Vài nét về Thiền sư Thích Mật Thể (1913 - 1961)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Thiền sư tên thật là Nguyễn Hữu Kế, sanh năm 1912 ở làng Nguyệt Biểu, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, thành phố Huế.

Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, dòng Thích Lý của cụ Nguyễn Hữu Bộ.

Lúc nhỏ theo học Nho giáo và Quốc ngữ chương trình Pháp Việt. Thiền sư đã đỗ Primaire. Người thông minh, lanh lợi.

Gia đình đều qui hướng theo Phật. Cụ thân sinh và người anh ruột cũng đều xuất gia làm đệ tử chốn Thiền lâm.

Lên 12 tuổi, Thiền sư được thân sanh đem về chùa Diệu Hỷ (Huế) cho tu học. Hằng ngày cần mẫn học tập. Bản chất thông minh nên chả mấy chốc tiếp thu một cách mau chóng Kinh Luật căn bản của Phật giáo.

Lên 16 tuổi Thiền sư nhập chúng ở chùa Từ Quang với Hòa thượng Giác Bổn. Nhận thấy Thiền sư là người xuất sắc, đảm đang, nên cho vào tu học ở chùa Trúc Lâm với Hòa thượng Giác Tiên. Khi vào đây như cá gặp nước, rồng gặp mây, Thiền sư lại được gần Thầy gần bạn, học hỏi chuyên cần nên trí huệ mau chóng phát triển.

Năm lên 18 tuổi, Thiền sư được Hòa thượng Giác Tiên thế độ và cho thọ Sa-di giới với Pháp danh Tâm Nhứt, Pháp tự là Mật Thể.

Năm 1932, Hoà thượng Giác Tiên thỉnh đại lão Hòa thượng Phước Huệ chùa Thập Tháp tỉnh Bình Định ra khai giảng Phật học đường ở chùa Trúc Lâm và Tây Thiên, Thiền sư được đặc cách cho theo học lớp này.

Năm 1935, Hòa thượng Bổn sư viên tịch. Năm 1937, Hòa thượng Thập Tháp vì tuổi già không thể dạy tiếp nên trở về Tổ đình Thập Tháp ở Bình Định an nghỉ. Thiền sư xin với Sư huynh sang Trung Quốc nghiên cứu về Phật học ở Viện Phật học Tiêu Sơn do Hòa thượng Tinh Nghiêm làm Trú trì.

Cuộc chiến tranh Hoa - Nhật bùng nổ, năm 1938 Thiền sư trở về Việt Nam làm Giảng sư cho Sơn môn Phật học và An Nam Phật học Hội. Trong thời gian này Thiền sư trước tác quyển Việt Nam Phật giáo Sử lược. Ngoài ra còn dịch tiếp quyển Phật giáo Khái luận, Phật học dị giải và kinh Đại thừa vô lượng nghĩa.

Năm 1941, Thiền sư nhận làm giáo thọ cho Phật học đường Lưỡng Xuyên tại Trà Vinh được một năm rồi trở ra Huế.

Đến năm 1944, Thiền sư thọ Cụ túc giới ở Giới đàn tại chùa Thuyền Tôn do Hoà thượng Giác Nhiên làm Đàn đầu.

Trong Giới đàn này Thiền sư đứng đầu các giới tử và được công nhận là Thủ Sa-di.

Năm 1945, Thiền sư được Sơn môn cử giữ chức Trú trì chùa Phổ Quang ở cố đô Huế. Những văn nhân nghệ sĩ tên tuổi thời bấy giờ như cụ Trần Văn Giáp, Phạm Quỳnh, Khái Hưng . . . đều đặn đến chùa Phổ Quang đàm đạo với Thiền sư.

Năm 1946, Thiền sư tham gia Phong trào Phật giáo cứu quốc khi Chính phủ Lâm thời tổ chức Tổng tuyển cử, Thiền sư được đề cử ra ứng cử đơn vị Thừa Thiên và đắc cử Đại biểu Quốc Hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cũng năm 1946 này, Thiền sư được mời làm Chủ tịch ủy ban Phật giáo Cứu quốc tỉnh Thừa Thiên. Trong những năm sơ tán, Thiền sư về ở Nghệ An và viên tịch tại đây.

Thiền sư trụ thế 49 năm, thị tịch năm 1961 tại Nghệ An. Những tác phẩm của Thiền sư đã xuất bản từ năm 1941-1957 gồm có :

- Phật giáo yếu lược.

- Phật giáo khái luận.

- Cải tổ sơn môn.

- Xuân đạo lý.

- Đại thừa Vô lượng nghĩa.

- Việt Nam Phật giáo sử lược.

Trong thời gian ở Nghệ An, Thiền sư đã phiên dịch và trước tác Kinh Luật Luận rất nhiều, nhưng hiện nay đã thất lạc vì chiến tranh. Tháp của Thiền sư hiện đã được cải táng ở chùa Trúc Lâm - Huế.

 Phần tiểu sử có tham khảo lời Sư bà Diệu Không kể do Lệ Như ghi năm 1985. Tiểu sử này được công bố năm 2004

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro