Bạch Đằng Giang phú

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

     Trong văn học trung đại Việt Nam, thiên nhiên từ lâu đã là một đề tài quen thuộc, trở thành nguồn cảm hứng cho biết bao nhiêu nhà văn lớn. Mỗi tâm hồn tìm đến thiên nhiên với một tâm trạng khác nhau. Nếu như Cao Bá Quát đến với thiên nhiên để bộc lộ tâm trạng chua xót bất đắc chí. Nguyễn Bỉnh Khiêm thì đến với thiên nhiên để bày tỏ đạo lí thanh cao trước thói đời bon chen danh lợi... thì ở bài Phú sông Bạch Đằng,

"Bạch Đằng giang phú" được Trương Hán Siêu viết trong 1 lần dạo chơi. Đây là nơi ghi dấu nhiều chiến công lẫy lừng của dân tộc: Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, Lê Hoàn chiến thắng quân Tống, Hưng Đạo Vương đánh tan quân Nguyên Mông,... Có thể nói, bài thơ vừa là niềm tự hào trước lịch sử hào hùng của dân tộc, vừa là sự hoài niệm trước một thời vẻ vang của nhân dân ta.

Mở đầu là con người ung dung, tự tại, say đắm cảnh sắc thiên nhiên :

Khách có kẻ :

Giương buồm giong gió chơi vơi,

Lướt bể chơi trăng mải miết.

...

Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết"

Từ những câu chữ đầu tiên, nhân vật "khách" đã xuất hiện đầy phóng khoáng. Tác giả đã sử dụng những tính từ láy "chơi vơi", "mải miết" cùng hàng loạt các hình ảnh đậm chất ước lệ, có tính phóng đại: giương buồm giong gió, lướt bể chơi trăng, sớm gõ thuyền, chiều lần thăm gợi lên một không thời gian rộng mở, bao la. Qua đó gợi cho bạn đọc hình tượng nhân vật khách, một bậc tài tử lãng du cùng với thú vui sơn thủy, đắm chìm trong không gian rộng lớn, thơ mộng khoáng đạt. Thiên nhiên mây, gió, trăng bỗng trở thành một người bạn đồng hanh cùng khách nhân ấy. Người khách còn kéo theo cả hàng loạt những địa danh, những phong cảnh đẹp của Trung Hoa vốn chỉ biết trong sách vở. Nào là Nguyên, Tương, Vũ Huyệt, nào là Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, Đầm Vân Mộng... nơi có người đi, đâu mà chẳng biết, chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều. Biện pháp liệt kê hang loạt những thắng cảnh cho ta thấy một tâm hồn phóng khoáng, thích ngao du và yêu thiên nhiên say đắm cùng cả một trình độ học vấn thâm sâu, hiểu biết sâu rộng về các địa danh nổi tiếng. Nếu như ở trên nhà thơ viết về những địa danh của Trung Quốc thông qua những chuyến kì thú của các vị khách xưa, thì hình ảnh của con sông Bạch Đằng lại được gợi ra trong niềm tự hào, tình yêu tha thiết nhất:

Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều
...
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu

Một lần nữa thủ pháp liệt kê lại đưa chúng ta đến những địa danh khác, nhưng lần này là thực, là thủy lưu dẫn đến sông Bạch Đằng. Và hiện ra trước mắt người nghệ sĩ một Bạch Đằng trong khung cảnh thiên nhiên tuyệt sắc. Trương Hán Siêu đã vận dụng linh hoạt các tính từ láy: "bát ngát"; "thướt tha" Trên những đợt sóng dữ dội là những đoàn thuyền nối đuôi nhau như đuôi chim trĩ. Đất trời và sông nước mang một vẻ đẹp tự nhiên hòa hợp "nước trời: một sắc", "phong cảnh: ba thu" nghĩa là phong cảnh vào độ chín nhất trong khoảng thời gian tháng thứ ba của mùa thu. Nhưng cảnh thu đi đến hồn thu, cảnh đẹp nhưng đượm buồn. Trước mắt nhân vật khách hiện ra bờ lau hút tầm mắt, kết hợp với hai từ láy "đìu hiu, san sát" cực tả sự hoang vắng, đìu hiu và cô quạnh của con sông. Mà chính nơi đây là chiến địa sinh tử, đã biết bao con người ngã xuống, máu nhuốm đỏ cả dòng sông, dưới sông còn nhiều giáo gươm, trên gò còn nhiều xương khô. Những chứng tích đó là minh chứng cho lịch sử hào hùng của dân tộc nhưng cũng khiến cho lòng người không tránh khỏi niềm tiếc thương cho những mất mát, hy sinh. Trước là sự tự hào vì chiến tích nơi đây thì giờ là nỗi buồn thảm thương lặng người vì sự chết chóc do chiến tranh gây ra, buồn vì giá trị lịch sử cũng theo thời gian mà bị mai một đi. Các động từ "buồn, thương, tiếc" càng làm đậm lên tâm trạng ảm đạm, ngậm ngùi khôn nguôi của nhân vật khách trước cảnh sông Bạch Đằng.

Nếu như đoạn thơ thứ nhất là cảnh sắc trên song Bạch Đằng đìu hiu thì đoạn thứ 2 chính là hình ảnh những cuộc chiến đẫm máu đầy anh dũng của nhân dân ta qua lời kể của các bô lão. Đoạn thơ bắt đầu với hình ảnh các bô lão lê gậy bái phỏng kẻ làm khách:

"Bên sông bô lão hỏi,
Hỏi ý ta sở cầu.
Có kẻ gậy lê chống trước,
Có người thuyền nhẹ bơi sau"

Các bô lão có thể là những hình ảnh thực, những con người mà tác giả gặp trên sông, cũng có thể chỉ là sự hư ảo từ chính những tâm tư, tình cảm của tác giả tạo lên. Những lời kể của bô lão đã đưa người đọc quay về con đường lịch sử, trở về với quá khứ, để rồi theo lời của các bô lão ấy mà làm sống lại những trang sử oai hùng một thời:

"Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng Nhị Thánh bắt Ô Mã,

Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao."

Các bô lão kể về cuộc chiến của Trần Hưng Đạo năm 1288 – trận chiến với chiến thắng vang dội khi bắt sống được Ô Mã và tiêu diệt hàng vạn quân xâm lược và trận chiến của Ngô Quyền năm 938 khi đã dùng mưu đại phá quân Nam Hán một cách tài tình. Đây đều là hai trận chiến lừng lẫy của nhân dân ta. Qua đó, tác giả ca ngợi những chiến công hiển hách của dân tộc, đồng thời nhấn mạnh Sông Bạch Đằng là thánh địa lưu dấu muôn trùng chiến công của dân tộc, để khẳng định rằng đây là chiến địa đáng tự hào trên đất Việt ta. Từ nhịp thở dài, nhẹ nhàng, hoài niệm, tác giả chuyển qua nhịp thơ ngắn, xúc tích, tạo lên vẻ hào hùng, dứt khoát để khắc hoạ lên khí thế hùng hồn của thế chiến thời bấy giờ:

"Thuyền bè muôn đội, tinh kỳ phấp phới,
Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói."

Bằng hình ảnh ước lệ chỉ những sự vô cùng, vô tận kết hợp với biện pháp phóng đại hùng biện, Trương Hán Siêu như đã vẽ ra khung cảnh đội quân ta ngày ấy, hùng mạnh, anh dũng, khí thế ngút trời. Dòng sông như sôi sục với muôn đội thuyền bè, chiến trường tráng liệt nhuộm một màu tinh kỳ rực rỡ. Thế nhưng thế sự khó lường, địch ta cân sức, khí thế ta là thế, nhưng địch lại chẳng kém quân ta:

"Kìa: Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối,
Những tưởng gieo roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi!"

Tác giả đã mượn điển tích Bồ Kiên của nước Tần, mượn ý này để cho ta thấy rõ khí thế quân Nguyên khi vào đánh nước ta – quân đông tướng mạnh, tự tin vào thực lực của bản thân, khí thế cũng rềnh vang một cõi, càng tôn lên thói hống hách, ngạo mạn của bọn chúng. Tuy vậy, hai bên vẫn cân sức, ngang tài, bất phân thắng bại. Qua đó, ta càng thấy được sức mạnh của quân dân ta lúc bấy giờ. Sự ngang tài ngang sức ấy đã tạo nên 1 trận đánh rung chuyển trời đất:

"Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến luỹ bắc nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi."

Một trận đánh có thể nói là "kinh thiên động địa", Trương Hán Siêu đã dùng biện pháp phóng đại kết hợp với hình ảnh "nhật nguyệt"; "bầu trời" như khắc họa tầm vóc của trận đánh sánh ngang với vũ trụ, lớn lao và cao cả. Đó là một chiến trường khói lửa, gươm giáo đẫm máu, tiếng ngàn quân hô hào, tiếng trống trận thúc giục, tiếng vó ngựa, voi gầm. Chiến đấu đến "sắc phong vân phải đổi"; "ánh nhật nguyệt phải mờ". Thông qua nét bút tinh tế, những chi tiết phóng bút, khoa trương nhưng rất thần tinh, nhà thơ như đã vẽ lên một bức tranh sống, có âm thanh, có hình ảnh, có màu sắc, tô đậm một trang sử vang dội, chói lọi.

Phần kết cả bức tranh hào hùng ấy, tác giả tạo một nét chấm phá dứt khoát, khẳng định một chiến thắng vẻ vang của dân tộc:

"Thế nhưng: Trời cũng chiều người,
Hung đồ hết lối!
Khác nào như khi xưa:
Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi."

Tác giả lại tiếp tục nhắc đến điển tích về hai trận đánh Xích Bích của Tào Tháo và Hợp Phì của Bồ Kiên – hai trận đánh nổi tiếng của những nhân vật lỗi lạc trong lịch sử để nhấn mạnh sự thất bại nhục nhã của giặc. Cả Tào Tháo và Bồ Kiên đều là những tướng tài, quân giặc thời bấy giờ cũng hùng hổ, khí thế tựa như quân Nam Hán ngạo mạng mà kéo quân sang nước ta. Bằng cách đề cao giặc để càng làm sáng rõ lên sức mạnh của dân ta, tác giả dùng phép so sánh hết sức tài tình khi đem so sánh kẻ thù với những nhân vật lỗi lạc, những con người tài giỏi, đặt chúng trong hoàn cảnh của những trận đánh to lớn trong lịch sử để rồi cuối cùng vẫn thất bại thảm hại trước chúng ta, trước những con dân đất Việt. Từ đó càng nhấn mạnh thêm chiến thắng oai hùng của ta và tô đậm sự thất bại nhục nhã của giặc. Các bô lão cũng không nói nhiều đến phía quân ta chỉ nhấn mạnh lòng biết ơn sâu nặng: Tái tạo công lao – Nghìn xưa ca ngợi cũng đủ cho người đọc cảm nhận một cách sâu sắc tầm vóc to lớn của chiến thắng Bạch Đằng trong sự nghiệp bảo vệ giang sơn

Sau lời kể về trận chiến là lời bình luận của các bô lão về chiến thắng trên sông Bạch Đằng, chỉ rõ nguyên nhân ta thắng, địch thua:

Tuy nhiên: Từ có vũ trụ, đã có giang san.
Quả là: Trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an.

Ba câu thơ đã khẳng định quyền độc lập, chủ quyền của nhân dân ta. Điều này đã đươc định sẵn từ khi vũ trụ được khai sinh. Qua đó, tác giả khẳng định sự chính nghĩa, được trời đất đồng thuận của cuộc kháng chiến. Quyền độc lập dân tộc ấy cũng đã được đặt ra trong bài thơ "Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt":

"Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư"

Quan niệm về mối quan hệ giữa Thiên – Địa – Nhân (Trời – Đất – Người) cũng tiếp tục được khẳng định. Trong đó, trời đất hiểm trở giữ vai trò quan trọng, nhưng chính con người mới là chủ thể trong sự nghiệp giữ nước: Nhân tài giữ cuộc điện an. Con người làm nên chiến thắng ở đây là những tấm gương trung nghĩa, những tài năng lỗi lạc:

Hội nào bằng hội Mạnh Tân: như vương sư họ Lã,
Trận nào bằng trận Duy Thuỷ: như quốc sĩ họ Hàn.
Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.
Tiếng thơm còn mãi, bia miệng không mòn.

Việc Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn mở hội nghị tướng sĩ, vương hầu ở bến Bình Than cũng giống như vương sư Lã Vọng, người đời Ân, đã giúp vua Vũ hội quân các nước chư hầu ở Mạnh Tân và diệt được vua Trụ tàn ác; tựa như bậc quốc sĩ Hàn Tín, người đời Hán, đã giúp Lưu Bang đánh tan quân Tề ở Duy Thuỷ. Qua đó, ta càng cảm nhận được sự sáng xuốt cùng tài năng của vị đại vương. Không chỉ vậy, nguồn cội của chiến thắng to lớn ở Bạch Đằng còn là do tài trí sáng suốt của người lãnh đạo. Sau hai lần thất bại, giặc Nguyên lại kéo sang xâm lược nước ta. Vua Trần Nhân Tông hỏi Trần Quốc Tuấn: "Giặc đến làm thế nào?". Hưng Đạo Đại Vương tâu: "Năm nay đánh giặc nhàn". Cách nhìn nhận thế giặc dễ đánh không phải là thái độ chủ quan mà dựa trên tài thao lược và niềm tin vào sức mạnh toàn dân cùng kinh nghiệm trải qua hai cuộc kháng chiến trước đây. Đó là một câu nói, một chi tiết của hiện thực đã đi vào văn chương muôn đời, thể hiện được tinh thần, hào khí Đông A và tầm vóc của một dân tộc anh hùng. Quả đúng như vậy lần thứ 3 giặc Nguyên – Mông sang xâm lược nước ta đã bị đại bại. Con người anh hùng "coi thế giặc nhàn", tên tuổi sống mãi với Bạch Đằng giang, với đất nước Đại Việt: "Tiếng thơm đồn mãi – Bia miệng không mòn".

Để rồi, từ những chiến thắng vẻ vang ấy, các bô lão đã đưa ra một triết lí sâu sắc: những kẻ bất nghĩa như Lưu Cung thì tiêu vong, còn những người anh hùng như Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo thì lưu danh thiên cổ:

Sông Đằng một dải dài ghê,
Luồng to sóng lớn dồn về bể Đông
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.

Lời bình này trở thành chân lí của muôn đời, sống mãi cùng Bạch Đằng giang hùng vĩ. Tiếp nối lời bình của các bô lão, khách cũng ca rằng:

Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.

"Hai vị thánh quân" được nhắc đến trong câu thơ là vua Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông, người lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ 2 và lần thứ 3 giành thắng lợi. Trương Hán Siêu ca ngợi sự anh minh của 2 vị vua có tài có đức, luôn đặt quyền lợi của quốc gia lên trên quyền lợi của cá nhân. Nhờ những bậc nhân tài như thế, đất nước được "điện an"; Đại Việt được "thanh bình muôn thuở". Đến đây, tác giả khẳng định:

Giặc tan muôn thuở thanh bình,
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.

Điều đó cho thấy, chiến thắng không phải chỉ do thuận lợi về địa thế hiểm trở mà quan trọng nhất là ở con người, ở cái "đức cao" lòng yêu thương con dân, tinh thần đoàn kết của toàn dân tộc. Đó mới chính là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng lầy lừng và vẻ vang nhất.

Bài phú song Bạch Đằng lay động đến người đọc không chỉ bởi những hình ảnh thiên nhiên, những chiến thắng lẫy lừng của quân ta mà còn bởi những giá trị nghệ thuật. Bằng các biện pháp liệt kê kết hợp với sử dụng hình ảnh tinh tế, Trương Hán Siêu đã khắc họa hình ảnh sông Bạch Đằng với nhiều chiến công hiển hách, qua đó nhằm ca ngợi quân dân ta với nhiều phẩm chất: đoàn kết, sang suốt, tài năng,...

Có thể nói rằng, "Phú sông Bạch Đằng" là một bài ca yêu nước, tràn đầy tinh thần tự hào dân tộc. Với bố cục chặt chẽ, nhịp điệu thay đổi linh hoạt phóng khoáng, lời văn cô đọng mà dạt dào cảm xúc, bài phú đã khiến người đọc thêm phần tự hào về non sông hùng vĩ và biết ơn sâu sắc thế hệ cha ông đã gìn giữ cho đất nước thanh bình hôm nay. Đó cũng chính là giá trị cao cả nhất, giúp tác phẩm trở thành một trong những bài phú xuất sắc nhất của nền văn học trung đại Việt Nam.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro