Mặt Trăng Yêu Thương Mặt Trời [5]

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Jours de brouillard tranquilles|những ngày sương mù yên tĩnh


Tháng 6 - năm 1942

Khoảng thời gian này, khắp nơi đều phủ đầy những sự kiện chỉ vừa nghe đã khiến người ta phải run sợ, mỗi một ngày trôi qua là mỗi tin tức được liên tục truyền đi khắp đất nước. Bên ngoài tin tức chính trị ngập tràn mọi ngõ ngách, tình hình chiến sự càng ác liệt, kinh tế cả nước đang dần dần bị thiệt hại một cách vô hình nhưng lại chẳng có một ai nhận ra được điều đó sớm hơn.

Hai đầu cầu kinh tế cả nước đang trong thế giằng co, hệ lụy dẫn đến những khu vực lân cận bị ảnh hưởng. Hiện tại tuy nói Đà-Lạt là thành phố tách biệt riêng nhưng một phần nào đó vẫn chịu sự chi phối của bên ngoài. Bây giờ tình hình của thành phố không còn nhiều thời gian thong thả như trước kia, tất cả đều phải tính theo từng ngày, từng giờ, từng giây phút một. Trong vòng một vài phút, chỉ cần bộ chỉ huy ban hành một sắc lệnh xuống thì ngay lập tức cả thành phố như bị lật tung hết cả lên. Thời gian này tất cả cục diện đều được tường thuật lại hết trên thời báo Sài-Gòn, còn lại diễn biến thực hư ra sao thì chẳng một ai chắc chắn cả.

Mấy tháng gần đây bộ chỉ huy đã ban hành sắc lệnh giới nghiêm ở mật độ tầm trung, bên sở quốc phòng Đà-Lạt nhận lệnh từ cấp trên đưa xuống liền ra quân tuần hành khắp các phố lớn ngõ nhỏ trong thành phố. Các lối đi rời khỏi thành phố cũng đã bị đóng đầy chốt chặn của cảnh quân, lúc này Đà-Lạt đã thật sự nội bất xuất, ngoại bất nhập. Sở dĩ lệnh giới nghiêm thi hành chặt chẽ như vậy đều là có nguyên do, nghe nói rằng bộ chỉ huy nhận được tin mật từ trung ương ban hành xuống, một số lượng lớn những tên gián điệp được đưa vào phía Nam và dàn trải đều khắp các tỉnh. Trung ương ra lệnh cho bộ chỉ huy thành phố phải rà soát kỹ càng và bắt được hết những tên Việt gian nằm vùng trong khu vực.

Trong những ngày kinh khủng này toàn bộ người dân thành phố ai ai trong lòng cũng phập phồng lo sợ, chỉ sợ nhỡ như tình hình chiến sự quá ác liệt rồi dần dần lan rộng ra tới thì coi như cả Đà-Lạt sẽ trở thành một cái lòng chảo lãnh trọn hết bom đạn. Lệnh giới nghiêm ban đầu chỉ là vào buổi tối cho tới khi rạng sáng hôm sau, dần dà an ninh càng được siết chặt hơn nữa và đã giới nghiêm luôn vào những khung giờ nhất định.

Thời gian này Đà-Lạt phồn hoa tráng lệ ngày nào gần như bị chìm hẳn vào quên lãng, bao trùm là một bầu không khí căng thẳng ngột ngạt vô cùng. Các văn phòng cơ quan của chính phủ thì đóng chặt cửa đồng thời đào thải rất nhiều nhân viên không đủ tin cậy và chỉ dùng người trong nội bộ. Khắp phố lớn hẻm nhỏ chẳng có lấy mấy cửa tiệm mở cửa buôn bán, một phần vì lệnh giới nghiêm, một phần vì hàng hoá không đủ để cung cấp, bởi vì có một lượng lớn nhu yếu phẩm đều được giao thương đến và đi giữa tuyến Đà-Lạt cùng Sài-Gòn, cả một vài tỉnh lân cận nữa. Hiện tại hàng hoá được thông chốt vào thành phố chỉ chưa đầy bốn chuyến một ngày, mỗi lượt chỉ có ba mươi xe tải, vả lại còn phải chia đều cho tất cả các loại mặt hàng, tính ra số nhu yếu phẩm so với lúc trước còn chưa bằng hai phần ba.

Bây giờ Đà-Lạt thật sự đã bước vào giai đoạn người dân phải cùng đồng lòng với chính phủ, may mắn rằng Đà-Lạt xưa nay đều có khả năng tự cung tự cấp và không hoàn toàn phụ thuộc vào phía nam, cho nên số lượng hàng hoá cũng đủ để cung cấp cho cả thành phố trong vòng hai năm nếu như lệnh giới nghiêm vẫn liên tục bị kéo dài.

Cửa tiệm, khách sạn, nhà hàng toàn bộ đều treo biển đóng cửa tạm nghỉ một thời gian. Công ty, xí nghiệp thì được phép hoạt động nhưng dưới sự giám sát thường xuyên của bộ quốc phòng. Ngoài đường phương tiện đi lại thưa thớt, chẳng có tới mấy người qua lại, ngay cả con đường Marché ở khu Hoà Bình được xem là đông đúc nhất của cả thành phố bây giờ cũng đồng cảnh vắng vẻ lạnh tanh.

Tôi vẫn còn nhớ rất rõ những ngày của mùa hè năm ấy. Thời tiết vô cùng khắc nghiệt, trời nóng như đổ lửa đến mức chỉ cần đứng dưới ánh nắng một vài phút thôi cả cơ thể đều sẽ cảm thấy bỏng rát. Tôi thầm cảm thán, vốn dĩ thành phố quanh năm nếu như không phải vào mùa lạnh thì đều ở trong thời tiết mát mẻ, chẳng hiểu nổi tại sao năm nay lại đột nhiên trở nên oi bức như thế này nữa.

Vào buổi chiều sau khi tan việc ở nông trại, tôi có một chút thời gian thư thả để nghỉ ngơi. Mặc dù thời gian này tình hình xã hội khá hỗn loạn và giờ giới nghiêm đôi lúc luôn tới một cách đột ngột nhưng tôi vẫn lựa chọn sẽ đi dạo vài vòng bờ hồ, bởi vì những lúc thế này tôi chẳng muốn về nhà chút nào cả, dường như lâu dần tôi đã hình thành thói quen dạo bộ sau giờ làm việc này từ khi nào không hay.

Trên chiếc xe đạp cũ kỹ lượn qua vài con phố nhỏ rồi cua xuống đại lộ, quãng đường cũng phải tầm hai cây số là ít, vậy mà lại chẳng có lấy mấy người đi qua. Đổi lại những ngày trước vào giờ tan tầm thế này thì chắc cả chục chiếc xe lao vụt qua và bỏ lại tôi ở phía sau cùng với làn khói đục ngầu rồi. Tiến thẳng về phía hồ Grand Lac càng gần, tôi cũng dần giảm lại tốc độ của mình, thả chậm nhịp đạp chân đi sát bên bờ. Hai chân vẫn đều đều những vòng quay, tôi lại vô tình nhìn về phía mặt hồ, thả hồn theo những đám mây trắng bồng bềnh trôi, bất giác lại nghĩ về cuộc sống trong mấy năm qua của bản thân.

Cuộc sống của tôi những năm này cũng có thể xem như khá tốt, không phải thuộc diện giàu có gì khi cái tiệm hoa nhỏ kia của tôi chỉ kiếm đủ số tiền để qua một ngày, nhưng có thể xem như đầy đủ màu sắc của thế gian này rồi. Mỗi một ngày trôi qua với cửa tiệm của tôi đều là những khách hàng, những câu chuyện, và những tình huống hoàn toàn khác biệt, không hề diễn ra những hoạt động lặp đi lặp lại một cách rập khuông nhạt nhẽo.

Trải qua một khoảng thời gian đủ dài để tôi có dư dả vài đồng trong túi của mình, rồi hai năm trở lại đây việc kinh doanh không được suông sẻ như vậy nữa. Chiến tranh nổ ra liên miên, sự lũng đoạn kinh tế làm ảnh hưởng đến tất cả mọi thứ và trong đó bao gồm luôn cả cửa tiệm của tôi. Xã hội "chết" một thời gian dài, nhu yếu phẩm bị sụt giảm và tình trạng thất nghiệp kéo dài khiến cho người dân thành phố đều trở nên khó khăn hơn, vậy thử hỏi xem có ai còn muốn mua những thứ xa xỉ như hoa nữa cơ chứ!

Cuối cùng tôi cũng phải dằng lòng tạm thời đóng cửa tiệm hoa cho đến khi tình hình thành phố có chuyển biến ổn định lại. Thật sự rất không nỡ làm như vậy nhưng nếu cứ để theo đà này thì sớm muộn thôi việc phải đóng cửa vĩnh viễn sẽ diễn ra với tôi, và tôi thì chẳng hi vọng điều đó xảy ra chút nào. Công việc phụ của tôi cũng không được tốt hơn là mấy, hiện tại làm thợ đóng giày đã trở thành một việc thuộc nhóm bị gạt bỏ sang một bên, tình hình chiến tranh như thế chẳng còn ai muốn đổ tiền vào những đôi giày đắt đỏ phù phiếm như vậy nữa.

Và với lý do như thế tôi lại có ngày nghỉ như hôm nay đây. Chiếc xe đạp và tôi đều đều lướt qua những con ngõ nhỏ, chưa từng dừng lại. Tôi thả hồn theo những áng mây xám trên bầu trời trong trẻo, dường như chẳng còn nhớ thời gian đã trôi qua mấy tiếng. Không hiểu tại sao hôm nay tôi lại có tâm trạng thế này, tôi xem như cũng đã ở đất Đà-Lạt này gần mười năm rồi, không hẳn là tất cả nhưng cũng nằm lòng hết những tuyến đường chính khu trung tâm tôi đã đi qua. Những vùng ngoại ô có rất nhiều căn biệt thự với khuông viên vô cùng rộng lớn và kiến trúc kiểu Pháp lộng lẫy, khu vực đặc biệt chỉ dành cho tầng lớp thượng-trung lưu hay những quý tộc quan chức người Pháp, một tấc đất ở ngoại ô được ví như cả một tấc vàng.

Nơi đó tôi chưa từng đi tới, và cũng chưa bao giờ muốn tới, bởi vì khu vực đó đối với tôi luôn quá hào nhoáng và danh lợi, mỗi mét vuông đều ám lên mùi của tiền tài của cải. Một nơi sẽ chẳng bao giờ có thể phù hợp và khiến cho tôi thích thú về nó. Bởi vì thế giới trông tâm hồn của tôi là bầu trời xanh trong vắt vào những ngày mùa xuân, là những áng mây trắng bồng bềnh mà tôi không bao giờ với được, là mấy quyển sách ghi đầy lời thơ cùng câu truyện tiểu thuyết lãng mạn, là tiệm hoa nhỏ bé ấm áp với mỗi người khách quen thuộc, đó mới chính là vùng đất của tâm hồn tôi, nơi tôi luôn thuộc về.

Mặc cho dòng suy tư dẫn lối tâm trí, trên chiếc xe đạp tôi chẳng nhận ra rằng bản thân đã vô thức chạy ra khỏi trung tâm thành phố và đang ở khu vực giao với ngoại ô. Khi đã thoát khỏi dòng suy nghĩ tôi mới chợt giật mình, thì ra tôi đã chạy quá lố rời khỏi khu trung tâm rồi. Tôi tặc lưỡi kéo thắng xe nghĩ sẽ dừng lại và quay đầu trở về trung tâm nhưng rồi lại định bụng tiếp tục đạp xe về phía trước, dù gì cũng đã ra tới đây rồi thì hãy đảo vài vòng hẳn về cũng chẳng sao. Không phải vì tôi sợ hay ám ảnh gì nơi này cả, vì bình thường lâu lâu tôi cũng chạy xe ra khu ngoại ô này để hóng gió và đi dạo, và lý do chỉ đơn giản vì nơi đây cho tôi một cảm giác sự phân tầng giữa giai cấp giàu nghèo khá là rõ rệt.

Ngược lại, mặc dù chẳng mấy thiện cảm với những thành phần của phía Bắc Kỳ cùng bọn quan chức bên Đông Dương lưu trú đầy rẫy ở ngoại ô này, nhưng tôi lại vô cùng ngưỡng mộ và có niềm yêu thích đối với những ngôi biệt thự đẹp đẽ của những người thượng lưu ở đây.

Tất cả đều có cùng một lối kiến trúc của Pháp nhưng lại hoàn toàn khác xa nhau, chẳng cái nào giống cái nào. Mỗi một căn biệt thự ngoại trừ bề mặt kiểu Pháp thì còn lại đều có nét riêng của nó, có khi là tường trắng ngói đỏ, hoặc là lát đá cẩm thạch xanh, hay cổng vòm vàng óng với đường ô-tô trải dài, có thể nói là độc nhất vô nhị.

Qua một hồi lâu, chạy dọc theo sườn dốc của con đường nhỏ, và rồi đã vòng trở về lại khu trung tâm. Lúc này cũng đã vào chiều, tôi vẫn thoăn thoắt đôi chân trên bàn đạp, bon bon hướng về phía khu Hoà Bình. Phía xa xa trước mắt tôi đã thấy nhà thờ Vincent de Paul, khoảng cách của tôi cũng chẳng còn bao xa. Tôi ngước nhìn theo cây thánh giá trên mái nhà thờ một cách chăm chú, tôi cảm giác giống như bản thân đang bị thôi miên bởi cây thánh giá đó, trong lòng tôi chợt muốn ghé vào nơi này.

Thả chậm tốc độ, tôi dừng lại trước cửa chính nhà thờ, xuống và dựng chiếc xe bên cạnh, mặc dù nhà thờ luôn mở rộng cánh cửa chào đón tất cả mọi người, nhưng riêng tôi lại chẳng phải người công giáo, tùy tiện đi vào thánh đường thì có vẻ là không được hay lắm.

Tôi vừa đến chưa được năm phút thì đã nghe thấy tiếng bing bong rất lớn vang lên từ phía trên tháp chuông. Tôi hơi giật mình đưa tay che hai tai lại, nhíu mày. Không phải tôi ghét bỏ tiếng chuông đó đâu, chỉ là âm thanh dội tới quá đột xuất khiến cho tai của tôi hơi nhói mà thôi. Vài phút sau tiếng chuông đã dứt, tôi bình tĩnh lại và nhìn vào chiếc đồng hồ đeo tay cũ, vừa đúng năm giờ ba mươi phút, vậy là nhà thờ đã đánh chuông báo giờ rồi. Tôi ngắm nghía bầu trời trên cao, màu sắc dần tối hẳn, ánh hoàng hôn cũng đã rọi xuống khoảng sân đất đỏ trước nhà thờ, và có lẽ các cha đang chuẩn bị cho buổi lễ tối cũng nên.

Tôi thơ thẩn ở khuông viên nhà thờ gần một tiếng rồi, chắc là đã đến lúc trở về nhà. Định bụng rằng phải đi về, nhưng chẳng hiểu vì sao tôi lại cứ chần chừ nhìn về phía nhà thờ một lần nữa, tôi có cảm giác như lúc này mình đang muốn đợi một điều gì đó, hoặc là... một người nào đó...

Bỗng, trái tim tôi có phần run nhẹ thoáng qua, dường như tôi đã nhìn thấy bóng hình mà mình vẫn hằng nghĩ đến. Tôi đứng lặng thinh dõi về dáng người đứng bên trong thánh đường và đang chấp tay cầu nguyện. Hành động sau đó của tôi hệt như một kẻ vô thức bị điều khiển, tôi dắt xe đạp chầm chậm tiến lại phía cửa nhà thờ, gần hơn, gần hơn nữa, và rồi dáng hình quen thuộc đã ở ngay trước mắt và khoảng cách giữa chúng tôi chỉ là mười bước chân.

Tôi chẳng hề cất tiếng gọi, chỉ lặng im một nơi dõi theo bóng lưng của cô ấy. Tôi cũng chẳng biết rằng mình đã giữ nguyên trạng thái này bao lâu nữa, tôi chỉ biết cô ấy cầu nguyện bao lâu thì tôi đứng nhìn cô ấy bấy lâu. Tôi không muốn cất giọng lên và rồi phá tan bầu không khí bình dị này, thật lòng ngay lúc này tôi chẳng mong cô ấy quay người lại, bởi vì tôi chỉ muốn ngắm nhìn bóng lưng nhỏ bé đó.

Khi trông vào dáng lưng của cô ấy, trong lòng tôi có chút buồn man mác, nhìn theo người, tôi cảm nhận được dường như cô ấy đang đầy tâm trạng và sự buồn bã bủa vây khắp người của cô. Từ đầu đến cuối cô ấy đều chấp tay nhắm mắt cầu nguyện, thành tâm và kiên định, phải chăng con trai của cô ấy có chuyện gì, hay là người chồng cao quý kia.

Tôi tự chìm vào suy tư của bản thân mà chẳng hề nhận ra rằng cô ấy đã kết thúc việc cầu nguyện và đang trở ra ngoài, đến khi tôi sực tỉnh thì cô ấy đã  ở ngay trước mặt tôi rồi. Tôi có phần bối rối xoa xoa trán vì sự ngẩn ngơ của mình khi nãy thì ngược lại cô ấy lại khẽ cười vì sự lúng túng của tôi, lúc này tôi chỉ có thể ngượng ngùng cười theo.

"Gặp lại được em rồi".

Cô ấy nhìn tôi với ánh mắt đầy dịu dàng và hình như còn có chút mong mỏi.

Tôi ngại ngùng đáp câu nói của cô ấy, "Vâng, chúng ta lại gặp nhau thưa ngài Hoàng".

Đã rất lâu rồi tôi mới lại được nhìn thấy cô ấy, cô ấy vẫn như vậy, chưa từng thay đổi qua. Vẫn dáng người mảnh mai đó, vẫn gương mặt diễm lệ đó, những thứ đã ghi tạc trong tim tôi chẳng hề khác đi dù chỉ là một chút, có chăng là trông cô ấy có nét gì đó u buồn hơn thôi. Tôi âm thầm nhìn cô ấy, mặc trên người áo ngũ thân màu lam cùng quần lụa trắng, tóc được chải gọn gàng và quấn khăn lươn vàng, trên cổ là sợi dây chuyền mặt thánh giá bằng bạc óng ánh. Cô ấy ngay lúc này làm trong lòng tôi có một cảm giác lạ vô cùng khó tả, có thể gọi thoáng qua là sự say đắm. Không phải những say đắm đầy phù phiếm hay khát khao dục vọng, mà chỉ vỏn vẹn là say đắm vì sự đẹp đẽ đến ngây ngất lòng và nét dịu dàng thanh thoát tự toát lên vẻ cao quý của cô ấy, chỉ là những điều đơn giản và bình dị nhưng khi xuất hiện cùng cô ấy lại khiến cho người khác phải xao xuyến.

Đôi mắt long lanh của cô ấy đong đầy hiền hòa, cô ấy tiến lại gần và rồi vương tay vén đi sợi tóc thừa trước trán của tôi ra sau mang tai.

"Em đã khác đi rất nhiều đấy...".

Bỗng nhiên tim của tôi đập mạnh một nhịp, hai bên má cũng ửng đỏ lên, cả người cứng đờ như tảng đá chẳng dám động đậy một chút nào. Giọng nói cũng trở nên lấp bấp ngắt quãng.

"Có lẽ tôi cũng chẳng nhận ra nữa, ngược lại ngài Hoàng vẫn vậy, chẳng có gì thay đổi cả".

"Ta đã gần ba mươi, có tuổi rồi". Cô ấy buông câu nói có chút như đùa giỡn nhưng một phần lại là sự thật. Tôi như bị giật điện mau chóng phản hồi lại.

"Nào có! Ngài hiện tại vẫn giống như trong kí ức của tôi vào mười năm trước, không hề sai lệch!".

Câu nói mang phần nghiêm túc của tôi dường như đã đánh vào trong suy nghĩ của cô ấy. Khi câu nói của tôi vừa dứt, tôi thấy biểu cảm của cô ấy chợt đơ vài giây nhưng rất nhanh đã biến mất, sau đó cô ấy chỉ cúi đầu mỉm cười.

Sau đó tôi và cô ấy vẫn y như những lần gặp xưa cũ, cùng nhau dạo bộ quanh nhà thờ, mặc kệ màu trời đã dần chuyển sắc. Cô ấy luôn hỏi thăm tôi về công việc kinh doanh và cuộc sống cá nhân của tôi, và tôi cũng hệt như lần đầu tiên thẳng thắng kể cho cô ấy nghe, tôi chưa từng có bí mật gì để phải che giấu cả. Có chứ! Một bí mật nhỏ mà tôi cất giữ cho riêng mình và không bao giờ muốn để cho cô ấy biết, rằng tôi đã... thầm nhớ nhung về cô ấy. Tôi biết bản thân mình chính là đang yêu thầm cô ấy, tôi không phủ nhận, nhưng cũng chẳng dám công khai tình cảm này dưới ánh sáng, bởi vì tôi biết tôi và cô ấy đều thuộc hai tầng lớp khác nhau, kể cả về thân phận hay là về khoảng cách.

Đi một vòng lớn, cuối cùng cũng về lại vạch đích ban đầu. Chúng tôi dừng lại trước cửa chính của nhà thờ, lúc này khắp nơi đều đã sáng đèn, trời cũng sập tối mất rồi.

Cô ấy đứng đối diện với tôi, nhìn vào mắt tôi, nhưng tôi lại cố lảng tránh đi ánh mắt đó, bởi vì tôi sợ nếu như nhìn vào đôi mắt của cô ấy tôi sẽ không thể kiềm chế mà bị hút vào trong đôi mắt sâu thẳm ấy. Có lẽ đến lúc phải chia tay rồi, và lần này không chỉ có hai năm để có thể gặp lại được cô ấy đâu.

Rồi chợt cô ấy như đang suy nghĩ chuyện gì đó, ánh mắt vẫn chưa từng rời khỏi tôi. Và mắt của cô ấy trong lại, cô ấy đưa ra một đề nghị cho tôi.

"Gần đây bên ngoài tình hình chiến tranh loạn lạc, người hầu trong dinh người thì chạy nạn, kẻ thì di dân chẳng còn lại mấy người. Việc kinh doanh của em cũng chẳng mấy ổn định, dinh của ta cũng đang thiếu người, vậy chi bằng em vào làm việc trong dinh của ta đi!".

Tôi chợt đơ người, lời đề nghị đập thẳng vào tôi như một điều vô cùng lớn lao. Tôi ngơ ngác nhìn cô ấy với giọng nói có phần khó tin.

"Làm việc... trong dinh sao?".

Cô ấy nhẹ gật đầu.

"Em có thể nhận việc chăm sóc vườn hoa giúp ta, và cả những việc vặt trong dinh. Như vậy sau này chúng ta có thể không cần phải tính thời gian bằng năm mới được gặp mặt nhau, và ta cũng biết phải tìm em ở đâu rồi. Xem như đây là một lời mời từ ta được không?".

Tôi vẫn còn đang phân vân giữa đề nghị của cô ấy và tiệm hoa của mình. Nếu như tôi nhận lời vào làm trong dinh thì bắt buộc tôi phải đóng cửa tiệm hoa, tạm biệt những vị khách quen thuộc suốt nhiều năm qua. Cho đến khi nghe được câu cuối của cô ấy, trong lòng tôi đã có quyết định của riêng mình. Tiệm hoa cùng tôi gắng bó suốt nhiều năm qua chứa đựng đầy kỉ niệm đẹp của tôi, và tôi đã cảm thấy đủ vì những kỉ niệm đó. Lúc mở ra cửa tiệm tôi nghĩ rằng đó sẽ là nơi để tôi tạm dừng chân nghỉ ngơi sau quãng thời gian nhiệt huyết của thanh xuân, bây giờ cũng đã đến lúc tôi phải để cho cửa tiệm của mình được nghỉ ngơi sau từng ấy thời gian bận rộn rồi. 

Bây giờ tôi muốn chọn nghe theo lời con tim mình mách bảo một lần. Một lần được đứng phía sau tình yêu của tôi, mặc dù tôi biết rằng sẽ mãi mãi không thể chạm vào cô ấy, nhưng tôi vẫn nguyện lòng chọn như vậy. Tôi chẳng biết từ đâu mà tôi lại có một sự lựa chọn đầy kiên định như thế, nhưng tôi nguyện ý cả cuộc đời này sẽ ở phía sau bảo vệ và trông chừng cho cô ấy.

Có thể sau này kể lại nhiều người sẽ chửi tôi là kẻ ngu dốt, khờ khạo, nhưng tôi biết nếu như hôm nay tôi từ chối cô ấy thì chính bản thân tôi của sau này sẽ phải tiếc nuối cùng hối hận mãi mãi. Cho nên tôi chấp nhận định mệnh của mình, và chúng tôi sẽ chẳng còn khoảng cách về thời gian nữa.

"Vâng! Em xin nhận thưa ngài Hoàng".




_ Hết _

Warnings: Tất cả những sự kiện, tên riêng, địa danh, bộ phận trong chương này chỉ có mục đích xây dựng nội dung liền mạch của bộ truyện. Không hề có ý đả kích, phỉ báng hay gây thù địch với bất kì cá nhân, tổ chức hay quốc gia thể chế nào cả. Xin hãy đọc kỹ trước khi viết những dòng phán xét cay nghiệt đối với tác giả, cảm ơn nhiều.

Ngày đăng: 27-5-2022

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro