Chương 6 - Trên hành tinh Herevail

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng



Veil có cảm giác như mình đã chạy được rất lâu rồi.

Có lẽ ông đã luôn chạy trốn, đầu tiên là từ ngôi nhà ít ai nhớ đến của mình, rồi từ Alatalana, rồi từ Terra, rồi từ bất cứ thứ gì đã xuất hiện từ cái miệng đen ngòm của khoảng không và biến mọi thứ thành địa ngục. Chết tiệt, Veil thậm chí còn không phải là tên của mình, nhưng ông đã được Achelieux đặt cho cái tên đó, nên ông đã chết luôn với cái tên đó, và ngay cả bây giờ ông cũng khó nhớ được cái tên cũ của mình.

Dù có luyện tập bao nhiêu, Veil vẫn không giỏi trong việc bỏ chạy.

Hiện nay ông ta đã già, sức khỏe suy yếu đã lâu. Vì vậy mà suýt nữa ông đã bị sa thải đã khỏi Collegia Immaterium, khi xưa ông vẫn khỏe mạnh, được huấn luyện trong học viện, được rèn luyện qua khóa huấn luyện sĩ quan phụ trợ, được ăn uống đầy đủ, được chăm sóc chu đáo.

Nhưng chuyện đó đã xảy ra từ rất nhiều thập kỷ trước. Phổi của ông đã suy nhược, bám đầy bụi bẩn của hàng tá thế giới đang ăn mòn bên trong ông như lũ sâu bọ đục khoét lên một con thuyền buồm già nua. Ông cảm thấy viền mắt mình sưng mọng vì chất độc trong không khí, và tự hỏi Achelieux và những người khác đã đối phó với chúng như thế nào. Họ luôn rất cẩn thận về vấn đề vệ sinh. Họ phải như vậy - ông hiểu điều đó. Ông luôn nỗ lực phục vụ họ, và từ lâu ông đã tin rằng sự phục vụ đó là mang lại lợi ích, là điều đáng tự hào.

Veil ngừng chạy, nép mình vào những bức tường bám đầy rêu và cố gắng thở.

Bầu trời vẫn có màu da cam, được thắp sáng bởi những chất gây cháy. Ông có thể cảm nhận được sự rung chuyển dưới chân, dư âm của những vũ khí phá đất. Những bức tường cao vút trong màn đêm xung quanh ông, lấm tấm nước mưa, bốc mùi hôi thối. Ông thậm chí còn không biết tên thành phố mình đang ở và chỉ mới phát hiện ra tên của công quốc - Navaanda - hai ngày trước. Khi đó lực lượng an ninh đã đi cùng ông, ít nhất là những người đã thoát khỏi Vorlax, và họ đã chạy cùng nhau, di chuyển vào ban đêm, cố gắng hòa mình vào giữa màn sương mù của sự hoảng loạn.

Tuy nhiên, từng người một đã gục ngã. Họ đã chết như đã được huấn luyện để chết - tự lao mình vào con đường nguy hiểm, đỡ đạn thay ông ta. Tất cả họ đều đã được rèn luyện rất kỹ lưỡng, rất cuồng nhiệt trong sự tận tâm của họ đối với Gia Tộc. Một số là do huấn luyện, một số là do nuôi dưỡng, nhưng đó không thể là toàn bộ câu chuyện. Achelieux đã truyền cảm hứng cho tình yêu. Lão ta thực sự đã là như thế . Đôi khi, có thể thật đáng lo ngại khi thấy lão đã làm điều đó một cách trọn vẹn như thế nào. Ngay cả bây giờ, Veil cũng không thể lúc nào cũng ghét lão ta, bất chấp tất cả những gì đã xảy ra. Không phải lúc nào cũng vậy.

Veil cảm thấy nhịp tim của mình bắt đầu chậm lại, cổ họng căng thẳng của ông bắt đầu trong trẻo. Mưa trút xuống, len lỏi vào dưới cổ áo khiến ông rùng mình. Những tòa nhà ở phía bên kia đường giờ đã là đống đổ nát, vẫn còn nóng hổi vì vết bom đạn. Mái hiên mà ông trú ẩn chỉ là mặt tiền của những toà nhà trống rỗng. Khắp nơi đều trống rỗng, là nơi ở của những kẻ bị săn đuổi hoặc bị tước đoạt.

Ông đã nhìn thấy những đoàn người tị nạn hướng về phía bắc vào những ngày đầu, khi các thông báo của Cơ quan hành chính lần đầu tiên truyền lệnh di tản khỏi các trung tâm đô thị, và tự hỏi làm thế nào họ có thể sống sót trong những bãi rác thải bằng đá, nơi không khí là một món súp độc tố. và trái đất bị đốt cháy bởi phóng xạ. Pieter Achelieux đã để lại mệnh lệnh thường trực trước khi khởi hành, yêu cầu họ bằng mọi giá phải cố thủ vị trí của mình. Mọi người đã tin tưởng Pieter, vì lão là một Achelieux, là một Achelieux cơ đấy, và vì vậy tất cả họ đều giữ nguyên vị trí cho đến khi tiếng loa vox im bặt và cuộc tấn công vào quỹ đạo đang diễn ra.

Đã quá muộn để chạy trốn, nhưng họ vẫn cố gắng bỏ chạy.

Veil rùng mình. Không thể nào để giữ ấm cơ thể được. Ông đã không ăn gì trong ba ngày, và nước mưa đang khiến ông phát bệnh . Ông nhoài người ra khỏi bức tường và lại ra đường. Một số ngọn đèn natri vẫn còn hoạt động cách khu nhà máy vài mét, và ông đi men theo những vùng ánh sáng bẩn thỉu của chúng.

Chính ông đã nhìn thấy chúng vài ngày sau cuộc tấn công đầu tiên. Hầu hết các thành phố lúc đó đều bốc cháy, các khu vực ngoại ô trở thành sắt vụn và đống đổ nát. Các ngọn tháp ở phần trung tâm đã được bảo vệ bằng máy tạo lá chắn hư không, vì vậy kẻ thù đã đổ bộ quân đội để quét sạch chúng. Bọn chúng đã hạ cánh trong những chiếc quan tài mạ vàng, từ trên trời rơi xuống để đâm vào trung tâm của thế giới đang quay cuồng. Những con quái vật đã xuất hiện từ những chiếc quan tài đó - Space Marine, những Thiên thần báo tử, những thứ mà ông chỉ nhìn thấy từ xa trong những ngày lễ trong những bộ trang phục khác nhau.

Nhưng lần này họ đến mang theo vũ khí được trang bị sẵn để tấn công, không phải tấn công kẻ thù của Imperium mà là chính người dân của họ.

Tiếng ồn là điều tồi tệ nhất - tất cả đều bị bao phủ bởi một làn sóng la hét, cười đùa, gầm thét điên cuồng. Ông đã chứng kiến bê tông đá vỡ thành bột, và chứng kiến những người chết với máu chảy ra từ màng nhĩ bị vỡ, mắt nhìn chằm chằm, miệng há hốc vì cơn sốc tột độ.

Đến lúc này thì tất cả họ đều phớt lờ mệnh lệnh của Pieter. Họ đã dỡ bỏ hàng rào an ninh và bắt đầu bỏ chạy. Các đội an ninh đã đi cùng với họ - ba mươi binh lính hộ tống các quan chức cấp cao, hai mươi binh lính dành cho các cán bộ kỹ thuật. Bản thân Veil đã dẫn đầu hơn bốn mươi người trong số họ, mỗi người đều cam đoan sẽ bảo vệ cho ông đến người cuối cùng. Ông đã chứng kiến họ chết, hầu hết đều chết trong trận đọ súng đầu tiên khi thoát khỏi Vorlax. Sau đó, chỉ có một trong số những người chiến binh đuổi theo, kiêu ngạo với sự bất khả xâm phạm của hắn, lao qua những con đường trong tiếng kêu răng rắc để săn lùng con mồi.

Horaff, người chỉ huy đội an ninh đã huy động một nửa quân số của mình, những người được trang bị vũ khí tốt nhất, áo giáp tốt nhất để hạ gục sinh vật đó.

Veil đã cố gắng thuyết phục hắn ta đừng làm vậy. "Anh không thể ngăn chặn nó được," ông nói. "Không thể làm gì được thứ đó đâu."

Horaff đã gật đầu, hoàn toàn nhận thức được. "Chúng tôi sẽ làm chậm nó lại, thưa ngài magister. Để cho ông thêm thời gian để chạy thoát."

"Tốt hơn là nên chạy đi."

"Đi bằng phương tiện vận tải trọng lực về phía Tây. Đừng chạy theo đám đông. Sự tàn bạo này phải bị đánh đổ. Việc trả đũa phải được thực hiện."

Sự tàn bạo này phải bị đánh đổ.

Ông tự hỏi liệu Horaff có thực sự có ý đó không. Ký ức cuối cùng của ông về người chỉ huy là về việc hắn ta và người của mình lao vào bóng tối, quyết tâm hạ gục con quái vật đang săn lùng họ, dù biết rằng điều đó là vô ích.

Đối với bản thân ông, ông chỉ biết tiếp tục chạy. Ông thậm chí còn không nghe thấy tiếng la hét.

Ông chỉ biết chạy cùng những người còn lại, bây giờ do sĩ quan cấp dưới của Horaff chỉ huy, Ariet, một người phụ nữ vạm vỡ với giọng nói và phong thái của một kẻ thô lỗ. Vào thời điểm họ đến được các boong-ke vận tải trọng lực, hầu hết các tàu chở hàng lớn đã biến mất hoặc bị phá hủy. Ariet đã trưng dụng một chiếc, đuổi đi những hành khách đang sợ hãi của nó bằng súng carbine và đẩy ông lên tàu. Sau đó họ khởi hành, băng qua bãi đá hoang, lao đi rất nhanh. Vậy là Horaff ít nhất đã làm được những gì ông đã hứa - cho ông thêm thời gian để chạy thoát.

Sau đó, từ thành phố này đến thành phố khác, cố gắng vượt qua cơn sóng thần hủy diệt. Lũ quái vật luôn rình rập, háu đói, xé nát mọi thứ. Ông chưa bao giờ có hợp lý hoá được điều này - bọn chúng không tới đây để chinh phục, mà chỉ để tiêu diệt. Ông đã nhìn thấy những điều khủng khiếp, cực kỳ khủng khiếp - toàn bộ khu định cư với cư dân của họ bị moi ruột, móc mắt và bỏ mặc lại cho đến chết ngoài trời, máu chảy sâu đến mắt cá chân qua lớp bùn của những ngọn tháp tổ ong đang cháy, những tiếng la hét bất tận suốt những đêm dài, những âm thanh mà ngay cả những con vật cũng không thể phát ra được.

Pieter lẽ ra phải cảnh báo họ. Liệu lão ta có biết điều này sẽ đến không? Khó mà tin được là lão ta không biết gì hết. Lão luôn gây ấn tượng với mọi người là lão biết tất cả mọi thứ.

"Điều này sẽ sớm sụp đổ thôi," Pieter đã từng nói với ông như vậy khi công việc của họ mới bắt đầu. "Hệ thống này không ổn định. Tôi không nghĩ ông ta có thể kiểm soát được tất cả các yếu tố."

Veil không hiểu điều lão ta nói, và đã học được cách không bao giờ hỏi. Pieter có thể là một người khó hiểu - đó là cái giá phải trả cho thiên tài của lão, nhưng lão cũng đã trau dồi được thứ hào quang như vậy.

Bây giờ, sau hai mươi bảy ngày, có thứ gì đó vẫn đang theo dõi ông. Ông đã bắt đầu lắng nghe tiếng bước chân phía sau lưng mình. Giờ đây ông chỉ có một mình, không có gì giữa ông và lũ quái vật, kể cả Ariet, người cuối cùng đã chết để bảo vệ ông.

Thật khó để tiếp tục chạy khi tiếng thét của cô ta vang vọng bên tai ông. Bọn chúng không chỉ giết cô ta, những con quái vật này. Chúng làm ô uế mọi thứ chúng chạm vào. Một điều gì đó khủng khiếp đã xảy ra với bọn chúng, một điều gì đó đến từ sâu thẳm của những cơn ác mộng của giống loài, và bệnh ung thư lan rộng theo sau chúng. Thế giới Herevail đã luôn là một nơi khó sống. Bây giờ nó là một lò luyện ngục sống động.

"Chết tiệt," ông thở ra, kéo chặt áo choàng quanh mình và nghĩ đến Pieter. Pieter hẳn đã biết. Không có bí mật nào dành cho những kẻ như lão ta - những kẻ ăn và uống những bí mật y như những linh hồn thấp kém hơn tiếp nhận thức ăn và nước uống vậy.

Rồi ông lại vội vã rời đi, yếu ớt chạy qua những con phố vắng vẻ và giờ chỉ còn lại tiếng vọng của những tiếng la hét, biết rằng bọn chúng chỉ còn cách phía sau vài bước, và cũng biết, hoàn toàn chắc chắn rằng chúng sẽ sớm tóm được ông.

Đêm đến, nhưng nó không tạo ra nhiều khác biệt. Sự huỷ diệt trên quỹ đạo đã chặn hết ánh sáng mặt trời, che khuất thế giới này trong những đám mây đen kéo dài từ chân trời này sang chân trời khác. Cuối cùng, Veil thu mình trong vỏ của một nhà máy đóng gói thịt bỏ hoang, sàn nhà dính đầy thứ mà ông hy vọng là thứ tàn tích của ca làm việc trước đấy của nó.

Ông đang run rẩy dữ dội vì lạnh, quỵ xuống và co ro hai khuỷu tay vào đùi. Chiếc áo choàng ông mặc chưa bao giờ được thiết kế cho mùa đông vĩnh viễn do chiến tranh mở ra, và nó đã bị rách thành từng dải tua rua. Răng ông va vào nhau lập cập, ông lo lắng nhìn ra sàn đóng gói vắng vẻ của nhà máy. Ánh sáng mờ ảo, màu cam cháy, tỏa sáng từ những ô cửa sổ đã bị thổi bay, để lộ hình dáng của những cỗ máy hạng nặng rỉ sét. Thật khó để tưởng tượng những thứ máy móc này bây giờ lại bị bỏ hoang , mặc dù chỉ một tháng trước toàn bộ khu phức hợp đã hoạt động hết công suất, rút cạn sức lực của hàng nghìn người dân để sản xuất gói dinh dưỡng cho hàng triệu người.

Ông cảm thấy nóng rát ở thái dương và nhận ra những dấu hiệu đầu tiên của cơn sốt. Việc thiếu áo ấm đang giết chết ông nhanh hơn những kẻ truy đuổi ông và ông có rất ít sức lực để chống lại nó. Ông không phải là một người lính thực thụ, mặc dù ông đã được huấn luyện cách đây nửa đời người. Ông đã không thành công trong việc đi nhặt nhặn thức ăn cho mình. Bụng ông đau quặn, và miệng ông khô khốc.

Ông cần phải ngủ. Sự mệt mỏi đè nặng xuống, tranh giành quyền sự kiểm soát với cái lạnh.

Nếu ông ngủ, ông biết mình sẽ nằm mơ. Đó gần như là điều tồi tệ nhất - ông sẽ nhìn thấy khuôn mặt của những người đã chết. Những người theo hộ tống ông chắc chắn đã biến mất, những vệ sĩ của Gia Tộc, những người nô lệ theo ký kết. Họ đã đến Herevail ba năm trước để thoát khỏi bàn tay tử thần của Nobilite, các tay sai của nó và những mối thù hiểm độc của nó, Achelieux đã nói với họ như vậy. Họ đến để theo đuổi những vấn đề quan trọng mà sự cô lập là một lợi thế.

Khi những quả bom chứa khí độc thần kinh bắt đầu rơi xuống, trong một khoảnh khắc, Veil đã nghĩ rằng đó có thể là một âm mưu nào đó của Pieter, kết quả của một trong những cuộc nghiên cứu bí mật gì đó. Tất nhiên, lúc đó Pieter đã rời khỏi thế giới từ lâu, nhưng mọi người vẫn mong đợi lão ta quay trở lại. Điều cần thiết là lão ta phải quay lại. Phải chăng đã có một thủ thuật nào đó được giở ra? Lão ta đã chết à? Có phải lão đã đứng đằng sau mọi chuyện này? Ai mà biết được.

"Chỉ có chúng ta mới có thể nhìn thấy thế giới này đằng sau tấm màn che, ông nhớ lại và lẩm nhẩm những lời nói khắc sâu của gia tộc Achelieux. Thật đáng tiếc cho những người không có năng lực như thế. Đừng khinh thường bọn họ. Chúng ta là những người dẫn đường cho họ."

Cơn rét run của ông giờ đã không thể kiềm chế được, một nhịp điệu chói tai cắn vào những chỗ hở của da thịt trên lưng ông.

Chuyện gì đã xảy ra? Điều gì đã khiến Quân đoàn của Hoàng đế chống lại thế giới mà họ đã tạo ra cho nhân loại? Trên hết, thật là bực bội khi biết rằng cái chết sẽ đến với ông trước khi ông có thể tìm ra câu trả lời, và trước khi ông có cơ hội hoàn thành mục tiêu của mình. Một người đàn ông có thể chấp nhận cái chết của mình, đặc biệt là một người đã sống lâu và nhìn thấy nhiều thứ như ông, nếu ông biết tại sao nó lại đến.

Veil xiết áo choàng chặt hơn. Bầu trời tối tăm lại bùng lên những vệt đỏ xỉn. Ông cảm thấy mặt đất rung chuyển và lại nghe thấy tiếng nứt vỡ xa xa của những chiếc quan tài. Điều đó thật kỳ lạ. Ông đã tin rằng kẻ thù đã đổ bộ tất cả những gì chúng cần đổ bộ. Herevail còn rất ít thứ quý giá để bị tiêu diệt; gửi thêm những kẻ tra tấn để kéo dài sự khủng bố của nó dường như là rất hoang phí.

Ông nhắm hai mắt mình lại. Những cơn chấn động từ xa vẫn tiếp tục. Những đòn tấn công đó giống như những cú đấm cuối cùng vào một cái xác đang nguội lạnh dần, và cũng đều vô nghĩa như vậy, nhưng chúng cứ lặp đi lặp lại, quấy rầy giấc ngủ mà ông biết mình đang cần.

Nhưng không ai có thể ngủ được khi những tiếng động đó vang lên. Đó là những cú đánh của số phận. Chúng đánh dấu sự kết thúc của những ảo ảnh cũ, những ảo ảnh đã được nuôi dưỡng hàng thế kỷ trước khi ông chào đời. Ông biết điều gì đó về họ. Những người khác biết nhiều hơn. Có lẽ đó là lý do tại sao các chiến binh này lại đến Herevail. Có lẽ họ được cử đến để trừng phạt sự tham vọng.

Dù sao thì bây giờ tất cả đã biến mất. Tất cả đều đã bị lấy đi.

"Đừng khinh thường họ," ông thở không thành tiếng khi giấc ngủ ập đến, cố gắng giữ cho quai hàm lạnh cóng của mình tĩnh lặng để thấu hiểu, để tha thứ. "Chúng ta là người dẫn đường cho họ."

Ông chợt tỉnh giấc.

Cử động vai khiến những ngọn giáo lạnh buốt đâm dọc theo sống lưng khòm của ông. Veil thận trọng mở miệng, lăn lưỡi quanh nướu răng khô khốc. Chậm rãi, rất chậm rãi, ông duỗi chân tay ra. Chắc hẳn cuối cùng ông đã bất tỉnh khi tựa người vào bức tường kim loại, co người quá chặt.

Ánh sáng không thay đổi nhiều - có lẽ đã bớt u ám hơn trước một chút. Những cái bóng yếu ớt che phủ sàn nhà, tỏa ra từ những bộ xử lý khổng lồ đứng canh gác xung quanh ông. Chắc trời đã sáng rồi. Ông có thể cảm nhận được sự thay đổi mờ nhạt trong không khí - hơi nóng tăng lên, sự tàn lụi của màn đêm.

Ông cố gắng đứng dậy, và cơn đau ở các khớp khiến ông phải càu nhàu thành tiếng.

Rồi ông sững người, chăm chú lắng nghe. Có điều gì đó đã khuấy động trong ông.

Ông chờ đợi, bất động, thở nhẹ, hoàn toàn tỉnh táo, mạch đập thình thịch.

Không còn âm thanh nào phá vỡ sự im lặng của buổi bình minh. Qua những khung cửa sổ lởm chởm, ông có thể nhìn thấy đám mây che phủ bên ngoài. Một bóng đèn lumen bị hỏng ở phía xa của phòng xử lý nhấp nháy liên tục.

Một cách cẩn thận và tỉ mỉ, ông đẩy mình ra khỏi bức tường, đứng dậy. Ông có thể cảm thấy mồ hôi bắt đầu lấm tấm trên lòng bàn tay.

Ông nghiêng đầu, chăm chú lắng nghe. Ông không thể xác định được âm thanh mà ông nghĩ mình đã nghe thấy - một tiếng gầm gừ buồn tẻ của máy móc, vừa đủ nghe, ngay lập tức im bặt.

Ông bắt đầu bò về phía trước, nâng người lên hết cỡ. Đôi chân ông đau nhức khi máu đang chạy chậm chạp trở lại, và không khí lạnh lẽo lại khiến ông rùng mình. Ông nghiến hai hàm răng lại.

Ông đã đến được rìa thành phố vào đêm hôm trước. Ariet đã bảo ông hãy tiếp tục tiến ra ngoài, vượt qua hàng rào bức xạ và đi vào vùng hoang mạc phía sau. Điều đó sẽ không tốt cho sức khỏe đang bấp bênh của ông, nhưng lũ quái vật cũng vậy. Ông có thể cố gắng sống sót ở đó trong vài ngày. Liệu điều đó tốt hơn hay tệ hơn một cái chết nhanh chóng trong thành phố là điều mà ông chưa từng hỏi cô ta - cũng như mục đích thực sự của việc sống sót lâu hơn một chút.

Cuối cùng, đó vẫn chỉ là một bản năng sinh tồn.

Để tiếp tục chạy trốn. Để tiếp tục kéo dài hơi thở, để giữ cho cái lạnh không làm hao mòn sức lực và biến ông thành một cái xác chết.

Veil tiến lại gần cổng ra hành lang, chăm chú nhìn vào bóng tối xung quanh, ôm lấy bóng đen như mực của các cột xử lý thực phẩm. Khi ông đi qua dầm đỡ của cánh cổng, đủ cao và rộng để cho một chiếc xe vận tải phản trọng lực từ các trung tâm phân phối tiến vào, vùng ngoại ô của thành phố trải dài phía xa xa ông - một mớ lộn xộn giữa những căn hộ chung cư thấp tầng và nhà máy sản xuất, mờ ảo trong sương mù bình minh đang dâng cao. Bầu trời màu cam phía trên nhói lên như một vết thương. Những cột khói mỏng ngoằn ngoèo bốc lên từ chân trời phía đông, đen đúa và lạnh lẽo.

Ông rón rén ra ngoài, quan sát những con đường phía trước. Con đường rộng nhất dẫn xuống một con dốc dài, hai bên là mặt tiền nhà kho trống trải, một dòng nước đầy dầu cắt đôi chiều dài của nó. Những đoạn đường khác phân nhánh vào các tuyến đường vận chuyển liên khối. Ông chọn đi những con đường nhỏ hơn - những con đường đó ít nhất cũng có chỗ che chắn, ngay cả khi chúng sẽ giữ được hơi ấm của mặt trời bị che khuất khỏi tấm lưng lạnh giá của ông.

Và rồi, khi ông rời đi, ông lại nghe thấy tiếng gầm gừ của máy móc, lần này gần hơn. Tay chân ông cứng đờ. Ông quay đầu lại và nhìn thấy điều mà ông đã lo sợ kể từ khi rời khỏi Vorlax.

Nó đứng cách đó hai mươi mét, nhìn ông. Nó rất đồ sộ, lớn hơn nhiều so với những gì ông từng nghĩ về bọn chúng. Tấm áo giáp của nó có màu tím và vàng, theo cấu hình Mark II chính thống và mang biểu tượng tiêu chuẩn của Quân đoàn III. Những tàn tích còn sót lại của việc giết chóc phủ khắp nó, bám chặt như những đường cơ gân. Tiếng ồn mà Veil nghe thấy trước đó thỉnh thoảng phát ra từ bộ pin năng lượng của bộ giáp, khiến người chiến binh này bị gù lưng và nó không đội mũ trụ, để lộ khuôn mặt xanh xao, ốm yếu.

Nó không di chuyển. Nó chỉ nhìn ông, mỉm cười thèm thuồng. Ánh mắt đen tuyền của nó khiến ông muốn hét lên và hét lên cho đến khi cổ họng ông lên cơn buồn nôn.

Bằng cách nào đó, dựa vào sức lực còn xót lại mà ông tưởng đã cạn kiệt từ lâu, Veil đã chạy được. Ông vụng về bước vào con hẻm gần nhất, tim đập thình thịch. Ông nghe thấy nó phóng đi phía sau ông - những tiếng thịch nặng nề trong bụi đất, một tiếng sải bước lười biếng, một tiếng rít khàn khàn phát ra từ kẽ răng của nó.

Veil điên cuồng ngó nghiêng quanh, tìm kiếm một lối thoát nào đó, một cái lỗ nào đó mà ông có thể chui qua. Tất cả những gì ông nhìn thấy là những bức tường bê tông đá trống rỗng, một số bị nổ tung, hầu hết cháy thành than từ những đám cháy cũ. Những cửa sổ trống rỗng lướt ngang qua, mở ra những căn phòng sinh hoạt vắng vẻ. Ông nghĩ rằng ông đã nghe thấy tiếng rơi từ xa hơn trong thành phố, và nhiều tiếng nổ của đạn dược.

Còn nhiều hơn nữa, ông cay đắng nghĩ. Lạy đấng Paternova, có nhiều hơn thế nữa...

Ông lao đến cuối con hẻm, nơi nó rẽ trái giữa hai tòa tháp cư trú đang dặt dẹo vì bị ném bom. Ông có thể nghe thấy tiếng thở của con quái vật đằng sau lưng mình. Chạy nước rút, do sợ hãi nên tăng tốc, ông trượt vòng qua góc tường, gần như đâm sầm vào bức tường phía xa. Ông bị trượt chân và trầy đầu gối trong lớp bụi.

Một chiếc găng tay vồ xuống vai ông, ghim chặt ông. Ngay cả qua lớp áo choàng, sự đụng chạm vẫn giống như bị côn trùng chích đốt, và ông hét lên.

Con quái vật tóm lấy ông, nhấc bổng ông lên khỏi mặt đất và xoay ông lại. Ông thấy mình đang nhìn thẳng vào khuôn mặt bị hủy hoại của sinh vật đó. Dấu tích của con người xa xưa vẫn còn đọng lại, nhưng giờ đây những chiếc túi đang đập quanh cổ con quái vật, trong mờ và run rẩy. Đôi mắt của nó giống như những cái hố nhìn vào khoảng không. Hơi thở của nó thật ngọt ngào, thật kinh tởm, và ông bịt miệng của mình vì nó.

"Ngươi đã được kẻ khác giúp đỡ," con quái vật lên tiếng, siết chặt hơn. "Tại sao vậy? Ngươi là ai?"

Veil sẽ trả lời. Giọng nói của sinh vật đó xuyên qua ông, nghiền nát ý chí phản kháng của ông.

"Tôi là..."

Đó là những lời duy nhất ông thốt ra được. Thế giới đột nhiên bùng lên một luồng ánh sáng vàng cứng rắn, ném ông lên không trung. Ông tiếp đất một cách nặng nề, cảm thấy xương đòn của mình bị gãy. Một cơn choáng váng khiến ông quay cuồng, và ông không nhìn thấy gì rõ ràng - chỉ là một chuyển động mờ ảo giữa ánh sáng chói lóa. Ông có ấn tượng mơ hồ về một con quái vật có kích thước tương tự đang lội qua những bức màn màu vàng, con này được bọc trong những tấm giáp màu trắng ngà. Hai sinh vật đánh nhau, và những cú đánh của chúng khiến bụi bay tung lên và bay tứ tung.

Veil cố gắng bò đi, nhưng cơn đau ở cổ trở nên không thể chịu đựng nổi, và ông cuộn tròn thành một đống run rẩy. Con quái vật đầu tiên cuối cùng cũng bị đập văng vào phía bên kia đường, áo giáp của nó rách toạc và phát ra ánh hào quang màu vàng chói lóa. Sinh vật thứ hai bước tới để kết liễu nó, mang theo một cây trượng nặng, có đầu lâu và được trang trí bằng những dải da. Gót cây trượng giáng xuống cổ con quái vật, xuyên qua những túi thịt, ấn nó xuống cát bụi. Đôi găng tay của nó siết chặt thêm một lúc nữa, giận dữ nhưng bất lực. Sự sống bị con quái vật bóp nghẹt, và nó tắt ngấm trong bọt máu và chất lỏng trong suốt, nguyền rủa bằng thứ ngôn ngữ mà Veil không hiểu. Ông có thể cảm thấy mình đang mất đi ý thức. Cơn đau quặn thắt. Tim ông đập loạn xạ, rung rinh như một con chim bị mắc bẫy. Khi ông cảm thấy có bàn tay đặt lên vai mình, bản năng đầu tiên của ông là muốn lùi lại, nhưng giờ điều đó đã vượt quá khả năng của ông. Ông nhìn lên và thấy - kèm với sự kinh ngạc - một khuôn mặt con người, một nửa bị che khuất sau chiếc mặt nạ dưỡng khí. Đó là một người phụ nữ, già nua, mái tóc bạc được chải ngược ra sau để lộ nét mặt gầy gò, mong manh. Ông thậm chí không nhận ra sự hiện diện của bà ta, giữa cuộc chiến của những sinh vật khủng khiếp như vậy. Bà ta đeo huy hiệu aquila trên ngực, đính trên bộ quân phục màu xanh xám của một vị tướng quân đội.

Bà ta trông có vẻ lo lắng.

"Achelieux đâu rồi?" bà ta hỏi, cố gắng giữ cho Veil không bị té ngã. "Ông ta đang ở đâu?"

Có lẽ ông đã cười lớn nếu ông đang không ở trong tình trạng tệ hại như vầy.

Ai mà biết? Ai biết tên khốn đó rốt cuộc đang ở đâu? Nếu tôi mà biết, bà có nghĩ tôi vẫn còn ở lại chốn địa ngục này không?

Nhưng ông không thể nói ra được. Ông ngã người vào cánh tay bà ta. Cơn choáng váng dâng lên khắp người ông như một tấm chăn ngột ngạt, và ông cảm thấy mình như muốn ngã xuống.

Trong giây lát, ông tự hỏi liệu mình có sắp chết không. Nếu vậy thì có lẽ đó là điều tốt nhất. Bây giờ còn lại gì sau tất cả những gì họ đã cố gắng làm? Sau đó hai mắt của ông trở nên tối đen, cơn đau biến mất và ông rơi vào trạng thái bất tỉnh đầy sung sướng thoải mái.


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro