2. mary

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Quý bà Darby Miller, mẹ của April, là mẫu người mang đậm hơi thở hiện đại: xinh đẹp, quyến rũ, hết mình vì sự nghiệp. Nhưng bà và người bạn thân nhất, sơ Mary Northwood, lại chẳng có chút điểm chung nào. April đã mường tượng sơ cũng giống những người bạn khác của mẹ, trẻ trung, kiêu kì, năng động đầy sức sống. 


Bởi thế, lần đầu trông thấy sơ Mary, em đã rất ngạc nhiên. Vị nữ tu mảnh mai, xinh xắn như hoa, mái tóc vàng sáng và cặp kính gọng bạc khiến sơ trông già trước tuổi. Sơ Mary đứng nghiêm trang trước cổng ngôi nhà thờ cổ, dường như đã chờ mẹ con em từ sớm. 


 - Darby, đã lâu không gặp.



 - Mary!



Mẹ April mỉm cười, hôn lên má người phụ nữ tóc vàng bé nhỏ. Em nhìn hai người vui vui vẻ vẻ, trong lòng có hơi ngạc nhiên. Do tính chất công việc, mẹ em luôn luôn khó gần và đa nghi. Trừ bỏ em là con gái ruột, mẹ hiếm khi bộc lộ cảm xúc với người ngoài. 


 - Đây là April, con gái tớ. 


Mẹ xoa đầu em, ánh mắt ánh lên vẻ tự hào. 


 - Chào April. Cứ gọi cô là Mary. 


Đứa trẻ tóc đen rụt rè đưa tay bắt tay sơ Northwood. Ngay khi chạm tới làn da trắng mềm như tơ lụa, April phần nào hiểu được vì sao mẹ em quý mến người này. Sơ Northwood có mùi hương rất dễ chịu, cử chỉ và lời nói đều vô cùng dịu dàng, khiến người đối diện cảm giác như được bao bọc trong ánh sáng và hơi ấm. Mẹ em trò chuyện cùng sơ Mary một lúc, trước khi nhìn xuống đồng hồ đeo tay, thở dài:


 - Tớ phải đi rồi. 


Bà dặn dò em thêm vài câu, rồi trao hành lý cho người phụ nữ tóc vàng, trước khi cúi xuống ôm lấy đứa con gái nhỏ bé. April run run dụi mũi vào tóc mẹ mình, cố gắng ghi nhớ thật kĩ hơi ấm và mùi hương của bà. Tuy có gương mặt giống hệt mẹ, em chẳng được mạnh mẽ như bà. Những cuộc chia ly làm April buồn khổ. Năm mười hai tuổi, em đã từng khóc đến tận ba ngày, chỉ vì cái chết của con thỏ trắng nhà hàng xóm.


- April, mẹ yêu con.


- Con cũng yêu mẹ. Rất nhiều.


Mẹ em cười buồn, vuốt mái tóc đen và xoa gò má phớt hồng bầu bĩnh, bà hôn lên trán em thay cho lời tạm biệt. Sơ Mary Northwood bước đến cạnh bên April, nhẹ nhàng đặt tay lên vai em, cả hai cùng đứng trên ngọn đồi phủ đầy hoa và cỏ dại, nhìn theo bóng mẹ em xa dần.


Khi chiếc Volkswagen biến mất sau những tán cây, April mới lén lén dụi nước mắt, em quay sang nhìn sơ Mary nói:


- Cô đừng nói với mẹ là cháu đã khóc, nhé?


- Cô hứa – Người phụ nữ dịu dàng mỉm cười – Đừng lo lắng quá, mẹ cháu sẽ ghé thăm mỗi cuối tháng. Tối nay cháu muốn ăn món gì?


- Schnitzel và mỳ được không ạ?


Sơ Mary gật đầu, nắm tay em dẫn qua chiếc cổng sắt đen. Trời nổi gió, cuốn theo mùi đất ẩm ngát hương hoa. April mơ hồ nghiêng đầu về nơi có âm thanh xào xạc, nhận ra ngoài con đường nối với thành phố mẹ vừa rời đi, nơi này còn có một khoảng rừng khác, nhìn um tùm và âm u hơn. Mắt em bắt được mấy vệt sáng rực rỡ sắc màu, là những bụi quả dại cuối thu chín mọng, chỉ nhìn thôi đã thích. Kéo tay sơ Mary, đứa trẻ hào hứng nói:


- Cháu có thể vào rừng không? Đằng kia hình như có dâu rừng và nham lê..


April lớn lên ở thành phố, nhưng bố em là một học giả ngành sinh quyển, em từng cùng ông đi rừng vài lần, trước khi bố mẹ ly thân. Vì vậy, em có chút kiến thức về thảo dược và cây ăn trái, cũng biết chúng ngon lành thế nào khi biến thành món mứt ăn sáng.


- Cháu thích chúng sao? – Sơ Mary vẫn nắm tay em, gương mặt hiền lành thoáng vẻ lo lắng mông lung – Dĩ nhiên là được, April. Nhưng không phải hôm nay. Chúng ta nên dành thời gian làm quen nhà mới.


- Vâng ạ.


Vốn là đứa trẻ ngoan, April không phàn nàn gì thêm. Em cũng đã mệt nhoài sau chuyến đi cùng mẹ. Sơ Mary đưa em dạo quanh, giới thiệu sơ qua về nơi họ sống. Khi đến gần khối kiến trúc xám xịt nọ, April mới nhận ra nó trông giống một tòa lâu đài hơn là thánh đường đơn thuần. Tháp chuông cao vút, trên đỉnh chạm khắc mặt đồng hồ trang trí bởi dấu triện ngôi sao màu vàng kim lấp lánh, cùng những dòng kí tự cổ nhất thời em không đọc được. Khu đất khá rộng lớn được bao quanh bởi hàng rào và cổng sắt, sân vườn phủ cỏ xanh cùng đá cuội, có vài tán cây lớn, cả ghế đá kèm bàn đọc sách. Nhà thờ và tháp chuông chiếm phần lớn diện tích. Phía sau nhà thờ là gian nhà nhỏ hơn, xây theo kiểu cổ, nhìn đơn giản nhưng rất chắc chắn. Sơ Mary nói:


- Nhà thờ chỉ mở vào Chủ nhật và chiều thứ năm. Hầu hết người dân sẽ đến vào những giờ đó để dự thánh lễ và cầu nguyện. Thỉnh thoảng, cô sẽ cần cháu giúp dọn dẹp thánh đường, thời gian còn lại chúng ta chủ yếu sinh hoạt trong gian nhà phụ.


April gật đầu ra chiều đã hiểu, em thầm tán thưởng sự đồ sộ của nơi này. So với căn hộ hai phòng ngủ của mẹ con em trước đó, nhà mới quả thật quá hoàng tráng và hoài cổ. Sơ Mary đưa em vào gian nhà phụ. Tuy không quá lớn, thiết kế nhà rất ấm cúng tiện nghi. Phòng khách có lò sưởi, một bộ ghế sô pha, bàn uống trà và chiếc kệ lớn để những vật dụng linh tinh.


- Phòng của cô ở tầng một, phía bên tay phải – Sơ Mary nói, trong lúc cả hai bước lên cầu thang gỗ - Đối diện là phòng đọc sách, chúng ta sẽ học ở đây. Trong mỗi phòng ngủ có nhà tắm riêng. Bếp nằm cạnh phòng khách, chờ đến giờ cơm tối, cô sẽ dẫn cháu xuống tham quan.


Để đảm bảo em theo kịp chương trình quốc gia và kì thi cao trung, mẹ đã nhờ sơ Mary làm gia sư riêng. April vốn là đứa trẻ thông minh, em không lo lắng quá về chuyện học hành. Dù vậy, em vẫn rất tò mò chuyện Alderville không có trường trung học.


- Phòng của cháu  ở đây.


Vị nữ tu mở cửa căn phòng áp mái. Không gian bên trong khá ấm áp dễ chịu, có một chiếc giường đơn, tủ quần áo, bàn học, kệ sách và tủ đầu giường. Chiếc cửa sổ lớn kèo rèm buông nửa, ánh sáng ban ngày nhàn nhạt hắt vào, vẽ nên những vệt sáng kì lạ. Trên bàn học có một dàn máy tính. April hơi ngạc nhiên, em hỏi:


- Có cả dàn máy tính ạ?


- Darby muốn cháu sống thoải mái nhất có thể. Cô mua nó ở thị trấn gần đây, có thể kết nối mạng nữa.


- Mẹ cháu vẫn luôn chu đáo - Nét mặt đứa trẻ tươi tỉnh hẳn - Cám ơn cô.


April hồ hởi tiến vào phòng, hít thật sâu mùi thơm của gỗ và không khí mát lành. Dù nỗi buồn vì phải xa mẹ vẫn còn, nhưng cảm giác mới lạ phần nào xoa dịu cô đơn trong lòng đứa trẻ. Em đặt hành lý cạnh giường, phát hiện trên tủ đầu giường có xấp giấy khá lớn, đặt ngay ngắn như thể dành sẵn cho em. Bên cạnh xấp giấy là chùm chìa khóa bằng đồng sáng bóng.


- Đây là gì thế ạ?


Sơ Mary trầm giọng:


- Có vài điều cháu cần nhớ khi sống ở đây, cô đã ghi lại thành danh sách. Cháu tranh thủ nghỉ ngơi đi, cô sẽ gọi khi bữa tối sẵn sàng.


- Vâng.


April vẫy tay chào vị nữ tu, trước khi sơ biến mất sau cánh cửa. Em hào hứng nhảy lên chiếc giường mới lăn qua lăn lại, thích thú ngắm nhìn bộ khăn trải giường và bọc gối thêu hoa kiểu cũ. Lấy điện thoại cầm tay chụp vài ba tấm hình, em tự nhủ sau bữa tối sẽ nhắn tin cho mẹ. Nhắc đến mẹ, lòng em chùng xuống. April ngồi dậy, cầm lấy xấp giấy đọc qua, cố gắng khiến bản thân mình không nghĩ nhiều. Phần đầu của danh sách khá đơn giản, chỉ bao gồm giờ lễ, giờ học kèm tên các môn; ngày giặt đồ, giờ đóng cổng chính, liệt kê khá chi tiết. April thầm nghĩ, em đã đoán sơ Mary là người kĩ tính, không ngờ đúng thật như vậy.


- Ồ?


Mắt April lướt qua trang giấy cuối cùng. Tiêu đề được ghi bằng mực đỏ để thu hút sự chú ý cao độ. Em mở túi hành lý lấy ra một hộp nước ép lê, vừa uống vừa chăm chú đọc.


____________________________________

QUY TẮC KHI SỐNG Ở NHÀ THỜ D.STERN

1. Không rời khỏi khuôn viên nhà thờ sau 12 giờ đêm và trước 7 giờ sáng, bất kể vì lý do gì. Trong trường hợp khẩn cấp, phải báo cho sơ Mary Northwood.

2. Nếu được cho phép ra ngoài vào khung giờ trên, tuyệt đối không tiến vào rừng.

3. Nên đóng cửa sổ và kéo rèm ban đêm. Hệ thống thông gió luôn đảm bảo nhiệt độ phòng ở mức dễ chịu.

4. Cửa nhà thờ chỉ mở vào Chủ nhật, từ mười giờ sáng đến bốn giờ chiều, và thứ năm, từ ba đến năm giờ chiều. Nếu nhìn hoặc nghe thấy ai đó bên trong thánh đường ngoài những khung giờ này, lập tức báo cho sơ Mary Northwood.

5. Khuôn viên nhà thờ chỉ có hai người sinh sống: sơ Mary Northwood và April Salzberg. Nếu có ai khác nói họ cũng sống ở đây, lập tức rời đi và báo cho sơ Mary Northwood.

6. Nếu gặp người đàn ông cao lớn mặc áo khoác xám, cầm theo một chiếc cặp xách đen và cây dù đỏ, trả lời "không" với mọi thứ ông ta nói. Thông thường, ông ta sẽ rời đi sau ba câu hỏi. Nếu người đàn ông hỏi đến câu thứ tư, giữ im lặng và chạy tới thánh đường.

7. Mỗi người sống ở nhà thờ đều được giao một chùm chìa khóa, có kí hiệu trên từng chìa với cửa tương đương gồm: cửa thánh đường, cửa tháp chuông, cổng chính, cửa gian nhà phụ và cửa phòng ngủ riêng. Nếu xuất hiện chiếc chìa khóa không đánh dấu, gỡ nó ra và luôn mang theo bên người.

8. Nếu muốn vào rừng, hỏi mượn sơ Mary Northwood "cẩm nang đi rừng".

9. Luôn khóa trái cửa khi ngủ. Nếu có ai gõ cửa phòng vào ban đêm, hãy hỏi tên người đó. Sơ Mary Northwood sẽ không phiền nói ra họ tên mình. Nếu người kia từ chối nói tên, hoặc nói một cái tên lạ, phớt lờ và tiếp tục ngủ.

10. Mọi quyển sách dùng trong phòng đọc sách đều có bìa và nhãn tên. Nếu thấy xuất hiện một quyển sách không có nhãn, báo với sơ Mary Northwood. Tuyệt đối không được đọc những quyển sách mất nhãn này.

____________________________________


April hơi nhăn mày. Những quy định này có vẻ kì lạ và cụ thể đến đáng ngờ, ví dụ như điều số sáu. Dường như người đàn ông kia không phải người tốt, nhưng nếu vậy, tại sao em phải tiếp chuyện ông ta? Hơn nữa, tên em April Salzberg, được viết đè lên một cái tên khác bị xóa bằng mực trắng. Trước đây đã có người khác cũng sống ở nơi này?


Đứa trẻ nằm trên giường trầm ngâm hồi lâu. Cuối cùng, em quyết định tin tưởng sơ Mary, cũng là tin tưởng mẹ. Em biết mẹ sẽ không để mình tới nơi nguy hiểm mà không kiểm tra trước. Nghĩ vậy, em đem xấp giấy kia để dưới gối, còn chùm chìa khóa thì treo ở kệ sách.


Trong lúc mải mê ngắm mấy chiếc chìa khóa kiểu cổ đẹp mắt, April chợt thấy có gì đó không đúng. Em đếm số chìa khóa, nhìn kĩ những kí hiệu khắc trên thân kim loại mảnh mai.


Đúng như em nghĩ, thừa ra một chiếc. 


Chiếc chìa khóa không đánh số.

#2 - end.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro