Chapter: 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

“Im lặng đồng nghĩa với cái chết.” Đó là câu nói yêu thích của Rob khi tôi yêu cầu anh ta không công khai đồng tính (hay gạ gẫm) trước mặt khách hàng.

Đây là chuyện làm ăn chứ không phải diễn đàn chính trị, Rob à.

Em không thể chối bỏ việc là một người đồng tính khỏi phần còn lại của cuộc sống được, Adrien. Một người đồng tính nam làm bất cứ điều gì cũng ảnh hưởng đến chính trị. Tất cả những điều quan trọng như: Em sử dụng ngân hàng nào, mua sắm ở đâu hay ăn món gì. Ngay cả việc em nắm tay người yêu ở nơi công cộng nữa,... ồ, đúng rồi đấy,...

Đi chết đi, Rob.

Và anh cười. Nụ cười ranh mãnh đó thật chẳng giống vẻ ngoài tử tế của anh.

Ký ức về anh ta cứ hiện diện ở khắp mọi nơi. Những dòng ghi chú nguệch ngoạc tôi để lại cho anh. Cuốn tạp chí Sunday Times cuộn tròn với trò chơi đố chữ đã hoàn thành một nửa. Rồi còn cả một túi hạt dẻ cười rơi đầy trên quầy nữa.

Tôi khởi động chiếc máy thu âm đặt trong nhà kho, tiếng nhạc vang lên khắp nơi trong tiệm sách. Bản nhạc Violin Concerto của Brahm: thật ngọt ngào, u sầu và thật phi lý với cái ý nghĩ rằng Robert đã bị sát hại trong một con hẻm.

Thứ âm nhạc này thật yên bình và lạnh lẽo khiến tôi cảm thấy rùng mình. Nơi đây là một tòa nhà cũ kĩ, ban đầu từng là một khách sạn nhỏ có tên The Huntsman’s Lodge, được xây dựng vào những năm ba mươi. Tôi bước qua cánh cửa đó vào một ngày mùa xuân đầy sương mù, không lâu sau khi tôi được thừa hưởng những gì mà mẹ tôi gọi là “tiền của tôi.”

Tôi vẫn nhớ rõ tiếng bước chân vang vọng khi Mel cùng tôi lang thang qua những căn phòng trống cùng nhân viên bất động sản. Có lẽ chúng tôi đã ở trong hai tòa nhà khác nhau.

Mel nhìn những cái lỗ trên tường, rồi cả những vết nứt trên sàn gỗ nữa, chúng sẽ tốn cả núi tiền. Còn tôi tôi thì nhìn qua lớp giấy dán tường bong tróc, những chiếc đèn cũ kỹ nhấp nháy trên trần nhà dột nước, rồi cả cái cầu thang xập xệ trông cứ như là nơi cư ngụ của những hồn ma trong mấy bộ phim đen trắng tôi đã xem khi lúc còn nhỏ. Người đàn bà cùng mũ và găng, còn gã đàn ông thì kẹp điếu thuốc giữa miệng với một nụ cười tự mãn. Tôi tưởng tượng ra cảnh họ kiểm tra vali cùng túi Gladstones của mình trên chiếc bàn gỗ đặt ở tiền sảnh mà giờ là quầy tính tiền của tôi.

Khi nhân viên bất động sản tình cờ đề cập đến việc từng có một vụ giết người năm mươi năm về trước, tôi đã bị thuyết phục ngay, còn Mel thì phản đối.

“Hẳn là anh ta đã thấy hai chữ thằng khờ dán trên đầu em.”

“Có sao đâu? Em nghĩ nó khá thú vị đấy chứ…”

Ngay sau đó bọn tôi đã có một cuộc cãi vã ngắn, kết thúc chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi Mel mất bình tĩnh.

“Adrien, em mất trí rồi sao? Cứt chuột ở khắp mọi nơi.”

Đó là những ngày tươi đẹp trong quá khứ trước khi tôi biết được chi phí xây dựng lại một tòa nhà hai tầng là bao nhiêu, hay khái niệm về hệ thống ống nước hiện đại đã thay đổi như thế nào kể từ những năm ba mươi. Tôi đã có một bài học đắt giá cho mình, rằng cần phải cạnh tranh rất nhiều với mức giá rẻ của những tiệm sách lớn như Borders hay Barnes & Noble chứ không phải là Amazon. Trước đó, tôi cũng đã học được một bài học khác rằng, chẳng có gì gọi là Hạnh phúc mãi mãi về sau. Nhưng rồi tôi cũng học được. Tôi học cách lưu giữ những đầu sách cũ, để đầu tư vào những lựa chọn đa dạng, để phục vụ những câu lạc bộ sách và tiếp cận tới nhiều đối tượng khách hàng. Tôi đặt toàn bộ trái tim và linh hồn của mình vào việc kinh doanh. Mỗi khi tôi thiếu vốn, thì tôi bù đắp bằng không gian.

“Không gian” ở đây nghĩa là đặt những chiếc ghế bành bằng da cũ ở một vị trí chiến lược, “thắp sáng” lò sưởi giả vào những ngày mưa, và phục vụ cafe đá trong mùa hè. Để xây dựng không gian đó, Mel và tôi đã lùng sục khắp các cửa hàng tạp hóa địa phương, mang về nhà một chiếc máy hát cũ, một mớ bản thu âm, những chiếc mặt nạ kịch kabuki, và một tấm chắn lò sưởi hình con công. Chính không gian đó đã giúp chúng tôi được xuất hiện trên trang sự kiện của tạp chí Times, nhưng đổi lại thì nhiều việc hơn và tốn nhiều thời gian hơn, khiến tôi mắc kẹt với chuyện kinh doanh.

Đó là một sự yên tĩnh lạ thường cho một buổi sáng thứ hai. Hẳn là đã có vài thay đổi. Một khách hàng mới đã mua toàn bộ những cuốn tiểu thuyết trinh thám Brandstetter của tác giả Joseph Hansen. Quý bà Lupinski thì lại đem tới một đống những cuốn sách Harlequin Intoursues và cố gắng thuyết phục tôi rằng đây là những cuốn sách thể loại kỳ bí. Tôi phải giải quyết mớ công việc mà Rob vẫn chưa hoàn thành, thật là khổ sở, bực dọc với chiếc thùng sách bìa cứng chưa được mở mà tôi đã mua nó ở một gian hàng thanh lý tuần trước và còn cả chồng danh sách sản phẩm chưa được xử lý mà đáng lẽ Rob phải kiểm tra lại trên máy tính trong danh mục hàng tồn kho.

Tôi thu dọn đống đồ đạc vớ vẩn của anh. Tách cafe bên trên có in dòng chữ “Drink your coffee—people in Africa are sleeping.” Vài chiếc CD nhạc. Dao cạo cùng bàn chải đánh răng anh ta bỏ lại trong nhà vệ sinh để dùng cho những ngày say xỉn. Đa số những thứ đó tôi đóng gói gửi cho cha của anh, ông ấy hiện đang sống trong một viện dưỡng lão ở Huntington Beach.

Tôi không muốn tiếp tục nghĩ về chuyện này nữa, về cái khoảnh khắc cuối cùng của Rob đã diễn ra như thế nào. Tôi hối hả với việc sắp xếp lại mấy cuốn sách, điều chỉnh lại mấy cuốn nằm sai kệ và làm phiền khách hàng bằng những lời đề nghị giúp đỡ hoặc một tách cafe. Lâu dần, tôi cứ tự hỏi bản thân những câu hỏi vô nghĩa, nhưng chẳng thể nào tránh khỏi: Tại sao chứ? Tại sao lại là Robert? Tại sao anh bị giết? Bị cướp chăng? Hay đó là một gã phê thuốc? Cảnh sát đã nói không phải, họ nghĩ rằng hung thủ giết Robert là một người quen của anh. Tôi lại nghe thấy cái giọng mỉa mai của thám tử Riordan “những người quen biết trước tiên.” Điều đó có nghĩa là tôi cũng quen biết với kẻ đã giết Robert sao?” Tôi nhớ lại câu hỏi đầy lo lắng của Claude “Cậu có nhắc gì về tôi với họ không?” Đó có phải là phản ứng bình thường của một người vô tội không?

Thật khó để tưởng tượng ra việc đâm một người tới bốn mươi nhát. Tôi không tin những người mà tôi quen có khả năng làm việc đó. Sẽ dễ dàng hơn nếu tin rằng đó là một người lạ, một kẻ cướp. Sẽ dễ dàng hơn nếu tin rằng Rob là nạn nhân của tội phạm do thù ghét hoặc của hành vi bạo lực một cách ngẫu nhiên.

Đó là một ngày dài. Một vài người bạn gọi điện để hỏi về Rob, thường là gọi để chia buồn, bày tỏ sự sợ hãi, cảm thông, đưa ra những suy đoán.

Khoảng hai giờ chiều, sự im lặng bao trùm lên tôi. Tôi đóng cửa tiệm và lái xe đến chỗ Claude.

Người ta sẽ khó mà không cảm thấy ấn tượng với tiệm Café Noir. Bên ngoài được sơn màu hồng phấn, cổng hoa văn và cửa sổ màu đen. Bên trong thì đen tối tới mức phải thốt lên rằng không hiểu nơi đây trang trí cái quái gì nữa. Sàn nhà giống như một lớp băng đen trông có vẻ nguy hiểm, hoa văn trên mấy chậu cây hầu như chẳng thể nhìn rõ trong không gian u tối.

Claude reo lên ngay khi tôi vừa bước vào. Anh dẫn tôi đến một trong những bàn đặc biệt, hứa sẽ đem cho tôi thứ gì đó cũng đặc biệt và đầy bất ngờ. Tiệm cafe này thường đóng cửa vào mỗi thứ hai hàng tuần, nhưng Claude thì dường như chẳng bao giờ rời khỏi nơi đây.

Tôi cố gắng thư giãn. Ngả đầu ra sau và nhắm mắt lại. Tiếng hát của Édith Piaf cất lên trong không gian “Non, Je ne Regrette Rien.” (Không, tôi không hề hối tiếc). Với cô thì quá dễ rồi.

Một lúc sau thì Claude quay lại và đặt trước mặt tôi một đĩa linguine. Mùi hương của tỏi và húng quế tỏa ra thơm phức hòa quyện trong những sợi mì. Anh khui một chai vang, rót vào hai chiếc ly rồi ngồi xuống ngay đối diện tôi.

“Tôi đã bao giờ nói với cậu là trông cậu rất giống tài tử Monty Clift chưa nhỉ?” Anh hỏi tôi với một giọng trầm đầy quyến rũ.

“Trước hay sau tai nạn vậy?”

Claude gượng cười. Đẩy ly rượu của tôi về phía trước. “Vang đỏ. Tốt cho tim đấy.”

”Cảm ơn.” Tôi hít một hơi “Hương vị của thiên đường.”

“Cậu cần có ai đó chăm sóc, cưng à.” Claude không nở nụ cười. Đôi mắt nâu đượm buồn của anh nhìn tôi xiên lấy một con cua vỏ mềm đẫm sốt cà chua và thảo mộc.

Tôi cắn một miếng. “ Tôi sinh ra đã là một chàng độc thân rồi.”

“Tốt! Cậu chỉ cần tìm một anh chàng phù hợp với cậu thôi.”

Đây là một trong những chủ đề yêu thích của Claude. Thực tế thì, đó là một chủ đề yêu thích với rất nhiều bạn bè của tôi. Dù là đồng tính hay dị tính thì đều có những điểm chung.

“Anh đang mai mối đấy à?” Tôi chớp mắt.

“”Nghiêm túc nào.” Claude nhấn mạnh. “Đã bao lâu rồi kể từ khi Người-Cũ của cậu bỏ đi?” Cậu đã cô đơn quá lâu, tới mức coi chuyện đó là bình thường. Không đâu. Ai cũng cần có người bên cạnh,...”

“Đôi khi là vậy?” Tôi thản nhiên đáp, rồi cuộn một nhúm mì linguine lên chiếc nĩa.

Claude thở dài. Tựa cằm lên bàn tay cứng cáp của mình. Anh nhìn tôi ăn với sự hài lòng của một nghệ sĩ.

“Vậy, thực sự đã có chuyện gì xảy ra giữa anh và Rob vậy?” Tôi hỏi.

“Hỏi vậy là sao chứ? Cùng xem pháo hoa sau đó về nhà.”

“Thì?” Tôi nhấp một ngụm rượu vang.

“Thì đó là những gì xảy ra giữa tôi và Robert. Chỉ có vậy. Tôi không muốn lũ cớm làm phiền đến cuộc sống của tôi.”

“Chuyện gì đã xảy ra? Sáu tháng trước ấy? Tại sao cảnh sát lại phải quan tâm tới anh hơn những người khác chứ?”

Claude liếc nhìn tôi. “Tôi đã viết cho anh ta,... vài bức thư, vài bài thơ. Một vài trong số đó khá,... đen tối.”

“Không phải kiểu chơi chữ chứ?”

Claude vỗ đùa lên tay tôi. “Tôi chẳng mong gã đó hiểu được đâu.”

“Thế thì mấy lá thư và bài thơ của anh có gì đen tối chứ?”

“Là sự trào phúng.”

“Đặc sắc đấy. Anh nghĩ Robert vẫn còn giữ chúng sao?”

Claude cắn môi dưới của mình “Anh ta có thể là chàng trai đa cảm. Theo phán đoán kiểu Pháp.”

“Phán đoán kiểu Pháp là sao?” Tôi nhấm nháp ly rượu vang trong miệng mình, từ từ thưởng thức nó, và quan sát Claude “Robert đã gặp gỡ ai sau khi hai người chia tay?”

“Cậu biết mà.”

Tôi liếc nhìn anh. “Rob và tôi chưa bao giờ là một cặp tình nhân.”

Claude nhún vai. Một kiểu ngôn ngữ cử chỉ đặc trưng của dân châu u. Anh dường như cảm thấy không thuyết phục. Nếu Claude không tin tôi, điều đó có nghĩa là những người khác cũng nghi ngờ mối quan hệ giữa Rob và tôi? Và họ có lẽ đã chia sẻ mối nghi ngờ của mình với cảnh sát?

Trong lúc đang nhìn tôi cuộn một nhúm mì nữa lên, anh thì thầm thật nhanh “Cậu phải lấy lại mấy lá thư đó, Adrien.”

Cái nĩa đóng băng vài centimet trên miệng tôi “Sao cơ?”

“Cậu có chìa khóa chỗ anh ta ở mà.”

“Ôi, chàng ngớ ngẩn. Rob đã chết trong một con hẻm ngay phía sau khu căn hộ đó. Đó là hiện trường vụ án. Hoặc không thì, cũng đang bị cảnh sát canh chừng.”

“Nghe đây, cậu nhóc, cậu là bạn thân của anh ta. Đã từng. Cậu cũng từng là sếp của anh ta nữa. Cậu hoàn toàn có thể có lý do chính để ghé qua chỗ đó.”

“Không. Không. Không.”

“Tôi sẽ không nhờ vả nếu không,...”

“Nghe tôi này. KHÔNG.”

Claude im lặng, nhìn chằm tôi chằm chằm với vẻ trách móc.

Tôi đặt nĩa của mình xuống. “Đây là lý do anh mời tôi tới đây à?”

“Absolument pas! (Tuyệt đối không!) Đừng nghĩ vậy chứ!”

“Ừ, phải rồi.”

Anh cắn môi. Tôi thì lắc đầu. Hai lúm đồng tiền của anh lộ rõ.

***

Tôi mở khóa cửa hông để bước vào tiệm sách. Đẩy nó ra với một lực thật mạnh.

Mấy cuốn sách rơi khắp mọi nơi, trút xuống các lối đi, nằm rải rác trên sàn gỗ bóng loáng. Một vài chiếc kệ sách đổ sập xuống, chiếc máy hát bị đập vỡ thành từng mảnh. chồng đĩa than văng khắp nơi như những chiếc đĩa ném. Một chiếc đĩa còn cắm ở trên kệ. Một chiếc khác nằm ngay mũi giày tôi trông như nửa vầng trăng đen.Tôi cúi xuống nhặt nó lên. Ca sĩ Bing Crosby và nhóm nhạc The Andrew Sisters sẽ không bao giờ hát ca khúc “Life Is So Peculiar” được nữa.

Tim tôi bắt đầu đập mạnh bên trong mạch máu đang loạn nhịp ngay dưới lồng ngực tôi, điều thú vị là chuyện này khiến tôi tức giận hơn là sợ hãi. Tôi bị lấy mất mọi thứ trên quầy thanh toán, trừ cái máy bán hàng được gắn chặt vào chiếc bàn gỗ. Nó đã bị rút điện, ngăn kéo mở toang và trống rỗng. Một suy nghĩ rành mạch cuối cùng cũng xuất hiện, tôi vòng ra phía sau quầy tính tiền, tìm điện thoại và ấn số 9-1-1.

Cuộc gọi kết thúc, tôi đặt điện thoại trở lại quầy tính tiền, nhìn lại bãi chiến trường một lần nữa. Tôi thấy cần phải làm điều gì đó. Đó cũng là lúc tôi nhận ra rằng bất cứ kẻ nào đột nhập vào đây cũng có thể vẫn đang lẩn trốn trong cửa tiệm.

Tôi vớ lấy chiếc que cời lửa gần lò sưởi rồi lao thẳng đến văn phòng của mình.

Phía bên trong văn phòng, mấy chiếc ngăn kéo bàn của tôi đã bị mở ra, bên trong trống rỗng, khóa tủ hồ sơ đã bị phá hỏng, toàn bộ tài liệu bị bới ra. Mấy viên thuốc của tôi bị nghiền nát và rải đầy trên đống giấy tờ.Những chiếc thùng đựng sách, cùng mấy thùng đồ khác, giờ phủ kín trên sàn gỗ trông như những viên gạch quanh co với màu sắc thảm hại và rối rắm. Tôi trượt và trượt theo cách của tôi. Tôi dẹp chúng qua một bên và bước về phía trước.

Chiếc que cời giơ cao, tôi nín thở, thò đầu vào nhà tắm.

Tường gạch trắng, đồ sứ trắng, hộp khăn giấy trắng - chẳng thứ gì trong số đó là trắng thực sự cả. Cửa sổ mở toang, hướng ra con hẻm phía sau tòa nhà.

Tôi kéo mạnh cánh cửa về phía trước.

Chẳng có kẻ nào trốn trong khoảng trống giữa cánh cửa và bức tường.

Tôi quay trở lại văn phòng và đi lên tầng trên. Cảnh cửa dẫn lên căn hộ của tôi vẫn khóa. Có lẽ là không có đủ thời gian để phá khóa, nhưng bọn chúng cũng đã lên đây. Ngay trên đầu cầu thang có gắn một chiếc đầu lâu với nụ cười ma quái lấy từ nóc lò sưởi tầng dưới. Liên hệ hay đấy. Thành ngữ Memento Mori - Hãy nhớ rằng ngươi sẽ phải chết.

Tôi đi được nửa đường xuống cầu thang trước khi chân tôi tê cứng. Tôi vẫn ngồi đó, thở phào nhẹ nhõm khi thấy thám tử Chan và Riordan xuất hiện.

Riordan đứng xung quanh đống sách trông cứ như vị thần Atlas hay một gã đàn ông nào đó trong những câu chuyện thần thoại: Đôi chân dài bọc trong chiếc quần bò Levi’s, bờ vai lực lưỡng làm cộm lên những đường may trên chiếc vét tông vải tuýt. Trông anh ta có vẻ u ám, nhìn là biết đã sàng để từ chối đóng dấu lên tờ đơn xác nhận kỹ năng giữ nhà siêu tốt của tôi.

Chan bước lên cầu thang tới gần chỗ tôi.

“Cậu ổn chứ, cậu English?”

“Tôi ổn.”

“Cậu quay trở lại đây là một ý tưởng tồi đấy. Cậu nên chạy qua nhà hàng xóm và gọi trợ giúp.”

“Vâng, giờ tôi mới nhận ra.”

“Cậu có thể cho chúng tôi biết có những gì đã bị lấy mất không?”

“Tiền trong máy tính tiền” Tôi nhìn chằm chằm vào mấy chiếc kệ sách đổ ngổn ngang. Ánh sáng phản chiếu trên những mảnh kính văng ra từ chiếc gương vỡ vụn. Đó là điềm báo xui xẻo cho tên trộm hay là cho tôi? Tôi xoa tay lên trán ”Tôi không rõ nữa.”

Chan quan sát tôi mà chẳng nói tiếng nào rồi quay đi.

“Bọn chúng không đột nhập vào đây.” Riordan bước đến chỗ Chan ngay dưới chân cầu thang và họ bàn luận gì đó với nhau rất nhanh.

“Bọn chúng có lẽ đã sử dụng chìa khóa của Robert.” Tôi nói chắc nịch. Tôi nghĩ đến cái cửa sổ phòng tắm, nhưng nó quá nhỏ và hẹp, trừ khi tên trộm kia là một tên quỷ lùn hoặc một con khỉ.

Riordan liếc nhìn về phía sau. “Phải, có lẽ vậy.”

“Có lẽ vậy sao?”

Chan nói xen vào, luôn là cách nói tinh tế và nhẹ nhàng. “Sao cậu không xuống dưới này để chúng ta có thể nói chuyện nhỉ, cậu English? Hãy xem xem có những thứ gì bị mất và ai là người có thể làm việc đó.”

Riordan tiếp “Đưa tôi chìa khóa của cậu, Adrien. Tôi sẽ kiểm tra tầng trên. Để chắc chắn rằng không có ai trốn dưới giường của cậu.”

“Rob không có chìa khóa vào căn hộ của tôi.” Và tôi sẽ biết ngay nếu có kẻ phá cửa nhà tôi.”

“Chỉ là cẩn thận thôi, được chứ?”

Chan bóc vỏ chiếc kẹo cao su và đưa nó lên miệng.

Vài phút sau thì Riordan quay trả lại chỗ chúng tôi. Tôi thấy anh giao tiếp bằng mắt với Chan. Anh dựng chiếc ghế gỗ giả hiệu Chippendale lên, đẩy nó về phía trước. Tôi đã từ chối lời mời.

“Trông cậu không ổn lắm, cậu Adrien.”

“Phải, tôi đang có một ngày thật tồi tệ.”

Anh nhoẻn miệng cười “Nói tôi nghe xem nào.”

Tôi nói những gì có thể “Đêm qua thì bạn thân của tôi bị sát hại. Đến hôm nay thì cửa hàng của tôi bị trộm. Có lẽ anh đã quá quen với chuyện này. Nhưng tôi thì không.”

“”À thì,...” Anh chậm rãi “Hãy nói về chuyện đó. Về Rob ấy. Sáng nay cậu đã không kể cho chúng tôi tất cả mọi chuyện, đúng không?”

Có điều gì đó khác lạ trên gương mặt họ, trong cả giọng nói nữa, và cả cái cách Riordan gọi tôi là “Adrien” chứ không phải “cậu English.” Điều đó khiến tôi cảm thấy dựng tóc gáy.

“Tôi không hiểu ý của anh.”

Riordan nở nụ cười. Một hàm răng trắng hoàn hảo, cứ như một con cá mập đến gặp nha sĩ của mình thường xuyên. Chan nói ngay “Bọn tôi vừa ở nhà hàng Blue Parrot về, đang phỏng vấn nhân viên pha chế thì nhận được cuộc gọi của cậu từ radio. Bọn tôi nghĩ cần làm rõ vài điều với cậu. ”

“Rằng tại sao cậu lại nói dối.”

Đầu tôi quay ngoắt như một chú rối nhìn về phía Riordan. “”Nói dối sao?” Tôi gắt lên.

“Nhân viên pha chế ở nhà hàng Blue Parrot nói rằng cậu và nạn nh...” Chan chữa lại câu nói của mình. “Cậu và anh Hersey đã cãi nhau trong bữa tối của hai người, và anh Hersey bỏ đi và để cậu phải thanh toán.”

“Tôi,... đã mời Robert.”

“Tôi nghĩ đó không phải vấn đề, phải không, Adrien?” Riordan hỏi. Anh nhấc bản in cuốn sách China House lên, ưu tư với hình ảnh hai người đàn ông ôm nhau trên bìa sách, khịt mũi và ném nó lên một cái kệ sách trống. “Sao cậu không kể cho chúng tôi việc cậu đã cãi vã với Robert?”

“Nó không phải cãi vã. Chỉ là,... bất đồng ý kiến thôi.”

“Và tám tiếng sau đó, nhân viên thu gom rác tìm thấy những ý kiến bất đồng còn sót lại của Robert trong bãi rác. ”

Tôi bắt đầu nghĩ quá lên rằng tôi sẽ ngất xỉu ngay dưới chân họ.

Toàn thân tôi toát mồ hôi lạnh.

“Anh nghĩ tôi đã giết Rob?”

“Đó chỉ là suy đoán thôi.. Thế cậu có làm vậy không?”

“Không.”

“Cậu chắc chứ?”

“Tất nhiên, chắc chắn vậy!”

“Bình tĩnh, cậu English.” Thám tử Chan nói. “Đây chỉ là một câu hỏi thủ tục, cậu biết mà.”

“Thế cậu và Rob bất đồng ý kiến về chuyện gì?”

Tôi phải thận trọng với Riordan. Đôi mắt anh có màu nâu lục nhạt, tôi chợt nhận ra.

“Về chuyện công việc.” Tôi đáp “Tôi cảm thấy rằng Rob không hề nghiêm túc. Anh ta hay đi làm muộn và về quá sớm. Đôi lúc anh ta còn chẳng thèm có mặt nữa. Tôi giao việc cho anh ta thì anh ta không làm. Toàn mấy việc lặt vặt. Giờ tôi đang hối hận đây.”

“Hối hận về cái gì?” Chan thận trọng hỏi.

“Hối hận vì đã cãi nhau với anh ta. Hối hận vì cuộc nói chuyện cuối cùng của chúng tôi lại là cuộc cãi vã,...” Nước mắt lăn dài trên má tôi. Tôi lau nó đi thật nhanh, tôi biết rõ hai người họ sẽ nghĩ gì khi thấy một gã trai trưởng thành đang khóc lóc.

“Nhân viên pha chế nói là trước khi rời khỏi nhà hàng, Hersey đã hét lên “Nếu tôi là kẻ cắp thì cứ sa thải tôi đi.” Như vậy nghĩa là sao?”

Tôi quan sát họ. Chan vẫn nhóp nhép nhai kẹo cao su, chăm chú vào cuốn sổ tay của mình. Trông anh thật mệt mỏi, nhưng gương mặt phúng phính của anh trông thật tử tế. Còn Riordan thì trái lại,... Anh ta bao nhiêu tuổi nhỉ? Ba mươi? Hay bốn mươi? Anh ta trông giống kiểu người luôn mong chờ người khác mắc lỗi và hiếm khi phải thất vọng.

“Đó là do vài lần thiếu hụt tiền trong quỹ tiền lẻ.”

“Và cậu nghĩ là Hersey có thể đã lấy chúng?”

“Tôi chỉ muốn nghe câu trả lời của anh ta.”

“Anh có tin anh ta không?”

“Có, dĩ nhiên.”

Riordan cười, giọng cứng ngắc. “Sao phải nói dối về chuyện đó chứ?” Anh ta hỏi “Nếu cậu nói dối về những chi tiết nhỏ như vậy, thì làm sao chúng tôi tin được khi cậu nói những điều quan trọng hơn?”

“Anh ta là bạn tôi.”

Anh ta nhún một bên vai. “Có những kẻ giết bạn của họ. Rồi có những kẻ giết vợ họ, chồng họ, cả bố, mẹ, anh, chị của họ nữa. Thậm chí có những kẻ giết cả con của họ nữa. Cậu cũng không nằm ngoài khả năng.”

“Điều duy nhất tôi có thể làm là sa thải anh ta, và tôi đã không làm vậy. Sao tôi phải giết anh ta chứ? Chỉ vì chôm chỉa vài xu lẻ à? Hay vì đi làm muộn? Chúa ơi! Hai anh có phải thám tử thật không đấy?”

Chan nói với giọng nhẹ nhàng “Chắc rồi, cậu và anh Hersey đã là bạn từ rất lâu. Cậu là anh chàng tuyệt vời trong đám cưới của anh ta, và khi anh ta trở lại LA thì cậu cho anh ta một công việc và giúp anh ta tìm một nơi để sinh sống. Và lại còn trở thành tình nhân của anh ta, một lần nữa.”

“Bọn tôi chưa bao giờ là tình nhân.”

“Đó không phải những gì chúng tôi nghe được.” Riordan nói. “Tôi nghe nói rằng cậu và Rob từng là bạn tình của nhau trước đây, Hersey làm vậy để được chép kết quả bài thi Hóa học của cậu.”

Chuyện này xảy ra với tôi là vì tôi đã sai lầm khi viết nó vào cuốn sách của mình. Cảnh sát đã đi quá xa rồi. Riordan và Chan thật lịch sự và tinh tế. Nên khi cái thái độ khinh miệt đó bộc lộ ra, nó giống như một cú đấm thật đau lên mặt tôi vậy.

Tôi nói với giọng bình tĩnh và nhỏ nhẹ nhất có thể ”Đêm hôm qua, Robert đã rời đi trước tôi. Anh ta đi gặp ai đó. Nhân viên pha chế có xác nhận điều đó không?”

Chan ngừng nhai kẹo “Chắc rồi. Robert rời đi lúc 6:45 và cậu thì ở lại uống thêm hai ly Midori margarita. Cậu rời đi vào lúc 7:30. Mười lăm phút sau đó thì Robert quay lại đó tìm cậu.”

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#840