Nghệ thuật nhìn thế giới

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Hội họa dạy ta nhìn và nhìn thấy (đó là hai việc

khác nhau và họa hoằn mới trùng nhau). Nhờ đó hội họa giữ được nguyên vẹn và sinh động cái tình cảm chỉ trẻ em mới có.

ALEKSANĐR BLOK

Con người dừng lại, sửng sốt trước những vật chẳngđóng vai trò nào trongđời sống của con người: trước bóng phản chiếu không thểnào lấy được,trước những tảngđá dựngđứng mà tay người không thểnào gieo trồng được, trước màu sắc kỳ lạ của bầu trời.

JOHN RUSKIN [1]

Có những chân lý không cần phải bàn cãi, nhưng chúng thường nằm yên vô ích, không giúp gì cho hoạtđộng của con người, chỉvì chúng ta lười biếng và dốt nát. Một trong những chân lý không cần phải bàn cãi ấy có liên quanđến nghềvăn,đặc biệtđối với công việc của những người viết văn xuôi. Chân lýđó là sựhiểu biết những lĩnh vực nghệ thuật hàng xóm láng giềng của văn chương nhưthi ca, hội họa, kiến trúc,điêu khắc và âm nhạc, nó làm cho thếgiới bên trong của người viết văn xuôi trởnên phong phú dịthường, và làm cho văn của ngườiđó có sức biểu hiệnđặc biệt. Vănđược bồi bổthêm ánh sáng và màu sắc của hội họa, cái tươi mát của những từvốn thuộc thi ca, cái cân xứng của kiến trúc, sựrõ ràng, có khối hình củađường nét trongđiêu khắc và nhịp điệu, tiết tấu và tính du dương của âm nhạc.

Đó là những cái làm giàu thêm cho văn xuôi, tựa nhưnhững màu sắc bổ sung cho nó.

Tôi không tin những nhà văn không yêu thi ca và hội họa. May thì họ còn là những người có trí óc lười nhác và kiêu ngạo, tệhơn - họlà những kẻ ngu dốt.

Nhà văn không thểkhinh miệt bất cứmột cái gì có thểmởrộng nhỡn quan của mìnhđối với thếgiới. Tất nhiên, nếu nhà vănđó là thợcả trong nghềmình chứkhông phải một anh phó nhỏ, là người sáng tạo ra vật báu chứkhông phải một kẻtầm thường, kiên nhẫn gậm nhấm cái may mắn trong cuộc đời như nhai kẹo cao su Mỹ.

Thường khiđọc xong một truyện ngắn, một truyện dài hay một cuốn tiểu thuyết, trong trí nhớcủa ta chẳng còn lại chút gì ngoài mộtđám hỗnđộn những con người xám xịt. Anh có cốcông gắng sứcđểnhìn thấy những con ngườiđó thì rồi anh cũng sẽchẳng thấy họ đâu, bởi vì tác giả đã không cung cấp cho họ lấy một nét sống nào.

Và cảcốt chuyện của những truyện ngắn, truyện dài và tiểu thuyếtấy cũng diễn ra giữa một ngày lầy nhầy, không màu sắc, không ánh sáng nàođó, giữa nhữngđồvật tác giảcóđặt tên, nhưng chính anh ta cũng không nhìn thấy, thành thửcũng không trình rađược cho ngườiđọc chúng ta xem.

Mặc dầuđềtài thì hiệnđại, những cuốn sách nhưthếvẫn phơi bày sự bất lực của chúng, những cuốn sách thườngđược viết ra với tinh thần sảng khoái giảtạo. Người tađịnhđánh lộn sòng nó với niềm vui,đặc biệt là niềm vui lao động.

Nguyên nhân của quang cảnh chán ngánđó không phải chỉ đơn thuần là sựnghèo cảm xúc và sựkém học thức của tác giả, mà còn do cái nhìn lờ đờ loài cá của anh ta.

Chúng ta muốnđập tan những truyện dài và những cuốn tiểu thuyếtấy như đập tan những cửa kính dán kín trong một căn phòng ngột ngạt và bụi bậmđểnhững mảnh thủy tinh vỡkia bay ra với một tiếngđộng ròn tan và ngayđấy, từbên ngoài sẽùa vào phòng: gió, tiếng mưa rơi, tiếng trẻcon íới, còi tàu thủy, ánh lấp loáng của conđường nhựaướt - cả cuộcđời xông vào với cái hỗnđộn, nếu nhưmới thoạt nhìn, và với cái sặc sỡ tuyệt đẹp của ánh sáng, màu sắc và tiếng động, của nó.

Ởnước ta có rất nhiều cuốn sách tưởng chừng do người mù viết. Sách ấy lại nhằm cho những người sángđọc, và trong chuyệnđó ta thấy tất cả sự lố bịch của việc xuất bản những cuốn sách như vậy.

Muốn nhìn cho rõ, không phải chỉcần nhìn mọi phía. Phải học cách nhìn. Chỉnhững ai yêu con người vàđấtđai mới có thểtrông thấyđược

chúng. Sựnhàm chán và vô vịtrong văn xuôi thường do hậu quảdòng máu lạnh của nhà văn, chỉdấuđáng sợcủa bệnh chết mòn trong anh ta. Nhưngđôi khiđó chỉlà cái vụng về, chứng tỏmột sựthiếu văn hóa.

Như thế thì, như người ta thường nói, còn vớt vát được.

Các họa sĩcó thểdạy chúng ta cách nhìn và cách tiếp nhận ánh sáng, màu sắc. Họnhìn giỏi hơn chúng ta. Và họbiết ghi nhớnhững gì họ đã nhìn thấy.

Khi tôi còn là một nhà văn ít tuổi, một họa sĩ quen biết bảo tôi:

- Này, cậu, cậu nhìn còn chưađược rõđâu. Cậu nhìn còn lờmờ. Và thô kệch. Căn cứvào những truyện ngắn của cậu thì cậu mới nhậnđược những màu chính, còn nhữngđộchuyển tiếp và những tiểu dịthì lẫn vào nhau thành một cái gì đó đơn điệu.

- Biết làm thế nào được! Mắt tôi nó như vậy - tôi trả lời, tự bào chữa.

- Nói nhảm! Người ta có thểtạo rađược con mắt tốt.Đừng có lười, hãy rèn con mắtđi. Bắt nó vào khuôn vào phép. Cậu cứthửbỏra một hoặc hai thángđểnhìn mọi vật với ý nghĩlà cậu bắt buộc phải vẽnhững cái đó bằng màu. Trong xeđiện, trong xe buýt,ở đâu cũng thế, cậu phải nhìn con ngườiđúng theo cáchấy. Và chỉqua vài ba ngày là cậuđã thấy rõ rằng trước kia trên mặt mọi người cậu chỉnhìn khôngđược lấy một phần mười những gì bây giờcậu thấy. Còn qua hai tháng cậu sẽhọc được cách nhìn và không cần phải ép buộc mình làm việc đó nữa.

Tôi nghe lời họa sĩnọvà quảnhiên người và vậtđúng là trởthành thú vị hơn nhiều so với khi tôi còn nhìn họ hấp tấp và lướt qua.

Và tôi tiếc vô cùng khoảng thời gian mà tôiđã ngu ngốcđểmất. Tôi có thểnhìn thấy biết bao cáiđẹp tuyệt vời trong những năm qua, nếu như tôi biết nhìn! Biết baođiều thú vị đã quađi không trởlại và chẳng có tài nào làm cho chúng tái sinh.

Đó là bài học đầu tiên mà họa sĩ đã cho tôi. Bài thứ hai còn sáng rõ hơn.

Một lần vào mùa thu tôi từMoskvađi Leningrađnhưng không qua Kalinin và Bologoe màđi từga Savyolovsky qua Kalyazin và Khvoynaya.

Nhiều người Moskva và Leningrađcũng chẳng ngờrằng có conđường

ấy. Tuy nó có xa hơn thật, nhưng lại thú vịhơn conđường thông thường qua Bologoe. Thú vịhơnởchỗnó chạy qua những miền hoang vắng và nhiều rừng.

Bạnđường của tôi là một người nhỏbé vớiđôi mắt ti hí nhưng rất hoạt. Ông vận bộquần áo lụng thụng, mang theo một hòm lớnđựng sơn dầu và những cuộn vải gai. Trông ông, ai cũng biết ngay là một họa sĩ.

Chúng tôi nói chuyện. Ông bạnđường của tôi nói rằng ôngđiđến vùng gần thịtrấn Tikhvin,ở đó có một người bạn làm nghềkiểm lâm và ông sẽ ở vùng ông bạn trông coi để vẽ mùa thu.

- Sao mà ông lặn lội xa thế, mãi tận Tikhvin? - tôi hỏi. Họa sĩ trả lời tin cậy:

-Ở đó tôiđã quan sát kỹvà chọnđược một vùng. Vùng nàyđẹp tuyệt! Đốông tìmđược một vùng thứhai nhưthế. Một khu rừng toàn liễu hoàn diệp.Đôi chỗlácđác vài cây thông. Liễu hoàn diệp mặc cho mùa thu một bộquần áođặc biệt tao nhã, không có giống cây nào nhưthế. Lá liễuđủmàu.Đỏthắm, vàng chanh, tím và cả đen lấm tấm vàng.

Dưới ánh sáng mặt trời nó biến thành mộtđống lửa trại. Tôi làm việcở đây chođến mùađông, cònđông rồi thì tôi sang bờvịnh Phần Lan, quá Leningrađ.Ở đó, ông phải biết, băng bụiđẹp nhất nước Nga. Chưa nơi nào tôi được thấy thứ băng bụi như vậy.

Tôi nói, tất nhiên là nóiđùa, rằng với những hiểu biết nhưvậy, ông bạn đường của tôi có thểviết một cuốn sách cẩm nang quý giá cho các họa sĩ, chỉ cho họ đi đâu, vẽ gì.

Họa sĩ nghiêm trang trả lời:

- Thếông cho rằng khôngđược sao? Viết cáiđó không khó. Nhưng không cần. Mọi người sẽbâu vào một chỗtrong khi hiện nay mỗi người đang tìm cái đẹp riêng biệt. Cái đó tốt hơn nhiều.

- Vì sao?

-Đất nước sẽphơi ra muôn mặt hơn. Trênđất Nga có không biết bao nhiêu là cáiđẹpđủdùng cho tất cảcác họa sĩtrong hàng nghìn năm.

Nhưng ôngạ- ông nói với vẻlo lắng - hình nhưcon người bắtđầu dày xéo và làm kiệt quệ đấtđai nhiều quá rồiđấy. Mà sắcđẹp củađấtđai lại

là mộtđiều thiêng liêng, mộtđiều vĩ đại trongđời sống xã hội chúng ta. Nó là một trong những mụcđích cuối cùng của chúng ta. Không biết ông thếnào, chứtôi thì tôi tin chắc nhưvậy. Không hiểuđượcđiềuđó không phải là một người cấp tiến.

Ban ngày tôi ngủ thiếp đi, nhưng ông bạn hàng xóm đã dựng tôi dậy.

- Xin ôngđừng bực mình, - ông bối rối nói - nhưng ông dậyđi thì hơn. Một bức tranh kỳ diệu đang mở ra: cơn giông tháng chín. Ông trông kìa!

Tôi trông ra ngoài cửa sổtàu.Ởphía Nam mộtđám mâyđen nặng nề

và cao, choán hết nửa bầu trời,đang nhô lên. Những ánh chớp co kéo, giật giật nó.

- Mẹ ơi! - ông họa sĩkêu lên - Biết bao nhiêu là màu là sắc! Không thể nào vẽ nổi cái ánh sáng này, dù cho anh có là Levitan đi chăng nữa.

- Ánh sáng nào? - tôi cuống quýt hỏi.

- Trờiơi! - họa sĩnói với vẻtuyệt vọng - Ông nhìnđiđâu thếkia? Kia kìa, ông thấy không,ở đó rừng tốiđen và yên lặng,đó là do bóng mây

trùm lên nó. Còn kia, xa hơn một chút, trên rừng có những vết vàng bệch và hơi xanh lục:đó là tại ánh sáng mặt trời bịmây cản. Cònở đàng xa thì rừng hoàn toàn phơi mình trong nắng. Ông thấy chưa? Cảkhu rừng như đúc bằng vàng mười. Và trong suốt. Một loại tường bằng vàng có hoa văn. Hay là một chiếc khăn tay kéo dài suốt chân trời, chiếc khăn do những cô thợthêu bậc thầy trong vùng Tikhvin của chúng tôi thêuởcác xưởng làmđồkim tuyến. Bây giờông hãy trông gầnđây, những dải thông kia kìa. Ông có thấy cái ánhđồng thau lấp lánh trên những lá nhọn không?Đó là do bức tường vàng của rừng mà có. Ánh sáng của bức tường vàng hắt lên những ngọn thông. Ánh phản chiếu. Vẽnó rất khó. Dễlàm nó thôđi lắm. Còn kia, ông thấy không, kia chỉcó ánh sáng tỏa ra yếuớt, tôi muốn nói ánh sáng chiếu xuống dịu dàngđến nỗi cần phải có một bàn tay thật bình tĩnh và trung thành mới truyền đạt nổi nó.

Họa sĩ nhìn tôi và cười.

- Ánh phản chiếu từrừng thu hắt lại mạnh thực! Cảphòng ngủtrong toa bừng lên nhưtrong buổi hoàng hôn. Nhất là trên mặt ông. Giá cứvẽ ông nhưthếnày mà hay! Tiếc thay, tất cảnhững cáiđó chỉthoáng qua

trong chốc lát.

Tôi nói:

- Thìđó chính là việc của các họa sĩ: bắt những cái thoảng qua phải dừng lại trong nhiều thế kỷ.

Họa sĩ trả lời:

- Chúng tôi sẽcốgắng. Nếu cái thoảng quaấy khôngđến với chúng tôi quáđột ngột nhưlúc này. Nói chođúng, họa sĩkhông bao giờ được rời màu vẽ, vải gai và cây bút lông. Các ông, những nhà văn, các ông có nhiều thuận lợi hơn. Những màu sắcđó các ông mang trong trí nhớ. Trông kìa, sao mọi vật lại biếnđổi nhanh chóngđến thếhở? Kìa, rừng lúc thì rực sáng, lúc lại chìm trong bóng tối.

Đàng trướcđám mâyđen của cơn giông là những dải mây trắng rách rướiđang chạy vềphía chúng tôi. Sức chuyểnđộng vùn vụt của chúng quả đang trộn lẫn mọi màu trên tráiđất. Cái sựrối rắm của các màu:đỏ thẫm, vàng nguyên chất và vàng trắng, màu xanh lá mạ, tím và màu bóng tối xanh lam đã bắt đầu ở những cánh rừng xa.

Thỉnh thoảng một tia nắng xuyên qua mâyđen rọi xuống từng vòm bạch dương làm chúng vụt sáng, cái nọnối tiếp cái kia, nhưlà những ngọnđuốc vàng, nhưng ngayđó chúng lại tắt ngấm. Gió trước cơn giông thổi mạnh từng đợt càng làm cho màu sắc hỗn độn thêm.

- Ôi, bầu trời mớiđẹp làm sao! - họa sĩkêu lên - Ông trông! Có còn màu gì mà nó chẳng tạo ra nữa kia chứ!

Vầng mâyđen của cơn giông cuồn cuộn tỏa khói màu tro và nhanh chóng sà xuống mặtđất. Cảvầng mây là một màuđáđenđơnđiệu.

Nhưng mỗi tia chớp lóe sáng lại làm lộra những lốc xoáy màu vàng hãi hùng, những cái hốc xanh và những vết nứt rạn ngòng ngoèođược soi tỏ từ bên trong bởi một thứ lửa hồng đục.

Ánh lóe sắc của những tia chớpởsâu trong ruột vầng mâyđenđổi chỗ chođám cháy màu lửađồng.Ởgần mặtđất hơn, trong khoảng giữa mây đen và rừng cây, những dải mưa rào đã đổ xuống.

- Thếlà hết! - họa sĩxúcđộng kêu lên - Ta chẳngđược thấy luôn cái cảnh quái quỷ này đâu!

Chúng tôi rời cửa sổphòng ngủ đểrađứng bên cửa sổtoa. Những bức rèm cửa run lên bần bật trước gió càng làm cho ánh sáng thêm lấp loáng.

Mưa rào trút xuống. Người phụtrách toa hấp tấp hạhết cửa xuống. Những sợi nước mưa xiên xiên chảy thành dòng trên mặt kính. Ánh sáng mất hẳn, chỉ ở đàng xa, xa lắm, mãi tận chân trời, qua bụi mưa, là còn một dải rừng mạ vàng cuối cùng cháy sáng.

Họa sĩ hỏi tôi:

- Ông còn nhớ được gì không?

- Đôi chút thôi.

- Tôi cũng thế, chỉnhớ đượcđôi chút thôi - ông buồn rầu nói - Tạnh mưa, màu sắc sẽ đậm hơn. Ông biết không, nắng giỡn trên lá và thân cây. Nói chung, ông hãyđểý nhìn ánh sáng vào một ngàyảmđạm trước cơn mưa. Trước cơn mưa nó một khác, trong cơn mưa một khác, còn sau cơn mưa thì lại hoàn toàn khác. Bởi vì láướt làm cho không khí có một ánh lấp lánh yếuớt. Cái ánh lấp lánhđó xám, mềm vàấm. Nói chung, nghiên cứu màu sắc và ánh sáng là một khoái lạc, ông bạn thân mến của tôiạ. Tôi thềkhôngđổi cái nghiệp họa sĩcủa tôi lấy bất cứmột thứ gì khác.

Đêm, họa sĩxuống ga xép. Tôi xuống sân ga chia tay với ông. Ngọnđèn lồng dầu hỏa tỏa sáng. Phía trước, đầu máy thở nặng nhọc.

Tôi ghen với ông bạn họa sĩvà bực mình vì công việc bắt tôi phảiđi tiếp và không nán lạiđược lấy vài ngàyởphương Bắc.Ở đây mỗi cành thạch thảo cũng có thể gợi lên đủ ý cho vài bài thơ bằng văn xuôi.

Không thểhiểuđược vì sao mà trongđời mình, cũng nhưtrongđời bất cứai khác, tôiđã không tựcho phép tôiđược sống theo tiếng gọi của trái tim mình, mà lạiđi bận bịu liên miên với những công việc tưởng chừng không thể nào trì hoãn.

Đối với màu sắc và ánh sáng trong thiên nhiên chỉquan sát chúng không thôi thì chưađủ. Cần phải sống bằng chúng. Trong nghệthuật, chất liệu dùng được chỉ có thể là chất liệu đã chiếm được chỗ trong tim.

Hội họa quan trọngđối với người viết văn xuôi không phải chỉ ởchỗnó

giúp nhà văn nhìn thấy và yêu mến màu sắc, ánh sáng. Hội họa còn quan trọngởchỗhọa sĩthường nhận thấy cái mà chúng ta không thấy.

Chỉsau khi xem xong tranh của người vẽchúng ta mới bắtđầu nhận ra cáiđó và ngạc nhiên không hiểu sao trước kia chúng ta lại không nhận ra.

Họa sĩPháp Monetđến London và vẽtu viện Westminster. Monet vẽ trong một ngày sương mù bình thườngởLondon. Trong bức tranh của Monet nhữngđường nét gô-tích của tu viện chỉhơi mờmờchọc thủng màn sương. Bức tranh được vẽ một cách điêu luyện.

Khi tranhđược trưng bày, nó làm cho dân London xôn xao. Người ta sửng sốt thấy sương mù trong tranh Monetđược vẽbằng màuđỏthắm, trong khi ai cũng biết rằng sương mù có màu xám.

Sựngang ngược của Monet lúcđầu làm người ta công phẫn. Nhưng những người công phẫn kia bước ra phố, nhìn kỹsương mù và lầnđầu tiên họ nhận thấy nó quả nó có màu đỏ thắm thực.

Lập tức người ta tìm cách giải thíchđiềuđó. Rồi người tađồng ý với nhau rằng sắcđỏcủa sương mù phụthuộc vàođộdàyđặc của khói.

Ngoài ra những ngôi nhà gạchđỏ ởLondonđã làm cho sương mù có màu như thế.

Dù sao mặc lòng, Monetđã thắng. Sau khi có bức tranh của ông, mọi người bắtđầu thấy sương mù London giống sương mù mà họa sĩ đã thấy.Đến nỗi người tađặt biệt hiệu cho Monet là "người sáng tạo ra sương mù London".

Nếu nóiđến những thí dụtrongđời tôi, thì lầnđầu tiên tôiđược thấy tất cảcáiđa dạng vềmàu sắc trong một ngày mưaởNga là sau khi xem bức "Trên sự yên tĩnh đời đời" của Levitan.

Trướcđó tôi thấy trời mưa chỉcóđộc một màuđáng ngán. Cảcái buồn lúc trời mưa, theo tôi nghĩhồiđó, là do mưa vùi dập mọi màu sắc và phủ vẩn đục lên mặt đất.

Nhưng Levitan lại nhìn thấy trong cáiđáng ngánấy một sắc thái cao cả, một sắc thái uy nghi nữa là khác. Và ông tìm thấy trong cáiđáng ngán ấy rất nhiều màu trinh trắng. Từ đó trời mưa thôi khôngđè nặng lên tôi nữa. Ngược lại, tôi còn thích trời mưa vì cái không khí trong sạch của

nó, vì cái lạnh, khi má ta nóng rực, vì mặt nước gợn lăn tăn màu thiếc trắng trên sông, vì sựchuyểnđộng nặng nềcủa nhữngđám mây. Và sau hết, tôi thích mưa còn vì khi mưa xuống mình mới biết quý những của cải bình dịtrên thếgian: căn nhà gỗ ấm áp, ngọn lửa trong lò sưởi, tiếngấm samovar reo,ổrơm khô phủvải gai trên sàn, tiếng mưa rơi trên máiđưa ta vào giấc ngủvà trạng thái giấc mơmàng êmả. Hầu như mỗi nghệsĩ, dù anh taởthờiđại nào và thuộc trường phái nào, cũng đều mở ra cho ta thấy những nét mới của thực tại.

Tôi có cái may mắnđược thăm nhà triển lãm hội họa Dresden vài lần. Ngoài "Đức MẹSistin" của Raphael,ở đó còn có rất nhiều tranh của các bậc thầy cổxưa, trước tranh của họmà dừng lại thì thực nguy hiểm. Những bức tranhấy không buông tha ta. Ta có thểnhìn chúng hàng giờ, có khi hàng ngày và nhìn chúng càng lâu thì nỗi xúcđộng khó hiểu trong tâm hồn ta càng lớn. Nỗi xúcđộngấy dâng caođến mức con người khó mà cầm được nước mắt.

Tại sao lại có những giọt nước mắt không rơiấy? Vì rằng trong những bức tranh kia có cảcái toàn thiện, toàn mỹcủa tinh thần và quyền lực của thiên tài, là cái buộc ta phải hướng vềsựtrong sạch, sức mạnh và cái cao thượng trong những nguyện vọng của mình.

Trong việc thưởng ngoạn cái tuyệt mỹ, xuất hiện nỗi lo lắng báo trước sựtẩy rửa nội tâm của chúng ta. Hình nhưtất cảcái mát mẻcủa những cơn mưa, những làn gió, hơi thởcủađấtđai khai hoa, bầu trời nửađêm và những giọt nước mắt chảy ra vì tình yêuđều nhập vào trái tim biết ơn của chúng ta và vĩnh viễn chiếm lĩnh nó.

Hình nhưnhững người theo chủnghĩaấn tượng làm cho ánh sáng mặt trời mạnh thêm. Họvẽngoài trời và,đôi khi, có lẽhọ đã cốý làm cho màu sắcđậm thêm. Cáiđó làmđấtđai trong những bức tranh của họ xuất hiện trong một ánh sáng hân hoan.

Đấtđai trởthànhđấtđai ngày hội. Trong việcđó không có gì là tội lỗi, bởi vì không có tội lỗi trong tất cảnhững gìđem lại thêm cho con người dù chỉ là chút ít niềm vui.

Chủnghĩaấn tượng là của chúng ta, cũng nhưtất cảnhững di sản giàu có khác của quá khứ. Bỏnóđi có nghĩa là ta tự đẩy tađến chỗhẹp hòi có ý thức. Chúng ta không hềvứt bỏ"Đức MẹSistin" của Raphael mặc dầu bức tranhấyđãđược sáng tác theođềtài tôn giáo. Chúng ta không

ngu ngốcđến nỗi không còn biếtđâu là ranh giới giữa thiên tài của hội họa với tôn giáo. Tôi không nghĩrằng có thểcó một người xô-viết nào đó vì ngợi khen "Đức MẹSistin" mà bỗng chốc trởthành con chiên của đạo Chúa. Cái vô lý của ý nghĩ đó rất rõ. Tại sao chúng ta lạiđi quan tâm nghiêm túcđến những ý nghĩtức cười khi vấnđề động chạmđến những nhàấn tượng chủnghĩa. Picasso, người luôn nghĩcáchđổi mới, có gì nguy hiểm cho chúng ta? Và những nhàấn tượng chủnghĩa Matisse, Van Gogh hoặc Gauguin? Tiệnđây cũng xin nói rằng Gauguin là ngườiđãđứng vào cuộcđấu tranh chống chính quyền thực dân Pháp vì nền độc lập của nhân dân Tahiti.

Chuyệnđó có gì xấu và nguy hiểm? Những bộócđốkỵhoặc cơhội nào dám nghĩrằng cần phải sổtoẹt lớp họa sĩxuất sắc và tài năng ra khỏi nền văn hóa của nhân loại và nền văn hóa của chúng ta nói riêng?

Sau cuộc gặp gỡtrên tàu với ông bạn họa sĩ, tôi tới Leningrađ. Trước mắt tôi lại mởra cái quần thểtrang trọng của những quảng trường và những tòa nhà cân đối trong thành phố.

Tôi ngắm nghía chúng rất lâu, cốtìm rađiều bí mật trong kiến trúc của chúng. Bí mậtđó làởchỗnhững tòa nhà cho taấn tượng vềcái hùng vĩ mà trong thực tếchúng lại chẳng lấy gì làm lớn cho lắm. Một trong những công trình tuyệt mỹlà nhà bộTổng tham mưu kéo một vòng cungđềuđặn trướcđiện MùaĐông chiều cao không quá một tòa nhà bốn tầng. Thếmà nó còn hùng vĩhơn bất cứtòa nhà chọc trời nàoở Moskva.

Lời giải câuđốrấtđơn giản. Cái hùng vĩcủa những tòa nhà sởdĩmà có là do sựcân xứng, những tỷlệ ăn nhịp với nhau và một sốnhỏvật trang hoàng: những viền cửa gỗ, những xoáy ốc trang trí và phù điêu.

Nếu ta nhìn kỹnhững tòa nhàấy, ta sẽhiểu rằng óc thẩm mỹtốt trước hết chính là ý thức chừng mực.

Tôi tin rằng nhữngđịnh luật trên vềcái cân xứng giữa các phần, sựloại bỏtất cảnhững cái thừa không cần thiết; một sốít vật trang hoàng, cái giảnđơn, trongđó mỗiđường nét nổi lên rõ ràng và cho ta một khoái cảm - tất cả những cái đó có liên quan ít nhiều đến cả văn xuôi.

Nhà vănđã yêu cái toàn thiện toàn mỹcủa những hình thức kiến trúc cổ điển không bao giờ đểcho lối bốcục vụng vềvà nặng chịch có mặt

trong văn mình. Nhà vănđó sẽ đạt tới sựcân xứng của các phần và sự nghiêm khắc của bức vẽbằng lời. Nhà vănđó sẽtránh sựthừa của những vật trang hoàng và loãng văn xuôi - tức là thứbút pháp mà người ta gọi là bút pháp trang trí.

Bốcục của một tác phẩm văn xuôi phảiđạt tới mức không thểbỏ đi hoặc thêm vào một chút gì mà không làm hỏngđi ý nghĩa của câu chuyện và dòng đi hợp quy luật của các sự kiện.

Bao giờcũng vậy, tôi dùng hầu hết thời gianởLeningrađvào việc xem viện bảo tàng Nga và viện bảo tàng Ermitazh.

Bóng tối yếuớt với ánh sáng mạthẫm màu trong những gian trưng bày ởErmitazh,đối với tôi thật là thiêng liêng. Tôi bước vào Ermitazh như bước vào kho thiên tài của nhân loại.

Trong viện bảo tàng Ermitazh, lầnđầu tiên, khi còn là một thanh niên, tôiđã cảm thấy hạnh phúc làm người. Và hiểu rằng con người có thểtrở nên vĩ đại và tốt đẹp.

Lúcđầu tôi cứbịlạc giữa cáiđám diễu hành lộng lẫy của các họa sĩ. Tôi chóng mặt vì màu sắc quá nhiều và dàyđặc, vàđểnghỉngơi, tôi bỏra gian trưng bày tượng.

Tôi ngồiở đó rất lâu. Và càng nhìn những bức tượng của những nhà nặn tượng vô danh Hy Lạp hoặc tượng những ngườiđàn bà tủm tỉm cười của Canova tôi càng hiểu rõ thêm rằng tất cảnhững tác phẩmđiêu khắc nọchính là lời kêu gọi con ngườiđi tới cái tuyệt mỹvà nó làđiềm báo trước buổi bình minh trong sáng nhất của nhân loại. Lúcđó thi ca sẽ ngựtrịtrên những trái tim, và chế độxã hội - chế độmà chúng tađang vượt qua những năm laođộng, lo lắng và căng thẳng trong tâm hồnđể đi tới - sẽ được xây dựng trên cáiđẹp của chính nghĩa, cáiđẹp của trí tuệvà trái tim, của những quan hệgiữa người với người và của thân thể con người.

Đường tađi sẽdẫn tới một thờiđại hoàng kim. Thờiđạiđó sẽ đến. Tất nhiên,đáng giận là chúng ta khôngđược sốngđến ngàyấy. Nhưng chúng ta phải cảm thấy hạnh phúc khi ngọn gió thờiđạiđóđã reo vang quanh ta và bắt tim ta đập mạnh thêm.

Chảthếmà Heineđã tới viện bảo tàng Le Louvre ngồi hàng giờbên

tượng thần Vệ nữ ở Milos mà khóc.

Ông khóc gì? Khóc cho cái toàn thiện toàn mỹcủa con người bịnhục mạ. Khóc vì conđườngđi tới cái toàn thiện toàn mỹ ấy thật là cực nhọc và xa lắcđối với cảông, với Heine, ngườiđã hiến cho mọi người chất độc và ánh sáng của trí óc mình, ngườiđã không thể đi tới - tất nhiên - miền đất hứa mà trái tim sôi nổi suốt đời vẫy gọi ông tới đó.

Sức mạnh của nghệthuậtđiêu khắc làởchỗ đó, cái sức mạnh mà nếu thiếu hơiấm bên trong của nó thì không thểcó nghệthuật tiên tiến, nhất là nghệthuật củađất nước chúng ta. Cũng nhưvậy, không thểcó một nền văn xuôi vững chắc.

Trước khi nóiđếnảnh hưởng của thi cađối với văn xuôi, tôi muốn nói vài lời vềâm nhạc, hơn nữa âm nhạc và thi ca thường gắn kết chặt chẽ với nhau.

Đềtài cuộc nói chuyện ngắn ngủi vềâm nhạc buộc phải giới hạn trong cái mà chúng ta gọi là tiết tấu và nhạc tính của văn xuôi.

Trong văn xuôi chân chính bao giờ cũng có tiết tấu của nó.

Trước hết tiết tấu của văn xuôiđòi hỏi sựsắpđặt các từsao cho người đọc có thểtiếp nhận câu văn nhẹnhàng, không căng thẳng, tiếp nhận được ngay tức khắc. Chekhovđã nói về điềuđó khi viết thưcho Gorky "Văn phảiđược xếp gọn (vào trong ý thức ngườiđọc) ngay lập tức, trong một giây".

Không thể đểcho ngườiđọc phải ngừng lại trên tác phẩmđểkhôi phục sựchuyểnđộng của các từ, sựchuyểnđộng thíchứng với tính chất đoạn này hay đoạn khác trong văn.

Nói chung nhà văn cần phải giữngườiđọc trong tình trạng chú ý không rời, dẫn ngườiđọc theo mình và khôngđượcđểtrong văn bài của mình còn có những chỗtối nghĩa và lủng củng làm cho ngườiđọc vì vấp phải những chỗ đó mà vượt ra ngoài quyền lực của nhà văn.

Nhiệm vụcủa nhà văn và tác dụng của văn xuôi làởchỗgiữ được ngườiđọc trong tình trạng chú ý không rờiấy, lôi cuốn ngườiđọc, sao cho người đọc cảm nghĩ giống nhà văn, cùng với nhà văn.

Tôi nghĩrằng không bao giờtiết tấu của văn xuôi lại có thể đạtđược

bằng conđường nhân tạo. Tiết tấu của văn xuôi phụthuộc vào tài năng, vào cảm năng ngôn ngữ, vào "thính giác tốt của nhà văn". Cái thính giác tốt ấy trong một mức độ nào đó là cái rất gần với tai nhạc.

Nhưng cái làm cho ngôn ngữcủa người viết văn xuôi phong phú nhiều hơn hết là sự hiểu biết thi ca.

Thi ca có mộtđặc tính kỳlạ. Nó trảlại cho chữcái tươi mát trinh bạch banđầu. Những từtơi tảnhất mà chúng tađã "nói cạn"đến cùngđã mất sạch tính hình tượngđối với ta, chi còn lại một cái vỏ, những từ ấy trong thi ca lại sáng lấp lánh, lại kêu giòn và tỏa hương!

Giải thích cáiđó ra sao, tôi không biết. Tôi cho rằng từtái sinh trong hai trường hợp.

Một là, khi nào người ta trảlại cho nó sức mạnh ngữâm (âm thanh). Mà làm việcđó trong thi ca thì dễhơn trong văn xuôi nhiều. Vì thếtrong bài hát và trong tình ca các từtácđộngđến chúng ta mạnh hơn trong lời nói thường.

Hai là, cả đến những từ đã tơi tả, nếuđượcđặt vàođội ngũâm nhạc êm ái trong một bài thơthì hình nhưnóđược no nê âmđiệu du dương của câu thơ và bắt đầu vang vang trong sự hài hòa cùng với những từ khác.

Và cuối cùng là thi ca phong phú phépđiệp vận.Đó là một trong những tính chất quý báu của nó. Văn xuôi cũng được quyền có điệp vận.

Nhưng cái chính không phải ở chỗ đó.

Cái chính làởchỗkhi văn xuôiđạt tới mức toàn thiện toàn mỹthì về bản chất nó đã là thơ đích thực rồi.

Chekhov cho rằng truyện "Taman" của Lermontov và "Con gái viênđại úy" của Pushkin chứng minh mối liên lạc máu mủgiữa văn xuôi với thơ Nga đầy nhựa sống.

Prishvinđã có lần viết vềmình (trong một bức thưriêng) rằng ông là "nhà thơ bị đóng đanh trên cây thập tự của văn xuôi".

Lev Tolstoy viết: "Tôi không bao giờhiểuđâu là ranh giới giữa văn và thơ". Ôngđặt ra câu hỏi sau với sựnóng nảy hiếm cóởông trong "Nhật Ký Tuổi Xuân".

"Vì sao thơvà văn, hạnh phúc và khổ đau, lại gắn bó chặt chẽvới nhau

đến thế? Phải sống nhưthếnàođây? Cốgắngđểbất thần gắn thơvà

văn lại với nhau hay là thích thú cái này, bỏmặc cái kia?. Trongước mơ, có mặt cao hơn thực tại. Trong thực tại, có mặt cao hơnước mơ. Hạnh phúc đầy đủ là sự nối liền hai cái lại với nhau".

Trong lời nóiđó của Tolstoy, mặc dầuđược phát biểu một cách hấp tấp, đã thểhiện một ý nghĩ đúngđắn: hiện tượng cao hơn hết, có sức thuyết phục hơn hết, hạnh phúc chân chính chỉcó thểlà sựhòa hợp hữu cơ giữa thơvà văn, hay nói một cách chính xác hơn, là văn trànđầy nội dung thơ, nhựa sống dồi dào của thơ, cái không khí trong sáng nhất, cái quyền lực bắt người ta say mê của nó.

Trong trường hợp này tôi không ngại dùng chữ"làm người ta say mê" (nói cách khác - "bắt làm nô lệ"). Bởi vì thơbắt làm nô lệ, làm cho mê mẩn và bằng một cách kínđáo, nhưng với sức mạnh không gì sánh nổi thơnâng cao con người,đưa nó tới gần trạng thái khi con người thực sự trởthành vật tôđiểm cho tráiđất. Hoặc nói một cách hồn nhiên nhưng chân thành nhưtổtiên chúng ta, thành "chiếc mũtriều thiên của sựsáng tạo".

Vlađimir Ođoevsky có phầnđúng khi nói rằng "thi ca làđiềm báo trước một thực trạng khi nhân loại thôi khôngđạt tới nữa và bắtđầu sửdụng cái đã đạt được".

Chú thích:

[1]

John Ruskin (1819-1900), nhà văn, nhà phê bình nghệthuật, nhà xã hội học Anh.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro