Nhà văn Kim Lân là minh chứng cho chân lý "quý hồ tinh bất quý hồ đa" trong
nghệ thuật. Ông viết ít nhưng tác phẩm của ông ngày càng được nhớ đến nhiều, thậm chí
có những trang viết được tôn vinh "không phải người viết mà là thần viết, thần đã mượn tay
người để viết lên những trang bất hủ" (Nguyễn Khải). "Vợ nhặt" - tiền thân là tiểu thuyết
"xóm ngụ cư", in trong tập "Con chó xấu xí" xuất bản năm 1962 - chính là một tác phẩm
như thế. Truyện đã khám phá cảnh ngộ, thân phận rẻ rúng, bọt bèo và vẻ đẹp khuất lấp
của người nông dân trong nạn đói 1945. Đọc truyện, ta không thể không ấn tượng với nhân vật...
Nếu như người dân Nhật không bao giờ cho phép mình quên sự thảm khốc khi Mĩ ném hai quả bom
nguyên tử xuống và Nagasaki thì người Việt Nam lại không thể quên năm 1945 bởi nạn
đói chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Cho đến giờ, người ta vẫn nhắc về nạn đói năm đó
như nỗi kinh hoàng nhất. Trong Vợ nhặt, cái đói, cái chết xuất hiện như một nhân vật có mặt
khắp nơi. Người sống xanh xám như những bóng ma và người chết như ngả rạ. Cõi sống lại
như cõi chết, lúc nào cũng vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. Cố âm
thanh đấy, nhưng không còn là tiếng cười đùa ríu ran của bầy trẻ mà là tiếng quạ cứ gào lên
từng hồi thê thiết nghe thảm não.
Trong khung cảnh đó, nhân vật Tràng hiện lên như một con người hoang sơ
ngật ngưỡng bước đi trong ánh chiều tàn của một cuộc sống không ra cuộc sống. Trong tác
phẩm nhân vật Tràng xuất hiện với hình ảnh: là một gã trai nghèo khổ, dân cư ngụ, làm
nghề đẩy xe bò thuê, nuôi mẹ già.
Dân cư ngụ là nhưng người vốn từ nơi khác đến. Vì thế, dân cư ngụ không
có ruộng đất, những thứ vô cùng quan trọng đối với người
nôn dân thời xưa. Đã vậy, họ
còn bị phân biệt đối xử, thường phải ở nơi bìa làng, hoặc ở chỗ hẻo lánh. Nhà cửa
của anh ta, cái được gọi là "nhà" thì luôn vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc
lổn nhổn những búi cỏ dại.
Hơn nữa, vì là dân ngụ cư, Tràng bị coi khinh, chẳng mấy
ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi anh ta đi làm về. Tràng có ngoại hình
xấu xí, thô kệch. Mỗi buổi chiều về, hắn bước ngật ngưỡng trên con đuờng khẳng khiu luồn qua
cái xóm chợ của những người ngụ cư vào bên trong bến.
Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười,
hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm
cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa
dữ tợn... Còn đầu của Tràng thì cạo trọc nhẵn, cái lưng to rộng như lưng gấu, ngay cả cái cuời
cũng lạ, cứ phải ngửa mặt lên cười hềnh hệnh.
Tràng là người vô tư, nông cạn. Tràng là người hầu như không biết tính toán,
không ý thức hết hoàn cảnh của mình. Anh ta thích chơi với trẻ con và chẳng khác chúng là
mấy. Mỗi lần Tràng đi làm về, trẻ con trong xóm cứ thấy cái thân hình to lớn, vập vạp của
hắn dốc chợ đi xuống là ùa ra vây lấy hắn, reo cười váng lên.
Rồi chúng, đứa túm đằng
trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi. Khi ấy, Tràng chỉ
ngửa mặt lên cười hềnh hệch. Anh với lũ trẻ con như anh em, bè bạn và cái xóm ngụ cư ấy
mỗi chiều lại xôn xao lên được một chút. Ngay cả chuyện quan trong như lấy vợ, Tràng
cũng chỉ quyết định trong chốc lát.
Đó là lần gò lưng kê cái xe thóc vào dốc tỉnh, Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc.
Chủ tâm của anh ta là vui đùa. Thế rồi, một người đàn bà đang đói bám lấy để được ăn
bánh, Tràng cũng vui vẻ chấp nhận. Lần thứ hai, cô ta tới ăn vạ, Tràng chấp nhận đưa về
nhà để thành... vợ chồng! Thật, xưa nay chưa có ai quyết định việc lấy vợ nhanh chóng như Tràng!
Bên cạnh cái tính cách vô tư nông cạn Tràng còn toát lên là một người đàn
ông nhân hậu phóng khoáng. Ban đầu Tràng không chủ tâm tìm vợ. Thấy người đàn bà đói,
anh cho ăn. Khi thấy thị quyết theo mình thì Tràng vui vẻ chấp nhận. Tràng lấy vợ trước
hết vì lòng thương đối với một con người đói khát hơn mình.
Và khi người phụ nữ chấp nhận
làm vợ, Tràng đã có ý thức chăm sóc: Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua
cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê...
Anh còn mua hai hào dầu thắp để vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí. Lấy nhau chẳng
phải vì tình, lại "nhặt vợ" một cách dễ dàng, nhưng không vì thế mà Tràng coi thường người vợ của mình.
Anh muốn làm cho người ấy được vui (khoe mua dầu về thắp sáng), có lúc muốn thân mật nhưng không
dám suồng sã. Tràng trân trọng, nâng niu hạnh phúc mà mình có được: "Trong lúc
Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả đói khát ghê
gớm đang đe doạ, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn
tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở
người đàn ông nghò khổ ấy, nó ôm ấp mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay
vuốt ve nhẹ trên sống lưng".
Khi "nhặt" vợ về, Tràng không phải là không biết suy nghĩ.
Mới đầu Tràng cũng chợn (sợ), nghĩ: "thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có
nuôi nổi không, lại còn đèo bòng". Nhưng rồi anh lại tặc lưỡi một cái: "Chậc, kệ!". Một
quyết định có vẻ rất tầm thường với một sự việc hết sức trọng đại trong thời điểm bấy giờ.
Nhưng ta có thể hiều rằng, cái tặc lưỡi đó đồng nghĩa với việc là Tràng đã đánh
cuộc với đời, với cái nghèo đói, để sống "đầy đủ" cuộc sống bình thường như mọi người. Đó
là khát vọng làm người mà một kẻ thô kệch, chất phác như Tràng vẫn có đã khiến Tràng
liều lĩnh một phen. Và Tràng cũng đã được đền bù: "Trong một lúc, Tràng hình như quên
hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa
từng ngày, và quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình
nghĩa giữa hắn và ngừơi đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người
đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay
vuốt nhẹ trên sống lưng.".
Qua đó, Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc những cảm xúc:
khác với những người có đầu óc bi quan thường nghi, sự đói khát, nghèo khổ không làm
giảm đi giá trị của lòng người. Bao giờ cái hạnh phúc được thương yêu cũng qúy hơn tất
cả, ngay cả khi người ta tưởng như rằng không còn cần gì hơn là một miếng cơm ăn.
Con người ai ai cũng mong có được hạnh phúc. Với Kim Lân, hạnh phúc lại có thể
làm thay đổi cả một con người như chính Tràng chẳng hạn. Tràng hôm nay đã không còn
giống như Tràng của những ngày hôm qua.
Anh Tràng hôm nay ngượng nghịu, khổ sở, tay nọ xoa xoa mãi vai kia, chỉ vì đi
bên một người đàn bà một nơi vắng vẻ, muốn buông một câu tình tứ mà chịu không sao nói
nổi. Rồi đến khi vợ hỏi, anh chàng to xác ấy lại trả lời một cách đến là vô cùng ngờ
nghệch,ngây thơ: "Có một mình tui mấy u".
Ắt hẳn nhiều người sẽ cười Tràng, cũng đúng thôi, nhưng có ai đã từng sống qua
mà không thấy: có những cái ngượng nghịu, cái ngẩn ngơ, những sự "khổ sở êm ái" chỉ
đến với con người vào những phút giây thật là hạnh phúc. Cái xúc động mà Tràng đang có
vào buổi lần đầu đi bên người vợ nhặt, ngẫm ra cũng không ít điều xót xa, cay đắng, nhưng ít
nhất cũng là một thứ xúc động, lâng lâng, bồi hồi, biến người đàn ông thô nhám và
chai sạn thành một đứa trẻ lớn tuổi hiền lành.
Cái chi tiết Tràng khoe chai dầu con trong tay cũng thế. Có lẽ cũng nên nhận
ra dưới cái cười, một tiếng thở dài thương cảm cho những kiếp người mà cuộc đời khốn
khổ đến mức việc mua có hai hào dầu là cũng đã là một cái gì hoang phí lắm,một cử chỉ có vẻ lãng mạn, ga-lăng lắm.
Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm. Anh
ngoan ngoãn với mẹ, tránh gợi niềm tủi hờn ở người khác. Đặc biệt, đối với Tràng, có vợ là
bước sang một quãng đời khác: "Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới
trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa trong mơ đi ra.".
Từ một anh phu xe cục mịch, chỉ biết việc trước mắt, sống vô tư, Tràng đã là
người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống
thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi, đây là điều
hiếm có đối với Tràng xưa nay.
Trong ý nghĩ cua anh lại vụt hiện ra cảnh những người
nghèo đói ầm ầm keo nhau đi trên đê Sốp để cướp kho thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ
đỏ to lắm. Tràng nhớ tới cảnh ấy và lòng ân hận, tiếc rẻ và trong óc vẫn thấy đám người
đói và lá cờ bay phấp phới...
Tràng đã mở đầu cho câu chuyện Vợ nhặt bằng những
bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ
cư vào buổi chiều chạng vạng mặt người và cũng chính anh đã kết thúc câu chuyện ấy vào
buổi sớm mai với một hình ảnh mới lạ về đoàn người nghèo đói vùng lên dưới bóng lá cờ đỏ bay phất phới.
Cuộc đời của Tràng tiêu biểu cho số phận của người dân nghèo trước cách mạng tháng Tám. Khi
chưa có nạn đói thì nghèo đến nỗi không lấy nổi vợ (con trai lão Hạc trong tác phẩm cùng
tên Nam Cao cũng vì nghèo không lấy vợ, phẫn chí mà bỏ đi làm mộ phu), trong nạn đói
lại lấy vợ, niềm hạnh phúc đan xen với bất hạnh.
Cuộc đời của những người như Tràng nếu không có một sự thay đổi mang tính đột
biến của cả xã hội sẽ sống mãi trong sự tăm tối, đói khát. Ở Tràng, tuy chưa có được sự
thay đổi đó, nhưng cuộc sống đã bắt đầu hé mở cho anh một hướng đi.
Đó là con đường đến với cách mạng một cách tự nhiên và tất yếu mà những người như Tràng sẽ đi
và trong thực tế lịch sử, người nông dân Việt Nam đã đi. Nghệ thuật xây dựng nhân vật của
nhà văn. Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật Tràng với đầy đủ diện mạo, ngôn ngữ, hành động,
đặc biệt là diễn biến tâm trạng của Tràng bằng ngòi bút sắc sảo.
Truyện mở ra là buổi chiều chạng vạng mặt người và khép lại trong "ánh nắng buổi
sáng mùa hè sáng loá". Mở đầu là một anh Tràng cô đơn bước cao bước thấp trên con đường
khẳng khiu dưới ánh chiều mờ của một gầm trời đầy đói khát, nhưng kết thúc là Tràng đã có
một gia đình, mọi người đang xăm xắn quét tước, thu dọn nhà cửa cho quang qủe và cố
làm cho nhau vui trước một bữa ăn loãng thếch và đắng chát, và cũng có len lỏi vào đó
một nỗi tủi hờn trước việc phải ăn món ăn vốn không phải là của con người, rồi lại tiếng
trống thúc thuế trên mảnh đất đầy người chết đói, xua đoàn quạ hốt hoảng vù bay, khiến nền trời thành đen vẩn.
Song lại có câu chiện về phá kho thóc Nhật và hình ảnh lá cờ đõ phấp phới
trong óc Tràng. Anh đã nhận thức được con đường để thoát nghèo đói là đấu tranh, hình
ảnh lá cờ soi sáng anh đi đến lý tưởng đúng đắn nói riêng,và tinh thần đấu tranh của người
nông dân đang thôi thúc họ mạnh mẽ thoát khỏi kiếp nghèo và một ngọn lửa hy
vọng rực cháy về một tương lai sáng sủa, một khát vọng tình yêu, hơi ấm gia đình, hoà bình và tự do.
Qua đó Kim Lân đã gửi gắm tiếng nói chung của những người nông dân rũ bùn
đứng dậy sáng loà, chiến đấu vì đất nứơc, vì để thoát khỏi số phận tối tăm trứơc mắt. Hình
dáng người nông dân nổi bật trước lá cờ đỏ sao vàng, lá cờ lý tưởng cách mạng, lá cờ của niềm tin chiến thắng.
Qua nhận vật Tràng, không những nhà văn phản ánh một mặt trận đen tối trong hiện thực xã hội trước
năm 1945 cùng số phận của người dân nghèo mà còn phát hiện vẻ đẹp tâm hồn cua họ.
Có thể nói, tác phẩm truyện ngắn "Vợ Nhặt" của Kim Lân là một sự tiếp nối của những tác
phẩm văn chương hiện thực phê phán như của Nam Cao, Tô Hoài,...từ trước Cách mạng
tháng Tám. Vẫn những mảnh đời éo le, bất hạnh, hay gặp những mảnh đời khó khăn
trong những tình huống dở khóc dở cười, hay trong tác phẩm này, chúng ta lại thấy
một cuộc sống của những người nông dân sau Cách mạng trong cái đói nghèo của một xã
hội cần được phải cải thiện mới, đó là những người có một tâm hồn trong sáng, tràn đầy lòng yêu thương, luôn luôn ấp
ủ trong tâm hồn mình những hy vọng, ước ao nhỏ bé, hồn hậu.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro