Chương 17-Part 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Trong này ẩm ướt và tối.
Hôi nữa, mùi gỗ ngâm nước lâu ngày ấy.
Giống như tôi đang đi thẳng vào dạ dày của một con trăn khổng lồ vậy.Nhầy nhụa và hỗn độn.Dưới chân tôi lổn nhổn toàn những khẩu đại bác hoen rỉ và những mảnh dây chão nát bươm, ngoài ra thì chỉ còn toàn vụn gỗ và mốc.Có lẽ đây là một con tàu chiến của cướp biển, bị hải quân của thành bang nào đó đánh đắm rồi trôi dạt về đây.
Tôi bước tiếp tới một cánh cửa nhỏ .Kẹt.Có lẽ chốt mở đã quá rỉ sét.Tôi nghiến răng đạp mạnh một cái, bản lề của cánh cửa kêu kèn kẹt rồi bung ra, cánh cửa đổ sầm xuống, hất tung đám bụi mốc trắng xóa lên không.Tôi bước vào, bên trong la liệt những súng trường và lưỡi lê nằm trên mặt sàn sũng nước.Tôi cũng tìm thấy một thùng thuốc súng nhưng đã thấm nước và vón cục hết cả .
Vô dụng.
Tôi chán nản bước ra ngoài, không quên nhặt theo một lưỡi lê vẫn còn khá tốt.
Tôi đi về phía khoang trên, lúc này đã nằm chúc xuống dưới do phần đuôi đã bị đứt rời và lật nghiêng.Tôi phải bám vào những thanh rầm đầy nấm mốc để đi xuống dưới.Đôi giày của tôi trượt rào rạo xuống sàn tàu xơ xác khi tôi cố nhảy vào một căn phòng nằm ngay sát lối rẽ.Đây có lẽ là kho lương, vì tôi thấy hàng đống những thùng bánh khô xếp lên nhau.Bụng tôi đói meo, lũ cướp chết tiệt thậm chí đã không để cho chúng tôi ăn xong bữa tối.Những chẳng còn gì còn có thể ăn được.Bánh đã mốc xanh hết, bột mì thì đổ tung tóe ra ngoài, và khi tôi mở thùng đựng thịt muối, tôi đã hối tiếc khi đã bước chân vào đấy,thịt đã thối đen và teo tóp hết cả lại, đồng thời bốc một thứ mùi kinh khủng đến mức làm tôi xây xẩm mặt mày.
Hơn lúc nào hết tôi muốn quay trở ra, nhưng không, tôi vẫn phải bám trụ lại cái xác tàu này, vì tôi không thể trở ra tay không được.
Giống như người ta đã lồng cả cái mê cung vào trong con tàu này vậy.
Nửa tiếng trôi qua và tôi vẫn đang lục lọi một cách vô vọng trong đống rác khổng lồ này.Đâu đâu cũng thấy những súng, kiếm và đại bác hoen rỉ nằm trơ ra trên nền gỗ, nhưng thứ tôi cần là băng và thuốc cầm máu thì không thấy đâu.Tôi cũng tìm thấy mìn và đá lửa nhưng cũng chưa biết dùng vào việc gì .
Chỉ còn một cánh cửa cuối cùng mà tôi chưa vào, và nó bị kẹt và cho dù tôi có cố đấm đạp hay cạy cục gì, cánh cửa bằng gỗ sồi viền sắt vẫn trơ một đống ra đó, thách thức sự kiên nhẫn của tôi.
Chán nản, tôi ngồi phịch xuống sàn nhà.Nhìn cây cung của Ashe,tôi nghĩ về cô ấy ,cô ấy đã ở bên cạnh chăm sóc cho tôi những khi cơ thể tôi dở chứng, nhưng giờ, khi Ashe cần tôi nhất, thì tôi lại chẳng thể làm được gì.Hơn lúc nào hết, tôi thấy mình thật vô dụng.
Nhưng đây không phải lúc để tỏ ra ủy mị.Mẹ tôi đã nói với tôi khi tôi bị đuổi khỏi đại học Humboldt và phải chân ướt chân ráo đến Nurnberg để tiếp tục học rằng cuộc sống của mỗi con người đều là một tạo vật huyền diệu của Thượng Đế, và ngài sẽ không nhẫn tâm tự tay phá vỡ nó, trái lại, luôn có một con đường thoát cho những kẻ khốn cùng đang tìm kiếm nó.Tôi không dám quên điều đó suốt từ khi học đại học ở Dusseldoft, cho đến khi trở lại Berlin và tới tận bây giờ.
Đừng bao giờ từ bỏ hi vọng.
Nhấc cây cung của Ashe lên,
Tôi xé một mảnh vải bọc súng rồi nhét vào một quả mìn nhỏ thay thế cho dây mồi ướt nhẹp của nó.Rồi, bằng viên đá lửa và lưỡi lê tìm được, tôi gạt một tia lửa nhỏ xíu và mảnh vải.Làm nó cháy lâu hơn tôi tưởng, nhưng rồi một đốm lửa leo lét xuất hiện và lớn dần. Tôi khẽ khàng đặt nó vào cạnh ổ khóa cánh cửa rồi trượt thật nhanh tới căn phòng của thuyền trưởng, lúc này đang nằm phía dưới cùng của con tàu do nửa dưới bị lật úp.
Một tiếng nổ lớn tới mức làm tôi giật mình.Tôi sợ rằng phần trên của con tàu-đã bị gãy rời ra và mắc chênh vênh vào lèn đá sẽ đổ ụp xuống.
Ống nhòm, nhật kí hải trình và vài thứ đồ linh tinh rơi lả tả xuống chân tôi.Gạt nhanh đám đồ mốc meo ấy ra khỏi chân, tôi nóng lòng chạy tới chỗ mìn nổ.
Một ánh sáng bàng bạc khẽ lóe lên níu bước chân tôi lại.
Tôi giơ cây cung về phía trước.
Trong ánh sáng tù mù, tôi nhìn thấy một khẩu súng.Tôi bước tới và nhặt lên.Súng còn tốt, không bị hơi ẩm và nấm mốc phá hỏng.Dám chắc đây là khẩu súng của thuyền trưởng, nếu như vậy có lẽ vẫn còn thuốc súng và đạn ở đâu đó.
Tôi chạy tới cái bàn to tổ chảng có chạm khắc những hình quái dị, gạt tung mấy cái ngăn kéo nặng trịch ra, những viên đạn bạc sáng lóa và một lọ thuốc súng còn tốt nguyên hiện ra trước mắt tôi khi tôi kéo ngăn kéo thứ ba.
"Jackpot", tôi reo lên
Thật là phấn khích.
Nhưng tôi cần chú ý vào công việc chính.
"Quay lại nào",tôi tự nói với bản thân.
Cánh cửa gỗ sồi đã bị phá tan tành, vụn gỗ bắn tung tóe lên tường và ra xung quanh hành lang.
Một mùi kinh hôi thối kinh khủng chặn bước tôi khi tôi toan bước chân vào.
Hít một hơi thật sâu và bước vào trong, tôi suýt té ngửa khi nhìn thấy một cái xác đã phân hủy nặng.Chạy vội ra ngoài, tôi bám chặt vào mảnh cửa nằm lăn lóc trên sàn và nôn hết tất cả những gì có trong bụng ra.
Tôi không muốn xé áo, nhưng tôi phải làm vậy nếu bước vào trong . Và cho dù có cả miếng vải dày cộp trước mũi, mùi thối rữa vẫn không thể chịu đựng nổi.
Có thể đây là một gã đầu bếp vì tôi thấy xác chết đang mặc một cái tạp dề đã ngả màu cháo lòng.Có thể đồ hèn này đã sợ rúm ró khi cuộc chiến nổ ra, trốn vào đây , khóa cửa lại và trốn vào một góc, nhưng rồi bằng cách nào đó cánh cửa bị kẹt và gã này chết vì đói và khát ở bên trong.Tôi đoán như vậy vì đã có vết đập phá ở bản lề cánh cửa và một cái chân ghế vỡ nát nằm lăn lóc dưới sàn.
Có lẽ gã này đã chết được khoảng nửa năm, vì cái xác đã khô queo và những đầu xương vàng khè bắt đầu lòi ra ngoài.
Thật may là trong này có thứ tôi cần.
Trong một ngăn tủ gỗ chứa một bao tải lá cỏ nến khô để cầm máu và có cả vải sạch.Tôi lục tiếp ngăn tủ thứ hai, tìm thấy được một lọ tinh dầu bưởi.
Tôi bước ra ngoài với một khẩu súng và đống thuốc lỉnh kỉnh trên tay, trên hông đeo một dây nhỏ treo thuốc súng và hộp đạn.
Tôi chạy vội ra chỗ Ashe, gỡ miếng vải trên trán mà tôi đắp vào để cầm máu.Nó ướt nhẹp những máu.
OK, đến phần hay rồi.
Tôi nhóm một đống lửa từ mảnh đá lửa và mài mảnh thân tàu còn khô.Ánh sáng chỉ leo lét lập lòe, nhưng thế là quá đủ với tôi rồi. Lau sạch máu trên trán Ashe bằng một mảnh gạc sạch.Tôi thấm một ít tinh dầu bưởi vào đó rồi khẽ chấm lên miệng vết thương.Tôi có nhớ mang máng là Kaoru có nói tinh dầu bưởi có thể sát trùng.Kể cũng lạ nhưng đành chịu, vì ở đây tôi chẳng còn gì ngoài nó.
Xong xuôi, tôi đặt một ít lá cỏ nến lên trán Ashe.Mất kha khá thời gian vì tôi cứ lóng nga lóng ngóng, nhưng rút cục tôi cũng xong và buộc một dải băng trắng xóa lên trán Ashe, sau khii đặt vào đó một miếng gạc.
Xong xuôi, tôi tới bên đống lửa ngồi bó gối đợi trời sáng.Người tôi bám đầy mốc và mùi thối rữa kinh khủng.Tôi thề
Chợt tôi nhớ ra khẩu súng nhặt được trong phòng thuyền trưởng, thứ mà giờ đang cộm lên trên vai tôi. Thánh thần ơi, thứ này đẹp tuyệt. Toàn thân khẩu súng được làm bằng gỗ sưa được quét lên bằng thứ dầu gì đó là cho nó bóng lóa.Dọc theo thân súng là những nét chạm tinh xảo bằng bạc.Tôi nheo mắt đưa gần khẩu súng hơn vào lửa.Dưới ánh lửa, những nét hoa văn như nhảy múa, xoắn xuýt,kết lại với nhau, rồi lại tách ra , rồi lại ôm lấy nhau và cuối cùng kết lại thành một hình vẽ giống như... một bông hồng.
Tôi chạm tay vào lớp chạm bạc.Hơi bạc lạnh buốt làm tôi rùng mình.Bất giác tôi có cảm giác khẩu sún cũng rung theo, lạ thật, khẩu súng này như... có sự sống vậy.
Điều gì đó thôi thúc tôi bắn thử một phát.
Ấn thuốc súng và đạn và ổ đạn, tôi xoay khẽ cái ổ xoay bằng bạc, cẩn thận không làm xước nó.Gió lạnh bỗng chốc thổi thốc vào hang làm tôi rùng mình.Khẩu súng này có gì đó làm tôi ớn lạnh khi cầm.
Tôi ngắm vào xác con tàu- một khối đen đặc khó chịu chắn trước mặt, nhưng nghĩ ngợi thế nào tôi lại hạ khẩu súng xuống và tháo đạn ra.
Đằng sau tôi, Ashe bắt đầu mê sảng về Avarosa, Freljord và mấy thứ linh khác.Tôi chạy tới phía cô ấy và giật mình.Người cô ấy nóng rực.Sốt.Chắc là do nhiễm trùng.
Chẳng còn thời gian để lãng phí nữa.
Trong đêm tối, tôi mò mẫm trên bong tàu, cố gắng tìm một con thuyền còn lành lặn.May cho tôi, vẫn còn một chiếc còn nguyên vẹn, chỉ bị cháy sém, trong khi các con thuyền nhỏ khác thì một là bị pháo bắn tan tành, hai làm làm tổ cho san hô.
Dây tời nhớt như bôi dầu và bốc mùi thum thủm ( hoặc là tôi bốc mùi,có thể lắm), còn bánh răng thì kẹt cứng không tài nào kéo nổi.Tôi đành phải rút lê chặt phăng cuộn dây nhờn nhầy đáng ghét.Con thuyền khẽ trượt xuống, rồi bỗng chốc rơi nhanh xuống dưới.
"Không, không phải như thế", tôi hét.
Con thuyền đập mạnh vào thành tàu nhô ra, rơi xuống mặt biển và lật úp.
"Khốn nạn ,chết tiệt, chết tiệt", tôi đá mạnh vào thành tàu.
Mất thêm một đống thời gian nữa mò mẫm trong bóng tối để lật ngửa con thuyền lên.Tôi khẫn trương đặt Ashe lên con thuyền, vơ vội mấy thứ đồ linh tinh còn sót lại.
Mặt biển tối như mực và im lặng đến rợn gáy.Nhiều lúc tôi cảm tưởng như mình đang chèo thuyền giữa thinh không vậy.Ý tôi là, nó im lặng tới mức làm cho tiếng nước róc rách lách qua mái chèo cũng trở nên ghê gớm và đáng sợ.
May cho tôi, trăng hôm nay sáng, đủ để cho tôi nhìn thấy đảo Đông- nơi đền thờ Nagakabouros tọa lạc, ít nhất tôi cũng có thể tìm sự trợ giúp ở đó.
Đó là chuyện lúc đó, còn bây giờ tôi sẽ để đầu óc mình trống rỗng.Tôi đã quá mệt mỏi.Từ khi đặt chân lên con tàu Expedition- giờ đã là một đóng gỗ vụn dưới đáy biển, tôi chưa có một lúc nào thự sự thanh thản.Đầu óc tôi luôn bị vần lên xuống với vô số những chuyện linh tinh khác nhau.
Có lẽ giờ sẽ là khoảng khắc nghỉ ngơi hiếm hoi với tôi.
Biển đêm có cái đẹp riêng của nó.Tin tôi đi ,không phải lúc nào người ta cũng có thể lướt đi trên đại dương vào đêm, trong cái không khí mát lạnh của biển cả, gạt từng mảnh trăng in trên lớp sóng nhè nhẹ.
Ánh nến sáng rực trong một toàn nhà lớn cổ kính ăn vào núi đá trên núi kéo tôi vào bờ.
Thuyền tôi lao mạnh lên bãi cát và suýt lật nghiêng.Tôi đeo khẩu súng lên người và bước ra ngoài, cõng Ashe trên vai, tôi khẩn trương dằn từng bước lên khu đền trên con đường ngập ngụa bùn.
Đường lên khó khăn hơn tôi nghĩ, cáng lên cao đường càng dốc và đôi giày vải tôi đã thấm đẫm bùn, nặng trịch và trơn tuột.
Nhưng so với những gì tôi đã trải qua, con đường đầy bùn này chẳng khac gì một trò chơi cho đám thiếu niên.
Tôi leo lên đến đỉnh ngay sau đó và bị chặn lại bởi một viên đạn găm xuống đất.
"Đứng lại đó", giọng nói hách dịch của Sarah Fortune lại vang lên.
"Là tôi đây, Jim"
"Jim ?"
"Tôi cần giúp", tôi hét to.
Cánh cửa nặng nề bằng gỗ thiết mộc kẽo kẹt mở ra và tôi chạy thật nhanh vào.Fortune đã đợi sẵn ở trong, cô ta gần như vồ lấy tôi khi đi vào.
"Có chuyện gì vậy, người anh xây xước hết rồi kìa ?", cô ta hỏi.
"Thổ phỉ", tôi đáp nhanh "nhanh, Ashe cần giúp đỡ hơn tôi"
"Cứu thương"Fortune lớn giọng. " Đặt cô ấy ra kia"
Tôi đặt Ashe xuống, thở dốc, con đường dốc đầy bùn đã đốt hết năng hượng của tôi.Một ngày tôi chưa ăn.
"Sarah... à Fortune", tôi chữa lại " Cô làm gì ở đây vậy"
"Đêm nay là là Đêm thống Khổ", cô ta đáp, mắt nhìn ra xa xăm.
"Đêm nay", tôi hỏi lại, ngờ vực.
"Nhìn lên đi", Fortune đáp lại, giọng nhẹ như gió thoảng, không giống cô ta thường ngày.
Tôi ngước lên nhìn, vầng trăng sáng tròn lẳn mới ban nãy vẫn sáng rực giờ đã bị che mất bởi thứ gì giống như mây đen vần vũ.
Tôi thì không nghĩ đó là mây đen.
Gió bắt đầu thổi mạnh.
"Vào trong đi, ở ngoài này không an toàn đâu"
Tôi bước vào trong và cánh cửa nặng nề lại đóng sầm lại.
Ra đây là đền thờ Nagakabouros.
Toàn bộ phía bên trong của ngôi đền ăn sâu và lòng núi, nơi vẫn có thể thấy những vách đá nguyên sơ không đẽo gọt và những khối thạch nhũ nhấp nhô nhiều màu sắc.Những khung cửa sổ bằng kính màu-giống trong những nhà thờ của Thiên Chúa giáo gắn lên xung quanh vách tường được xây bằng đá cứng xám ngoét.
Băng thủy thủ của Fortune đang ở đây, mài sắc các thanh kiếm và lắp hỏa mai vào súng.Một vài gã mặc những bộ đồ quái dị phủ phục bên một pho tượng kì dị mà tôi đoán chắc là Nagakabouros.Cạnh đó có một bà già đứng dựa lưng vào cây cột đá, mắt nhắm-tôi không chắc có nên gọi là bà già hay không, vì thân hình của bà ta còn to gấp đôi tôi, những làn cơ bắp nổi lên cuonf cuộn trong ống tay áo chật căng.
"Ở ngôi đền này, những phép thuật hắc ám bảo vệ lũ tử linh sẽ không còn tác dụng nữa, chúng sẽ tan biến mãi mãi cho dù chỉ bị bắn bằng những viên đạn thông thường", Fortune nói.
"Bà ta là ai vậy",tôi chỉ vào người đàn bà lực lưỡng kia, phớt lờ câu nói của Sarah.
"Đó là Illaoi", cô ta đáp với giọng khó chịu.
"Mà cô vừa nói gì cơ, đạn thường á?"
"Đúng"
"Kể cả cái này?", tôi rút khẩu súng tìm được ra.
"Anh tìm thấy nó ở đây vậy", Sarah Fortune trợn mắt.
"Trong xác của một con tàu bị đắm dạt vào bờ, sao cơ ?"
"Đó là khẩu súng của Gangplank, hắn gọi nó là Hoa Hồng Đen", Fortune nói "Nó được chế tạo riêng cho hắn từ gỗ sưa và bạc thiêng từ Ionia, có thể bắn thủng bất cứ thứ gì, cho dù còn sống hay đã chết."
"Tuyệt, Hoa Hồng Đen, đẹp và chết người"
"Cứ giữ lấy nó, những hãy cẩn thận..."
Tiếng chuông vang lên "kinh kinh"- một thứ tiếng sắc lạnh và khó nghe.
"Chúng đến rồi", gã thủy thủ trên vọng gác rống lên cho đồng bọn ở phía dưới nghe thấy .
Chúng đến rồi.
Một lần nữa.


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro