Chương Hai

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Thả neo chiến hạm ở cái nơi đã từng là thành tự trị Giang Nam, Đức Linh hạ thuyền con rồi chở Lạc vào thành. Nước ngập rất sâu, khác hẳn nơi hai người đi ngang hôm qua. Cô giải thích, thành Giang Nam vốn nằm trong một vùng lòng chảo trũng, xung quanh là các đồi cao, lại có sông Thương Long, một sông lớn đổ vào Linh Giang, đi ngang qua, nên kể cả khi xưa nơi này cũng rất hay bị lụt. Nhưng ngày ấy, lũ dù có lên thì cùng lắm chỉ ngang bụng người, ngập chưa quá tầng trệt nhà, ấy vậy mà bây giờ, nước đã ngập gần tới đầu người rồi.


Nhoài người ra mạn thuyền, Lạc thích thú nhìn xuống vùng nước xung quanh. Cũng hệt như đoạn trên, nơi đây nước trong vắt, nhìn thấy cả rong dưới đáy, nhưng tuyệt nhiên không có một con cá nào cả. Cậu nhóc hơi buồn, mặt hồ đẹp thế mà lại chỉ có rong thôi sao? Ngược hẳn với mặt nước, bầu trời vẫn đặc một màu xám xịt, âm u, làm hàn khí cứ bốc lên mãi không thôi. Nắng không chiếu qua được, hoặc giả như có thì cũng chỉ là những chùm tia nhỏ lẻ, yếu ớt. Chỉ vậy thôi, nhưng cũng là quá đủ để cây cỏ sống rồi! Thật đáng ngạc nhiên, giữa cái nơi ngập đầy nước độc này lại có những khóm cây nổi trôi lềnh phềnh, còn cỏ dại thì phủ khắp các kẽ hở trên tường thành. Thực là quá huyền ảo mà!

Trỏ vào một khóm cây đang trôi, Đức Linh bảo:

- Nó gọi là cây đa nước, một loại đa biến dị. Vì hấp thụ quá nhiều bụi ma thuật mà chúng đã biến đổi, hay gọi là tiến hóa nhanh hơn dự kiến cũng được, thành mấy khóm đa nổi lấp lửng đó. Chỉ có phần lá nổi lên thôi, mấy cái rễ đâm sâu xuống đất cả rồi. Với lại cành lá loại này mềm lắm, nên dù đứng yên, mình vẫn thấy như nó đang trôi vậy.
- Là vậy ạ?

Dõi theo lời chị, Lạc hiểu ngay sự khác biệt này. "Tiến hóa", như cậu từng đọc trong một quyển sách cũ, là việc một loài thay đổi bản thân qua nhiều thế hệ, dưới các tác động của môi trường, để có thể thích nghi với môi trường đó. Việc thế giới bị ngập nặng, lại thêm nhiệt độ giảm mạnh và bụi ma thuật ở khắp nơi đã khiến nhiều loài sinh ra đột biến, thành mấy thứ quái dị như đàn cá sấu hôm qua, nhưng mặt khác lại đẩy mạnh sự tiến hóa. Hiểu là thế, Lạc vẫn còn mơ hồ lắm. Đầu óc một đứa trẻ bảy tuổi khó mà hiểu được những điều này. Giờ cậu chỉ cần biết, nó tiến hóa để sống, thế thôi.

Hoang phế từ lâu, thành Giang Nam giờ chỉ còn là tàn dư của quá khứ hoàng kim khi xưa. Những đoạn lũy cao bằng đá xây kiểu Vô Băng – với các khúc vách thành gấp khúc thành hình ngôi sao nhiều cánh, mà dân chúng vẫn hay gọi là thành "Bát Quái" – đã chỉ còn là những bờ tường đá đổ nát, đất mùn vả cỏ dại phủ kín lên. Tấp thuyền lại gần của Đông, cửa giao thương chính của thành ngày trước, Đức Linh không cầm được tiếng thở dài. "Hầy...", chỉ một tiếng thôi, đã nói lên hết mọi tâm trạng của cô.

Quá khứ đã qua chỉ còn là ký ức đẹp đẽ trong lòng, tòa thành này bây giờ đã chỉ còn là một đống hoang phế. Nhìn lên tháp Già Thiên, tòa tháp một thời kiêu hãnh với cái tên "che trời", chưa từng để lọt bất kỳ con yêu quái nào vào thành, những gì Đức Linh thấy chỉ là một tháp gác đổ nát, hoang tàn. Đã không còn chút dấu tích gì của trấn yêu đài uy mãnh cả. Bát Quái trận bố trí trên đỉnh tháp ngày trước biến mất, mà có lẽ nát luôn rồi cũng nên? Tháp Già Thiên chỉ còn cao chưa tới một nửa những gì cô nhớ, với những đoạn dây leo, cỏ dại và rêu xanh bám thành từng mảng bên ngoài. Qua vết sụp đổ, hai chị em thấy rõ cả cầu thang bên trong, những giá đặt đuốc chỏng chơ, và cả đống đá vụn bên dưới nữa. Tất cả đã chẳng còn lại gì ngoài vết tích của một thời huy hoàng.

Cửa thành đã sụp đổ. Bơi thuyền vào, Lạc thấy rõ cả cánh cửa gỗ bọc thép to bằng mấy căn nhà nằm ngay dưới đáy nước. Những tảng đá hình hộp dài, cứng cáp vương vãi xung quanh. Có khối tương đối nguyên vẹn, vài khối khác vỡ mất đôi ba phần. Chúng phủ tảo xanh, thứ tảo hay bám đầy trong những hồ cá ấy, và cả mấy đoạn rong nữa. Rong rất mỏng, nhưng khi mọc thành cụm, chúng lại dày vô cùng, đan xen nhau như mái tóc người con gái, lả lướt theo dòng chảy của nước, uyển chuyển, mềm mại. Tảo, rong và cả một số loài cây thủy sinh khác mọc khắp nơi, nhưng vẫn chẳng thấy con cá nào. Thất vọng, Lạc ngồi vào, chẳng buồn chờ nữa.

Đi vào trong thành, sự tiêu điều, xơ xác của nó thực sự còn vượt xa cả những gì Lạc nghĩ nữa! Tuy nhìn tường thành đổ nát, rêu phong âm u, cậu cũng mường tượng ra một tòa thành hoang phế, nhưng thực sự thế này thì quá lắm rồi! Những dãy nhà cổ, chủ yếu làm bằng gỗ, đều ngập trong biển nước. Nước dâng tới ngang cửa, không sâu nhưng lại khiến người ta không sống được, bởi lẽ cậu biết, nước này cực độc, con người nếu uống phải sẽ chết ngay. Chỉ những sinh vật biến dị mới có thể chịu nổi nó. Ngoài ra, do ngâm nước lâu ngày nên rất nhiều nhà đã có vẻ mục nát. Bây giờ mà ném một viên sỏi lên, dù cho đụng trúng vách thôi, chắc cũng đủ cho nó sập luôn quá!

Nhìn những ngôi nhà gỗ lợp mái ngói nằm san sát nhau, cứ cách một quãng lại có một con hẻm nhỏ hay một đường cái là Lạc lại không kìm được nỗi buồn. Khi xưa, làng cậu ở bé xíu, chỉ vài ba trăm hộ thôi, lại còn là nhà tranh mái lá nữa, lúc nào cũng nơm nớp bị ông thần gọi gió tới phá tanh bành. Bố mẹ cậu từng nói nếu gom đủ tiền sẽ rời biển, lên thành mở tiệm làm ăn. Hồi ấy Lạc nghĩ thành trì thì phải to đẹp, giàu có lắm. Cậu chưa bao giờ được lên đó cả, vì đám hải tặc đã giết hết cả làng rồi. Bây giờ, lần đầu vào một ngôi thành to mà lại thế này, thực sự trong lòng cậu lúc này có cái gì đó sắp sửa vỡ òa ra vậy.

- Chị ơi, chỗ này chán quá! – Lạc kêu lên, giọng như sắp khóc – Em không muốn ở đây nữa! Về đi chị ơi!
- Sao thế? – Đức Linh hỏi.
- Chỗ này toàn mấy cái nhà lụp xụp, chẳng có một bóng người, còn trời thì cứ xám ngắt mãi à! Em không muốn ở đây nữa đâu! Về tàu vui hơn!
- Em chắc ở đây không có gì không?
- Chắc... nhỉ?

Đức Linh mỉm cười. Khẽ nhìn ra trước, cô ra hiệu cho Lạc trông theo. Tuy không hiểu gì, cậu bé cũng nhìn lên. Và thật không ngờ, nếu đòi về, chắc chắn Lạc đã bỏ lỡ một cảnh đẹp mà có thể cả đời này cậu cũng sẽ không thể thấy lại! Ngay giữa trung tâm thành trì, trên khu dinh thực của thành chủ ngày trước, một cây đa đại thụ khổng lồ sừng sững vươn rộng tán lá, che kín cho cả một vùng mặt hồ bên dưới! Những chiếc rễ đa lớn như cột nhà, mọc dài từ cành cây đâm thẳng xuống dưới, nhưng lại uyển chuyển ôm lấy những dãy nhà mái ngói cổ xưa, giống như chính cái cây đang che chở nó vậy. Cành cây mọc rất dài, lan rộng ra, với muôn vàn những chiếc lá xanh um rực rỡ dù cho phải mọc giữa nền trời xám ngắt. Nước độc không làm hại được đa, trái lại có lẽ nhờ bụi ma thuật và cả thứ nước nhiễm đầy Mã Na ấy mà lá cây lại có thể rực sáng, lung linh hệt như thần thụ giáng thế!

Xung quanh cây, khu nhà cũ của phủ thành chủ nằm nép mình trong những chiếc rễ lớn, lúc ẩn lúc hiện, chỉ để lộ ra một phần hành lang và các dãy nhà ở với mái ngói đỏ đã phai màu theo năm tháng, phủ rêu xanh và những cọng cỏ non. Dây leo dại mọc đầy khắp các dầm đỡ mái, len lỏi lên cả những kẻ hở, những lỗ trống trên bộ mái ngói cổ xưa, mọc dài hết ra ngoài. Chúng sum suê, cùng với cây đa cổ thụ trở thành một khu vườn nổi khổng lồ, chói lọi và ngát hương vô cùng.

Gần đó, các dãy phố có lẽ vì chịu ảnh hưởng của cây đa "thần" nên cũng mang một diện mạo khác hẳn. Vẫn là những ngôi nhà bỏ hoang, đồ đạc chìm trong biển nước, nhưng ở chúng lại có một cái sức sống tươi trẻ và mãnh liệt đến lạ thường. Những chậu cây cảnh năm nào giờ tuy vỡ tan, nhưng những cây hoa lan, hoa huệ lại tiếp tục sống, tiếp tục phát triển. Vài giàn dây bầu, dây bí mọc tràn ra, quấn lên những cột nhà to bự, biến chúng thành giàn mới của mình. Do Mã Na ảnh hưởng, quả của chúng to lớn bất thường, nhưng vẫn đủ để cây leo lên. Chúng bị đổi màu, giống như bầy cá sấu hôm trước, thành những màu sắc khác nhau, nhưng chủ yếu là sắc tím biếc của đá Mã Na và màu xám tro của trời. Ánh nắng yếu nhiều, nhưng chính hào quang của cây đa lại là thứ giúp vườn cây kia duy trì lấy sự sống. Thậm chí là dưới nước, rong cũng mọc dày đặc hơn, tạo thành những thảm rong xanh mướt, thật không khác gì những đồng cỏ bạt ngàn của vùng cao nguyên cả!

Ngất ngây giữa khu vườn của cỏ cây và ánh sáng, Lạc đơ ra tới mức không biết phải nói gì. Cảnh tượng này không thể gọi là "đẹp", mà phải là thiên đường! và biến động không ngừng! Dòng nước trôi đi, mang theo những chiếc lá đa lững lờ vượt ngang mũi thuyền. Nước chảy ư? Không, là gió. Lạc cảm thấy lạnh. Gió lên rồi. Từng luồng, từng luồng một thổi qua những dãy nhà, qua những cửa ô, những vách tướng cũ kỹ, những con hẻm quanh co của một thời rực rỡ làm rung động những cành đa. Lá cây kêu xào xạc, đong đưa qua lại, nhưng vầng hào quang thì lại như sáng thêm nữa. Những đóa hoa đủ mọi màu sắc, những vườn dây leo thơ mộng cũng khẽ đung đưa mình theo làn gió buốt giá. Chúng vốn dĩ không giỏi chịu lạnh, nhưng chính ánh sáng của cây đa, thứ càng đến gần lại càng ấm áp, đã giúp chúng có thể sống ở cái nơi địa ngục này.

- Sao, tuyệt chứ? – Đức Linh mỉm cười – May là nãy chị thấy cái gì sáng sáng, không là xách mông về luôn rồi!
- Tuyệt quá! Tuyệt quá! – Lạc reo lên đầy vui sướng – Chị ơi, cái này tuyệt quá! Nó đẹp... đẹp... ơ... Ách xì!

Nhảy mũi một cái, Lạc ngồi phịch xuống sàn thuyền. Gió lạnh quá nên cậu lại cảm nữa rồi. Vội rúc vào chiếc áo khoác của Đức Linh, Lạc vẫn ló cái gương mặt bé xíu, đáng yêu như cún con ra mà nhìn cho đã khu vườn nổi kia. Cây đa ấy dễ chừng cũng phải hơn mấy trăm năm rồi. Cây mọc rất rậm, che phủ cả khu nhà rộng lớn, lại cùng mấy thứ thực vật biết "leo" kia trở thành một chốn ngự uyển rực rỡ sắc màu. Lạc nghĩ, trong cái thế giới chỉ có màu xám này, khu vườn nổi thành Giang Nam thực sự giống như một khu vườn cổ tích, một vùng đất bước ra từ những câu chuyện thần thoại mà Đức Linh vẫn thường kể.

- Mã Na vốn không tác động lên đồ vật, còn thực vật thì khá ít. – Đức Linh chợt bảo – Nên em mới thấy cây cỏ ít bị biến dạng hơn động vật. Còn con người và động vật thì khác. Nếu bụi ma thuật của Mã Na kết tinh lại thành dạng bông tuyết, lúc đó thì chỉ cần chạm vào thôi em cũng bị biến thành quái vật rồi.
- Là sao ạ? – Lạc ngạc nhiên, không hiểu gì.
- À vụ đó thì em chưa ra đời nên không biết. – Người chị lớn trầm ngâm – Cũng hơn ba chục năm rồi. Lần đó có một trận tuyết rất mạnh, bao phủ gần hết thế giới. Năm đó mùa Đông tới sớm, mà không, là tuyết rơi giữa hè chứ! Tuyết khi đó màu tím biếc, là màu của đá Mã Na tinh khiết được đào lên. Nhìn cái thôi, các pháp sư có thâm niên đều biết chúng là bụi ma thuật kết tinh lại với mật độ dày đặc.

Trận tuyết khi ấy thực sự kinh hoàng, Đức Linh kể. Trừ các kết giới ma pháp, còn lại chẳng thứ gì có thể chống lại chúng cả. Bất cứ khi nào một người, hay một con vật nào, chạm phải dù chỉ là một hạt thôi, họ sẽ ngay lập tức bị biến đổi, trở thành những con quỷ dị dạng, đen xì, toàn thân tỏa ra Mã Na màu đen đầy ma quái. Chúng rất mạnh, hầu như mọi ma thuật và công cụ ma pháp đều vô nghĩa khi đối đầu với chúng. Thậm chí nhiều người, trong lúc tuyệt vọng, đã dùng các cấm thuật như phép "Nhiệt hạch", tạo những vụ nổ hủy diệt diện rộng để tiêu diệt chúng, hay tệ hơn là cùng chết với đối phương. Khắp nơi mọc lên những cột khói hình cây nấm, khí độc tràn lan và cả con người lẫn quái vật đều thương vong nặng nề.

- Đại khái vậy thôi! – Đức Linh ngưng lại – Cái đó dù sao cũng không phải chuyện hay để em nghe. Chừng nào lớn lên chị nói cho, còn giờ thì em muốn đi nữa không?
- Muốn! Muốn! – Đôi mắt Lạc sáng rỡ lên.
- Được thôi.

Cầm lấy tay lái, Đức Linh đẩy cần số lên mức số ba, tăng tốc thêm chút. Là kiểu xuồng máy cao tốc của quân đội, cô được "khuyến mãi" bốn chiếc thế này khi mua cái tàu chiến kia với giá rẻ hơn bèo. Tuy đã cũ, chúng vẫn khá kín nước, ổn định, chạy nhanh và chắc chắn là phóng sướng hơn mấy cái xuồng ba lá chèo tay! Dùng động cơ chạy bằng dung dịch Mã Na lỏng, cái ống xả nhỏ phía sau phun khói xam xám, không mùi, nhưng thực sự thì Đức Linh không thích nó chút nào. Cô vẫn còn nhớ cảnh những khu công nghiệp khổng lồ, với những ống khói cao như cột trụ trời xả khí thải vào trời xanh. Từ dạo ấy, suốt hai thế kỷ, bầu trời đã chẳng còn cái màu cô từng biết nữa, mà chỉ còn lại một thứ màu xám ngắt, u ám này.

Nhưng không dùng nó thì dùng gì nữa? Chính Đức Linh cũng không biết. Những động cơ ma thuật dùng Mã Na có thể tự mình tạo thành ma pháp, nhưng cái giá phải trả lại là môi trường bị ảnh hưởng nặng nề. Cô không muốn nghĩ tới nó, nhưng cái hậu quả vẫn cứ hiển hiện ra ngay trước mắt. Lạc cũng hiểu, cái khu vưởn nổi đẹp như tranh vẽ cậu bé chết mê kia chính là một trong số các "hậu quả" mà ô nhiễm bụi ma thuật gây ra. Nhưng cậu nghĩ khác: Nếu bụi ma thuật chỉ gây hại, sao nó lại có thể tạo ra những khung cảnh đẹp lung linh thế này? Thật khó để nói, liệu nó có thực sự có hại? Lạc không biết, chị cậu cũng chẳng thể nói được.

Vòng quanh những khu phố cổ ngập nước, cảnh tượng gần như lặp lại nhau: Những dãy nhà gỗ chìm một phần trong làn nước giá băng, nhiều nơi đã sụp đổ mấy căn, đồ đạc nằm vương vãi dưới đáy nước. Nhưng không phải vì vậy mà chúng giống nhau. Từ những trang viên rộng lớn cho tới các khu vực từng là những phố buôn bán sầm uất, theo lời Đức Linh, đều có những vẻ ngoài khác biệt. Một vài khuôn viên rất rộng, cho thấy mức độ hoàng tráng của thành Giang Nam khi xưa. Ấy là còn những dãy phố cũng rất hoành tráng, nhà cửa thường xây tới ba bốn tầng, chưa kể các nhà hàng, quán ăn lớn. Tuy bây giờ, bên trong chỉ còn lại đồ đạc ngổn ngang, mục nát, tơ nhện giăng nghẽn lối nhưng Lạc hoàn toàn có thể cảm nhận được sự sầm uất, huyên náo khi xưa. Người ta bỏ đi, nhưng cái "hồn" thì vẫn ở lại, sống mãi với những dãy phố ngập nước này.

Đặc biệt, dù đi tới đâu, hai chị em cũng thấy những mầm non xanh mơn mởn nhú dần lên. Có nơi cỏ đã mọc cao, ngay trên sàn nhà mấy căn còn khô ráo, có khi cả mấy ngọn cây mọc vươn ra từ mái, rễ cây làm rơi cả ngói khỏi thanh dầm, hay dây leo bao phủ những cột đỡ, xà ngang,... Khác hẳn với vẻ u ám lúc đầu, tòa thành cổ giờ đây giống như một vương quốc của thực vật, bất kể là giống trên cạn hay loài thủy sinh. Bèo, lục bình, rong tóc tiên đong đưa, trôi dạt theo con nước, mặc kệ cái lạnh khiến cho chẳng ai dám chạm xuống. Có vẻ chúng đã "tiến hóa", như cây đa kia, để thích nghi? Lạc không biết, Đức Linh cũng chẳng nói gì. Nhưng nhìn cậu em trai tinh nghịch đưa tay vuốt vuốt mấy cánh sen hồng, nhìn thẳng vào cái nhị vàng mà cười tươi đầy vô tư, cô bỗng thấy lòng nhẹ đi lạ thường.

Đã hai tiếng trôi qua, tới lúc phải về tàu rồi. Phóng thật nhanh, Đức Linh lạng qua những đoạn đường cũ, rẽ sóng thật mạnh, làm đánh sóng lên những vách nhà cũ, đẩy dạt cả mấy khóm bèo tây. Vừa nhìn chúng, Lạc hỏi:

- Thế giới của chúng ta... có phải cũng đang "tiến hóa" không chị?
- Thế giới đang "tiến hóa" á? – Đức Linh ngớ người ra một chút, rồi bảo – Có lẽ thế. Dù gì thì cái thế giới này có bao giờ đứng yên đâu? Giờ về nào, tối nay chị làm cơm cuộn cho!
- Dạ!

---------------------

Vô Băng (Vauban) là tên 1 tướng lục quân, kiến trúc sư Pháp và cũng là tên 1 kiểu pháo đài có tường thành gấp khúc, tạo thành hình ngôi sao 6, 8 cánh hoặc các dạng hình học khác, khác với kiểu thành chữ nhật/vuông truyền thống. Mục đích là để giảm điểm mù và tăng khả năng bao quát của pháo đặt trên các tháp canh của pháo đài.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro