Chương 2: Abraham

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Việc thứ ba mà Harry cần phải làm, đó là mở cổng lại biệt thự của Nhà Blakewood. Đó là nơi nó xây dựng khi nó vẫn còn là William Blakewood, khi đó nó chỉ có ý định coi nơi này như một nhà kho chứa tài liệu khi cần thiết.

Nhà Blakewood là một trong những dòng họ phù thủy lâu đời, nên cha mẹ nó cũng có vô số những tòa biệt thự xa xỉ, mặc dù kiến trúc của chúng nếu đem đến thời bây giờ mà nói thì quá đỗi lạc hậu, vì dù sao thì người ta cũng chỉ mới xây dựng các tòa lâu đài bằng đá ở tại Anh vào đầu thế kỉ thứ X.

Mặc dù nói là một biệt thự, nhưng Harry nghĩ nó giống một cái tháp dựng bằng đá cẩm thạch hơn. Cái tháp có khối hình trụ, với đường lên tháp là một cái cầu thang đá hướng lên theo đường xoắn trôn ốc.

Ảnh: Tòa tháp William xây dựng làm kho chứa đồ

Sau khi William, kiếp đầu tiên của nó chết, nhà Blakewood không có một hậu duệ nào khác, nên Harry cũng không gặp phải vấn đề gây tranh cãi về quyền thừa kế của tòa tháp này.

Nói là như vậy, nhưng nó cũng không ngốc nghếch đến độ để tòa tháp sờ sờ ra đó để mà cho bất cứ kẻ nào muốn cũng có thể vào khoắng đồ của nó được.

Tòa tháp được những đời trước của Harry cẩn thận ếm nhiều tầng bùa bảo vệ và che dấu xung quanh, khiến cho không bất cứ một người nào, Muggle hay phù thủy, có thể nhìn thấy tòa tháp nếu Harry không cho phép. Đời đầu tiên của nó cũng đã đặt lên đó một loại niêm phong đặc biệt, mà chỉ chính nó có khả năng giải được và qua đó có thể ra vào nơi này.

Qua nhiều thế kỉ, tòa tháp đã trở thành nơi Harry thường xuyên lưu trữ tất cả những thứ thuộc về nó. Tất cả những thành quả nghiên cứu, vật dụng cá nhân, thậm chí cả giấy tờ chuyển nhượng đất đai (bao gồm cả tòa tháp) cho kiếp sau của nó cũng được lưu trữ tại đây. Nó phải làm mới lại số giấy tờ đó sau vài chục hoặc một trăm năm, và nói thực là cả một quá trình phiền phức, nhưng đó là điều không thể tránh khỏi khi nó đã sống một quãng thời gian dài khó có thể tưởng tượng được.

Harry Độn Thổ đến một khu đất trống, nhưng nó có thể nhận ra được vẻ quen thuộc của cảnh quan nơi đây đối với nó. Những cây nguyệt quế nó từng trồng và chăm sóc giờ trổ ra chùm hoa trắng muốt, mặc dù cỏ dại trong mảnh vườn của nó cũng đã tìm cách đâm xiên hết chỗ này tới chỗ kia, xung quanh một khoảng mà nhìn như là một bãi đất trống hoác. Nó sẽ phải cắt tỉa lại đám cỏ này mới được.

Harry rút đũa phép, quơ lên theo đường bắt chéo:

"Epideixi Quartus."

Và ngay lập tức, trước mặt nó, một tòa tháp bám đầy rêu phong với bức tường đá xám ngoét hiện lên ở chỗ mà trước đó còn là không khí. Thời gian đã khiến tòa tháp bạc màu, và trở nên ảm đạm thấy rõ. Harry bước tới cửa tòa tháp, chĩa đũa phép trước cánh cửa gỗ nặng nề và tập trung vào chữ nghĩa đang hình thành trong ý nghĩ của nó: Exireitai apo to pragma pou apekrypse

Trên cánh cửa gỗ bắt đầu xuất hiện những thứ như là dây thừng, trong veo, và sáng đỏ lên. Mấy sợi dây thừng đó cứ thi nhau xuất hiện, quấn quít ngoằn ngoèo như một đàn rắn, cho đến khi chúng phủ kín tòa lâu đài, rồi sau đó biến mất. Cánh cửa gỗ mở ra một cách tự nhiên như chào đón Harry trở về nhà.

Nó bước qua cánh cửa và xuống phía dưới tầng hầm của tòa tháp, nơi nó giữ hàng đống vàng Galleons mà nó tích cóp được qua nhiều năm. Phải thừa nhận, nếu so sánh với chỗ vàng này, thì kho tiền nhà Potter trở nên khá khiêm tốn và nhỏ bé. Đương nhiên, Harry đã phải ếm vô số bùa chống Độn Thổ, Đột Nhập và hàng tá phép khác để tránh không cho bất cứ kẻ nào khác, Muggle hay phù thủy, yêu tinh hoặc các động vật huyền bí vô tình phát hiện ra cái kho vàng của nó. Đó là biện pháp buộc phải làm, khi bạn không chọn gởi tiền vào ngân hàng Gringotts.

Harry không quá tin tưởng vào cái ngân hàng đó cho lắm, đặc biệt là sau cuộc nổi dậy của tụi yêu tinh năm 1612. Sau khi đã vốc vàng cho vào túi một lượng vừa phải, Harry lại niêm phong lại cửa hầm và bước lên trên những bậc cầu thang chênh vênh bằng đá. Nó thầm rủa khi một trong những bậc thang sút ra, và nó tí nữa bước hụt chân vô:

"Chết tiệt."

Harry vẩy nhẹ cây đũa phép, và mấy hòn đá lại bay lên gắn trên bậc như ban đầu. Thật dễ để quên mất tòa lâu đài này đã hơn một ngàn tuổi. Nó vẫn cảm giác những bức tường bằng đá kia thân quen như thể mới từ ngày hôm qua.

Harry quơ đũa phép, và lối đi lên tháp chợt được thắp sáng lên bởi những ngọn đuốc bập bùng treo trên tường của tòa tháp. Nó đi thẳng lên lầu trên cùng của tòa tháp, bỏ qua hai căn phòng giữa lưng chừng, căn phòng nào cũng được đóng kín mít, và không có dấu hiệu gì là được mở ra trong hàng trăm năm rồi.

Căn phòng trên cùng cũng là một căn phòng với cánh cửa gỗ nặng trịch, nhưng thường xuyên được mở ra hơn mấy căn phòng còn lại trong tháp, dựa trên đáp bụi thưa thớt bám trên bề mặt cửa. Harry đẩy cánh cửa kêu ken két, và nhìn vào bên trong. Đương nhiên cảnh bên trong không hề thay đổi so với lần cuối cùng nó nhìn vào, một cái bàn làm việc, một cái giường ngủ ở góc phòng, một khu thí nghiệm độc dược với hai cái kiềng ba chân và hai cái vạc được đẽo bằng đá cũ kĩ, hàng chục lọ nguyên liệu độc dược sắp hàng trên mấy cái giá trải dài xuống tận cuối phòng. Harry cũng không thể nhìn thấy màu tường đá, bởi đám sách dày cộm choán hết khắp các góc tường, gáy da đen hoặc da nâu, chỉ chừa một ô cửa sổ nhỏ xíu ở ngay chính giữa bàn làm việc của nó.

Ảnh: Phòng làm việc của William (Giờ là Harry)

Harry bước tới cái bàn mà nó đã làm việc trong hơn ba thế kỉ, hồi trước nó dùng một cái bàn bằng đá, nhưng nghĩ cứ xài bàn đá hoài cũng không ổn lắm, nên nó đã chuyển sang dùng một cái bàn bằng gỗ lim. Lớp sơn gỗ bàn đã trầy ra phần nào do ảnh hưởng của thời gian. Trên mặt bàn chỉ còn lại một vài vật dụng được đặt ngay ngắn: Một cái đèn dầu, một cây bút lông ngỗng và một bình mực đã khô cứng (Harry nghĩ có lẽ đã đến lúc nó nên thay bình mực mới rồi), và một đám giấy da được cuộn tròn để sát tường.

Harry kéo cái ngăn kéo bàn làm việc của nó ra, và lấy một cái đồng hồ quả quýt tinh xảo được chạm khắc khéo léo bằng vàng. Nó mỉm cười trước khi đút món quà của Nicolas Flamel gởi tặng nó vô túi, và rồi bước theo những bậc cầu thang xoắn ốc ra khỏi tháp. Với một cái vẫy đũa phép nhẹ nhàng, những sợi dây thừng lại quấn lấy ngọn tháp, và rồi nó biến mất giữa trảng trống, như thể không có một tòa tháp nào từ lúc ban đầu vậy.

Ảnh: Đồng hồ bỏ túi Nicolas tặng William

Vậy là cuối cùng nó cũng làm xong những công việc nó cần phải làm, Harry nghĩ khi nó ngồi diệt nốt đám cỏ dại mọc lô nhô bên cạnh mấy lùm hoa nguyệt quế. Giờ là lúc nó gặp lại đứa con trai của mình.

* * *

Năm 1944, một quý ông làm việc ở Sở Thần Sáng của Bộ Pháp Thuật, William Mendenhall kết hôn với bà Laura, một Lương Y gốc Muggle. Tình yêu của họ được khen ngợi là đẹp đẽ như một câu chuyện cổ tích với cái kết có hậu. Sau khi kết hôn một năm, họ nhận nuôi một cậu con trai từ Auschwitz, và William đặt tên cậu là Abraham.

Hiện giờ là bảy giờ sáng, và Harry đang đứng bồn chồn ở quán cà phê đối diện một tiệm đồ cổ trên phố Suffolk, Luân Đôn. Đường phố chỉ vừa trở nên đông đúc một chút xíu, và các quán xá cũng mới mở cửa chưa được bao lâu. Tiệm đồ này có hai mặt, một mặt chĩa ra mặt đường phố Suffolk là cửa hàng chuyên bán những món đồ cổ cho người dân Muggle ở Luân Đôn, còn một mặt thì được nối một cách ma thuật tới Hẻm Xéo, là cửa hàng chuyên bán và pha chế các loại độc dược Giọt Trăng.

Dòng chữ mạ vàng nhá lên dưới ánh sáng mặt trời 'Abe Đồ Cổ' không làm giảm đi được cái sự hồi hộp mà Harry đang cảm nhận. Nó ngồi mân mê cốc cà phê giấy, ánh mắt không rời khỏi cửa tiệm.

Ảnh: Tiệm đồ cổ của Abe - Abraham, con trai của Harry

Nó cần phải nói chuyện với Abraham trước khi thằng bé mở cửa, nếu không muốn bị cắt ngang bởi các khách hàng có thể ghé qua tiệm. Một người phụ nữ mặc chiếc áo khoác trắng hỏi nó, khiến Harry nhận ra rằng nó đã nhìn sang cửa tiệm được một lúc khá lâu rồi:

"Cháu có sao không, cháu bé? Cháu bị lạc à?"

Harry mỉm cười tử tế:

"Dạ không có gì ạ. Cháu cảm ơn bác."

Nó đứng dậy, kéo lại thẳng thớm cái áo khoác bò rộng thùng thình của thằng anh họ nó Dudley, và cố gắng để trông không quá nhếch nhác như một con chuột trong lốt da voi già. Nó có quá ít thời gian để thay quần áo cho tử tế, bởi cảnh sát London sẽ xem xét trường hợp một người được coi là mất tích nếu họ vắng mặt hai ngày, và Harry không thể nào chắc chắn rằng nhà Dursley sẽ không gọi điện thông báo cho cớm, kể cả khi họ có không ưa nó đi chăng nữa.

Harry bước đến trước cửa tiệm, dường như nó đã được thay đổi, thay một lớp kính mới từ lần cuối nó mở của hàng này cùng Abraham. Khi Harry đẩy cánh cửa vào, một tiếng chuông lanh lảnh vang lên, và nó nghe thấy một giọng nói từ tuốt bên kia của căn nhà:

"Xin chờ một chút, chờ một chút, tôi ra liền!"

Harry nhìn ngó quanh tiệm trong lúc chờ đợi. Một bức tượng phật bằng gỗ, rõ ràng là món đồ kỉ niệm từ Sân Bay Bangkok năm 1970 được đặt trên cái tủ búp-phê Harry mua cho ngôi nhà của nó ở London năm 1930, và một cái máy phát đĩa than cổ điển bên cạnh chúng. Harry tròn mắt nhìn cái máy phát đĩa.

Từ phía sau của ngôi nhà, một người đàn ông trung niên, tầm 50 tuổi, đi vòng qua quầy tính tiền và bước đến chỗ Harry. Ông ta mải đọc một mớ giấy tờ, vừa nói vội vã:

"Tôi rất xin lỗi, tôi đang dở thanh toán cho một quí ông khác và tôi..." Nhưng rồi ông nhìn thấy Harry và ông mỉm cười hỏi "Ồ, một cậu bé à? Cháu cần gì vậy, cháu bé?"

Harry vẫn nhìn vào cái máy hát, nó nói nhanh:

"Tại sao con lại bán cái máy hát này?"

Ông bán hàng tỏ ra bối rối:

"Cái gì cơ?"

Harry nói chậm rãi hơn, tay nó lướt qua khung vàng của cái máy phát đĩa:

"Cái máy phát đĩa than này. Cha mua cho con vào sinh nhật thứ mười của con mà? Ta tưởng con thích nó? Con đã nói là con muốn khoe nó với bạn con, Niel?"

Ông bán hàng đáp lại tự nhiên:

"À thì hiện giờ tôi cũng chẳng nghe nó nữa, vì vậy sẽ hợp lí hơn nếu đem bán nó đi trước khi nó hỏng hóc quá mức..."

Nhưng rồi ông dừng khựng lại, khi ông nhận ra điều gì đó. Ông mở tròn mắt, miệng ông mấp máy thì thào:

"Là cha sao?"

Chợt nhận ra mình đã nói lỡ lời, Harry húng hắng:

"Thực xin lỗi. Đáng ra tôi phải nói từ đầu." Và nó chuẩn bị bài diễn văn mà nó đã diễn đi diễn lại nhiều lần trước khi đến đây "Abraham, có thể con không tin, nhưng ta là cha của con, William Mendenhall. Mẹ của con là Laura, và con chó mà chúng ta từng nuôi..."

Nhưng nó đã bị choáng ngợp trước khi kết thúc được câu nói bởi một cái ôm thiệt chặt từ Abraham, người chủ tiệm, con trai của nó. Ông lắp bắp:

"Cả mẹ và con đều biết sự thật mà. Mừng trở về, Cha."

Harry ôm lại đứa con trai của mình. Nó ngạc nhiên là Abraham lại là người dễ xúc động đến vậy. Nó vỗ vỗ lên lưng thằng bé:

"Này Abe, con có thể cúi xuống một xíu được không, ta không với tới?"

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro