Chương 5

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Sau sáu tháng ở Janus, Tom lại được tận hưởng sự hiếu khách của bà Mewett thêm một lần nữa, vì lý do đột xuất: vị trí người gác đèn ở Janus bây giờ đã thành viêc chính thức. Trimble Docherty không hề tỉnh táo lại, mà còn loạn trí hơn, và đã gieo mình xuống một vách đá núi hoa cương ở Albany có tên là Khoảng Trống. Lúc nhảy xuống ông ta vẫn đinh ninh là mình đang nhảy xuống con thuyền do bà vợ lái. Vậy là Tom được gọi vào bờ để nói chuyện công việc mới, làm giấy tờ và nghỉ ngơi trước khi nhận nhiệm vụ chính thức. Đến lúc này năng lực của Tom đã quá rõ ràng, Cục Hải đăng Fremantle không cần phải tuyển người ở đâu khác nữa.

"Có được người vợ tốt rất là quan trọng," Đại tá Hasluck nói khi chuẩn bị rời văn phòng cảng. "Bà Moira Docherty biết tự vận hành đèn, sống với Trimble quá lâu rồi mà. Cũng phải là kiểu phụ nữ đặc biệt lắm mới chịu sống ngoài Hải đăng. Khi nào tìm được đúng người là anh phải cưới liền tay. Nhưng mà, kiểu này là anh phải đợi thêm một thời gian nữa.."

Khi Tom rảo bước về lại nhà bà Mewett, anh nghĩ về những món di vật ngoài Hải đăng – đồ đan len của Docherty, lọ kẹo bạc hà của bà vợ vẫn nằm im trong bếp. Những cuộc đời qua đi, dấu tích còn ở lại. Rồi anh nghĩ về nỗi tuyệt vọng của người gác đèn bị giằng xé trong niềm nhớ thương người vợ đã khuất. Đâu chỉ có chiến tranh mới khiến người ta gieo mình xuống vách núi.

Hai ngày sau khi trở về Partagause, Tom ngồi im như bộ xương cá voi trong phòng khách nhà Graysmark. Hai ông bà già trông chừng cô con gái, như cặp đại bàng giữ con mới nở. Chật vật lắm Tom mới nghĩ ra chuyện để nói, anh chỉ nói về thời tiết, gió máy - ở ngoài đảo thì vô vàn, rồi tới chuyện những người bà con nhà Graysmark sống tại các vùng khác ở phía Tây. Cũng khá dễ dàng lại câu chuyện để không phải nói câu chuyện về bản thân anh.

Khi Isabel tiễn anh ra cổng sau đó, cô hỏi, "Bao giờ thì anh ra đảo lại?"

"Hai tuần nữa."

"Vậy thì phải tận dụng cho hết," cô nói, cứ như thể vừa rút ra kết luận sau khi bàn cãi khá lâu.

"Vậy sao?" Tom hỏi, thấy vừa ngồ ngộ vừa ngạc nhiên. Anh thấy như cô đang dìu anh nhảy bước waltz đi giật lùi.

Isabel mỉm cười. "Vậy đó." Ánh đèn đậu trên mắt cô, anh tưởng tượng mình có thể nhìn sâu vào đó: anh thấy được sự trong sáng, vẻ cởi mở, như lôi cuốn anh vào. "Ngày mai anh lại ghé thăm nhé. Tôi sẽ chuẩn bị đồ đi dã ngoại. Ta có thể đi xuống chỗ vịnh."

"Tôi nên xin phép cha cô trước chứ? Hay mẹ cô vậy?" Anh nghiêng đầu một bên. "Ý tôi là, nếu không đường đột quá, cho tôi hỏi cô bao nhiêu tuổi rồi?"

"Đủ tuổi đi dã ngoại."

"Tức là..."

"Mười chín. Sắp. Vậy nên anh để tôi lo chuyện ba má tôi," cô nói, rồi vẫy tay chào và bước vào trong.

Tom trở về nhà bà Mewett, bước chân nhẹ như không. Tại sao vậy, anh không nói được. Anh không biết gì về cô gái này, chỉ trừ việc cô rất hay mỉm cười, và tự dưng trong lòng anh... thấy vui.

Ngày hôm sau Tom trở lại nhà Graysmark, không hẳn là hồi hộp mà là tò mò, không biết vừa mới đến hôm qua mà đã quay lại ngay thế này thì có sao không.

Bà Graysmark vừa ra mở cửa, mỉm cười. "Chỉnh tề, đúng giờ," bà nói, cứ như thể đang điền bảng chấm điểm vô hình.

"Lính mà..." Tom đáp.

Isabel xuất hiện với chiếc giỏ mây đựng đồ dã ngoại, cô đưa ngay cho anh. "Anh làm sao đem tới đó mà còn nguyên," cô nói rồi quay sang hôn lên má bà mẹ, "Tạm biệt má."

"Nhớ đừng ra nắng. Coi chừng nổi tàn nhang," bà dặn dò cô con gái. Bà nhìn Tom, cái nhìn có ý nghiêm nghị hơn mấy lời nói. "Đi chơi vui nhé. Đừng về trễ quá"

"Cảm ơn bà Graysmark. Tôi sẽ đưa cô về sớm."

Isabel đi trước, hai người rảo bước qua những con đường qua thị trấn rồi ra biển.

"Đi đâu đây?" Tom hỏi.

"Bí mật."

Họ đi qua con đường dẫn ra phía Mũi, hai bên cây cối rậm rạp. Những bụi cây ở đó không to lớn như cây trong rừng nếu vào sâu thêm khoảng chừng một dặm nữa, nhưng khá gai góc, chắc nịch, chống chọi được với muối và những cơn gió quật. "Đi hơi lâu. Anh có mệt không?" cô hỏi.

Tom bật cười. "Chắc cũng đủ sức đi mà khỏi cần chống gậy."

"Ờ, tôi cũng chỉ nghĩ ở Janus anh cũng đâu có chỗ nào để đi nhiều, phải vậy không?"

"Thực ra cả ngày đi lên xuống cầu thang cũng tốn sức lắm." Anh vẫn dè dặt trước cô gái hay làm anh ngơ ngẩn trong thoáng chốc.

Họ đi tiếp, cây cối thưa đi và tiếng sóng biển mỗi lúc một to hơn. "Anh ở Sydney tới, hẳn thấy Partageuse chán lắm" Isabel buột miệng.

"Tôi cũng chưa ở đây lâu, nên không biết được."

"Thì vậy. Nhưng Sydney... tôi tưởng tượng phải rộng lớn, nhộn nhịp và hoành tráng lắm. Chốn đô thành mà."

"Cũng chưa là gì so với London."

Isabel đỏ mặt. "Ồ, tôi không biết là anh còn từng tới đó nữa. Hẳn thành phố lớn lắm. Biết đâu ngày nào đó tôi cũng sẽ đi."

"Ở đây tốt hơn, tôi nói thật. London... khá ảm đạm. Tôi hay ghé qua khi có kỳ nghỉ phép. Xám xịt, âm u, lạnh lẽo như xác chết. Tôi thích Partageuse hơn."

"Ta sắp tới chỗ đẹp nhất rồi. Hoặc ít ra là đẹp nhất với tôi." Phía sau hàng cây một eo đất lộ ra, nhô xa tới biển. Eo đất dài, trống trơn, bề ngang rộng chừng vài trăm thước, sóng liếm mọi bề. "Đây là Mũi của xứ Mũi Partageuse," Isabel nói. "Chỗ tôi thích nhất là dưới kia, ở bên trái, nơi có mấy hòn đá thật to."

Họ đi nữa, ra tới nửa eo đất. "Cứ thả giỏ xuống đó rồi theo tôi," cô nói, rồi không nói gì thêm, cô tháo tung giày ra, chạy trên những mặt đá hoa cương màu đen ngả nghiêng xuống nước.

Tom đuổi kịp cô khi Isabel vừa ra đến rìa mũi. Ở đây vách đá quây vòng lại, bên trong sóng biển xô dạt, cuộn xoáy. Isabel nằm xuống mặt đất, nghiêng đầu về phía mép đá. "Nghe này," cô nói. "Anh nghe tiếng nước không, cứ như đang ở trong hang động hay nhà thờ lớn vậy."

Tom nghiêng xuống nghe.

"Anh phải nằm xuống kia," cô nói.

"Để nghe rõ hơn hả?"

"Không, để không bị cuốn đi. Chỗ này dễ bị cuốn lắm. Nếu có đợt sóng lớn bần thần anh sẽ bị rớt xuống dưới ngay."

Tom nằm xuống bên cạnh cô, ngóc đầu ra ngoài, nơi sóng nước vang vọng, gào thét, dạt dào. "Janus cũng vậy."

"Ở ngoài đó ra sao?" Toàn chuyện nghe nói nhưng không ai ra đó trừ người gác đèn và thuyền tiếp tế. À, có một ông bác sĩ nữa, hồi mấy năm trước, khi đó nguyên một con tàu bị cách ly ngoài đảo vì có người bị thương hàn."

"Ở đó... ừm, chẳng giống nơi nào khác. Cứ như là một thế giới riêng vậy."

"Họ kể ngoài đó khắc nghiệt lắm, là nói chuyện thời tiết đó."

"Cũng có lúc vậy."

Isabel ngồi bật dây. "Có lúc nào anh thấy cô đơn không?"

"Bận quá nên cũng không thấy. Lúc nào cũng có cái cần sửa, cần kiểm tra hay phải ghi chép lại."

Cô nghiêng đầu về một bên, ý chừng như nghi ngờ câu trả lời, nhưng cho qua. "Anh có thích ở ngoài đó không?"

"Có."

Đến đây Isabel bật cười. "Anh kiệm lời quá?"

Tom đứng dậy. "Đói chưa? Chắc tới giờ ăn trưa rồi."

Anh nắm lấy tay cô, đỡ cô đứng dậy. Bàn tay cô nhỏ, mềm, lòng bàn tay phủ một lớp cát mỏng. Tay cô nằm trong tay anh, thật nhỏ nhắn.

Isabel dọn ra bánh mỳ kẹp thịt bò bỏ lò và bia gừng, sau đó là bánh trái cây và táo giòn.

"Vậy, cô viết thư cho tất cả những người gác đèn ngoài Janus sao?" Tom hỏi.

"Có ai đâu mà nhiều," Isabel đáp. "Lâu lắm rồi mới có người mới."

Tom ngập ngừng trước khi hỏi câu tiếp theo.

"Tại sao cô viết vậy?"

Cô mỉm cười, nhấp một ngụm bia ngừng rồi trả lời. "Vì đi cho chim ăn với anh rất là vui? Vì tôi đang chán? Vì tôi chưa bao giờ gởi thư ra hải đăng?" Cô vén tóc lên rồi nhìn xuống nước. "Anh không thích tôi viết hả?"

"Ôi không, tôi không... ý tôi là..." Tom chùi tay lên chiếc khăn. Lại choáng váng ngẩn ngơ. Một cảm giác thật mới mẻ, với riêng anh.

Tom và Isabel ngồi dưới chân cầu tàu ở Partageuse. Hôm đó là ngày gần cuối năm 1920. Gió để những con sóng nhỏ liếm lên mạn thuyền, giật cả mấy sợi dây thừng trên cột buồm. Ánh đèn cảng chiếu xuống mặt nước, sao giăng đầy trời.

"Nhưng em muốn biết hết," Isabel nói, đôi bàn chân trần đong đưa trên mặt nước. "Anh không thể cứ nói, 'Không có gì để kể." Cô đã moi được chuyện anh học trường tư, có bằng kỹ sư Đại học Sydney, nhưng càng lúc càng thấy tức tối. "Em có thể kể anh nghe nhiều chuyện – chuyện bà em, rồi chuyện bà dạy em chơi dương cầm, những chuyện em còn nhớ về ông, mặc dù khi ông mất em vẫn còn nhỏ. Em có thể kể nghe chuyện làm con của thầy hiệu trưởng ở Partageuse. Em còn kể được về anh Hugh và anh Alfie, hồi nhỏ mấy anh em hay nghịch chiếc xuồng, đi câu cá dưới sông." Cô nhìn mặt nước. "Em vẫn còn nhớ hồi đó lắm." Cô vấn loạn tóc quanh ngọn tay, nghĩ ngợi gì đó, rồi hít một hơi. "Mỗi người cứ như là... cả một dãy ngân hà để khám phá. Em muốn biết về dãy ngân hà của anh."

"Em muốn biết gì nữa?"

"Về gia đình anh chẳng hạn."

"Tôi có một người anh trai."

"Em biết tên được không, hay anh quên rồi?"

"Dễ gì mà quên được. Tên là Cecil."

"Còn ba má anh thì sao?"

Tom nheo mắt nhìn ánh đèn trên cột buồm, "Thì sao?"

Isabel ngồi thẳng lại, nhìn thẳng vào mắt anh. "Thực ra anh đang nghĩ gì?"

"Mẹ tôi mất rồi. Tôi không giữ liên lạc với cha." Khăn choàng của cô tuột khỏi vai, anh kéo nó lên. "Em lạnh không? Đi về nhé?"

"Tại sao anh không muốn nói chuyện đó?"

"Nếu em muốn thì tôi sẽ kể. Tôi thực không muốn nói tới. Nhiều khi cái gì đã qua thì nên để nó đi."

"Nhưng gia đình không bao giờ qua đi cả. Đi đâu mình cũng mang theo mà."

"Vậy thì càng đáng tiếc."

Isabel đứng thẳng dậy. "Cũng chẳng sao. Về thôi. Chắc ba má ở nhà đang lo không biết mình đi đâu rồi," cô nói. Hai người rảo bước nhanh trên cầu tàu.

Đêm đó, khi đang lên giường, Tom nghĩ về thời thơ ấu của mình, mà khi nãy Isabel đã rất hăng hái điều tra. Anh chưa bao giờ kể với ai. Nhưng giờ đây nghĩ đến những ký ức đó, anh thấy đau đớn chông chênh, như ra đầu lưỡi vào chiếc răng vừa gãy. Anh thấy mình là thằng bé con tám tuổi, kéo lấy tay áo cha và khóc lóc, "Đi cha! Cho mẹ về đi cha. Đi mà cha. Con thương mẹ quá!" Rồi cha hất bàn tay anh như phủi bụi. "Không được nhắc đến bà ấy thêm lần nào nữa trong ngôi nhà này. Nghe rõ chưa hả?"

Khi cha anh bước ra khỏi phòng, anh trai Cecil, lớn hơn anh năm tuổi, khi đó đã cao hơn anh khá nhiều, liền đánh anh một cái vào sau đầu. "Tao nói rồi, thằng ngốc. Tao nói là đừng nói vậy." rồi bước theo cha, sải chân cũng trịnh trọng như thế, để đứa em nhỏ đứng một mình giữa phòng khách. Thằng bé rút ra một chiếc khăn mùi xoa ren từ trong túi, vẫn còn vương vấn mùi hương của mẹ. Nó chạm khăn vào má, tránh dòng nước mắt mũi đầm đìa. Nó chỉ muốn có cảm giác chạm vào chiếc khăn, muốn hít mùi hương đó, chứ không muốn lau chùi gì cả.

Tom nghĩ đến căn nhà trống trải, lạnh lùng: sự im ắng làm chết lặng mỗi căn phòng nhưng ở mỗi phòng lại có một cung bậc khác nhau. Anh nghĩ đến gian bếp nồng mùi xà phòng diệt khuẩn, sạch như lau ly dưới bàn tay của những người giúp việc. Tom nhớ mùi bột giặt Lux đáng ghét, nhớ mình đã đau khổ thế nào khi tìm thấy chiếc khăn mùi xoa được bà giúp viêc tên Gì – đó giặt sạch, hồ cứng. Hẳn bà ấy đã thấy nó trong túi quần short của Tom, rồi đem giặt liền, làm mất sạch mùi hương của mẹ. Tom đã đi tìm khắp góc nhà, những nơi tủ kệ, chỉ mong gặp lại mùi hương ngọt ngào, mờ mịt đó. Nhưng ngay cả trong phòng ngủ của mẹ cũng chỉ có mùi nước đánh bóng, mùi băng phiến, như thể bóng dáng mẹ cuối cùng cũng bị đuổi sạch.

Ở Partageuse, hai người trong Tiệm Trà, Isabel cố thêm lần nữa.

"Tôi không cố ý che giấu gì cả," Tom nói. "Chỉ có điều đào xới lại quá khứ là việc vô ích."

"Em cũng không muốn tò mò. Chỉ vì... anh có cả một cuộc đời, một câu chuyện, mà em thì đến trễ. Em chỉ muốn hiểu mọi thứ. Muốn hiểu anh." Cô ngập ngừng, rồi hỏi nhỏ nhẹ, "Nếu không được nói về quá khứ, vậy có được nói về tương lai không?"

"Chẳng bao giờ có thể nói về tương lai cả, nếu em nghĩ cho kỹ. Ta chỉ có được những thứ mình tưởng tượng ra, ước ao tới. Những thứ đó đâu phải là tương lai."

"Được rồi, vậy anh ước ao gì kia?"

Tom im lặng một lúc. "Cuộc sống. Chừng đó với tôi là đủ rồi." Anh hít một hơi sâu rồi quay lại nhìn cô. "Còn em thì sao?"

"Ôi, em ước nhiều thứ lắm, lúc nào cũng vậy!" cô thốt lên. "Em ước gì trời thật đẹp mỗi khi trường học Chủ nhật đi dã ngoại. Em ước... anh đừng cười nha... em ước có một người chồng tốt, có nhiều con cái. Tiếng bóng Cricket bay vào cửa sổ, mùi thịt hầm trong bếp. Con gái hát những bài giáng sinh và con trai chơi đá bóng... Em không tưởng tượng nổi sống mà không có con cái, anh thì sao?" Cô như mơ mộng ở tận đâu một lát, trước khi nói tiếp. "Đương nhiên là không phải bây giờ." Cô ngập ngừng. "Không như Sarah."

"Ai kia?"

"Bạn em, Sarah Porter. Ở cùng xóm. Tụi em hay chơi đồ hàng với nhau. Nó lớn hơn một chút, nhưng lúc nào cũng muốn làm má em." Gương mặt cô trở nên xa xăm. "Nó... lỡ dại – khi mới có mười sáu tuổi. Ba má bắt đi Perth để khỏi ai thấy. Bắt nó đem con cho trại mồ côi. Họ nói rồi sẽ tìm người nhận nuôi nhưng mà, thằng bé bị khoèo chân.

"Sau đó nó lấy chồng, không ai nhớ tới đứa nhỏ nữa. Rồi tự dưng một ngày nó hỏi em có đi Perth với nó được không, để bí mật đi thăm trại mồ côi. "Trại trẻ" chỉ cách nhà thương điên có vài căn. Ôi Tom, anh chưa bao giờ tưởng tượng cả một nhà toàn trẻ con không mẹ. Không ai thương tụi nó hết. Sarah không thể mở miệng với chồng – kiểu gì anh ta cũng đuổi nó ra khỏi nhà. Anh ta không biết gì, cho đến giờ cũng vậy. Con nó vẫn còn ở đó: nó chỉ có thể nhìn thôi. Lạ lùng là em cứ khóc suốt. Nhìn mặt mấy đứa nhỏ em thấy không đành. Gởi vào trại mồ côi thì khác gì gởi xuống địa ngục."

"Đứa trẻ nào cũng cần mẹ," Tom nói, lạc đi trong chút suy nghĩ riêng tư.

Isabel kể tiếp, "Sarah giờ ở Sydney. Em không nghe tin gì của nó nữa."

Trong hai tuần đó, Tom và Isabel cứ cách một ngày lại gặp nhau. Khi Bill Graysmark hỏi vợ rằng việc "đi lại" như vậy có "đương hoàng" không, bà Graysmark trả lời, "Ôi chao Bill à. Đời ngắn lắm. Nó là đứa khôn ngoan, biết mình muốn gì. Hơn nữa, thời buổi này dễ gì tìm được người nào còn nguyên cả tứ chi. Còn kén cá chọn canh gì nữa..." Bà cũng biết rằng xứ Mũi rất nhỏ bé. Không có chỗ nào mà hai người có thể làm gì mờ ám. Tai mắt khắp nơi sẽ báo ngay nếu có chuyện gì không "đường hoàng".

Tom thấy ngạc nhiên rằng mình rất trông đến lúc gặp Isabel. Cứ như thể cô đã làm anh không còn cảnh giác nữa. Anh thích nghe những chuyện cô kể về cuộc sống ở Partageuse, về lịch sử xứ Mũi; chuyện người Pháp chọn cái tên đó cho vùng đất giữa hai đại dương, vì nó còn có nghĩa là "chia sẻ" lại vừa có nghĩa là "chia cắt". Cô kể chuyện trèo cây bị ngã gãy tay, chuyện mấy anh em nghịch, tô sơn chấm đỏ lên con dê của bà Mewett rồi gõ cửa nhà bà, nói rằng con dê chắc lên sởi rồi. Cô nói nhỏ mẹ, dừng nhiều chỗ khi kể chuyện các anh hy sinh ở Somme, rồi cả chuyện cô ước gì có thể làm cho cha mẹ mỉm cười lần nữa.

Tom thấy ngại ngùng. Thị trấn thật nhỏ bé. Cô nhỏ hơn anh nhiều tuổi. Có thể sau khi ra đến đảo rồi anh sẽ không bao giờ gặp lại cô nữa. Những tay khác có thể sẽ chộp ngay cơ hội, nhưng với Tom, ý thức giữ gìn danh dự lại như một liều thuốc giải cho những ngày tháng anh từng sống qua.

Isabel không thể nói thành lời thứ cảm giác mới mẻ... có lẽ là phấn khích... mỗi khi cô găp người đàn ông này. Ở anh ta có gì đó bí hiểm – cứ như thể dưới nụ cười đó, anh ta vẫn còn đang ở tận đâu. Cô muốn chạm được vào trái tim anh.

Nếu chiến tranh có dạy cho Isabel điều gì, đó chính là không thể dửng dưng chờ đợi: những chuyện quan trọng phải làm ngay. Đời có thể mang đi những thứ ta trân quý, rồi không bao giờ trả lại. Cô thấy nóng ruột, muốn nắm lấy cơ hội. Trước khi có ai khác tìm đến.

Buổi chiều trước khi Tom phải trở về Janus, hai người đi dạo dọc theo bờ biển. Mặc dù hôm đó chỉ mới ngày hai tháng giêng, Tom cảm tưởng như anh đã đến Partageuse mấy năm rồi chứ không phải chỉ sáu tháng.

Isabel nhìn ra phía biển, vầng dương đang trôi xuống màu nước xám phía chân trời. Cô nói. "Em muốn nhờ anh làm một chuyện, Tom à."

"Được thôi. Chuyện gì vậy?"

"Em đang tự hỏi," cô nói, vẫn không chậm bước lại, "anh sẽ hôn em chứ."

Tom tưởng như ngọn gió vừa thốt lên những lời đó, và vì cô vẫn không dừng bước, anh cố nghĩ xem thực ra cô vừa nói gì.

Anh đoán, "Đương nhiên là tôi sẽ rất nhớ em. Nhưng... có lẽ... lần về phép tới tôi sẽ lại gặp em?"

Cô nhìn anh lạ lùng, anh bắt đầu thấy lo lắng. Ngay cả trong ánh nắng đang dần tắt, gương mặt cô đỏ ửng.

"Tôi... tôi xin lỗi, Isabel. Tôi không giỏi nói năng... nhất là những lúc như thế này."

"Như thế nào kia?" cô hỏi, thấy đau đớn vì chợt nghĩ chẵng lẽ đây là việc anh hay làm. Mỗi bến cảng lại có một người con gái.

"Tức là.. nói lời chia tay. Tôi quen ở một mình. Có người khác cũng được. Nhưng thấy khó khăn khi đổi từ chỗ này sang chỗ kia."

"Vậy để em giúp nhé, được không? Em sẽ đi luôn. Ngay bây giờ." Cô quay gót chuẩn bị đi xuống biển.

"Isabel, Isabel, đợi đã!" Anh chạy theo cô, bắt lấy bàn tay cô. "Tôi không muốn em đi mà không... tôi không muốn em đi luôn như vậy. Tôi sẽ làm việc em nhờ. Tôi sẽ nhớ em. Tôi rất... rất vui khi được ở bên em."

"Vậy thì đem em ra Janus đi."

"Gì kia.. em muốn ra ngoài đó chơi à?"

"Không. Ra ở luôn chứ."

Tom bật cười. "Trời đất, nhiều khi em nói chuyện thật lạ đời."

"Em nói nghiêm túc."

"Làm gì có chuyện," Tom nói, nhưng trong ánh mắt cô có gì đó khiến anh nghĩ có lẽ cô nói thật.

"Tại sao không?"

"Cả trăm lý do, mới nghĩ cũng ra. Thứ nhất người phụ nữ duy nhất được phép ra đó là vợ của người gác đèn." Cô không nói gì nữa, anh nghiêng đầu thêm một chút, cứ như thể làm vậy sẽ khiến anh hiểu được cô.

"Vậy cưới em đi."

Anh chớp mắt. "Izz... tôi chỉ mới quen em! Rồi còn nữa... tôi thậm chí còn.. còn chưa hôn em lần nào, chứ nói gì..."

"À thì đây!" Cô nói cứ như thể câu trả lời quá rõ ràng, cô nhón chân và kéo đầu anh về phía mình. Trước khi anh kịp nhận ra chuyện gì, cô hôn anh, vụng về nhưng dữ dội. Anh né ra.

"Một trò chơi nguy hiểm, Isabel à. Em không nên hôn bừa như vậy. Đừng làm vậy trừ khi em thật sự muốn làm."

"Nhưng em muốn mà."

Tom nhìn cô, đôi mắt cô như muốn thách thức anh, chiếc cằm bé xinh bất động. Một khi anh vượt qua cái ranh giới đó, ai mà biết được rồi sẽ ra sao? Mặc kệ tất.

Mặc kệ những thứ phép tắc nọ kia. Quên luôn đúng sai ở đây. Trước mặt anh là một cô gái xinh đẹp, đang van xin được anh hôn. Mặt trời vừa lặn, mấy tuần phép vừa hết và giờ này ngày mai anh sẽ lại một mình ở nơi cô quạnh. Anh ôm lấy gương mặt cô và hôn cô chậm rãi, để thời gian trôi đi. Anh không thể nhớ được nụ hôn nào như thế cả.

Cuối cùng anh buông cô ra, kéo một lọn tóc vừa rơi xuống mắt cô. "Em về nhà đi, không thì ông bà sẽ cho lính đuổi theo tôi mất." Anh khoác tay qua vai cô rồi dìu cô đi trên cát.

"Em nói thật đó, anh biết không, chuyện kết hôn đó."

"Có loạn trí mới muốn lấy tôi Izz à. Gác đèn không phải là nghề xông xênh. Làm vợ người gác đèn cực lắm."

"Em biết mình muốn gì, Tom à."

Anh đứng im. "Em nghe đây. Tôi không muốn lên giọng dạy đời em, Isabel à, nhưng... em nhỏ hơn tôi khá nhiều: năm nay tôi đã 28 rồi. Tôi đoán em trước giờ em cũng chưa quen ai." Tom đoán được điều đó từ nụ hôn vụng về đầu tiên.

"Chuyện đó thì liên quan gì?"

"Chỉ là... không nên nhầm lẫn, chỉ vì lần đầu tiên. Nghĩ kĩ đi. Tôi cá với em, cá bằng hết thảy trà ở Trung Hoa rằng chỉ trong mười hai tháng em sẽ quên tôi."

"Thì anh chờ xem," cô nói rồi nhón chân hôn anh lần nữa.

O>W&t#t

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro