01. Tầng gác mái

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

The Châteax la Carnogue, nước Pháp.

Cuối mùa hạ, những cơn gió không còn oi nồng nữa. Không khí xung quanh chuyển sang se lạnh, nhường chỗ cho một mùa thu đang đến gần. Từng bước một, tôi kéo lê chiếc vali nặng chịch lết trên con đường phủ đầy lá phong. Ánh nắng chiều len lỏi qua các cành cây dày đặc, đến độ biến bộ lễ phục màu xanh của tôi thành nhiều vệt loang lổ màu gỉ sét. Tôi tự nhủ rằng lẽ ra mình nên thuê một chiếc xe, chí ít cũng là để tống cái vali này lên đó.

Cánh cổng dẫn vào biệt thự Chânteax đã mở sẵn. Trong sân, nếu trừ ra một bộ bàn ghế thì chỗ này trống trơn. Một khoảng sân thiếu vắng đến kì lạ, giống như rằng cả toà nhà này lẫn cánh đồng nho trước mặt đều đã bị bỏ hoang từ lâu lắm rồi vậy. Kiến trúc ở đây gợi tôi nhớ đến những khách sạn hiện đại nơi thành phố với những ô cửa kính sáng loáng và ban công được thiết kế cầu kì. Một màu sơn trắng bao phủ lên toàn bộ khối nhà, nổi bật giữa khung cảnh thấm đẫm những sắc vàng. Nơi này tuy có nhiều người sống nhưng lại trông có vẻ thật trống rỗng và vô vị, giống như một lớp vỏ ngoài bao bọc sự cô đơn bên trong.

- Xin chào? - Một tiếng nói vang lên sau lưng tôi.

Một người đàn ông hói đầu trạc năm chục tuổi với bộ ria mép quăn tít, comple nghiêm chỉnh cầm trên tay một chiếc iPad đang đứng trước cửa ra vào. Có thể tôi đã không để ý thấy ông ta khi bước vào đây.

- Anh mới đến đây thôi đúng không? - Ông ta hỏi một câu nữa với một thứ tiếng Anh đặc sệt khẩu âm Pháp.

- À, tôi --

Người đàn ông kì lạ kiểm tra chiếc iPad, đôi mắt tinh anh tìm kiếm thông tin khách mời.

- Anh Pheveston! Tầng gác mái thưa anh! Rất cảm ơn vì anh đã đến! Anh là người cuối cùng trong danh sách khách mời hôm nay. Ngay sau khi cất đồ đạc, tôi sẽ cho người chuẩn bị bữa trưa cho anh và nếu anh muốn, tham quan một vòng, dĩ nhiên. Nhân tiện, tôi là Arigosa, quản gia của biệt thự, rất hân hạnh được biết anh!

- À vâng. Cảm ơn.

Tôi cư xử một cách lúng túng trước đoạn thông tin đột ngột và chi tiết được đưa ra. Một phần là vì tôi cũng ngạc nhiên trước sự thay đổi sắc thái chớp nhoáng của người quản lí nơi này.

- Để tôi dẫn anh lên phòng.

Arigosa nắm lấy quai chiếc vali của tôi rồi kéo nó đi. Tôi theo sau ông ta, tiến vào trong nhà.

Sảnh khá rộng. Những bộ tràng kỉ được xếp ngẫu hứng dưới chân những cầu thang dài. Mặt sàn lát đá hoa cương màu rượu vang xếp xung quanh thành một bông hoa khổng lồ. Những chùm đèn hoa lệ rủ từ trên cao xuống lấp lánh rực rỡ. Hàng loạt chiếc bàn bị xếp vào trong xó. Cuối phòng có hẳn một bệ sân khấu nhỏ, trên đó đặt một chiếc dương cầm lớn màu đen - nơi biểu diễn của các nhạc công. Căn cứ vào cách bài trí trong này thì có lẽ Sảnh là nơi tổ chức các buổi dạ tiệc mà mục đích chính tôi đến đây cũng là để biểu diễn với tư cách một nhạc công.

Arigosa không dẫn tôi lên cầu thang, nơi lẽ ra là đường duy nhất để lên trên. Ông ta đi tới cuối phòng, len qua phía sau chiếc dương cầm, vào một hành lang nhỏ.

- Tại sao chúng ta không lên tầng bằng cầu thang?

- À, hai cầu thang đó là lối đi dành cho chủ nhân và các vị khách. Đó là luật. Bên phải để đi lên, bên trái để đi xuống. Không được dùng một cầu thang cho hai mục đích. Theo thiết kế của toà nhà này, hai cầu thang đó chỉ đến được tầng hai - các phòng nghỉ. Từ tầng hai không thể đi lên các tầng trên, cũng như từ các tầng trên không thể đi xuống tầng hai, nhằm mục đích tránh làm phiền. Không hề có đường khác kết nối tầng hai với các tầng còn lại. Do đó, chúng ta phải đi thang máy. Ngay đây thôi.

Ông ta chỉ vào chiếc thang máy màu xanh lá ở cuối hành lang. Chiếc thang máy có cửa kéo bằng sắt, thường thấy trong các bộ phim cũ những năm 80. Tuy là thang máy cổ nhưng bên trong cũng vừa chỗ cho tầm sáu bảy người. Sau khi cả hai bước vào, Arigosa kéo cửa lại và bấm tầng 5.

Thang máy cọt kẹt di chuyển lên phía trên. Qua cánh cửa sắt, tôi thấy được khung cảnh các tầng. Nhìn trông có vẻ không thể đến được tầng hai thật, vì thang máy không có nút số 2 và lối ra tầng này cũng bị xây tường bịt kín. Tầng ba là tầng bếp và nấu nướng. Mùi hương thơm lừng của bánh mì và nước sốt toả đến thang máy thật là kích thích vị giác. Những tiếng va chạm của dụng cụ nhà bếp, những tiếng "xì xèo" càng làm bụng tôi cảm thấy bồn chồn. Đến tầng bốn, thang máy dừng lại, Arigosa kéo cửa sắt ra. Tôi cứ ngỡ rằng là mình dừng ở đây và vị quản ra sẽ đi ra, nhưng không, ông ta mở cửa để cho một người khác đi vào.

- Ah! Anh Andreford. Điều gì khiến anh dạo chơi ở tầng của các nhân viên chúng tôi vậy? - Arigosa nói một thứ giọng mà tôi khá dám chắc đó là mỉa mai.

Người đàn ông tên Andreford không trả lời, chỉ lầm lì đi vào và bấm tầng 1. Anh ta mặc quần bò, áo phông đen. Khuôn mặt góc cạnh có râu ria lởm chởm cùng mái tóc cắt sát khiến tôi linh cảm đây không phải loại người mà mình nên dây dưa cùng. Tay người đàn ông này nắm chặt thứ gì đó ánh vàng, nhưng Arigosa không để ý cho lắm.

Cánh cửa sắt một lần nữa được mở ra khi thang máy dừng lại ở tầng gác mái. Tôi theo vị quản gia bước ra ngoài. Khi đi dọc theo hành lang, tôi có ngoảnh lại. Ánh nhìn của tôi bắt gặp ánh nhìn của Andreford. Anh ta đang nhìn tôi với đôi mắt sắc lẻm lạnh lùng, đôi lông mày hơi nhíu lại. Người đàn ông đó chỉ thôi nhìn khi kéo cửa thang máy, để nó tiếp tục vận hành.

Tuy rằng bên ngoài đang là giữa trưa nhưng hành lang lại khá tối, chỉ một ít ánh sáng hắt được vào bên trong đủ để tôi có thể nhìn rõ. Hành lang này được trải thảm, che phủ mặt sàn gỗ đã trở nên ọp ẹp qua năm tháng. Tôi thấy có vài căn phòng, phía trước mỗi phòng đều có treo bảng tên: Lynn, Liev, ... Arigosa đi rất nhanh, do vậy tôi phải ngừng xem chúng nhằm bắt kịp ông ta. Một lúc sau, hai chúng tôi dừng lại trước căn phòng cuối cùng - Rossefer.

Một tay vặn chìa khoá, tay kia vị quản gia đẩy cửa vào. Căn phòng khá nhỏ, chỉ có một chiếc tủ, một chiếc giường và một chiếc kệ, bên phải là phòng tắm. Dù trên trần có một bóng đèn treo, nhưng nguồn sáng duy nhất đang chiếu rọi căn phòng lúc này là từ cửa sổ, có rèm.

- Mong anh sẽ ổn thoả khi ở trên này, anh Pheveston. Các phòng đều giống nhau và những người khác trên này cũng phải ... anh biết đấy ... chịu khó đôi chút. Nếu như anh cần gì thì tôi ở ngay tầng dưới thôi. Tôi sẽ cho người mang bữa trưa lên ngay. Hãy tự nhiên như ở nhà, anh Pheveston.

Arigosa đặt chiếc chìa khoá phòng lên kệ, đóng cửa lại trước cả khi tôi kịp nói lời cảm ơn.

/Hãy tự nhiên như ở nhà. Hmm./

Căn phòng này tuy cũ nhưng đã được quét dọn sạch sẽ. Mùi gỗ của nội thất ám nặng xung quanh. Trên kệ có một vài quyển sách và tạp chí đã không được đọc từ lâu. Tôi mở cửa sổ để thu thêm ánh sáng và lọc bớt mùi gỗ trong không khí. Từ tầng năm có thể nhìn vào phía trong của biệt thự. Dưới bóng râm của bốn toà nhà khép kín là bể bơi, sân tennis và những hàng ghế đá dài. Tôi thấy vài bóng người đang đi dạo dọc theo những lùm cây, hai ba cô gái đang đánh tennis và ở toà nhà đối diện có cả những người đang chụp ảnh ngoài ban công.

Chợt tôi lại nhớ tới anh chàng Andreford. Không biết anh ta ở tầng nào và liệu giờ này anh ta có đang ở dưới sân kia không.

/Andreford./

"Knock knock."
- Anh Pheveston? - Từ bên ngoài vọng lên tiếng một người phụ nữ.

Tôi mở cửa. Một người phụ nữ hiền hậu nhỏ nhắn đang bê trên tay khay bữa trưa.

- Ông Arigosa bảo tôi đem bữa trưa lên cho anh. Hy vọng là anh đang đói. Xin thứ lỗi cho chúng tôi vì chúng tôi chỉ có sữa và bánh, và mứt cũng đã hết, thưa anh.

- Không cần đâu! Thế này là tốt rồi! Cảm ơn!

Tôi đỡ lấy khay thức ăn từ người phụ nữ. Ánh mắt bà ấy ánh lên những tia ấm áp, nhưng rồi như chợt nhận ra điều gì đó quên chưa nói.

- Ah! Anh Pheveston, tôi quên mất phải nhắc anh một số nội quy ở đây. Thứ nhất, anh không được xuống tầng hai vì bất kì lí do gì, trừ khi chủ nhân yêu cầu. Nếu cần gì đó thì anh có thể nói với chúng tôi. Thứ hai, bữa sáng sẽ vào lúc bảy giờ và bữa tối sẽ vào lúc bảy giờ ba mươi tất cả các ngày trong tuần. Thứ ba, trong thời gian anh ở đây, anh phải tôn trọng mọi người, bảo quản tài sản cá nhân và khi các dạ tiệc bắt đầu thì anh sẽ tuân thủ các chỉ dẫn của ông Arigosa, được chứ?

Tôi gật đầu. Người phụ nữ nở một nụ cười và rời đi. Tôi quay vào phòng và ăn bữa trưa đơn giản của mình, thầm hỏi chuyện gì sẽ xảy ra trong khi mình ở đây.

Tôi lờ mờ thức dậy vào lúc sáu giờ bốn mươi hai phút chiều, giật mình về quãng thời gian mình đã tiêu tốn để ngủ. Nhưng cũng phải thôi, cả tối qua tôi đã phải thức trắng vì chuyến bay và sáng nay tôi cũng không chợp mắt được thêm chút nào. Một cách uể oải, tôi bước vào phòng tắm để cải thiện sự tỉnh táo.

Tắm xong, tôi quyết định gỡ dọn đồ đạc. Tôi mở chiếc vali, lấy đống quần áo đã được gấp ngăn nắp, xếp lên ngăn trên. Chiếc hộp đựng chiếc violin được đặt vào đáy tủ. Tôi cầm bức tranh - bức tranh vẽ ngôi làng Hallstatt mà bản thân đã quyết định đem theo - treo lên trên tường. Cuối cùng là quyển sổ kiêm nhật kí bất li thân của tôi. Tôi không bao giờ bỏ quyển sổ này ở nhà trong tất cả các chuyến đi. Nó là món quà sinh nhật của mẹ dành tặng tôi năm mười lăm tuổi, là món quà cuối cùng bà để lại trước khi mất. Tôi đã gìn giữ vật này suốt tám năm, cố gắng bảo vệ nó khỏi thời gian và sự khắc nghiệt của môi trường xung quanh

- Anh biết rằng sổ tay là một trong những di sản hiếm hoi mà con người ta vẫn còn giữ lại đến tận bây giờ chứ?

Tôi giật mình quay ra cửa. Đứng đó dựa vào tường là một chàng trai xa lạ mặc áo sơ mi trắng.

- Xin lỗi?

- Tôi thấy phòng anh bật đèn nên tôi nghĩ rằng anh đã thức. Lúc anh ngủ thì anh không có ... đóng cửa, nên ... Tôi nghĩ rằng anh sẽ muốn dùng bữa tố,i vì bây giờ sắp đến bảy giờ ba mươi rồi.

Tôi nhìn đồng hồ: bảy giờ hai mươi sáu phút. Tôi đã lê la suy nghĩ suốt gần ba mươi phút. Sẽ là một cơ hội cực kì tốt để gây ấn tượng xấu nếu như tôi lỡ bữa tối trong ngày đầu tiên.

- À vâng, tất nhiên! Anh cũng dùng bữa tối chứ?

- Đúng vậy. Cho nên nếu anh không muốn thấy sự khó chịu của ông quản gia thi tôi cho rằng chúng ta nên đi thôi. - Anh ta nở một nụ cười ghẹo. - Tôi là Hugh, Hugh Stonewall.

- Tôi là Rossefer Pheveston. Hân hạnh. - Tôi đứng dậy bắt tay với anh ta.

Chúng tôi ra thang máy và đi xuống dưới tầng một. Khác với buổi sáng, vào tối nay những chiếc bàn đã được lôi từ trong xó ra để làm bàn ăn. Tôi đếm thấy có khoảng hai mươi bàn chật ních người nói cười ríu rít. Hầu hết mọi người ở đây là nhân viên và đầu bếp, dù vậy vẫn có một vài vị khách ngồi rải rác đang tiếp chuyện về các loại hình bất động sản. Tôi nghe được khá nhiều chủ đề trò chuyện, nhưng đa số vẫn là về chuyện trong ngày và tán gẫu linh tinh.

Hugh dẫn tôi đến chiếc bàn ở gần cửa ra vào. Thật may mắn bàn này không bị tối, vì ngay phía trên có một chùm đèn đang thắp sáng. Bàn này duy chỉ có một cô gái đang ngồi.

- Đây là bàn dành cho các nhạc công. - Hugh nói.

Cô gái ngồi lẻ loi này nổi bật với mái tóc màu nâu xoăn dài. Cô ta mặc một chiếc váy trắng và đang chăm chú vào đĩa tôm trước mặt. Màu son môi của cô ta đỏ quạch một màu vì bị đánh quá tay. Những ngón tay mảnh khảnh của cô ta gõ trên mặt bàn, thể hiện sự chán nản vì phải chờ đợi.

- Herliet! Xuống sớm vậy?

- Hugh! Ôi tôi không thể chịu nổi khi bụng đang trống rỗng mà còn phải chờ tụi đàn ông các anh lết xuống. Họ dọn thức ăn ra hết rồi mà giờ vẫn chưa đủ thành viên nữa. Oh chàng trai nào đây?

Herliet hào hứng chỉ vào tôi. Tôi giới thiệu mình và chào hỏi một chút với cô ấy. Trong lúc tôi nhìn xung quanh thì Herliet lại kêu lên:

- Lâu quá! Chúa ơi!

- Còn ai nữa sao? - Tôi hỏi.

Cô ấy nghiến răng vào nhau vẻ rất cau có. Ánh mắt cô nhìn về phía hành lang phía sau chiếc dương cầm. Hugh cũng nhìn ngó xung quanh để xem có ai khác đến nữa không.

- Còn một người nữa, Liev. Tôi sẽ ăn anh ta mất! Chúng ta ngồi đây mười phút rồi mà cái gã du côn đó vẫn chưa chịu xuống. Anh ta có thương phụ nữ không vậy?

- Thôi nào Herliet, anh ta xuống rồi kìa.

Tôi nhìn ra phía chiếc dương cầm. Một người đàn ông mặc áo sơ mi đen đang tiến đến. Vẻ mặt anh ta thật quen thuộc - Andreford.

/Một người như thế này lại có thể là một nhạc công ư?/

- Liev! Lần sau tôi thề sẽ ăn anh luôn đấy. Đồ xấu tính. - Herliet vừa nói vừa bắt đầu ăn món khai vị.

Liev Andreford ngồi xuống và bắt gặp ánh mắt tôi đang nhìn anh ta, nhưng không tỏ ra dấu hiệu gì là đã gặp nhau từ trước. Anh ta cũng bắt đầu cầm lấy dao và dĩa, mở đầu món khai vị. Chúng tôi bắt đầu ăn trong khi Hugh rót rượu cho mỗi người.

- Vậy là bây giờ bốn chúng ta mới chính thức có cơ hội làm quen với nhau. Trong lúc thưởng thức chai rượu hảo hạng từ chính vườn nho của biệt thự này, Rossefer, đây là Herliet Claviosa.

Herliet cười trong khi còn đang nhai gợi tôi nghĩ đến vẻ mặt đáng yêu của những chú mèo.

- Tôi chơi đàn cello. Hân hạnh được gặp. Tôi bị rối loạn tiêu hoá đấy.

- Cô ấy là người Pháp và sẽ là cellist chính của chúng ta. Cô ấy chơi rất giỏi không nghi ngờ gì rồi. Còn đây là chàng Liev Andreford, anh ấy sẽ chơi piano. Đúng vậy chính là chiếc dương cầm to đùng kia kìa, anh ta sẽ chơi cái đó đấy, theo nghĩa trong sáng nhất nhé. Anh ấy không thân thiện lúc mới gặp nhưng dần thì anh sẽ quen thôi, chắc là người Mỹ nào cũng vậy. Đừng gõ cửa phòng anh ta, anh ta ở trong đó suốt. Không biết làm gì.

Liev không đáp gì, chỉ thở một hơi dài và mạnh thể hiện sự không dễ chịu. Anh ta liếc qua tôi bằng ánh mắt lạnh lùng, vô cảm như khi chúng tôi gặp nhau ở thang máy.

- Tôi là Hugh Stonewall, người Nhật gốc Mỹ, anh đã gặp tôi rồi. Tôi chơi violin đệm cho anh, còn anh sẽ chơi giai điệu chính. Tôi ở ngay phòng bên thôi nên nếu có gì thì anh cứ tự nhiên sang nhé. Herliet và Liev, đây là Rossefer Pheveston, người chơi violin chính của chúng ta. Anh cũng là người Mỹ sao?

- Không, tôi là người Anh.

- Anh có vẻ ít nói. Tất nhiên là không bằng Liev rồi nhưng tôi nghĩ rằng người Anh thường rất phóng khoáng và cởi mở chứ nhỉ? Dù sao thì trong vòng một tháng tới, tôi mong chúng ta sẽ có thể sống vui vẻ với nhau.

Sau lời của Hugh là cái gật đầu tán thành của Herliet. Tôi cũng mỉm cười đồng ý. Tuy bộ râu khiến Hugh có vẻ già trước tuổi nhưng sự nhiệt huyết và tuổi trẻ vẫn có thể cảm nhận rõ. Chỉ có Liev là không phản ứng gì, chỉ chăm chú ăn. Đôi lúc, vì một lí do gì đó, anh ta lại liếc sang tôi dò xét. Thật là khó hiểu.

Chúng tôi ăn xong cũng là lúc đồng hồ điểm tám giờ mười lăm. Các vị khách và các nhân viên dọn dẹp bàn ăn và đứng lên. Chúng tôi cũng vậy. Hugh vươn vai còn Herliet vẫn cố uống nốt ly rượu.

- Tôi chuẩn bị ra bể bơi đây. Có ai đi không? - Hugh nói.

- Tôi phải đi dạo, no quá không bơi được. Những chàng trai các anh cứ đi đi.

- Được rồi. Rossefer và Liev?

Tôi đồng ý còn Liev từ chối bằng một cái lắc đầu. Sau khi đã có kế hoạch, mọi người làm theo. Herliet ra ngoài đi dạo, Liev lên phòng, còn tôi theo Hugh vào sân trong. Bên ngoài tuy trời đã tối nhưng ánh trăng soi rọi khung cảnh trông thật yên bình và tĩnh lặng. Gió đêm len qua tóc và lướt qua mặt tôi. Những cành cây nghiêng ngả nhẹ nhàng tạo nên những tiếng "xào xạc" dễ chịu. Ở những toà nhà xung quanh, ánh điện phát ra từ từng ô cửa sổ góp phần soi sáng khoảng sân trống vắng này.

Bể bơi phản chiếu mặt trăng cùng những chấm sáng xung quanh trở thành một bề mặt mềm mại óng ánh. Tôi quệt một vệt tay xuống nước, tạo ra hàng loạt gợn sóng lăn tăn. Nước rất mát. Từ lúc nào Hugh đã cởi quần áo ra và nhảy xuống. Những tia nước tung toé bắn ra xung quanh như những viên đạn li ti bay trong không khí. Tôi cũng nhảy xuống sau đó, cảm nhận được chất lỏng bao quanh cơ thể.

Tôi thấy đáy bể tối um. Tuy bể chỉ sâu khoảng hai mét, nhưng bóng tối bên dưới tôi khiến nó trông như vô cùng tận. Hugh nắm lấy tay tôi, bơi ra trung tâm. Lúc này tôi cảm tưởng rằng nếu chìm xuống thôi, tôi sẽ rơi mãi mãi vào không gian vô định ấy.

- Anh cảm thấy sợ đúng không? - Hugh nhìn tôi.

- Đúng vậy.

Hugh lặn xuống một vòng và trồi lên một cách điêu luyện. Mái tóc ướt đẫm của anh ta ánh lên những vệt sáng mờ ảo.

- Trông vậy thôi. Anh hãy thử chìm xuống đi. Chỉ có ba giây tới khi chân anh chạm đáy bể. Thử mà xem.

- Ba giây?

Hugh nheo mắt cười, ra hiệu bằng tay. Chúng tôi thả hết hơi trong lồng ngực ra và chìm xuống. Ánh sáng xung quanh lập tức mờ nhạt và biến mất hẳn. Tôi vẫn có thể nhìn thấy mặt trăng méo mó phía trên đầu nhưng xung quanh tối mịt tĩnh lặng. Hugh vẫn đang ở ngay phía trước tôi. Vì rằng không thể nhìn thấy gì, tôi đếm trong đầu.

/Một ... Hai ... Ba/

Chân tôi chạm vào mặt đá lạnh lẽo thô cứng của đáy bể. Ngay sau đó, chúng tôi lấy đà phóng người mình lên trên bề mặt. Cảm giác có được không khí quay trở lại phổi quả thật dễ chịu.

- Kinh khủng thật đấy! - Tôi bật cười.

Chàng trai đối diện nhả hết nước ra khỏi miệng, từ tốn nói:

- Từng có những tin đồn về nơi này, Rossefer.

- Tin đồn?

- Đúng vậy, rằng The Châteax la Carnogue thực chất chỉ là vỏ bọc bên ngoài. Họ nói bên trong toà biệt thự này ẩn chứa điều gì đó rất đỗi huyền bí.

- Anh có tin những điều đó không? - Tôi hỏi, tay vẫn nắm chặt lấy tay Hugh.

- Tôi không dám chắc. Nghe qua những tin đồn ấy có thể đúng, nhưng cũng có thể chỉ là chuyện giả tưởng. Có thể họ dựng lên những câu chuyện đó để bôi xấu danh tiếng nơi này. Người dân xung quanh đây nói rằng vị chủ nhân của nơi này là một người độc ác và ích kỉ. Tôi cũng nghe lỏm được một vài lần các nhân viên ở đây đang nói về chúng. Anh có muốn nghe không?

Hugh nhìn tôi bằng đôi mắt màu xanh, giống như màu xanh của những đại dương tôi từng thấy trên bản đồ thế giới. Tôi cảm nhận được nhiệt độ cơ thể anh ta đang hoà vào nhiệt độ nước xung quanh, khiến chúng ấm lên.

- Những câu chuyện đó là gì vậy? - Tôi hỏi.

Hai chúng tôi bơi vào bờ. Hugh ngước nhìn lên như đang cố gắng nhớ lại những điều mình đã nghe khá lâu về trước.

- Người ta nói rằng năm mươi năm trước đây, một chuyện kinh khủng đã xảy ra, hằn lại trong lịch sử biệt thự này một dấu ấn khó phai. Họ kể rằng lúc đó chủ nhân đương thời của nơi này cũng tổ chức các dạ tiệc. Có tất cả năm buổi dạ tiệc được tổ chức, mỗi buổi cách nhau một ngày, theo tôi nghe là vậy. Họ nói bốn buổi dạ tiệc đầu tiên diễn ra hết sức bình thường. Nhưng vào buổi dạ tiệc thứ năm, một cô bé nhà nghèo đã đến gõ cửa xin thức ăn. Chủ nhân biệt thự lúc đó do không muốn mất mặt nên đã ra lệnh đuổi cô bé đó đi bất chấp những lời cầu xin. Đêm hôm đó, cô bé ấy lang thang trong đồng nho phía trước, hái nho dại để ăn. Thật không may, một nhân viên đã phát hiện ra và ... và ...

Hugh đột ngột ngừng lại. Ánh mắt anh ta đượm buồn. Anh ta nhìn vào xa xăm, mắt không chớp.

- Hugh?

- Tôi nghĩ rằng hai người không nên bơi vào buổi tối, đặc biệt là sau khi ăn xong.

Giọng Arigosa vang lên kéo chúng tôi ra khỏi câu chuyện. Ông ta đang đứng trên bờ, tay cầm hai chiếc khăn và hai bộ áo ngủ. Trong ánh sáng mờ ảo của mặt trăng, sắc mặt của vị quản gia thật không thể nhìn thấu. Tôi không chắc đó là tò mò hay khó chịu. Hugh kéo tay tôi ra hiệu lên bờ. Anh ta lấy một bộ và đưa cho tôi một bộ. Hai chúng tôi thu dọn quần áo, Hugh nói:

- Chuyện đó để khi khác nói tiếp nhé Rossefer. Chúc anh ngủ ngon.

Anh ta rời đi trước, bỏ lại tôi cùng vị quản gia. Trong lúc tôi đang mặc áo ngủ, Arigosa rút ra một thứ hình tròn có ánh vàng - một chiếc đồng hồ quả lắc.

- Cái đó ... hình như tôi thấy nó ở đâu rồi thì phải.

- Chiếc đồng hồ này sao? Không thể nào. Tôi mới chỉ đem nó ra tối nay chứ trước đó khi anh đến thì không hề. Anh thấy nó ở đâu rồi sao?

Dù được che đậy kĩ càng nhưng tôi vẫn có thể cảm nhận được đôi chút lo lắng và dò hỏi trong giọng nói của ông ta. Khi cố gắng nhớ xem mình đã gặp thứ đồ vật kim loại này ở đâu, thì thật tình cờ tôi bắt gặp khuôn mặt của người đó, phía sau cửa sổ trên tầng gác mái.

- Có thể là tôi nhầm thì phải. Ông nội tôi cũng từng có một chiếc đồng hồ như vậy, nhưng nó to hơn. - Tôi nói, thêm sự tự nhiên vào lời lẽ, mắt vẫn không rời khuôn mặt trên cửa sổ.

- Được rồi. Có lẽ anh sẽ muốn lên phòng đấy, anh Pheveston.

Tôi bỏ đi. Trong đầu vẫn hiện rõ khuôn mặt thân quen. Nhờ vào nó, tôi đã biết mình đã từng nhìn thấy cái đồng hồ ở đâu.

/Ah! Anh Andreford. Điều gì khiến anh dạo chơi ở tầng của các nhân viên chúng tôi vậy?/

Câu nói của Arigosa vang lên trong đầu tôi khi thang máy, một cách chậm rãi, di chuyển lên tầng năm.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro