con cháu đều để hư hỏng. gây dựng lại đâu phải một sớm một chiều, việc thua chạy cũng là lẽ thường vậy.

Lại thêm người ngựa của An Lộc Sơn vừa nhiều vừa khỏe, quân sĩ đều vốn thuộc dòng Hồi Hột, của bộ lạc Đột Quyết A Bố Ty, Lộc Sơn dụ hàng được, vì vậy bộ hạ Lộc Sơn binh cường mã tráng, chín châu khó mà theo kịp.

Chuyện dông dài đã đủ, hãy quay về việc Phong Thường Thanh mộ binh theo lệnh Huyền Tông, ngày đêm về Đông Kinh, lấy sạch tiền lương của các kho, xuất bảng gọi lính. Lập tức người tới đông như chợ, trên dưới một tuần (1) đã dược tới hơn sáu vạn người, nhưng đều là phường lêu lổng, ăn chơi vô nghiệp nghệ, không thể nào ra trận cho được, lại dò biết người ngựa của An Lộc Sơn khôn địch. Thường Thanh mới hối hận trước đây đã trót lớn tiếng ở triều đường, nay vai gánh việc nặng, chẳng biết dựa vào ai, đành phải dẫn quân sĩ ra chặn ở cầu Hà Dương, để phòng ngự.

1 Tuần: mười ngày, tháng chia làm ba: thượng tuần, trung tuần, hạ tuần. Cũng có khi hiểu là mười năm: "Tứ tuần đại khánh".

Huyền Tông lại sai Vệ úy khanh Trương Giới Nhiên làm Hà Nam Tiết độ sứ, coi sóc mười ba quận vùng Trần Lưu, cùng với Thường Thanh nương dựa lẫn nhau.

Lộc Sơn kéo binh tới Linh Xương, gặp đúng lúc rét cắt da, Lộc Sơn lệnh cho binh lính dùng dây dài, buộc các thuyền cùng với cỏ, củi khô lại, cứ thế qua sông. Qua một đêm, băng đóng rất dày, chẳng khác gì những bè nổi, người ngựa cứ thế qua sông, đánh thẳng vào Linh Xương quận. Kỵ binh của giặc tung hoành, chẳng thể biết ít nhiều, mặc sức tàn ngược.

Trương Giới Nhiên mới tới Trần Lưu được mấy ngày, người ngựa Lộc Sơn đột ngột xuất hiện. Giới Nhiên vội xua dân binh lên giữ thành, không ngờ chưa kịp đánh nhau, lòng người đều sợ hãi, trời thì quá rét, tay chân giá buốt, không tài nào giữ được. Thái thú Quách Nội Kinh tự thán dẫn dân chúng mở cửa thành ra hàng. Lộc Sơn vào thành bắt được Giới Nhiên, chém ngay trước hàng quân.

Ngày hôm sau, thám mã về báo với Lộc Sơn: Thiên tử ban chiếu khắp thiên hạ, nói rõ An Lộc Sơn phản loạn, tội rất lớn, con cả Khánh Tôn đã bị giết ở kinh đô. Văn võ quan viên cho chí binh lính, dân chúng, ai chém được đầu An Lộc Sơn đem dâng, được phong tước vương. Tội chỉ gia một mình Lộc Sơn, ngoài ra các tướng sĩ quan viên, lính tráng theo Lộc Sơn lâu nay mà quy thuận triều đình, đều tha hẳn tội, không tra xét gì cả.

Lộc Sơn nghe nói con cả Khánh Tôn đã bị giết ở Trường An, giận lắm, khóc lóc lớn mà rằng:

- Ta có tội gì? Mà nay nỡ giết con ta. Thực đã đến nước không thể cùng chung sống rồi vậy!

Liền thả mặc cho binh lính giết sạch những người theo hàng để thỏa lòng căm tức của mình.

Chính là:

Rõ chính mày là phường phản nghịch

Còn kêu than: "Ta thật oan thay! "

Giết lương dân hiểm ác chất đầy

Nghĩ xem có đúng tội mày gấp muôn!

Trần Lưu vào tay giặc, Giới Nhiên bị giết, tin truyền về kinh. Huyền Tông ngự triều, trăm quan đều lo lắng, căm giận. Huyền Tông phán trước Dương Quốc Trung cùng trăm quan:

- Các khanh đều nói An Lộc Sơn phản nghịch, sự không đáng lo diệt trừ rất dễ. Nay đã đến lúc lấn đất cướp thành, chém tướng giết dân, thế như hổ đói, chính lúc cần chống cự, không thể coi thường. Trẫm nay già rồi, há lại để cái họa này cho đời sau, nên để cho hoàng thái tử trông coi triều chính, trẫm sẽ thân lãnh ba quân, cùng với các tướng xuất chinh, phải diệt cho kỳ được lũ vong ân bội nghĩa này!

Chính là:

Thiên tủ muốn thân chinh

Đông cung làm giám quốc

Gian thần nghe thất kinh

Giữa triều phơi mặt ngốc.

Chưa biết thắng bại ra sao, xin xem hồi sau kể tiếp.

Hồi Thứ Tám Mươi Chín

Đường Minh Hoàng nằm mơ thấy quỷ,

Lôi Vạn Xuân kẻ chợ tìm anh.

Từ rằng:

1 . Người ngu dại,

Quỷ nên thiêng,

" Người hèn nhát,

Ma bắt nạt

Chiêm bao mộng mị đảo điên hiện hình.

2. Nghĩa anh em nan huynh nan đệ,

Nghề nghiệp riêng chí khí đều cao.

Toàn trung toàn tiết trước sau,

Tiếng thơm muôn thuở, khó nào khó hơn.

Theo điệu "Giảm tự Mộc lan hoa"

Đại phàm người có đức, chẳng kể đàn ông đàn bà, giàu sang, nghèo khó đều được xung quanh kính trọng ma quỷ cũng phải ngưỡng phục, vì thế mà quỷ thần có đức mới đáng kính. Nếu vô đức mà cũng thờ phụng, dựa vào sự hung bạo, càn rỡ của quỷ thần thì chỉ nhằm áp chế người khác. Lúc đương thịnh, quyền uy trong tay, tác quái tác họa mặc sức ngông cuồng, dương dương kiêu ngạo, hết lời khoa trương, đến khi thời tiết hết vận suy, chữ lộc chữ mệnh đều chẳng còn, tay chân rời bỏ, người thân chia lìa, lòng riêng phản loạn.

Lúc này mới là lúc các loài si my võng lượng (1) kéo đến, sinh yêu, tác quái đùa giỡn đủ trò, cho nên nói "nhân suy quỷ lộng" người hèn quỷ trêu, là thế.

1 Si my: ma quỷ ở núi non, ao hồ. Võng lượng: ma quỷ ở cây cối, gỗ đá. (Hán Việt tứ điển)

Duy có bậc trung trinh tiết liệt, không lấy chuyện thịnh suy dễ mà thay lòng, dẫu có phải trà trộn trong đám con hát, nghề mọn hoặc nương thân nơi binh lính, nhưng gan trung dạ nghĩa trời cho vẫn không đổi, dù không hiện thành hành động, thì tiết tháo đó cũng đủ trùm trời đất mà đương diện với ma quỷ. Loại người này tuy không nhiều, nhưng nghĩa khí của họ là một, chẳng chóng thì chầy cũng sẽ nhận ra nhau.

***

Nay hãy nói chuyện Đường Huyền Tông, nhân An Lộc Sơn đánh chiếm quận Trần Lưu, Trương Giới Nhiên ngộ hại báo về kinh đô mới thấy thế giặc mạnh, không dễ diệt trừ, triệu trăm quan tới thương nghị, bàn luận phân vân, chẳng có dược một kế sách hay. Dương Quốc Trung mấy hôm trước còn huyênh hoang, lúc này cũng "vô kế khả thi". Huyền Tông liền phán: .

- Trẫm ở ngôi đã năm mươi năm nay, lòng vốn đã tính chuyện lui về cảnh nhàn, truyền ngôi cho thái tử, chỉ vì mấy năm nay hạn hán, lụt lội liên miên, chẳng đang tâm đem những thiên tai này giao cho người sau, vậy nên lần lữa. Nay không ngờ địch tặc nổi dậy, trẫm cũng muốn tự thân dẫn quân lính, tướng sĩ để chinh phạt, truyền thái tử tạm coi công việc quốc gia. Đợi khi nghịch khấu đã dẹp, sẽ làm lễ truyền ngôi, trẫm gối cao ngủ kỹ, chẳng còn lo gì nữa.

Liền hạ chiếu ngự giá thân chinh đi đánh An Lộc Sơn, để thái tử giám quốc, bách quan không dám tâu một lời.

Dương Quốc Trung thì kinh ngạc, hoảng sợ, thầm nghĩ: "Ta trước đây bao lần kéo bè kết cánh với Lý Lâm Phủ để mưu hại Đông cung, làm sao mà Đông cung lại không giận cho được. Chỉ vì Quý Phi đang được sủng ái, ta thì làm tể tướng đương triều. Đông cung còn chưa lên ngôi, cho nên chưa làm gì được ta. Nay Đông cung cầm quyền, nhất định sẽ báo thù xưa, họ Dương đến không còn chỗ đứng!"

Nên bãi triều, Quốc Trung về ngay phủ đệ, khóc ròng mà nói với vợ là Bùi Thị cùng Hàn Quốc, Quắc Quốc phu nhân rằng:

- Chúng ta sắp chết đến nơi rồi!

Ai nấy đều ngạc nhiên hỏi, Quốc Trung đáp:

- Thiên tử xuống chiếu thân chinh đánh An Lộc Sơn, để thái tử giám quốc, rồi sẽ truyền ngôi cho thái tử. Thái tử lâu nay vốn căm họ Dương ta, nay quyền lớn trong tay, ta cùng chị em, mạng sống tính từng ngày, giờ biết làm sao?

Cả nhà đều kinh hoàng khóc lóc:

- Chẳng như Tần Quốc phu nhân chết trước lại hóa may.

Quắc Quốc phu nhân nói:

- Sao chúng ta lại làm người tù nước Sở, ngồi nhìn nhau mà khóc (1), thì cũng chẳng ích gì, chi bằng hãy cùng Quý Phi bàn bạc. Nếu có thể khuyên ngừng việc thân chinh, thì giám quốc, nhường ngôi cũng theo đó mà xong vậy?

1 xem chú thích hồi 40.

Quốc Trung đáp:

- Nói thế thì thật đúng quá, không nên chậm trễ nữa, phiền hai phu nhân hãy vào cung ngay cho.

Hai phu nhân liền lên kiệu vào cung, nói thác rằng vào hầu Quý Phi rồi kể lể mọi chuyện, nói lại lời Quốc Trung. Quý Phi hoảng hốt:

- Những điều này không thể không nghe theo được!

Liền tháo xuyến, gỡ trâm, bôi đất bùn đầy mặt, quỳ lên trước điện, cúi lạy khóc lóc. Huyền Tông ngạc nhiên quá đỗi, tự tay nâng dậy mà hỏi:

- Ái khanh sao lại đến thế này?

Quý Phi thưa:

- Thần thiếp nghe tin bệ hạ định thân ra trận, sao bệ hạ lại định đem mình rồng trân trọng, mà đi làm cái việc của một viên tướng tầm thường, dẫu có mưu lược giỏi giang, thắng bại rõ ràng, thì chỗ chiến trận muôn ngàn nguy hiểm mà thánh thượng lại định dấn thân vào. Phi tần của cả sáu cung nghe tin, đều vô cùng hốt hoảng, huống chi thiếp mang nặng ơn sâu, sao lại có thể xa rời. Chỉ giận không làm thân nam nhi, để được theo xe rồng. Nay xin đập nát đầu này trước thềm, để mong bắt chước Hầu Sinh báo ơn Tín Lăng Quân. (1)

1 Hầu Sinh người nước Ngụy, được Tín Lăng Quân rất quý trọng. Tín Lăng Quân liều thân cứu Triệu. Hầu Sinh vạch kế trộm hình phù của vua Ngụy để điều được mười vạn quân Ngụy. Khi Tín Lăng Quân lên đường. Hầu Sinh nói: "Đáng lẽ tôi phải theo đi, nhưng vì tuổi già không thể đi xa được, xin lấy hồn tiễn công tử." Rồi đâm cổ chết. (Đông Chu liệt quốc)

Nói xong, liền phục xuống đất mà khóc rống, Huyền Tông không chịu nổi, sai cung nga đỡ lên ghế ngồi, cầm tay mà an ủi:

- Trẫm muốn thân chinh, không phải chỉ là lo cho thân mình đâu. Ngày khải hoàn trở về cũng không xa, ái khanh hà tất phải bi thương quá như vậy!

Quý Phi nghẹn ngào:

- Thiếp nghĩ đường đường thiên triều, há không có một hai viên tướng giỏi để có thể vì quốc gia trừ diệt thằng phản nghịch cỏn con này, mà bệ hạ phải lao khổ như thế!

Lại khớp lúc thái tử dâng biểu, nội thị đưa vào, từ chối không nhận mệnh giám quốc, xin Huyền Tông hãy khoan thân chinh ra trận, chỉ cần sai một đại tướng hay một thân vương nào đó, dẫn quân đi là có thể toàn thắng.

Huyền Tông đọc biểu của thái tử, trầm ngâm:

- Nay trẫm truyền ngôi cho thái tử, mặc cho thái tử lúc đã lên ngôi rồi có thân chinh hay không, còn trẫm với ái khanh lui về biệt cung cùng nhau an hưởng những năm còn lại, có nên chăng?

Quý Phi nghe nói, lại càng kinh hoàng, vội cúi lạy tâu:

- Bệ hạ năm vừa rồi đây đã định nhường ngôi nhưng vì thấy họa hoạn, thiên tai nên không nỡ bắt thái tử phải chịu thay. Nay sao lại nghĩ tới việc nhường cái họa phản nghịch này cho thái tử. Bệ hạ ở ngôi lâu, việc điều khiển trăm quan, tướng soái có uy có đức lớn, nay truyền ngôi, triều đình trên dưới dị nghị, khi yên được thì sợ công việc muộn rồi!

Huyền Tông nghe gật đầu:

- Ái khanh nói cũng có lý lắm!

Liền giáng chỉ bãi ngự chiếu vừa rồi, đặc sai hoàng tử Vinh Vượng Uyển làm nguyên soái, Tả kim ngô đại tướng quân Cao Tiên Chi làm phó nguyên soái, lĩnh binh xuất chinh. Lại định dùng Cao Lực Sĩ làm giám quân, Lực Sĩ cúi đầu xin thôi, bèn lấy nội giám Biên Lệnh Thành làm giám quân sứ.

Chiếu đã ban rồi, Quý Phi mới yên tâm, chùi nước mắt tạ ơn. Huyền Tông liền lệnh cho cung nga cùng Quý Phi sửa sang y phục dung nhan, bày yến tiệc để cùng Quý Phi giải sầu. Hàn Quốc, Quắc Quốc phu nhân cũng ra lạy chào Huyền Tông, cùng ngồi dự yến.

Người đời sau có thơ than rằng:

Tháo trâm hoàng hậu, chuyện đời xưa

Những dễ tự khiêm, can gián vua

Khổ nhục ngày nay theo mẹo cũ

Quý Phi bôi mặt, nghĩ buồn chưa?

Trong yến tiệc, Huyền Tông vẫn phải an ủi Quý Phi. Ba chị em Quý Phi cũng muốn Huyền Tông khuây khỏa nỗi lo lắng chưa yên mà tìm lấy sự thanh thản nên cũng ra sức chiều chuộng. Bọn Lê Viên tử đệ cùng cung nga vừa hát vừa múa. Rượu đã gần say, hứng chí, Huyền Tông lại tự đánh trống, Quý Phi gảy tỳ bà, thổi sáo ngọc, mãi đến khuya mới tan. Hai phu nhân tạ từ ra khỏi cung.

Đêm ấy Huyền Tông cùng nghỉ với Quý Phi, bởi trong lòng chưa yên, giấc ngủ cũng chẳng thành. Trong lúc mơ màng, Huyền Tông thấy đến cung Hoa Thanh, ngồi trên long sàng, còn Quý Phi ngồi ở bên án, dựa lưng vào thành ghế, chiếc sáo ngọc hàng ngày vẫn thổi thì treo trên tường. Bỗng thấy một con quỷ hình dung kỳ quái, không biết từ đâu hiện ra, đến ngay bên Quý Phi, lấy chiếc sáo ngọc xuống, đưa lên miệng thổi nghe rất chối tai. Huyền Tông giận lắm, định cất tiếng quát, nhưng cổ họng nghẹn tắc, nói không ra lời. Con quỷ vẫn ngang nhiên, không chút sợ hãi, thổi sáo chán rồi, liền quay ra cười đùa, nhảy múa với Quý Phi. Huyền Tông vội đứng dậy đuổi đánh nhưng không tài nào đứng dậy nổi, quay nhìn xung quanh, chẳng thấy một kẻ hầu người hạ nào, nhìn Quý Phi nằm gục trên bàn, mê man bất tỉnh, khoảnh khắc ngoái lại, thì người nằm gục trên án không còn là Quý Phi, mà là một người đội mũ xung thiên, mình khoác áo bào vàng thêu rồng, rõ ràng là một bậc thiên tử, nhưng không thấy rõ được mặt. Trong khi đó, con quỷ vẫn nhảy múa không thôi, từ từ tiến lại trước mặt Huyền Tông, trong tay con quỷ bỗng cầm một cái gương tròn sáng long lanh, soi trước mặt Huyền Tông. Huyền Tông nhìn vào, lại thấy mình thành một người đàn bà, đầu mang khăn lụa đen, mình khoác áo gấm thêu, mười phần xinh đẹp. Huyền Tông sợ hãi, bán tín bán nghi, lại thấy trên không hạ xuống một người cao lớn, hình dung thật đúng là:

Trên đầu đội mũ chuồn chuồn

Đai sừng dát ngọc, lưng tròn bụng to

Áo bào đen thêu mãng xà

Vạt áo nhọn, đủ hốt lia, gươm dài

Mắt báo lửa rực đôi ngươi

Tóc râu lởm chởm, trùm vai như rồng

Vốn nghề tiêu ác trừ hung

Chung Quỳ, nuốt quỷ chính ông thần này!

Người cao lớn này quát một tiếng nạt con quỷ, con quỷ lập tức co quắp lại, người này túm ngay lấy, khác nào túm con gà. Huyền Tông vội hỏi:

- Khanh là quan chức gì vậy?

Người này cung kính thưa:

- Thần là Chung Quỳ, người ở Chung Nam, đi thi tiến sĩ không đậu, suốt đời ngay thẳng, chết được làm thần, vâng mệnh thượng đế, trông coi vùng núi Chung Nam, chuyên trừ ma quỷ tác yêu tác quái. Phàm ma quỷ trêu ghẹo người đời, thần đều có thể bắt mà nhai sống. Con quỷ này làm kinh sợ chúa thượng, thần xin vì chúa thượng mà trừ diệt vậy.

Nói xong, giơ cả hai tay, móc ngay hai mắt quỷ, bỏ vào miệng mà nuốt, rồi hai chân đạp mạnh, bay lên không mà biến mất.

Huyền Tông hoảng hốt, tỉnh dậy, thì ra một giấc mơ, bàng hoàng hồi lâu mới trấn tĩnh được.

Lúc này Quý Phi cũng đột nhiên tỉnh giấc, miệng vẫn còn ú ớ mê sảng. Huyền Tông vội hỏi:

- Ái khanh ngủ không yên giấc sao?

Quý Phi ngơ ngẩn một hồi, mới thưa:

- Thiếp nằm mơ thấy một con quỷ, từ phía hậu cung đi tới trước mặt thiếp mà nhảy múa, bên cạnh lại có một cô gái rất đẹp, xua tay đuổi quỷ đi, quỷ không chịu nghe. Cô gái này cứ thưa với thiếp là bệ hạ, thiếp không dám trả lời. Cô gái liền nhặt một giải lụa trắng, rơi ở dưới đất, quấn vào cổ thiếp. Thiếp quá sợ mà tỉnh dậy!

Huyền Tông nghe nói, cũng kể lại giấc mơ của mình. Quý Phi xuýt xoa lấy làm lạ. Huyền Tông liền khuyên giải:

- Bởi mấy ngày hôm nay không thoải mái, cho nên sinh ra mộng mị, cũng chẳng lấy gì làm lạ. Nhưng việc trẫm mơ thấy Chung Quỳ làm thần, thì không hiểu ở núi Chung Nam có người này chăng?

Quý Phi thưa:

- Mộng mị tuy không thể tin cả, nhưng cớ sao nam biến thành nữ, nữ biến thành nam. Tại sao thiếp vốn nữ giới, mà người con gái trong mộng, ngay lúc gặp quỷ, lại gọi thiếp là bệ hạ. Chuyện này thì quả là lạ lùng.

Huyền Tông đùa:

- Trẫm cùng ái khanh yêu dấu khác thường, chẳng còn phân đâu là khanh đâu là trẫm, nam nữ thay đổi hình dạng, đảo điên loan làm phượng, phượng làm loan vậy mà.

Nói xong, ai nấy cười vang. Ấy cũng bởi Dương Quý Phi chính là hậu thân của Tùy Dượng Đế, còn Đường Huyền Tông chính là Chu Quý Nhi tái thế, những điều thấy trong mộng vừa rồi, chính là lại thấy chính mình kiếp trước vậy. Thời vận đã đến lúc suy thoái, nên quỷ ma mới tới trêu ghẹo, nên có những cảnh mộng thế chăng?

Chính là:

Sức yếu bởi khí suy

Mộng mị chuyện ma quỷ

Thay đổi đế hóa phi

Nam hóa nữ cũng kỳ!

Sáng hôm sau, Huyền Tông lâm triều, phán ngay rằng:

- Trăm quan văn võ, ai biết ở Chung Nam có một người đi thi tiến sĩ không đậu, họ Chung tên Quỳ chăng?

Ở văn ban, thấy có cấp sự trung Vương Duy (1) xuất ban tâu rằng:

- Thần Duy này đã từng nằm ẩn ở Chung Nam, có Chung Quỳ vào thời Cao tổ Vũ Đức Hoàng đế cũng đi thi tiến sĩ nhưng không đậu nên đâm đầu vào đá mà chết. Người thời bấy giờ xót thương, mới trình lên quan, làm giả áo bào, hia hốt mà táng, rồi thờ cúng rất linh thiêng. Đến nay vẫn hương khói quanh năm?

1 Vương Duy (701-761): Thơ hay, chữ tốt, vẽ đẹp, giỏi âm nhạc. Hai mươi mốt tuổi đỗ tiến sĩ. Thích sống nhàn tản trong biệt thự ở Chung Nam Sơn, rất chuộng Phật giáo (Thơ Đường I). Xin xem các hồi tiếp.

Huyền Tông lấy làm lạ lùng, liền gọi ngay người thợ vẽ có tài là Ngô Đạo Tử tới, kể rõ hình dáng Chung Quỳ trong giấc mộng, sai vẽ một bức hình, dùng làm tượng trấn quỷ. Lại riêng truy tặng áo bào, hốt ngà, ban cho trạng nguyên cập đệ. Lại nhân Quý Phi mơ thấy quỷ từ nội cung đi ra, liền đem hình Chung Quỳ dán ngay ở trước cửa lớn của hậu cung, chẳng khác gì Uất Trì Kính Đức cùng Tần Thúc Bảo vậy. Cho nên đến giờ, trong dân gian, vẫn thường dán hình Chung Quỳ ở ngay cửa sau, cũng là do từ chuyện này, và thường tôn xưng là Chung Trạng nguyên.

Chính là:

Đời Thái Tông, Thúc Bảo, Kính Đức

Ma quỷ gian tà bị chém nát

Nay lại có trạng nguyên Chung Quỳ

Nhai sống hết nhũng phường tham ác.

Huyền Tông nhân việc họa tượng Chung Quỳ, nhớ tới chuyện xưa Đường Thái Tông vẽ hình Tần Thúc Bảo cùng Uất Trì Kính Đức, liền phán rằng:

- Trẫm trong mộng gặp ma quỷ, may nhờ có Chung Quỳ trừ giúp. Nay thằng giặc cướp của cả thiên hạ, lấy ai mà trừ cho được. Nếu có được người tài như Thúc Bảo, Kính Đức, mà giúp trẫm cứu nguy định loạn thì còn gì bằng!

Nhân đấy liền nghĩ tới huyền tôn của Thúc Bảo là Tần Quốc Mô, Tần Quốc Trinh, hai anh em, nên phán tiếp:

- Năm trước cả hai anh em đã từng dâng sớ can gián trẫm, không nên sủng ái An Lộc Sơn, thật là những lời trung trinh. Trẫm lúc ấy chẳng nghe lời, mà còn đuổi về, cứ thế mà suy, rõ ràng lỗi lớn, lẽ nên mời cả hai anh em ra mới phải?

Liền ban sắc chỉ, truyền trung thư tỉnh khôi phục nguyên chức cũ là Hàn lâm thừa chỉ cho hai anh em họ Tần.

Lại nói anh em Tần Quốc Mô, từ ngày bị đuổi về nghỉ, vẫn ở vùng gần đô thành, đóng cửa không đi đâu, nếu bạn bè tới thăm, thì uống rượu chuyện trò, ngâm thơ làm phú, nhất quyết không bàn tới công việc triều đình. Quốc Trinh thỉnh thoảng cũng có nhớ đến chuyện gặp người đẹp ở phường Tập Khánh dạo nào, nhưng lại sợ anh mắng chửi, nên không dám hở môi, thường quay lại thăm hỏi dò la, nhưng tịnh không tin tức, cũng chẳng hề thấy người đẹp tìm tới.

Bỗng có một hôm, có người vốn là chỗ quen biết cũ gõ cửa đến, họ Nam tên Tễ Vân, con thứ tám trong nhà, quê ở Ngụy Châu. Người này khẳng khái, có khí tiết, thông thạo cưỡi ngựa bắn cung, dũng lược hơn người, tổ phụ vốn là theo nghiệp binh đao, có đi lại với Tần Thúc Bảo, vì vậy với anh em Quốc Mô là chỗ quen thuộc mấy đời, gắn bó thân thiết. Mấy năm trước đây cũng đã hai ba lần đến nhà theo với tổ phụ. Gần đây việc đi lại có thưa hơn, hôm ấy, không hiểu có gì lại hành lý, người ngựa đến nhà thăm. Anh em họ Tần mười phần mừng rỡ, đón vào lễ chào xong, hàn huyên tíu tít. Quốc Mô lên tiếng:

- Nam hiền huynh lâu lắm không gặp, anh em ngu đệ vẫn thường nhớ tới, hôm nay không hiểu trận gió tốt lành nào đưa tới thế này!

Nam Tễ Vân đáp:

- Tiểu đệ từ ngày tổ tiên quy tiên, một thân lưu lạc, không nơi nương tựa, bước chân không định trước được. Gần dây tiểu đệ có nghe cử chỉ tiết tháo của anh em hiền huynh thật là đáng thán phục. Sau đó nghe đường quan chức có chỗ khó chịu, tạm lui về nhà, thiên hạ thật không ai không than thở. Hôm nay, tiểu đệ ngẫu nhiên phiêu bạt về kinh sư nghe được chuyện rất khoái ý, lấy làm hân hạnh lắm!

Quốc Mô đáp:

- Anh tuấn, tài lược như hiền huynh đây, nhất định sẽ còn nhiều cơ hội thi thố với đời. Chỉ vì hiện nay thời vận chưa tới, hiền huynh có điều gì lo liệu?

Tễ Vân nói:

- Vốn Hứa Viễn xưa kia làm Cao Yếu úy, là chỗ quen biết của thân phụ tiểu đệ, Hứa Cao Yếu vừa sâu sắc vừa có chí khí, tiết nghĩa, có một người bạn kết nghĩa ở Nam Dương, họ Trương tên Tuần, bác học đa tài tinh thông binh pháp, đậu tiến sĩ đời Khai Nguyên, lúc đầu làm huyện doãn Thanh Hà, sau đổi đi Chân Nguyên. Hứa Cao Yếu cũng muốn tiến cử tiểu đệ với Trương tiến sĩ. Nhưng nghe nói gần đây đã được triệu về triều, vì vậy nên mới về kinh tìm.

Quốc Trinh lên tiếng:

- Hai vị họ Trương họ Hứa, đều là bậc trượng phu ở đời, anh em tiểu đệ từ lâu đã có nghe tiếng.

Quốc Mô tiếp:

- Tiểu đệ nghe nói Trương tiến sĩ văn võ toàn tài, lại có thêm một chỗ kỳ lạ, người đời không theo kịp là dẫu có hàng ngàn hàng vạn người cũng mặc, khi họ Trương đã nhìn qua, biết tên tuổi, thì suốt đời không quên, thật đúng bậc kỳ sĩ vậy. Thật là đủ che đậy được lỗi lầm của người xưa vậy!

Tễ Vân nói:

- Tiểu đệ chưa được gặp Trương tiến sĩ, còn về tài đức của Hứa Viễn, tiểu đệ cũng đã biết từ lâu, thật là bậc hữu dụng của quốc gia, tiếc là chưa gặp thời vận!

Quốc Mô nói:

- Hiền huynh nay nhân Hứa Viễn quen Trương tiến sĩ, mà mộ tiếng tìm đến, để lo đến công nghiệp của mình, thì thật là điều đáng mừng vậy.

Quốc Trinh tiếp:

- Hiền huynh hãy khoan đến đó, đường đi vất vả, tạm ở đây nghỉ ngơi ít ngày, rồi đến gặp Trương tiến sĩ cũng chưa muộn.

Rồi bày tiệc rượu khoản đãi, kể lể chuyện say sưa, bàn bạc chuyện sắp tới. Đang lúc nâng chén, bỗng người nhà thưa, Phạm Dương Tiết độ sứ An Lộc Sơn khởi binh làm phản, hiện đã có tin báo về kinh sư. Anh em họ Tần đạp bàn đứng dậy mà nói lớn:

- Chúng ta từ lâu đã hiểu rõ thằng họ An, trước sau gì cũng bạo nghịch, lại thêm bọn gian thần bốn phía xúc xiểm, làm sao mà lại tránh khỏi chuyện này cho được.

Tễ Vân cũng đấm ngực mà rằng:

- Thiên hạ loạn rồi, không phải là lúc ngồi nghỉ ngơi. Hôm nay chúng ta hãy cùng cạn chén, ngày mai phải tới ngay chỗ Trương tiến sĩ để bàn chuyện quốc gia đại sự, chẳng nên dằng dai nữa rồi.

Đêm ấy, không nói nữa.

Hôm sau, ăn sáng xong xuôi, Tễ Vân viết ngay mấy hàng danh thiếp, cầm theo thư của Hứa Viễn, cưỡi ngựa vào kinh thành. Hỏi tới chỗ Trương Tuần, thì ra họ Trương thăng Phòng ngự sử Ung Khâu, mấy ngày trước đây đã ra khỏi kinh đô, lên đường đi nhận chức rồi.

Tễ Vân hứng chí mà tới, bại chí mà đi, giật ngựa ra khỏi thành, thầm nghĩ: "Ta nay nên từ giã anh em họ Tần, nhanh tới Ung Khâu, dẫu được chủ nhà hậu tình, cũng không nên lần lữa, sợ lở việc chăng!".

Vừa đi, vừa nghĩ, đã tới cổng nhà họ Tần, đang định xuống ngựa, thấy một người cao lớn, đội mũ rộng, mình mặc áo ngắn, cưỡi ngựa đi tới, phong thái rất đường hoàng. Tễ Vân ngờ rằng là viên tướng truyền lệnh, nên giữ ngựa đứng chờ. Người kia đến nơi, Tễ Vân cúi chào mà hỏi:

- Quan nhân phải chăng là tướng quân truyền lệnh? Tin tức Phạm Dương hiện ra sao rồi tướng quân?

Người này nghe hỏi, liền dừng ngựa nhìn Tễ Vân một lát, thấy nghi dung khác phàm, không dám coi thường, chắp tay kính cẩn đáp:

- Tiểu nhân từ Lộ Châu tới, vào kinh tìm người quen. Dọc đường nghe chuyện Phạm Dương phản loạn, bán tín bán nghi. Quý quan từ trong thành đi ra, tất hiểu rõ hơn. Xin cho biết ít nhiều.

Tễ Vân đáp:

- Tiểu nhân cũng vì tìm người quen, vừa tới hôm qua, mới nghe tin này, thật chưa rõ ràng lắm. Nay người cần tìm lại chẳng gặp, đến đây để từ biệt chủ nhà quen, rồi sẽ đi Ung Khâu, không biết đường đi lại như thế nào?

Người này đáp:

- Chủ nhà quen là ai, ở đâu kia?

Tễ Vân chỉ tay:

- Chính là Tần phủ này đây!

Người này ngước mắt nhìn, thấy ngay trên cổng biển lớn ghi rõ:

- Phủ làm theo sắc ban của hoàng thượng cho hai anh em trạng nguyên, "Khâm tứ huynh đệ trạng nguyên phủ", liền hỏi ngay:

- Có phải là hậu duệ của công thần tiên triều Tần Thúc Bảo, nhân vì can gián mà phải bãi quan về nghỉ chăng?

Tễ Vân đáp:

- Đúng rồi! Anh em họ một người tên Quốc Mô, một người tên Quốc Trinh.

Vừa nói, vừa xuống ngựa. Người này cũng vội vàng xuống ngựa làm lễ chào rồi nói tiếp:

- Tiểu nhân từ lâu mộ tiếng hai vị họ Tần, hận chưa được gặp, nay há lại qua cửa mà không vào, cảm phiền quý quan tiến dẫn tiểu nhân vào chào hỏi liệu được chăng? Chỉ hiềm gặp gỡ giữa đường, chưa kịp sắm lễ vật sợ quá đường đột!

Tễ Vân đáp:

- Anh em họ Tần rất khẳng khái, hiếu khách, tướng quân có vào gặp cũng chẳng gì phải ngại ngùng, cần gì phải lễ vật.

Người này cả mừng, cùng hỏi xưng họ tên rồi vào cổng, thấy anh em họ Tần, chào hỏi xong, liền cùng ngồi. Tễ Vân kể lại chuyện không gặp Trương Tuấn, trước cổng gặp gỡ thế nào. Anh em họ Tần từ tốn cảm tạ, hỏi rõ họ tên, quê quán.

Người này đáp:

- Tiểu nhân họ Lôi, tên Vạn Xuân, người ở Trúc Châu, thuở nhỏ có theo đòi nghiên bút, danh tiếng chẳng xong, bỏ văn học võ, thường không biết tự lượng, nhưng muốn vì quốc gia mà gom sức lại, chỉ vì chẳng gặp thời. Nay nhân tìm người thân mà đến đây, may gặp Nam quý quan được gặp anh em tiên sinh, thật thỏa lòng ngưỡng mộ từ lâu.

Tễ Vân cùng anh em Quốc Mô thấy họ Lôi ngôn từ khẳng khái, ý khí hiên ngang, rất là kính phục, bèn hỏi:

- Lôi hiền huynh về kinh tìm ai?

Vạn Xuân đáp:

- Tìm Lôi Hải Thanh ở đội nhạc công của triều đình.

Tễ Vân nghe nói, có vẻ không vui:

- Lôi Hải Thanh chẳng qua là nhạc công của Lê Viên tử đệ, phường con hát, sao hiền huynh lại tìm đến. Chịu nhờ vả bọn Lê Viên này để mưu cầu việc tiến thân, thì xem chừng không xong rồi.

Vạn Xuân cười đáp:

- Không phải chuyện mưu tiến thân đâu. Cũng bởi Hải Thanh chính là anh ruột của tiểu đệ, lâu ngày không gặp, cho nên phải tìm đến vậy.

Tễ Vân nói:

- Thì ra như thế, tiểu đệ hơi quá lời.

Quốc Mô lên tiếng:

- Hải Thanh thì tiểu đệ vẫn thường gặp. Thấy dẫu phải ở hàng nhạc công, nhưng vẫn có chí trung quân ái quốc, thực khác hẳn bạn bè. Nam hiền đệ tưởng cũng chẳng nên coi thường vậy.

Vạn Xuân bèn hỏi:

- Nam hiền đệ nói chuyện tìm Trương tiến sĩ mà không gặp, là họ Trương nào kia?

Tễ Vân đáp:

- Chính là người vừa nhận chức Phòng ngự sử Ung Khâu Trương Tuần. Vạn Xuân nói:

- Họ Trương này thì đúng là bậc kỳ lạ hiện nay, hiền huynh có quen biết cũ với Phòng Ngự Cứ sao?

Tễ Vân đáp:

- Thực chưa gặp. Nhưng bởi có Hứa Cao Yếu tiến dẫn.

Vạn Xuân tiếp:

- Hứa Cao Yếu lại cũng là bậc kỳ nhân, hiền huynh đi lại với các ngài này thì quả hiền huynh cũng là bậc kỳ nhân vậy. Nay có lẽ hiền huynh định đi Ung Khâu để làm việc dưới trướng Trương Phòng sứ sao?

Tễ Vân đáp:

- Nay An Lộc Sơn phản loạn, thế rất hung dữ, tiểu đệ cũng muốn tìm đến Trương Phòng sứ lo việc chống bọn này vậy.

Vạn Xuân khẳng khái:

- Ý định của hiền huynh thật hợp với tiểu đệ, nếu hiền huynh không bỏ, nguyện xin cùng đi?

Quốc Trinh nói:

- Hai hiền huynh đã nhất chí, thì có thể kết giao, nhận nhau làm anh em khác họ, cùng lo chuyện đền báo ơn vua.

Họ Nam cùng họ Lôi mừng lắm, liền cùng vái bốn vái, nhận làm anh em, sống chết thề cùng đền nợ nước; hoạn nạn giúp đỡ, không bao giờ thay lòng đổi dạ.

Chính là:

Đi tìm người anh ruột

Gặp được bằng hữu tốt

Yêu anh, quý bạn bè

Ắt trung quân ái quốc.

Anh em Quốc Mô liền bày tiệc khoản đãi. Vạn Xuân nói:

- Nam hiền huynh hãy tạm ở đây hai ngày, đợi tiểu đệ vào thành tìm gia huynh, rồi ta cùng lên đường!

Tễ Vân đáp:

- Vừa rồi Tần Tiên sinh đã nói Hải Thanh hiền huynh không phải hạng tầm thường, tiểu đệ cũng muốn gặp mặt. Chiều nay ta hãy ở đây. Sáng mai cùng vào thành, bái chào lệnh huynh cũng nên lắm!

Vạn Xuân bằng lòng.

Sáng sớm ngày mai, hai người cùng cưỡi ngựa vào thành, tìm đến nơi ngụ của Hải Thanh, xuống ngựa, Vạn Xuân vào trước, rồi cùng Hải Thanh ra đón Tễ Vân vào nhà. Bái chào xong, Vạn Xuân nói qua chuyện nhà, thuật chuyện ở Tần phủ, kết nghĩa với Tễ Vân, cùng nhau đi Ung Khâu.

Hải Thanh mừng lắm, vòng tay trước mặt Tễ Vân mà rằng:

- Anh em trạng nguyên họ Tần là bậc chính nhân quân tử, đại huynh cùng họ hàng là thế giao (1) thì quả là phẩm đức khác thường. Thật hân hạnh.

1 Thế giao, cũng như thế nghị là chỗ đi lại với nhau đã nhiều đời trở lên rồi.

Tễ Vân từ tốn:

- Chẳng qua Lôi hiền huynh quá yêu, tiểu đệ nào có tài năng gì đâu!

Hải Thanh nói với Vạn Xuân:

- Hiền đệ hãy nghe ta nói: ta là anh, dẫu có phải nép ở trong hàng nhạc công, nhưng cũng mang nặng ơn của thiên tử, những mong thiên hạ vô sự, thiên tử mãi mãi an hưởng thái bình. Không ngờ Lộc Sơn phản loạn, phụ ơn lớn của hoàng gia, dấy binh chín châu, thế quả hung dữ. Những tưởng được như lời Dương tể tướng, nào ngờ tể tướng cũng chỉ là phường khoác lác, dối vua, chẳng hề có mưu lược gì để yên nước giúp vua. Mai kia vận mạng xã tắc chẳng biết thế nào dưới gót giặc Hồ. Ta thân mang ơn vua, sáng tối băn khoăn, những mong đem thân đền nợ nước. Hiền đệ vốn có chí lớn, dũng lược hơn người, nay lại được kết giao với đại huynh đây, cũng tìm đến dưới trướng Trương Phòng sứ, ta cũng thấy là có thể nên công trạng, thực đang đem hết sức lực ra mà báo quốc. Từ nay về sau thì tự ta lo lấy phận ta, hiền đệ lo lấy phận hiền đệ, hiền đệ đừng nghĩ ngợi, lo lắng gì đến ta nữa.

Nói rồi lệ rơi như mưa, Vạn Xuân cũng chan hòa giọt ngắn giọt dài. Tễ Vân đứng bên cũng phải ngậm ngùi. Hải Thanh sai người dọn tiệc rượu được ba tuần, liền đứng dậy mà rằng:

- Ta hôm nay suốt ngày phải túc trực trong cung, không được chuyện trò lâu nữa. Quốc gia đại sự, chính là lúc anh hùng kiến công lập nghiệp, chẳng nên lưu luyến như kiểu đàn bà thường tình.

Rồi đem ra một túi tiền, đưa làm lộ phí, ai nấy gạt lệ chia tay.

Tễ Vân than rằng:

- Lôi đại huynh, hai anh em đại huynh thật là "Nan huynh nan đệ (l) tiểu đệ hôm qua thật quá đường đột, lấy lòng kẻ tiểu nhân để đo dạ bậc quân tử vậy!

1 "Nan huynh nan đệ": Khó có người anh như thế, khó có một người em như thế. Thành ngữ, ý khen cả hai anh em đều giỏi.

Hôm ấy hai người cùng về Tần phủ. Anh em Quốc Mô bày tiệc rượu đãi, xong xuôi gói ghém hành lý lên đường. Anh em Quốc Mô tiễn đến hơn mười dặm, đặt rượu uống thêm với nhau, rồi mới chia tay, người về Tần phủ, kẻ đi Ung Khâu.

Anh em Quốc Mô, từ ngày nghe tin An Lộc Sơn phản loạn, lấy làm lo lắng cho công việc triều đình, suốt ngày riêng bàn kế sách tiêu trừ lũ nghịch tặc. Lại thêm nghe tin quân triều đình thất lợi, lòng càng tức tối, ý cũng muốn dâng sớ điều trần phương lược, lại nghĩ hiện nay chẳng còn ở quan chức, không tiện dâng lời mà mang tội.

Trong lúc trừ trừ, bỗng có đặc chi giáng xuống, khôi phục cho cả hai anh em về nguyên chức cũ, trung thu nhận mệnh, ngay ngày hôm sau vào triều, lạy chầu Huyền Tông:

Chính là:

Trong mộng gặp một quỷ hỏng tiến sĩ

Vội mời ra hai anh em trạng nguyên.

Chưa biết nước nhà ra sao, xin xem hồi sau phân giải.

Hồi Thứ Chín Mươi

Thề trung trinh, Nhan Châu Khanh khởi nghĩa,

Nghĩa ghen ghét, Kha Thư Hãn bại binh.

Từ rằng:

1 . Mãi khi nước loạn biết tôi trung

Muôn hiểm nguy chẳng chút ngại ngùng

Nghĩa khí một nhà đều son sắt

Cúi đầu ai đó thẹn lòng chăng?

2. Đại tướng cầm quyền

Thời cơ chèo chống

Khi tĩnh khi động

Thắng bại ai ngờ

Gian thần chỉ mấy hàng thư

Khiến ba quân những thất cơ tan tành!

Theo điệu "Triều trung thố"

Từ xưa trung thần nghĩa sĩ, gặp lúc thái bình, người người khó thấy tấm lòng trung nghĩa, mãi tới khi loạn lạc, mới rõ tiết tháo: Lũ tiểu nhân lúc yên thì ngồi ở ngôi hưởng lộc, dựa uy ỷ thế, khua môi múa lưỡi, đến lúc này lại trông theo gió mà bỏ chạy. Một vài bậc tiết tháo trên, thề giữ lòng son, xông pha mũi kiếm rừng thương, liều thân, dẫu trăm sống một chết không sờn, đến lúc này thì từ thiên tử cho tới thứ dân mới đều kính phục, tên tuổi được truyền tụng mãi mãi. Lòng son dạ sắt đó của họ, vốn cũng chẳng là ý nguyện thuở ban đầu. Mong muốn của các bậc này là vua thì có đức độ, trăm quan thì trong sạch, vua sáng tôi hiền, hòa thuận, thân danh minh bạch, chẳng bao giờ nghĩ tới chuyện chết, vì vua vì nước làm tốt. Nhưng tới bước cùng của thời loạn, để đến nỗi người người đều rõ gương trung nghĩa, thì còn đâu là sự may mắn của giang sơn. Lúc xã tắc bất hạnh này, cực chẳng đã mà phải hưng binh xuất tướng, gánh vác trọng yên nguy của trăm họ, tất phải biết thời thế, hiểu lẽ tiến thoái, không thể tiến thì dừng, có thể tiến phải tiến, mọi cử động đều phải đúng nơi đúng lúc từ ngoài cửa khổn (1) là đều thuộc quyền cai quản của đại tướng, nếu vì lời gièm pha của bọn quyền gian, mà nghi ngờ oan uổng, đòi tiến bức thoái, đến nỗi rơi vào kế sách của địch, binh bại, nước tan, kẻ trung thần phơi thây thì thật là đáng tiếc, đáng căm lắm thay, trời xanh lồng lộng, đất rộng mênh mông cũng phải ngậm ngùi không tiếc vậy.

1 Ngoài cửa khổn: "Sử ký" có câu "Khổn dĩ nội quả nhân chế chi. Khổn dĩ ngoại tướng quân chế chi". Khổn: là cửa ngoài thành. Từ cổng thành trở vào thì trẫm coi xét, từ cửa ngoài trở ra thì tướng quân coi xét. (Từ điển Thiều Chửu).

***

Lại tiếp chuyện Huyền Tông ban chiếu phục nguyên chức cho Tần Quốc Mô, Tần Quốc Trinh, hai người vào triều tạ ơn. Huyền Tông tìm lời an ủi một hồi, rồi hỏi sách lược trừ nghịch đảng. Hai anh em thay nhau trần tình. Đại khái cũng là dùng binh nên thận trọng, chọn tướng cho thích hợp. Đang lúc bàn bạc, thấy quan ở bộ lại vào tâu:

- Lâu nay thái thú Thư Dương vẫn khuyết, nghịch tặc An Lộc Sơn nhân cơ, tiến cử gian đảng Trương Thông Ngộ làm thái thú, vừa rồi đã bị Giả Bí huyện ủy Đan Phụ dẫn nha lại cùng chúng dân chém chết, nay cần tuyển một nhân viên thái thú mới đến, xin cử một vài người, kính mong bệ hạ chọn lựa rồi giáng chỉ tuyển dụng.

Quốc Mô liền tâu:

- Thư Dương vốn là đồn lũy hiểm yếu coi vùng Giang Hoài, nay lúc nghịch tặc lại hoành hành, chức phận thái thú rất nặng, người tầm thường khó có thể gánh vác, không nên câu thúc bởi những luật lệ bình thường. Theo chư thần biết: Cao Yếu úy Hứa Viễn, là người có chí khí, tiết tháo, tài lược, thật xứng đáng chức này, kính xin thánh thượng xem xét.

Huyền Tông bằng lòng, lệnh cho Lại bộ lấy Hứa Viễn làm thái thú Thư Dương, lại hỏi tiếp:

- Như ý hai khanh, bây giờ ai là tướng giỏi?

Quốc Trinh thưa:

- Từ xưa đã nói: "Thiên hạ nguy, chú ý soái". Nay các tướng mà bệ hạ đang dùng như Phong Thường Thanh, Cao Tiên Chi, dẫu có gánh vác nổi việc quân cũng không thể gọi là tướng giỏi. Trước đây Hàn Lâm học sĩ Lý Bạch từng dâng sớ xin tha tội cho biên tướng Quách Tử Nghi là bậc có tài đánh thành chiếm đất, ôm trí thao lược, bệ hạ đã nghe theo, cho chuộc tội. Quách Tử Nghi nhiều lần lập công, chủ soái là Kha Thư Hãn dâng biểu tiến cử, nay đã làm Cửu Nguyên Thái thú Sóc phương tả sương binh mã sứ, đó mới thật là bậc tướng giỏi, Lý Bạch tâu quả không sai vậy.

Huyền Tông gật đầu khen phải. Nhân đó hỏi tiếp:

- Kha Thư Hãn tài năng ra sao?

Quốc Mô tâu:

- Kha Thư Hãn từ lâu vẫn có uy, chỉ hiềm tính tình quá hà khắc, không thương sĩ tốt. Triều đình dẫu có giao trọng trách cho tùy nghi mà hành động; thì chẳng đến nỗi phụ sự ủy thác của thánh thượng, nhưng gần đây nghe nói ốm bệnh không làm được việc.

Huyền Tông phán:

- Kha Thư Hãn sẽ vì trẫm mà gắng sức vậy.

Liền giáng chỉ thăng Quách Tử Nghi làm Sóc phương Tiết độ sứ, còn Kha Thư Hãn làm Binh mã phó nguyên soái. Kha Thư Hãn liền dâng sớ cáo bệnh, Huyền Tông vẫn không nghe, liền cho cầm mười vạn quân phòng ngự An Lộc Sơn.

Lúc này, An Lộc Sơn đang vây hãm Linh Xương cùng Trần Lưu thanh thế rất lớn, lại vươn ra phá Vinh Dương, nhòm ngó Đông Kinh. Phong Thường Thanh đóng binh ở Vũ Lao để chống cự, nhưng vì binh lính vừa ít vừa chưa quen chiến trận, vốn là bọn lêu lổng ở thành thị, thấy thế giặc mạnh, chưa đánh đã sợ hãi bỏ chạy, Lộc Sơn đặc sai bọn thiết kỵ tới đánh, quan quân chạy dài mà không hề dám chống cự

Chính là:

Nếu biết việc quân là khó thế

Thì xưa trước điện chẳng huênh hoang.

Thường Thanh thu nhập tân binh, đánh nữa nhưng lại thua to, quân giặc thừa thế vây hãm Đông Kinh. Hà Nam thái thú Đạt Hề Tuân mở cửa thành ra hàng, chỉ riêng Lưu thú Lý Hằng, Trung thừa Lưu Dịch, Thái phỏng phán quan Tường Thanh không chịu đầu hàng, thành bị phá, mặc triều phục ngồi ngay ở công đường. Lộc Sơn sai lính giải tới trước hàng quân, cả ba đồng thanh mắng giặc, nên cùng bị Lộc Sơn giết một lần.

Thường Thanh thu góp tàn binh chạy về Thiểm Châu ở phía tây lúc này Cao Tiên Chi đang đóng binh ở đây. Thường Thanh tới gặp khóc lóc mà rằng:

- Tiểu nhân ngày đêm ngoài chiến trường, nhưng nghịch tặc quả là hung dữ khôn đương, trộm nghĩ Đồng Quan binh ít, chẳng may mà lũ phản nghịch kéo qua cửa này, thì Trường An quả là nguy. Chi bằng dẫn binh lính ở Thiểm Châu ra Đồng Quan mà giữ trước.

Tiên Chi nghe theo, liền cùng Thường Thanh kéo binh ra Đồng Quan, quả nhiên giặc tới, không vào được, đành phải quay lui, cho nên tính ra thì cũng là công lao của cả hai. Không ngờ giám quân sứ Biên Lệnh Thành, vẫn thường hay hạch sách nhũng nhiễu Tiên Chi mà không được toại ý, trong lòng rất giận, lại căm Thường Thanh không chịu hối lộ gì cả, liền mật tâu về triều đình, Thường Thanh rêu rao thanh thế Lộc Sơn để dọa binh lính, khiến quân đội chưa thấy đã bỏ chạy, còn Tiên Chi thì coi thường bỏ hẳn đất Thiểm Châu mấy nghìn dặm, thông đồng với nhau để lấy quân lương bỏ vào túi riêng, phụ sự ủy thác của triều đình rất lớn. Huyền Tông tin theo, cả giận liền hạ mật chiếu cho Lệnh Thành, chém đầu Thường Thanh cùng Tiên Chi.

Lệnh Thành dựa vào việc này, gọi hai người đến, chưa kịp chào hỏi. Lệnh Thành đã giơ tay:

- Có thánh chỉ bắt hai vị xử tử đây!

Rồi quát tả hữu:

- Trói lại cho ta!

Tuyên đọc mật chiếu. Thường Thanh nói:

- Tướng bại trận, dẫu có bị tội chết cũng không dám chối. Nhưng triều thần nói rằng An Lộc Sơn dễ diệt trừ, thì quả là không đúng. Thần dẫu có chết, cũng không dám coi thường lũ giặc này. Nay hãy tìm được tướng giỏi, luyện tập binh lính cho tốt mới mong trụ nổi?

Tiên Chi tiếp:

- Ta gặp giặc mà rút lui, tội thật đáng chết, nhưng nói rằng ta xâm trộm vào quân lương, thì há là oan quá sao?

Hai người chịu chết, bộ hạ sĩ tốt đều cho là oan uổng, tiếng vang khắp đất trời. Đời sau có thơ than rằng:

Quan hoạn đã cầm, nát việc quân

Gia hình hai tướng, lại càng oan

Can qua hệ trọng mà nghe bậy

Còn đáng tin vua không nữa đây?

Hai người đã chết, lệnh truyền Kha Thư Hãn thống lãnh tất cả, cùng với Phiên tướng Hỏa Bạt Quy Nhân cai quản hai mươi vạn quân, đóng ở Đồng Quan.

***

Lại nói Lộc Sơn vây hãm Hà Nam, sai bọn tay chân như Đoàn Tử Quang, Lý Đăng, Lư Dịch, Tương Thanh truyền dụ các nơi ở Hà Bắc phải thuần phục và nạp lương thực, vàng bạc. Lệnh truyền đến quận Bình Nguyên.

Thái thú Bình Nguyên là người vùng Lâm Nghi, họ Nhan, tên Châu Khanh, tự Thanh Thần, vốn là dòng dõi của phục thánh Nhan tử (1), vẫn mang lòng trung quân ái quốc. Ngay từ khi Lộc Sơn chưa khởi sự, Chân Khanh đã biết thế nào y cũng sẽ phản loạn. Gặp tiết mưa dầm, Chân Khanh liền mượn ngay cớ này, để đào hào đắp thành rèn luyện tráng đinh, tích trữ kho tàng, lặng lẽ xếp sẵn mọi thứ. Lộc Sơn xem Chân Khanh là lũ học trò, không xứng đáng để tâm. Đến khi dấy quân, các quan huyện ở Hà Bắc đều đầu hàng, ai nấy đều đoán là quận Bình Nguyên sớm muộn gì rồi cũng sẽ quy thuận, nhưng hịch truyền tới rồi, Chân Khanh lại càng phòng thủ thành quách, cửa sông ráo riết hơn. Chân Khanh nhận được hịch rồi, bèn sai tâm phúc, cầm thư hẹn với các quận xung quanh, mật ước thời gian nổi quân chống giặc. Mặt khác chiêu mộ dũng sĩ tới hơn một vạn người, khóc thề chết vì nghĩa lớn, ai nấy đều nghẹn ngào, căm giận lũ nghịch tặc, noi theo thái thú.

1 Tức Nhan Hồi, học trò giỏi của Khổng Tử, xem chú thích hồi 35.

Lúc này dân đảng Đoàn Tử Quang rầm rầm rộ rộ đem thủ cấp ba viên trung thần bị chém đến dọa, Chân Khanh bắt được ngay trên thành, trói lại đem chém ngang lưng cho mọi người đều được thấy. Đem ba thủ cấp, chắp đủ thân cổ vào, rồi dùng quan tài chôn cất, có tế lễ khóc điếu rất trang nghiêm. Huyện lệnh Thanh Trì Giả Tải, huyện lệnh Lam Sơn Mục Ninh, nghe biết những việc làm nghĩa hiệp của Chân Khanh, liền cùng nhau giết thái thú theo giặc của quận Cảnh Thành là Lưu Đạo Nguyên, đem thủ cấp, cùng vũ khí, giáp trụ tới hơn năm mươi thuyền, chở đến chỗ Trưởng sử Lý Vi. Lý Vi thấy bè đảng Lộc Sơn là Nghiêm Trang vốn người Cảnh Thành, bèn bắt trói họ hàng có đến mấy chục người, đều giết cả, đem thủ cấp Lưu Đạo Nguyên cùng với mọi thứ chỡ tới Bình Nguyên cho thái thú Nhan Chân Khanh.

Nhiêu Dương thái thú Lưu Toàn Thành, Hà Gian tư pháp Lý Hoán, Tề Dương thái thú Lý Tùy, đồng mưu đem những thái thú, trưởng sử do An Lộc Sơn ngụy phong giết sạch, cùng với binh Phiên hàng mấy nghìn người, tôn Nhan Chân Khanh lên làm minh chủ. Chân Khanh lên làm minh chủ, liền sai bản châu tư Pháp binh mã do Lý Bình cầm biểu văn, cùng với tờ hịch của Lộc Sơn, theo đường tắt về Trường An dâng lên Huyền Tông.

Lúc Lộc Sơn mới khởi loạn, Hà Bắc chấn động, nhưng chẳng một ai dám chống cự. Huyền Tông nghe tin, thở dài mà than:

- Cả hai mươi tư quận mà không một kẻ nghĩa sĩ nào cả sao?

Đến khi Lý Bình dâng biểu về, Huyền Tông cả mừng:

- Trẫm không biết Nhan Chân Khanh làm công trạng gì, nhưng lẽ nên như thế.

Liền ban ngay chiếu chỉ, phong Nhan Chân Khanh làm Thái phòng sứ Hà Bắc, nhận chức ngay ở nơi đang làm việc, kiêm chủ quản luôn các việc khác ở Bình Nguyên, cho miễn việc về kinh ra mắt thiên tử tạ ơn nhận chức.

Về sau trung thần nhà Táng Văn Thiên Tường (1), đi qua Bình Nguyên, có bài thơ vịnh sau đây:

1 Văn Thiên Tường (1236-1282): anh hùng dân tộc, nhà thơ lớn cuối Tống. Người Giang Tây, 20 tuổi đỗ đầu bảng tiến sĩ (hoàng giáp của Việt Nam), làm đến hữu thừa tướng. Kiên quyết chống Nguyên, bị giặc bắt, ung dung chịu hành hình ở Yên Kinh (tức Bắc Kinh nay) sau ba năm giam giữ. (Tống thi nhất bách thủ).

Nhan Chân Khanh thái thú Bình Nguyên

Vua ở kinh đô không biết tên

Trống trận Ngư Dương ầm ầm nổi

Suốt dọc sông không một thành bền

Anh em họ Nhan vung gươm lên

Hai mươi bảy quận cùng kết liên

Lũ giặc hãi kinh không dám tiến

Run chân hoảng hốt, bỏ chạy liền

Đường Minh Hoàng ruổi gấp vào Thục

Đường Thái tử Linh Vũ khởi binh

Tái lập nhà Đường nhờ Lý, Quách

Họ Nhan bị giặc chèn uy binh!

Nhan Thường Sơn dẫu giặc cắt lưỡi

Chân Khanh về triều, chí không đổi

Quanh co vất vả vẫn không xong

Hai chữ Trung Tiết bốn triều rọi

Lúc trước, họ Nhan thoát Lộc Sơn

Lần sau, lại khổ Lý Hy Liệt

Hy Liệt đâu có hại được ai

Mà bởi tên Ly Kỷ gian quyệt

Loạn thần tục tử ở nơi đâu

Vàng võ Trung Nguyên cây cỏ rầu

Hơn sáu trăm năm ai đã khuất

Trinh trung rực rỡ mãi về sau!

Trong bài thơ có nói: "Lần sau lại khổ Lý Hy Liệt", là nói chuyện đến đời Đức Tồn, bị gian thần Lư Kỷ (1) vì ghét Chân Khanh trung trực, nên mới sai đi dụ hàng nghịch tặc Lý Hy Liệt, nên cuối cùng Chân Khanh bị bọn này sát hại, lúc này đã bảy mươi tuổi rồi! Nhưng đó là chuyện về sau.

1 Lư Kỷ: Cũng là Lư Kỷ, gian thần trong chuyện "Nhị độ mai" từng hãm hại cha con Mai Bá Cao, truyện nôm của Việt Nam.

Còn việc "Nhan Thường Sơn bị giặc cắt lưỡi" là chuyện người anh họ của Chân Khanh, Nhan Cảo Khanh, vốn một lòng trung nghĩa, chẳng khác gì Chân Khanh. Khi Lộc Sơn phản loạn, Cảo Khanh làm thái thú Thường Sơn. Lộc Sơn kéo binh tới Cảo Thành, Thường Sơn nguy cấp, Cảo Khanh tự lượng Thường Sơn binh lương chẳng đủ, nhất thời không thể cự địch, liền bàn bạc với Trưởng sử Viên Phúc Khiêm, trước tiên hãy cứ ra hàng, để tránh nhuệ khí buổi đầu của giặc. Lộc Sơn mừng rỡ ra đón, ban cho áo bào tím lẫn đai vàng, rồi vẫn cho làm thái thú Thường Sơn như cũ.

Cảo Khanh cùng Lý Khiêm mật bàn khởi nghĩa, gặp lúc Chân Khanh sai con rể Lô Địch tới Thường Sơn, hẹn ước cùng Cảo Khanh kết binh để chặn đường quay về của Lộc Sơn. Lộc Sơn vừa tiếm hiệu xưng làm Đại Yên Hoàng đế, cải niên hiệu là Thánh Vũ nguyên niên. Cảo Khanh liền thác mệnh Lộc Sơn, triệu tướng giặc là Lý Khâm Thấu đang giữ Tỉnh Kinh dẫn tướng sĩ tới để khao thưởng nhân dịp lễ lên ngôi, cùng nhau tiệc rượu say khướt, trói ngay lại chém chết, hiểu dụ để giải tán đám quân sĩ. Các tướng giặc là Cao Mạc, Hà Thiên Niên vừa nhận lệnh của Lộc Sơn, đến Hà Bắc để kén lính, đi qua Thường Sơn, đều bị Cảo Khanh giết chết.

Lúc này bộ tướng của Lộc Sơn là Trương Hiến Thành nghe tin Sóc Quang Bật, cùng Vũ Phong sứ Cố Hoài An dẫn quân sĩ từ Tỉnh Kinh kéo ra. Hiến Thành nghe tin hoảng sợ. Cảo Khanh liền cho người tới thuyết phục giải vây cho Nhiêu Dương, Hiến Thành bèn dẫn quân bỏ trốn. Cảo Khanh lệnh cho Lý Khiêm vào Nhiêu Dương, khuyến khích quân sĩ, truyền hịch đến các quận, cả vùng Hà Bắc hưởng ứng. Cảo Khanh liền lấy thủ cấp Lý Khâm Thấu, Cao Mạc cùng Hà Thiên Niên dâng về kinh sư. Sai con là Nhan Tuyền Minh, Nội khâu thừa Trương Thông U, đem biểu văn tới kinh đô báo tin.

Thông U vốn là em ruột Thông Ngộ, Thông U sợ anh mình hàng giặc, tai họa cho cả nhà nên tìm cách để vớt vát, do biết rõ thái thú Thái Nguyên Vương Thừa Nghiệp, có đi lại riêng với Dương Quốc Trung, mới tìm cách triệt bỏ chuyện này, khuyên Thừa Nghiệp giữ Tuyền Minh lại rồi thay biểu văn, nói giả là công trạng của mình cả.

Cảo Khanh khởi nghĩa mới được mấy ngày, tướng giặc là Sử Tử Minh đột ngột kéo quân tới chân thành. Cảo Khanh sai người tới Thái Nguyên xin cứu binh. Bởi Vương Thừa Nghiệp đã làm việc cướp công, Cảo Khanh mà chết thì y càng có lợi, nên đóng binh không chịu cứu. Cảo Khanh đem hết sức ra chống giữ, lương hết, quân sĩ mỏi mệt, cuối cùng thành mất, bị giặc bắt, giải tới dưới trướng Lộc Sơn.

Lộc Sơn lớn tiếng quát:

- Ngươi sao dám phản ta?

Cảo Khanh trừng mắt lớn tiếng mắng.

Lộc Sơn giận lắm, lệnh cắt lưỡi, cùng với Viên Phúc Khiêm đều bị sát hại. Cả hai cho tới lúc chết, vẫn không thôi chửi lũ phản nghịch.

Chính là:

Thông U bỏ nước chỉ lo nhà

Thừa nghiệp tranh công cốt lợi ta

Khiến bộc trung lương oan trái chết

Máu cùng nước mắt những chan hòa.

Cảo Khanh tận tiết mà chết, nhân Thừa Nghiệp cướp công, Thông U toan tính mọi sự, Quốc Trung cũng giúp vào việc ám muội này, nên triều đình chẳng ngó ngàng đến cái chết của Cảo Khanh. Mãi đến năm Càn Nguyên đời Túc Tông, Nhan Chân Khanh khóc lóc tố cáo chuyện này với Túc Tông, rồi tâu lên Thái Thượng hoàng Đường Minh Hoàng. Lúc này Vương Thừa Nghiệp đã vì việc khác mà phải tội chết, chỉ còn Trương Thông U, Minh Hoàng liền ra lệnh dùng gậy lớn đánh chết, truy tặng Cảo Khanh làm Thái tử thiếu bảo, ban tên thụy là Trung Tiết. Còn con là Tuyền Minh, bị giặc bắt đi, sau này trốn thoát, tìm được thi thể cha cùng thi thể Viên Lý Khiêm, bỏ vào quan quách mà chở về. Phàm những nhà thuộc họ Nhan, vợ con các tướng sĩ thuở xưa của Cảo Khanh lưu lạc, đều được trọng đãi, kể có đến hơn năm mươi nhà, cộng hơn ba trăm người, đều được ngợi ca là cao nghĩa, nhưng đó là chuyện về sau. (1)

1 Nhan Chân Khanh còn nổi tiếng vì chữ viết rất đẹp của đời Đường. Cảo Khanh chính là người được Trần Quốc Tuấn nêu làm gương trong "Hịch tướng sỉ": "Kính Đức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thế Sung; Cảo Khanh một bề tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn không theo mưu kế nghịch tặc". (Vế đầu là chuyện Uất Trì Cung, nói rõ ở hồi thứ 57).

***

Lại nói chuyện Chân Khanh nghe tin Cảo Khanh tử tiết, kinh sợ khóc lớn, khóc là khóc anh, sợ vì Thường Sơn thất thủ, giặc chiếm được nơi hiểm yếu, thật là đáng lo. Bỗng lại thấy thám mã về báo, Quách Tử Nghi vâng chiếu chỉ đánh Đông Kinh, đặc biệt tiến cử Lý Quang Bật làm Hà Đông tiết độ sứ, chia hơn một vạn binh, từ Tỉnh Kinh mà tới Đông Kinh. Chân Khanh cả mừng mà rằng:

- Như thế thì Thường Sơn có thể khôi phục được?

Lúc này huyện Thanh Hà, từ huyện lại tới dân chúng, cử trưởng ấp Lý Ngạc đến Bình Nguyên, hiến lương thực, khí giới cùng các loại quân trang, quân dụng, đồng khởi xin binh lính để giữ huyện. Lý Ngạc chưa đến tuổi đội mũ, nhưng khí phách hiên ngang, ngôn từ hào mại, Chân Khanh cho là người tài, cấp cho năm nghìn quân. Lý Ngạc nhân đó bèn thưa rằng:

- Triều đình đã phái binh ra Quách Khẩu, giặc dựa vào thế hiểm trở để chống giữ, quan quân không tiến được. Đại nhân nên dẫn quân đánh Ngụy Quận, rồi mở đường vào Quách Khẩu cho quan quân, nhân đó mà đánh Cấp Nghiệp cùng các quận huyện phía Bắc. Sau đó tập hợp binh lính các quận nam thì kéo đến Mạnh Tân, đóng giữ các nơi hiểm yếu, khống chế đường về phía Bắc của giặc. Lại dâng biểu tâu triều đình, kiên quyết cố thủ, không xuất chiến vội, chẳng qua trong vòng một tháng, thì lũ phản nghịch đến bỏ cả cơ nghiệp mà chạy vậy.

Chân Khanh nghe theo lời, sai tham quân Lý Trạch Giao, đem binh họp ở Thanh Hà, Bắc Bình đóng ở Đường ấp, lừa cho thái thú của giặc là Viên Tri Thái đến đánh. Quan quân đều gắng sức chiến đấu, quân giặc thua to, phải rút khỏi Ngụy Quận. Uy thế quan quân càng nổi. Thái thú Hạ Lan vùng Bắc Hải là Tiến Minh liền điều binh đến họp ở phía Nam thành Bình Nguyên, Chân Khanh đãi rất hậu, mới lấy công lao ở Đường ấp nhường cho. Tiến Minh không từ chối mà nhận, rồi tự dâng biểu văn tâu về triều đình. Chân Khanh cũng không lấy làm điều.

Lý Quang Bật khôi phục được Thường Sơn, Quách Tử Nghi cùng Bật Quang đã hội binh một nơi. Tướng giặc Sử Tử Minh tiến đánh, Tử Nghi dùng kế, đến nỗi Tử Minh phải xõa tóc, chân không, cầm giáo gãy mà chạy bộ, riêng một mình tìm cách trốn. Hơn mười quận ở Hà Bắc đều thoát khỏi tay giặc.

Lại nghe Ung Khâu Phòng ngự sử Trương Tuần đánh thắng mấy trận, liền cùng nhau mừng rỡ, thì có lệnh của triều đình đòi Kha Thư Hãn Phó nguyên soái phải ra quân ngay.

Lâu nay Kha Thư Hãn vẫn đóng quân ở Đồng Quan, để làm bình phong che cho kinh đô Trường An, nên vẫn giữ ý "án binh bất động", đợi thời mới ra tay. Hà Nguyên Phó sứ quân Vương Tư Lễ thừa cơ xúi với Kha Thư Hãn:

- Nay thiên hạ đều cho rằng kẻ gây nên chuyện loạn lạc này là Dương Quốc Trung, đều căm giận nghiến răng trợn mắt, xin chém đầu Quốc Trung để tạ thiên hạ, tất lòng người đều vui sướng, mà chẳng nghĩ đến cái chết để lập công.

Kha Thư Hãn lắc đầu không nghe, Tư Lễ lại bàn:

- Nếu như dâng biểu, sợ chưa chắc đã được như nguyện, tiểu nhân này xin ba chục người ngựa, bắt cóc được Dương Quốc Trung ra Đồng Quan đây mà chém đầu.

Kha Thư Hãn ngạc nhiên:

- Nếu như thế thì khác nào Kha Thư Hãn làm phản, chẳng đến phần An Lộc Sơn nữa rồi. Những lời này sao lại tuôn ra từ miệng ngài được?

Tư Lễ không dám nói nữa.

Về phía Dương Quốc Trung, cũng có người bàn với y rằng:

- Quân đội của triều đình đều nằm gọn trong tay Kha Thư Hãn, nếu lời người đúng thực, Kha Thư Hãn nhổ cỏ đi về phía tây, thì thật tể tướng không còn chỗ đứng.

Quốc Trung sợ lắm, không biết làm thế nào, bỗng nghe báo tướng giặc giữ Thiểm Châu là Thôi Cân Hựu, chỉ có không tới bốn ngàn lính, thế rất mong manh, chẳng thấy phòng giữ gì. Quốc Trung liền tâu với Huyền Tông, sai sứ thúc Kha Thư Hãn xuất quân khôi phục vùng Thiểm Lạc này. Kha Thư Hãn dâng biểu về tâu, đại lược rằng:

"Muôn tâu bệ hạ,

An Lộc Sơn vốn quen dùng binh, há khống biết phòng giữ sao, để trống chỗ này cho mọi người thấy, chính là nhằm dụ thần xuất binh. Nay mà thần coi thường ra quân, chính là rơi vào kế gian của kẻ địch. Xin hãy đợi, giặc từ xa tới, ở lợi chỗ đánh nhanh, binh của thần giữ nơi hiểm yếu, lợi ở chỗ phòng giữ.

Huống chi quân giặc tàn ngược, mất lòng dân chúng, ngày càng tan rã, thế nào cũng có lục đục nội tình, nhân đó mà đánh thì chẳng mất sức mà địch cũng chạy. Muốn là sự thắng cuối cùng, nhưng không thể vội vã. Nay các đội quân nhỏ, chưa kịp tập hợp. Kính xin hãy chờ ít lâu nữa!"

Quách Tử Nghi, Lý Bật Quang cũng dâng biểu tâu đại lược:

"Muôn tâu thánh thượng

...Xin dẫn quân bản bộ kéo lên bắc đánh vào Phạm Dương, lật đổ sào huyệt của giặc, bắt lấy vợ con của gian đảng làm con tin, để rồi chiêu hàng, thì tất lòng dạ của quân giặc sẽ hoang mang.

Còn như đại binh ở Đồng Quan, xin hãy cố thủ, không nên xem thường mà xuất binh vội."

Nhan chân Khanh cũng có sớ về tâu: "Đồng Quan là nơi hiểm yếu, là bình phong che chở cho kinh đô Trường An, lấy cố thủ là thượng sách. Lũ giặc đương bày kế để dụ ta. Xin đừng nghe theo những lời bàn tán mà lay động."

Biểu sứ cứ thế tới tấp gửi về, nhưng Quốc Trung vẫn một mực giữ ý phải xuất quân. Huyền Tông tin lời, mấy lần sai trung sứ, đi đi lại lại giục phải xuất quân, lại còn tự tay chiếu chỉ trách mắng:

"Khanh giữ một đội quân lớn của Quốc gia, không nhân lúc quân giặc chẳng phòng giữ mà mau chóng thu hồi những nơi hiểm yếu chỉ biết ngồi chờ lũ nghịch tặc tự tan, đóng binh không chịu chiến đấu. Ngồi bó tay đến mất thời cơ.

Mưu kế của khanh, trẫm vẫn chưa hiểu, nếu chờ chờ đợi mãi, quân giặc từ chỗ không phòng giữ, chuyển sang giữ kín, quân ta ngày này sang tháng khác, chẳng lập nên công trạng gì. Quân pháp còn đó, trẫm cũng không dám coi thường vậy."

Kha Tư Hãn tiếp được thánh chiếu, dày vò tính toán, thế không thể nào không xuất binh, đấm ngực khóc lóc một hồi, rồi chỉnh đốn quân ngũ, dẫn binh ra khỏi cửa quan, gặp quân của Thôi Càn Hựu ở Linh Bảo, gần Tây Kinh. Quân giặc dựa vào thế hiểm mà giữ, nam thì có Thư Sơn, bắc thì có sông Thư Hà, ở giữa là cửa ải, suốt bảy mươi dặm như thế. Năm vạn binh của Vương Tư Lễ ở phía trước, phó tướng Bàng Trung dẫn mười vạn binh tiến theo. Kha Thư Hãn tự dẫn ba vạn binh, trèo lên gò cao ở phía nam sông cờ giong trống gióng, để gây thanh thế.

Thôi Càn Hựu dẫn không quá một vạn quân, đội ngũ nhếch nhác, quan quân trông thấy, đều vỗ tay mà cười. Nào ngờ y đã phục tinh binh ở nơi hiểm yếu, chưa giao tranh, nên vẫn cuốn cờ im trống, chẳng khác gì cảnh định bỏ chạy. Quan quân đều ỷ thế chẳng phòng bị gì cứ thế hếch mắt mà xem. Bỗng pháo nổ liên tiếp, phục binh nhất tề đổ ra, quân giặc dựa thế cao hơn, lao gỗ đá xuống, quan quân bị giết vô số, tắc nghẽn cả đường đi, người người bị bắt trói, thương côn đều chẳng dùng được. Kha Thư Hãn với mấy chục chiến xa phủ lông thú làm tiền đội, cũng muốn xông ra khỏi trùng vi, nhưng Thôi Càn Hựu đã trữ sẵn mấy chục xe cỏ khô, ngăn ngay trước mặt, nổi lửa mà thiêu. Vừa lúc đó gió đông thổi mạnh, lửa réo gió giật, nương tựa lẫn nhau, khói bay mù mắt, quan quân chẳng còn nhìn thấy gì, nhắm mắt chạy càn, bắn hết mũi tên này đến mũi tên khác. Mãi cho đến khi chẳng còn, mới thấy rõ là chẳng có một tên giặc nào cả.

Càn Hựu lại sai tướng, dẫn mấy vạn binh, từ phía nam núi kéo lại phía sau quan quân, đầu cuối cùng đánh. Quan quân kinh hoàng, thua to mà chạy, hoặc vứt khí giới, giáp trụ tìm hang hốc lẩn trốn như chuột. Bọn chạy dài thì lại gặp sông chặn, nên chết đuối không tính hết. Hậu quân đã thấy tiền quân thua to, cũng tự tan. Quan quân phía bờ Bắc đều bỏ trốn sạch. Chẳng mấy chốc quân đội hai bờ tan hoang. Nhìn lại cuộc chém giết, chỉ thấy:

Đầu thì dụ địch, giả chểnh mảng, vu vơ

Sau mới giao phong, vẻ hào hùng, hăm hở

Phút chốc quân sau ùn tới

Thinh lình mai phục đổ ra

Pháo nổ rầm trời

Trống khua dậy đất

Gặp thù ngõ hẹp, chật chội không múa được gươm lớn giáo dài

Chiếm thế gò cao, hung hăng cứ lăn bừa gổ cây đá lớn

Lửa bốc nhờ sức gió, tối tăm hai mắt như mù

Tên bắn không trúng người, vun vút một hơi là hết

Thương hỡi ơi!

Toàn quân chốc lát tan tành

Chủ tướng cũng đành thúc thủ.

Quan quân đã thua to cả rồi, Kha Thư Hãn cùng đám tùy tùng khoảng hơn trăm người ngựa, vượt qua đoạn sông Thủ Dương Sơn, theo hướng tây mà chạy vào cửa quan. Tàn quân về đến cửa quan, thì trời đã tối, trước cửa quan là ba đoạn hào vừa rộng vừa sâu lại thêm lũy cao để đề phòng giữ quân giặc. Tranh nhau vào cửa quan, trong cảnh tối tăm hoảng loạn, tha hồ mà rơi vào hào rãnh, chẳng mấy chốc lấp đầy, người ngựa phía sau, cứ thế mà dẫm lên, như đạp trên đất bằng. Hai mươi vạn ra trận, thua chạy trở về được khoảng hơn tám nghìn người.

Càn Hựu thừa thắng đánh vào Đông Quan, Kha Thư Hãn lui về mãi trạm dịch Quan Tây, yết bảng thu nạp quân sĩ bại trận, định sẽ đánh lại. Bộ hạ của tướng Phiên Hỏa Bạt Quy Nhân đều chỉ muốn hàng, vừa nghe tin quân giặc tới nữa, đã vội giục Kha Thư Hãn lên ngựa ra khỏi trạm dịch. Hỏa Bạt Quy Nhân bàn:

- Chủ soái cầm hai mươi vạn quân trong tay, một trận chẳng còn gì, mặt nào trông thấy thiên tử, lại thêm tể tướng ghen ghét, chẳng thấy chuyện Phong Thường Thanh, Cao Tiên Chi sao? Chi bằng hãy chạy về phía đông (1), tìm cách mà tự lo lấy vậy.

1 An Lộc Sơn khởi loạn vùng Đông Bắc, ý nói hãy hàng giặc.

Kha Thư Hãn đáp:

- Ta thân làm đại tướng, há có thể hàng giặc sao?

Liền xuống ngựa, Quy Nhân quát quân lính, kéo hai chân cùng bụng của ngựa Kha Thư Hãn, chẳng cho nói nữa, ra roi mà chạy. Chư tướng cũng có người không theo đều bị trói lại. Gặp tướng giặc là Điền Càn Chân, kéo binh đến tiếp ứng, đem Kha Thư Hãn cùng đồng bọn dắt đến trước hành doanh An Lộc Sơn.

Lộc Sơn lâu nay vẫn bất hòa cùng Kha Thư Hãn, nhưng giờ không phải lúc kể oán thù cũ, nên Lộc Sơn phủ dụ quy thuận. Kha Thư Hãn đành nghe theo. Hỏa Bạt Quy Nhân bắt đầu khoác lác kể công trước bè đảng, nhất là việc làm cho Kha Thư Hãn hàng vừa rồi.

Lộc Sơn nghe ra, đùng đùng giận dữ:

- Quy Nhân phản bội triều đình, bức bách chủ soái, rõ là đồ bất trung bất nghĩa!

Liền lệnh chém đầu làm gương cho quân tướng. Thuở trước, Lộc Sơn xin dùng tướng Phiên, về sau lại làm phản, đều do công sức của Phiên tướng. Quy Nhân khoe khoang là Phiên tướng, lại dám múa lưỡi kể công, không ngờ bị Lộc Sơn giết chết.

Chính là:

Phản tặc không thể dung phản tặc

Tiểu nhân vẫn bản lĩnh tiểu nhân.

Kha Thư Hãn hàng giặc, Lộc Sơn phong làm tư không, bắt viết thư, kêu gọi Lý Quang Bật ra hàng. Quang Bật liền viết thư trách mắng. Lộc Sơn biết là không xong, liền bỏ tù Kha Thư Hãn ở phía hậu viện. Đời sau có người làm thơ than rằng:

Thư Hãn vốn tướng giỏi

Thua trận thực vô tội

Vì quyền gian giật dây

Đại tướng như con rối

Chưa nên đánh bắt đánh

Lòng tướng đã nguội lạnh

Nhục nước lại nhục thân

Ngàn thu vai nặng gánh.

Trận thua đau này, không thể lấy gì so được. Tin báo về triều đình, gây hoảng sợ không nhỏ.

Chính là:

Biên tái tướng quân tổn thất

Triều trung thiên tử kinh hồn.

Chưa biết sự thể ra sao, xin xem hồi sau kể tiếp.

Hồi Thứ Chín Mươi Mốt

Cửa Thu Diên, vua tôi tháo thân,

Trạm Mã Ngôi, anh em nộp mạng.

Từ rằng:

Xưa phú quý xa hoa cùng cực

Nay nhà tan, non nước đọa đày

Bỏ cung viện, bỏ đền đài

Gót sen đạp sỏi, lỗi này tại ai

Xưa ơn vua một nhà riêng hưởng

Nay lòng dân hờn oán căm gan

Núi băng nắng rọi tiêu tan

Còn đâu nữa, cả Ngọc Hoàn

Bây giờ mới hối còn toan nỗi gì?

Theo điệu "Thiểm tự Chiêu Quân oán"

Từ xưa vua hiền cùng hoàng hậu mẫu mực, không bao giờ dám cẩu thả trong việc giữ gìn chữ đức, luôn trong khuôn khổ cần kiệm, trên thì hợp mệnh trời, dưới vừa lòng dân, cho nên có thể phòng việc hoạn nạn khi hoạn nạn chưa sinh, chuyển họa thành phúc, bốn biển yên hàn chẳng có điều gì phải lo lắng, muôn dân vì vậy mà cũng được nhờ cậy. Nếu chẳng được thế, bề trên kiêu sa dâm dật, không biết kính trời yêu dân, dùng toàn bọn gian thần ngang ngược, ỷ thế được sủng ái, bọn phi tần cùng họ ngoại tác oai tác quái, bại hoại cả luân thường chỉ để cầu điều lợi cho bản thân, cho họ hàng, chẳng nghĩ gì đến giang sơn, đến nỗi trời thịnh nộ, người cũng oán hờn, can qua khắp chốn, nơi nơi thất thủ, xã tắc nghiêng ngửa. Bọn quyền thần bán nước, quý phi lấy bụng dạ tiểu nhân để khuynh loát thiên tử đều không thoát khỏi chết thảm. Nhưng theo đó là hàng triệu dân chúng lâm vào cảnh dọa đày, chết chóc, thiên tử cũng bôn ba vất vả. Mãi đến lúc này, mới hối hận than tiếc những lỗi lầm xưa, thì còn ích gì nữa.

***

Lại nói Huyền Tông nghe theo lời xui của Dương Quốc Trung, thúc bách Kha Thư Hãn ra quân để đến nỗi toàn quân tan nát, chủ soái tai ương, Đồng Quan rơi vào tay giặc. Các vùng Hà Đông, Hoa âm, Phùng Dực, Thượng Lạc, chủ tướng đều bỏ thành mà chạy. Theo pháp chế nhà Đường, ở các vùng biên trấn, cách ba mươi dặm, lại đặt một đống củi rơm khô, mỗi khi hoàng hôn, phóng hỏa mà đốt, cứ thế mà kéo dài đến kinh đô, để báo tin bình yên, nên gọi là "An bình hỏa". Lúc này, ba ngày liên tiếp, không thấy "An bình hỏa" đốt lên, Huyền Tông vô cùng lo sợ. Bỗng quân mã phi về liên tiếp, báo tin Kha Thư Hãn thua to, đất mất, giặc đang thừa thắng kéo về, thế không thể đương nổi. Huyền Tông kinh hoàng, lập tức triệu quần thần thương nghị.

Quốc Trung sợ mọi người sẽ oán trách y thúc bách bằng được việc xuất sư liền uốn lưỡi lớn tiếng trước:

- Kha Thư Hãn đáng ra phải xuất chiến từ lúc giặc chưa phòng giữ, nay chỉ vì quân chậm quá đến nỗi lũ nghịch tặc giảo hoạt đón trước được, thành ra trúng phải kế.

Đổng bình chương sự Vi Tô Kiến nói:

- Khinh địch thì bại, hối cũng chẳng kịp. Kế sách hiện nay, hãy mau trưng binh các đạo về tiếp viện. Rồi sai đại tướng dẫn lính mới mộ mà phòng giữ lấy kinh đô.

Hàn lâm thừa chỉ Tần Quốc Trinh tâu:

- Phải mau ban chỉ gọi Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật, kéo quân ngay về để chặn quân giặc vào Trường An.

Quốc Trung trầm ngâm không nói, Huyền Tông hỏi:

- Ý riêng của tể tướng ra sao?

Quốc Trung thưa:

- Binh ít mà chống giặc thì giữ thành là điều rất cần. Nhưng Đồng Quan đã mất, Trường An nguy lắm, lại gặp lúc thế giặc đang mạnh, càng ngày càng tiến gần kinh sư, binh lính bên ngoài chưa thể gọi về ngay, chẳng khác gì "Nước xa không cứu được lửa gần". Cứ như ngụ ý của thần, chi cho bằng xa giá nên tạm lánh vào Tây Thục. Trước tiên là để cho mình rồng yên ổn, không phải ngày đêm hoảng hốt vì gần giặc, sau đó là có thời giờ cho binh tướng ở bên ngoài đến. Đó mới là kế vạn toàn vậy!

Huyền Tông nghe tâu, chưa kịp phán, thì đã thấy Quốc Trinh xuất ban tâu:

- Nghịch tặc càn rỡ, thế tuy ngang ngược nhưng sao có thể địch lại sức mạnh của cả thiên triều. Nay bọn Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật, Nhan Chân Khanh, Trương Tuần đều nhiều trận đánh thắng. Gần đây có tin báo thái thú Đông Bình Ngô Vương Kỳ, dấy quân nhiều phen thắng lớn, giết rất nhiều quân giặc. Lại nghe An Lộc Sơn mắng bè đảng Nghiêm Trang, Cao Thượng rằng: "Các ngươi ngày trước khuyên ta phản lại triều đình là kế vạn toàn, nay ta bao lần bị quan quân dồn ép, vậy thì kế vạn toàn ở đâu?" Nghiêm Cao hai thằng tướng phản nghịch không biết đáp sao. Lộc Sơn định giết, tả hữu khuyên mãi mới thôi. Khí thế đã suy, rõ ràng chẳng sớm thì muộn sẽ tuyệt diệt. Nay binh tướng thua ở Đồng Quan, cũng bởi tại nghe lời dị nghị mà thúc bách xuất sư, không phải toàn tội Thư Hãn. Nay nếu quân các nơi kéo về, sẽ có ngày khôi phục được, sao lại chỉ vì một trận thua, đã vội tính chuyện chạy dài. Xa giá đã đi khỏi, kinh sư ai giữ, sao không tính kế an toàn cho xã tắc mà đã vội lo chuyện bỏ chạy vào Thục. Cứ như ngụ ý thì quả là không nên vậy.

Huyền Tông truyền dụ, các quan hãy trình rõ ý mình, nhưng chẳng ai dám tâu điều gì nữa, nhiều người thác rằng:

- Chúng thần xin nhường cho các quan ở Trung thư tỉnh bàn luận.

Huyền Tông buồn bực không vui, bãi chầu về cung.

Vì sao Dương Quốc Trung lại nghĩ tới việc chạy vào Tây Thục? Nguyên là trước kia y đã từng làm Kiến Nam tiết độ sứ, Tây Thục do đó là đất quen cũ, nghe tin An Lộc Sơn phản loạn, y đã sai bọn tâm phúc, ngầm sắp sẵn mọi thứ ở Tây Thục phòng lúc khốn nguy, nên mới đưa ra kế sách này, chẳng qua cũng chỉ là để lo lấy thân mình trước.

Chính là:

Chỉ vì mình sẵn đào ba ngách (1)

Nên ép nhà vua ruổi như bay.

1 Thành ngữ: "giảo thỏ, tam quật", con thỏ khôn, phải trữ sẵn ba hang. Xem thêm chú thích hồi 24 và 25.

Lúc này Quốc Trung thấy trăm quan bàn cãi, Huyền Tông cũng chưa quyết bề nào, thì riêng nghĩ: "Thiên tử muốn thân chinh, rồi lại định nhường ngôi, đều may có chị em nhà mình khuyên giải. Nay mưu kế chạy vào Thục này, cũng phải họ giúp cho một tay thì mới xong đây!". Liền nhân đó đến ngay phủ của Quắc Quốc phu nhân vừa dự yến tiệc trong cung về, cùng Hàn Quốc phu nhân ai về phủ ấy, mỗi kẻ một đoàn, bọn theo hầu mặc dù năm sắc y phục, nghi trượng choáng lộn một vùng chẳng khác nào trăm hoa muôn sắc. Đang lúc xuống kiệu để bước lên sảnh đường, thì thấy Quốc Trung hoảng hốt tới vội vàng nói không thành lời:

- Nguy lắm rồi! Chạy là hơn cả! Chạy là hơn cả thôi!

Quắc Quốc phu nhân vội hỏi:

- Có việc gì mà nguy thế?

Quốc Trung đáp:

- Đồng Quan thất thủ, quân giặc sắp tới. Mưu lược bây giờ, chẳng gì bằng là khuyên thánh thượng chạy ngay vào Thục. Chúng ta có nhà cửa trong ấy, dẫu có đi cũng chẳng mất phú quý. Hiện nay bách quan bàn bạc phân vân, thánh thượng chưa quyết ý, cần phải có chị em phu nhân vào ngay nội cung bàn trước với Quý Phi, rồi cùng nhau khuyên giải. Nếu để chậm, giặc tiến rất nhanh, lòng người biến loạn, chúng ta đến tan nát cả!

Quắc Quốc phu nhân nghe nói hoảng hốt, vứt ngay mọi việc sang bên, sai hẹn với Hàn Quốc phu nhân, quay vào cung, gặp Quý Phi kín đáo đem những lời Quốc Trung vừa nói thuật lại một lượt. Cả ba chị em tìm Huyền Tông, cố sức khuyên nên chạy ngay vào Thục. (1)

1 Nguyên văn khi nói việc chạy vào Thục của Huyền Tông đều dùng chữ "Hạnh Trục", hạnh: chỉ việc làm của vua. Cũng vì vậy Nguyễn Nhược Thị làm "Hạnh Thục ca" để chỉ việc chạy trốn khỏi Huế, của Hàm Nghi năm 1885, tương đương với từ "xuất bôn" chăng?

Chị một câu, em một câu, lại khóc lóc, lại nước mắt ngắn dài, không cho Huyền Tông cưỡng lại, đòi thêm Quốc Trung vào để bàn. Quốc Trung hết lời ca tụng giải pháp thần diệu này, còn phòng xa:

- Nếu bệ hạ nói rõ việc chạy vào Thục, đình thần tất bàn cãi phân vân, để rồi dây dưa lỡ mất cả việc lớn. Nay hãy cứ giả cách xuống chiếu thân ra trận, rồi lặng lẽ lên xe rồng đi Tây Thục vậy!

Huyền Tông nghe theo, hạ chiếu thân chinh. Lấy Kinh triệu doãn Ngụy Phương Tiến làm Ngự sử đại phu kiêm Tri đồn sứ, Thiếu doãn Thôi Quang Viễn làm Tây Kinh lưu thứ tướng quân. Sai nội quan Biên Lệnh Thành coi sóc bảo vệ cung khuyết. Lại đặc sai Long Vũ tướng quân Trần Nguyên Lễ, tổng quản quân sĩ hộ giá, cấp cho đầy đủ tiền lụa. Chọn ngay hơn một nghìn ngựa, không cho người bên ngoài biết, ngay đêm hôm ấy, Huyền Tông kín đáo ra ngủ ngoài Trúc Bắc Nội.

Hôm sau, trời mới lờ mờ sáng, riêng cùng chị em Quý Phi, hoàng thái tử, các hoàng tử phi chúa, hoàng tôn, thêm Dương Quốc Trung, Vi Kiến Tố, Ngụy Phương Tiến, Trần Nguyên Lễ các hoạn quan thân cận nhất của nội cung, ra theo đường cửa Thu Diên mà đi.

Sắp lên đường, Huyền Tông muốn gọi Mai Phi Giang Thái Tần cùng đi. Dương Quý Phi ngăn lại mà rằng:

- Xe ngựa của bệ hạ nên đi trước, còn những người khác thì từ từ rồi sẽ đi sau!

Huyền Tông lại định báo cho tất cả vương tôn, vương phi ở kinh cùng đi theo xe rồng. Quốc Trung lại tâu:

- Nếu như thế, thì dùng dằng biết đến ngày nào, lúc ấy người ngoài đều đã rõ việc cả. Chi bằng đại giá cứ đi trước, sau sẽ ban mật chỉ, cho ai nấy biết mà đi theo.

Huyền Tông đành lên đường. Mai Phi cùng vương tôn, phi chúa đều không được đi theo. Xe đã lăn bánh, mà vẫn chẳng ai biết, trăm quan vẫn vào triều kiến, thấy cửa vẫn đóng, lính thị triều vẫn ba hàng đứng như cũ. Chờ mãi, cửa cung mới mở, người bên trong ùa ra như chạy loạn, phi tần chẳng khác gì chuột nước lụt, đồn ầm lên là thánh thượng không còn trong cung, không hiểu đi đâu, trong ngoài đều ầm ĩ. Tần Quốc Mô, Quốc Trinh đoán là Huyền Tông đã lên đường vào Thục, liền cưỡi ngựa chạy theo. Còn lại các quan viên, dân chúng cứ thế mà chạy tán loạn khắp bốn phương. Bọn tiểu thị dân kéo tràn vào cung cấm, tìm đến các nhà hoạn quan, trộm cướp đồ đạc của cải, cưỡi lừa ngựa lên tất cả các cung điện sân chầu. Công tử, vương tôn, nhất thời có những người không biết trốn đi đâu, gào khóc khắp các phố các đường. Về sau, Đỗ Công Bộ làm bài trường thiên "Ai vương tôn" (1) để ghi lại quang cảnh diễn ra ngay trước mắt lúc đó:

Quạ đầu thành lông đầu trắng phơ,

Đêm bay kêu trên cửa Diên Thu(2)

Lại moi nhà các quan to

Các quan chạy trốn giặc Hồ (3) lung tung

Chín ngựa (4)chết, roi đồng đập gãy

Bỏ thịt xương cố chạy lấy mình

Dưới lưng vòng ngọc xanh xanh

Góc đường ngồi khóc thương tình vương tôn

Hỏi tên họ, đâu còn dám nhận

Chỉ xin cho được phận tôi đòi

Tháng ròng chui rúc chông gai

Trên mình da thịt chẳng nơi nào lành

Con cháu chúa (5) thảy rành cao mũi

Giống rồng xem khác với người thường

Rồng thất thế, sói đầy đường (6)

Liệu mà giữ lấy nghìn vàng tấm thân

Vì vương tôn dừng chân đứng tạm

Lối lại qua chuyện dám kề cà

Gió đưa hơi máu đêm qua

Sớm nay đò cũ lạc đà nghênh ngang (7)

Tướng phương bắc rặt phường thao lược (8)

Nay vì đâu nhụt sức kém tài?

Trộm nghe vua mới lên ngôi (9)

Đức đà phục được rợ ngoài Hung Nô (10)

Rạch da mặt, (11) trả thù xin quyết

Chớ rỉ răng người biết không nên!

Vương tôn cố sức giữ gìn

Năm lăng trông lại còn bền khí thiêng. (12)

1 "Ai vương tôn": thương thay cho vương tôn. Vương Tôn: con cháu dòng dõi vua Đường, chỉ chung quý tộc, tôn thất nhà Đường.

2 Cửa tây vườn Thượng uyển của cung vua Đường.

3 Chỉ quân An Lộc Sơn.

4 Số ngựa đóng vào xe của thiên tử.

5 Chỉ dòng dõi vua Đường. Nguyên văn mượn tiếng Hán Cao Tổ.

6 Ý nói Đường Huyền Tông phải chạy ra Tây Thục, Túc Tông phải ở Linh Vũ (nay là huyện Linh Vũ tỉnh Ninh Hạ). Còn An Lộc Sơn thì xưng Hoàng đế ở Lạc Dương.

7 Ý nói quân An Lộc Sơn dùng lạc đà chở các của báu cướp bóc được ở Trường An, đem về Phạm Dương là sào huyệt của Lộc Sơn. Kinh đô cũ: chỉ Trường An.

8 Chỉ quân Kha Thư Hãn, tướng nhà Đường, phòng thủ Đồng Quan, nhưng bị thất thủ ngày 9-6-756.

9 Bây giờ, Đường Huyền Tông ở Thành Đô, thủ phủ Tây Thục, Túc Tông lên ngôi ở Linh Vũ.

10 Chỉ Hồi Hột, thân thiện với Túc Tông, cùng diệt An Lộc Sơn.

11 Tục người Hung Nô xưa rạch mặt chảy máu để tỏ lòng trung thành.

12 Năm lăng của các vua Hán, chỉ năm vua trước Huyền Tông. Ý nói Trường An nhà Đường còn khí thế thịnh vượng, có thể trung hưng. (Bản dịch thơ của NT, các chú thích của bài thơ đều theo "Thơ Đường I", có thay vài chữ).

Lại nói Huyền Tông vất vả lên đường vào Thục, xe rồng đi qua Tả Tạng, rất nhiều binh lính vác các bao cỏ khô cùng lương thực đứng chờ. Huyền Tông dừng xe hỏi nguyên cớ. Dương Quốc Trung tâu:

- Tả Tạng tích trữ lương thảo rất nhiều, trong lúc vội vàng thế này, không thể nào mang đi hết được, chỉ sợ mai kia lọt vào tay quân giặc, ý thần định đốt cho cháy hết, không cho giặc có cái dùng.

Huyền Tông buồn bã:

- Giặc tới nếu chẳng kiếm được gì, thì lại đến đi cướp của trăm họ, chi bằng cứ để lại, đỡ khốn khổ cho dân.

Liền quát quân lính tránh ra, rồi xe rồng lại lên đường.

Qua khỏi cầu, Quốc Trung sai người đốt cầu, phòng quân giặc đuổi theo. Huyền Tông thấy thế ngậm ngùi:

- Trăm họ đều đánh giặc, cần cầu để qua lại, sao nỡ tuyệt đường sống như vậy?

Liền sai Cao Lực Sĩ dẫn binh lính dập tắt ngay cầu đang cháy. Người đời sau cho rằng Huyền Tông trong lúc chạy nạn, còn làm được hai việc tốt đẹp này, nên sau đó vẫn còn được quay về kinh đô Trường An, hưởng trọn tuổi đời.

Chính là:

Lời ngay muôn việc dễ xuôi

Lòng người nhân khiến lòng trời đổi thay

Không quên dân bước hiểm nguy

Xui nên vận nước thêm dài thêm yên.

Huyền Tông đến cung Vọng Hiền ở Hàm Dương, bọn quan lại sở tại đã bỏ trốn từ bao giờ, trời đã gần trưa, mà vẫn không có cơm để dâng ngự. Trăm họ hoặc có người dâng bánh bao thô, hoặc mạch, hoặc đậu. Vương tôn tranh nhau lấy tay bốc mà ăn, chẳng mấy chốc hết nhẵn. Huyền Tông lấy vàng bạc trả ơn rất hậu, lại ban lời khen ngợi. Trăm họ khóc lóc ngắn dài, Huyền Tông cũng chùi nước mắt mãi không thôi.

Trong số bách tính, có một cụ già râu tóc bạc trắng, họ Quách, tên Tòng Cẩn, sụt sùi mà tâu rằng:

- An Lộc Sơn từ lâu đã ôm lòng hiểm ác, chẳng phải việc một ngày. Lúc ấy có người tới cửa khuyết mà can ngăn, bệ hạ mấy lần định giết. Để đến nỗi Lộc Sơn gây họa cho chín châu, khiến xa giá phải vất vả, dân chúng điêu linh. Từ xưa bậc thánh vương trị nước thì tìm đến kẻ trung lương, hỏi ý kiến bậc tài trí. Còn nhớ khi ngài Tống Cảnh làm tể tướng, mấy lần dâng lời nói ngay thẳng, thiên hạ nhờ đó mà được yên ổn. Nhưng mấy năm gần đây, trăm quan tâu bày đều dè xẻn, bọn nịnh thần tha hồ ngang ngược, để đến nỗi những chuyện ở ngoài cửa khuyết, bệ hạ chẳng được biết cho đúng thực hư. Những kẻ ở nơi quê mùa chúng tôi, từ lâu đã biết có ngày này, nhưng cửu trùng xa xôi kín mít, dẫu có muốn cũng chẳng thể nào mà đến nơi, thấy được mặt rồng để tâu rõ mọi việc cho được.

Huyền Tông giậm chân than:

- Cũng bởi trẫm không sáng suốt, giờ hối thì không kịp nữa rồi!

Bèn dùng lời ngọt ngào mà an ủi.

Quân sĩ đi theo đói khát, liền đến các thôn làng tìm lương ăn. Đêm hôm ấy, nghỉ lại ở trạm dịch Kim Thành, ngậm ngùi chịu đựng cái không chịu được vậy!

Ngày hôm sau, xe rồng đến trạm Mã Ngôi (1), tường sĩ vừa mệt vừa đói, đều có khí sắc giận dữ, gặp lúc Hà Nguyên quân sứ Vương Tư Lễ vừa từ Đồng Quan chạy tới. Huyền Tông mới rõ Kha Thư Hãn đã bị bắt, nhân đó phong Tư Lễ làm Hà Tây Lũng hữu tiết độ sứ, sai ngay đi trấn nhậm để chiêu mộ lính tráng, chờ ngày đánh phía đông.

1 Mã Ngôi dịch: nay thuộc huyện Hưng Bình, tỉnh Sơn Tây. Mã Ngôi vốn là tên người, thời Tấn xây thành ở đây để đánh nhau, sau thành địa danh, xưa gọi là thành Mã Ngôi, cũng gọi trạm Mã Ngôi, nay là trấn Mã Ngôi. (Đường thi tam bách thủ).

Tư Lễ sắp lên đường, muốn nói riêng với Trần Nguyên Lễ:

- Dương Quốc Trung vốn là kẻ đã gây loạn khởi hấn, tội ác chất đầy người người đều căm giận. Ta đã từng khuyên tướng quân Kha Thư Hãn dâng biểu xin giết đi, đáng tiếc Thư Hãn chẳng nghe lời. Nay sao tướng quân không giết quách thằng giặc này để hả lòng mọi người.

Nguyên Lễ đáp:

- Ý Nguyên Lễ này cũng như vậy!

Liền bàn với Đông cung nội thị Lý Phụ Quốc, đang định mật tâu với thái tử, gặp lúc Thổ Phồn sai sứ gồm hơn hai mươi người, tới bàn chuyện hòa hảo, rồi theo luôn xe rồng. Quốc Trung cưỡi ngựa đi tới, mọi người kêu ca là không có gì ăn. Quốc Trung chưa kịp đáp lại.

Nguyên Lễ đã quát lớn:

- Dương Quốc Trung giao thông với Phiên sứ mưu phản, chúng ta còn để thằng giặc này làm gì?

Binh sĩ lập tức nhốn nháo, Quốc Trung sợ cuống, vội ruổi ngựa chạy trốn. Binh sĩ đã dồn kín phía trước, dao thương múa loạn một hồi ánh thép loang loáng, đầu Quốc Trung đã lìa ra khỏi cổ, thoáng cái đã xong xuôi. Binh lính lấy thương, cắm đầu Quốc Trung vào, đem đến bên ngoài cửa trạm, rồi giết luôn cả con trai Quốc Trung là Hộ bộ thị lang Dương Huyên.

Chính là:

Dẫu núi băng kia cao vạn trượng

Nắng cho một buổi ắt tan ngay.

Quốc Trung mới bị giết xong, xe của Hàn Quốc phu nhân cũng vừa tới, quân sĩ ùa ngay trước xe, lôi Hàn Quốc phu nhân ra chém chết. Quắc Quốc phu nhân cùng với con là Bùi Huy, thêm vợ, con nhỏ của Quốc Trung bỏ chạy sang Trần Thương, bị huyện lệnh Tiết Cảnh Tiên dẫn nha lại cùng dân chúng đuổi theo bắt được, đều bị giết chết.

Chính là:

Xưa bôi nhàn nhạt nét ngài

Bây giờ máu tắm láng lai cổ ngà.

Huyền Tông nghe tin Quốc Trung bị giết bởi binh lính, vội ra ngay cửa trạm dịch, dùng lời ôn tồn phủ dụ ba quân, khuyên trở về cơ ngũ. Binh lính vẫn ồn ào không chịu tan, cứ vây kín lấy trạm dịch.

Huyền Tông liền hỏi:

- Các ngươi sao vẫn không chịu giải tán?

Quân lính hò hét:

- Phản tặc tuy đã giết, nhưng gốc rễ vẫn còn, sao dám giải tán cho được!

Nguyên Lễ thưa :

- Ý của binh lính. Quốc Trung tuy đã giết, nhưng Quý Phi cũng không đáng được hầu bệ hạ, xin thánh thượng định đoạt.

Huyền Tông kinh hồn thất sắc:

- Quý Phi ở trong thâm cung, với việc Quốc Trung phản nghịch thì có can hệ gì?

Cao Lực Sĩ tâu:

- Quý Phi dẫu thực vô tội, nhưng quân sĩ đã giết Quốc Trung, mà Quý Phi vẫn được ngay cạnh bệ hạ thì làm sao họ yên tâm. Xin bệ hạ hãy nghĩ kỹ. Quân sĩ mà yên thì mình rồng mới có thể vạn toàn.

Huyền Tông yên lặng gật đầu, quay về quán dịch nhưng không nỡ vào hành cung, chỉ đến cổng nhỏ, dựa vào vương trượng mà cúi đầu đứng hồi lâu. Kinh triệu tư lục Vi Ngạc, con của Vi Kiến Tố, lúc này đứng hầu một bên, quỳ xuống mà tâu rằng:

- Binh lính đã nổi giận thì khó mà đụng vào lắm, chuyện an nguy chỉ trong khoảnh khắc, cúi xin bệ hạ hãy nén lòng mà cắt ân đoạn ái, để đổi lấy sự an ninh cho quốc gia.

Huyền Tông lần từng bước vào hành cung, trông thấy Quý Phi, một tiếng cũng không thốt nổi, chỉ ôm lấy Quý Phi mà khóc. Bên ngoài tiếng hò hét càng huyên náo hơn nhiều. Cao Lực Sĩ vội tâu:

- Việc phải nhanh chóng quyết định mới yên!

Huyền Tông dắt Quý Phi ra cửa phía bắc của trạm dịch, khóc rống:

- Quý Phi! Trẫm cùng khanh vĩnh quyết từ nay!

Quý Phi nghẹn ngào, nức nở thưa:

- Nguyện xin bệ hạ hãy giữ gìn, thiếp mang tội đã nhiều, chết cũng chẳng ân hận. Chỉ xin được chết trước Phật đường!

Huyền Tông khóc:

- Nhờ đao kiếm của Phật pháp, để mai kia Quý Phi còn đường tái sinh dưới âm phủ!

Rồi quay lại truyền Cao Lực Sĩ:

- Khanh hãy dẫn tới cửa Phật mà xử cho cẩn thận?

Nói xong, sụt sùi mà quay vào.

Quý Phi vào trước Phật đường, lễ bái xong, Cao Lực Sĩ dâng giải khăn lụa, giục phải tự thắt cổ mà chết dưới một cây cổ thụ ngay trước Phật đường. Lúc này, Quý Phi mới ba mươi tám tuổi, là tháng sáu, năm thứ mười lăm đời Thiên Bảo. Than ôi! Thật như những câu sau đây trong bài "Trường hận ca" của Bạch Lạc Thiên:

Chín lầu thành khuyết bụi tung

Nghìn xe muôn ngựa qua vùng tây nam

Đi lại đứng hơn năm dặm đất

Cờ thúy hoa (1)bóng phát lung lay

Sáu quân dùng dắng làm rầy

Mày ngài trước ngựa lúc này thương ôi! (2)

Người đời sau ngâm vịnh về "Mã Ngôi dịch" rất nhiều, duy chỉ có bài thơ sau đây của Đỗ Chân Khanh là hay hơn cả. Bài thơ như sau:

Dương liễu xanh xanh nước vỗ đê

Thành xuân nhà cỏ én đưa về

Hải đường gặp gió đông lay mạnh

Đỏ ửng hoa rơi vó ngựa kề.

1 Cờ hiệu của thiên tử khi ra khỏi cung, lấy lông chim thúy để trang sức nên có tên thế. (Đường thi tạm bách thủ).

2 Tản Đà dịch.

Quý Phi đã chết, Cao Lực Sĩ liền ra trước cửa trạm dịch lớn tiếng trước ba quân:

- Dương Quý Phi theo lệnh thánh thượng đã phải chết?

Binh lính vẫn chưa tin, Cao Lực Sĩ theo thánh ý, đem thi thể Quý Phi đặt ngay trên giường, lấy chăn gấm đắp lại, khiêng ngay giường ra đặt giữa sân dịch trạm. Lệnh cho Trần Nguyên Lễ dẫn binh lính lần lượt vào xem tận mắt. Nguyên Lễ lại kéo chăn gấm ra, để lộ rõ đầu, cho mọi người cùng trông thấy. Ai nấy mới thực tin, đều cởi bỏ áo giáp mũ trụ, cúi lạy tung hô:

- Vạn tuế thánh thượng!

Rồi ra khỏi trạm dịch. Huyền Tông truyền cho Cao Lực Sĩ tìm quan tài, chôn vội chôn vàng ở ngoài cửa thành phía tây, ngay lối quành của đường đi lên phía Bắc. Táng xong, vừa gặp lúc phương nam dâng quả vải về tới. Huyền Tông thấy vật nhớ người, khóc nức nở, liền truyền đem quả vải ra tế ngoài mộ.

Trương Hựu, một nhà thơ đời Đường, có bài thơ rằng:

Cờ quạt bơ thờ giữa chúa tôi

Người về nam một, bắc về mười

Phấn hương đổ leo trên bùn đất

Vải tiến vẫn dâng đến Mã Ngôi.

Đường Huyền Tông nói với Cao Lực Sĩ:

- Quý Phi thường kể có mộng lạ. Đến nay mới ứng vậy.

Lực Sĩ thưa:

- Quý Phi mộng ra sao, kẻ hèn này chưa được nghe.

Huyền Tông kể lể:

- Quý Phi thường nói rằng, mơ thấy cùng trẫm đi chơi Ly Sơn, đến trạm dịch Hưng Nguyên cùng nhau ngồi đối diện ăn uống, hậu viện phát hỏa, vội vàng chạy ra, nhìn vào cửa trạm dịch, các cây cổ thụ đều đang cháy rừng rực. Bỗng có hai con rồng bay tới. Trẫm cưỡi con rồng trắng, bay rất nhanh. Quý Phi cưỡi con rồng đen, bay rất chậm. Xung quanh không có ai, chỉ thấy mỗi một vật đầu bù, mặt đen, chẳng khác gì ma quỷ, lên tiếng: "Ta là thần ngọn núi này, thừa mệnh của thượng đế, phong cho ngươi làm Nguyên hậu, lo việc tằm tang của Ích Châu!". Rồi giật mình mà thức giấc. Ngay sau đó thì nghe tin phản loạn ở Ngư Dương. Giờ đang nghĩ lại, thì mới rõ là: Cùng trẫm đi Ly Sơn, "Ly" cũng có nghĩa là ly biệt. Mới ngồi ăn mà đã lửa cháy, thế là điềm mất ăn, hết ăn. Lửa lại là điềm của chiến trận, cả trạm dịch, cả cổ thụ đều cháy, trạm dịch, đồng âm với "dịch" là thay đổi, thêm chữ "mộc" bên cạnh chữ "dịch" thành chữ "dương", họ của Quý Phi. Trẫm cưỡi rồng trắng, điềm đi về phía tây (1). Quý Phi cưỡi rồng đen, điềm đi về âm phủ. Sơn thần, chính là quỷ ở núi, chữ "quỷ" với chữ "sơn" hợp lại thành chữ "Ngôi". Nguyên hậu trông coi tằm tang thì sinh ra tơ, lại ở Ích Châu, chữ "Ích" thêm chữ "Ty" là tơ thành chữ "Ích" là thắt cổ. Chính là điềm phải thắt cổ mà chết ở Mã Ngôi này vậy!

1 Theo thuyết "ngũ hành" của Trung Quốc, thì màu trắng ứng với phương tây.

Lực Sĩ thưa:

- Mộng triệu không lành, đúng như thánh ý đã phán. Kẻ hèn này nhớ năm trước gặp phương sĩ Lý Hà Chu, họ Hà đã từng cho một bài sấm như thế này:

Chợ Yên người vắng hết

Cửa Hàm ngựa không về

Nếu gặp ma dưới núi

Vòng ngọc treo áo the.

Bài sấm này rõ ràng ứng vào chuyện hôm nay. Câu một, chỉ Lộc Sơn phản loạn, câu hai chỉ Kha Thư Hãn thua trận (1), câu ba "ma dưới núi" cũng chính là chữ "Ngôi", tức Mã Ngôi này vậy. Quý Phi có tiểu tự Ngọc Hoàn, nay kẻ hèn này lại dâng lụa the để tự thắt cổ, thì dùng Ngọc Hoàn là vòng ngọc quấn lấy lụa the còn gì. Định mệnh đã như thế. Thánh thượng cũng yên lòng, chẳng nên quá bi thương.

1 Yên: tên một nước cũ, thuộc vùng đông bắc Trung Quốc, vùng An Lộc Sơn làm phản. Hàm Quan: tên cửa ải ở Hàm Hương thuộc Thiểm Tây, vùng Kha Thư Hãn thua trận.

Đang trò chuyện, Trần Nguyên Lễ vào, xin cho lên đường tiếp. Huyền Tông y theo. Lúc này nhạc công Trương Dã Hồ đứng lên, Huyền Tông chùi nước mắt mà nói:

- Lần này ra Kiếm Môn, chim kêu hoa rụng, nước trong núi xanh, chẳng cái gì là không nhắc nhủ lòng tiếc thương của trẫm với Quý Phi.

Chính là:

Người buồn cảnh đẹp làm gì?

Xót lòng, cay mắt tình đi, duyên còn.

Không biết sự thể đến đâu, xin xem hồi sau phân giải.

Hồi Thứ Chín Mươi Hai

Đóng Linh Vũ, thái tử lên ngôi,

Chiếm Trường An, loạn thần làm ác.

Từ rằng:

Xe rồng phải ruổi về tây

Bầu trời phía Bắc, sao bay sáng ngời

Vẫn là trăm sự tại trời

Mà trong tai biến đổi lời quên cha

Lại quên ruột thịt một nhà

Truân chiên nếm đủ xấu xa nhọc nhằn

Trai gian ác, gái lăng loàn

Vạ thân, vạ cả xóm làng gần xa

Theo điệu "Ô dạ đề"

Nước nhà thái bình có đạo, kẻ sĩ đứng ở triều đình, tôi ra phận tôi, chúa nên ngôi chúa. Còn ở trong nội cung, cha ra đạo cha, con đủ phận con, đấy chính là những điều cơ bản của luân thường, để rồi từ đó mà có trăm họ muôn dân, nên nghĩa lớn của trời đất, chẳng chỗ nào là không yên ổn, chẳng người nào là không được ơn hưởng đức lớn.

Đến khi vận đã suy, vua cũng chẳng giữ được nên đạo vua, thần chuyên nghĩ cách mê hoặc làm hư thân chúa, nên mới sinh sủng ái khác thường. Giặc giã bên ngoài nhiều như nấm, một sớm biến loạn, dẫn đến chín châu tranh giành, may mà mệnh trời chưa đổi, lòng người còn đó. Thiên tử tuy không khỏi "mông trần tại ngoại", phải bỏ cung khuyết lặn lội trong đám bụi đời ở bên ngoài, thái tử phải tòng quyền mà lên ngôi. Nhưng thế sự còn nên, Huyền Tông nhường ngôi làm thái thượng hoàng. Nếu không công nghiệp sẽ đi đến đâu, còn đó thế nguy kẻ nghịch tặc, còn đó tôn miếu xã tắc trong tay phản thần, dẫu thân thiết cũng phải bỏ mà chạy, chỉ bảo toàn được một hai kẻ thân người thích, còn đâu đành bỏ mặc, khiến cho bậc vương tôn công tử gặp nước lưu ly, cành vàng lá ngọc rơi vào tay giặc làm nhục, giết hại. Những việc cuối đời Thiên Bảo, nghĩ lại thật đáng giận mà cũng đáng thương, đáng buộc tóc vào tay để mà nhớ mãi vậy.

***

Lại nhắc chuyện Huyền Tông ngự giá đến Mã Ngôi, chúng quân sĩ giết Dương Quốc Trung cùng Hàn Quốc, Quắc Quốc phu nhân. Huyền Tông không biết làm thế nào, đành để Quý Phi chịu chết. Trần Nguyên Lễ mới khuyến khích được quân sĩ, mời xa giá lên đường. Quân sĩ thấy bộ tướng tay chân Dương Quốc Trung đều ở Thục, lại không chịu đi về Tây, kẻ xin về Hà Lũng, người bàn đi Thái Nguyên, cũng có ý xin quay về kinh đô, mạnh ai nấy nói. Huyền Tông ý vẫn muốn vào Thục, nhưng lại sợ trái ý quân sĩ, đành chỉ cúi đầu nghĩ ngợi, không nói rõ ý định đi đâu. Vi Ngạc tâu:

- Thái Nguyên, Hà Lũng đều không phải là nơi dung thân của bậc thiên tử. Nếu về kinh sư tất phải có cách phòng ngự chu đáo. Người ngựa nay rất ít, không phải việc dễ. Cứ như ngu kiến của thần, chi bằng đi Phù Phong, rồi sẽ liệu chuyện lui sau vậy.

Huyền Tông bằng lòng gật đầu, sai đem ý này của mình truyền dụ quân sĩ, ai nấy đều nghe theo. Ngày hôm ấy người ngựa từ Mã Ngôi lên đường. Đến mãi lúc đi, mới thấy rất nhiều dân chúng, già trẻ cản đường giữ lại, cảnh thật nhốn nháo, người người đều thưa:

- Cung khuyết là nhà, là người thân của bệ hạ, là phần mộ của bệ hạ, nay bỏ mà đi, định còn đến đâu nữa?

Huyền Tông đành ngọt ngào phủ dụ, nói rõ thánh ý rồi vẫn đi, nhưng trăm họ càng kéo đến nhiều hơn. Huyền Tông phải sai thái tử đứng ra khuyên bảo dân chúng. Mọi người liền túm lấy ngựa của thái tử mà thưa:

- Phụ hoàng đã không muốn dùng ngựa xe, chúng thần xin dẫn con em, cùng thái tử về đông đánh giặc, bảo vệ Trường An.

Thái tử đáp:

- Đấng chí tôn phải vất vả dặm dài, là phận làm con, làm sao mà dám xa rời một ngày cho được.

Trăm họ lại thưa:

- Thái tử cùng phụ hoàng đều đi Tây Thục cả, bách tính ở Trung Nguyên lấy ai mà làm chủ?

Thái tử đáp lại:

- Các ngươi nếu muốn giữ, ta cũng không lòng nào mà chối từ, nhưng cũng phải thưa với phụ hoàng đã, rồi mới có thể nói chuyện tiến lui.

Nói xong, lại định giục ngựa đi, nhưng vẫn bị trăm họ cản chặt cả đường, ngựa không thể nào bước được. Lúc này con của thái tử là Quảng Bình Vương Thục, Kiến Ninh Vương Đạm, đang theo sau ngựa, cả hai vương đều rất có trí dũng. Kiến Ninh Vương thấy lòng người như thế, liền lại níu yên thái tử mà thưa rằng:

- Quân giặc xâm phạm cung khuyết, bốn biển nát tan, chẳng nhân tình người thế này lo chuyện hưng phục, còn đợi đến bao giờ. Nay điện hạ theo đấng chí tôn vào Thục, nếu quân giặc đốt sạch sạn đạo (1), quả là chắp tay mà dâng Trung Nguyên cho giặc. Lúc ấy, lòng người ly tán khó mà phục hồi, mai nay dẫu muốn cũng không sao kịp nữa. Chi bằng bây giờ, thu nhập binh lính phía tây bắc, triệu Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật lại, cùng nhau đánh sang đông, khôi phục hai kinh, rồi bình định chín châu, quét sạch cung khuyết, đón đấng chí tôn, khiến xã tắc nguy thành yên, tôn miếu mất mà lại còn. Đó phải chăng là điều hiếu lớn nhất không? Hà tất cứ phải khư khư một bước không rời, sớm hôm chiều chuộng mới tỏ được sự kính yêu của kẻ nhi nữ thường tình sao?

1 Sạn đạo: đường đi ở vùng núi non rất hiểm trở, dùng gỗ cây và ván lát như thang, như cầu mới đi được.

Quảng Bình Vương cũng đứng bên thưa thêm rằng:

- Lòng người không thể để mất, Kiến Ninh Vương nói rất đúng, xin điện hạ hãy soi xét kỹ cho.

Đông cung thị vệ Lý Phụ Quốc cũng đến trước thái tử, cúi lạy xin thái tử ở lại. Trăm họ reo hò không ngớt. Thái tử bèn sai Quảng Bình Vương ruổi ngựa đến ngay xa giá khởi tấu, chờ ý Huyền Tông định đoạt.

Lúc này Huyền Tông cũng vừa truyền dừng xe để đợi Thái tử, đang định sai người quay lại xem sao thì vừa lúc Quảng Bình Vương tới thuật rõ chuyện trăm họ giữ lại. Huyền Tông phán:

- Lòng người như thế, cũng chính là ý trời vậy. Trẫm sở dĩ không đốt cầu, là ý cùng với trăm họ đánh giặc, không dám để mất lòng dân. Nay lòng dân đã theo thái tử, quả là điều may mắn cho trẫm vậy!

Liền truyền mệnh đem hai nghìn hậu quân, cùng ngựa Phi Long chia cho thái tử, lại phủ dụ tướng sĩ:

- Thái tử nhân hiếu, có thể phò yên xã tắc, các khanh nên theo đúng đạo thần tử mà thờ thái tử.

Lại truyền lời cho thái tử rằng:

- Các bộ lạc ở tây bắc, trẫm vẫn phủ dụ rất ân cần, nay có thể dùng được. Đông cung hãy cố sức. Trẫm rồi sẽ truyền ngôi cho Đông cung một ngày gần đây.

Thái tử nghe chiếu, nhìn về hướng tây mà kêu khóc, Quảng Bình Vương liền truyền dụ trăm họ:

- Thái tử đã vâng chiếu ở lại, để vỗ yên trăm họ vậy!

Dân chúng đều reo hò ầm ĩ:

- Vạn tuế!

Rồi hăm hở mà tan. Thái tử chưa rõ nên ở đâu cho tốt. Lý Phụ Quốc hỏi:

- Trời mỗi lúc một nắng to, nơi này không thể ở lâu, nay ý mọi người thấy nên về đâu?

Binh lính đều yên lặng không đáp. Kiến Ninh Vương cất tiếng:

- Điện hạ ngày trước đã từng làm Sóc Phương Tiết độ sứ, quan tướng vùng ấy giờ vẫn còn nhớ rõ họ tên, thư từ đi lại. Nay vùng Hà Lũng, rất nhiều lũ bại trận theo giặc, người ngựa nhiều, Hà Tây Hành quân tư mã Bùi Miện hiện đang ở đó, người này vốn dòng danh giá áo mũ, tất chẳng bao giờ hai lòng, có thể cùng đến đó, rồi mưu đồ việc lớn. Giặc mới vào Trường An, tất bỏ trống vùng này, thừa cơ hội mà đi ngay, mới là thượng sách vậy.

Ai nấy thấy phải lẽ, liền theo phương Bắc, thành đoàn mà đi. Tới bến Vị Thủy, gặp người ngựa thua chạy từ Đông Quan về, nhận nhầm là quân giặc, cùng nhau đâm chém một hồi, chết rất nhiều, mới lại thu tập tàn binh. Định qua sông, nhưng thuyền bè chẳng có, phải tìm chỗ nước nông, ôm ngựa mà bơi sang, những binh lính không có ngựa, đều đành khóc lóc mà quay lại. Tới Tân Bình, suốt ngày đêm đã đi hơn ba trăm dặm, binh sĩ, khí giới mất mát đến hơn một nửa, chỉ còn cả thảy mấy trăm người mà thôi.

Chính là:

Ngôi thái tử ngồi coi việc nước

Lo việc quân trong bước gian nguy

Hiện giờ vận nước lưu ly

Danh tuy thái tử, thực thì rỗng không!

Chuyện chia hai mối, hãy nói Huyền Tông để thái tử ở lại rồi, xa giá hướng về tây mà đi. Tới Kỳ Sơn, nghe đồn quân giặc đã kéo tới gần, Huyền Tông vội đốc thúc tướng sĩ, ngày đêm gấp về Phù Phong để nghỉ ngơi. Sĩ tốt mấy ngày liền mỏi mệt, đói khát, đều ngầm có ý bỏ trốn cả, thì thầm to nhỏ, toàn những lời bất kính. Trần Nguyên Lễ chẳng biết làm gì được, Huyền Tông lấy làm lo lắng. Tần Quốc Trinh tâu:

- Trong khi lòng chúng nao núng thế này, không thể uy thế bức bách được, phải lấy tình lấy lý khuyên dụ khiến cho họ cảm động mới xong.

Huyền Tông nghe theo. Vừa may đoàn người tiến cống hàng năm của thái thú Thành Đô theo lệ đem mười vạn tấm lụa mầu mùa xuân đến Phù Phong. Huyền Tông sai bày cả ra sân, gọi tướng sĩ vào, thân đứng ngoài hiên mà phủ dụ:

- Trẫm gần đây đến tuổi lẩm cẩm, lại dựa phải lũ người chẳng tốt đến nỗi nghịch tặc làm loạn, thế thậm hung dữ, không thể không tạm tránh lúc mạnh của chúng. Các khanh vất vả theo đi, chẳng kịp từ biệt cha mẹ, vợ con, lặn lội tới đây, lao khổ cũng nhiều rồi. Bởi trẫm ở ngôi không chính mà dẫn đến thế, lòng thật hổ thẹn. Nay vào Thục, đường còn dài, người ngựa đều mỏi mệt, đi xa không dễ. Các khanh tự quay về nhà, trẫm sẽ cùng con cháu, cùng các quan viên nội cũng gắng sức mà đi. Các khanh cùng trẫm chia tay, hãy lấy một phần lụa xuân này, đổi lấy lương thảo. Về gặp cha mẹ, vợ con phụ lão ở Trường An, chuyển lời của trẫm, gắng giữ gìn, không cần phải nghĩ tới trẫm làm gì.

Nói xong, nước mắt tuôn ướt cả hoàng bào. Binh sĩ nghe thương tâm, ai nấy đều khóc, cúi đầu mà tâu:

- Chúng thần dẫu sống dẫu chết cũng đi theo bệ hạ, không bao giờ dám hai lòng.

Huyền Tông chùi nước mắt rồi mới vào trong, nhưng vẫn còn ngoái lại mà nói với mọi người:

- Đi hay ở là tùy các khanh, trẫm không dám cưỡng ép vậy.

Tần Quốc Mô đứng ở phía sau lên tiếng:

- Thiên tử đã nhân ái như vậy, chúng thần há không biết động lòng hay sao?

Binh sĩ đều khóc mà quay ra. Huyền Tông sai Trần Nguyên Lễ đem hết cả lụa cấp cho quân sĩ, từ đó những lời bàn tán mới thực hết.

Chính là:

Ba quân xôn xao muốn làm loạn

Phút chốc dẫu vua cũng mất mạng

Chẳng dùng uy thế dẹp ba quân

mà chỉ lòng nhân mới cứu đặng.

Lòng quân đã định, ngày hôm sau Huyền Tông lại lên đường, đi đến Hà Trì. Thục Quận trưởng sử là Thôi Viên tới đón xa giá, tâu rõ đất Thục giàu có, quân sĩ khỏe mạnh, Huyền Tông rất vui, sai đi trước dẫn đường. Thế là đã vào đất Thục. Qua một cầu lớn, Huyền Tông hỏi tên cầu, Thôi Viên thưa:

- Đây là cầu Vạn Lý!

Huyền Tông nghe nói, sực tỉnh gật đầu mà phán:

- Thế là lời nhà sư Nhất Hạnh đã nghiệm rồi. Trẫm chẳng còn sợ gì nữa!

Nguyên là nhà đường có một thần tăng, tên gọi Nhất Hạnh, tinh thông thiên văn, lịch pháp, từng chế được cả "Hỗn thiên nghi" và "Phúc củ đô" (1), cực kỳ thần diệu. Còn về số so với Viên Thiên Cơ, Lý Thuần Phong chẳng thua kém gì. Huyền Tông thường đi Đông Đô, cùng Nhất Hạnh lên lầu tây của chùa Thiên Cung, ngắm nhìn trời sao, bâng khuâng mà than:

- Trẫm coi sóc sông núi như thế này, tất là sẽ được hưởng mãi cảnh yên vui vậy!

1 Tên các dụng cụ để đo mặt trời, trăng sao, đo động đất thời cổ Trung Quốc.

Nhân đó mới hỏi Nhất Hạnh:

- Trẫm may ra có thoát khỏi tai họa cả đời chăng?

Nhất Hạnh thưa:

- Bệ hạ "du hành Vạn Lý", tuổi thánh không có điều gì đáng lo.

Lúc ấy Huyền Tông cũng nghe vậy, chỉ nghĩ đó là lời ngợi ca, nào ngờ có ngày đi mãi vào Tây Thục, qua cầu này, cũng tên là Vạn Lý, nhân đó lại nhớ tới lời Nhất Hạnh, mới thấy nghiệm. Nghĩ tới câu sau, biết rằng mình không gặp điều gì nguy hiểm nữa, cho nên trong lòng thoải mái mà phán:

- Trẫm chẳng còn gì sợ nữa!

Chính là:

Đi xa Vạn Lý khéo lên cầu

Lời sấm nhà sư thật nhiệm mầu

"Thánh thọ vô cương" may mắn lắm

Đường xa rong ruổi bớt lo âu.

Huyền Tông giục quân sĩ đi nhanh, chỉ mấy ngày sau, đã tới trạm dịch Thành Đô. Từ điện đình, cung thất cho tới các vật dụng tuy đều là tranh cỏ dân dã, nhưng rất đầy đủ, tề chỉnh. Lại thêm núi cao sông sâu, thành quách gọn gàng, có thể tạm yên ổn. Chỉ có điều người sủng ái năm xưa không còn trước mặt, nghĩ lại chuyện mới ngày nào ở Mã Ngôi, không nén nổi đau xót. Cao Lực Sĩ phải nhiều lần khuyên giải. Vi Kiến Tố, Vi Ngạc, Tần Quốc Mô, Quốc Trinh đều dâng biểu bàn kế chống giặc, Huyền Tông giáng chiếu, phong cho thái tử làm Tống tiết chế, sai người đi các nơi lo liệu. Đặc sai Vĩnh Vương Lý Lân làm Sơn Nam đông đạo Lĩnh Nam, Kiền Trung, Giang Nam Tây đạo tiết độ sứ. Lấy Thiếu phủ tây giám Đậu Thiệu, Trường Sa Thái thú Lý Hiện làm Phó đô đại sứ. Ngày hôm sau lên đường đi Giang Lăng để nhận việc. Lại xuống chiếu lấy thái tử làm Thiên hạ binh mã Đại nguyên soái, lãnh Sóc Phương, Hà Bắc, Bình Lư Tiết độ sứ để thu phục Trường An, Lạc Dương.

Nào ngờ chiếu chưa xuống đến nơi, thì thái tử đã tự mình lên ngôi chính vị thiên tử. Nguyên là thái tử ngày ấy qua sông Vị Thủy, đi đến Bành Thành, thái thú Lý Đôn ra đón, đem y phục cùng lương thực dâng lên. Đến Bình Lương xem ngựa, đến mấy vạn con, lại chiêu mộ dũng sĩ được tới hơn ba nghìn người. Vì vậy quân thanh ngày một vang động. Lúc này có Sóc Phương lưu hậu Đỗ Hồng Tiện, Lục Thành thủy lực vận sứ Ngụy Thiếu Du, Tiết độ phán quan Thôi Y, Độ chi phán quan Lư Giản Kim, giám trì phán quan Lý Hàm, cả bọn năm người, cùng bàn với nhau.

- Thái tử nay ở Bình Lương, nhưng Bình Lương là đất bằng phẳng, không phải là nơi đóng quân tốt. Vùng Linh Vũ, binh lính, lương thảo đều giàu, chi bằng đón thái tử tới đó, gom các thành quách cùng binh lính phía bắc, phía tây thì thu phục được quân kỵ mã hùng mạnh, quay về nam mà định Trung Nguyên. Quả là tính chuyện một lúc cho vạn đời sau vậy!

Bàn bạc xong xuôi, Lý Hàm đem sổ sách dâng thái tử, trình rõ số người ngựa, giáp trụ, lương thảo của cải Sóc Phương. Đỗ Hồng Tiện, Thôi Y thân tới tận Bình Lương, tâu với thái tử:

- Sóc Phương lâu nay là nơi binh cường ngựa mạnh của thiên hạ, lại giao hảo với Thổ Phồn, Hồi Hột, bốn bễ quận huyện đều kiên trì chống giặc, đợi ngày hưng phục. Điện hạ nếu đóng quân ở Linh Vũ đưa hịch đi khắp nơi, thu thập kẻ trung nghĩa, giữ chắc lấy dãy đất này, không những kẻ thù chẳng đụng đến được, chúng thần đã cử Ngụy Thiếu Du, Lư Giản Kim xây dựng cung thất ở đó, tích trữ lương thảo, chờ điện hạ xa giá tận nơi xem xét.

Quảng Bình Vương, Kiến Ninh Vương đều tán đồng, vì vậy thái tử liền dẫn người ngựa tới Linh Vũ.

Mấy ngày sau, Hà Tây tư mã Bùi Miện làm Ngự sử trung thừa, nhân tới Linh Vũ ra mắt, cùng bọn Đỗ Hồng Tiệm bàn bạc, thưa với thái tử, nhắc lại lời Huyền Tông ngày còn ở Mã Ngôi, định truyền ngôi cho thái tử, nay là lúc nên định vị, để yên lòng mọi người. Thái tử không nghe :

- Phụ hoàng vất vả đường dài, ta đâu dám tự chuyên lên ngôi báu?

Bọn Bùi Miện lại thưa;

- Tướng sĩ đều là người Quan Trung, ai mà không ngày đêm nhớ nhà muốn về, nhưng không ngại đường xa gập ghềnh, đi đến tận vùng sa mạc, biên tái xa xôi, những mong để dựa mình rồng, vịn cảnh phượng, kiến công lập nghiệp với đời. Nếu điện hạ cứ khư khư theo thói thường, mà không quyền biến, khiến cho lòng người một sớm ly tán, thì công huân lớn chẳng mong thành. Xin hãy nghĩ đến lòng chúng, lo đến kế lâu dài của xã tắc.

Thái tử vẫn do dự, xung quanh phải nhiều lần khuyên giải mới nghe theo lời xin.

Tháng bảy mùa thu, năm thứ mười lăm, đời Thiên Bảo (1), thái tử lên ngôi ở Linh Vũ, lấy hiệu là Túc Tông Hoàng đế, đổi làm năm Chí Đức Nguyên niên, dao tôn (2) Huyền Tông làm thượng hoàng Thiên đế, Bùi Miện, Đỗ Hồng Tiệm, cùng các quan đều được gia quan tiến trật.

1 Tức năm 756 sau công nguyên, Việt Nam vẫn là thuộc Đường.

2 Dao Tôn: tôn từ xa, vì lúc này Huyền Tông vẫn ở mãi Thành Đô.

Định dâng biểu tâu Minh Hoàng, thì vừa lúc chiếu thư của Minh Hoàng phong thái tử làm nguyên soái cũng tới. Lúc này Túc Tông mới biết là xa giá của Minh Hoàng đã tới Thành Đô, liền sai sứ giả dâng biểu vào Thục, đem việc lên ngôi tâu rõ. Minh Hoàng xem biểu mừng mà rằng:

- Con ta theo đúng mệnh trời lòng người, "ứng thiên thuận nhân", ta còn lo gì nữa!

Liền hạ chiếu:

"Từ nay các tấu chương đều xưng là thái thượng hoàng. Các việc quân việc nước quan trọng, trước tiên phải tâu với hoàng đế để xem xét rồi sau đó tâu cho thái thượng hoàng biết. Đợi đến khi nào khôi phục được hai kinh, thì thượng hoàng sẽ không tham dự việc triều chính nữa. "

Lại sai thị lang bình chương sự Phòng Quán, cùng với Vi Kiến Tố, Tần Quốc Mô, Quốc Trinh đem ngọc sách, ngọc tỷ tới Linh Vũ làm lễ truyền vị, lại ban cho các quan không phải quay về, phục mệnh của tân quân.

Túc Tông khóc mà vái lạy, đem những thứ này để thờ một điện riêng, chưa dám làm lễ nhận ngay.

Chính là:

Ngôi báu đà lên trước

Chiếu truyền mới đến sau

Việc làm dù có phải

Sau trước nghĩ thế nào?

Về sau này các nhà nho đời Tống đều phần nhiều lấy việc Túc Tông chưa nhận được chiếu truyền của Minh Hoàng, mà đã tự mình lên ngôi báu, đổ cho là thừa lúc nguy cấp mà thoán vị, là làm việc phản cha. Nhưng cứ theo tình thế bây giờ mà nói, còn mất, nguy cấp khôn lường, phải giữ lấy lòng người, bất đắc dĩ phải làm. Huống chi Minh Hoàng bao nhiêu lần muốn nhường ngôi, đã nói ra miệng với nhiều người. Nay Túc Tông lên ngôi ở Linh Vũ cùng là đã theo mệnh trước, nên có thể châm chước ít nhiễu, nói rằng thoán vị, nói rằng phản cha, thì tựa hồ thái quá chăng! Nếu bàn đến lầm lỗi của Túc Tông thì là ở chỗ, sau khi tức vị, quá yêu thương em gái Trương Lương, đương lúc việc quân bận rộn, mà vẫn nghĩ tới chuyện vui hưởng khoái lạc, thì thật đáng cười.

Chính là:

Không lo ngôi báu, chơi cho thỏa

Con hiếu là mong chuộc lỗi cha.

Đã như vậy, chuyện lên ngôi cũng có thể chấp nhận được, nhưng còn việc thay đổi niên hiệu rõ ràng là không coi cha ra gì nữa. Giả sử lúc bấy giờ mà Nghiệp Hầu Lý Bí sớm đã ở ngay cạnh, tất công việc không đến nỗi như vậy.

Về sau có người làm thơ than:

Linh Vũ lên ngôi cao

Thác rằng nhiều việc khó

Cải niên hiệu tức thì

Thật là một chuyện dở

Các quan bàn việc này

Không biết sửa tầm lỡ

Tiếc rằng Lý Nghiệp Hầu

Có ở triều chậm quá!

Ngày nhàn, nói chuyện dông dài, hãy kể lúc này các thái tử, có người đi phía tây, có người đi tuần phía Bắc. Nguyên do là An Lộc Sơn không ngờ xa giá đã lên đường ngay, nên lệnh cho quân sĩ ở Đồng Quan không được coi thường mà tiến quân vào Trường An, vì vậy tướng giặc là Thôi Càn Hựu đành đóng binh để xem xét. Chờ đến khi xa giá đã đi được mấy ngày, Lộc Sơn nghe báo, mới sai bộ tướng Tôn Hiếu Triết, dẫn quân vào Trường An.

Quân giặc vào kinh sư, thấy Tả Tạng đầy ắp lương thảo, của cải, tranh nhau mà cướp. Ngay đêm đó bày tiệc rượu ăn mừng, một mặt sai người đi Lạc Dương báo tin thắng trận, chờ Lộc Sơn vào kinh, nên cũng chẳng nghĩ tới việc đuổi theo xa giá, vì vậy Minh Hoàng được an toàn mà vào Thục. Túc Tông quay lên Sóc Phương cũng chẳng có gì trở ngại lớn. Đó âu cũng là lòng trời.

Chính là:

Rút quân chẳng đốt kho tàng

Nhử giặc cướp của, không màng đuổi theo

Rảnh đường vua thẳng một lèo...

Lộc Sơn tới Trường An, nghe chuyện binh biến ở Mã Ngôi, Dương Quốc Trung bị giết, Quý Phi phải tự thắt cổ, Hàn Quốc, Quắc Quốc phu nhân bị giết, khóc lớn mà than:

- Dương Quốc Trung quả là đáng chém, nhưng sao lại giết cả chị em Ngọc Hoàn của ta? Ta đến đây chính là để cùng các phu nhân hoan lạc. Nay thì hết cả mong chờ rồi, hận này bao nguôi?

Lại nhớ tới vợ con An Khánh Tôn bị triều đình giết, nhất thời nổi cơn căm giận, liền ra lệnh cho Tôn Hiếu Triết tìm bằng hết trong kinh sư tôn thất, hoàng thân, chẳng kể hoàng tử, hoàng tôn, quận chúa, huyện chúa, cho đến các phò mã, quận mã cùng quốc thích đều bị chém một loạt. Lại lệnh khoét tim đàn ông, đàn bà bị giết để tế Khánh Tôn, Lộc Sơn thân đứng tế. Hôm ấy, Sùng Nhân điện đều treo trường gấm đặt bài vị Khánh Tôn, các tay đao phủ dồn thây người chết chém lại, chờ đến lúc tế mới moi tim.

Chuyện cũng kỳ quái, khó tin, nhưng quả là bỗng trời tối sầm, đất bụi mù, sấm nổi đùng đùng, chớp giật sáng lòe, gió lớn thổi mạnh, những con dao của đao phủ gió cuốn bay biến, đài cao đắp lên, sét đánh tan nát cùng với bài vị của Khánh Tôn, các màn nhung trướng gấm đều bị thiêu ra tro. Lộc Sơn hoảng sợ, phải ngẩng nhìn trời mà lạy tội, không dám tiếp tục làm lễ nữa, lệnh cho quân sĩ đem các tử thi chôn lấp tất cả.

Chính là:

Trị loạn là bởi lòng trời

Hung tàn là trái đạo người

Sấm sét răn đe đứa ác

Một phen hồn phách tơi bời!

Trước đây Minh Hoàng xuất bôn, nguyên ý muốn tôn thất, hoàng thân cùng chạy, bởi Dương Quốc Trung ngăn trở, nay bọn này đều bị giết cả. Tội ở Quốc Trung, thằng giặc này chết vẫn chưa hết gây họa vậy.

Chính là:

Bàn ngang gây hại lớn

Tùng xẻo tột chưa đang.

Hôm ấy các tử thi miễn được vạ moi tim, nhưng những người mà lâu nay Lộc Sơn thù oán, đều bị truy tìm giết cả. Lộc Sơn còn quát nạt:

- Lý Thái Bạch thuở trước mượn cớ say rượu chửi ta, nay mà có đây nhất định phải giết ngay.

Phàm những người thân tín của Quốc Trung, của Cao Lực Sĩ cũng đều đem giết. Những quan viên theo giá mà gia quyến còn ở kinh, đều đem chém cả. Chỉ có gia quyến Tần Quốc Mô, Quốc Trinh đã bỏ trốn từ trước, nên không bị hại. Nội thị Biên Lệnh Thành đầu hàng, đem chìa khóa của lục cung dâng lên. Lộc Sơn liền sai người lục soát khắp nơi, đến cung của Mai Phi Giang Thái Tần, thấy một thây cung nữ đã rữa nát, liền cho rằng Mai Phi đã chết rồi đây, nên không truy tìm nữa. May thay vì thế mà Mai Phi không bị giặc bắt, đến khi hoàng thượng trở về, lại cùng được bách niên giai lão đoàn viên vậy.

Đáng cười thay là Dương Quý Phi, bị nạn thình lình, cũng chẳng qua là quá ngang ngược, ngăn trở nhà vua, không cho Mai Phi cùng đi, không ngờ có binh biến Mã Ngôi, đến nỗi tính mạng cũng không giữ nổi, phải chết trước. Người đời sau có thơ:

Một họ anh em kéo cả đi

Theo vua lại cấm cả Mai Phi

Mã Ngôi bị giết toàn gia đó

Cười ngất không ghen một chút chi!

Lộc Sơn hạ lệnh, phàm các quan viên ở Trường An, không ra hàng ngay, lập tức xử tử. Vì vậy Kinh triệu doãn Thôi Quang Viễn, tể tướng đã về hưu Trần Hy Liệt, hình bộ thượng thư Trương Quân, Thái thường khanh Trương Tự đều ra hàng giặc. Trương Quân cùng Trương Tự đều là con của Yên Quốc Công Trương Duyệt. Trương Tự lại còn là phò mã, lấy Ninh Thân công chúa, là quốc thích mấy đời chịu ơn dày của quốc gia, lại là dòng dõi danh thần, không ngờ bại hoại cả gia phong đến thế.

Cha tước Yên Quốc Công

Con thờ Yên Đế ngụy

Nhục nhã cho giống dòng

Thật "nan huynh nan đệ" .

Lộc Sơn lấy Trần Hy Liệt, Trương Tự làm tả hữu thừa tướng, lại đem Thôi Quang Viễn làm kinh triệu doãn, các quan lại khác đều chịu chức mới của triều ngụy đầy vẻ hăm hở. Nhưng lũ giặc đều là phường thô lỗ, tham bạo, chẳng nghĩ gì đến việc mai sau, mới chiếm được Trường An, thì ý chí đã thỏa, ăn uống vét của, chơi bời, không hề bàn đến chuyện chinh tây. Lộc Sơn nhớ Phạm Dương cùng Đông Kinh, không thích ở Tây Kinh.

Chính là:

Rõ ràng bộ mặt tham tàn thế

Sao cũng đòi xưng Thánh Vũ đây!

Không rõ sự thể ra sao, xin xem hồi sau phân giải.

Hồi Thứ Chín Mươi Ba

Hồ Ngưng Bích, Lôi Hải Thanh tuẫn tiết,

Chùa Phổ Thì, Vương Ma Cật làm thơ

Từ rằng:

Trung nghĩa đem bàn thuật dễ thông

Khó chăng khi gặp bước đường cùng

Lê Viên tuẫn tiết bao nhiêu kẻ

Xin chớ coi thường chí nhạc công

Nhạc công tuẫn tiết

Ai cô thần bi thiết hỏi trời xanh

Thơ ngâm gửi gắm chút tình

Hàng Châu, hàng chữ quên mình vì ai?

Theo điệu: "Thanh sam thế"

Từ xưa trung thần nghĩa sĩ, được trời ban cho gan vàng dạ sắt, chẳng kể quý tiện. Có kẻ ở ngôi quý, hưởng lộc dày, ngày thường khoác lác hai chữ trung nghĩa, đến khi gặp việc lớn, nguy đến mạng sống, lại sẵn sàng vứt ngay hai chữ đó sang một bên, cốt giữ được thân mình, được gia quyến, tránh họa cầu toàn, cam lòng theo bọn phản nghịch, lá mặt lá trái, dù biết rõ ràng việc làm hiện nay của mình sẽ bị vạn đời mai mỉa, tiếng nhơ khôn rửa. Ngược lại, có những người chẳng phải phẩm tước cao sang, nhân thế truyền danh, thường ngày chẳng qua thuộc đội Lê Viên tử đệ của hoàng thượng, gặp cơn hoạn nạn, ai nấy đều ham sống sợ chết, phản chúa hàng giặc. Trên dưới đều nghĩ rằng bọn này thì lấy đâu ra kẻ biết đến hai chữ trung nghĩa, liệu có điều gì đáng trách, sao mà lại biết "cảm ân tri báo" giữa cảnh đời đen bạc này cho dược. Không ngờ riêng những người này nêu tấm gương trung nghĩa, chẳng sợ gì dao búa, mắng giặc chịu chết khiến cho lúc bấy giờ trở thành kẻ cô thần tử tiết, ai nghe cũng khiến nuốt lệ, đau xót hiện thành giấy mực, vịnh thành thơ từ, vì người chết mà truyền mãi cho đời sau. Thế cũng đủ thấy lòng trung nghĩa không chia bần tiện, phú quý, chính là kẻ hạ tiện thì lại hết lòng trung nghĩa, cảm động đất trời, lòng người vậy!

**

Lại nói chuyện An Lộc Sơn tuy đã tiếm xưng vương vị, chiếm đóng được nhiều nơi trong nước, kể cả Đông Kinh lẫn Tây Kinh, nhưng trước sau cũng chỉ là lũ giặc cỏ, chẳng hề có mưu lược sâu xa, lâu dài gì, lòng dạ lúc nào cũng nhớ tới Phạm Dương đất cũ, thích ở Đông Kinh, không muốn ở Tây Kinh. Đến khi vào Trường An, lệnh bắt quan hoạn cùng cung nữ, cho lính tâm phúc giải về Phạm Dương. Rồi lụa gấm, vàng bạc trong các kho, cùng các báu vật, trần thiết của các cung điện, đều cho áp giải về kho ở Phạm Dương. Lại hạ lệnh cho lũ Lê Viên tử đệ, cùng là bọn nhạc công của giáo phường, lâu nay vẫn được triều đình ân sủng, đều phải ra làm phận sự như cũ, nhược bằng trốn tránh không chịu ra, lập tức bị chém đầu. Cho đến lũ voi đã thuần, đôi ngựa biết múa trong chuồng của nhà vua Đường, không được để mất mát, cứ theo như cũ mà luyện tập, sẵn sàng cho Lộc Sơn thưởng ngoạn.

Nguyên là đời Thiên Bảo, thượng hoàng chú trọng việc thanh sắc, mỗi lần đại yến, tất có tấu nhạc Thái Thường, gồm hai ban, một ban ngồi, một ban đứng. Ban ngồi, các nhạc công được ngồi ngay trên nền điện để tiện biểu diễn. Ban đứng thì các nhạc công phải đứng dưới thềm. Nhạc tấu xong rồi, tiếp đến trình diễn nhạc Phiên, gồm đánh trống cùng thổi kèn. Về sau các điệu mới của giáo phường cùng các nơi trong nước thường được gọi tới ngự lãm. Hoặc có khi còn sai cung nga, y phục thật rực rỡ, đến dưới điện vừa múa vừa hát. Các đội này đi đâu, đều có xe ngựa, thuyền lầu đưa đón rất sang trọng khác hẳn thói thường. Mỗi khi thượng hoàng gần say rồi, liền truyền đội voi của ngự uyển, dẫn những con voi đã được luyện tập thuần thục vào quỳ ngay dưới thềm vàng, lấy vòi dâng rượu, chúc thọ, những việc này đã được luyện từ trước rất công phu. Ngoài ra lại còn rèn cho mấy chục con ngựa biết múa, mỗi khi có lệnh, đội trưởng coi chuồng ngựa, dắt ngựa vào sân chầu, lũ ngựa nghe nhạc, đều cúi đầu quỳ gối trước, rồi cứ thế mà nhảy múa, rất khớp với tiết tấu của điệu nhạc.

Nhà nho đời Tống Từ Tiết Hiếu tiên sinh, đã từng làm bài thơ "ngựa múa" như sau:

Thái bình thiên tử thuở Đường triều

Đàn hát thâu đêm, múa sớm chiều

Điện gấm đỡ êm chân tuấn mã

Màn hoa phủ kín bụng long câu (1)

Chỉ can gõ trống hàng không lệch

Chẳng phải ra roi múa tất đều

Điệu cũ Lê Viên sau diễn lại

Phạm Dương gươm giáo ít hay nhiều?

1 Nguyên văn dùng chữ "Ác Oa", tên một con sông ở tỉnh Cam Túc, phía bắc Trung Quốc, nơi sản nhiều ngựa tốt.

Thuở ấy yến tiệc của thượng hoàng, Lộc Sơn đều đứng ngay cạnh hầu, những lời thán phục, ngợi ca đều được nghe tận tai. Khi nảy ý nghịch loạn, giờ đắc chí, vẫn mong theo lệ cũ mà vui chơi, nào ngờ đâu lũ voi ngựa này cũng là cơ gây mầm ham muốn dẫn đến chuyện phản tày trời sau này vậy.

Chính là:

Ăn chơi thiên tử thật xa hoa

Khiến kẻ ngoài thèm nhỏ dãi ra

Hợm hĩnh khoe tài, voi ngựa múa

Xa hoa tổ dẫn cướp vào nhà.(1)

1 Theo ý của thành ngữ: "Dã dung hối dâm, mạn tàng hối đạo". Trau chuốt làm dáng sinh ra lòng dâm dục, tiền của cất giấu không kín thì giục giã lòng tham của người ta.

Lúc này đầu mục của các bộ lạc ở phương bắc, nghe tin Lộc Sơn đã chiếm được Tây Kinh, đều tới để chúc mừng, Lộc Sơn muốn đem những chuyện kỳ lạ để khoe khoang, lừa gạt bọn này, liền triệu tất cả đến trước diện, nói huênh hoang rằng:

- Ta nay nhận mệnh trời mà làm thiên tử, không những lòng người quy thuận đã đành, mà đến vật vô tri, không loài nào là không phục. Ví như lũ voi lâu nay nuôi ở Thượng Lâm của ngự uyển, thấy ta ngồi yến tiệc, cũng quỳ xuống để nâng rượu chúc mừng. Còn lũ ngựa trong chuồng, nghe lệnh ta truyền tấu nhạc, vui mừng và nhảy múa. Há không phải là những sự kỳ lạ hay sao!

Các đầu người Phiên nghe nói đều phủ phục dưới thềm, tung hô:

- Vạn tuế! Vạn tuế!

Lộc Sơn truyền lệnh cho đội voi ra sân triều. Lập tức, đội trưởng dẫn voi ra, khoảng chục con thuần thục hơn cả. Các đầu mục người Phiên chăm chú theo dõi. Xem lũ voi này dâng rượu bằng cách nào. Không ngờ bầy voi đều đưa mắt nhìn lên ngự điện, thấy người ngồi trên, không phải thiên tử dạo trước, nhất định đứng yên không chịu cử động gì cả, lại còn đưa mắt giận dữ nhìn chăm chăm. Đội trưởng rót rượu đưa cho con voi đầu đàn, bắt con voi lớn nhất này quỳ xuống dâng lên, voi dùng vòi cuốn lại đỡ lấy rượu vứt xa hàng mấy trượng. Tả hữu đều sợ xanh xám mặt mày, còn các đầu mục người Phiên thì bưng miệng cố nhịn cười. Lộc Sơn vừa giận vừa xấu hổ, lớn tiếng quát:

- Lũ nghiệt súc, dám cả gan thế sao?

Rồi truyền lệnh dẫn ngay lũ voi ra giết tất. Cuộc yến cũng tan trong huyên náo. Lúc ấy, đã có người làm thơ chế giễu rằng:

Có hình có dáng gọi là voi

Trước mặt không quỳ thật khác đời

Bẽ mặt những phường luồn cúi lắm

Gãi tai, gập gối bẩm thưa hoài.

Lộc Sơn bị lũ voi làm cho mất mặt, bèn nghĩ ngay đến lũ ngựa, biết đâu còn gây chuyện phiền nhiễu hơn, chi bằng đừng đem ra khoe khoang nữa là xong. Liền truyền ngay lệnh, đem lũ ngựa múa đưa vào các quân doanh kỵ hết. Về sau có hai con ngựa ở đội này lưu lạc vào quân kỵ của tướng giặc Sử Tử Minh. Tử Minh nhân có bày tiệc rượu đãi tướng sĩ dưới quyền, cũng có tấu nhạc làm vui, gặp lúc hai con ngựa này ở ngay dưới sân, liền cùng nhảy múa như xưa. Quân lính không rõ nguyên nhân, vừa lạ lùng, vừa sợ hãi, lấy roi nện tới tấp. Hai ngựa bị đánh, cho là vì múa chưa đúng, lại càng như phát cuồng, nhảy hý loạn xạ, quân lính cả sợ côn búa càng đập mạnh, hai ngựa đều chết ngay. Trong đám giặc có kẻ biết rõ chuyện ngựa múa, chạy tới can thì nào còn kịp nữa. Chuyện há không đáng cười sao?

Chính là:

Chẳng khuất thương voi chết rồi

Ngựa múa rối bời, lại phải đòn roi

Vậy nên ngựa cũng bỏ đời

Ngẫm câu đạo nghĩa ngựa voi thế nào?

***

Chuyện chia hai mối, chẳng phải kể rườm rà, chỉ nói Lộc Sơn ở Tây Kinh mặc sức giết người, lại nghe trước đó, trăm họ nhân loạn lạc trộm giấu của kho liền hạ lệnh cho các quan dưới quyền, tra hỏi truy bức, cho phép tố cáo, chẳng khác dây leo, cứ thế bắt kỳ hết trị tội không có ngày nào là không giết chóc. Nhân đó, những kẻ hung hiểm, buông lời thác oan, vu hãm người khác, quan nha chẳng cần tra hỏi ngọn ngành, cứ thế mà bắt bớ, nhiều người vô tội cũng bị giết cả.

Thân mình, nhà cửa chẳng gì chắc chắn. Vì vậy dân chúng ngày đêm mong chờ vua Đường, tin đồn là hoàng thái tử đã thu phục được hùng binh bắc phương, về sẽ khôi phục Trường An, việc trong sớm tối. Lại có tin, quân của thái tử đã tới, trăm họ tranh nhau ra khỏi thành, cấm cũng không được, vì vậy đường phố, chợ búa trong thành cũng không một bóng người. Quân giặc thấy chiến trận lan tới phía Bắc, đều bàng hoàng trông chờ. Lộc Sơn liệu thế Trường An không thể ở lâu chi bằng sớm về Lạc Dương, liền lấy Trương Thông Nho làm lưu thú Tây Kinh, An Trung Thuận làm tướng quân tổng binh trấn thủ Quan Trung, lại sai Tôn Hiếu Triết giám đốc quân vụ, cai quản các tướng. Còn mình với con là An Khánh Tự, dẫn quân tâm phúc, cùng các tướng Phiên chọn ngày tốt về Đông Kinh.

Trước hôm lên đường một ngày, mở yến tiệc chiêu đãi quan tướng văn võ khắp mặt. Truyền cho nội phủ sắp đặt khu ngự uyển ngay bên hồ Ngưng Bích, Lê Viên tử đệ, giáo phường nhạc công, tất cả đều phải tới hầu nhạc múa. Trong số những người này, chỉ có Lý Mô, Trương Dã Hồ, Hạ Hoài Chi đã theo giá chạy vào Thục, còn lại Hoàng Xiên Xước, Mã Tiên Kỳ... không kịp theo vua vẫn lưu lạc ở kinh đô, không dám không theo lệnh Lộc Sơn mà tới. Chỉ có Lôi Hải Thanh thác ốm không chịu đi.

Hôm ấy, bên bờ hồ Ngưng Bích, yến tiệc bày la liệt, Lộc Sơn ngồi trên thềm cao. Khánh Tự đứng hầu một bên, bọn tay chân theo thứ tự ngồi từng dãy phía dưới. Rượu được mấy tuần, dưới thềm tiếng trống nối một hồi nhịp nhàng, sau đó là tiếng nhạc quân hành tấu rộn rã. Từng đội từng ban của Lê Viên tử đệ, giáo phường nhạc công, ban thứ nhất là Đông phương thuộc mộc, ban trưởng, đầu chít khăn tiêu xanh, lưng thắt dải lụa mềm ngọc bích, khoác áo cẩm bào thanh thiên, tay cầm một ngọn cờ nhỏ cũng màu xanh, trên cờ thêu rõ bốn chữ "Đông phương giốc âm", cả bốn chữ đều màu đỏ, thêu bằng chỉ quý lóng lánh sắc kim, hàm ý rằng "Mộc sinh hỏa". Theo sau cờ là hai mươi Lê Viên tử đệ, đầu đội khăn xanh, mặc áo xanh, tất cả đứng phía đông dưới thềm.

Ban thứ hai là Nam phương thuộc hỏa, ban trưởng, đầu đội khăn hà đỏ, lưng thắt lụa mềm màu san hô, khoác cẩm bào hồng, tay cầm cờ nhỏ đỏ, trên cờ cũng thêu bốn chữ "Nam phương chủy âm", bốn chữ này đều thêu bằng chỉ kéo từ vàng, lấy ý "Hỏa sinh thổ". Theo sau cờ cũng hai mươi Lê Viên tử đệ, đội khăn ráng đỏ, áo hồng, đứng ở phía nam của thềm điện.

Ban thứ ba là Tây Phương thuộc kim, ban trưởng đội khăn nguyệt bạch, thắt lưng lụa màu bạch ngọc mềm, khoác áo cẩm bào, tay cầm cờ nhỏ trắng, thêu bốn chữ "Tây phương thương âm" chữ đen, dùng vàng đen mà kéo thành chỉ thêu, lấy ý "Kim sinh thủy". Theo sau cờ cũng gồm hai mươi Lê Viên tử đệ đội khăn trắng, khoác áo trắng, dồn đứng ở phía tây thềm.

Ban thứ tư là Bắc phương thuộc thủy, ban trưởng đội khăn đen, lưng thắt lụa mềm hắc tê, mặc áo bào đen, tay cầm cờ đen, cờ thêu bốn chữ "Bắc phương vũ âm", chữ thêu màu xanh, lấy lông biếc của chim thúy mà thêu, hàm ý: "Thủy sinh mộc" vậy. Theo sau cờ cũng có hai mươi nhạc công đội mũ lụa đen, áo bào cũng màu đen, đứng về phía bắc thềm điện.

Ban thứ năm là Trung ương thuộc thổ, ban trưởng đội khăn mây vàng, thắt lưng màu sáp ong mềm, khoác hoàng bào, tay cầm cờ nhỏ vàng, thêu bốn chữ "Trung ương thuộc cung", chữ thêu bằng chỉ kéo từ bạc tinh, xung quanh lại viền đủ năm màu, hàm ý "Thổ sinh kim", thổ là nơi sinh vạn vật quý báu. Theo sau bốn mươi nhạc công, đầu đội khăn lụa vàng, khoác áo vàng, đứng ngay ở giữa sân điện. Năm người ban trưởng, cùng dẫn đội hình gồm một trăm hai mươi người, hàng ngũ chỉnh tề, theo đúng thứ tự mà đứng. (l)

1 cách phân chia, sắp xếp của các đội, các ban đểu tuân theo luật ngũ hành tương sinh tương khắc của triết học Trung Hoa cổ đại, theo quan hệ tương ứng sau: Thủy - Hỏa - Mộc - Kim - Thổ; Bắc - Nam - Đông - Tây - Trung ương; Đen - Đỏ - Xanh - Trắng - Vàng; Vũ - Chủy - Bốc - Thương - Cung (Theo tự điển văn học Hữu Ngọc)

Trong khi đợi tấu nhạc, Lộc Sơn hỏi:

- Ban nhạc các ngươi đã tới đầy đủ chưa?

Đội nhạc thưa đủ cả, chỉ thiếu Lôi Hải Thanh hiện đang ốm không có mặt. Lộc Sơn phán:

- Lôi Hải Thanh là tay nổi tiếng trong đội nhạc, y không tới, thì sao còn là ban nhạc nữa. Khá cho ngay người tới gọi y. Dẫu có bệnh, cũng phải là ôm bệnh mà tới.

Tả hữu vâng mệnh, vội đi gọi ngay. Lộc Sơn lệnh cho các ban nhạc vẫn theo thứ tự mà tấu nhạc, thôi thì đủ tiêu phượng, địch rồng, sáo ngà, sinh loan, chuông vàng, khánh ngọc, đàn Tần trống Yết, tỳ bà phương Bắc, cùng một lúc rộn ràng tiếp nối, hòa nhau, nào thổi, nào đánh, nào gảy, tiếng nghe thật đinh tai nhức óc.

Giữa lúc huyên náo như vậy, năm mặt cờ bay, phất phới chuyển động, đoàn người nhịp nhàng uốn éo, tiến lui múa hát, đủ màu lấp lánh, khắp sân như gió cuốn. Ca hát, múa xong, tiếng nhạc cũng tạm dừng, các ban các đội theo chỗ cũ mà về, Lộc Sơn trong lòng hoan hỷ, vuốt râu khen ngợi:

- Trẫm thuở trước theo hầu Lý Tam Lang (1) yến tiệc, cũng đã từng nhiều lần được thấy cảnh này, nhưng lúc ấy cũng chỉ là kẻ theo hầu, không sao khỏi sự trói buộc. Sao cho bằng sự khoan khoái bây giờ. Cái không được bằng bây giờ, là chẳng được chị em Dương Quý Phi sum họp mà hoan lạc vậy!

1 Lý Tam Lang: chàng ba họ Lý, gọi một cách coi thường, không công nhận ngôi thiên tử của Đường Minh Hoàng. Theo "Từ Hải": Tam Lang là tự của Đường Minh Hoàng. Ở hồi 84 các mỹ nhân ở "Hồng Nghê Bình" cũng qua Quốc Trung mà gửi lời tới Ngọc Hoàn, tức Dương Quý Phi, Tam Lang, tức Đường Minh Hoàng.

Lại cười tiếp:

- Nghĩ lại trẫm dấy quân chưa lâu, mà đã lấy được nhiều nơi, có cả Đông Tây hai kinh. Đến nỗi Lý Tam Lang có nhà không ở được, có nước cũng không giữ được, phí cả tâm lực một đời, dạy nuôi thành một ban ca nhạc thế này, mà nay chẳng dược hưởng, phải để lại phần trẫm đây, há chẳng phải mệnh trời sao. Nay trẫm cha con, vua tôi cùng nhau yến tiệc, hãy vui say thả cửa, lũ nhạc công các người tấu nhạc nữa để trợ hứng nào?

Các đội ca nhạc, nghe Lộc Sơn nói giọng Phiên như vậy, trong lòng đều bất giác cảm thương, nghẹn ngào nên tiếng nhạc nghe như rã rời, có kẻ lặng lẽ rớt nước mắt. Lộc Sơn nhận ra ngay, lớn tiếng quát:

- Nay trẫm yến tiệc ở đây, các ngươi sao dám ra mặt khóc thương như vậy?

Bắt tay chân xem xét, người nào mà rầu rĩ khóc lóc, lập tức lôi ra chém đầu. Cả bọn thất kinh, vội vàng giấu chùi nước mắt, giả dạng vui vẻ. Bỗng trong sân có tiếng khóc lớn, thì ra là Lôi Hải Thanh. Nguyên là Hải Thanh thác bệnh không chịu đến, bị Lộc Sơn sai người bức triệu, khi tới gặp lúc ca nhạc huyên náo, trong lòng Hải Thanh đã bực tức, lại nghe thêm những lời vênh vang của Lộc Sơn, cùng là những tiếng quát nạt, liền phẫn uất, nổi lòng nghĩa khí trung trinh, lớn tiếng khóc. Người dưới sân điện, thảy đều kinh hoàng. Bọn tay chân vội truy tìm kẻ táo gan, thì đã thấy Hải Thanh ưỡn ngực bước ra trước điện, kéo tất cả khăn lụa gấm phủ, cùng mọi thứ bày trên vứt cả xuống đất, chỉ mặt Lộc Sơn mà lớn tiếng mắng:

- Mày là kẻ phản nghịch, chịu ơn dày của thiên tử, mà mang lòng phản loạn, tội đáng phanh làm vạn mảnh, còn dám lớn tiếng nói láo. Lôi Hải Thanh này dẫu chỉ là nhạc công, cũng biết điều trung nghĩa, không đời nào chịu hầu hạ phường phản nghịch. Hôm nay ta quyết sống chết với mày, dẫu có nát thân, thì đã có em ta là Lôi Vạn Xuân, sẵn sàng vì nước tận trung, chẳng chóng thì chày sẽ đâm chết lũ giặc chúng mày!

Lộc Sơn trừng mắt há hốc mồm mà nhìn, một câu cũng không nói ra, mãi sau mới ra được lệnh mau chém đầu. Bọn tay sai, giơ đao tới tấp Hải Thanh đến lúc chết, miệng vẫn không ngớt chửi mắng.

Chính là:

An Kim Tàng nhớ mới năm nào

Lôi Hải Thanh nay lại tiếp theo

Nghĩa liệt nhạc công đời hiếm có

Nghênh ngang áo mũ thẹn là bao!

Lôi Hải Thanh chết rồi, Lộc Sơn vẫn chưa nguôi cơn giận dữ, truyền bãi ngay yến tiệc, giam tất cả các nhạc công chờ lệnh đưa đi đày. Đang lúc quát tháo, thì có thám mã về thưa:

- Hoàng thái tử đã lên ngôi Linh Vũ, đủ cả niên hiệu, lấy một vị ẩn sĩ tên Lý Bí làm quân sư, lệnh cho Quảng Bình Vương, Kiến Ninh Vương cùng Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật dẫn quân khôi phục hai kinh. Còn tướng Lệnh Hồ Triều bao phen đánh Ung Khâu, nhưng gặp phải phòng ngự sứ Ung Khâu của nhà Đường là Trương Tuần, rất giỏi phòng giữ, Lệnh Hồ Triều mấy lấn đều thua.

Lộc Sơn nghe ra, hạ lệnh ngay ngày hôm sau quay về Đông Kinh, mặt khác bàn bạc để điều tướng sĩ ứng cứu các nơi. Còn những cung nữ ở Tây Kinh, cùng vàng ngọc, các của báu khác với nhạc công, nhạc khí đều đưa hết về Đông Kinh.

Lúc lên đường, Lộc Sơn cưỡi ngựa qua trước thái miếu, bỗng nhiên dừng ngựa, rồi lệnh cho quân sĩ nổi lửa đốt thái miếu. Quân lính vâng mệnh, lập tức bốn phía lửa cháy. Lộc Sơn ngồi trên ngựa nhìn, lửa vừa bén, một luồng khói xanh xông thẳng lên trời cao. Lộc Sơn ngửa mặt lên nhìn, chẳng ngờ luồng khói xanh cứ nhằm đúng đầu Lộc Sơn mà lao xuống, cuộn tròn như một cái vòng, quấn chặt lấy hai mắt Lộc Sơn. Nhìn ra thì hai mắt đã mờ tối, nước mắt chảy ra như trút, không thể cưỡi được ngựa nữa, đành phải lấy xe rồng nhẹ mà đi. Từ đó Lộc Sơn bị mờ cả hai mắt, ngày một nặng chữa chạy vẫn chẳng thuyên giảm, cuối cùng bị mù cả hai mắt.

Chính là:

Giặc đốt phá càn dỡ

Thái Tông mắt vẫn mở

Nên chọc mắt giặc mù

Báo ứng giặc phải sợ.

Lộc Sơn về đến Đông Kinh, hai mắt đã không nhìn thấy gì, trong lòng buồn bực, muốn gọi mấy nhạc công tới đàn hát giải buồn, nhưng lại nghĩ tới chuyện Lôi Hải Thanh, sinh nghi hoặc, không dám gần gũi đám Lê Viên tử đệ này, ý muốn đem bọn này giết quách, nhưng cũng tiếc tài hoa, nên vẫn giữ lại chờ khi cần đến.

***

Lại nói chuyện Lôi Hải Thanh tuẫn tiết được người người truyền tụng, kẻ kẻ ngợi ca, nhân đó mà cảm động đến cả lòng riêng của một viên quan có tiếng. Viên quan này chẳng phải ai khác, chính là người dạo trước tâu với thượng hoàng về chuyện Chung Quỳ, đó là Cấp sự trung Vương Duy. Họ Vương tự là Ma Cật, nguyên là người Thái Nguyên, lúc thiếu thời nằm đọc sách ở vùng núi Chung Nam, đời Khai Nguyên đậu tiến sĩ cập đệ, tính rất hiếu khách, cùng với em là Vương Tấn có rất nhiều tài lạ, Vương Duy học rộng, biết nhiều thứ khác nhau, chữ viết tranh vẽ vừa uyển chuyển vừa cứng cỏi, nổi danh một thời, từ các thân vương, cho đến phò mã, đều coi Vương là bậc thượng khách. Lại thêm tinh thông âm nhạc, có thể tự sáng tác âm điệu mới, đến nỗi Lê Viên giáo phường tranh nhau luyện tập, truyền tụng. Từng có một người bạn của họ Vương, được một bức tranh vẽ cảnh ban nhạc nhưng không rõ là đang tấu bài nhạc gì, Vương Duy nhìn qua liền bảo:

- Bức tranh này, chính là vẽ vào đội nhạc công đánh đến phách thứ nhất của đoạn ba, điệu "Nghê Thường vũ y khúc".

Có kẻ hiếu sự, tập hợp các nhạc công lại, cho tấu điệu nhạc này, đến phách thứ nhất của đoạn ba, đều nhất loạt bắt dừng lại không được cử động, rồi xem xét kỹ nhạc công, từ người thổi sáo, kẻ gẩy đàn, gõ trống, từ cánh tay, ngón tay so với cảnh tượng trong bức họa không khác nhau một chút nào. Bởi vậy không ai là không thán phục.

Năm cuối đời Thiên Bảo, họ Vương làm Cấp sự trung, lúc An Lộc Sơn làm phản, thượng hoàng chạy vào Thục, họ Vương hốt hoảng không kịp theo ai, bị giặc bắt được, liền uống thuốc giả vờ ngây, nói năng ú ớ, để từ chối lệnh của ngụy triều. Lộc Sơn vốn trọng bậc tài năng nên không nỡ giết, sai người đưa về Lạc Dương, giam ở chùa Phổ Thị cho dưỡng bệnh ở đây. Vương Duy bản tính hiếu Phật, nay bị giữ trong chùa, chỉ suốt ngày tụng kinh, hoặc là tĩnh tọa, nghĩ tới chuyện Chung Quỳ móc mắt quỷ, nhai quỷ mà thượng hoàng kể lại dạo nào, cùng là việc Lộc Sơn bị mờ hai mắt mới rồi, cũng là ứng vào lúc giấc mộng của thượng hoàng. Cứ thế mà suy, thì lũ giặc quỷ này sắp đến ngày diệt vong, chỉ giận không kịp theo xa giá, để đến nỗi bị giặc giam giữ ở đây, chẳng biết đến bao giờ mới thấy được mặt rồng.

Đang lúc nghĩ ngợi, nghe người kể về chuyện Lôi Hải Thanh tuẫn tiết ở hồ Ngưng Bích, bèn hỏi thật cặn kẽ mọi sự, mười phần thương cảm, nhìn trời cao mà gào khóc. Lại nghĩ tới đám Lê Viên giáo phường, nhiều lần tập luyện những khúc điệu của Vương, không ngờ giờ phải hầu hạ lũ phản nghịch, thật là nhục nhã cho chữ nghĩa, nhạc điệu của Vương. Lôi Hải Thanh, dẫu phải ẩn thân trong đám nhạc công nhưng thường ngày đã khác người, đúng là bậc trung quân ái quốc, đừng nói phải nghe những lời khoác lác điên cuồng của kẻ thù mà những điều tai nghe mắt thấy, cũng đủ không nén nỗi lòng căm phẫn. Lại tưởng tới cảnh hồ Ngưng Bích trong nội cung, vốn là nơi nghi ngơi của các thiên tử nhà Đường, nay trở thành nơi chè chén của lũ tội nghịch, thật là không hết nỗi thương tâm. Nghĩ tới đó, tưởng tới đó, Vương Duy liền lấy ngay giấy bút, viết bài thơ sau:

Muôn bếp đau thương khói vật vờ,

Trăm quan bao thuở được chầu vua?

Hòe thu lá rụng cung hoang vắng,

Ngưng Bích hồ vang tiếng trúc tơ.(1)

1 Nguyên văn: "Vạn hộ thương tâm sinh dã yên; Bách quan hà nhật tái triều thiên?, Thu hòe diệp lạc không cung lý; Ngưng Bích trì đầu tấu quản huyền".

Với bài thơ này, Vương Duy chỉ nói tấm lòng bi thương của mình, chẳng hề định ngợi ca Lôi Hải Thanh, chẳng hề đưa cho người khác xem. Không ngờ Lê Viên giáo phường bị Lộc Sơn đưa về Đông Kinh, họ từ lâu đã kính mộ Vương, tên tuổi lẫy lừng, nay bị giam ở chùa Phổ Thị này, nên họ hay lui tới thăm hỏi. May có người được đọc bài thơ, rồi truyền cho nhau cùng ngâm nga, mãi tới hành tại của Túc Tông cũng biết. Túc Tông nghe thấy, động lòng than thở, nhân đấy thường ngâm nga. Chỉ có ba chữ "Ngưng Bích Hồ" là nhắc tới một cách kín đáo việc tuẫn tiết của Lôi Hải Thanh.

Mãi đến khi giặc loạn đã dẹp xong, Túc Tông về Tây Kinh, bàn tới việc thưởng phạt các quan. Lôi Hải Thanh được truy thưởng lòng trung nghĩa. Lúc này đám quan viên theo giặc, cũng là bị giam hãm trong tay giặc đều định tội khác nhau, Vương Duy tuy chưa từng hàng giặc, vẫn thuộc loại bị giặc giam giữ, nên đáng ra cũng trong vòng có tội nhưng em ruột là Vương Tấn, đang làm Hình bộ thị lang, dâng biểu xin từ bỏ hết quan chức để chuộc tội cho anh. Túc Tông nhân nhớ tới bài thơ "Ngưng Bích Trì" này, có mang ý không quên ơn vua, liền đặc chỉ xá tội, lại cho được giữ nguyên chức quan như cũ. Đó là chuyện sau này.

Chính là:

Có người ngay tuẫn tiết

Được thơ càng nổi tiếng

Có kẻ đáng gia hình

Vì thơ mà được miễn.

Lại nói An Lộc Sơn sau khi bị mù mắt, càng thêm bạo ngược, ngay cả với kẻ thân cận dưới quyền. Thấy ai cũng nghi ngờ, sợ hãi, đến nỗi như phát điên, công việc sai sót càng nhiều, càng lớn. Vì vậy lòng người ngày càng ly tán, kẻ thân cận xưa nay cũng thành cừu thù.

Vậy nên:

Tội lỗi sau trước chất núi

Đất trời sớm muộn phân thây.

Chẳng biết về sau sự việc ra sao, xin xem hồi tiếp phân giải.

Hồi Thứ Chín Mươi Bốn

An Lộc Sơn bị đâm xổ ruột chết ngay,

Nam Tễ Vân cắt đứt ngón tay cầu viện.

Từ rằng:

1 Đời cha phản nghịch phụ ơn nước

Đến đời con nào khác được đâu

Cha chống chúa, con phản cha

Lưỡi dao họ Lý mạng già tiêu tan.

2. Đầu rắn nát, đuôi hãy quằn

Tướng cầm quân lại thù hằn ghét ghen

Thương ai vì nước quên thân

Ngón tay đứt, nước mắt tràn, lòng đau.

Theo điệu "Hồ đảo luyện"

Vua sở dĩ được tôn quý là bởi trời, là do cha, một khi đã chống trời, phản cha, thì làm thế nào mà thoát khỏi tội chết. Cho nên dẫu có bị quân chinh phạt của đấng thiên tử giết chết, gục dưới lưỡi đao của phép nước thì cũng chẳng lấy làm lạ, duy có điều khác thường là người báo oán đó lại chính là đứa con ngỗ ngược của kẻ phản loạn vậy. Thân vừa mới phản vua, thì quay trở lại con giết cha, đủ khoái trá lòng người, đủ làm lạnh gáy bao kẻ. Trời báo đứa ác, thật cũng khéo thay.

Cho đến người suốt đời chưa từng nghĩ tới sự phản nghịch, nhưng đến khi nắm quyền hành trong tay, khống chế một vùng, chẳng hề nghĩ đến bảo toàn đất nước, riêng lo thân mình, sợ người ám hại, căm bạn bè thành công nghiệp, ngồi điềm nhiên nhìn thành nhỏ mất trong sớm tối. Bậc trung thần nghĩa sĩ phòng giữ cô thành bằng hai bàn tay không, dẫu cố gắng hết tâm lực, thì cung sức tận tình suy, đến nỗi phải quặn lòng, khóc ra máu, thắm thiết xin quân cứu viện, chẳng khác gì Thân Bao Tư nước Sở kêu khóc bảy ngày trước sân chầu nhà Tần vậy. Thế mà nỡ vẫn đóng binh không động, điềm nhiên không mảy may thổn thức, để đến nỗi thành mất, tướng chết quân tan, trăm họ máu chảy đầu rơi. Lũ người như thế thì khác nào phản nghịch, nói đến cũng đủ dựng tóc vì căm giận!

***

Nói chuyện An Lộc Sơn từ ngày hai mắt bị mù tính tình càng tàn bạo, tay chân cho đến kẻ hầu hạ, có điều gì không vừa ý, là đập đánh rất tàn nhẫn hoặc giết ngay lập tức. Lộc Sơn có viên nội giám ngày đêm không rời bên mình tên gọi Lý Chủ Nhi, nhưng ngày nào cũng thường bị đánh. Nói ra cũng thật buồn cười, Nghiêm Trang là bậc đại thần rất thân tín, nhưng chỉ cần một câu nói không vừa ý, cũng không tránh khỏi roi vọt. Bởi vậy kẻ trong người ngoài, đều đem lòng oán hận, Lộc Sơn suốt đêm ngày trong nội cung, văn võ tướng sĩ ít khi được thấy mặt. Trước đây đã lập An Khánh Tự làm thái tử, về sau lại có người thiếp yêu là Đoàn Thị, sinh một con trai đặt tên là Khánh ân. Lộc Sơn bởi sủng ái Đoàn Thị nên yêu con, ý muốn phế Khánh Tự, mà lập Khánh ân làm thái tử. Khánh Tự nhân không được cha yêu, ngày đêm băn khoăn, hoảng hốt, chẳng biết làm thế nào. Liền ngầm gọi riêng Trang Nghiêm vào nội cung, đuổi hết tay chân ra, bí mật bàn bạc, xin Nghiêm Trang vạch cho một kế sách chu toàn. Trang Nghiêm cũng vốn phường hiểm ác, đã quen xúi người làm việc phản loạn, gần đây lại khổ cực vì luôn bị Lộc Sơn đánh đập, lòng cũng căm tức không cùng. Thường ngày thấy tính tình Khánh Tự ngu độn, có thể bắt nạt, lòng thầm nghĩ: "Nhược bằng tay này sớm lên ngôi báu, thì ta có thể dễ dàng nắm hết quyền hành". Nay Khánh Tự dã cầu xin mách nước, chẳng khác nào khơi thêm tà dâm ở Trang Nghiêm, dẫu muốn khuyên ngay Khánh Tự làm việc thí nghịch, nhưng cũng khó mà nói, cứ trầm ngâm mãi. Khánh Tự phải hai ba lần nài nỉ:

- Ta gần đây luôn bị phụ hoàng đánh đập, điều đó chẳng đáng ngại, chỉ sợ phụ hoàng quá yêu trẻ nhỏ, mai đây liệu có chuyện gì thay đổi ngôi thái tử chăng? Nên phải được kế lâu dài của tiên sinh thì mới không lo gì nữa. Xin tiên sinh chỉ giáo cho!

Trang Nghiêm vờ buồn bã thở dài:

- Xưa nay vẫn nói yêu mẹ thì bồng con nhỏ. Chúa thượng đã yêu Đoàn Thị, thì lẽ tự nhiên là yêu con Đoàn Thị sinh ra, mai kia chuyện phế lập cũng là chuyện tất xảy ra vậy. Xin điện hạ hãy thôi đừng nghĩ đến chuyện nối ngôi cao. Nhưng dẫu có thế đi chăng nữa, sợ rồi tính mạng cũng chẳng giữ được!

Khánh Tự ngạc nhiên hỏi:

- Ta không có tội gì thì sao lại đến nỗi thế!

Trang Nghiêm đáp:

- Điện hạ chưa bao giờ đọc sách, nên không biết những chuyện ngày xưa; đã lập một con thì phải phế một con, đứa con bị phế, có mấy khi mà lại giữ được tính mạng. Sao khỏi chuyện đố kỵ, chuyện hiềm nghi, thế không thể không trừ thì mới yên được, cần gì phải có tội hay không kia chứ!

Khánh Tự nghe thấy thế rất kinh hoàng:

- Nếu đã như vậy thì làm thế nào bây giờ để giữ được tính mạng?

Trang Nghiêm đáp:

- Trong quan hệ giữa cha với con chỉ có hai cách: một là vâng theo, hai là phản nghịch mà thôi.

Khánh Tự hỏi tiếp:

- Không thể nào trốn tránh được thì sao?

Trang Nghiêm đáp:

- Người xưa nói rằng: "Đánh roi nhỏ thì gắng mà chịu, đánh gậy lớn thì phải chạy". Điều này chẳng qua là để nói chuyện trong gia thuộc mà thôi, cha mẹ dạy con, đương lúc giận dữ, lấy gậy lớn mà trách phạt, sợ có thể thương tổn, sợ rồi cha mẹ sẽ đau thương, hối hận, nên tránh nhanh cái họa mang tiếng xấu cho cha mẹ, nếu không tạm thời trốn tránh, vậy nên mới nói: "Đại trượng tắc tẩu" vậy. Nay vừa là cha vừa là bậc thiên tử chí tôn, mà lại nhẫn tâm giết cả con, chỉ cần nói một lời, viết vài chữ, công việc xong xuôi ngay, có chạy đường nào cũng chẳng kịp, cũng chẳng có chỗ nào yên.

Khánh Tự căn vặn:

- Thế là cả tiên sinh cũng không có cách nào cứu ta chăng?

Trang Nghiêm đáp:

- Thần này nếu dâng lời can gián thẳng thắn, thì lại phải chịu đánh đập, mà chẳng ích gì, ngược lại còn giận dữ kéo đến, tai họa lớn ập ngay. Làm thế nào mà thần cứu cho được?

Khánh Tự nghẹn ngào:

- Ta chính là con bà cả, mà không được nối ngôi, thì căm biết chừng nào. Nay chẳng nhẽ lại còn cam chịu chết nữa hay sao?

Trang Nghiêm lấp lửng:

- Điện hạ nếu tránh được cái họa không giữ được thân, thì chuyện phế lập cũng sẽ không xảy ra vậy.

Khánh Tự đáp:

- Xin tiên sinh hãy dạy cho ta mưu kế kỳ diệu. Ta nhất định không thể bó tay chịu chết đâu! .

Trang Nghiêm giả bộ trù trừ, ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi thong thả:

- Nếu điện hạ đã quyết không khoanh tay chờ chết thì lại là chuyện khác. Còn nếu khoanh tay, tất cái chết sẽ đến. Không muốn chết, thì không được khoanh tay. Ngạn ngữ có câu: "Vua bảo bầy tôi chết, không thể không chết, cha bảo con chết, không thể không chết . Nói đến như vậy, thì người ta chẳng còn đường sống. Cũng chẳng khác gì chúa thượng đây với hoàng đế nhà Đường vậy, chẳng phải là quan hệ quân thần sao. Huống chi lại từng được nhận làm con nuôi của Dương Quý Phi, thì lại vừa là quần thần, vừa là phụ tử nữa kia. Nhưng sau này vua Đường bức chế quá phát hoảng, không thể chờ bó tay chờ chết, đành phải nổi can qua. Nếu chúa thượng cũng ngồi yên như bọn ta đây, thì làm sao mà tránh khỏi họa, lại còn cướp thành chiếm đất, lên ngôi chí tôn, thỏa nguyện bình sinh cả đời người. Cứ thế mà suy, phải thấy là việc gì cũng cần nhìn thời lượng thế mà làm một cách mạnh bạo, mới có thể chuyển họa thành phúc. Nhưng không biết điện hạ có thể từ chỗ không thể tìm ra một kế muôn một nào cả, mà lại có thể tìm ra được một kế vạn bất đắc dĩ không?

Khánh Tự nghe xong cúi đầu nghĩ ngợi, rồi cất tiếng:

- Tiên sinh đã vì ta mà bày mưu tính kế cho, thì thế nào cũng xin kính cẩn nghe theo.

Trang Nghiêm nói:

- Dẫu có như vậy, vẫn phải mượn tay người này mới được, không có y không xong. Đó chính là Lý Chu Nhi. Thần xin mật gọi tới bàn bạc vậy.

Khánh Tự đáp:

- Mọi chuyện đều phải nhờ tiên sinh lo liệu cho, để chậm sợ sinh biến, phải lấy nhanh làm quí vậy.

Trang Nghiêm vâng lời, từ tạ ra về. Gặp ngay Lý Chu Nhi ở cửa cung, hẹn riêng y chiều tối hôm ấy xong việc hầu hạ đến phủ, có chuyện cần thương nghị.

Tối đến, Lý Chu Nhi đã có mặt, Nghiêm Trang sai bày tiệc rượu ngay ở phòng kín, cả hai ngồi đối diện nâng chén. Nghiêm Trang cười hỏi:

- Túc hạ mấy ngày gần đây, phải bao nhiêu roi cả thảy rồi!

Chu Nhi thản nhiên đáp:

- Chuyện không đáng nói, từ trước đến nay số roi vọt tiểu nhân phải chịu, tính sao cho hết. Chẳng biết đến bao giờ cho hết cái nạn này?

Trang Nghiêm đáp:

- Chẳng nói gì túc hạ, mà đến bậc đại thần thân cận như ta đây rồi đến thái tử sắp lên ngôi báu, cũng chẳng nhớ hết số lần bị roi vọt. Thánh nhân có nói: "Vua lấy lễ mà đãi bầy tôi". Lại nói "Phàm làm cha, phải dừng lại chỗ nhân từ". Chúa thượng nay xử sự như vậy, liệu có phải là lấy lễ mà đãi bầy tôi, lấy từ mà dạy con cái chăng" Huống chi nay thiên hạ chưa yên, vạn nhất lòng người trong ngoài đều lìa tan, thì nghiệp lớn coi như đổ vậy!

Chu Nhi đáp:

- Thái tử hãy còn chưa biết đấy. Từ lâu chúa thượng đã có ý phế con lớn lập con nhỏ, phế đích lập thứ. Mai này còn chẳng biết việc gì sẽ xảy ra nữa kia!

Trang Nghiêm nói:

- Sao thái tử lại không biết! Ngày hôm nay vừa ngồi lo lắng kể với ta xong. Ta nghĩ rằng, thái tử vốn nhân hậu, nếu được sớm lên ngôi báu, thì ta với túc hạ tha hồ yên ổn, chẳng còn phải lo gì đến cái vạ đánh đập nữa. Làm thế nào mà tìm được một kế sách diệu kỳ, bắt chúa thượng nhường ngôi cho thái tử ngay là mọi chuyện đều trở nên tốt đẹp ngay.

Chu Nhi khoát tay:

- Chúa thượng tàn bạo như thế, ai người dám nói, mà tính chuyện khuyên nhủ cho được.

Trang Nghiêm nói:

- Nếu đã như vậy, ta là bậc đại thần, cũng còn ít nhiều thể diện triều đình, không phải lúc nào cũng có thể roi vọt cho được. Túc hạ hầu hạ ở trong nội cung, mai này sợ không phải chỉ là chuyện đánh đập mà chỉ sợ vui mừng giận dữ không thường, chẳng biết đi đời lúc nào.

Chu Nhi nghe vậy, bất giác vung tay đấm ngực mà giận dữ:

- Người ta ở đời, tất cả đều chết cả thôi. Nhưng chẳng tội chẳng nợ gì mất đầu phơi thây. Sao bằng hãy một lần làm cho động địa kinh thiên, nếu chẳng thoát được cái họa thây rơi đầu, thì cũng lưu danh tiếng với đời vậy!

Trang Nghiêm tìm đủ mọi cách để Chu Nhi nói được điều này, rồi liền vỗ tay đứng dậy nói tiếp:

- Túc hạ nếu thật có thể làm được việc lớn, thì chẳng có thể nào chết mà ngược lại còn trở thành bậc công thần có công phò tá lớn nữa kia. Chỉ sợ túc hạ chưa quyết ý thôi!

Chu Nhi đáp:

- Tiểu nhân đã nhất quyết rồi! Nhưng đây không phải ý của thái tử. Thái tử còn bị ràng buộc bởi tình cha con, liệu có dung chúng ta chăng?

Trang Nghiêm đáp:

- Chẳng giấu gì túc hạ, ta đã thương nghị với thái tử rồi. Thái tử cũng vì không được chúa thượng yêu nữa, sợ tai họa đến nơi, nói với ta rằng: "Mọi chuyện đều nhờ khanh lo liệu cả cho!". Ta nghĩ túc hạ thế nào cũng đồng lòng, nên mới hẹn túc hạ tới đây bàn bạc.

Chu Nhi nói:

- Nếu đã như thế, việc không nên chậm, chỉ trong sáng tối ngày mai hành sự ngay. Nhân hai ngày nay mắt rồng đang đau nhiều không thể ngủ với cung nữ, một mình ngủ riêng trên điện, chính nên thu xếp cho xong. Chúa thượng thường hay giữ riêng kiếm sắc ở ngay dưới gối, chiều mai phải tìm cách lấy cắp đi, thì chẳng còn điều gì đáng ngại nữa.

Nói xong cùng nhau chia tay.

Ngày hôm sau, Trang Nghiêm hẹn ngầm với Khánh Tự, định đến chập tối, Khánh Tự, Trang Nghiêm cùng giấu kiếm ngắn trong người, nói thác là theo lệnh của Lộc Sơn, vào thẳng trong điện, quân tướng canh điện không dám giữ. Lộc Sơn lúc này đã nằm yên trong trướng gấm, không ngờ Chu Nhi cầm đao thình lình xông vào. Lộc Sơn hai mắt đã mù, chẳng nhận ra người nào, đang định cất tiếng hỏi, Chu Nhi đã ập tới bên, lật ngay chăn lên, dưới ánh đèn, Lộc Sơn ở trần lộ rõ cái bụng to tướng. Nói thời chậm, làm thời nhanh, đao đưa ngay vào bụng. Lộc Sơn nhịn đau, giơ tay tới gối mò tìm kiếm sắc nhưng không thấy đâu, liền ôm lấy cái cọc màn mà hét:

- Cái này nhất định là người trong nhà làm phản rồi!

Miệng dẫu la, nhưng bụng thì ruột gan đã tuôn đầy ra ngoài hàng đấu, hét lớn một tiếng, quằn quại được một chốc thì đã: Ô hô! Ai tai! Thương ôi! Lúc này chính là vào tháng giêng, năm thứ hai, đời Chí Đức. Nghịch tặc phản chúa, giết hại lương dân, tàn ngược trăm họ, tội ác đầy trời, đã bị đâm chết, loạn thần bị nghịch tử báo ứng, lẽ trời lồng lộng. Người đời sau có hai bài từ "Quản chi nhi" rất hay nói về chuyện này như sau:

1. An Lộc Sơn!

Xưa mày là chó theo Trương Thủ Khuê

Tử hinh được miễn, vỗ về chăm nom

Việc binh lại vẫn đua đòi

Lòng lang dạ sói, xăm xoi tranh giành

Mình rồng đầu lợn hôi tanh

Thân mù chết, hiện nguyên hình giống heo

Lý Chu Nhi là đứa thế nào?

2. Xưa, Minh Hoàng tưởng mày tử tế

Lễ tắm con, lạy mẹ, lạy cha

Thưởng tiền thân mật một nhà

Con nuôi hầu cận hóa ra phản thần

Bỗng dấy nghịch, chiếm giang san

Leo ngôi báu những dọc ngang hại đời

Lẽ báo ứng, khéo nực cười

Lưỡi kiếm sắc đâm những lòi ruột ra

Lòng son thuở trước đâu xa!

Lộc Sơn bị giết rồi, tả hữu kinh hoàng hỗn loạn, Khánh Tự cùng Trang Nghiêm có mặt ngay, trong tay lấp lánh kiếm ngắn, lớn tiếng quát nạt mọi người phải im lặng. Một phần lâu nay ai nấy đều bị Lộc Sơn đối xử tàn nhẫn, nay y chết đều lấy làm may mắn, hai nữa thấy Khánh Tự cùng Trang Nghiêm chủ trương, nên chẳng ai dám ho he. Trang Nghiêm ra lệnh đào hố ngay ở gầm giường xuống sâu mấy mét, lấy chăn gói kín xác Lộc Sơn mà chôn ngay, cấm mọi người không được tiết lộ.

Sáng ngày hôm sau, ban lệnh cho ai nấy biết chúa thượng bị bệnh nặng đột ngột, truyền mệnh cho Khánh Tự nối ngôi. Khánh Tự liền tiếm xưng ngôi cao. Mật lệnh thắt cổ chết ngay Đoàn Thị cùng con Khánh Ân, tiếm tôn Lộc Sơn làm thái thượng hoàng, thăng thưởng cho các tướng, các quan, để yên lòng mọi người.

Mấy ngày sau, mới truyền tin Lộc Sơn đã chết, lệnh cho quần thần không phải vào cung làm lễ khóc viếng gì cả. Mật quật xác ở gầm giường lên, thì xác đã thối rữa, cứ thế mà khâm liệm, rồi phát tang mai táng luôn.

Nghiêm Trang thấy Khánh Tự đần độn, sợ kẻ dưới không phục, nên tránh không để Khánh Tự gặp quần thần. Khánh Tự chỉ ngày đêm đắm say trong tửu sắc, phàm bao nhiêu phi tần sủng ái của Lộc sơn, chẳng tha sự dâm loạn. Mọi việc lớn nhỏ đều do Nghiêm Trang quyết đoán, tự phong làm Bằng Dực Vương. Trang Nghiêm lấy danh Khánh Tự, sai thứ sử của giặc ở Biện Châu là Doãn Tử Kỳ, dẫn mười ba vạn quân đánh thành Thư Dương. Thái thú Thư Dương Hứa Viễn liền cầu cứu phòng ngự sứ Ung Khâu Trương Tuần.

***

Lại nói Trương Tuần ở Ung Khâu có Nam Tễ Vân cùng Lôi Vạn Xuân theo đến làm lang tướng dưới trướng. Lúc Minh Hoàng xa giá vào Thục, tướng giặc là Lệnh Hồ Triều tiến đánh Ung Khâu, Trương Tuần dẫn hai tướng Nam, Lôi cùng quân sĩ tận lực chống cự. Lệnh Hồ Triều vốn là đồng học của Trương Tuần, bèn viết thư gửi, kể lại quan hệ thân thuộc cũ, rồi tiếp: "Thiên hạ mất còn là chuyện chưa thể đoán nổi, nhưng giữ một chiếc thành con như thế này liệu có ích gì, chi cho bằng hàng đi là hay hơn cả".

Dưới trướng họ Trương có sáu viên đại tướng, cũng khuyên Trương nên đầu hàng. Trương Tuần giận dữ, bày họa tượng Thiên tử trên cao, rồi dẫn quân sĩ vái lạy, khóc lóc, khuyến dụ nghĩa lớn một hồi, ai nấy đều phấn khích. Trương Tuần chém đầu sứ giặc, cùng cả sáu viên đại tướng khuyên hàng. Vì vậy lòng người càng nhất tâm đồng chí, chống giữ. Trong thành thiếu tên, họ Trương liền sai vặn hơn một nghìn người bằng rơm cỏ, cho khoác áo đen, nhân lúc trời tối thòng dây xuống chân thành, quân giặc nghi ngờ hoảng sợ, bắn ra như mưa, nên lấy được vô số tên tốt.

Tối hôm sau, vẫn cứ thả người rơm xuống như cũ, quân giặc đều cười nhưng lại không phòng bị gì nữa. Trương Tuần liền tuyển lấy năm trăm dũng sĩ, nhảy xuống, đâm thẳng vào trại giặc. Giặc đang lúc bất ngờ, phải bỏ trại chạy, bị giết rất nhiều. Lệnh Hồ Triều phẫn uất thân tự đôn đốc lính đánh thành. Trương Tuần sai Lôi Vạn quân lên mặt thành xem xét. Lúc này Vạn Xuân đã nghe tin anh Hải Thanh tuẫn tiết, mười phần thương xót, nghiến răng trừng mắt lên mặt thành, không ngờ quân giặc liên tiếp bắn lên. Vạn Xuân trúng luôn năm sáu phát tên vào mặt, nhưng vẫn đứng như trời trồng không suy suyển. Từ xa Lệnh Hồ Triều nhìn, mới ngờ là người gỗ, đến khi thấy tay nhổ lên, máu loang đầy mặt, mới biết đó là Lôi Vạn Xuân, vô cùng kính phục.

Chính là:

Người rơm tưởng là người thật

Người thật lại bảo gỗ tạc oai phong

Phe trung rơm gỗ đều trung

Kém ai trí dũng, một lòng sắt son.

Tức khắc, Trương Tuần lên thành, Lệnh Hồ Triều đứng lên chòi cao nhìn thấy, lớn tiếng gọi:

- Trương huynh! Ta đã thấy Lôi Vạn Xuân, cũng biết rõ phép làm tướng rất nghiêm minh của Trương huynh. Nhưng còn đạo trời thì làm sao bây giờ?

Trương Tuần đáp:

- Túc hạ chưa biết đạo người, làm sao nói tới đạo trời được. Túc hạ bình thường hàng ngày "thuyết trung đàm nghĩa". Thế nay trung nghĩa đâu rồi? Đã thế xin đừng nhiều lời! Hãy quyết một phen thắng phụ!

Rồi dẫn lính quyết chiến. Quân sĩ đều gắng hết lòng, bắt sống được tới mười bốn viên tướng giặc, chém được hơn tám trăm đầu giặc. Lệnh Hồ Triều thua chạy về Trần Lực, còn lại thì tụm ở Sa Qua. Trương Tuần nhân đêm tối tập kích, giặc đại bại, họ Trương thắng trận quay về. Bỗng thám binh về báo:

- Tướng giặc là Dương Triều Tông, dẫn binh lấy Ninh Lăng, chắn mất đường về rồi!

Trương Tuần chia quân giữ Ung Khâu, tự mình ngày đêm đi Ninh Lăng. Vừa gặp lúc Hứa Viễn kéo quân đến, liền hợp nhất cùng đánh. Mấy lần giao chiến, phá vở được quân Dương Triều Tông, chém hàng mấy ngàn thủ cấp. Tin chiến thắng bay về hành tại. Túc Tông xuống chiếu phong cho Trương Tuần làm Hà Nam Tiết độ phó sứ. Hứa Viễn cũng được thăng làm thái thú Thư Dương.

Cho đến khi Doãn Tử Kỳ tiến công Thư Dương, Hứa Viễn nhận ít quân, sai sứ tới Trương Tuần cầu viện. Trương Tuần biết Thư Dương là nơi hiểm yếu, không thể không quyết giữ, bên dẫn ba nghìn quân từ Ninh Lăng đi Thư Dương, hợp với tướng sĩ của Hứa Viễn, được khoảng không quá bảy nghìn người. Trương Tuần cùng Nam Tễ Vân, Lôi Vạn Xuân với các tướng khác, hết lòng kháng cự, thắng được mấy trận. Trương Tuần muốn bắn tên giết Tử Kỳ, nhưng lại không biết mặt. Liền lấy tên cỏ bông bắn ra, quân giặc nghi ngờ trong thành hết tên, nhặt tên cỏ bông này trình lên Tử Kỳ. Vì vậy Trương Tuần theo dõi biết được mặt mũi Tử Kỳ, lệnh cho Nam Tễ Vân bắn trúng ngay mắt trái.

Chính là:

Lộc Sơn hai mắt mù

Tử Kỳ một mắt chột

Cái mặt chúa tôi ngươi

Không mắt có lẽ tốt.

Từ đó chuyện đánh chuyện giữ, Hứa Viễn đều nghe theo lệnh Trương Tuần. Họ Trương đúng là văn võ toàn tài, không những đánh giỏi mà mưu lược cũng tài, việc binh pháp không chịu nệ theo sách xưa mà biết tùy cơ ứng biến. Lại bản tâm trung nghĩa, mỗi lần ra trận giết giặc, mắm môi nghiến răng, trừng mắt dựng tóc. Nhưng giữa lúc việc quân bận rộn, vẫn không bỏ làm từ ngâm thơ. Nhân trèo lên thành lâu, xa nghe tiếng sáo, liền làm bài: "Trong quân nghe tiếng sáo" sau đây:

Trèo lên chót vót cao

Ngựa giặc thả bên hào

Sắc gió bụi không rõ

Lòng trời đất thế sao?

Cửa mới trăng ải đến

Giặc giã mây thành ngầu

Sớm tối lên lầu ấy

Vi vu tiếng sáo đâu.(1)

1 Bài này thấy có được chọn trong đường Thi tiên chú" quyển 8, các "Đường thi tam bách thủ", "Đường Thi nhất bách thủ" không thấy. "Thơ Đường I" cũng vậy.

Ngồi nhàn nói chuyện phiếm. Hãy nói Hứa Viễn giữ thành Thư Dương, tích trữ lương thảo được đến hơn trăm vạn thạch, sau bị Tông Phiên Quắc Vương Cự, điều đến hơn một nửa cho các cánh quân khác, chẳng cần biết Hứa Viễn có bằng lòng không, vì vậy trong thành thiếu lương, đến lúc này thì đã gần như cạn khô. Mỗi ngày, mỗi người chỉ được cấp một hai lẻ, phải ăn đủ các thứ linh tinh khác như lá trà, giấy vỏ cây. Quân giặc đánh thành rất gấp, dùng thang mây, hình dạng giống như con thuồng luồng, sai những tên lính dũng cảm khoảng ba trăm người trèo lên mặt thành. Trương Tuần biết trước việc này, sai người nấp sẵn trong ba cái hầm lớn ở trên mặt thành, đợi cho trèo thang gần tới, mỗi một hầm lăn ra một cây gỗ lớn, cứ thế mà lao trúng thang, giặc không thể nào trèo lên được. Trên cây gỗ có cây đóng sẵn móc sắt, làm gỗ cứ bám chặt thang, giặc không tài nào leo qua được. Có cây lại treo sẵn những giỏ sắt đựng thuốc pháo, thuốc pháo cháy, thang mây đứt. Giặc bị thiêu cháy, rơi xuống chân thành. Quân giặc lại làm lừa bằng gỗ để đánh thành, Trương Tuần sai nấu chảy chì đổ xuống, lính trèo lên thành đều bị cháy thiêu. Phàm những cách làm này đều thừa cơ mà nghĩ ra, quân giặc vừa hoảng vừa phục, không dám tiến nữa, chỉ ở ngoài thành đóng doanh trại vây kín lớp này đến lớp khác. Trương Tuần, Hứa Viễn chia nhau chống giữ, cùng với quân sĩ ăn lá, nuốt giấy, nhất định không chịu bỏ thành.

Lúc này đại tướng Hứa Thúc Dực đóng tại Tiều Quận, Hạ Lan Tiến Minh đóng tại Lâm Hoài, đều án binh không chịu cứu, nhất là Lâm Hoài rất gần Thư Dương, Trương Tuần sai Nam Tễ Vân tới Lâm Hoài vay lương xin tiếp viện ngay cho.

Tễ Vân vâng lệnh, dẫn ba mươi người ngựa mở cửa thành xông ra đột ngột mà chạy. Quân giặc hàng vạn tên xúm cả lại, Tễ Vân đâm thẳng vào, bắn bên phải, bên trái, không phát nào là không trúng, đám giặc như bị xé toạc ra. Tễ Vân thoát khỏi vòng vây đến Lâm Hoài, gặp Hạ Lan Tiến Minh xin cứu viện. Không ngờ Tiến Minh không hòa thuận gì với Hứa Thúc Dực, sợ chia quân ra nơi khác, có kẻ đến đánh. thì sao, hai nữa lòng sẵn đố kỵ, không muốn cho Hứa Viễn, Trương Tuần nên công trạng, nhất định không chịu phát binh, cũng không cho vay một đấu lương thực nào cả, còn cất lời:

- Lúc này Thư Dương có khi đã mất rồi, ta dẫu có phát binh, cho vay lương thực cũng chẳng kịp nữa đâu!

Tễ Vân đáp:

- Thư Dương dẫu chết cũng cố giữ để chờ viện binh, đại binh mà kéo đến ngay, thì nhất định không mất. Nếu như quả đã mất, thì họ Nam này, vốn là con trai thứ tám trong nhà, xin lấy cái chết để tạ ơn đại nhân.

Tiến Minh vẫn không nghe, Tễ Vân khẳng khái gào lớn:

- Thư Dương với Lâm Hoài chẳng khác gì da với lông, cùng nương tựa lẫn nhau. Thư Dương mà mất, sẽ đến lượt Lâm Hoài, sao đại nhân lại không cứu?

Nói xong rồi ngửa mặt lên trời mà hét lớn. Tiến Minh cũng kính ái lòng trung dũng, ý muốn giữ lại, nên mới lấy lời ôn hòa mà an ủi, sai bày tiệc rượu khoản đãi, có cả ban nhạc góp vui, Tễ Vân khóc lớn mà rằng:

- Lúc tiểu nhân này ra đi, trong thành Tư Dương đã không có ăn hơn một tháng nay rồi, nay một mình muốn ngồi ăn, làm sao nuốt cho trôi! Đại nhân ngồi ôm binh cường mã tráng, không hề có ý định chia lửa cứu nạn, há bậc trung thần nghĩa sĩ lại làm như vậy sao?

Gào xong, như phát điên, tự mình cắn đứt một ngón tay, đưa cho Tiến Minh thấy:

- Tiểu nhân đã không làm được theo ý chủ tướng, xin lưu ngón tay này ở đây để làm tin, quay về báo với chủ tướng rồi cùng chết.

Cùng một lúc, máu ở ngón tay, máu ở mắt tuôn như suối. Khách ngồi bàn tiệc đều đưa tay chùi nước mắt. Tiến Minh đã quyết không cứu cũng nghĩ là Tễ Vân chẳng ở lại nào, liền từ tốn mà đuổi ra.

Đây chính là một câu chuyện đau thương, vô cùng căm giận của nghìn năm. Mãi cho đến nay ở Thư Dương, trong miếu thờ Trương Tuần, vẫn còn một pho tượng Hạ Lan Tiến Minh bằng đồng, cởi trần, tay bị trói, quỳ ở dưới thềm để cho mọi người đánh đập, những mong bõ lòng tức giận. Người đời sau cũng có hai bài từ "Quản chi nhi" nói rất hay về chuyện này, như sau:

1. Hạ Lan Tiến Minh !

Xưa mày ău lộc nhà Đường

Tưởng mày cứu bạn tai ương thoát nàn

Ai ngờ mày lập mưu gian

Làm ngơ không viện binh sang Thư Thành

Tễ Vân ôm hận một mình

Cắn một ngón, chính để giành mai sau!

2. Hạ Lan Tiến Minh!

Mai sau vẫn ngàn đời thương tiếc

Nam Tễ Vân khốn thiết cầu binh

Mà mày gỗ đá làm thinh

Bạn nguy không cứu, vô tình lắm thay

Chuyện xưa kể đến đoạn này

Phừng phừng nổi giận chau mày nghiến răng

Tượng mày quỳ miếu Thư Dương

Cầm roi ta quất dọc ngang đầu mày.

Tễ Vân từ Lâm Hoài chạy đi Ninh Lãng, cùng với biên tướng Liêm Thản, dẫn mấy trăm lính, vừa bộ binh, vừa kỵ binh, mạo hiểm lẻn về Thư Dương, đánh nhau với quân giặc, làm tan tác một trại lính của giặc, mới vào được thành. Trong thành nghe tin cứu binh chẳng có, không phải là không gào khóc, có kẻ xin hãy bỏ thành mà chạy.

Trương Tuần cùng Hứa Viễn thản nhiên phủ dụ trăm họ rằng:

- Thư Dương chính là bức thành che của vũng Gianh Hoài, nếu bỏ thành mà đi, giặc cứ thế đuổi dài về phía đông, thì Giang Hoài chẳng còn. Huống chi chúng ta đều đã mỏi mệt, đói khát. có chạy cũng chẳng được, rồi sẽ bị tàn sát hết cả. Lâm Hoài dẫu chẳng đến cứu nhưng các quận xung quanh há không có bậc nghĩa sĩ. Chi cho bằng hãy cố giữ sức mà chờ. Chỉ có điều trong thành đã hết lương, nên chẳng lòng nào mà giữ cả, để mọi người cũng chịu cơ hàn. Nay tùy ý mọi người. Còn chúng ta là hai người do triều đình sai coi giữ đất này, lẽ đương nhiên phải đem thân mình ra mà làm tròn, không dám nói tới việc đi khỏi đây.

Ai nấy nghe những lời này đều phấn khích, nguyện đem hết lòng hết sức để giữ thành, rồi giết ngựa, ngựa cũng hết, bắt chim đào chuột mà ăn, chim chuột cũng hết. Trương Tuần giết người thiếp yêu, Hứa Viễn giết gia đồng để cho quân sĩ ăn. Ai ai cũng cảm động trong lòng, dù biết sẽ chết, nhưng không hề có ý phản loạn.

Thế là cầm giữ được mấy ngày nữa, quân tướng đều xanh xao, gầy giơ xương, phần nhiều ốm đau, không còn đủ sức mà cầm cự nữa.

Quân giặc trèo cả được lên mặt thành. Trương Tuần hướng về phía tây vái lạy mà rằng:

- Thần lực đã cạn rồi! Chẳng giữ trọn được thành để báo đáp triều đình, dẫu có chết cũng nguyện sẽ thành con quỷ cường tráng để giết lũ giặc!

Nay ở chùa Từ Nhân vùng Thịnh Kinh có đắp một pho tượng quỷ Bồ Tát mặt xanh, tóc đỏ, miệng ngậm rắn lớn, chẳng khác gì quỷ dạ xoa, chính là tượng quỷ do Trương Tuần biến thành theo như lời thề ở thành Thư Dương này. Thành bị phá, họ Trương, họ Hứa cùng các tướng đều bị bắt. Doãn Tử Kỳ sai Hứa Viễn về Lạc Dương, còn Trương Tuần cùng Nam Tễ Vân, cộng cả thảy ba mươi sáu người đều bị giết hại. Trương Tuần cho đến khi chết sắc mặt vẫn không đổi. Vạn Xuân, Tễ Vân đều không ngớt mắng giặc cho mãi đến khi chết. Còn lại mười người khác, cũng không ai chịu khuất phục.

Về sau có người làm thơ ngợi ca:

Trương Tuần chết trước tròn chữ trung

Hứa Viễn thác sau vẹn chữ tiết

Chết theo đâu phải chỉ Nam, Lôi

Ba mươi sáu người rạng nghĩa liệt.

Thành Thư Dương bị mất sau ba ngày, cứu binh của Tiết độ sứ Hà Nam Trương Hao mới tới nơi. Thì ra Trương Hạo nghe tin Thư Dương nguy cấp, vội kéo quân gấp đi cứu viện, chỉ lo không kịp, liền sai kỵ mã phi như bay đem hịch tới cho thái thú Tiều Quận Lư Khâu Hiểu tức tốc dẫn quân bản bộ đi trước. Khâu Hiểu vốn ngạo ngược, không chịu nghe lệnh, chẳng cần cất quân. Đến khi Trương Hạo kéo được quân tới, thì thành đã mất. Trương Hạo nổi giận đùng đùng, lệnh vũ sĩ trói ngay Lư Khâu Hiểu, giải đến trước hàng quân đánh kỳ chết.

Chính là:

Cây roi đánh tội Lư Khâu Hiểu

Cất chờ trị Hạ Lan Tiến Minh.

Chẳng biết sự việc rồi sẽ ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi Thứ Chín Mươi Sáu

Liều trăm mạng, Quách Tử Nghi báo nghĩa,

Thu hai kinh, Quảng Bình Vương dâng công.

Từ rằng:

Bậc anh hùng mang ơn lo to báo

Dẫu gian nguy điên đảo không quên

Ân nhân gặp vận oan khiên

Trăm mạng người thân trải lòng một tấm

Tình bằng hữu như son như gấm

Đạo vua tôi trung thấm nghiã đền

Khải hoàn nhờ sức tôi hiền

Văn mưu võ lược, nước bền dân yên.

Theo điệu: "Hạ thánh triều"

Từ Xưa đến nay, người làm ơn, không phải ai cũng nghĩ đến việc được báo. Nhưng kẻ đã lo được việc đền ơn, thì mấy ai đến nỗi phụ ơn. Thời Chiến Quốc, Hậu Sinh nói với Tín Lăng Quân rất hay rằng:

- Công tử mà có ơn với người khác, xin công tử hãy quên đi. Nhưng người ta có ơn với công tử, lại xin công tử đừng bao giờ quên.

Không quên ơn người khác, tất lo liệu tới việc báo, chẳng sớm thì muộn vậy!

Khổng Tử cũng nói rằng:

- Hãy lấy lẽ công bằng ngay thẳng mà báo oán, còn phải lấy đức mà báo đức vậy thôi!

Ô hô! Việc báo ơn không nói được bằng sự ngay thẳng, công bằng, mà phải nói là ơn nghĩa, ơn tình. Báo đức với báo oán là hai việc khác nhau. Báo oán thì không được quá khắc nghiệt, chỉ cần ở mức công bằng là đủ rồi. Ngay trong những oán thù đó, có cái phải báo, có cái không nên báo, gặp thời nên báo thì báo, có thời không báo cũng không báo. Tất cả đều bởi lẽ chính trực, công bằng cả vậy. Nhưng đã là ơn thì phải báo, không những thế mà còn phải báo rất hậu, không thể nói tới chuyện ơn đền thế nào thì báo thế ấy. Ơn một bát cơm, lấy nghìn vàng mà báo, nào phải chuyện đếm đong mua bán ở đây Ta đương gặp lúc nguy khốn, người xả thân cứu ta, trong tình cảnh bức bách hiểm nguy như thế, dẫu có thể công việc không thành, cũng phải nhận ở đây lòng tốt của người, mà suốt đời nhớ ơn. Huống chi lại thực đã cứu ta khỏi cảnh hoạn nạn, chẳng khác gì nghĩa ruột thịt tử sinh còn gì. Ta nay làm nên công nghiệp thế nào chăng nữa, cũng đều từ ơn đó mà ra. Với cái ơn lớn đến thế, dẫu có xả thân, bỏ nhà mà báo cũng thực chẳng quá.

Từ chuyện báo ơn đền nghĩa trên đây, đến việc của vua của bầy tôi tuy không thể nói chuyện thí ơn đền nghĩa, nhưng kẻ bề tôi có công định yên xã tắc, cứu khốn phò nguy, lập nên công huân hiển hách cho buổi thịnh thời, chẳng lúc nào quên ơn thánh chúa, ra sức hết lòng mưu đồ xã tắc, cũng nào phải là nghĩ đến chuyện được đền ơn đâu!

***

Lại nói chuyện Túc Tông từ ngày lên ngôi ở Linh Vũ, liền phong Quách Tử Nghi làm Vũ bộ thượng thư, trưởng sử Linh Vũ là Lý Quang Bật làm Hộ bộ thượng thư bắc bộ lưu thú, kiêm Đông bình chương sự. Lại sai người triệu Lý Bí về triều. Lý Bí tự là Trương Nguyên, vốn người Kinh Triệu, sinh ra đã khác thường, mang vẻ tiên phong đạo cốt, ngay từ lúc nhỏ vẫn như nghe có tiếng nhạc tiên ở trên không đến đón rước, người như động đậy muốn bay lên trời để theo đi, người nhà phải cùng nhau ôm chặt lấy. Mỗi lần nghe tiếng nhạc, người nhà phải giã nhiều tỏi rồi vẫy tung lên trời như mưa tưới vậy về sau tiếng nhạc mới thưa dần. Đến năm bảy tuổi, đã biết làm phú ngâm thơ, thông minh, dị thường.

Đời Khai Nguyên thời Huyền Tông, có lần hạ chiếu triệu về kinh những người già cả, hiểu biết dạo Phật, đạo Lão, để cùng nhau đàm đạo. Có một tiểu đồng họ Viên, tên Thục, tuổi vừa mới lên mười, cùng mọi người tranh luận mãi mà vẫn không thua kém. Huyền Tông vô cùng khâm phục, nhân đó mới hỏi Viên Thục:

- Ở ngoài cung cấm còn có trẻ nhỏ nào thông minh như khanh không?

Nguyên Viên Thục vốn là con của cô ruột Lý Bí, với Lý Bí chính là anh em con cô con cậu, cúi lạy mà tâu:

- Con của người cậu thân, tên gọi Lý Bí, kém thần ba tuổi, thế nhưng thông tuệ gấp mười lần!

Huyền Tông liền sai sứ đi triệu, Lý Bí vâng mệnh có mặt, từ cử chỉ bái lạy, đến lời thưa bẩm, đều rất đoan chính. Gặp giữa lúc Huyền Tông đang đánh cờ dịch với Yên Quốc Công Trương Duyệt, bèn sai Trương Duyệt ra đề thử tài. Trương Duyệt bảo làm một bài thơ về chuyện: "Vuông tròn, động tĩnh". Lý Bí tâu rằng ý quá đại lược, từ chối không làm. Trương Duyệt phải chỉ bàn cờ trên án mà giải thích thêm rằng:

Vuông như bàn cờ

Tròn như con cờ

Động như cờ sống

Tĩnh như cờ chết.

Đọc xong, Trương Duyệt còn nói sợ Lý Bí bằng ấy tuổi, chắc gì đã hiểu, liền nói luôn:

- Đây chính là ta mượn chuyện đánh cờ mà bàn chuyện vuông tròn, động tĩnh, túc hạ hãy nói rõ ý đó, không cần phải tả chuyện đánh cờ vậy.

Lý Bí thưa:

- Tiểu sinh hiểu rồi!

Liền ứng khẩu đọc ngay:

Vuông như làm việc nghĩa

Tròn như rèn luyện chí

Động như trổ đại tài

Tĩnh như vừa đắc ý.

Trương Duyệt nghe xong, vô cùng kinh ngạc mà thưa với Huyền Tông:

- Người này thực là người bạn ít tuổi của thần vậy.

Nhân đó lạy mừng triều đình được bậc thần đồng.

Chính là:

Bậc lão thần nhận làm bạn nhỏ

Mừng thánh chúa nay có thần đồng.

Huyền Tông thưởng cho rất hậu, lại cho phép Lý Bí được vào Hàn lâm viện đọc sách, đợi đến lúc tuổi trường thành, sẽ ban quan chức. Lý Bí ba bốn lần từ tạ. Cho làm bạn áo vải với thái tử, được thái tử rất yêu kính. Lúc bấy giờ Lý Lâm Phủ, Dương Quốc Trung đều ghét, Lý Bí vì vậy xin cáo về ở ẩn vùng Dĩnh Dương.

Mãi đến nay, Túc Tông nhớ đến bạn thuở xưa, sai sứ mời về hành tại, lấy lễ chủ khách mà đãi, đi ra thì cùng sóng ngựa đôi, ngủ thì cùng chung giường, từ chuyện lớn đến việc nhỏ đều cùng bàn bạc, muốn phong làm tả thừa tướng, nhưng Lý Bí cương quyết từ chối, chỉ xin mặc áo trắng theo bên ngự giá.

Một hôm Túc Tông cùng Lý Bí sóng ngựa ra khỏi cung, đi một vòng trong doanh, quân lính chỉ trộm mà nói rằng:

- Ngài mặc áo vàng là bậc thánh nhân, còn người mặc áo trắng là người trong núi đấy!

Túc Tông nghe được, nhân nói với Lý Bí:

- Trong lúc giặc giã như thế này, quả không dám lấy chức tước để khuất phục. Nhưng cũng nên mặc áo tía để tuyệt hẳn những lời dị nghị, nghi ngờ của mọi người.

Liền ra lệnh lấy áo bào tía ban cho, Lý Bí đành phải bái tạ mà nhận. Túc Tông liền sai tả hữu hầu hạ Lý Bí thay áo mũ. Thay xong, Lý Bí đang định tạ ơn, Túc Tông cười mà phán rằng:

- Khoan đã, khoan đã, ăn mặc như thế thì cũng phải xưng hô như thế nào cho xứng chứ?

Liền lấy ngay trong tay áo một đạo sắc thư, phong cho Lý Bí làm Tham mưu quân quốc nguyên soái phủ hành quan trưởng sử. Lý Bí cố từ, Túc Tông khuyên:

- Không phải trẫm định ràng buộc gì khanh đâu, nay đang lúc gian nan, đợi lúc nào thiên hạ thái bình, thì xin tùy theo chí của khanh vậy!

Lý Bí tạ ơn mà nhận. Túc Tông muốn phong Kiến Ninh Vương Lý Dạm làm Đại nguyên soái. Lý Bí thưa:

- Kiến Ninh Vương quả có thể làm nổi chức nguyên soái, nhưng hiện Quảng Bình Vương là con cả, mai kia Kiến Ninh Vương công thành danh lớn, sẽ xử với Quảng Bình Vương ra sao.

Túc Tông đáp:

- Quảng Bình Vương vốn đã có chức phận nối ngôi xã tắc, thì chức nguyên soái liệu có đáng gì?

Lý Bí thưa:

- Quảng Bình Vương thì chưa chính vị làm Đông cung, nay đang lúc khói lửa, lòng người hướng về nguyên soái. Nếu khiến Ninh Vương thành công nghiệp, bệ hạ lại không lấy làm Đông cung, thì với công tích lớn như vậy, liệu có chịu yên. Chuyện mới rồi từ Thái Tông, đến thượng hoàng đều thế cả đó sao?

Túc Tông gật đầu:

- Khanh nói phải lắm! Để trẫm nghĩ thêm nữa!

Lý Bí lui ra. Kiến Ninh Vương đón gặp, tạ ơn rằng:

- Vừa rồi được nghe những lời tâu của ngài, chính là rất hợp với ý ta. Ta thật biết ơn vậy!

Lý Bí thưa:

- Điện hạ. đã hiếu hạnh như thế, thật là phúc cho quốc gia vậy!

Vì vậy Túc Tông bèn phong cho Quảng Bình Vương Lý Thục làm thiên hạ binh mã Đại nguyên soái. Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật cùng quân đội của họ đều thuộc quyền thống lãnh của nguyên soái.

Lúc này Lý Quang Bật đóng giữ ở Thái Nguyên, bao nhiêu quân sĩ phần lớn đều đã đi canh giữ ở phương bắc, ở Thái Nguyên chỉ còn khoảng một vạn người. Tướng giặc là Sử Tử Minh dẫn hơn mười vạn lính đến đánh thành Thái Nguyên.

Các tướng đều xin tu sửa thành trì để đợi giặc. Quang Bật nói:

- Thành Thái Nguyên này chu vi có tới bốn mươi dặm, tu sửa không phải dễ, quân giặc sắp tới mới lo chữa chạy, thì chưa trông thấy giặc đã mệt mỏi rồi!

Liền lệnh cho quân sĩ đào hầm hố, đào rãnh sâu dài hàng mấy nghìn thước. Đến khi quân giặc đánh ngoài thành, Quang Bật liền lệnh cho lấy ngay bùn đất ở các lũy mới đắp thêm vào bên trong thành, để chống giữ lâu dài. Quân giặc đánh phá hơn một tháng, chẳng có chỗ nào sụt lở. Quang Bật lại tìm được ở xưởng đúc tiền, ba anh em thợ đúc rất giỏi việc đào khoét địa đạo, liền gọi đến thưởng cho rất hậu, rồi sai dẫn thêm nhiều người, đào thật nhiều địa đạo để chờ giặc. Có một tên giặc đang ngửa mặt lên thành mà chửi, Quang Bật sai người từ địa đạo giơ tay kéo chân tên này xuống, giải lên mặt thành mà chém đầu. Từ đó quân giặc làm gì cũng cứ chằm chằm nhìn xuống chân mình.

Quang Bật làm pháo lớn, bắn đá to, mỗi một phát bắn ra là chết hàng chục tên giặc, nên Sử Tử Minh phải lui trại quân ra phía ngoài thành hàng mấy chục bộ nữa. Quang Bật lại sai người sang trại giặc nói dối là lương thực trong thành đã cạn, hẹn với quân giặc ngày giờ ra hàng. Tử Minh tin lời, nên không phòng bị gì nữa. Quang Bật ngầm sai người đi trong địa đạo, đến doanh trại quân giặc, đem theo những tấm gỗ che chống. Đến hẹn rồi, sai hơn hai nghìn người, cưỡi ngựa ra khỏi thành, giả dạng như kiểu ra hàng. Quân giặc trông thấy từ xa, hoa chân múa tay đón, thình lình đất dưới chân sụt xuống sâu, chận chết vô số, lũ giặc kinh hoàng. Quan quân cứ trống dong cờ mở mà xông hết ra khỏi thành, chém quân giặc kể có hàng vạn. Tử Minh đành phải dẫn quân sĩ bỏ chạy.

Quang Bật dâng biểu báo tin thắng trận. Quảng Bình Vương thấy Thái Nguyên vốn là yếu địa, nay bị vây hãm, định sai tướng đến giải vây nhân nghe thắng trận mới thôi. Quách Tử Nghi thấy Hà Đông nằm giữa hai kinh, chỉ cần lấy được Hà Đông thì có thể thu lại. Lúc này tướng giặc là Thôi Càn Hựu đang đóng giữ Hà Đông. Tử Nghi mật sai người lẻn vào Hà Đông, tìm đến các tướng sĩ quan lại nhà Đường bị giặc bắt theo, hẹn ước làm nội ứng để trong ngoài cùng đánh. Thôi Càn Hựu vì vậy không chống đỡ được, phải bỏ thành mà chạy. Tử Nghi dẫn quân đuổi theo, chém đầu rất nhiều. Càn Hựu may mà chạy thoát, Hà Đông về với triều đình.

Chính là:

Tướng tài Quách Lý hai người

Tiên công phòng thủ trong ngoài thắng to.

Túc Tông liền lấy Tử Nghi làm Thiên hạ binh mã phó nguyên soái giao cho lo khôi phục hai kinh. Bỗng nghe tin Vĩnh Vương Lý Lân ở Giang Lăng tiếm nghịch xưng hoàng đế. Nguyên là Lý Lân đã ra trấn giữ Giang Lăng từ trước, cậy mình giầu có, nhiều người ngựa, khí giới, kiêu ngạo không phục ai, nghe tin Túc Tông lên ngôi ở Linh Vũ bèn cùng bộ tướng, liêu thuộc bàn bạc, rằng thái tử có thể tự xưng ngôi báu, thì ta có cả một vùng Giang Lăng, sao lại không thể làm chúa một vùng, để tính chuyện khởi nghiệp riêng.

Túc Tông sợ chuyện tranh giành, mới xuống chiếu sai sứ bãi chức bắt ngay về Thục, Lý Lân không chịu, quyết chí phản nghịch, tự xưng hoàng đế, ý muốn chiêu nạp các hiền tài, để cho dân chúng trông vào. Nghe tin Lý Bạch lui về ẩn ở Lưu Sơn, cách Giang Lăng không xa, sai sứ mời đến. Lý Bạch chối từ không đến. Lý Lân bèn sai người rình sẵn, chờ Lý Bạch ra khỏi nhà, bắt đưa về Giang Lăng, buộc nhận quan chức, Lý Bạch cố từ không chịu, Lý Lân không thể nào thay đổi ý của Lý Bạch, chỉ đành như giam lỏng, không cho Lý Bạch trở về.

Túc Tông nghe tin Lý Lân làm phản, một mặt làm biểu dâng lên thượng hoàng rõ, một mặt sai Hoài Nam Tiết độ sứ Cao Thích, cùng phó sứ Lý Thành Vũ dẫn quân hỏi tội.

Lúc này nội giám Lý Phụ Quốc luồn lách trong cung, cùng với Trương Hoàng hậu chuyên quyền. Lại thêm nội giám Biên Lệnh Thành, nhân bị giặc ghét bỏ, bèn từ phía giặc chạy trốn về hành tại, nhờ cậy Lý Quốc Phụ để được dùng. Lý Bí bèn tâu rằng:

- Lệnh Thành là hoạn quan, may được chúa thượng giao cho việc lớn, ngoài thì cầm binh quyền, trong thì quản cung cấm, mà giặc tới hàng, đem tất cả chìa khóa cung cấm giao cho giặc, rõ ràng là phản nghịch. Tội thật đáng giết.

Túc Tông liền sai giải Lệnh Thành ra chém đầu, để làm gương cho những kẻ theo giặc. Lúc này Lý Quốc Phụ cũng tâu rằng:

- Hàn lâm học sĩ Lý Bạch hiện đang là kẻ bày mưu tính kế cho phản nghịch Lý Lân. Lẽ nên sai binh quan ghi vào sổ những kẻ theo giặc, đợi đến khi thái bình, án theo quốc pháp mà trị tội.

Tại sao Phụ Quốc lại bỗng nói tới chuyện này? Chỉ vì lúc Lý Bạch còn ở triều, làm thơ uống rượu rất ngang tàng, phẩm hạnh cao thượng, không thèm để ý đến bọn hoạn quan, nên bọn này đều ghét Lý Bạch. Nay Phụ Quốc tâu thế, một phần cũng hợp ý triều đình đang tìm những kẻ theo giặc để trừng phạt, phần nữa là bực tức chuyện Lý Bí tâu xin nhà vua giết mất Lệnh Thành. Nay y kể tội Lý Bạch để mọi người thấy rằng, hạng văn nhân danh tiếng, được hoàng thượng thương yêu đến thế, cũng vẫn theo giặc như thường, nào dâu chỉ kẻ hoạn quan mới xấu thôi đâu!

Túc Tông làm theo lời tâu, truyền ngay lệnh xuống pháp ty. Việc này làm kinh động Quách Tử Nghi, Tử Nghi nghĩ ngợi: "Năm trước Lý Bạch cứu tính mạng ta, ơn lớn chưa đền, nay há có thể ngồi nhìn hay sao?". Liền ngay trong đêm viết biểu, sáng hôm sau phủ phục trước sân rồng dâng lên.

Tờ biểu đại lược như sau:

"Hạ thần trộm xét thấy Lý Bạch xưa là bề tôi hầu việc thơ văn được thượng hoàng gia ơn, đặc cách bổ dụng, nhưng cố ý xin về nghỉ, nằm không ở Lư Sơn. Coi đó cũng đủ biết tư cách làm người của họ ra sao. Nay không may bị nghịch tặc ở cõi xa ức hiếp. Hạ thần nghe rằng lúc đầu Lý Bạch cố ý chối từ, kế đó bị thúc bách nhiều, bắt buộc phải nhận quan chức của giặc mà vẫn không đổi.

Thế mà các quan xét cho Lý Bạch là phản nghịch, thần e rằng quá nặng. Hạ thần xin đem tính mạng cả gia quyến, hơn một trăm người bảo lãnh cho họ Lý. Hạ thần đã từng chịu ơn sâu của họ Lý ngày trước, nhưng thật không dám vì ơn riêng mà dâng lời bênh vực cuồng xiên. Sau này mọi sự yên ổn, sẽ có trăm tai nghìn mắt dân chúng làm chứng điều phải trái. Nếu thần nói sai, gia quyến một trăm mạng cam chịu phép nước.

Cẩn tấu!"

Túc Tông xem biểu, lệnh cho pháp ty hãy để án này lại đó, đợi ngày yên hàn rồi sẽ quyết. Về sau Vĩnh Vương Lân đại bại phải tử, quan lại sở tại bắt giải lũ người theo Lý Lân về chờ ngày xử quyết. Lý Bạch vì thế cũng bị giam trong nhà ngục ở Tầm Dương. Triều đình nhân có Quách Tử Nghi đã viết biểu tâu, đặc sai quan đến tra xét. Quan trở về tâu rằng: Lý Bạch quả có bị Lý Lân ức hiếp, không như những kẻ theo giặc khác, tội đáng được giảm. Vì vậy có thánh chỉ truyền Lý Bạch đi đày dài hạn ở Dạ Lang (1), còn lại lũ theo giặc kia, tất cả đều phải tội chết.

Năm Càn Nguyên, ban chiếu đại xá thiên hạ, Lý Bạch mới được tha trở về, đến địa giới huyện Đương Đồ, ngồi trên thuyền vừa ngắm trăng vừa uống rượu say sưa, muốn vớt ánh trăng dưới đáy nước nên đâm dầu xuống sông rồi chết. Người hai bên bờ, lúc này bỗng thấy Lý Bạch cưỡi cá chép lớn, bay lên trời mà đi mất. (2) Đó là chuyện sau này.

1 Dạ Lang: nay thuộc huyện Đồng Tử, tỉnh Quý Châu.

2 Tất nhiên đây chỉ là huyền thoại. Theo "Lịch sử văn học Trung Quốc", Quyển 2, của Viện khoa học Trung Quốc, thì Lý Bạch chết bệnh ở nhà ông chú họ là Lý Dương Bằng, làm huyện lệnh Đương Đồ, thọ 62 tuổi, vào năm 762.

Chính là:

Mang ơn lắm báo tay hào kiệt

Vô lội đi đày, khổ Trích Tiên

Anh hùng đem nhà đền nghĩa cũ

Trích Tiên chán sống bỏ thăng thiên.

Hãy nói chuyện khác, Túc Tông lấy Quảng Bình Vương làm nguyên soái, ý muốn lập luôn làm thái tử. Lý Bí tâu:

- Bệ hạ tức vị ở Linh Vũ, chính là do việc quân bức bách, phải gấp rút có chính danh phân xử mọi việc. Nhưng nay muốn lập thái tử thì lại nên thỉnh mệnh thái thượng hoàng. Nếu không hậu thế sẽ không hiểu hết cái thế bất đắc dĩ của bệ hạ vậy.

Quảng Bình Vương cùng từ chối mà thưa:

- Hiện nay bệ hạ cũng chưa được sớm hôm chăm sóc thượng hoàng, thần đâu dám lĩnh ngôi Đông cung.

Túc Tông vì vậy tạm để ngôi thái tử chưa định vội. Kiến Ninh Vương nói riêng với Lý Bí rằng:

- Anh em ta đều bị bọn Lý Phụ Quốc, Trương Hoàng hậu ghen ghét. Hai người này chuyên tâu những lời bài xích. Ta phải sớm trừ cái họa này mới xong.

Lý Bí đáp:

- Điều này thì thần chưa nghe thấy. Xin hãy cẩn thận, đừng bàn luận rộng rãi vội!

Kiến Ninh Vương không nghe, nhiều lần trước mặt Túc Tông, kể tội họ Lý, họ Trương. Hai người này cùng bàn cách xiểm nịnh, vu cho Kiến Ninh tìm cách hãm hại Quảng Bình Vương, để mưa đoạt ngôi thái tử. Túc Tông vội vàng tức giận, truyền chỉ giết chết Kiến Ninh Vương. Lý Bí muốn can thì việc đã rồi. Khá tiếc một người hiền như thế, chỉ vì những lời bịa đặt, đến nỗi bỏ đời. Nhớ lúc Túc Tông còn ở ngôi Đông Cung, bị Lý Lâm Phủ ghen ghét, chịu bao nhiêu kinh hoàng, mà vẫn không lấy đó làm răn. Nay giặc lớn chưa diệt, mà đã giết mất con hiền, sao lại nhẫn tâm đến thế. Người đời sau có thơ than:

Giá con vì nghe gièm

Thượng hoàng đầu têu đó

Túc Tông thật nhẫn tâm

Kiến Ninh chết xấu số

Nhớ chăng thuở Đông cung

Nơm nớp sợ tai ương

Nay sao theo vết cũ

Để miệng chúng vào ra

Vua cha không sáng suốt

Tôi con chịu oan gia

Lũ đàn bà ghen tuông

Cùng hoạn quan nịnh nọt

Tội băm vằm không tha.

Năm thứ hai đời Chí Đức, Túc Tông ngự giá tới Phượng Tường, lệnh cho Quảng Bình Vương cùng Quách Tử Nghi hưng binh khôi phục hai kinh.

Quách Tử Nghi xin được nhờ kỵ binh rất tinh nhuệ của Hồi Hột giúp thêm cho. Khả Hãn Hồi Hột liền cho con trai là Diệp Hoạch, kéo một vạn quân đi trước tiếp ứng. Túc Tông hứa sẽ trọng thưởng. Diệp Hoạch xin là khi nào chiếm được thành, đất đai, sĩ dân thì thuộc về triều đình, vàng lụa cùng đàn bà con gái thì thuộc về Hồi Hột. Túc Tông trong lúc muốn mau thắng trận nên đành phải nghe theo. Lại tập hợp thêm các lính cưỡi ngựa phương bắc, cùng Tây Vực, cộng tất cả được mười lăm vạn người.

Lý Bí hiến kế, trước nên đánh vào Phạm Dương, lật nhào sào huyệt của giặc.

Túc Tông phán:

- Đại quân đã tập hợp, lẽ nên đánh thẳng vào Trường An, chẳng nên làm khổ binh lính, lại phải đánh vào Phạm Dương trước.

Lý Bí thưa:

- Nay phần lớn binh sĩ đều người phương Bắc quen với rét buốt mà ngại nóng bức. Hãy thừa lúc họ vừa mới đến còn đang hăng hái, đánh vào nơi đã suy yếu, thì hai kinh cũng thu về. Nay nếu đánh hai kinh trước, giặc sẽ chạy về sào huyệt, quen thuộc vùng Quan Đông, mùa xuân kịp về, quan quân tất nhớ nhà, giặc lại có thời gian dưỡng nuôi người ngựa để chờ quân triều đình kéo lên, hoặc lại tự ý kéo xuống, thì chiến trận chẳng biết đến bao giờ mới xong. Chi bằng kéo ngay lên phương Bắc, khử trừ sào huyệt, giặc chẳng còn nơi quay về. Sau đó nhóm toàn quân mà vây giặc, thì gì mà chẳng tóm gọn.

Túc Tông phán:

- Lời bàn của khanh hay lắm, nhưng trẫm lâu nay chẳng được thăm hỏi thượng hoàng, ý cũng muốn khôi phục ngay hai kinh, để đón thượng hoàng về, chẳng nên chờ lâu hơn nữa.

Liền không nghe theo kế của Lý Bí, cho binh mã tiến về Tây Kinh.

Quân đội kéo đến phía tây thành Trường An, bày trận ở phía đông Lễ Thủy. Lý Tự Nghiệp dẫn tiền quân, Quảng Bình Vương, Quách Tử Nghi, Lý Bí dẫn trung quân, Vương Nguyên Lễ dẫn hậu quân. Quân giặc mấy vạn, bày trận ở phía Bắc Lễ Thủy. Tướng giặc là Lý Quy Nhân cưỡi ngựa khiêu chiến, Quách Tử Nghi dẫn tiền quân đối địch. Quân giặc ùa cả ra, quân triều đình ít hơn, Lý Tự Nghiệp cởi trần vác giáo, xông lên trước hàng quân, miệng gào lớn kêu gọi, giết ngay được mấy chục tên giặc. Quan quân vì vậy phấn chấn hẳn lên, đều cắp trường thương, như bức thành mà xông lên, quân giặc đương không nổi. Có Đô tri binh mã là Vương Nam Đắc, bị quân giặc bắn trúng mí mắt, thịt lòi hắn ra, che kín cả mắt lại. Nam Đắc tự mình rút ngay mũi tên, dứt cả miếng thịt, máu chảy đầy mặt mà vẫn xông lên không chịu lùi.

Quân giặc phục sẵn đội kỵ mã tinh nhuệ ở phía Đông trận địa, hòng để tập kích vào quân sĩ triều đình lúc bất ngờ sau này, Quách Tử Nghi dò biết được, liền sai ngay Sóc Phương tả sương binh mã sứ Bộc Cô Hoài dẫn quân Hồi Hột, đột ngột kéo đến chận ra mà đánh, chém giết gần hết, Lý Tự Nghiệp lại dẫn binh Hồi Hột, vòng ra phía sau quân giặc, cùng công kích với toàn quân. Vương Nguyên Lễ cũng dẫn hậu quân ập tới, ra sức chém giết. Từ giờ ngọ cho tới giờ dậu (1), chém cả thảy được hơn sáu vạn thủ cấp. Quân giặc thua to, tàn quân chạy trốn vào trong thành, suốt cả đêm chiến trận vẫn nghe vang dội khắp vùng.

1 Giờ ngọ: từ 11 giờ đến 1 giờ. Giờ dậu: từ 17 giờ đến 19 giờ. Như vậy chiến trận kéo dài bảy giờ liền.

Cho tới sáng hôm sau, quân thám mã về báo, tướng giặc Lý Quy Nhân, An Thủ Trung, Điền Cần Chân, Trương Thông Như đều đã bỏ chạy. Quảng Bình Vương liền dẫn quân sĩ vào Tây Kinh. Trăm họ già trẻ ra đầy đường mà đón rước. Diệp Hoạch đòi theo như lời hẹn, cứ thế mà cướp vàng lụa, con gái.

Quảng Bình Vương xuống ngựa, lạy trước ngựa của Diệp Hoạch mà rằng:

- Nay vừa mới thu được Tây Kinh, nếu mà cứ kiểu cướp bóc thế này, thì dân chúng Đông Kinh tất theo giặc mà cố thủ, khó mà lấy được. Xin hãy chờ khi lấy được Đông Kinh rồi, sẽ theo lời ước hẹn vậy.

Diệp Hoạch cũng hoảng hết xuống ngựa, nâng Quảng Bình Vương dậy mà ôm lấy chân thưa rằng:

- Vậy xin theo điện hạ tới Đông Kinh.

Liền cùng Bộc Cố Hoài dẫn quân bản bộ cùng binh mã Tây Vực, qua cửa nam của Trường An, không hề dừng lại, kéo về Đông Kinh.

Dân chúng thấy Quảng Bình Vương vì trăm họ mà phải xuống ngựa lạy đều rơi nước mắt thán phục.

Vì dân mà chịu khuất thân

Người người thán phục mà dân được nhờ

Lính Phiên cảm nghĩa nhà vương

Buông tay cướp của, bớt lòng dục dâm!

Quảng Bình Vương ở Trường An ba ngày, rồi kéo đại binh đi Đông Kinh, dâng thư về hành tại báo tin đại thắng, trăm quan đều tới chúc mừng. Túc Tông ngay hôm sau dâng biểu, sai sứ Đạm Đình Giao, vào Thục tâu lên thượng hoàng, mời xa giá về Tây Kinh trở lại ngôi báu. Lại sai thân vương về ngay Tây Kinh, tế cáo tôn miếu, phủ dụ bách tính, mặt khác lại sai người phi ngựa như bay đến quân doanh, triệu ngay Lý Bí về. Lý Bí ngày đêm về Phượng Tường ra mắt Túc Tông, hỏi nguyên cớ triệu về. Túc Tông đáp:

- Trẫm nghe Tây Kinh báo tin đại thắng, đã lập tức dâng biểu lên thượng hoàng, mời xa giá về Tây Kinh trở lại ngôi báu, trẫm nguyện quay về phủ Đông cung, để trọn đạo làm con. Chưa rõ ý khanh nghĩ ra sao, nên muốn gặp mặt hỏi ngay.

Lý Bí ngạc nhiên hỏi:

- Thế biểu bệ hạ đã gửi đi chưa?

Túc Tông đáp:

- Gửi rồi?

Lý Bí tiếp:

- Có thể lấy lại được chăng?

Túc Tông đáp:

- Đã đi xa lắm rồi. Nhưng sao lại phải lấy lại?

Lý Bí xuýt xoa mà thưa:

- Thượng hoàng chẳng chịu về đâu!

Túc Tông kinh ngạc hỏi tại sao. Lý Bí thưa:

- Bệ hạ đã lên ngôi, đổi niên hiệu đã được hai năm, nay bỗng dâng biểu như vậy, trong lòng thượng hoàng nghi hoặc, không chút yên lòng, thì làm sao lại bằng lòng về cho được!

Túc Tông chợt nhận ra, dậm chân mà than:

- Trẫm xin lui về giữ ngôi thái tử vốn là thành tâm, nay như lời khanh nói, thì thật là làm lỡ việc mất rồi. Biểu đã dâng lên, làm thế nào bây giờ?

Lý Bí bèn thưa:

- Nay bệ hạ hãy làm ngay một tờ biểu khác do trăm quan đứng ra mừng đại thắng, nói rõ từ khi bệ hạ được giữ lại ở trạm Mã Ngôi, lên ngôi vua ở Linh Vũ, nay hai kinh đã sắp thu về, lúc nào lòng những mong được sớm hôm chăm nom thượng hoàng, nên xin mời về cung, để tròn chữ hiếu thuận. Như thế thì thượng hoàng sẽ yên lòng mà vừa ý quay về chăng!

Túc Tông lia lịa khen phải, lệnh cho Lý Bí thảo ngay biểu, rồi lập tức sai trung sứ Thôi Hoắc Quang vào Thục dâng lên.

Chẳng cần phải nói cũng biết ngay là Đạm Đình Giao từ Thục quay về, truyền lời phán của thượng hoàng rằng:

- Hãy để cho ta riêng một quận Kiếm Nam, ta tự cung phụng lấy. Ta không về đâu!

Túc Tông bàng hoàng không biết xử trí ra sao. Chờ mấy ngày sau, Thôi Hoặc Quang quay về thưa tiếp:

- Thượng hoàng lúc đầu nghe bệ hạ dâng biểu xin lui gót ngôi thái tử, băn khoăn bỏ cả ăn ngủ, nhất định không chịu về đông. Mãi đến khi có biểu mừng của trăm quan tới, mới chịu ăn cơm, uống thuốc, hạ tờ cáo định ngày quay về Trường An.

Túc Tông nghe ra, cả mừng, gọi Lý Bí vào cung kể rõ cho nghe, rồi phán:

- Tất cả đều do công của khanh đấy!

Nhân đó mời bày tiệc cùng ngồi. Đêm ấy giữ lại cùng ngủ một giường ở trong cung.

Chính là:

Ghế chúa chuyện trò Vương Trọng phụ

Giường vua thức ngủ Hán Nghiêm Lăng. (1)

1 Vương Đạo: giúp ba đời vua nhà Tấn, được tôn xưng là trọng phụ. Nghiêm tăng: bạn thân của Hán Quang Vũ. Nghiêm tăng không chịu làm quan. Quang Vũ mời đến chơi, giữ lại đêm, ngủ chung giường. Nghiêm Lăng gát chân lên bụng. Quang Vũ vẫn cười không nói gì (Tẩm nguyên từ điển).

Lý Bí vốn không ham gì chuyện quan chức, từ lâu đã có ý bỏ quan mà về. Nhân lúc này mới đưa lời tâu:

- Thần đã ít nhiều báo được ơn thánh đế, nay xin hãy theo lời hứa cũ mà tha cho thần về nghỉ ngơi.

Túc Tông đáp:

- Khanh từ lâu đã cùng trẫm lo lắng trong cơn hoạn nạn, nay trẫm đang định cùng khanh hưởng chuyện yên vui. Sao khanh đã vội tính chuyện bỏ đi cho đành?

Lý Bí thưa:

- Thần có năm điều không thể ở: Thần gặp bệ hạ sớm quá, thần được bệ hạ yêu quá, thần được bệ hạ tin cậy quá, công thần lớn quá, hành tung của thần cũng khác người quá: Vì năm điều đó nên dù thế nào cũng không ở lại vậy!

Túc Tông cười đáp:

- Thôi hãy ngủ ôi! Ngày khác sẽ bàn?

Lý Bí vẫn chưa chịu:

- Bệ hạ nay với thần chung giường cùng ngủ, còn chẳng nghe lời xin của thần, huống chi ngày khác ngay trước án rồng. Bệ hạ ngồi trên chín tầng điện cao, không cho thần về quê cũ thì thật là giết thần vậy!

Túc Tông kinh ngạc hỏi:

- Sao khanh lại nghi ngờ trẫm đến thế? Trẫm có khi nào định giết khanh đâu?

Lý Bí thưa:

- Giết thần không phải bệ hạ, mà chính là năm điều đã nói. Bệ hạ lâu nay đãi thần hậu đến thế, thần không thể nào nói hết mọi điều để thờ bệ hạ. Huống chi mai kia thiên hạ thái bình rồi, thần còn mong gì được thánh thượng mời đón, nói gì đến chuyện khác nữa.

Túc Tông phán:

- Những lời của khanh có phải vì vừa rồi trẫm không nghe theo lời khanh đánh Phạm Dương chăng?

Lý Bí thưa:

- Thần đâu có nhân việc đó. Thần suy từ việc Kiến Ninh Vương mà thấy vậy!

Túc Tông nói:

- Kiến Ninh định giết anh, trẫm bất đắc dĩ phải trừ đi vậy!

Lý Bí thưa:

- Kiến Ninh Vương nếu có lòng như thế, thì Quảng Bình Vương đã vô cùng căm giận rồi. Nay mỗi lần nói chuyện với thần, Quảng Bình Vương đều nhận là oan uổng, thường sa nước mắt. Huống chi bệ hạ lúc ấy còn muốn dùng Kiến Ninh Vương làm nguyên soái, thần xin dùng Quảng Bình Vương. Nếu như Kiến Ninh Vương có ý giết anh, thì phải rất ghét thần mới đúng, nhưng ngay hôm đó, lại khen thần tận trung, ngày càng thân thiết. Cứ như thế cũng đủ thấy tấm lòng Kiến Ninh Vương ra sao.

Túc Tông nghe nói, bất giác rơi nước mắt mà rằng:

- Khanh nói như thế, trẫm thấy mình sai rồi. Những chuyện đã qua, biết chữa như thế nào được!

Lý Bí thưa:

- Thần không phải để ý gì đến lỗi lầm đã qua, mà chính là để nhắc bệ hạ hãy thận trọng những việc sắp tới. Nhớ thuở xưa, Thiên Hậu (1) đánh thuốc độc giết chết thái tử Hoàng, để đến nỗi người con thứ là Hiền lo lắng, mà làm bài từ "Hoàng đài qua", quả dưa ở dưới suối vàng, có hai câu rằng:

Lan đầu hái một quả dưa

Lần sau quả nữa, dễ chưa vừa lòng?

1 Tức Vũ Tắc Thiên.

Nay bệ hạ cũng đã hái một quả, xin hãy đừng hái thêm nữa.

Lý Bí biết Trương Hoàng hậu rất gờm công lao của Quảng Bình Vương, thường ngày vẫn không ngớt dèm pha, chỉ sợ lúc nào đó Túc Tông lại nghe theo, nên cố tình nói thế. Lúc này Túc Tông nghe xong, bèn thổn thức mà phán rằng:

- Làm sao lại có chuyện thế được. Nhưng những lời dặn chân thành của khanh, trẫm xin luôn đeo ở bên mình một cách cẩn thận vậy!

Lý Bí lại nói việc xin về nghỉ. Túc Tông đáp:

- Hãy chờ Đông Kinh báo tin thắng trận, trẫm vào Tây Kinh đã rồi sẽ bàn.

Mấy ngày sau, tin mừng ở Đông Kinh đưa tới, nói rõ rằng, quân giặc sau khi thua to ở Tây Kinh thu thập tàn binh về giữ Thiểm Thành. An Khánh Tự sai Trang Nghiêm đem binh cứu viện. Quách Tử Nghi đón giặc ở Tân Điếm, Diệp Hoạch dẫn binh bản bộ truy kích, trước sau cùng ập đánh giặc thua to thây chất đầy đồng, phải bỏ Thiểm Thành mà chạy. Tử Nghi liền chia quân làm nhiều đường đuổi theo. Trang Nghiêm quay về Đông Kinh, khuyên An Khánh Tự bỏ Đông Kinh, dẫn quân sĩ chạy về Hà Bắc, sắp bỏ thành, còn kịp giết hơn ba mươi tướng nhà Đường bị bắt, trong đó có Kha Thư Hãn. Chỉ riêng có Hứa Viễn thì đâm cổ mà tự tử.

Quách Tử Nghi đưa Quảng Bình Vương vào thành Đông Kinh, lấy tất cả của kho giao cho Diệp Hoạch. Lại lệnh cho dân gian thu nạp hơn một vạn tấm lụa gấm đưa cho Diệp Hoạch, để xin đừng giở chuyện cướp bóc. Trăm họ đều hoan hỉ mà theo.

Chính là:

Tướng giỏi dùng lính Phiên

Vua sáng cậy tới hiền

Thu phục lại đất nước

Vua tôi cùng đáng khen.

Túc Tông nghe tin mừng lắm, liền sai ngay Vi Kiến Tố đem biểu vào Thục dâng tin thắng trận. Theo đó phái Tần Quốc Mô, Tần Quốc Trinh cũng đi ngay Thành Đô để đón hoàng thượng. Chọn ngày tốt, Túc Tông lên xe rồng đi Tây Kinh, chờ ngày hoàng thượng hồi loan.

Lý Bí cũng dâng biểu, xin được như lời ước, cho về núi cũ. Túc Tông biết chí Lý Bí đã quyết, liền ban lời an ủi, rồi tạm cho về nghỉ. Ngay ngày hôm sau, Lý Bí tạ ơn lui tới sân rồng, tìm đến ẩn cư ở dãy Hành Sơn. Sau này khi Quảng Bình Vương lên ngôi, lại có mời Lý Bí ra một lần nữa, thế là thờ vua qua hai triều, chính tích có nhiều lời hay việc tốt. Chuyện không nói nữa.

Đáng tiếc Túc Tông chẳng nghe theo kế sách đánh ngay vào Phạm Dương, để đến nỗi tuy đã thu phục hai kinh, nhưng giặc vẫn chẳng trừ hết, sau loạn của cha con họ An, lại kể đến sự phản nghịch của cha con họ Sử, khổ quân hại dân, mãi về sau vẫn chưa yên. Cũng may cuối cùng, Lộc Sơn bị con là Khánh Tự giết, rồi Khánh Tự lại bị bề tôi là Sử Tử Minh đâm chết, thần phản loạn, con nghịch tử, dằng dai báo ứng. Nhưng đó là những chuyện sau này cả, nay hãy theo gót thượng hoàng về Kinh Đô xem sao.

Chính là:

Ngày nào đường Thục gian nan

Nay mừng đất cũ hồi loan thái hòa.

Hồi Thứ Chín Mươi Bảy

Đạt Hề Doanh Doanh chắp mối tình xưa,

Mai Phi thái tần lại về cung cũ

Từ rằng:

Tình duyên chưa dứt

Đừng bảo biệt ly nhiều

Mà hoan hội ít

Không gió sớm mưa nhiều

Lẳng lơ đan dệt

Khéo nối lại lời nguyền thuở trước

Biết bao ngọc nát châu chìm

Ai ngờ hương cũ lại tìm về đây

Cành mai sắc trắng nét gầy

Đoan trang riêng chiếm những ngày cuối đông.

Theo điệu "Trường mệnh nữ"

Đại phàm tình người, ai mà chẳng ghét chia ly thích hội họp, nhất lại là trong chuyện yêu đương nam nữ. Nhưng cũng lại bởi sự thể bó buộc, không thể nào chỉ có hội ngộ, không có chia ly. Có khi tạm phải rời xa để rồi tụ họp, hoặc là mãi mãi chia lìa rồi mới có xum vầy. Hoặc có khi có thể chịu đựng chuyện sinh ly cũng còn hơn phải tử biệt. Đối với việc lìa xa mãi mà sau lại gặp gỡ, cũng chẳng khác nào từ cõi chết mà lại được trở về. Điều này là có ý trời ở bên trong qua những đổi thay đó mà thử thách tình người, thấy rõ cái còn cái mất, cái giữ cái buông. Hãy thử xem như phường liễu ngõ hoa tường, cũng có khi vẫn giữ được chữ tình chung không hề mai một, để rồi cuối cùng đoàn viên. Lại thêm nếu là bậc phi tần ở ngôi tôn quý, trong cơn hoạn nạn, cuối cùng không đến nỗi hại thân, vẫn giữ được chữ tiết, trở về với chủ cũ, lại càng trân trọng biết bao. Nói chi đến kẻ ngày thường cậy mình được sủng ái nuôi lòng ghét ghen, lúc gặp biến đã chẳng giữ được thân mình, chẳng thể nào so được với kẻ bị ghen ghét, nay lại nguyên trở về ngồi cạnh ngôi chí tôn. Âu cũng là một sự khoái ý vậy?

***

Hãy tiếp chuyện Đường Túc Tông nghe tin Đông Kinh báo tin thắng trận, liền sai ngay Thái tử thái sư Vi Kiến Tố vào Tây Thục tâu lên thượng hoàng, xin thượng hoàng hồi loan. Sau đó lại sai hàn lâm học sĩ Tần Quốc Mô, Tần Quốc Trinh đi theo ngay để đón xa giá.

Tần Quốc Trinh tâu rằng Đông Kinh mới khôi phục, cũng nên sai quan tới đó mang chiếu ủy lạo tướng sĩ, vỗ yên trăm họ. Túc Tông nghe theo, liền sai trung sứ Đạm Đình Giao cùng với Quốc Mô vào Thành Đô đón thượng hoàng. Đổi cho Quốc Trinh từ chức hàn lâm học sĩ chuyển sang làm Đông Kinh Tuyên úy sứ, lại sai thêm Vũ bộ viên ngoại lang La Thái làm Tuyên úy phó sứ, cùng đem chiếu tới Đông Kinh, ngay ngày hôm sau cả hai lên đường.

La Thái vốn dòng dõi cố tướng quân La Thành, với Quốc Trinh chính là anh em họ ngoại vậy. Cả hai được cùng lên đường, rất là vừa ý. La Thái nói với Quốc Trinh:

- Thuở xưa cao tổ tiểu đệ là Vũ Nghị Công có hai phu nhân, một vị họ Đậu, một vị họ Hoa. Mỗi vị đều sinh một con trai. Người em trai con bà họ Hoa cũng lại có một con trai, truyền mãi đến đời ông nội của tiểu đệ không có con trai mà chỉ một người con gái, tên lúc nhỏ là Tố Cô, lấy chồng khá xa là nhà họ Bạch làm thứ sử quê ở huyện Lan Dương, Hà Nam, không có con, chồng lại mất sớm, giữ chí mà không tái giá, rất thích chuyện tu tiên học đạo. May được gặp đạo sư La Công Viễn với họ La nhà tiểu đệ vốn cùng họ, nhân kính trọng Tố Cô là hàng tiết phụ, biếu một viên đơn sa, uống vào chẳng bệnh tật gì mà lại sống lâu. Chuyện này xảy ra cách đây đã hơn sáu mươi năm, sau đó tìm đến tu trong am Tu Chân Quán ở dãy núi Bạch Vân ngay ở vùng đó, được dân chúng rất tôn kính. Từ ngày Đông Kinh loạn lạc, không thấy có tin tức gì, thư từ gì cả. Nay tiểu đệ đi chuyến này, công việc xong xuôi, cũng muốn tìm thăm xem sao.

Quốc Trinh cũng nói:

- Đạo cô là cô của hiền đệ, thì cũng chính là cô ngoại tiểu đệ. Từ nhỏ, tiểu đệ đã được nghe cô góa thủ tiết, nhưng chưa biết gặp tiên tu đạo sau này. Mai kia tới đó, anh em ta cùng tới thăm xem sao!

Đường dài rong ruổi, chẳng mấy ngày đã tới Đông Kinh, các quan ra đón chiếu thư, vào thành tuyên đọc.

Chiếu rằng:

"Tây Kinh thắng lớn, tiếp đến Đông Kinh, khen thay tướng soái mưu thần, lại được quân binh hết sức. Cho nên nước nhà dựng lại, đều nhờ công sức của các khanh cả đó vậy.

Nay trẫm đã viết biểu tâu lên thượng hoàng, luận công để ban thưởng, vỗ về tướng quân, an ủi các quận huyện. Các vùng khi thu phục thành trì, nhớ trích một nửa tiền của ở kho tàng để khao thưởng quân sĩ, tuyệt nhiên không được sách nhiễu trăm họ.

Trẫm nghe biết ở Cấp Quận, một ẩn sĩ tên là Nhân Tế, cùng một quan tư nghiệp Quốc Tử Giám là Tô Nguyên Minh, chính lúc Đông Kinh rơi vào tay giặc, hai người này không chịu khuất thân thờ giặc, tiết tháo rất đáng khen. Vậy xuống chiếu, đặc cử Nhân Tế làm bí thư lang, Nguyên Minh làm khảo công lang, kiêm việc thảo chế cáo lập tức phải vào kinh nhận việc.

Còn lũ Đạt Hề Tuân ba trăm tên quan viên theo hàng giặc thì giải ngay về kinh xét xử."

Nguyên Nhân Tế là người rất trung trực, ngay từ lúc An Lộc Sơn chưa làm phản, đã nghe tiếng, đem lễ vật đến mời về làm thư ký. Nhân Tế cũng biết Lộc Sơn khác lòng, nên thác rằng mình bị bệnh cuồng, đóng cửa không chịu đi. Đến khi Lộc Sơn tạo nghịch, sai sứ giả cùng với hai vũ sĩ chuyên việc hành hình, cầm kiếm sắt mà tới triệu Nhân Tế ưỡn ngực chịu chém, không nói một lời, sứ giả cho rằng quả có điên thật, nên quay về phục mệnh, nhân đó mà thoát chết.

Còn Tô Nguyên Minh, quê ở Hà Nam, bỏ quan về nhà, đến lúc loạn An Lộc Sơn gọi đến phong tước cao. Nguyên Minh cũng vịn cớ bệnh tật không nhận dù giặc nhiều lần đến ép buộc. Từ lâu Túc Tông đã được nghe gương tiết nghĩa của hai người, vì vậy trong tờ chiếu này đã nói ngay tới việc khen thưởng. Từ quân sĩ cho đến dân chúng nghe được chiếu, đều vui mừng tung hô: "Vạn tuế!".

Lại nói chuyện Tần Quốc Trinh, cùng với La Thái, việc công xong xuôi, quay về công quán, nghỉ ngơi hai ngày, rồi rủ nhau đi thăm Tố Cô, tìm đường tới huyện Lan Dương, lại tới nhà quán địch nghỉ ngơi.

Ngày hôm sau, hai người sắp sẵn lễ vật, thay mũ áo, dẹp bớt lũ tùy tùng, chỉ đem theo vài gia nhân, cưỡi ngựa đi vào núi Bạch Vân phía trước. Hỏi rõ thổ dân, quả nhiên trong vùng núi sâu thẳm có am Chân Tu quán, tên chữ là Tiểu Bồng Doanh, trong am có một lão tiết phụ tu hành, mọi người kính cẩn gọi là Bạch Tiên Cô. Thổ nhân còn nói thêm rằng:

- Bạch Tiên Cô tuổi đã nhiều, ít khi chịu tiếp khách tới viếng thăm. Gần đây lại còn đóng cả cổng am không cho người thường vào. Hai vị quan nhân muốn tìm tới, chỉ sợ mất công.

La Thái đáp:

- Tiên Cô chính là cô của ta, nhất định không từ chối cho gặp đâu?

Liền cùng Quốc Trinh, gia nhân ruổi ngựa vào núi, vượt đèo, lội suối mới tới được trước cửa am, xuống ngựa. Cửa am đóng chặt, gia nhân gõ nhẹ, hai ba lần, mới thấy một bà già, tóc bạc trắng bước ra, mở cửa mời vào, hỏi ngay:

- Các ngài ở đâu đến. Đạo cô trụ trì ở đây tuổi nhiều, lại thêm ốm đau, chỉ đóng cửa tĩnh dưỡng, không tiếp khách thăm bao giờ, xin các vị hãy quay về thì hơn.

La Thái giảng giải:

- Ta không như các khách khứa đâu. Xin mời lão đạo cô thưa hộ cho một lời, ta họ La tên Thái, vốn ở Trường An, là cháu của Tiên Cô trụ trì ở đây, riêng tới thăm cô, nhất định Tiên Cô sẽ cho gặp mặt.

Bà già nghe xưng là họ hàng với Tiên Cô, không dám từ chối, đành phải mời hai người vào nhà. Cảnh tượng trong am, thật quả là mười phần u nhã, có bài từ "Tây Giang Nguyệt" sau đây làm chứng:

Lư hương thơm nức miếu thần

Trang nghiêm tượng thánh giữa gian cao ngồi

Hoành phi một bức chạy dài

"Tiểu Bồng Danh " nét chữ ngời ngời soi

Trước sân hạc trắng xếp đôi

Một hàng tùng cổ xanh chồi hiên ngang

Lặng im trống ngọc chuông vàng

Tiên Cô tĩnh tọa đạo đàn phải chăng?

Bà già cẩn thận đóng cổng am, rồi lặng lẽ vào trong thưa lại.

Một lúc sau, ra nói có lệnh của Tiên Cô, mời khách vào thảo đường ngồi chờ, Tiên Cô sẽ ra sau. Lại một lát sau, nghe tiếng chuông gióng, Tiên Cô mặc một áo dài nửa lam nửa trắng hòa nhau, đầu đội khăn, chân đi dép bện bằng sợi móc, tay cầm phất trần, nhẹ nhàng bước ra, dung mạo rất thanh thoát, cử chỉ nhẹ nhàng, chẳng có dáng gì của một bà già đã hơn sáu mươi tuổi cả, quả là do sức thần đơn sa của La Công Viễn tiên sư vậy.

Chính là :

Son phấn thôi rồi buổi thiếu niên

Chân tu lánh tục giải ưu phiền

Xanh xanh mai tóc, thân khang kiện

Mà rượu tiên đành kém thuốc tiên.

La Thái cùng Quốc Trinh bước lên làm lễ ra mắt. Tiên Cô vội vàng đáp lễ, mời ngồi uống trà cùng La Thái hàn huyên một hồi.

Tiên Cô chỉ tay về phía Quốc Trinh mà hỏi:

- Vị khách này là ai vậy?

La Thái đáp:

- Đây chính là người bên ngoại của họ La ta ngày trước, chính là Tần Trạng nguyên, tên Quốc Trinh.

Tiên Cô nói:

- Nguyên là quan nhân họ Tần.

Nói xong, nhắc đi nhắc lại chữ "Tần" như nghĩ ngợi điều gì.

Quốc Trinh thưa:

- Cháu vốn từ lâu đã nghe tiếng hiền thục của cô, chỉ giận chưa một lần bái kiến tôn nhan. Nay mới được gặp gỡ, trong cảnh núi sông cách trở này, như lại được thấy cảnh thoáng đãng vậy! Có gì đường đột, xin cô hãy tha tội.

Nói rồi cả hai sai gia nhân mang lễ vật dâng lên. Tiên Cô nói:

- Hai vị từ xa tới thăm, thế cũng đủ thấy trân trọng, cần gì phải có lễ vật thế này?

Hai người thưa:

- Chút lễ mọn không đủ giải bày lòng tôn kính, chỉ xin cô đừng khước từ.

Tiên Cô hai ba lần nhún nhường, rồi mới nhận, nhân đó hỏi:

- Hai vị nhân có việc gì mà lại tới vùng này vào lúc này?

La Thái thưa:

- Cả hai chúng cháu đều vâng lệnh làm khâm sai đem chiếu thư tới đây. Xin được hỏi cô những ngày loạn lạc vừa qua, ở đây có đáng ngại lắm không?

Tiên Cô đáp:

- Vùng này hẻo lánh, thuở trước La Công Viễn tiên sư đã từng ghi dấu nơi đây. Tiên sư có nói rằng đây là nơi Lưu Hầu Trương Tử Phòng đời nhà Hán tịch cốc tu luyện đạo tiên. Cho nên ở đây có thể qua mọi cơn binh lửa, cũng nhân hai vị đây đều là họ hàng thân thích, già này lại là bậc huynh trưởng, nên đừng ngại ngùng giữ lễ quá hãy cứ tự nhiên cho!

Liền gọi đạo cô già, cùng mấy nữ đồng bày cơm chay, rồi mời cả hai vào phía sau xem cảnh.

Thấy lan can khuất khúc, suối chảy quanh co từ trên sườn núi về phía sau, thật là mát mẻ, thanh tịnh. Đi qua một dãy viện các dài, gặp một con đường nhỏ, dẫn đến ba gian nhà nằm khuất hẳn một góc, cửa đóng kín, có cả khóa cẩn thận, chỉ thấy một cửa sổ, nhưng cũng có ván gỗ che kín. Hai người nhìn vào, nghĩ là phòng riêng tĩnh dưỡng của Tiên Cô. Đang đứng ngắm, thì bỗng thoảng một trận gió đưa mùi thơm của hoa mai, Quốc Trinh lên tiếng:

- Ở đây có hoa mai sao? Nay đang giữa mùa đông sao lại có hoa mai được. Hay ở vùng này hoa mai nở sớm chăng?

Tiên Cô lặng lẽ cười, đưa phất trần chỉ ba gian nhà trước mặt mà rằng:

- Hương hoa mai là từ trong ba gian nhà này bay ra đấy? Nhưng không trồng ở trong ấy, cũng chẳng phải trồng ở ngoài này đâu?

La Thái hỏi:

- Thế thì thật lạ quá. Không phải là do trồng mà có, thì ở đâu ra?

Quốc Trinh tiếp:

- Trong nhà nếu có hoa mai, lại có thể xem được, thì xin cô cho được thấy hoa lạ!

Tiên Cô đáp:

- Trong nhà có người, không thể tự tiện vào được?

Hai người đều vội hỏi:

- Người nào thế?

Tiên Cô đáp:

- Nói ra thì dài lắm, xin mời ra ngoài này ngồi rồi thuật kỹ để hai vị cùng nghe.

Ba người lại quay về trung đường ngồi.

Tiên Cô cất lời:

- Chuyện này thật là kỳ quái, nói ra thật khó tin. Từ trước đến giờ già này chưa từng kể cho ai nghe cả, nay chẳng phải giữ gìn nên xin kể hai vị nghe rõ. Già lúc mới tới đây. La Công Viễn tiên sư đã từng dặn rằng: "Ngày sau sẽ có hai người đàn bà đến đây tạm lánh, đệ tử hãy nhớ cho kỹ, hai người này không phải loại người tầm thường. Về sau họ có nơi nương thân xứng đáng". Mãi tới khi An Lộc Sơn phản nghịch, Tây Kinh thất thủ, thì bỗng thấy có một người đàn bà, tuổi khoảng ngoài ba mươi, trang điểm rất sơ sài, cưỡi một con lừa trắng, ruổi nhanh tới cổng am. Già này đang đi dạo trong sân, thấy khách đến có vẻ lạ kỳ, vội chạy ra giúp khách xuống lừa. Khách vừa chạm đất, con lừa bỗng bay lên trời, khoảng lưng trời hình như biến thành một con chim, bay về phía tây. Già hoảng hốt, hỏi khách là ai. Khách không chịu nói rõ lai lịch, chỉ đáp: "Thiếp họ Giang, là người của họ Lý, nhân bởi Tây Kinh bị giặc chiếm, mấy lần suýt chết. May gặp một tiên nữ đến cứu, lấy một con lừa trắng cho thiếp cưỡi, rồi bảo thiếp nhắm mắt lại, đừng để ý xung quanh. Thấy như người bay lên không chẳng bao lâu rơi xuống, đây chẳng hiểu là đâu. Chỉ nghe tiên nữ dặn rằng: nơi này có thể yên thân. Nay đã đến đây, chẳng hiểu thật giả ra sao nữa!". Già này luôn nhớ lời dặn của Tiên sư La Công Viễn, nghĩ rằng người đàn bà này không phải người thường, nên giữ lại cho ở trong nhà riêng phía sau đó. Không hề cho ai người ngoài biết cả, còn người trong am thì giấu hẳn, chẳng kể về chuyện con lừa trắng. Người này từ ngày ở nhà riêng đó, cũng chẳng bao giờ ra ngoài. Già từ đó đóng chặt cửa am, không có việc gì thì chẳng bao giờ mở. Chẳng ngờ mấy ngày sau, lại thấy có một người đàn bà còn trẻ đẹp, diện mạo rất đẹp, gõ cửa vào xin ở nhờ. Người đàn bà này vốn là họ hàng Đạt Hề Tuân tiết độ sứ Hà Nam, tiểu tự Doanh Doanh, xưa nay vẫn ở Tây Kinh, đã từng lấy chồng, cũng bởi chồng mới chết ở xa, cha mẹ lại đều chết cả, đành phải nương nhờ Đạt Hề Tuân, theo tới nhiệm sở. Không ngờ Đạt Hề Tuân chẳng chút nghĩa khí ra hàng giặc. Doanh Doanh biết ngay tai họa sẽ đến, liền quyết chí bỏ nhà xuất gia, nghe tin am này u tĩnh, thanh khiết, xin với Đạt Hề Tuân tới đây. Già này vẫn nhớ lời La Công Viễn tiên sư, có những hai người đàn bà đến trốn tránh, liền cho Doanh Doanh ở lại cùng với người đàn bà họ Giang kia ở trong ba gian vắng vẻ vừa rồi, cả hai đóng cửa ngồi nhàn, thức ăn đồ uống đều từ cửa sổ mà đưa vào. Hai tháng trước đây, La Công Viễn tiên sư cùng với một đạo hữu nữa, tên gọi là Diệp Pháp Thiện tôn sư, có dạo qua mấy gian nhà này. Họ Giang từ lâu có biết tiếng hai tôn sư tài đạo khác thường, liền cùng Doanh Doanh mở cửa bái yết. Diệp tôn sư liền ngửa mặt lên trời làm phép, lấy ngay xuống một cành hoa mai, đưa cho họ Giang mà nói: "Quý nhân vốn thích loài hoa này, nay xin một cành tặng quý nhân. Cành hoa này tươi quanh năm, lúc nào cũng hương thơm tỏa ngát, chẳng khi nào tàn. Mãi tới ngày quý nhân được trở về đất cũ lại gặp chúa xưa, hưởng phúc đủ đầy, thì hoa mới cùng tàn với kiếp người đã mãn vậy thôi!". Từ đó cành mai này luôn được cắm trong bình ở ba gian nhà đó, hương vẫn tỏa ngát mãi đến giờ. Gần đây hương lại càng bay xa, càng thơm hơn nhiều. Các vị thấy lạ lùng chưa?

La Thái, Quốc Trinh đều không giấu nổi kinh ngạc, bàng hoàng:

- Tất cả chuyện này đều thật lạ lùng!

Nhân đó hỏi:

- Thế hai vị tôn sư thấy Doanh Doanh mà không cho vật gì cả sao?

Tố Cô đáp:

- Già này đã kể hết đâu. Lúc ấy La Công Viễn tiên sư lấy bút mực, đề tám câu thơ ngũ ngôn luật, đưa cho Doanh Doanh mà báo rằng: "Tương lai của phu nhân cũng tốt đẹp, đều được ghi rõ trong bài thơ này. Bao giờ phu nhân có được cuộc gặp gỡ thì cũng là lúc Giang Quý nhân được quay về nơi cũ. Nói xong, cả hai tiên sư đều phất áo mà đi ngay.

Quốc Trinh lại hỏi:

- Tám câu thơ thế nào, chúng cháu có thể xem một chút chăng!

Tiên Cô đáp:

- Thủ bút của tiên sư, hai người này quý lắm, chẳng cho ai xem cả đâu. Nhưng bài thơ thì già này thuộc. Để già đọc rồi hai vị thử đoán xem sao nhé! Bài thơ như thế này:

Tránh đời không tránh Tần

Người Tần mà rất thân

Giang sơn khéo xoay chuyển

Phong cảnh giả thành chân .

Thấy rau La rau Thái

Hái mặt sóng ngọn Tần

Chúa tôi mừng tái ngộ

Duyên nợ xe nên gần.

Hai người lắng nghe kỹ, đều trầm ngâm nghĩ ngợi, Quốc Trinh cười nói:

- Cháu họ Tần, nên hình như hai câu đầu nói về cháu thì phải. Nếu không thì sao nói chuyện tránh loạn đời Tần ngày xưa mà lại tiếp là "Người Tần rất thân".

Tiên Cô đáp:

- Lại có thế nữa sao! Già này vừa nghe những lời của Tần quan nhân, mới sực nhớ ra rằng, lúc ấy Doanh Doanh xem mấy câu thơ này, có nói riêng với già rằng, hồi ở kinh sư, có một vị triều quan họ Tần, đã từng cùng mình tính chuyện hôn nhân; nay xem mấy câu thơ của tôn sư La Công Viễn hoặc giả sau này được đoàn viên chăng. Những câu nói già còn nhớ kỹ, không ngờ hôm nay lại có vị quan nhân họ Tần tới đây!

La Thái lại thêm:

- Điều này lại càng lạ hơn nữa. Nay các quan trong triều, mà mang họ Tần, chỉ có hai anh em Tần hiền huynh đây là danh tiếng đâu đâu cũng nghe. Chẳng biết thuở xưa đã từng có cuộc gặp gỡ nào với họ Đạt Hề chưa?

Quốc Trinh trầm ngâm một hồi, rồi cất tiếng rằng:

- Họ Đạt Hề đã nói như thế, xin phiền Bạch Tiên Cô tìm cho một đôi câu. Dạo ở kinh, họ Đạt Hề ở phố nào, phường nào; Người họ Tần ấy tên tuổi là gì, chức tước gì, thì mọi chuyện sẽ rõ ràng ngay.

Tiên Cô đáp:

- Điều này thì chẳng có gì là khó. Già này xin hỏi ngay.

Liền đứng dậy đi vào bên trong, chẳng bao lâu đã thấy quay ra, nói ngay:

- Tiên sư nói nghiệm rất đúng cả rồi? Họ Tần này chính là Tần quan nhân đây. Doanh Doanh nói trước kia ở phường Tập Khánh, đã từng cùng trạng nguyên Tần Quốc Trinh gặp gỡ vậy.

Quốc Trinh nghe ra, rạng rỡ mặt mày:

- Thì ra người xưa kia tiểu đệ gặp lại là Đạt Hề Doanh Doanh, năm năm vẫn không quên, ai ngờ lại gặp ở nơi này!

Quốc Trinh xin ra được gặp mặt. Tiên Cô đáp:

- Chưa được đâu. Già này vừa nói rằng Tần Trạng nguyên đang ở đây Doanh Doanh vẫn chưa tin, còn nói rằng: "Thiếp nay đã xuất gia rồi, há lại còn khơi lại chuyện cũ làm gì mà gặp mặt!"

La Thái cười:

- Hiền huynh thuở xưa có những cuộc gặp gỡ kỳ thú đến như thế. Nay lại thêm chuyện "Thiên lý tha hương ngộ cố tri", nghìn dặm quê người, nhận bạn xưa, quả là duyên kỳ ngộ. Sao Doanh Doanh lại còn kiếm lời từ chối. Hai người ngày xưa nhìn mặt nhìn mày, há lại không có lời gắn bó, nay chỉ xin nhắc lại lời thề xưa, thì mọi sự xong xuôi ngay chứ gì!

Quốc Trinh cũng cười đáp:

- Những lời này thì dẫu có cũng khó mà mở miệng nói cho được.

Họ Tần liền xin giấy bút viết một bài tuyệt cú sau đây:

Tập Khánh phường xưa ai nhớ không

Lầu cao ước hẹn sợi tơ lòng

Tình xưa nay được duyên tiên nối

Lá thắm vẫn tươi, ý vẫn nồng.

Viết xong, gấp lại cẩn thận, lại xin Tiên Cô đưa vào cho Doanh Doanh. Doanh Doanh xem xong, trầm ngâm không nói, Tiên Cô bèn khuyên:

- Phu nhân mà xuất gia được cũng tốt, nhưng chưa rõ ràng như lời các tiên sư, chỉ sợ duyên trần chưa dứt, xuất gia chẳng trọn. Cứ theo ý này thì hãy nối lại duyên xưa là hay hơn cả.

Chẳng rõ Doanh Doanh có quyết chí xuất gia chăng, nhưng chỉ biết là từ ngày cùng Quốc Trinh gặp gỡ, giờ khắc nào quên, luôn mong ngày tái hợp. Nay lại thêm chồng đã qua đời, cha mẹ đều mất cả người chú họ là Đạt Hề Tuân giờ đây chẳng còn nương tựa gì được nữa, coi như đã cách tuyệt hẳn. Gặp lại người xưa, chẳng phải là chuyện quá may mắn hay sao. Về phía Quốc Trinh, thì tưởng không nói hết nỗi mừng, nhưng trên mình vẫn còn mệnh vua chưa trả, không thể đưa Doanh Doanh về theo, nên phải thưa với Tiên Cô, hãy xin tạm để Doanh Doanh ở lại am Tiểu Bồng Doanh, đợi cả hai về triều phục mệnh, thưa lại với Quốc Mô, sau đó sẽ sai người tới đón. Còn bây giờ chỉ gặp nhau qua cửa sổ, Doanh Doanh thấy hiện nửa người, mà vẫn không chịu ra. Quốc Trinh thấy Doanh Doanh vẫn chẳng khác xưa, nhưng khăn áo theo kiểu đạo gia, nên càng giống như tiên nữ giáng trần. Bốn mắt nhìn nhau, buồn vui lẫn lộn, chẳng ai nói một lời.

Chính là:

Tương tư tình ý không cùng

Lặng im mà chứa muôn lòng ái ân.

Đêm hôm đó, Quốc Trinh cùng La Thái không thể ra đi kịp, phải ở lại trong am, Bạch Tiên Cô thắp sáp, pha trà, cùng hai người bàn chuyện xa gần. Sau đó, nói tới mấy câu thơ của La Công Viễn.

Quốc Trinh suy luận:

- Hai câu đầu thế là ứng rồi. Hai câu tiếp "Phong cảnh giả thành chân", tưởng cũng chẳng cần nói nữa. Chỉ còn bốn câu sau không biết nên lý giải ra sao. Nay Doanh Doanh cùng với họ Giang cùng ở một nơi, sắp phải chia tay, thế thì sao lại có câu "Giang sơn khéo xoay chuyển".

Tiên Cô cũng bàn thêm:

- Cứ xem cách Giang Quý nhân đến đây, cưỡi lừa trắng, lừa bay lên không mà biến mất, lại xem cử chỉ lâu nay, rõ ràng không phải người thường. Già nào ngờ rằng có khi tiên nữ bị đày xuống trần. Nhưng còn thêm câu nói của La Công Viễn tiên sư với Doanh Doanh:

"Bao giờ phu nhân có được cuộc gặp gỡ thì cũng là lúc Giang Quý nhân được quay về nơi cũ". Thì ý tứ câu này ra sao đây?

Hai người bàn luận, chỉ thấy La Thái cúi đầu ngẫm nghĩ, bỗng dậm chân mà nói rằng:

- Đúng rồi! Đúng rồi! Cháu nghĩ ra rồi!

Tiên Cô vội hỏi:

- Nghĩa ra sao nào?

La Thái thì thầm:

- Giang Quý Nhân đã từng nói với Bạch Tiên Cô rằng mình là người của họ Lý. Thế thì rất có thể là Giang Thái Tần của hoàng thượng vậy. Hãy đọc những câu thơ này xem, rõ ràng hiện đủ cả ba chữ Giang Thái Tần, Giang Phi nổi tiếng yêu hoa mai, ở trong cung đã từng dược tôn xưng là Mai Phi. Trước đây khi lũ nghịch tặc vào cung, có thấy một xác cung nữ đã thối rữa, cho là Mai Phi, sau đó lại có tin đồn là Mai Phi chưa chết, mà đã trốn được vào dân chúng, biết đâu chính là gặp người tiên cứu cũng nên, rồi mang đến tránh trong am này, đợi ngày trở về cung cấm, gặp lại thượng hoàng, chẳng khác gì Doanh Doanh gặp lại Tần hiền huynh vậy thôi. Không như thế, thì sao lại có câu: "Chúa tôi mừng tái ngộ" cho được?

Quốc Trinh gật đầu:

- La hiền đệ phân giải quả không sai, nhưng cứ như tiểu nhân này nghĩ, thì hiền đệ họ La tên Thái. Bài thơ lại có câu: "Thấy rau La rau Thái, hái mặt sóng ngọn Tần", thì hình như có ý nói hiền đệ đưa Giang Quý nhân về triều thì phải?

Tiên Cô cũng nói:

- Nếu quả là Giang Quý phi thật, thì rõ ràng La quan nhân thấy Quý phi ở đây lẽ tự nhiên phải tâu với triều đình để đợi lệnh đón về rồi!

La Thái đáp:

- Chỉ cần hỏi cho thật đúng, cháu xin làm biểu tâu ngay về triều đình!

Tiên Cô tiếp:

- Hỏi chuyện này cũng không khó. Giang Quý nhân thấy Doanh Doanh không chịu ở cùng người chú họ đã theo giặc, nên rất kính yêu có chuyện gì chắc cũng chẳng giấu. Chỉ cần già này hỏi Doanh Doanh, là biết ngay hư thực.

Đêm ấy không có chuyện gì khác.

Ngày hôm sau, Tiên Cô ra nhà tìm Doanh Doanh hỏi chuyện:

- Chẳng mấy chốc phu nhân sẽ chia tay với Giang Quý nhân. Quý nhân từ ngày tới đây, không hề chịu nói rõ lai lịch. Quý nhân rất thân thiết với phu nhân, nhất định có kể rõ nguồn cơn. Thế thì xin phu nhân hãy cho nghe xem sao?

Doanh Doanh cười thưa:

- Lâu nay họ Giang cũng chẳng nói gì cả đâu, nhưng mãi hôm qua mới kể rằng, xin đạo cô đừng lấy làm thường, họ Giang không phải ai khác, chính là Mai Phi Giang Thái Tần, người trước đây rất được hoàng thượng yêu quý đó. Thiếp cũng đang định đem chuyện này thưa để đạo cô rõ ngay.

Tiên Cô nghe ra, vừa kinh ngạc vừa vui mừng, dậm chân:

- Vị cháu họ La của già này tính không hề sai vậy!

Nguyên là Mai Phi trước đây vẫn ở cung Thượng Dương, cam chịu những ngày lạnh lùng, nghe tin An Lộc Sơn phản loạn, càng thêm giận con tiện tỳ phì nộn Dương Ngọc Hoàn, thủ phạm gây ra cơn trốn chạy vào Thục. Vua những muốn cho Mai Phi cùng đi, nhưng bị Quý Phi ngăn trở, đành bỏ mặc mà thoát một mình. Lúc này các cung, các viện thi nhau trốn chạy. Mai Phi nghĩ ngợi: "Thuở xưa mang ơn thương yêu của thánh đế, nay tuy bị bỏ quên, nhưng nào phải vua phụ ta đâu, chính ta phụ vua đấy! Nếu bằng không sớm tìm cái chết mà thoát, tất rơi vào tay giặc làm hoen ố". Khóc lóc một hồi, lấy một dải lụa trắng, ra ngay cây mai già trước sân thắt cổ mà chết. Hơi như đã tàn, bỗng có người cứu xuống, mở mắt ra nhìn, thì một người đàn bà mặt mũi rất thùy mị, đội mũ vân quan đứng ngay trước mặt. Mai Phi khẽ hỏi:

- Khanh có phải người trong cung không?

Người này đáp:

- Thiếp không phải cung nữ đâu. Mà chính là Vi Thị, vợ của Trương Quả tiên sinh, vốn lâu nay ở Vương Ốc Sơn. Hiện nghe theo lời của Trương tiên sư cưỡi mây đến đây, để cứu Quý Phi. Mai này Quý Phi còn duyên phận với thánh thượng, chưa nên tìm đường chết. Thiếp sẽ đưa Quý Phi đến một nơi có thể tạm nương thân, đợi ngày đoàn viên.

Liền lấy ngay trong tay áo ra một con lừa cắt bằng giấy, đặt trên mặt đất, chúm môi thổi nhẹ, biến ngay thành một con lừa trắng vừa to vừa đẹp, đủ cả yên cương, đỡ ngay Mai Phi lên, dặn kỹ:

- Quý Phi hãy nhắm cả hai mắt. Cứ mặc cho con lừa bay. Chẳng bao lâu sẽ đến một nơi, đã có người đón tiếp Quý Phi.

Nói xong, vỗ vào mông lừa một cái, lừa dậm chân bay thẳng lên không .

Mai Phi dẫu có sợ hãi, nhưng cũng chẳng xuống được nữa, chỉ còn cách tay nắm chặt dây cương lụa, nhắm tít hai mắt, nghe tiếng gió rít mạnh, biết là đang bay rất nhanh. Chẳng mấy chốc, đã xuống tới đất mở mắt ra nhìn bốn bên đều là núi, lừa cứ thẳng phía trước mà đi ngay vào cổng am Tiểu Bồng Doanh, gặp ngay La Tố Cô ân cần tiếp đãi giữ lại. Lúc này vẫn còn chưa dám nói rõ lai lịch, cũng bởi Tố Cô thấy con lừa trắng bay vút lên trời ngỡ Mai Phi là tiên nữ, nên không dám cặn kẽ hỏi nguồn gốc.

Trong bài thơ của La Công Viễn, quả có chứa đủ ba chữ Giang Thái Tần, mọi người chưa hiểu, nhưng Mai Phi thì biết rõ. Nay thấy người đến am là La Thái, lại càng hợp với mấy câu thơ. Doanh Doanh thì lại đã cùng Quốc Trinh gặp gỡ, những điều trong bài thơ đã bắt đầu ứng nghiệm. Lại nghe hai kinh đã khôi phục, thượng hoàng sắp trở về, nên mới đem thực tình nói với Doanh Doanh, Doanh Doanh thưa lại với Tố Cô, để nhờ La Thái tâu lên triều đình. Vừa may La Thái đoán ra mọi sự, Tố Cô hỏi lại. Nghe Doanh Doanh kể rõ đầu đuôi, Tố Cô mười phần vui mừng, kinh hãi, gặp Mai Phi làm lễ triều kiến. Mai Phi nâng dậy mà rằng:

- Ơn nặng còn đó, một chút chưa báo, hãy xin nhớ bạch Tiên Cô với La sứ giả, hãy vì ta mà làm biểu tâu với triều đình.

Tiên Cô nhận lời, quay ra bàn bạc với La Thái. La Thái cùng Quốc Trinh xếp đặt, trước tiên trình bày cho Quảng Bình Vương rõ ràng mọi sự. Quảng Bình Vương liền tuyển cung nữ ở Đông cung, tìm những người hầu hạ cũ ở nội cung, đến ngay Tiểu Bồng Doanh, nhận mặt rõ ràng là Mai Phi, rồi liền đăng biểu trình Túc Tông. Về phía La Thái, cũng viết biểu lên Túc Tông, việc Quốc Trinh gặp gỡ, Doanh Doanh định về với Quốc Trinh làm vợ thứ, nhưng vì can qua ngăn trở, nay may cũng gặp lại ở Tu Chân quán, tuy là cháu họ của Đạt Hề Tuân, nhưng trong lòng vẫn ghét việc hàng giặc của Tuân, nên đã nguyện làm đạo cô, tự thề sẽ trọn đời tu luyện, với khí tiết như thế, tưởng cũng nên gia ơn.

Túc Tông xem cả hai tờ biểu, một mặt sai người thưa với thượng hoàng, một mặt sai hai nội giám dẫn theo cung nga mấy người, đến Bạch Vân Sơn, am Tiểu Bồng Doanh đón Mai Phi về cung cũ, sẵn đợi thượng hoàng hồi loan. Lại dặn quan sở tại, hậu thường cho La Tố Cô chờ ngày thượng hoàng tuyên dương sau. Cũng không quên ban ngay chỉ, cho phép Đạt Hề Doanh Doanh về với Tần Quốc Trinh làm vợ thứ, vẫn được cáo phong đấy đủ.

Lúc này Quốc Trinh cùng La Thái quay lại Tiểu Bồng Doanh chào Bạch Tiên Cô, lên ngựa về triều, giữa đường vừa gặp chiếu ban xuống, liền sai người về ngay Tiểu Bồng Doanh, hãy đem theo vài gia nhân của Đạt Hề Tuân rồi cùng với đoàn nội giám đón Mai Phi về kinh. Mai Phi cùng Doanh Doanh liền từ biệt Bạch Tiên Cô, ngay ngày hôm sau lên đường. Mai Phi đã có nội giám cùng cung nga hộ tống hương xa bảo mã, nhằm Tây Kinh mà đi. Doanh Doanh cùng gia nhân cũng theo sau thành một đoàn. Mai Phi đi trước, có nội giám giữ bình cắm cành mai, hương bay mấy dặm, ai ai cũng ngạc nhiên, ngợi ca. Trước lúc lên đường, Mai Phi còn kịp làm tờ sớ, sai trung sứ ngày đêm mang về trình Đường Minh Hoàng.

Chính là:

Nhớ thuở Đông Lâu xưa hiến phú

Còn nay cổ miếu lại dâng thơ.

Chẳng biết về sau sự thể ra sao, xin xem hồi tiếp theo.

Hồi Thứ Chín Mươi Tám

Được chiếc tất gấm, bà lão hái ra tiền,

Nghe chuông mưa rơi, nhạc công phổ khúc hát.

Từ rằng.

1. Người đã mất

Tóc mây lược ngọc rơi bùn đất

Chiếc tất sao còn vương vất

Bà lão bắt được

Của quý! Lòng ngây ngất.

2. Đường về khấp khểnh ngàn trùng

Lối xưa chuyện cũ, cho lòng đắng cay.

Mưa rơi rả rích đâu đây

Mưa vào lòng, giọt khi đầy khi vơi

Khúc hát trời

Khúc hát người?

Theo điệu: "Quy quốc dao"

Đại phàm trong chuyện sinh tử, biệt ly của nam nữ, nếu không bi thương, khổ lụy thì chẳng còn điều gì đáng nói. Nhất định phải có bi lụy nhớ thương, nhược bằng người tình lại đến nỗi ngọc nát, châu chìm, chẳng còn gì sót lại, phải tay không mà tưởng vọng, nhớ ảnh nghĩ hình, trằn trọc năm canh. Còn như may mắn hơn, của người xưa vẫn còn đó, phấn thừa hương thải, để rồi nâng lên ngắm nghía, mắt thấy lòng đau. Toàn là những thứ người ngoài chẳng mảy may động tâm, nhưng với người trong cuộc thì muôn nghìn trân trọng. Huống chi ân sâu tình nặng thuở xưa, ngày ngày đêm đêm không rời gang tấc, một sớm xa cách, kẻ về dạ đài xót xa, người trên dương thế xiết bao ngậm ngùi. Nhớ trước tưởng sau, mắt nhìn tai nghe, toàn gợi chuyện thảm sầu. Những tình cảm đó, gửi vào thư từ, thác vào thanh âm, thì quả là lấy lời ca thay tiếng khóc, một lời là một giọt lệ vậy.

***

Nói chuyện Mai Phi từ Tiểu Bồng Doanh lên đường trở về Trường An, trước lúc ra đi, còn kịp viết một tờ sớ sai nội thị vào Thục dâng lên thượng hoàng. Nguyên là ở Thục, thượng hoàng vẫn thương nhớ Mai Phi, nhân có người thưa:

- Quân nghịch vào nội cung, thấy một xác cung nga, nghĩ là Mai Phi.

Thượng hoàng nghe tâu, tin là Mai Phi đã chết, nên mười phần thương tiếc. Lúc này có một thầy phù thủy, người ở ngay đất Thục, tên gọi Trương Sơn Nhân. Thượng hoàng nghe danh, gọi vào cung, sai xuống âm phủ thăm tìm xem hồn phách Mai Phi hiện ở đâu. Trương Sơn Nhân lập đàn, tĩnh tọa một ngày một đêm, hồn trở về tâu rằng:

- Thần đã dạo khắp tam giới tuyến dài, lại dạo khắp các miền tiên giới, đều chẳng có tông tích.

Thượng hoàng ủ rũ, mà rằng:

- Hồn thơm không biết trú ở đâu. Nếu như hồn Mai Phi mà tìm được thì hồn Dương Quý Phi cũng phải gặp được, Nhưng sao cả hai đều không thấy là cớ sao?

Bởi vậy thường vẫn giọt dài giọt ngắn khóc than. Cao Lực Sĩ thấy tình cảnh thế, tìm được một bức tranh vẽ hình Mai Phi trình lên. Thượng hoàng ngắm nghía một hồi rồi thở than:

- Bức vẽ này giống, nhưng chỉ tiếc là không cử động được.

Xem đi ngắm lại, rồi tự tay đề một bài tuyệt cú vào bên cạnh:

Chầu hầu hai tám nhớ năm xưa

Vẻ đẹp thiên nhiên phấ sáp thua

Sương tuyết vẫn y phong thái áy

Làn thu ba sao chẳng đung đưa?

Từ đó thượng hoàng vẫn hay giở tranh Mai Phi mà sụt sùi. Về sau lại có người tâu rằng:

- Mai Phi vẫn chưa chết, tử thi dạo giặc thấy trong cung, không phái Mai Phi đâu!

Thượng hoàng nghe ra, ngờ rằng đã lẩn trốn dược vào dân chúng, bèn hạ chiếu cho khắp nơi, ai biết Quý phi Giang Thái Tần ở đâu lập tức tâu lên sẽ được trọng thưởng, hoặc phụng đưa về kinh, sẽ được ban tước lục phẩm, thưởng tiền một trăm vạn. Chiếu dụ ban ra, vừa khi Túc Tông đọc dược biểu chương của La Thái, liền sai người tâu lên thượng hoàng. Lúc này, thượng hoàng xa giá đã khởi hành về Trường An, nên được biết việc này ngay trên đường đi, mặt rồng vô cùng hoan hỉ, truyền chỉ nói rõ về kinh sẽ ban thưởng cho bọn La Thái. Còn Giang Thái Tần thì hãy về cung đợi thượng hoàng trước.

Mấy ngày sau, sứ giả của Thái Tần đã tới, dâng sớ tâu của Thái Tần ngay trước xa giá. Tờ sớ đại lược như sau:

Muôn tâu

Thần thiếp kể từ

Lầu Đông hiến phú

Một lầm hai lỡ

Nhờ lượng thánh nhân

Tha tội một lần

Cho về cung vắng

Mấy năm lắng đắng

Một dạ ghi ơn

Bỗng giặc nổi cơn

Phong ba phá tán

Thiếp nghĩ rằng phận

Phải chết theo vua

Dây treo vào cổ

Hồn gần lìa xác

Việc đâu lạ thật

Tiên Cô cứu cho

Tỉnh tỉnh mơ mơ

Chết sống rất lạ

Tiên ông Trương Quả

Vẽ giấy thành lừa

Từng mây lơ lửng

Lan Dương đưa tới

Am Tiểu Bồng Doanh

Cùng La Tố Cô

Họ La Công Viễn

Doanh Doanh lại đến

Cẩn thận dặn dò

Cành mai giành cho

Hương thơm vạn lý

Trạng nguyên Tần Thị

Tình duyên kỳ dị

Sẽ được tái hồi

La, Tần hai vị

Lệnh vua đến gọi

Thiếp nay tấu đối

Tỏ chút lòng hèn

Được gặp thiên nhan

Vô cùng may mắn

Nhành mai tươi tắn

Vẫn nở đầu cành

Bái chúc thánh hoàng

Thiếp tôi cẩn tấu.

Thượng hoàng trước đó đã được Túc Tông sai sứ tâu trình mọi chuyện, nay đọc sớ của Mai Phi vừa thương xót vừa mừng rỡ, lại thấy kỳ lạ, liền phê mấy lời an ủi rằng:

Hiền phi gặp nạn quyên sinh, tuẫn tiết rỡ ràng là chí

Tiên nữ nhớ lời cứu mạng, kiên trinh sau trước là thành

Nghìn dậm mây bay, lạ lùng bấy

Bồng Doanh rằng ẩn tích

Một cành mai hẹn, đẹp đẽ thay

Hoa Ngọc rằng lưu hương

Trẫm xem tượng vẽ mà đề thơ, tìm tòi

Mãi mà hồn thơm xa bóng dáng

Khanh được người tiên chừ từng chữ

Hẹn hò lâu mà hội ngộ chắc nay mai

Thấy bao nhiêu là việc hay

Nghe rõ lắm là chuyện lạ

Ấy cũng bởi lòng thành nên cảm động Phật Tiên

Lại khiến cho hưởng phúc được vuông tròn duyên kiếp

Từ nay một tấc không rời lầu tía

Đặng suốt năm canh có chung giấc mộng vàng

Nghĩa cũ mênh mang

Ơn nay dồn dập.

Trung sứ vâng mệnh cầm chiếu chỉ về ban cho Mai Phi. Lúc này Mai Phi đã về tới Tây Kinh, theo lệnh của Túc Tông, vào ở Thượng Dương cung như xưa. Thượng hoàng đến phủ Phượng Tường, truyền lệnh cho quân sĩ theo đi, đem tất cả áo giáp, khí giới, giao nạp lại cho kho của bản phủ cả. Lý Quốc Phủ theo lệnh của Túc Tông, dẫn ba nghìn lính cưỡi ngựa đi đón xa giá. Khi thượng hoàng gần về đến kinh thành, Túc Tông liền dẫn trăm quan ra ngoài cửa thành đón rước. Trăm họ cũng tràn đầy đường phố bái lạy, tung hô: "Vạn tuế! Vạn tuế" .

Túc Tông phủ phục trước xe rồng của thượng hoàng nước mắt đầm đìa, thượng hoàng không ngăn nổi, cố nén nghẹn ngào, cất lời an ủi.

Túc Tông dâng lời xin thoái vị, thượng hoàng không nghe. Túc Tông không dám mặc hoàng bào, chỉ mặc áo bào tía. Thượng hoàng sai lấy hoàng bào, lệnh nội thị đem thay ngay cho Túc Tông. Ngày hôm đó, xa giá đến cáo yết ở thái miếu. Nhân thấy thái miếu bị hủy hoại, liền ngửa mặt lên trời mà khóc rống, dân chúng không ai ngăn được thương cảm. Cáo yết xong, xa giá quay về triều. Túc Tông đi bộ theo sau xe, thượng hoàng nhiều lần khước từ, khuyên nhủ, mới chịu lên ngựa, đi theo bên xe rồng. Thượng hoàng quay nhìn các quan mà phán:

- Trẫm ở ngôi thiên tử năm mươi năm, mà chưa bao giờ được tôn kính đến thế, nay làm thái thượng hoàng, mới được thấy cảnh này vậy?

Các quan đều quỳ lạy mà mừng:

- Vạn tuế! Vạn tuế!

Thượng hoàng vào cung không chịu ngự đại điện nữa, chỉ lên ngay điện làm nơi nghỉ ngơi của thượng hoàng rồi ban cáo rằng:

- Trẫm nay lên ngôi thái thượng hoàng; lấy cung Hưng Khánh ở Nam Nội làm nơi vui nghỉ tuổi già. Việc chính sự của triều đình, từ nay không nghe, không dự bàn nữa. Nay ban bố cho thần dân đều biết!

Người đời sau đọc sử tới đoạn này, nói đến việc thượng hoàng sai nạp tất cả giáp trụ, binh khí vào kho, là ý ra sao? Túc Tông làm con ra đón xa giá của cha, lại đem ba nghìn binh mã cường mạnh, thì ý thế nào?

Có thơ than rằng:

Binh khi nộp kho, suy đã kỹ

Hiềm nghi cần tránh giữa cha con

Đón rước sao cần ba nghìn ngựa

Cờ quạt huy hoàng đúng lễ hơn.

Thượng hoàng về Hưng Khánh cung, lập tức triệu Mai Phi vào gặp. Mai Phi quỳ lạy rồi khóc lóc rất kiều mị, thượng hoàng không ngăn được thổn thức, tìm lời an ủi. Truyền đem bức tranh vẽ có đề mấy câu thơ ra, Mai Phi bái tạ:

- Tình của thượng hoàng, chẳng lấy gì mà đền đáp cho lại, thần thiếp dẫu có chết, còn đợi ơn sâu mãi tới dạ đài.

Nhân đó bèn kể lại chuyện quyên sinh, gặp Vi Thị ở Vương Ốc Sơn đến cứu thế nào, tỉ mỉ kể lại một lượt:

- Thiếp nếu không có Trương Quả tiên sư sai tiên cô đến cứu, thì làm gì có phúc gặp lại thượng hoàng hôm nay.

Thượng hoàng phán:

- Thuở trước trẫm có ý định gả Ngọc Chân công chúa cho Trương Quả, nhưng tiên sư cố từ không nhận, quả có Vi tiên nữ ở Vương ốc Sơn thật. Nay lại có chuyện khanh được cứu như vậy, thì đúng con lừa giấy này vẫn thường có trong tráp của Trương tiên sư vậy.

Mai Phi lại đem cành mai của Diệp Pháp Thiên tặng trình lên thượng hoàng xem. Thượng hoàng thấy cành mai sắc như ngọc trắng, hương thơm tỏa khắp, vô cùng kinh ngạc:

- Khanh được cành tiên mai này, cũng không hổ thẹn với danh hiệu Mai Phi lâu nay vậy!

Mai Phi đọc lại mấy câu thơ của La Công Viễn, rồi tâu thêm:

- Bài thơ này tuy tặng Đạt Hề Doanh Doanh, nhưng việc thiếp được La Thái tâu lên thượng hoàng biết cũng đã được ngụ sẵn trong này.

Thượng hoàng gật đầu than:

- La Công Viễn trước đây đã từng viết thư gửi trẫm, nói rõ "An bất vong nguy", yên ổn đừng quên, lo lúc nguy khốn. Chữ "An" này rõ ràng là nói về An Lộc Sơn, lại gửi một củ thuốc tên gọi là "Thục đương quy", cũng rõ tiên sư khuyên trẫm nên tránh loạn vào Thục, để sau còn được quay về Trường An. Lời này của các bậc tiên sư, lúc ấy chẳng thể hiểu kỹ càng, chẳng có điều gì không đúng. Trẫm mấy hôm nay về đây thường nghĩ đến họ.

Mai Phi tâu rõ La Tố Cô cùng La Thái vốn là họ hàng, thượng hoàng liền truyền lệnh gia phong La Thái ba cấp, thưởng cho một trăm vạn tiền. Phong cho La Tố Cô làm Trinh Tĩnh tiên sư, thưởng tiền hai trăm vạn, để tu sửa, mở rộng Tiểu Bồng Doanh. Sai đắp tượng Trương Quả, Diệp Pháp Thiện, La Công Viễn, ba vị tiên sư trong am để sớm tối hương hoa thờ cúng.

Mai Phi nhớ tới đã cùng Doanh Doanh ăn ở lâu ngày, rất là kính yêu lẫn nhau, tình ý sâu nặng. Nhân đó xin với thượng hoàng lấy phủ đệ của Quắc Quốc phu nhân cho Doanh Doanh ở, điều này lại đúng với câu thơ của La Công Viễn: "Phong cảnh giả thành chân". Bởi lẽ lần gặp gỡ đầu tiên với Quốc Trinh, Doanh Doanh đã đem bức vẽ phủ đệ của Quắc Quốc phu nhân cho Quốc Trinh như của làm tin. Ai ngờ nay lại thực sự được ban cho phủ đệ này, quả là chuyện lộng giả thành chân, đùa quả hóa thật vậy.

Quốc Trinh đón Doanh Doanh, sau khi đã thưa rõ với Quốc Mô, không những là chuyện gặp gỡ lạ lùng ngày xưa, mà còn là việc kỳ ngộ ở Tu Chân quán, được La Thái đứng ra làm mối. Quốc Mô thấy Quốc Trinh đã được ý của thượng hoàng ban rồi, nên để cho Quốc Trinh mặc lòng.

Doanh Doanh được ban phủ đệ, đoàn viên với Quốc Trinh, cùng nhau kể chuyện trước sau, tình nồng duyên thắm, nói sao cho xiết. Có điệu từ "Hoàng oanh nhi" sau đây làm chứng:

Chàng ơi!

Trời xui thiếp lại gặp chàng,

Lầu Tần trút bỏ áo vàng cà sa

Tình ta duyên ta

Tương tư nợ cũ nay đã trả rồi

Họ cũng đôi

Tên cũng đôi

Đôi lứa êm đềm

Chẳng phải như đêm xưa

Mẹo riêng khó tìm

Chàng ơi!

Ghé tai thiếp nhắc duyên ta duyên gì ?(1)

1 Tử xưa, Trung Quốc có họ kép, họ đơn: Độc Cô, Vũ Văn, Uất Trì, cùng Đạt Hề là họ kép, họ đôi. Tên cũng có tên đơn và tên kép, Doanh Doanh là tên kép vậy!

Nguyên phu nhân của Tần Quốc Trinh là Từ Thị, họ nhà Từ Mậu Công, rất hiền đức, vì vậy chị em cùng chung sống hòa thuận về sau ai cũng sinh trai quý. Quốc Trinh cùng anh Quốc Mô, đều làm quan cao rồi về chí sĩ. Doanh Doanh ra vào trong cung, đi lại với Mai Phi, thường sai người thăm hỏi La Tố Cô. Tố Cô sống mãi tới hơn một trăm tuổi, một chiều ngồi tĩnh tọa mà hóa. Đều là những chuyện sau này, chẳng phải nói rườm rà nữa!

***

Lại nói Mai Phi hôm ấy gặp Hoàng thượng xong; xin lui về cung Thượng Dương. Thượng hoàng phán:

- Trẫm nay đã già, chẳng người chăm nom, được khanh đây cùng trò chuyện, tất là vui vẻ thêm cho cảnh trời chiều, thế thì khanh còn quay về Thượng Dương cung làm gì nữa.

Mai Phi thưa:

- Thần thiếp từ cờ thúy hoa rẽ vào Tây Thục, ngày đêm mong sợ dáng chí tôn, nhưng lòng vẫn luôn nơm nớp sợ hãi bị ruồng bỏ, nên coi mình như phận ngoài vòng. Nay may thân còn sống sót những ngày thừa, được thấy lại thiên nhan, quả là đã có điều ngoài ước nguyện rồi. Nay được ơn trên thương đến, sủng ái như xưa, nhưng thiếp tự thấy nhan sắc đã kém nhiều, lấy làm tủi hổ mà thành thật xin lui vậy!

Thưa rồi, lệ tuôn như thưa. Thượng hoàng thân cầm tay an ủi:

- Trước kia khanh có xa cách ít nhiều, quả thực là lỗi ở trẫm. Nhưng ngọc lành gửi tặng, đã thấy rằng trẫm chẳng vô tình. Nay lại được như lời của các bậc tiên sư, chuyện xưa hóa tốt, cùng nhau ôn lại mừng có bây giờ. Khanh nỡ lòng nào bỏ trẫm mà đi nơi khác cho dành!

Mai Phi thấy thượng hoàng thực tình quyến luyến, nên vâng mệnh ở lại cung Hưng Khánh.

Chính là:

Tung tóc hoa dương theo gió sớm

Cành mai còn đượm mãi hương xưa.

Thượng hoàng từ ngày được gặp lại Mai Phi, cảnh già cũng đỡ hiu quạnh, nhưng thường vẫn nhớ tới cái chết thảm khốc của Dương Quý Phi, lòng không khỏi đau xót. Dạo từ Tây Thục về kinh, qua trạm Mã Ngôi, đặc sai người tới mộ tế. Lúc ấy đã có ý làm lễ cải táng, nhưng Lễ bộ thị lang là Lý Quỳ tâu rằng:

- Thuở trước tướng sĩ đội Long Vũ, nhân muốn giết Dương Quốc Trung nên mới lụy đến Quý Phi. Nay muốn cải táng Quý Phi, sợ đội Long Vũ lo lắng lại sinh biến chăng?

Thượng hoàng nghe tâu thế, bằng lòng tạm đình việc lại. Đến khi về kinh, mật sai Cao Lực Sĩ lặng lẽ tìm đến Mã Ngôi lo việc này. Lại dặn riêng rằng: "Nếu có di vật gì của Quý Phi, thì hãy nhớ cầm về!" Lực Sĩ vâng theo tìm đến gò hướng bắc, con đường phía tây trạm Mã Ngôi, cẩn thận đào mộ Quý Phi, lo liệu việc cải táng nơi khác. Thịt da đã tiêu tan, y phục cũng hóa thành bùn đất cả. Chỉ có mỗi chiếc túi đựng hương thơm tử la hàng ngày Quý Phi đeo trước ngực là vẫn còn nguyên. Loại lụa tử la này do nước ngoài tiến cống, dệt bằng sợi tơ băng, trong túi đựng loại hương lạ, nên không bị hỏng. Cao Lực Sĩ bèn cất lấy.

Lại nghe nói có chiếc tất sót lại, một bà lão nhà ở ngay núi Mã Ngôi phía trước còn giữ. Bà lão này họ Tiễn, Cao Lực Sĩ liền tìm đến, đem mười nghìn ra chuộc. Nguyên hôm Dương Quý Phi bị làm tội chết ở trạm Mã Ngôi, chôn cất vội vàng, xa giá lên đường ngay. Lính tráng coi trạm dịch liền vào trong quét dọn, trong số đó có người lính họ Tiễn, ngay ở dưới chân tường của Phật đường, nhặt được chiếc tất gấm, biết là của phi tần trong cung đánh rơi, liền giấu mọi người, cất kỹ. Trở về nhà, đưa cho mẹ già xem. Bà lão họ Tiễn xem kỹ thì thấy chiếc tất này làm bằng lụa mỏng, lại thấy chỉ gấm đủ năm màu, thêu thành những đóa sen cùng gốc, màu sắc rực rỡ lóa mắt, hương thơm phảng phất, bèn nói:

- Cái này chính là vật còn lại của Phi tử nương nương vừa mới mất. Vật báu như thế này, dễ một lúc mà thấy được!

Đang lúc ngắm nghía, gặp ngay một bà lão hàng xóm sang chơi, bèn cùng nhau xem xét một hồi. Chuyện cứ thế mà bay xa, những kẻ hiếu sự kéo từng lũ tới xin được xem. Người này được xem, chẳng nhẽ người khác lại không. Lúc đầu bà già họ Tiễn còn như thế đưa ra cho mọi người xem chán, về sau số người đòi xem càng nhiều, bà già liền đòi mỗi người mấy đồng tiền, càng về sau giá càng cao, tới một trăm đồng một lần xem. Vì vậy, chẳng mấy chốc, họ Tiễn được tiền kể vạn, cuộc sống gia quyến ngày càng sung sướng.

Nguyên chiếc tất của Dương Quý Phi, có tên là "Ngẫu lý". Hai chữ "Ngẫu lý" này, do ngày thường Quý Phi rất thích đi tất có thêu hoa sen, Huyền Tông thường đùa rằng:

- Trên tất của ái khanh, đúng là nên thêu hoa sen vậy, bởi vì bên ngoài không có hoa sen, thì sao ở bên trong lại có ngó sen trắng như thế?

Từ dạo Quý Phi gọi tên đôi tất của mình là "Ngẫu lý" (1). Không ngờ tấm thân chẳng giữ nổi, còn lại mỗi một chiếc tất nơi trạm dịch, để cho người đời tranh nhau xem, đem lại bao nhiêu là tiền cho bà lão họ Tiễn.

Về sau Lưu Vũ Tích (2) có làm bài "Mã Ngôi Hàng", cũng có nói đến chiếc tất này như sau:

Dây buộc hài đã mất

Chỉ thêu vẫn ửng nền

Đâu bằng người trước núi, (3)

Đây chiếc tất thêu sen

Có bác lính ưa lạ

Khéo tay gỡ mối liền

Muôn nghìn mắt ngắm nghía

Sợi đứt, hương triền miên.

1 "Ngẫu lý": Nghĩa là cái ngó sen vùi sâu dưới bùn, rất trắng. Lý là che đậy, giấu kín.

2 Lưu Vũ Tích (722-842): người Giang Tô, đỗ tiến sĩ năm hai mươi mốt tuổi. làm quan nhiều lần bị biếm, nên sống lưu lạc nhiều nơi.

3 Cả hai câu thơ này đều nhắc đến Tây Thi, nhưng với hai thái độ khác nhau trong việc so sánh với Dương Quý Phi. Linh Nham là một di tích nổi tiếng thuộc Ngô Huyện, tỉnh Giang Tô, có ba hồ lớn đào từ thời Xuân Thu, còn những dấu vết cung Tây Thi ở và động Tây Thi... (Từ Hải).

Lại cũng có người nói rằng, ngay cả chiếc tất còn giữ được đấy, có ngày sẽ hỏng, chẳng thể nào còn mãi với đời, để cho người đời ngắm nghía suốt cho được. Nên có bài thơ rằng:

Tất gấm truyền xem chỉ một thì

Sóng hồ sen thêu nhớ làm gì?

Tây Thi đất Việt danh hơn hẳn

Khách đến Linh Nham rất nể vì.

Lúc ấy, Cao Lực sĩ nghe nói bà lão họ Tiễn có chiếc tất này, đem tiền đến chuộc. Bà lão không dám không đưa. Lực Sĩ liền đem cả túi đựng hương thơm, lẫn chiếc tất trở về phục chỉ. Thượng hoàng lấy hai vật này, không giấu nổi ngậm ngùi, lệnh cho cung nữ cất kỹ, lúc nào bâng khuâng, lại lấy ra để than tiếc.

Mai Phi muốn tìm mọi cách khuây khỏa cho thượng hoàng, liền sai Cao Lực Sĩ, tìm những Lê Viên tử đệ còn sót lại, đến làm vui cho thượng hoàng. Một hôm, nhân trăng sáng, thượng hoàng trèo lên lầu Cần Chánh, dựa lan can nhìn ra xa, mây giăng đầy trước mặt, nhớ lại thuở vui vẻ tưởng như là chuyện xảy ra từ kiếp trước, bất giác buồn thương, xót xa mới giương cất giọng ngâm hai câu thơ:

Trước sân cành vỗng cành la

Sao người đi thú ải xa chưa về (1)

1 Nguyên văn: "Đình tiền kỳ thị dĩ kham phan; Tái ngoại chinh nhân thù vị hoàn".

Ngâm xong lại nghe xa xa có tiếng đàn ca, thượng hoàng lặng yên lắng nghe, tuy không rõ khúc điệu, nhưng thoảng âm thanh rất thánh thót, nên quay lại hỏi tả hữu:

- Tiếng ca nhạc này có phải của Lê Viên tử đệ ngày xưa chăng?

Cao Lực Sĩ thưa:

- Cái này có khi là ngoài dân gian ngẫu nhiên ca xướng vậy thôi, chưa chắc đã phải của Lê Viên tử đệ đâu. Hôm qua thần nghe tin Hoàng Phiên Xước đã chết, những người trong Lê Viên ngày càng hiếm dần.

Thượng hoàng càng buồn rầu:

- Gần đây trẫm có làm từ khúc "Vũ lâm lang". Nếu được Phiên Xước hát cho nghe thì thật hay nhất. Nay thế là thôi rồi!

Lúc này Lý Mô, Trương Dã Hồ đều đứng hầu bên cạnh Cao Lực Sĩ liễn nhắc rằng tài nghệ hai người này chẳng kém gì Hoàng Phiên Xước Thượng hoàng liền lệnh cho Dã Hồ hát khúc "Vũ lâm lang" còn Lý Mô thì thổi sáo họa theo. Hai người vâng mệnh. Dã Hồ lấy hơi cất tiếng hát, Lý Mô đưa chiếc sáo tiên ông cho đạo nào lên môi họa theo, âm thanh trong vắt, nức nở như oán, như sầu như khóc như gào, người nghe gần thêm thê thảm, người nghe xa cũng cảm khái.

Khúc "Vũ lâm lang" này, làm vào lúc nào vậy? Dạo thượng hoàng từ Thành Đô lên đường về Trường An, đường xá xa xôi, gợi nhớ Dương Quý Phi, lòng dạ rã rời. Đến cửa Tà Cốc gặp mưa luôn suốt tuần, xe rồng phải đi đến sạn đạo, mưa gõ trên mui xe nghe trong trẻo, thánh thót, vang cả vào vách núi sát bên đường, tiếng nghe càng não ruột. Thượng hoàng quay lại nói với Hoàng Phiên Xước:

- Khanh nghe tiếng mưa rơi ra sao? Tại trẫm đang buồn, nghe ai oán, thật không tài nào chịu nổi.

Phiên Xước nghiêng tai nghe cho rõ thêm rồi thưa:

- Tiếng mưa rơi này nghe ra phạm tội bất kính rất lớn. Cần phải trị mới xong!

Thượng hoàng hỏi:

- Khanh lại giở chuyện khôi hài rồi! Tiếng mưa thì sao lại bất kính cho được?

Phiên Xước đáp:

- Tiếng mưa như đang thổn thức, giải bày, chỉ riêng thần nghe hiểu. Nhưng quả không dám tâu lên thượng hoàng!

Thượng hoàng hiểu là Phiên Xước tìm chuyện nói giải buồn, bèn phán:

- Khanh cứ nói thực, trẫm không bắt tội đâu mà sợ?

Phiên Xước tâu:

- Thần lắng nghe kỹ, rõ ràng là tiếng mưa rơi vào chuông xe rồng, nghe như tiếng thở than: "Tam Lang Tam Lang!" (1) Rõ ràng là phạm tội bất kính rồi còn gì?

1 Vũ lâm lang: tên điệu từ, nghĩa là "mưa rơi vào chuông ngựa, chuông xe". Tam Lang: Chàng ba, chỉ Đường Minh Hoàng. Xem chú thích hồi 92. Cũng việc xưng hô, ở hồi năm, tập 1, khi sinh Lý Thế Dân, là "Thế tử thứ hai" của Lý Uyên, nhầm là "Hai thế tử" . Tiện đây xin định chính.

Thượng hoàng cả cười, từ đó bắt chước âm điệu này mà làm nên khúc: "Vũ lâm lang". Vì vậy khúc hát này mới thê lương đến thế!

Tiếng mưa ảo não, mù giăng trắng

Thánh thót chuông rơi, ai nỉ non

Thương nỗi Mã Ngôi, người đã vắng

Đường trập trùng, Tam Lang lắng đắng!

Ngày hôm sau, thượng hoàng trò chuyện với Mai Phi, kể lại nỗi lòng khi nghe tiếng mưa rơi trên chuông dạo hồi loan vừa rồi, nhân đó tiếp:

- Lúc ấy lòng trẫm thật thảm thương, bỗng nghe tin khanh ở Tiểu Bồng Doanh, mới vơi phần sầu não ít nhiều vậy!

Mai Phi thưa:

- Thiếp nghe thượng hoàng hạ chiếu cho tìm, mới tin rằng bệ hạ chưa quên người xưa. Thật muôn vàn đội ơn thánh đế?

Bỗng nội thị vào dâng biểu của Túc Tông, xin ân xá cho hai viên quan của triều đình đã hàng giặc.

Chính là:

Muốn cong phép nước Cao Dao (1)

Phải vin đức nhân Nghiêu, Thuấn.

Chưa biết sự thể ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.

1 Cao Dao bề tôi nổi tiếng của vua Thuấn, chuyên về luật pháp.

Hồi Thứ Chín Mươi Chín

Xét tội phản, vua nhớ ơn tôi, định tha,

Vẹn duyên lành, người hẹn với hoa, cùng rụng

Từ rằng:

1. Bề tôi phản nghịch, tội không tha

Thánh chúa cầm cân, luật chẳng tà

Phép nước dẫu nghiêm, ơn cũng nặng

Tử sinh đôi ngã: ái, nhân, hòa.

2. Rung rinh mai nọ trắng hoa

Thâm cung lạnh lẽo sao mà muốn rơi

Phải rằng hoa lại rủ người

Hồn thơm bay tới đền đài xưa chăng?

Theo điệu "Ức thiếu niên"

Cổ nhân nói: "Cầu trung thần tất ư hiếu tử chi môn", muốn có kẻ bề tôi trung phải tìm ở cửa nhà người con hiếu, ý nói rằng đã là con hiếu thì có thể làm tôi trung. Than ôi! Thờ cha mẹ không gì lớn bằng biết giữ thân mình, từ sợi tóc, cho đến móng tay, không dám để thương tổn. Thờ vua thì lại lấy điều tận tâm, quên cả thân mình làm đầu. Hai trách nhiệm này tưởng như khác nhau, nhưng thực ra là một. Đã là bất hiếu, thì lẽ đương nhiên cũng bất trung, mà đã tận trung, thì đấy chính là hiếu vậy. Ngày xưa, có những người không làm được tôi trung. Phận làm con gặp phải người cha như thế, chính là sự trừng phạt bởi tội lỗi kiếp trước. Huống chi lại được làm con của bề tôi danh tiếng, đời đời mang ơn xã tắc, mà đến khi gặp nạn nước, không nghĩ đến việc chết theo nước lại đem thân hàng giặc, vứt bỏ cả danh tiếng của gia tộc, làm nhục cả giang sơn, thì rõ ràng là kẻ phản nghịch của quốc gia, đồng thời là đứa con bất hiếu của gia tộc. Bất trung là bất hiếu vậy. Tội quả đáng chém đầu, dẫu đấng thiên tử nghĩ đến công quả của phụ thân, mà tha cho mạng sống, thì tiếng nhơ để đến vô cùng, dẫu sống đó nhưng khác gì chết. Lại chẳng được bằng kẻ phi tần, đã một lần bị đày ra lãnh cung, mà chẳng hề phụ ơn mưa móc của thánh thượng, trong lúc hoạn nạn, sợ thân mang nhục, thề lấy cái chết để giữ gìn lòng trung với đấng chí tôn. May được thần tiên cứu đỡ, trong cái chết lại tìm ra đường sống, để rồi ơn phúc lâu dài, hưởng tròn mệnh trời, đời sau ngợi ca như một tấm gương tốt.

Lại nói chuyện thượng hoàng đang trò chuyện cùng Mai Phi, thì có nội thị vào tâu:

- Muôn tâu thượng hoàng, chúa thượng dâng biểu chương trình thượng hoàng!

Minh Hoàng xem, chính là việc xét xử những quan viên theo giặc. Túc Tông lúc mới về Trường An, triều đình tâu soi đưa bọn này ra chịu chỉnh pháp, thì Đông bình chương sự Lý Hiện tâu rằng:

- Trước đây khi lũ nghịch tặc vào Trường An, thượng hoàng vội vã xuất bôn. Trăm quan không biết xa giá về đâu, nên mạnh ai nấy tìm lấy đường sống. Nhiều kẻ chạy không kịp, nên đành thất thân với tụi giặc, như thế thì so với những viên tướng võ, quan văn có trọng trách giữ thành, giữ đất mà can tâm hàng giặc thì quả là khác, nay cùng xếp vào một loại mà bắt tội chết cả, không phải việc làm của bậc nhân trí vậy. Hơn nữa đất Hà Bắc chưa bình xong, những người bị giam hãm ở đấy còn nhiều, nếu mà giết tất cả người bị hãm trong tay giặc, thì chính là lại cho những kẻ này quyết lòng theo giặc thôi!

Túc Tông nghe theo, liền đem những người này xét từng người mà khoan giảm khác nhau. Nhân bên pháp ty nhiều lần tâu trình đem ra trị tội, để làm sáng tỏ phép nước, thượng hoàng cũng cho rằng, đối với lũ giặc này, không thể coi thường mà khoan giảm tội lỗi. Túc Tông bèn đem chia tất cả lũ này ra làm sáu hạng để xử xét. Pháp ty xét thấy lũ Đạt Hề Tuân, gồm một trăm hai mươi tám đứa đều đáng chém đầu, gia quyến phải làm nô lệ trong các nhà quan. Lũ Trần Hy Liệt gồm bảy đứa, ban lệnh cho tự tận, còn lại thì hoặc lưu đày biếm trích hoặc phạt trượng, tùy từng tội trạng mà xử rõ ràng. Túc Tông chuẩn theo, nhưng trong số chịu tội chém, ý muốn tha cho hai người con của Yên Quốc Công và Trương Duyệt, là Hình bộ thượng thư Trương Quân và Thái thượng khanh phô mã đô úy Trương Tự.

Vì sao Túc Tông lại muốn ân xá cho hai người này? Cũng bởi vì khi Huyền Tông còn đương làm thái tử, Thái Bình Công chúa rất ghen tức, sớm tối theo dõi mọi chuyện xấu tốt ở Đông cung phủ để ton hót với Duệ Tôn: Bọn tay chân thân cận bên cạnh Duệ Tôn, đều về hùa với công chúa, ngầm làm tai mắt. Lúc ấy Túc Tông còn chưa ra đời, mẹ là Dương phi, vốn là hàng cung nga đẹp mắt của phủ Đông Cung mà thôi, ngẫu nhiên được ăn nằm với Long Cơ Thái tử mang thai. Cung nga họ Dương thấy thế mừng lắm, thưa với Long Cơ. Lúc này Long Cơ đang bị Duệ Tôn nghi ngờ, địa vị thái tử do đó bấp bênh, bèn tính toán: "Việc này mà Thái Bình Công chúa nghe được, lại đem ra làm đầu mối cho sự xấu xa, là ta ở Đông cung rất nhiều tỳ thiếp được chiều chuộng, xiểm nịnh ngay trước mặt phụ hoàng, chi bằng lấy thuốc thôi thai. Chỉ tiếc rằng không rõ là trai hay gái!". Tính đi tính lại, chẳng biết bàn bạc với ai. Trương Duyệt đương làm thái tử thị giảng, nên luôn được ra vào Đông cung phủ, liền đem chuyện này ra hỏi. Trương Duyệt bèn khuyên:

- Dòng dõi rồng thiêng, nào phải có thể dễ dàng vứt bỏ cho được!

Thái tử bèn đáp:

- Ta tuổi còn ít, đường con cái nối dõi nhất định chẳng thiếu, việc gì lo lắng vì một cái thai của lũ cung nga này, để rồi phải đối phó với lời ra tiếng vào, nhưng không thể cho tay chân ở đây biết được Xin tiên sinh hãy lo liệu hộ thì may mắn lắm!

Trương Duyệt đành vâng lời, về nhà nghĩ ngợi: "Cung nữ mang thai, nếu sinh con trai, chẳng thiên tử cũng vương tôn, nay mà coi thường bỏ đi; thì đáng tiếc bao nhiêu, biết đâu mai kia lại hối hận. Nhưng nếu như không nghe lời Đông cung, thì lời đồn xấu xa không thể tránh khỏi, ý Đông cung đã quyết như thế, khó mà cưỡng lại. Nay Đông cung đã ủy cho ta tìm thuốc, ta hãy tuân theo mệnh trời mà làm vậy. Cứ cắt lấy hai thang thuốc, một thang an thai, một thang thôi thai, đưa trình Đông cung tâu rằng đều là thuốc thôi thai, đợi đã dùng một thang rồi, nếu đúng là thang an thai, thì quả là mệnh trời chưa nỡ tuyệt, lúc ấy ta sẽ dùng lời lẽ mà khuyên Đông cung giữ thai lại vậy"

Đến ngày hôm sau, giấu kín hai thang thuốc trong ống tay áo, vào phủ trình:

- Đây đều là thuốc thôi thai rất hiệu nghiệm, xin hãy cứ cho uống một gói xem sao đã!

Thái tử rất mừng, đêm ấy đuổi hết tay chân, đặt lò thuốc ngay ở trong phòng ngủ, tiện tay lấy một gói thuốc, sắc rất cẩn thận, bưng đưa cho Dương Thị, nói rõ đầu đuôi, lấy lời ôn tồn khuyên nhủ. Dương Thị vốn không đang, nhưng không dám trái mệnh thái tử, đành vừa khóc vừa uống kỳ hết. Thái tử thấy uống xong, yên tâm thế nào thai cũng ra, chẳng ngờ bụng dạ Dương Thị vẫn chẳng động đậy, mà lại còn yên ổn là đường khác, ngủ thẳng một mạch cho đến sáng, bởi được uống thuốc an thai vậy?

Thái tử lấy làm kỳ lạ, ngày hôm ấy phải vào nội cung hầu yến với Duệ Tôn nên chưa kịp gặp Trương Duyệt, mãi đến tối mới được quay về Đông cung phủ, lại đuổi hết tả hữu, đặt lò, nấu nốt gói thuốc còn lại. Nấu sắp được, bỗng thấy trong người mỏi mệt, lim dim ngủ gật, tâm thần mơ mơ màng màng, trên mái điện cô một luồng ánh sáng đỏ rực lấp lánh, trong khoảng sáng rực rỡ đó, hiện lên một vị thần, hình dáng quả là:

Mắt đỏ râu dài

Mày tầm mắt phượng

Mình cao khoảng hơn trượng, mặc áo gấm thêu màu xanh.

Lưng rộng chừng mười vi, thắt đai tơ nạm ngọc trắng

Thần uy lẫm lẫm

Tướng mạo hùng hào

Ngờ rằng Đại Hán Thọ Đình Hầu

Đúng thật Tam giới Phục Ma Đế.

Vị thần lượn quanh trên hỏa lò một vòng, rồi không thấy đâu nữa. Thái tử kinh hoàng, đứng dậy xem xét, thì thấy siêu thuốc lăn quay, than lửa trong lò đã tắt ngấm cả, lấy làm kinh hãi vô cùng.

Ngày hôm sau, Trương Duyệt vào phủ, thái tử kể lại chuyện đun hai lần thuốc thế nào, rồi lại lệnh cho tìm thuốc khác. Trương Duyệt bái lạy chúc mừng, rồi thưa rõ ràng:

- Đây chính là thần thánh phụ hộ bậc con rồng cháu thánh vậy. Vốn trước thần đã nói dòng giống thánh đế không thể xem thường, nhưng chỉ sợ phạm uy của điện hạ, nên mới thử xem mệnh trời đoán định ra sao. Hai gói thuốc hôm nọ thần dâng lên một gói là thuốc an thai, tức là gói uống đêm hôm trước. ý thần là để mặc điện hạ chọn lấy một gói, ở bên trong đã có số trời định sẵn, ngược lại chuyện thôi thai lại thành an thai. Lần thứ hai định cho uống gói thôi thai, thì lại có thần linh xuất hiện cứu đỡ. Ý trời như thế đã rõ. Dẫu điện hạ có lo chuyện dèm pha đi nữa, thì vẫn còn có mệnh trời. Kẻ đang còn trong bụng kia, rõ ràng không phải bậc tầm thường. Còn phải giữ gìn chu đáo vậy?

Thái tử nghe theo, bỏ ý định phá thai, nên lại nói riêng với Dương Thị phải giữ gìn cẩn thận. Dương Thị thường thèm ăn của chua, thái tử không sai bọn tay chân, nói riêng với Trương Duyệt. Trương Duyệt mỗi lần vào Đông cung phủ giảng sách, thường giấu mơ chua, dưa chua để dâng lên. Lại mừng là thai rất khỏe mạnh.

Chẳng bao lâu Duệ Tôn cho Thái tử Long Cơ lên ngôi, tức Đường Huyền Tông. Đến năm sau Thái Bình Công chúa vì mưu thoán nghịch mà phải chết, trong cung trở nên yên ổn. Túc Tông ra đời, ngay từ nhỏ đã tỏ ra tuấn tú khác thường, trước mắt các quan đại thần, Trương Duyệt khéo léo rất giống Đường Thái Tông Lý Thế Dân, vì vậy Thái thượng hoàng Duệ Tôn rất vừa ý, phong ngay làm Trung Vương. Đến khi thái tử Anh bị phế, liền được Huyền Tông lập làm Thái tử.

Chính là:

Xây nền đắp gốc tự trong thai

Gìn giữ vuông tròn ấy thật tài

Vóc dáng thật như ông nội lắm

Đông cung ngôi báu hẳn lên ngay

Trương Duyệt vì vậy trong những năm Khai Nguyên, rất được nể vì. Đến khi Túc Tông lên ngôi, Dương Thị đã chết, được phong là Nguyên Hiền Hoàng hậu, Dương Thị thường ngày vẫn đem chuyện mang thai lạ lùng của mình kể cho Túc Tông nghe, Túc Tông do đó rất đội ơn Trương Duyệt. Hai người con của họ Trương: Trương Quân, Trương Tự, từ nhỏ là bạn thân cùng vui chơi, ăn uống với Túc Tông, chẳng khác gì anh em ruột. Trương Duyệt chết rồi, hai người đều làm quan cao, Trương Tự được kén làm phò mã, ân sủng tưởng chẳng ai hơn. Không ngờ vì theo Lộc Sơn mà phải tội chém. Túc Tông bởi không quên ơn cũ, cũng muốn tha tội, nhưng vì đã có ý của thượng hoàng rằng lũ quan viên theo giặc, không thể coi thường mà tha tội, nay nếu đặc xá cho hai người này, nhất định không dám không tâu lên Minh Hoàng, may ra Minh Hoàng nghĩ đến chuyện xưa mà bằng lòng chăng? Không ngờ thượng hoàng xem xong biểu tâu, liền ngự phê ngay rằng: .

"Trương Quân, Trương Tự đội ơn sâu của quốc gia, nhưng tán tận lương tâm mà theo giặc, quả thật phản thần của triều đinh, đúng là con ngỗ nghịch của Trương Duyệt, tội không thể tha được. Ta nay đã già rồi, chẳng muốn thay đổi công việc của triều đình làm gì, nhưng việc giết kẻ phản nghịch, trừng trị kẽ tội lỗi là lẽ trọng của phép nước, chỉ có thể tuân theo, không thể lấy tình riêng mà làm sàng bậy, phải chiếu theo nghị luận rõ ràng của pháp ty mà làm vậy thôi!

Vì sao thượng hoàng lại không bằng lòng tha cho hai người này. Cũng có nguồn cơn cả. Nguyên là xa giá lên đường đi Thục, khi tới Hàm Dương, Huyền Tông quay lại hỏi Cao Lực Sĩ:

- Trẫm ra đi chuyến này, trăm quan phần lớn đều chưa biết ngay, nên số đi theo còn rất ít. Khanh hãy đoán ai là người sẽ theo trước tiên nào?

Lực Sĩ thưa:

- Những bậc lâu nay, chẳng bao giờ ăn ở hai lòng, nhất định đều sẽ đi theo. Chỉ có Thị lang Phòng Quán người người vẫn đồn. sẵn tài làm tể tướng, nhưng vẫn chưa được triều đình cất nhấc, nhất là được An Lộc Sơn tiến cử nữa, nay sợ sẽ không theo. Còn thượng thư Trương Quân, phò mã Trương Tự, chịu ơn dày của hoàng gia, lại hàng quốc thích, tất sẽ đến với bệ hạ đầu tiên vậy.

Huyền Tông mỉm cười, lắc đầu:

- Chuyện này thì không chắc chắn đâu!

Xa giá đến Tấn An, Phòng Quán theo đến lạy chào trước xe, Huyền Tông cúi xuống hỏi:

- Khanh có thấy Trương Quân, Trương Tự ở đâu không?

Phòng Quán thưa:

- Thần đã hẹn cùng lên đường. Nhưng họ do dự chẳng quyết, thần xét ý tứ có vẻ khác thường.

Huyền Tông quay lại nói với Lực Sĩ:

- Trẫm vốn biết hai người này là hạng hèn hạ, tham lam lại bất nghĩa mà lại.

Lực Sĩ thưa:

- Lũ này chịu ơn dày nặng đến thế mà còn ăn ở hai lòng, thì quả là khó mà liệu tính được lòng người vậy!

Từ đó thượng hoàng thường nguyền rủa hai người này không tiếc lời nên giờ không chịu ân xá cho. Túc Tông được chỉ, lòng vẫn không yên, thân tới Hưng Khánh cung, yết kiến thượng hoàng, tâu rằng:

- Thần đâu dám vì tình riêng mà làm bại hoại phép nước. Nhưng thần nghĩ rằng trước đây nếu không có Trương Duyệt, thì làm gì có thần ngày nay. Vì vậy không thể không uyển chuyển ít nhiều để khoan ân cho lũ con cái, cúi xin phụ hoàng hãy đặt ra ngoài phép nước, mà thương cho ít nhiều.

Thượng hoàng vẫn không bằng lòng. Mai Phi đứng bên cạnh đỡ lời:

- Nhà họ Trương cả hai con đều phải hứng chịu phép nước, quả là Yên Quốc Công mai này không người tế lễ, thật cũng ái ngại quá chừng. Huống chi Trương Tự lại là phò mã, hoặc có thể vin vào việc thân thích mà khoan giảm cho ít nhiều chăng (1)

1 Pháp luật phong kiến quy định "Bất nghi", là tám trường hợp phạm tội mà được khoan giảm: Nghị thân, nghị cố, nghị hiền, nghị năng, nghị công, nghị quý, nghị cần, nghị tân (Hán Việt tân tự điển). Đây chính là vận dụng "uyển chuyển" trường hợp nghị thân!

Túc Tông hai ba lần năn nỉ, thượng hoàng mới phán:

- Ta nể mặt kim thượng, mà khoan ân cho Trương Tự, còn Trương Quân, ta còn nghe y dẫn bọn phản nghịch lùng sục khắp cung cấm, phá đổ bao cung điện của ta, quyết không thể sống.

Túc Tông không dám nói gì nữa, tạ ơn lui ra. Thượng hoàng ngay hôm ấy liền ban chiếu:

"Trương Quân, Trương Tự đáng tội chém là đúng. Nay theo ý của kim thượng thì Trung Quân đem chịu chính pháp, còn Trương Tự tha cho mà đày ra miền Lĩnh Nam.

Tên Đạt Hề Tuân, khi giặc An Lộc Sơn hiến ngựa, có dâng mật biểu can gián, nên nay chỉ chém một mình y, còn toàn gia quyến thì cho khỏi tội vào làm nô lệ trong nhà quan.

Các việc khác như lời nghị xét mà làm."

Chiếu ban xuống, pháp ty cứ thế thi hành, Trương Quân cùng lũ Đạt Hề Tuân đều phải đem ra chịu chém ở chợ.

Chính là:

Ngày xưa Diều Sùng chết

Sai bảo được Trương Duyệt

Ngày nay Trương Duyệt chết

Không cứu được Trương Quân.

Hồi trước, khi Trương Duyệt khởi công làm phủ đệ của mình, có một nhà sư giỏi thuật phong thủy, tên gọi là Pháp Hoàng, đến xem quy mô của phủ đệ, nói rằng:

- Miếng đất này rất tốt, phú quý nối đời này sang đời khác không hết. Nhưng nhất định không lấy đất ở góc tây bắc kia, dù ít cũng không dược?

Trương Duyệt lúc ấy cũng không để ý lắm đến lời dặn dò này, chẳng hề nhắc nhở người nhà. Mấy năm sau. Pháp Hoàng quay lại, kinh ngạc nói:

- Cớ sao khí tượng ở đây giờ sa sút khác thường, tất là có kẻ đã đào đất ở góc tây bắc rồi đây mà!

Vội vàng ra xem, quả nhiên bọn người làm đào đất ở đây để đổ nền, khoét thành ba bốn hố rất lớn, hố nào cũng sâu đến mấy thước cả. Trương Duyệt vội sai người khiêng đất lấp lại như cũ, Pháp Hoàng phán:

- Đắp lại như thế có ích gì! Đất mượn làm gì có khí sắc như cũ được!

Vì thế thở than mãi không thôi, nhưng Pháp Hoàng chỉ nói riêng với người khác rằng:

- Trương đại nhân phú quý chỉ hưởng đến đời mình là hết, hai mươi năm sau, bọn con cái khó mà giữ được cho toàn mạng, chứ đừng nói gì giàu sang.

Đến nay, những lời này quả nhiên là đúng. Đời sau có người làm thơ cãi rằng:

Tai vạ chẳng vì đất đắp nền

Đừng tin nhảm nhí, nói quàng xiên

Làm ăn chính trực, tâm trong sáng

Lòng người yên thì thổ trạch yên.

**

Nhàn rỗi, nói miên man, lại quay lại chuyện Đường Minh Hoàng ở cung Hưng Khánh, công việc triều đình đều không nhìn đến nữa, duy chỉ có việc gì thật lớn, như kéo quân đi đánh dẹp, thi hành những hình phạt lớn, phong thưởng cao, Túc Tông đều có dâng biểu tâu trình. Lúc này, Túc Tông đã lập em gái Trương Lương làm hoàng hậu.

Trương Hoàng hậu quả là không chút hiền lành, từ thuở theo Túc Tông trong quân doanh, thường vẫn kín đáo cờ bạc vui chơi với Túc Tông ngay trong trướng, tiếng ầm ĩ ra cả bên ngoài nghe rất rõ, mới mật sai khắc những con cờ, con xúc xắc bằng gỗ để không nghe rõ tiếng kêu. Tính tình Trương Hoàng hậu vừa giảo hoạt vừa thông tuệ nên rất vừa lòng Túc Tông, đến khi được lập thành hoàng hậu, vì vậy dễ áp chế nhà vua, lại nương dựa vào hoạn quan Lý Phụ Quốc. Phụ Quốc tiến dẫn theo một loạt bọn cùng cánh như Ngư Triều Ân, Thời An...

Cũng bởi loạn An - Sử chưa diệt hết, nên lệnh cho Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật cùng chín viên tiết độ sứ mãi kéo binh tiễu trừ kỳ hết. Lại thấy bọn hoạn quan Ngư Triều Ân làm Quang quân dung sứ giám sát tất cả quân đội, quân sĩ không phục. Đến lúc ra trận, lại không may gặp trận gió lớn nổi mù trời tối đất, tất cả các toán quân đều thua chạy toán loạn. Quách Tử Nghi đem quân Sóc Phương, chặt cầu Hà Dương để giữ lấy Đông Kinh. Túc Tông nghe theo lời Ngư Triều Ân, triệu Quách Tử Nghi về triều, sai Lý Quang Bật thay.

Lúc Quách Tử Nghi lên đường về kinh sư, trăm họ khóc lóc lăn ra đường giữ lại, Tử Nghi phải cưỡi ngựa không, bỏ cả xe mà về Trường An. Thượng hoàng nghe tin, sai người nói miệng với Túc Tông:

- Hai tướng Lý, Quách đều có công lớn, nhưng công của họ Quách còn lớn hơn cả công họ Lý, phục hưng nhà Đường vừa qua, đều là công lao của họ Quách. Thất bại vừa rồi chỉ bởi không được tự quyết đoán mọi sự, chứ thực ra chẳng có tội gì.

Túc Tông vâng mệnh, nên khi ban lệnh phong thưởng, thì Lý Quang Bật được phong làm Thái úy Trung thư lệnh, Quách Tử Nghi được phong Phần Dương Vương. Phú quý mà Tử Nghi được hưởng này, chẳng ai là người dám ghen tỵ. Ngay cả khi còn nắm quyền hành rất lớn, cai quản cả quân đội triều đình, giữa lúc có chiến trận ở ngoài hành doanh, mỗi lần có chiếu thư, biểu chương đều nói, đều làm rất minh bạch, thẳng thắn, vì vậy chẳng ai có thể hiềm khích, chê bai. Con trai Quách là Quách Ái, đời Đường Đại Tông, được lấy công chúa Thăng Bình, mỗi lần vợ chồng cãi nhau, Quách Ái chửi công chúa:

- Mày cậy cha mày làm thiên tử phải không? Cha ta coi ngôi thiên tử không đáng, nên chẳng thèm làm đấy thôi!

Thăng Bình Công chúa bèn đem những lời này mách lại Đại Tông, Tữ Nghi bèn nhốt Quách Ái lại, chờ chịu tội. Đại Tông biết chuyện, nhưng lệnh dẹp đi không hỏi đến, vẫn sợ Tử Nghi trong lòng thấp thỏm không yên, bèn ban lời phủ dụ rằng:

- Chẳng đui chẳng điếc, thì làm sao thế nào mà thông gia với nhau cho được. Những lời của bọn nhi nữ, thiếu niên ở trong buồng ngủ, chẳng hơi đâu mà nghĩ ngợi cả!

Mấy đời đối xử ơn nghĩa đến thế. Tử Nghi những năm cuối, xin về nghỉ ở phủ riêng, lấy chuyện thanh sắc làm vui, các tướng dưới trướng ngày xưa, ra vào ăn ngủ tùy thích, Tử Nghi đều đối xử rất thoải mái, như lúc còn gian lao. Tử Nghi có tới bảy con trai, tám con rể, tất cả đều làm quan hiển hách. Trong nhà, của quý chất như núi, hưởng thọ tới tám mươi lăm tuổi, mãi tới năm thứ hai hiệu Kiến Trung, đời Đường Đức Tông mới khuất núi, được triều đình đứng ra làm lễ tống táng, ban tên thụy, thật đúng là "Phúc thọ song toàn, sinh vinh tử ai!" (1)

1 Hưởng phúc, sống lâu, cả hai đểu vẹn toàn, sống thì vinh hiển, chết thì được thương xót, cúng tế.

Sách "Đường sử , nói rất đúng, rất hay rằng: "Ròng rã ba mươi năm trời, thiên hạ an hay nguy, đều lệ thuộc vào sự cống hiến của Quách Tử Nghi. Công nghiệp vậy quả là bao trùm cả thiên hạ, mà thiên tử không chút nghi ngờ. Ngôi bậc như vậy là đứng trên cả trăm quan từ lớn đến nhỏ, mà người người không chút ghét ghen. Hưởng thụ cùng cực xa hoa mà không hề có một lời chê trách. Một công thần cả bốn chữ: Phú, Quí, Thọ, Khang đều đủ như thế, quả là từ xưa đến nay, chưa có ai hơn?"

Nhưng đó là chuyện sau này, để khỏi phải nói lại mà thôi. Hãy tiếp chuyện Đường Minh Hoàng ở Hưng Khánh cung thường nghĩ tới công lao của Quách Tử Nghi, nhân đó phán rằng:

- Tử Nghi thuở ban đầu mà không gặp Lý Bạch, tính mạng cũng chẳng giữ nổi, nói gì đến chuyện kiến công lập nghiệp. Thế mới biết Lý Bạch có con mắt thấy rõ bậc anh hùng, chứ đâu phải chỉ là kẻ thư sinh, chỉ biết mỗi chuyện văn tự thôi đâu.

Lúc này chính là lúc Lý Bạch vì dính dáng với Vĩnh Vương Lý Lân mà phải đi đày mãi Dạ Lang. Thượng hoàng liền xuống đặc chỉ ân xá cho trở về rồi giục triều đình ban quan tước cho ngay, thì nghe tin đã qua đời rồi. Thượng hoàng than thở mãi không thôi.

Mai Phi thường nghe thượng hoàng ngợi ca tài năng của Lý Bạch, nhớ chuyện trước kia, nói riêng với Cao Lực Sĩ rằng:

- Ta trước kia đã từng mong đem nghìn vàng để mua một bài phú, bắt chước như bài "Trương Môn phủ" của Tư Mã Tương Như, người nói rằng thiên hạ hiện nay chẳng có ai có tài như vậy, từ chối không chịu thuê cho ta. Thế Lý Bạch này thì sao? Chẳng nhẽ không bằng Tương Như?

Lực Sĩ thưa:

- Lúc bấy giờ Lý Bạch chưa vào Trường An, thì kẻ hèn này tìm đâu cho ra được. Vả lại Dương Quý Phi đang được thượng hoàng rất sũng ái, chẳng thế nào lấy chữ nghĩa văn chương mà giằng cho ra được. Nếu làm được việc ấy, thì bài "Lâu Đông Phú" của nương nương, há chẳng phải tuyệt diệu, nhưng rồi cũng có làm nên chuyện gì đâu?

Mai Phi gật đầu:

- Người nói cũng có lý vậy!

Nội thị vào tâu, Giang Nam thứ sử dâng hoa mai đã về đến kinh sư. Nguyên là từ khi Mai Phi được quay lại hầu hạ thượng hoàng, thì bốn phương lại theo lệ cũ tiến hoa mai. Nhưng Mai Phi có hoa mai của tiên cho, thì những thứ mai của trần gian đều trở thành bình thường. Cành tiên mai này, quả là nở suốt cả bốn mùa, hương càng ngày càng ngát thơm, sắc càng ngày càng trong trắng. Mai Phi lúc nào cũng để ngay cạnh thưởng ngoạn.

Bỗng một hôm sớm dậy, thấy mùi hoa chỉ còn thoang thoảng, sắc hoa cũng có vẻ tiều tụy, cầm lên khẽ rung nhè nhẹ, thấy từng cánh, từng cánh bay lượn, rơi xuống nền điện, Mai Phi kinh hãi kêu:

- Tiên sư đã dặn rằng: Ta cùng với hoa là một mệnh, cùng sống chết với nhau. Nay hoa đã tàn rồi, mệnh ta cũng đã rõ!

Từ đó trong lòng thảng thốt không yên, chẳng mấy chốc thành bệnh, nằm dài trên giường không dậy dược nữa. Thái y viện bắt mạch xem bệnh, cắt thuốc dâng lên. Mai Phi không chịu uống, mà rằng:

- Mệnh số sắp hết, há thuốc hay có thể vãn hồi được sao!

Thượng hoàng thân ngự thăm, ngồi trên giường, vuốt ve khắp người, cầm tay mà an ủi:

- Khanh bỗng nhiên mắc bệnh, có gầy thêm ít nhiều, chỉ cần chịu khó uống thuốc là lại lành bệnh mà thôi!

Mai Phi khóc mà thưa:

- Thần thiếp từ ngày lui về cung Thượng Dương, tự coi mình là kẻ bỏ đi rồi, sau đó gặp bao hoạn nạn, những tưởng tính mệnh chẳng còn. Không ngờ vẫn còn được sống để hầu hạ đấng chí tôn, thật đã là vạn phần may mắn. Nay phúc duyên đã hết, tiên sư đã nói: cùng hết mệnh với hoa mai. Thế thì rõ ràng đã đến kỳ rồi. Sau khi thiếp chết, cành mai kia có giữ lại nhân gian, cũng chẳng trồng được. Đem mà chôn theo, sợ không kính cẩn, tốt hơn cả hãy đem ra trước Phật đường mà đốt.

Thượng hoàng vẫn phán:

- Khanh nói những chuyện ấy làm gì vội!

Mai Phi lại thưa:

- Người ta ai mà chẳng chết, đến nay thiếp qua đời, có thể gọi là toàn mệnh rồi vậy. Thật quả còn hơn nhiều người lắm. Huống chi thiếp mất nhưng tinh thần chẳng hề hủ nát, lại nhận vào miền tiên cảnh, nhất định chẳng thể khổ sở. Chỉ hận rằng, ơn thánh đế dồi dào, dẫu có nghĩ tới báo đáp cũng chẳng xong, thật không lúc nào khuây!

Thượng hoàng tiếp:

- Khanh trong sạch thông tuệ đến thế, đúng là bậc thần tiên rồi. Nhưng do đâu mà khanh biết rằng mai sau khanh sẽ được về tiên cảnh?

Mai Phi đáp:

- Đêm hôm trước thiếp nằm mơ, lại gặp tiên cô Vi Thị, ngay trong mây trời, tay đỡ một con chim anh vũ trắng, tay kia chỉ vào chim mà nói với thiếp rằng: "Con chim này nhân túc duyên thiện quả mà được từ trong cung vua về Phật. Nay lại được từ nước Phật mà về miền tiên cảnh. Tại sao mà người lại không được như chim sao. Quý Phi hai kiếp vừa qua thác sinh vào cung vua, phải luôn nhớ vào nguồn gốc của mình, đừng luyến tiếc gì nữa cõi trần, cung Nhụy Châu vốn là quê quán của Quý Phi, sao không sớm về?". Cứ như những lời này, thì may ra không đến nỗi rơi xuống hố xấu xa vậy!

Thượng hoàng rơi nước mắt:

- Khanh bỏ cả trẫm về tiên cảnh như thế, thì những năm cuối đời này, trẫm còn sống với ai?

Mai Phi cúi lạy trên gối:

- Nguyện thượng hoàng "thánh thọ vô cương", xin đừng vì chuyện ra đi của thần thiếp mà làm đau lòng!

Nói xong ngồi ngay dậy, giơ hai tay vái lên không trung, mà kính cẩn:

- Tiên cô tới rồi! Thiếp xin đi đây?

Rồi nhắm mắt qua đời.

Chính là:

Dẫu xưa thác dưới gốc mai

Mã Ngôi nỗi ấy thương ai vật vờ

Mừng nay người rụng theo hoa

Nhụy Châu cung, gặp Phật bà, Tiên Cô.

Thượng hoàng không ngờ Mai Phi ốm thế mà đã qua đời, ôm mặt khóc lớn. Cao Lực Sĩ ra công khuyên giải. Thượng hoàng phán:

- Mai Phi cùng với trẫm, chẳng khác nào duyên nợ mấy kiếp với nhau rồi, nay bỏ trẫm mà đi như thế này, không đau xót làm sao được!

Liền lệnh cho lấy lễ Quý Phi mà khâm liệm, mai táng cho Giang Thái Tần. Lại sai trồng rất nhiều hoa mai xung quanh mộ, ban cho cỗ tế, tự làm một văn tế, đại lược như sau:

Dung nhan nàng chừ, như hoa xinh tươi

Đức độ nàng chừ, như ngọc sáng ngời

Ta không quên nàng, gửi tình riêng vào vật báu

Nàng chẳng phụ ta, trao mạng đẹp vào cõi không

Như ngọc trong lóng lánh

Như đá cứng trung trinh

Nàng bỏ ta mà đi chừ, như cánh mai phơi phới

Ta một mình ở lại chừ, như hồn bướm vật vờ.

Thượng hoàng nhớ lời dặn dò của Mai Phi, liền sai đem cành tiên mai, lấy đỉnh hóa trước Phật đường. Nói ra thì thật kỳ quái khó tin, cành mai vừa đưa vào lò, mùi hương bỗng tỏa ngát, hàng vạn đốm lửa nhấp nháy, bay thẳng lên không trung, chẳng khác gì đốt một đống lửa lớn. Những đốm lửa lấp lánh đó, đều mang hình hoa mai, bay cao rồi biến mất vào chín từng mây.

Chính là:

Giống tiên không ở lại trần

Hoa mai lại trở về sân Diêu Trì. (1)

Sau này, có người nhân chuyện cành mai khô này bỏ vào thiêu trong lò, biến thành hàng vạn đóa hoa mai bằng lửa, có làm một bài văn để làm vui, lời lẽ rất trau chuốt, xin phụ chép ra đây luôn:

Trời lạnh, bình đồng, nụ nở chưa(2)

Cành nam chầm chậm, gió xuân chờ

Hoa lê lối ấy, đừng vào mộng (3)

Một tấm lòng, thành một nắm tro

Nhớ hoa xưa:

Ẩn kín trong lò hóa của Phật tổ

Hiện rõ trước linh vị của Tiên Mai

Vốn quê ở núi La Phù, (4)

Về trồng ở miền Dứu Lĩnh (5)

Hình khô như que củi, gồ ghề này núi kia đầm (6)

Da mượt hơn mỡ đông, óng ánh ấy sương hay tuyết

Giữa đông giá rét, đứng trong tranh tam hữu hiên ngang (7)

Xuân mới ôn hòa, chiếm đầu nhóm bách hoa chững chạc (8)

Lều tranh gác ngọc, không chút bận lòng

Điều vạc nêm canh, còn khi kết quả (9)

Ai ngờ đạo trưởng chậm bước, vội lìa gốc bẻ mà cất bước.(10)

Cũng do mưa gió dập vùi, nên đành trở lại nước Hoa Tư (11)

Xương lò than gọi hoài không tỉnh

Hòn cắt giấy hú mãi chẳng về

Màn mỏng đêm dài, lẩn quẩn tìm hương trong giấc mộng

Rèm che trăng sáng, đu đưa giỡn bóng trên đầu cành

Dạ đá lòng gang, Tống Quảng Bình tĩnh kia khó dứt (12)

Tô xanh bôi đỏ, Hoa Quang Lão gắng vẽ chẳng nên (13)

Buồn sao tơi tả một cành xuân

Mừng gặp Nát Bàn ba kiếp lửa (14)

Hỡi người quân tử quý hoa khắp cõi thấp cao

Tìm kiêm hồn thơm nay ở nơi nao! (15)

Ôi! Thôi thôi! Ví không thơ thẩn mà theo gió đông

Hẳn đã dập dờn trên dòng trăng lạnh.

1 Diêu Trì: Ao bằng ngọc. Chỗ ở của bà tiên Tây Vương Mẫu.

2 Theo Trương Công Phủ: muốn thưởng thức hoa mai cho trang trọng, phải có đủ hai mươi sáu điều kiện: phải có bình bằng đồng mà cắm, phải có mưa phùn lạnh, phải có trăng sáng, phải có người đẹp, trời phải có mây mỏng nhẹ che...

3 Thơ Vương Kiến, "Lê hoa mộng" có câu: "Lạc, hạc, mạc mạc lộ bất phân; Mộng trung hoãn tác, lê hoa vân" (Mịt mù, mơ màng, đường không rõ ràng; Trong giấc mộng, bảo rằng là mây của hoa lê).

4 Sách "Long thành lục": Đời Khai Hoàng nhà Tùy, Triệu Sử Hùng đi chơi núi La Phù, đến một quán rượu, có người con gái ra vời, lại thêm một tiểu đồng múa hát. Sử Hùng say ngủ mãi, sáng mai tỉnh dậy thì thấy mình ngủ dưới một gốc mai.

5 Sách Quyện du lục: Một phụ nữ trồng nhiều cây hoa mai ở Dứu Lĩnh, cùng chồng quay về thăm, mai đã thành rừng, do đó núi này cũng có tên là Mai Lĩnh.

6 các nhà thơ xưa thường tả mai gầy như dáng người phụ nữ: "Mai cốt cách, tuyết tinh thần", truyện Kiều. Cổ thi: "Nhân gian na hữu thử cù tiên" (Trên trần sao lại có cô tiên xù xì thế), chỉ Vỏ Cây mai xù xì, nham nhở.

7 Truyền thống vẽ tranh Trung Quốc: ba cây chịu được lạnh mùa đông: mai, tùng, trúc.

8 Cổ thi: "Thả hướng bách hoa đầu thượng khai" (Hãy cứ đi trước trăm loài hoa mà nở hoa trước đã).

9 "Kinh Thư", thiên "Duyệt mệnh", vua Cao Tông nhà An, nói với tể tướng Phó Duyệt. Về việc nấu canh, nêm canh thì nhà ngươi sẽ là muối, là mơ.

10 Sách "Quần phương phả". Hoa Quan Trưởng lão vẽ mai. Hoàng Lỗ Trực xem bức tranh rồi khen: "Như buổi sáng đầu xuân, trời vẫn còn rét, mà đi men theo bờ rào cạnh dòng suối nhỏ dưới chân núi Cô vậy thay".

11 Thần thoại Trung Quốc kể: Bà Hoa Tư dẫm lên một vết chân người rất to, có mang mười hai năm, đẻ ra ông Phục Hy. Hoa Tư cũng là tên nước cổ đại dân chúng sống rất yên hàn, hòa mục. Ý hai vế này thực ra không rõ lắm. Xin dẫn nguyên văn như sau: "Bất liệu đạo nhân kiên vãn, trục ly hữu sắc chi căn; Phù hà băng thị tương lăng, để phản Hoa Tư chi quốc".

12 Sách "cổ kim hợp bích": Tống Quảng Bình làm tể tướng, dáng dấp cứng cỏi. Mọi người cho ông là dạ đá gan sắt, chẳng có tình cảm gì. Nhưng khi đọc bài "Phú hoa mai" của ông thì lời văn đẹp đẽ, mới lạ, không giống với vẻ người.

13 Xem chú thích trước, nhưng ý lại nói, dẫu có tài như Hoa Quan Trường lão cũng khó mà vẽ được cái thần của hoa mai.

14 Nguyên văn: "Xà bì tam muội hỏa". Xà bì, tiếng Phạn, theo kinh Phật, nghĩa là đốt cháy.

15 Lâm Bô, người đất Tiền Đường; tự Quán Phúc, ưa thanh đạm, không màng danh lợi, ẩn tại Cô Sơn, hai mươi năm liền không bước chân tới thị thành, thơ hay, chữ tốt, vẽ đẹp, không lấy vợ, trồng nhiều mai, nuôi hạc. Người đời nói về Lâm Bô: "Mai là vợ, hạc là con" . Nay ở Tây Hồ còn mộ, trên mộ trồng mai, cạnh là mộ của hạc. (Điển cố văn học).

Lại kể, Túc Tông nghe tin Mai Phi đã mất, hoàng thượng rất buồn rầu, liền tự thân đến an ủi, kính cẩn làm lễ tế trước linh vị Mai Phi. Các phi tần, cung nga đều mang lễ tới viếng. Chỉ có Trương Hoàng hậu, thác bệnh không chịu đến. Thượng hoàng bực bội, không bằng lòng, nói với Cao Lực Sĩ:

- Hoàng hậu ngạo ngược đến thế thì thôi!

Lực Sĩ khẽ tâu:

- Nội giám Lý Phụ Quốc cùng về hùa với hoàng hậu, phàm những việc tai quái của hoàng hậu, đều là do Phụ Quốc dẫn dắt cả thôi.

Thượng hoàng ngạc nhiên:

- Trẫm từ lâu đã nghe thằng hèn hạ này chuyên quyền tai quái lắm. Đợi lúc nào đức kim thượng lại đây, trẫm phải nói cho rõ mới được.

Lực Sĩ thưa:

- Hoàng hậu áp chế đức vua đã lâu, Phụ Quốc lại nắm quyền bính trong tay, thế lực như vậy chẳng thể lung lay đâu, đến đức vua chẳng làm gì được. Thượng hoàng có nói cũng vô ích, chi bằng hãy gác ngoài tai đừng bàn luận gì lại hơn.

Thượng hoàng trầm ngâm không đáp.

Chính là:

Vợ ngược, đứa ớ ác

Chả thuốc nào chữa được

Dù khéo nói bao nhiêu

Chỉ càng thêm ác ngược.

Không biết sự thể sẽ ra sao, xem thêm hồi nữa sẽ rõ.

Hồi Thứ Một Trăm

Đưa sang cung Nam Nội, ly gián tình phụ tử,

Sai phù thủy Hồng Đô, kết thúc truyện Tùy Đường.

Từ rằng:

Hoạn quan kết bè cùng hoàng hậu

Khiến triều Đường điên đảo đắng cay

Vua tôi họ Lý đoạ đày

Cha con xa cách, tớ thầy vất vơ

Tình thăm viếng sớm trưa lỗi đạo

Lời gữi thưa thô bạo lăng loàn

Tuổi già lòng nhũng héo hon

Cảnh xưa nhớ lại thở than một mình

Tìm hồn phách u minh ba cõi

Cấp tiên ông đặng hỏi nguồn cơn

Phải rằng báo oán báo ơn...

Theo điệu "Dạ du cung"

Trăm điều đức hạnh, đứng đầu là hiếu. Nhưng hiếu của đấng thiên tử so với đức hiếu của người thường không giống nhau. Mạnh Tử nói: "Cái lớn nhất của đức hiếu, không gì bằng là tôn kính, tôn kính hơn cả đối với bậc thiên tử không gì lớn bằng là lấy thiên hạ mà phụng dưỡng, đấy mới là tôn kính, mới là hiếu vậy!" Ngang ngược ai cho bằng Cổ Tẩu, mà vua Thuấn vẫn thờ hết đạo làm con, vì vậy Khổng Tử khen là đại hiếu. Khiến cho hậu thế, khắp các bậc vua chúa, đế vương, nói đến chuyện cha con, không ai dám nghi ngờ. Dễ sinh sự hiềm nghi hơn cả là do bản thân sự việc: người làm trên thì không nhân từ, kẻ làm con lại không hiếu thuận. Mà việc sau thì phần lớn bởi vợ con, mang sự đố kỵ của kẻ tiểu nhân. Đúng như Túc Tông thờ phụng Đường Minh Hoàng nguyên lúc đầu rất hiếu thuận cũng như Minh Hoàng cư xử với Túc Tông rất là từ tâm, nhưng chẳng qua gặp phải người đàn bà kiêu nghịch, bọn hoạn quan lộng quyền, để đến nỗi kẻ làm con trở thành khiếm khuyết trong chữ hiếu. Hoặc có người nói: Thượng hoàng những năm còn ở ngôi, nghe theo lời bọn gian nịnh, một ngày giết ba người con, lại lấy người thiếp yêu của Thọ Vương là Dương Ngọc Hoàn làm quý phi, thì quả hại đến luân lý, nên về sau chịu cảnh con dâu ngỗ ngược, hoạn quan lộng hành, là quả báo của đạo trời, nên mới đến nỗi thế. Thượng hoàng với Dương Quý Phi, vẫn có tiền duyên túc trái, kiếp này mới gặp gỡ. Cũng như các người khác vậy thôi, hoặc là được yêu thương, hoặc bị chém giết, đều có nhân có quả, nào phải chuyện bất ngờ. Đúng như lời các vị thần tiên, chép đầy trong các sách dật sử, nay xin chép ra ở cuốn sách diễn nghĩa này, để hoàn chỉnh câu chuyện về hai đời thiên tử: Tùy Dượng đế cùng Đường Minh Hoàng, cho mọi người đều thấy rõ lẽ "tiền nhân hậu quả" vậy.

***

Chuyện kể từ khi Mai Phi qua đời, thượng hoàng thêm hiu quạnh. Trương Hoàng hậu ngày càng tai quái, chẳng thèm giữ lễ. Thượng hoàng nghe chuyện hoạn quan Lý Phụ Quốc, nắm hết quyền binh trong ngoài, lòng càng thêm xót xa, muốn bàn bạc với Túc Tông, để có cách trừng trị, dè chừng. Cao Lực Sĩ nhiều lần khuyên răn cho nên thượng hoàng vẫn còn ẩn nhẫn chưa nói.

Một hôm, Túc Tông tới vấn an, thượng hoàng ban yến, trong lúc ăn uống, nói đến việc triều chính. Thượng hoàng hỏi:

- Xưa nay việc trị nước, dẹp yên thiên hạ, trước hết là phải giữ gìn được trong nhà. Nay nghe bọn hoạn quan Lý Phụ Quốc tác oai trong cưng như thế, tình thế càng ngày càng nguy. Kim thượng có biết hay không?

Túc Tông nghe xong hoảng sợ đứng lên thưa:

- Để rồi phải tìm ngay cách tra xét, xử trị.

Thượng hoàng tiếp:

- Lúc này mà không ngăn ngừa ngay, sợ mai kia có muốn thay đổi lại cũng không còn kịp nữa đâu!

Túc Tông vâng vâng dạ dạ lui ra. Nguyên là Trương Hoàng hậu dựa vào việc được sủng ái, ngày càng ngỗ nghịch. Túc Tông từ chỗ quá yêu đến chỗ quá sợ, chẳng bao giờ dám dòm ngó thêm chuyện thanh sắc. Lý Phụ Quốc lâu nay nắm mọi binh quyền trong tay, vào hùa với hoàng hậu, cả hai dựa thế nhau mà càng ngang ngược. Túc Tông trong lòng ghét dẫu muốn trừ ngay cũng không làm được. Vì vậy tuy có lời của thượng hoàng, nhưng sợ hãi không dám khởi sự.

Chính là:

Nực cười thay thiên tử sơ vợ

Hoàng hậu dựa thêm hoạn quan

Trong ngoài một bọn tiểu nhân

Chữ tình chữ lý, sao phân tỏ tường.

Túc Tông cứ nhịn nhục mãi không dám ra tay, không ngờ những lời vừa rồi của thượng hoàng, bọn nội thị mới truyền tai nhau, đến ngay Lý Phụ Quốc. Phụ Quốc liền tâu riêng với Trương Hoàng hậu, cả hai đều lấy làm căm tức, bàn với nhau:

- Thượng hoàng ngồi sâu ở trong cung cấm, từ lâu đã không tham dự triều chính, nay bỗng buông ra những lời phiền toái như thế này, tất là do Cao Lực Sĩ nói ra nói vào, nên mới có những lời này ở thượng hoàng được. Lực Sĩ hiện nay là tai mắt của thượng hoàng, phải tìm cách dẹp ngay đi. Ngoài ra càng cần phải làm cho quan gia không thường xuyên qua lại chỗ thượng hoàng. Tốt nhất là nên đưa thượng hoàng chuyển ra ở Tây Nội.

Từ đó mỗi lần Túc Tông định ra thăm thượng hoàng, Trương Hoàng hậu lại tìm đủ mọi cách nhỏ to ngăn trở. Thượng hoàng lâu nay ở cung Hưng Khánh thuộc Nam Nội, rất gần với các ngõ phố của dân chúng bên ngoài.

Phía góc tây bắc, có một tòa lầu, tên gọi Trường Khánh. Trèo lên lầu có thể nhìn thấy phương thôn. Thượng hoàng thường lên lầu này, người đi đường thường vẫn nhìn lên mà bái vọng. Lúc hứng lên, hoàng thượng còn sai Cao Lực Sĩ lấy những thức ăn thừa của ngự thiện, ban cho các ông già bà lão trong phố, ai nấy đều hân hoan, tung hô: "Vạn tuế! Vạn tuế!" Lý Phụ Quốc bèn dùng lời ngon ngọt tâu riêng với Túc Tông:

- Thượng hoàng ở Hưng Khánh cung lại có Cao Lực Sĩ ngày đêm đi lại với người ngoài phố phường, chỉ sợ có điều không lợi cho bệ hạ. Hưng Khánh cung quá gần khu dân cư, vốn không phải nơi ở thích hợp với đấng chí tôn. Vùng Tây Nội thâm nghiêm, nên đưa thượng hoàng về đấy, để sau nữa dứt ra được bọn tiểu nhân, thì chẳng còn điều gì đáng lo ngại nữa.

Túc Tông phán:

- Thượng hoàng thích ở cung Hưng Khánh, từ ngày ở Thục về đến nay đã ở ngay nơi này rồi. Không có cớ gì mà lại thay đổi thế, sợ lại trái ý thượng hoàng không nên vậy.

Phụ Quốc thấy Túc Tông không nghe theo lời mình, lại mật tâu với Trương Hoàng hậu, hoàng hậu lại nhỏ to với Túc Tông. Túc Tông vẫn sợ kinh động đến thượng hoàng, vẫn không chịu nghe theo, Trương Hoàng hậu giận dữ:

- Thiếp chỉ vì bệ hạ mà tính liệu, nay không nghe theo lời hay lẽ phải, mai kia đừng có mà hối hận.

Nói xong phất áo đứng dậy mà đi. Túc Tông lặng yên không nói, nhưng trong lòng thì tức tối, lại gặp ngay một cơn gió lạnh, người thấy ớn rét, liền tạm bãi triều, về cung tĩnh dưỡng.

Phụ Quốc nhân cơ hội, bàn riêng với Trương Hoàng hậu, lệnh cho lũ nội thị tâm phúc cùng đội vũ lâm quân, xe ngựa chỉnh tề, đến Hưng Khánh cung đón thượng hoàng, chuyển sang Tây Nội, ngay ngày hôm đó. Thượng hoàng ngạc nhiên không rõ nguồn cơn, nội thị tâu rằng Hưng Khánh cung gần dân chúng, sợ làm kinh động đến sự yên tĩnh của thượng hoàng, nên riêng mời thượng hoàng về Tây Nội. Đức kim thượng hiện đang ở Tây Nội, chờ đón ngự giá thượng hoàng.

Thượng hoàng trong lòng nghi ngại, dùng dằng không chịu đi, chỉ sợ có chuyện gì không hay chăng? Cao Lực Sĩ tâu:

- Chúa thượng đã có chỉ đến đón, thì thượng hoàng xin cứ ngự giá, chờ gặp ngay chúa thượng bàn bạc, hoặc chuyển hoặc không, kẻ hầu hạ này xin được đi trước vậy.

Thượng hoàng không còn biết nên thế nào, đành vội vàng lên kiệu. Lực Sĩ lệnh cho quân lính đi trước dẫn đường, nội thị theo xung quanh, tất cả lên đường.

Sắp tới Tây Nội, chỉ thấy Phụ Quốc mặc võ phục, đeo kiếm, dẫn mấy trăm quân sĩ, vác thương, cầm kiếm, xếp hàng hai bên đường.

Thượng hoàng ngồi trên kiệu, trông thấy kinh hoàng, Cao Lực Sĩ bỗng nổi cơn thịnh nộ, lên tiếng quát lớn:

- Thượng hoàng ngự giá Tây Nội, Lý Phụ Quốc mang giáp trụ, đeo khí giới, dẫn quân sĩ tới là ý ra sao?

Phụ Quốc nghe quát, sợ hãi, vội vàng quỳ xuống thưa:

- Kẻ hèn hạ này vâng lệnh chúa thượng tới đón ngự giá hoàng thượng.

Lực Sĩ vẫn lớn tiếng:

- Nếu đã tới để hộ giá, thì phải bỏ kiếm ra mà đi theo kiệu rồng!

Phụ Quốc dành phải cởi kiếm, cùng theo hộ giá với Lực Sĩ. Lực Sĩ liền truyền cho quân sĩ quay ra, không phải theo ngự giá nữa.

Vào đến Tây Nội, ngự thẳng vào điện Cam Lộ, thượng hoàng xuống kiệu, lên sập vàng ngồi xong xuôi, cất tiếng hỏi:

- Đức kim thượng đâu?

Phụ Quốc tâu:

- Chúa thượng vừa rồi định tới đây đón ngư giá, nhưng gặp phải gió lạnh, bỗng phát rét, chưa thể đến ngay, lệnh cho kẻ hèn này tâu lại với thượng hoàng. Đợi lúc nào đỡ bệnh, sẽ xin tới triều kiến thượng hoàng.

Thượng hoàng phán:

- Đức kim thượng đã không khỏe, thì chẳng cần đến bây giờ. Đợi mai kia khỏi hãy đến cũng được!

Phụ Quốc vâng mệnh, cúi lạy rồi ra về. Thượng hoàng than thở mãi. rồi nói với Lực Sĩ:

- Hôm nay không có lòng can đảm của Cao tướng quân, trẫm cơ hồ không thoát nạn này vậy!

Lực Sĩ cúi lạy thưa:

- Chỉ sợ thượng hoàng sợ hãi, nên thần phải lên tiếng vậy. Thượng hoàng đã từng năm mươi năm làm hoàng đế của thời thái bình, kẻ nào dám bất kính?

Thượng hoàng lắc đầu:

- Mỗi người mỗi khác nhau!

Lực Sĩ thưa:

- Việc chuyển sang Tây Nội này, chỉ sợ chính là Phụ Quốc đầu têu rồi hoàng hậu chủ trương, chưa hẳn đã là ý của chúa thượng!

Thượng hoàng phán:

- Hưng Khánh cung chính là cũng do trẫm xây nên, được ở đó mà vui tuổi già, thì quả là hợp ý hơn. Chẳng ngờ chuyển sang bên này, một mình lủi thủi thân già, vẻ như khó yên ổn. Thật đáng than thở vậy?

Thượng hoàng nói xong, buồn bã như muốn khóc. Người đời sau có thơ than rằng:

Oan thay! Một lúc giết ba con

Cướp vợ Thọ Vương, nghĩa mất còn?

Gặp nỗi con dâu ngang ngược lắm

Đến bao giờ, mới biết ăn năn?

Lý Phụ Quốc nhân lúc Túc Tông bị bệnh, thác chỉ vua đưa thượng hoàng chuyển sang Tây Nội, chỉ sợ Túc Tông sẽ trách phạt, liền tìm cách để Trương Hoàng hậu tự tâu việc này lên Túc Tông.

Nhà vua giật mình hỏi:

- Có làm cho thượng hoàng hoảng sợ không?

Trương Hoàng hậu liền đáp:

- Thái thượng bằng lòng ở cung Cam Lộ, không nói một lời nào cả.

Túc Tông trầm ngâm, Phụ Quốc lại dẫn văn vũ tướng quan tới trước ngự tiền quỳ lạy chịu tội. Túc Tông thầm nghĩ: "Sự đã đến thế này, truy cứu chẳng ích gì?". Lại có hoàng hậu, không tiện làm to chuyện, vì vậy cuối cùng Túc Tông lại tìm lời an ủi lũ Phụ Quốc đang quỳ dưới thềm:

- Các ngươi làm việc này, nguyên muốn tránh những chuyện đáng tiếc, vốn vì xã tắc mà tính liệu. Nay thái thượng đã yên lòng, các ngươi chẳng việc gì mà thảng thốt nhiều!

Bọn Phụ Quốc dập đầu dưới điện, tung hô:

- Vạn tuế! Vạn tuế!

Người sau có câu thơ than:

Đứa ở lăng loàn ăn hiếp cha

Con không trừng trị, chỉ ậm à

Hay vì cha giết con hồi trước

Nên bây giờ cha con sợ ma?

Thực ra, lúc này Túc Tông vẫn chưa khỏe hẳn, nên vẫn chưa đến Tây Nội thăm thượng hoàng, nay muốn đi ngay, nhưng lại bị Trương Hoàng hậu tìm cách ngăn trở. Một hôm, mới triệu ẩn sĩ Lý Đường vào cung yết kiến. Túc Tông đang vui đùa với công chúa nhỏ tuổi nhân đó mới nói với Lý Đường:

- Trẫm yêu con bé này lắm! Khanh đừng lấy làm lạ!

Lý Đường thưa:

- Thần nghĩ rằng thái thượng hoàng yêu bệ hạ, cũng chẳng khác gì bệ hạ yêu công chúa vậy!

Túc Tông liền đứng ngay dậy, lên xe rồng tới Tây Nội, thăm thượng hoàng. Nghi lễ xong xuôi, thượng hoàng ban yến, vẫn chưa nói gì, duy thỉnh thoảng lại thở dài. Túc Tông trong lòng không yên, lần lữa một lúc nữa rồi xin quay ra. Trở về cung, Trương Hoàng hậu ra đón, cũng chỉ mấy câu lạnh nhạt. Túc Tông càng thêm buồn bã, bệnh cũ lại phát.

Thượng hoàng nghe tin Túc Tông không khỏe, sai Cao Lực Sĩ đến tận long sàng thăm hỏi. Túc Tông nghe tâu, lập tức gọi vào. Nào ngờ lúc này Trương Hoàng hậu, Lý Phụ Quốc đang căm giận Lực Sĩ, nên cùng nhau bàn kế hãm hại. Mật sai quan giữ cửa ngăn lại, không cho vào. Lại sai tiểu nội thị truyền chỉ của Túc Tông, cho Lực Sĩ quay về. Đợi cho Lực Sĩ bỏ đi rồi, lại truyền chỉ gọi lại, Lực Sĩ vội quay lại trước cửa cung. Phụ Quốc đã đứng sẵn đấy quát lớn:

- Cao Lực Sĩ vâng mệnh đến vấn an chúa thượng, sao không chờ để vào, chưa gì bỏ về. Quả là đại bất kính, phải trị tội mới xong!

Trương Hoàng hậu liền ép Túc Tông xuống chiếu, đày Cao Lực Sĩ ra Vu Châu, không được quay về Tây Nội nữa. Một mặt sai thái giám tâu cho thượng hoàng rõ mọi chuyện, một mặt truyền pháp ty ngay ngày hôm sau áp giải Lực Sĩ đem an trí ở Vu Châu. Khá thương thay cho Lực Sĩ suốt đời được ân sủng, tự do ra vào cung cấm, quan cao tước lớn, vinh hiển một đời, ai ngờ nay là Trương Hoàng hậu cùng Lý Phụ Quốc đuổi ra.

Lực Sĩ đến Vu Châu, sống trong bốn bức tường cô độc, lại luôn luôn sợ hãi chẳng biết lúc nào tai họa sẽ đến tiếp, cho nên ngày đêm thắc thỏm. Cho đến ngày Đường Minh Hoàng qua đời, biết được tin dữ này, Lực Sĩ nhớ tới ơn xưa cao dày, ngày đêm than khóc, đến nổi thổ ra máu mà chết. Người đời sau có thơ than:

Lũ hoạn quan gian ác kéo bè

Riêng Cao Lực Sĩ chẳng nên chê

Dẫu không bằng được Trương Thừa Nghiệp(1)

Trung cẩn vẫn hơn hẳn bọn kia.

1 Trương Thừa Nghiệp cũng là hoạn quan cuối đời Đường. Khi Lý Tôn Húc cướp ngôi, Trương Thừa Nghiệp can mãi không được, buồn bực, khổ sở, ốm mà chết. (Từ Hải).

Nhưng đó là chuyện sau này, hãy tiếp chuyện Phụ Quốc chuyển Đường Minh Hoàng sang Tây Nội, làm thượng hoàng càng không yên lòng, nay lại nghe Cao Lực Sĩ phải tội đày di xa, không dược hầu hạ bên mình như xưa, càng thảng thốt. Từ đó, tả hữu chỉ còn lại toàn người mới, ít còn ai là quen thuộc cũ. Bọn cung nga chỉ còn Tạ A Di, cùng với nhạc công cũ Trương Dã Hồ, Hạ Hoài Trí, Lý Mô, là thường lui tới hầu hạ.

Một hôm Tạ A Di dâng lên một viên hồng ngọc mà tâu rằng:

- Viên hồng ngọc này chính là ngày xưa Dương Quý Phi ban cho tiện tỳ này.

Thượng hoàng cầm lấy xem rồi phán:

- Thuở trước, Thái Tông hoàng đế của trẫm phá Cao Ly, thu được hai vật báu: một là đai vàng tía, hai là viên hồng ngọc này. Trẫm mới đem đai vàng tía đó ban cho Kỳ Vương, còn viên hồng ngọc ban cho Quý Phi, chính là viên ngọc này đây. Về sau nước Cao Ly nói rằng, bởi trong nước mất hai vật báu, nên mưa gió thất thường, người vật đều điêu tàn, khô héo, vậy nên xin lại để lấy làm của quý giữ nước nhà. Trẫm bèn trả lại đai vàng tía, chỉ còn viên ngọc vẫn giữ lại. Trải qua cơn loạn lạc vừa rồi, nghĩ rằng người cùng vật đều mất, không ngờ khanh vẫn giữ được. Nay trẫm trông thấy, lại càng đau xót vậy thay!

Nói xong lại khóc!

Một hôm, Hạ Hoài Trí vào thưa:

- Thần nhớ trước đây, đang giữa mùa hè oi ả, thượng hoàng cùng với Kỳ Vương ngồi ở thủy tạ đánh cờ vậy, sai thần gảy đàn tỳ bà ở bên. Đàn này trục làm bằng đá, dây đàn làm bằng gân gà vùng Hồ, phải gảy bằng phím sắt. Quý Phi Nương nương tay ôm con mèo nhỏ trắng như tuyết của nước Khang Quốc tiến cống, đứng ở phía sau thánh hoàng, tai nghe tỳ bà, mắt trông vào bàn cờ, thấy thượng hoàng còn vài nước nữa là thua, Quý Phi liền thả ngay con mèo vào giữa bàn cờ, các con cờ tóe tung cả. Thượng hoàng thích chí lắm. Lúc này thần vẫn chưa gảy xong một khúc, bỗng luồng gió mát thổi bảy dải lụa của Quý Phi, quấn vào khăn đội đầu của thần, làm rơi cả xuống nền điện. Chiều hôm ấy trở về nhà, thần vẫn thấy khắp người tỏa hương thơm, đúng là hương ở túi thơm mà ra. Cho mãi tới nay, hương thơm vẫn chưa hết, thật là kỳ dị. Nay thần xin đem cái khăn mà thần vẫn giữ gìn trân trọng dâng lên thánh thượng xem.

Thượng hoàng đáp:

- Loại hương đó, gọi là "Thụy long não hương", do nước ngoài tiến cống. Trẫm dã từng lấy một ít, giấu vào trong những đóa hoa sen bằng ngọc ở phòng tắm nóng, cứ mỗi lần tắm, mùi hương vẫn rất thơm như mới lấy ra vậy. Huống chi khăn đội đầu của khanh, vốn làm bằng tơ lụa là thứ mềm ấm, thì giữ được càng lâu cũng chẳng có gì là lạ vậy!

Nhân đó lại than thở:

- Hương thơm còn đó! Người đã đi đâu!

Rồi lại càng ảo não rầu rĩ luôn luôn, miệng lẩm nhẩm ngâm bài thơ sau:

Đẽo gỗ chằng dây thành lão già

Cũng thì tóc bạc cũng da gà

Múa may hết tích rồi im phắc

Một đời thiên tử cũng thế a?

Lại có một thầy phù thủy họ Dương tên Thông U, tự xưng là Hồng Đô đạo sĩ, đạo pháp rất mầu nhiệm, từ Thục vân du vào Trường An. Nghe nói thượng hoàng thương nhớ Quý Phi, tự xưng có thuật kỳ của Lý Thiếu Quân, có thể gặp gỡ hồn người đã chết. Lý Mô, Trương Dã Hồ đều nhận rằng có biết người này từ xưa, mới tiến cử vôi thượng hoàng, thượng hoàng bèn triệu vào Tây Nội, đòi Hồng Đô làm pháp thuật, để gọi được hồn Quý Phi cùng Mai Phi về gặp gỡ.

Hồng Đô liền lập đàn ngay trong cung, đốt bùa, phát hịch, múa may, khấn vái trước đàn làm hết mọi phép thuật rồi, vẫn chẳng thấy hồn phách hiện về đâu cả. Thượng hoàng không vừa ý, phàn nàn rằng:

- Dạo trước ở Tây Thục, Trương Sơn Nhân tìm hồn phách của Mai Phi không ra, do thực lúc ấy Mai Phi nào đã chết. Nay quả cả hai đều qua đời, hồn thơm vẫn tìm không ra. Phải chăng duyên nợ với trẫm thế là hết rồi sao?

Hồng Đô tâu rằng:

- Hai vị quý phi tất là không phải người thường, mà là tiên nữ giáng sinh, nơi ở của các vị tiên nhân rất xa xôi, không dễ tìm. Muốn gặp được, thần phải thỉnh được các vị thần thông, đi mây về gió, tới tận cùng trời viễn điểu tìm cho ra tông tích, sẽ xin về tâu lại.

Hồng Đô lại phủ phục khấn vái trước đài. Vận xuất thần khí, cưỡi mây đạp gió, đi vào chín tầng tiêu hán, thấy trong đám mây đẹp phía trước, có một con chim anh vũ màu trắng, cánh vỗ dập dờn, cất tiếng người mà rằng:

- Kẻ đi tìm người đến đây rồi!

Hồng Đô thầm nghĩ: "Con chim này biết cả ý người, nhất định là chim thần tiên rồi!". Bèn cứ theo sau chim mà bay. Chẳng mấy chốc trước mắt, thấp thoáng một tòa cung điện, chim anh vũ bay vào trong tòa cung điện đó biến mất. Nhìn rõ, thì thấy:

Đài đao như vẽ

Gác ngọc như bay

Cột cao ngút mây che, sửng sốt hương thơm ngào ngạt

Rèm trong ngời sắc sáng, ngập ngừng khí tốt bời bời

Cao cao chọc mấy tầng trời

Thênh thênh chẳng bến, chơi vơi chẳng bờ

Phải chăng hải thị thẩn lâu(1)

Dẫu rằng Bồng Đảo, Doanh Châu nào bằng.

1 Theo "Tam Tề lược ký": Khi con thẩn, một loài rồng biển, thở hơi thì trên mặt đại dương kết thành lâu đài gọi là hải thị, tức là thành thị trên mặt biển.

Hồng Đô đạo sĩ tới trước cửa cung, thấy có một tấm biển lớn bằng ngọc, đề chữ vàng, nổi rõ ba chữ lớn "Nhụy Châu cung". Hồng Đô không dám tự tiện vào, đang lúc đắn đo, thấy hai tiên nữ từ bên trong đi ra. Một tiên nữ y phục đủ năm màu. Một tiên nữ mặc áo trắng, tay cầm phất trần. Tiên nữ mặc ngũ sắc, đưa ngọc như ý chỉ Hồng Đô mà hỏi:

- Linh hồn ở dưới trần thế, lên đây có việc gì?

Hồng Đô cúi đầu thưa:

- Bần đạo ở hạ giới, vâng lệnh thượng hoàng nhà Đường, tìm hồn các quý phi dã khuất, được chim thần dẫn lối, nên đi tới đây, may gặp hai vị tiên cô. Phải chăng hai vị là Dương Thái Chân, cùng Giang Thái Tần chăng?

Nàng tiên áo ngũ sắc cười đáp:

- Không phải! Ta vốn là con gái Quách Tử Nghi, chính là Hà Bá phu nhân vậy!

Hùng Đô hỏi tiếp:

- Hà Bá phu nhân, sao lại là con gái Quách Nguyên soái cho được? Đã thế sao lại ở đây nữa?

Nàng tiên áo ngũ sắc cất tiếng:

- Thuở trước phu nhân ta ra trấn giữ Hà Trung, sông lớn chuyên gây thủy họa. Phụ thân ta mới cầu tế Hà Bá, hứa rằng nếu trị thủy hoàn toàn, sẽ đem con gái gả cho. Đến khi sông nước yên hàn rồi, ta bỗng chẳng bệnh tật gì mà qua đời. Phụ thân ta mới chôn cất ta ở ngay sau đền thờ Hà Bá, ta từ đó thành Hà Bá phu nhân. Việc này thì người đời làm sao mà biết được.

Rồi chỉ tiên nữ áo trắng mà tiếp:

- Đây chính là Long Nữ trong hồ Lăng Ba ở vườn ngự uyển.

Trước đây vua Huyền Tông đã gặp trong mộng, gảy đàn Hồ, làm ra điệu từ "Lãng ba khúc". Đến lúc tỉnh lại, đức vua vẫn nhớ kỹ, nhân đó mới lập miếu thờ Long Nữ ngay bên hồ Lăng Ba. Long Nữ với Hà Bá vốn thân thiết, cho nên thường hay gặp gỡ. Về sau Long Nữ bị tuyển vào Nhụy Châu cung, nên ta thường lui tới đây. Còn Mai Phi Giang Thái Tần, kiếp trước vốn là tiên nữ trong Nhụy Châu cung, đã hai lần bị đày xuống nhân gian, nay mới được về chốn cũ. Mai Phi duyên trần đã hết, tuy ở đây, nhưng đạo trưởng chẳng gặp được đâu. Còn Dương Thái Chân thì trả chưa hết kiếp trước, phải đầu thai xuống cõi người, vì lần vừa rồi vẫn giữ thói kiêu sa dâm loạn, làm nhiều điều ác nghiệt, nên nghiệp báo vẫn nhiều, làm sao mà được ở đây Đạo trưởng có muốn gặp, thì phải tìm ở chỗ khác kia!

Hồng Đô thưa:

- Mai Phi đã không gặp được, tất phải tìm cho ra dấu vết Dương Thái Chân, mới có thể quay về phục mệnh thượng hoàng. Mong được tiên nữ chỉ vẽ cho!

Tiên nữ áo trắng đáp:

- Đạo trưởng cứ hướng đông mà đi, chẳng mấy chốc sẽ có người chỉ tường tận.

Nói xong, kéo tiên nữ áo ngũ sắc, quay vào Nhụy Châu cung.

Hồng Đô liền cứ trong mây lành mà bay về phía đông, gặp một tòa núi cao. Tả sao hết cảnh sắc của núi, từ xa đã nhìn thấy từng hàng tùng bách xanh ngắt dưới chân núi. Ngay dưới một cây tùng già, ba vị tiên ông ngồi. Hai vị đánh cờ vây, một vị ngồi bên xem. Hồng Đô tới bên lạy chào. Hai vị tiên tạm dừng cuộc cờ mà cả cười, Hồng Đô xin được biết họ tên. Vị tiên ngồi ở chính giữa cất tiếng:

- Ta là Trương Quả, hai vị này chính là Diệp Pháp Thiện, La Công Viễn. Chúng ta đều có duyên nợ với thái thượng hoàng. Vì vậy thường bày vẽ cho ít nhiều, chỉ vì thượng hoàng duyên trần còn nặng, lòng trí còn tối tăm, quên cả bản tính của chân thân, đành phải bỏ mà đi vậy. Thượng hoàng nay tuổi đã cao, chuyện yêu đương nghiêng ngả đâu còn, cũng nên giác ngộ đi còn gì. Thuở trước giá có theo ta mà tu tiên học đạo, thì đâu đến nỗi đắm chìm trong bể họa như thế.

Hồng Đô lại hỏi:

- Mai Phi hiện đang ở Nhụy Châu cung. Bần đạo vừa được biết rồi. Chỉ còn chưa rõ hồn phách Dương Quý Phi hiện ở nơi nào. Xin các vị tiên sư cho gặp một lần, để có thể về phục mệnh thượng hoàng.

Trương Quả đáp:

- Đạo trưởng có biết chuyện "Lưỡng thế nhân duyên" giữa thượng hoàng cùng Dương Quý Phi chăng?

Hồng Đô thưa:

- Bần đạo ngu muội, nhiều điều chẳng rõ, xin mong được dạy bảo ít nhiều!

Trương Quả cất tiếng:

- Đường Minh Hoàng chân thân vốn là Nguyên Thủy Khổng Thăng Chân nhân, vốn là đồng đạo với chúng tiên đấy cả. Cũng bởi một lần nghe giảng đạo pháp ở Thái Cực cung, không ngờ gặp một tiên nữ ở Nhụy Châu cung, cười nói sỗ sàng, phạm phải giới luật, nên phải đày xuống phàm trần, phạt làm phi tần trong cung vua, chính là Chu Quý Nhi trong cung nhà Tùy vậy. Đến lúc Chu Quý Nhi tái sinh kiếp khác thì lại trở thành thiên tử Huyền Tông nhà Đường nay là thái thượng hoàng vậy.

Hồng Đô hỏi:

- Chu Quý Nhi vì làm sao lại được chuyển kiếp thiên tử kia?

Trương Quả đáp:

- Chu Quý Nhi trung thành với chủ, mắng giặc rồi tuẫn tiết mà chết. Ở thiên đình vốn rất trọng trung nghĩa, vì vậy mà được hưởng phúc lớn. Huống chi vị tiên này bị đày xuống trần thế, chẳng qua so với ngôi cũ thì chỉ bằng hòa. Bởi Chu Quý Nhi vốn có duyên nợ với Tùy Dượng Đế, đã riêng cùng nhau thề nguyền, kiếp sau nên duyên vợ chồng, vì vậy mới sinh làm thiên tử, để trọn lời ước xưa vậy!

Hồng Đô hỏi:

- Chu Quý Nhi với Tùy Dượng Đế duyên nợ ra sao?

Trương Quả đáp:

- Dượng Đế kiếp trước vốn là một con chuột đã thành tinh trong núi Chung Nam, có lần ăn trộm viên thuốc tiên của Hoàng Phủ Chân Quân ở Cửu Hoa cung, nên bị Chân Quân trói giam trong nhà đá, đã một nghìn ba trăm năm nay. Ở nhà đá, con chuột thành tinh này dốc trí tu luyện để mong kiếp sau dược làm người, hưởng phú quý ở nhân gian. Lúc bấy giờ Khổng Thăng Chân nhân, đến Cửu hoa cung, biết con chuột này bị giam đã lâu, thương y thành tâm tu luyện, mới ra sức khuyên Hoàng Phủ Chân Quân tạm thả cho y xuống trần gian, hưởng ít nhiều mùi phú quý, để thỏa chí nguyện của y, cũng là ít nhiều khuyến lệ kiếp sau, may ra hối cải tu hành chăng. Hành động khuyến khích này, không ngờ lại kết thêm duyên nợ. Lúc này gặp vận nhà Tùy đã mãn, Độc Cô Hoàng hậu ghen tuông ngang ngược, Thượng đế tức giận, Hoàng Phủ Chân Quân liền nhân đó tâu xin cho con chuột này thác sinh làm Tùy Dượng Đế, ứng đúng như vận số. Khổng Thăng Chân nhân cũng vừa bị tội, giáng xuống trần làm Chu Quý Nhi, thề là kiếp này được gặp gỡ, kết cùng Dượng Đế là Đường Huyền Tông, nên chưa được về tiên vậy.

Hồng Đô lại hỏi:

- Quý Nhi chuyển sinh làm thiên tử nhà Đường, còn Tùy Dượng Đế thì chuyển sinh làm người nào?

Trương Quả đáp:

- Trương lão bảo Dượng Đế sẽ là ai? Chính là Dương Quý Phi vậy. Dượng Đế làm thiên tử, tính yêu quái cũ lại có dịp phát mạnh, kiêu sa, dâm dục, ngang ngược, lại thêm tội sát nghịch. Thượng đế càng giận, chỉ cho ở ngôi mười ba năm, để đền lại một nghìn ba trăm năm khổ công tu luyện, nhưng bắt phải "bất đắc kỳ tử", lấy vải lụa trắng mà thắt cổ cho chết, phạt tái sinh làm kiếp dàn bà, chính là làm con gái họ Dương vậy. Để rồi cùng Chu Quý Nhi sau này kết duyên vợ chồng, hoàn toàn lời thề nguyền trên ngựa, rồi lại phải chịu lại cái cảnh dây lụa thắt cổ chết ở trạm dịch Mã Ngôi. Mai này còn phải đến âm phủ, xử tội sát nghịch, dâm loạn. Thuở làm Quý Phi, cậy được yêu thương, tội lỗi chồng chất càng nhiều. Nay hồn phách Quý Phi vẫn chẳng được tự do. Trưởng lão biết tìm ở đâu cho được.

Hồng Đô thưa:

- Thì ra chuyện nhân quả là thế! Nếu không có tiên sư chỉ giáo, bần dạo làm sao biết được. Nhưng bần đạo chính là phụng mệnh thượng hoàng mà đến đây. Nay làm thế nào mà chỉ về phục mệnh thượng hoàng bằng những câu chuyện kể suông thế này cho được?

Trương quả trầm ngâm không đáp, Diệp Pháp Thiện liền cất lời:

- Thượng hoàng cũng chẳng còn ở trần thế bao lâu nữa. Sau khi qua đời, thượng hoàng sẽ rõ ngay mọi chuyện tiền kiếp, nên đạo trưởng cứ tùy đó mà thêm bớt vài lời cho vừa ý thượng hoàng.

Hồng Đô thưa:

- Dẫu có thêm bớt đi nữa, nhưng chẳng có bằng cứ, sợ thượng hoàng chẳng tin nào!

La Công Viễn cười:

- Đạo trưởng cần có chứng cứ, quay lại mà hỏi hai tiên nữ vừa rồi, chẳng việc gì phải chuyện miên man, làm mất cả hứng đánh cờ của chúng tiên đây làm gì?

Từ xa bỗng thấy một đám mây lành bay lại. Diệp Pháp Thiện chỉ tay:

- Đạo trường xem hai tiên nữ đã tới kia kìa!

Đám mây hạ xuống, hai vị tiên nữ chào hỏi ba tiên ông, rồi quay ra nhìn Hồng Đô đạo sĩ mà cười:

- Linh hồn trường lão vẫn còn ở đây để nghe chuyện nhân quả hay sao?

Trương Quả đỡ lời:

- Trương Quả này đã đem chuyện. "Lưỡng thế nhân duyên" của Dương Quý Phi cùng Đường Minh Hoàng ra nói, nhưng trưởng lão vẫn đòi gặp kỳ được Quý Phi, mới dám quay về phục mệnh. Xin hai vị tiên cô hãy dẫn trưởng lão đi gặp một phen.

Hai tiên nữ bằng lòng, dẫn Hồng Đô cưỡi mây mà đi về phía bắc, chẳng mấy chốc đã đến một vùng, trông ra chỉ thấy:

Khắp trời u ám mây sầu bay

Gió rít từng cơn, bụi cát xoay

Hang núi đen mò, cành trụi lá

Xám ngắt một mầu, cỏ rủ cây

Âm ty địa ngục đâu đây

Sởn tóc gáy, choáng mặt mày. Sợ chưa!

Phía bên lối đi bỗng lại thấy một tòa thành, trên cổng treo biển lớn, để mấy chữ "Bắc âm biệt trạch", phía dưới là hai cánh cửa sắt khép chặt, lại thêm hai quỷ sứ đứng gác hai bên. Hai tiên nữ lệnh cho quỷ sứ mở cửa, dẫn Hồng Đô vào theo. Bên trong cảnh trí rất hoang tàn, khí lạnh sởn da gà. Qua thêm hai từng cửa chắc chắn nữa, từ xa một người đàn bà, mặc y phục vải xấu, đầu tóc bù xù, mặt mày buồn bã rười rượi, ngồi rũ ở ghế dựa. Hai tiên nữ chỉ cho Hồng Đô thấy:

- Đây chính là Dương Quý Phi đấy! Đạo trưởng hãy tiến lên mà gặp. Chúng tiên nữ đây không muốn giáp mặt Quý Phi làm gì đâu!

Hồng Đô bước lên chào, Dương Quý Phi đứng dậy tiếp. Hồng Đô nhắc lại việc thượng hoàng sai phái, Quý Phi khóc nức nở không thôi.

Hồng Đô tiếp:

- Hồn thơm nương nương, sao đến nỗi phải vào nơi u trệ thế này?

Quý Phi vừa khóc vừa đáp:

- Ta kết nghiệp chướng từ kiếp trước, kiếp mới đây lại chồng chất thêm nữa, nên phải chịu quả báo. Chỉ đến bao giờ nợ duyên trả hết, án xưa đã được xét xử xong xuôi, lúc ấy sẽ chịu tội rõ ràng. Còn nay vẫn phải giam giữ trong nhà ngục này, chờ ngày định tội. Cũng còn may, thuở còn ở nhân gian ta đã từng tự tay sao một quyển "Bát Nhã tâm kinh" để tụng niệm, lại thêm chim oanh vũ Tuyết Y nữ cảm ơn ta xưa, thường vì ta mà tụng kinh niệm Phật, vì ta mà sám hối, cho nên bây giờ mới được giam lỏng ở dây. Thật đội ơn sâu của thánh hoàng nhớ đến. Nay đạo trưởng trở về, muôn ngàn đừng nói rằng ta ở trong tình cảnh này, càng làm cho thượng hoàng thêm bi thương, chỉ nói rằng ta ở nơi rất vừa ý là được rồi.

Hồng Đô thưa:

- Trở về tâu thế nào cũng phải có vật gì đó làm bằng, thì thượng hoàng mới khỏi nghi ngờ.

Quý Phi đáp:

- Những vật mà chôn theo ta sau này, thì chỉ có hai cành thoa, cùng là cái hộp bằng bạc mà thường ngày ta vẫn rất thích. Trước đây đã nhờ Tuyết Y nữ ngậm đem về đây. Nay hãy chia đôi, một đường một cành thoa, đạo trưởng hãy mang về cùng cả hộp bạc, có thể lấy nó làm tin vậy.

Nói xong, liền lấy ngay thoa vàng, hộp bạc giao cho Hồng Đô.

Đạo sĩ ngắm nghía một hồi rồi thưa:

- Hai vật này ở dưới trần đều có, chẳng đủ lấy làm bằng. Hoặc là có chuyện, có việc gì đó, người ngoài chẳng biết, xin nương nương hãy kể lại cho, cũng đủ tin cậy hơn rồi!

Quý Phi cúi đầu nghĩ ngợi một lúc rồi đáp:

- Có đây rồi! Ta nhớ ra rằng năm thứ mười đời Thiên Bảo, theo thượng hoàng đi tránh nóng ở Ly Sơn cung, nhân đêm "xin khéo" tháng bảy, ngồi trước sân điện hóng gió mát, đã quá nửa đêm, cung nga đều đi ngủ cả, ta cùng thượng hoàng riêng trao lời gắn bó thề thốt, nguyện đời đời kiếp kiếp làm vợ chồng. Việc này hoàn toàn chẳng có người nào biết. Đạo trưởng cứ thế mà kể lại, cũng đủ để thượng hoàng tin rồi!

Hồng Đô còn định hỏi nữa, thì thấy hai quỷ sứ chạy lại giục:

- Mau đi đi thôi! Đi thôi!

Hồng Đô không dám lưu luyến, vội vàng ra cổng, hai vị tiên nữ đã không thấy đâu nữa. Một trận cuồng phong nổi lên, cuốn theo cả Hồng Đô đi xa tít, rồi đặt Hồng Đô xuống một nơi, mà nhìn kỹ, thì ra là ở chân núi vừa rồi, ba vị tiên ông vẫn còn ngồi đó đánh cờ, mới chỉ được một ván.

Trương Quả gọi Hồng Đô đến trước mặt mà bảo rằng:

- Đạo trưởng đã gặp được Dương Quý Phi, đã được bằng chứng rồi, hãy nhanh quay về hạ giới đi thôi!

Hồng Đô thưa:

- Vẫn còn một việc nữa xin nhờ các tiên sư chỉ giáo, là tiền kiếp của Mai Phi Giang Thái Tần ra sao, để về tâu lại thượng hoàng.

Trương Quả đáp:

- Mai Phi vốn là tiên nữ trong Nhụy Châu cung, nhân có chuyện cười đùa với Khổng Thăng Chân nhân, lòng phàm trỗi dậy, nên phải giáng xuống trần hai kiếp. Cả hai kiếp đều thác sinh vào cung vua. Thời nhà Tùy, thì sinh làm Hậu phu nhân, cậy tài cậy sắc nhưng lại không được gặp mặt nhà vua, để đến nỗi phải tự tận. Sau đó chuyển thành Mai Phi, cũng bởi đã từng cười cợt với Khổng Thăng Chân nhân. Nhưng phải nạn ganh ghét, đày ra lãnh cung Thượng Dương, là bởi Thiên đình trừng phạt tội xưa vậy thôi. Về sau nhân lâm nạn, mà vẫn giữ được khí tiết, trung nghĩa thật đáng khen cho nên được tiên nữ xuống cứu. Cuối cùng được quay về cung cũ, trùng phùng với Đường Minh Hoàng. Hưởng trọn mệnh trời, rồi được trở về kiếp tiên ở Nhụy Châu cung như xưa.

Hồng Đô vẫn nói:

- Chu Quý Nhi cùng Tùy Dượng Đế thề nguyền riêng tây, kiếp sau lại được tái hợp như lời. Nay thượng hoàng cùng Dương Quý Phi cũng thế thốt đã nhiều, liệu lai sinh có được hội họp vợ chồng chăng?

Trương Quả đáp:

- Chu Quý Nhi lấy thân trung nghĩa mà cảm thần thánh, vì vậy mới được như nguyện, Dương Quý Phi thì trinh tiết dã chẳng có, lại làm đủ điều gian ác, những lời thề nguyền kia chuyển qua chỉ là những lời ham muốn dâm loạn, cuồng si, đâu có thể lấy làm chính đáng. Cũng như Vũ Tắc Thiên, Vi Hoàng hậu, Thái Bình, An Lạc Công chúa, Hàn Tần, Quắc Quốc phu nhân, đều là một lũ dâm loạn đến cuồng điên. Trong những lúc dục tình bột phát kẻ nào chẳng chỉ non thề biển, viện đủ mọi kiếp, cùng trăm thứ thánh thần chứng giám, nhưng chỉ là những lời nhảm nhí, chẳng ai mà hoài hơi tính đến làm gì.

Hồng Đô lại hỏi tiếp:

- Bây giờ Vũ Thái hậu, Vi Hoàng hậu cùng bọn người kia, rồi những kẻ phản nghịch An Lộc Sơn nữa, hồn phách về đâu rồi?

Trương Quả đáp:

- Vũ Tắc Thiên vốn là kiếp sau của Ngụy Công Lý Mật, nên tìm mọi cách giết sạch con cháu nhà Đường, để báo thù kiếp trước. Chính vì vậy mà tội nghiệt, dâm dật kiếp này còn lớn, nên đến nay đang cùng bọn Vi Hoàng hậu, Thái Bình, An Lạc Công chúa, cộng thêm những quan tham lại nghiệt, đều đáng rơi vào A Tỳ địa ngục, vĩnh viễn không bao giờ còn được thác sinh kiếp khác nữa đâu. Đến như bọn phản nghịch An Lộc Sơn, Sử Tử Minh, cùng bọn phản thần chạy theo giúp chúng, rồi tướng tá của họ An, họ Sử, cả những kẻ lớn nhỏ quan viên gian ác, xiểm nịnh, những hoàng hậu, phi tần, hoạn quan, ngỗ nghịch, lăng loàn, tàn ác của bản triều, vốn ứng với nghiệt chướng kiếp trước mà thác sinh, thì nay cứ đối chiếu việc làm xấu xa kiếp này mà đưa vào địa ngục, vạn kiếp chỉ được chuyển hồi trong vòng loài vật. Bọn này thì quả là không đếm hết. Đạo trưởng hãy quay về tâu lại với thượng hoàng đúng như lời dặn của Dương Quý Phi, hoặc cứ nói rằng Quý Phi đang chịu tội. Lại cố khuyên để thượng hoàng rửa lòng trần, sám hối tội lỗi, sạch duyên sạch nợ, nếu đạt đến cõi giác ngộ, thì lúc qua đời, chúng tiên này sẽ sẵn sàng tiếp đón thượng hoàng vậy!

Nói xong, vẫy mạnh ống tay áo, Hồng Đô đạo sĩ đã giật mình tĩnh dậy thấy mình đang quỳ trước đàn khói hương nghi ngút.

Hồng Đô lặng ngồi lúc lâu, khỏi cơn bàng hoàng nhớ lại mọi chuyện, sờ vào trong ống tay áo, vẫn còn cả hai vật thoa vàng, hộp bạc. Tiến lên trước điện, đem những lời của Trương Quả, không quên cả những lời dặn riêng, tâu rằng Mai Phi, Quý Phi đều là tiên nữ ở Nhụy Châu cung giáng thế, Mai Phi thì không được gặp, còn Quý Phi giáp mặt chuyện trò. Rồi nhân đó thưa luôn lời Quý Phi:

"Thượng hoàng vốn cũng là tiên nhân giáng thế, nên cùng ta có duyên nợ, vậy nên mới có cuộc gặp gỡ vừa rồi ở trần thế. Nay tuy xa cách, nhưng vẫn còn ngày gặp gỡ. Chẳng nên bi thương. Xin thượng hoàng hãy di dưỡng tính tình, nghìn thu vạn kiếp sau này lại vẫn được quay về nơi tiên cảnh như xưa!"

Nói xong liền đưa thoa vàng hộp bạc dâng lên làm chứng.

Thượng hoàng ngắm nghía, tuy ngoài miệng thở than, nhưng thực lòng vẫn nửa tin nửa ngờ. Hồng Đô liền đem những lời thề đêm thất tịch tâu lại rồi tiếp:

- Thần nghĩ rằng thoa vàng hộp bạc đâu đủ tin, vì vậy phải thưa lại Quý Phi. Quý Phi liền nói lại chuyện này, đều là những việc riêng, chẳng người nào có thể biết, nên về tâu lại, tất thượng hoàng thấy những việc này đều không phải bịa đặt.

Thượng hoàng nghe xong, nghẹn ngào, rớt nước mắt, bèn thưởng cho Hồng Đô rất hậu rồi truyền lui ra.

Về sau này, Bạch Lạc Thiên chỉ căn cứ vào lời tâu lại bịa đặt của Hồng Đô đạo sĩ để viết "Trường hận ca", nói rằng Dương Quý Phi là tiên nữ, nên được trở về tiên cảnh. Những việc này được "Trường hận ca" truyền đi như là một câu chuyện đẹp đẽ, nào có biết đâu toàn là những điều không có thực.

Chính là:

Chính sử điên đảo giả chân

Dã sử thuật chuyện oán ân nhãn tiền

Dương Quý Phi mà thành tiên

Bạo tội ác, lại được khen hết lời

Đạo trời đâu cớ lạ đời...

Thượng hoàng từ đó ngăn bình phong ở riêng hẳn một phòng, cách tuyệt những nơi huyên náo, ngày đêm tụng kinh niệm Phật.

Đến năm Bảo ứng nguyên niên đời Túc Tông, tháng tư mùa hạ, ngoài mười sáu, bỗng thượng hoàng lấy sáo ngọc ra cầm chơi, rồi đưa lên miệng thổi mấy tiếng, thấy một đôi chim hạc bay đến trước sân điện múa, rồi lại vỗ cánh bay đi. Lúc này có một cung nga đang đứng hầu bên cạnh, thượng hoàng bèn nói với người cung nga này:

- Đêm qua, trẫm mơ thấy gặp Trương Quả, Diệp Pháp Thiện, La Công Viễn đều tới mà nói rằng trẫm xưa kia vốn là Nguyên Thủy Khổng Thăng Chân nhân, bị giáng xuống thế gian này đã hai kiếp rồi, mệnh số đã mãn, nên riêng tới đây, đón trẫm về Tu Chân quán tu hành, sám hối đủ một giáp tý (1) nữa, sau này lại sẽ được trở về tiên giới như cũ. Nay hai chim hạc đã tới đón, thì quả là đến thời rồi vậy.

1 cách tính thời gian theo hàng can hàng chi của Trung Quốc, tròn 60 năm. Có lẽ Đường Minh Hoàng còn phải đầu thai làm đạo sĩ một kiếp nữa rồi mới được về cõi trên?

Sai lấy nước thơm tắm rửa, sau đó thượng hoàng vào trong đi nằm, truyền lệnh tả hữu không được làm kinh động.

Sáng ngày hôm sau, cung nữ ai nấy đều nghe rõ trong phòng ngủ thượng hoàng cười rất vui vẻ, sợ hãi vào xem, thì thượng hoàng đã băng rồi!

Chính là:

Hai kiếp phồn hoa thành mộng ảo

Một sớm lìa đời hóa chân thân!

Thượng hoàng qua đời rồi, Túc Tông vẫn đang ốm, nghe tin dữ, vừa kinh sợ buồn rầu, bệnh ngày càng nặng, chẳng bao lâu sau cũng băng hà.

Trương Hoàng hậu ý muốn phế thái tử, riêng tự lập mình lên làm vua. Lý Phụ Quốc bèn giết Trương Hoàng hậu, đưa thái tử lên ngôi, tức là Đường Đại Tông, vì vậy Phụ Quốc ngày càng ngang ngược. Về sau Phụ Quốc bị thích khách đâm chết. Người này quả thực lại chính do Đại Tông sai làm.

Còn dư đảng của bọn An Lộc Sơn, Sử Tử Minh, mãi tới những năm Quang Đức đời Đại Tông, mới thực bị diệt hết.

Sau đời Đại Tông, nhà Đường còn truyền được mười ba đời thiên tử nữa. Trong mười ba đời đó, thiếu gì chuyện hay việc dở, đều đáng để chép thành sách riêng, bạn đọc nếu vẫn chưa chán, chưa mệt mỏi, xin cứ dần dần lại sẽ trình bày tiếp. Còn sách này, chỉ kể chuyện "tiền nhân hậu quả" của hai đời thiên tử Tùy Dượng Đế cùng Đường Minh Hoàng, những chuyện xa xôi khác làm sao mà nói hết cho được!

Có bài từ làm chứng việc kết thúc sách "Tùy Đường diễn nghĩa" sau đây:

Dở xem sử cũ nghĩ cho rành

Tướng gỗ một bầy múa rối tinh

vay trả nợ nần, chính sử đó

Vẫn cần dã sử mới phân minh

Ngoài chính sử phải thêm diễn nghĩa(1)

Chiến Quốc, Xuân Thu, Hán cùng Sở

Vương Mãng, Lưu Tú, Ngụy Thục Ngô

Nam Bắc Lục triều, vẫn chưa đủ!

Ta (2) nay diễn nghĩa thêm Tùy Đường

Sách dài, dài trọn một trăm chương

Dẫu vậy vẫn chưa được tường tận

Kỹ càng mới chỉ chữ hưng vong

Sau có gắng rõ lẽ vô thường

Luân hồi, nam trung với nữ tiết

Quả báo đức độ sánh xương cuồng

Rành rành sách đó, xem thì biết

Phật tiên ma quỷ kể rõ ràng

Có không vốn ở tâm ra cả

Cũng câu phúc họa, điều nhân quả

Sáng soi, Dượng Đế đến Minh Hoàng.

Theo điệu "Nhất tùng hoa"

1 Chính sử: Những sách sử do nhà nước đứng ra tổ chức biên soạn, hoặc được nhà nước chính thức công nhận. Dã sử: Những sách do một hay nhiều người biên soạn, mang tính chất cá nhân, do đó mang nhiều dấu ấn riêng biệt. (Hán việt tân từ điển). Theo ý tác giả thì những loại tiểu thuyết diễn chí, diễn nghĩa đều thuộc dã sử.

2 Ta: Chử Nhân Hoạch tự xưng.

HẾT

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro