02. Cánh đồng

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Một lần nữa tôi lại nhìn vào đôi mắt của Hugh. Đôi mắt anh ta xanh như những đại dương tôi từng thấy trên bản đồ thế giới, đúng vậy. Nhưng tại sao lần này, chúng quá xa xăm và lạnh lẽo?

Cả hai cùng thả hết hơi trong lồng ngực ra, chìm dần xuống đáy bể bơi trong màn đêm mờ sáng.

/Một ... /

Mọi thứ xung quanh tối om. Tôi biết cái tối này. Nhưng lần này, tôi cảm nhận được sự sống của nó. Bóng tối đang sống.

/Hai .../

Nếu tiếng "bòng bòng" của nước đáng lẽ phải là âm thanh hiện hữu trong đầu tôi, thì lúc này đây lại chẳng có gì cả. Giống như tôi đang trôi vô định trong một khoảng không trống rỗng, không một âm thanh, chỉ có sự im lặng.

/Ba ... /

Tay tôi tuột mất khỏi tay Hugh. Anh ta biến mất để lại tôi trong bóng tối hữu hình. Tôi quơ tay xung quanh tìm Hugh, nhưng chợt nhận ra một điều còn kinh khủng hơn: chân tôi không chạm vào đâu cả.

Cố gắng hết mình bơi lên trước khi chết đuối, tôi đến được bề mặt. Phía trên đầu tôi sấm sét đùng đùng, mặt nước chuyển động dữ dội, giông tố cuốn quanh, bão táp mịt mù. Thứ nước bao quanh tôi lúc này có màu đỏ giống như rượu, nhưng nó lại sền sệt và có mùi tanh. Tôi đang chơi vơi ... Chơi vơi ... giữa một biển máu.

/Báo thức chết tiệt./

Cái đồng hồ báo thức kêu inh ỏi như thế nó muốn phá tan cái nhà. Tôi với tay đập bừa nút tắt, uể oải cuộn đầu mình lại trong gối hòng tìm lại giấc ngủ. Sáu giờ ba mươi sáng. Tôi cần phải thức dậy trước khi lỡ bữa sáng đầu tiên.

Sau khi sửa soạn một cách qua loa, tôi rời phòng. Khoá cửa xong cũng là lúc tôi thấy thang máy mở. Liev bước ra ngoài.

- Anh vừa đi đâu vậy? - Tôi vừa hỏi vừa đi đến chỗ anh ta.

Ngay lập tức Liev kéo tay tôi lôi vào phòng, đóng sầm cửa lại.

- Cái gì --

- Đừng có mà dính líu với tôi nữa, Pheveston. Đây là lời cảnh báo cuối cùng. Đừng động vào tôi, đừng nói chuyện với tôi và cũng đừng bận tâm xem tôi đang làm gì.

- Bỏ cái tay khốn nạn ra khỏi người tôi. Anh đang đe doạ tôi về chuyện cái đồng hồ? Vì tôi khá dám chắc là anh đã lấy cắp nó từ ông Arigosa.

Liev rút ra cái đồng hồ quả lắc từ trong túi áo ngực, dí sát vào mặt tôi. Tôi sợ rằng anh ta sẽ đấm tôi nếu như cái đồng hồ không dừng lại ở một điểm hợp lí.

- Làm sao anh biết về cái thứ chết tiệt này? - Kẻ đe doạ nghiến răng.

- Tôi đã thấy anh cầm nó vào lần đầu tiên tôi gặp anh, trong thang máy. Và vì anh vừa đi từ tầng bốn, là tầng của nhân viên đi ra nên tôi khá dám chắc rằng anh đã đánh cắp nó. Arigosa khẳng định không hề mang theo đồng hồ cho đến tối qua. Anh đã nhìn thấy rõ ông ta cầm cái đồng hồ vào lúc đó, từ tầng gác mái --

- Tôi. không. nhìn. thấy. gì. hết! Đừng có mà xen vào chuyện không phải của mình, Pheveston. Tôi nói trước rồi đấy. - Liev đỏ mặt.

Chúng tôi trừng mắt nhìn nhau một hồi lâu, rồi tôi quyết định bỏ đi. Trên đường xuống tầng một, tôi vẫn cảm nhận được cái đau ở cánh tay, nơi Liev nắm lấy và lôi đi.

/Tên khốn./ - Tôi ngầm rủa trong đầu.

Sảnh vào buổi bình mình trong khá sáng sủa và ấm cúng. Các nhân viên đang trao đổi trò chuyện với nhau thân mật. Bàn nào cũng bày sẵn các ly cà phê và bánh mì nóng hổi. Mùi thơm của đồ ăn sáng khiến tôi nhanh chóng quên đi chuyện khó chịu vừa rồi.

- Chào buổi sáng Rossefer. - Hugh nói với tôi.

Anh ta đang ngồi ăn một mình tại chính nơi cả bốn chúng tôi đã ngồi tối qua. Không thấy bóng dáng của Herliet. Nhìn dao và dĩa tại chỗ ngồi của Liev thì tôi đoán anh ta đã ăn xong rồi.

- Herliet đâu rồi? - Tôi nói, lấy cho mình một ly cà phê.

- À, Herliet ít khi ăn sáng. Cô ấy thích dành thời gian đó vào việc ngủ hơn.

Tôi gật đầu hiểu ý. Trong lúc hai chúng tôi im lặng ăn, tôi hỏi một câu hỏi mà tôi nghĩ khá là riêng tư.

- Tối qua anh có mơ gì không?

Hugh ngẩng mặt lên, vẻ hơi suy xét. Khoé miệng anh ta trễ xuống. Sau một hồi ngẫm lại, anh ta lắc đầu.

- Không có gì đặc biệt hay ấn tượng lắm. Hình như là tôi đang tham dự một buổi triển lãm thì có con rồng bay ra thì phải. Tôi cũng không nhớ lắm. Anh thì sao?

Tôi nghẹn họng, phân vân xem có nên kể sự thật hay không. Nhưng dẫu sao thì đó cũng chỉ là những giấc mơ thôi phải không?

- Tôi có mơ về anh.

- Tôi sao? - Hugh ngạc nhiên - Tôi thì làm gì trong giấc mơ của anh được nhỉ?

- Giấc mơ của tôi giống hệt tối hôm qua. Tôi với anh ở bể bơi. Khá kì lạ đúng không? ... Hmm ... ... Ah - Trong đầu tôi sực nhớ ra một chuyện - Nhắc đến tối qua, anh vẫn chưa kể hết cho tôi về các tin đồn.

Trông anh ta cũng khá ngạc nhiên. Có lẽ anh ta cũng không nhớ việc mình đã kể.

- À chuyện đó. Tôi nói đến đâu rồi nhỉ?

- Chuyện nhân viên biệt thự phát hiện ra cô bé trong cánh đồng nho. Đoạn đó.

Hugh dịch ghế ngồi sát tôi. Anh ta ghé mặt lại gần, hạ giọng.

- Cô bé đó biến mất.

Tôi mong chờ diễn biến tiếp theo. Hugh không nói gì nữa. Tôi tiếp tục chờ, anh ta làm vẻ mặt khó hiểu.

- Thế thôi. Hết rồi.

- Anh đùa à? - Tôi bối rối.

- Tin đồn chỉ có vậy. Có vẻ câu chuyện đã bị mất một khúc nào đó. Cô bé đó chỉ đơn giản ... biến mất thôi. Không ai biết cô bé đi đâu hay chuyện gì xảy ra với người nhân viên. Hình như không ai nhớ tình tiết giữa hai người họ. Dù sao đó cũng chỉ là những tin đồn. Nhưng tôi cũng không hiểu tại sao họ lại nói chuyện đó "kinh khủng" nếu đoạn kết chỉ đơn giản là một cô bé đột nhiên biến mất.

Tôi biết rằng chuyện không chỉ "đơn giản" như vậy. Vậy liệu có khả năng nào, chuyện đó thực sự là một bi kịch mà không ai muốn nhớ tới không?

- Được rồi. - Tôi đáp, hơi cụt hứng.

Cả hai kết thúc bữa ăn của mình sớm hơn đa số người khác. Lúc chuẩn bị lên phòng, tôi nghe có tiếng gọi.

- Anh Pheveston!

Là người phụ nữ đã mang bữa trưa lên cho tôi. Bà ấy đang cầm một cái giỏ, trong đó có chất đầy củ cải và khoai tây. Căn cứ vào dáng đi nhanh nhẹn của bà thì tôi đoán là bà ấy đang khá vội.

- Anh Pheveston! Tôi có thể nhờ anh một việc được không? Tôi đã định đi trong sáng nay nhưng ông Arigosa lại giao thêm việc. Anh có thể giúp tôi đưa chiếc giỏ này cho bà Cassie được không?

- Ồ được chứ! Nhưng ai là bà Cassie vậy? - Tôi nhận lấy chiếc giỏ.

- Bà ấy sống trong căn nhà phía cuối cánh đồng nho. Cứ men theo rìa là anh sẽ tới nơi thôi. Không xa đâu. Nhắn với bà ấy là tôi, Mary, không mua được củ cải vàng nhé. Bà ấy nhờ tôi đi chợ nhưng họ đã bán hết. Cảm ơn anh Pheveston.

Tôi chào bà Mary và đi ra cửa. Hugh đã vào sân trong nên giờ tôi phải đi một mình. Tôi bước xuống cánh đồng bằng cái cầu thang đá cẩm thạch. Vào lúc sáng sớm, mùi nho lan toả trong không khí khá nồng. Tôi men theo đường mòn tiến về phía cuối kia, chân bước nhanh để tránh nắng gắt. Con đường này phủ đá sỏi rất khó đi. Theo từng bước chân tôi đi, đất sỏi phía dưới lại "rạo" một tiếng. Cánh đồng cực kì rộng. Từ tầm nhìn này, tôi có cảm tưởng nó có thể trải dài đến tận những ngọn núi cách đó vài dặm. Từng sào ruộng được căn chỉnh thẳng hàng với nhau một cách kĩ lưỡng. Khắp nơi chỉ nhìn thấy một màu xanh của lá và màu tím của những chùm nho. Nghĩ đến lợi nhuận thu được từ toàn bộ cánh đồng này, tôi thấy việc sở hữu riêng một hoặc hai căn biệt thự là chuyện bình thường.

/Người dân xung quanh đây nói rằng vị chủ nhân của nơi này là một người độc ác và ích kỉ./

Lời của Hugh vang lên trong đầu tôi. Có phải chính sự độc ác và ích kỉ của vị chủ nhân thời ấy đã gây ra sự biến mất của cô bé nhà nghèo? Có phải "biến mất" chỉ là một cách nói khác của ... "chết"? Nhưng cũng có thể cô bé đó không chết, mà cô bé ấy giờ đã trở thành một người phụ nữ giàu có sống cách xa nơi này. Chuyện gì đã xảy ra với người nhân viên? Anh ta hay cô ta đã bao che, báo cáo, hay đã làm gì mà giờ không còn tăm hơi nữa?

Vì mải suy nghĩ mông lung nên tôi đã không nhận ra rằng mình đã đến nơi. Trước mặt tôi là một ngôi nhà gỗ nhỏ màu trắng. Toàn bộ ngôi nhà được che phủ trong bóng râm của những cây cổ thụ cao lớn đứng sau. Một ngôi nhà nhỏ bé cô đơn giữa cánh đồng rộng lớn. Có lẽ bà Cassie là một thợ làm vườn, hoặc là người quản lí của cánh đồng này.

Tôi bước lên hiên nhà. Mọi thứ nhìn chung có phong cách khá giống nước Mỹ. Ngoài hiên có một chiếc võng và bên trong cửa chính còn có thêm một cửa lưới phụ. Tôi bấm chuông và chờ đợi. Tôi chú ý xuống tấm thảm dưới chân. Nó xơ, giống như đã có quá nhiều người dày xéo lên nó nhưng vẫn không ai thèm chải chuốt lại lần nào.

"ĐỪNG!"

Một tiếng hét khiến tôi hoảng hốt quay ngoắt lại phía sau.

Một cơn gió thổi qua ... Không có gì. Không một động tĩnh chứng tỏ có người vừa ở đây. Đó là tiếng hét của trẻ con, của một bé gái. Nhưng làm gì có ai ở nơi vắng vẻ này?

/Mình tưởng tượng ra sao?/

Cửa mở ra và một người phụ nữ xuất hiện. Người này khá giống Mary nhưng bà ta già hơn và cử động chậm chạp hơn.

- Bà Cassie?

Bà ta ngước lên nhìn tôi, mắt híp lại. Mất một vài giây để bà Cassie chú ý tới giỏ rau quả mà tôi đem theo.

- Bà Mary nhờ tôi đem cho bà chiếc giỏ này. Bà ấy không thể mua được củ cải vàng vì chợ đã bán hết.

- À, tôi cảm ơn. Anh hãy vào nhà đi nào.

Tôi trao cái giỏ cho bà rồi bước vào. Bên trong ngôi nhà quả là chật chội. Tôi len qua phòng khách, cố gắng không dẫm phải bất cứ đôi ủng nào xếp tràn lan dưới đất - bà Cassie thậm chí còn không có tủ giày. Phòng khách chỉ có duy nhất một chiếc bàn và một bộ. Một bức tranh được treo phía trên lò sưởi có hình của một đôi vợ chồng trẻ. Tôi ngửi thấy từ phòng bếp mùi xà phòng, chắc là lúc tôi đến thì bà ta đang bận rửa bát.

- Vậy là Mary nhờ anh đem rau quả đến cho tôi à? Anh là người của biệt thự đúng không?

- Đúng vậy thưa bà.

Bà Cassie chậm chạp bước đến chiếc tràng kỉ. Tôi giúp bà ta rót ra hai tách trà, cảm nhận được sự quan sát của người đối diện.

- Ít khi nhân viên biệt thự đến thăm bà già này lắm. Họ rất bận. Nếu họ có đến thì cũng chỉ đặt giỏ ngoài cửa rồi đi. Quanh năm suốt tháng tôi không được gặp ai. Tôi chỉ có Mary là cô em gái, nhưng bà ấy chỉ đến thăm tôi mỗi tháng một lần. Tôi không có bạn, không có cả một con mèo. - Bà Cassie nói, giọng buồn bã.

Tôi im lặng một lúc nghĩ về chủ đề khác, giữ nhã ý không đi về sớm.

- Thật ra tôi là một nhạc công được chủ nhân mời đến biệt thự. Tôi không phải là nhân viên nên tôi mới có nhiều thời gian rảnh. Mà tôi cũng hay giúp đỡ người khác nữa do vậy tôi rất hào hứng khi đến đây.

- Thật sao? Nghe vậy là tôi vui rồi. - Trong giọng bà đã có chút thoải mái hơn. - Anh nói anh là một nhạc công sao? Anh chơi đàn gì vậy?

- Tôi chơi violin.

Miệng bà hơi trễ xuống vẻ tiếc nuối.

- Violin à? Tài năng thật. Tôi mới chỉ được nghe tiếng loại đàn này qua cái loa rè của chiếc radio thôi. Tôi chưa bao giờ nghe thấy tiếng nó ngoài đời. Anh cũng có thể đàn cho tôi nghe một bản ở đây, nhưng tiếc nỗi tôi nhà tôi lại không có violin. Chồng tôi có một chiếc banjo cũ, tôi cũng thỉnh thoảng hay đem nó ra chơi, nhưng tôi chơi không được hay lắm.

- Bà có thể trực tiếp xem tôi biểu diễn violin vào cuối tuần này. Tôi và những nhạc công khác sẽ hoà tấu cùng nhau tại buổi dạ tiệc cuối tuần này. Tôi dám chắc rằng các bà và các nhân viên khác có thể tham dự. Tôi sẽ đón bà đến biệt thự. Bà sẽ không còn phải nghe tiếng đàn qua radio nữa.

Bà Cassie vui mừng hẳn lên và miễn cưỡng chấp nhận lời mời. Chẳng mấy chốc, chúng tôi đã nói chuyện miên man về mọi loại chủ đề khác nhau. Giờ tôi đã biết thêm được nhiều món ăn ngon có thể được nấu từ những nguyên liệu đơn giản. Hay sau khi hợp đồng ở đây kết thúc, tôi hứa sẽ mua cho bà một chiếc radio mới và thường xuyên về đây thăm bà. Có vẻ cả hai đang dần trở nên thân thiết.

- Vậy người phụ nữ trong bức tranh kia là bà sao?

- À đúng vậy. Bức ảnh này chụp ở lễ cưới của tôi và Brudeau. Chồng tôi ...

Đột nhiên sự buồn bã lúc đầu quay trở lại. Hình như bà Cassie không có những hồi ức tốt đẹp khi nhớ lại quá khứ.

- Chồng tôi từng là gác cổng của nơi này. Nhưng ... ông ấy đã mất tích năm mươi năm rồi.

/Người ta nói rằng năm mươi năm trước đây, một chuyện kinh khủng đã xảy ra, hằn lại trong lịch sử biệt thự này một dấu ấn khó phai./ - Lời nói của Hugh một lần nữa lại vang lên trong đầu tôi.

- Bà Cassie? Năm mươi năm sao?

Đôi mắt bà đang nhìn về xa xăm, có lẽ rằng bà vẫn đang trông ngóng chồng mình trở về. Bà gật nhẹ.

- Năm mươi năm trước, người ta nói có những tin đồn --

- Ta biết những tin đồn đó. Và chúng ... chúng rất ... - Giọng bà mới đầu run run, nhưng sau đó đã lấy lại được sự bình tĩnh. - Anh hãy nói với Mary rằng tôi rất cảm ơn về cái giỏ. Bây giờ cũng trưa rồi, có lẽ anh cũng có việc khác cần làm chứ nhỉ?

Tôi không thể từ chối lời mời ra khỏi nhà rất lịch sự đó. Bà Cassie tiễn tôi ra cửa.

- Rất hân hạnh được gặp bà, bà Cassie.

Dứt lời, một cơn gió tạt ngang vào mặt tôi, làm tóc tôi dính một đống bụi. Tôi ngỡ vừa có ai đó ném cát vào mình, cảm giác đau rát hằn in trên má. Bà ta vẫn đứng ở cửa, nhìn theo hướng cơn gió vừa thổi tới. Mắt bà nheo lại.

- Bà Cass --

- Gió không thổi đến từ hướng đó từ lâu lắm rồi.

Đáp một câu cụt ngủn, bà ta nhanh chóng quay vào nhà, đóng sập cửa trước mặt tôi. Sau một lúc đứng im phía ngoài, tôi rời khỏi ngôi nhà với bao lẫn lộn trong đầu.

Tôi rảo bước quay về trên con đường sỏi, suy ngẫm về câu chuyện của chị gái bà Mary. Chồng của bà ta đã mất tích được năm mươi năm. Đó cũng chính là khoảng thời gian mà các tin đồn nhắc tới. Liệu có phải ông Brudeau đó chính là người nhân viên đã phát hiện ra cô bé? Nhưng mà một gác cổng thì làm gì trong cánh đồng nho vào đêm khuya chứ? Bà Cassie có vẻ rất nhạy cảm với các tin đồn đó. Ông Brudeau mất tích nhưng chưa chắc đã chết. Vậy chúng kể rằng ông ấy đã chết hay sao? Chuyện kinh khủng gì đã xảy ra đến mức ảnh hưởng đến cả lịch sử của nơi này? Trước khi tới đây, tôi đã tìm hiểu về The Châteax. Không có gì gắn mác "kinh hoàng" hay "chết chóc" cả.

Lại một cơn gió thổi qua ...

"Đừng làm em buồn, đừng làm em khóc." [1]

/Gì vậy?/

"Đôi khi chỉ mỗi tình yêu là chưa đủ và con đường dài trở nên chông gai, em không hiểu tại sao lại vậy." [1]

Nó phát ra từ bên trong cánh đồng. Tôi quyết định ra khỏi đường mòn, tiến vào bên trong. Cả chỗ này giống như mê cung với các ngã rẽ khác nhau. Tôi biết âm thanh này, không phải ai đó đang nói, mà đó là tiếng nhạc. Tôi thậm chí còn biết bài hát này, đây là một bài hát khá nổi tiếng của Mĩ. Nhưng vì sao bây giờ ai đó lại đang phát nó ngay giữa đất Pháp? Tôi mò mẫm, tất cả các giác quan bây giờ đều đang nghe theo sự điều khiển của thính giác.

"Sợ rằng em sẽ không thể tìm thấy. Tất cả những câu trả lời, anh à." [1]

Miệt mài không biết qua bao nhiêu ngã rẽ, tôi mỗi lúc một gần hơn với tiếng nhạc. Sắp đến rồi. Ngay khi mà âm thanh ấy chỉ cách có vài mét, nó dừng lại. Không gian xung quanh trở về với tiếng lá xào xạc, tiếng chim hót và tiếng gió mơn man nhè nhẹ. Tôi đứng khựng lại đó, sững sờ.

/ ... Mà tại sao mình lại làm điều này cơ chứ?/

- Rossefer? - Tiếng nói gần đến ngạc nhiên.

Tôi quay sang. Hugh đang đứng cách đó vài bước, đi cùng là một cô gái. Khi cô ta ngẩng mặt lên, tôi mới thấy đó là Herliet. Bài hát đó dẫn tôi đến đây ư? Thật bất ngờ, nhưng tại sao?

- Hugh? Anh và Herliet làm gì ở đây vậy?

Như được đà giải toả, cô gái nói to:

- Cái lão Arigosa đó đập cửa phòng tôi! Tôi vừa ngủ dậy và lão ta bắt tôi phải xuống đồng hái nho. Tôi sẽ cạo cái ria mép của lão nếu tôi không phải đến đây kiếm tiền!

- Herliet, ông ấy nhờ ta giúp mà. Một cách rất ư ... lịch thiệp.

- Lão ta đe doạ sẽ giảm lương của tôi! Lão ta khủng bố --

Nhưng Hugh đã chấm dứt chủ đề bằng một cái cau mày về phía Herliet. Cô ta bực dọc quay trở lại công việc hái nho với cử chỉ ức chế: giật những chùm nho xuống một cách thô bạo khiến cả hàng rào lay động. Tôi ngồi xuống giúp hai người họ. Cái nắng trên đầu đã ở vị trí đỉnh, chiếu thẳng xuống đất. Mười hai giờ.

- Lúc nãy hai người có nghe thấy tiếng nhạc không? - Tôi dò hỏi, tay vẫn mân mê với những sợi dây leo màu xanh.

- Tiếng nhạc ư? Nếu anh muốn nói tiếng dế hay tiếng chim thì có đấy. Chúng tôi không nghe thấy tiếng nhạc nào cả, Rosse à. Tôi nghĩ rằng trong buổi trưa chang chang thế này thì không ai ra đồng phát nhạc đâu.

Tôi nghĩ sau khi lắng nghe câu trả lời của Hugh thì giả thuyết tôi bị điên là hoàn toàn có thể. Chúng tôi chất đầy ba cái rổ khoảng nửa tiếng sau đó, không ai nói năng gì. Cả ba chỉ đứng dậy và đi về biệt thự.

Sau khi trở về, lập tức ai lên phòng người nấy để tắm, trút bỏ cái cảm giác mồ hôi nóng nực khó chịu. Tôi tắm xong cũng là lúc đồng hồ điểm một giờ chiều. Mệt mỏi bước đến bên giường, tôi ngồi phịch xuống, bụng đói cồn cào. Bữa sáng ít ỏi đã tiêu hoá hết từ bao giờ.

"Knock knock." - Có tiếng gõ cửa.

Bà Mary đã mang bữa trưa lên thật kịp lúc. Bánh mì mứt dâu, chỉ thế là đủ. Tôi chủ động nhận lấy khay bữa trưa của mình và thông báo về việc bà ta đã nhờ.

- Cassie bị đau khớp nên rất khó khăn khi đi lại. Tội nghiệp chị gái của tôi. Giá như ông Arigosa cho tôi nghỉ thường xuyên hơn thì tôi đã có thể đến đó giúp đỡ chị ấy. Trời ạ. - Mary kết thúc câu nói với một cái chẹp miệng. - Chồng chị ấy đi đâu mất tiêu năm chục năm rồi. Từ ấy tới nay chị ấy cô đơn quá, tôi không dám nghĩ mình sẽ khổ sở thế nào nếu ở trong tình cảnh tương tự. Ông đó tên là Brudeau thì phải.

Không hiểu sao trong cuộc nói chuyện "đáng lẽ ra phải rất đáng buồn này", tôi lại rất mong ngóng để biết thêm thông tin về gia đình bà Cassie.

- Ừm ... bà Mary, vậy bà có biết chuyện gì đã xảy ra với ông ấy không?

- Tôi không biết. Mọi người nói ông ấy là một người tò mò, rất hiếu động, ở cái tuổi hai mươi hai đó. Ông ta còn rất giỏi phát minh, những thứ điên rồ. Có vậy thôi.

Tôi cảm ơn Mary về bữa ăn khi bà ta đi khỏi. Lúc quan sát người phụ nữ đi ra thang máy, tôi trông thấy Liev. Anh ta đang đứng dựa lưng vào tường, mắt nhìn suy tư, chân gõ theo nhịp. Đột ngột toàn bộ chuyện bực mình sáng nay trở lại. Cái sự xấu tính, cái vẻ mặt du côn của anh ta. Tôi bực mình đóng sầm cửa lại, đá một cái rõ mạnh vào cửa để cố tình gây ra âm thanh còn to hơn. Tên Liev đó đã nghe được hết cuộc nói chuyện. Cố gắng gạt bỏ những suy nghĩ trong đầu, tôi đi ngủ.

Những giấc mơ đang đến.

* * *

*Author note: [1] Đây chỉ là những câu hát được dịch tạm sang tiếng Việt của bài hát "Born To Die" - Lana Del Rey.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro