3. 大悲谷

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

THUNG LŨNG ĐẠI BI

14. GƯƠNG SÁNG

❄︎

Khi cỗ xe đi ngang qua Xuân Phiên thành, tuyết lất phất bên ngoài len lỏi bay vào trong xe.

Tiêu Phục Huyên khẩy chuôi kiếm, mành che liền rủ xuống. Tấm mành bọc vải nỉ dày, chắn kín ánh nắng mặt trời bên ngoài cửa, trong nháy mắt đã biến không gian bên trong tối mù xuống. Xe ngựa nhà họ Hoa có đầy đủ mọi thứ, chăn dệt gấp gọn gàng chỉn chu, bình nước nóng bốc hương linh dược.

Ấm sưởi lấy từ chiếc thuyền hôm nọ được Ô Hành Tuyết đặt trong ống tay áo, lưng dựa vào thành xe. Chàng thật yêu chuộng không gian tối tăm mà ấm áp như thế này, nó khiến người ta thả lỏng và mơ màng chợp mắt.

Chàng ôm lấy ấm sưởi tay như muốn thiếp ngủ thật. Song hàng mi chỉ khép hờ một nửa, bên dưới rèm mi dài, tầm mắt chàng phóng ra nhìn bóng người cao cao bên rìa xe.

***

Y Ngô Sinh đoán không sai, Ô Hành Tuyết đã sớm biết sự thật.

Lần đầu chàng thấy bản thân không đúng là vào thời điểm còn ở Đào Hoa châu. Ngay khi A Liểu vừa gào vừa thét chạy vào phòng và vươn tay muốn cào chàng nhưng bị Tiêu Phục Huyên cản lại, chàng đã thấy được tròng mắt A Liểu.

Đôi mắt của người điên luôn mịt mờ, hỗn loạn và đánh mất tiêu cự. Nhưng trong đầu Ô Hành Tuyết lại hiện lên nét hoảng hốt sợ hãi trong đôi mắt trừng to và nhìn chàng chòng chòng qua khung cửa sổ.

Như thể chàng đã từng nhìn thấy ánh mắt ấy.

Vì vậy, chàng đã hỏi đệ tử tiếp khách rằng người nọ là ai?

Đệ tử tiếp khách trả lời, "Người đó tên A Liểu, Ô Hành Tuyết hại hắn bị điên."

Cảm giác khi ấy của chàng sao mà khôn tả, chàng chỉ nhớ mình đã bình tĩnh chớp mắt một cái rồi ngoái nhìn Tiêu Phục Huyên theo bản năng.

Dù chàng cũng không biết vì sao mình lại nhìn về phía Tiêu Phục Huyên.

Có lẽ vì muốn có ai đó khẳng định với mình rằng, "Ngươi không phải tên ma đầu kia, ký ức trong giây lát đó chỉ là tàn lưu linh thần của nguyên chủ mà thôi", hoặc có lẽ... chàng thắc mắc rằng Tiêu Phục Huyên sẽ phản ứng ra sao khi biết mình chính là Ô Hành Tuyết.

Có vị trưởng bối nào đó ở Thước Đô từng nói chàng rất sắc sảo nhạy bén, không bao giờ để lộ cảm xúc ra mặt.

Nhưng có những lúc chàng thật mong rằng mình ngu ngơ đi một tí.

Đáng tiếc không được.

Ở trong phòng dành cho khách tại nhà họ Hoa, khi vị đệ tử trẻ tiếp khách muốn dán thăm hồn phù lên tay chàng. Rất nhiều suy đoán đã lướt qua đầu, nhưng chàng không quan tâm gì mà vẫn hành động theo bản năng: muốn đổi sang tay còn lại.

Thật ra chàng cũng không hiểu tại sao cần đổi tay, nếu đổi tay thì kết quả sẽ khác thế nào. Nhưng mọi việc diễn ra cực kỳ tự nhiên suôn sẻ như thể chàng vẫn luôn ứng phó theo hướng như vậy.

Vì không nói rõ được nguyên do, chàng đành phải đùa viên đệ tử kia vài câu.

Sau đó, chàng bần thần ít lâu. Chàng nói thầm trong lòng rằng "Chắc là tàn lưu của nguyên chủ", đồng thời nói ra thành lời một số việc, ví dụ như hỏi Tiêu Phục Huyên "Ô Hành Tuyết là người như thế nào".

Khi đặt câu hỏi ấy, chàng đã tự tỏ tường hơn nửa, chẳng qua vẫn chưa cam lòng chấp nhận mà thôi.

Rồi đến khi chàng gặp Y Ngô Sinh.

Rồi đến khi Y Ngô Sinh nắm chặt vạt áo chàng không khác gì Y Ngô Thê năm nào và van nài chàng xuống tay giết mình.

Rồi đến khi chàng thấy tráp chuông mộng.

...

Rốt cuộc, chàng phải thừa nhận rằng trên thế gian này không có nơi nào có tên "Thước Đô" cả.

Và đến khi chàng vận khí kéo A Liểu từ xa, mượn tay A Liểu bắt lấy kiếm Y Ngô Sinh, rồi đâm một nhát bén sắc và dứt khoát vào tim đối phương...

Chàng vẫn là Ô Hành Tuyết đó.

Nào Thước Đô nô nức ngựa xe, nào vó ngựa lộc cộc trên đường lớn, nào bá tánh nhộn nhịp tới lui, nào yến tiệc khúc thuỷ lưu thương, nào những buổi săn trăm người, và cả chim tước đáp trên chuông hộ hoa trong phủ... hết thảy đều chỉ là một giấc mộng lớn do người tạo ra.

Và chàng đã say mộng suốt hai lăm năm trời, giờ mới choàng mở mắt.

Nhưng chàng vẫn không nhớ những việc trước đây. Chàng chỉ lờ mờ nhớ đến việc nghe thấy một tràng tiếng chuông lanh lảnh. Còn ai là người rung chuông, vì sao chàng ngủ hai lăm năm, trước khi chuông vang đã xảy ra chuyện gì, và sau khi tỉnh lại nên làm gì, chàng đều không hay biết.

E là chỉ có chuông mộng mới giải được.

Vậy nên chàng lên xe ngựa của Y Ngô Sinh.

Chàng hiểu rõ lý do vì sao mình cần lên xe. Thế nhưng lý do vì sao Tiêu Phục Huyên cũng lên xe khiến chàng có hơi thắc mắc.

Ô Hành Tuyết có thể lý giải tất cả những hành động trước đây của Tiêu Phục Huyên. Khi đó chàng luôn miệng khẳng định mình nhập hồn vào thể xác người khác đến mức tự chàng còn tin như điếu đổ, dù người kia có là Thiên Túc thượng tiên, dù người kia có nói ngoài miệng thế nào thì hẳn rằng trong lòng cũng lung lay đôi chút.

Nếu đã lung lay thì đâu thể nào không màng lý lẽ mà dùng các biện pháp đối phó ma đầu để xử lý phàm nhân. Vậy nên việc y có thái độ mập mờ cũng là chuyện dễ hiểu.

Nhưng giờ thì không như thế nữa.

Ô Hành Tuyết đã biết được sự thật. Và xem phản ứng vừa nãy của Y Ngô Sinh, khả năng cao đến tám phần là Tiêu Phục Huyên cũng biết.

Nếu biết rồi, sao còn cản Y Ngô Sinh không cho vạch trần sự thật?

Do y muốn cứu Y Ngô Sinh một mạng, hay do y không muốn kích động ma đầu vì e làm vậy sẽ khó bắt lại.

Hay là... còn có nguyên do khác.

***

Ô Hành Tuyết ôm ấm sưởi tay, nhờ vào bóng đêm mà lặng lẽ nhìn Tiêu Phục Huyên. Tay chàng xoa nhẹ trên ấm sưởi để làm ấm ngón tay, tiếp đó thử vận chuyển khí đang hỗn loạn trong cơ thể.

Trong xe gần như không có ánh sáng nên thùng xe vốn thoáng đãng cao lớn lại có vẻ hơi chật chội hơn, chỉ cựa cực khẽ cũng tạo tiếng động rõ ràng. Bởi thế, khi chàng cong ngón tay, tiếng keng lanh lảnh thoáng vang lên.

"Tiếng gì thế kia?" Y Ngô Sinh căng thẳng một chút rồi ngồi thẳng dậy và siết giấy hỏi nhỏ.

Ô Hành Tuyết "À" thầm trong lòng, mở miệng gọi, "Tiêu Phục Huyên."

Bóng người cao dỏng cạnh cửa nhích nhẹ.

Hồi lâu sau, giọng trầm thấp của Tiêu Phục Huyên vang lên, "Nói."

Ô Hành Tuyết: "Có thể giải trừ xiềng xích trên người ta chứ?"

Y Ngô Sinh ngồi đối diện cứng đờ người, rồi rụt rè rút người về sau.

Tiêu Phục Huyên: "..."

Hay đi chết cho rồi.

Y Ngô Sinh thầm nghĩ.

Suýt nữa hắn đã buột miệng: Xiềng xích gì? Có thấy xiềng xích gì đâu?

May mà hắn kịp thời khựng lại — đó chính là khoá trời để cầm tù ma đầu tại Thương Lang Bắc Vực, thay trời vấn tội.

Nghe nói từng cây đinh được đóng trên thân thể ma đầu, phạm phải bao nhiêu lỗi phải đóng bấy nhiêu đầu khoá. Người bình thường không thể nhìn thấy xích khoá mà chỉ có thể nghe tiếng.

Và cũng nghe đồn rằng ma đầu phải đền tội bằng máu thịt mệnh hồn, cứ mỗi tội được vơi thì một đầu khoá mới được giải trừ.

Song, hẳn nhiên là không một ai trong số những ma đầu bị đóng đinh đó sống được đến lúc xích được giải trừ hoàn toàn mà đã sớm hồn phi phách tán từ lâu.

Nói không chừng Ô Hành Tuyết là người đầu tiên dám hỏi "Có thể giải trừ xiềng xích hay không" với giọng điệu hời hợt đến độ nghe vào như đang nói "Ta đói rồi, có gì để ăn không".

Mấy câu như thế này có thốt ra thì chắn chắn cũng bị dập ngay tại chỗ thôi.

Thế mà Y Ngô Sinh ngồi chờ một hồi cũng không thấy Tiêu Phục Huyên trả lời, cuối cùng hắn không nhịn nổi nên hé mắt ra, âm thầm nhìn về vị Thiên Túc thượng tiên chưởng quản Thương Lang Bắc Vực kia.

Lòng mắng ngài dám giải ư???

Trong xe không có ánh sáng, bóng Tiêu Phục Huyên mịt mờ không thấy rõ.

Ô Hành Tuyết cảm giác y đang nhấc mắt hướng ánh nhìn về phía này.

Người ta nói không ai nhìn thấy được xiềng xích. Nhưng trong thoáng chốc, Ô Hành Tuyết ngờ rằng Tiêu Phục Huyên có thể thấy được, bởi giây lát ấy ánh mắt y như lia qua từng vị trí bị xiềng xích trói buột trên cơ thể chàng.

Ngặt nỗi, trong xe quá tối nên chàng không thấy rõ biểu cảm Tiêu Phục Huyên. Chỉ thấy sau một hồi thinh lặng thật lâu, y mới mở miệng, "Không giải được."

Giọng y nghe vào rất thấp nhưng không mấy lạnh lẽo.

Ô Hành Tuyết gật đầu rồi đổi tư thế. Tiếng xiềng xích leng keng lại vang lên lanh lảnh. Một chốc sau, chàng mơ màng trả lời, "Ồ... vậy à."

"Thế thì thôi vậy."

Tay chàng vẫn xoa trên ấm sưởi tay, khí kình trong cơ thể vẫn chưa vận chuyển thông thuận. Có lẽ vì đã lâu chàng không dùng đến nên hãy còn chưa quen. Chốc lát nữa, chàng lại hơi giật mình.

"Đau lắm à?" Tiêu Phục Huyên chợt hỏi.

Ô Hành Tuyết ngẩn người, đáp, "Không đau."

"Ngươi nhích người liên tục."

Ô Hành Tuyết nhìn bóng người kia, "Lúc trước có tiếng xiềng xích nên huynh biết ta nhích người thì không nói. Bây giờ không có tiếng xiềng xích mà sao huynh biết được?"

"..."

Tiêu Phục Huyên lặng thinh một hồi mới nói, "Có tiếng."

Ô Hành Tuyết: "Ò."

...

Y Ngô Sinh bên cạnh thiếu điều phát rồ. Hắn thầm thắc mắc không hiểu Thượng tiên với ma đầu đang nói cái chuyện quái gì thế này.

Hắn còn đang tính giả chết cho xong, chợt nghe ma đầu hỏi, "Còn bao lâu mới đến thung lũng Đại Bi?"

Vỏ kiếm Tiêu Phục Huyên gõ vào bên hông khiến Y Ngô Sinh không cách nào giả chết được, đành phải mở mắt ra.

Cũng đúng, một số Thượng tiên không thường ngao du chốn nhân gian nên không thể trả lời được câu hỏi này.

"Còn xa," Y Ngô Sinh nắm giấy, trả lời. "Sau những sự cố ở thung lũng Đại Bi năm nào, các con đường đến thung lũng Đại Bi đều có cấm chế của tiên môn. Xe ngựa loại thường của bá tánh muốn đi phải mất một tháng. Xe linh mã đặc biệt của nhà họ Hoa tránh được một vài loại cấm chế nên sẽ mất tầm ba ngày."

Hắn thật lòng không kham nổi việc phải vùi mình trong bóng tối và đón ánh nhìn chằm chặp của cả hai vị ma đầu và Thượng tiên, bèn vươn tay kéo khoá đinh trên thành xe.

Một ngọn đèn dầu lập tức sáng lên bên trong.

Đèn dầu trong xe nhà họ Hoa được chế tạo đặc biệt, khi đèn thắp lên sẽ chuyển hoá dầu sang linh đan và bột thuốc, vừa giúp huân hương thoáng khí, vừa có tác dụng ngăn cản vài loại tà ma quỷ sát đơn giản.

Thế gian có muôn chủng sinh linh, những thứ khiến bá tánh sợ hãi cũng nhiều vô số.

Những tên tà ma hung tàn nhất hiện tại đều bắt nguồn từ người tu đạo tà ma mà thành, đó là "Khởi nguồn từ người sống".

Còn những thứ "Khởi nguồn từ vong hồn" được liệt vào tính âm.

Tà ma sống quần cư trong Chiếu Dạ thành. Nhưng những thứ thuộc tính âm không giống như vậy, ở những nơi càng hoang vu vắng vẻ hay những nấm mồ càng loạn lạc thì càng dễ gặp chúng.

Có khá nhiều vật mang tính âm trên đường đến thung lũng Đại Bi, một số trong chúng nhịn đói không biết nhiều ít lâu mà có thể ngửi được mùi người sống từ cách xa mấy chục dặm, vì muốn nếm thịt người mà lén bò lên sau lưng người đi bộ, hoặc bám trên nóc và dưới đáy xe ngựa.

Trước đây, đường đến một vài toà thành nhất định phải đi ngang qua thung lũng Đại Bi, các đệ tử tiên môn tuần tra bằng thuyền bầu trên biển Vô Đoan cũng phải đi ngang qua nơi này.

Để đề phòng bị những vật tính âm đó bám lên người và vướng phải rắc rối vô cớ, tiên môn sẽ chuẩn bị đèn dầu chế tạo đặc biệt để trừ tà đuổi quỷ như thế này trên xe ngựa.

Y Ngô Sinh chỉ mở đèn theo thói quen. Ngờ đâu đèn vừa bật đã thấy rõ gương mặt Ô Hành Tuyết ngồi ở đối diện híp mắt lại như thể rất khó chịu trước luồng ánh sáng này.

"..."

À ừ, đèn này phòng âm phòng ma. Mà ngồi trước mặt hắn chính là thủ lĩnh tà ma còn gì.

Y Ngô Sinh hơi sượng tay, không biết nên nhờ giúp đỡ hay sao, bèn lẳng lặng thoáng nhìn sang Thiên Túc thượng tiên. Nhìn qua thì thấy Thiên Túc thượng tiên nhíu nhẹ mày, dời mắt về phía chụp đèn trên thành xe.

Trên chụp đèn viết hai chữ "đuổi tà".

Y lia mắt qua hai chữ ấy nhưng không nói gì, xong lại thu tầm mắt về.

Ngay sau đó, đèn tắt phụt.

Tuyệt vời. Trong xe lại tối mịt.

Y Ngô Sinh bóp tờ giấy nhăn nhúm kia, khoé môi đánh giật bên dưới lớp vải đen, song cuối cùng vẫn không thốt ra tiếng nào mà đành lòng cam chịu. Lòng nhủ: Thôi thì, tắt đèn thì tắt đèn vậy.

Không biết sao ma đầu ngồi đối diện không nói tiếng nào.

Sự yên tĩnh bao trùm chiếc xe thật lâu.

Một thời gian sau đó, Y Ngô Sinh mới nghe thấy Ô Hành Tuyết nói, "Lát nữa khi chạy đến ngoại ô, có thể làm phiền tiên sinh đón hai người được không?"

Y Ngô Sinh thầm nhủ không phiền không phiền, sao tôi dám ngại phiền cơ chứ.

"Đón ai thế?" Hắn hỏi một câu.

Ô Hành Tuyết trả lời, "Là người đi cùng trước đây, xem như là thuộc hạ trong nhà?"

Y Ngô Sinh: "..."

Thuộc hạ...

Trong nhà...

Thuộc hạ trong nhà Ô Hành Tuyết thì là loại người nào?

Nói thẳng ra là phải xách theo hai tiểu ma đầu chứ gì nữa.

****

Khi Y Ngô Sinh thở dài trong lòng thì ở bên rìa đường núi bên ngoài Xuân Phiên thành, Ninh Hoài Sam và cụt tay đang gác tay ngồi xổm trên đỉnh mỏm đá.

Họ thấy từ bên ngoài cổng thành ở vị trí không xa, có đệ tử đeo kiếm nhà họ Hoa đang rối rít quay lại, dán ảnh gì đó trên hai cột tượng thần. Nhìn từ xa thì trông như bảng bố cáo.

Ninh Hoài Sam vừa thấy tượng thần đã muốn ói nên hoàn toàn không có ý định sang đó. Tuy vậy, cậu lại rất tò mò, bèn xách cụt tay đi tới vị trí cách tượng thần độ tám trượng, đủ thấy nội dung trên bố cáo.

Trên đó viết mấy dòng tiếng phổ thông vô cùng phong phú. Nhưng là tóm ý lại chỉ quanh quẩn trong hai câu:

Có hai vị hiệp sĩ chính nghĩa giúp Đào Hoa châu giải quyết nỗi phiền toái lớn.

Hiện tại, hai vị này đang đi cùng tứ đường trưởng lão Y Ngô Sinh của bổn phái đến thung lũng Đại Bi, tuyệt đối không gây khó dễ họ khi ra vào thành.

Dưới tờ bố cáo còn có hai bức tranh.

Kỹ thuật vẽ của nhà họ Hoa rất xuất sắc, chỉ cần nhìn bức vẽ tổ tiên Hoa Tín nhà họ là biết. Vậy nên phàm là người có mắt nhìn qua hai bức tranh kia là biết ngay đang vẽ ai trên đấy.

Ninh Hoài Sam dòm chòng chọc người trong bức tranh bằng ánh mắt hứng thú đến lạ, nói với cụt tay, "Ê quen mắt không, bộ đồ đó kìa?"

Cụt tay tỏ vẻ vô cảm, một hồi sau mới cất giọng khàn khàn, "Quen, đó là thành chủ chúng ta và con rối của ngài."

Ninh Hoài Sam lại dòm chòng chọc bốn chữ "hiệp sĩ chính nghĩa" bằng ánh mắt hứng thú đến lạ, nói tiếp, "Là nhà họ Hoa bị điên hay chúng ta bị mù?"

Cụt tay, "Khó nói."

Hai người bốn mắt nhìn nhau một lúc, cụt tay mới cất giọng từ tốn, "Từ trước tao đã muốn nói, mày không thấy thành chủ có vấn đề thật à?"

Ninh Hoài Sam im lặng.

Một hồi sau, cụt tay lại nói, "Tao càng nghĩ càng thấy sai, mày nói xem?"

Ninh Hoài Sam nín thinh một lúc lâu mới nói, "Vậy thì?"

Cụt tay, "Nếu là đồ giả, tao cũng không để hắn ăn quả ngọt đâu, một cánh tay này của tao ai sẽ trả?"

Ninh Hoài Sam suy tư một chút, liếm đầu răng và vẫy tay. "Chờ đã!"

"Chờ hắn ra khỏi thành, chúng ta hù hắn một vố xem."

"Nếu hắn dám lừa chúng ta, tao cho hắn khóc không thôi."

15. TRIỆU HOÁN

❄︎

Ninh Hoài Sam và cụt tay đứng chờ bên rìa đường núi ở ngoại ô như đã bàn.

Y Ngô Sinh vén mành nhìn thoáng từ xa trước khi xe đến gần. Ở bên ngoài tuyết đổ mịt mù nên không thấy rõ mặt mà chỉ thấy dáng hai người. Một trong hai thuộc hạ còi cọc nhỏ thó bất thường, thoạt trông giống như thiếu niên mười bốn mười lăm tuổi.

Là con nít à?

Y Ngô Sinh lắc đầu, thở dài khe khẽ trong lòng: thời buổi này, những người trẻ bước theo đạo tà ma không hiếm, thật đáng phẫn nộ thật quá đau lòng.

Trước đây từng gặp những trường hợp như vậy, vì mềm lòng mà hắn đã không nỡ xuống tay.

"Sao tiên sinh lắc đầu thế?" Ô Hành Tuyết hỏi. Giọng người này mềm mại, nghe vào không khác gì những vị công tử phú gia bình thường. Thế nhưng nó lại khiến người nghe sợ thót, có lẽ bởi chữ "thế" thoát ra quá đỗi nhẹ nhàng.

Y Ngô Sinh lập tức thả mành. Hắn siết tờ giấy tính trả lời thì mành che cửa đã bị xốc lên từ bên ngoài, gió tuyết phần phật lùa vào trong.

"Thưa thành chủ, bọn ta đến đây!" Ninh Hoài Sam bước lên xe trước, vừa gọi Ô Hành Tuyết xong thì thấy Y Ngô Sinh, sắc mặt chuyển tái mét. "Sao lại là ngươi!"

Y Ngô Sinh hơi ngạc nhiên.

"Phản ứng thế này," Ô Hành Tuyết nhìn qua. "Hai người quen nhau à?"

"À," Ninh Hoài Sam cười khẩy, cất giọng thần bí một cách quái đản. "Ta là người Chiếu Dạ thành, sao có chuyện quen biết với hạng danh môn chính phái như hắn ta. Chẳng qua nhiều năm trước có phúc tinh ban phước cho gặp hắn ta một bận."

Y Ngô Sinh hoàn toàn không nhận ra cậu ta, mặt đầy thắc mắc, "?"

Ninh Hoài Sam càng xanh mặt. Cậu rủa một câu thô thiển trong họng rồi vạch cổ áo ra để lộ phần da bên dưới cổ, nơi đó có một vết thẹo kiếm để lại dài đến kinh hoàng. Vết thẹo còn vừa kết vảy mới như thể nó vẫn còn rách ra cách đây chưa bao lâu.

Thấy vết thẹo này, Y Ngô Sinh mới nhớ ra. Hắn nhìn Ninh Hoài Sam trong ngạc nhiên tột độ, tờ giấy trong tay siết lại và giọng nói toát lên nét ngỡ ngàng, "Ngươi là... đứa nhỏ trên cánh đồng Gia Minh năm nào?"

"Nhỏ cái đầu nhà ngươi," Ninh Hoài Sam vạch hết cổ áo ra. "Năm đó lão tử đây đã mười mấy tuổi, từ đó đến giờ hơn bốn mươi năm rồi."

Đoạn hội thoại này Ô Hành Tuyết nghe vào chả hiểu mô tê gì. Nhưng chuyện đó không cản chàng hỏi thêm vào, "Cánh đồng Gia Minh?"

Ninh Hoài Sam mắng sướng miệng rồi, giờ nghe chàng hỏi thì cười lạnh. "Đúng thế, cánh đồng Gia Minh. Thành chủ biết đấy, cái lần ta và Hắc Bồ Tát đi làm việc nhưng cuối cùng bị nhà họ Hoa cản trở, Hắc Bồ Tát cũng gãy gánh giữa đường."

"..."

Thành chủ không biết.

Ô Hành Tuyết "Ò" một tiếng, "Ta còn nhớ rõ chuyện Hắc Bồ Tát," chết liền.

"Vết thương của ngươi là do?"

Người theo tà ma xích mích tranh đấu chém giết với trăm họ tiên môn cũng là chuyện thường tình, tất phải vì một vết chém mà khắc sâu trong lòng lâu như vậy?

"Ngài hỏi hắn ta kìa," Ninh Hoài Sam chỉ Y Ngô Sinh.

"..." Y Ngô Sinh tự hỏi rốt cuộc ta đang ngồi cái xe quỷ quái gì vậy.

Im lặng một hồi, hắn vẫn giải thích, "Ta có thoa một ít... dược liệu trên lưỡi kiếm."

Chuyến đó xuất hành để diệt tà ma, nhà họ Hoa thoa linh dược trên kiếm của tất cả mọi người, dược do chính tay hắn điều chế. Một khi kiếm đã chém xuống, cho dù không tổn thương chỗ yếu hại thì cũng khiến vết thương liên tục hở miệng thối thịt không lành được.

Người Chiếu Dạ thành đều tu tà ma, tốc độ hồi phục vết thương theo quy tắc tà ma nên lành lặn rất nhanh, nhưng thương tổn cũng vô cùng nặng nề.

"Một nhát kiếm của hắn hại ta ngâm ao dược hai lần trong ba ngày, luyện cấm thuật độc suốt ba mươi năm hơn," Ninh Hoài Sam nghiến răng trèo trẹo. "Từ sau đó, thân thể này của ta không lớn lên được nữa!"

"Ngươi còn dám dạy đời ta," Ninh Hoài Sam nhìn Y Ngô Sinh đau đáu. "Nói cái gì cái gì? À, nói ta tuổi còn nhỏ đã si mê tà đạo, lầm đường lạc lối. Còn bảo ta chống mắt lên xem những nạn nhân bị tà ma hại chết đó rồi liệu có từng nhớ về người thân của mình hay không. Còn dám bảo nếu ta làm thế chắc chắn sẽ hối hận cả đời."

"Lão già," Ninh Hoài Sam bật cười sang sảng, quỷ khí toát ra từ hai mẩu răng nanh.

Lão... già.

Y Ngô Sinh im lặng không nói.

Con cháu tiên môn rất khó già đi, đặt trong gia đình phàm nhân thì dung mạo của hắn có bảo là hai lăm, hai sáu tuổi cũng không ngoa.

"Hết thảy Chiếu Dạ thành đều biết ta là cô nhi bò ra từ lòng đất, không có thứ đồ bỏ như người nhà để mà tưởng nhớ, vậy phải làm sao đây? Nhưng mà hạng già như ngươi trước đây có từng nghĩ đến việc sẽ gặp lại ta ở chốn oái ăm như vầy không?"

Y Ngô Sinh: "..."

Có từng nghĩ sẽ đao kiếm tương phùng, nhưng không ngờ tới việc ngồi chung xe ngựa.

Ánh mắt Ninh Hoài Sam soi lên soi xuống tấm vải đen bịt mũi miệng hắn, cay nghiệt thốt, "Ái chà chà, xem chừng lão già này được đối đãi hơi bị tốt nha, ta..."

Làn da trắng xanh của Y Ngô Sinh suýt bị cậu ta kháy tới đỏ bừng, chợt một thanh kiếm vỏ bạc ở cạnh cửa nhấc khẽ, đập "rầm" vào sau gối Ninh Hoài Sam.

Ninh Hoài Sam té huỵch xuống, dập gối quỳ trước mặt Y Ngô Sinh.

"..."

Ta...

Cậu ta xoa cái chân mềm oặt, chửi "Đệt" một tiếng rồi quay ngoắt sang hướng người vừa đập mình. Nơi đó là Thiên Túc thượng tiên đang cụp mắt nhìn cậu với nét mặt vô cảm và ngón tay khẩy nhẹ đưa thanh kiếm về vị trí ban đầu.

Ninh Hoài Sam thấy đoá sen vua đen trên cổ tay Tiêu Phục Huyên chợt loé mới sực nhớ ra đây là con rối của thành chủ nhà cậu, có làm gì cũng là làm theo ý thành chủ.

Ninh Hoài Sam nhìn sang Ô Hành Tuyết, "Thưa thành chủ, ngài sai y đánh ta à?"

Ô Hành Tuyết: "..."

Ta không có sai.

Chàng ngước mặt, chăm chú nhìn Tiêu Phục Huyên đứng đối diện.

Tiêu Phục Huyên cũng nhìn về phía chàng, đôi mắt y ẩn dưới bóng đen mịt mờ. Một lát sau, y nhướn mi thật khẽ, bày nét mặt chuyện này không liên quan đến ta rồi xoay mặt đi.

Ô Hành Tuyết: "..."

Đường đường là Thượng tiên mà chơi châm ngòi ly gián à.

Chàng sờ sờ ngón tay ủ ấm và quan sát một chút. Sau đó mới gõ ngón tay lên mặt bàn và nói với Ninh Hoài Sam, "Không cần quỳ mãi thế, ngươi ra giúp người lên xe rồi ngồi xuống đi."

"Ai?" Ninh Hoài Sam nổ mắt nhìn ngược lại. Ngoài cửa xe là cụt tay đang ôm một tay một chân trên thành xe, chân còn lại vẫn lững thững bên ngoài. Hắn nghiêm mặt không chút cảm xúc nhả một câu cho Ninh Hoài Sam, "Chịu mày lâu rồi đó, cút vào đi."

Ninh Hoài Sam: "..."

Cậu nhẫn nhịn bao nhiêu là uất nghẹn, nhìn chòng chọc chỗ ngồi trống bên cạnh Y Ngô Sinh một hồi rồi nhìn sang Tiêu Phục Huyên đang ôm kiếm đứng, kế đó nghiến răng bước sang ngồi cạnh Ô Hành Tuyết.

Tiếp đó, cậu thấy thanh kiếm của Tiêu Phục Huyên rung nhẹ.

Ninh Hoài Sam nhảy cẫng lên như phản xạ có điều kiện, mông vừa chạm ván gỗ đã bật dậy, phóng như bay tới ngồi bên cạnh "kẻ thù" Y Ngô Sinh.

"Không cho ngồi thì không ngồi, đừng đánh người mà thành chủ ơi," cậu lầm bầm.

Ô Hành Tuyết: "..."

Một loạt dấu chấm hỏi mọc trên đầu Ô Hành Tuyết.

Ai không cho ngươi ngồi?

Ninh Hoài Sam nhận ra Tiêu Phục Huyên cũng không định xuất kiếm, bấy giờ mới thấy hình như mình chỉ đang làm lớn chuyện, nhục nhã không còn chút thể diện nào. Nhưng muối mặt quá rồi sao dám đổi nữa, cậu chỉ đành trưng bản mặt đưa đám ngồi bên cạnh Y Ngô Sinh.

Cụt tay nhìn trái nhìn phải một chút rồi ngồi xuống bên cạnh Ninh Hoài Sam. Cũng không phải gã không dám ngồi phía đối diện, nhưng ngồi cạnh Ninh Hoài Sam thì tiện truyền âm hơn.

Gã chống một đốt tay trên lưng Ninh Hoài Sam, truyền âm bằng phương thức chỉ hai người có thể nghe được, "Mày nhận ra không, từ nãy tới giờ thành chủ không hề động đậy, tay còn ôm chặt ấm sưởi."

Khí trong người Ô Hành Tuyết lạnh băng, không chừng còn rét hơn gió tuyết mười vạn dặm dọc biển Vô Đoan. Thanh kiếm trong tay luôn phủ một màn sương mù, hễ bàn tay ấy nắm cằm người khác ắt sương giá kia có thể truyền lên đóng băng cả gương mặt người kia.

Chỉ có người khác sợ hắn, chứ hắn chẳng bao giờ sợ lạnh.

Người như vậy sao có thể ôm ấm sưởi tay mãi không buông?

Ninh Hoài Sam trầm tư, truyền âm trở về, "Ban nãy tao tức sùng máu nên không để ý. Giờ ngẫm lại... lần đó tao mang cái mạng quèn trở về Bất Động thành từ cánh đồng Gia Minh, người đầu tiên tao gặp chính là thành chủ, ngài đã nhìn thấy miệng vết thương vừa dài vừa bết máu của tao."

Dù không nhớ rõ những chuyện đã xảy ra từ hơn ba mươi năm trước đi nữa, sao có thể không ấn tượng gì vết thương bị kiếm chém nên cơ chứ. Rất kỳ quặc.

Hai người lên xe rồi càng xác định nghi ngờ lúc trước.

***

Xe ngựa chạy thẳng một mạch ba ngày liền, đi qua hơn hai mươi điểm cấm chế tiên môn, cuối cùng cũng thấy bóng dáng thung lũng Đại Bi thấp thoáng từ xa.

Ô Hành Tuyết đẩy tấm che cửa sổ nhòm thử, thấy cuối con đường trước mắt là một hẻm núi thăm thẳm nằm phía sau màn sương tuyết, vách đá bên rìa hẻm núi cao chót vót với dốc đứng như một hẻm vực hẹp, trên vách giăng một cây cầu dài và hẹp nối liền con đường vào thung lũng Đại Bi.

Trên thân cầu bám đầy dây leo các loại, chúng treo nhiều kích cỡ dài ngắn rủ xuống bên dưới. Thoạt trông như thể đã rất lâu không có ai ghé qua.

Nhưng kỳ lạ ở chỗ cách lối vào thung lũng chưa tới một dặm thế mà lại có một căn khách điếm.

Không đúng, gọi nó là khách điếm có hơi phô trương, chính xác phải gọi là hai túp lều lán cỡ lớn. Bốn phía bề ngang cái lều phía trước trống không, chỉ lợp mái. Bên trong lán có kê bàn ghế, xem như che được mưa chứ không thể ngăn được gió lộng nghiêng vào.

Căn lều lán nằm phía sau trông còn có vẻ trụ tạm bợ được tầm hai ngày.

Trong căn lều quả thật có người ở.

***

Xe ngựa dừng lại trước lều.

"Bọn ta sành sõi địa hình thung lũng Đại Bi nhất. Để hai chúng ta đi trước thăm dò, phá bớt chướng ngại để không vướng bận thành chủ vào trong," Ninh Hoài Sam và cụt tay nói vậy rồi tạm biệt và rời khỏi.

Ô Hành Tuyết và những người còn lại xuống xe và đi về phía căn lều tranh.

Y Ngô Sinh sợ người ta cảm thấy dị thường nên lấy chăn giữ ấm chuẩn bị trên xe quấn quanh cổ mấy vòng để che đi tấm vải đen bịt mũi miệng mình. Hắn hỏi người ngồi trong lều, "Thung lũng Đại Bi bị phong ấn đã lâu, không biết các vị đến đây có việc gì?"

Bên trong lều tranh có ba người trông như đệ tử tiên môn nhưng không đeo gia huy. Gương mặt họ còn trẻ măng, quần áo bay bổng phấp phới, trời có rét đậm cũng không làm họ thấy lạnh lẽo, ba người đang nhìn chằm chằm chiếc xe ngựa tiến tới gần với vẻ mặt đề phòng.

Bốn người còn lại không khác gì bá tánh thường dân, gồm hai nam hai nữ có vóc người trung niên, vận áo bào gọn gàng bằng vải thô dày.

Có lẽ muốn tránh gió nên họ co rút tay chân lại, quấn khăn bông dày cui quanh cổ, trên mặt họ có những vết nhăn rất sâu và có cả vết sẹo. Trên chiếc bàn trước mặt họ đặt đao gươm và một vài chung trà ấm bốc khói trắng thoang thoảng.

Trong số họ có một người phụ nữ đỏ bừng mắt như vừa khóc to. Đôi mắt cô ngước nhìn từ Y Ngô Sinh rồi dời sang người Ô Hành Tuyết.

Có lẽ cô thấy Y Ngô Sinh bọc kín cả người giống hệt bọn họ. Còn Ô Hành Tuyết thậm chí gươm đao còn không có, tay chỉ ôm vỏn vẹn chiếc ấm sưởi, không có vẻ đe doạ gì.

Người phụ nữ ngần ngại một chốc rồi trả lời, "Không còn cách nào khác, chúng tôi tới tìm người."

"Tìm người?" Ô Hành Tuyết hỏi.

"Ừm," người phụ nữ gật đầu, vừa tính nói tiếp, "hai đứa con gái của tôi..."

Thì đệ tử tiên môn bên cạnh ho khụ một tiếng, nhắc nhở, "Không cần nhiều lời."

Thung lũng Đại Bi là một địa danh đầy tà độc, đặc biệt sau khi bị phong ấn thì hầu như không còn người sống, mang tử khí nồng nặc. Toàn bộ khe núi sâu thẳm bọc giữa sương mù đen kịt.

"Trước đây chúng ta đã nói rồi, ở nơi đây gặp người cũng chưa chắc là người," đệ tử tiên môn nhỏ nhẹ nhắc nhở.

Ô Hành Tuyết rất thính tai, nghe được không thiếu một chữ, bèn chau mày. Lòng chàng bảo câu này thật ra không sai, mấy người bọn họ gồm có một tàn hồn, một xác chết vùng dậy, một tà ma, có mống nào là người đâu.

Chàng giả vờ như không nghe gì, bước tới hỏi, "Nếu các vị tính tìm người thì sao phải ngồi ở đây?"

Đệ tử tiên môn chau mày, sau một lát mới nói, "Trước đây các vị chưa từng tới thung lũng Đại Bi à?"

Đám Ninh Hoài Sam không ở đây, Ô Hành Tuyết thẳng thắn nhận, "Chưa từng."

Đệ tử tiên môn gật gù, "Thảo nào."

"Thung lũng Đại Bi đã phong ấn từ lâu, cũng không có mấy người lui tới nên không biết quy tắc cũng không lạ," đệ tử tiên môn chỉ vào cây cầu kia và nói. "Về đêm mới có thể vào trong thung lũng, khi mặt trời xuống núi, đèn sẽ thắp trên tiên miếu ngoài lối vào thung lũng. Chỉ khi đèn sáng mới sang cầu được, bằng không ai lên cầu cũng mất mạng."

"Sao lại như vậy?" Ô Hành Tuyết liếc nhìn cây cầu và hỏi.

Người phụ nữ nhỏ nhẹ, "Bên dưới cầu đầy rẫy thứ lổm ngổm."

"Nếu nơi này đã nguy hiểm đến vậy, đường đến đây lại đặt rất nhiều cấm chế của tiên môn, vậy sao còn có thể đi lạc vào mà cần tìm?" Y Ngô Sinh hỏi.

"Quả thật không phải đi lạc vào," người phụ nữ lướt nhìn lối vào thung lũng rồi trả lời Y Ngô Sinh. "Mà bị triệu hoán tới."

Ô Hành Tuyết cảm thấy có tiếng kiếm vang lên bên cạnh mình, bèn quay đầu sang, thấy Tiêu Phục Huyên đang chau mày.

"Có việc gì thế?" Ô Hành Tuyết hỏi.

"Triệu hoán," Tiêu Phục Huyên thấp giọng nhắc lại. "Trước đây, triệu hoán chỉ xảy ra trong một tình huống duy nhất."

"Tình huống thế nào?"

"Trời ban danh tự, triệu hoán thành tiên."

Phần lớn tiên nhân đều từ phi thăng mà thành, rất hiếm có trường hợp ngoại lệ — đó là những người không trải qua quá trình tu hành, từ khi còn bé đã thành tiên. Ở Tiên Đô xưng việc này là "thiên chiếu", người được "thiên chiếu" triệu hoán thành tiên nhận danh tự trời ban, không thuộc quản lý của Linh đài Thập nhị tiên.

Từ xưa đến nay, trên Tiên Đô chỉ có hai vị như thế, một trong đó chính là Tiêu Phục Huyên.

Nói vậy... tại sao "triệu hoán" mang tính thiên đó lại xuất hiện ở thung lũng Đại Bi?

16. TÌM CHẾT

❄︎

Tuy nhiên, nói đến danh tự trời ban...

Ô Hành Tuyết quay sang nhìn Tiêu Phục Huyên rồi bất giác vươn tay sờ lên cánh cổ bên dưới gốc tai y một chút.

Người ta nói kiếm của Thiên Túc thượng tiên còn nhanh hơn sét cửu thiên, nó có thể chém lìa đầu những kẻ ngỗ ngược chỉ trong nháy mắt. Tà ma tứ phương đều né y cả mười trượng, nguời thường càng không cách nào tiếp cận.

Ô Hành Tuyết duỗi tay ra rồi mới sực nhớ tới những lời đồn không rõ ngọn nguồn này, muốn hối hận cũng không còn kịp nữa.

Song, thanh kiếm trong tay Tiêu Phục Huyên chỉ khẽ nhấc một chút rồi lại hạ xuống. Âm thanh sấm rền vừa phát lên đã ngưng bặt. Từ lưỡi kiếm sắc bén cuồng nộ đến nhẹ nhàng giấu mình vào vỏ diễn ra trong chớp mắt.

Ô Hành Tuyết còn đang sững sờ trước sự chuyển biến chóng vánh này, Tiêu Phục Huyên đã nghiêng đầu sang, rủ mắt liếc nhìn ngón tay chàng, "Ngươi nhấn cái gì đấy?"

Giọng y rất trầm, khi cất tiếng yết hầu trên cổ rung nhè nhẹ.

Ô Hành Tuyết cuộn ngón tay lại và rụt về, "À" một tiếng rồi nói, "Danh tự 'Miễn' của huynh đâu rồi? Dường như ta không thấy nó hiện ra nữa."

Tiêu Phục Huyên thoáng liếc nhìn lều tranh, thấy có đủ mọi loại người thì không muốn nhiều lời, đáp vỏn vẹn hai chữ, "Không còn."

Cũng phải. Tiên Đô đã diệt vong, Linh đài không còn, danh tự "Miễn" trời ban mất đi âu là chuyện thường tình. Ô Hành Tuyết chợt thấy không hiểu đầu óc mình miên man lạc lối cái gì mà lại hỏi một câu ngu xuẩn như vậy.

Chàng khoát tay vừa tính bỏ qua đề tài này thì nghe Tiêu Phục Huyên nói, "Lúc trước cũng không phải lúc nào cũng thấy được."

Ô Hành Tuyết hơi tò mò, "Không phải lúc nào cũng thấy được? Sao lại thế, không lẽ danh tự trời ban cũng có lúc ẩn lúc hiện?"

"Ừm."

"Vậy khi nào sẽ ẩn và khi nào sẽ hiện?"

"..."

Vì lý do nào đó mà Tiêu Phục Huyên không trả lời. Y chỉ nắn nhẹ ngón tay bên cổ nơi lẽ ra phải hiện chữ "Miễn", mắt nhìn lướt qua Ô Hành Tuyết rồi bước thẳng về phía căn lều.

Ô Hành Tuyết: "?"

"Sao lại gọi là triệu hoán?" Tiêu Phục Huyên đến bên cạnh lều và hỏi người phụ nữ kia.

Có một đệ tử tiên môn bên cạnh muốn cản lại nhưng bị một người khác giữ tay, đồng thời nhìn chằm chằm Tiêu Phục Huyên với vẻ ngần ngại.

"Vì trên cổ có chữ," người phụ nữ vừa nói vừa hươ tay, thân mình bọc dưới lớp áo khoác đông dày nên trông hơi vụng về, làm nổi bật hơn vẻ hốc hác trên đôi mắt đỏ hoe của cô.

Trên cổ có chữ?

Ô Hành Tuyết nghe không rõ đầu đuôi.

May có đệ tử tiên môn không kiềm lòng được, nói thêm vào, "Vụ việc này từng ồn ào một thời gian ở ngoại thành Ngư Dương. Gia đình mắc nạn đầu tiên là gia đình một người tiều phu, đó là một chàng trai hiền lành, hôm nọ ngủ dậy bất chợt xuất hiện chữ trên cổ, giống như... giống như được trời ban vậy, chữ hiện trên người rồi có tẩy rửa lau chùi cỡ nào cũng không biến mất."

Cậu ta liếc mắt qua cổ Tiêu Miễn nhưng thu về ngay lập tức. "Rồi ngay đêm đó, tay tiều phu mất tích, mà không chỉ có người mất tích, rìu anh ta thường dùng hằng ngày và lư hương trước bàn thờ cũng biến mất theo."

"Lư hương?" Y Ngô Sinh khó hiểu.

"Đúng vậy, là lư hương," đệ tử tiên môn gật đầu, nói. "Người nhà anh ta cũng thấy lạ thường, bèn đi tìm xung quanh nhưng mãi vẫn không tìm được. Sau bảy ngày, cả nhà họ từ già tới trẻ đều mơ cùng một giấc mơ."

"Trong mơ, họ thấy người tiều phu ngồi xếp bằng thẳng thóm trên bàn thờ, một tay cầm rìu một tay nâng lư hương, cái đầu bị chặt lìa của anh ta đặt trên đùi. Máu chảy từ cánh cổ gãy đổ đầm đìa toàn thân, đầu anh ta còn có thể mở miệng nói."

"Nói chuyện gì?"

"Nói rằng anh ta được triệu hoán thành tiên, trụ trong căn miếu ở thung lũng Đại Bi, đồng thời nhắn người nhà nhớ cúng dường nhang khói đầy đủ cho mình."

"Người thân của anh ta tỉnh dậy bèn lập tức đến tìm chúng ta cầu trợ giúp. Thế nhưng ai cũng biết thung lũng Đại Bi đã bị phong ấn rất nhiều năm rồi, người thường dễ gì vào được. Tiếp đó có mấy vị sư huynh sư tỷ không cam lòng bèn mang theo vô mộng đan mua từ nhà họ Hoa và đi một chuyến tới thung lũng Đại Bi."

"Có sự hỗ tợ từ vô mộng đan, các sư huynh sư tỷ cũng không mấy e ngại. Nhưng họ sốt sắng đi vội một chuyến mà vẫn không gặp được người tiều phu kia mà chỉ tìm thấy cây rìu bản lớn dính đầy máu."

Nghe tới "vô mộng đan của nhà họ Hoa", Ô Hành Tuyết hơi ngẩn người, nhìn qua Y Ngô Sinh. Chàng thấy hắn cụp mắt gật đầu, kéo khăn che mũi miệng cao lên, bịt kín hơn nửa gương mặt, trông vẻ mặt có đôi phần cay đắng.

Người đời nương nhờ vào vô mộng đan để chống chọi mối nguy nan khi ra vào thung lũng Đại Bi, ấy nhưng người chế tạo ra vô mộng đan lại không được may mắn đến vậy.

Thật là...... đường đời trớ trêu.

"Thế rồi sau đó tiếp tục có những gia đình vướng phải tai hoạ tương tự, sự tình cũng không khác gì mấy. Tất cả đều bắt đầu từ việc xuất hiện chữ lạ trên cổ, rồi người biến mất khi màn đêm buông xuống. Cho dù có lấy dây thừng trói chặt vào giường hay cho người ngồi kề bên theo dõi sát sao đi nữa cũng vô vọng. Người theo dõi sẽ bất chợt ngủ mất, còn dây thừng trói người thì không bị cởi nhưng cả cuộn dây đều đẫm máu. Giống như..."

Đệ tử tiên môn tái mét mặt mày, "Giống như có kẻ cắt thân thể người bị trói theo chiều dây thừng rồi đem xác đi mất vậy. Cuối cùng, dù họ có biến mất bằng cách nào thì cũng sẽ quay về báo mộng nói rằng mình được triệu hoán thành tiên và muốn được người nhà đến cúng dường ở thung lũng Đại Bi."

"Gia đình cô gái này cũng là một nạn nhân," cậu chỉ vào người phụ nữ nọ. "Hai đứa con gái cô ấy biến mất, chúng ta hỗ trợ đi cùng đến tìm. Thật ra..."

Cậu mấp máy môi, dường như muốn nói có tìm cũng không hy vọng tìm được. Nhưng rồi nhìn thấy đôi mắt đỏ hoe của người phụ nữ kia bèn nuốt ngược lời vào trong.

"Việc hung hiểm như vậy mà môn phái các người chỉ phái ba người đến?" Y Ngô Sinh ngạc nhiên hỏi.

"Cũng bởi hai ngày trước Thương Lang Bắc Vực biển Vô Đoan bị sụp đổ đấy thôi, phần lớn đệ tử môn hạ đều sang bên đó nên nhận phải tổn thất nặng nề. Môn phái chúng ta cũng không phải đại môn phái gì, nhân lực vẫn còn hữu hạn lắm," ba người đệ tử lầm bầm.

Ô Hành Tuyết vốn muốn vào lều chờ trời tối song nghe được câu này liền xoay gót trở về xe ngựa.

Chàng đã quên cảm giác bị cả thiên hạ thóa mạ là như thế nào.

Nhưng hiện tại, thay vì ra mặt hù dọa mấy đứa trẻ tiên môn vô danh tiểu tốt thì chẳng thà chui vào xe ngựa đắp chăn ngủ một giấc vậy.

Chàng đã mong rằng qua giấc ngủ trọn vẹn này, mình có thể mơ thấy một điều gì đó dù là Thước Đô hay những chuyện trong quá khứ, thế nhưng chàng không mơ thấy những điều đó.

Mà lạ thay, dù không thấy khung cảnh nào cụ thể hay bóng hình nào cụ thể, chàng lại mơ về danh tự "Miễn" với ánh vàng nhàn nhạt kia cận kề như ngay trước chóp mũi...

***

Ô Hành Tuyết giật mình choàng tỉnh thì thấy Tiêu Phục Huyên đứng ngay trước mắt, đang khom lưng cúi xuống.

Chàng liếm đôi môi khô của mình và nắm lấy cánh tay Tiêu Phục Huyên. "Huynh—"

Lời còn chưa dứt, Ô Hành Tuyết đã nghe thấy tiếng leng keng vang lên khe khẽ, bèn cúi đầu nhìn xuống thì thấy treo trên ngón tay Tiêu Phục Huyên là một cặp lục lạc màu bạc. Đôi lục lạc này giống hệt chuông hộ hoa buộc trên cổ tay chàng lúc ở nhà họ Hoa.

"Huynh làm gì thế, lại tính canh chừng ta à?" Ô Hành Tuyết ngẩn ngơ nhìn lục lạc.

Tiêu Phục Huyên không trả lời, để chàng tuỳ ý nắm chặt tay mình, ngón tay y di chuyển một chút và cột lục lạc bạc bên hông Ô Hành Tuyết.

Khi y cúi đầu như vậy, vành tai và cổ gần gũi khôn cùng.

Theo bản năng, Ô Hành Tuyết nhìn thoáng qua nơi lẽ ra nên có danh tự "Miễn" bên cổ y.

"Không thể giải khoá trời nên chỉ có thứ này," Tiêu Phục Huyên nghiêm giọng nói.

Ô Hành Tuyết do dự một lúc rồi buông tay ra.

Không thể giải xiềng xích thì sao? Có liên quan gì đến lục lạc?

Chàng không mất nhiều thời gian để hiểu ý của Tiêu Phục Huyên.

Sắc trời đã ngả bóng sau núi bên ngoài xe ngựa. Theo lời các đệ tử tiên môn, đây là lúc có thể qua cầu để vào thung lũng.

Ô Hành Tuyết đi theo Tiêu Phục Huyên xuống xe, còn những người khác đã đến cạnh bờ cầu treo.

Về đêm, trong thung lũng Đại Bi chợt nổi bão tuyết, xiềng xích đánh vang liên hồi khi Ô Hành Tuyết đi qua cầu. Những sợi xích kia cũng mảnh thôi, dù chàng không nhìn thấy nhưng vẫn cảm giác được từng đầu đinh đóng xuyên qua xương thịt, nằm sâu trong phách hồn như hình với bóng.

"Tiếng gì vậy?" Khi mấy đệ tử tiên môn đến gần nghe được, thì thầm hỏi. Họ tìm nơi phát ra âm thanh một vòng rồi dừng lại trên người Ô Hành Tuyết.

Trong nháy mắt, tất cả bọn họ gồng mình đề phòng, đến khi nhìn thấy lục lạc bạc treo bên hông chàng mới âm thầm thở phào một phen.

Ô Hành Tuyết thấy hết từ đầu đến đuôi, nhỏ nhẹ mà nói, "Ôi... thảo nào ta cứ thắc mắc đang yên đang lành tự dưng lại đeo lục lạc cho ta làm gì."

Chàng ngoái đầu nhìn và đối diện gương mặt lạnh lùng vô cảm của Tiêu Phục Huyên.

"Thượng tiên? Huynh..." Chàng nhìn vào đôi mắt Tiêu Phục Huyên và tính nói gì đó.

Trước khi chàng kịp nói, Tiêu Phục Huyên đã nâng kiếm và thúc vỏ kiếm vào lưng chàng đẩy về phía trước, cất giọng trầm thấp, "Lên cầu."

Được.

Huynh có kiếm huynh có quyền.

Ô Hành Tuyết bước lên cầu treo dài dẵng tiến về phía trước.

Trước mặt họ là Ninh Hoài Sam và cụt tay, hai tên đó chạy trước một vòng quay lại nhưng không thấy có gì mới lạ mà chỉ dặn dò theo lệ, "Thưa thành chủ, đã dọn dẹp bọn ô uế mang tính âm ở các hướng xong xuôi rồi. Lát nữa vào thung lung đừng đi cách hai bọn ta quá xa. Lũ ô uế tính âm kia cứ để chúng ta ra tay, không cần phải phiền đến ngài."

Ô Hành Tuyết nhìn vào gáy hai người họ, thuận miệng trả lời, "À, tiện vậy sao."

"Dĩ nhiên là thế ạ!"

Lúc trước họ có nói bên dưới cầu treo này lúc nhúc rất nhiều thứ trườn bò, chỉ đến tối đi qua mới không khuấy động bọn chúng. Ô Hành Tuyết vừa suy ngẫm về nguyên nhân việc đó vừa giậm chân cảm nhận thử.

Làm thế mới phát hiện ở dưới cầu treo hình như trống trơn, không có thứ gì bò trườn cả. Là họ hiểu sai à? Hay là vì lý do nào đó mà mấy thứ kia giờ không còn nữa?

Chuyến đi qua cầu treo suôn sẻ đến lạ thường.

Đến mấy đệ tử tiên môn cũng kinh ngạc khó hiểu, còn ngoái nhìn mấy lần và lẩm bẩm, "Quái lạ."

Điểm đến của họ bên kia đầu cầu là một vách núi phẳng, toà miếu tiên dựng trên vách núi, trong miếu thắp đèn dầu tự sáng mà không cần người.

"Đây là sơn miếu thung lũng Đại Bi, qua khỏi miếu này vào sâu hơn nữa là lối vào thung lũng," mấy đệ tử tiên môn giải thích, đồng thời nhìn về phía cầu treo với nét mặt bất ngờ chưa dứt. "Lúc đi qua cần cẩn thận, dưới đáy thung lũng có hầm mộ, khi gặp bảng đá ngầm phải vòng qua chứ không khéo trượt xuống dưới thì nguy."

Bọn họ còn đang nhắc nhở phải cẩn thận, cẩn thận thì đã có người trượt xuống.

Hạng xui xẻo đó không ai khác hơn là Ô Hành Tuyết.

Người kéo chàng xuống cũng không ai khác hơn là hai tên thuộc hạ hiếu thuận nhà chàng.

Cái gọi là hầm mộ ngầm thật ra là một hang động khổng lồ, bên trong hang có một pho tượng thần. Trông bức tượng như bị bỏ hoang từ lâu không người thăm viếng, bám đầy rêu phong và dây leo chằng chịt.

Có rất nhiều hốc lỗ bên trên thành vách đá từ đủ bốn hướng, một số hốc tối tăm và tĩnh mịch, một số hốc khác lại treo đèn dầu. Mấy ngọn đèn dầu đó đều là loại tự phát sáng, mang dáng vẻ cửa sự thờ phụng thầm lặng, không rõ đã thờ được bao lâu.

Khi Ô Hành Tuyết rớt xuống, Ninh Hoài Sam và cụt tay đồng thời biến mất, không biết có trốn vào cái hốc nào không.

Toàn bộ gian hầm mộ im ắng không một âm thanh nào ngoài tiếng nước nhỏ giọt trên đá.

Ô Hành Tuyết đứng bên cạnh tượng thần nhìn bao quát một vòng. Ngay sau đó, mấy chục cái bóng trắng hếu ùa đến.

Đó cũng là một dạng vật mang tính âm, thường xuất hiện ở những khu vực có nhiều người chết.

Chúng mang hình dáng giống con người, song cả tay và chân đều rất dài và tong teo, da chúng trắng bệch dị thường, trắng không khác gì sáp nến trong linh đường. Một khi chúng há miệng thì ngoác đến tận mang tai, vòm miệng không có răng mà chỉ là một khe cong đen ngòm.

Đôi mắt chúng chỉ thuần một màu đen của đồng tử chứ không có tròng trắng, khi cong mắt cười cũng chẳng khác gì hai cái hang sâu.

Chúng thích hút linh hồn người sống và cắn gặm xương cốt. Mỗi lần chúng ngoác miệng đến gần tai người ta có thể nghe được tiếng không biết bao nhiêu người chết than khóc từ bên trong khe.

Đây chính là lũ vật lổm ngổm bên dưới cầu treo, Ninh Hoài Sam và cụt tay mất hơn một canh giờ để bắt mấy chục con và cất trong túi buộc linh.

Thứ này vừa khó nhằn vừa khó giết, chỉ cần chậm tay một chút là chúng bám ngay lên người. Có hai cách hữu hiệu nhất để đối phó với chúng là dùng túi buộc linh hoặc cho chúng ăn một chầu no nê.

Ninh Hoài Sam và cụt tay nhận ra Ô Hành Tuyết không phải bản tôn, không chỉ thế còn tay không tấc sắt, làm gì có đem theo túi buộc linh.

Thế là bọn họ trốn trong mấy cái hốc và chờ cái kẻ dám cả gan giả mạo thành chủ bị dần một trận ra hồn để cả đời này không thể nào quên.

Kết quả là khi đám vật mang tính âm kia nhào tới, hai người họ thấy tay thành chủ giả mạo đứng dưới tượng thần thả lỏng vai.

Trông người nọ như đang khẽ thở dài, nhỏ giọng lầu bầu "Biết gây phiền phức ghê", tiếp đó thả ấm sưởi trong ống tay áo xuống.

Ấm sưởi lăn lộc cộc trên mặt đất, âm thanh vang vọng khắp cả hầm mộ.

Ninh Hoài Sam thốt lên theo bản năng, "Tiêu rồi."

Đến khi cậu ta nhấc mắt lên đã thấy một con vật mang tính âm đổ ập lên người Ô Hành Tuyết, háo hức há miệng ra muốn hút khí vào. Ngay chớp mắt sau đó, Ô Hành Tuyết nhẹ nhàng nhấn xuống vai nó, hai ngón tay móc vào trong khe hở.

Rắc... rắc...

Tiếng xương bị gãy đột ngột vang lên, Ô Hành Tuyết xốc đầu con vật tính âm kia lên cao.

Máu me tung toé.

Ninh Hoài Sam nhắm mắt lại theo phản xạ.

Song, tiếng răng rắc vang dội vẫn chưa dừng lại.

Cái âm thanh này cậu ta quá quen cmn thuộc đi...

"Tiêu rồi." Ninh Hoài Sam tê hết da đầu.

Cụt tay kế bên cũng phát cuồng.

"Sao lại như vậy!"

"Sao lại có thể như vậy!"

Với phàm nhân, thậm chí đối với đệ tử tiên môn bình thường, mấy chục sinh vật tính âm là một vấn đề khó giải quyết. Bằng không nhóm bọn họ cũng không cần phải thận trọng khi bước qua cây cầu treo kia đến thế.

Song đối với Ô Hành Tuyết hàng thật thì chúng chả bõ bèn gì.

Ninh Hoài Sam nuốt nước bọt, khi mở mắt ra lại thì thấy trước mắt là lũ sinh vật tính âm mà họ tốn cả canh giờ bắt về nằm la liệt đầy đất, đầu thân tứ phía. Khắp hang động toàn máu là máu, chất lỏng nhớp nháp chảy xuôi đầm đìa, thậm chí luồn vào hốc tối nơi họ đang nấp.

Cậu ta có thể ngửi rõ mùi máu.

Cậu thấy Ô Hành Tuyết đang siết cổ họng con vật tính âm sau cùng, sương giá trào ra khỏi đầu ngón tay, bọc kín gương mặt sinh vật tính âm kia và đông cứng dòng máu uốn lượn chảy đến trước mắt Ninh Hoài Sam và cụt tay.

Tất cả chỉ diễn ra trong vỏn vẹn một chớp mắt.

Hai người họ vừa cụp mắt nhìn máu bị đông thành băng, lúc ngẩng lên thì Ô Hành Tuyết đã gần kề trong gang tấc, đứng ngay trước mắt họ.

"Trốn ở đây à? Làm ta tìm mãi," Ô Hành Tuyết nói.

Ninh Hoài Sam nín thở!

Tiêu rồi.

Chết bỏ rồi.

Cậu nấc nghẹn trong lòng.

Kế đó, cậu thấy Ô Hành Tuyết nhấc tay về phía mình...

***

Sau một hồi, khu hầm mộ bặt tiếng xương cốt gãy vụn mà chỉ còn âm thanh nước nhiễu giọt tí tách.

Từng tiếng lõm bõm như nện thẳng vào lòng hai người.

Ninh Hoài Sam và cụt tay vẫn giữ được mạng quèn, nhưng vì kiếm chuyện tạo phản nên giờ bị trói lại với nhau bằng một sợi dây lưng dài. Nhìn kỹ sẽ thấy hai người chỉ đang dùng cùng một sợi dây lưng.

Dĩ nhiên là dây lưng quần sao có thể trói được tiểu ma đầu, thứ khiến họ không nhúc nhích nổi chính là áp lực và khí chất đè nặng bên trên.

Ô Hành Tuyết không giết con vật tính âm cuối cùng đó mà chỉ đông nó lại bán sống bán chết rồi xách theo tới trước mặt Ninh Hoài Sam và cụt tay.

Chàng lấy đi cái túi buộc linh của hai tên thuộc hạ hiếu thuận, vỗ vỗ đầu họ và cười bảo, "Này, hai ngươi gửi ta nhiều thế, ta tặng lại món quà nho nhỏ này cũng đâu quá đáng lắm nhỉ?"

Ninh Hoài Sam nức nở, "Thành chủ ơi..."

"Hu hu hu."

"Ta sai rồi."

"Giờ này bù lu bù loa với ta làm gì?" Ô Hành Tuyết vừa nói vừa cột con vật tính âm kia vào giữa hai người bọn họ.

Thế là chẳng mấy lâu sau, con vật tính âm đó dần dà rã đông và linh hoạt trở lại.

Nó ngoe nguẩy một hồi, nhận ra mình không tháo được dây trói nên có hơi tức tối. Có điều cả hai bên trái phải nó đều là sinh linh còn sống sờ sờ, bốc ra hương vị đồ ăn thật mê ly. Nó sung sướng hẳn lên, cong cả cặp mắt tối om lẫn khoé miệng rồi vươn cổ sang cụt tay ở bên trái.

"Hôn" hắn một cái.

Cụt tay: "..."

Nó nhóp nhép miệng, xong duỗi cổ sang Ninh Hoài Sam ở bên phải.

Ninh Hoài Sam: "Cái... đệt!"

Rồi lại hôn thêm một cái.

17. CÓ THÙ

❄︎

Ô Hành Tuyết buông mắt nhìn, thấy bàn tay mình đầy máu.

Suốt dọc đường đến thung lũng Đại Bi, chàng vẫn luôn vận công trong âm thầm để đề phòng nhỡ đâu bản thân mất ký ức rồi tới lúc cần không cách nào động thủ thì đâm ra làm trò cười cho thiên hạ. Thật không ngờ đến lúc thật sự gặp vấn đề, chàng thậm chí không cần phân vân một chút nào.

Không biết làm ma đầu bao nhiêu năm, giết không biết bao nhiêu sinh vật rồi mới khắc cốt ghi tâm thói quen này như vậy.

Thật ra, trước khi vào thung lũng, chàng còn tò mò muốn biết mối quan hệ giữa mình và Tiêu Phục Huyên.

Dù một người là Thượng tiên cai quản Thương Lang Bắc Vực, một người là ma đầu bị giam cầm hai lăm năm, nhưng không chừng quan hệ giữa họ cũng không tệ đến vậy.

Nhưng rồi khi chàng nhìn xuống đôi tay mình, bất giác không nghĩ ra nguyên do để có thể không "không tệ".

...

Ô Hành Tuyết lặng lẽ giây lát rồi nhìn sang hai tên thuộc hạ hiếu thuận kia.

Sinh vật tính âm đang mân mê âu yếm bản mặt của cụt tay, hôn hít đối phương tới tê tâm.

Ninh Hoài Sam chắc mới vừa bị chụt mấy cái nên giờ miệng mím chặt như bà già. Có thể thấy cậu ta đang rất nóng lòng khâu cái mõm con vật tính âm lại...

Hoặc khâu mõm mình lại.

Ô Hành Tuyết bước qua.

Ninh Hoài Sam nhác thấy chàng thì khóc oà lên, nước mắt tuôn lã chã, "Tâu thành chủ, bọn ta sai rồi thành chủ ơi, bọn ta chỉ nghĩ có kẻ nào dám giả mạo ngài chứ không muốn tạo phản."

Ô Hành Tuyết gật gù, "Ừm, ta biết."

Ninh Hoài Sam nín khe, "?"

Chuyện này cũng biết luôn?

Cậu ta ngập ngừng, nuốt ngược những lời định nói vào.

Giải quyết xong chuyện "giả mạo", Ô Hành Tuyết khom người vén vạt áo choàng, nắm chặt sau gáy con vật tính âm.

Con vật tính âm chu cái mỏ dài cỡ nào cũng không với được tới Cụt tay. Cụt tay cuối cùng cũng hít thở được. Hắn run lẩy bẩy từ xác tới hồn, hổn hển hớp thật nhiều không khí, mặt mũi tái me tái mét.

"Bẩm thành chủ..." Cụt tay hô lên, muốn tạ lỗi để bày tỏ lòng trung thành, nhưng nghe thấy Ô Hành Tuyết hỏi, "Ta biết cậu ta tên Ninh Hoài Sam, còn ngươi thì sao, ngươi tên gì?"

Bao nhiêu lời than thở của cụt tay nghẹn lại trong cuống họng, "?"

Cụt tay kinh hãi, "Hả... hả gì?"

Ô Hành Tuyết: "Ta hỏi tên họ ngươi là gì."

"Phương Trữ... bẩm thành chủ, ta tên Phương Trữ," Cụt tay trả lời với nét mặt vẫn hoàn kinh hãi, chần chờ một hồi mới tiếp tục. "Thưa thành chủ, tên là do ngài đặt cho."

"?"

Ô Hành Tuyết không ngờ mình là một thành chủ, quản trời quản đất còn quản cả đặt tên.

"Ngài nói một khi đã vào Chiếu Dạ thành thì đừng vương vấn chuyện cũ năm xưa nữa, hãy đổi một cái tên khác đi. Vốn rằng ta chỉ là hạng tranh ăn với âm quỷ hoang dã nên đâu có tên. Thế rồi ngài đặt ta tên này dùng tới bây giờ," Cụt tay... à không, Phương Trữ nói.

Ô Hành Tuyết lắng nghe nhưng vẫn không có ấn tượng.

"Thưa thành chủ ngài đây?"

"Bị nhốt lâu ngày ở Thương Lang Bắc ngục nên không nhớ chuyện lúc trước nữa," Ô Hành Tuyết chẳng chút giấu giếm.

"Hở???"

Phương Trữ và Ninh Hoài Sam liếc mắt nhìn nhau, cuối cùng cũng hiểu cảm giác "giả mạo" trước đây từ đâu mà ra.

"Nên sau này có gặp chuyện gì, nếu ta đã hỏi thì phải trả lời rõ ràng." Tròng mắt đen nhánh của Ô Hành Tuyết lom lom nhìn hai người, nói xong xuôi thì chợt nhớ ra gì đó bèn bổ sung thêm. "À phải rồi, nhớ cho kỹ, tuyệt đối không được nói dối ta..."

"Không không không không," cả hai lắc đầu lia lịa như đánh trống. "Chúng ta nào dám nào dám."

Ô Hành Tuyết nói tiếp với ngữ điệu bình thản, "Ta đã quên những việc trước đây, nên dù hai ngươi có theo ta bao lâu, tình cảm có nông sâu thế nào ta đều không nhận. Thế ta hỏi đây, trước đây ta có dữ dằn lắm không?"

Ninh Hoài Sam: "..."

Đờ cờ mờ câu này trả lời kiểu gì?

Ô Hành Tuyết mỉm cười, "Bây giờ ta còn dữ dằn hơn."

Ninh Hoài Sam: "..."

Hai tay thuộc hạ liếc nhìn con vật tính âm chu cái mỏ ngoác cái miệng dai như đỉa kia, lòng nhủ đã lĩnh giáo rồi ạ.

Dữ dằn hay không khó nói, nhưng khẳng định vô cùng tà đạo.

Ô Hành Tuyết hù doạ con người ta xong xuôi thì buông tay ra. Con vật tính âm lấy lại tự do lập tức toét miệng vồ vào Ninh Hoài Sam.

Ngay trước khi nó chạm đến Ninh Hoài Sam, Ô Hành Tuyết bỏ áp lực cưỡng chế đè nặng trên người cả hai, gỡ sợi dây lưng trói buộc họ và nói, "Mặc quần áo vào đi."

Ninh Hoài Sam né người ra thì thấy mình đã có thể vận động trở lại, bèn chống tay cản con vật tính âm, nhảy bật dậy với cái quần của mình.

"Con đuỹ này cắn cắn táp táp không ngừng, mày thích vậy đúng không!!! Tởm lợm hết cả mặt ông mày rồi, buồn nôn vãi..." Cậu ta vừa chửi bới om xòm vừa cùng Phương Trữ hai người bốn tay bóp chết con vật tính âm kia.

Họ hung hăng quẳng con vật tính âm xuống đất, thắt lại đai lưng chỉn chu, dùng sức chà mạnh miệng mình để chùi cho bằng hết mùi vị của con vật tính âm.

Ô Hành Tuyết không để tâm đến họ mà men theo tiếng nước, tìm đến một cái hồ nước lạnh nho nhỏ.

Chàng thấy mình thật lạ.

Không hề giấu giếm gì hai tên thuộc hạ suýt chút nữa đã hại chết mình, thậm chí thẳng thắn nói ra việc bị mất trí nhớ. Thế nhưng khi đối mặt với Tiêu Phục Huyên, chàng lại muốn che giấu.

Che giấu để làm gì?

Không phải huynh ấy đã nhìn ra mày là bản tôn sao?

Ma đầu giết chóc thiên kinh địa nghĩa, có dính máu cũng là lẽ thường tình, cần tẩy rửa làm chi?

Vẽ chuyện.

Ô Hành Tuyết đứng bên bờ hồ với nét mặt không một luồng cảm xúc.

Một lát sau, chàng vén áo bào ngồi xổm xuống, rửa sạch máu me bám trên tay, sạch rồi còn đưa tay lên mũi ngửi.

Hơi ấm vấn vít từ lò sưởi ban nãy đã hoàn toàn tan biến, khí nội chàng vốn mang tính hàn, vừa rồi còn đóng băng cả một hầm mộ đầy máu, giờ đây hai tay lạnh không khác gì băng đá, nhưng không vương mùi máu.

"Thưa thành chủ," Ninh Hoài Sam gọi.

Ô Hành Tuyết đứng dậy bước trở về, ngước nhìn phía trên theo bản năng.

Đó là chỗ chàng bị Ninh Hoài Sam và Phương Trữ lôi xuống, ắt nên có một hố ngầm nối với ngôi miếu trên mặt đất. Nhưng ngó bây giờ thì thấy vách núi hoàn toàn kín bưng, không có dấu hiệu của đường hầm nào cả, và hẳn nhiên cũng không nghe thấy động tĩnh bên ngoài.

Ninh Hoài Sam thấy hành động của chàng, nhớ đến việc chàng đang mất trí nhớ bèn giải thích rất tận tình, "Thưa thành chủ, có lẽ ngài không nhớ rõ, những lời tay đệ tử tiên môn kia nói là không đúng, cửa đá ngầm không phải lúc nào cũng mở xuống được. Ta với Phương Trữ nắm rõ khu vực thung lũng Đại Bi này nhất, hầm mộ này là một mật thất, nghe đâu một ngày một đêm chỉ mở một lần. Bởi chỗ này đặt tiên pháp phong ấn nên không có ngoại lệ. Những người ở bên trên tạm thời không thể xuống... được."

Cậu ta huyên thuyên rồi dần dà im bặt.

Vì Ô Hành Tuyết đang nhìn cậu chăm chú, hỏi đầy thâm ý, "Ta có nói muốn ai xuống đây à?"

Ninh Hoài Sam: "... Không có."

"Vậy ngươi giải thích chi lắm vậy?"

"Ta sai rồi," Ninh Hoài Sam nhân lúc Ô Hành Tuyết không nhìn bèn tự vả miệng mình một cái.

Cậu vừa tính nói sẽ không lẻo mồm lẻo miệng nữa thì thành chủ nhà họ bất chợt nói, "Trước đây ta và Tiêu Phục Huyên..."

Ninh Hoài Sam yên lặng chờ nghe nửa câu sau, thế mà thành chủ nhà họ nói đến "Tiêu Phục Huyên" thì lặng thinh, không biết đang nghiền ngẫm câu từ hay gì.

Một hồi lâu thật lâu sau, Ô Hành Tuyết dường như không nghiền ngẫm nữa, mới quay sang hỏi cậu, "Quan hệ hai bên thế nào?"

Một dấu chấm hỏi to tướng dần dà nổi trên đỉnh đầu Ninh Hoài Sam: "?"

Cái này cần phải hỏi hả? Quan hệ giữa Thượng tiên và ma đầu thì còn thế nào được?

Ninh Hoài Sam suýt chút ngờ rằng thành chủ đang kiểm tra mình. Thế rồi ngẫm lại thì thấy tính tình thành chủ nhà họ thất thường khó hiểu trước giờ, cậu không chơi khôn lỏi đoán mò nữa mà thành thật đáp, "Không biết."

Ô Hành Tuyết sửng sốt. "Không biết? Trước đây ngươi có đi theo ta không?"

Ninh Hoài Sam: "Thưa có, phần lớn thời gian ta đều đi theo ngài."

Ô Hành Tuyết: "Thế mà ngươi không biết?"

Ninh Hoài Sam có hơi khó xử. "Thưa thành chủ, nếu ta nói mong ngài đừng nổi giận."

Ô Hành Tuyết không trả lời là sẽ không nổi giận. "Ngươi nói."

Ninh Hoài Sam: "..."

"Việc ngài thích hay ghét ai thật sự khó lường, bảo ta đoán thế này thế kia chẳng bằng đòi mạng ta đi cho rồi," Ninh Hoài Sam nói.

Cậu và Ô Hành Tuyết đã đồng hành qua rất nhiều chuyến đi, làm rất nhiều việc, theo lý mà nói cậu phải quen thuộc với Ô Hành Tuyết, thế mà trước sau cậu vẫn không đoán được. Cũng vì thành chủ nhà cậu quá mực dối trá.

Có đôi lần Ô Hành Tuyết cải trang khi ra ngoài, lần nào cũng dùng dung mạo khác nhau nhưng có một điểm chung là sẽ không bao giờ xấu xí.

Người nọ chỉ ngẫu hứng cột cao tóc và cài bạch ngọc quan thì đích thị là hình tượng chàng lãng tử Giang Nam cưỡi ngựa tựa bên thành cầu, mang dáng vẻ thu hút các cô nương non trẻ nhất. Thoạt trông thật phiêu diêu, vừa bí bách vừa niềm nở mà cũng vừa khiến người vừa mắt vui tai.

Thỉnh thoảng Ninh Hoài Sam còn ngỡ rằng đó là bản chất thật sự của thành chủ nhà họ.

May mà cậu còn tỉnh táo, biết rằng đó đều là trí trá cả.

Khiến người ta vừa mắt vui tai để làm gì, qua mấy ngày rồi cũng mất mạng.

Cậu đi theo Ô Hành Tuyết đến rất nhiều nơi, từng thấy rất nhiều sinh mạng chết dưới tay Ô Hành Tuyết. Vậy mà đến lúc này gặp lại, vẫn chẳng cách nào đoán được trong lòng người tên Ô Hành Tuyết này muốn giết hay muốn tha.

Cậu cũng từng gặp Tiêu Phục Huyên nhưng không nhiều lần lắm.

Thuận theo Thiên đạo, những năm đó Tiêu Phục Huyên trấn thủ Thương Lang Bắc Vực nên không thường lui tới nhân gian. Mà xui rủi kiểu gì, lần nào tới cũng đụng mặt Ô Hành Tuyết, không hổ là oan gia ngõ hẹp.

Ma đầu trông thấy Thượng tiên chưởng quản thiên phạt thì có thể vui vẻ được sao? Dĩ nhiên là không có cửa.

Ninh Hoài Sam vẫn nhớ rõ biểu cảm của Ô Hành Tuyết khi nhìn thấy Tiêu Phục Huyên từ xa xa, nét mệt mỏi ấy có dịch dung cũng không che giấu được.

Và Ô Hành Tuyết luôn bảo Ninh Hoài Sam quay về Chiếu Dạ thành trước, nên cậu cũng không rõ giữa họ có những chuyện gì. Nhưng cậu biết rõ mỗi khi Ô Hành Tuyết trở về, tâm tình càng thêm bất ổn.

Đến những lúc như vậy, cậu và Phương Trữ chỉ hận không thể né Ô Hành Tuyết tám trượng để tránh bị tai bay vạ gió. Qua lâu ngày, họ quyết định xem tất cả mọi ngữ liên quan đến hai cụm "Tiêu Phục Huyên" và "Thiên Túc thượng tiên" là từ cấm, không cần nhắc đến thì tuyệt nhiên không nhắc đến.

Ninh Hoài Sam đã sớm thấy, với diễn biến tình hình giữa thành chủ nhà họ và Tiêu Phục Huyên, hay nói đúng hơn là tình hình tà ma mỗi lúc một hưng thịnh còn Tiên Đô càng lúc càng thít chặt áp lực như vậy, thì giữa hai bên chắc chắn khó tránh khỏi một cái kết bi thiết.

Nên khi Ô Hành Tuyết tàn sát Tiên Đô lúc xưa, cậu chẳng hề cảm thấy lạ thường. Cậu đã đoán già đoán non hành vi của thành chủ rất nhiều lần mà chỉ đoán đúng mỗi lần ấy.

Ninh Hoài Sam nghĩ về hai lăm năm bị xích khoá cầm tù kia và nói với Ô Hành Tuyết, "Ta thấy có lẽ ngài và Thiên Túc thượng tiên đã quen biết từ rất lâu, quan hệ tương đối sâu xa, chứ không cũng không đến nỗi như vậy. Có lẽ là có thù."

Có thù à...

Ô Hành Tuyết nghĩ thầm.

Ninh Hoài Sam ỷ con rối của thành chủ nhà cậu không có ở đây, cậu không phải trông thấy gương mặt nọ nên cũng không lo bị chột dạ, bèn nói hết suy đoán của mình mà gần như không kiêng dè hay giấu giếm gì.

Cậu nghĩ thầm, dù gì ngôi mộ này cũng bị bít thêm một ngày một đêm nữa mới mở lại, đến lúc nó mở lại rồi chắc thành chủ cũng chả nhớ tới đoạn thoại này đâu.

Đúng lúc đó, Phương Trữ đang thăm dò các hốc ngách chợt hô to, "Ủa cái gì đây!!"

Ninh Hoài Sam ngoảnh đầu tính lại xem sao thì bất thình lình nghe thấy một tiếng nổ cường bạo gầm lên trên đỉnh đầu...

Cậu thất kinh rụt đầu về, xong lại ngưỡng mặt nhìn lên trên thì mẹ nó thấy ngay một luồng sáng vàng quen thuộc. Luồng sáng vàng nọ hiên ngang đập thẳng xuống hầm, cưỡng ép đánh vỡ tiên pháp bao phủ phía trên ngôi mộ này.

Ánh lửa đèn dầu trong mộ leo lắt dù không chút gió!

Quầng lửa bừng lên mấy trượng như thể muốn thiêu rụi toàn bộ khu mộ, song chỉ vừa hực lên đã tức thì tắt ngúm.

Ngay tiếp đó, một tiếng động lớn nổ ra.

Toàn bộ trần hầm mộ chống đỡ ngôi miếu tiên từ cao mấy chục trượng rầm rầm đổ xuống.

Khói bụi bay mù mịt, chấn động mạnh đến nỗi ngay cả pho tượng thần to lớn đứng giữa hầm mộ cũng bị lung lay và nứt ra.

Ninh Hoài Sam ho khan sặc sụa, hé mắt nhìn bóng người tới phía bên kia màn khói.

Đó chính là nhóm của Tiêu Phục Huyên.

Cái đệt.

Tiên pháp phong mộ dễ phá vậy luôn???

Suy nghĩ này vừa nảy ra, cậu ta chợt thấy có ai đó đá mình một phát không nặng không nhẹ từ đằng sau. Không chỉ mình cậu mà cả Phương Trữ cũng bị đá.

Cả hai lóng ngóng đổ người ra phía trước, chân lảo đảo không may dừng ngay đống xác lũ sinh vật tính âm.

Thế là khi nhóm Y Ngô Sinh bước vào hầm mộ thì cảnh tượng đó đập ngay vào mắt — cả khu mộ tan hoang đầy xác thịt xanh xanh trắng trắng, đầu thân đứt lìa, máu đổ thành sông.

Còn hai người Ninh Hoài Sam và Phương Trữ đang đứng bên cạnh đống xác đó với gương mặt lạnh lùng, trên tay còn bám máu đã khô.

Mấy đệ tử tiên môn tuổi còn trẻ, mặt mũi ai nấy xanh lè xanh lét.

Còn những bá tánh thường dân thì thôi khỏi bàn.

Đến cả Y Ngô Sinh cũng bị khung cảnh này làm cả kinh đôi chút, hắn siết giấy và nói, "Các người... hai người... giết hết đống này à?"

Ninh Hoài Sam: "..."

Phương Trữ: "..."

Cuối cùng họ cũng hiểu tại sao mình bị ăn một đạp tới chỗ này, chỉ đành héo hon mở miệng, "Ọ."

Còn thủ phạm thực sự Ô Hành Tuyết đang đứng cách họ rất xa, người lẳng lặng phía sau tượng thần, cả hai tay đều sạch tươm, đang ôm ấm sưởi vừa mới nhặt lên chưa bao lâu.

Lòng chàng tự nhủ cuối cùng cũng được xem diễn tuồng vu oan cho người khác, song thấy Tiêu Phục Huyên không hề nhìn "người khác" nào mà xuyên thẳng ánh mắt qua tro bụi đất bùn dưới hầm mộ sang hướng này.

Cả hai lặng thinh một chốc, đoạn Tiêu Phục Huyên cất bước sang đó.

Y vừa di chuyển, những người còn lại cũng không cứng đờ như đá nữa. Y Ngô Sinh và mấy người kia theo gót bước xuống từ phía trên trần ngôi mộ bị sụp, ngang qua núi xác sinh vật tính âm và tụ lại một đám bên dưới.

"Người ta nói đây là hầm mộ mà nhở? Sao dưới này lại thờ tượng thần vậy?" Mấy đệ tử tiên môn để ý pho tượng thần to lớn bèn ngẩng đầu nhìn.

"Ngươi nói xem... mấy sư huynh sư tỷ đến thung lũng Đại Bi liên tục mà mãi không tìm thấy người bị triệu hoán, liệu có phải vì họ chưa vào trong hầm mộ này hay không?"

"Không biết nữa, có khả năng là vậy, tìm thử xem."

...

Ô Hành Tuyết nghe họ đàm luận, cũng ngẩng đầu nhìn pho tượng thần ban nãy chưa kịp chú ý đến.

Nhìn chung chàng không quen mặt tượng thần nên cũng không phân biệt được ai là ai, chỉ biết rằng người này không phải Minh Vô Hoa Tín mà nhà họ Hoa thờ phụng, và cũng không phải Thiên Túc thượng tiên.

Đương lúc chàng còn muốn nhìn rõ mặt pho tượng thần này thì chợt thấy có một bóng người cao cao đến bên mình.

Tiêu Phục Huyên đi đến đây đứng cạnh chàng, và cũng ngẩng đầu nhìn tượng thần một cái.

Tiếp đó, giọng nói trầm thấp của y vang lên, "Vì sao những sinh vật tính âm kia ở đây?"

Ô Hành Tuyết nghiêng đầu nhìn y.

Nếu khai thật là bọn Ninh Hoài Sam lôi vào để gài hàng mình thì không giải thích được tại sao Ninh Hoài Sam và Phương Trữ lại giết chúng. Thế nên Ô Hành Tuyết thu ánh mắt về và nói, "Không biết, vừa vào đã có, chắc là chúng bị nhốt ở trong đây từ trước."

Tiêu Phục Huyên mấp máy môi nhưng không trả lời.

Sau một hồi, y mới hỏi tiếp, "Hai người kia giúp ngươi giết?"

Ô Hành Tuyết ôm lò sưởi trong tay một cách nho nhã, đáp "Ừm" một tiếng.

Chàng vận nội công cực lãnh của mình, giờ có ôm lò sưởi một hồi thì kết quả vẫn là không chỉ không sưởi ấm được mà còn bị chàng làm cho lạnh đi. Nhưng thây kệ, miễn không nhìn ra là được.

Ô Hành Tuyết nhủ thầm.

Một lúc sau, chàng thấy Tiêu Phục Huyên liếc nhìn lò sưởi trong tay mình một cái rồi nhấc tay lên.

Rồi ngay lập tức, bàn tay úp trên lò sưởi của chàng được Tiêu Phục Huyên nắm lấy.

Ô Hành Tuyết lặng người trong nháy mắt.

Tay Tiêu Phục Huyên thật to lớn nhưng bàn tay lại mỏng, lúc trước nằm trong quan tài bàn tay này đóng đầy sương giá mà giờ đây sao ấm áp quá.

Y nắm tay chàng một hồi rồi cúi đầu nói, "Lạnh như băng."

Ô Hành Tuyết chợt nhớ tới câu Ninh Hoài Sam vừa miêu tả mối quan hệ của họ khi nãy: Hai người có thù.

Chàng không biết như thế nào mới gọi là "có thù"...

Nhưng chắc chắn không phải như thế này.

18. MỘ TIÊN

❄︎

"Tiêu Phục Huyên," Ô Hành Tuyết quay sang nhìn y.

"Ừm," Tiêu Phục Huyên thấp giọng trả lời rồi buông tay ra.

Hơi ấm chợt bay biến làm Ô Hành Tuyết khẽ mân mê ngón tay, chàng bất chợt hỏi, "Huynh đang thử ta à?"

Tiêu Phục Huyên thu tầm mắt về, một lát sau mới nói, "Không có."

"Không có thật à?"

"..."

Ô Hành Tuyết còn đang tính hỏi tới thì chợt ngỡ ngàng nhận ra lò sưởi trong tay đã ấm lên tự lúc nào, nhiệt độ nong nóng thẩm thấu qua làn da và sưởi ấm đầu ngón tay khiến cả người chàng thoải mái đến thư thả.

Không cần hỏi cũng biết đây là tác phẩm của ai.

Tiêu Phục Huyên liếc nhìn chàng nhưng không nói gì nữa.

Giống như thể câu "Tay lạnh như băng" vừa nãy không phải đang ám chỉ nội kình cực lạnh chàng vận công ra mà chỉ đơn thuần là một câu trần thuật rất đỗi tự nhiên thôi vậy.

Ô Hành Tuyết hãy còn đứng ngây người ôm ấm sưởi thì chợt bị ai đó đụng vào một chút. Chàng nghiêng người tránh ra mới nhận thấy đó là một vị bá tánh đến tìm người.

Những bá tánh này không biết tiên thuật, thiếu may mắn rơi xuống hầm mộ, còn gặp phải một núi xác của đám vật tính âm la liệt trên đất, giờ họ sợ hãi đến nỗi chẳng có chỗ để chân. Mặt mũi ai nấy đều cắt không còn giọt máu, người loạng choạng né chỗ này chỗ nọ nên không chú ý đằng sau, vô tình đụng phải Ô Hành Tuyết.

"Xin lỗi xin lỗi," họ ríu rít xin lỗi. "Ở đây... ở đây đáng sợ quá."

Trang phục đông của họ vừa dày vừa chặt khiến động tác cũng trở nên lóng ngóng hơn, trông có vẻ hơi vụng về, khi họ cúi đầu xin lỗi chẳng khác nào khọm hẳn lưng. Vải bông dày đổ xuống theo động tác của họ phất gió nổi lên một mùi hương.

Ô Hành Tuyết cảm thấy mùi này khá quen.

Chàng còn chưa mở miệng đã nghe mấy con cháu tiên môn nói trước, "Mùi nhang nồng quá."

"Các người mang nhang theo?" họ hỏi mấy vị bá tánh kia.

Bá tánh ngập ngừng.

Đệ tử tiên môn nóng nảy, "Không phải bọn tôi đã bảo là không được mang những thứ đó theo sao, tại sao các người không nghe vậy!"

"Đem nhang theo thì sao vậy?" Ô Hành Tuyết đỡ người phụ nữ đang lảo đảo kia một tí.

Đệ tử tiên môn nói, "Những người bị triệu hoán đều hiện hồn về trong mơ đúng không, họ kêu người nhà đến cúng dường ở thung lũng Đại Bi. Bình thường cúng dường là cúng đồ ăn hoặc hương khói, thế nhưng ở đây đâu thể làm vậy."

Đệ tử tiên môn nhìn thoáng qua người phụ nữ đang đỏ hửng mắt, dè dặt nói, "Người bị triệu hoán... mười người thì hết tám chín người lành ít dữ nhiều, nếu cơ thể bị tách lìa giống như trong mơ mà còn ở cái chốn âm tà như thung lũng Đại Bi này thì tính hung càng nặng nề hơn thôi."

Đôi mắt người phụ càng thêm đỏ quạch, cơ thể run bần bật.

Hiểu trong lòng lành ít dữ nhiều là một chuyện, còn nghe người khác huỵch toẹt ra lại là chuyện khác. Trông cô sắp đứng không vững nữa, có một người đi cùng đỡ lấy và vụng về an ủi cô đôi chút.

Đệ tử tiên môn cũng thấy áy náy, nhưng vẫn lấy can đảm nói tiếp, "Đồ ăn và hương khói là để cúng thần tiên đích thật. Còn nếu đã thành hung vật thì cơ bản không thể hưởng được đồ cúng này, thứ chúng cần là người sống. Bây giờ đem nhang và thức ăn đến lừa chúng thì có khác gì chọc tức chúng đâu? Nó giống hệt như việc chúng ta đang đói bụng xong có người mang đồ ăn tới, nhưng không mang thứ chúng ta có thể ăn được, làm như vậy thì chúng ta sẽ càng đói bụng hơn đúng không?"

Họ sợ những bá tánh này còn ngoan cố không chịu nghe hiểu nên thiếu điều giải thích đến từng lời từng chữ.

Mấy bá tánh đang đứng dồn lại ở bên cạnh vách đá, dịu ngoan lắng nghe, thậm chí còn liếm môi với vẻ đồng tình.

Đệ tử tiên môn: "..."

Họ nhức cả đầu rồi. "Các người chưa nghe kể lại à? Lúc trước có mấy gia đình lo lắng quá độ, vội vã tự mang đồ ăn hương hỏa đến thung lũng Đại Bi mà không nhờ sự giúp đỡ của tiên môn rồi hậu quả thế nào? Không một ai trở về, người ta còn đồn rằng sau đó vào thung lũng chỉ còn thấy một ít vải vóc dính máu và thịt vụn với tứ chi đứt lìa mà thôi. Các vị! Này!"

Mấy vị bá tánh im lìm không nói gì, mặt mũi ai nấy đều u ám cực kỳ, trông như bị doạ tới đứng hình.

Ô Hành Tuyết ngửi mùi hương xung quanh, thoáng liếc nhìn họ rồi bất chợt duỗi tay, nói, "Các vị có đem theo mấy món đó đúng không? Lấy ra cho ta xem một chút với."

Các bá tánh sửng sốt, sờ tay lên ngực.

Đệ tử tiên môn cả kinh. "Nè không được! Trời ơi tuyệt đối không được! Công tử này xin đừng làm bậy!"

Bọn họ quay ngoắt sang trừng mắt.

Ô Hành Tuyết tỏ vẻ vô tội, nhưng trong lòng thấy thật lạ.

Chàng tự hỏi không phải ai cũng nên tránh mình như rắn rết à, sao mấy đứa trẻ này gan dạ thế, còn dám trừng cả mắt với mình cơ?

Song, chàng đã mau mắn nhận ra, mấy nhóc con này tuổi hãy còn trẻ. Khi chàng bị đóng đinh ở Thương Lang Bắc Vực hai lăm năm trước, có khi bọn họ còn chưa ra đời, có không nhận ra cũng không lạ.

"Tuy những vị đi cùng công tử đều là cao thủ," mấy đệ tử trẻ kia thoáng nhìn Tiêu Phục Huyên, Ninh Hoài Sam và Phương Trữ. "Nhưng có một số việc e là không dễ..."

Ô Hành Tuyết nghe đến đây, lòng đã bình lặng lại tương đối.

Nhìn xem, đến Thiên Túc thượng tiên mà họ còn không nhận ra. Áng chừng là không có dấu ấn chữ "Miễn" kia thì họ cũng chỉ xem Tiêu Phục Huyên như một cao thủ tán tu mà thôi.

"Những vật cúng kiếng này đã lỡ mang theo rồi chẳng thà giấu kín còn hơn để ra ngoài," một đệ tử trẻ trong nhóm thẳng tính, chắp hai tay chữ thập thi lễ với các bá tánh và nói. "Mong các vị tuyệt đối hãy giấu thật kỹ vào, đừng tự ý bỏ chạy lung tung. Nếu những hung vật kia từng hưởng thụ hương vị người sống phúng viếng thì chắc chắn chúng không nhẫn nhịn được. Dù không ai dâng đến trước cửa thì nói không chừng chúng cũng sẽ tự bò ra mà tìm."

Mấy bá tánh nghe vậy nuốt nước bọt, quấn khăn kín khắp người và gật đầu lia lịa.

Các đệ tử tiên môn giải thích xong xuôi thì lấy pháp khí kim châm chuyên tìm hung vật từ trong ngực ra và thử ở khắp các hướng.

Có một đệ tử giơ kim châm lên pho tượng thần kiểm tra, xong chợt "Hở" một tiếng, hỏi, "Các ngươi từng thấy vị thần trên tượng này chưa? Sao ta chưa gặp bao giờ nhỉ? Đây là vị nào thế?"

Mấy đệ tử tiên môn khác cũng hồ hởi qua xem thử, song ai nấy đều bó tay. "Đúng ha, đây là vị thần tiên nào thế? Ta cũng chưa từng thấy qua, các ngươi có nhận ra không?"

"Không nhận ra."

"Không phải huynh thuộc lòng quyển tiên phổ à?"

"Nhưng ta cũng không nhận ra."

Tất cả đệ tử trẻ của tiên môn đều không biết tượng thần này? Nếu vậy có hơi lạ thường.

Ô Hành Tuyết ngẩng đầu.

Bức tượng thần kia bị dư chấn làm nứt vài vết mảnh nhưng vẫn không hao được nét tuấn tú điển trai mang khí chất ôn hoà của người này. Một tay hắn cầm cờ trắng, tay còn lại cầm nhánh cây xanh, chạc cây dài hướng lên phía trên, một đoá hoa nở trên ngọn cây ngay trước trán và vừa vặn che khuất một con mắt hắn.

Nếu ai từng thấy một bức tượng thần như vậy chắc chắn sẽ vô cùng khó quên. Thế mà mấy đệ tử trẻ tiên môn vắt hết óc mà cũng không đoán ra là ai.

Đừng nói gì các đệ tử trẻ, ngay đến Y Ngô Sinh cũng không biết vị này. Hắn ta siết tờ giấy, nhíu mày thật chặt như thể đang đào hết tâm can trí óc mà một buổi trời cũng không rặn ra được tên.

Ô Hành Tuyết càng thêm tò mò.

Chàng vươn tay chọt Tiêu Phục Huyên một cái, chỉ bức tượng thần và hỏi, "Huynh thì sao? Huynh nhận ra không?"

Nếu ngay cả Tiêu Phục Huyên mà còn không biết thì lạ vô cùng luôn.

May mà Tiêu Phục Huyên có biết, y đảo mắt nhìn tượng thần rồi gật đầu một cái.

"..."

Ô Hành Tuyết chờ một chút nhưng chờ hoài không thấy âm thanh nào nối tiếp theo cái gật đầu nọ, bèn chọt y thêm cái nữa.

Tiêu Phục Huyên thấp giọng nói, "Hắn tên Vân Hãi, xưa kia là đệ tử của Minh Vô Hoa Tín, sau đã phi thăng thành tiên."

Ô Hành Tuyết cảm thấy quái lạ. "Đệ tử của Minh Vô Hoa Tín? Thế thì ắt có quan hệ mật thiết với nhà họ Hoa rồi, dù gì Hoa Tín cũng là tổ tiên nhà họ Hoa cơ mà, vậy sao ngay đến Y Ngô Sinh cũng trông như chưa từng gặp người này vậy."

Tiêu Phục Huyên: "Vì sau đó hắn không còn là tiên nữa."

Ô Hành Tuyết thoáng sửng sốt.

Không biết Tiêu Phục Huyên nhớ đến điều gì mà nói xong câu đó thì sa sầm nét mặt. Một lúc lâu sau, y mới nhìn Ô Hành Tuyết và nói, "Vì không còn là tiên nên các bá tánh ở nhân gian, tiên môn, và ngay cả những người có mối liên hệ mật thiết nhất với hắn cũng không nhớ rõ hắn nữa."

Ô Hành Tuyết khẽ giọng, "Là vậy sao..."

Chàng lặng người đôi chốc rồi hỏi tiếp, "Đây là quy tắc của Tiên Đô các huynh à?"

Tiêu Phục Huyên nghiêng đầu một chút. "Quy tắc của Thiên đạo."

Ô Hành Tuyết hỏi, "Vì sao hắn ta lại chịu tình huống như vậy?"

Tiêu Phục Huyên nói, "Thời còn trẻ vi phạm thiên chiếu nên lãnh phạt."

...

Năm xưa, Vân Hãi là đệ tử thân cận của Hoa Tín, hai thầy trò tình sâu nghĩa nặng. Một sớm hắn phi thăng thành tiên, trông coi hỉ tang sự, đây là một trong những công việc mang đến hương khói nồng hậu nhất. Song về sau hắn mắc phải sai lầm, Linh đài tiếp nhận thiên chiếu, điều hắn sang một địa phương khác.

Nơi bị điều sang không đâu khác hơn là thung lũng Đại Bi.

Thuở đó ở nhân gian mưa thuận gió hoà, thái bình thiên hạ, các tiên môn trong thời kỳ hưng thịnh, dù thường gặp tà ma âm vật nhưng chúng không gây ra mối đe doạ đáng ngại nào. Thung lũng Đại Bi thời này không có những câu chuyện tà môn, địa thế nằm giữa nhiều toà thành lớn nên thường có ngựa xe qua lại, song đa phần xe chỉ chạy vội qua chứ không dừng bước.

Nơi này không có tin đồn, cũng chưa từng xảy ra chuyện hung hiểm. Thành thử không một ai kéo ngựa ngừng xe, tìm đến một gian miếu trong thung lũng để dâng một phần hương khói, bởi họ cũng đâu có việc gì cần cầu khẩn.

Người đời đều biết, thần tiên sống nhờ hương khói cung phụng. Qua thời gian dài mà không ai phúng vái thì sự tồn tại của vị tiên kia đã chẳng còn ý nghĩa gì nữa.

Và cứ thế, chẳng quá một trăm năm thành tiên, Vân Hãi đã bị đoạ về nhân gian và trở thành phàm phu bình thường.

Khổ thay, thời gian mười năm sau đó, những ngày thái bình ở nhân gian đã bước vào hồi kết, chiến loạn nổ ra khắp nơi, hoạ hoạn liên hồi không dứt, tiếp nối là tà ma sát sinh bừa bãi. Khu vực thung lũng Đại Bi đặc biệt rối ren đến mức mỗi khi ngựa xe đến đi ngang đây, lưu dân từ thành thị lân cận đều sợ hãi run người.

Khi đó, người ta mới sực nhớ có một ngôi miếu bên trong thung lũng Đại Bi này. Từ đó về sau, trước khi vào thung lũng, những người cưỡi ngựa đánh xe đều sẽ ghé qua ngôi miếu kia vái một vái.

Ngôi miếu nhỏ tí, bên trong đặt bàn thờ nhưng không có tượng thần. Thế mà cũng không một ai cảm thấy thắc mắc, vì nào có ai nhớ rằng xưa kia từng có một vị thần tiên chưởng quản vùng thung lũng Đại Bi này đâu.

Ô Hành Tuyết nghe sơ lược câu chuyện, bèn hỏi, "Về sau Vân Hãi ra sao?"

Tiêu Phục Huyên: "... Đã chết."

"Chết thế nào?"

Ánh mắt Tiêu Phục Huyên thoáng đượm nét mỉa mai. "Bị tà ma ăn chết trong thung lũng Đại Bi."

Ô Hành Tuyết thở "À" nhẹ một tiếng.

Lời ấy tréo ngoe thay, một vị thần tiên từng chưởng quản cả thung lũng Đại Bi lại nhận phải kết cục chết dưới tay tà ma ở chính thung lũng Đại Bi. Mà sau khi hắn chết đi, số hương khói dồi dào trong miếu đã không còn dính dáng gì đến hắn.

Ô Hành Tuyết ngẩng đầu nhìn lên tượng thần lần nữa, chợt nhớ ra một việc bèn hỏi, "Nếu ở nhân gian không còn một ai nhớ rõ hắn, vậy vì sao có tượng thần của hắn ở đây?"

Tiêu Phục Huyên trả lời, "Trước đây khi Hoa Tín hay tin người đã mất bèn bỏ mặc thiên quy Linh đài mà xuống phàm đến thung lũng Đại Bi, đồ sát toàn bộ tà ma bên trong. Sau cùng, đào hầm mộ này dưới đáy thung lũng Đại Bi."

À, thảo nào.

Ô Hành Tuyết nhớ tới lời Ninh Hoài Sam, nói rằng có tiên thuật phong ấn bao bọc toàn bộ ngôi mộ đóng bụi lâu năm này. Và thảo nào Tiêu Phục Huyên có thể khai huyệt.

"Vậy nên huynh đã biết khu mộ này từ trước rồi?" Ô Hành Tuyết hỏi. "Huynh từng tới đây rồi à?"

Tiêu Phục Huyên: "Từng tới."

Ô Hành Tuyết: "... Đến tìm vị Vân Hãi này ư?"

Trong thoáng chốc, Tiêu Phục Huyên chợt bần thần, không rõ vừa nhớ lại điều gì mà thật lâu sau mới nói, "Ở Tiên Đô, người bị giáng xuống nhân gian, không thể thọ mệnh không chỉ có mình hắn. Tượng thần tiên đoạ huyệt mộ cũng không chỉ có một bức này."

19. NỮ ĐỒNG

❄︎

Vị Thượng tiên lạnh như băng kia như đang nhớ về một ai đó.

Ô Hành Tuyết nhìn một lát rồi khép mắt lại.

Lòng chàng chợt dậy một hương vị khó thể tả rõ thành lời, chỉ là bỗng dưng không còn hứng thú hỏi thêm nữa.

Thế là khi Ninh Hoài Sam thò mặt qua chỉ thấy được gương mặt vô cảm của thành chủ nhà mình — một khi chàng không cười, đuôi mắt hơi cụp xuống ấy luôn mang theo vẻ chán ghét.

Thoạt trông, rõ ràng là đang không vui.

Không phải mới nãy còn cười à? Sao tự dưng lại không vui rồi!

Ninh Hoài Sam không muốn tự tìm đường chết, lẳng lặng không nói một lời mà lui về bên cạnh Phương Trữ.

Phương Trữ: "Mày chạy qua chạy lại làm quần gì vậy?"

Hắn còn đang bận xoa vai mình, trên miệng vết thương chỗ cánh tay bị cụt đã bắt đầu mọc lại thịt mới, mang sắc hồng nhàn nhạt theo máu tuần hoàn. So sánh với cánh tay thì mặt hắn tái bệch đến xanh lè.

"Tao chỉ muốn nghe xem thành chủ đang thầm thầm thì thì cái gì với con rối thôi. Mày xem xem, ngài ấy mất trí nhớ mà sao có chuyện không nói với chúng ta. Con rối thì biết cái gì mà nói?" Ninh Hoài Sam cảm thấy như bị thất sủng, có vẻ quên bẵng mới cách đây ít lâu còn đang bày trò cho thành chủ họ khóc lóc cầu xin.

"Ngài ấy không mất trí nhớ thì có bàn chuyện với chúng ta à?" Phương Trữ thẳng thừng chặn họng cậu.

"Ừ thì," Ninh Hoài Sam thoáng nhìn Ô Hành Tuyết cái nữa, bất chợt thấp giọng nói. "A Trữ nè, sao tự dưng tao thấy con rối kia... ờ, hình như không đúng lắm. Mày thấy sao?"

Phương Trữ: "..."

Phương Trữ xoa bóp vai, khẳng định chắc như đinh đóng cột, "Tao không thấy gì hết."

Lần gần đây nhất hai người họ "tự dưng thấy" gì đó đã lãnh hậu quả thê thảm. Có ngu mới muốn chơi thêm ván nữa.

Phương Trữ lia mắt nhìn Tiêu Phục Huyên, trầm giọng, "Mày có biết trước đây tao bị thương như vầy mất bao lâu thì lành lặn lại không?"

Ninh Hoài Sam ngẫm lại.

Lần bị thương thảm khốc nhất của Phương Trữ... chắc là cái đêm hắn mới đến Chiếu Dạ thành mấy chục năm về trước. Khi Ô Hành Tuyết sai người đỡ Phương Trữ ra khỏi chiếc xe ngựa đen, Ninh Hoài Sam suýt chút không nhận ra đó là con người...

Bởi cả hai cánh tay lẫn một cẳng chân hắn đã không còn, không biết bị thứ gì cắn ăn mất. Đến mặt mũi cũng đầy vết thương. Thoạt trông như một tấm giẻ rách thấm đầy máu.

Người bình thường trong hoàn cảnh đó đã chầu trời từ lâu, nhưng Phương Trữ có lẽ là người kiên nghị phi thường nên vẫn không tắt thở.

Thứ không thiếu thốn nhất ở Chiếu Dạ thành chỗ họ chính là tà môn ma đạo và cấm thuật âm độc, không cần bàn nhiều người sống hay chết, xương cốt hay xác thịt, chỉ cần đủ nhẫn tâm. Nói thế là vì cốt nhục đâu thể mọc ra từ thinh không mà cần phải bồi đắp bằng thứ gì khác.

Sau này, Ninh Hoài Sam vẫn thường nhớ lại cảnh tượng ngày đó...

Ô Hành Tuyết sai người ném Phương Trữ vào ngâm mình trong đầm, nước đầm bắn ra ngoài đặc sệt đen ngòm nhưng khi đáp xuống tuyết đọng quanh bờ hồ lại nhiễm thành một mảng đỏ.

Bên cạnh đầm là một gốc cổ thụ chắn trời, nó mang tử khí nồng nặc đến độ không bất kỳ một sinh vật sống nào dám ghé vào cành cây. Ô Hành Tuyết cũng đặt tên nơi ở của mình theo cây cổ thụ này, gọi là Tước Bất Lạc.

Khi những người... à không, khi những tiểu ma đầu thả Phương Trữ xuống đầm, Ô Hành Tuyết đứng khoanh tay nghiêng mình tựa bên cây cổ thụ và yên lặng nhìn.

"Thưa thành chủ, chúng ta đã dọn xong rồi ạ. Tất cả đều chuẩn bị đầy đủ, chỉ còn thiếu người sống thôi," mấy người đó đến Tước Bất Lạc còn sớm hơn Ninh Hoài Sam, họ theo Ô Hành Tuyết đã nhiều năm và lo toan mọi việc khá chu toàn. Bọn họ xoa xoa tay và bàn bạc với vẻ mặt cực kỳ hào hứng, "Bạch Lộc Tân ở gần Chiếu Dạ thành nhất, đến bắt một hai chiếc thuyền người sống không thành vấn đề, chúng ta đi ngay là được."

Thế nhưng, Ô Hành Tuyết vẫn giữ dáng vẻ mệt nhoài, khi cất lời cũng đượm giọng mũi đầy uể oải, "Giữa đêm hôm khuya khoắt, không mấy người đi qua Bạch Lộc Tân đâu, đoán chừng không dễ bắt."

Họ gật đầu. "Cũng đúng ạ, thế chúng ta nên làm sao đây?"

"Dễ thôi."

Ô Hành Tuyết nói đoạn, đứng thẳng dậy đi tới bên cạnh rìa ao máu rồi xuất chưởng, đẩy từng đứa trong bọn tiểu ma đầu xuống đầm.

Dùng người sống bồi đắp được thì dùng tiểu ma đầu cũng được.

Phương Trữ nằm bất tỉnh trong đầm, hai mắt nhắm nghiền đâm ra không biết chuyện gì xảy ra xung quanh mình. Thế nhưng khi đó, Ninh Hoài Sam đang đứng bên góc rẽ hành lang nên thấy tận mắt cực kỳ rõ. Trên mặt đầm sủi lên bọt nước, rồi ngay sau đó, những vết thương hở đầy máu trên mặt Phương Trữ khép lại với tốc độ mà mắt thường có thể thấy được.

Còn Ô Hành Tuyết đứng bên bờ quan sát, mãi lâu sau mới sải bước sang khóm trúc rửa sạch tay.

Đấy là ngọn nguồn nỗi khiếp sợ mà Ninh Hoài Sam dành cho Ô Hành Tuyết.

Rất rất lâu sau đó, cậu vẫn nơm nớp sợ Ô Hành Tuyết bất chợt không vui rồi sẽ ném cả cậu xuống ao máu để bón cho một ai đó làm thuốc bổ. Song, có lẽ cậu với Phương Trữ vẫn còn may mắn, rất nhiều người xuất hiện rồi biến mất ở Tước Bất Lạc, thường cũng ngắn ngủi, song hai người họ theo Ô Hành Tuyết mấy chục năm mà vẫn còn sống.

Qua hai ngày ngâm mình dưới đầm, Phương Trữ vốn như miếng giẻ rách bê bết máu đã có thể tung tăng chạy nhảy.

Sau này, Phương Trữ cũng hay bị thương, đứt tay cụt chân là chuyện thường ở huyện. Người trong Chiếu Dạ thành đều không chủ động gây sự lẫn nhau, một khi đói bụng hoặc bị trọng thương cần tu bổ đều ra ngoài bắt người sống.

Nhưng Phương Trữ không như vậy, năm đó được tận hưởng hương vị tu bổ bằng tà ma quá tuyệt rồi nên về sau hắn vẫn thường ra tay với người trong Chiếu Dạ thành. Một phần hắn cũng ỷ lại có thành chủ chống lưng nên mới không bị giết.

Rồi sau nữa, hắn đã luyện thành thục chiêu "Tái sinh thuật" đến mức thậm chí nếu không có thứ gì để tu bổ bù đắp vào thì vết thương cũng nhanh chóng lành lặn.

***

Ninh Hoài Sam ngẫm lại chút rồi trả lời, "Đúng, việc mày gãy tay gãy chân thường gặp như cơm bữa, sau ba năm canh giờ sẽ mọc trở lại như thường, tại sao lần này lại..."

Phương Trữ nói, "Lúc trước tao còn tưởng tại tao đói bụng nhiều ngày nên ảnh hưởng khả năng phục hồi. Song giờ nghĩ lại thấy ắt là không phải, mày nhìn đi, giờ vào thung lũng Đại Bi rồi tay tao đã mọc lại thịt mới ngay."

Cách tái tạo xương thịt của hắn xét cho cùng vẫn là một loại tà thuật, chắc chắn sẽ có một số thứ khắc nó theo lẽ tự nhiên. Ví như... nếu ở quá gần tiên sẽ bị tiên khí vô hình đè áp xuống.

Không phải cái dạng đến từ đệ tử tiên môn, mà là cái dạng đến từ Tiên Đô.

Nguyên do mãi một hồi lâu mà hắn không phục hồi lúc trước là bởi tiên khí vượt trội so với tà ma khí, bây giờ đến chốn tà địa như thung lũng Đại Bi này mới đỡ hơn một tí.

Bấy giờ, Ninh Hoài Sam mới chợt phản ứng lại, liếc nhìn cái tên được gọi là con rối kia. "???"

Phương Trữ: "Cho nên á, đừng làm gì hết, tao xin mày cứ ngoan ngoãn đi theo thành chủ đi. Bây giờ tao không muốn cảm thấy gì hết, tao chỉ muốn mọc tay lại thôi."

Ninh Hoài Sam: "Ủa đâu được, chúng ta phải báo cho thành chủ chứ hả???"

Phương Trữ nói với vẻ mặt thốn cực kỳ, "Mày thấy thành chủ ngu hơn tao hay là ngu hơn mày?"

Ninh Hoài Sam: "Ý mày là... thành chủ đã biết rồi hả?"

...

Caloma thành chủ đã biết rồi mà còn xáp xáp vô "con rối" thủ thỉ thầm thì nữa hả???

***

Sau đó, Ninh Hoài Sam và Phương Trữ ngưng bàn tán, không đến gần Ô Hành Tuyết mà cũng không cách quá xa, lẽo đẽo đi theo như hai chú chim be bé.

Thành thử mấy đệ tử tiên môn cũng không phát giác họ có vấn đề gì chứ đừng nói tới nghi ngờ họ đến từ Chiếu Dạ thành.

Nhóm đệ tử trẻ căng da mắt chùng da não mà vẫn không nhớ ra tượng thần này là vị nào, bèn thôi nghĩ sâu về vấn đề này nữa mà cầm kim châm rảo quanh hầm mộ thăm dò tung tích. Ngặt nỗi, không biết vì lý do gì mà đầu kim châm đánh loạn vòng vòng như ruồi.

Ở bên cạnh vừa có các bá tánh cầu giúp đỡ và còn cả mấy tay cao thủ tán tu không rõ danh tính, nên các đệ tử tiên môn sợ bẽ bàng, da mặt hửng đỏ cả lên.

"Hôm nay châm linh bị làm sao ấy?"

"Bình thường có thế này bao giờ đâu!"

"Sư huynh à, có phải châm này bị hư rồi không?"

"Bậy bạ! Trước khi ra cửa kiểm tra rồi mà."

...

"Châm này dùng để tìm thứ gì vậy?" Ô Hành Tuyết chọn cậu nhóc mặt đỏ nhất mà hỏi.

Đệ tử trẻ chỉ vào vết máu trên mũi kim châm và nói, "Dùng để tìm linh, nó dính máu ai thì tìm linh hồn người ấy."

Cậu ta nhìn thoáng qua người phụ nữ bị lạc mất con gái và nói, "Thương thay vị khổ chủ kia... Sau khi chữ hiện bên cổ con gái mình thì cô ấy cũng cột con gái lên giường bằng dây thừng như nhiều người khác làm, ban đêm còn ngồi cạnh giường trông chừng. Cô ấy sợ sẽ ngủ mất không còn biết gì nên cột đầu còn lại của sợi thừng lên tay mình. Ngờ đâu khi tỉnh dậy lúc hừng đông thì phát hiện sợi thừng vẫn nguyên vẹn trong tay nhưng hai đứa con gái đã mất tăm, trên dây thừng toàn máu là máu. Chúng ta dùng châm trích máu trên bề mặt những sợi thừng ấy để tìm."

"Trong trường hợp thời gian gặp nạn đã qua quá lâu thì kim châm cũng không còn chính xác nữa nhưng cũng không đến mức nhảy loạn như vầy.

"Cậu làm lần nữa ta xem thử nào," Ô Hành Tuyết vỗ vai cậu ta.

Mấy vị bá tánh đứng sau nhòm sang với vẻ mặt nôn nao.

Đệ tử trẻ sượng chín, đáp "Ờm" một tiếng rồi duỗi kim châm về phía mình một cái xem như khởi đầu, kế đó đẩy ra ngoài.

Vừa đẩy thì thấy kim châm lắc liên hồi vòng quanh vách đá và cuối cùng lẳng lặng trả về vị trí ban đầu.

"Nghe đâu trước đây các sư huynh đệ đến tìm người cũng gặp phải tình huống tương tự, châm cứ xoay vòng vòng rồi quay về vị trí cũ. Không có bất kỳ manh mối nào, nên họ chỉ đành đi tuần một vòng quanh thung lũng rồi trở về trắng tay."

"Thôi, đừng trông chờ vào châm nữa," hai đệ tử còn lại nói rồi nhìn Ô Hành Tuyết. "Không biết các vị tiền bối có biện pháp nào hay không?"

Ô Hành Tuyết hơi nghiêng đầu.

Chàng có nhớ cái chi đâu, đến lúc cần cứu chính mình còn nhờ bản năng được chứ chuyện khác thì thua.

Có điều, chàng vẫn nhớ trước khi Tiêu Phục Huyên và những người khác xuống tới, cụt tay Phương Trữ hô lên "Ủa cái gì đây?"

Nếu không nhầm, vị trí Phương Trữ đứng lúc đó là...

Ban nãy, Ô Hành Tuyết còn cho Phương Trữ một đạp nên nhớ mang máng vị trí của hắn. Chàng vòng lại chỗ đó, cẩn trọng soi xét những hốc ngách to nhỏ đủ cỡ trên vách đá. Những hốc đặt đèn dầu có kích thước lớn hơn một chút, khả năng vừa một thân người.

Ô Hành Tuyết thò tay vào trong hốc thử thì thấy không khí bên trong khá ẩm thấp.

"À đúng rồi thành... công tử ơi!" Phương Trữ thấy chàng ra tay, cuối cùng cũng chịu mở miệng. "Ở trong đó có cái gì ấy, ban nãy ta có nhìn lướt qua nhưng xảy ra việc nên chưa kịp xem kỹ."

Ô Hành Tuyết vừa tính cúi người kiểm tra thử thì thấy đệ tử tiên môn trẻ dễ ngại nọ chạy ùa tới. Áng chừng cậu ta muốn gỡ gạc danh dự đã bay biến vì vụ kim châm, bèn nói "Để tôi đào chỗ này ra" xong bắt lấy ngọn đèn dầu và khom lưng nhoài người vào trong hốc.

Đệ tử trẻ giơ đèn dầu chiếu vô hang thì thấy sâu trong hốc đó có bóng người đang ngồi xổm — bóng người búi tóc hai chỏm, mặt trắng bệch và cặp mắt đen lòm không chớp lấy một cái. Nó cứ lẳng lặng ngồi đó ngó cậu.

"Tôi..."

"!!!"

Đệ tử trẻ thiếu điều hồn lìa khỏi xác!

"Đệ run run cái gì?" Có ai đó vỗ sau lưng cậu một cái.

Để yên thì thôi chứ bị vỗ vai một cái làm cậu sởn cả tóc gáy, thét lên một tiếng thất thanh rồi giật bắn người rụt lại, đụng cả vào người đứng phía sau.

"Đã bảo là để ta vào rồi mà," Ô Hành Tuyết bực bội né người sang một bên, xách đệ tử trẻ ra ngoài. Chàng vừa tính ngồi xuống đã nhác thấy có ai nhấc chân.

Đôi giày đen thon bó gọn gàng tôn lên đôi chân thẳng tắp và vững chãi.

Bàn chân vừa nhấn lên vách đá, hốc tường tức thì nứt rạn trăm ngàn vết. Đá vụn đánh lạch cạch rồi đổ sụp xuống đất, lỗ hổng bị khoét to đến cỡ nửa người. Nhờ vậy, không cần phải ngồi xổm xuống nữa mà chỉ cần huơ đèn dầu vào là có thể bao quát được khung cảnh bên trong.

"..."

Ô Hành Tuyết ngoái đầu sang thì thấy gương mặt Tiêu Phục Huyên.

Phải nói sao đây ta...

Chàng thấy có khi căn mộ này không còn nổi bao nhiêu chỗ nguyên vẹn nữa.

Đây là cách hành sự của Thiên Túc thượng tiên đấy à???

Ô Hành Tuyết thầm nhủ trong lòng, cúi người giơ đèn dầu lướt một vòng trong hang và nhìn thấy gương mặt trắng bệch kia.

"..."

Cái bộ dáng này mà ngồi chồm hổm chỗ này lại chẳng hù người ta hết hồn.

May mà cái hốc này đã được khoét rộng ra nên có thể nhìn rõ bóng dáng bên trong. Ô Hành Tuyết thấy gương mặt phản chiếu một vầng sáng như sứ, "Đây là tượng nữ đồng."

Thì ra thứ đặt trong hốc kia không phải người sống mà cũng không phải ma quỷ, mà là một pho tượng. Gương mặt trắng bệch màu tuyết, hai má tô điểm phấn hồng, trông không khác gì nữ đồng đứng phụng hầu hai bên trong miếu tiên.

Chẳng qua bên trên pho tượng nữ đồng này có dán tấm bùa, trên bùa có viết chữ.

Viết rằng: Tiên sứ Triệu Thanh Lai kính dâng.

Chữ được viết bằng máu với nét nguệch ngoạc, không phải nét chữ khó đọc tự nhiên mà có vẻ tay bị cứng khi viết dòng này nên thiếu đi sự mềm mại.

"Triệu Thanh Lai?" Ô Hành Tuyết lẩm nhẩm tên này và thẳng người dậy.

Một đệ tử tiên môn nói, "Phải! Ta... từng nghe qua cái tên này, hình như lần trước sư huynh có nhắc phải không? Chắc là một người bị triệu hoán đấy."

Các đệ tử tiên môn đen cả mặt. "Cái tượng nữ đồng bé tí thế này? Làm sao giữ người được?!"

"Không lẽ người bị triệu hoán đều nằm trong mấy bức tượng này sao?"

Tiêu Phục Huyên đỡ tay trên vòm động, hơi nghiêng người xuống nhìn vào bên trong. Kế đó, y ngoắt hai ngón tay, lá bùa trên thân đồng tử bay vù vào tay y.

"!!!" Các đệ tử tiên môn hô lên tắp lự. "Chưa rõ đầu đuôi đừng vọc bừa tấm bùa này!"

Hô lên rồi họ mới nhận ra, nếu các vị này đã là cao thủ tán tu mà còn ở cấp tiền bối thì ắt đều hiểu rõ điều này cả rồi.

Quả nhiên, thấy Ô Hành Tuyết nhìn sang Tiêu Phục Huyên và hỏi, "Đây là bùa làm gì vậy?"

Tiêu Phục Huyên lật mặt trái lại, nói, "Để sinh linh."

Ô Hành Tuyết: "..."

Ô Hành Tuyết: "Sinh linh là ý gì?"

Tiêu Phục Huyên: "..."

"À..." Y Ngô Sinh nói. "Tôi có biết chuyện này, thời còn trẻ từng nghe tiên sinh giảng qua. Tiên sinh nói trước đây có một loại trận triệu tiên bằng cách đặt tượng thần tiên xung quanh rồi cho người đóng giả nam nữ hầu đồng bên người tiên gia đó, tiếp đến dán bùa giấy lên người dựa vào phương hướng của trận và viết tên người dâng quả là có thể triệu thỉnh tiên gia vào trong tượng thần.

"Về sau, không biết câu chuyện truyền tai nhau thế nào mà cuối cùng thành ra trận này có thể khiến tượng thần sống lại, nên mới có tên là sinh linh."

Khi hắn đang thuật chuyện, một đệ tử tiên môn đã nhanh tay dùng kiếm đập vỡ tượng nữ đồng kia ra, gốm sứ vỡ rơi đầy trên đất, bên trong bức tượng ngập ngụa máu, mùi tanh tưởi bốc lên nồng nặc khiến mọi người nhợn cả dạ dày.

Có thể thấy bên trong pho nữ đồng này có chứa gì rồi.

"Thấp như vậy làm sao nhét vừa?"

"Nên mới cần chặt ra..."

Mọi người nhớ lại tình huống người bị triệu hoán để lại dây thừng đẫm máu, nhìn như thể bị cắt thành nhiều khúc. Nếu chặt tứ chi và đầu ra thì vẫn có thể nhét vào được.

Chỉ là...

Tượng nữ đồng này chỉ còn máu, thế thì người bị nhét vào trong đâu?

20. DIỄN SÂU

❄︎

"Bị 'triệu hoán' tới đây đã thảm thương nhường nào, thế mà đến thi cốt cũng không còn..."

"Đừng nói nữa."

Viên đệ tử tiên môn đỏ mặt thầm thì nửa câu đã bị sư huynh cậu đá một phát.

Ô Hành Tuyết liếc sang nhìn họ một tí rồi quay lại mới thấy nét mặt mấy bá tánh đen sì cùng cực, họ nhìn chằm chặp vào tấm bùa trên tay Tiêu Phục Huyên như có chút hoảng hốt. Một người trong số họ thật sự sợ đến phát run, cả người lẩy bẩy đứng không vững.

Có lẽ người đó muốn cúi người để thăng bằng lại, song áo khoác vừa đè cơ thể thì mùi nhang nồng nặc lại toả ra khắp nơi.

"..."

Một đệ tử tiên môn sải bước dài tới đỡ người nọ.

"Cũng do sư đệ ta không lựa lời, chỉ biết nói quàng," vị đệ tử kia e mùi nhang nồng quá sẽ thu hút mấy sinh vật nguy hiểm, bèn nói. "Thật ra cũng chưa hẳn rơi vào tình huống tệ vậy đâu, nói không chừng... không chừng..."

Cậu ta lắp bắp cả buổi cũng không dám hứa hẹn điều gì, bèn ngước mắt nhìn sang cầu cứu với nét mặt đỏ bừng vì khốn đốn.

Ô Hành Tuyết nhủ thầm nhìn ta làm gì, ta có hứa hẹn được chuyện gì tốt đâu, giờ mà nói ra có khi còn kinh dị hơn sư đệ ngươi đó.

Chàng im một hồi, tay chọt nhẹ Tiêu Phục Huyên.

Chọt xong mới sực ngẩn người sao mà thuận tay quá vậy.

Tiêu Phục Huyên tạm ngừng động tác lật tấm bùa xem xét, liếc nhìn cái ngón tay chọt người khác kia rồi quay sang nhìn viên đệ tử tiên môn đang cầu cứu.

Trên mặt cậu ta viết rõ "Làm ơn hãy nói cái gì đó đổi đề tài, cứu ta với."

Thế là Thiên Túc thượng tiên mở miệng vàng ngọc.

Y hỏi cô gái kia, "Lệnh thiên kim tên họ là gì."

Ô Hành Tuyết: "..."

Cái câu này vẽ thêm vài nét chữ nữa là ý đại khái thế này: Hai đứa con gái cô phỏng chừng cũng gặp tình huống như Triệu Thanh Lai đây, tức nằm trong một pho tượng nữ đồng nào đó, bên trên có dán tên, giờ đưa cái tên để chúng ta tìm thử xem.

Đây quả thật là mục đích chính của mấy vị bá tánh đến xin giúp đỡ từ đệ tử tiên môn, những lời này không sai...

Nhưng mà mai mốt, miệng vàng ngọc này tốt nhất không nên mở bừa nữa vẫn hơn.

Ô Hành Tuyết nghĩ thầm.

Viên đệ tử cầu cứu thiếu điều đóng băng tại chỗ, mặt mũi tái mét.

Cô gái kia đóng băng còn ghê hơn, cả người loạng choạng, tay chống vào vách đá để thăng bằng, nét mặt thất thần, toàn thân run lên cầm cập thiếu kiểm soát. Hai đệ tử trẻ còn lại bèn bước tới vỗ nhẹ lưng an ủi cô.

Thế mà chỉ vỗ nhẹ thôi cô cũng không chịu nổi, thân thể vừa bị chạm vào đã sụp xuống một chút. Cô khom lưng run rẩy một hồi lâu mới ngước mặt nhìn Tiêu Phục Huyên, khàn giọng lẩm bẩm, "Hai tiểu nha đầu nhà tôi còn nhỏ lắm... tên... tên là..."

Cô nghẹn giọng cả buổi mới thốt được hai cái tên, "Tên là A Nguyên và A Đài."

"A Nguyên..."

"A Đài..."

"Chờ đã, khoan chờ đã."

"Chờ đã."

Cô gái khẽ khàng lặp đi lặp lại mấy lần, dù không thốt thành lời nhưng môi cứ không ngừng mấp máy. Không rõ là cô ấy đang tỏ lời an ủi hai đứa con nhỏ không biết linh hồn đang phiêu dạt nơi nào, hay đang tự an ủi bản thân mình.

Cô nói tên rồi thì những người còn lại cũng không tránh né nữa mà lần tìm dọc theo vách động.

Họ dò tìm một chặp mới phát hiện, không gian hầm mộ không chỉ vỏn vẹn một chỗ này mà còn thông ra nhiều hướng. Thi thoảng trong hang có khúc rẽ và đèn dầu thắp trước hốc động bị khuất sau những khúc rẽ ấy, nếu chỉ thoáng nhìn sẽ tưởng đã đi đến cuối đường.

Nhưng thực tế là nó được kiến tạo theo địa hình thung lũng, hang động nối dài và có nhiều đoạn cua với góc độ cực kỳ thất thường.

Rẽ qua mấy khúc quanh rồi, mọi người dần dà mất phương hướng. La bàn của các đệ tử tiên môn không dùng được ở đây, sau vài lần quẹo cua thì họ chợt nhận ra mình không bận tâm đến la bàn nữa mà đang nối gót theo Tiêu Phục Huyên.

Dù thế, đến cả Tiêu Phục Huyên cũng phải thoáng dừng lại khi đứng trước một vài ngã ba đường.

Ô Hành Tuyết thấy vậy, cuối cùng hỏi, "Không phải huynh từng tới đây à?"

Tiêu Phục Huyên đáp "Ừm". Y dừng bước, nhẹ nhàng ấn ngón tay thon dài lên tường đá, chỉ cần dùng chút sức lực đã khiến tảng đá rung chuyển, đá vụn rớt ngổn ngang.

Ô Hành Tuyết: "Vậy sao huynh không biết đường?"

Tiêu Phục Huyên đưa ngón tay vào trong khe nứt, chớp nhẹ đôi ngươi đang rủ xuống, nói, "Ta không vào."

"Huynh không vào?" Ô Hành Tuyết hơi ngạc nhiên. "Tại sao?"

Chỉ dùng hai ngón tay mà y nhấc bổng tảng đá đang cản lối lên, ném một phát xuống đất kéo theo tiếng dộng ầm ầm, khói bụi mịt mù bủa vây khắp nơi. Ô Hành Tuyết nheo mắt đứng trong màn bụi mù và nghe thấy giọng trầm thấp của Tiêu Phục Huyên, "Không muốn vào."

Trong đầu chàng chợt hiện lên khung cảnh nọ, dường như vào một đêm lạnh giá nào đó khi khói bụi phủ kín thung lũng Đại Bi, cũng có một bóng người cao cao đứng giữa màn sương và nhìn về thung lũng rộng lớn này từ bên kia chiếc cầu treo.

Ô Hành Tuyết ngẩn người trong giây lát.

Chàng chắc rằng đã gặp khung cảnh ấy ở đâu rồi, song giờ có gắng cỡ nào cũng không nhớ nổi. Đến khi hoàn hồn lại đã nghe mấy đệ tử tiên môn nói, "Lại có thêm một pho tượng đồng tử này!"

Dọc đường, họ đã tìm thấy hai pho đồng tử, bên trong trống rỗng không có gì ngoài máu đã khô tràn ngập. Phía trên tượng đều dán bùa viết "Tiên sứ kính dâng".

Một người tên Lưu Chí, người còn lại tên Liễu Mi.

Nghe tên thì có lẽ là một nam một nữ, cả hai đều không biết đã mất tích về đâu.

Tính cả tượng Triệu Thanh Lai lúc đầu thì pho trước mặt là pho đồng tử thứ tư. Họ liền quen tay rút kiếm ra theo phản xạ, chém pho tượng đồng tử ra thành năm bảy mảnh.

Bên trong có một người.

Đó là một chàng trai trưởng thành bị gập người nhiều khúc trong tư thế gãy lìa thân thể, trên cổ trống không, tay ôm đầu đặt trước ngực.

Đệ tử tiên môn hãi hùng lùi vội chân về sau mấy bước, tựa lưng lên một bên vách đá khác. Một lúc lâu sau, họ mới thì thào, "Sao người này còn ở bên trong vậy? Có hoá thành hung vật không?"

Họ toan rút kiếm kiểm tra thử thì thấy Y Ngô Sinh đặt lưng ngón tay lên đầu người kia rồi lắc đầu. Hắn siết giấy, nói, "Không sao cả, lại đây đi."

Ô Hành Tuyết nhìn sơ qua tư thế của xác chết này, đoán chừng đây chính là người tiều phu bị triệu hoán đầu tiên.

Tấm bùa nằm giữa mảnh sứ vỡ, trên bùa viết tên người tiều phu bằng nét chữ vặn vẹo cực kỳ.

Trước đây chỉ nghe kể lại chứ không thấy người nên không có cảm giác chân thật. Thế nhưng giờ đây, người tiều phu trong lời kể kia lại ngồi xếp bằng trước mặt họ, khiến ai nấy nhìn thấy mà sởn cả tóc gáy và khó chịu đến rùng mình.

Mấy bá tánh vẫn quyết tâm không lại gần mà chỉ đứng trong góc khuất từ đằng xa.

Đệ tử tiên môn nhìn người tiều phu với nét mặt không cam lòng nhưng đâu thể để anh ta chơ vơ ở đây được. Cậu bèn lấy một tấm phù, cẩn thận dán trên trán anh ta và vẽ ký hiệu lên.

"Chúng ta đi tìm những người còn lại trước đi."

***

Họ men theo hang đá và tiếp tục đi sâu vào trong hầm mộ, vừa đi vừa không ngừng ngẫm nghĩ.

"Tại sao người trong ba pho tượng trước biến mất nhưng người này còn ở trong?"

"Ắt là bởi người tiều phu gặp nạn sớm nhất."

"Vì anh ta gặp nạn từ sớm, hồn phách đã bị hao mòn chẳng còn bấy nhiêu, một khi bị phong ấn trong tượng đá rồi không thể động đậy được nữa. Còn hồn phách những người mắc nạn sau này thừa lại nhiều hơn nên không thể phong ấn nổi."

Và chuyện gì xảy ra một khi phong ấn không nổi... không cần nói cũng biết...

Khi cơn đói ùa đến họ sẽ đi tìm thức ăn. Hoặc là họ không chấp nhận được việc mình đã chết nên mong muốn tìm ai đó đến chết thay. Cả hai khả năng đều có thể xảy ra.

Đèn dầu trong hầm mộ lúc tỏ lúc mờ, có lẽ những thi thể bị chặt lìa kia đang nằm trong mộc góc nào đó, chờ người sống tới.

Nghĩ đến đây, dù là người am hiểu tiên thuật cũng rét lạnh sống lưng.

Không bao lâu sau, họ đã tìm ra một pho tượng nữ đồng khác.

Tượng nữ đồng này không mấy nguyên vẹn, bên ngoài bị tróc và ngả màu nên lốm đốm nhiều chỗ, thoạt nhìn giống như mang khoé miệng nửa bên đang cười, nửa còn lại đang khóc.

Bị ám ảnh từ pho tượng lần trước, họ cứ mãi chần chờ không dám xuất kiếm.

Kết quả chợt có một cơn gió mạnh thổi qua người họ, tiếp đó mấy tiếng răng rắc giòn giã vẳng lên, pho tượng nữ đồng kia nứt ra giữa trời dù không ai chạm tới. Bên trong pho tượng này cũng trống rỗng không người, chỉ có máu và dấu cào như thể người bị nhốt bên trong đã cố gắng hết sức hòng khoét lớp vỏ tượng muốn chui ra...

Xem mấy mảnh vụn la liệt trên đất chứng tỏ... nó đã ra ngoài thật.

Lá bùa thình lình bay vù ra ngoài, rơi vào ngón tay Tiêu Phục Huyên. Khi mở tấm bùa ra thấy bên trên có viết, "Tiên sứ Cao Nga kính dâng."

"Cao Nga?" Đệ tử tiên môn suy tư.

Ô Hành Tuyết thấy một người trong họ bối rối, bèn hỏi, "Có chuyện gì thế, sao trông cậu nghẹn ngào khổ sở vậy?"

"Cao Nga..."

"Ưm, Cao Nga?"

Đệ tử trẻ kia không ngừng lặp đi lặp lại, đoạn lắc đầu, "Tôi còn đang nghĩ xem người này thuộc gia đình nào, tôi từng nghe qua cái tên này rồi nhưng không phải nghe lại từ sư huynh sư tỷ. Ai da, sao không nhớ gì cả vậy nè, gần đây tôi nghe nhiều tên khổ chủ quá nên lẫn lộn hết cả."

Nhắc đến nhiều khổ chủ, họ lại thoáng lia mắt sang Tiêu Phục Huyên. Trông như muốn hỏi gì đó, sau lại chùn bước.

Cuối cùng chuyển sang người có bộ dáng hoà nhã là Y Ngô Sinh mà hỏi, "Thưa tiền bối, nếu ngài thông hiểu lai lịch và cách dùng của loại phù sinh linh phù này, không biết ngài có biết để tượng thần sống lại phải cần tổng cộng bao nhiêu nam đồng nữ đồng không?"

"Đừng xem câu làm tượng thần sống lại là thật, âu chỉ là đồn đãi cả thôi," Y Ngô Sinh nói. "Trăm năm nay ta chưa từng nghe ai thành công cả."

Thật ra gọi là "triệu thỉnh" cũng không đúng lắm, bản chất của nó chỉ giúp tượng thần cảm nhận được có linh, nhờ đó thông qua tượng thần để gửi những lời của người triệu thỉnh đến bản tôn trên Tiên Đô. Còn người kia có nghe được hay không còn là việc khác.

Các tiên môn chính quy đều không rõ cách dùng loại trận pháp này, họ chẳng qua chỉ nghe truyền miệng trong dân gian.

Thời niên thiếu, Y Ngô Sinh vừa khéo rất đam mê tìm hiểu các phong tục tập quán dân gian loại này. Tuy đây là những mẩu chuyện thô sơ không có hệ thống nhưng nghe vào rất thú vị, nếu đã nghe qua hắn đều nhớ rõ. Chẳng qua hắn không ngờ rằng có một ngày lại được chứng kiến những tập tục dân gian đó theo cách này.

Hắn trầm tư một lát rồi trả lời, "Có lẽ cần ba mươi ba người nam đồng nữ đồng."

"Thế thì hợp lý rồi," đệ tử tiên môn gật gù.

"Nếu tôi nhớ không nhầm thì quả đúng có ba mươi ba hộ dân bị triệu hoán. Phải thế không sư huynh?"

"Đúng vậy. Tính cả hôm nay là vừa tròn ba mươi ba hộ."

Vừa tròn ba mươi ba hộ?

Ô Hành Tuyết bất chợt mở miệng, "Các người đếm kỹ lại xem chính xác là bao nhiêu?"

Đệ tử trẻ tiên môn sửng sốt, đỏ hửng mặt, "Xin tiền bối chớ trêu ngươi chúng tôi, có tổng cộng ba mươi ba hộ, sao có thể đếm nhầm được?"

"Vậy thì không đúng," Ô Hành Tuyết nói. "Có một hộ mất tích hai người, nếu ba mươi ba hộ chẳng quá thành ba mươi bốn người à?"

Nhóm đệ tử trẻ sửng sốt, bấy giờ mới vỡ lẽ.

Gia đình đến tìm họ nhờ dẫn đến thung lũng Đại Bi bị mất hai tiểu cô nương là A Nguyên và A Đài, nếu nói vậy thì bị dư ra một người rồi.

Thà là thiếu người còn có thể giải thích là chưa tìm đủ. Đằng này dư ra một người thì còn lập trận được à?

"Huống chi... tại sao lại dư ra một người?"

"Hay đếm dư ai à?"

"Hỏi thử xem sao."

Nhóm đệ tử trẻ tính quay sang hỏi mấy vị bá tánh kia, ngờ đâu vừa ngoái đầu đã thấy cô gái nọ đứng ngay sau lưng họ ở cự ly cực gần, đôi mắt cô đen trũi nhìn chòng chọc đầy thâm ý.

Ngay lúc đó, người đệ tử sực nhớ ra, thốt lên, "Cao Nga!"

Rốt cuộc cậu cũng nhớ ra, không phải cậu nghe cái tên "Cao Nga" trên pho tượng nữ đồng đó từ các vị sư huynh sư tỷ, mà chính cô gái này tự báo gia môn mình khi đến tìm họ, cô nói hai đứa con gái cô bị triệu vào thung lũng Đại Bi và muốn nhờ họ đến thung lũng Đại Bi tìm giúp một phen.

Nếu người bị triệu hoán vốn không phải hai đứa con gái thì sao?

Nếu... người đó vốn chính là cô ta thì sao?

Nếu vậy vừa khớp con số ba mươi ba hộ.

Thế rồi, cậu sực nhớ, họ tìm được tổng cộng bốn pho tượng nam đồng nữ đồng rỗng bên trong, đọc qua tên thì bao gồm hai nam hai nữ.

Và những bá tánh đến tìm và nhờ họ vào thung lũng Đại Bi cũng vừa đúng bốn người, hai nam hai nữ!

Cao Nga mỉm cười với cậu, đôi mắt đen long lên, khoé miệng lộ ra bên dưới lớp khăn dày sâu hoắm khoét thành một đường cong đen ngòm.

Đệ tử trẻ dựng hết lông tơ, rút xoẹt kiếm ra.

Trong chớp mắt, chiếc khăn đứt lìa để lộ cánh cổ trần của Cao Nga có chữ ở một bên. Cổ đã bị cắt dọc giữa nét chữ, giờ chỉ còn dính chút da thịt, nó lung lay như sắp gãy theo cử động của cô.

Đệ tử trẻ thốt nhiên hiểu rõ vì sao mấy bá tánh này phải bọc tay bọc chân mình kín kẽ trong áo khoác dày cui như vậy.

Họ sợ bị rơi ra...

Chắc cảm thấy kim không giấu trong bọc được nữa, bốn bá tánh kia chẳng hề khép nép e dè mà lập tức lần lượt chọn cho mình một người để bám lên.

Ba kẻ trong chúng chọn ba đệ tử trẻ tiên môn, kẻ còn thừa lại bọc sang phía bên kia.

Ô Hành Tuyết cảm thấy hơi thở sau lưng liền thở dài khe khẽ.

Lòng nhủ bây biết lựa ghê.

Chàng cong ngón tay lên, vừa lia mắt nhìn thì thấy đôi đồng tử của Tiêu Phục Huyên.

Ô Hành Tuyết: "..."

Ngay lập tức, Chiếu Dạ thành chủ mới nãy một mình giết sạch một núi sinh vật tính âm liền thả tay xuống, vọt một bước tới sau lưng Tiêu Phục Huyên. Chàng tựa tay lên lưng Thiên Túc thượng tiên và đẩy người về trước. "Thượng tiên ơi cứu mạng, ta sợ quá."

Tiêu Phục Huyên: "......"

Ninh Hoài Sam và Phương Trữ: ".........................................."

Tụi này mới sợ hết hồn nè tin hông?

21. MỘ PHẦN

❄︎

Cái tên xui xẻo chọn trúng Ô Hành Tuyết chính là "Tiên sứ" đầu tiên họ tìm thấy – Triệu Thanh Lai.

Ngón tay lẩn bên dưới ống tay áo rộng của Triệu Thanh Lai dài như mũi kim, bén nhọn chẳng khác gì lưỡi dao, cào trên vách đá cũng dễ dàng rạch ra thành rãnh.

Hắn chọn Ô Hành Tuyết vì trông người đó mảnh khảnh mà kiêu kỳ, tay không tấc sắt, thấy rõ là hạng công tử ca suốt ngày chỉ biết thưởng phong ngắm nguyệt. Tay công tử ca này thậm chí còn không khoác khăn chống gió mà chỉ ôm một ấm sưởi cỏn con, để hở toàn bộ vùng cổ.

Giờ gã chỉ cần quệt một quệt trên cánh cổ kia, để máu nóng trào ra...

Không cần tốn nhiều sức cũng nhanh chóng xong việc!

Triệu Thanh Lai liếm răng, duỗi tay chém xuống cần cổ...

Keng!

Âm thanh lanh lảnh vang lên mà Triệu Thanh Lai còn chưa kịp nhận ra.

Phản ứng của người chết luôn chậm hơn người thường một chút. Đến khi gã phát giác đó là tiếng trường kiếm rời vỏ —

Thì cánh tay vồ về phía Ô Hành Tuyết đã không còn.

Trong kiếm ý loạn lạc, muôn vàn mũi nhọn thình lình bủa ra như gió rét giữa đông hiện hữu không cách nào tránh né, quét thẳng về phía Triệu Thanh Lai.

Lớp áo khoác dày bó chặt người gã tách lìa thành nhiều mảnh, nguồn lực nâng đỡ cơ thể đột nhiên biến mất.

Hai tròng mắt Triệu Thanh Lai trừng to, nhướn nhìn lên trên.

Đã không còn thấy bóng dáng Ô Hành Tuyết, trước mắt gã giờ hiện ra một người khác. Gã chỉ thấy gương mặt kia ngất ngưởng trên cao, mũi trường kiếm chống không nặng không nhẹ dưới nền đất, người nọ đặt tay trên chuôi kiếm và rủ mắt nhìn gã, cất giọng lạnh lùng, "Tới."

...

Lai tới không nổi.

Trong nháy mắt, Triệu Thanh Lai đổ mình trên đất, thét lên một tiếng đầy thô bạo rồi dần sang bén nhọn, như một tiếng rít dài vang vọng khắp hầm mộ, nhuốm đầy cảm giác không cam tâm.

Mà không chỉ có Triệu Thanh Lai.

Ba tên bổ nhào về phía đệ tử tiên môn cũng bị kiếm ý bay sang cắt sạch lớp áo bọc.

Các đệ tử tiên môn đâm kiếm ra phía ngoài nhưng không đâm trúng thứ gì. Họ trơ mắt nhìn những người vừa mới hung bạo bừng bừng, giờ thình lình đổ ập xuống thành một đống bùi nhùi.

Khi bị "triệu hoán" vào thung lũng Đại Bi, cơ thể họ đã bị cắt thành nhiều mảnh, mang theo oán hận âm tà sâu sắc, sát khí ngợp trời, ai cũng hẳn là một hung vật đáng sợ.

Song khi họ té vùi tan tác trên mặt đất, thi thể cứng đờ và ngả màu trắng xanh với nhiều vệt lốm đốm khắp người. Họ xoay đầu mấy vòng, mắt hoen đỏ mà long lên sòng sọc...

Mọi người đều không nỡ nhìn.

Bởi đáo cùng thì họ đều từng là người sống cơ mà.

Mấy đệ tử tiên môn còn trẻ tuổi nên hiện rõ cảm xúc ra ngoài nhất, ba người trắng bệch mặt và lùi mấy bước về phía sau, thanh kiếm trên tay muốn xuất chiêu cũng không được mà không xuất chiêu cũng không được. Cuối cùng, họ bất lực nhìn sang Tiêu Phục Huyên.

Y Ngô Sinh là tứ đường trưởng lão của nhà họ Hoa nên gặp qua nhiều tình huống tương tự, đâm ra không bước lùi ra sau. Nhưng với bản tâm của người hành y, hắn vẫn không đành lòng nhìn, bèn theo bản năng cũng ngoái sang phía Tiêu Phục Huyên.

Ở nhân gian không có nhiều lời tương truyền về vị Thượng tiên này, nói cho cùng những người dính líu đến y đều là những kẻ chí tà chí ác. Y không bàn phúc hoạ, mặc kệ cát hung, bỏ mặc tất cả ước nguyện của mọi nhà, và cũng không bảo vệ bất cứ điều gì.

Tranh vẽ y rất hiếm, tượng thần cũng chẳng mấy bức, đa phần đều đặt ở cánh đồng Gia Minh nơi người thường không ai dám bén mảng.

Những vị tiên khác như các tiên nhân thuộc Linh đài đều có tranh vẽ và tượng thần đượm ý cười, mang gió xuân thổi tràn thế gian.

Chỉ mỗi tượng thần của riêng mình y, dù khắc ra giống thật hay không vẫn chung một nét lạnh lùng vĩnh cửu, chẳng có lấy một điểm nụ cười.

Thế nên khó trách vì sao chúng bá tánh không chuộng thờ phụng vị này. Thoạt trông, hết thảy tụ tán ly hợp và sinh tử buồn vui của người thường đều không cách nào lung lay ánh mắt y dù chỉ đôi chút.

Chẳng hạn như lúc này đây, khi y rủ mắt, ánh mắt buông xuống phía trên cao từ khe mắt dài và lướt qua những cánh tay cẳng chân, những mái đầu tàn tạ, nhìn đến bằng nào cũng không mảy may khép lại, trên mặt không vỏn vẹn một luồng xúc cảm.

Y nhìn qua rồi cũng chỉ hơi nhướn nhẹ hàng mi mỏng.

Tiếng rít gào của nhóm Triệu Thanh Lai càng thê lương đến cùng cực, nó vọng trong hầm mộ để lại âm vang thoáng nét bi thương.

Mà Tiêu Phục Huyên hoàn toàn ngó lơ tiếng vọng ấy, y thu kiếm ý về và tra kiếm vào vỏ.

Trong giây phút đó, hết thảy mọi người có mặt trong ngôi mộ đều thấy nao nao.

Cảm giác nao nao không bắt nguồn từ thích hay ghét, mà chỉ vì phong thái quá nhọn quá bén, đó là dáng vẻ nghiêm nghị lạnh căm khiến mọi người không thoải mái.

Cảm giác như một thanh gươm đã chém giết quá nhiều thứ thì cho dù có lau sạch vết máu, giấu vào trong lớp vỏ bọc ngọc ngà và ngâm mình dưới vầng trăng cô lẻ sáng ngời ấm áp, thì nó vẫn là một thứ binh khí hung tàn không ai dám chạm đến.

Chỉ riêng Ô Hành Tuyết không thấy vậy.

Chàng vẫn luôn tựa tay vào lưng Tiêu Phục Huyên, khi Triệu Thanh Lai và những người kia ngã xuống đất khiến đầu và tứ chi họ lăn lông lốc các nơi, chàng cảm thấy Tiêu Phục Huyên hơi nghiêng người.

Động tác ấy cỏn con lắm, thoáng đến độ Ô Hành Tuyết còn chưa kịp ngỡ ra.

Mãi đến khi tầm nhìn của chàng bị chắn hoàn toàn khỏi những cánh tay cẳng chân gãy lìa kia và không nhìn thấy những đôi mắt trợn trừng không nhắm đó, thì chàng mới vỡ lẽ rằng Tiêu Phục Huyên đang chắn trước mặt mình để giúp mình không phải nhìn những gì diễn ra trên mặt đất.

Điều này quá hiếm hoi.

Sao lại có người cản lại tầm mắt của một ma đầu giết người không chớp mắt cơ chứ.

Sau khi bị ngăn trước mặt, Ô Hành Tuyết mới dần dà cảm thụ được, mình đúng thật không muốn thấy những điều đó.

Có lẽ giấc mơ dằng dẵng ở Thước Đô đã thay đổi bản tính chàng. Giờ đây nhìn thấy những tàn tích của chân tay và đầu họ khiến lòng chàng khó chịu vô cùng, giống hệt như việc chàng không nhịn nổi bị dính máu trên tay sau khi giết chết lũ vật tính âm kia vậy.

Ô Hành Tuyết lặng người một chốc, ngón tay tựa trên người Tiêu Phục Huyên khẽ động.

"Tiêu Phục Huyên."

"Ừm," Tiêu Phục Huyên thấp giọng đáp lời.

Ô Hành Tuyết nghiêng người ra trước tính nói, song đã thấy Tiêu Phục Huyên không chờ chàng bước tới mà ngoảnh đầu lại.

Khoảnh khắc đó, hai người đứng như kề sát nhau, hơi thở gần gũi ngay trước chóp mũi.

Ô Hành Tuyết mím môi, sau một lát thì đứng thẳng người dậy.

Tiêu Phục Huyên trầm giọng nói, "Gọi ta có việc gì?"

Ô Hành Tuyết: "Không có gì, ta tính nói gì đó mà quên mất rồi."

Tiêu Phục Huyên nhướn mắt, ép hàng mi thành một nếp cung sắc sảo từ đuôi mắt mỏng.

Ô Hành Tuyết nhìn y và nhỏ nhẹ, "Vậy... xin đa tạ Thượng tiên?"

"..."

Ninh Hoài Sam và Phương Trữ nghe được câu tạ ơn mà thấy muốn chết quách cho xong.

***

Những khúc tay chân gãy lìa la liệt trên đất không hề nằm yên mà vẫn luôn tranh nhau vồ vập, ngón tay sắc nhọn cào trên đất vang lên những tiếng kẽo kẹt liên hồi, tưởng chừng chúng đang muốn bấu lấy nhau mà chống thẳng dậy.

Đệ tử tiên môn nghe tiếng mà sởn hết cả tóc gáy, xoa tay sau cổ rồi mò mẫm khắp người.

"Túi càn khôn của đệ đâu rồi? Sư huynh ơi, huynh có cầm theo không? Nếu không đem những, những thứ..."

Tròng mắt nhóm Cao Nga, Triệu Thanh Lai vẫn còn đảo điên chưa dứt, nhìn mọi người chòng chọc, miệng khép mở không ngừng như đang nói gì đó. Trước cảnh tượng như vậy, các đệ tử trẻ không tài nào thốt lên được hai tiếng "hung vật".

"Cho tất cả bọn họ vào túi sao?! Không thể để họ rời rạc như vậy được, hay là chúng ta dùng phù dán lại?"

"Nhưng dán lại bằng cách nào? Ta không đem theo nhiều phù đến vậy!"

Người tiều phu lúc nãy dù gì cũng còn tương đối nguyên vẹn, chỉ cần dán một tấm phù để đề phòng anh ta không đột ngột dựng xác dậy gây rối mà thôi. Còn khung cảnh trước mắt hiện tại là một mớ hỗn loạn, tứ chi vung vãi khắp nơi, cho dù muốn dán phù cũng không biết nên dán vào phần nào.

Cậu để tử khó khăn lắm mới lấy được túi càn khôn ra, ngồi xổm người xuống tính thử dán xem thì bị một cánh tay đứt lìa trong đám đó đột ngột nắm lấy.

"A!!!"

Cậu nhảy dựng người lên, rút kiếm ra vừa tính chém đứt cánh tay kia rơi xuống thì nghe thấy một âm thanh vô cùng nức nở, "Xin người, tiểu sư phụ ơi, tôi xin người..."

Cậu đệ tử trẻ khóc không ra nước mắt, suýt nữa đã cầu ngược lại cô gái, "Cầu cầu cái gì, cô cô cô bỏ tay ra trước đi đã."

Móng tay sắc nhọn cấu vào da thịt cậu, siết chặt không thôi. "Cầu người, tiểu sư phụ ơi, tôi không thể ở lại đây được, tôi không ở lại đây được, tôi thật sự có hai người con gái, tôi thật sự có mà..."

Cô gái khàn giọng rồi nức nở bật khóc.

Nghe vậy, mọi người mới phát hiện người nói chuyện là Cao Nga.

"Tôi không thể ở lại đây, tôi cần tìm ai đó đến thay tôi, tôi cần phải về nhà..."

"Tôi phải về nhà, tôi cần phải về nhà."

Cơ thể cô bắt đầu dịch chuyển một cách khó khăn, một cánh tay khác nhanh chóng bò trên mặt đất và nắm lấy chân một người gần đó.

Người bị cô nắm lấy chân không phải đệ tử tiên môn nào, mà là Ninh Hoài Sam.

"Này, cô..." Trong lòng Y Ngô Sinh vừa tính ngăn cản.

Ninh Hoài Sam xụ nét mặt, trên gương mặt hiện lên vẻ hung tàn. Dù gì, cậu cũng khét tiếng trong Chiếu Dạ thành, từng bò mình khỏi biển thây núi xác, làm gì còn mấy nhân tính như các đệ tử tiên môn.

Cậu ta nhanh chóng khom người hạ gối ngồi xuống, liếm răng nanh và bật cười còn khiếp đảm hơn hung vật. "Ngươi xui xẻo cầu sai người rồi, nè bà cô này, đừng thấy ta nhỏ con mà tưởng ta dễ ăn hiếp, tính tình ta không được dễ dãi lắm đâu, ngươi mà dám gây thương tích trên mắt cá chân ta, thì ta sẽ..."

"Xin người, xin người tiểu ca ơi, hai đứa con gái nhỏ của tôi còn đang chờ tôi mà, chúng nó còn nhỏ lắm."

"Chồng tôi đã mất rồi, nếu tôi cũng không còn thì chúng không đường nào sống nổi."

"Các con tôi thật sự không chịu nổi trần gian này, hai đứa còn quá nhỏ, tôi xin người..."

Cao Nga siết chặt mắt cá chân cậu và nói.

Y Ngô Sinh bước tới tính cản một tay thì thấy móng tay dài nhọn của Cao Nga đã xuyên rách da dưới mắt cá chân Ninh Hoài Sam, máu tươi đổ trượt theo rãnh xương cậu chảy xuống dưới.

Ngón tay cậu cong lên, gân xanh lồ lộ rõ ràng dưới làn da mỏng dính.

Uy áp nặng nề đến vậy, nhưng cậu không hề bóp nát cánh tay không màng sống chết kia. Chẳng rõ vì sao, cậu đã ngừng tay nửa chừng, rồi cứ thế mà nghe lời bộc bạch của Cao Nga.

"Tôi chỉ còn mỗi hai đứa con này, hai chúng nó là mạng sống của tôi đó, cầu xin người."

"Cầu ta thì có ích lợi gì đâu hả cô ơi?" Ninh Hoài Sam bất chợt nói, vẫn với giọng điệu ngả ngớn khiêu khích người khác. "Cô đã chết rồi, không về nhà được nữa. Hai đứa con cô cũng đã tận số không còn sống nổi đâu. Những tình cảnh như cô ta từng gặp, gặp rất nhiều lần..."

Cậu cất giọng nhẹ tênh, "Mẹ ta trước đây cũng van nài người khác như vậy đấy, nhưng có tác dụng gì không? Không hề."

Y Ngô Sinh bước đến vừa khéo nghe được câu ấy, ngạc nhiên vô cùng.

Ninh Hoài Sam đang ngồi xổm nên không ai thấy được vẻ mặt cậu khi đó ra sao, chỉ có thể nhìn ngón tay như móng vuốt và đỉnh đầu cậu ta.

Y Ngô Sinh bất giác nhớ đến thời điểm lần đầu gặp ma đầu này mấy chục năm về trước. Khi đó cậu ta mới mười ba mười bốn tuổi, người teo tóp như cây sậy, bộ dáng đánh bừa một phát thôi cũng chết, chỉ riêng đôi mắt sáng ngời để lộ hung ý kiên cường.

Lúc ấy, hắn đã nhủ thầm: Không biết nhà ai mà để con cái mình lầm đường lạc lối.

Mà giờ qua mấy chục năm nhìn lại, tiểu ma đầu nọ đã không còn gầy gòm đến thế, song vẫn không tránh khỏi vẻ ốm tong. Khi cậu ta ngồi xổm trông dáng người nhỏ xíu, mặc dù sát ý ngợp thân nhưng rề rà mãi không xuống tay.

Chắc rằng Cao Nga đã khiến cậu nhớ về giây phút ban đầu lầm lỡ.

"Có tác dụng, có tác dụng, có cách..." Cao Nga vẫn chai lì khóc lóc không buông.

"Hừ, cách gì hả? Có cách mà cô còn tan xương nát thịt như vậy à? Cô nhìn mình xem, suốt ngày tôn thờ những tượng thần kia. Rồi bây giờ khóc lóc thở than đến vậy thì có thần tiên nào hiểu thấu không?" Ninh Hoài Sam nói. "Đã vậy cô chọn sao còn chọn trúng ta, để ta nói cho cô nghe một chân lý, một là tìm cách tồn tại, hai là chết đi, chớ van nài chớ khóc lóc, chấp nhận..."

Chữ "số phận" còn chưa thành tiếng, cậu đã bị đá một phát từ sau lưng.

Đá không nặng, bởi không nặng nên càng khiến cậu bực mình!

Ninh Hoài Sam quay ngoắt ra sau trong vẻ mặt đằng đằng sát khí, và đối diện với thành chủ nhà cậu.

Ninh Hoài Sam: "..."

Chuyện qué gì nữa vậy!

"Bớt nói nhiều dong dài đi. Xoè cái tay nửa buổi mà cũng không thấy ngươi làm gì, tránh ra," Ô Hành Tuyết dùng chân gạt cậu mấy cái.

Ninh Hoài Sam: "..."

"Không thoát được mà, tại cô ta bám chân ta ăn vạ đây chứ đâu." Ninh Hoài Sam cất giọng có hơi uất ức, đoạn tránh người ra nhưng chân vẫn yên chỗ cũ để cho thành chủ nhà cậu nhìn xem.

Ô Hành Tuyết nhìn cánh tay bén nhọn bị chặt gãy nọ. "Cô vừa nói là có tác dụng, ắt không phải nói bừa vô cớ, nói ta nghe một chút có cách là có cách thế nào?"

Cao Nga tức thì gào lên, "Tìm người thay tôi! Chỉ cần có người đến thay tôi là được!"

Có vẻ cô đang vui mừng tột độ, giọng nói vỡ oà, "Chỉ cần có người đến thay tôi là tôi có thể quay về."

Ô Hành Tuyết hỏi, "Ồ, cô đoan chắc thế à? Có ai nói cô hay cách này hay sao?"

Mấy đệ tử tiên môn đều ngỡ ngàng, lòng nhủ thầm đúng vậy. Không phải ai cũng biết đến phù sinh linh, đa phần người bình thường bị nhốt vào trong trận rồi hoá thành hung vật gây rối đều bắt nguồn từ bản tính — họ đói bụng nên phải đi tìm thức ăn.

Còn giả như bản năng muốn tìm người đến chết thay mình thì cũng chỉ nên lang thang trong thung lũng và chờ người ta xui rủi bước vào.

Thế nhưng mấy người này lại rất đặc thù, họ còn biết giả dạng, biết ra khỏi thung lũng để tìm người, thậm chí họ biết được mùi nhang có thể át đi mùi âm thi khí trên cơ thể, để người khác không phát giác được họ đã trở thành hung vật.

Đây quả thật không giống bản năng mù mịt của hung vật mà có vẻ đã được ai đó chỉ điểm cho.

Cao Nga: "Có! Có, có..."

Cô không phản ứng mau lẹ bằng người sống, nên chỉ lặp đi lặp lại hoài một vài câu.

Mọi người liền hỏi, "Ai?"

Cao Nga nhẹ nhàng nói, "Thần tiên, là thần tiên đã cho tôi hay."

Thần tiên?

Ô Hành Tuyết nhớ đến lời Tiêu Phục Huyên, nói rằng trên Tiên Đô có rất nhiều vị thần tiên không thọ mệnh, những người kia cũng tương tự Vân Hãi, những bức tượng thần của họ về sau cũng được giữ ở nơi này, chẳng khác nào một ngôi mộ tiên rộng lớn.

Vậy nên, câu trả lời của Cao Nga cũng không quá bất ngờ.

Có điều, những người còn lại không nghe được lời Tiêu Phục Huyên nên tỏ ra khó hiểu, "Tại sao thần tiên lại nói cho cô, và làm sao cô biết đó là thần tiên thật? Cô từng thấy tận mắt sao?"

"Không phải, không phải," Cao Nga nói. "Là nhờ báo mộng, thần tiên báo mộng cho tôi hay."

Khi những khúc tay chân la liệt trên đất nghe thấy những lời này thì đều nhao nhao cả lên, bọn Triệu Thanh Lai cũng nhanh chóng nói thêm vào, "Đúng vậy, chúng tôi cũng được báo mộng."

Đám bọn họ đua nhau mà nói liên tục, nhờ vậy mọi người cũng hiểu được đại khái—

Mấy người này bị triệu hoán đến thung lũng Đại Bi theo phương thức gần giống mộng du, họ tự phanh thây mình thành từng mảnh nhỏ, rồi tự nhét mình vào bên trong những pho tượng nam đồng và nữ đồng rỗng này.

Khi những việc này xảy đến, bản thân họ cũng không có ý thức mà chỉ tưởng rằng mình đang ở trong một giấc mơ lạ kỳ.

Trong mơ, họ đến một toà miếu tiên và ngồi xếp bằng ở hai bên bệ thờ, tay ôm lư hương, giống hệt như những vị tiên sứ thực thụ.

Rồi họ theo gót những tiên sứ khác mà niệm kinh tụng kinh, sau bất chợt thấy một bóng hình cao cao bước vào phòng và nói với họ rằng: Các vị đây trần duyên chưa đoạn, còn nhiều âu lo, tạm thời không thể trở thành tiên sứ. Phải làm phiền các vị mời người khác đến giúp.

Đến khi tìm được người đến thay thế là họ có thể quay trở về.

Họ choàng tỉnh lại và phát hiện mình bị nhốt bên trong những pho tượng nam đồng và nữ đồng.

Ngay khoảnh khắc đó, họ sợ hãi tột độ, một nỗi sợ đến chết cũng khó phai.

"Vị thần tiên kia trông như thế nào?" Y Ngô Sinh hỏi.

Đến đây, nhóm Cao Nga không cách nào nói được gì, giống như đã bị người nào niêm phong miệng hoặc hạ cấm chế.

Mà hễ là cấm chế càng khiến mọi người tò mò hơn.

Có điều họ dò hỏi một hồi cũng không nắm rõ được nguyên do nên đành từ bỏ, trái lại hỏi thêm, "Người đó có từng nói cần các người tìm người như thế nào đến thế không?"

Theo lẽ thông thường, nếu mấy bá tánh này muốn tìm người đến thay thì nên tìm người già trẻ con hoặc goá bụa ở những vùng hẻo lánh thì có phải đơn giản hơn không. Theo lời thần tiên nọ nói, tìm người "trần duyên đã kết thúc" thôi chứ tội gì phải liều mạng đi đến tiên môn?

"Có, người nọ có nói mọi việc trong miếu đã chuẩn bị xong xuôi, thế nhưng bốn hướng đông tây nam bắc còn thiếu một chút tiên khí."

Họ cũng đoán được tiên khí hẳn là ám chỉ người trong tiên môn. Thế nhưng hạng bình dân áo vải như họ thì nào dám tìm những đại đệ tử hay danh nhân lợi hại nào, sau khi nghĩ ngợi mấy phen, họ mới quyết định chọn những đệ tử trẻ mới nhập môn chưa được bao lâu này.

Mà xem ra, vận may của họ cũng không đến nỗi nào, vừa mới mấy hôm gần đây có chuyện xảy ra nên nhiều người đến cửa tiên môn cầu giúp đỡ, dẫn đến hành động của họ cũng không quá bất ngờ.

Thêm nữa, Thương Lang Bắc Vực đã sụp đổ, những nhân vật cấp cao trong các tiên môn phụ cận đều còn ở ngoài chưa về đến, hoặc chỉ vừa về đến nên không có thời gian nhúng tay vào việc này. Nhờ vậy, họ mới hốt được ba tay đệ tử trẻ.

Đệ tử tiên môn cau có bảo, "Thế chẳng phải còn thiếu một người à?"

Cao Nga có phần do dự, nói, "Lừa được bao nhiêu người thì lừa bấy nhiêu người, nếu thiếu... thì chờ cơ hội lần sau."

"..."

Nhóm đệ tử trẻ càng ngẫm nghĩ càng thấy kinh hãi, mặt mũi ai nấy đều tái mét.

Nét mặt Y Ngô Sinh cũng có đôi phần phức tạp. Hắn liếc sang Ô Hành Tuyết một cái rồi quay về Triệu Thanh Lai và nói, "Vậy tại sao cậu lại chọn người kia... chọn Trình công tử vậy?"

Nếu đã bảo cần tìm người có tiên khí thì ngoại trừ ba đệ tử trẻ ở đây, còn có hai người có thể chọn. Một người là Tiêu Phục Huyên, người còn lại chính là Y Ngô Sinh.

Cho dù Tiêu Phục Huyên thoạt trông có vẻ không dễ tiếp cận, thì vẫn còn hắn đây cơ mà, hiện tại hắn chỉ còn một chút tàn hồn, nếu phải lâm trận thật thì có khi còn yếu hơn ba đệ tử trẻ kia không chừng.

Thế mà cách chọn người của Triệu Thanh Lai cũng thật có cá tính, bỏ lơ qua hắn mà chọn trúng ma đầu kia.

Vốn Y Ngô Sinh chỉ thắc mắc một câu như lời than thở, ngờ đâu Triệu Thanh Lai lại lầm bầm trả lời, "Trong những người có tiên khí thì y có vẻ dễ đối phó nhất."

Y Ngô Sinh: "..."

Trong những người cái gì???

Khoảnh khắc đó, Y Ngô Sinh cảm thấy một là mình bị điếc, còn không là Triệu Thanh Lai bị mù.

***

Nhóm Cao Nga vừa nói vậy thì mọi người cũng đã hiểu ra.

Thảo nào dù đã thu thập đủ ba mươi ba pho tượng "nam đồng" "nữ đồng" mà toàn bộ hầm mộ trông quá yên tĩnh, chẳng có vẻ gì là sắp mở trận. Hoá ra vì không đúng người nên bốn vị trí đông tây nam bắc còn thiếu bốn người có tiên khí.

"Nói vậy, chẳng lẽ phù sinh linh kia có hiệu quả thật sao? Có thể hồi sinh tượng thần thật sao?" đệ tử trẻ tiên môn nhìn sang Y Ngô Sinh. "Bằng không vị thần tiên nọ đang có ý định gì?"

"Chuyện này..." Y Ngô Sinh cũng không cách nào trả lời được.

"Vô ích thôi," giọng Tiêu Phục Huyên bất chợt vang lên.

Ô Hành Tuyết quay đầu sang nhìn thì thấy y kẹp tấm phù sinh linh dán trên những pho tượng nam đồng nữ đồng giữa hai ngón tay mình và nói, "Loại phù này ít gặp ở nhân gian, nhưng trên Tiên Đô đâu đâu cũng có."

Ý chỉ vô cùng rõ ràng, vị thần tiên nào trên Tiên Đô sẽ chọn loại đồ chơi này để hồi sinh chính mình?

"Vậy có khi nào là do người trong dân gian không hiểu nên mới làm như vậy?" nhóm đệ tử trẻ suy đoán.

Tiêu Phục Huyên mấp máy môi, song chưa kịp nói gì thì nhóm đệ tử trẻ đã lắc đầu nguầy nguậy và tự phủ nhận, "Không không không, không thể nào, làm gì có thường dân thiếu hiểu biết nào ở dân gian mò đến chỗ tà môn như thung lũng Đại Bi để lập trận cơ chứ, có mà điên à."

"Nói vậy tại sao phù sinh linh này dán ở đây?"

"Đúng rồi, lá phù này chỉ gỡ nhẹ đã rơi ra, mấy pho tượng nam đồng nữ đồng kia cũng vỡ không ít..."

Bọn họ lẩm ba lẩm bẩm.

Nhắc đến vỡ, Ô Hành Tuyết thấy Tiêu Phục Huyên hơi chau mày lại, xong quét mũi kiếm vào mấy mảnh vỡ trên mặt đất ra một chút.

Ô Hành Tuyết nhìn theo, thấy trên pho nữ đồng đóng giả Cao Nga bám đầy vết xước và vệt máu. Chàng nhìn vệt máu một hồi, chợt thấy có điểm không đúng.

Sau khi Cao Nga và những người kia hoá hung vật, sở hữu móng tay bén nhọn như đao kiếm, có thể chém sắt như chém bùn, quét qua vách đá để lại đầy rẫy vết nứt, thế nhưng tại sao không thể cứa vỡ những pho tượng nam đồng nữ đồng này mà chỉ cào bới loạn xạ ở mặt trong?

Hơn nữa, những bá tánh này gặp nạn cũng mới gần đây, nhưng mấy pho đồng tử đồng nữa này không khá cũ, có vẻ như đã chút tuổi rồi, nói không chừng còn lâu đời không thua gì tượng thần trong ngôi mộ này.

Vậy trước khi dùng để dán phù sinh linh vào những bá tánh, rốt cuộc mấy pho nam đồng nữ đồng này đã làm gì bên trong hầm mộ?

Mũi kiếm Tiêu Phục Huyên bất chợt khảy lên, một mảnh tượng nhỏ nảy vào trong tay y.

Ô Hành Tuyết thoáng nhìn theo, thấy bên dưới những vết cào cấu rướm đầy máu trên mặt mảnh vỡ dường như có một dấu ấn nho nhỏ, song nó đã bị huỷ hoại gần như hoàn toàn nên không còn nhìn rõ nữa.

"Đây là?" Ô Hành Tuyết hỏi một câu.

"Không nhìn rõ," Tiêu Phục Huyên dừng đoạn. "Khả năng cao là ấn thờ."

"Ấn thờ?" Ô Hành Tuyết dĩ nhiên chưa từng nghe nói đến, bèn hỏi tiếp, "Dùng để làm gì?"

Tiêu Phục Huyên: "Để thu thập hương khói thờ phụng."

Ô Hành Tuyết cười. "Thượng tiên ơi, huynh nhìn xem ta nghe có hiểu gì không?"

Tiêu Phục Huyên: "..."

Người này hiếm khi chịu giải thích cặn kẽ tỉ mỉ những vấn đề nhỏ nhặt không đáng kể này với người khác, song dưới ánh nhìn và nụ cười của Ô Hành Tuyết, y im lặng một chốc rồi tiếp tục nói, "Vốn dĩ, chúng tiên trên Tiên Đô muốn nhận được hương khói thờ phụng từ các tiên miếu dưới nhân gian, cần phải để ấn thờ trên các pho tượng thần."

Ô Hành Tuyết nhớ đến lời y kể về Vân Hãi trước đây rằng cuối cùng, vì không nhận được hương khói nữa nên Vân Hãi đã bị phế tiên vị, đẩy ngược về nhân gian.

"Nếu vậy, hương khói thờ phụng với tất cả thần tiên cũng tương tự như thức ăn với bá tánh à. Nếu không có thì không thể sống được?" Ô Hành Tuyết nói.

Tiêu Phục Huyên chỉnh lại lời chàng, "Gần như tất cả."

Ô Hành Tuyết: "Có ngoại lệ ư?"

Tiêu Phục Huyên: "Ừm."

Ô Hành Tuyết: "Ví dụ như?"

Tiêu Phục Huyên: "... Ta."

Ô Hành Tuyết "À" nhẹ một tiếng, thầm nghĩ cũng không khó hiểu. Vị này được triệu hoán thành tiên, không nằm dưới sự quản lý của Linh đài Thập nhị tiên. Hơn nữa còn chưởng về hình xá nên không có liên hệ gì với bá tánh dưới nhân gian, là ngoại lệ cũng là bình thường.

Chàng không hỏi thêm nhiều về điều đó, chỉ nói tiếp, "Dấu ấn thờ bên trên những pho tượng đồng tử đồng nữa này dùng để làm gì? Hầm mộ này nằm sâu bên dưới lòng đất, không có ai đến cúng tế, thì có thể thu nhận hương khói của ai?"

Ô Hành Tuyết nói xong, chợt nhớ đến số đèn trường minh yên ắng thắp sáng đầy vách đá ngoài kia, bỗng cảm thấy có lẽ người đã đào hầm mộ này trước đây không thả pho tượng nam đồng nữ đồng xuống với mục đích thu nhận hương khói gì cả. Nó chỉ đơn thuần đóng vai trò người bầu bạn kề bên, thầm lặng và yên ả như những ngọn đèn trường minh kia.

Bên trong quần áo rách nát của nhóm Cao Nga còn một ít nhang cúng nguyên vẹn, Ô Hành Tuyết cúi người rút ra ba cây nhang, lấy một ngọn đèn dầu bên trên vách đá rồi châm đầu nhang vào ngọn lửa, thắp bên cạnh đống vụn đổ nát kia một chốc.

Thì thấy làn khói mong manh nọ chợt tan về một hướng nào dó.

"Khói này bay đi đâu đấy?" Đệ tử tiên môn nhìn về phía này, vươn tay phủi phủi một chốc và nói. "Hiện tại trong hang đâu có gió."

"Chẳng lẽ nó đang chỉ hướng?"

Mọi người nhìn nhau, rồi lập tức nối bước đi theo hướng làn khói.

Suốt dọc đường, họ tìm thấy không biết bao nhiêu hang rỗng, tìm đến gần hai mươi pho tượng nam đồng tử và nữ đồng, bên trong pho tượng ấy đều có chứa thảm trạng thi thể của ai đó. Tất cả pho tượng đều bị trầy xước do người bên trong cào cấu, thế nên khi mở ra thấy đầy những vệt máu chằng chịt, trông vô cùng hỗn loạn.

Ở mỗi pho tượng, Tiêu Phục Huyên nhặt một mảnh vỡ, trên mỗi mảnh đều có dấu ấn thờ bị rạch nát nằm bên dưới vệt máu.

***

Đi một hồi chẳng biết bao lâu, Y Ngô Sinh mới thì thầm một câu, "Không chừng chúng ta đến chót cùng của thung lũng Đại Bi...?"

Hắn còn chưa nói hết câu, cả nhóm đã rẽ sang một nhánh theo hướng lan của khói, trước mắt họ hiện ra một mái vòm hầm rộng lớn. Y Ngô Sinh thảng thốt không nói nên lời...

Vì bên trong mái vòm hầm chất đầy tượng thần cao ngất.

Tiếng bàn tán của mấy đệ tử tiên môn thốt nhiên im bặt, họ hít sâu một hơi. Trước đây, họ từng vào những miếu tiên thông thường rồi, tượng thần trong đấy không cao đến vậy. Trước cổng vào một vài thành trấn hoặc bến cảng cũng có dựng tượng thần, cao thì có cao nhưng số lượng không nhiều thế này.

Đa số tượng thần ở nơi ấy được đẽo trên thân gỗ hoặc trụ đá, nên đây cũng là lần đầu tiên họ nhìn thấy tượng thần khổng lồ đặt san sát nhau như trước mắt. Khung cảnh này tạo ra một áp lực vô hình nhưng rất nặng nề, khiến bọn họ ai nấy im bặt, thậm chí còn không dám nhìn thẳng.

Thế nhưng họ vẫn không kiềm được lòng mà dò xem.

"Những bức tượng thần này đều lạ lẫm... giống như bức tượng đầu tiên bên ngoài hầm mộ vậy," đệ tử tiên môn tỏ vẻ kinh hãi. "Trước giờ tôi chưa từng nhìn thấy nhiều tượng thần xa lạ như vầy trong cùng một chỗ."

"Thưa tiền bối, còn ngài có biết vị nào trong đây không ạ?"

Y Ngô Sinh lắc đầu, ngẩng mặt lên nhìn, sau khi đảo một vòng qua từng pho tượng một hồi lâu thì đáp lời, "Ta không biết một ai cả."

Ninh Hoài Sam và Phương Trữ bước vào trong này liền thấy có thể ói liền tù tì ba đời ba kiếp. Mặt mũi hai người tái me tái mét, cổ họng nhộn nhạo một phen, rồi chợt nghe thấy thành chủ nhà mình cất giọng hỏi, "Trong đây mà các ngươi cũng buồn nôn à?"

Ninh Hoài Sam ép chặt miệng, ráng nuốt cảm giác trào ngược như sóng dữ trong cổ họng xuống, một lúc lâu sau mới nói, "Chúng ta không nên ói sao ạ?"

Phương Trữ khoác tay lên vai Ninh Hoài Sam, cúi gằm lưng xuống. Sau khi vất vả cả buổi, hắn trợn trừng trắng dã cả mắt, mới quay sang hỏi Ô Hành Tuyết, "Thưa thành chủ... lúc trước ta đã muốn hỏi ngài, tại sao ngài không có phản ứng gì với tượng thần cả vậy?"

Vừa nói xong hắn lại muốn oẹ ra, nhưng sợ vô lễ với thành chủ bèn vội vã chôn mặt mình trên vai Ninh Hoài Sam.

Và bị Ninh Hoài Sam cảnh cáo, "Mày mà dám ói lên người tao thì tao đếch có tha mạng cho mày đâu, thề đấy."

Ngược lại, Ô Hành Tuyết cực kỳ bình tĩnh, "Ta nào có biết vì sao không có phản ứng."

Ninh Hoài Sam nhìn chàng với gương mặt xanh mét, hồi sau mới "Ực" một tiếng và tự nhủ trong lòng, đúng vậy, thành chủ không nhớ gì cả, chắc là đã quên luôn lý do rồi, oẹ...

Đệch.

Hai người họ nhịn không nổi nữa, thả tay xuống rồi lăn ngược về phía sau.

Để lại một Ô Hành Tuyết đứng thắc mắc mãi.

Chàng tò mò quay sang hỏi Tiêu Phục Huyên, "Trước đây huynh từng nói trong hầm mộ không chỉ có mỗi mình Vân Hãi là thần tiên không thọ mệnh, phỏng chừng những vị thần trên mấy bức tượng trong này đều như vậy à?"

Tiêu Phục Huyên nhìn vào mấy bức tượng thần kia. Gương mặt y không mấy ngạc nhiên mà chỉ đơn thuần lướt mắt một vòng không ngừng. Cứ như... y biết rõ có những ai ở nơi này, nhưng vẫn đang tìm một thứ gì đó.

Đến khi nhìn hết một vòng rồi, y thu tầm mắt về và bình tĩnh trả lời, "Ừm, đúng vậy."

Thật kỳ lạ.

Ô Hành Tuyết nói thầm trong lòng, nếu những người này đều bị giáng xuống nhân gian giống như Vân Hãi, vậy họ đã không còn là tiên từ lâu.

Nếu đã không còn là tiên, lại còn bị người đời quên lãng, vậy lẽ ra những bức tượng đá này không nên có bất kỳ tác động nào lên hai tiểu ma đầu Ninh Hoài Sam và Phương Trữ.

Bởi trước đây lúc nhìn thấy bức tượng thần của Vân Hãi, họ cũng đâu có phản ứng nghiêm trọng nào.

Chàng tính nói gì đó thì nghe tiếng hô thất thanh của một đệ tử trẻ, "Trên bệ thờ này có chữ viết."

Ô Hành Tuyết thả mắt nhìn xuống, thấy phía dưới bệ đài dưới chân tượng thần có khắc chữ.

"Tang Phụng, trông coi Bất Động sơn."

"Hoặc Ca, trông coi Tuyết Trì."

"Mộng Cô, trông coi Kinh Quan."

...

Ô Hành Tuyết lia mắt từ những bức tượng thần kề sát nhau, đọc dần chữ trên bệ thờ. Bên trên ấy khắc tên huý của từng vị thần tiên và những nơi đặt dưới sự trông coi của họ.

Trong một thoáng chốc, chàng dừng chân giữa hàng tượng thần và cảm thấy dường như những người không được thọ mệnh này cũng không hề xa lạ đến vậy.

Giống như... chàng đã từng nhìn thấy những gương mặt và dáng vẻ tươi cười này, thế nhưng về sau đã không còn gặp được nữa.

"Phía sau có ấn!" Có ai đó kêu lên.

Ô Hành Tuyết bỗng nhiên choàng tỉnh, lướt mắt nhìn qua. Sau lưng hai bức tượng thần bên cạnh chàng có dấu ấn ở vị trí đối xứng với tên huý và địa điểm trông coi ở mặt trước. Ô Hành Tuyết cúi người và lia đèn dầu để nhìn rõ một chút thì phát giác những dấu ấn nọ tương ứng với dấu ấn thờ trên các pho tượng nam đồng nữ đồng.

"Đúng là dùng để thờ phụng những bức tượng thần này," Ô Hành Tuyết thấp giọng tự nhẩm, đoạn xoay đầu đếm qua và xác định bên dưới đây có vừa đúng ba mươi ba pho tượng thần không hơn không kém, hoàn toàn trùng khớp với số lượng nam đồng nữ đồng.

Dường như người đã tu sửa lại khu mộ tiên này khi xưa đã mong rằng, cho dù họ không còn là tiên nữa thì vẫn sẽ luôn có người bầu bạn qua ngày, để họ không phải chịu cảnh lặng lẽ cô đơn.

Nhưng nếu vậy thì khó lòng lý giải vì sao những bá tánh kia bị triệu hoán đến đây.

Vì sao những người kia tự nhét bản thân mình vào tượng nam đồng nữ đồng, vì sao họ lại cào xước dấu ấn thờ mặt trong tượng? Tựa như... ấn thờ đó không có tác dụng xoa dịu mà ngược lại còn khiến thứ gì đó khó chịu cáu gắt.

Trong hang vòm này không có nhiều đèn dầu, mà càng đi sâu vào trong càng u ám không nhìn rõ.

Ô Hành Tuyết thấy được lờ mờ dường như có một thứ gì đó ở phía cuối hàng tượng thần đặt san sát nhau. Nơi đó vô cùng nhạt nhoà sau những thân hình mờ ảo, chỉ nhác thấy mái vòm cong bên một góc.

Lầu các?

Dao đài?

Theo bản năng, chàng nghĩ đến những thứ mà trên Tiên Đô có thể có, có lẽ là nơi ở trước đây của những tiên nhân kia. Dầu sao trong nhân gian, người ta cũng xây những khu tương tự nhà cửa trong mộ địa.

Ô Hành Tuyết cầm đèn dầu trên tay và bước về hướng đó với ý định xem rõ rốt cuộc đấy là thứ gì. Ngờ đâu vừa nhấc chân đã bị người nắm tay kéo lại.

"Đừng bước tới."

Tiêu Phục Huyên giữ vai chàng, giọng nói trầm thấp vang lên bên tai.

"Sao thế?"

"Có trận."

"Trận?"

"Ừm," Tiêu Phục Huyên nói. "Ta vừa xem xét, ba mươi ba bức tượng thần không đặt theo vị trí ngẫu nhiên mà xếp thành một thế trận."

Vừa dứt lời, tiếng thét thảm thương đột ngột dội lên trong căn hầm tròn, "Aaaaaaa —"

Tiếng thét nghẹn ngào nghe vào bi thiết, xen lẫn cả giọng nam giọng nữ, đó là tiếng của nhóm người Cao Nga.

Khi tập trung nhìn kỹ hơn, Ô Hành Tuyết trông thấy những cánh tay cẳng chân đứt gãy của họ nhanh chóng bò về bóng đêm trước mắt như thể bị hấp dẫn bởi thứ gì đó, vừa bò vừa la hét thất thanh. Trong phút chốc, mùi máu tanh bủa ra khắp nơi.

Ô Hành Tuyết gần như thấy những tia máu bắn phụt về phía mình.

Cổ tay chàng vẫn đang bị nắm chặt nên chỉ có thể khép mắt và nghiêng đầu đi. Thế rồi chàng chợt thấy bờ vai nhẹ vẫng, bàn tay mảnh khảnh nhưng rộng của Tiêu Phục Huyên đang chắn khẽ trước chóp mũi chàng và chặn lại tia máu bắn tung toé.

Tiêu Phục Huyên rút tay về, rũ những giọt máu kia xuống một cách lạnh lùng, rồi ném một ngọn đèn dầu vào trong màn đen kia.

Trong giây lát, tiếng lửa nổ "bùm" bừng lên sáng rực màn đen, lưỡi lửa trắng hơi ngả xanh cao vút lên không như sắp chạm đến đỉnh.

Nhóm Cao Nga bị lửa thiêu đốt nên thét lên rồi choàng tỉnh, ràn rạt lùi về chứ không chui vào mảnh đen ngòm kia nữa.

Y Ngô Sinh không chút bận tâm đến lễ nghi, quát lớn giọng để át tiếng la hét của họ và hỏi, "Các người chạy về phía đó làm gì!"

"Tiếng gọi."

"Tôi lại nghe thấy tiếng gọi của thần tiên."

Cao Nga nói.

Là vị "thần tiên" đã báo mộng cho họ, nói rằng còn thiếu tiên khí ở bốn hướng đông tây nam bắc đó sao?

Ô Hành Tuyết nheo mắt lại, nhìn về phía bên kia ngọn lửa ánh xanh. Cuối cùng khi ngọn lửa dần rơi xuống, chàng đã thấy được thứ nằm bên trong mảnh đen ngòm nọ —

Đó là một lầu các được đúc bằng đá lạnh.

Đây không phải là toà tiên miếu dùng để thờ cúng thông thường mà giống như nơi ở của một ai đó, bên trong có cả trường kỷ và một bức bình phong, phía bên ngoài là lan can bằng đá và hành lang lơ lửng, trông giống một toà dao cung trên Tiên Đô, thế nhưng dao cung này được nối liền với một bệ đài cao, trên đài khắc đầy sấm ngôn.

Dù không đọc rõ được lời sấm ấy, nhưng có thể thấy trên dao cung treo một tấm biển, trên ấy hẳn có viết chữ song vì lý do gì đó không rõ đã bị xén mất. Bây giờ tấm biển ấy chỉ còn lại một góc, phần còn lại đều rơi trên mặt đất, lờ mờ thấy được một chữ "Phong".

... Toạ Xuân Phong?

"Toạ Xuân Phong."

Khi ba chữ nọ bật ra trong đầu Ô Hành Tuyết, Tiêu Phục Huyên cũng cất giọng nặng nề, thật lòng không rõ ai mới là người nói trước.

"Đây là đâu thế?" Ô Hành Tuyết lặng lẽ nhìn bậc đài cao kia, sau đó chuyển mắt sang mái vòm cong cong.

Tiêu Phục Huyên lặng thinh hồi lâu mới nói, "Phế Tiên đài."

Ô Hành Tuyết khẽ khàng "À" một tiếng.

Vậy cũng có nghĩa, những thần tiên bị phế kia đều từng đứng trên đỉnh bệ đài cao khắc đầy sấm ngôn nọ. Vì sao nơi để truất phế các vị tiên lại có tên "Toạ Xuân Phong" cơ chứ, sao mà... không đâu phụ lòng gió xuân đến vậy.

Phế Tiên đài được dựng lại ở đây mang ý nghĩa vô cùng rõ ràng là để chấn chỉnh răn đe một người nào đó.

Ô Hành Tuyết nghĩ đến căn hầm tròn có ba mươi ba bức tượng thần, so ra thì Vân Hãi cô độc ngoài kia có vẻ hơi lạc lõng.

Ninh Hoài Sam và Phương Trữ phản ứng vô cùng mạnh mẽ trước ba mươi ba bức tượng thần này, vừa nôn mửa vừa bức bối, cho thấy những bức tượng thần vẫn còn một ít tiên lực, ắt rằng lưu lại từ hương khói thờ phụng từ những nam đồng nữ đồng kia.

Song, hai người họ không có bất kỳ phản ứng gì với Vân Hãi, nói rõ Vân Hãi đã hoàn toàn bị cách tiên danh.

Trong trường hợp này, không cần nói cũng biết Phế Tiên đài đặt ở đây để chấn chỉnh răn đe ai.

Ô Hành Tuyết nhớ đến lời Tiêu Phục Huyên, nói rằng xưa kia Vân Hãi bị tà ma cắn nuốt và đã mất mạng ở thung lũng Đại Bi. Dẫn đến việc Hoa Tín mang kiếm xuống trần, tàn sát sạch sẽ tà ma bên trong thung lũng Đại Bi, sau lại dựng lên khu mộ địa này để thờ phụng tượng thần của Vân Hãi, sau nữa tiếp tục thờ phụng tượng thần của những vị khác.

Thoạt tiên, chàng có vài thắc mắc trong câu chuyện này, nếu quan hệ giữa hai người họ là thầy trò tình thâm, và Hoa Tín muốn thờ phụng ái đồ đã mất, vậy vì sao phải đặt huyệt mộ bên dưới lòng đất và không cho phàm nhân đến gần?

Bây giờ ngẫm lại... xem ra không chỉ là đơn thuần là thờ phụng.

Ánh lửa xanh rực sáng chói kia bừng bừng không ngớt, tạo thành một tấm bia chắn giữa mọi người và toà Phế Tiên đài nọ.

Bên trong ánh lửa, trông Phế Tiên đài không khác gì một nấm mồ đang nặng nề đè lên những thứ dưới hầm mộ.

Xem hiện trạng tấm biển bị đập nát kia thì ắt có người đã ra tay với ngôi mộ dưới đây.

Ngọn lửa quá chói lọi, ánh sáng toát từng luồng soi rọi cả ba mươi ba bức tượng thần khổng lồ, chiếu lên mi mắt khẽ rủ nhìn xuống của họ khiến thoạt trông cứ như đôi mắt họ đang lay động.

"Sư huynh ơi... sao đệ thấy pho tượng thần kia đang nhìn chúng ta vậy?"

"Ta cả nghĩ rồi sao? Bức tượng kia giống như đang nghiêng người xuống vậy."

"Ánh lửa chói quá."

Ánh sáng chiếu xuống khiến những rãnh đá bên dưới chân ba mươi ba bức tượng thần có chiều hướng lập loè, trông như đang khởi động một trận cục đã được thiết lập sẵn.

"Tiêu Phục Huyên," Ô Hành Tuyết nghiêng đầu sang hỏi, "huynh nói tượng thần đang bày một trận cục, mục đích trận đó để làm gì?"

Tiêu Phục Huyên nhìn những đường viền lập loè sáng tối bên dưới mặt đất, nói, "Để trấn tà ma, hoặc trấn tàn hồn."

Sau một thoáng im lặng, y nói tiếp, "Để người bên trong không bao giờ nhìn thấy ánh mặt trời được nữa."

22. ẤN THỜ

❄︎

Không riêng Tiêu Phục Huyên, mà tất cả những người am hiểu trận pháp cũng thấy được đây là một cự trận.

Phàm là cự trận, sẽ có mắt trận.

Trong mắt trận thông thường có đặt đá trận thiếu yếu nhất hoặc tấm linh phù quan trọng nhất.

Trên trận thạch luôn khắc dấu ấn ký của người lập trận, chỉ cần nhìn sẽ biết đó là bút tích của ai.

Trên linh phù ắt hẳn ghi rõ mục đích của cự trận này, nếu đây là đại trận để trấn người thì trên linh phù sẽ có tên huý của người bị trấn bên dưới để tránh ngộ thương những người khác.

Bởi vậy, một khi gặp phải trận cục, những người thuộc tiên môn đều lập thành thói quen đi tìm mắt trận đầu tiên.

Y Ngô Sinh nhìn những đường vân phát sáng đang di chuyển xen kẽ trên mặt đất và thận trọng suy xét, giây lát sau mới nhíu mày chỉ về một hướng. "Mắt trận của trận này... ở phía đó."

Các đệ tử trẻ cũng ngẩng đầu lên nhìn, thấy nơi hắn chỉ không đâu khác hơn ngoài toà Phế Tiên đài đằng sau ánh lửa xanh.

"Nơi này..."

"Nơi này có hơi lộ liễu quá, có thật là nơi đó không?"

"Thật không dám giấu giếm, ta cũng vừa thấy chỗ đấy, nhưng còn cho rằng đó chỉ là thuật che mắt."

Các đệ tử trẻ đều chưa dám tin.

Bởi vì thông thường, người lập trận có xu hướng e sợ trận cục bị phá, nên ít nhiều cũng có suy nghĩ chôn mắt trận trong một nơi bí mật nào đó nằm ngoài dự kiến của người bình thường.

Cự trận này thế mà được lập bởi phương thức hoàn toàn trái ngược — ai có đôi mắt tinh tường đều có thể thấy rằng Phế Tiên đài chính là trung tâm trận cục, người lập trận lại có thể đặt mắt trận ở nơi ấy.

Tình huống này quả thật vô cùng khó tin.

Bởi nó quá khó tin, nên họ càng không thể tin nổi, mà trái lại cảm thấy có lẽ mình thiếu sót gì đó hoặc tính sai ở đâu rồi.

Trong phút chốc ngắn ngủi, không một ai dám hành động thiếu suy nghĩ. Bởi chỉ cần thay đổi một vị trí trong trận như một mẩu đá vụn hoặc một chiếc lá cánh hoa thôi thì cũng có thể biến chuyển đến mức long trời lở đất.

"Có lẽ người lập trận đã đoán được suy nghĩ của chúng ta rồi?" đệ tử trẻ nhỏ giọng thì thầm.

Y Ngô Sinh lắc đầu khe khẽ. "Đại trận lớn như vầy không thể làm liều thế được."

Đệ tử trẻ: "Tiền bối nói rất chí lý. Nếu như người nọ cố tình dàn trận kiểu vậy thì khả năng cao đó là một kẻ có máu cờ bạc."

Y Ngô Sinh: "Thế nên ắt hẳn không phải người nọ cố ý làm như vậy, mà là không thể không làm như vậy."

Còn tại sao lại không thể không làm như vậy?

Là bởi vì vào thời điểm lập trận, linh thần người đó không tốt nên không đủ sức chống đỡ hòng bày bố nhiều tầng phức tạp và giấu mắt trận sâu hơn ư? Hay là vì lúc thiết lập mắt trận, người nọ đã bị sự cố ngoài ý muốn quấy rầy nên phải kết thúc trong vội vã?

Rầm!!!

Mọi người còn đang băn khoăn chưa nghĩ ra nguyên cớ, âm thanh dội trời chợt vang lên trong căn hầm vòm.

Rầm!!!

Lại thêm một tiếng nữa.

Bọn họ hoảng hốt giật bắn mình, ngoái nhìn về phía phát ra tiếng động thì phát hiện tiếng nện nặng nề nọ bắt nguồn từ Phế Tiên đài.

Rầm!!!

Khi tiếng thứ ba vang lên, tất cả mọi người đều nhìn thấy toàn bộ dao cung và Phế Tiên đài bất chợt nảy lên, tấm biển đứt lìa chỉ còn một góc đã rơi xuống hoàn toàn, đập vào thềm đá phía trước dao cung rồi vỡ tan thành tro bụi.

Nếu ví toà dao cung và Phế Tiên đài như một cỗ quan tài tinh xảo, thì chấn động kinh hoàng như hiện tại có thể tương tự đồ vật bị nhốt bên trong cỗ quan tài đã bất chợt tỉnh giấc và đang nện mạnh mẽ lên lớp phong ấn hòng tìm cách thoát thân.

Rầm!!!

Tiếng thứ tư vang lên, tất cả đệ tử trẻ tiên môn đều thót mình nhảy dựng!

"Không ổn! Cẩn thận!"

Họ rút kiếm ra, vào thế giương kiếm sẵn sàng nghênh đón. Vô số luồng kiếm bay trên không bao quanh người họ với mũi kiếm chĩa thẳng vào Phế Tiên đài, chỉ cần va chạm sẽ lập tức phát nổ...

Đột nhiên, gió nổi trên đất bằng, lộng vù vù vang vọng bốn phía.

Sức lực khủng khiếp cuộn qua bên cạnh mọi người, phóng thẳng về Phế Tiên đài tựa như ngàn vạn lưỡi đao sắc bén.

"Trận này!"

"Trận này đang di chuyển!"

Cự trận trong gian phòng vòm đột ngột sáng lên và bắt đầu rầm rập chuyển động đồng thời với chấn động bên Phế Tiên đài.

Thời điểm này, cự trận sẽ không màng đến mọi thứ xung quanh nữa, không quan tâm xem còn bao nhiêu người sống mà chỉ tung vô vàn những chiêu trí mạng.

Áp lực đè nặng như toà Thái Sơn dội thẳng xuống không hề báo trước!

Tiếng va chạm ầm ầm vang vọng không ngừng, dưới sức ép nặng nề, Phế Tiên đài rung động rồi bị đè dần xuống mặt đất, khung sườn bị lún sâu xuống dưới trong sỏi đá nát vụn bắn tung toé.

Song thảm thương nhất chính là con người.

"A a a —" nhóm Cao Nga thét lên thống khổ.

Tay chân đứt lìa của họ gãy nát dưới áp lực đằn xuống và bị biến dạng hoàn toàn.

Nhóm đệ tử trẻ tuổi chống hai tay trên kiếm để giữ vững cơ thể, song vẫn không tránh khỏi bị ép đến còng lưng.

Tay sư huynh bị ảnh hưởng nặng nề nhất, cúi người hộc ra một ngụm máu.

Y Ngô Sinh muốn ra tay giúp đỡ, nhưng còn không lo nổi cho bản thân mình.

Sức ép kia đè nặng khiến tàn hồn hắn chấn động không ngừng, tấm vải đen bị rách ra một đường, suýt nữa đã không che nổi mũi miệng hắn. Nếu tấm vải bị rách hoàn toàn và hơi trong miệng bị ép ra thì đến hắn cũng khó tránh chôn thân nơi này.

Vừa nhác thấy sức ép sắp bổ xuống đợt thứ hai, mọi người chợt nghe tiếng kiếm đánh vang.

Ngay sau đó, ánh sáng lướt ngang qua đỉnh đầu họ vẽ nên bóng kiếm khổng lồ như một tấm lá chắn, chặn lại sức ép bổ xuống lần hai.

Khi sức ép nọ va vào mặt trên bóng kiếm, tia lửa vàng xẹt tung toé, âm thanh dội rền toàn bộ thung lũng Đại Bi.

Bên dưới bóng kiếm, tất cả mọi người nhắm nghiền mắt theo bản năng, đến khi mở mắt lần nữa mới thấy bóng kiếm kia hãy còn sừng sững, không mảy may lay động.

Đồng thời, mấy luồng bóng kiếm giống như vậy đang đảo quanh bốn phía lấy mọi người làm tâm để giữ họ bên trong.

Chiêu trí mạng từ cự trận vẫn chưa ngơi nghỉ, nhưng những sát chiêu nọ không tiếp cận được người bên trong lớp chắn bằng bóng kiếm.

Đó là kiếm ý của Tiêu Phục Huyên.

Mấy đệ tử trẻ tiên môn đỡ lấy nhau, ho khù khụ máu từ trong cuống họng, vừa định nói "Cảm ơn tiền bối đã ra tay giúp đỡ" thì ngước mặt lên liền thấy thấp thoáng chữ "Miễn" mờ mờ bên trên bóng kiếm.

Đệ tử trẻ: "..."

Đệ tử trẻ: "???"

Họ sững sờ một lúc, mới đột ngột quay ngoắt sang nhìn Tiêu Phục Huyên, mạnh đến nỗi suýt nữa hộc thêm một ngụm máu.

Người nhỏ tuổi nhất nói khẽ, "Sư huynh, đệ vừa nhẩm lại danh kiếm phổ."

Sư huynh: "... Ai chả làm thế hả."

Các đệ tử tiên môn thường học hai quyển phổ đồ, một quyển là tiên phổ, thứ hai là danh kiếm phổ. Họ đã nhẩm đến thuộc nằm lòng rồi mà gặp thực tế mới phát hiện cũng chẳng có tác dụng gì.

Trong gian phòng vòm này có ba mươi ba bức tượng thần mà họ không biết một ai. Bây giờ đến Thiên Túc thượng tiên đứng ngay bên cạnh, mà họ cứ gọi "Tiền bối" dài "Tiền bối" ngắn hết cả buổi, đến bây giờ mới nhận ra.

"Tranh vẽ trên tiên phổ không giống một tí nào," đệ tử trẻ nói đoạn, tiếp tục lẩm bẩm, "nhưng... nhưng không phải Thượng tiên đã qua đời rồi sao?"

Không lẽ đã sống lại trong thầm lặng? Mà chết rồi còn sống lại được à?

Cậu không hiểu vì đâu, đang thắc mắc và bối rối vô cùng thì nghe thấy sư huynh cũng hoang mang không kém, "Không biết, đệ nhìn cổ y xem, không có dấu ấn chữ Miễn như trên tiên phổ."

"Chẳng lẽ không phải bản tôn?"

"Đệ hỏi ta ta hỏi ai?" Sư huynh ngẫm nghĩ đôi chút rồi nói, "Thế nhưng, nếu không phải bản tôn, sao y có thể dùng được thanh kiếm mang chữ Miễn này? Tất cả tiên kiếm đều nhận chủ."

Sau đó, họ nhìn sang chuôi kiếm bên hông Tiêu Phục Huyên, lần này họ nhìn kỹ lưỡng vô cùng và xác định quả thật chuôi kiếm này giống với thanh kiếm trong danh kiếm phổ.

Trên danh kiếm phổ có liệt kê tất cả những thanh kiếm của các vị tiên gia trên Tiên Đô, gần như thanh nào cũng có tên, trừ mỗi Tiêu Phục Huyên. Không một ai biết thanh kiếm ấy tên gì nên cuối cùng chỉ đành gọi nó bằng chữ "Miễn" trên thân kiếm.

Thế nhưng, truyền thuyết cũng kể rằng thật ra kiếm của Tiêu Phục Huyên có tên, và cái tên ấy không phải do y tự đặt.

Nhưng không một ai biết lời kể trong truyền thuyết bắt nguồn từ đâu, và cũng không biết có đúng hay không.

***

Ô Hành Tuyết nhìn bóng kiếm ánh kim đang bảo hộ quanh người, chợt không đâu mà trỗi lên ý nghĩ thanh kiếm xuất chúng như thế nên có một cái tên.

Chàng vừa tính hỏi chủ nhân thanh kiếm, đã thấy ở phía ngoài bóng kiếm, Phế Tiên đài đang chấn động kịch liệt, giống như thứ ở bên dưới mỗi lúc một cồn cào.

Đại trận chuyển dịch càng ngày càng nhanh, toàn bộ khu hầm mộ, thậm chí toàn bộ thung lũng Đại Bi đều chấn động liên hồi trong nỗ lực áp chế thứ đang bị trấn bên dưới Phế Tiên đài.

Mọi người cảm thấy đầu óc mình xoay mòng mòng. Ba mươi ba pho tượng thần chầm chậm chuyển động, họ xoay mặt về Phế Tiên đài như đang bao vây nó trong lặng lẽ.

Kế đó, khi cơn chấn động ở Phế Tiên đài đạt đến đỉnh diểm, một giọng nói mơ hồ bất chợt vọng lên khắp khu huyệt mộ. Giọng nói ấy như gió lộng qua hẻm núi và hô lên một cái tên, "Vân Hãi đồ đệ ta."

"Vân Hãi, đừng làm càn."

"Vân Hãi, bình tĩnh."

"Vân Hãi..."

...

Giọng nói nọ như tiếp sức cho áp lực của cự trận, mỗi một câu vang lên, sức ép từ cự trận lại nặng hơn một chút. Chấn động khủng khiếp trong Phế Tiên đài thình lình lặng bặt.

"Đây là giọng ai?" đệ tử trẻ tiên môn hốt hoảng hỏi.

"Minh Vô Hoa Tín..." Y Ngô Sinh là hậu nhân được tiếp nhận tiên huấn của nhà họ Hoa, chỉ nghe thoáng đã lập tức nhận ra.

Ban nãy, họ còn dự định tìm mắt trận để đoán xem người bị trấn bên dưới đây là ai.

Nhưng âm thanh vọng lên đã cho thấy không cần phải đoán nữa.

Người xưa đồn rằng Vân Hãi đã bị tà ma nuốt trọn, Hoa Tín đã đồ sát tà ma, nhưng giờ xem ra có vẻ không phải như vậy.

Mà dường như chính Vân Hãi đã trở thành tà ma, Hoa Tín giết không được, không giết cũng không xong, chỉ có thể thiết lập cự trận "vĩnh viễn không nhìn thấy ánh mặt trời" để trấn Vân Hãi ở nơi này, và phong ấn hàng trăm năm.

***

Phế Tiên đài lâm vào sự tĩnh mịch ngắn ngũi sau âm vọng "Vân Hãi đồ đệ ta", song mọi người không lơi là cảnh giác.

"Đã trấn áp được rồi sao?" đệ tử trẻ tiên môn nhìn chằm chặp vào Phế Tiên đài đằng kia, nhất thời còn không dám chớp mắt.

"Khó mà kết luận," Y Ngô Sinh nói.

"Nó rung chuyển bất ngờ như vậy là vì chúng ta bước vào đây, có phải bởi nó ngửi thấy mùi người sống nên đâm ra đói bụng không?"

"Không biết nữa, có lẽ vậy."

Ô Hành Tuyết nghe bọn họ bàn bạc, trong lòng còn đang tự suy xét thì bất chợt nghe tiếng Tiêu Phục Huyên thâm thấp nói, "Đừng nhúc nhích."

"Có chuyện gì thế?" Ô Hành Tuyết ngẩn người.

"Cúi đầu," Tiêu Phục Huyên nói.

Vị trí sau gáy là một trong những vị trí hiểm yếu trên người, không một ai dễ dàng để lộ nơi ấy cho người khác. Ô Hành Tuyết theo bản năng nheo khẽ mắt, nhưng vẫn cúi đầu xuống.

Khi ngón tay Tiêu Phục Huyên chạm vào sau cổ chàng, cơ thịt bên cổ hơi căng lại một chút. Cảm giác ấy lạ lùng khôn tả, may mà Tiêu Phục Huyên chỉ quét qua một tí rồi lập tức thu tay về.

Ô Hành Tuyết duỗi tay ra sau xoa cổ, cảm nhận được hơi ấm còn dư lại, đoạn ngước mắt lên hỏi, "Có chuyện gì thế?"

Tiêu Phục Huyên chau mày, nói, "Có dấu ấn phía sau."

Ô Hành Tuyết sượng ngón tay. "Dấu ấn? Dấu ấn thế nào?"

Nói về dấu ấn sau cổ, chàng lập tức nghĩ đến Y Ngô Sinh, Hoa Chiếu Đình, và những người bị trúng chiêu trong thung lũng Đại Bi lúc trước. Sau cổ những người nọ đều có dấu ấn, ngặt nỗi đến lúc phát hiện được thì họ đã gãi rách những dấu ấn đó nên không cách nào nhìn rõ trông thế nào được nữa.

Thật vậy, Y Ngô Sinh vừa loáng thoáng nghe được thì chạy vội về phía họ, "Dấu ấn sau cổ? Là dấu ấn giống như tôi à?"

"Đang ở trong thung lũng Đại Bi, vị trí cũng tương tự, ắt là cùng một loại," dù Ô Hành Tuyết không nhìn thấy nhưng cũng có thể đoán ra.

Bởi vậy, dấu ấn khi xưa Y Ngô Sinh nhìn thế nào cũng không thấy rõ được, giờ đây đã hiện rõ nguyên hình.

Y Ngô Sinh thảng thốt nói, "Đây là... ấn thờ!"

"Ấn thờ?" Ô Hành Tuyết hỏi. "Ý ông là dấu ấn phía sau cổ tôi giống với những dấu ấn bên trong tượng nam đồng nữ đồng à?"

"Đúng vậy," Y Ngô Sinh sững sờ một lúc lâu mới duỗi tay sờ lên vết sẹo chồng chất sau cổ mình và lầm bầm, "Hoá ra lại là ấn thờ..."

Giữa lúc nói chuyện, Tiêu Phục Huyên nhìn một lượt sau cổ những người còn lại.

Ô Hành Tuyết hỏi, "Bọn họ có không?"

"Không có," Tiêu Phục Huyên trả lời, nét mặt trở lạnh đăm đăm.

"Chỉ có mỗi ta thôi à? Bất công thế," Ô Hành Tuyết khẽ lẩm bẩm một câu, lòng chàng tự nhủ, quả thật chuyện gì người khác không làm thì chàng làm.

Nghĩ đến chuyện này, quả thật có một chỗ — dâng hương.

Chỉ có mình chàng từng lấy ba cây nhang đưa về phía những pho tượng nam đồng nữ đồng ban nãy. Dù không có ý định cúng vái nhưng về hình thức cũng xem như đã dâng hương.

Nếu nói lý do ấn thờ xuất hiện là vì dâng hương thì có thể giải thích được việc người ta bị trúng chiêu trong thung lũng Đại Bi mấy chục năm về trước. Có lẽ trước khi họ vào thung lũng, họ cầu mong có một chuyến đi thuận lợi, bèn đến miếu tiên ngoài lối vào thung lũng để dâng hương cúng vị sơn thần thung lũng Đại Bi đã sớm ra đi.

Vậy nên... vị bị trấn bên dưới lòng đất thung lũng hẳn nhiên đã thẳng thừng nạp họ vào làm tín đồ.

"Tại sao lại là ấn thờ?" có người thắc mắc hỏi. "Không phải chỉ có thần tiên cần hưởng hương khói mới dùng ấn thờ à?"

"Cùng nguyên tắc thôi," Y Ngô Sinh thẫn thờ mở miệng. "Khi thần tiên muốn dùng, hương khói thờ cúng mà các tượng thần và tiên sứ khắc ấn thờ thu được sẽ chuyển hết cho chính bản thân thần tiên. Còn trong trường hợp tà ma dùng..."

Khi tà ma muốn dùng, những thứ mà người bị khắc ấn thờ nuốt cũng đều sẽ chuyển hết cho bản thân tà ma.

Y Ngô Sinh chợt thấy tất cả những chuyện này sao mà trớ trêu quá đỗi, hắn và Hoa Chiếu Đình vật lộn cầu sinh hơn hai mươi năm, thế mà hoá ra chỉ đang đóng vai trò một pho "tượng đồng tử" cho kẻ khác, vun đắp dinh dưỡng để nuôi vị bên dưới đáy vực Đại Bi này mà không hay không biết.

"A!" đệ tử trẻ tiên môn nọ vội vã moi túi gấm và nói với Ô Hành Tuyết, "May quá, may mà chúng tôi có chuẩn bị vô mộng đan, nếu xuất hiện dấu ấn này chỉ cần ăn một viên là có thể hoá giải."

Ô Hành Tuyết nhận lấy, ngắm nghía viên đan giữa ngón tay mình một cách hiếu kỳ rồi trả lại nó cho đệ tử trẻ kia. "Ta không cần, cậu giữ lại đi, đưa ta cũng phí thôi."

"Sao lại không cần!" đệ tử trẻ tức tối. "Nếu huynh không ăn sẽ bị tà ma nhập vào người và biến thành ma đầu đấy!"

"Chỉ e là thuốc không có tác dụng mà ta cũng không biến thành ma đầu được."

"Tại sao?!" đệ tử trẻ bất ngờ.

Thì thấy Ô Hành Tuyết cười với mình một chút, "Vì ta vốn dĩ chính là thế mà."

23. THẨM VẤN

❄︎

Có người nhấn vai chàng từ phía sau và gọi, "Ô Hành Tuyết..."

Tiếng nói rất trầm và thấp vang bên tai, mang rõ ý định cảnh cáo nhưng hàm chứa chút gì bất đắc dĩ.

Ô Hành Tuyết quay đầu lại, bắt gặp hàng mày sắc trên gương mặt đang nghiêng của Tiêu Phục Huyên. Chàng chợt thấy may mắn thay khi vị Thiên Túc thượng tiên này không thường xuống nhân gian, bởi chỉ bằng gương mặt này thôi thì dù ít nói kiệm lời cũng có thể dụ dỗ không biết bao nhiêu cô nương.

Vừa thoáng động tâm, chàng chợt hỏi, "Ta nói sai sao?"

Tiêu Phục Huyên nhướng mi.

Ô Hành Tuyết lại nói, "Thân thể này của ta vốn là tà ma, còn gây ra vụ mấy thứ kia hành hương ở nhà họ Hoa. Thiết nghĩ ắt là không dễ bị tà ma nhập vào đâu nhỉ, dù gì cũng là thể xác đại ma đầu cơ mà. Vô mộng đan không dễ tìm, bớt dùng viên nào đỡ viên nấy, Thượng tiên huynh thấy thế nào?"

"..."

Thượng tiên không có thấy gì cả.

Tiêu Phục Huyên liếc nhìn đôi môi hấp háy liên hồi của chàng, quay mắt sang chỗ khác và đứng thẳng người dậy, phỏng chừng hết muốn nói gì.

Kết quả Ô Hành Tuyết lại nhỏ giọng bồi thêm một câu, "Với lại, huynh doạ tiểu đệ tử nhà người ta rồi kìa."

Tiêu Phục Huyên: "?"

Thật khó diễn tả biểu cảm của Thiên Túc thượng tiên khi nghe được lời này, bởi Ô Hành Tuyết còn mỉm cười...

Nhưng các đệ tử trẻ tiên môn đã phát rồ.

Riêng câu trước "Ta chính là tà ma" còn chừa cho chàng một đường sống. Đến khi Tiêu Phục Huyên thêm vào một cụm "Ô Hành Tuyết" đã thẳng thừng tiễn bay chàng về nơi xa luôn.

Đám đệ tử trẻ nghe được ba từ này chỉ thấy rạn cả đầu, sấm sét ầm ầm, hồn bay phách lạc.

May mà cạnh họ còn có một Y Ngô Sinh nhẫn nhịn hết nổi.

Sau sự vụ bị Tiêu Phục Huyên chọt kiếm vào người và bắt "Nuốt ngược vào", vị tiên sinh này đã luyện ra một bộ lý lẽ hùng biện vô cùng thuyết phục. Thường ngày hắn dùng để tự nhủ trong lòng, giờ đây có thể đem ra an ủi người khác.

Hắn đỡ các đệ tử trẻ, kể lại một mạch câu chuyện "Đại ma đầu đã bị thương nặng nề cỡ nào ở Thương Lang Bắc Vực, sau đó bị linh hồn một người vô tội nhập vào ra sao".

Đệ tử trẻ nghe mà nửa tin nửa ngờ. Họ tính hỏi kẻ như Ô Hành Tuyết sao lại có thể bị một người phàm mắt thịt nhập thể thì nghe được tiếng vang răng rắc.

Âm thanh kia chấn động cả thung lũng rộng lớn, khiến mọi người đồng thời ngước mặt.

Phế Tiên đài yên mình trong tĩnh lặng thình lình xuất hiện vô số vết nứt, tựa chừng thứ bị trấn bên dưới chịu dồn ép lâu năm, giờ đây bùng nổ một kích mãnh liệt.

Tà khí đen ngòm bủa ra từ các vết nứt khiến đệ tử tiên môn bất giác rùng mình, nổi da gà khắp người một cách thiếu kiểm soát.

Nền đất chỗ đám Cao Nga rung động rầm rập, xương cốt gãy vụn theo đó nảy lên va vào nhau phát ra tiếng lách cách.

Gian phòng tròn tức thì trở lạnh, ai nấy đều như rơi vào hầm băng.

"Trận à? Sao trận này hình như... bất động?" Đệ tử trẻ lầm bầm, ngoái mặt nhìn ba mươi ba pho tượng thần theo bản năng.

Bấy giờ, cậu ta mới phát giác gian phòng tròn này im ru không biết tự lúc nào, những tiếng vọng "Vân Hãi đồ đệ ta" của Minh Vô Hoa Tín đã bặt âm.

Áp lực nặng nề chất chồng lên nhau tầng tầng lớp lớp dường như đã tiêu hao sạch sẽ chút tiên lực chót cùng của cự trận này.

Trên mặt đất, ánh sáng cự trận dần mờ đi, trận văn vận động không ngừng cũng biến mất.

Kế đó, tiếng vỡ vụn không ngừng vang lên.

Nhóm đệ tử trẻ bất chợt nhìn về Phế Tiên đài, họ tưởng nơi đó sẽ nứt rạn trước tiên. Để rồi phát hiện, âm thanh nọ không bắt nguồn từ Phế Tiên đài mà đến từ... tượng thần.

Ai nấy nhìn về hướng phát ra âm thanh thì thấy vết nứt khổng lồ xuất hiện trên thân những pho tượng thần đặt san sát nhau.

Ô Hành Tuyết liếc nhìn thật nhanh, nhận ra vết nứt kia chạy từ ấn thờ trên bàn thờ của họ và lan rộng lên đỉnh đầu.

Rầm rầm —

Tượng thần đầu tiên vỡ vụn và sụp đổ.

Rầm rầm —

Pho thứ hai.

Theo sau là pho thứ ba, thứ tư, thứ năm...

Mỗi một bức tượng to lớn nhường này sụp đổ đều chấn động toàn bộ núi rừng, huống hồ có đến bấy nhiêu đây bức.

Trong phút chốc, cả căn phòng tròn phủ ngập bụi đất, đá vụn bắn tung khắp nơi. Nếu không nhờ bóng kiếm của Tiêu Phục Huyên che chở thì e là tất cả mọi người đã bị chôn sống dưới đất đá.

Chỉ một giây lát mà toàn bộ ba mươi ba pho tượng thần đổ nát gần như không còn lại gì.

Nhìn qua màn khói bụi, Ô Hành Tuyết thấy chỉ bốn bức tượng vẫn còn đứng nguyên vẹn, dù cả bốn đều tràn đầy vết nứt. Có vẻ chúng chỉ còn giữ một chút thăng bằng mong manh.

"Vừa đúng bốn bức, không hơn không kém..." chàng lẩm bẩm.

Khi này, khói bụi hẵng còn mịt mù nên khó lòng nhìn rõ. Nhưng chàng đoán chừng bốn bức tượng đó là hai nam hai nữ.

Thật vậy, viên đệ tử tiên môn đứng đằng trước hô to tên của những tượng thần còn lại rồi bảo "Hai vị nam tiên, hai vị nữ tiên."

Ô Hành Tuyết nhìn thoáng qua bốn người trong nhóm Cao Nga, cuối cùng cũng hiểu vì sao những bá tánh kia lại bị "triệu hoán".

Những pho tượng nam đồng nữ đồng dưới hầm mộ ứng với ba mươi ba bức tượng thần, mỗi pho đồng tử phụng dưỡng một bức, họ dâng tiên lực hòng duy trì sự vận động của cự trận.

Tượng thần một ngày chưa ngã, cự trận một ngày chưa ngưng, Vân Hãi bên dưới Phế Tiên đài một ngày chưa an nghỉ.

Bởi thế Vân Hãi đã "triệu hoán" những bá tánh kia.

Những người phàm vô tội phải gánh chịu hành hạ khốn đốn đến chết, rồi bị phong ấn vào tượng đồng nam đồng nữ, lẽ hiển nhiên sẽ mang oán khí sâu nặng. Oán khí đó đi vào ấn thờ đặng phụng dưỡng ba mươi ba bức tượng thần này...

Một khi thần tiên nhiễm mình trong sự giết chóc và tà oán oan nghiệp thì tiên lực có thể duy trì được bao lâu?

Huống hồ, ba mươi ba vị này vốn là tiên bị phế, e là tiên lực còn lại trên thân tượng hoàn toàn nhờ Hoa Tín để lại trước đây. Mỗi lần bị trấn áp, tiên lực kia lại tiêu hao bớt một ít, cộng thêm tà oán bào mòn thì sớm hay muộn cũng sẽ sụp đổ thôi.

Có lẽ, tiếng "Vân Hãi đồ đệ ta" vang vọng khi nãy chính là lần trấn áp chót cùng.

Sở dĩ còn bốn tượng thần chưa bị sụp đổ là nhờ có người báo mộng cho nhóm Cao Nga, họ thoát ra khỏi tượng nam đồng nữ đồng khiến tà oán phụng dưỡng tượng thần cũng vơi đi nhiều ít.

Lúc trước, khi họ nghe Cao Nga nói "có thần tiên báo mộng", mọi người còn nghĩ vị thần tiên kia chẳng tốt lành gì. Mà giờ ngẫm lại, người đã nói họ "trần duyên chưa dứt" và nói nơi đây "thiếu phần tiên khí" có lẽ chính là thần tiên chân chính, là người muốn tận sức cứu vãn cự trận sắp sụp đổ này.

Ô Hành Tuyết nghĩ đoạn, cảm giác vị tiên báo mộng kia có lẽ chính là Minh Vô Hoa Tín.

Mọi người vừa định mở lời, song tình thế chẳng cho họ cơ hội —

Bốn bức tượng thần còn sót lại không đủ sức chống đỡ đại trận, sau khi gần hết tượng thần đổ nát, Phế Tiên đài cũng đột ngột phát nổ và vỡ tan tành trên mặt đất.

Mặt đất nứt ra một cái huyệt mộ sâu hoắm, không ai trông rõ người nằm dưới hố là ai. Họ chỉ thấy tà khí đen như mực đang cuộn vào lẫn nhau và ngùn ngụt trào ra ngoài.

Tà khí trông chẳng khác gì bầy rắn lổm ngổm đang duỗi vô vàn đầu rắn ra, nhe cái miệng khổng lồ để lộ răng nanh và chồm người về trước...

"Cẩn thận..."

Y Ngô Sinh thét lên.

Thế nhưng hắn đã chậm, mấy đệ tử trẻ tu luyện chưa lâu, bị mắc phải luồng tà khí lồng lộng kia thì chẳng khác nào những cái xác biết cử động, tự mình bước ra bên ngoài bóng kiếm đang che chở họ.

Ngay sau đó, tà khí đột ngột ập đến như một đàn mãng xà!

"Aaaaaaaaa!"

Tiếng thét kinh hãi vang lên, mấy đệ tử trẻ bị cuốn vào luồng tà khí đen kịt.

Họ rút kiếm trong hoảng loạn, mấy chục lưỡi kiếm sáng choang trắng rỡ vụt ra từ trong màn khí đen nhưng chỉ đánh thẳng lên trời chứ chẳng chém được gì.

Có lẽ người nằm dưới huyệt mộ đã đói rã rời, chỉ vừa vung tà khí bắt được ba người sống đã lập tức muốn lôi họ xuống huyệt.

Ngay khi tiếng sấm nổ đoàng, trường kiếm bên hông Tiêu Phục Huyên tức khắc rời vỏ, chuôi kiếm bật lên trong tay y, mũi kiếm thân dát ánh vàng xoay vòng trên không trung và vẽ nên một đoá hoa kiếm khổng lồ.

Năm ngón tay đặt trên tay cầm màu bạc, y lạnh lùng nhấn mạnh...

Kiếm ý ngút ngàn đổ dập về như núi thét biển gào, lưỡi kiếm lạnh lẽo giương cao hàng chục trượng rồi hiên ngang chém xuống với công lực tựa ngàn quân.

Một nhát kiếm tưởng chừng xé biển.

Tà khí che trời lấp đất bị xẻ làm đôi, bất chợt thả lỏng khiến mấy đệ tử trẻ té huỵch trên mặt đất. Họ nháo nhào quơ lấy kiếm của mình, chỉ kịp nghe một tiếng "Đi" lạnh lùng đã thấy một luồng kim quang quét ngang tới, đẩy ngược cả người lẫn kiếm vào lại bên dưới bóng kiếm kia.

Bọn họ ngoái đầu nhìn liền thấy tà khí ngút trời vừa thả lỏng đã điên cuồng tụ lại lần nữa, chúng phồng ra kín mít cả hầm mộ, còn Thiên Túc thượng tiên cầm kiếm trên tay một cách lãnh đạm và tung mình vào màn đen vô tận.

"!!!" Ai nấy đều tái mét mặt mũi, kinh hãi nấc lên theo bản năng.

Song ngay giây kế tiếp, họ đã thấy vô số luồng sáng vàng rực ngân vang tiếng kiếm đâm thẳng ra ngoài từ sâu trong tà khí đen ngòm vô tận.

Hệt như vầng dương chói lọi xuyên xé mây mù.

Thanh kiếm với danh tự "Miễn" kia phóng thẳng lên cao, đâm thủng tà khí vươn ra ngoài rồi lập tức chém xuống một cách tàn nhẫn.

Mũi kiếm chạm mặt đất, toé ra vô vàn tia lửa điện bao bọc trong gió rét và sương giá, dưới cái lạnh và cái nóng cực độ giao hoà, toàn bộ tà khí bị quét bay không còn tăm hơi.

Ô Hành Tuyết trông thấy Tiêu Phục Huyên nắm chuôi kiếm, chống một gối phía trước huyệt mộ.

Chàng bước ra khỏi bóng kiếm bảo hộ, bỏ ngoài tai mọi lời khuyên ngăn của các đệ tử trẻ mà bước đến trước.

Tà khí đen kịt tản ra để lộ người nằm bên dưới huyệt mộ.

Đó quả thật là Vân Hãi.

Hắn giống tượng thần bên ngoài kia đến mức có thể đoan chắc người đặt bức tượng thần bên trong hầm mộ là một người vô cùng thân thuộc với hắn.

Bức tượng thần được điêu khắc bằng đá nên có màu xám trắng, mà so ra trông hắn còn cô tịch hơn khối xám trắng kia. Gương mặt này nếu khoác thêm thần thái, điểm chút hồng hào thì hẳn là một nam nhân muôn phần anh tuấn.

Song giờ đây, mái tóc dài thượt rũ rượi trên mặt, dây leo quấn chằng chịt quanh người, quần áo đen kịt chẳng khác nào tà khí vởn quanh tứ phía, rốt cuộc chẳng còn lưu lại cho hắn dáng vẻ một người đã từng sinh sống tại Tiên Đô.

Dây leo cuộn bò lên tận cổ hắn, có một nhánh cây vươn dài nối liền đoá hoa thật to nhưng sớm héo tàn trên đầu cành, đoá hoa nọ vừa khéo che đi nửa mặt hắn.

Ô Hành Tuyết duỗi tay muốn vén đoá hoa kia ra một chút nhưng bị Tiêu Phục Huyên nắm lại.

Có điều động tác nọ đã nổi gió khiến đoá hoa kia lung lay đôi chút...

Giữa những phiến lá đung đưa, nửa gương mặt bị che khuất của Vân Hãi thoáng hiện ra.

Ô Hành Tuyết chau mày.

Nếu nửa gương mặt bên ngoài của hắn mang phong thái anh tuấn của tiên nhân, thì nửa bên này có phần hơi đáng sợ — nó rướm đầy vết thương, trông thật quỷ mị.

Không biết lẽ gì đã biến hắn thành như thế này.

Và càng không biết năm xưa, Hoa Tín đã cảm thấy ra sao khi mang theo kiếm bước vào thung lũng Đại Bi và trông thấy đồ đệ của mình ra nông nỗi.

Thanh kiếm của Tiêu Phục Huyên chợt rung lên, y rút nó ra khỏi đá và đâm ngược trở lại.

Giữa chấn động từ kiếm ý, tất cả mọi người ở đây nghe thấy âm vang lanh lảnh như tiếng chuông truyền khắp thung lũng. Chỉ đánh một tiếng cũng khiến các đệ tử trẻ tiên môn ôm đầu thụp người xuống.

"Đây là tiếng gì vậy?!" Họ đứng sát nhau mà thậm chí không nghe được tiếng người bên cạnh, thiếu điều phải hét to lên.

Y Ngô Sinh gõ lên trán họ trấn an một chút thì ba người mới bình tĩnh lại.

Xong xuôi, hắn nhìn chuôi tiên kiếm rung động không ngừng của Tiêu Phục Huyên và nói, "Đó ắt là... thẩm vấn."

Truyền thuyết kể rằng, khi Thiên Túc thượng tiên giáng hình sẽ thay trời khảo linh, thẩm vấn tà ma từ đâu mà đến.

Vì thế, giữa âm thanh vang rền không nghỉ của thanh kiếm và sương đen khắp lối, khung cảnh mấy trăm năm trước hiện ra trước mắt mọi người.

24. VÂN HÃI

❄︎

Mấy trăm năm về trước, ở nhân gian vẫn còn Vương Đô, nơi ấy nằm bên cạnh Thái Nhân tiên sơn.

Nơi quan trọng nhất tại Vương Đô có tên Vấn Thiên Liêu, được dùng để cúng bái Linh đài Thập nhị tiên, phụ trách bói thiên cơ và có mối quan hệ mật thiết với các tiên môn cường thịnh đương thời.

Trông coi Vấn Thiên Liêu là hai vị Tả Hữu đại liêu sứ, phụ thân của Vân Hãi là một trong hai vị đó.

Công việc này vừa oai phong vừa nguy hiểm, nó khiến người khác ngưỡng mộ và cũng làm bao người đố kỵ. Những lúc tốt đẹp thì huy hoàng bậc nhất, mà lúc tệ lậu lại tan cửa nát nhà.

Vân Hãi gặp Minh Vô lần đầu tại phủ dành cho khách bên trong Vấn Thiên Liêu.

Khi đó hắn vẫn còn nhỏ, lại được nuông chiều từ bé nên xem Vấn Thiên Liêu như căn phủ thứ hai của gia đình và vẫn thường đùa giỡn trong sân vườn bên ngoài hành lang khách phủ.

Hôm nọ, hắn đuổi theo một chú chồn thông và rẽ gấp qua khúc cua hành lang, suýt nữa đã đụng trúng một vị khách vãng lai.

Giữa lúc hớt hải, một cơn gió lộng lên từ hư không chắn ngang trước mắt, kế đó có bàn tay đỡ trán hắn đang chúc về phía trước.

Những người có trách nhiệm chăm sóc hắn hô to "Cẩn thận" rồi nháo nhào chạy đến. Họ bế vội hắn lên và lùi về sau mấy bước, tiếp đến cúi đầu với vị khách kia theo một tác phong vừa kiêng dè vừa kính sợ.

Chỉ mỗi Vân Hãi không biết sợ là gì, còn tò mò ngẩng đầu nhìn.

Hoa Tín hôm đấy khoác dáng vẻ người thường chốn nhân gian, không dắt theo huơu trắng như trong tranh và tay cũng không nâng đèn chiếu thế. Trang phục hắn chỉ thuần một màu trắng giản đơn, tóc buông dài vén lên ngẫu nhiên và được cắm xéo qua bởi một cây trâm gỗ chưa khắc hình.

Đây là phong cách thường gặp nhất của người đi đường trên phố xá Vương Đô, thế mà vẫn khiến người nhìn ngẩn ngơ.

Đến khi Vân Hãi hoàn hồn, Hoa Tín đã đi đến cuối ngã rẽ hành lang và bước chân vào khách đường, bóng bạch y lướt trên ngưỡng cửa cao cao, thoắt cái đã mất dạng.

Vân Hãi ngoái đầu, ngẩng mặt hỏi người chăm sóc mình, "Đó là ai thế?"

Họ chỉ ậm ừ nhè nhẹ rồi bế hắn rời khỏi khách đường, khi ra đến góc sân sau hành lang mới nhỏ giọng đáp, "Đó là tiên hữu của đại nhân."

Thuở đó Vân Hãi còn hiểu chuyện còn chưa bao nhiêu, chứ nói chi đến các quy củ giữa tiên và phàm. Hắn chỉ ngây ngô nghĩ rằng: Thần thông quản đại được gọi là "tiên", người có quan hệ thân thiết được gọi là "hữu".

Thành thử, hắn đinh ninh vị "Tiên hữu" nọ chính là người thế đấy, để rồi sau mới ngỡ ra người nọ vài năm mới xuất hiện một lần.

***

Lần thứ hai Vân Hãi trông thấy Minh Vô Hoa Tín, đã sáu năm trôi qua.

Khi đó, Vương Đô chìm trong loạn lạc và chướng khí mịt mù, người phụ trách Vấn Thiên Liêu đã đổi từ lâu. Phụ thân hắn bị kẻ lập mưu hãm hại, hơn một nửa gia nhân trong phủ đều mất mạng, chẳng mấy chốc mà cả phủ đệ huy hoàng đã hoá tan tác.

Tuổi hắn vẫn còn nhỏ lắm song đã mang danh con trai tội nhân, dẫn đến hệ quả không được phép dùng tên họ gốc của mình nữa. Hắn đi theo một nhóm lưu dân di cư về nam, chật vật một đường đến được Ngư Dương.

Ngư Dương bấy giờ lo ngại hoạ loạn lan đến nên vội vã phong thành, lưu dân tiến thoái lưỡng nan rồi chỉ đành sống tạm bợ trong miếu hoang ngoài sơn dã.

Đợt rét đậm năm đó lạnh lẽo cùng cực, quá nửa số lưu dân chẳng chống cự qua nổi một tháng. Thế nên, trong căn miếu hoang chốn sơn dã kia chất ngập xác chết nằm thành tụm năm tụm ba, oán khí nặng nề, dẫn về không ít các loại tà ma âm sát.

Căng mình gắng sức hết mùa đông, đã chẳng còn bao người sống sót bên ngoài sơn dã.

Vân Hãi chính là một trong số người còn lại.

Ngày hôm đó, hắn cưỡm đoạt thức ăn từ tay một sinh vật tính âm đã tàn phế nửa thân, kéo lê một bên cẳng chân bị con vật tính âm đó đánh gãy, ôm lấy mắt trái bị cào rách của mình và trốn trong một hang núi.

Hắn cuộn người ở phía sau vách đá, chùi sạch máu me quanh mắt, nắm chặt miếng thịt không rõ ngọn nguồn trong tay rồi há miệng toan cắn. Bất chợt từ trong sơn cước rét lạnh, một ánh đèn rọi tỏ giữa màn đêm.

Vân Hãi đã tập thành thói quen, không cần biết đó là người phương nào vật nơi đâu đã nhanh chân nhổm dậy muốn bỏ trốn.

Nhưng ánh đèn kia đến quá nhanh.

Hắn còn chưa kịp chạy một bước thì người nâng đèn đã đứng trước mặt.

Vân Hãi còn nhớ rõ gương mặt ấy, tuy hắn chỉ gặp qua một lần, tuy hắn không nên ghi nhớ sâu đậm, thế mà hắn thật sự nhớ rõ. Dù đã cách sáu năm ròng nhưng chỉ thoáng nhìn đã nhận ra.

Người ấy không phải ai khác mà chính là vị khách vãng lai tại Vấn Thiêu Liêu năm nào, là vị tiên hữu của phụ thân.

Vân Hãi ngước mắt nhìn người nọ, động tác giống hệt khi còn bé thơ.

Chẳng qua khi xưa, hắn mở to đôi mắt tròn xoe đầy vẻ tò mò, còn giờ đây đã mù một mắt, mang theo nửa thân thể đầy máu và gương mặt chết lặng.

Hắn lếch cánh chân gãy, quỳ xuống ngồi phía sau tảng đá lạnh lẽo, giương mắt nhìn người mà mình từng kinh hồng một thoáng năm xưa và nghe đối phương mở miệng nói, "Ta được người gửi gắm đến đón con."

Giọng nói ấy thật êm tai, xuyên qua sương mù đêm lạnh mà rơi xuống như cơn gió ấm nồng kề cận.

Phàm nhân quá đỗi lạ kỳ. Gia phủ tan thương không khóc, sống đời khất cái lưu dân không khóc, chịu đông rét chịu đói khát không khóc, gãy chân mù mắt cũng không khóc...

Thế mà nghe người nói câu "Ta đến đón con", hai mắt đã đỏ bừng.

Vân Hãi siết chặt tảng thịt chết trong tay với gương mặt vô cảm và đôi mắt hoen đỏ nhìn Minh Vô Hoa Tín.

Khi thấy đối phương đưa tay về phía mình, hắn bất ngờ bùng nổ, nắm chặt lấy bàn tay từng đỡ trên trán mình mà há miệng cắn mạnh xuống.

Hắn cắn rất mãnh liệt, chỉ trong giây lát mà thoáng chừng ngửi được mùi máu trong miệng. Miệng nồng mùi máu, hắn phẫn nộ đay nghiến trong lòng: Không phải người là tiên hữu ư? Nếu đã là "hữu" thì khi cha ta bị mưu hại người đang ở đâu? Khi cha ta bỏ mạng người đang ở đâu? Khi tan cửa nát nhà thì người đang ở đâu?!

Là ai gửi gắm cho người, vì cớ gì giờ lại đến đón ta?!

Dù hắn chỉ uất hận trong lòng thôi nhưng đối phương dường như nghe được tất cả.

Sau một lúc lâu, chất giọng bùi tai kia vang trên đỉnh đầu hắn, "Linh đài có thiên quy, ta không thể nhúng tay vào sự vụ dưới nhân gian."

Giọng nói ấy dịu dàng và ngọt ngào nhưng lại không vương xúc cảm sâu đậm — không có bi ai khi bằng hữu qua đời, không có áy náy bất lực khi khoanh tay đứng nhìn, thậm chí chẳng nghe được chút nào tiếc thương, tưởng chừng chỉ là một con người mang ý chí sắt đá.

Song mãi hồi lâu sâu, Vân Hãi mới nhận ra: Tiên nhân vốn thần thông quảng đại, sao có thể bị hắn cắn mạnh vào tay, và càng không thể bị hắn cắn đến chảy máu ồ ạt.

Người kia có thể ngăn cản nhưng đã không can ngăn, người kia đang cho hắn cơ hội cắn xé cho hả giận.

Nghĩ đến đây rồi, cuối cùng hắn cũng dần nhả miệng ra.

Hoa Tín không lau đi vết thương rách miệng và máu tươi trên da, mà chỉ cúi người kiểm tra con mắt bị thương và cẳng chân gãy của hắn rồi nói, "Đi thôi, ta dẫn con về trị thương."

Vân Hãi né đầu mình khỏi tay người kia, khàn giọng cất lời, "Không đi được."

Hoa Tín không mảy may để tâm đến lời chống cự của hắn, còn hơi ngạc nhiên hỏi, "Lưỡi vẫn còn à?"

Vân Hãi, "..."

"Ta còn tưởng không nói được nữa rồi." Hoa Tín nói, đồng thời khẽ nhấc tay.

Một con hươu trắng phóng ra từ cánh rừng phía sau, Hoa Tín đặt Vân Hãi trên lưng hươu và dẫn hươu xuống chân núi.

Dường như sợ bị té ngã, Vân Hãi vừa ngồi lên lưng đã trơ người ra, chỉ có thể ngoan ngoãn dựa vào phía trước và nghe Hoa Tín hỏi, "Con bao lớn rồi?"

Vân Hãi thầm cười gằn: Đến cả những việc này còn không biết tí gì mà dám xưng là "Tiên hữu".

Hoa Tín vẫn giữ vẻ bình tĩnh, "Thời gian trên Tiên Đô rất chậm rãi nên ta không nhớ những việc ấy đâu."

Vân Hãi: "Mười một."

Hoa Tín hỏi tiếp, "Thế tên thì sao?"

Vân Hãi lại cười gằn trong lòng cái nữa.

Hoa Tín nói, "Sau này con không cần tên tục ấy nữa, nếu lấy theo danh Vân thì cứ gọi con là... Vân Hãi đi."

Vân Hãi: "..."

Đã lâu hắn không nhắc đến tên họ của mình nên cũng sắp quên mất thật rồi. Song, khi nghe Hoa Tín nói vậy vẫn khiến trong lòng trỗi lên đau khổ mà cơ thể chẳng cách nào nhúc nhích được, hắn bèn nhắm mắt lại.

Từ đó về sau, hắn tên là Vân Hãi.

***

Phàm nhân không thể lên toà tháp ba mươi ba tầng trên Thái Nhân tiên sơn nên tất nhiên không cách nào bước đến Tiên Đô.

Khi Hoa Tín nói "Dẫn con về trị thương" ý là sắp xếp cho hắn đến nhà họ Hoa.

Người ta gọi là "sắp xếp", nhưng trong mắt Vân Hãi, đó chẳng qua là quẳng hắn vào nhà họ Hoa.

Nhà họ Hoa năm đó chưa đến Đào Hoa châu, đệ tử môn hạ chưa đông đúc như sau này nhưng cũng đã cực kỳ hưng thịnh.

Đa số đệ tử nhà họ Hoa nhập đạo bằng kiếm, chỉ có một số ít tu về y thuật. Song dù là tu theo đường nào đi nữa thì cũng có đầy công việc và bài vở hàng ngày.

Chỉ riêng mỗi Vân Hãi vừa không có kiếm riêng mà cũng không có phương thức luyện đan để thực tập nốt.

Sau khi dưỡng lành mắt và chân, hắn ta đã rảnh rỗi đến phát điên, ngày ngày chạy long nhong khắp các toà đường trong nhà họ Hoa. Hắn hỏi gia chủ nhà họ Hoa rồi hỏi sang các vị đường trưởng lão là mình nên luyện gì thì tốt? Hoặc hỏi chừng nào hắn mới có thể sở hữu thanh kiếm cho riêng mình?

Thế mà từ gia chủ cho đến trưởng lão đều ngợi khen tư chất hắn là dạng trăm năm hiếm thấy, có kỳ tài ngút trời, căn cốt tuyệt hảo, đồng thời thoái thác nói rằng hắn là đồ đệ do đích thân Tiên thủ Linh đài là Hoa Tín nhận về nên họ không thể thay thế Hoa Tín để dạy dỗ hắn, bởi làm thế là vượt quá giới hạn, và kết luận rằng hắn nên chờ vị tiên đến tự truyền dạy.

"Vậy người kia phải đến dạy con chứ!" Vân Hãi thốt.

Gia chủ và trưởng lão đều không thể trả lời mà chỉ đành cười trừ.

Sau năm lần bảy lượt như vậy, Vân Hãi đã chán ngán việc tự vấn bản thân và không thắc mắc gì vấn đề này nữa. Thỉnh thoảng thấy đệ tử khác luyện kiếm, hắn sẽ đứng nhìn một chút. Rồi khi đệ tử luyện đan hắn cũng xem qua vài lần.

Nhưng phần lớn thời gian, hắn lòng vòng trong Tàng Thư các.

Trong Tàng Thư các có lưu giữ tượng thần và tranh chân dung của Hoa Tín. Lâu lâu, hắn đọc một quyển sách nào đấy thấy được, bèn thẫn thờ trước bức ảnh ấy cả ngày, lòng mang một nửa ngẩn ngơ một nửa trách cứ.

Tuổi trẻ thiếu niên khí phách hào hùng, sao có thể chấp nhận bị bỏ rơi.

Chưa kể, hắn thật lòng rất muốn nhanh chóng học hỏi và gầy dựng tên tuổi...

Hắn cứ lẩn thẩn như thế hai năm mà không rõ nguyên cớ, ngẩn người đến vô cảm rồi mới gặp được Hoa Tín lần nữa.

Tưởng chừng Hoa Tín đã quên bẵng đi người đồ đệ duy nhất này, hôm đấy hắn đến nhà họ Hoa cũng không phải để tìm Vân Hãi. Song, Vân Hãi tuyệt nhiên không từ bỏ cơ hội và tìm cho bằng được Hoa Tín trước khi người kia đi mất.

Đầu tiên, Vân Hãi ngoan ngoãn gọi một tiếng "Thưa sư phụ" xong xuôi mới hỏi, "Tất cả đệ tử trong môn phái đều được tu luyện, chỉ mỗi mình ta ngoại lệ. Không biết có phải sư phụ đã hối hận vì đưa ta về đây không? Nếu thật là thế, mong sư phụ đừng ngại cho ta hay, để ta tự giác rời khỏi đây là được."

Hắn đã được nuông chiều từ tấm bé, trên người luôn mang chút gì kiêu ngạo. Về sau lưu lạc đầu đường xó chợ làm ăn mày lưu dân đã bổ sung đôi phần nhạy cảm đầy sắc bén. Khi này tuổi hắn vẫn còn trẻ, cả hai nét kiêu ngạo và nhạy cảm đều hiện rõ trên mặt chẳng chút nào giấu giếm.

Hoa Tín vốn không tính trả lời, nhưng thấy vẻ mặt hắn như vậy hồi lâu thì vẫn đưa ra một lời giải thích, "Căn cốt của con quả thật tuyệt hảo, hiếm gặp trên thế gian. Nếu con thật lòng muốn nhập đạo, ắt nhiên dễ dàng phi thăng thành tiên hơn những người khác rồi. Như vậy không cần gấp gáp chi đâu một hai năm."

Vân Hãi hỏi, "Không cần gấp gáp một hai năm tức là bao lâu nữa?"

Hoa Tín đáp, "Chờ đến lúc thích hợp để con cầm kiếm."

Vân Hãi vẫn không từ bỏ, "Vậy tại sao hiện tại không thích hợp?"

Mãi lâu về sau, Vân Hãi hãy còn nhớ rõ ánh mắt Hoa Tín nhìn mình trong khoảnh khắc ấy, ánh mắt thật tĩnh lặng mà tựa như thấu tỏ hết thảy. Hoa Tín nói, "Vì hiện tại con vẫn luôn nghĩ đến việc giết sạch những người đã mưu hại phụ thân con, con muốn họ phải chịu đựng mọi điều tra tấn, muốn nợ máu phải trả bằng máu."

Vân Hãi lặng thinh.

Một lúc sau, hắn mới nói, "Sư phụ thật anh minh thông tuệ, mắt người sáng tựa ánh đuốc. Ta xác thật có nghĩ như vậy. Thế nhưng chẳng lẽ ta không nên nghĩ vậy ư? Chẳng lẽ tu hành là phải không yêu không hận, không thù không oán, chẳng lẽ ta phải giống như ngài, có thể bình tĩnh nhìn những người kia sống lâu trăm tuổi ư?"

Hoa Tín không đáp lời.

Vân Hãi vẫn nhìn hắn đau đáu, nhìn đến mức đỏ bừng hai mắt, chẳng khác gì lúc xưa tay siết chặt tảng thịt chết kia mà lặng lẽ giãy giụa cầu được sống sót trong hang động.

Cuối cùng, Hoa Tín nói, "Không ai bắt con phải giống như ta cả. Thế nhưng con nên biết tu hành là một chặng đường dài, và con đường con hằng tìm kiếm quá ngắn ngủi."

Vân Hãi, "Ngắn ở đâu?"

Hoa Tín, "Giết người chẳng qua chỉ là một nhát kiếm. Giết xong rồi sẽ thế nào? Lúc đó con chẳng còn điểm tựa nào nữa."

Thì chờ đến lúc không còn điểm tựa lại nghĩ tiếp.

Vân Hãi tự nói với mình. Song bên ngoài hắn chỉ mấp máy môi, sau cùng thi lễ và buông mắt, nói, "Đệ tử minh bạch, ta... ta sẽ cố gắng."

Trên một phương diện nào đó, hắn ta quả thực là một kỳ tài ngút trời. Hắn ngỏ lời sẽ cố gắng thì không còn thấy dáng vẻ lúc trước. Hắn không ngóng trông kiếm của mình và cũng không đến những chỗ luyện đan nữa. Suốt thời gian đó, hắn vẫn một mực dành thời gian ngâm mình trong Tàng Thư các hàng ngày.

Cứ thế thấm thoắt đã qua hai năm.

Trong quãng thời gian hai năm ấy, Hoa Tín đã ba lần đến nhà họ Hoa. Cả ba lần đó, Vân Hãi đều ở yên trong Tàng Thư các chứ không đuổi theo hỏi dò sư phụ nữa.

Lần kế tiếp Hoa Tín gặp hắn, chàng trai nọ trông khác hoàn toàn cậu thiếu niên siết chặt tảng thịt chết bên trong hang núi năm nào.

Mặc dù hắn chỉ vừa mười sáu.

Hoa Tín thấy vậy, thử thách lai rai hắn thêm một năm nữa.

Đến năm mười bảy tuổi, Vân Hãi có kiếm của riêng mình.

***

Thuở trước vào thời điểm còn chưa rơi vào quên lãng, người đời từng miêu tả Vân Hãi như sau:

Người này có kỳ tài ngút trời, trăm năm hiếm thấy, mười bảy tuổi đã sở hữu kiếm riêng, sau tám năm dùi mài tu hành, hắn được hưởng vô vàn cơ duyên mà nhiều người mong mỏi cả đời cũng chẳng thấy, cuối cùng một sớm phi thăng thành tiên. Hoa Tín và hắn có tình nghĩa thầy trò sâu đậm, sau này cùng đứng trên Tiên Đô. Đây có lẽ là câu chuyện đầu tiên về hắn được người đời ca tụng...

Vì người này tuổi trẻ tài cao, câu chuyện về ngày Vân Hãi thăng thiên lên Tiên Đô đã dệt nên một giai thoại thường xuất hiện trong lời kể chúng tiên. Thế nhưng đối với bản thân, điều Vân Hãi nhớ rõ nhất vào ngày hôm ấy không phải là việc hắn đã bước lên đỉnh tháp Thái Nhân tiên sơn ra sao, bước vào Tiên Đô như thế nào...

Mà là việc hắn đã trông thấy hai người.

25. LINH VƯƠNG

❄︎

Hôm đó khi Vân Hãi vừa vào đến Tiên Đô, đã có một vị tiên sứ Linh đài cầm gậy ngọc dài đứng đợi sẵn.

Tiên sứ vừa thấy hắn liền mỉm cười niềm nở, "Chào Lang quan."

Giọng của người trên Tiên Đô cứ thật mềm mại, cuối câu hơi cao lên, hai chữ nọ còn mang hàm ý thân thiết thế nào, nghe bùi tai tới lạ...

Vân Hãi thầm nghĩ.

Hắn hỏi, "Vì sao lại gọi như vậy?"

Tiên sứ Linh đài đáp, "Những tiên quân chưa phong hào đều được gọi như vậy."

Vân Hãi: "Ai gặp ta cũng sẽ gọi như thế à?"

Tiên sứ Linh Đài gật đầu. "Ai gặp cũng sẽ gọi như thế."

Vân Hãi: "Tiên thủ cũng gọi vậy ư?"

Tiên sứ Linh đài hơi ngỡ ngàng. "?"

Vân Hãi khoát tay. "Ta chỉ thuận miệng hỏi thôi."

Tiên sứ Linh đài dẫn hắn lên một bậc thang dài vô cùng, chỉ tay từ xa và nói, "Thưa Lang quan, tất cả tiên nhân mới đến đều phải ghé bái trời trên Linh đài, nhận một chỉ thiên chiếu, tiếp đó sẽ gặp Linh đài Thập nhị tiên. Gần như tất cả chúng tiên tại Tiên Đô đều tôn kính Linh đài Thập nhị tiên và đặc biệt là Tiên thủ Minh Vô."

Theo lẽ hiển nhiên, Vân Hãi vui mừng tột độ, Hoa Tín vốn không thường xuống nhân gian nên một năm hắn cũng không gặp người kia được mấy lần.

"Thế nhưng cậu vừa nói gần như?" Vân Hãi thắc mắc.

"Đúng vậy," tiên sứ Linh đài giải thích, "có hai vị ngoại lệ."

Ắt là cậu ta đã giải thích việc này với rất nhiều người rồi nên khi thấy Vân Hãi tò mò chỉ trình bày đơn giản, "Hai vị ấy không thăng thiên từ tu hành mà được Thiên đạo Linh đài trực tiếp triệu hoán."

Cậu ta giải thích cho Vân Hãi ý nghĩa của triệu hoán, xong nói tiếp, "Thiên đạo có chiếu lệnh gì cũng sẽ báo thẳng cho hai vị ấy, người khác không ai biết được, lẽ hiển nhiên họ không thuộc quản lý của Linh đài Thập nhị tiên."

"Trực tiếp nhận thiên chiếu?" Vân Hãi sững sờ cùng cực.

"Đúng thế."

Với tầm ảnh hưởng sâu nặng của Vấn Thiên Liêu, Vân Hãi tưởng rằng Linh đài Thập nhị tiên là vị trí tối cao của Tiên Đô, và Minh Vô Hoa Tín là tôn sư được kính trọng nhất trong bậc tôn giả. Giờ đây mới nghe đến việc có hai vị nằm ngoài nơi ấy, hắn nhất thời không biết nên tiếp nhận thế nào.

"Nói thế chẳng phải so ra còn hơn vị trí Tiên thủ..." Vân Hãi bật thốt.

Tiên sứ Linh đài không thể trả lời câu hỏi này, dù sao bản thân cậu cũng trực thuộc Linh đài. Cậu chỉ đành ngừng đoạn, nói qua loa, "Hai vị ấy không quan tâm những việc lẻ tẻ, không hưởng thờ phụng, không nhận điều động của Linh đài. Nói chung, họ không can thiệp vào chuyện của Linh đài và ngược lại, cả hai bên đều kính trọng lẫn nhau, kính trọng lẫn nhau."

"Hai vị nọ dung mạo ra sao? Phong hào là gì? Có dễ nhận diện không? Sau này ở Tiên Đô nhỡ gặp mặt có cần tránh đi không?" Vân Hãi suy tư rồi cười nói, "Tính ta ưa đùa giỡn, nhỡ đâu sơ ý đắc tội người ta mà không biết thì không hay lắm. Phiền tiên sứ nhắc nhở trước một vài điểm?"

Tiên sứ Linh đài đáp, "Một vị phong hào Thiên Túc, khi triệu hoán được trời ban danh tự "Miễn", chưởng quản hình xá. Trên xương tai có bấm ba thanh đinh tang, hẳn là dễ nhận diện."

Vân Hãi: "Đinh tang? Sao lại là đinh tang?"

Tiên sứ Linh đài đáp, "Không rõ, trước giờ đều gọi như thế. Thiên Túc được triệu hoán từ rất sớm, từ khi Linh đài Thập nhị tiên ra đời đã có ngài ấy rồi nên chúng tiên cũng theo đó mà tỏ lòng tôn kính. Lại nói, tính tình vị Thượng tiên ấy khó gần, đâm ra cũng không ai dám hỏi nhiều."

Vân Hãi tự nhủ với lòng nếu mình tránh được thì cứ tránh vẫn hơn.

"Vị còn lại thế nào?"

"Vị còn lại... vị còn lại thăng thiên còn sớm hơn Thiên Túc thượng tiên," Tiên sứ Linh đài cho hay. "Ngài ấy phong hào Linh Vương, khi triệu hoán được trời ban danh tự 'Chiêu'."

Linh Vương...

Vân Hãi còn chờ nghe kể tiếp thì thấy tiên sứ Linh đài nọ chợt ngẩn người. Dường như cậu thấy ai đó nên bèn xoay người lại, gác gậy ngọc và cúi người trịnh trọng thi lễ.

Vân Hãi vừa tính xem xem là ai mà tiên sứ Linh đài phải kính cẩn như vậy thì đã nghe tiên sứ mở lời, "Không biết Thiên Túc đại nhân ghé Linh đài có việc chi?"

Vân Hãi ngỡ ngàng, ngoái đầu lại nhìn thì thấy Thiên Túc thượng tiên đang bước lên bậc thang.

Đó là một chàng trai trẻ tuổi tột độ, lạnh lùng và toả đầy áp lực. Quả thật, dù có đứng giữa nhóm chúng tiên cũng nổi bật vô cùng, chỉ nhìn từ đằng xa hàng mấy bậc thang vẫn có thể cảm nhận sát khí nồng đậm bao quanh ba thanh đinh tang trên xương tai y. Trông y tưởng chừng sắt lạnh phủ ngọc thạch, khí chất ngang ngược và lãnh đạm thoạt ngỡ mâu thuẫn, nhưng hoà chung một chỗ mang đến cảm giác đặc biệt vô cùng.

Chẳng là Thiên Túc tính tình khó gần chứ không phải ngạo mạn vô lễ. Y gật đầu với tiên sứ Linh đài và cất giọng nhàn nhạt, "Có việc."

Tiên sứ Linh đài nói, "Hôm nay có Lang quan phi thăng, có lẽ nhóm Tiên thủ còn đang bộn bề, để không chậm trễ, có cần ta đi trước báo tin không?"

Nghe câu "Lang quan phi thăng", Vân Hãi cười khẩy, quay sang hành lễ với cậu ta và nói, "Đại nhân có việc xin mời vào Linh đài trước, ta nói chung tương đối rỗi rãi, có thể chờ thêm ít lâu."

"Không cần."

Thiên Túc chuyển tầm mắt sang, gật đầu với hắn một cái. Kế đó tiếp tục cất giọng trầm thấp một cách lạnh nhạt, nói, "Ngươi đi với cậu ta, ta không đến tìm Hoa Tín."

Khi y còn đang nói, màn sương lành lạnh ngoài lối vào Tiên Đô lại khẽ động, tiếng hành lễ của tiên sứ trông cửa vang vào từ xa, nghe qua vô cùng cung kính.

Sao hôm nay tấp nập quá vậy.

Vân Hãi nghĩ thầm, đoạn nhấc chân tính bước tiếp lên trên thì nhác thấy Thiên Túc thượng tiên dừng động tác, mắt lướt nhìn cửa vào phía dưới bậc thang.

Rồi kế tới, vị tiên sứ Linh Đài vội khom người thi lễ với người vừa vào từ đằng xa.

Vân Hãi tò mò ngoảnh nhìn thì thấy một bóng người đang bước qua màn sương lạnh.

Người nam này vận áo lụa màu bạch ngọc, thít chặt đai nơi cổ tay và eo, trên có thêu hoa văn chìm ánh bạc, tôn lên vóc người cao dỏng với đôi chân dài, toát ra thần thái quý phái đầy dạn dĩ.

Sau khi người này bước khỏi màn sương thì không đi tiếp mà nghiêng người chờ đợi gì đó.

Giây lát sau, có hai tiên đồng theo gót bước ra từ màn sương. Một cậu vác thanh trường kiếm, miệng càu nhàu một cách khó chịu, "Bẩm đại nhân, nó nặng thật đấy ạ."

Thanh kiếm ấy xinh đẹp muôn phần, trên vỏ kiếm chạm hoa văn bạc tinh tế, ngó chừng dáng bộ bước không nổi của cậu tiên đồng kia thì thanh kiếm này thật sự rất nặng.

"Có nặng như ngươi không, đưa cho ta nào," người nọ đáp ngược lại.

Tiên đồng vừa nghe vậy thì hớn hở hẳn ra, lập tức ném thanh kiếm về phía trước —

Người nọ bắt lấy kiếm bằng một tay.

Thanh kiếm xoay vài vòng trên ngón tay thon dài nhưng đã được nắm vững chãi. Người kia cầm kiếm và ngoảnh người bước lên bậc thang đầy khí khái.

Đến bấy giờ, Vân Hãi mới nhận ra người nọ đeo mặt nạ.

Trên mặt nạ cũng chạm những đường vân mỏng cầu kỳ và xinh đẹp như trên vỏ kiếm, và cũng toát ra khí chất cao quý đẹp đẽ thật ma mị. Giữa chúng tiên, nó nổi bật chẳng khác nào đinh tang trên xương tai Thiên Túc.

Vân Hãi thấp giọng hỏi tiên sứ Linh đài, "Vị đó là..."

Tiên sứ Linh đài nhỏ nhẹ đáp, "Chính là người kia mà ta nhắc đến."

Khi người kia thong thả cất bước lên bậc, ánh dương bàng bạc rẽ màn mây mù trên Tiên Đô đặng vẽ nên vầng hào quang sáng ngời bọc lấy dáng người thon cao của y.

Vân Hãi chợt nhớ về cái tên trời ban cho người kia, Chiêu.

"Vì sao vị Linh Vương này phải mang mặt nạ? Lẽ nào cần kiêng kỵ điều gì?" hắn lại hỏi.

Tiên sứ Linh đài nhỏ giọng đáp, "Cũng không phải có gì cần kiêng kỵ, chẳng qua Linh Vương đại nhân luôn mang mặt nạ mỗi khi tiếp nhận thiên chiếu đi làm việc."

"Làm việc gì?"

"Chuyện này chỉ có Thiên đạo mới rõ," Tiên sứ Linh đài không nói nhiều.

Vân Hãi những tưởng vị Linh Vương này sẽ lãnh đạm khó gần như Thiên Túc, để rồi nhanh chóng phát hiện không phải như vậy.

Linh Vương đi lên vài bậc thang rồi chợt ngừng bước.

Dù đang đeo mặt nạ, nhưng có thể thấy rõ y hơi nghiêng đầu, khẽ khàng nhìn sang Thiên Túc.

Chính chủ chưa nói gì, song hai tiên đồng bên người đã lên tiếng trước, họ hành lễ với Thiên Túc, hô to từ dưới bậc thang xa xôi, "Bẩm đại nhân, đại nhân nhà ta nói trò đùa lần trước chỉ là hiểu lầm thôi, đáng ra chúng ta không nên làm vậy."

Thiên Túc không tỏ vẻ gì, chỉ im lặng nghe hai đứa gáy quạc quạc, sau một hồi mới mấp máy khoé môi nói, "Miễn."

"Tâu đại nhân, ngài ấy nói miễn," tiên đồng ngước mặt lên.

Vị Linh Vương nọ "Ò" một tiếng, kéo mép dưới mặt nạ lên một chút để lộ khuôn cằm trắng phau và góc mũi thẳng thóm.

Người nọ cười khẽ rồi thả tay ra, mặt nạ lại che kín gương mặt. Kế đó, y khẩy chuôi kiếm vào tiên đồng một chút rồi mang kiếm rẽ sang một hướng khác.

***

Vân Hãi vừa lên Tiên Đô ngày đầu tiên đã gặp được hai vị kia nên có ấn tượng đầu với họ từ trước khi kết bạn với những vị tiên khác, có lẽ vì thế mà hắn không mấy bị tác động từ những tin đồn lạ kỳ quái đản về sau.

Nhờ vậy mà trong một trăm năm sau đó, hắn đã trở thành một trong số hiếm hoi trên Tiên Đô có giao tình với hai người họ.

Nhưng quan hệ với Thiên Túc thượng tiên có phần nhạt hơn, bởi nói cho cùng tính tình người kia chính là như vậy, đã thế còn chưởng quản hình xá, không vương chút bóng dáng tư tình trên thân.

Mối giao hảo giữa hắn và Linh Vương sâu sắc hơn, cũng bởi tính tình người kia chính là như vậy.

Nhưng dù có giao tình đi nữa, Vân Hãi vẫn không khỏi tò mò. Tính tình vị Linh Vương kia không lạnh lùng cô quạnh mà trái lại rất mực niềm nở hoạt bát. Thế mà nơi ở của y xa xôi cùng cực.

Tiên Đô rộng lớn nhường ấy, dao cung có đến vạn toà, mà y lại sống nơi xa lìa chúng tiên nhất, chưa kể bốn phía quạnh quẽ không người, cận kề còn là Phế Tiên đài nơi ai ai cũng kiêng dè.

Hắn từng hỏi Linh Vương, "Sao huynh lại ở một nơi như thế này?"

Người nọ đáp, "Vì thích hợp."

Hắn cũng từng nhắc đến việc đó với Hoa Tín, Hoa Tín trả lời rằng, "Không biết, tự y có tính toán riêng."

Linh đài không can hệ đến hai vị kia, mà Hoa Tín còn là người không bận tâm đến chuyện của kẻ khác, nên khi đi cùng nhau họ cũng ít khi đề cập đến những đề tài như vậy.

Phần lớn thời gian, Vân Hãi cố gắng mua vui cho sư phụ.

... Hoặc nói chọc tức sư phụ cũng không sai.

Có lẽ trước đây, hình ảnh nét mặt vô cảm không buồn không vui khi Hoa Tín đón hắn về đã đốt nên dấu ấn sâu sắc mà dài lâu trong lòng hắn, để rồi sau này hắn đã nảy sinh một chấp niệm.

Rằng hắn muốn nhìn thấy cảm xúc phong phú trên gương mặt ấy, không phải những cảm xúc hoà nhã dịu dàng trên tượng thần hay tranh vẽ mà là cảm xúc vui vẻ và tức giận thật sự...

Loại nào cũng được.

Có đôi khi, hắn chọc cười sư phụ mà hồ hởi trong lòng, nhưng cũng đồng thời phỉ nhổ bản thân...

Hắn thấy bản thân mình thật kỳ lạ.

Xưa kia nỗ lực hết mình hòng tu luyện khi còn ở nhân gian chỉ để một ngày có thể bước lên Tiên Đô. Mà khi lên đến Tiên Đô rồi, hắn lại gắng hết sức cố hết mình làm đủ mọi cách chỉ để mang về chút nhân khí cho vị Tiên thủ với dáng vẻ thần tiên bậc nhất kia.

Hắn đã nhiều lần thất bại, và cũng không ít lần thành công.

Đến mấy vị tiên sứ Linh đài cũng trầm trồ rằng Tiên thủ dường như có hơi khác xưa rồi.

Một lần nọ, hắn nhìn dáng vẻ cười rộ lên của Hoa Tín mà nghĩ thầm trong lòng, nếu cứ sống như thế cũng bõ mấy trăm mấy ngàn năm, xem như đứa cô nhi chân gãy mắt mù năm nào đã mất mạng bên trong ngọn núi hoang kia vậy.

Sau rồi hắn phát hiện hoá ra vẫn không xong.

Hắn cai quản tang hỉ nhân gian, là vị tiên có giao tiếp nhiều nhất với phàm nhân hạ giới, hiển nhiên có muốn né cũng không cách nào tránh khỏi việc gặp lại những người lúc xưa hắn từng thề nguyền phải giết.

Hắn cố tránh ba lần để rồi không thể tránh được lần thứ tư.

Những người nọ thế mà sống lâu đến trăm tuổi thật, hắn mãi chẳng cách nào hiểu nổi chuyện đó. Và thế là, hắn xuống tay giết họ.

Tổng cộng ba mươi mốt người, song vẫn ít hơn những người đã mất ở nhà hắn khi xưa.

Sau khi xuống tay rồi, hắn lãnh chiếu và đến quỳ trước Linh đài nhận thiên phạt.

Đó là lần đầu tiên hắn trông thấy Hoa Tín tức giận đến bậc ấy.

26. ĐOẠ TIÊN

❄︎

Linh đài không phải một toà dao cung hay một bệ thềm. Đó là hệ thống gồm mười hai vách núi treo cao, được nối với nhau bởi hành lang bằng ngọc bích. Mỗi vị trong Linh đài Thập nhị tiên cư ngụ một toà, và nơi cao nhất thuộc về Minh Vô Hoa Tín.

Trên mỗi vách núi đều có một nơi chuyên dùng để lĩnh phạt, hình phạt ở từng nơi ấy không giống nhau.

Vân Hãi bị tước pháp khí và chịu phạt qua từng chỗ một. Khi đến trước mặt Hoa Tín, hắn đã không còn đứng nổi nữa, song vẫn gắng gượng chống thẳng lưng, tiên khí xưa kia thoáng ẩn thoáng hiện quanh trang phục thấm máu nhiễu giọt tí tách, nơi cuối vạt áo còn vương tàn tích lửa thiêu khi hắn quỳ nhận phạt trên một toà đài trước đó.

Hắn mãi mãi không quên ánh mắt Hoa Tín nhìn mình khi ấy, hắn đoan chắc đã thấy nét đau lòng giấu sau cơn phẫn nộ điên cuồng của người nọ.

Cả người hắn đẫm máu, nhưng miệng nở nụ cười.

"Vân Hãi!" vừa thấy hắn cười, Hoa Tín càng tức giận. "Ngươi!!!"

Lần đầu tiên Vân Hãi trông thấy sư phụ mình tức đến mức không nói nên lời, xưa nay sư phụ luôn bình tĩnh giảng đạo lý, là loại bình tĩnh không gợn sóng khi thốt lên những lời như nghiễm nhiên, còn giác ngộ được hay không thì tự người nghe hiểu lấy.

Trên đời có nhiều chuyện nhỏ nhặt lắm, những chuyện này nọ trên Tiên Đô cũng không thiếu, dù có hiếm thấy hay lạ thường đến đâu cũng không khiến Hoa Tín phải biến sắc như vậy.

Ta quả thật là thằng khốn nạn.

Vân Hãi nhủ thầm.

Nói thế nhưng hắn vẫn không khỏi cảm thấy vui tự đáy lòng vì được nhận thứ "có một không hai" như vậy.

"Ngày ngươi vào Tiên Đô đã lập lời thề thế nào trước Linh đài này của ta? Ngươi nhận thiên chiếu, trên đó đã ghi rõ chuyện gì được phép làm chuyện gì không được phép làm. Ngươi xem đó chỉ là một tờ giấy rách ư?!" Hoa Tín trách mắng.

"Thưa không," Vân Hãi đáp. "Ta vẫn còn nhớ rõ, thưa sư phụ. Ta hiểu rõ hậu quả."

Hoa Tín còn định nói gì đó song Vân Hãi đã ngắt lời trước, "Nhưng ta vẫn chọn trả thù."

Hoa Tín tức thì lặng thinh.

"Ta chọn trả thù," Vân Hãi tiếp tục. "Ta không muốn thấy những kẻ cặn bã vô lại kia sống an nhàn không bệnh không lo trên thế gian. Người biết không, ta không cam lòng nhìn những điều đó, nó quá bất công."

Nói đoạn, hắn bước tới đài phạt quỳ.

Mười hai đỉnh, mười hai đài phạt quỳ, trên mỗi đài mang khổ ải núi đao biển lửa khác nhau.

Hoa Tín lẳng lặng nhìn hắn bước lên đài đá móc đầy xiềng xích trói buộc, một hồi lâu sau mới quay người đưa lưng về phía hắn và nói, "Chuyện bất công trên thế gian vô vàn như biển cả, ngươi quản một việc, tất rằng phải quản việc khác. Rồi sớm hay muộn sẽ có một ngày..."

Vân Hãi quỳ xuống đài đá, chờ câu tiếp theo của hắn, song Hoa Tín ngưng lời một chút rồi chẳng nói thêm gì nữa.

Phản ứng này đã tự nói rõ quá rồi — hắn không muốn một lời của mình thành sấm, không muốn đồ đệ mình "sớm hay muộn sẽ có một ngày" nên đã dừng lời ở nửa câu trước.

Vân Hãi hiểu rõ, cảm thấy ấm cả lòng.

Hoa Tín phất tay áo, cổng đá trước đài phạt quỳ hạ xuống, đóng lại.

Nhìn bóng Hoa Tín dần biến mất bên kia cánh cửa, Vân Hãi cúi đầu và cất đi nụ cười, dần dà chìm vào tĩnh lặng.

Phạt quỳ trên Linh đài thống khổ khôn cùng, dù có mang cơ thể thần tiên hay kiên dũng đến bậc nào đi nữa cũng sẽ bất tỉnh nếu phải qua mười hai lần trừng phạt, đồng thời tổn thương nguyên khí nặng nề.

Vân Hãi tỉnh lại ở chỗ của Hoa Tín.

Khi tỉnh lại, các vết thương trên người hắn đã được thoa tiên dược và đều khép miệng tương đối. Tiên nguyên bị tổn hại trong cơ thể cũng được bồi đắp lại, dù không cách nào phục hồi như ban đầu nhưng không gây trở ngại quá lớn.

Nhìn thôi cũng biết là thành quả của ai.

Sau khi tỉnh lại, việc đầu tiên Vân Hãi làm là đi tìm Hoa Tín, song dao cung rộng lớn bực này mà không thấy bóng dáng Hoa Tín đâu cả, hắn chỉ tìm được mấy đồng tử bảo rằng, "Tiên thủ dặn dò, một khi Lang quan tỉnh lại xin cứ tự rời khỏi ạ."

Thật ra, hắn được phong hào từ lâu rồi, trên lý thuyết không cần phải gọi là Lang quan nữa. Song, hắn vừa thích trêu đùa và còn hay nói ngọt, kết quả nói ngọt cho các đồng tử và tiên sứ xung quanh mụ mị cả đầu, không biết tại sao đồng ý với hắn, hễ mở miệng gọi hắn là lại "Lang quan" ngắn "Lang quan" dài.

Duy có mỗi Hoa Tín vẫn luôn há miệng "Vân Hãi", ngậm miệng cũng "Vân Hãi", thân thiết lắm cũng chỉ gọi hắn "đồ đệ của ta".

"Thế nếu ta không đi thì sao?" Vân Hãi hỏi đồng tử nọ. "Tiên thủ có dặn dò các ngươi đuổi ta đi không?"

Đồng tử lắc đầu. "Không có ạ."

"Tiên thủ không ở đây nhiều ngày rồi, nếu Lang quan thấy không thoải mái có thể nán lại thêm vài ngày nữa ạ," nhóm đồng tử của Hoa Tín cũng dựa theo tính tình của hắn, vô cùng nghiêm nghị ít khi vui đùa.

Những lời thân thiết thốt ra từ miệng bọn họ nghe vào cũng mất hứng ít nhiều, cứ có vẻ như toàn lời khách sáo. Thậm chí, họ gọi "Lang quan" cũng chả khác gì "Vị tiên quân này".

Vân Hãi ngồi cạnh đầu giường một lát rồi lắc đầu cười nói, "Không cần đâu, ta quay về đây. Nhờ các ngươi nhắn lại với Tiên thủ là..."

Hắn lặng thinh một nháy mắt rồi tiếp, "Cảm tạ thuốc và tiên nguyên của người, đã làm người lo lắng rồi."

Tiên đồng hơi ngỡ ngàng, còn hắn nói xong đã rời đi.

Tựa như từ giây phút đó, hắn đã rẽ sang một bước ngoặc lầm lối.

Mặc dù hắn không hề cố ý làm như vậy, mà sao mọi thứ vẫn diễn biến đúng như lời Hoa Tín nói. Những chuyện bất công trên thế gian mênh mang như biển rộng, ban đầu hắn chỉ muốn hoàn thành một việc đó thôi rồi bỏ mặc hết cả, song sau đó mới biết nào có làm thế được, hắn không thể không tiếp tục làm việc thứ hai...

Bởi chuyện thứ hai là hệ quả của chuyện đầu tiên.

Nói ra cũng đơn giản.

Hắn chưởng quản việc tang hỉ nên hẳn nhiên phải chứng kiến muôn kiểu biệt ly hội hợp. Có những lúc người ta vừa kết duyên đôi lứa rồi chẳng mấy lâu đã mất mạng.

Hắn vẫn thường thổn thức khôn nguôi, nhưng tuyệt đối không nhúng tay khi không cần thiết. Thật ra, cách hành xử như thế vô cùng bình thường, đến cả Tiên Đô còn khó tránh những buổi tụ hợp chia ly, đôi lúc còn có thần tiên bị giáng xuống phàm trần cơ mà.

Tuy nhiên vào hôm đó, hắn trông thấy một cô gái nhỏ quỳ gối trước tượng thần của mình.

Cô gái nọ vừa qua tuổi dậy thì, ngay vào thời điểm thanh xuân rạng ngời, tươi trẻ tựa hoa thì cô ấy đã qua đời.

Đây là một cô nương trẻ rơi vào số phận làm âm hồn bất tán, cô vận hỉ phục, bên trên còn thêu phù văn, có lẽ là một cô gái bị cưỡng ép minh hôn.

Làn da cô đốm xanh đốm trắng, đôi mắt thủng sâu thành lỗ hổng, đổ hai dòng lệ máu. Môi cô đã bị dán kín nên chẳng nói được gì — đây là một loại biện pháp dân gian sử dụng để người sau khi chết đi không đường nào cáo trạng.

Thế nhưng, sát khí trên người cô vô cùng nặng nề, dù chẳng nói tiếng nào cũng dễ dàng đoán được cô mong muốn khẩn cầu điều gì.

Những người như cô thường là những người rơi vào cảnh tan cửa nát nhà, không người che chở mới bị người khác ép buộc làm tân nương cõi âm ty. Có nguyện cầu cũng chỉ mong người đã ép uổng cô sẽ không thể chết an ổn.

Người cầu nguyện luôn mong muốn đối phương cũng phải nhận lấy những chuyện tương tự hoặc còn nặng nề hơn bản thân. Cô bị móc mắt, người gây ra cơ sự cũng phải gánh chịu hình phạt giống vậy. Cô chết thảm thương nhường nào thì kẻ kia cũng nên chết thảm thương nhường ấy.

Nhưng việc này sao có thể thành, báo ứng cũng không phải như vậy.

Theo đúng quy tắc của tang hỉ thần, Vân Hãi hoàn toàn có thể can thiệp nhưng không thể quá sâu mà chỉ vừa đến giới hạn. Hắn vốn tính chỉ làm đến đấy thôi, những hành động "đến giới hạn" khi áp xuống hạ giới thông thường không dẫn đến kết quả nào.

Mãi đến khi hắn tìm hiểu nguyên lai dẫn đến cái chết thảm thương của cô gái, trở về nhiều năm trước...

Hắn mới vỡ lẽ, cô nương này lâm vào cảnh tan cửa nát nhà, không ai bảo vệ đều bởi cha mẹ cô đã bị kẻ thù sát hại từ khi cô còn tấm bé.

Và kẻ thù đó chính là Vân Hãi.

Thật vậy, cha mẹ cô là một trong những người năm xưa mưu hại cả nhà Vân Hãi.

Chính vì thế, hắn chẳng còn cách nào khác đành phải ra tay, hơn nữa không thể chỉ dừng "ở giới hạn". Bằng không, chính hắn sẽ trở thành "bất công, ông trời vô lý" trong mắt cô gái nhỏ kia.

Tất cả chuyện này chỉ là một sự khởi đầu.

...

Về sau, không biết đã là lần thứ bao nhiêu Vân Hãi trở về từ nhân gian và giam mình bên trong dao cung của bản thân.

Đáo cùng, hắn đã hiểu những lời Hoa Tín nói với mình khi xưa là lẽ gì...

Những chuyện kia to rộng như biển cả, hắn quản một việc rồi không thể không quản việc thứ hai, càng về sau càng dây dưa liên luỵ, kẻ thù của người này là ân nhân của người khác, người này muốn giết nhưng người nọ muốn bảo ban, những mối dây mơ ấy phức tạp và chằng chịt. Một khi nhúng tay quá nhiều, sớm muộn cũng có một ngày, chính sự tồn tại của hắn trở thành "vô lý bất công" lớn nhất.

Từ thời điểm hắn xuống tay giết ba mươi mốt người kia đã định sẵn sẽ có một ngày như thế...

Hắn nhiều lần vi phạm thiên quy Linh đài, Hoa Tín buộc phải nhận Thiên chiếu giáng chức hắn hết lần này đến lần khác, từ một hỉ tang thần hương khói dồi dào trở thành sơn thần thung lũng Đại Bi không người ngó ngang.

Không chỉ vậy, dường như số lượng hương khói cũng ảnh hưởng đến Tiên Đô. Một khi không ai ở nhân gian dâng hương thờ phụng hắn thì cổng đình trên Tiên Đô cũng dần dà vắng bóng người ghé qua.

Tính tình Vân Hãi nhạy cảm, ban đầu hắn còn cho rằng tiên nhân chẳng qua cũng không thoát khỏi thói đời hợm hĩnh. Không chừng cũng có ít nhiều là thật thế, song về sau hắn mới dần nhận ra, đây là một dạng quên lãng dưới quyền Thiên đạo.

Chúng tiên vẫn còn nhận ra hắn khi gặp mặt, nhưng khi không gặp nữa thì chẳng thể nhớ nổi hắn là ai. Chỉ duy nhất một người có vẻ không gánh chịu ảnh hưởng của Thiên đạo, đó là Linh Vương.

Thuở trước, khi vừa lên Tiên Đô chưa bao lâu, hắn từng hỏi Hoa Tín, "Thiên Túc chưởng quản hình xá, vậy Linh Vương chưởng quản chuyện gì? Hình như ít khi nghe người nào nhắc đến."

Lúc ấy, Hoa Tín suy tư rồi trả lời, "Chưởng quản những việc chúng tiên không thể làm được, nhưng cụ thể là chuyện gì thì ta cũng không biết."

Nghe vậy khiến Vân Hãi khá khó hiểu. Dù gì chúng tiên cũng tựa mây gió, gần như quản được cả thiên hạ rồi, có chuyện gì mà thần tiên cũng không giải quyết được?

Thế nên hắn cho rằng đó chẳng qua chỉ là một lời bao biện hòng tôn Linh Vương lên thôi, sau này mới dần dà cảm thấy được những lời nọ không phải để bao biện và cũng không phải để tôn người kia.

Có một quãng thời gian, Vân Hãi luôn cảm thấy bất an nên cứ ghé sang chỗ Linh Vương vì y vẫn còn nhớ rõ mình, nhưng chỗ người kia ở lại kề bên Phế Tiên đài mà ai ai cũng lảng tránh. Thành thử về sau nữa, hắn chỉ thường ghé sang Linh đài và nơi ở của Hoa Tín.

Hơn hết, hắn rất sợ có một ngày đến Hoa Tín cũng không còn nhớ ra mình từng có một đồ đệ mang tên Vân Hãi.

***

Người ta đồn rằng có một quả chuông trời bí ẩn trên Tiên Đô mà không bất kỳ ai trong chúng tiên có thể thấy, xong có những lúc họ thoáng nghe được tiếng chuông ngân vang.

Mỗi lần chuông ngân vang đồng nghĩa với việc có một vị thần tiên bị giáng phàm.

Vân Hãi đã từng nghe thấy vài lần nhưng chưa bao giờ biết được chiếc chuông ấy treo ở nơi đâu.

Cho đến một hôm hắn được tận mắt chứng kiến.

Đêm ấy là một đêm dài hiếm thấy ở Tiên Đô với sương mù dày đặc. Hắn ngồi cạnh cửa sổ, bất giác cảm thấy muốn gặp Hoa Tín.

Cảm giác nọ bất chợt ùa đến chẳng hề báo trước, khiến hắn ngẩn ngơ đôi chút, rồi tính khép cửa sổ và rời khỏi dao cung. Song, hắn chỉ vừa bắt lấy song cửa liền nghe thấy tiếng vang be bé khi có khi không, chừng như do va chạm với phụ kiện hoặc kiếm đeo bên hông mà thành.

Có người tới?

Vân Hãi quay ngoắt người lại thì thấy Linh Vương.

Người kia vấn tóc bằng bạch ngọc quan, đeo chiếc mặt nạ khắc vân bạc, cả người bọc trong màn sương lạnh, thân cao như ngọc tạc. Giống hệt hình ảnh lần đầu gặp gỡ năm nào trước cổng vào Tiên Đô.

Khác rằng khi đó thân người kia trải một vầng hào quang, còn giờ đây chỉ có màn đêm thăm thẳm.

Vân Hãi nhìn y mà hốt hoảng trong lòng, ngoài miệng nói, "Sao ghé thăm bạn bè còn cần mang mặt nạ?"

Dường như Linh Vương thở dài thật khẽ. "Cậu nhìn xem ta thế này giống như đến thăm bạn bè sao?"

Thật vậy.

Chẳng những không hề giống thăm bạn, mà còn không dẫn đồng tử thường đi cùng, và thậm chí không giắt theo thanh kiếm y hằng yêu chuộng.

Vân Hãi cứng người đứng thẳng, trong chớp mắt ấy dường như có cảm giác đối đầu giữa những người bạn cũ.

Linh Vương không nhúc nhích và cũng không nói gì, hiếm khi trong giọng không mang ý cười.

Cuối cùng, Vân Hãi vẫn mở miệng trước, "Đại nhân, huynh... nhận Thiên chiếu."

Linh Vương đáp "Ừm" rồi nói tiếp, "Đã đoán được là Thiên chiếu, vậy hẳn cậu biết ta đến đây làm gì."

Vân Hãi cười khổ, "Nghĩa là, ta sẽ về nhân gian?"

Linh Vương không nói gì, xem như ngầm thừa nhận.

Vân Hãi, "Ta những tưởng chỉ cần nhảy khỏi Phế Tiên đài là được."

Hắn luôn cho rằng chỉ cần bước lên Phế Tiên đài rồi nhảy xuống là sẽ trở về nhân gian, không cần thêm gì nữa. Đến đêm hôm đó, khi thấy Linh Vương mang Thiên chiếu tới, hắn mới vỡ lẽ mọi chuyện không đơn giản đến thế.

Hắn còn cần phế bỏ tiên nguyên và cắt đứt mọi liên kết với Tiên Đô.

Quy trình đó trải qua nhanh chóng, chỉ loáng mắt thôi mà như dài vô tận bởi nỗi thống khổ chẳng thể nói thành lời. Giữa lúc bàng hoàng trong bi ai, hắn thấy Linh Vương móc một món đồ trên ngón tay.

Trông nó tựa chiếc lục lạc màu bạch ngọc, hắn nhìn không rõ nhưng nghe loáng thoáng tiếng chuông.

Hắn bất giác tỏ tường quả chuông trời huyền thoại kia ở đâu trên Tiên Đô. Nó không được treo dưới mái hiên nào mà vẫn luôn giắt bên người Linh Vương.

"Chuông trời..." Vân Hãi khàn giọng.

Linh Vương khẽ lắc đầu, giọng nói văng vẳng vừa mờ mịt vừa xa xăm, "Chúng tiên đồn bừa rồi, đây không phải chuông trời, nó tên là chuông mộng."

Chuông mộng...

Vân Hãi gập người lại, đầu lặp đi lặp lại cái tên trong vô thức. Hắn nghe thấy Linh Vương nói, "Thật ra nhân gian cũng không tệ đâu, dưới đấy có một nơi gọi là phố núi Lạc Hoa nhộn nhịp cực kỳ, thú vị hơn Tiên Đô nhiều đấy. Chuông mộng này ngân chín lần sẽ tạo cho cậu một giấc đại mộng. Một khi mở mắt rời khỏi Phế Tiên đài, cậu sẽ quên ngay trăm năm trước đây và cũng không thấy đau lòng thế nữa."

Mở mắt quên ngay trăm năm trước đây.

Đây là lý do vì sao có tiếng chuông vang lên trước khi những vị thần tiên kia bị giáng xuống phàm trần.

Là bởi vì họ sẽ không còn nhớ bất kỳ điều gì nữa.

Không còn nhớ bất kỳ một ai nữa.

Không có tiên nguyên, cơ thể người phàm không thể ở lại lâu trên Tiên Đô.

Vân Hãi đã rơi vào rối loạn nhưng vẫn gắng sức vẫy vùng. Khi quả chuông bạch ngọc kia vang lên, hắn đã vận hết chút tiên lực còn sót lại của mình để dồn cả một nửa linh hồn hòng cản tiếng chuông lại.

Hắn ngoan ngạnh cả một đời, không đụng tường chắn không ngoái đầu, cho dù đụng cũng không ngoái đầu.

Hắn không muốn quên.

***

Vân Hãi xuống nhân gian trong những năm sóng yên gió lặng.

Dẫu hắn cố gắng cản lại nhưng chuông mộng vẫn phát huy tác dụng, hắn đã quên mất những chuyện xảy ra trong trăm năm kia mà chỉ tưởng rằng mình nằm mơ vào một hôm nào đấy, trong mơ hắn gãy một chân và mù một mắt, giữa lúc đói khát tột cùng khắp người đầy máu, có một tiên nhân đã bế hắn lên lưng hươu trắng.

Hắn từng kể giấc mơ nọ cho rất nhiều người, nhưng hễ mở miệng là quên bẵng mất nên chỉ đành kết chuyện trong hời hợt.

Cũng bởi giấc mộng không rõ đầu đuôi ấy, hắn bắt đầu thử học tiên thuật, mong muốn được bước đến gần vị tiên nhân kia một chút.

Hắn đến gõ cửa hỏi thăm rất nhiều tiên môn trong khu vực lân cận, nhưng không một tiên môn nào chịu nhận hắn chính thức. Tất cả họ đều nói hắn trời sinh đã khiếm khuyết, không thể tụ khí kình, không thể ngưng đan nguyên. Cơ thể hắn không có nền tảng để tu hành.

Dần dà về sau, thế đạo trở nên loạn lạc, những thứ học được không đủ sức bảo vệ nên hắn phải bôn ba chạy trốn khắp nơi, chẳng khác nào lưu dân.

Thẳng đến ngày nọ, hắn đụng phải tà ma kiếm ăn giữa đêm khuya, giao đấu một hồi hắn không trụ nổi và bị tà ma nhập thân.

Cảm giác linh hồn bị cắn xé khác hoàn toàn mắt mù chân gãy, hắn đau đớn cùng cực đến thét gào thảm thiết.

Giữa lúc cuộn mình giãy giụa trên mặt đất, hắn thình lình thấy những việc này sao quen thuộc quá đỗi.

Hắn đã từng cuộn mình như thế, dùng hết sức bình sinh để chống lại một thứ gì, hình như đó là... một tiếng chuông.

Bao điều khốn khổ và trớ trêu nhất thế gian bất quá cũng đến mức này thôi —

Ở phút cuối đời, hắn nhớ về một trăm năm đã lãng quên, nhớ ra vị tiên nhân đi cùng hươu trắng ấy hoá ra không phải giấc mộng dã tràng. Trăm năm trước đây, thật sự từng có một vị tiên nhân đã cứu hắn ra khỏi hang núi lạnh lẽo.

Hắn nhớ ra mình trở thành đồ đệ của người ấy, rằng từng có lần mình được khen có thiên tư trác tuyệt. Hắn nhớ ra mình từng là người trẻ tuổi nhất phi thăng thành tiên, chưởng quản tang hỉ có hương khói dồi dào nhất nhân gian.

Ngày cuối cùng ở Tiên Đô, hắn mong muốn được gặp người kia lần nữa.

Còn chưa gặp được người kia, hắn sao có thể chết.

***

Sau này, Vân Hãi vẫn thường cho rằng thiên tư của mình vẫn thật xuất chúng, bằng không sao có thể chỉ vì "không muốn chết" đã đảo khách thành chủ, cắn nuốt và hấp thu hoàn toàn tà ma chiếm cơ thể hắn.

Những người trong tiên môn nói hắn tụ không nổi khí kình, ngưng không được đan nguyên. Không phải như vậy, chẳng qua hắn không ngưng tụ được tiên nguyên mà thôi chứ tà ma thì không thành vấn đề.

Giữa khi bất chấp tất thảy mà vùng vẫy hấp thu khí tà ma, trong đầu hắn hiện lên cảnh tượng trăm năm về trước — khi hắn trốn trong hang núi, Hoa Tín đã nâng đèn đến tìm, soi sáng đêm lạnh.

...

Từ nay về sau, không có tiên nhân đến cứu hắn nữa.

Dù vẫn sống chấp vá, nhưng có lẽ cả đời này hắn cũng không bao giờ dám gặp lại người kia.

27. HOÀN THẨM

❄︎

Những tháng ngày sống đời tà ma rối ren hỗn loạn, giống như thành trì phủ bóng sương mù quanh năm.

Nói thế nhưng cuộc sống hắn không lấy gì làm vất vả cho lắm, bởi dân thường bá tánh sống trong nơm nớp sợ hãi, ngày ngày bươn chải cầu sống còn; tiên môn phải che chở tứ phương, dang tay trừ ma hiệp đạo.

Còn tà ma thì không cần như vậy. Tà ma chỉ cần lo cho bản thân nên dễ chiếm được ưu thế hơn.

Những tà ma còn chưa khai thông trí tuệ, sống trong hỗn độn, hoặc những kẻ vừa nhập đạo có lẽ sợ đụng phải đệ tử tiên môn, lo ngại bị giết ngược.

Nhưng Vân Hãi thì không.

Hắn tu luyện cực nhanh, đệ tử thông thường không có khả năng đương đầu hắn thì chớ, ngay đến hạng gia chủ tiên môn ắt còn phải kiêng dè vài phần.

Có lẽ hắn nên có cuộc sống sung sướng và hoành hành không sợ bất kỳ điều gì, nhưng hắn đã không làm như vậy.

Hắn luôn né các tiên môn, hạn chế hết thảy tin tức tủn mủn nhất về mình truyền đến Tiên Đô và lọt vào tai vị Tiên thủ Linh đài nọ.

Thậm chí, vì không còn dùng được tiên thuật phân thân nên hắn từng đến bồn địa Tây Nam một chuyến. Ở Tây Nam, hắn đã học được rất nhiều cấm thuật và tạp thuật, dành sự kiên nhẫn bậc nhất đời này để nặn ra một con rối mà thần tiên cũng khó lòng nhận ra.

Hắn nắn con rối nọ theo gương mặt mình và thả nó vào Xuân Phiên thành chỗ nhà họ Hoa cư trú.

Ở Xuân Phiên thành có mấy chục vạn dân thường, con rối kia vào đấy chẳng khác nào mưa hoà trong biển, lặn mình trong đám đông phố phường, xác suất đụng mặt người nhà họ Hoa cực kỳ cực kỳ nhỏ.

Nhưng hắn vẫn cho con rối kia sống những tháng ngày bình thường nơi đó, đóng giả thành Vân Hãi từ Tiên giới trở về nhân gian, bắt chước cuộc đời tầm thường của một bá tánh.

Sau khi sắp xếp mọi chuyện xong xuôi, Vân Hãi rời khỏi Xuân Phiên thành và đến Côi Châu cách đó rất xa.

Nơi nọ đông tà ma tụ hội, thêm hắn nữa cũng chẳng vấn đề.

Đồn rằng nơi đấy có một đại thuật phong cấm, tu thuật này giúp giải thoát con người ta khỏi tất thảy, kể cả niềm vui và lòng căm phẫn. Song, rất ít ai chọn tu loại cấm thuật này bởi tà ma coi trọng dục vọng xác thịt, chúng tận hưởng cảm giác hưng phấn và khoái cảm tột đỉnh từ đấy.

Một khi chặn hết tất thảy, thứ nhất là tự tổn hại bản thân, tiếp nữa làm vậy có khác nào những tiên môn nhạt nhẽo nhập vô tình đạo đâu?

Song, Vân Hãi chọn tu đường này.

Phong bế toàn bộ hỉ nộ ái hận, những thứ nhấn chìm hắn trong khổ đau đã không còn dày vò suốt ngày đêm nữa. Hắn đã trở thành kẻ không sầu không vui, không có cảm giác sợ hay không sợ, dù là cỏ cây kiến mối hay tiên gia tà ma đi nữa cũng không khác biệt gì trong mắt hắn, nếu sinh hẳn sinh, nếu tử ắt tử.

Điều mà khi ở Tiên Đô hắn chưa bao giờ làm được, thành tà ma rồi đã thành công.

Ngẫm lại... vẫn thật bất công.

Đại thuật phong cấm thật tuyệt, sau mấy năm sống kiếp tà ma và tự do làm theo ý mình, hắn cũng chẳng kiêng dè sinh sát.

Thậm chí có một dịp khi hắn ghé ngang phố núi Bất Động thành, tình cờ nghe thấy tên "Minh Vô Hoa Tín" mà lòng chẳng chút gợn sóng. Hắn chỉ khẽ nhướn mi còn chân vẫn đều bước.

Thứ bất cập duy nhất của phong cấm thuật chính là tự hủy hoại bản thân.

Cứ qua vài tháng sẽ có tầm một hai ngày hắn chịu đau đớn khắp cả người đến mức không vận nổi chút tẹo thuật pháp khí kình nào, cơ thể trở nên yếu ớt và sợ lạnh.

Một hai ngày đó với hắn quả thật là tra tấn tột độ, giữa cơn đau vật vã gian nan, hắn thường thấy hồn mình như bị xé thành hai nửa. Khi thì khóc lúc thì cười, khi điên cuồng lúc bình tĩnh.

Những lúc tỉnh táo lại, hắn thấy trên thân mình đầy rẫy vết thương, bởi quá khốn khổ mà toát quỷ khí tràn trề che kín hết nửa gương mặt.

Song vào thời điểm ấy, hắn vẫn chẳng sầu chẳng vui, đến độ còn nghĩ rằng cũng không đến nỗi nào, bởi rằng nửa gương mặt giả làm người, nửa còn lại lồ lộ tính quỷ...

Đó chính là bản thân hắn còn gì, chẳng phù hợp quá đấy ư.

Những năm đó, tà ma khác đều tránh xa hắn. Cũng không rõ là vì gương mặt không ra người không ra quỷ hay vì hắn thật sự làm quá nhiều chuyện điên rồ.

***

Vân Hãi những tưởng có thể tiếp tục sống mãi như thế. Người trên Tiên Đô sống được bao lâu thì hắn có thể sống được bấy lâu.

Rủi rằng, có lẽ Thiên đạo thật sự không dung hắn, làm quá nhiều chuyện điên rồ tất phải nhận báo ứng.

Hắn cũng không rõ cơ sự đã bắt đầu ra sao, chỉ nhớ hôm đó nhận được tin đám tà ma bị hắn đuổi khỏi Côi Châu đang sinh sống ở thung lũng Đại Bi.

Nghe đến cụm "thung lũng Đại Bi", hắn chỉ nhả một nụ cười nhạo báng mà thậm chí còn chẳng hề nhớ lại thứ chuyện nhàm chán như việc từng làm sơn thần ở thung lũng Đại Bi năm nào.

Rồi sau đó, hắn lại nghe kể có một đoàn xe ngựa thương gia vận chuyển hàng hoá qua thung lũng Đại Bi bị lũ tà ma chia rẽ, trong đó còn có một vài bá tánh bình thường chỉ nương nhờ đoàn xe để qua thung lũng.

Trong nhóm bá tánh có một người trông giống hệt hắn, bởi thế hù bọn tà ma kia một phen, suýt chút đã không dám ra tay. Sau đó chúng mới phát hiện chỉ giống vẻ ngoài mà thôi.

Nghe đến đây, Vân Hãi biết ngay đó là con rối hắn tạo thành để lại ở Xuân Phiên thành.

Ngày xưa hắn thả con rối ra với mong muốn đánh lừa vị nào đó trên Tiên Đô rằng hắn đang là một thường dân bá tánh thông thường thôi.

Sau đó hắn tu đại thuật phong cấm nên chẳng bận tâm đến những chuyện đó nữa, đâm ra cũng quên luôn con rối và chẳng để ý xem tung tích nó thế nào.

Khi hắn nghe được tin đồn nọ thì thoáng ngẩn ngờ, song vẫn không mảy may để tâm.

Chẳng qua là một con rối đã chết, trừ việc tiếc công ba ngày ba đêm nặn thành thì với hắn chẳng có thiệt hại gì cả.

Chính hắn còn không quan tâm thì còn ai khác quan tâm nữa chứ.

Thế mà hắn lại nghe nói tiếp rằng, có người đã báo tin bá tánh bị thiệt mạng cho nhà họ Hoa – tiên môn toạ trấn ở Xuân Phiên thành.

Nghe đâu nhà họ Hoa đã phái người đến thung lũng Đại Bi.

Không biết nên diễn tả chính xác cảm xúc của Vân Hãi khi đó là gì. Đại thuật phong cấm vẫn còn đây, thời kỳ phản phệ vài tháng một lần còn đây, lý ra hắn nên thờ ơ hết thảy.

Hắn trải qua một ngày, hai ngày như thường lệ...

Nhưng không bước qua nổi ngày thứ ba.

Vào đêm thứ hai, hắn đã đứng trên vách núi cao cao trong thung lũng Đại Bi.

Xưa kia hắn từng là sơn thần chở che nơi này, mà hết thảy đều vạn sự bình an, không một ai cầu sự che chở. Trái lại sau khi hắn xuống phàm rồi thì nơi đây chẳng còn cảnh thái bình, tà ma ra tay tàn sát hoành hành.

Những năm vừa qua, hắn từng đi nhiều nơi nhưng tuyệt nhiên không đến thung lũng Đại Bi. Giờ đến rồi, hắn nhận ra toà tiên miếu kia vẫn còn đấy song đã vắng bóng tượng thần.

Thế nhưng, trên bệ thờ quanh nắm vắng vẻ khi xưa còn cắm vài nén hương chỉ vừa cháy hết.

Hắn đứng bên ngoài cửa tiên miếu rỗng tuếch, nhìn bầu trời ảm màu xám tro một chốc rồi lần theo mùi tà ma và tiến sâu vào khe núi hẹp.

Khoảnh khắc ấy, linh hồn hắn tưởng chừng bị tách làm đôi.

Một nửa hỏi rằng, "Tại sao mày tới đây, nơi này còn liên quan gì đến mày nữa đâu?"

Một nửa kia đáp, "Ta muốn xử lý lũ lâu la kia và nặn thêm một con rối mới."

Hắn muốn giải quyết hết số tà ma tác quái trong thung lũng trước khi những người nhà họ Hoa tới, sau đó sẽ tạo ra một con rối mới ở gần đoàn xe ngựa.

Thậm chí hắn đã tính toán kỹ lưỡng nên cho cơ thể con rối kia bao nhiêu vết thương, mỗi vết thương nông sâu thế nào cho hợp lý, có cần phải nặn kèm vài ba bá tánh này nọ hay không.

Chuyện duy nhất là hắn chưa nghĩ kỹ là lý do vì sao hắn phải làm như vậy.

Tạo ra một con rối "Vân Hãi" giả vờ sống sót sau đại nạn, may mắn giữ được tính mạng mỏng manh rồi được người nhà họ Hoa dẫn về Xuân Phiên thành, tiếp tục đóng giả một bá tánh tầm thường...

Rồi sao nữa?

Làm bộ cho ai xem?

Ai quan tâm cơ chứ?

Khen cho một kẻ không sầu không vui, đoạn tình tuyệt ái.

Vân Hãi cười tự giễu, kéo lại áo choàng đen và quét sạch toàn bộ thung lũng Đại Bi bằng tà khí ngợp trời. Những tà ma kia thông thường đã sợ hắn, đến khi tâm trạng hắn đang kém thế này thì chúng càng không có cửa địch lại.

Một khi hắn đã nổi điên thì không thể kiềm chế chính bản thân mình, giết đến tên cuối cùng rồi mà ngón tay hắn hãy còn run rẩy trong phấn khích.

Tà ma hoàn toàn bị đồ sát, thi thể và hài cốt của đoàn xe ngựa cũng chẳng may mắn thoát nạn. Tất cả đều bị xé nát tươm dưới áp lực của tà khí ngợp trời, những cái xác rỗng kia bung lên rồi rớt xuống, tan tành như giẻ rách.

Núi đá tan hoang đổ sụp, cát bụi tung toé khắp trời, khi ấy Vân Hãi mới mơ màng tỉnh lại trong luồng tà khí cuồng loạn.

Hắn vừa tính rút về liền nghe kiếm khí xé gió giáng xuống từ một nơi không rõ trên trời cao. Nó chém xuyên tà khí đen mịt mùng trong thung lũng Đại Bi, hướng thẳng về phía hắn!

Vào khoảnh khắc đó, đồng tử hắn thít chặt lại, cả người cứng đờ như thể bị chìm sâu dưới biển Vô Đoan băng giá.

Hắn chẳng cần nhìn thấy chuôi kiếm mà chỉ qua luồng ánh kiếm đã biết người đến là ai.

Kiếm khí của Minh Vô Hoa Tín.

Vân Hãi đã nhiều lần mường tượng cảnh hai người họ gặp lại, dù thâm tâm hiểu rõ sẽ không có ngày ấy nhưng hắn vẫn không kiềm được lòng mà tơ tưởng.

Hắn từng nghĩ mình sẽ tránh né, rời khỏi và biệt tích trước khi Hoa Tín có cơ hội phát hiện ra.

Hắn cũng từng nghĩ lòng mình sẽ không gợn sóng như lần nghe danh tự "Minh Vô Hoa Tín" ở núi Bất Động năm nào, rồi vẫn vung kiếm đối mặt nhau.

Chỉ là hắn chưa một lần nghĩ tới, mình sẽ che đi nửa gương mặt thuộc về "Vân Hãi" mà chỉ để lộ nửa gương mặt bám đầy quỷ khí, tung tà khí đen ngòm quấn lấy vị tiên nhân giáng trần từ trên trời cao kia.

Hắn né luồng ánh kiếm, vừa tiếp chiêu vừa cất giọng chế nhạo một cách nghẹn ngào chẳng hề giống hắn, hỏi người kia, "Chốn thung lũng Đại Bi nhỏ bé này chẳng qua vừa chết ít người ít ngựa, dăm ba bá tánh, cớ gì khiến Thượng tiên phải vung kiếm xuống nhân gian?"

Hai người cách nhau giữa tà khí sâu dày, không ai nhìn thấy người kia, song hắn có thể cảm nhận rõ ràng sát khí kinh hoàng xưa giờ chưa từng có từ thanh kiếm của Hoa Tín, sát khí ấy càng lúc càng nặng nề.

Sát khí nọ khiến tim hắn đánh dồn như nổi trống mà chẳng rõ nguyên cớ.

Tựa như đã qua rất nhiều năm rồi mà quanh đi quẩn lại, hắn vốn dĩ luôn chờ một ngày như thế.

Hắn tiếp từng chiêu từng chiêu, thúc Hoa Tín ra kiếm mỗi lúc một nhanh hơn, sát khí tràn ra bốn phía. Dưới kiếm ý người kia, cả dãy núi quanh thung lũng Đại Bi chấn động, tiếng vang rền kéo dài không ngơi.

Hắn thấy Hoa Tín tung chiêu mệnh, mũi kiếm chứa đầy lực lượng thiên binh vạn mã đâm thẳng về phía ngực hắn.

Và rồi... hắn thu hồi toàn bộ kháng cự.

Khi mũi kiếm xuyên qua tim, tiên khí bủa oà khắp chốn va chạm kịch liệt với tà khí dày đặc quanh người hắn. Dưới sức nặng của cú đánh, hắn bị thanh kiếm ghim chặt trên nền đất.

Hoa Tín theo kiếm hạ xuống, trong tay còn mang một đòn khác như tính chưởng thêm một nhát nặng nếu tà ma ra sức chống cự.

Một chưởng ấy đáp xuống chém toạc cả mảng núi.

Tà khí đen ngòm đặc quánh bị xé ra, để lộ một nửa gương mặt còn lại của Vân Hãi.

...

Không cách nào ngăn cản chiêu mệnh của Tiên thủ Linh đài dù tà ma có ra sức phản kháng, huống hồ hắn còn chẳng hề chống cự. Kết quả hẳn nhiên chỉ có một — hồn phi phách tán, cái chết là không thể nghi ngờ.

Đó là lần đầu tiên Vân Hãi trông thấy vẻ mặt Hoa Tín như thế, đôi mắt đen láy mở to và hơi run rẩy.

Hắn thấy gương mặt mình phản chiếu trong con ngươi người kia, gương mặt nửa người nửa quỷ, xung quanh là máu lượn thành sông.

Hắn cảm giác được linh hồn mình đang bị tách thành vô số mảnh nhỏ và tản ra khắp nơi. Hắn cũng cảm thấy tà khí ngút trời không còn bị ràng buộc vào cơ thể mà lùa xuống thung lũng như mây đen.

Và hắn cũng cảm giác được, trong tích tắc ấy, bàn tay hằng ấm áp của vị Tiên thủ Linh đài kia lạnh lẽo tựa băng.

"Vân Hãi?"

"Vân Hãi..."

Giọng Hoa Tín nghẹn ngào mà nhẹ bẫng. Không biết người gọi tên hắn với nét mặt ra sao. Liệu là trắc ẩn? Hay là đau khổ xốn xang?

Hắn tò mò thật lòng, song đã không còn nhìn thấy gì nữa.

Năm giác quan thoái mòn, ý thức mù mịt, hắn sắp chết.

Thế mà tại loáng mắt ấy, lòng hắn trỗi lên khoái cảm khôn tả...

Người xem, nếu thế người sẽ không quên được ta nữa.

Hắn nhoẻn cười ngay thời khắc chót.

Và nghĩ thầm, ta vẫn là tên khốn nạn như thế.

***

Màu đen vô tận và tà khí nghi ngút trộn vào nhau đến khi ánh kiếm của Tiêu Phục Huyên vang lên ngăn lại, mọi người ngẩn ngơ một lúc lâu mới nhận ra thẩm vấn đã hoàn tất.

Ký ức con người chẳng qua chỉ là những hình ảnh thưa thớt, chúng đan xen vào nhau trong lúc thẩm vấn, ngoại trừ chính bản thân Thiên Túc thượng tiên chưởng quản hình xá thì người thường chỉ có thể lướt sơ qua chứ không cách nào thấu tỏ.

Họ chỉ ấn tượng những phút giây kinh hồng một thoáng, ấn tượng bậc thang bạch ngọc cao cao hôm đầu Vân Hãi lên Tiên Đô, ấn tượng núi đao biển lửa khi lãnh phạt quỳ ở mười hai Linh đài, và cả vị Linh Vương mang mặt nạ chưa từng xuất hiện trong bất kỳ sách tiên nào...

Khi Ninh Hoài Sam và Phương Trữ bước vào gian phòng tròn tiến hành thẩm vấn thì vừa khéo thấy được khung cảnh ấy.

Họ ấn tượng sâu sắc với cảnh nọ bởi bất giác cảm thấy phong cách tiếp kiếm của Linh Vương sao quen thuộc quá đỗi, cứ như họ đã từng gặp ở đâu rồi.

Nên khi thẩm vấn kết thúc, họ hãy còn thất thần nghĩ về cảnh tượng ấy hồi lâu mà chưa kịp hoàn hồn.

Cho đến khi họ nghe tiếng hít thở khẽ vọng lên từ huyệt sâu.

Bọn họ bất chợt hoảng hốt. Trong cơn tò mò trỗi dậy, họ bước đến bên cạnh Ô Hành Tuyết và vươn cổ nhìn xuống huyệt mộ. Bên dưới dây leo chằng chịt kia, người mặc áo đen bị trấn áp mấy trăm năm nay đột ngột mở mắt.

Con ngươi đen nhánh dần dà lấy lại tiêu cự, người đầu tiên hắn nhìn thấy là Ô Hành Tuyết đang cúi người đứng bên cạnh huyệt mộ.

Khoảnh khắc đó, hắn nhìn chòng chọc Ô Hành Tuyết, đôi môi khô khốc run run và thốt lên một cái tên theo bản năng.

Giọng hắn khàn nghẹn, gần như không thành tiếng.

Nhưng nếu nhìn kỹ khẩu hình vẫn có thể nhận ra, hắn vừa thốt lên hai chữ...

Linh Vương.

Vị tiên được trời ban danh tự "Chiêu" xưa giờ chưa từng hiện diện.

Phương Trữ: "........."

Ninh Hoài Sam: "........."

28.  TỰ PHẠT

❄︎

Ninh Hoài Sam âm thầm véo hông Phương Trữ một phát, lẳng lặng truyền âm sang, "Thấy không, Linh Vương..."

Phương Trữ: "..."

Hắn cắn răng nuốt tiếng rít trở lại, bẻ ngược ngón tay ra, "Thấy rồi, tao không mù, mày nhéo nhéo cái gì?"

Ninh Hoài Sam: "Tao thấy chẳng thà mù còn hơn."

Cậu trầm ngâm song càng nghĩ càng thấy lạ kỳ. "Đó là thành chủ của chúng ta đó, ngài ấy xây nên nguyên cả Động Ma Chiếu Dạ thành. Thân là đại ma đầu trứ danh bậc nhất, vì sao lại có người dám gọi ngài ấy bằng danh xưng của một Thượng tiên."

"... Tại sao, khùng rồi à?"

"Không loại trừ mặt mũi tương tự nên nhận nhầm, hoặc là..." Phương Trữ nghẹn họng đẻ ra lý do, nói được nửa đành dừng lại. "Thôi, nghĩ không ra, cứ vậy đi."

Khắp thiên hạ này, dễ gì đào ra người khác có gương mặt giống thành chủ họ. Trong tất cả mọi loại đồn đãi, người từng gặp y đều bảo nhìn một lần thôi đã khó cách nào quên được, thế thì làm sao có thể nhận nhầm?

Huống hồ, Ninh Hoài Sam và Phương Trữ hãy còn nhớ rõ động tác tiếp kiếm của Linh Vương nọ...

Ai ở lâu bên cạnh Ô Hành Tuyết đều biết rằng ma đầu này không thích cầm những món đồ phiền phức trong tay. Nếu cần dùng gì chỉ việc chọn ngay những thứ tại nơi ấy hoặc hỏi từ những người xung quanh.

Ninh Hoài Sam và Phương Trữ đi theo y lâu nhất nên thường chỉ cần Ô Hành Tuyết đưa tay là họ ngoan ngoãn giao đồ ra ngay.

Và mỗi lần Ô Hành Tuyết bắt lấy món đồ đều sẽ xoay nó một chút.

Nhắc đến lại thấy trớ trêu, trên Tiên Đô với vạn toà dao cung, y xoay kiếm thật nhẹ nhàng đầy khoáng đạt. Rồi khi vào Động Ma nhân gian lại hoá thành bộ dáng khó lường và bất cần...

Rõ ràng là cùng một động tác.

Ninh Hoài Sam bần thần một chớp mắt rồi nhanh chóng bỏ ý nghĩ này ra khỏi đầu. Cậu và Phương Trữ kè kè bên nhau, cùng nhìn thành chủ nhà mình một cách bất chấp bão tố như đang cố gắng thấu tỏ phần nào ngọn nguồn.

Song, Ô Hành Tuyết cũng chẳng khá khẩm hơn hai người họ là bao.

Chàng lặng tinh giây lát, đoạn rủ mắt hỏi Vân Hãi, "Ngươi gọi ta là gì?"

Vân Hãi không trả lời.

Gương mặt ngủ say dưới lòng đất, lâu ngày không đón nhận ánh mặt trời giờ đây trắng bệch, nhợt nhạt không khác gì tro giấy đã bị thiêu trụi trong những buổi cúng tế ở nhân gian, thoáng như một cơn gió xua qua là tiêu tán.

Hắn chậm rãi chớp nhẹ mắt, đồng tử quét qua từng phản ứng của Ô Hành Tuyết, kế đó dần dà chuyển sang Tiêu Phục Huyên, ánh mắt hắn soi từ trên xuống dưới và lướt qua cổ tay với dấu ấn đen bên trên.

Thế rồi, Vân Hãi khép mắt lại, cả thân thể run lên nhè nhẹ bên dưới dây leo chăng kín.

Một hồi sau, Ô Hành Tuyết mới nhận ra là hắn đang cười.

Hắn đã yếu ớt cùng cực nhưng vẫn kiềm lòng không đặng mà bật cười trong lặng lẽ.

"Ngươi lại đi hỏi ta rằng ta vừa gọi ngươi là gì..." Vân Hãi hấp háy môi mà vẫn chỉ để lọt âm thanh như tiếng thở mong manh. Dường như những sợi dây leo kia đã bó chặt lấy hắn, siết vào lồng ngực và cổ họng hắn khiến hắn thậm chí không nấc ra được một hơi trọn vẹn.

Dầu thế, hắn cũng đã sớm quen với sự bó buộc này nên chẳng lấy gì bận tâm. Hắn chỉ giữ nguyên đôi mắt nhắm nghiền và tiếp giọng lặp lại bằng một cường độ nhỏ đến mức không nghe được, "Ta không thể ngờ, không thể ngờ có một ngày ngươi lại hỏi ta vừa gọi ngươi là gì..."

"Chẳng phải chỉ có những vị tiên bị phế truất khỏi Tiên Đô, đẩy về nhân gian và không còn nhớ bất kỳ điều gì mới hỏi như vậy hay sao? Thế mà ta lại được nghe từ miệng ngươi cơ chứ..."

Vân Hãi lại nấc cười không thành tiếng, chậm rãi nói, "Linh Vương... Thiên Túc... Được trời triệu hoán, không hưởng thờ phụng, không nhận hương khói..."

Khi khép mắt, trông hắn thật bình tĩnh như rơi vào giấc mơ, trong mơ, khung cảnh ngày đầu bước chân vào Tiên Đô hãy còn sinh động tựa thuở nào. Hắn chầm chậm nhắc lại những lời tiên sứ Linh đài nọ từng nói.

"Ta đã từng... rất ngưỡng mộ hai ngươi," hắn nhắc lại tên xong thì nhẹ nhàng nói tiếp.

Ô Hành Tuyết lắng nghe và thoáng nhìn sang Tiêu Phục Huyên.

Ngay khoảnh khắc đó, trong đầu chàng chợt hiện lên câu: "Ta rất ngưỡng mộ huynh..."

Giọng nói ấy không uất nghẹn nhường này, âm điệu cũng không khẽ khàng đến thế, lời kia chỉ tựa một lời than thở vu vơ giữa những người bạn. Ô Hành Tuyết không nhớ rõ tình huống cụ thể nhưng tiềm thức chàng biết đây là lời của Vân Hãi.

Là lời của một Vân Hãi còn ở Tiên Đô.

***

Khi đó, Vân Hãi mới vừa bị giáng chức làm sơn thần thung lũng Đại Bi, đồng thời còn lãnh thêm phạt từ Tiên thủ Hoa Tín nên hắn vòng qua vòng lại trước cửa Linh đài sáu lần mà không dám vào, rảo một hồi quanh Tiên Đô rộng lớn rồi cuối cùng dừng chân ở "Toạ Xuân Phong" heo hút nhất.

Hiếm khi gặp được Linh Vương ở đây, Linh Vương ngồi gác chân bên hông cửa sổ, trên mặt bàn trước mặt có đặt một bình rượu tiên và hai chiếc ly không.

"Huynh vẫn luôn nói nơi này ít người lui tới, đã ít người lui tới mà sao mọi thứ đều đủ đầy thế kia," Vân Hãi chịu đựng chưa đến trăm năm, dù trong lòng có nghĩ gì cũng không treo ra trước mặt, mỗi lần mở miệng đều tỏ ý trêu đùa. "Có phải Linh Vương hẹn vị giai nhân nào không? Ấy, hay là ta đến không đúng lúc rồi nhỉ?"

"Đúng vậy, cậu đến không đúng lúc, giờ đi đi còn kịp đấy," Linh Vương tức giận đáp lời.

"Không được rồi, hôm nay ta bức bối quá, làm gì làm cũng phải kiếm chỗ nào đó xả vài câu chứ không..." Vân Hãi thoáng ngừng.

"Chứ không thì sao?"

"Chứ không có khi ta lại vòng tới Linh đài lần thứ bảy mất," Vân Hãi bật cười châm biếm.

Theo nguyên tắc xưa giờ, Linh Vương sẽ không hỏi chuyện Linh đài. Dù không đáp câu ấy nhưng Linh Vương vẫn hỏi thăm hắn câu khác, "Bị gì mà bức bối đến mức nghẹn cả lòng như vậy."

"Ta uống rượu này được không?" Vân Hãi hỏi.

"Không được," Linh Vương chìa tay phẩy một cái, cả rượu tiên lẫn ly không đều đáp sang khay trống trên tay tiên đồng. "Đây là quà tạ tội của ta."

Nói đoạn, y hươ tay với một tiên đồng khác và lấy bầu rượu mới cho Vân Hãi.

"Tạ tội? Ai dám bắt huynh tạ tội? Mỹ tửu xứng mỹ nhân, dùng tạ tội khác nào phí hoài cho huynh đêm nay," Vân Hãi lầm bầm rồi rót một ly rượu cho mình.

Với người khác, rượu vào lời ra, giải toả bao nỗi bực dọc trong lòng.

Còn Vân Hãi uống hết ba ly mà vẫn chưa trút bầu tâm sự, chỉ càu nhàu rằng rượu mới ủ trong kho không thơm ngon bằng rượu cũ, uống ba ly vào đã say mèm.

Hắn giơ chén rượu lên và cụng nó trước mặt Linh Vương rồi nói, "Ta rất ngưỡng mộ huynh, huynh không cần rầu lo hương khói điêu tàn, có thể tranh thọ cùng Linh đài."

"Vì sao đại nhân nhà ta phải tranh thọ cùng Linh đài," Linh Vương chưa nói gì mà tiểu đồng tử đã thắc mắc trước.

Nhưng rồi Vân Hãi chỉ cười to, đoạn nắn mặt tiểu đồng tử nọ, tay kia ôm bầu rượu mà rằng, "Tiểu đồng tử ở Linh đài không khác gì lão đồng tử, chẳng đáng yêu và lanh lợi như ở Toạ Xuân Phong gì cả."

Linh Vương chẳng hề khách sáo, "Dĩ nhiên rồi, đây là đồng tử ta nuôi cơ mà."

Tiểu đồng tử xoa mặt bỏ chạy, ngờ đâu đụng trúng một đôi chân dài ngoài cửa và kêu lên "Ái da".

Linh Vương ngước mắt, Vân Hãi đang lim dim cũng ngoái đầu nhìn theo thì thấy Thiên Túc thượng tiên Tiêu Miễn đang nâng mành đứng bên cửa.

Y quét mắt nhìn trong phòng và dừng lại nơi Vân Hãi đang ôm bầu rượu tiên. Sau một lát, y mới quay mặt sang Linh Vương đặng cất giọng nhàn nhạt, "Ngươi bứt lá trúc trong cung của ta rồi dán ghi chú lên trán đồng tử để kêu ta đến xem cảnh này à."

Vân Hãi lúc này đã mơ màng, ngó trái ngó phải đoạn cười trêu, "Lần đầu tiên ta được nghe Thiên Túc thượng tiên nói một câu có nhiều chữ như vậy đấy, quá hiếm gặp. Ta đã học hỏi được nhiều rồi."

Đoạn, hắn lại tiếp tục, "Huynh bảo mỹ tửu xứng mỹ nhân không có ý nói đến Thiên Túc đại nhân đấy chứ?"

Nét mặt Thiên Túc thượng tiên tức thì trở nên khôn tả.

Hệ quả là, y vốn định đi luôn thì bất chợt đổi ý, hai ngón tay vén trên bức mành buông rủ tựa rèm sương và chờ nghe tiếp còn chuyện quái gì sau đấy nữa.

***

Có lẽ hôm ấy nhiều lần bị ngắt lời, chỉ e rằng chính Vân Hãi cũng không nhớ được trọn vẹn câu nói của hắn. Mấy trăm năm sau mới có dịp nhắc lại nghiêm túc một lần.

Thế mà người ôm bầu rượu bật cười sang sảng năm nào thân xác giờ như quỷ ma. Thiên Túc thượng tiên vén mành bước vào năm nào giờ chỉ còn là một phân thân. Và chủ nhân dao cung người đãi khách năm nào thậm chí không còn nhớ bản thân mình là ai, một mình giữa gió xuân mà Linh Vương đã vắng bóng.

"Ta những tưởng hai vị là người sẽ không bao giờ âu lo về sinh tử hay phế tiên, sẽ sóng đôi với Linh đài, trường cửu cùng Tiên Đô, nào có ngờ..."

Nụ cười không thành tiếng của Vân Hãi đầy châm biếm, không rõ hắn đang châm biếm bản thân hay đang cười nhạo kẻ khác.

"Sao hai người lại ra nông nỗi này?" Hắn yên lặng một hồi rồi chợt rê nhẹ cổ, tròng mắt khẽ run và thở "À" một hơi như nhớ ra gì đó, thốt, "Phải rồi, Tiên Đô cũng đã diệt vong, dĩ nhiên còn có thể làm tiên gì nữa đâu chứ."

Nghe đến đây, Ô Hành Tuyết thoáng chau mày, "Sao ngươi biết Tiên Đô đã diệt vong?"

Nhóm Ninh Hoài Sam cũng sửng sốt theo, "Đúng vậy. Sao ngươi biết chuyện này?"

Vân Hãi bị nhốt dưới này tối thiểu cũng phải vài trăm năm, vào thời đó Tiên Đô vẫn còn hưng thịnh.

Trong mấy trăm năm vừa qua, hắn đã hấp thu kha khá dưỡng chất thông qua "Ấn thờ", và cũng dùng việc báo mộng để dụ dỗ bá tánh đến nơi này hòng đánh đổ đại trận. Thế nhưng nào có một ai dấn sâu vào chốn thâm cùng hầm mộ này để giảng giải thế đạo đổi dời cho người dưới lòng đất đâu.

Vậy làm sao hắn biết Tiên Đô đã diệt vong?

Ô Hành Tuyết lia mắt nhìn thì thấy trên vách đá huyệt mộ có khắc phù văn, những nét phù văn này vừa dày đặc vừa lộn xộn nên ban đầu chàng không để ý đến, thoạt nhìn không biết đó là phù văn mà tưởng chỉ là vết nứt do dư chấn tạo thành.

Giờ nhìn kỹ mới phát giác nguyên do những nét phù văn kia dày đặc và lộn xộn như vậy là bởi nó bị chồng hai lớp — trước đây từng có một lớp và sau này phủ thêm một lớp nữa.

Không chỉ thế, nét bút của hai lớp phù văn này không giống nhau, có vẻ không phải do một người lập nên.

Nếu nét phù văn cũ là nét chữ của Hoa Tín để lại khi chôn Vân Hãi dưới hầm mộ này thì...

Nét mới của ai?

Một suy đoán nảy ra trong đầu Ô Hành Tuyết.

Chàng vừa quay sang nhìn những sợi dây leo chằng chịt quanh người Vân Hãi thì nghe người kia mở hé mắt và cất giọng thì thào, "Vì ta đã từng ra ngoài."

Mọi người thất kinh ngay lập tức.

Câu nói thật giản đơn mà khiến chúng đệ tử tiên môn toát mồ hôi lạnh cả người.

Tà ma bị trấn dưới đây còn có thể ra ngoài được?!

Họ thiếu điều muốn khai một đợt kiếm trận nữa thì nghe Y Ngô Sinh chợt lên tiếng, giọng thật khẽ khàng, "Có phải... hơn hai mươi năm về trước không?"

"Hơn hai mươi năm trước ngươi ra ngoài phải không?"

"Có phải ngươi đã... đến nhà họ Hoa không?"

Y Ngô Sinh gắng mình hồi tưởng lại những việc hơn hai mươi năm trước, thời điểm mà nhà họ Hoa ra sức chữa trị cho người lạ. Vào quãng thời gian ấy, có quá nhiều người bị mắc nạn, khách đến nườm nượp không khi nào ngơi nghỉ, đến độ như muốn đạp nát thềm cửa nhà họ.

Nếu vị tà ma này trà trộn trong số những người kia thì hoàn toàn có thể lý giải vết ấn thờ bí ẩn xuất hiện sau cổ hắn và Hoa Chiếu Đình...

"Nhưng ngươi ra ngoài bằng cách nào?!"

Vân Hãi nghe một đằng trả lời một nẻo mà bảo, "Ta đến nhà họ Hoa không chỉ một lần."

Lời này vừa thốt, tất thảy dây leo trói chặt cơ thể hắn thình lình phát điên như sống dậy, chúng quật lên cùng tiếng gió rít gào và đập liên tục về phía mọi người.

Đệ tử tiên môn vừa vung kiếm đâm thủng một sợi, tà khí từ bên trong tức thì cuồn cuộn trào ra không ngớt!

Hắn đột ngột nổi điên như vậy khiến đa phần mọi người không kịp trở tay.

May mà thanh trường kiếm của Tiêu Phục Huyên còn chưa tra vào vỏ, bao kim quang tuôn trào như sóng cuộn nhanh chóng toả ra. Ánh vàng đi đến đâu dây leo bị nát vụn đến đấy!

Giữa dây leo chằng chịt và tà khí mịt mùng, mũi kiếm mang chữ "Miễn" xé không chém thẳng xuống, ngay trước khi đâm xuyên qua trái tim Vân Hãi thì đột ngột ngừng lại.

Khoảnh khắc ấy, cả hầm mộ lặng tắp không một tiếng động.

Sau khi nín thở hồi lâu, mọi người mới nghe thấy âm thanh trầm thấp của Tiêu Phục Huyên vang lên, "Nếu đã ra ngoài rồi tại sao còn phải quay về."

Ai nấy đều ngỡ ngàng, bấy giờ mới kịp phản ứng.

Phải rồi, nếu người đã ra ngoài được thì cần gì phải quay về? Ngươi đã tốn trăm phương ngàn kế, hao tổn đến từng ấy là để thoát khỏi trấn áp, để được nhìn thấy ánh sáng mặt trời kia mà?

Thế rồi họ mới dần dà ngỡ ra, cơn bùng nổ bất thình lình ban nãy của Vân Hãi dường như chỉ là nỏ mạnh hết đà chứ không phải sát chiêu. Đã biết rõ nơi đây có Tiêu Phục Huyên mà còn phát rồ như vậy thì chỉ tổ nhận về một đòn trí mạng chứ có đánh đổi được chi khác.

Ý định của hắn là gì...

Vân Hãi cất giọng khàn khàn, "Tuy ta và Linh Vương là cố hữu, nhưng vốn không mấy thân thiết với Thiên Túc đại nhân, một khi đương đầu không cần niệm tình cũ thiếu thiết thực đó."

Nói đoạn, dây leo trên người hắn lập tức xoắn vào lưỡi kiếm của Tiêu Phục Huyên, bởi không chịu nổi tiên khí mà liên tục nổ tung, song vẫn không ngừng siết chặt mũi kiếm kéo mạnh xuống...

Một tiếng phập vang lên.

Thanh kiếm tiên xuyên tim mang đến cơn rét run người. Bởi thế mà hắn hoài niệm về bầu trời xám tro trên đỉnh thung lũng Đại Bi mấy trăm năm về trước...

Thanh kiếm chuôi khắc hoa văn nhành đào của Hoa Tín không lạnh đến thế.

Nhát kiếm năm xưa lẽ ra nên tước đi sinh mệnh hắn, mà không rõ vì sao vẫn chừa hắn một con đường sống. Và hắn cũng không rõ Hoa Tín đã làm gì sau khi mình chìm vào hôn mê.

Hắn chỉ biết rằng một ngày kia thức giấc, hắn choàng mở mắt như bừng tỉnh khỏi cơn mơ, thấy có gì đó phủ đầy cả người mình và trên cao đã không còn ánh nắng.

Khắp nơi khắc đầy phù văn và hắn không cách nào cử động.

Khi hắn nóng lòng cùng cực đến độ bùng nổ tà khí cũng là lúc hắn nghe được một giọng nói vọng từ nơi xa mà cận kề bên cạnh. Giọng nói ấy thân thuộc khôn cùng, là giọng nói dù qua nhiều đời hắn cũng chẳng thể nào quên.

Giọng nọ bảo, "Vân Hãi đồ đệ ta."

Hắn nghe vào an lòng trong nháy mắt, rồi tiếp tục tiếp tục lắng nghe.

Chẳng là có đôi khi hắn không thể kiểm soát bản thân, dù gì tu đạo tà ma cũng đều khó tránh khỏi những lúc như vậy. Đã tu đến cuối đường vẫn không rõ tột cùng mình nắm quyền tà khí hay tà khí nắm quyền mình.

Những khi đó, cảm giác một hồn xé đôi lại trỗi dậy, một nửa hắn nói: Ta muốn ra ngoài, có ai có thể ngăn cản được ta?

Nửa còn lại bảo: Không thể đi.

Người ta vẫn thường ghé chân qua thung lũng Đại Bi, hắn có thể tận dụng những lúc cự trận lơi là mà thả một phần linh thức thoát khỏi hầm mộ, bám lên thân thể của một người qua đường nào đó.

Một khi hơi thở người sống lọt vào mũi rồi mới khiến hắn nhận ra không ngờ mình đã đói bụng lâu lắm rồi. Ngày hôm đó, hắn lặng lẽ đứng trên bệ thờ trong miếu tiên hệt như tượng thần năm nào hiên ngang ngó nhìn người cúng tế, rồi vừa cười mỉa mai vừa lưu lại trên người họ vài dấu vết.

Thời điểm ấy, một nửa kia hồn phách hắn bật thốt: Quả nhiên, ngươi vẫn là thứ tà ma.

Thông qua ấn thờ, hắn được nếm bao hương vị ngon ngọt, thành thử lại dùng một vài cách khác để có thể tiếp nhận sức sống của sinh linh không ngừng tuôn trào dù chẳng cần tự mình phải ra tay.

Hắn tích trữ sức lực càng lúc càng nồng hậu, rồi đến một ngày kia đã có thể bám trên cơ thể người sống và rời khỏi thung lũng Đại Bi.

Thế giới trong mắt hắn đã sớm lạ lẫm từ lâu, bất giác hắn không rõ mình nên đến nơi nào.

Chợt khi nhận ra thì hắn đã đứng trong Thính đường nhà họ Hoa ở Xuân Phiên thành, ắng yên mà nhìn bức chân dung treo trên Thính đường nọ.

Trong một chớp mắt, tà khí chiếm ưu thế kiểm soát, khiến hắn hổ thẹn tới tức giận.

Nửa phần hồn kia châm chọc: Một kẻ ra tay giết ngươi mà ngươi còn tính thương nhớ cái gì?

Nửa còn lại nói: Nhưng ta đã chết đâu.

Nửa kia lại móc mỉa: Thế thì ngươi muốn chết thật một lần để thể hiện tấm lòng à? Ta không cho ngươi toại nguyện đâu.

Chỉ với chút u hồn khi ấy, trong mấy ngày mà hắn tác quái không ít lần.

Đầu tiên phải kể đến bản tính của tà ma, còn thứ hai... hẳn rằng hắn cũng muốn xem xem liệu có thể tái ngộ vị Tiên thủ kia lần nữa hay không.

Mắng nhiếc hắn cũng được, mà giết hắn cũng được, làm thế nào cũng chẳng nề hà.

Nhưng hắn chờ mãi vẫn không thấy ai đến.

Một khi linh thần sắp tiêu hao hoàn toàn, hắn lại quay về hầm mộ đặng tích tụ thêm ít "thức ăn". Hắn cũng không đếm xem một lần ngủ say sẽ mất mấy tháng hay là mấy năm.

Cứ thế, hắn ra ra vào vào trong mơ hồ mấy bận, cho đến một ngày kia, hắn đứng trước Thính đường nhà họ Hoa và ngẩn người thật lâu trước bức chân dung Hoa Tín một lần nữa.

Đệ tử trẻ nhà họ Hoa cất tiếng hỏi, "Không biết tiên sinh gặp phải vấn đề gì chăng? Có phải vấn đề liên quan đến hồn mộng nên ngài đến tìm Y Ngô Sinh tiên sinh không ạ?"

Hắn đâu có biết Y Ngô Sinh là ai mà cũng chẳng để tâm đến lời đệ tử trẻ nọ mà chỉ bần thần hồi lâu mới hỏi, "Tiên thủ Minh Vô gần đây vẫn tốt chứ?"

Ấy thế mà vị đệ tử nọ há hốc mồm, kinh ngạc trả lời, "Thưa tiên sinh, Tiên Đô đã diệt vong ít lâu rồi, Linh đài Thập nhị tiên không còn nữa, Tiên thủ cũng đã qua đời rồi ạ."

Vân Hãi chẳng thể nhớ rõ ngày hôm ấy hắn đã thoát khỏi cơ thể người sống kia bằng cách nào, cũng chẳng thể nhớ rõ mình đã tạo nghiệt gì nữa hay không, và thậm chí chẳng nhớ rõ mình đã quay về thung lũng Đại Bi ra sao.

Thốt nhiên, hắn chỉ ngỡ ra rằng, thế gian rộng lớn nhường này hoá ra cũng chỉ đến thế.

Được nhìn thấy bầu trời thì có sá gì? Còn không bằng chôn mình dưới đáy mộ trong lòng thung lũng Đại Bi, ít ra nơi đây hắn còn được nghe thấy giọng người kia.

Đấy là lần đầu tiên hai phần hồn của hắn nảy sinh xung đột mãnh liệt đến thế, một nửa muốn bỏ chạy còn một nửa muốn ở lại đây mãi mãi.

Hắn là đồ đệ Vân Hãi của Hoa Tín, hắn là tà ma Vân Hãi.

Khi tỉnh táo, lúc cuồng điên.

Những lúc cuồng điên, hắn vận hết thảy tà thuật hòng đập vỡ lớp trấn áp nơi đây. Khi tỉnh táo, hắn bồi thêm một tầng phù văn bên trên cự trận đã nới lỏng của Hoa Tín.

Trận phân tranh với bản thân không ngơi nghỉ đã kéo dài hơn hai mươi năm, đủ rồi.

Giờ đây cự trận tiêu tán, hắn chẳng bao giờ nghe thấy giọng người kia được nữa, thế thì còn lưu luyến chi đâu, chẳng bằng mượn tạm lưỡi kiếm cố nhân và trao bản thân một lần giải thoát.

Từ nay về sau, sóng gió vạn dặm thế gian đã chẳng còn can hệ gì đến hắn.

29. ĐOẠN NGẮN

❄︎

Giờ đây, tà khí tai ương cuồn cuộn đều vùi theo xuống mồ.

Sức sống leo lắt trên người Vân Hãi tan biến. Dẫu dáng vẻ hắn chẳng đổi thay nhiều song vẫn khiến người nhìn có cảm giác chỉ tích tắc đã úa tàn, có lẽ vì dây leo trên người hắn héo khô một cách chóng vánh.

Tận bấy giờ, mọi người mới vỡ lẽ những sợi dây leo kia đều mọc ra từ trái tim hắn.

Ắt rằng chúng nó cộng sinh với Vân Hãi, một khi hắn chết đi thì dây leo cũng chẳng còn sức sống. Mấy nhánh dây xoắn trên thân kiếm Tiêu Phục Huyên tức thì buông lỏng, trượt xuống mũi kiếm và khô quắt lại.

Chỉ có cành hoa vẫn y nguyên dáng vẻ, thân và lá quấn quanh cổ Vân Hãi với đoá hoa nâng đỡ một nửa gương mặt quỷ của hắn.

Không một ai ngờ Vân Hãi sẽ chọn con đường tự sát nên tất cả đều thẫn thờ.

Tiêu Phục Huyên lặng lẽ rút kiếm ra và ngồi dậy, hai hàng mày dần nhíu chặt.

Ô Hành Tuyết nhìn gương mặt chẳng còn sức sống của Vân Hãi một hồi, rồi mới nhỏ giọng hỏi, "Có còn tàn hồn không?"

Tiêu Phục Huyên lắc nhẹ đầu. "Thần hồn toàn diệt."

Thanh kiếm y xuyên thẳng vào tim Vân Hãi, y là người hiểu rõ nhất tàn hồn dưới mũi kiếm có còn lại gì hay không. Thế mà chẳng tìm được chút nào, ắt là thần hồn đã toàn diệt.

Dây leo khắp người rũ rạp xuống giúp trông rõ phần lớn thân thể Vân Hãi, một góc thẻ bài lộ ra dưới vạt áo đen bên hông hắn.

Y Ngô Sinh khẽ khàng thốt, "Đó là thẻ bài của phái tôi."

Thẻ bài đeo bên hông và phụ kiện treo kiếm của nhà họ đều được đẽo hoa đào từ ngọc phù dung, đây là nét đặc trưng có một không hai nên rất dễ phân biệt trong các tiên môn.

Song, chỉ có đệ tử môn hạ nhà họ Hoa mới đeo thẻ bài bên hông mà thôi, khi đến cấp trưởng lão hay môn chủ, đặc biệt là những người như Y Ngô Sinh với Hoa Chiếu Đình thì không dùng thẻ bài để tỏ rõ thân phận.

Thật không ngờ vị này từng thăng tiên từng đoạ ma, thế mà vẫn mang thẻ bài bên mình đến chết.

"Chữ trên thẻ bài do ai khắc thế?" Ô Hành Tuyết lật tấm thẻ bài ra xem, thấy cái tên "Hãi" thon và dài khắc ở mặt sau. "Có phải một vị gia chủ trước đây không?"

Y Ngô Sinh lắc đầu, "Không phải, thẻ bài do chính tay đệ tử khắc."

Ô Hành Tuyết: "Vậy đây là nét của Vân Hãi à."

Y Ngô Sinh: "Đúng vậy."

Ô Hành Tuyết chỉ "À" nhẹ, tự nhủ thế thì đúng rồi.

Ban nãy, chàng phát hiện trên tường hầm mộ có hai lớp phù văn, lớp đặt bên trên được viết bằng nét chữ thon dài tương tự thế này, vậy ắt do tự tay Vân Hãi viết.

Sau đó, mọi người tìm thấy đá mắt trận để trấn áp đại trận trong máu me và bùn đất bên dưới tay trái Vân Hãi.

Bên trong mắt trận có hai viên đá trận, một viên đã vỡ nát, một viên được đặt vào sau. Bên trên viên đá được đặt vào sau cũng có một dấu ấn, đó là chữ "Hãi" tương tự nét chữ trên thẻ bài.

Khi nãy, mọi người còn đắn đo không hiểu vì sao con mắt trấn áp đại trận lại nằm rành rành ngay giữa trung tâm hầm mộ như vậy, mà giờ đây khi nhìn thấy viên đá trận thì ai nấy đều tỏ tường.

Người gia cố và tiếp tục trấn áp đại trận là chính bản thân Vân Hãi.

"Việc này..." Y Ngô Sinh cầm viên đá trận nọ với nét mặt phức tạp, khó nói là thổn thức hay còn cảm xúc gì khác. Sau chót, hắn lắc đầu thở dài và đành lòng mà rằng, "Thật đáng tiếc."

Trong tất cả những người có mặt nơi đây, Y Ngô Sinh là người không nên mang tâm trạng ấy nhất. Nói cho cùng, dấu ấn sau cổ hắn do chính Vân Hãi ban, hơn hai mươi năm vật vã khốn cùng của hắn đều bắt nguồn từ nơi này.

Ai cũng có thể xúc động cảm khái trước câu chuyện của Vân Hãi, trừ mỗi Y Ngô Sinh.

Thậm chí nếu giờ đây, hắn rút kiếm trút giận lên xác chết Vân Hãi đi nữa cũng chẳng ai có quyền mắng hắn sai rồi. Song, hắn đã không làm như vậy, hơn thế, còn thốt lên tiếng "đáng tiếc" thương thay cho tà ma kia.

Ô Hành Tuyết nhìn vết thương thành sẹo sau cổ Y Ngô Sinh, bất giác trỗi dậy chút nuối tiếc.

Chàng thầm nhủ, không rõ trong quá khứ mình và vị Y Ngô Sinh nhà họ Hoa này có mối quan hệ đến bực nào. Nghĩ lại có vẻ không thân thiết lắm, dầu gì một người cũng là đệ tử tiên môn, người kia lại là ma đầu.

Cũng thật đáng tiếc.

Nếu có thể quen biết một người như vậy không tệ chút nào.

Y Ngô Sinh khom người ngồi xuống và chôn viên đá trận bên dưới lòng bàn tay Vân Hãi lần nữa. Cầm lên thả xuống một bận khiến máu me và bùn đất xung quanh bị xới lên ít nhiều, hắn tính đắp máu bùn lên trên thì có hai ngón tay chặn lại.

"Thưa Thượng tiên?" Y Ngô Sinh ngước nhìn thì thấy Tiêu Phục Huyên đang chắn tay mình lại.

Tiêu Phục Huyên đáp, "Có gì ở đây."

Ngón tay thẳng dài của y chỉ vào máu bùn đậm đặc, ngoài ra không thấy thứ gì khác.

Mọi người giương mắt nhìn nhau, tò mò không thôi.

Ô Hành Tuyết đứng bên cạnh y bèn cúi người, hỏi, "Thứ gì thế?"

Tiêu Phục Huyên không trả lời ngay lập tức.

Ngó chừng tìm kiếm bất thành, y bèn nhấn thẳng một ngón tay xuống mặt đất. Cơ thể Vân Hãi nằm yên không nhúc nhích nhưng đất bùn và máu bất ngờ rung chuyển, đẩy thứ đang chôn sâu bên dưới trồi lên.

Đó là một món đồ màu trắng, phát ra ánh sáng âm ấm từ giữa cát bùn. Ô Hành Tuyết cực kỳ nhạy bén với sắc độ ấy nên chỉ lướt sơ đã biết đấy là bạch ngọc.

Tiêu Phục Huyên duỗi một ngón tay và móc món đồ nọ từ dưới bùn lên.

"Chuông mộng!" Y Ngô Sinh buột miệng thốt.

Nó là một chiếc chuông bằng bạch ngọc với vẻ ngoài tương tự chiếc chuông ở nhà họ Hoa, nhưng khi nhìn kỹ thì tinh xảo hơn nhiều. Trên mặt ngọc chạm rỗng những sợi vân mỏng giống hệt vỏ kiếm và mặt nạ của vị Linh Vương kia, chỉ nhìn thoáng qua cũng biết thuộc về cùng một người.

Có quả chuông mộng này trước mắt, nghiễm nhiên chiếc chuông ở nhà họ Hoa không cách nào kham nổi hai tiếng "hàng thật".

Giống như Y Ngô Sinh đoán từ trước, nếu Hoa Chiếu Đình đã giấu chuông mộng bên cạnh mình, thì kẻ duy nhất có thể tráo giả thành thật là tà ma thao túng hắn.

Giờ đây, tìm được chuông mộng dưới nấm mồ của Vân Hãi cũng không ngoài dự đoán, thế nhưng có một việc khiến Y Ngô Sinh thắc mắc, "Không biết... hắn ta tìm chuông mộng thật để làm gì?"

Mục đích của chuông mộng không gì khác hơn là dệt nên giấc mơ, biến dĩ vãng thành cảnh trong mơ hoặc đưa người vào cảnh trong mơ mới.

Trước đây khi bị phế, Vân Hãi còn không tính dùng chuông mộng, thế vì lý do gì phải đi một bước cồng kềnh là lấy chuông thật ở nhà họ Hoa rồi còn đặt chuông giả vào để nguỵ trang.

Ô Hành Tuyết tự hỏi.

Song giờ Vân Hãi đã chết, trích theo đúng lời Tiêu Phục Huyên là "Thần hồn toàn diệt" thì cũng hết cách tra hỏi rõ ràng việc này. Ô Hành Tuyết không đường nào xác nhận phán đoán của mình có đúng hay không.

Khi chàng còn đang suy tư thì chợt nghe một giọng nói trầm thấp gọi, "Ô Hành Tuyết."

Ô Hành Tuyết ngước mắt.

Tiêu Phục Huyên đứng dậy, treo chiếc chuông bạch ngọc trên ngón tay và nói, "Đưa tay."

"Hửm?" Ô Hành Tuyết thốt hỏi, kế một hồi mới mở lòng bàn tay về phía y.

Lòng bàn tay chàng bỗng dưng lành lạnh, chiếc chuông mộng đang nằm bên trên.

Dù chàng đã quên hết ráo trọi, chẳng nhớ tí ti gì về những việc từ Linh Vương đến chuông mộng. Mà ngay khi chiếc chuông nọ rơi vào lòng bàn tay, chàng chớp mi thật khẽ, có cảm giác mất mát gì đó thật xa xăm.

Chàng tăm tia chiếc chuông bạch ngọc kia một tí thì phát hiện bên trong chuông có một vết nứt.

Chàng bèn cầm soi kỹ một chút, thình lình có hình ảnh lờ mờ hiện ra trong đầu.

Lúc trước Y Ngô Sinh từng nói rằng, một khi chuông mộng đã đưa con người ta vào giấc mơ thì chỉ có chuông mộng mới có thể giải được, bằng không khi tỉnh lại linh hồn vẫn không nguyên vẹn hoặc ký ức vẫn không rõ ràng.

Mà bây giờ trông ra, chiếc chuông này bị hỏng rồi, chàng cũng không biết nên làm sao với nó nhưng trong lòng đã nảy ra chút linh cảm.

Ô Hành Tuyết mân mê ngón tay bên trên chuông mộng, ráng nhớ lại đoạn ngắn vừa loé qua...

Đó là một đêm rét trời nào đó.

Không biết vì lý do gì mà chàng đứng khoanh tay bên cạnh cửa, lòng bàn tay siết chặt một món đồ cưng cứng và lạnh căm. Món đồ ấy góc cạnh và cộm đến mức đau điếng cả tay chàng.

Còn Tiêu Phục Huyên đang đứng ngay cửa, tay y nâng tấm mành che, không bước tới cũng không bước lùi mà nhìn chàng với đôi ngươi thoáng rủ.

Sau lưng là một trảng vườn rộng lớn, trong vườn có một gốc đại thụ rợp trời phủ tuyết.

Và chàng, đang nắm chặt món đồ trong tay đặng âm thầm tranh đấu với người ở cửa.

Mãi một hồi lâu sau, chàng mới khẽ nghiêng đầu mà rằng, "Tiêu Phục Huyên, ngươi đã từng nghe tà ma coi trọng dục vọng chưa?"

Cả căn nhà chìm vào tĩnh lặng.

Tiêu Phục Huyên vẫn giữ tư thế vén mành, mãi sau mới lên tiếng, "Từng nghe."

Ô Hành Tuyết lặng người giây lát, nói tiếp, "Nếu ngươi đã từng nghe mà còn cố tình chọn ngày này để đến, thì có phải... muốn làm khách ghé loan phòng với ma đầu ta đây?"

Nói đoạn, chàng ngoảnh đầu nhấc cằm chỉ về phía giường.

***

"..."

Hình ảnh không đầu không đuôi lại rõ ràng đến lạ, Ô Hành Tuyết run bắn tay trước câu "khách ghé loan phòng" ấy. Để khi chàng ngước mắt lên thì thấy ngay gương mặt Tiêu Phục Huyên giống y đúc gương mặt trong ký ức.

Ô Hành Tuyết lặng thinh đứng im hồi lâu, rồi lặng lẽ nhét chuông mộng ngược vào tay Tiêu Phục Huyên.

30. CHUÔNG HỎNG

❄︎

Tiêu Phục Huyên liếc cái chuông mộng bị đẩy ngược về mình rồi nhìn lại Ô Hành Tuyết, song chưa kịp nói gì đã bị người cắn trước...

Ô Hành Tuyết: "Trả lại cho huynh đó, huynh đưa ta làm gì."

Tiêu Phục Huyên: "..."

Mấy đệ tử trẻ tiên môn vẫn còn nhớ rõ mồn một.

Họ nhớ chiếc chuông bạch ngọc này đã từng thoáng xuất hiện giữa cuộc thẩm vấn Vân Hãi ban nãy, nó là tiên bảo của Linh Vương. Họ cũng nhớ rõ trong câu chuyện kể giúp họ an lòng, Y Ngô Sinh ngỏ lời khen Ô Hành Tuyết rằng, "Vị công tử này có tấm lòng cao quý, người bình thường mà gặp phải tiên bảo hiếm thấy nhường này thì chắc chắn sẽ không bỏ qua, thế nhưng vị công tử này chẳng những không bị mờ mắt trước tiên bảo mà còn có thể trả lại nó."

"..."

Tiêu Phục Huyên không khỏi nhìn sang mấy đệ tử trẻ kia một cái.

Đệ tử trẻ hãy còn đặt tay lên ngực tự vấn, "Thật tâm mà nói thì ta cũng không làm được đến vậy... ơ?"

Cái liếc của Thiên Túc thượng tiên khiến họ giật thót mình, bấy giờ mới phát giác những lời đàm luận xì xào của mình bị nghe được, ai nấy đỏ bừng cả mặt mà ấp úng hồi lâu mới chỉ sang Y Ngô Sinh. "Là hồi nãy chúng tôi nghe tiền bối nói rằng Ô..."

Đám bọn họ đâu chưa dám nhìn thẳng mặt ma đầu mà gọi tên, chỉ "Ô" một phát qua loa rồi nói tiếp, "... Ờm, không phải là bản nhân mà do linh hồn phàm nhân sơ ý nhập sai thể xác mà thôi."

"..."

Y Ngô Sinh lặng thinh che mặt, trong lòng nhủ thầm mấy nhóc đệ tử này dễ bị gạt ghê.

Bao cặp mắt đổ dồn về đệ tử trẻ khiến mặt cậu đỏ càng thêm đỏ, cậu vội vã giải thích thêm, "À ừm... bọn tôi cũng từng nghe sư tôn dạy rằng sau khi Tiên Đô diệt vong, có một số tiên bảo đã lưu lạc chốn nhân gian, dẫn đến việc các đại môn phái lẫn cao nhân tán tu đều mưu đồ giành giật không thôi. Nói cho cùng, bên trong tiên bảo thường có lưu lại mệnh nguyên của tiên nhân, và phần linh lực ấy đã được tích tụ qua trăm ngàn năm nên hẳn nhiên ai cũng muốn chiếm đoạt. Thế nhưng trên thế gian, số người có khả năng giữ tiên bảo bên mình chỉ đếm được trên đầu ngón tay, nếu không có nền tảng tu vi hàng trăm năm thì làm gì có khả năng tiếp nhận từng ấy tiên khí đâu."

"Công tử mang linh hồn người phàm thì quả thật không nên cầm tiên bảo. Ngặt nỗi, dù vô số người hiểu được đạo lý này, nhưng có thể làm được mà chẳng mảy may dao động lại chẳng có bao nhiêu. Thế mới nói việc làm của công tử thật đáng thán phục."

Cậu ta bô lô ba la cả tràng xong còn chắp tay với Ô Hành Tuyết một cách nho nhã.

Ô Hành Tuyết cười mệt trong lòng nhưng bên ngoài vẫn không hề đổi sắc, chàng cũng đáp lễ đệ tử kia một cách vô cùng lịch thiệp, "Quá khen."

Nét mặt cạn lời của Thiên Túc thượng tiên chuyển sang chết lặng.

Ô Hành Tuyết nhìn gương mặt lãnh cảm trời sinh của y mà trong lòng càng thêm khoái trá. Đang cười mệt mỏi thì bất chợt nhớ tới câu "khách ghé loan phòng" và chiếc giường nọ...

Xong thình lình im bặt, nín thinh không cười nữa.

Và cũng như lần bên trong xe ngựa, Tiêu Phục Huyên không vạch trần.

Đệ tử trẻ còn đang nói nói, Tiêu Phục Huyên vừa lắng nghe vừa lơ đãng mân mê ngón tay trên chiếc chuông mộng.

Dưới ngón tay thon dài của y, chuông mộng trông lung linh đẹp đẽ đến lạ, màu bạch ngọc ánh lên láng mượt mịn màng.

Chỉ trách viên đệ tử kia nhắc đến câu "tiên bảo thường có lưu lại mệnh nguyên của tiên nhân", dù Ô Hành Tuyết đã quên bẵng mệnh nguyên là cái gì rồi song vẫn không khỏi cảm thấy mình có kết nối linh thần với chiếc chuông mộng kia.

Mà bây giờ còn thấy ngón tay khảy chuông mộng của Tiêu Phục Huyên, quả ư là...

Ô Hành Tuyết chăm chú một hồi thì duỗi tay ra lấy chuông mộng lại.

Một loạt chấm hỏi nổi đầy đầu đệ tử trẻ tiên môn vừa không tiếc lời khen ngợi con người vẹn toàn nào đó.

Tiêu Phục Huyên nhìn sang Ô Hành Tuyết. "Vừa nói tính trả ta mà."

Ô Hành Tuyết đáp, "Đổi ý rồi."

"Lý do?"

"..."

Ô Hành Tuyết nhìn sang đầy ẩn ý.

Chàng cũng đâu thể trả lời là vì "Ta không muốn thấy huynh cứ mân mê chuông mộng", bởi nhỡ đâu Tiêu Phục Huyên lại chồng thêm một câu "Lý do" nữa thì nhục không để đâu cho hết.

Ai chứ Thiên Túc thượng tiên dám lắm.

Ô Hành Tuyết lặng thinh một hồi mới nói, "Ta chợt nhớ ra có đưa cũng không nên đưa cho huynh."

Nói đoạn, chàng quay sang đưa chuông mộng cho Y Ngô Sinh.

Y Ngô Sinh: "..."

Không cần!

Ô Hành Tuyết nói, "Tôi bỗng sực nhớ hồi đầu tiên sinh có nói muốn đến thung lũng Đại Bi hoàn thành hai việc. Việc đầu tiên là tìm rõ nguyên lai dấu ấn phía sau cổ mình, việc thứ hai là muốn tìm tiên bảo thật đem về giúp nhà họ Hoa."

Y Ngô Sinh vội vã xua tay và nói thầm với bản thân là ngài với Thiên Túc thượng tiên cứ đá banh cho nhau đi, liên luỵ người vô tội tôi đây làm gì.

Song, Ô Hành Tuyết không buông tha hắn. "Sao tiên sinh lại xua tay với tôi, món đồ này do nhà họ Hoa đánh mất, giờ tìm được rồi trả về âu cũng hợp lý thôi."

Y Ngô Sinh: "..."

Thà không nhắc tới thì thôi, chứ nhắc rồi chỉ khiến Y Ngô Sinh thiếu điều muốn tìm một cái hố chui vào cho xong.

Hôm ở nhà họ Hoa, lúc phát hiện ra chuông mộng bị mất hắn đã nói mấy chuyện ngớ ngẩn gì ấy nhỉ?

Ặc, đầu tiên là đoán ngay Ô Hành Tuyết là thủ phạm...

Ngay trước mặt Ô Hành Tuyết.

Sau đó lại bảo muốn đến thung lũng Đại Bi tìm chuông mộng vì đó là tiên bảo nhà họ Hoa.

Giờ cuộc thẩm vấn Vân Hãi đã minh chứng rõ ràng chủ nhân của tiên bảo này chính là vị Linh Vương nọ. Rồi sau đó thì sao?

Ặc, Vân Hãi nhìn Ô Hành Tuyết và gọi một tiếng "Linh Vương".

...

Cho dù Y Ngô Sinh chưa từng thấy vị Linh Vương kia trên bất kỳ sách tiên nào, không biết địa vị người nọ trên Tiên Đô như thế nào, và cũng không biết việc gì đã xảy ra trong khoảng thời gian đó để khiến một Linh Vương như thế biến thành ma đầu mà ai ai cũng khiếp sợ.

Nhưng sự thật chuông mộng thuộc về người nọ là không thể chối cãi.

Thiên Túc thượng tiên đặt chuông mộng trong tay Ô Hành Tuyết chính là trả đồ về cho chủ nhân chân chính. Mà giờ đây không biết vì lý do gì, vị chủ nhân đó lại giả câm giả điếc, một hai nằng nặc phải đưa chuông mộng cho hắn.

Hắn dám nhận không?

Làm gì dám.

Đâu chỉ không dám, mà còn không có mặt mũi để nhận.

Tính tình Y Ngô Sinh rất thư sinh và dễ ngại ngùng. Thuở còn thiếu niên, hai anh em Hoa Chiếu Đình và Hoa Chiếu Đài đều lấy đó làm niềm vui và thích trêu hắn ngượng chín mặt. Về sau, hắn trở thành tứ đường trưởng lão vang danh lẫy lừng nên cặp đôi huynh muội dần trưởng thành trầm tĩnh lại cũng không bỡn cợt hắn, đâm ra không còn một ai dám trêu đùa hắn như vậy nữa.

Đã lâu lắm rồi, đến tận giờ phút này hắn mới được trải nghiệm cảm giác ngượng chín mặt lần nữa.

Một trong những lời đồn được lan truyền rộng rãi nhất chính là việc nhà họ Hoa thu được món tiên bảo nhờ vào tiên duyên, về sau chẳng may bị Ô Hành Tuyết cướp mất.

Giờ nhìn lại mới thấy châm biếm đến bực nào.

Người ta lấy đi món đồ thuộc về mình, còn câu nhà họ Hoa "thu được tiên bảo nhờ vào tiên duyên" nghe như có chút ẩn tình gì đó.

Trong tình huống như vậy, sao Y Ngô Sinh dám nhận lấy chuông mộng kia.

Nếu vị tổ tông đó không sống chết chẳng nhận bản thân không phải "hồn nhập nhầm thể", nếu Thiên Túc thượng tiên không dùng kiếm ép hắn phải che giấu, nếu bọn nhóc đệ tử tiên môn yếu đuối mong manh kia không ở ngay bên cạnh, thì ắt là Y Ngô Sinh đã chắp tay xin Ô Hành Tuyết làm ơn tha cho luôn rồi.

Vậy đó mà bây giờ hắn chả dám hé nửa lời, chỉ biết nhìn đau đáu Ô Hành Tuyết với ánh mắt dần thầm than.

Sau cùng, hắn siết tờ giấy và nói, "Bẩm công tử, tôi chỉ còn chút tàn hồn này thôi..."

Ngụ ý: Làm ơn ăn hiếp người khác đi được không.

Ô Hành Tuyết nhìn nét mặt hắn thì vỡ lẽ, đồ chừng mình bắt nạt người ta hơi quá rồi. Chàng bèn đảo cái móng ma của mình sang hai tên thuộc hạ.

Tính chàng biếng lười xưa giờ, nào có sở thích cầm đồ gì trong tay, có xem thuộc hạ như túi treo đồ cũng không lạ. Ninh Hoài Sam với Phương Trữ chắc phải quen với việc đó từ lâu.

Ngờ đâu, chàng vừa ngoái đầu sang đã thấy gương mặt uất ức khôn cùng của Ninh Hoài Sam và Phương Trữ.

Ô Hành Tuyết: "?"

"Ta còn chưa nói gì mà," Ô Hành Tuyết từ tốn nói.

Ninh Hoài Sam: "Bẩm thành... công tử, ngài còn nhớ có một số tà ma hễ gặp tượng thần là ói thốc ói tháo không?"

Nét mặt cậu ta in đậm dòng chữ: Ngài đoán xem ta cầm tiên bảo thì có ói tại chỗ hông.

Ô Hành Tuyết: "..."

Thôi được.

Kết quả là sau khi tra tấn trọn một vòng, đại ma đầu Ô Hành Tuyết vẫn quyết định tự tay giữ chuông mộng.

***

Vụ án "Triệu hoán" ở thung lũng Đại Bi đã giải quyết xong xuôi, thứ cần tìm cũng đã tìm thấy. Tính ra mọi chuyện đều ổn thoả với đệ tử tiên môn và Y Ngô Sinh.

Song, Ô Hành Tuyết vẫn còn hơi thắc mắc không biết khi xưa Hoa Tín đã làm gì để giữ lại chút hơi tàn mạng sống cho Vân Hãi, ngặt nỗi chính Vân Hãi cũng không hay biết gì về chuyện này.

Hơn nữa, Tiêu Phục Huyên từng nói, lúc Hoa Tín mang kiếm hạ trần thì y đang ở Thương Lang Bắc Vực, rất lâu sau đó y mới quay về Tiên Đô.

Không một ai trên Tiên đô biết Hoa Tín đã làm gì, họ chỉ biết những việc xảy ra sau đó — hắn phải đến quỳ nhận thiên phạt trên Linh đài giống như Vân Hãi khi xưa, xong xuôi bế quan trăm ngày.

Về sau, hắn càng trở nên không màng thế sự, càng ra dáng một vị Tiên thủ hơn, còn đâu không mảy may có điểm gì khác biệt.

Họ lần mò quanh tường hầm mộ Vân Hãi một lần nữa mà vẫn không phát hiện bất kỳ dấu vết nào khác nên cũng đành bỏ qua.

Vầng dương đã rạng phía trời đông khi mọi người rời hầm mộ dưới đáy thung lũng Đại Bi.

Ba viên đệ tử tiên môn đang thu thập túi càn khôn, họ đã tìm đủ ba mươi ba pho tượng đồng tử và những bá tánh không may bị "triệu hoán", miệng nhủ "đắc tội, đắc tội" và tay xếp những người nọ vào túi càn khôn.

"Khi trao họ về đừng quên sửa soạn lại một chút, ít nhất cũng phải dùng thuật chỉnh trang che mắt," Y Ngô Sinh có lòng lo lắng nên dặn họ đôi lời.

Tử trạng những vị bá tánh này rất hãi hùng, phần lớn thi thể đều không còn nguyên vẹn. Sẽ thật tàn nhẫn nếu cứ đưa họ về gia đình trong hiện trạng như vậy.

Các đệ tử trẻ cúi người thi lễ. "Mong tiền bối an tâm, chúng con nhất định sẽ dốc lòng siêu độ và an bài họ thoả đáng."

Rất nhiều sư huynh sư tỷ của họ đến đây mà chẳng có kết quả gì. Ba người họ dù còn non trẻ đã có thể đồng thời đưa tất cả trở về thì ắt hẳn sẽ là việc lớn cho môn phái, thậm chí cho cả vùng Ngư Dương.

Họ rất muốn mời nhóm Tiêu Phục Huyên cùng trở về môn phái song đã bị từ chối khéo.

À không, Thiên Túc không từ chối khéo, mà từ chối thẳng. Y đáp đúng hai chữ, "Không được."

Ô Hành Tuyết khéo léo hơn chút đỉnh, chỉ vào mặt mình và nói, "Nếu ta đến môn phái nhà các cậu thì e là gia chủ và các vị trưởng lão sẽ mừng rỡ đến xanh mét mặt mày mất."

Các đệ tử: "..."

Y Ngô Sinh là người bình thường nhất trong hội, hắn bảo, "Giờ đây ta chỉ còn lại chút ít tàn hồn, không níu kéo được bao lâu nữa nên không làm phiền mọi người."

Nghe vậy, các đệ tử trẻ dĩ nhiên cũng không muốn làm mất thời gian sót lại cuối cùng của hắn. Họ nhanh chóng hành lễ từ biệt, quay về Ngư Dương cùng túi càn khôn và ba mươi ba vong hồn.

Ô Hành Tuyết hỏi Y Ngô Sinh, "Không biết tiên sinh có dự định gì không?"

Y Ngô Sinh sờ lên tấm vải đen che mũi và miệng, hắn đã bắt đầu có cảm giác bản thân càng lúc càng không ổn. Lúc ngồi trên xe ngựa, hắn còn có thể kiểm tra linh hồn bằng cách sờ cổ tay, khi xuống dưới đáy thung lũng Đại Bi thì lực đã bất tòng tâm. Còn bây giờ, đến năm giác quan của hắn cũng không rõ ràng được như trước.

Hắn quay sang và hỏi Tiêu Phục Huyên, "Thưa Thượng tiên, không biết tàn hồn của tôi còn có thể trụ được mấy hôm nữa?"

Tiêu Phục Huyên đặt ngón tay lên trán hắn và im lặng một thoáng rồi trầm giọng, "Bốn ngày."

Y Ngô Sinh bình tĩnh gật đầu. "Vâng."

Kế đó, hắn mới trả lời Ô Hành Tuyết, "Tôi vẫn còn một vài nuối tiếc chưa hoàn thành nên muốn đi xem một chút, có lẽ trước tiên tôi sẽ đến cánh đồng Gia Minh một chuyến, sau đó quay về Đào Hoa châu. Nếu may mắn có lẽ sẽ về đến nhà trước khi thời gian kết thúc."

Hắn vừa nói mà vừa bật cười mỉa mai.

Hôm nào, hắn mới còn siết chặt tay trên áo quần Ô Hành Tuyết và cầu xin chấm dứt sinh mệnh thật dứt khoát biết bao, mà giờ đây khi đường sống được mở ra, hắn lại muốn níu kéo thêm chút nữa...

Ban đầu bảo rằng muốn tìm nguyên nhân dẫn đến oan trái cho nhà họ Hoa và tung tích chuông mộng rồi sẽ an lòng ra đi. Giờ cả hai việc đều xong xuôi, hắn lại muốn hoàn thành thêm vài tiếc nuối nữa.

Con người ấy mà, thật là tham lam.

Hắn mỉa mai bản thân, đoạn thủ lễ bái biệt với Ô Hành Tuyết và Tiêu Phục Huyên rồi nói lời giã từ.

Để rồi vừa đi được mấy bước thì căn bệnh hay lo toan lại trỗi dậy. Hắn không nén lòng mà bước ngược về và hỏi Ô Hành Tuyết, "Tôi hỏi thế này có hơi đường đột, không biết..."

Hắn muốn hỏi không biết ngài có còn nhớ cách dùng chuông mộng để giải mộng hay không. Hắn có thể thấy được là Ô Hành Tuyết đã quên kha khá chuyện rồi, biết đâu chừng cũng đã quên mất cách dùng chuông mộng.

Có điều để hỏi thẳng chính chủ câu hỏi này thì hắn cũng không biết phải mở lời thế nào.

Ô Hành Tuyết thấy hắn ngập ngừng cả buổi trời mà không nói được tiếng nào, ánh mắt cứ dây dưa trên chiếc chuông mộng treo bên hông mình. Chàng bèn trực tiếp ngoắt tay móc chuông mộng lên và nói, "Tiên sinh muốn hỏi cái chuông này à?"

Y Ngô Sinh gật đầu, đang tính mở miệng thì bất chợt hoảng hồn ra mặt.

Hắn thốt lên, "Sao chuông mộng nứt hết cả vậy?! Ở bên dưới mộ nó có phải thế này đâu."

Ô Hành Tuyết không lấy gì làm ngạc nhiên, nói, "Ban đầu nó đã bị nứt bên trong rồi, chẳng qua ở ngoài không thấy thôi, may mắn là vẫn còn nguyên vẹn chứ chưa bị mẻ thành tám cánh, cũng không biết có thể dùng được nữa hay không."

"Tuyệt đối không thể dùng," Y Ngô Sinh nhanh chóng nói.

"Tại sao thế?"

Y Ngô Sinh: "Món này là tiên bảo, mang rất nhiều tiên khí và còn vương mệnh nguyên của thần tiên nên có rất nhiều hạn chế khi dùng và phải vô cùng cẩn trọng, nhỡ đâu phạm sai lầm thì chẳng những không nên chuyện mà còn bị tẩu hoả nhập ma."

Nghe lời hắn khuyên cũng khá hợp lý, song những chuyện liên quan đến tiên bảo thì hỏi thần tiên hẳn là chí lý nhất.

Ô Hành Tuyết treo chuông bạch ngọc trên tay mà nghĩ ngợi, đoạn quay sang Tiêu Phục Huyên.

Tiêu Phục Huyên: "Đúng là như vậy."

Thật ra, Y Ngô Sinh tự biết mình đã nói giảm nói tránh, bởi tẩu hoả nhập ma chỉ là một trong số những con đường bị chệch. Phiền nhất ở chỗ tiên bảo rất quý hiếm, quý hiếm ở đây không chỉ theo nghĩa ít gặp trên thế gian, mà còn cực kỳ quý hiếm và khó lấy lại đối với chính bản thân thần tiên.

Một khi tiên bảo bị hỏng thì có lên trời xuống bể cũng khó cách nào khôi phục như cũ.

Khổ nỗi Ô Hành Tuyết có biết chuyện này đâu. Chàng lắc nhẹ cái chuông mấy lần trong thẫn thờ một hồi rồi mới hỏi, "Vậy có cách nào khôi phục được không?"

Chuyện này vẫn hỏi thần tiên là chí lý nhất, thành thử chàng thốt xong thì ngoái đầu sang nhìn Tiêu Phục Huyên.

Tiêu Phục Huyên: "..."

Đôi môi mỏng của Thiên Túc thượng tiên đã khẽ mấp máy như thể sắp sửa bật ra chữ "Không" tới nơi rồi, song cuối cùng lại không nói gì.

Y xoay mặt sang một bên, lát sau mới xoay ngược lại và đáp, "Có cách."

Y Ngô Sinh: "..."

Hắn im re một lúc lâu mới nuốt ngược câu "Không có cách nào" vào trong.

Mà lòng hắn đang hú hét đây là thần tiên thật à? Bị người khác nhìn không chớp mắt một hồi là câu "Không có cách nào" biến thành "Có cách" được luôn hả?

Hắn rất chi là muốn thỉnh giáo cái "cách" này có ở đâu ra...

Kết quả là nửa canh giờ sau, bên trong chiếc xe ngựa hướng về phố núi Lạc Hoa cổ lại có thêm một vị Y Ngô Sinh sớm nói "Xin bái biệt tại đây".


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro