Chương 11

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tỉnh dậy vào sáng hôm sau, chúng tôi thấy mặt trời đã lên khá cao ở phía chân trời, vì vậy không được lãng phí thời gian. Chúng tôi tắm buổi sáng như thường lệ, ăn qua loa và lại tiếp tục cuộc thám hiểm của mình. Chúng tôi đi chưa đầy một dặm thì chợt nghe thấy tiếng kêu kỳ lạ đã làm chúng tôi giật mình mấy đêm trước.

- Gì thế nhỉ? – Pi-tơ-kin đưa mắt nhìn Giắc và hỏi.

- Nó từ một trong những hòn đảo quanh đây vọng tới. – Giắc nói.

Chúng tôi cùng đảo mắt nhìn khắp các hòn đảo. Ở hòn lớn nhất có một vật đang di động nơi ven bờ biển.

- Có gì đâu, chim lặn đấy mà! – Giắc kêu lên và cười.

- Chim lặn? – Pi-tơ-kin hỏi láy lại.

- Chứ sao, chim lặn, Pi-tơ-kin ạ, chim lặn là một loài chim biển lớn. Rồi có ngày cậu sẽ thấy chúng. Chúng ta sẽ thăm chúng khi đóng được con thuyền.

Chúng tôi lại đi tiếp, nhưng chẳng thấy gì thú vị cho đến tận buổi sáng ngày thứ ba, khi chúng tôi thấy dấu chân một con vật nhỏ và xem xét rất kỹ lưỡng. Pi-tơ-kin cho rằng đó là dấu chân một chú cún, nhưng Giắc và tôi nghĩ khác. Chúng tôi bắt đầu thấy tò mò vì dấu chân dường như chỉ quanh quẩn một chỗ, như thể con vật này đi loanh quanh thơ thẩn, không có đối tượng gì trước mặt. Chúng tôi quyết định lần theo dấu chân và nếu có thể thì khám phá bí ẩn này. Pi-tơ-kin nói đùa rằng cậu ta biết chắc việc này sẽ được làm sáng tỏ, như mọi lần, dễ ợt và không có gì bí hiểm cả.

Chỗ nào cũng mọc đầy cây leo chằng chịt và bụi cây rậm rạp nên vất vả lắm mới mở được được đường tiến. Bỗng chúng tôi tới một khoảng trống, và nghe thấy tiếng kêu yếu ớt. Một con vật màu đen đứng ngay ở dấu vết trước mặt chúng tôi

- Một con mèo hoang! – Giắc kêu lên, rồi lắp tên vào cung. Cậu ta vội bắn nó. Nhưng mũi tên cắm xuống đất chệch cách con vật nửa mét. Thật ngạc nhiên! Con mèo hoang không bỏ chạy, nó chậm rãi bước đến bên mũi tên, hít ngửi. – Một con mèo kỳ cục chưa từng thấy! – Giắc kêu lên và giơ cao rìu.

- Đừng! – Tôi nói và đặt tay lên vai Giắc. – Tớ chắc con vật đáng thương này bị mù. Nhìn kìa, nó đâm quàng vào gốc cây. Nó chắc phải già lắm rồi.

Tôi vội tiến về phía nó. Chúng tôi phát hiện thấy con mèo này không chỉ bị mù mà con bị điếc nữa, bởi nó chẳng hề nghe thấy tiếng chân chúng tôi, tuy đã tới rất gần.

- Tội nghiệp quá! – Pi-tơ-kin nói và khẽ giơ tay chạm vào đầu con mèo. – Chú mèo đáng thương! Meo, meo, meo!

Con mèo nghe được âm thanh này. Nó nhào lại gần Pi-tơ-kin và cọ người vào chân cậu ta, miệng cứ gừ gừ rất to.

- Nó không phải mèo hoang, – Pi-tơ-kin ôm nó vào lòng. – Nó quá lành! Mèo tội nghiệp, mèo dễ thương làm sao!

Lúc này con mèo suýt điên lên vì vui mừng. Nó cọ đầu vào má Pi-tơ-kin, liếm cằm cậu ta, giụi mạnh đầu vào cổ cậu, đồng thời nó gừ to đến mức tôi chưa bao giờ thấy một con mèo gừ to được như thế. Chúng tôi lập tức đoán ra trước đây nó đã từng sống bên con người, hẳn là đã bị bỏ lại trên đảo này từ nhiều năm nay. Khi chúng tôi đang nói chuyện về nó, Giắc đảo mắt nhìn quanh khoảng trống nơi chúng tôi đang đứng.

- Này, – Giắc nói. – Trông nó như một cái rẫy. Ai đó đã sử dụng rìu ở đây. Nhìn những gốc cây này xem.

Chúng tôi bắt đầu xem xét chúng và thấy rằng đám cây chắc chắn bị chặt đốn. Tuy nhiên tất cả đã phủ rêu. Ở đây không thấy dấu chân người, nhưng dấu chân mèo thì có khắp nơi. Chúng tôi lần theo xem dấu chân dẫn tới đâu. Pi-tơ-kin bế mèo trên tay. Vài phút sau nó đã lăn ra ngủ.

Đi khoảng mười mét, chúng tôi tơi chỗ mà khi xưa chắc chắn nó phải là một chiếc cầu thô sơ bắc ngang qua con suối.

Im lặng và ngạc nhiên, chúng tôi đi tiếp, được vài mét, chúng tôi thấy một túp lều nhỏ hoặc ngôi nhà tranh gì đó. Chiều dài chưa tới sáu mét, chiều cao khoảng hơn hai mét. Nó có một khung nhỏ, hẳn xưa kia là cửa sổ. Cửa ra vào rất thấp và làm bằng tấm ván thô. Mái nhà lợp bằng dừa và tranh. Nhưng tất cả đều trong trạng thái mục nát.

Rêu và cỏ mọc khắp nơi. Mái sắp sập. Thoạt đầu Giắc cố nhìn vào trong nhà qua cửa sổ, nhưng không trông được rõ, nên chúng tôi đẩy cửa bước vào.

Những gì thấy ở đây làm chúng tôi hết sức ngạc nhiên, choáng váng. Tại góc trong cùng kê một chiếc giường thấp. Trên giường có hai bộ xương phủ một lớp bụi mỏng. Tim đập thình thịch, chúng tôi tới bước quan sát chúng. Một bộ là xương người, còn bộ kia là xương chó ở ngay sát bên bộ xương người, đầu gối lên ngực người đã chết.

Chúng tôi vô cùng bối rối trước phát hiện này và không thể cầm đươc nước mắt. Lúc sau, chúng tôi bắt đầu lục lạo túp lều để tìm tên tuổi, tiểu sử của người đàn ông xấu số. Ông ta đã chết trong cô đơn, không người thương khóc nuối tiếc sự ra đi của ông, trừ một con mèo và một con chó trung thành. Nhưng chúng tôi đã không tìm thấy gì, không sách vở, không một mẩu giấy. Tuy vậy, chúng tôi cũng tìm được một cái rìu cũ. Điều này giải thích được vết chặt trên gốc cây ở đỉnh núi và các chữ cái đầu của tên khắc nơi lớp vỏ cây; và cả vườn mía và các dấu vết khác của con người, mà chúng tôi đã thấy trên đường đi quanh đảo. Sau một giờ quanh quẩn chẳng tìm thấy được gì đáng lưu ý, Pi-tơ-kin ôm con mèo già, rất mãn nguyện ngủ say trên lớp cỏ cậu ta đã đặt nằm, rồi chúng tôi chuổn bị rời khỏi đây. Lúc rời túp lều Giắc ngã bổ nhào vào gióng cửa quá mục nát nên nó bị gãy. Cả túp lều như muốn đổ xuống đầu, xuống cổ chúng tôi. Chúng tôi quyết định kéo nó đổ xuống để tạo thành nấm mộ đắp cho nắm xương tàn. Vì vậy Giắc dùng rìu đốn đổ nốt gióng cửa còn lại. Túp lều hoang tàn sụp đổ, biến thành nấm mồ cho người đàn ông xấu số và con chó của ông ta.

Nửa ngày còn lại, chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình, nhưng niềm hứng khởi ban đầu đã mất hoàn toàn cho tới tận khi về tới lều lúc đêm khuya. Mọi thứ vẫn y nguyên như khi chúng tôi ra đi ba ngày trước.


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#daosanho