Chương 2: Biện pháp cũ , biện pháp mới và biện pháp đối phó

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

BIỆN PHÁP CŨ, BIỆN PHÁP MỚI VÀ BIỆN PHÁP ĐỐI PHÓ

Bà Barbara đã đăng ký trước một buổi trị liệu tại "Văn phòng Nghiên cứu Cơn Giận" của tôi, nhưng sau đó lại gọi điện tới xin hủy cuộc hẹn. Bằng một giọng vừa phẫn uất vừa đau khổ, bà nói như sau:

– "Tôi thật tình muốn tới phòng làm việc của bà, nhưng chồng tôi đã chà đạp ước nguyện đó của tôi. Tôi đấu tranh với anh ấy tới xanh máu mặt mà anh ấy vẫn không chịu để tôi đi".

– "Vì sao ông ấy phản đối?", tôi hỏi.

– "Anh ấy phản đối bà. Anh ấy nói bà là kẻ phỉ báng nữ giới và phòng trị liệu của bà không đáng đồng tiền bát gạo. Tôi đã cãi rằng bà là một nhà tâm lý học nổi tiếng và phòng trị liệu của bà nhất định có hiệu quả. Tôi tin chắc là sẽ không tốn tiền vô ích, nhưng vẫn không thuyết phục được anh ấy. Anh ấy vẫn khăng khăng đáp: Không!".

– "Thật đáng tiếc", tôi nói.

– "Vâng, tôi cũng thấy vậy", bà ta tiếp. "Tôi bị nhức đầu kinh khủng kể từ đấy và đã khóc sướt mướt. Dầu sao thì tôi cũng đã đấu tranh dữ dằn. Thực tế thì chồng tôi đồng ý là tôi cần được giúp đỡ cách nào đó, vì khi nổi giận, tôi có thái độ thật hung hãn"...

– Tôi đặt ống nghe xuống và nghĩ về cuộc đối thoại ngắn ngủi vừa qua. Rõ ràng là bà ta không bị buộc phải hủy bỏ vụ đăng ký. Bà hoàn toàn có thể chọn một cách hành động khác. Tuy nhiên, bà đã không thể chọn được cách làm nào khác mà không gánh chịu những hậu quả. Có lẽ hậu quả khiến bà phải chú tâm e ngại nhất là mối liên hệ hết sức quan trọng của bà bị đổ vỡ.

Phản ứng của bạn về cuộc điện đàm này ra sao?

Bạn có nghĩ rằng: "Chồng bà ta quả là một kẻ độc tài", hay: "Ông ta mới dễ giao động, dễ sợ hãi làm sao"...?

Bạn có nghĩ: "Mình cảm thấy tội nghiệp cho người đàn bà đáng thương này", hay: "Người đàn bà khổ dục này hẳn đã từng phải nhờ đến tâm lý trị liệu"...?

Hoặc: "Sao bà ta không tự mình quyết định tới phòng trị liệu?"

Bạn có nghĩ: "Ông chồng này thật đáng trách. Sao ông ta có thể cư xử như vậy đối với vợ?", hay: "Bà ta thật đáng trách. Sao lại có thể để ông ta quyết định về cuộc sống của mình"...?

Hoặc: "Xã hội thật đáng trách. Đáng buồn biết bao khi chúng ta dạy cho nam giới xử sự như thế và dạy cho nữ giới cam chịu như thế"...?

Bạn có nghĩ: "Bà ta nổi giận vì ông chồng đã không cho tới phòng trị liệu", hay: "Bà ta giận dữ là vì thấy mình nhượng bộ"...?

Bạn có nghĩ: "Tôi có thể thấy chính mình nơi bà ta", hay "Tôi không quen làm như bà ta chút nào"...?

Mỗi chúng ta có thể có phản ứng riêng về những gì bà Barbara nói: Nhiều người trong chúng ta không muốn đồng hóa mình với Barbara trong câu chuyện của bà. Song, cung cách hành động và cảm nghĩ của bà không hề là điều chúng ta hiếm thấy hay là chỉ có ở thời xa xưa.

Bà ta cam chịu hoàn cảnh bất công.

Bà không cảm thấy kiểm soát được đời mình.

Bà không nắm vững được đâu là những vấn đề thực.

Bà không nhận rõ được trách nhiệm của chính bà trong việc góp phần vào tình thế tiến thoái lưỡng nan của bà.

Bà hy sinh sự tăng trưởng của mình để ủng hộ và bao che chồng.

Bà duy trì nguyên trạng mối liên hệ hôn nhân, cam chịu thiệt thòi cho bản ngã.

Bà không thử xem mối liên hệ hôn nhân có thể uyển chuyển bao dung cho sự đổi thay của bản thân tới mức nào.

Bà cảm thấy bơ vơ và bất lực.

Bà chuyển giận dữ thành nước mắt.

Bà bị nhức đầu.

Bà không tự yêu mình.

Bà tin rằng mình đã hành động tệ hại.

Có điều nào trên đây xa lạ với bạn? Chắc là không. Hoặc một, hoặc tất cả những điều trên đây sẽ xảy tới với chúng ta khi chúng ta tham gia một cuộc đấu tranh và trách móc vô hiệu quả, hay kh chúng ta thấy ngại đấu tranh.

Không giống như một số phụ nữ không dám bất đồng ý kiến với chồng hay với người yêu, bà Barbara không có vấn đề gì phải giận dữ. Vấn đề của bà là đấu tranh cách nào để không có đổi thay. bảo vệ chồng, bảo vệ nguyên trạng mối quan hệ giữa hai người, và cam chịu thiệt thòi cho sự tăng trưởng của chính mình. Cứ tiếp tục như vậy khi nào còn có thể, bà Barbara đã không dám đương đầu với một quy tắc căn bản trong mối quan hệ đó: bà phải nhường chồng quyền điều khiển. Bà "tự từ bỏ bản ngã" vì chồng.

Thế nào là "tự từ bỏ bản ngã"? Rõ ràng là chúng ta không luôn luôn được hành xử theo cách của mình hay muốn làm gì thì làm trong mọi mối liên hệ. Không thể tránh xảy ra mâu thuẫn, nhất là khi hai người cùng sống dưới một mái nhà, cho nên chắc chắn có những lúc cần phải có sự tương nhượng, điều đình, kẻ này lấy, người kia cho. Nếu ông chồng không ưa phòng trị liệu và phòng trị liệu đó cũng chưa thực sự quan trọng đối với mình, thì bà Barbara có thể quyết định quên nó đi. Điều này tự nó không thành vấn đề.

Vấn đề xuất hiện khi một người – thường là người vợ – nhượng bộ, chịu đựng hơn là chia sẻ trách nhiệm và thiếu sáng suốt mỗi khi cần kiểm soát, quyết định, chọn lựa. "Tự từ bỏ bản ngã" có nghĩa là để phần lớn bản ngã mình (như suy nghĩ, ước muốn, tin tưởng, tham vọng...) có thể "thương lượng lại' dưới áp lực của mối liên hệ. Kể cả khi để bản ngã cam chịu thỏa hiệp quá nhiều, đương sự vẫn không ý thức được điều đó, vẫn tự động "nộp phần thuế" không thể từ khước được. Kẻ chịu hy sinh phần lớn bản ngã thường tích tụ nơi mình những ẩn ức giận dữ mạnh nhất và đặc biệt dễ bị chán nản ngã lòng, tạo thành những vấn đề xúc cảm khác. Người vợ đó (đôi khi cũng có thể là người chồng đó) sau cùng đành phải tới phòng trị liệu tâm lý, hoặc bệnh viện nội khoa hay bệnh viện tâm thần, và nói: "Xin cho biết cái gì trục trặc trong mối liên hệ nơi tôi" thay vì hỏi: "Xin cho hay cái gì trục trặc trong mối liên hệ của chúng tôi". Hoặc giả nàng (hay chàng) có thể lại nổi giận không đúng lúc về những chuyện không đáng, đến nỗi có thể khiến người chung quanh đánh giá là khùng, bệnh hoạn hoặc thiếu lý trí.

Một hình thức tự từ bỏ bản ngã chung của nữ giới được mệnh danh là "bất cập". Mô hình "kẻ cư xử bất cập – người cư xử quá đáng" là một mô hình quen thuộc trong các cuộc sống lứa đôi. Mô hình này thể hiện ra sao? Những công trình nghiên cứu liên hệ hôn nhân đã chứng minh rằng: khi nam nữ thành đôi, và trong suốt thời gian chung sống, thường mỗi bên vẫn giữ nguyên mức độ độc lập về nhân cách cũng như mức độ trưởng thành về xúc cảm. Giống như một trò chơi cò cưa, khi một bên cư xử bất cập, thì điều đó cho phép bên kia hành xử quá đáng.

Chẳng hạn bà vợ muốn ngày càng cố thủ trong vai trò một kẻ yếu, có nhược điểm, chịu lệ thuộc – nói một cách khác: một bạn đồng hành kém chức năng – thì chồng bà cũng theo chừng mực đó mà phủ nhận chính những yếu đuối, nhược điểm, lệ thuộc nơi bản ngã ông. Ông có thể huy động phần lớn năng lực cảm xúc của mình để phản ứng lại những vấn đề của vợ thay vì tìm hiểu và chia sẻ. "Kẻ bất cập" và "người quá đáng" kích thích lẫn nhau, củng cố lẫn nhau, đến nỗi trò chơi đó ngày càng khó giữ được thế quân bình. Người chồng càng tránh chia sẻ những yếu kém, nhu cầu và nhược điểm của chính ông thì người vợ càng dày thêm kinh nghiệm trong việc biểu lộ những điều đó nơi bà. Người vợ càng tránh biểu lộ những khả năng và sở trường của bà, người chồng càng vênh váo tự mãn về những thứ đó nơi ông. Và khi "kẻ bất cập" trông có vẻ khá hơn thì "người quá đáng" trông có vẻ tồi đi.

Cuộc điện đàm ngắn giữa tôi với bà Barbara gợi ý rằng bà thuộc mẫu người cư xử bất cập trong cuộc sống lứa đôi của bà. Dĩ nhiên không phải lúc nào kẻ đóng vai yếu kém trong trò chơi cò cưa này cũng là người đàn bà. Có những liên hệ hôn nhân mà trong đó người chồng thủ vai kẻ bất cập. Trên thực tế, có những cuộc dàn xếp êm đẹp mà cũng có những cuộc dàn xếp hụt hẫng. Có những cặp hai bên ai giữ vai nấy trong suốt thời gian yêu nhau, mà cũng có trường hợp người này ganh đua với người kia xem ai yếu kém hơn ai – vị thế của "kẻ đứng dưới" cứ mãi đi xuống.

Điều quan trọng là: vị thế đứng dưới trong cuộc ganh đua này thường dành cho nữ giới, theo tập tục văn hóa quyết định. Trong khi nhiều phụ nữ trong chúng ta dư sức thách thức và lật ngược qui định trên, thì qui định đó vẫn cứ được tồn tại nhân danh chính "nữ tính" của chúng ta, và vẫn hoàn toàn đề cao thế mạnh của nam giới. Phái nữ phải được tích cực dạy dỗ để nuôi dưỡng và biểu lộ những phẩm chất mà thâm tâm nam giới e ngại, không muốn vì sợ bị coi là yếu kém.

Dĩ nhiên, những giáo điều văn hóa muốn làm nản lòng nữ giới trong việc ganh đua với nam giới hoặc khuyên răn nữ giới không nên giận dữ với nam giới đều nghịch lý, chẳng hạn cho rằng chúng ta đã tự làm "nữ tính" của mình bị tổn thương, đã biến mình thành "kẻ phá hoại" dưới mắt nam giới, chỉ vì chúng ta đơn thuần muốn chúng ta.

Chắc chắn là những mệnh lệnh cũ kỹ đòi chúng ta hãy "giả câm", "hãy để nam giới thắng", "hãy coi chàng như chủ nhân ông"...đều không còn hợp thời nữa. Vậy mà những thông điệp đó vẫn còn là quy tắc chỉ đạo trong vô thức của biết bao phụ nữ. "Phái yếu" phải bao che cho "phái khỏe", phải giúp phái khỏe đừng nhận ra sức mạnh của phải yếu để phái khỏe khỏi cảm thấy yếu đi vì sức mạnh của phái yếu. Chúng ta học cách hành động yếu kém, học cách từ bỏ sức mạnh của mình để giúp nam giới cảm thấy mạnh hơn.

Có nhiều hình thức hành xử "bất cập". Có thể tế nhị như trường hợp người vợ từ bỏ một dịp may có công ăn việc làm. Có thể nàng né tránh một thách thức đổi mới khi thấy chồng kín đáo tỏ ý muốn hoàn cảnh được giữ nguyên như cũ, hay khi thấy sự đổi thay đó có thể làm chàng e ngại. Có thể nàng bao che chàng bằng cách tự giam mình trong những công việc mà chàng không ưng làm, đồng thời tránh nhận thức, tránh phát triển tài năng vào những lãnh vực "của chàng'. Trong tiến trình này, nàng có thể gặp những vấn đề khó khăn về xúc cảm và thể chất. Dưới những lời thở than của nàng là một niềm tin vô thức – đinh ninh rằng mình có ở một vị trí tương đối yếu kém như vậy thì mối liên hệ quan trọng bậc nhất kia mới tồn tại được. Nếu người nữ cứ tiếp tục tin tưởng rằng mình không thể tồn tại khi đánh mất mối liên hệ, thì nàng sẽ cư xử như bà Barbara: giải tỏa cơn giận, nhưng chỉ để tình trạng cũ – nguồn gốc của cơn giận – càng được cũng cố thêm.

TRÁCH CỨ VÔ HIỆU – ĐÒI HỎI HỮU HIỆU

Vì sao mà đấu tranh và trách móc thực sự ngăn cản sự đổi thay hơn là làm dễ dàng cho nó? Chúng tay hãy phân tích trường hợp bà Barbara một cách kỹ lưỡng hơn. Thoạt bà Barbara tham dự một cuộc đấu tranh không lối thoát về việc tới phòng trị liệu. Bà sử dụng năng lực giận dữ của mình vào việc mong chồng thay đổi cách đánh giá của ông về phòng trị liệu, sao cho giống như cách bà đánh giá. Có hai vấn đề trong việc bà muốn chồng thay đổi ý kiến: thứ nhất, chồng bà – cũng như bà vậy – có quyền và có trí phán đoán riêng của ông; thứ hai, bà có thể đoán trước là khó mà đạt được thành công: kinh nghiệm cũ đã cho bà hay là chồng bà đặc biệt không thích phòng trị liệu đó.

Vì nhập cuộc chiến đấu với ý nghĩ rằng mình chỉ có thể thất bại, nên bà đã không sử dụng được sức mạnh mà nhất định bà có, sức mạnh chịu trách nhiệm về bản ngã của mình. Bà Barbara đã có thể khởi sự bước khỏi vị trí tự từ bỏ bản ngã nếu như bà quyết tâm làm sáng tỏ ưu thế của mình và hành động theo ý mình. Lẽ ra bà nên từ bỏ hẳn cuộc đấu tranh và nói thẳng với chồng rằng: "Dù tốt hay xấu, hiệu quả hay không, phòng trị liệu đó vẫn cần thiết cho em. Nếu có thể hủy vụ đăng ký chỉ vì anh muốn vậy thì em đã thôi ngay cơn giận dữ này rồi. Em vẫn thấy là em cần đi tới đó!".

Cái gì đã ngăn cấm bà Barbara không được thoát ra khỏi cuộc đấu tranh và than van vô hiệu quả để làm sáng tỏ và xác định nhu cầu của mình? Có lẽ bà e ngại phải trả giá quá cao cho biện pháp này. Phần lớn trong chúng ta đã đấu tranh vô hiệu quả – cũng giống như một số khác vốn không chịu đấu tranh – đều chung một niềm tin trong vô thức rằng: người kia hẳn phải qua một thời kỳ gay go, khó khăn lắm nếu như chúng ta tỏ vẻ sáng suốt và dũng mãnh. Nỗi lo âu và mặc cảm phạm lỗi này cản trở không cho chúng ta dễ dàng có thái độ quyết tâm đổi thay tình trạng cũ, chưa hết, sau đó chúng vẫn còn làm ta vướng bận khi người kia phản ứng mãnh liệt đối với thái độ mới lạ của ta.

Tạo nên đổi thay – chấp nhận thay đổi

Cái gì xảy ra nếu bà Barbara làm một điều gì khác để lập trường mới được sáng tỏ dưới mắt ông chồng? Cái gì xảy ra nếu bà tiếp cận ông vào lúc ông sẵn sàng chấp nhận nghe bà để khẳng định lập trường của mình một cách không giận dữ, không khóc lóc? Tỉ như bà nói: "Em biết anh cho là phòng trị liệu đó không đáng đồng tiền, và em chấp nhận đó là ý kiến của riêng anh. Tuy nhiên, em là một người đàn bà trưởng thành và em cần thực hiện quyết định của chính mình. Em không đòi hỏi anh phải đánh giá cao phòng trị liệu đó hay tán thành việc em đi tới đó, nhưng quả thực là em cần phải thực hiện điều đó cho chính em".

Chúng ta hãy tưởng tượng bà Barbara có thể cương quyết trong vấn đề này ("Em muốn thực hiện quyết định của chính em"), không né tránh nói chệch sang những điểm khác như giá trị của phòng trị liệu hay uy tín của nhà trị liệu. Hãy giả dụ bà không đấu tranh, không trách móc, không kết tội hay tìm cách thay đổi suy nghĩ của chồng, mà chỉ giữ nguyên lời phát biểu điều bà muốn làm: "Dù đúng hay sai, tốt hay xấu, em vẫn phải thực hiện điều này cho chính em".

Điều gì sẽ xảy ra? Điều gì sẽ tới với cặp vợ chồng này nếu bà Barbara thách thức hoàn cảnh đó bằng cách khẳng định sẽ đi tới phòng trị liệu ? Ông chồng bà sau đó sẽ đối phó ra sao? Liệu ông có tuyên bố thẳng: "Em mà đi, anh sẽ bỏ em!" ? Liệu ông có chẳng nói chẳng rằng, rồi sau đó lại dằn mạnh cái ghế, gây sự, hay lạm dụng theo một đường hướng nào đó? Liệu ông có phản ứng hòa nhã hơn, rồi trở nên gắt gỏng hay âu sầu trong nhiều ngày?

Dĩ nhiên, chúng ta không có được một ý nhỏ nào. Chúng ta biết quá ít về cặp vợ chồng này. Có một điều chắc chắn: khi người này thực hiện một biện pháp để đạt lại thế quân bình trong trò chơi cò cưa, người kia thế nào cũng có biện pháp đối phó. Nếu bà Barbara cư xử theo kiểu mới đó, chồng bà chắc sẽ có phản ứng nghịch chiều hầu làm giảm âu lo của ông và phục hồi lại thế đấu tranh quen thuộc cũ. Nếu phản ứng này không xảy ra, có thể là vì ông không còn yêu vợ nữa, hoặc vì trước đây ông có ngán phòng trị liệu này thật nhưng giờ đây ông còn ngán hơn về mức độ mới trong thái độ khẳng định, riêng rẽ và trưởng thành mà bà Barbara đã chứng tỏ.

Lập trường mới của bà Barbara có dính líu tới những vấn đề xa hơn vấn đề tới phòng trị liệu. Nó hàm ý rằng có những việc mà bà biết là thuộc trách nhiệm của riêng bà, không phải của ông, và bà chịu trách nhiệm về chúng. Nó còn hàm ý rằng với sự kiện bà bình tĩnh và cương quyết như vậy, bà không còn là người đàn bà cũ mà ông đã kết hôn, người đàn bà đã đã mang đến cho ông cảm giác thoải mái, an toàn. Riêng phía bà cũng vậy, bà cảm thấy rất lo âu và ngờ vực khi cư xử theo lập trường khác hẳn này. Ngoài việc tự khẳng định mình hơn và giữ thế đứng tách biệt hơn trong một mối liên hệ quan trọng, kể cả việc giữ vững lập trường mới này bất chấp những biện pháp đối phó với người kia, thì có một số điều khác còn gây ra âu lo nhiều hơn thế nữa.

Giả dụ bà Barbara vẫn sử dụng được năng lực giận dữ để tự soi sáng những chọn lựa của mình và tìm cách hành động mới cho tình cảnh cũ của mình, nhưng bà vẫn từ chối tỏ ra với chồng một thái độ bất thường nào đó, thì điều này vẫn có thể giúp bà bớt đi được những hậu quả của việc tự từ bỏ bản ngã và cư xử bất cập bấy lâu (như nhức đầu, cảm thấy kém tự trọng, cay đắng, bất mãn kinh niên...ấy là chỉ mới kể một số ít). Tuy nhiên vẫn có cái giá mà bà phải trả: đó là cảm thấy liên hệ hôn nhân của mình tựa như chao động hơn bao giờ hết – ít là trong một thời gian – và những vấn đề, những mâu thuẫn tiềm ẩn sẽ bắt đầu nổi lên bề mặt ý thức của bà. Bà có thể phải bắt đầu tự hỏi: "Ai chịu trách nhiệm định đoạt đời tôi?", "Tôi sẽ vững chải hơn và đòi phần thẩm quyền của tôi trong mối liên hệ này như thế nào đây?", "Điều gì sẽ xảy ra cho mối liên hệ này nếu tôi ngày một trở nên mạnh hơn, khẳng định hơn?", "Nếu phải lựa chọn: hoặc giữ cho cuộc sống chung êm thắm bằng cách hy sinh mình, hoặc mối hôn nhân có nguy cơ bị gãy đổ, thì tôi sẽ chọn bên nào?".

Có thể bà Barbara chưa thực sự sẵn sàng đối đầu với những vấn đề đáng ngại đó vào lúc này. Có thể bà ít được yểm trợ trong cuộc mạo hiểm đó. Có thể bà nghĩ rằng thà có được bất kỳ mối liên hệ nào còn hơn là không có gì cả...Tất cả những gì chúng ta biết, là chính bà cũng e ngại việc tới phòng trị liệu và – một cách vô thức – để cho chống bà biểu lộ những cảm giác tiêu cực về việc đó cho cả hai.

Điều quan trọng là: phải công nhận có hiểm nguy thực sự ơ đây. Nếu bà Barbara đã có thái độ dứt khoát về việc đến phòng trị liệu, bà sẽ không sao tránh được cảm tưởng rằng nơi mình cũng đang hình thành một lập trường thường trực cho những vấn đề khác nữa, rằng mình đang trong quá trình thay đổi cung cách cũ, trong khi mình và chồng vốn đã từng hòa hợp khăng khít với nhau – như hai phần của một câu đố – đến thế nào! Liệu ông có thể xa lìa bà vì điều này? Hay liệu chính bà – trong tiến trình thay đổi bản thân – nghĩ rằng cần phải xa ông?...Ít nhất thì giờ đây bà Barbara vẫn còn chọn thái độ bao che cho chồng và tiếp tục sống theo nếp cũ của bà. Đó không phải đơn giản chỉ là một thái độ "phục tùng thụ động", mà có thể là một "chọn lựa tích cực" để bảo vệ nhịp điệu thân thuộc và yên ổn cho mối liên hệ quan trọng bậc nhất – liên hệ hôn nhân – của bà.

HÒA BÌNH BẰNG MỌI GIÁ:

Theo một cách nhìn nào đó, bà Barbara không hẳn "mất nhiều tự do" như bề ngoài có vẻ. Bà vẫn có thể biểu lộ suy nghĩ, ý kiến khác biệt với chồng. Bà vẫn nhận ra rằng điều bà muốn cho mình khác với điều chồng muốn cho mình. Bà cũng tự biết những ưu thế của mình trong việc quyết định hay không tới phòng trị liệu...Ít nhất thì trong trường hợp này, bà chọn nhượng bộ chồng hơn là để con thuyền hôn phối va phải ghềnh đá.

Nhiều người trong chúng ta đã làm những cuộc chọn lựa như vậy mà không thực sự ý thức được cái gì đã khiến chúng ta làm như thế, vì sao chúng ta làm thế. Chúng ta không để cho bản thân ý thức được mình muốn gì. Chúng ta tránh không để mình có suy nghĩ hay ý kiến gì mới vì sợ có thể đưa đến sự bất đồng và mâu thuẫn công khai trong những mối liên hệ thân thiết. Chúng ta có thể tự coi mình như đứng bên ngoài, như không có liên lụy gì trong những cuộc dàn xếp bất công mà mình là nạn nhân. Chúng ta cũng có thể tự xóa bỏ những nhận định mới mẻ của mình về các sự việc, cốt giữ sao cho mọi sự được em ả hài hòa, mà đồng thời lại chẳng có chút ý niệm nào về sự hy sinh đó.

Làm sao một người đàn bà hiếu hòa như vậy có thể tới phòng trị liệu? Tốt hơn hết là bà không nên đấu tranh với chồng, bởi thực ra chẳng có gì để đấu tranh. Lẽ ra bà không nên tính chuyện tới phòng trị liệu. Bà không nên tự cho phép mình nghiêm túc quan tâm đến điều gì, nếu điều đó khiến ông chồng phải e ngại hay điều đó đe dọa nếp cũ của mối liên hệ quan trọng này. Nếu quả thực bà có ý định sẽ tới phòng trị liệu, bà nên ướm xem phản ứng của ông ra sao trước khi đăng ký. Bà có thể ngỏ lời dọ dẫm: "Anh ạ, em tính đến phòng trị liệu này...", rồi thăm dò một cách tinh tế những phản ứng – dù nói ra hay không nói – của ông. Nếu cảm thấy có dấu hiệu ông e ngại và bất đồng ý, bà sẽ chuyển ý nhanh chóng để bảo vệ ông. Có thể bà tự nhủ: "Chắc kiểu trị liệu này chẳng hiệu quả mấy đâu", hay: "Hiện giờ thì nhà mình không sẵn tiền", hay "Dù sao mình cũng chưa thực sự muốn đi cho lắm"...

Theo cách này, người đàn bà tránh gây va chạm, mâu thuẫn bằng cách tự cho là nguyện vọng và sở thích của mình cũng giống như ý ông chồng muốn cho mình. Bà tự giải thích mình như ông chồng đã giải thích bà. Bà hy sinh không nghĩ tới mình là ai, chỉ gắng sao cho hợp với những hy vọng của chồng. Nếu nơi bà xuất hiện những khó khăn về xúc cảm hay sinh lý, có lẽ bà sẽ không nhận ra sự liên quan giữa những trục trặc đó với những hy sinh mà bà đã thực hiện hầu chở che chồng và giữ cho mối liên hệ được êm ả.

Trong một lập trường kém cực đoan hơn, người vợ có thể vẫn giữ vững ước muốn tới phòng trị liệu mặc dù nhận ra điều chẳng may là mình với chồng không cùng một ý. Bà có thể tự cho phép mình là một người tách biệt và khác hẳn với chồng, tin là những suy nghĩ và sở thích của riêng mình cũng đáng được tôn trọng không kém gì của chồng. Tuy nhiên, bà vẫn tìm ra một cách xử lý để có thể nhận thức sự mâu thuẫn này một cách nhẹ nhàng hơn và có thể "đón nhận được" sự bất đồng của chồng hơn. Có thể bà tự nhủ: "Thôi, mình quả có thích tới phòng trị liệu đó thật, nhưng nếu vì thế mà gây chuyện cãi cọ thì đâu có đáng!"... "Việc này chẳng đáng để đấu tranh!", đó là cách nghĩ quen thuộc giúp chúng ta hóa giải được áp lực buộc chúng ta phải thay đổi lập trường. Trường hợp bà Barbara chứng minh điều đó là có thể. Có biết bao mức độ khác nhau để chúng ta có thể tỏ rõ lập trường của mình và cư xử cho phù hợp với niềm tin của mình trong một mối liên hệ!

Không phải hễ cứ cư xử hiếu hòa hay "dễ thương" là tất nhiên đồng nghĩa với đầu hàng hoặc thụ động không đấu tranh. Hoàn toàn ngược lại, chúng ta đã phát triển một khả năng quan hệ liên ngã quan trọng và phức tạp, đòi hỏi phần lớn sức hoạt động và nhạy cảm nội tại. Chúng ta thành thạo trong việc tiên đoán những phản ứng của kẻ khác, và cũng thành thạo trong việc che chở người khác khỏi bị áy náy. Đây là khả năng sống hòa hợp phát triển tới cao độ, thường rất hiếm thấy nơi nam giới. Giá như chúng ta cũng biết hướng tài khéo léo đó vào nội tâm để trở thành lão luyện về chính bản ngã mình.

TÁCH BIỆT VÀ HÒA HỢP:

Gìn giữ một mối liên hệ lâu dài được tiến triển tốt là một việc khó, vì đòi hỏi phải dò đúng mạch quân bình giữa cá nhân ("cái tôi") và tập thể ("cái chúng ta"). Sự co kéo về cả hai chiều đều rất mạnh. Một mặt chúng ta muốn tách biệt và độc lập – kín đáo, dè dặt – như quyền hạn vốn có của mỗi cá nhân; một mặt chúng ta lại tìm cách quan hệ thân cận với người khác, như trong gia đình hay trong một nhóm. Khi hai bên tương giao để mất thế quân bình này, mối liên hệ sẽ trở nên có vấn đề.

Việc gì sẽ xảy ra nếu không có đủ yếu tố "chúng ta" trong mối liên hệ? Hậu quả có thể là một trường hợp "ly dị cảm xúc": hai người sống biệt lập đơn chiếc trong cái vỏ rỗng của tương giao, không còn chia sẻ với nhau những tình cảm và kinh nghiệm riêng tư. Khi lực chia rẽ thắng thế, thái độ "tôi-không-cần- bạn" có thể được biểu lộ bởi một hay cả hai bên – một thái độ đi ngược lại lập trường tự chủ đích thực. Có thể ít có đấu tranh trong mối liên hệ này, đồng thời cũng ít gần gũi nữa.

Việc gì sẽ xảy ra nếu như không có đủ "cái tôi" trong mối liên hệ? Trong trường hợp này, chúng ta hy sinh cá tính rõ ràng và riêng rẽ của chúng ta, hy sinh phần trách nhiệm và quyền kiểm soát cuộc sống của riêng ta. Khi lực hòa hợp thắng thế, phần lớn năng lực của ta sẽ dồn vào việc phục vụ người kia, đồng thời gắng sửa đổi nếp nghĩ, nếp cư xử của người kia. Lẽ ra phải tự lãnh trách nhiệm về mình, chúng ta lại có khuynh hướng nhận trách nhiệm về những cảm xúc của người kia đồng thời lại đòi người kia chịu trách nhiệm về những cảm xúc của chúng ta. Khi mà trách nhiệm giữa hai cá nhân đi nghịch chiều như vậy, người này có thể rất nhạy cảm đối với những gì người kia nói và làm. Có thể có nhiều đấu tranh và trách móc trong mối liên hệ này, như trường hợp bà Barbara chẳng hạn.

Một sản phẩm khác của nếp sống "tập thể" quá trớn là sự hài hòa giả hiệu của "cái chúng ta" – trong đó ít có mâu thuẫn công khai, vì người này luôn chấp nhận "sự ưu việt" của người kia, hoặc vì cả hai cư xử như thể họ chia đều nhau con tim và khối óc. Dù thỉnh thoảng chúng ta có "vùng dậy" thật đấy, bởi nhu cầu tự khẳng định là một nhu cầu phổ quát cho mọi người, nhưng khi sống trong một mối liên hệ "hòa hợp tuyệt vời", được diễn xuất dưới một hình thức cực đoan như vậy, chúng ta bị đặt vào một vị trí yếu kém kinh khủng. Nếu hai người đã " nên một" đến thế, thì sự chia rẽ có thể được cảm nhận như một cái chết về tâm lý hay thể lý. Chúng ta có thể chẳng còn gì cả – kể cả bản ngã – khi mối liên hệ quan trọng đó chấm dứt.

Chúng ta đều cần cả "cái tôi" lẫn "cái chúng ta", cả hai nuôi dưỡng nhau, đem lại ý nghĩa cho nhau. Không có một công thức vĩnh viễn "đúng" nào về tỉ lệ tách biệt và hòa hợp để áp dụng cho mọi cặp vợ chồng, cả cho riêng một cặp cũng vậy. Mỗi người trong từng cặp phải thường xuyên giám sát thế quân bình đó, phải "vận chuyển" – tự động hay vô thức – sao cho có được nhiều tách biệt hơn (vào trường hợp có nguy cơ bị đồng nhất), hoặc sao cho có được nhiều hòa hợp hơn (vào trường hợp có nguy cơ bị rời rã). Thế quân bình của hai lực lượng này thường xuyên di động trong từng cặp. Có một giải pháp chung mà các cặp thường áp dụng, đó là "phân công": người nữ giữ khuynh hướng hòa hợp, và người nam theo khuynh hướng tách biệt. Chúng ta sẽ có dịp quan sát kỹ hơn nhịp khiêu vũ "nàng đuổi theo – chàng lảng tránh" này ở chương 3.

Nếu chúng ta cảm thấy tức giận hay cay đắng kinh niên trong một mối liên hệ đặc biệt nào đó, có thể đó là một thông điệp khuyên ta hãy làm sáng tỏ và tăng cường "cái tôi" thêm nữa. Chúng ta phải kiểm điểm lại bản thân, chú trọng xem chúng ta nghĩ gì, cảm thấy gì, muốn gì và cần thay đổi gì trong cuộc sống. Khi "cái tôi" càng được tạc nổi rõ ràng riêng biệt, thì "cái chúng ta" mới càng thêm niềm vui thân mật và độc đáo. Sự thân mật này không hề đòi hỏi hai bên trong mối liên hệ phải "như nhau" hay "đồng nhất thành một bản ngã". Cũng vậy, sự độc lập không đòi hỏi bên này phải "lảng tránh" bên kia hay mỗi bên phải tự cô lập.

Vì sao việc làm vững mạnh "cái tôi" lại khó khăn đến như vậy? Có nhiều nhân tố, nhưng nếu chúng ta chú trọng đến yếu tố "tại đây và lúc này" trong khi liên hệ với người khác, thì việc mình muốn tăng thêm mức độ tự biện minh, tự khẳng định quả thực đáng e ngại. Hoàn cảnh của bà Barbara chứng tỏ điều đó: bà không thể từ bỏ đường lối cũ để gắng thực hiện đường lối mới mà không phải kinh qua nỗi lo mối liên hệ hôn nhân bị chia rẽ hay gặp sóng gió. Trong tình huống đó và vào lúc đó, bà Barbara quả thực lâm vào hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan. Hoàn cảnh nay có thể xảy ra rất thực trong mọi mối liên hệ. Chúng ta hãy thử nhìn "gần hơn nữa" vào nội tâm nhân vật của chúng ta:

Sự minh bạch và nỗi lo mất mát:

Nếu bà Barbara bắt đầu bằng "cái tôi" minh bạch hơn, bà sẽ không giải thích vấn đề của bà như "Chồng tôi không muốn để tôi đi đến phòng trị liệu". Thay vì nói vậy, bà có thể tự nhủ đại để như sau: "Vấn đề của tôi là thế này: nếu hủy bỏ việc đó, tôi sẽ cảm thấy cay đắng và thù hận; nếu cứ đi tới đó, chồng tôi sẽ cảm thấy cay đắng và thù hận. Tôi phải chọn lựa bề nào đây?". Sau một hồi suy nghĩ, bà có thể quyết định rằng việc tới phòng trị liệu không quan trọng tới mức đó, hoặc không phải lúc để bà gây sóng gió trong cuộc hôn nhân. Hoặc cũng có thể bà kết luận rằng vấn đề này không thể điều đình được, mà bà thì không muốn thỏa hiệp. Trong trường hợp sau, bà phải nghĩ cách trình bày quyết định của mình với chồng sao cho giảm thiểu cuộc đấu tranh quyền lực. Hoặc bà chỉ đơn giản báo cho ông biết là bà sẽ đi, rồi sau đó khi mọi sự đã êm dịu, bà có thể khởi xướng một cuộc trao đổi giữa hai vợ chồng và quyền quyết định trong các lãnh vực khác nhau của cuộc sống chung. Bà có thể giải thích rằng trong khi vẫn quan tâm tới ý kiến của ông, bà vẫn phải có trách nhiệm quyết định cho chính mình.

Cái gì đã khiến bà Barbara không đi đến cùng thái độ minh bạch này? Vì sao bất kỳ ai trong chúng ta cũng dễ thành kẻ đấu tranh và than vãn kinh niên, thay vì nhận diện những vấn đề và những chọn lựa để soi sáng lập trường của mình? Không, nữ giới không thể đạt được hài lòng trong khổ dục thầm kín bằng cách sống theo "lập trường đi xuống", chịu là nạn nhân hoài hoài! Hoàn toàn nghịch lại, người đàn bà bị dồn xuống đáy trong trò chơi cò cưa của hôn phối sẽ càng tích lũy nhiều căm hờn, tỉ lệ thuận với mức độ chịu đựng và hy sinh.

Thế tiến thoái lưỡng nan là ở chỗ: chúng ta có thể tin tưởng trong vô thức rằng mối liên hệ quan trọng đó chỉ có thể tồn tại nếu chúng ta tiếp tục cam chịu thiệt thòi như vậy. Chúng ta có thể coi việc chúng ta hành động tốt hơn – nghĩa là minh bạch, tích cực, riêng rẽ hơn – là một hành động phá hoại, làm giảm giá trị chồng và khiến chồng phải trả đũa hay bỏ rơi mình. Chúng ta đôi khi cũng có thể sợ rằng: việc phát triển "cái tôi" dũng mãnh hơn chính là việc tiến gần tới nguyện vọng thầm kín muốn tự rời bỏ cuộc hôn nhân bất như ý – điều này cũng đáng ngại, không kém gì nỗi ngại bị bỏ rơi.

Có thể bà Barbara chưa sẵn sàng đối diện với những nguy cơ của việc đặt chính bà và chồng vao cuộc thí nghiệm xem liệu có đổi thay không? Có thể bà đã hiểu mối liên hệ này không cho phép có nhiều đổi thay. Có thể bà bị mắc kẹt giữa thế lưỡng nan: một đàng bà không sẵn sàng tự nhủ: "Tôi chấp nhận tiếp tục sống trong cuộc hôn nhân bất hạnh với người đàn ông không chịu đổi thay này"; đàng khác, bà cũng sẵn sàng chọn một lập trường dứt khoát: "Nếu không có gì thay đổi, tôi sẽ rời bỏ". Hoặc có thể bà chưa sẵn sàng đối diện với âu lo hay với "trạng thái chán nản tức cười" mà chúng ta thường gặp khi tự quyết định phải minh bạch và tách biệt hơn trong một mối liên hệ quan trọng. Đấu tranh và trách móc đôi khi là một cách để vừa phản kháng vừa chở che nguyên trạng, khi chúng ta chưa thật sẵn sàng làm một cuộc chuyển dịch về hướng này hay hướng nọ.

BIỆN PHÁP ĐỐI PHÓ

VÀ PHẢN ỨNG NGHỊCH CHIỀU:

Tôi không muốn đem lại một cảm giác buồn nản cho rằng chúng ta vẫn phải làm bộ tiếp tục ở dưới đáy chót cuộc chơi để tránh cho người bạn đồng hành cũng như mối liên hệ không bị sụp đổ. Trong một vài trường hợp, sự sụp đổ này có thể xảy tới do sự đổi thay và tăng trưởng của ta. Nhưng, thường thì theo cách tiến hành của ta mà cả đôi bên đều tăng trưởng và mối liên hệ do đó càng thêm khăng khít. Chúng ta nên học cách làm bản ngã mạnh lên để giúp mối liên hệ thêm phấn khởi chứ không suy sụp. Thực hiện một cuộc đổi thay, quả thực chẳng bao giờ là một chuyện dễ dàng.

Chúng ta gặp phải biện pháp đối phó (chống đổi thay) hay phản ứng nghịch chiều (đòi chuyển trở lại tình trạng cũ) nơi người khác khi chúng ta dứt khoát từ bỏ thái độ im lặng, mập mờ, đấu tranh vô hiệu quả và bày tỏ rõ ràng những nhu cầu, ước muốn, tin tưởng, ưu tiên của bản ngã. Murray Bowen, người khởi xướng Thuyết Hệ Thống Gia Đình, đã nhấn mạnh rằng trong mọi gia đình, những thành viên còn lại sẽ có thái độ đối lập mãnh mẽ với cá nhân nào khẳng định sự độc lập của bản ngã hơn. Theo Bowen, thái độ đối lập này dứt khoát tuần tự theo từng bước như sau:

1. "Mày sai lầm rồi!" – với hàng đống lý do yểm trợ cho tuyên bố đó.

2. "Hãy đổi thay ngược lại đi, thì gia đình sẽ tái chấp nhận mày!".

3. "Nếu mày không chịu chuyển đổi ngược lại, hậu quả sẽ như sau..." – kế tiếp là những hậu quả được liệt kê.

Thường có những biện pháp đối phó nào? Chúng ta có thể bị kết tội là lạnh lùng, không trung thành, ích kỷ hay khinh thường kẻ khác (Mày làm má mếch lòng biết chừng nào khi nói với má như vậy!"). Chúng ta sẽ nhận được đe dọa – bằng lời hay không lời – rằng người kia sẽ rút lui hay chấm dứt liên hệ: ("Làm sao coi mày như người trong nhà được nếu mày cứ có thái độ đó?"). Biện pháp đối phó có thể xuất hiện dưới bất cứ hình thức nào, chẳng hạn một người trong gia đình có thể lên cơn hen suyễn hay đột quỵ.

Biện pháp đối phó là ý đồ vô thức của người kia muốn tái lập thế quân bình cũ cho mối liên hệ, khi âu lo về tách biệt và đổi thay đã tới mức quá cao. Khi không thấy người kia có biện pháp đối phó, thì chỉ vì người đó đương thống trị, đương kiểm soát hoặc có thái độ sô-vanh. Biện pháp đối phó có thể xuất hiện hoặc có thể không nơi người kia, nhưng luôn luôn người đó ở sẵn trong tư thế đối phó khi sự quân bình cũ của mối liên hệ bị đe dọa. Biện pháp đối phó là một cách bày tỏ âu lo cũng là một cách bày tỏ sự thân mật, gắn bó.

Công việc của chúng ta là giữ lập trường minh bạch khi đối diện với biện pháp đối phó: không ngăn cấm nó (vì nó xuất hiện tự động, từ vô thức), không nói với người kia rằng đừng nên phản ứng theo lối đó. Phần lớn chúng ta cứ ưng làm điều bất khả. Chúng ta không những muốn kiểm soát những quyết định và lựa chọn của chúng ta, mà còn muốn kiểm soát cả phản ứng của kẻ khác – trong khi phản ứng của họ trước hết là cho chính họ. Chúng ta không chỉ muốn mình làm một cuộc đổi thay, chúng ta còn muốn kẻ khác phải thích cuộc đổi thay mình làm. Chúng ta muốn tiến lên một một mức độ cao hơn về xác quyết, về minh bạch và sau đó còn muốn được tưởng thưởng, được khích lệ do chính những kẻ vốn khoái ta ở lại đường cũ.

Bên cạnh biện pháp đối phó với người khác, chính thái độ đổi thay của chúng ta cũng đã là một sức mạnh đáng kể rồi. Ví dụ: lập trường của bà Barbara trong cuộc sống hôn nhân có thể bắt rễ tự bao nhiêu thế hệ trước. Bà mẹ của Barbara, cũng như những phụ nữ họ hàng thân thuộc khác trước đó, có thể đã chấp nhận lập trường từ bỏ bản ngã trong hôn nhân, hoặc có thể "chọn" kết duyên với một ông chồng từ bỏ bản ngã. Có thể trong gia đình bà Barbara không có truyền thống chấp nhận những cuộc hôn nhân trong đó cả hai vợ chồng cùng có thái độ minh bạch, mỗi bên quen tự quyết định cho mình đời sống mình và hai bên sẵn sàng bàn cãi với nhau về những khác biệt. Tất cả chúng ta đều chịu ảnh hưởng nếp sống, tập tục của những thế hệ đã qua vì chúng ta không ý thức được điều đó. Giống như các phụ nữ khác, bà Barbara cảm thấy phạm lỗi nếu như bà cứ cố gắng đạt co bằng được những điều mà chính mẹ bà trước đây không thể đạt được. Tận chốn sâu thẳm của vô thức, bà có thể coi tham vọng muốn tự khẳng định bản ngã là một hành vi không trung thành – một sự phản bội – không những đối với chồng, mà còn với các thế hệ nữ giới đi trước trong gia đình mình nữa. Trong trường hợp như vậy, đương nhiên bà vô tình chống lại chính những đổi thay mà bà đương tìm kiếm.

Để thêm phần phức tạp hơn, còn phải kể tới những vấn đề chưa giải quyết trong dĩ vãng nữa: chúng đương nhiên hiện diện trong những liên hệ hiện thời của chúng ta. Nếu bà Barbara sa lầy trong cuộc đấu tranh và trách móc kinh niên trong cuộc sống hôn nhân này, đó có thể là dấu hiệu bà đã không phấn đấu cho sự tách biệt và độc lập của mình khi còn sống ở gia đình cha mẹ, và sự kiện này giờ đây vẫn đòi hỏi bà phải làm một cái gì cho nó (xin đọc chương 4). Thuở còn ở với cha mẹ, bà giữ vững lập trường của mình trong những vấn đề quan trọng đến mức nào? Bà có dám nói rõ, nói thẳng những gì mình cảm, mình nghĩ không? Bà có khả năng dám là mình và không để người nhà ép buộc mình không? Và bà có để cho những người khác trong gia đình cũng có thái độ như vậy không? Nếu khi còn ở với cha mẹ, bà Barbara gặp khó khăn trong việc xác định minh bạch rành rẽ "cái tôi", thì giờ đây trong cuộc sống hôn nhân bà cũng gặp khó khăn như vậy. Là một nhà tâm lý trị liệu, tôi thường giúp các bà làm sáng tỏ và thay đổi cách liên hệ với anh chị em, cha mẹ, ông bà, để những mâu thuẫn cũ trong gia đình không tái xuất hiện – cũng như những âu lo và giận dữ đã chìm trong quên lãng không nổi vọt lên – trong những mối liên hệ hiện tại, gây phiền hà cho người khác.

CHÚNG TA Ở ĐÂU ?

Cuộc điện đàm của bà Barbara đã cung cấp cho chúng tôi một tỉ dụ tuyệt vời về cuộc đấu tranh không đem lại đổi thay nào, chỉ vì bà đã làm hai điều mà tất cả chúng ta đều làm mỗi khi gặp cảnh bị sa lầy: thoạt bà tranh đấu với một vấn đề giả, thứ đến bà sử dụng năng lực của mình để thay đổi người kia.

Những vấn đề giả:

Bà Barbara và ông chồng hẳn đã sử dụng phần lớn năng lực vào việc tranh cãi về giá trị phòng trị liệu của tôi. Cũng như mọi chuyện tương tự khác trên đời, đấy chỉ là ý kiến cá nhân. Hơn thế nữa, đó còn là một vấn đề giả chẳng liên quan gì tới vấn đề thực của bà Barbara, là sự đấu tranh giữa hai nguyện vọng: một đàng muốn chịu trách nhiệm về mọi quyết định cho đời sống của mình, đàng khác muốn duy trì nguyên trạng để giữ gìn sự hòa hợp trong hôn nhân.

Cặp nào cũng đôi khi đấu tranh về những vấn đề giả như vậy, với một cường độ đáng kể: Tôi không bao giờ quên được cặp vợ chồng đầu tiên tôi gặp khi mới bắt đầu hành nghề trị liệu hôn nhân. Họ ngồi kia trong văn phòng của tôi, cãi nhau ỏm tỏi rằng sẽ ăn cơm chiều tại tiệm Mc Donald hay tại tiệm Long John Silver, rằng món thịt băm hay món cá đáng nấu ăn hơn...Không bên nào chịu nhân nhượng nhau một phân. Thuở đó, tôi chưa biết làm thế nào để giúp đỡ cặp vợ chồng này, nhưng có một điều tôi biết chắc là: những lý lẽ sôi nổi giữa hai bên –rõ ràng đang làm cả hai khổ sở rất nhiều – chẳng liên hệ gì tới giá trị của món thịt băm hay món cá cả.

Nhận ra vấn đề thực không phải là chuyện dễ, càng khó hơn nữa giữa những thành viên trong một gia đình. Khi hai vợ chồng tranh cãi với nhau, họ thường lôi thêm vào cuộc một thành viên thứ ba (đứa con hay bố – mẹ chồng, bố – mẹ vợ...) làm thành thế tam giác, điều này càng gây thêm khó khăn cho việc nhận định và giải quyết vấn đề thật. Dưới đây là vài ví dụ:

– "Em giận kinh khủng về việc anh quên khuấy thằng con chúng ta. Em cảm tưởng nó có cha mà như không có!". Vấn đề thực không nói ra là: "Em cảm thấy mình bị bỏ quên. Em thật giận anh vì đã không dành nhiều thì giờ cho em!".

– "Lũ con cần em ở nhà. Anh đồng ý em đi làm, nhưng anh không thích nhìn thấy lũ trẻ và việc nội trợ bị bỏ bê". Vấn đề thực không nói ra là: "Anh sợ và lo lắng về việc em có chỗ làm mới. Anh không rõ rồi đây công việc của em sẽ ảnh hưởng ra sao tới mối liên hệ của chúng ta. Thái độ hào hứng của em đã làm anh phải chạnh nghĩ tới nỗi bất mãn của anh về công việc của anh".

– "Má anh làm em muốn phát khùng. Bà ấy xâm nhập, bà ấy kiểm soát cuộc sống riêng của chúng ta. Bà ấy coi anh vừa như người lớn vừa như đứa con nít!". Vấn đề thực không nói ra ở đây là: "Em muốn anh xác định rõ thái độ hơn nữa với má và định rõ ranh giới đi. Đôi khi em phải tự hỏi là anh ràng buộc với ai đây, với em hay với má?".

Khi xét về những thế tay ba (chương 8) chúng ta sẽ thấy thực là khó để phân biệt được rõ không những: "chúng ta nổi giận về cái gì", mà còn cả: "chúng ta nổi giận với ai".

Gắng làm chàng thay đổi:

Bà Barbara, giống như phần lớn chúng ta, đã sử dụng năng lực giận dữ để thử thay đổi kẻ khác. Bà đang thử thay đổi tình cảm, suy nghĩ của chồng về phòng trị liệu và thái độ của ông trước việc bà định tới đó. Bà muốn ông cảm và nghĩ giống như bà vậy. Dĩ nhiên, phần đông chúng ta hay tin là mình nắm được "chân lý" và thế giới sẽ tốt hơn nhiều nếu mọi người khác cũng tin và phản ứng giống mình. Nhưng, một trong những tiêu chuẩn trưởng thành về xúc cảm là biết chấp nhận thực tại đa dạng, chấp nhận sự kiện mọi người cảm, nghĩ và phản ứng khác nhau. Thông thường chúng ta cư xử như thể "thân mật", "gần gũi" là phải "giống nhau". Những cặp vợ chồng hay những thành viên trong cùng một gia đình thường đặc biệt có khuynh hướng cư xử như thể chỉ có một thực tại mà mọi người đều phải chấp nhận.

Thực vô cùng khó khăn trong việc học – bằng trái tim hay bằng khối óc – để biết rằng chúng ta có quyền về mọi sự chúng ta cảm nghĩ và tất cả mọi người khác cũng vậy. Nói lên minh bạch những gì ta cảm nghĩ là công việc của chúng ta. Hãy chịu trách nhiệm về những quyết định phù hợp với giá trị và niềm tin của mình. Chúng ta không có quyền đòi người khác phải cảm xúc và suy nghĩ như mình hay theo ý mình muốn. Làm như vậy, chúng ta có gây thêm cho mối liên hệ nhiều xúc cảm căng thẳng và cho mỗi bên nhiều khổ đau cá nhân, mà rốt cuộc vẫn chẳng đổi thay được gì.

Không có gì sai trái trong việc muốn người khác đổi thay, chỉ có điều việc đó không thể thành tựu. Dù sử dụng giận dữ khéo đến đâu, chúng ta cũng không thể bảo đảm kẻ kia sẽ nghĩ và làm theo ý ta, mà cũng chẳng bảo đảm được "công bình sẽ thắng". Chúng ta chỉ có thể tránh được những cuộc đấu tranh vô ích khi từ bỏ hoang tưởng cho rằng mình có thể thay đổi và kiểm soát người khác. Và chỉ khi đó, chúng ta mới thâu hồi lại được khả năng đích thực của mình, đó là khả năng thay đổi chính mình để có được cung cách hành xử mới trong mối tương giao.

Trong chương kế tiếp chúng ta sẽ học cách áp dụng những bài học từ cuộc điện đàm của bà Barbara vào thực tế. Những bài học xem như đơn giản đó là những gì?

– Thứ nhất, cứ bùng nổ cơn giận cho hả tức thì chẳng giúp được gì cho việc cải thiện mối liên hệ, chỉ là cách bảo vệ, duy trì những qui tắc cư xử cũ.

– Thứ hai, kẻ duy nhất chúng ta sửa đổi và kiểm soát được là chính bản ngã của mình.

– Thứ ba, thay đổi bản ngã sở dĩ có vẻ khó khăn và đáng sợ như vậy chỉ vì cứ tiếp tục theo nếp sống cũ: lẳng lặng rút lui, đấu tranh và trách móc vô hiệu quả bao giờ cũng là chuyện dễ làm hơn.

– Và sau cùng, vấn đề nghiêm túc nhất trong những vấn đề nghiêm túc về cơn giận chính là: sự từ bỏ bản ngã.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro