Đêm thứ 2: NGÔI MỘ MÀU XANH LAM

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Nằm khuất sau một rặng cây hoa giấy um tùm là dãy nhà trọ cho thuê của nhà con bé Lan Anh. Bố con bé mất sớm, nhà chỉ có hai mẹ con, có lẽ vì thế mà Lan Anh trở nên già dặn trước tuổi. Năm con bé học lớp 11, bà Đoan mẹ nó quyết định cắt một phần đất ở bên cạnh nhà để xây một dãy phòng trọ cho sinh viên thuê. Mảnh đất nhà bà vốn nằm gần một ngôi trường đại học, tuy không đông đúc như những ngôi trường ở Thủ Đô, song việc cho thuê phòng trọ cũng đem đến cho bà ít tiền, dù ít ỏi nhưng đều đặn, đủ để cho hai mẹ con sống qua ngày.

Chỉ có điều bà cảm thấy không yên lòng, ấy là phần đất xây dựng của dãy nhà trọ này dường như... không được bình thường. Ngày ấy khi vợ chồng bà Đoan mới chuyển về đây, mảnh đất này vốn thuộc về hai gia đình khác nhau. Thực ra chuyện này không lạ, rất nhiều người có tiền thường xuyên mua những căn nhà cạnh nhau để sát nhập thành một khoảng đất rộng lớn. Vợ chồng bà Đoan cũng có ý như vậy. Chỉ hiềm một nỗi, khi vừa mới bước chân tới nơi này, những người trong thôn đã to nhỏ với nhau rằng hai căn nhà này trước đây là của gia đình lão Bách và bà Mệ. Nhà bà Mệ vốn dĩ không có vấn đề gì, nhưng riêng nhà của lão Bách thì tất thảy mọi người đều công nhận rằng ngôi nhà này có... con chó ma. Cứ đêm rằm tháng bảy là con chó ấy sẽ xuất hiện, đi đi lại lại trên mái nhà, rồi sủa một tràng dài rất thê lương. Những người ở lại trong căn nhà ấy, nhẹ thì nằm mơ thấy ác mộng, nặng thì bị con chó ma nhập vào người rồi tự tìm lấy cái chết. Người cuối cùng chết ở đây là vợ lão Bách. Bà ta chết vì treo cổ tự vẫn, lúc người trong thôn hạ cái xác xuống, miệng bà ấy vẫn đầy dớt dãi như chó dại.

Sau cái chết của vợ, lão Bách treo biển bán nhà, bản thân mình thì rời đi chỗ khác để sinh sống. Một thời gian sau, bà Mệ cũng chết vì tuổi già trong căn nhà nhỏ hiu quạnh. Người cháu họ của bà Mệ làm tang lễ cho bà xong, rồi cũng rời đi, chỉ để lại số điện thoại để bàn phòng khi có ai muốn ngỏ ý mua nhà. Người trong thôn có tiền cũng không dám mua, họ sợ chính bản thân mình sẽ gặp phải oan hồn lẩn khuất của con chó ma, rồi chết bất đắc kỳ tử như thế.

Cuối năm 1999, gia đình nhà bà Đoan chuyển nhà từ Hà Nội trở về đây. Nguyên nhân cũng bởi do công việc làm ăn thua lỗ, món nợ từ người chồng khiến cho một người phụ nữ như bà phải cáng đáng. Bà bán hết nhà cửa, mang một ít tiền rời nhà lên vùng đất mới. Cũng vì thế mà bà chẳng hề hay biết gì về lai lịch của hai căn nhà mà mình bỏ tiền ra sở hữu. Nhà bà Mệ còn mới, lại rộng rãi nên bà Đoan cùng con gái sống ở đó. Còn căn nhà lão Bách vì quá xập xệ, đã xuống cấp nghiêm trọng nên bà cho người đập đi để làm dãy phòng trọ. Từ lúc xây dựng thì không thấy gì đặc biệt, nhưng đến khi đón lứa sinh viên đầu tiên đến ở trọ thì bắt đầu xảy ra những hiện tượng mà không sao giải thích nổi.

Rằm tháng bảy năm ấy đến muộn. Giữa tháng chín dương lịch mà trời vẫn còn mưa dầm sùi sụt. Từ đầu tuần tới nay, bầu trời lúc nào cũng khoác một tấm áo màu xám ảm đạm. Điều khiến người trong thôn không vui nhất, ấy chính là bầy quạ từ đâu kéo tới kêu suốt ngày khiến cho không khí trong thôn càng nhuốm màu âm u quỷ dị. Nhiều gia đình mời sư thầy trên chùa về tụng kinh cầu siêu cho chân linh của gia tiên ngay từ đầu tháng, mùi nhang khói thoang thoảng, quện cùng với mùi khói của những đống vàng mã bốc lên nghi ngút như muốn đối chọi với tiết trời vần vũ.

Trong căn nhà trọ của gia đình bà Đoan bấy giờ đã lác đác vài người đến trọ. Cả dãy có hơn mười phòng, nhưng hiện tại chỉ có ba phòng là có người ở. Ở căn đầu tiên là hai chị em sinh đôi là Lan và Hạnh, căn phòng thứ hai có một cậu sinh viên ở một mình tên Phong, căn thứ ba bỏ trống, căn thứ tư là của một ông Ban sống một mình. Ông Ban năm nay đã ngoài 50t, nhưng nhìn ông còn trẻ lắm. Ông vốn làm bảo vệ ở trong trường đại học, còn gia đình ông thì ở mãi trong núi, cách đây cả nửa ngày đường. Vì thế mà ông thuê tạm một căn để tiện cho việc đi làm, ngoài những lúc phải trực theo phân công, thì phần lớn thời gian ông ngồi cặm cụi sửa mấy cái đài radio cho người trong thôn để túc tắc kiếm thêm đồng ra đồng vào. Thi thoảng vào những đêm sau cơn mưa, bà Đoan lại thấy ông đạp xe lạch cạch đi soi ếch. Những lần như thế ông đích thân làm món lẩu ếch với măng để mời cả xóm trọ. Khung cảnh yên bình như thế khiến cho người ta có lúc còn quên đi chuỗi ngày bị vong ma chó đeo bám.

Đêm mười hai âm lịch, rạng sáng ngày mười ba tháng bảy năm ấy, người trong thôn đang ngủ ngon thì bỗng nghe thấy một tiếng hét thất thanh từ dãy trọ nhà bà Đoan vọng lại. Nhiều người giật mình tỉnh giấc. Bà Đoan vùng dậy, bước ra khỏi giường vội vàng bật đèn sáng choang bên dãy trọ để nghe ngóng. Con bé Lan Anh nghe thấy tiếng động cũng dụi mắt hỏi mẹ. Bà Đoan trấn an con vài câu rồi mở cửa sổ, từ phòng ngủ của bà có thể nhìn toàn quang cảnh dãy trọ ở bên cạnh. Tất cả các căn vẫn đóng cửa im ỉm, chỉ có lũ chó xung quanh nghe thấy tiếng động sủa inh ỏi. Bà Đoan quan sát một lúc lâu, không thấy có động tĩnh gì thêm thì cho là có ai gặp ác mộng nên hét ầm lên vậy thôi. Thế là bà lại đóng cửa, định bụng vào giường ngủ tiếp.
Lúc chuẩn bị quay đi, bỗng nhiên bà nhìn thấy ở cuối dãy trọ, chỗ giếng nước sinh hoạt chung có một cái bóng lù lù đứng bất động. Ánh đèn vàng vọt từ bờ tường nhà bà hắt lại khiến cho bà chợt nhận ra ấy là một con chó. Đôi mắt của nó được ánh đèn pin trong tay bà chiếu vào sáng rực lên trong đêm tối. Bà thầm nghĩ trong đầu: “Quái lạ! Chó má nhà nào mà chạy vào đây thế này? Rõ ràng trước khi đi ngủ đã đóng cửa ban đêm rồi cơ mà?” Bà khẽ xùy xùy trong miệng để đuổi con chó, nhưng khoảng cách từ chỗ bà đứng tới cái giếng nước quá xa, cho nên con chó cứ đứng lẳng lặng ngước nhìn bà một cách bình thản. Bà Đoan khẽ lắc đầu, quay trở lại giường nằm, bụng bảo dạ rằng ngay ngày mai sẽ đi hỏi người quanh đây xem có nhà nào để sổng chó hay không. Thế rồi cơn buồn ngủ lại ập đến, bà thiếp đi trong vô thức, mà không biết rằng, con gái bà cùng hai cô bé sinh viên trọ ở nhà bà cùng nằm mơ thấy một giấc mơ quái dị.
Sáng hôm sau, bầu trời quang đãng hơn thường ngày, cơn mưa lúc gần sáng cũng đã tạnh. Bà Đoan dậy từ sớm để đi ra chợ, lúc bà đi con bé Lan Anh nhà bà vẫn ngủ say sưa. Bà vừa đi được một lát thì nó mới trở dậy. Đầu nó đau như búa bổ, nó gọi mẹ nhưng không có ai trả lời. Nằm một mình nhìn lên trên trần nhà, nó nhớ lại giấc mơ đêm qua. Trong cơn chiêm bao, nó nhìn thấy một người phụ nữ xinh đẹp mặc áo đỏ bị mổ bụng. Người ấy nằm trong một cái chậu bằng gỗ, khoang bụng đã bị banh ra rộng toác. Một người đàn ông cúi xuống lấy từ trong bụng người phụ nữ ra một bào thai còn nhầy nhụa máu. Cảnh tượng tiếp theo khiến hồn phách nó như bay lên mây. Người đàn ông ngồi xổm trên nền đất, rạch bụng một con chó đang nằm sõng soài trên nền đất. Phút chốc khắp nơi tràn ngập máu tanh. Ông ta moi hết lục phủ ngũ tạng của con chó ra rồi vất sang một bên, đoạn lại nhét bọc thai của người phụ nữ kia vào trong bụng chó rồi khâu lại. Hai cặp mắt, một người, một chó nhìn chằm chằm ông ta. Cả hai chết đi mà vẫn không sao nhắm mắt được. Dường như cảm nhận được có ai đang nhìn mình, người đàn ông quay ngoắt về phía cái Lan Anh rồi cười sằng sặc. Giây phút ấy, con bé nhận thấy miệng ông ta toàn máu là máu, máu nhuộm đỏ hàm răng vàng ệch, nước dớt dãi nhễu xuống cổ áo hòa cùng với máu, tựa hồ một con quỷ trong hình dạng người. Con bé Lan Anh giật mình tỉnh dậy, cũng là lúc tiếng hét thất thanh trong đêm qua vang lên đột ngột.

Nằm một mình trong nhà mãi cũng chán, Lan Anh trở dậy, dọn dẹp giường ngủ rồi đi đánh răng rửa mặt. Nó quét nhà cửa sạch tinh tươm mà mẹ nó vẫn chưa về nhà. Năm nào cũng thế, cứ vào rằm tháng bảy là mẹ nó lại tất bật mua sắm để cúng bái cho thật tươm tất. Năm nay cũng không ngoại lệ. Con bé thở dài, nó bước xuống dãy nhà trọ để tìm người nói chuyện. Anh Phong lúc này đã dậy từ lâu, đang tập tạ sau vườn. Chị Lan và chị Hạnh đang giặt quần áo ở bên giếng nước, còn ông Ban chắc đi trực đêm vẫn chưa về nhà. Vừa bước vào sân, nó đã cảm thấy mọi người hôm nay khác lạ, chẳng hề cười lớn như mọi khi. Hỏi ra mới biết, đêm hôm qua chẳng ai ngủ yên giấc. Anh Phong thì bị bóng đè, nghe anh kể rằng anh cứ thấy một con chó mắt đỏ lòm, toàn thân sáng rực trong đêm tối ngồi đè lên ngực anh. Còn chị em Lan Hạnh thì thấy giấc mơ về người đàn ông có cái miệng toàn máu. Nghe hai chị kể đến đâu, toàn thân Lan Anh run lẩy bẩy đến đó. Con bé sững sờ khi nhận ra, giấc mơ của hai chị sinh viên kia giống hệt với những gì mình đã chiêm bao vào đêm qua. Nó đem chuyện này kể lại. Anh Phong cùng hai chị em nhà kia sững sờ nhìn nhau, thảng thốt không nói lên lời. Một người mơ thì có thể cho là đầu óc căng thẳng sinh ra mộng mị. Nhưng cả ba người cùng thấy một giấc mơ y hệt thì chắc chắn có vấn đề.
Cả bốn đứa nhìn nhau, trong lòng không khỏi lo lắng. Chúng bàn tán một hồi rồi đi đến một quyết định cuối cùng: Cả nhóm sẽ tìm hiểu chân tướng của sự việc này để giải thoát cho mình khỏi nỗi ám ảnh. Trước mắt, Phong sẽ dò la những người trong thôn để tìm hiểu về căn nhà này. Trong lúc đó, Lan và Hạnh sẽ đi tới chùa để xin sư thầy trụ trì một ít bùa về treo trong nhà. Về phần Lan Anh, con bé có nhiệm vụ chuẩn bị gạo muối, tiền vàng để có dành cho việc cũng tế. Cả bốn đứa đều cho rằng, chuyện quỷ dị đêm qua là do vong hồn không được ai cúng bái vào dịp rằm tháng bảy nên mới hiển hiện ra quấy phá mà thôi. Chính vì thế mà chúng hẹn nhau vào đêm mười ba rạng sáng mười bốn sẽ làm lễ cúng ở sân sau của dãy trọ, mong các cô hồn để cho chúng được sống yên ổn.

Có những người cùng chí hướng với mình, lại có nhiệm vụ để thực hiện nên con bé Lan Anh cảm thấy yên tâm hơn hẳn. Nhà nó lúc nào cũng có sẵn tiền vàng và mấy thẻ nhang, điều quan trọng nhất lúc này là phải nghĩ được cách để có thể lẻn xuống dãy trọ vào lúc nửa đêm. Bình thường cứ hơn mười một giờ đêm là mẹ nó sẽ giục đi ngủ. Hôm nay thì khác, con bé Lan Anh tự nhủ trong lòng sẽ không bỏ lỡ buổi cúng tế này, bởi nó chẳng hề muốn lặp lại cơn ác mộng kia thêm một lần nào nữa. Giữa lúc đang lo lắng không biết phải làm thế nào thì nó nghe thấy tiếng mẹ nó vang lên ở bên ngoài sân. Con bé vội vàng chạy ra ngóng thì thấy mẹ cùng dì họ đang tay bắt mặt mừng. Dì họ lúc nào cũng đến thăm mẹ con nó vào rằm tháng bảy, nếu có dì ở đây, chắc chắn mẹ nó sẽ bằng lòng để nó xuống ngủ cùng với chị Lan chị Hạnh. Như thế thì càng tiện cho kế hoạch vào đêm nay.

Nghĩ thế nên Lan Anh vui vẻ ra đón dì. Vừa mới bước vào bậc cửa, dì họ chợt nhíu mày nhìn sang bên dãy nhà trọ một lúc. Mẹ con bà Đoan lấy làm lạ, đang định hỏi thăm vài câu thì dì họ đã kéo cả hai người vào bên trong. Thấy gương mặt dì nghiêm túc, bà Đoan hỏi nhỏ:

“Sao vậy dì út? Có chuyện gì thế?”

Dì họ đưa mắt nhìn sang dãy nhà bên với vẻ mặt thất thần. Dì khẽ lắc đầu, bà Đoan lại càng gặng hỏi. Phải tới lúc này dì họ mới nói cho bà Đoan biết, âm khí ở dãy trọ kia rất nặng. Điều kỳ lạ ở chỗ, ngoài âm khí ra dì họ còn cảm nhận thấy có tử khí trong nhà. Điều này làm bà Đoan thất kinh, bởi lẽ nếu như âm khí thì bà còn có thể hiểu được, còn tử khí thì có nghĩa là có người chết. Nhà trọ của bà chỉ vỏn vẹn có mấy người tá túc, lấy đâu ra thi hài. Dì họ cũng không biết nói gì thêm, cuối cùng quyết định sẽ ở lại nhà mẹ con bà Đoan lâu hơn dự tính, đặng tìm hiểu xem có chuyện quái dị gì hay không. Đêm hôm ấy, con bé Lan Anh cũng được ngủ cùng với chị em Lan Hạnh, sau khi đã năn nỉ mẹ nó rất lâu. Từ căn phòng trọ ấy, Lan Anh kéo một sợi dây có hai đầu là hai ống nghe làm bằng lon nước ngọt. Con bé giữ một đầu, một đầu để ở phòng anh Phong để có thể gọi điện thoại cho nhau nghe mà không phải sang tận nơi. Trò chơi trẻ con nhưng lại phát huy tác dụng không ngờ. Qua chiếc điện thoại làm bằng lon nước ngọt, anh Phong thì thào kể cho ba người còn lại nghe những câu chuyện kinh dị về con chó ma thường xuất hiện vào mỗi đêm rằm tháng bảy. Điều này khiến con bé Lan Anh kinh hoàng thực sự, nó không thể nào ngờ rằng ngôi nhà mà hai mẹ con mới dọn về lại có lai lịch đầy tăm tối như vậy. Gió bên ngoài thổi vun vút đập vào cửa sổ khiến ai nấy đều giật mình. Lan Anh khẽ ngước ra ngoài nhìn vào khoảng sân tối om. Dường như con chó trong giấc mơ đêm qua đang đứng đó, quan sát chúng trong im lặng.

Đêm muộn hôm đó, cả bốn đứa lục tục ra đằng sau để cúng bái. Nhang vừa mới đốt lên thì cả đám đã nghe thấy có tiếng chó tru lên từng hồi. Sống lưng của đứa nào đứa nấy lạnh toát, chúng nhìn nhau, nhưng không đứa nào bỏ chạy. Lan Anh chắp hai tay lại, vội vàng khấn vái. Ba đứa còn lại cũng lập tức làm theo. Cơn gió thổi ù ù khiến cho bó nhang cháy phừng phừng. Mấy đứa vội vàng cúi lạy rồi đốt vàng mã, sau đó ba chân bốn cẳng chạy vào bên trong, không dám ngoái đầu lại nhìn. Đêm hôm đó, chẳng đứa nào ngủ được, vì hễ cứ nhắm mắt là lại thấy bóng dáng một con chó chống gậy đội nón đi đi lại lại giữa sân nhà trọ, rồi biến mất sau cái giếng.

Sáng hôm sau, nhằm ngày mười bốn âm lịch, con bé Lan Anh lặng lẽ nằm trong phòng trọ của hai chị em Lan Hạnh. Trải qua một đêm chẳng thu hoạch được gì, trái lại càng thêm phần lo lắng. Dãy nhà trọ lúc này vắng lặng như tờ, anh Phong cùng chị Lan, chị Hạnh đã đi học từ lâu, riêng ông Ban thì vẫn đi trực chưa về.

Nằm mãi cũng chán, con bé ngồi ở bàn học, kê bên ngay cái cửa sổ vẫn đóng im ỉm, nó lấy một cuốn truyện trên giá sách để đọc. Đúng lúc ấy, một giọng nói quen thuộc từ bên ngoài vọng vào:

“Gì đấy?”

Con bé giật mình, vảnh tai lên nghe ngóng. Nó nhận ra giọng của ông Ban. Có vẻ như ông ta đang nói chuyện điện thoại với ai đó. Khi Lan Anh còn chưa kịp định thần thì lại nghe thấy tiếp:

“Yên tâm đi! Bùa Cẩu Yêu phải đúng đêm rằm tháng bảy mới phát huy tác dụng. Mảnh đất này đã chết hai mạng người rồi. Một là của lão già đã chôn chó, hai là của vợ lão Ban. Phải chết thêm một mạng người nữa thì bùa mới coi như đã hoàn thành. Tao nghĩ là một trong hai mẹ con chủ nhà sẽ chết.”

Giọng nói của lão rất khẽ, nhưng Lan Anh lại nghe thấy rõ mồn một. Con bé đưa tay bịt chặt miệng để ngăn mình không phát ra tiếng động. Bước chân lão Ban đi xa dần. Tiếp theo sau đó là tiếng mở khóa cửa lạch xạch cho thấy lão đã đi vào phòng trọ của mình. Con bé Lan Anh toát mồ hôi hột. Có quá nhiều thứ ập đến khiến con bé không sao tiếp nhận nổi. Đầu tiên là việc lão Ban có điện thoại di động. Năm ấy việc khắp nơi phủ sóng điện thoại còn chưa phổ biến, người có điện thoại đều là những người đặc biệt giàu có, nhà giàu nhất trong huyện có khi còn chưa có, nói chi một người bảo vệ trường học xoàng xĩnh như lão. Rất có thể, việc làm bảo vệ trường học chỉ là che mắt thế gian.
Thế nhưng điều ấy chưa là gì so với những gì lão nói với người khác qua điện thoại. Theo như lời lão nói, mảnh đất này có thứ bùa gọi là Cẩu Yêu. Người chết đầu tiên là ông nội của lão Ban, người chết thứ hai là vợ của lão. Lan Anh nhớ lại câu chuyện đêm qua anh Phong kể, người có được bùa Cẩu Yêu có thể cầu được ước thấy. Vậy thì kẻ đã dạy loại bùa này cho ông nội của lão Ban và người họ hàng của bà Mệ rất có thể có liên quan tới nhau. Con bé rùng mình khi nghĩ rằng tai họa đang đến gần với gia đình nhà nó. Bởi lẽ, những người chủ trước đây của căn nhà đều đã từng vong mạng.

Con bé rón rén bước ra bên ngoài, rồi nhẹ nhàng trở về nhà. Vừa gặp mẹ và dì họ, nó vội vàng kể lại chuyện vừa xảy ra, không quên kể thêm cả cơn ác mộng vào đêm hôm trước. Chuyện này khiến cả hai người đàn bà thất kinh. Bà Đoan vội vội vàng vàng thu dọn tư trang rồi rời đi, việc trước mắt là trốn khỏi nơi đây, còn mọi việc khác tính sau. Bà chạy ra bên ngoài để tìm một chiếc xe lam, nào ngờ vừa ra đến cổng thì thấy Phong đi học về. Biết bà có ý định tìm xe, Phong ngỏ lời tìm giúp. Bà Đoan lập tức đồng ý.

Xe vừa đến, cả ba người vội vội vàng vàng trèo lên xe. Lan Anh muốn đón cả ba anh chị sinh viên đang trọ học ở nhà mình đi cùng, nhưng tình thế rất gấp, hơn nữa việc này có liên quan trực tiếp đến gia đình chủ của mảnh đất, cho nên phải rời đi càng nhanh càng tốt, nhất là khi đêm rằm tháng bảy âm lịch chỉ còn cách vài giờ đồng hồ nữa.
Người tài xế xe lam chở cả ba người nhà bà Đoan thẳng hướng đi thị trấn. Không khí oi ả của tiết trời trước khi mưa làm cho ai nấy đều khát nước. Người tài xế đưa cho bà Đoan một chai nước vối, bảo uống tạm. Giữa cơn nắng nóng, chai nước chẳng mấy chốc đã hết. Ngồi một lúc, không hiểu sao Lan Anh cứ cảm thấy hai mắt trĩu lại, nó định nói với mẹ và dì họ thì bầu trời bỗng chốc tối sầm. Nó gục đi lúc nào không biết.

Đồng hồ vừa điểm mười hai tiếng, thì cũng là lúc trời đổ mưa. Rằm tháng bảy năm nào trong thôn cũng có trận mưa rả rích. Lan Anh rùng mình một cái rồi tỉnh dậy. Con bé hoảng hồn khi thấy mình đã về dãy nhà trọ của gia đình từ bao giờ, hai tay hai chân bị trói chặt cứng, miệng bị nhét giẻ. Cảm giác hoảng sợ như một chiếc búa tạ giáng thẳng vào người con bé. Nó run lẩy bẩy, cố gắng đưa mắt nhìn quanh để tìm mẹ và dì. Dưới ánh đèn vàng vọt, nó nhìn thấy cả hai người vẫn chưa hề tỉnh lại, đang nằm sõng soài bên cạnh cái giếng nước.
Lan Anh cố gắng hết sức trườn về phía hai người, nhưng hì hục mãi mà chẳng được. Bất thình lình, từ trong căn phòng trọ đầu tiên, hai chị em Lan Hạnh chạy ra. Con bé như người chết đuối với được cọc, vội vàng ra tín hiệu cầu cứu. Ấy vậy mà hai chị em nhà kia lại đồng loạt nhìn nó với ánh mắt lạnh lùng. Lan Anh cảm thấy ngờ ngợ trong lòng. Khi chưa kịp phản ứng thì cửa phòng anh Phong bật mở. Vừa nhìn thấy con bé, Phong cười khẩy:

“Tỉnh rồi à? Tưởng bỏ trốn được sao?”

Lan Anh chết sững. Chuyện quái gì đang xảy ra thế này? Lão Ban từ trong nhà bước ra. Lúc này lão đã mặc sẵn trên người một bộ quần áo màu vàng nhạt, có vẽ vô vàn những hình ảnh bằng chu sa. Nhìn từ xa trông lão hệt như một xác chết mặc áo hải hội. Lan Anh hết nhìn hai chị em sinh đôi, lại nhìn anh Phong rồi lão già quái gở. Thấy con bé nhìn bằng ánh mắt hằn học, lão Ban khẽ nói:

“Gia tộc tao sống bằng bùa ngải. Thứ bùa mà chúng tao dùng cả đời để luyện là bùa Cẩu Yêu. Mày đã vô tình nghe thấy vào buổi sáng hôm nay rồi phải không? Để có được thứ bùa này, người luyện phải hiến đủ ba mạng người thì mới có thể hoàn thành. Chúng tao không muốn làm điều đó, cho nên phải đi khắp nơi tìm kẻ nào khốn cùng nhất để gạ gẫm. Khi bùa đã thành thì tao sẽ đoạt lấy, đây là cách dễ nhất mà không tốn nhân mạng. Lần trước, ở cái làng chài nghèo xác xơ, một gã ngư dân đã chết, vợ con lão bỏ đi biệt xứ, không còn ở mảnh đất này nữa cho nên việc lỡ dở. Đến thời ông nội của lão Bách chết đi, rồi vợ của lão cũng bị vong ma chó ám cho khiến nó treo cổ, tao những tưởng bùa sẽ thành công. Vì khi vợ lão chết, ả đã mang thai. Nào ngờ cái thai còn quá nhỏ, chưa thành hình người nên bùa Cẩu Yêu vẫn chưa xong. Rất lâu rồi, rất lâu rồi... mảnh đất này mới có người đến mua lại và sinh sống ở đây. Mày thử nghĩ xem... tao đã mừng đến phát điên khi có người lại sống ở đây. Và thế là... con cháu tao đến thuê trọ. Sáng ngày hôm nay, tao biết mày đã nghe thấy. Tao đoán được mày sẽ đánh động cho mẹ mày để bỏ trốn, nên tao đã sai thằng Phong tìm người để đưa mày trở lại. Tài xế xe lam cũng là người của tao đấy. Mày có biết không?”

Lão nói một tràng dài rồi khẽ cười khoái trá. Tiếng chó sủa từ trong thinh không vọng đến càng khiến cho khung cảnh ngập màu ma quái. Con bé Lan Anh nước mắt giàn giụa cố gắng lay mẹ và dì dậy. Nó nhìn khắp nơi để tìm xem có bất cứ thứ gì có thể giúp mình được không. Thế nhưng sân dãy trọ chẳng có gì ngoài một đụn rơm to, một bình dầu để nấu bếp đã vơi gần hết. Lão Ban vừa ngân nga hát, vừa sắp xếp một bàn thờ nho nhỏ, bên trên có đĩa xôi gà, mấy con ếch nướng vàng rộm, mấy cây nến cùng một bát nhang bốc khói nghi ngút. Lão lầm rầm khấn vái gì đó. Đến cuối cùng, lão cùng ba người kia đứng dậy, bỏ ra ngoài, không quên buông một lời cuối cùng trước khi rời đi:

“Tao sẽ không làm gì đâu. Tao sẽ để mày lại cho vong ma chó. Đã lâu rồi, nó không được nếm hồn phách của con người. Mẹ con mày cứ từ từ chờ chết.”

Lan Anh lập tức hiểu ra, nếu như đêm nay gia đình nó có người chết ở nơi này, chắc chắn cảnh sát sẽ lập tức điều tra. Lúc đó lão Ban và con cháu lão cũng không tránh khỏi liên quan, vì vậy điều mà lão cần làm lúc bấy giờ là tạo cho mình bằng chứng ngoại phạm thật vững chắc. Một trong hai đứa song sinh bèn hỏi:

“Bác ơi! Nếu đêm nay mà nó không chết thì sao?”

Câu hỏi này như chạm đúng tim lão Ban. Lão gằn giọng:

“Quá tam ba bận! Nếu lần này mà chúng nó không chết thì bùa phản phé. Người trong nhà chúng ta thế mạng chứ sao. Việc luyện bùa cũng tiêu tan. Hiểu chưa đồ ngu?”

Ba đứa kia nhìn nhau, không nói thêm gì nữa. Lan Anh ngẩng lên nhìn cả bốn người rời đi mà trong lòng muốn băm vằm chúng ra thành từng mảnh. Trăng rọi xuống khiến sân nhà như phủ một màu bàng bạc. Tiếng chó tru dài bắt đầu vang lên từ đáy giếng. Giọng con chó thật thê lương, nghe vừa đau đớn, vừa dữ dội, lại vừa ai oán. Âm sắc từ dưới giếng dội lên càng vang vọng, xoáy vào không gian làm cho Lan Anh khẽ rùng mình. Gió bắt đầu thổi phần phật, nhang đèn chao đảo như muốn tắt. Nhanh như cắt, một ý nghĩ lóe lên trong đầu nó.
Nó vội vàng trườn về phía chai dầu hỏa, dùng cả hai chân đạp một cái để cho dầu hỏa ngấm vào đống rơm. Nắp chai đóng hờ bị lực tác động từ chân Lan Anh vội vàng bung ra, chẳng mấy chốc tạo thành một vết loang loáng dưới chân đống rơm. Khẽ hít một hơi thật sâu, Lan Anh dùng cả thân đạp đổ bàn thờ nho nhỏ mà lão Ban vừa dựng lên. Bát nhang rơi xuống đất rồi lụi ngay, chỉ riêng một hũ nến lăn lông lốc dưới nền đất dốc, rồi chạm vào đống rơm. Lửa lập tức bùng lên.

Nói ra thì lâu, nhưng kỳ thực diễn biến chỉ xảy ra trong tích tắc đồng hồ. Ngọn lửa bắt đầu bén dần từ chân lan dần tới giữa đống rơm. Lan Anh mài sát thân mình xuống đất để trườn đến chỗ mẹ và dì. Hơi lửa nóng làm cho cả hai giật mình tỉnh dậy. Cả ba người gắng hết sức vừa bò vừa trườn để tránh xa khỏi đống rơm.

Tiếng chó sủa, tiếng lách tách của đống rơm nổi bật giữa khung cảnh rừng rực. Mấy người trong thôn vẫn ngóng con chó chống gậy đội nón hàng năm thấy nhà bà Đoan có cột khói bốc lên vội vàng chạy đến. Một người đàn ông thấy ba người bị trói nghiến dưới đất thì hét lên:

“Ối làng nước ơi! Vào! Vào cứu người!”

Tiếng chân người chạy rầm rập, tiếng la hét gọi nhau í ới, tiếng người ta xô cửa đẩy vào khiến cho gương mặt Lan Anh tràn ngập nước mắt. Nó biết rằng, đêm nay người chết không phải là gia đình mình. Lúc người trong thôn vào kéo được cả ba người nhà Lan Anh ra ngoài, bất giác con bé ngoảnh lại trong vô thức. Giữa đống rơm cháy phừng phừng, nó nhìn thấy bóng dáng một con chó ở đó, hai mắt vằn đỏ, miệng nhễu nước ngồi im lặng.

Sáng hôm sau, công an tới nhà bà Đoan rất đông, nhưng người trong thôn tới hóng chuyện lại càng đông gấp bội. Người ta lập tức tìm tung tích lão Ban và ba người còn lại. Kết quả khiến cho ai nấy cũng đều bất ngờ. Ba người kia không nằm trong danh sách sinh viên của trường. Riêng hồ sơ của lão Ban đều là giả. Việc này xôn xao cả một vùng trong suốt một thời gian dài. Người ta không hiểu thứ bùa Cẩu Yêu ấy có tác dụng thế nào mà gia tộc nhà lão Ban phải hao tâm tổn sức theo đuổi suốt bao năm như thế. Rốt cuộc thì lão và mấy kẻ theo sau đã đi đâu? Con chó ma liệu có còn xuất hiện?
Sau cái đêm kinh hoàng ấy, mẹ con nhà bà Đoan không dám bén mảng trở về mảnh đất của gia đình mình. Cả hai được một người trong thôn tốt bụng cho thuê một căn nhà với mức giá gần như cho không. Có người nói bà bán mảnh đất ấy đi, nhưng bà ngần ngại...

Một năm sau, cũng vào đúng đêm rằm tháng bảy. Tiếng chó sủa lại vang lên. Lần này lại càng dữ dội hơn lần trước. Người trong thôn đóng chặt cửa, không ai còn ngóng như xưa nữa. Điều khác biệt là: Trong tiếng chó sủa, người ta thấy còn có thêm tiếng chó đang cắn xé, dày xéo thứ gì đó.

Sáng hôm sau, bà Đoan run run mở cửa dãy nhà trọ đã bỏ trống một năm để kiểm tra. Mấy người hiếu kỳ cũng đi theo bà hóng chuyện. Vừa mới bước vào khoảng sân ẩm mốc rêu xanh, tất cả mọi người đều chết sững khi trông thấy xác một người đàn ông gục đầu xuống giếng, hai tay ôm chặt lấy thành giếng, chân choãi ra như có người kéo. Toàn thân người này không một mảnh vải, nói đúng hơn là bộ quần áo màu vàng vẽ hình thù quái dị bằng chu sa đã bị cắn xé. Khắp người toàn vết thương, ổ bụng bị cắn nham nhở, lòi ra một đoạn lòng dài cả tấc. Phần chân bị gặm vào tận xương, máu và tảng mỡ rơi lả tả trên đất lôi kéo đàn ruồi bâu đến. Bà Đoan thốt lên một tiếng rồi ngất xỉu. Ngay cả những người đàn ông cũng kinh hồn, có người nôn ọe ngay tại chỗ. Ai cũng bảo rằng, bùa luyện không thành, con chó ma quay lại đòi mạng.

Bà Đoan xây một ngôi mộ màu xanh lam giữa dãy trọ, ngay ở trên miệng giếng đã được lấp đi. Cứ vào mùng một, hay hôm rằm, bà lại đích thân ra đấy cúng bái. Đám sinh viên bảo rằng, ngôi mộ màu xanh lam ấy là của lão Ban, kẻ khác lại cam đoan bà chủ nhà thờ những người đã bỏ mạng vì thứ bùa Cẩu Yêu. Riêng những người trọ lâu năm ở nhà bà lại khẳng định bà Đoan thờ con chó bị chết oan năm nào. Không biết ai đúng ai sai, nhưng quả thực, từ ngày ngôi mộ màu xanh lam ấy dựng lên, đêm rằm tháng bảy, người trong thôn không còn thấy chó tru ai oán nữa. Đêm trăng trôi qua trong mùi nhang thoang thoảng, và mùi khói mà người ta đốt cho người đã khuất. Tất cả đã yên lành.

Hết đêm thứ hai.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro