Chap 10 _ First night in London (1)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Người Anh yêu thích âm nhạc và tiệc tùng hàng đêm. Lỡ một đêm say, tôi đắm đuối trong ánh mắt em. Tự hỏi rằng, không biết em có đang giấu tâm sự gì trong màu đại dương thăm thẳm ấy?

....

Hoàng hôn đỏ rực cả một góc trời đằng tây. Phải chăng vị danh hoa tài hoa nào đã đưa nhành cọ của mình lên những tầng mây, khiến mấy gợn trắng mỏng tang như khói nhuốm một sắc cam thẫm trầm ấm? Nhưng nếu chỉ là bức họa đơn sắc thì người ta sẽ chẳng bao giờ ca tụng thiên nhiên tới thế. Vào khoảnh khắc giao thời giữa đêm và ngày, vạn vật chuyển mình dưới bóng nắng, trời phô một sắc hồng tím rồi tối dần khi ngả sang màu xanh than. Và ngôi trường cổ điển nằm giữa quận Greenwich của nước Anh, bóng tối phủ dần lên những mảng tường sơn trắng. Bosdarm hiếm khi mang vẻ trầm tĩnh như cái tuổi đời của nó, bãi cỏ trải dài luôn tìm thấy những nam sinh đang chơi bóng bầu dục hay vài cô cậu kính cận nào đó với chiếc laptop trên tay...

5 giờ hơn chiều, tiếng chuông vang lên như một thứ âm thanh cứu rỗi những cái xác khô kiệt linh hồn, ba tiết mỹ thuật hiện đại nhạt nhẽo ấy cuối cùng cũng kết thúc. Jack Ornell, vị thầy giáo trẻ măng như cừu non mới tập tễnh chân ướt chân ráo vào nghề, chưa kịp dặn dò được mấy lời cuối về việc ôn tập cho kì thi sắp tới thì đám sinh viên đã mất hút khỏi lớp học.

- Ôi trời...- Anh ta thở dài ngán ngẩm, rồi cũng liền thu dọn tài liệu ra về ngay sau đó. Công việc giảng dạy này chẳng phù hợp với anh chút nào, và người cậu của anh thì vẫn còn chần chừ về việc tìm người kế nhiệm chức hiệu trưởng. Nếu nói là một sâu khấu cho anh thể hiện tài năng thì không lâu nữa, đám sinh viên kia cũng rút hết cho mà xem. Đi ra tới cửa, Jack nghển cổ lại, nhắc một cô gái còn sót lại trong phòng.- Nhớ tắt điện đấy.

Micky Carl loay hoay sắp xếp lại hộp màu cùng những tập tranh giày cộp mà chủ yếu là các bức tĩnh vật bằng chì hoặc vài bức landscape còn dở dang. Xong xuôi đâu vào đấy, cô tắt tất cả các bóng điện và đóng cửa lại cẩn thận.

Bzzz...

Và trước cả khi cô định sắp xếp cho mình một kế hoạch tiếp theo sau đó thì chuông điện thoại đã rung lên và kéo theo nhiệm vụ mới từ câu lạc bộ Âm nhạc.

- Alo!?- Bất đắc dĩ, Micky ấn nút trả lời, mặc dù cô đang rất muốn được ngã mình xuống cái giường êm ái ngay lúc này.

- Micky, bây giờ em lên hội trường Artyles ngay nhé.- Là giọng của Patricia Dorval, chủ tịch của câu lạc bộ Âm nhạc, vốn là người gốc Mexico, sở hữu vẻ ngoài mạnh mẽ hơn bất kì cô nữ sinh nào và một tính cách bộc trực tới độ hiếm người con trai có thể gần gũi quá mức bạn bè.- Có nhiệm vụ đấy, lần này thì cực thú vị luôn nhé. Chị đoán là em sẽ cực thích cho mà xem.

- Chị làm em hào hứng đấy!- Micky như bị cuốn hút vào những lời lẽ bí hiểm của vị chủ tịch kia, cô đồng ý tắp lự rồi liền tắt máy, vội vã đi tới thang máy.

Cô vừa chạy vừa hấp tấp kêu lên khi cánh cửa thang máy sắp đóng lại. Thật may, đó là một chàng sinh viên lịch thiệp, anh liền giữ ngón trỏ trên nút mở, chờ cho cô nàng vội vã kia bước vào trong an toàn rồi mới thả tay.

- Cảm ơn anh!- Micky vừa nói vừa thở hụt hơi, thực ra cô có thể đợi đợt thang máy tiếp theo, nhưng là lúc này cô mới nghĩ ra.

- Không có gì!

....

London về đêm cũng tấp nập chẳng kém gì ban ngày. Dọc suốt những con phố, ánh điện đã chiếu rọi xuống mặt đường nhựa màu cam vàng quen thuộc. Hai hàng xe hơi nối đuôi nhau chạy thẳng tắp, các tuyến xe buýt phủ kín một làn đường riêng và thỉnh thoảng bắt gặp vài chiếc xe đạp đủ loại. Những quán bar, câu lạc bộ sàn nhảy hay nói cách khác là nơi dành cho tiệc tùng của nhạc sống ( hoặc những ca khúc hit được thịnh hành trên hầu hết các kênh âm nhạc, phát ở mọi hàng quán như một món ăn tinh thần miễn phí mà bạn sẽ luôn có cơ hội thưởng thức), đó chính là một phần trong cuộc sống của người London. Cuộc sống về đêm là khoảng thời gian mà bất kì ai cũng nên thưởng cho mình được giải trí với men rượu cay nồng bên bè bạn, hoặc quây quần cùng gia đình và xem những show truyền hình trực tiếp. Dĩ nhiên, với một số người khác thì đó lại là một ngoại lệ.

Cố tránh xa khỏi đám đông ồn ào cùng tiệc tùng, Aesop rảo bước, anh dẫn theo sau một người con trai có vẻ ngoài như là chưa cả tốt nghiệp đại học nhưng thực tế đánh bại cả thị giác, cậu vừa giật được công việc từ tay vị giám đốc khó tính Gloding một cách không thể nào ngoạn mục hơn. Joseph vừa đi vừa ngó đông ngó tây, chốc chốc cậu ta lại hỏi "cái này là gì?", "cái kia hoạt động ra sao?". Từ lâu và lâu lắm rồi, cậu chẳng có nhớ gì về những thứ ồn ào vốn có của cái thời mà cậu sống nữa. Guồng quay mà công việc mang tới cho cậu, mọi ưu tư thường trực đã cướp luôn cuộc sống riêng của chính cậu, rằng cậu chẳng còn nghĩ về điều gì khác ngoài anh trai, gia đình... Ấy vậy mà lúc này đây, trước mắt cậu là thứ ánh sáng rực rỡ tới choáng ngợp. Bóng đêm tận chân trời kia dường như cũng chẳng thể nuốt chửng lấy những con đường tít tắp mà cậu đang thấy. Và cả...

- "Âm nhạc" của thế kỉ này thật ồn ào.- Joseph cau mày phàn nàn khi cả hai đi qua mấy quán bar sát nhau liên tiếp, lúc này đang chìm trong sự hỗn loạn của hàng tá các ca khúc hit mới đây. Những loại âm thanh ầm ĩ đúng hơn là phát ra từ mọi phía, y như mấy tay nhạc công muốn nổi loạn cùng cái kèn trumpet của họ, thét thẳng vào tai người nghe mấy câu tỏ tình ngu ngốc, "tôi yêu em tới chết mất thôi".- Thật đau đầu.

- Ờ!- Aesop gật đầu. Bản thân anh sống cùng với điều này đã 2 năm nay mà cũng chẳng nuốt nổi cái thứ gọi là "ca khúc hit" đó, chứ đừng nói tới một người vừa mới... lặn lội từ năm 1830 tới đây.

....

Đó là một tiệm ăn nhỏ trên phố Holles, ngã rẽ bên trái giao với phố Oxford, nằm khuất ngay sau một tiệm sách cũ. Tiệm Grandmy thuộc quyền sở hữu của bà Norie Franklin, 52 tuổi_ một nữ đầu bếp tới từ tiểu bang Texas, vốn không được đông khách như những tiệm ăn có quy mô khác trên mặt phố. Với một diện tích khiêm tốn, cách bài trí của của tiệm ăn này mang phong cách "cũ kĩ" nhiều hơn là "cổ điển". Hãy thử nhìn bức tường kinh khủng ngay cánh trái, phần lớn lớp nước sơn đã bong tróc tung tóe... mà thì, chẳng ai có ý tưởng quét dọn hay xử lý mảng tường tàn tạ đó. Một điểm trừ quá lớn để Grandmy có thể thu hút khách hàng. Song, đây là nơi khiến Aesop bị mê mẩn bởi món bánh kẹp phô mai và bất kì khi nào anh chẳng muốn đụng tay vào đống xong nồi thì chỉ cần 2 bảng Anh để giải quyết bữa tối mà thôi. Hôm nay thì chắc gấp đôi rồi.

Anh và Joseph ngồi ở một chiếc bàn gần với quầy phục vụ. Ashamie, nữ nhân viên gần như là duy nhất tại nơi này, dường như đã thuộc làu làu sở thích của Aesop, nên mỗi lần gặp anh, cô đều chẳng cần tới sổ với bút làm gì.

- Như cũ chứ, Carl!?

- Ừ!- Anh gật đầu tắp lự, dĩ nhiên là vậy.

- Và cô gái này thì sao? Bạn gái anh à, Carl?- Ánh mắt bất ngờ của cô phục vụ hướng về phía Joseph, mà đúng hơn thì phải nói là một "thiếu nữ" trẻ trung và cuốn hút với mái tóc xoăn dài, màu tuyết, lại cột kiểu đuôi ngựa khiến "cô nàng" đó thêm phần điệu đà khó tả. Không riêng gì Ashamie, bất kì ai lần đầu trông thấy "cô này"... đều buột miệng khen.- Cô ấy xinh thật đấy.

Trong suốt 2 năm qua, và thậm chí đã từng có ý định tán tỉnh vị khách quen này, Ashamie luôn tự nhủ rằng với cái khí chất lạnh nhạt của Aesop, bản thân mình sẽ chẳng bao giờ có cửa, mà cũng chẳng ai có cửa. Vội vã nói ra chỉ khiến bản thân thêm mất mặt, cô nhủ vậy mà đơn phương anh, rồi dần dà khi có những mối quan hệ mới, cô quên anh. Aesop chưa bao giờ dẫn theo ai tới đây, nếu trừ một lần vô tình chạm mặt cô em họ cùng mấy người bạn của em ấy đã khiến anh chàng ngay lập tức trưng ra vẻ mặt khó chịu mà gói ghém đồ ăn mang về nhà... Ấy thế lại có hôm nay anh dẫn theo bạn, còn là một cô gái nữa chứ, đáng lạ quá đi chứ. Chúng ta rất khó để không đánh đồng mối quan hệ bạn bè khác giới đơn thuần với người yêu, phải không nào? Mà nhất là một kiểu người như Aesop Carl đây, vốn không ưa chốn ồn ã và những dịp bất ngờ gặp gỡ người thân... đúng là khiến người ta tò mò.

- Joseph, cậu ta là con trai đấy.

- Oh...- Màn giới thiệu kết thúc bằng một câu gọn lỏn. Cái gật đầu được tạo nên bởi sự thật bẽ bang đang phơi ngay trước mắt, Ashamie ngớ người ra mất một lúc rồi cũng lúng túng đáp.- Tôi chưa từng thấy anh dẫn bạn tới đấy...

- Ờ!- Aesop thở dài ngao ngán, thực ra cũng chẳng quan tâm tới lời vừa rồi của cô phục vụ. Một tay chống cằm, mắt nhìn lên gương mặt lúng túng của Joseph, anh giục.- Và còn cậu, chọn món xong chưa, con rùa bò này!?

- Ừm... tôi à, tôi ăn với anh được không?

Joseph gãi đầu, ánh mắt hoang mang nhìn đi nhìn lại cuốn menu. Một danh sách dài toàn những cái tên lạ hoắc "Burger gà","Buger bò"... và cậu thì chẳng biết mấy thứ đó ra sao, hay kể cả mùi vị... hay kể cả cách ăn chúng như người của thế kỉ 21. Một ngày còn chưa đi qua, làm quen với một thế giới xa lạ đâu thể trong tích tắc.

-...- Không để thời gian chậm chễ thêm nữa, Aesop quay về phía Ashamie, cô nhân viên vừa mới lấy lại tinh thần sau một cú sốc quá bất ngờ.- Cả hai phần giống nhau đi.

Vừa khi trở vào bếp, bà Norie, vị đầu bếp có tuổi và cũng là duy nhất của tiệm ăn này phá lên cười với cô nhân viên như vớ được một món hời béo bở. Bà mở tủ lạnh, lấy những thứ cần thiết rồi bày hết lên cái bàn làm bếp bằng đá.

- À há, thua cược rồi nhé, ta đã bảo là không phải người yêu rồi mà! 10 bảng Anh nào cô gái.

- Bác thật quá đáng! Tháng trước cháu đã phải ăn đồ hộp trừ bữa đấy...- Ashamie nhăn mũi, rốt cuộc thì vẫn là một quả thua đau, lại còn mất kha khá tiền nữa chứ.

....

Jack Ornell ngồi vắt chân trên chiếc ghế bành ưa thích của người cậu anh, ông James, hiệu trưởng trường đại học Nghệ thuật và Văn hóa Bosdarm, một thầy giáo từng phụ trách vị trí nhóm phó khoa Nghệ thuật Châu Âu 6 năm về trước. Anh rút một điếu Richmond ra khỏi bao, đưa lên miệng rồi châm thuốc. Rít một hơi dài rồi để cuộn khói trắng đục thoát ra từ mũi, anh kẹp điếu thuốc trên hai đầu ngón tay nhấc khỏi môi, mắt lơ đễnh nhìn lên cái bình gốm to tướng, màu trắng ngà với những họa tiết xanh lam hình rồng phượng uốn éo nằm bên cạnh tủ tài liệu. Nó là một món đồ giá trị mà cậu anh được tặng bởi một vị tiền bối khi còn theo dạy tại một trường nghệ thuật ở Trung Hoa. Anh chẳng nhớ nổi tên của cái lão khỉ gió ấy hay trong trí nhớ chỉ là một lão già giàu nứt đố đổ vách khi lần đầu được đón tiếp tới căn biệt thự có cổng sắt mạ vàng. Lúc đó anh mới chỉ 13 tuổi.

- Thứ gốm này cũng tốt thật.- Jack chép miệng, chẳng khen cũng chẳng chê.

- Vì ta luôn lau chùi nó cẩn thận.

Người cần xuất hiện cuối cùng cũng xuất hiện, ông James chậm chạp trở lại bàn làm việc, giọng đều đều nhưng không thiếu phần nghiêm khắc.

- Còn con, không có việc gì hay sao mà tự tiện xông vào phòng làm việc của ta? Có phải ta chưa nhắc con về việc hút thuốc ở trong trường là bị cấm hay không?

- Dạo này cậu có khỏe không? Việc xạ trị có kết quả tốt chứ?- Jack đưa điếu thuốc lên môi, rít thêm một hơi nữa rồi nhả ra một cuộn khói thật điệu nghệ.

Nếu là người ngoài nghe được sẽ cảm động trước một đứa cháu trai hiếu thảo tới thăm hỏi người cậu đau ốm, nhưng ông James là ai mà lại không đoán được những gì đang hiện rõ mồn một trong mắt Jack. Quá nhiều toan tính, quá nhiều tham vọng... nhiều tới mức ông luôn sợ rằng, cái ngày anh ngồi vào ghế của ông là cái ngày ngôi trường này không còn cái nền móng nó vốn có nữa. Bất chấp đau đớn từng ngày hành hạ nơi lồng ngực hay những cơn ho khan khiến chiếc khan mùi xoa của mình đẫm máu đỏ, ông vẫn tới trường, vẫn ngồi xuống ghế... vẫn từng ngày theo dõi đám học trò của mình.

- Hai câu hỏi liên tiếp của con chỉ càng chứng tỏ khả năng ứng xử kém cỏi của con thôi, Jack. Nếu con muốn ngồi lên cái ghế này thì hãy học cách trở thành một người thầy giáo xứng đáng thay vì chứng tỏ mong muốn của con không phù hợp với công việc hiện tại.- James chậm chạp tiến về phía bàn làm việc, ông không muốn nhìn người cháu của mình. Sự trưởng thành của anh đã đánh mất đam mê ngày nhỏ của anh, một họa sĩ sẽ chỉ là kẻ vẽ tranh bình thường nếu điều anh ta quan tâm nhất là những con số bất động trên đồng bảng Anh. Ông không muốn mang quá khứ ra để dạy dỗ đứa cháu mình nhưng ông đã làm thế, ông làm thế bởi vì ông nhung nhớ bóng hình đó quá nhiều, ông làm thế bởi vì ông mong muốn trước khi chết được trông thấy anh sống với thế giới màu sắc mà anh từng ao ước.- Ta từng nhớ con yêu những cây bút màu, mùi giấy mới... ta từng nhớ bức tranh đầu tiên con tặng ta khi con 6 tuổi...

- Bla... blaa... vâng vâng, cái thời 6 tuổi ngu ngốc. Thằng nhóc 6 tuổi nào chả mơ hão!? Những thứ quá xa tầm với trên trang giấy đó sao... khi chúng ta trưởng thành thì nó chẳng còn là cái gì hết! Cuộc sống ngoài kia đã vùi nát cái đống màu vẽ đó rồi, cậu hiểu không? Giấy ư? Tranh ư...? Làm gì có lí nghĩa nào trước đồng tiền?- Jack ngắt lời người cậu bệnh tật khốn khổ bằng một tràng dài lí lẽ rằng thực tại đã bẽ bàng ra sao.- Cậu đừng lúc nào cùng kể chuyện ngày xưa nữa. Bản thân chẳng còn sống được bao lâu nữa kìa... tốt nhất để cái sức đó tới ngày bãi nhiệm đi. Chào cậu.

Và anh cứ thế bỏ đi, bỏ lại trên gạt tàn điếu thuốc mới cháy hết một nửa. Cánh cửa gỗ đóng sầm lại như muốn hất văng những bức họa được lồng kính treo với độc một cây đinh trên tường. Những bức tranh của đứa trẻ lên 6 ngày đó, dù được cẩn thận lưu trữ lại, song thời gian đi qua cũng khiến nó ố vàng, y như anh, trưởng thành và chẳng còn là Jack của ngày xưa nữa. Ông James đưa đôi bàn tay run run nhấc cái khung ảnh nhỏ trên bàn, đó là bức chân dung Jack vẽ tặng ông khi anh 10 tuổi. Chắc cậu bé ngày đó đã sơ ý làm chờm nét mực dạ ra khỏi đường chì khi đang loay hoay vẽ cái mang tai bên trái. Một màu đen được tô dày lên để che dấu đi sự bất cẩn của mình, có lẽ cậu ta không biết rằng màu đen đó đang dần nuốt chửng lấy gương mặt đôn hậu của người đàn ông trong ảnh, giống hệt như... cái bản chất phũ phàng của xã hội ngày hôm nay đã làm niềm yêu hội họa của cậu bé ngày xưa biến mất.

Chợt một cơn đau tới tức ngực, James nhăn nhó rút chiếc khăn tay trong túi áo, cố kiềm lại một trận ho khan muốn đứt rời cuống họng. Hiểu rằng, đó chính là giới hạn của mình, như một sự biểu tình dữ dội trong cảm xúc đã thắt nghẹn lấy nhịp đập của quả tim... một vốc máu đỏ tươi thấm lên chiếc khăn trắng. Ông giấu vội nó đi, gục xuống bàn trong đau đớn và mệt mỏi...

Người nhận ra mình sắp chết, sẽ có sợ hãi, khổ đau, tiếc nuối, phẫn uất,... hay tất thảy mọi cảm xúc tiêu cực từ lâu không thể biểu lộ thì sẽ càng bùng phát mãnh liệt. Nhưng cũng có người tự gật đầu với mình rằng, cuộc sống tới đây là đủ rồi, mọi trải nghiệm và những cơ may hạnh phúc sẽ mãi là một giấc mơ cho tới khi họ nhắm mắt...

....

Tiếng tích tắc phát ra từ cái đồng hồ hình quả táo trên bức tường tróc sơn. Đã 6 giờ tối...

- Ngon quá đi!- Joseph tựa lưng vào ghế, hai mắt nhắm lại mà môi thì cong lên, tay xoa xoa bụng làm vẻ thỏa mãn, hệt một con mèo mướp lười biếng đang phơi nắng.- Nó gọi là gì vậy?

- Bánh kẹp phô mai...

Vẫn là món bánh anh ưa thích, vẫn mùi vị chưa bao giờ thay đổi, thế nhưng Aesop lại chẳng thấy ngon miệng chút nào. Joseph nhìn anh chằm chằm, bắt chước từng cách anh ăn, rồi một loáng cái đã thấy cậu ta chén sạch bách đồ ăn trên bàn, một đĩa khoai tây chiên sau 2 phút đã thấy vơi đi hơn nửa rồi. Còn giờ, cậu nhìn anh với một ánh mắt long lanh... không, mà đúng hơn là nhìn cái bánh trên tay anh như sắp ăn luôn cả nó lẫn anh.

- Bánh kẹp phô mai à, hừm...- Joseph cười híp mí, cậu phấn khích nói.- Từ giờ nó sẽ là món ưa thích của tôi, và thật tốt nếu có ai đó mua thêm cái nữa cho tôi...

- Thôi đi, Joseph... cậu đã ăn sạch mọi thứ trên bàn rồi đấy!- Aesop cau mày, kiểu dụ dỗ lòng người bằng lời lẽ không hiệu quả với anh chút nào. Đáng lẽ là như vậy...

Cứ như một sư van lơn tới mức đáng thương. Dưới đôi hàng mi đang chớp chớp đó là ánh mắt xanh biết nói, đầy cuốn hút. 

-... Đừng có làm cái trò như vậy!

- Hình như, tôi thấy anh vẫn còn đói đó, Carl. Và nếu anh ăn nữa thì cái dạ dày của tôi chẳng thể nào nhịn được đâu.

Ôi, đúng là khỉ thật! Đáng lẽ không nên để ánh mắt đó cuốn hút mình mới phải...

Và rốt cuộc, thêm 4 bảng Anh nữa được rút ra khỏi chiếc ví da.

....

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro