Chương 111 - 120

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Địa lao không nằm trong doanh địa.

Trưởng công chúa mang thân binh phi ra ngoài hai ba mươi dặm, đi vào một bãi chăn ngựa giam giữ nô lệ do người của bà trông coi, chỉ có thân binh của bà mới có thể ra vào.

Bà căn dặn: "Trừ mấy người các ngươi thì không ai biết rõ việc này, quan Đoạn Sự cũng không biết, lát nữa gặp hắn, dù có phải là Thái tử Ngụy quốc hay không thì đều phải miệng kín như hũ nút, không được tiết lộ ra ngoài, nhất là không thể để cho mấy ả phu nhân kia nghe phong thanh."

Cuộc đời bà long đong, từng là Khả Đôn của Đột Quyết, sau rơi vào tay Vương thất Bắc Nhung gả cho quan Đoạn Sự, dù mấy năm qua rất được quan Đoạn Sự sủng ái, nhưng vì là người Hán, địa vị luôn không bằng mấy vợ khác của quan Đoạn Sự, mấy vị phu nhân ghen ghét bà vẫn luôn nhằm vào nắm lấy nhược điểm của bà.

Thân binh đáp: "Tiểu nhân nhớ kỹ."

Chuồng ngựa rất hoang vu, tuyết sâu đến phủ cả ủng dài, đám người xuống ngựa, đi hơn mười dặm đường, đến một căn phòng sâu một nửa dưới đất, dùng đất đá đắp dựng lên, đốt đuốc đi vào trong.

Trong địa lao đen tối, lạnh như hầm băng.

Lính gác phạm nhân mở địa lao, tiếng xiềng xích kéo kinh động người bên trong, trong góc hẻo lánh một người đàn ông dựa vào tường đất, nhướng mi mắt, lạnh lùng quét mắt một vòng qua mấy người ngoài lao thất.

Một tì nữ người Hồ ra hành lễ đón Trưởng công chúa, thấy người Hán sau lưng Trưởng công chúa có dáng vẻ như thân binh, người lén run rẩy.

Trưởng công chúa ra hiệu. Thân binh bước đến trước lao thất, cẩn thận phân biệt người kia.

Người kia quần áo rách nát, lộ ra vết thương ngoài da chồng chất, như từng chịu trọng hình, bẩn thỉu chật vật, vẫn không che đậy ngũ quan tuấn lãng sâu sắc, dù đang nằm, vẫn thấy thân hình cao lớn thon dài, lưng eo thẳng tắp, thân bị cầm tù vẫn khí thế bất phàm, thần thái trầm tĩnh, nhìn qua ung dung bễ nghễ.

Giữa mái tóc dài rối loạn, một đôi mắt phượng hẹp dài, sáng rực nội liễm.

Thân binh kích động nói: "Công chúa, tiểu nhân nhận ra hắn, lang quân Lý gia đều mắt phượng hẹp dài thế này, hắn chính là Thái tử Ngụy quốc!"

Trưởng công chúa mở to mắt, nhìn cô gái người Hồ.

Tì nữ người Hồ quỳ xuống nói: "Trưởng công chúa, nô cũng thấy hắn giống Thái tử Ngụy quốc, nhưng mấy ngày qua nô nói gì, hắn đều không để ý nô, nô không hỏi được gì."

Trước đó, chỉ có một mình cô gái xác nhận, Trưởng công chúa không thể xác định người đó có là Lý Huyền Trinh không, giờ thân binh cũng nói, bà lặng thinh một lúc, híp mắt.

"Thảo nào Vân Nương cứ mãi nhung nhớ ngươi..." Gã này dám bỏ ngôi vị Thái tử, không ngại xa vạn dặm tìm Chu Lục Vân, tấm chân tình này, thật hiếm có.

Trưởng công chúa trải qua khó khăn trắc trở, biết một tấm chân tình khó có đến chừng nào.

Lý Huyền Trinh không nói gì.

Trưởng công chúa ngẫm nghĩ một lát, quay người ra địa lao, dặn dò thân binh: "Thái tử Nguỵ Quốc đến là vì Vân Nương, các ngươi đừng cho nó biết, tránh nó sinh sự."

Thân binh thưa vâng, hỏi: "Công chúa, nên làm gì đây? Giết Thái tử ạ?"

Trưởng công chúa lắc đầu: "Lý Huyền Trinh không thể giết, hắn là con trai yêu thích nhất của Hoàng đế Ngụy quốc, giết hắn, Ngụy quốc sẽ không từ bỏ ý đồ. Thêm nữa, còn cả Vân Nương, nó là huyết mạch duy nhất của anh trai ta, Lý Huyền Trinh chịu vì nó không màng sống chết, vì Vân Nương, ta giữ lại một mạng hắn."

Thân binh nghĩ nghĩ, nói: "Hay chúng ta dùng Thái tử uy hiếp Hoàng đế Nguỵ quốc, ép hắn đem Lương Châu ra đổi, dù chúng ta muốn gì, chắc chắn Hoàng đế Ngụy quốc sẽ không dám cự tuyệt."

Trưởng công chúa vẫn lắc đầu: "Làm vậy tiết lộ phong thanh, một khi quan Đoạn Sự, A Lăng hay Khả Hãn biết chuyện, sẽ khó mà kết thúc, Vân Nương sẽ dính vào, ngay cả ta cũng không giữ được nó. Hiện tại không ai biết Lý Huyền Trinh nằm trong tay ta, xem như ta đâm lao phải theo lao, cứ giam hắn đã rồi tính."

Bà nhắc lại lần nữa: "Tuyệt đối không nên để Vân Nương biết Lý Huyền Trinh bị nhốt ở đây." Nhắc đến Chu Lục Vân bà liền đau đầu, cô cháu gái này rất giống anh trai bà, không quả quyết, thay đổi thất thường, lúc thì nói muốn quên Lý Huyền Trinh, lúc thì nói Lý Huyền Trinh cho mình vòng ngọc mà rơi lệ, ngốc nghếch gì cũng làm được.

Mấy thân binh đồng thanh vâng dạ.

Trong địa lao, đợi đoàn Trưởng công chúa rời đi, cửa nhà lao chậm rãi khép lại, cô gái và Lý Huyền Trinh trong lao thất trao đổi một ánh mắt.

Binh sĩ giục cô gái rời đi, cảnh cáo: "Trưởng công chúa đã dặn, việc này không thể tiết lộ ra ngoài, ngươi nhớ kỹ đó, nếu không liền đưa ngươi đi khen thưởng cho đám lính Hán!"

Tì nữ người Hồ gật đầu nói được, buông hộp cơm, đứng dậy ra khỏi lao thất, đi qua chuồng ngựa, trở lại một địa huyệt nhỏ sâu, nhanh nhẹn mở tấm màn nhìn quanh xác định xung quanh không có ai, thở một hơi thật dài.

Trong địa huyệt u ám vang vài tiếng ho khan kìm nén của một người đàn ông. Cô gái liền vội vàng xoay người, đẩy cỏ khô chất một đống thật dày ra khỏi góc hẻo lánh, nhỏ giọng nói: "Lý công tử, Chu Lục Vân vừa từ Vương Đình về."

Cỏ dại lay động, một người khôi ngô cường tráng từ trong bóng tối chợt ngồi dậy, tóc đen mắt đen, nét mặt tươi sáng nhưng sắc mặt trắng bệch ủ dột, mắt phượng sâu sắc, ánh mắt âm trầm, trên người mặc giáp bào cổ bẻ khảm da thú, đai lưng bên hông dắt một thanh loan đao, một thanh dao găm ngắn, một cuộn dây thừng, như một du mục thông thường.

Tim cô gái đập thình thịch, Văn Chiêu công chúa đã khuynh quốc khuynh thành, anh trai nàng vốn anh lãng bất phàm, đáng tiếc Nhị hoàng tử bị thương nặng, vết thương rất tệ, dưỡng đến giờ vẫn chưa khỏe.

Lý Trọng Kiền giãy dụa ngồi dậy, trên khuôn mặt tiều tụy hiện vẻ vui mừng, mắt lấp lánh mấy tia sáng, ho khan vài tiếng, nắm chặt tay cô ta. "Vương Đình sao rồi? Cô ta có gặp Minh Nguyệt Nô không? Cô ta nói với Lý Huyền Trinh thế nào? Minh Nguyệt Nô sao rồi?"

"Minh Nguyệt Nô đâu?"

Cô gái lắc đầu nói: "Công tử, Trưởng công chúa giấu Chu Lục Vân, không cho ngài ấy gặp Thái tử, Thái tử không biết Chu Lục Vân có gặp được Văn Chiêu công chúa hay không."

Hỏi mấy câu như đã dùng hết mọi sức lực, Lý Trọng Kiền hai cánh tay run lên, phịch một tiếng, đổ xuống đống cỏ, da mặt co quắp mấy lần, ánh mắt ảm đạm.

Cô gái thở dài, nhẹ nhàng an ủi hắn: "Công tử, ngài yên tâm, Phật Tử đã thông cáo các nước, giờ ai ai cũng đều biết Văn Chiêu công chúa được Phật Tử che chở, nhất định ngài bình an vô sự."

Lý Trọng Kiền mơ màng, muốn ngồi dậy, bước đi ngay đến Vương Đình, đi tìm Minh Nguyệt Nô của hắn.

Vì sống sót, con bé không thể không phó mặc mình cho một tên hòa thượng! Chịu khổ nhiều thế kia chắc chắn rất sợ hãi, hắn muốn đi cứu con bé, mang nó về nhà.

Nhưng bây giờ Bắc Nhung phong tỏa khắp nơi, hắn vết thương mới đè vết thương cũ, không thể không đóng vai thành dân du mục trốn trong địa huyệt này. Lý Trọng Kiền cắn răng, mắt phượng trừng trừng lên nóc nhà, lửa rực trong ánh mắt.

Hắn không dám tưởng tượng Minh Nguyệt Nô lúc này thế nào, trừ phi lập tức tìm nàng, không thì chẳng giây phút nào hắn không chịu dày vò.

Vết thương âm ỉ đau, trong kích thích, hắn lại mê man.

Cô gái người Hồ trông chừng hắn, giúp hắn thay thuốc, thay băng gạc nhuốm máu, tìm lý do bắt chuyện với đám thân binh mới về xem Chu Lục Vân ở Vương Đình xảy ra chuyện gì.

Chạng vạng tối, binh sĩ tới giục cô đưa cơm cho Lý Huyền Trinh. Cô vội vàng vâng lời rồi ôm cơm đến địa lao.

Lý Huyền Trinh nhận hộp cơm, xiềng xích trên tay kêu loảng xoảng.

"Phúc Khang công chúa có mang tin Văn Chiêu công chúa về không?" Hắn dùng tiếng địa phương của quận Ngụy nhẹ giọng hỏi.

Cô gái lắc đầu, đáp lại cũng bằng tiếng địa phương: "Đám thân binh rất kín miệng, không chịu kể chuyện Chu Lục Vân ở Vương Đình... Có điều..."

Hai tay Lý Huyền Trinh run rẩy: "Có điều sao?"

Cô gái nhỏ giọng: "Tôi nghe chúng bàn tán, nói Văn Chiêu công chúa không biết liêm sỉ, dụ dỗ người xuất gia, hình như chúng bị Văn Chiêu công chúa dạy cho một trận, nói rất nhiều lời khó nghe."

Lý Huyền Trinh nhìn bánh naan trong tay, lòng từ từ chùng xuống, càng lúc càng sâu, sâu không thấy đáy.

Nàng không biết liêm sỉ, rơi vào hoàn cảnh người người chế giễu, chỉ để sống sót...

Lý Huyền Trinh run lên, xé miếng bánh naan lạnh lẽo cứng ngắc bỏ vào miệng, mặt không đổi sắc nhai liên tục. Hắn nhất định phải nghỉ ngơi dưỡng sức, mau chóng tìm cơ hội đưa Lý Trọng Kiền ra khỏi Bắc Nhung, cứu nàng ra khỏi lồng giam.

"Ngươi nghĩ cách gặp Phúc Khang công chúa... Mời nàng ấy đến gặp ta." Hắn nhỏ giọng nói.

Cô gái bảo được.

Chu Lục Vân không quen ăn thức ăn Bắc Nhung, cô tì nữ đến từ Trung Nguyên, nấu ăn rất ngon, nên lúc đầu được Trưởng công chúa Nghĩa Khánh điều tới hầu hạ Chu Lục Vân.

Hôm nay, thân binh đến bẩm, Chu Lục Vân cả đường lo sợ hãi hùng đã ngã bệnh, Trưởng công chúa lệnh cô ta nấu vài món cho Chu Lục Vân dễ tiêu hóa. Cô gái vâng dạ, tìm một cơ hội, giấu ban chỉ tùy thân của Lý Huyền Trinh trong món chè, đưa đến lều Chu Lục Vân.

Hôm sau, cô ta bị gọi đến.

Sắc mặt Chu Lục Vân như bị bệnh, con ngươi lại lấp lánh, hỏi: "Ban chỉ này ở đâu ra? Có phải chàng đến đây không? Chàng đến tìm ta à? Lý Huyền Trinh đến đây đúng không?"

Cô gái người Hồ lắc đầu, nói: "Công chúa, nô không biết gì hết! Không biết ban chỉ này ở đâu ra, nô chưa từng gặp Thái tử Ngụy quốc!" Nói xong, cố ý lộ ra vẻ thấp thỏm lo âu, cả người run lẩy bẩy.

Chu Lục Vân siết ban chỉ thật chặt, "Nhất định chàng đã đến!" Trên đời này chỉ có Lý Huyền Trinh tốt nhất với mình, rốt cục chàng đã bỏ hết tất cả Đại Ngụy mà tìm đến mình!

Cô gái hỏi gì cũng không biết, cáo lui ra, sau khi đi một khoảng, từ khóe mắt thoáng thấy sau lưng có hai bóng người lén lén lút lút, giả như không có việc gì tiếp tục đi đến bãi chăn ngựa.

Đêm đó, bên ngoài bãi chăn ngựa có tiếng la hét ầm ĩ. Chu Lục Vân tìm tới.

Trong địa huyệt, cô gái người Hồ vểnh tai nghe ngóng động tĩnh bên ngoài, chậm rãi thở phào.

Ngoài địa lao trăm bước, quan trông coi bãi chăn ngựa sứt đầu mẻ trán ngăn Chu Lục Vân, nói: "Công chúa, không có thủ lệnh của Trưởng công chúa, thứ cho tiểu nhân không thể để ngài vào."

Chu Lục Vân mặt trắng bệch, rút ra một cây chủy thủ, tự chĩa vào ngực: "Các ngươi đừng giấu ta, ta biết Lý Huyền Trinh đang ở bên trong! Để cho ta gặp hắn!"

Quan canh chuồng ngựa vô cùng chấn kinh, một mặt đưa mắt ra hiệu thuộc hạ nhanh đi xin chỉ thị của Trưởng công chúa, một mặt dùng lời lẽ khuyên bảo: "Công chúa, đừng xúc động! Có chuyện gì từ từ nói, nếu ngài có chuyện gì nguy hiểm đến tính mạng, chẳng phải là đã phụ tấm lòng từ ái của Trưởng công chúa hay sao?"

Đôi môi Chu Lục Vân run rẩy: "Ta muốn gặp Lý Huyền Trinh!"

Đang loạn một chặp, Trưởng công chúa nghe tin vội chạy tới, bốp, một bàn tay đánh Chu Lục Vân đến lảo đảo. "Vân Nương, nó là Thái tử Ngụy quốc, ngươi là con gái Chu gia, ngươi muốn cùng nó về Ngụy quốc hay sao?"

Nước mắt Chu Lục Vân chảy ròng, nghẹn ngào nói: "Cô mẫu, chàng ngàn dặm xa xôi đến tìm con, van xin người cho con đi gặp chàng! Mấy năm qua ở Đại Ngụy, chỉ có chàng tốt với con, con không thể bỏ mặc chàng!"

Cô ta nói, trên tay dùng sức, chủy thủ đâm vào quần áo.

Mi tâm Trưởng công chúa nhảy dựng, bất đắc dĩ thở dài, khoát tay, "Ngươi đi gặp hắn đi."

Chu Lục Vân vô cùng vui mừng, thu lại chủy thủ, bước nhanh vào địa lao.

Đám thân binh nhìn nhau. Mặt Trưởng công chúa đầy mệt mỏi, suy tư thật lâu mới ra quyết định, dặn dò thân binh: "Nếu Vân Nương đã biết, vậy thì đừng để nó ra, các ngươi xem chừng đừng để nó bước ra chuồng ngựa một bước. Mấy hôm nay có biến cố, hẳn quan Đoạn Sự tạm thời không nhớ đến nó, chờ đại quân nhổ trại, các ngươi cho Lý Huyền Trinh trà trộn vào trong đám nô lệ, cẩn thận một chút, đừng để ai phát hiện."

"Vâng." Thân binh đốt đuốc, chiếu sáng lao thất, ánh lửa rọi vào trên người Lý Huyền Trinh, chiếu sáng khuôn mặt tiều tụy của hắn.

Chu Lục Vân nhào vào lao thất, nước mắt như mưa. Lý Huyền Trinh ngẩng lên, nhìn thấy Chu Lục Vân xa cách đã lâu, trong lòng bách vị tạp trần.

Hai người nhìn nhau hồi lâu.

Lúc trước Chu Lục Vân trong tức giận rời khỏi Trung Nguyên, hạ quyết tâm cả đời không về, nhưng gặp lại Lý Huyền Trinh, những lửa giận khiến cô quyết tuyệt rời đi trong khoảnh khắc tan thành mây khói, chỉ còn lại những gì chàng ấy đã đối xử tốt với mình.

Cô ta khóc không thành tiếng: "Trường Sinh ca ca, sao chàng lưu lạc đến Oát Lỗ Đóa rồi? Sao cô mẫu ta lại bắt được chàng?"

Lý Huyền Trinh thở dài.

Nói ra thì dài dòng.

...

Mấy tháng trước.

Lý Huyền Trinh, Lý Trọng Kiền và thân binh cày ngày cày đêm đuổi tới Y Châu, còn chưa kịp thám thính tin tức, đã bị người của Trưởng công chúa Nghĩa Khánh chụp lại.

Vốn là Trưởng công chúa Nghĩa Khánh lo lắng bị quan Đoạn Sự nghi ngờ, hạ quyết tâm để Chu Lục Vân cắt đứt toàn bộ liên hệ với Trung Nguyên, đuổi tất cả mọi thân binh cạnh Chu Lục Vân kể cả tai mắt do Lý Huyền Trinh cài vào. Hai bên bị cắt đứt tin tức, tai mắt không kịp cảnh báo, đoàn Lý Huyền Trinh đến Y Châu, chẳng khác gì dê rơi bầy hổ.

Thân binh gặp mặt liền quát hỏi: "Các ngươi là ai? Do Thái tử Ngụy quốc phái tới phải không?"

Để tránh bại lộ thân phận, Lý Huyền Trinh quả quyết giết hết mật thám dẫn họ vào Bắc Nhung. Trong đó có người của Trưởng công chúa, y vừa chết, thân binh của Trưởng công chúa không biết thân phận của họ, lúc ấy Chu Lục Vân lại bị đưa đi Vương Đình nên không ai nhận ra họ, chỉ có thể giam giữ bọn hắn.

Khi đó thế cục Y Châu rung chuyển, thân binh Trưởng công chúa canh giữ không nghiêm, Lý Huyền Trinh, Lý Trọng Kiền giết đám thân binh, chạy khỏi Y Châu.

Vì mật thám đã chết, họ chỉ biết vài từ tiếng Hồ cơ bản, không hiểu ngôn ngữ lại bị binh đuổi theo, chết mất mấy người, không có thời gian từ từ nghe ngóng tin tức, hai người thương lượng xong, quyết định thẳng tiến đến lãnh địa của Hải Đô A Lăng, hẳn Lý Dao Anh đang ở đấy, cứ vào đó trước rồi tính sau.

Mấy hôm sau, họ tìm tới lãnh địa, vừa mới đổi y phục dân du mục chuẩn bị trà trộn vào thì sấm sét nổ vang nơi chân trời, một đội kỵ binh chỉnh tề đột nhiên giết tới, triển khai trận hình, vây quanh doanh địa.

Kèn lệnh tu tu thổi, quan tướng cầm đầu cất cao giọng: "Chúng ta phụng lệnh Đại Vương tử tiếp quản lãnh địa của Hải Đô A Lăng, tất cả bỏ vũ khí xuống, không được chống cự, nếu không, giết chết không luận tội!" Nói xong, mấy chục tay cung giục ngựa lao vùn vụt qua, giương cung cài tên ngay trên lưng ngựa, vạn tên cùng bắn, bắn mười mấy người Bắc Nhung trong doanh địa định cưỡi ngựa thoát khỏi trùng vây thành nhím.

Lý Huyền Trinh, Lý Trọng Kiền nhìn nhau, hiểu rằng rất có thể họ đã bị dính vào phân tranh giữa mấy vị Vương tử Bắc Nhung.

Bộ hạ của Hải Đô A Lăng không chịu đầu hàng chịu trói, la hét um sùm, rất nhanh tập kết lực lượng bắt đầu phản kích, đánh nhau với phe Đại Vương tử, hai bên chém giết, rung động toàn bộ doanh địa.

Lý Huyền Trinh Lý Trọng Kiền lòng nóng như lửa đốt, thừa dịp loạn tiến vào doanh địa, tìm kiếm Lý Dao Anh nhưng không thu hoạch được gì. Thấy cuộc chiến sắp kết thúc, doanh địa Hải Đô A Lăng sắp thất thủ, hai người quyết định nhanh chóng, dẫn thân binh xách đao chém giết binh sĩ Bắc Nhung, cứu một tên bộ hạ người Hán của Hải Đô A Lăng, đem hắn xông ra trùng vây.

"Văn Chiêu công chúa ở đâu?" Lý Trọng Kiền một đao rạch cánh tay bộ hạ người Hán, hỏi.

Tên bộ hạ bị dọa mặt vàng ệch như đất: "Văn Chiêu công chúa? Là vị công chúa Ngụy quốc mà Vương tử giành được ở bộ lạc Diệp Lỗ à?"

Sắc mặt Lý Huyền Trinh lạnh lẽo: "Không sai, là cô ấy, Hải Đô A Lăng giam nàng ở đâu?"

Tên bộ hạ vội vàng nói: "Ta biết! Ta biết chỗ giam Văn Chiêu công chúa! Cô ta và tù binh của bộ lạc Diệp Lỗ bị giam cùng một nơi! Vương tử rất thích cô ta, luôn mang theo cạnh. Ta có thể dẫn các ngươi đi tìm Văn Chiêu công chúa, chỉ xin hai vị hảo hán tha ta một mạng!"

Sau khi Đại Vương tử cướp lãnh địa của Hải Đô A Lăng, bắt đầu không e dè bắt giết đám bộ hạ, hai người lo rằng Lý Dao Anh bị dính dáng, không kịp dò xét, trước mắt đành tin tên này.

Họ một mặt tránh bị Đại Vương tử bắt, một mặt lên đường.

Trong lúc đó, Lý Huyền Trinh vặn hỏi tên bộ hạ, thấy hắn khai rất rõ ràng chuyện làm sao Lý Dao Anh lưu lạc đến bộ lạc Diệp Lỗ, bị Hải Đô A Lăng bắt đi thế nào, lại nhát như chuột, vô cùng sợ chết, hẳn không có gan nói láo, dần dần thả lỏng cảnh giác.

Ba ngày sau, đi vào một doanh địa khác.

Tên bộ hạ nói, Hải Đô A Lăng đã đi Cao Xương, không ở doanh địa, Đại Vương tử, Nhị Vương tử, Tiểu Vương tử và Hải Đô A Lăng minh tranh ám đấu, rất có thể Hải Đô A Lăng đã chết ở Cao Xương, lúc này bộ hạ của hắn đều nơm nớp lo sợ, sợ bị dính líu, buông lỏng phòng thủ.

Lý Huyền Trinh để ý, không tùy tiện xông vào, điều tra bên ngoài trước.

Tên bộ hạ người Hán không ngừng thúc giục họ, nói: "Văn Chiêu công chúa ở ngay đây, tháng trước tôi tận mắt thấy ngài ấy âu yếm con ngựa Ô Tôn của mình uống nước bên bờ sông."

Vừa nói vừa chỉ vào một cô gái người Hồ nhặt phân dê ngoài doanh địa, "Đó chính là thị nữ của Văn Chiêu công chúa."

Lý Huyền Trinh, Lý Trọng Kiền cứu người sốt ruột, nghe nhắc đến ngựa Ô Tôn đã tin tưởng năm phần, Lý Huyền Trinh nhận ra cô tì nữ kia đúng là giống thị nữ bên cạnh Dao Anh lúc hòa thân, kích động đến đỏ hai mắt.

Đến khi vào doanh địa, Lý Huyền Trinh tỉnh táo lại, tự dưng cảm thấy hơi kỳ quặc: Tuyết lớn đóng băng, nước sông còn chưa tan, sao dẫn ngựa uống nước bên bờ sông được? Vừa định lên tiếng nhắc nhở Lý Trọng Kiền, vút vút vút, tên bắn lén rít tới, mười mấy binh sĩ Bắc Nhung bay nhào ra từ sau đống tuyết, xông tới.

Đối phương hiển nhiên mai phục đã lâu, người bắn tên là tay cung thủ, thế tên mãnh liệt, vốn không thể tránh, Lý Trọng Kiền Lý Huyền Trinh đều trúng tên, thân binh một đao chặt đứt cánh tay tên bộ hạ muốn chạy, che chắn hai người rời khỏi doanh địa.

Bản thân hai huynh đệ bị trọng thương, chỉ còn mấy thân binh không thể địch khỏi đám đông, vừa đánh vừa lui, cuối cùng kiệt lực bị bắt.

Tên bộ hạ mất một cánh tay đau đến mặt mũi đầy mồ hôi, nhe răng cười: "Vương tử A Lăng đã nói, bất kỳ người Hán tới cứu Văn Chiêu công chúa đều phải bắt lại! Đám các ngươi không phú thì quý, nhìn tuổi và thân thủ của các ngươi, nhất định trong đám các ngươi phải có Lý Trọng Kiền anh ruột của Văn Chiêu công chúa. Bắt được Lý Trọng Kiền, chẳng khác nào bắt được Văn Chiêu công chúa! Đợi Vương tử về, ta lập công lớn!"

Lý Huyền Trinh trừng mắt đến muốn nứt, nghe trong lời gã thì hiểu rõ tung tích: Lý Dao Anh không ở đây! Là Hải Đô A Lăng bố trí cạm bẫy, muốn dùng Lý Trọng Kiền uy hiếp Lý Dao Anh!

Tên bộ hạ người Hán ném mấy người nhốt vào bãi nhốt cừu.

Lý Trọng Kiền đã bị thương từ trước còn chưa khỏi, trúng tên động đến vết thương cũ, thương thế nặng nề, Lý Huyền Trinh đành bó tay.

Chỉ sau một lát, tên bộ hạ băng bó qua loa dẫn theo tỳ nữ người Hồ vào bãi nhốt cừu, chỉ vào đám Lý Huyền Trinh, hỏi: "Ngươi xem, có nhận ra ai không? Tên nào là Lý Trọng Kiền?"

Lý Huyền Trinh nặng nề trong lòng, khi hắn đi bộ lạc Diệp Lỗ đã từng gặp cô tỳ nữ tên Talie này. Không ngờ, Talie híp mắt, cẩn thận nhìn từng người bọn hắn, khiếp vía thốt lên: "Nô không nhận ra ai, chưa hề gặp qua."

Tên bộ hạ cười lạnh rời đi.

Lý Huyền Trinh cho rằng Talie không nhớ rõ mình, nhưng Talie quay lại liếc hắn một cái với ánh mắt đầy thâm ý.

Hắn vẫn thản nhiên như không.

Trong đêm, Talie cho mấy người đưa cơm, nhìn xem mắt phượng mày rậm Lý Trọng Kiền, nói: "Hẳn công tử là anh trai của Văn Chiêu công chúa, lúc tôi ở Trường An có nghe người trong Vương phủ nhắc đến ngài, công chúa từng nói, dù nàng ấy lưu lạc nơi đâu, chắc chắn công tử sẽ đến cứu nàng..." Nói đến đây, cô nhíu mày nhìn Lý Huyền Trinh, như rất bực cái tên đưa công chúa xuất giá sao lại cũng ở đây.

Lý Huyền Trinh không nói.

Lý Trọng Kiền túa đầy mồ hôi, không để ý cơn đau, giãy dụa ngồi dậy: "Ngươi biết Minh Nguyệt Nô à? Nàng ở đâu?!"

Talie nhỏ giọng nói: "Công tử, ngài đừng lo lắng, Văn Chiêu công chúa hiện tại rất an toàn, nàng ấy đang ở Vương Đình, được Phật Tử che chở."

Lý Huyền Trinh bỗng ngẩng lên, con ngươi co rút.

Lý Dao Anh ở Vương Đình ư?

Sao nàng ấy biết vị hòa thượng Quân chủ mà hắn muốn kết minh?

Chưa kịp hỏi, Talie cảnh giác nhìn trái nhìn phải, hạ giọng nói: "Công tử, Vương tử A Lăng cứ nhất định phải có được công chúa, Phật Tử chiêu cáo các quốc gia, nói công chúa là Ma Đăng Già của ngài, Vương tử A Lăng không tìm thấy cơ hội ra tay. Quan Đoạn Sự đưa ra chủ ý, dạy ngài ấy phái người phong tỏa tin tức, dụ người thân của công chúa tới cứu nàng. Vương tử biết người công chúa để ý duy nhất chính là công tử, bố trí thiên la địa võng, chỉ chờ công tử mắc câu."

Lý Trọng Kiền mê man, nghe nói Lý Dao Anh hiện tại rất an toàn, những thứ khác một câu cũng không lọt tai. Lý Huyền Trinh nghe đến túa mồ hôi lạnh ròng ròng, lòng còn sợ hãi. Hắn hỏi: "Hải Đô A Lăng giờ ở đâu?" Chắc chắn họ phải chạy trước khi y về đến.

Talie lắc đầu: "Không ai biết Vương tử A Lăng ở đâu cả, tình thế giờ rất hỗn loạn. Công tử, các ngài mau chạy đi, chắc chắn Vương tử sẽ bắt các ngài uy hiếp Văn Chiêu công chúa. Bộ hạ Vương tử đã từng theo ngài ấy đi đất Hán, hẳn sẽ có người nhận ra các ngài, cho đến lúc có người nhận ra công tử, các ngài chạy không xong." Nói xong, cô vội vàng rời đi.

Lý Huyền Trinh dựa vào tường, nhìn Lý Trọng Kiền bị thương nặng, hai mắt nhắm lại, dặn dò thân binh. "Hải Đô A Lăng thâm sâu không lường, chúng ta phải nghĩ cách nhanh chóng rời khỏi đây, ta sẽ tìm cơ hội gây náo loạn, các ngươi thừa dịp dẫn Lý Trọng Kiền chạy đi, đến Vương Đình."

Thân binh lo lắng hỏi: "Còn điện hạ ngài thì sao?"

Lý Huyền Trinh rút mũi tên sắt trên cánh tay, kêu một tiếng đau đớn, mặt không đổi sắc, nhìn ra bóng đêm bên ngoài. "Nếu Lý Trọng Kiền chết ở chỗ này... Cả một đời nàng ấy cũng sẽ không tha thứ cho ta." Lý Dao Anh từng nói, vì Lý Trọng Kiền, có thể cùng hắn đồng quy vu tận.

Khi đó, Lý Huyền Trinh chỉ xem như Lý Dao Anh nói nhảm. Trong lòng hắn chỉ có thù hận, không xem là thật, trong vô thức hắn cảm thấy, đợi đến khi Lý Trọng Kiền chết rồi, nàng ấy không chỗ nương tựa, cuối cùng sẽ nhận rõ hiện thực...

Còn sau đó?

Chuyện sau đó thật ra hắn vốn chưa từng cẩn thận nghĩ qua.

Di ngôn của mẹ trước khi lâm chung như nặng ngàn quân, đặt trong lòng hắn, hắn chỉ muốn nhanh chóng diệt trừ Lý Trọng Kiền, lại không muốn suy nghĩ sau khi Lý Trọng Kiền chết xử lý nàng thế nào.

Giết nàng?

Tra tấn nàng?

Hay giam giữ nàng, buộc nàng cúi đầu?

Lý Huyền Trinh không muốn suy nghĩ, cứ như chỉ cần Tạ Quý phi và Lý Trọng Kiền chết rồi, tất cả đều dễ dàng giải quyết.

Lần đầu hắn ý thức được mình mềm lòng với nàng, là lúc ở Tương Châu. Đêm đó, Ngụy quân thắng trận, trong buổi tiệc ăn mừng, Lý Dao Anh giả trang thành một đồng bộc xuất hiện cạnh Lý Trọng Kiền, ngoan ngoãn ngồi quỳ chân, rót rượu gắp thức ăn tận tay ca ca, một đôi mắt thon dài nhìn ngó xung quanh, tràn đầy phấn khởi xem náo nhiệt.

Những người khác không biết nội tình, chỉ chút xíu Lý Huyền Trinh đã nhận ra nàng, trong lòng cười lạnh.

Nàng không thích trói buộc, lúc còn ở Xích Bích hay ăn mặc như tiểu lang quân nhà giàu chơi ở bến đò, không hổ là em gái Lý Trọng Kiền, đúng là thích náo nhiệt.

Đang yên ắng, đột nhiên vũ kỹ lộ ra vũ khí, muốn ám sát Lý Trọng Kiền.

Lý Trọng Kiền uống đã ngà say, không có phát giác nguy hiểm, Lý Huyền Trinh mắt lạnh nhìn, tưởng tượng cảnh Lý Trọng Kiền máu tươi tại chỗ, một nỗi khoái ý khó hình dung toát lên trong lòng.

Hắn ước gì Lý Trọng Kiền chết, không từ thủ đoạn.

Nhưng, sau một khắc, cả người hắn rét run, tay không kiềm được bội kiếm phóng tới của mình.

Lý Dao Anh không chút do dự nhào tới trước người Lý Trọng Kiền, nàng không biết võ, chỉ là một tiểu nương tử đến cái bàn còn không nhấc nổi, trong một khắc thấy đoản đao trong tay vũ kỹ, liền không chút nghĩ ngợi, kiên định, quả quyết chặn trước người anh trai mình.

Đoản đao chém xuống, chém vào người nàng.

Tiếng lưỡi đao xé rách y phục vô cùng rõ ràng.

Trong một nháy mắt, Lý Huyền Trinh cảm giác tiếng gió gào thét bên tai, cảnh tượng trước mắt bỗng trở nên mơ hồ, máu khắp người như sôi trào, đầu hắn ong ong.

Hắn rút kiếm mà lên, bay vút đến, khi hắn kịp tỉnh lại, vũ kỹ đã chết dưới kiếm hắn. Còn Lý Trọng Kiền mặc dù còn say chuếnh choáng, vẫn trong một tích tắc cảm giác được sát khí, theo bản năng ôm Lý Dao Anh lộn một vòng trên đất, tránh được một đao kia.

Những người khác đang ngồi kịp phản ứng, cùng tiến lên, đá văng vũ kỹ.

Lý Trọng Kiền tỉnh rượu hơn phân nửa, giận tím mặt, xoay người ôm Lý Dao Anh đã ngất vội vàng rời đi. Lý Huyền Trinh đứng tại chỗ, cả người đầy máu, chung quanh hỗn loạn, hắn như không nghe thấy. Hắn nhìn Lý Dao Anh hai mắt nhắm nghiền trong lòng Lý Trọng Kiền, trường kiếm trong tay leng keng rơi xuống đất.

Lý Trọng Kiền tình nguyện mình bị thương cũng không muốn con bé xảy ra chuyện, mặc dù phản ứng chậm một nhịp, tên vũ kỹ kia vẫn không thể đắc thủ.

Đã vậy, tại sao hắn phải nhiều chuyện?

Nếu lúc ấy hắn tỉnh hồn lại, nhiều chuyện về sau sẽ không xảy ra, Lý Dao Anh cũng sẽ không chịu nhiều trắc trở. Giờ đây Lý Trọng Kiền vì cứu nàng đã đi Bắc Nhung, nếu cứ thế mà chết ở Bắc Nhung, sau này Lý Dao Anh biết sự thật, nói không chừng lại nghi ngờ rằng hắn cố ý.

Nàng sẽ hận hắn cả một đời.

Máu trên cánh tay chảy ồ ạt, vết thương trong lòng cũng đau không kém, Lý Huyền Trinh nhắm mắt lại, nói: "Ta mạng lớn, không dễ dàng chết vậy đâu, Lý Trọng Kiền không có mạng lớn như ta, các ngươi không cần phải để ý đến ta, dẫn hắn đi trước. Để ta dẫn dụ chúng."

Hơn nữa... Hắn có rơi vào trong tay Hải Đô A Lăng cũng không uy hiếp được Lý Dao Anh.

Nàng không thèm để ý sống chết của hắn.

Các thân binh liếc nhau thở dài, nhỏ giọng đáp lại.

Trong bãi nhốt cừu bùn lầy ẩm ướt, chất đầy cặn bã, hôi thối không chịu nổi.

Trước hừng đông, Talie lại đưa tới thức ăn cho đám Lý Huyền Trinh, sữa ngựa, mền vải, còn có thuốc trị thương quý giá. "Chiến mã của doanh địa ở góc Tây Bắc, được trông coi rất nghiêm. Lúc các ngài rời đi hãy theo hướng Đông Nam, có vài con ngựa cái nhỏ bị bệnh, rất ít người trông coi, mấy con ngựa đó đã được chăm tốt, tốc độ rất nhanh."

Trước khi đi, Talie nhớ tới một câu Dao Anh từng nói. "Công tử, Văn Chiêu công chúa nói, Vương thất Bắc Nhung tranh đấu không ngừng, giữa các Vương tử lục đục, Vương tử A Lăng không phải người Bắc Nhung, có khoảng cách với mấy Vương tử khác rất lớn. Các ngài chạy trốn cố tìm đến lãnh địa mấy Vương tử khác."

Lý Huyền Trinh gật đầu ghi nhớ, mấy người tháo dây thừng, lấy toàn bộ thuốc trị thương cho Lý Trọng Kiền, băng bó kỹ cho hắn.

Tất cả lăn lộn trong vũng bùn cho người dính đầy bùn nhão, phân và nước tiểu để che lấp mùi, ở doanh trại lính Bắc Nhung nuôi chó săn có khứu giác nhạy bén.

Trời đầy sao, bầu trời yên tĩnh nối liền với băng thiên tuyết địa.

Lý Huyền Trinh tựa trên hàng rào, kiên nhẫn đợi thời cơ, hắn biết vào nửa đêm khuya đến rạng sáng lính trực đêm đổi canh, là lúc lỏng lẻo nhất, là thừa cơ chạy trốn nắm chắc nhất.

Nửa đêm, Lý Trọng Kiền tỉnh táo lại, mắt phượng liếc một vòng, giãy dụa ngồi dậy, ôm chặt vết thương trên người.

"Ngươi có thể cử động không?" Lý Huyền Trinh lạnh nhạt hỏi.

"Yên tâm, ta không chết được." Lý Trọng Kiền không đổi sắc mặt nắm chặt băng gạc, bắp thịt cả người run lên, nhưng thần sắc trên mặt chết lặng, như không chút đau đớn, trong đêm tối, mắt phượng như ánh lên tia nhìn âm trầm của thú săn, "Không tìm được Minh Nguyệt nô, hơi thở này chưa đứt được."

Hai huynh đệ không nói gì, nhắm mắt nghỉ ngơi.

Đến sau nửa đêm, Lý Huyền Trinh lặng lẽ nắm chặt thanh đoản đao Talie cho hắn, đánh thức thân binh, bảo họ chuẩn bị sẵn sàng, hắn muốn dụ thủ vệ Bắc Nhung.

"Đợi chút." Lý Trọng Kiền bỗng mở to mắt, "Ngươi nghe xem, có động tĩnh."

Lý Huyền Trinh nghiêng tai lắng nghe, nhắm cặp mắt.

Xa xa vọng lại tiếng sàn sạt như gió thổi qua rừng tùng, nếu không chú ý lắng nghe sẽ tưởng chỉ là tiếng gió.

Lý Huyền Trinh nói: "Khinh kỵ, tầm bốn năm trăm người."

Lý Trọng Kiền đối mặt với hắn: "Người của Đại vương tử." Đại vương tử thừa dịp Hải Đô A Lăng đi Cao Xương, bắt đầu chiếm từng bộ lạc doanh địa của y.

Tiếng kèn cảnh báo rất nhanh vang lên, thô bạo phá tan vắng vẻ, toàn bộ doanh địa loạn cả lên, đàn ông đang ngủ say từ trong mộng bừng tỉnh, xông ra doanh trướng, đàn bà con nít trốn trong trướng run lẩy bẩy, người Bắc Nhung vòng ngoài cùng dựng chướng ngại vật lên, ngăn cản khinh kỵ tới gần, khiến đối phương chậm tốc độ.

Kẻ địch đến rất nhanh, mấy trăm kỵ binh thân mặc giáp da gầm rú xông vào doanh địa, gặp người là chặt, người trong doanh địa vội vàng ứng chiến, người đầu tiên nhất lao ra bị thọc một đao xuyên thấu.

Trong tiếng la giết gầm thét, Lý Huyền Trinh và thân binh vượt rào, tránh cuộc giao chiến, mò tới phía Đông Nam, mấy người Bắc Nhung quơ trường đao đón, đám Lý Huyền Trinh giải quyết nhanh gọn, tìm mấy con ngựa cái Talie nhắc đến, trở mình lên ngựa.

Doanh địa đã bị vây quanh, bên ngoài có lính cung nỏ bắn tên, vạn tên cùng bắn, ánh lửa hừng hực.

Lý Trọng Kiền nắm một thanh trường đao vừa mới giành được trong tay, cố nén đau quăng một tên Bắc Nhung đi, nói: "Cứ vậy mà lao ra, sẽ không đi được."

Lý Huyền Trinh nhìn quanh một vòng, nhanh chóng quyết định: "Thả hết tù binh ra."

Bọn họ quay lại bãi nhốt cừu thả hết đám tù binh bên trong, cả đám tù binh hoảng hốt chạy bừa, nhặt vũ khí bị rơi đi theo họ xông ra doanh địa.

Đội khinh kỵ của Đại Vương tử rất chỉnh tề, vòng thứ nhất phụ trách phát động công kích, tách thủ vệ doanh địa ra, hai đội khác từ hai cánh giết ra, tay cầm loan đao, đoản búa, vừa tru vừa lãnh khốc tàn sát, xem y phục lông thú trên người họ, có lẽ là tán binh chiêu mộ từ mấy bộ lạc.

Mấy người Lý Huyền Trinh, Lý Trọng Kiền trao đổi ánh mắt, thúc ngựa quay đầu, dẫn đầu tù binh xông vào chiến trận, thần không biết quỷ không hay lẫn vào giữa đám tán binh.

Sau nửa canh giờ, phòng tuyến của doanh địa cuối cùng đã sụp đổ.

Lý Trọng Kiền không thể giết địch, ở giữa mấy thân binh rời khỏi chiến trận, Lý Huyền Trinh chém giết phía trước, chợt nhìn thấy một bóng người quen thuộc, sắc mặt nặng nề, tra đao vào vỏ, cầm lấy cung trên một yên ngựa khác.

Người Bắc Nhung dùng đoản cung nhẹ, mũi tên nhỏ, thân tên rất nhẹ, hắn thử qua dây cung, biết loại cung này cận chiến bắn không xuyên qua áo giáp, thích hợp bắn xa, bèn đạp bụng ngựa thúc ngựa chạy gấp, đến cạnh sườn núi vây quanh nhắm vào tên bộ hạ người Hán mất đi cánh tay kia, nhanh chóng cài tên, bắn ra một phát.

Ong, vũ tiễn xuyên phá trời đêm, đâm xuống mặt tuyết, sâu lút mũi.

Vết thương trên cánh tay bị xé rách đau đớn, Lý Huyền Trinh chẳng hề để ý, chậm rãi thích ứng với cung trên tay, tiếp tục cài tên, ba mũi tên liên tục bắn, lần này vũ tiễn được rót đầy lực, hai mũi tên cắm trên vai tên bộ hạ, hắn hét thảm một tiếng, rơi khỏi lưng ngựa xuống mặt tuyết, chớp mắt liền bị vó ngựa giẫm đạp như mưa đến khi biến đổi hoàn toàn.

"Không thể để cho Hải Đô A Lăng biết Lý Trọng Kiền đang ở Bắc Nhung." Nhược điểm của nàng không thể rơi vào trong tay Hải Đô A Lăng.

Hơn ai hết Lý Huyền Trinh biết rõ nàng có thể vì Lý Trọng Kiền hy sinh thứ gì.

Hắn trầm giọng ra lệnh thân binh: "Tất cả người biết chuyện hôm nay, giết."

Thân binh đồng thanh vâng dạ, ánh mắt tìm kiếm xung quanh kẻ có thể biết thân phận của họ, lặng lẽ tới gần, sau đó thừa lúc bất ngờ, một đao chém xuống.

Chân trời dần dần hiện lên ánh sáng bạc, cuộc chiến kết thúc, doanh địa đầy hỗn độn, đoàn người Vương tử bắt đầu dọn dẹp chiến trường.

Một người có vẻ là quan tướng triệu tập tất cả tù binh, đám Lý Huyền Trinh không có giấy tờ qua cửa, đi chỗ nào cũng sẽ bị kiểm tra, dứt khoát trà trộn vào luôn. Quan tướng cho rằng họ cũng là dũng sĩ bộ lạc bị bắt, lưu ý đêm qua thấy họ tác chiến anh dũng, nói Đại Vương tử đang lúc dùng người, trực tiếp mời chào họ về trướng Đại Vương tử.

Đội ngũ không dừng lại quá lâu, nhanh chóng xuất phát.

Lý Huyền Trinh xác nhận Talie còn sống, theo quan tướng của Đại Vương tử rời đi, đi gần mấy trăm dặm, còn đánh hai doanh địa trên đường.

Đến ngày thứ sáu, bọn họ đi vào một vùng đất bằng phẳng thấp bé ba mặt núi vây quanh, được đưa tới trước mặt một người đàn ông mặc áo da hổ, hông mang thắt lưng vàng, người này nghe nói Lý Huyền Trinh giết địch dũng mãnh, tiễn thuật xuất chúng, có lẽ là thiện xạ, cười lớn muốn tỷ thí với hắn.

Lý Huyền Trinh không chút sợ hãi, thân mang vết thương tỷ thí với người kia, bộ xạ, kỵ xạ, bộ xạ hắn thắng, kỵ xạ cố ý bắn chệch, thua dưới tay người, cuối cùng thì hòa nhau.

Xung quanh người Bắc Nhung cao giọng reo hò, Lý Huyền Trinh mới biết đấy chính là Bắc Nhung Đại Vương tử.

Đại vương tử trắng trợn chiếm đoạt lãnh địa của Hải Đô A Lăng, biết khi Hải Đô A Lăng trở về chắc chắn không thể thiếu một trận đại chiến, cầu hiền như khát, liền phong Lý Huyền Trinh làm cấm quan tại chỗ.

Lý Huyền Trinh che dấu thân phận, thành công lấy được tín nhiệm của gã, ẩn mình chờ bên cạnh gã, vừa tìm hiểu tin tức, vừa để Lý Trọng Kiền dưỡng thương, lại vừa tìm kiếm cơ hội thoát thân.

Quãng thời gian này, hai người từ từ chắp vá được chuyện phát sinh sau khi Lý Dao Anh bị Hải Đô A Lăng bắt đi, rồi thăm dò từ những người Hán lưu lạc ở Bắc Nhung về Vương Đình.

Vết thương Lý Trọng Kiền chuyển biến tốt hơn, lòng nóng như lửa đốt, Lý Huyền Trinh cũng nôn nóng bất an.

Nhưng họ không được gấp gáp nóng nảy.

Bắc Nhung thế cục rung chuyển, sóng mây quỷ quyệt, giương cung bạt kiếm.

Một ngày nọ, Đại Vương tử nhận một phong thư, cao hứng khoa tay múa chân, nói: "A Lăng thu mua tử sĩ, ám sát mấy huynh đệ của ta, chứng cứ vô cùng xác thực, giờ y còn ra tay với Kim Bột, Kim Bột là thằng con mà Ngoã Hãn cha ta thương yêu bênh vực nhất, ta xem tên A Lăng kia thoát thân thế nào!"

Gã vô cùng mừng rỡ, tiếp tục phái binh chiếm đoạt địa bàn.

Lại qua mấy ngày, có tin từ Y Châu truyền về, Hải Đô A Lăng từ Cao Xương trở về, tự thú thản nhiên nhận mọi tội ác với Ngõa Hãn Khả Hãn, chỉ xin Ngõa Hãn Khả Hãn buông tha bộ hạ y.

Đại Vương tử lập tức dẫn người chạy về Y Châu, gã phải cùng mấy anh em cướp đoạt lãnh địa của Hải Đô A Lăng. Trên đường, một phong thư Ngõa Hãn Khả Hãn tự tay viết được đưa vào trướng Đại Vương Tử, Khả Hãn nói ông đã trừng trị Hải Đô A Lăng, tước đoạt danh hào Vương Tử của y, lệnh cho toàn bộ các con trai ở lại lãnh địa, không được rời đi.

Đại Vương tử giận dữ: Khả Hãn không quả quyết, Hải Đô A Lăng tàn sát đám anh em, thế mà Khả Hãn còn mở một mặt lưới cho hắn!

Phụ tá khuyên Đại Vương tử bình tĩnh đừng vội, gã một đao chém đổ bàn ăn: "Cơn tức này ta nuốt không trôi! Lão Phụ Hãn, dũng khí xưa kia vốn từ lâu đã bị Phật Tử Vương Đình mài mòn sạch sẽ, không còn là Đại Hãn dẫn đầu dòng họ Nam chinh Bắc thảo, anh minh thần võ nữa rồi! Đến vậy mà ngài còn khoan dung con sói dã tâm bừng bừng Hải Đô A Lăng kia! Sói vĩnh viễn không biết ơn, nó chỉ phục tùng kẻ mạnh thôi! Phụ Hãn nhu nhược, sớm muộn gì cũng chết trong tay Hải Đô A Lăng! Ta muốn đi Y Châu, tự tay làm thịt Hải Đô A Lăng, mang đầu y làm bát đựng rượu!"

Nhóm phụ tá tận tình khuyên bảo, khuyên Đại Vương tử không nên vọng động.

Lý Huyền Trinh Lý Trọng Kiền thờ ơ lạnh nhạt, nhớ tới Lý Dao Anh mới nảy ra ý hay: Giờ Bắc Nhung thế cục hỗn loạn, tạm thời họ không thể rời Bắc Nhung, không biết còn bị vây khốn bao lâu, nếu đã đi không được, mà Hải Đô A Lăng với mấy tên Vương tử đang mâu thuẫn trùng điệp, sao họ không thừa cơ châm thêm đuốc, khiến Bắc Nhung loạn càng thêm loạn?

Tốt nhất có thể mượn đao giết người, bức Ngõa Hãn Khả Hãn xử quyết Hải Đô A Lăng.

Bắc Nhung ngăn cách giữa Trung Nguyên và Tây Vực, Hải Đô A Lăng đối với Lý Dao Anh có cho kỳ được, nhất định họ phải diệt trừ cái gã tâm cơ thâm trầm này. Đợi đến khi Bắc Nhung loạn đến ốc còn không mang nổi mình ốc, thì họ có thể dứt ra mà đi Vương Đình. Hai người thương lượng xong, hạ quyết tâm.

Mấy người Lý Huyền Trinh cố ý tung tin trong doanh địa: vì đâu mà Khả Hãn buông tha cho Hải Đô A Lăng? Còn không cho Đại Vương tử về Y Châu? Hẳn Khả Hãn có nỗi khổ tâm bất đắc dĩ nào chăng?

Mọi người tỉnh táo lại, mồ hôi lạnh chảy ròng ròng, lao xao suy đoán: Ngõa Hãn Khả Hãn không thể dễ dàng tha thứ Hải Đô A Lăng thế kia, ông không giết Hải Đô A Lăng, rất có thể là do đã bị Hải Đô A Lăng khống chế! Cho nên Ngõa Hãn Khả Hãn mới không để con ông về Y Châu —— thư là do Hải Đô A Lăng ép viết.

Phụ tá càng nghĩ càng thấy hẳn Ngõa Hãn Khả Hãn đã bị Hải Đô A Lăng giam lỏng, bắt đầu lo lắng: Nếu quan Đoạn Sự trợ giúp Hải Đô A Lăng khống chế Y Châu, bước kế tiếp có phải Hải Đô A Lăng sẽ ra tay với đám Đại Vương tử?

Đại vương tử đang rầu không thể mượn cớ về Y Châu, nghe tin đồn tức sùi bọt mép: "Hải Đô A Lăng lòng lang dạ thú, ám sát Kim Bột, các anh em của ta, giờ còn phạm thượng, giam lỏng Khả Hãn, muốn gây bất lợi cho Khả Hãn, ta thân là con người, phải đi Y Châu cứu Phụ Hãn!"

Thế là, Đại Vương tử giả ý nghe theo mệnh lệnh của Ngõa Hãn Khả Hãn, thật ra bên trong bí mật vừa hành quân trong đêm vừa thuyết phục đám anh em và Vương công quý tộc giúp gã thành sự, lao thẳng về Y Châu.

Đến ngoài thành Y Châu, là lúc màn đêm tứ hợp, trong thành từng luồng khói bếp thẳng bốc lên không.

Phụ tá phát hiện Nha đình đang thái bình, sợ chọc giận Ngõa Hãn Khả Hãn, khuyên Đại Vương tử nghĩ lại hẵng làm. "Xem ra Đại Hãn không bị Hải Đô A Lăng giam lỏng, Vương tử chỉ cần cẩn thận xử lí."

Đại Vương tử cười lạnh nói: "Ta nhịn mấy năm rồi, nhịn không nổi nữa! Nếu ta đã mang binh đến Y Châu, đã không làm thì thôi, làm thì phải làm đến cùng, dù Phụ Hãn có bị Hải Đô A Lăng giam lỏng hay không thì ta cũng không thể không giết Hải Đô A Lăng."

Phụ tá bất đắc dĩ, trước đó Đại Vương Tử đã đoạt đất của Hải Đô A Lăng địa bàn, giết sạch bộ hạ của Hải Đô A Lăng, nếu y còn sống, sau chắc chắn sẽ trả thù, giờ ngài đâm lao phải theo lao, đúng là không có lựa chọn nào khác.

Hải Đô A Lăng còn sống, hậu hoạn vô tận.

Đại Vương tử cười gằn: "Ta muốn báo thù cho mấy anh em! Ai ngăn được ta?"

Lúc này, Ngõa Hãn Khả Hãn biết thằng Cả chống lại lệnh ông, tự mình tới Y Châu, giận dữ, phái đại thần răn dạy gã.

Đuốc cháy hừng hực, hai đội người ngựa đang giằng co, Lý Huyền Trinh lẫn trong đoàn người phụng lệnh Đại Vương Tử đột nhiên xông lên, một đao chém chết đại thần.

Đám người ngây ra như phỗng.

Đại Vương tử rút đao, chém chết mấy người khác, gầm thét: "Các ngươi là chó săn của quan Đoạn Sự, âm thầm cấu kết với Hải Đô A Lăng, tưởng ta không nhìn ra ư? Cũng vì mấy tên gian tặc các ngươi mà Phụ Hãn mới nhân từ nương tay như đàn bà, sợ đầu sợ đuôi! Hôm nay ta muốn chính tay đâm Hải Đô A Lăng! Ai dám cản ta phải chết!"

Thấy đại thần đã máu tươi tại chỗ, tùy tùng của Đại Vương tử không còn dám do dự, vây quanh Đại Vương tử, đánh tới nha trướng bảo vệ nghiêm mật nhất.

Vương thất Bắc Nhung nội đấu không ngừng, Ngõa Hãn Khả Hãn không chịu xử tử Hải Đô A Lăng, Vương công quý tộc cực kỳ bất mãn, trước đó Đại Vương tử đã mua chuộc tướng thủ từng có mâu thuẫn với Hải Đô A Lăng, lính phòng giữ trong thành rất nhanh tán loạn, hầu như Đại Vương tử không gặp trở ngại, tiến quân thần tốc.

Lý Huyền Trinh theo sát bên cạnh Đại Vương tử, một đường chém giết, tìm kiếm bóng dáng Hải Đô A Lăng xung quanh.

"Ngu xuẩn!"

Trước trận, một tiếng mắng uy nghiêm giận dữ như tiếng sấm nổ vang, xuyên qua đám người chém giết, vọng vào tai mỗi người.

Trong ánh lửa chập chờn, Ngõa Hãn Khả Hãn người khoác chiến giáp, cưỡi chiến mã thần thanh cốt tuấn, giữa cận vệ vây quanh đến trước trận, dù khuôn mặt già nua nhưng cả người đầy kiên nghị không hề giảm, khí thế thâm trầm như dãy núi sừng sững, giận dữ nhìn Đại Vương tử: "Còn không khoanh tay chịu trói!"

Lão Khả Hãn cả đời chinh chiến, uy vũ tích góp khó xâm, mắt hổ liếc nhìn một vòng, đám binh sĩ đang chém giết đều thầm giật mình, tỏa ra ý thối lui.

Mấy tiểu tốt bị dọa té xuống ngựa.

Đại Vương tử cũng không khỏi thầm sợ hãi nhưng không muốn khiếp sợ trước mặt bộ hạ, cắn chót lưỡi ổn định tinh thần, nắm chặt dây cương, lớn tiếng nói: "Phụ Hãn, đao của Hải Đô A Lăng đã kề lên cổ anh em chúng con, người còn không chịu giết hắn! Cứ phải thấy tụi con đầu rơi xuống đất, người mới xử Hải Đô A Lăng sao! Đến cùng ai mới là con của người?!"

Ngõa Hãn Khả Hãn cả giận nói: "Hải Đô A Lăng chịu tội, ta đã biết, tự sẽ xử lý hắn. Ngươi tự ý rời lãnh địa, tấn công Nha trướng, có biết tội chưa?"

"Con không có tội!" Mặt Đại Vương tử dữ tợn, khàn cả giọng, "Đêm nay con và Hải Đô A Lăng phải có kết thúc! Dù sao sớm muộn gì cũng phải chết trên tay hắn, không bằng hôm nay cho thống khoái!"

Gân xanh nổi đầy trán Ngõa Hãn Khả Hãn: "Ngốc —— "

Ông còn chưa mắng hết câu, một tiếng véo vang rền, vô tận trong đêm yên tĩnh, một cây vũ tiễn đột nhiên phát ra, phóng tới trước, nhanh như sao băng, xuyên vào giáp ngực lấp lánh tỏa sáng trên người ông.

Thân thể cường tráng của Ngõa Hãn Khả Hãn lung lay, cả người té ngửa ra sau.

Phịch một tiếng ngột ngạt khô khóc, Lão Khả Hãn, sói đầu đàn già của người Bắc Nhung vừa ngã xuống tuyết.

Biến cố lớn phát sinh, tất cả trợn mắt rớt mồm. Doanh trại yên tĩnh trong một khắc, tiếng gió ù ù, ngựa hí lớp lớp.

Một khắc trước đó vẫn còn lửa giận ngập trời Đại Vương tử hồn phi phách tán, run rẩy cả người, sắc mặt trắng bệch.

Lúc này, Lý Trọng Kiền lẫn trong đám binh sĩ nhả ra tên bắn lén nhanh chóng giấu đoản cung, vừa ruổi ngựa xông lên trước vừa đồng thanh hô to với đám thân binh cùng mai phục: "Hải Đô A Lăng ám sát Khả Hãn, ý muốn phản loạn!"

"Hải Đô A Lăng phản loạn!"

Đại Vương Tử đang mờ mịt luống cuống nghe thấy, hồn về chỗ cũ, vô thức gầm theo: "Hải Đô A Lăng phản loạn, ám sát Khả Hãn, các ngươi nhanh đi đuổi bắt Hải Đô A Lăng!" Gã vừa run giọng thét, rũ sạch tội danh của mình, vừa phóng tới Ngõa Hãn Khả Hãn.

Trong hỗn loạn, Lý Trọng Kiền đuổi kịp gã, âm thầm rút đoản đao, giục ngựa xông lên trước, sắp tiến gần đến Ngõa Hãn Khả Hãn, cận vệ cạnh Khả Hãn kịp tỉnh táo lại, ba chân bốn cẳng đỡ Lão Khả Hãn dậy, che chắn cho ông rời đi. Mấy cận vệ trung thành khác cũng lao xao kịp phản ứng, bày trận, trường đao như rừng, thủ thế nghiêm mật, không cánh khó lọt.

Con ngươi Lý Trọng Kiền co rút. Thật đáng tiếc, nếu có thể thừa dịp loạn giết Ngõa Hãn Khả Hãn, Bắc Nhung chắc chắn chia năm xẻ bảy. Hắn ghìm ngựa dừng lại, nhìn qua Đại Vương Tử mặt đầy lo lắn, đang định rút đao giết gã, thì hộ vệ gã đã thúc ngựa đuổi theo.

Lý Trọng Kiền quả quyết thúc ngựa quay người, tập hợp với Lý Huyền Trinh và mấy thân binh, đuổi theo tâm phúc của Đại Vương tử tiếp tục tìm kiếm Hải Đô A Lăng.

Đột nhiên, trong đêm tối ù ù truyền đến, núi kêu biển gầm, trào lên mà tới, mặt đất rúng động.

Cả đám nghe tiếng nhìn lại, chỉ thấy trong bóng đêm đen ngòm phía Nam như có bóng đen di chuyển, càng lúc càng dài, càng lúc càng cao, càng lúc càng gần, như thủy triều cuồn cuộn, một sóng phủ lên một sóng.

Khi cơn lũ màu đen đến gần, là ánh đao lăn tăn lấp lánh.

Ngay sau đó, tiếng dây cung khiến da đầu tê dại cùng vang, vạn tên cùng bắn, dệt ra một tấm thiên la địa võng bằng thép phủ xuống đám người đang hỗn chiến.

Tiếng kêu thảm thiết nổi lên bốn phía.

Tên trực tiếp xuyên tấm ván gỗ dày, vốn không còn chỗ trốn, đám quân tốt vừa rồi thấy Lão Khả Hãn xuống ngựa, ý chí sớm đã sụp đổ, đành ôm đầu né tránh, tiếng gào thét liên tiếp.

Đại Vương tử và hộ vệ Lão Khả Hãn sợ vỡ mật, đồng thời cảnh báo: "Địch tập kích! Có địch tập kích!" Thủy triều đen ngòm di chuyển đó là một đội kỵ binh mai phục! Kỵ binh giết tới!

Đấy là thiết kỵ quân của quý tộc Bắc Nhung làm chủ, thừa cơ Đại Vương tử giằng co với Ngõa Hãn Khả Hãn lặng lẽ vây quanh Nha đình, lặng thinh tới gần, chắc chắn muốn phản!

Thân binh chạy trối chết.

Đại Vương tử hồn bay phách lạc.

Thảo nào thế cục Y Châu quỷ dị. Thảo nào gã có thể một đường suôn sẻ xông vào Nha đình. Thảo nào Vương công quý tộc đều âm thầm ủng hộ gã hành động.

Gã chỉ là mồi nhử, quý tộc phản loạn! Đại vương tử ngồi ngây ra trên lưng ngựa. Kỵ binh lao đến, ánh đao lập loè.

"Phụ Hãn!" Đại vương tử tỉnh táo lại, nắm chặt loan đao, hai mắt đỏ lên, mang thân binh giết tới bên cạnh Ngõa Hãn Khả Hãn, "Các ngươi che chắn cho Ngõa Hãn cha ta chạy thoát, ta bọc hậu!"

Dưới bao vây trùng điệp, thân binh trung thành với Khả Hãn nhanh chóng tập kết, vây Lão Khả Hãn vào chính giữa, lúc này không kịp chất vấn Đại Vương tử, tất cả rút đao chém giết, vừa đánh vừa lui.

Lý Trọng Kiền và Lý Huyền Trinh cũng ở trong đó.

Hai người nhìn chiến trận đen nghịt kỵ binh, lòng nặng nề: Bắc Nhung càng hỗn loạn, càng có lợi cho họ, nhưng chuyện phát triển đến giờ quá bất ngờ, rất có thể không thoát thân được.

Kỵ binh ra tay tàn nhẫn, thân binh từng người một ngã xuống. Đại Vương tử ân hận đã làm sai, chém giết đến phá lệ anh dũng.

Hai anh em vừa giết địch, vừa thầm nghĩ cách thoát thân, đầy người đẫm máu.

Ngay vào khắc Đại Vương tử hoàn toàn lâm vào tuyệt vọng, từ trên cao phía Tây bỗng dưng vang lên tiếng trống.

"Bảo vệ Đại Hãn!" Theo tiếng rống mang theo nội lực bàng bạc vang trên không của chiến trường, tiếng vó ngựa như mưa rào truyền đến, từ sườn núi, một kỵ binh mặc giáp đen bay xuống, thế như lôi đình.

Tướng lĩnh cầm đầu cường tráng cao lớn, áo giáp mỏng bọc lấy đường cong rắn chắc lưu loát, ánh lửa chiếu rọi, một đôi mắt sắc bén như chim ưng lấp lánh ánh vàng chói lọi trong đêm tối, quanh thân một cỗ khí sát phạt lạnh thấu xương.

"Các anh em, theo ta bảo vệ Đại Hãn!" Y gầm lên thật dài, dẫn đầu kỵ binh công kích.

Đội binh như thần binh từ trời giáng xuống xông vào chiến trận hỗn loạn, xung phong liều chết, xé trùng vây dày đặc của đám kỵ binh mở lỗ hổng nho nhỏ.

Đại Vương tử sửng sốt hồi lâu, nhìn Hải Đô A Lăng thật sâu, dẫn Ngõa Hãn Khả Hãn theo lỗ hổng chạy ra ngoài.

Lý Huyền Trinh nhận ra Hải Đô A Lăng, máu khắp người sôi trào, định giục ngựa tiến lên thì một đám thiết kỵ binh giết tới, hắn nâng đao đón đỡ, hai mắt đỏ rực, muốn xông tới nhưng phải đành cùng Lý Trọng Kiền lui lại.

Hai đội kỵ binh quấn giết, máu chảy thành sông.

Thân binh khuyên Lý Huyền Trinh Lý Trọng Kiền: "Công tử, hẳn Đại Vương tử đã phát giác chúng ta là gian tế, mau chạy đi thôi, giờ không rút lui sẽ không còn cơ hội!"

Lý Trọng Kiền khẽ cắn môi, thúc ngựa quay người. Họ đã làm Bắc Nhung lâm vào hỗn loạn, phải thừa cơ chạy ra khỏi Bắc Nhung, mau chóng tìm Lý Dao Anh. An nguy của con bé cực kỳ quan trọng, Hải Đô A Lăng sau này lại giết, hắn không thể vì cá nhỏ mất cá lớn.

Lý Huyền Trinh thúc ngựa đuổi theo Lý Trọng Kiền, dẫn theo thân binh rút khỏi Nha đình.

Sau lưng họ, ánh sao sáng rực, chém giết vẫn còn tiếp tục.

...

Hải Đô A Lăng dẫn đầu kỵ binh yểm trợ Ngõa Hãn Khả Hãn rút lui.

Tâm phúc thúc ngựa vọt tới cạnh y, nhỏ giọng nói: "Vương tử, không ấy chúng ta thừa loạn phản đi! Đại Hãn bản thân bị trọng thương, ngộ nhỡ có nguy hiểm, đám Đại Vương Tử sẽ không bỏ qua cho ngài!" Kế sách ám sát mấy vị Vương tử của họ thất bại, từ Cao Xương về Y Châu, Ngõa Hãn Khả Hãn đã khống chế mọi bộ hạ trung thành với Hải Đô A Lăng.

Hải Đô A Lăng và quan Đoạn Sự vụng trộm gặp mặt một lần, biết mình lâm vào tuyệt cảnh, không còn chỗ trốn, nghĩ sâu tính kỹ quyết định bí quá hoá liều, vào Nha trướng cúi đầu nhận mọi tội lỗi.

Y đánh cuộc đúng, Ngõa Hãn Khả Hãn không giết y.

Đám Vương tử giận tím mặt, Đại Vương tử mang binh giết tới Nha đình hưng sư vấn tội, mấy Vương tử khác cũng đang trên đường đuổi đến Nha đình.

Hải Đô A Lăng nhận tin, lo Ngõa Hãn Khả Hãn không chịu được áp lực, đổi ý muốn giết mình, tránh ra ngoại thành, đang quan sát tình huống thấy quý tộc phát động phản loạn, y cân nhắc một phen dẫn một đoàn binh tới hộ tống Ngõa Hãn Khả Hãn rời đi.

Lòng tâm phúc nóng như lửa đốt: "Vương tử, mấy vị Vương tử hận ngài thấu xương, sao không thừa cơ phản đi?"

Hải Đô A Lăng một đao đâm xuyên thiết kỵ, tiện tay xóa máu tươi đặc dính trên mặt, lắc đầu. "Ngươi nghĩ ta phản thì giữ được mạng à? Lãnh địa thuộc hạ của ta giờ đều nằm trong tay Đại Hãn, ông ta mà chết đi, ta không còn gì cả, mấy quý tộc kia không kẻ nào coi trọng ta. Đại Hãn còn sống, hôm nay ta lập công chuộc tội, sau này có thể lấy tín nhiệm của ông ta lần nữa."

Dưới ánh sao tràn ngập một mùi máu tanh nồng đậm. Hải Đô A Lăng giơ lên trường đao.

Bắt đầu từ năm ngoái, y mọi việc không thuận lợi, mâu thuẫn với đám Vương tử ngày càng sâu, lần này lật đổ cả, tâm huyết nhiều năm như nước chảy về biển Đông, không thể không bắt đầu lại từ đầu.

Y không thể cứ vậy mà thua, y còn trẻ, tinh lực dồi dào, cơ thể cường tráng, chỉ cần đợi một thời gian sẽ ngóc đầu trở lại.

Y lĩnh binh chinh phạt đất đai phì nhiêu nhất, đoạt lại cô gái đẹp nhất từ Vương Đình.

Trước đó, y nhất định phải giữ được tính mạng.

Hải Đô A Lăng hét lớn, tiếp tục chém giết.

...

Màn đêm buông xuống, Bắc Nhung long trời lở đất.

Quý tộc phát động phản loạn, Hải Đô A Lăng hộ tống Ngõa Hãn Khả Hãn và Đại Vương tử rút khỏi Y Châu.

Trong hỗn loạn, Ngõa Hãn Khả Hãn hạ lệnh dời trướng Oát Lỗ Đóa, triệu tập kỵ binh bộ lạc các nơi tiến về Oát Lỗ Đóa Cần Vương, đồng thời truyền lệnh phong tỏa tin tức các nơi, nhất là phải chú ý đến động tĩnh Vương Đình, lệnh cho quân canh giữ biên giới ngày đêm tuần tra, bắn giết tất cả ưng đưa thư bay về phía Vương Đình.

Lý Huyền Trinh, Lý Trọng Kiền thừa dịp loạn rời đi, trong đêm phi nước đại hơn mười dặm, phát hiện sau lưng có đội truy binh đuổi theo rất sát. Ngõa Hãn Khả Hãn bị thương nặng trên đường rút lui về Oát Lỗ Đóa đã tra hỏi Đại Vương tử, nghi ngờ trong quân của gã có gian tế, rất nhanh chóng phái mấy đội binh truy đổi.

Đoàn người Lý Huyền Trinh tránh né truy sát, cảm khái nói: "Ngõa Hãn Khả Hãn không hổ là Đại Hãn Bắc Nhung... Không thể khinh thường."

Mặc dù Ngõa Hãn Khả Hãn giữa mâu thuẫn các con mà chủ quan mất Kinh Châu, suýt nữa chết dưới ám tiễn của Lý Trọng Kiền, còn bị quý tộc phản loạn dòm ngó Nha đình, nhưng cuối cùng vẫn là Đại Hãn Bắc Nhung, tỉnh táo lại đã nhanh chống khống chế thế cục, trốn về Oát Lỗ Đóa, phong tỏa biên giới, uy hiếp bộ lạc ngo ngoe muốn động, sấm rền gió cuốn, thật đáng kinh sợ.

Phong thái thời tráng niên của ông, có thể thấy vài dấu vết.

Lý Huyền Trinh thở dài: "Ta thật chủ quan." Cứ nghĩ sau khi Ngõa Hãn Khả Hãn trọng thương mấy vị Vương tử sẽ lập tức lâm vào nội đấu, Bắc Nhung chia năm xẻ bảy, họ liền thừa loạn rời khỏi Bắc Nhung.

Không ngờ Ngõa Hãn Khả Hãn có thể chống cự, dù các nơi tuần tự bộc phát phản loạn, nhưng hiển nhiên là Khả Hãn đã tính trước kỹ càng, ổn định cục diện.

Họ vẫn bị vây ở Bắc Nhung.

Thân binh nói: "Ngõa Hãn Khả Hãn và Phật Tử Vương Đình giằng co nhiều năm, tấn công Vương Đình mãi không được, lòng người tan rã, quý tộc oán trách rất nhiều năm, nói Đại Hãn của chúng không còn dùng được, hiện tại xem ra, bảo đao Khả Hãn chưa hề cũ kỹ."

Lý Huyền Trinh nhìn Lý Trọng Kiền chốc lát, lặng thinh.

Ngõa Hãn Khả Hãn khó đối phó vậy, người được coi là khắc tinh Ngõa Hãn Khả Hãn Phật Tử Vương Đình lại thế nào? Hắn không muốn cùng Lý Trọng Kiền thảo luận chuyện này.

...

Nhớ tới đây, Lý Huyền Trinh thở thật dài.

Rốt cuộc vì chưa quen địa hình, dù lấy tốc độ nhanh nhất rời khỏi Y Châu, nhưng lạc mất phương hướng giữa mặt tuyết mênh mông, bị truy binh đuổi kịp, sau mấy trận chém giết, mấy người tổn thương mới chồng tổn thương cũ, suýt nữa chết dưới tay người Bắc Nhung.

Bộ hạ Hải Đô A Lăng khi đó muốn bắt sống nên để lại người sống. Còn Ngõa Hãn Khả Hãn không biết thân phận của họ, cứ nghĩ là mật thám, lệnh truy binh giết chết không cần hỏi tội, truy binh ra tay không lưu tình, lần này mỗi mũi tên đều bôi độc.

Thân binh liên tiếp chết đi, Lý Trọng Kiền bị độc tiễn làm bị thương, xói lại vết thương cũ, ý thức hỗn loạn.

Lý Huyền Trinh đúng như hắn từng nói, mạng lớn, mấy lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Hắn không kịp vui mừng, vì rất nhanh phát hiện mình sắp rơi vào một tình cảnh lúng túng: Lúc bỏ trốn vì muốn tránh né truy binh, đành rời xa khỏi con đường lớn, không thể phân biệt phương hướng, cách Vương Đình càng lúc càng xa, Oát Lỗ Đóa ngày một gần.

Tại một lần bị truy binh vây quét, cùng đường mạt lộ, Lý Huyền Trinh quả quyết kéo Lý Trọng Kiền trà trộn vào Nha đình Bắc Nhung.

Chỗ nguy hiểm nhất chính là chỗ an toàn nhất.

Hắn quả nhiên mạng lớn, ẩn thân trong chuồng ngựa tránh né nửa tháng, đói đến choáng đầu hoa mắt thì nhìn thấy một người quen —— Talie theo Trưởng công chúa rút lui đến Oát Lỗ Đóa.

Cứ mấy ngày Talie đưa cơm cho hắn một lần.

Hôm ấy, một đội binh tuần tra phát hiện chỗ hắn ẩn thân chạy đi báo tin, hắn không dám chậm trễ, giao Lý Trọng Kiền cho Talie chăm sóc, bản thân dụ binh sĩ đâm đầu vào doanh trướng Trưởng công chúa. Bà còn đang tìm "thân binh Trung Nguyên" trốn từ trong tay bà, Lý Huyền Trinh lại chủ động tìm đến địa bàn của bà.

Nếu Trưởng công chúa dám giao hắn cho Ngõa Hãn Khả Hãn, hắn sẽ kéo bà theo xuống nước, nói hai người nội ứng ngoại hợp, đảo loạn Bắc Nhung.

Thân phận Trưởng công chúa mẫn cảm, không dám mạo hiểm.

Giữa hai cái hại chọn cái nhẹ hơn, rơi vào tay Trưởng công chúa, chí ít hắn có thể giữ được tính mạng.

Trong địa lao quanh quẩn tiếng nức nở.

Ánh sáng mờ nhạt từ bó đuốc tỏa ra lồng lên trên người cặp đôi bạn cũ Lý Huyền Trinh Chu Lục Vân xa cách đã lâu

Một người thần sắc bình tĩnh, một người nước mắt liên miên.

Lý Huyền Trinh ổn định tâm thần, ngước nhìn Chu Lục Vân: "Vân Nương... Lúc nàng ở Vương Đình đã gặp Thất Nương phải không?"

Chu Lục Vân sững ra, nước mắt dừng bên má.

Lý Huyền Trinh nhìn cô ta, giữa hai đầu lông mày ẩn vẻ lo lắng.

Chu Lục Vân há hốc mồm, "Chàng đến Bắc Nhung tìm ta... vừa lúc ta đi Vương Đình..."

Lý Huyền Trinh lắc đầu, ngắt lời: "Vân Nương, ta không phải vì nàng mà đến Bắc Nhung."

Sấm sét giữa trời quang nổ bên tai, Chu Lục Vân cảm thấy ngực mình như bị nện mạnh một cú, không thể thở nổi.

Vậy sao chàng đến Bắc Nhung?

Chu Lục Vân vô thức muốn hỏi đến cùng nhưng lời đến khóe miệng, lại nuốt vào.

Cô ta nhìn Lý Huyền Trinh bẩn thỉu, đối mặt với ánh mắt hắn, thần sắc trên mặt vẫn giống như xưa, lại mang vẻ lạnh nhạt không che dấu, lòng như thít chặt.

Như từ giữa đám mây rơi xuống vào cát bụi, liên tục vô tận chìm sâu xuống.

Lý Huyền Trinh nhìn Chu Lục Vân, cảm giác được tình ý triền miên trong mắt cô ta, khẽ giật mình, lập tức cười khổ, nhíu mày rậm. Hắn cứ nghĩ lúc cô ta rời đi, giữa họ đã kết thúc.

"Vân Nương, lúc nàng rời Trường An, ta chưa cùng nàng nói lời từ biệt cho tử tế." Hắn đã sớm buông, không thể để cô hiểu lầm.

Chu Lục Vân ngơ ngác nhìn Lý Huyền Trinh: "Chàng muốn từ biệt?"

Vẻ mặt Lý Huyền Trinh bình tĩnh, ánh mắt minh mẫn, quanh thân khí thế nặng nề như có như không, dùng cách thẳng thắn nhất để cô ta đối mặt: "Đúng vậy, chúng ta đã nhất đao lưỡng đoạn, cũng nên đàng hoàng từ biệt."

Chu Lục Vân chấn động cả người, sắc mặt trắng bệch, ngón tay bấu chặt tay áo.

Nhất đao lưỡng đoạn.

Chàng thế mà muốn cùng mình nhất đao lưỡng đoạn.

*chỗ này mình tạm không thay thế chắc ai cũng hiểu. một đao hai khúc, hai đứa hai nơi. hahaha

Lý Huyền Trinh dựa vào tường đất, nhúc nhích chân, xiềng xích loảng xoảng. "Trước khi mẹ nàng lâm chung, ta đã đồng ý bà sẽ chăm sóc cho nàng thật tốt... Ta đã phụ lời dặn của bà, không chăm sóc tốt cho nàng."

Khi ấy hắn chỉ là một thiếu niên. Dù người khoác chiến giáp, xông pha chiến đấu, nhìn cử chỉ có độ, chững chạc già dặn, nhưng thật ra cũng chỉ là một thiếu niên chưa thoát khỏi thù mẹ, táo bạo âm trầm.

Hắn nhìn Chu Lục Vân đau lòng muốn chết, tựa như đang tận mắt nhìn thấy Đường thị tự thiêu mình.

Thiếu nữ Chu Lục Vân nước mắt rơi như mưa, sợ hãi nhìn hắn. Lý Huyền Trinh nhìn nàng, như nhìn xuống thiếu niên Trường Sinh một thân một mình: "Ta sẽ chăm sóc thật tốt cho ngươi..."

Chu Lục Vân sẽ không giống như hắn tuyệt vọng thống khổ, sẽ không bị ác mộng tra tấn đêm đêm, cô ta sẽ được chăm sóc tốt nhất, hắn thiện đãi cô, bao dung cô, thứ mà hắn từng khao khát mà vĩnh viễn cũng không chiếm được, hắn cũng có thể cho Chu Lục Vân.

Khóe miệng Lý Huyền Trinh nhẹ vểnh, bên môi nở nụ cười tự giễu. Hắn năm đó thật sự quá ngây thơ, ngay cả mình còn chiếu cố không tốt, sao có thể chăm sóc tốt cho Chu Lục Vân nhu tràng bách chuyển* đây?

*trong lòng tích tụ rất nhiều sầu khổ

Mấy năm qua, hắn đối với cô ta đủ mọi nhường nhịn tha thứ không còn nguyên tắc, cũng không thể giảm bớt áy náy của hắn đối Đường thị, cũng không thể đắp vào chỗ trống trong lòng.

Đã từng, có một chớp mắt, hắn tưởng có người có thể làm bạn bên cạnh mình, đi vào đáy lòng âm u nhất của hắn, vuốt ve nỗi đau đớn của hắn.

Thế nhưng chỉ sau một khắc, người khiến hắn quên đi thù hận ngắn ngủi đó kiễng chân, vui mừng chỉ vào Lý Trọng Kiền bên bờ: "Trường Sinh ca ca, người cưỡi con ngựa đen ấy chính là anh trai ta!"

Cho đến giờ, Lý Huyền Trinh vẫn còn nhớ rõ câu nói ấy bên tai, cảm giác máu cả người từng chút từng chút như đông lại.

Vừa lạnh vừa đau.

Vừa mới cho hắn hi vọng, sau đó tàn nhẫn xé nát ngay trước mặt hắn, như đang trèo từ huyệt động âm u sâu không đáy lên, mắt thấy sắp chạm đến một chùm sáng ấm áp, lại bị một cước thô bạo đạp xuống.

Lần này, hắn rơi không điểm dừng, không còn sức lực leo lên.

Mà nàng thì chẳng biết gì, ngẩng khuôn mặt nhỏ nhìn hắn, mi mắt vụt sáng, đôi ngươi đen như mực tràn đầy ý cười.

Lý Huyền Trinh hận nàng.

Nhiều người đi Xích Bích cầu y như thế, sao hết lần này tới lần khác nàng đến chăm sóc hắn? Sao hết lần này tới lần khác là con gái Tạ Mãn Nguyện thế?

Vết thương quặn đau, Lý Huyền Trinh nhíu mày xuýt xoa, từ trong hồi ức hỗn độn tỉnh táo lại.

"Vân Nương..." Hắn chậm rãi nói, "Nàng rời Trung Nguyên cũng tốt, Lý Đức và đại thần trong triều chỉ lợi dụng nàng, cô mẫu là người thân duy nhất, thật lòng yêu thương nàng, dự định cho nàng, sau này nàng theo cô mình, hãy trân trọng, bà ấy mới là người chăm sóc tốt cho nàng."

Chu Lục Vân ức chế không nổi run lên.

"Vậy còn chàng?" Giọng nàng cũng run lên, "còn chúng ta?"

"Không có chúng ta." Lý Huyền Trinh nhìn vào mắt cô, "Nàng là Vân Nương của Chu gia, ta là Lý Huyền Trinh con trai của Hán gia, sau này hai ta đường ai người ấy đi, không còn liên quan."

Chu Lục Vân ngồi cứng đờ ngoài lao thất, không hề nhúc nhích, người lạnh buốt.

Trước kia họ từng cãi nhau, cô ta luôn nói câu nhất đao lưỡng đoạn với hắn, hắn không còn cách nào mới nén lửa giận trấn an cô, dù đôi khi hắn cũng lạnh lùng thế này nhưng cô ta có thể cảm giác được, lần này không hề giống với bất kỳ những lần tranh chấp trước.

Giờ phút này, Lý Huyền Trinh rơi trên hai luồng ánh mắt của cô ta, không hề phẫn hận, chỉ một vẻ vô cùng bình tĩnh thoải mái.

Chàng thật sự không cần mình nữa. Chu Lục Vân nhắm mắt lại, nước mắt lã chã.

Giọng Lý Huyền Trinh bình ổn, đầy thản nhiên: "Trải qua chuyện trước kia, Hải Đô A Lăng nghĩ nàng đã mất đi giá trị lợi dụng, nên nàng mới yên ổn sống qua ngày, với nàng hay ta đều tốt. Chuyện Trung Nguyên sau này, nàng và cô nàng không cần nhúng tay, tránh bị người Bắc Nhung lợi dụng. Cuối cùng Trung Nguyên là quê hương của các người, dân lành vô tội, các người lo tốt cho mình đi."

Chu Lục Vân nghe được ý ngoài lời của hắn. Là nhắc nhở, cũng là cảnh cáo.

Sau này, giữa họ triệt để chia rõ giới hạn, cô ta không còn ảnh hưởng đến quyết sách của hắn, Hải Đô A Lăng cũng không thể lấy cô uy hiếp hắn, hai bên bình an vô sự. Nếu có ý can thiệp Trung Nguyên hắn sẽ không còn nể mặt.

Chu Lục Vân ngửa mặt lên, một tia mờ mịt lướt qua đáy mắt.

Chàng quyết tuyệt đến thế, không thể tin được.

Cô không nhìn đôi mắt phượng hẹp dài, ánh mắt đảo lung tung, rơi xuống còng tay trên người hắn. "Ta cứu chàng ra, Trường Sinh ca..."

Lý Huyền Trinh hít một hơi, thản nhiên nói: "Vân Nương, sau này đừng gọi ta thế nữa."

Chu Lục Vân gắt gao cắn môi.

Lý Huyền Trinh nhắm mắt lại, "Ta sẽ nghĩ cách chạy trốn, nàng đừng dính vào, nếu không sẽ liên lụy người thân duy nhất của mình. Vân Nương, sau này dù phát sinh chuyện gì, nàng hãy coi như không biết ta."

Hắn suy nghĩ cho mình, nhưng Chu Lục Vân không hề vui nổi. Bởi vì không còn tình cảm với mình, hắn mới có thể lạnh lùng bình tĩnh như vậy.

Cô nhẹ nhàng phủi nước mắt bên má, vẻ chết lặng: "Chàng không phải đến Bắc Nhung vì ta... Vậy thì vì ai mà chàng đến đây?" Nhớ đến dáng vẻ lo lắng của Lý Huyền Trinh vừa rồi, lòng cô thầm chấn động.

Chẳng lẽ là vì Lý Thất nương?

Không thể nào, Lý Thất nương là kẻ thù của chàng. Năm đó vì xả giận cho cô mà chàng đã giết đi con chó con, chàng còn dùng kế để Lý Thất nương thay cô hòa thân... Vô số suy đoán chuyển qua suy nghĩ của Chu Lục Vân, cái nào cũng thuyết phục hơn là Lý Thất nương.

Lý Huyền Trinh khẽ cau mày, hời hợt nói: "Vì sao ta đến Bắc Nhung, không quan trọng." Cách lớp song, hắn đối mặt với Chu Lục Vân. "Vân Nương, trân trọng."

Chu Lục Vân dời mắt, đầu ngón tay bấm sâu vào lòng bàn tay, lặng đi rồi nói: "Ta không giúp chàng, cô mẫu có thể sẽ giết chàng."

Lý Huyền Trinh cười, "Ta tự có tính toán."

Chu Lục Vân đứng dậy, đưa lưng về phía hắn, nói: "Chàng dụ ta đến, không phải xin ta cứu chàng... Vừa rồi chàng hỏi ta có gặp Lý Thất nương ở Vương Đình không, vì sao lại hỏi thế?" Xa cách đã lâu, câu đầu tiên chàng hỏi là người khác, chẳng lẽ Lý Dao Anh so với an nguy của chàng còn quan trọng hơn à?

Lý Huyền Trinh ngừng một chút.

Hắn muốn hỏi Chu Lục Vân: Thất Nương thế nào rồi?

Mập, hay ốm?

Mấy ngày bị bao vây ở Bắc Nhung, lần lượt hắn bị chận đường truy bắt, lúc ấy Thất Nương tuyệt vọng bất lực đến nhường nào?

Thật ra hắn không muốn vội vã hỏi ra, nhưng cứ nghĩ đến Chu Lục Vân vừa mới gặp Lý Dao Anh, hắn vẫn không nhịn được hỏi ra miệng.

"Vân Nương, ta có lỗi với muội ấy, chỉ muốn biết muội ấy ổn không."

Chu Lục Vân đi ra ngoài.

Lý Thất nương là em gái chàng, chàng quan tâm em, hợp tình hợp lý. Chàng đến Bắc Nhung có thể là vì quốc sự.

Cô từng lần một tự nói với bản thân.

...

Chu Lục Vân ở trong trại ngựa.

Trưởng công chúa phập phồng lo lắng, sợ cô ta khóc sướt mướt đòi cùng Lý Huyền Trinh về Trung Nguyên, không ngờ ngày ngày cô lặng thinh, không làm ầm ĩ, âm thầm thở phào.

Ngày ngày Talie đưa cơm cho Lý Huyền Trinh, báo thương thế Lý Trọng Kiền.

Chu Lục Vân cũng ngày ngày đi gặp Lý Huyền Trinh. Lý Huyền Trinh không nghe ngóng chuyện Lý Dao Anh từ cô ta nữa.

Hôm đó, quan Đoạn Sự chồng của Trưởng công chúa về trướng, Trưởng công chúa bất an trong lòng, dặn thân binh trông kỹ Chu Lục Vân.

Quan Đoạn Sự không phát giác tâm sự nặng nề của vợ, chỉ thuận miệng hỏi một câu Chu Lục Vân về chưa.

Trưởng công chúa nhìn mặt mà nói, biết quan Đoạn Sự công vụ bề bộn, lòng thầm tính toán, nhanh chóng tìm cơ hội đẩy củ khoai lang bỏng tay Lý Huyền Trinh đi.

Quan Đoạn Sự căn dặn Trưởng công chúa: "Dạo này các nàng nên ở trong trướng, đừng đi lại."

Trưởng công chúa run trong lòng, bảo được.

Quan Đoạn Sự lấy mấy món quần áo, vội vàng rời đi đến đại trướng.

...

Thời gian trước, Bắc Nhung nổi loạn, Ngõa Hãn Khả Hãn suýt bỏ mạng ở Y Châu, sống lại trong nguy hiểm. Sau khi chạy trốn tới Oát Lỗ Đóa, ông tương kế tựu kế, một mặt ổn định thế cục, một mặt điều binh khiển tướng, dẹp yên quý tộc phản loạn, sau đó thuận tay chiếm mười bộ lạc thừa dịp loạn vùng dậy, rồi thả tin, khiến Vương Đình nghĩ ông đã bỏ mình, dẫn dụ Vương Đình tiến đánh.

Đợi hơn một tháng, quân canh gác biên giới của Vương Đình vẫn giữ quy củ, dù Bắc Nhung khiêu khích hay tỏ ra yếu thế cỡ nào, bọn họ vẫn hờ hững.

Quan Đoạn Sự nhắc nhở Ngõa Hãn Khả Hãn: "Đại Hãn, xưa nay Phật Tử Vương Đình luôn làm việc cẩn thận."

Ngõa Hãn Khả Hãn hừ lạnh, nói: "Phật Tử cẩn thận, nhưng đám thế gia Vương Đình tên nào tên nấy cuồng vọng, mấy năm trước chúng ta chiếm lĩnh Phù Thổ Thành, cắt đứt thương đạo, mấy đoàn buôn của thế gia tổn thất không ít, luôn không cam tâm, kêu gào đòi dẫn binh chiếm Phù Thổ Thành, mấy năm qua không phải do Phật Tử ngăn chặn, đám đó đã sớm động thủ! Thế cục lúc này có lợi cho bọn chúng, tuyệt đối sẽ không biết điều!"

Quan Đoạn Sự nghĩ nghĩ, nói: "Có lẽ Phật Tử không cho phép bọn chúng xuất binh."

Ngõa Hãn Khả Hãn thất vọng, chả nhẽ Phật Tử lại nhìn ra mọi chuyện chỉ là cái bẫy?

Ông thầm thất vọng nhưng không lộ ra mặt, đợi thế cục ổn định, triệu tập hết đám con trai đến Oát Lỗ Đóa họp bàn.

...

Mấy ngày nay, Vương tử, thân tộc Vương thất nhận chiếu lệnh lần lượt chạy đến Oát Lỗ Đóa.

Quan Đoạn Sự nhìn ra Ngõa Hãn Khả Hãn phải giải quyết tranh chấp giữa đám Đại Vương tử và Hải Đô A Lăng, lòng không yên, bèn thương lượng đối sách với Hải Đô A Lăng.

Hải Đô A Lăng cười khổ: "Đại Hãn nói gì, thì ta nghe vậy. Cùng lắm thì ta làm nô lệ cho đám Đại Vương tử bọn hắn, nhịn một lần, lần sau, ta đòi lại!"

Quan Đoạn Sự tán thưởng gật đầu: "Hàn Tín có thể chịu nhục chui háng, Vương tử không phải người phàm, là hùng ưng trên thảo nguyên, là con cháu của Sói, có thể nhịn nỗi nhịn người thường không thể, Vương tử nhớ lấy, tuyệt đối không thể chống đối Đại Hãn."

Đêm đó, Oát Lỗ Đóa giới nghiêm, ngoài doanh địa như đầm nước lặng yên tĩnh.

Các Vương tử phụng chiếu yết kiến, đến trước Nha trướng, hộ vệ yêu cầu toàn bộ giao ra vũ khí. Cả đám nhìn nhau, hùng hùng hổ hổ cởi bội đao, chủy thủ, tiếng vũ khí rơi xuống đất vang vang.

Hộ vệ kiểm tra từng Vương tử một, xốc màn nỉ lên.

Đại trướng của Ngõa Hãn Khả Hãn lớn gấp mấy lần người khác, trên đất trải thảm, bốn góc dựng cây đèn đỡ mười mấy ngọn đuốc cháy hừng hực, sáng trưng cả lều trướng.

Ngõa Hãn Khả Hãn thân mặc áo khoác da hổ ngồi trên Vương tọa bọc bằng da thuộc, cặp mắt sắc bén lạnh lùng quét qua các con một vòng, ánh mắt uy nghiêm.

Ánh lửa phần phật, bầu không khí nặng nề.

Ngõa Hãn Khả Hãn nhìn Hải Đô A Lăng bị xa lánh bên ngoài: "A Lăng, ngươi ý đồ ám sát Kim Bột, biết tội chưa?"

Hải Đô A Lăng bận bịu vượt qua đám người, thân hình cao lớn quỳ gối dưới chân Khả Hãn, thuận theo mà nói: "Tôi biết tội, xin Đại Hãn trách phạt."

Mấy người Đại Vương tử nói khích: "Y phạm vào tội chết!"

"Đúng! Nếu y không ám sát Kim Bột gây ra náo loạn lớn đến thế, mấy bộ lạc kia nào dám phát động phản loạn? Tất cả đều do y hại! Phụ Hãn, A Lăng phạm vào tội chết!"

"Lưu đày y đến Tát Mạt Kiện đi!"

Giữa ồn ào to tiếng, Ngõa Hãn Khả Hãn vẫn khí định thần nhàn, nhìn thằng con thứ ba kêu la hăng say nhất: "Ngươi thấy nên xử lý A Lăng sao nào?"

Thằng Ba không chút nghĩ ngợi, nói: "Phải chặt đầu y ạ!"

Một Vương tử khác phụ họa: "Vậy lợi cho y quá! Cột vào thân ngựa ấy, để ngựa kéo chạy, kéo chết y!"

Hải Đô A Lăng quỳ dưới đất, tư thái cung kính, không nhúc nhích, mặt đầy vẻ áy náy.

Ngõa Hãn Khả Hãn không nói gì, chờ các con nói xong, cười lạnh, "A Lăng ám sát Kim Bột, luận về tội đáng phải chết..."

Mặt mấy Vương tử lộ vẻ đắc ý.

Ngõa Hãn Khả Hãn đột nhiên chuyển đề tài, "Vậy còn các ngươi thì sao?"

Mấy Vương tử sững ra.

Ngõa Hãn Khả Hãn chợt vỗ tay vịn, giận dữ nhìn đám người: "Trước đó các ngươi đặt cạm bẫy muốn giết A Lăng, biết tội chưa?"

Cả đám nhìn nhau.

Ngõa Hãn Khả Hãn liếc nhìn một vòng, "Con cháu Thần Lang, thà cầm đao anh dũng chết đi cũng không ngại lùi bước. Các ngươi thân là Vương tử, dùng loại thủ đoạn tiểu nhân này mưu hại anh em, là sỉ nhục Lang tộc!"

"Nếu A Lăng chắc chắn phải bị xử tử, thế các ngươi thì sao?"

Các Vương tử nghiến răng kèn kẹt, ôm hận quỳ xuống, vẻ mặt vẫn có phần không cam lòng.

Ngõa Hãn Khả Hãn thở dài, nâng tầm mắt, "Trong người chúng ta có máu của Thần Lang chảy."

Ánh lửa lay động chiếu lên khuôn mặt già nua của ông, cặp mắt đục ngầu thả ra mấy tia thần thái.

"Tổ tiên của chúng ta đến từ giữa núi sâu băng tuyết, bộ lạc ta từng thấm thía nỗi cơ cực khổ sở, vừa đến mùa đông, thức ăn cạn kiệt, già yếu trong tộc chết từng đàn. Lúc ta còn nhỏ, bộ lạc bị ức hiếp, đàn ông sung làm nô lệ cho bộ lạc khác, đàn bà bị chúng tùy ý vũ nhục, mẹ ta vì không có mảnh quần áo che thân, sinh em trai ta xong chết cóng trong đêm đông. Ta cùng anh em ta trải qua cửu tử nhất sinh, cuối cùng mới thành một bộ lạc lớn mạnh, nhất thống thảo nguyên, để dòng họ ăn no mặc ấm, có được nơi trồng trọt tốt tươi nhất, chiếm mảnh đất phì nhiêu nhất, chọn đàn bà có khả năng sinh dưỡng tốt nhất."

"Họ nói chúng ta là dã man mọi rợ, chế giễu chúng ta lỗ mãng không tiến hóa, thế nhưng văn minh mà chúng cao ngạo cho là cao thâm không thể ngăn cản chúng ta xâm nhập, chiến sĩ của chúng không ngăn cản được thiết kỵ anh dũng của chúng ta, chúng không thể cúi thấp cái đầu cao quý của mình mà xưng thần với chúng ta."

"Thảo nguyên dê bò béo tốt, tuấn mã cao lớn, ốc đảo màu mỡ giữa cát vàng, vàng chảy xuôi về phương Đông... đấy đều là con mồi của chúng ta, vó ngựa thiết kỵ Hãn quốc đạp đến đâu, đấy đều là lãnh thổ của chúng ta!"

Ánh đuốc chập chờn, gió đêm đập vào lều trướng.

Ngõa Hãn Khả Hãn ngồi trên Vương tọa đen nhánh, nhìn các con mình. "Dù tuổi ta đã già, nhưng ta còn có thể lãnh binh tác chiến, ta muốn dẫn dắt con dân của ta tiếp tục chinh phạt, chỉ có cái chết mới ngăn được bước chân ta."

"Còn tụi bây? Tụi bây đang tuổi tráng niên, xa hoa dâm đãng, ngồi mát ăn bát vàng, đi săn, ca múa cùng ca cơ Quy Tư, uống rượu bù khú, chưa từng lập công lao cho Hãn quốc lớn mạnh đã không đợi kịp mà tự giết nhau, chờ leo lên ngôi Vương."

Từng câu từng câu, ngữ điệu bình thản, như tán gẫu chuyện nhà.

Nghe vào tai mấy người Đại Vương tử, lại như tiếng sấm vang rền, cả đám xấu hổ cúi đầu, nằm rạp trên tấm thảm nỉ trên mặt đất, không dám lên tiếng.

Ánh mắt Ngõa Hãn Khả Hãn đảo qua từng người.

"Tụi bây nghĩ leo lên ngôi Vương là có thể ra lệnh tất cả bộ lạc à?"

"Ngu xuẩn!"

"Chúng ta là một đàn sói, muốn làm sói đầu đàn, tất phải trải qua một trận chém giết tàn khốc. Hãn quốc do từng bộ lạc mà thành, mỗi một bộ lạc đều có tù trưởng riêng, mà ta là Hãn của chúng Hãn, tù trưởng của mọi tù trưởng. Ta sống, họ không dám vọng động, ta chết đi, họ liền sẽ lộ ra nanh vuốt, cắn xé máu thịt tụi bây, đám ngốc tụi bây sao có thể là đối thủ của họ hả?"

"Nhìn tụi bây đi, lúc Y Châu bị mấy bộ lạc khác vây công, đứa nào trong tụi bây có năng lực xoay chuyển tình thế hả? Nếu lúc ấy ta chết đi, xác tụi bây đã bị gặm đến không còn sót một mẩu từ lâu rồi!"

"Muốn ngồi vững vàng ngôi vị Hãn, không chỉ phải áp chế giặc trong, còn phải đối phó địch ngoài, đứa nào trong tụi bây nắm chắc chiến thắng Phật Tử Vương Đình?"

Đám con trai mặt đỏ tới mang tai, không dám cãi lại.

Ngõa Hãn Khả Hãn hít một hơi thật sâu, ánh mắt ra hiệu hầu cận bên cạnh. Hầu cận rút từ trong túi đựng tên ra mười mấy mũi tên, giao cho mấy vị Vương tử.

Mấy Vương tử chưa hiểu mấy, ngồi dậy, mỗi người cầm một cây vũ tiễn trong tay, cùng nhìn Ngõa Hãn Khả Hãn.

Ngõa Hãn Khả Hãn nói: "Bẻ gãy nó."

Mấy Vương tử thưa vâng, tay dùng sức, răng rắc mấy tiếng, bẻ gãy vũ tiễn.

Ngõa Hãn Khả Hãn lại hất cằm với hầu cận. Hầu cận đưa ra một bó vũ tiễn, đặt trên nệm nhung.

Ngõa Hãn Khả Hãn nói: "Từng đứa tụi bây bước lên, xem đứa nào có thể bẻ gãy bó tên này."

Đám con nhìn bó tên trên đất, hiểu ra, nhìn nhau trao đổi một ánh mắt rồi nhìn qua Hải Đô A Lăng.

Ngõa Hãn Khả Hãn sâu xa nói: "Một cây tên dễ gãy, bó tên thì khó, tụi bây là anh em ruột thịt, A Lăng cũng là anh em của tụi bây, nếu tụi bây có thể đoàn kết như một, lo gì Hãn quốc không thể lớn mạnh? Đến lúc đó, Đông đến biển cả, Tây đến Sơn Lĩnh, đều là lãnh địa của tụi bay! Còn nếu tự giết lẫn nhau, những cây tên gãy này, chính là kết cục của tụi bây đó!"

Mấy thằng con lòng đã hiểu ra, hai mắt rưng rưng, quỳ xuống đất dập đầu nói: "Phụ Hãn dạy phải, bọn con biết sai rồi! Từ nay về sau chắc chắn sẽ thay đổi, không phạm phải hồ đồ nữa!"

Ngõa Hãn Khả Hãn hơi nheo mắt lại, ánh mắt dừng lại trên từng đứa con trai một lát, khoát khoát tay. "Từ giờ trở đi, lộn xộn giữa đám anh em tụi bây coi như xóa bỏ, sau này phải đoàn kết một lòng, nhớ kỹ thân phận mình, tụi bây là con cháu của Thần Lang, đừng để con cháu của tụi bây hổ thẹn!"

"Ai còn dám ra tay độc ác với anh em mình, ta tự tay xử quyết nó!"

Đám người trầm giọng vâng dạ, thề thốt một phen rồi cáo lui ra ngoài.

Ngõa Hãn Khả Hãn nói: "A Lăng ở lại."

Hải Đô A Lăng cứng đờ người, bò đến bên chân Khả Hãn, rơi lệ nói: "Đại Hãn đối với tôi ân trọng như núi, tôi không thể báo đáp, nếu giết tôi có thể làm lắng lại phẫn nộ của các vị Vương tử, tôi nguyện tự mình kết thúc, báo đáp ơn nuôi dưỡng của Đại Hãn!"

Ngõa Hãn Khả Hãn cúi đầu nhìn y, nhíu mày. "A Lăng, con của ta cũng không bằng ngươi, nếu chúng nó có thể giống ngươi co được dãn được, ta cũng không cần tốn nhiều tâm sức thế này."

Hải Đô A Lăng chảy mồ hôi lạnh ròng ròng.

Ngõa Hãn Khả Hãn dựa vào Vương tọa, thản nhiên nói: "A Lăng, ngươi có từng nghĩ, chúng ta đã thống nhất thảo nguyên, sao tiến về phía Tây không? Ta nhiều lần thua dưới Phật Tử Vương Đình, sao vẫn cứ chấp mê bất ngộ, kiên trì muốn đánh Vương Đình cho bằng được?"

Hải Đô A Lăng cân nhắc: "Là vì Vương Đình giàu có."

Ngõa Hãn Khả Hãn lắc đầu: "Không, sở dĩ ta đánh Vương Đình, là vì ta không có lựa chọn."

Hải Đô A Lăng ngây ngẩn.

Ngõa Hãn Khả Hãn thở dài, "Chúng ta là bộ lạc trên lưng ngựa, không trồng trọt lương thực, không dệt được vải tinh xảo, không biết mua bán, không có Quốc đô giàu có. Hết thức ăn, chúng ta đi cướp, bắt ép các bộ lạc khác giao ra lương thực, chúng ta dùng vũ lực chinh phục, yêu cầu họ cung cấp nuôi dưỡng bộ tộc ta, khi thiếu niên trưởng thành, sẽ đi cướp đàn bà của những bộ lạc khác làm vợ. Mấy năm qua chúng ta chinh phục hết bộ lạc này đến bộ lạc khác, đánh đâu thắng đó, nhưng chúng ta không hiểu cách thống trị một quốc gia, càng không thể nào chèo chống một đế quốc cường đại."

Bắc Nhung hiện tại nhìn như giàu mạnh, thật ra nguy cơ tứ phía, nội bộ Vương thất mâu thuẫn trùng điệp. Cho nên lần này mới có quý tộc phản loạn.

"A Lăng, cách duy nhất làm dịu đi mâu thuẫn, vượt qua nguy cơ chính là không ngừng đi chinh phạt, giống như loài sói, cứ phải đi săn không ngừng mới có thể sinh tồn, một khi nó mất đi nanh vuốt, sẽ không cách cái chết bao xa."

Ngõa Hãn Khả Hãn cúi người, nhìn Hải Đô A Lăng.

Bắc Nhung muốn tiếp tục lớn mạnh, người kế nhiệm Đại Hãn chắc chắn phải tràn ngập ý chí chiến đấu, dã tâm bừng bừng, tâm ngoan thủ lạt, ánh mắt lâu dài. Các con ông không thể đảm đương nổi trọng trách này, dù bọn chúng có leo lên được ghế, cũng sẽ chết trong tranh đấu giữa đám quý tộc.

Ngõa Hãn Khả Hãn vỗ vỗ bả vai Hải Đô A Lăng: "A Lăng, ngươi muốn làm Đại Hãn, ánh mắt nhất định phải lâu dài, không nên chấp nhặt với mấy đứa Kim Bột, ngươi chắc chắn sẽ là sói đầu đàn, là hùng ưng, sau này chúng nó sẽ đi theo ngươi, trung thành với ngươi, cùng ngươi xây dựng Hãn quốc lớn mạnh, tương lai, tên ngươi chắc chắn sẽ truyền khắp thảo nguyên."

Hải Đô A Lăng không dám tin ngẩng đầu, hai mắt đỏ lên, cơ bắp sôi sục.

Ngõa Hãn Khả Hãn gật đầu với y, nói: "Lần này mặc dù ta đã trấn áp phản loạn, nhưng mấy tiểu quốc quy thuận kia đều đang ngo ngoe muốn động, định xông lên cắn chúng ta một ngụm, lương thảo không còn nhiều, chúng ta chắc chắn phải sớm đánh một trận thắng lớn mới có thể thu phục lòng người. Ta nghe nói Nhiếp Chính Vương Vương Đình Tô Đan Cổ đã chết, đám thế gia Vương Đình ánh mắt thiển cận, quả nhiên thừa cơ dồn ép Phật Tử uỷ quyền, đúng là thời cơ tốt đẹp để chúng ta tiến đánh Vương Đình lần nữa."

Máu nóng Hải Đô A Lăng sôi trào: "Tôi nguyện tiên phong vì Đại Hãn!"

Lại nói, "Tô Đan Cổ đã chết, Phật Tử mất đi cánh tay, thế gia Vương Đình bất hòa với y đã lâu, ắt hẳn đang lâm vào tình cảnh khó khăn."

Ngõa Hãn Khả Hãn cười lạnh liên tục, "Mấy năm nay, nếu không phải do Phật Tử, ta đã đạp nát Thánh Thành từ lâu! Ngược lại ta thật lòng bội phục hắn. Đáng tiếc, sớm muộn gì hắn cũng sẽ chết trên tay thế gia Vương Đình, Tô Đan Cổ võ nghệ cao cường, chết oan uổng, hẳn là do đám đó ra tay."

Chỗ mục rỗng của Vương Đình tích tụ trùng điệp, toàn bộ nhờ Phật Tử ngăn cơn sóng dữ, rồi hắn cũng sẽ hoặc là chết giữa nội đấu, hoặc là giữa đám thế gia bằng mặt không bằng lòng liên lụy mà chết.

Hải Đô A Lăng thở dài: "Đại Hãn anh minh!"

Trong trướng ánh lửa chập chờn, hai người thương lượng kế đánh lén Vương Đình, cho đến bình minh.

Hải Đô A Lăng ra khỏi đại trướng. Một trận gió thổi tới trước mặt, y rùng mình, phát hiện áo bào trên người đã ướt đẫm mồ hôi.

Quan đoạn sự nói đúng, sau rối loạn, Bắc Nhung lung lay sắp đổ, lúc nào cũng có thể chia năm xẻ bảy, bây giờ việc Đại Hãn cần làm nhất là ổn định lòng người, y càng ngay thẳng, Ngõa Hãn Đại Hãn càng không nỡ giết y.

Trước mắt, y phải nhịn, đợi Đại Hãn già đi, địa vị y vững chắc rồi mới có thể ra tay với đám Đại Vương tử.

Hải Đô A Lăng nhếch miệng, đón nắng sớm vàng óng, sải bước đi về lều trướng của mình.

...

Rất nhanh, tin tức đám Đại Vương tử, Nhị Vương tử và Hải Đô A Lăng tiêu tan hiềm khích truyền khắp Oát Lỗ Đóa.

Liên tiếp vài ngày, người trong quân doanh thường xuyên anh em gặp gỡ nâng cốc vui vẻ trước đống lửa, bầu không khí hòa hợp.

Ngõa Hãn Khả Hãn vui mừng không thôi, hạ lệnh đại quân di chuyển. Trưởng công chúa lập tức gọi thân binh đến bảo họ mang Lý Huyền Trinh trà trộn vào đám nô lệ.

Thân binh đi địa lao, sau chốc lát, hốt hoảng lao ra: "Không thấy người ạ!"

Trưởng công chúa giận dữ, dẫn theo người tự mình đi địa lao xem xét, quả nhiên địa lao trống rỗng, chỉ còn lại một bộ xiềng xích.

"Vân Nương đâu rồi?"

Chu Lục Vân bị dẫn tới, nhìn thấy lao thất trống rỗng, cô ta mở to hai mắt.

Trưởng công chúa kinh ngạc nói: "Ngươi không biết Lý Huyền Trinh chạy à? Không phải ngươi giúp hắn trốn thoát sao?"

Chu Lục Vân lắc đầu, vẻ mặt đờ đẫn.

...

Lúc này, ở vùng tuyết bằng phẳng cách chuồng ngựa không xa, Lý Huyền Trinh mặc áo quấn da thú, chen lẫn vào đám nô lệ bộ tộc vận chuyển lều trướng, da thuộc, nồi sắt, lúc có lính Bắc Nhung cưỡi ngựa qua, thúc giục nô lệ tăng tốc, hắn cúi đầu, đè thấp mũ mềm che khuất gương mặt, đẩy một chiếc xe sừng dê chất đầy thảm nỉ.

Trên xe, Lý Trọng Kiền nằm giữa lớp vải nỉ dày cui, thấp giọng ho khan.

Lý Huyền Trinh đuổi theo binh sĩ Bắc Nhung, đẩy chiếc xe nhỏ, nhanh chân chạy.

Mấy hôm trước hắn quan sát Ngõa Hãn Khả Hãn điều binh, nghi ngờ Khả Hãn muốn tiến đánh tiểu quốc hoặc bộ lạc phía Tây.

Vương Đình ở phía Tây.

Lúc ấy Lý Huyền Trinh không còn đường chạy, dứt khoát trốn vào Nha đình, nghỉ ngơi dưỡng sức chỗ Trưởng công chúa đợi Lý Trọng Kiền lành vết thương, họ trà trộn vào trong quân, đi theo đại quân xuất phát, không chỉ có thể tránh truy sát, mà còn không sợ bị mất phương hướng lần nữa, lại thuận tiện điều tra quân tình, cảnh báo cho Vương Đình, nếu như có cơ hội giết Hải Đô A Lăng, không còn gì bằng.

Gió tuyết đập vào mặt, ý lạnh thấu xương. Lý Huyền Trinh lại chẳng hề thấy lạnh, một luồng nóng hổi tràn khắp người.

Hắn muốn tìm đến nàng.

...

Ở ngoài ngàn dặm, Vương Đình.

Gió rét gào khóc suốt đêm, sáng sớm hôm sau, sắc trời quang tạnh, trước đình tuyết trắng mênh mang, ánh bình minh rực rỡ nghiêng nghiêng chiếu xuống mặt tuyết, rạng rỡ chói mắt.

Dao Anh bị tiếng vỗ cánh trước cửa sổ đánh thức, nhanh nhẹn đứng dậy mở cửa.

Hắc ưng Kim Tướng quân bay vào nhà, ngóc đầu thân mật mổ mổ nàng.

Dao Anh vỗ về Kim Tướng quân, cho nó ăn thịt khô rồi gỡ tin nó mang về, xem xong, nhếch miệng, vội vàng rửa mặt, mang ủng dài, đi Vương Tự gặp Đàm Ma La Già.

Trời còn sớm, nhưng các sư trong chùa đã xong tảo khóa. Đàm Ma La Già có mặt cầu phúc sau tảo khóa, trước điện chen lấn đông nghịt từ lâu, nam nữ già trẻ, người người nhốn nháo.

Tiểu sa di nhận ra Dao Anh nhường chỗ cho nàng, nàng nhón chân, xuyên qua khe hở đi đến nhìn.

Trong điện mùi trầm hương thơm ngào ngạt, Đàm Ma La Già mặc một bộ cà sa trắng thêu chỉ vàng, đứng trước Phật điện, tay cầm một thanh hương trượng mạ vàng, Pháp tướng trang nghiêm, chung quanh tăng nhân chen chúc, nghiêm chỉnh tụng kinh. Trước điện tín đồ đang mong ngóng từng người một tiếp theo nhau bước lên trước, cung kính hành lễ với chàng, hương trượng trong tay chàng chạm vào tín đồ một cái, tín đồ kích động đến đờ người, có mấy người chân run đến thật lâu không nhấc nổi bước, được những người khác dìu xuống.

Dao Anh đứng bên ngoài nhìn một lúc, định lui ra, chờ trên đường về thiền thất, không biết sau lưng là ai đẩy nàng, cả người nàng chao đảo mấy cái, ngã vào đám tín đồ đang xếp hàng chờ, suýt té.

Đợi nàng đứng vững, phát giác mình bị đẩy lên nhóm đầu, mấy trăm ánh mắt sắc bén trước điện đồng loạt rơi trên người nàng, phẫn nộ có, kinh ngạc có, thầm chán ghét có, giống như muốn đâm thủng nàng thành cái sàng.

Bát Nhã Duyên Giác đứng trong một góc nhỏ duy trì trật tự hai mắt trừng trừng, kinh ngạc nhìn Dao Anh chằm chằm: Công chúa không thể đợi một chút sao?

Dao Anh chột dạ một trận, nhường cho bên cạnh, đang định lui ra thì trước Phật điện vang lên một tiếng trong lạnh.

"Đến đây."

Trong điện ngoài điện, hơn mười người cùng hít vào một ngụm khí lạnh.

Đây là lần đầu tiên Phật Tử mở miệng gọi tín đồ bước lên.

Ánh mắt rơi trên người Dao Anh biến thành từng thanh từng thanh đao, vô cùng sắc bén.

Dao Anh cũng sửng sốt, xoay người, trong ánh nhìn chằm chằm của mọi người từng bước một đi đến trước mặt Đàm Ma La Già, học dáng vẻ người trước mặt, chắp tay trước ngực, cúi chào chàng.

Nàng bước đi đoan trang, hoa dung nguyệt mạo, thái độ thành kính, trên mặt không có ý cười đùa, động tác chào ưu nhã thành thạo, ánh mắt chung quanh nhìn nàng từ từ dịu xuống.

Đàm Ma La Già nhìn Dao Anh, ánh mắt mát lạnh, hương trượng trong tay nhẹ nhàng điểm một điểm trên trán nàng.

Dao Anh ngẩng đầu, nhìn chàng cười một tiếng xin lỗi, đôi mắt cong thành một vầng trăng khuyết, thoảng như có mấy phần làm nũng.

Đàm Ma La Già dời mắt, thoáng nhìn thấy nàng lùi ra cùng chỗ với đám người, hương trượng trong tay chậm chạp chưa lại nâng.

Tín đồ kế tiếp đợi một lúc.

Đàm Ma La Già thu tinh thần, vẻ mặt vẫn ung dung trang nghiêm, mây trôi nước chảy.

Dao Anh từ đại điện đi ra, Bát Nhã nhanh bước đuổi theo nàng, trợn cặp mắt, nghiêm mặt, há miệng định chỉ trích nàng.

Không chờ cậu lên tiếng, Dao Anh cực nhanh nói: "Mới vừa rồi là ta bị người khác đẩy đó."

Lực đẩy còn không nhỏ, hiển nhiên là cố ý.

Bát Nhã sửng sốt.

Dao Anh chỉ vào đội ngũ dài không thấy đuôi trước điện, hỏi: "Tín đồ tham bái từ đâu đến thế? Có tra xét thân phận chưa?"

Bát Nhã lắc đầu, nói: "Mấy hôm nay trong chùa tuyên giảng cầu phúc, mở liên tục cả năm ngày. Dân chúng Vương Đình không phân sang hèn đều có thể đến Vương Tự tham bái. Có dân Thánh Thành, có người từ địa phương khác, họ chờ trước Vương Tự mấy ngày trời, không ăn không uống chỉ để chiêm ngưỡng phong thái của Vương, vì người đến ngày càng nhiều nên đành phải để một số người vào trước mà chưa kịp kiểm tra từng bước một, chỉ có lúc vào thành hẳn Cấm quân đã từng tra xét thân phận thôi..."

Dao Anh nhẹ nhíu mày, vậy người đẩy nàng là ai được nhỉ?

Bát Nhã nhìn Dao Anh hừ nhẹ, nói: "Sau này công chúa cẩn thận chút, tốt nhất đừng một mình đi lại ngoài Vương Tự, tôi biết người đẩy cô là ai đó."

Dao Anh hỏi: "Là ai?"

Hai tay Bát Nhã nhét vào tay áo, ánh mắt lướt vòng vòng trên khuôn mặt không son phấn vẫn xinh đẹp mướt mát như hoa đào của Dao Anh, hạ giọng: "Vương đối xử với cô khoan dung độ lượng, dân chúng Vương Đình đã bàn tán ầm ĩ từ lâu, tín đồ luôn nói phải nghĩ cách đuổi cô đi, người đẩy cô chắc chắn là một trong số đó. Cô để ý chút, đừng tưởng Vương nuông chiều cô thì cô có thể muốn làm gì thì làm."

Dao Anh ờ một tiếng, như đang suy nghĩ, nói: "Ta nhớ rồi, cảm ơn cậu nhắc nhở."

Mặt Bát Nhã ửng đỏ, hất cằm, ồm ồm nói: "Nếu không phải sợ cô làm ô uế danh tiếng của Vương tôi không thèm nhắc cô đâu!"

Nói xong, nhấc chân dài, phẩy tay áo bỏ đi, tư thế cứng nhắc.

Dao Anh bật cười, đứng trước bậc thềm nhìn quanh một vòng, trong đám người chen chúc vô số ánh mắt sắc bén lạnh như băng đảo qua người nàng, bắt gặp ánh mắt nàng họ mới dời mắt, nép vào trong đám đông.

Minh thương dễ tránh, ám tiễn khó phòng.

Xem ra tín đồ vừa rồi đẩy nàng chỉ là địch ý chợt nảy.

Dao Anh rời hành lang, chuyển qua con đường nhỏ chờ Đàm Ma La Già trên đường về thiền thất.

Trên đường đi, các vị sư, sa di và tín đồ lễ Phật thấy nàng, ánh mắt tránh né, tụ một chỗ xì xào bàn tán.

Dao Anh ngẫm nghĩ, bước xuống thềm đá, rẽ qua hành lang.

Sinh thần Đàm Ma La Già sắp đến, mấy hôm nay từ sáng sớm đến tối mịt trước tiền điện Vương Tự luôn đen nghịt đầu người, tín đồ khắp nơi chen chúc tham bái, thân phận nàng mẫn cảm, lúc này xuất hiện cạnh Đàm Ma La Già hẳn sẽ tổn thương tình cảm đám tín đồ, ảnh hưởng danh tiếng La Già.

Trong đợt Pháp hội nàng cố gắng đừng xuất hiện ở Vương Tự thì hơn.

...

Sau nửa canh giờ, Pháp hội cầu phúc kết thúc, Đàm Ma La Già từ đại điện ra, đôi mắt xanh hờ hững quét hành lang dài một vòng.

Hành lang trống rỗng, ánh tuyết phản chiếu khắp, bích họa trên tường vẽ Phật thuyết pháp màu sắc tươi sáng, Phật kết già ngồi thuyết pháp, đoan trang uy nghiêm.

Duyên Giác thò đầu ra nhìn quanh, buồn bực nói: "Văn Chiêu công chúa vừa mới đây...Sao không thấy nữa nhỉ?"

Đàm Ma La Già không nói.

Vốn không thuộc về nơi đây, sớm muộn gì cũng phải rời đi, không có thứ gọi là "không thấy" .

Chàng cầm hương trượng mạ vàng, bước vào hành lang, vạt cà sa rộng rãi phất qua lan can, quét rơi một đám tuyết mới.

Trở lại thiền thất, vẫn không thấy bóng Dao Anh, Duyên Giác có phần lo lắng, tìm tăng binh hỏi: "Các ngươi thấy Văn Chiêu công chúa không?"

Nhóm tăng binh đáp: "Văn Chiêu công chúa vừa rồi có tới, đưa cái này." Hắn chìa ra một tấm da dê. Duyên Giác nhận lấy đưa đến trước trường án.

"Còn Công chúa đâu?"

Tăng binh nói: "Công chúa đưa cho bọn tôi xong rồi thì bảo muốn đi tìm tướng quân A Sử Na có chuyện thương lượng."

Duyên Giác nhướng mày, quay nhìn Đàm Ma La Già. Đôi mắt xanh chàng cụp xuống, nhìn tấm da dê, khuôn mặt bình tĩnh, đáy mắt không một tia gợn sóng.

Đến khi Duyên Giác cho rằng chàng không nghe thấy, đột nhiên chàng hỏi: "Có phái người đi theo không?"

Tăng binh giật mình, nói: "Vương đã dặn dò, Cấm quan không dám để công chúa một mình ra Vương Tự, đã phái hai người đi theo."

Đàm Ma La Già khẽ gật đầu.

...

Dao Anh thay một bộ kỵ trang, mang khăn che mặt, cưỡi ngựa ra khỏi Vương Tự. Thân binh và hai cận vệ Trung quân ở sau lưng nàng.

Nàng đi gặp lão Tề trước dặn dò mấy việc, trên đường về thành thuận tiện ghé chào A Sử Na Tất Sa, xin giúp một vấn đề nhỏ.

Lúc Tất Sa giúp nàng đòi đồ cưới từ Bắc Nhung, nàng nghĩ trứng không để cùng một giỏ mới bảo mấy thân binh đi theo những đội buôn khác nhau đến Tát Mạt Kiện, Thiên Trúc, Thổ Phiên, vừa nghĩ cách đưa tin, chừa một đường lui, vừa để tìm hiểu tình huống.

Giờ đây các đội buôn lần lượt trở về, có đội mang về thứ nàng muốn, có đội chỉ đi nửa đường lại quay lại, chưa đánh đã lui.

Dao Anh không khỏi nhớ tới nhóm Trương Cửu xuất phát từ Cao Xương, không biết họ đã tới đâu, có phá được phong tỏa Bắc Nhung hay không. Vương Đình cũng có đội lính thám báo chuyên tìm hiểu tin tức, nàng muốn tìm Tất Sa hỏi thăm một chút.

Tất Sa không ở trong phủ, đã đi sân diễn võ.

Thân binh của anh ta nói: "Hàng năm vào khoảng sinh thần, Vương sẽ đi giáo trường duyệt binh, đến lúc đó cử hành đại hội tỷ võ rất lớn, dân chúng toàn thành đều được đi xem. Năm nay Tướng quân cũng muốn tham gia tỷ võ, nên mấy hôm nay Tướng quân hay ra sân diễn võ so tài với những người khác."

Sau khi bạo loạn, Vương Đình cần một trận duyệt binh hoành tráng và đại hội tỷ võ để ổn định lòng người.

Dao Anh để cận vệ dẫn đường, rẽ hướng đi sân diễn võ.

Nơi này được bố trí gần Sa Viên, sân bãi rộng lớn, địa thế thuận lợi, ngoài sân có sắp đặt ghế ngồi.

Lúc Dao Anh đuổi tới, giữa sân rộn rộn ràng ràng, tiếng chân như sấm, đang diễn ra cuộc tranh tài cưỡi ngựa bắn cung, nam nữ quý tộc áo gấm ngồi trên đài cao, chăm chú xem hai con ngựa dẫn đầu ở võ trường không chớp mắt, tràn đầy phấn khởi.

Cận vệ nói, theo lệ cũ, từng bộ lạc hay các nước nhỏ đến đây triều cống cũng sẽ phái dũng sĩ ra tham gia trận đấu, để không tổn thương hòa khí, trước giải tỷ võ chính thức mấy ngày, vài dũng sĩ sẽ âm thầm so tài, thăm dò thực lực của đối phương.

Dao Anh đứng trên đài, nhìn lên giáo trường.

Giữa sân tranh tài đang dầu sôi lửa bỏng, phía Nam để một loạt bia ngắm, mười người mặc y phục kỵ sĩ Trung quân cưỡi ngựa đen, tay cầm trường cung, như gió thổi sét đánh, lao vùn vụt vòng quanh võ đài, đến cách bia ngắm trăm bước, nâng cánh tay cài tên nhanh chóng bắn, mũi nào mũi nấy trúng giữa hồng tâm.

Ngoài sân tiếng hoan hô như sấm động.

Sau chốc lát, binh sĩ dưới đài nâng cờ ra hiệu, cao giọng báo kết quả tranh tài, hai người đàn ông vai rộng dáng to khoẻ ruổi ngựa bước lên, những binh sĩ thua trận rời khỏi giáo trường, để lại hai người từ từ lùi ra hai bên giáo trường. Một lát sau, binh sĩ rút đi bia ngắm, chỉ để lại một cây cọc dài, kèn lệnh thổi lên, trong tiếng tu tu trầm thấp, hai con ngựa đồng thời vung bốn vó phi nước đại, hai người trên lưng ngựa không chút nào e sợ ngã rạp xuống, mở cánh tay dài, giương cung lắp tiễn, liên tiếp bắn ra.

Mấy mũi tên từ lưng ngựa phi nhanh bắn ra khí thế hùng hồn, như cầu vồng xuyên qua mặt trời, cả không gian như tiếng sấm gầm. Mũi tên thẳng tắp cắm trên cọc dài, cây cọc rung bần bật.

Hai người lại là ngang sức.

Nam nữ bên ngoài cùng kêu lên hay quá.

Dao Anh nhận ra một người trong trận là Tất Sa, âm thầm tán thưởng.

Tuuu, tiếng kèn lại vang lên, hai người giục ngựa phi nhanh, cài tên lần nữa, người tranh tài cùng Tất Sa đột nhiên chậm lại thao tác, đợi Tất Sa bắn ra một tên, y mới lỏng dây cung, vèo, mũi tên rời dây cung phóng nhanh như chớp, đâm vào mũi tên bắn trước của Tất Sa, hai cây vũ tiễn cùng rơi xuống đất.

Bên ngoài sân xôn xao. Không đợi đám người kịp hoàn hồn, người kia lại cài tên, lực cung kéo đủ, một tên vững vàng ghim trúng cọc dài.

Rầm, cọc dài ngã xuống đất.

Đám người nhìn nhau, không biết nên đánh giá thắng bại thế nào.

Dưới đài, Tất Sa cười to mấy tiếng, chắp tay chào đối thủ bắn rơi mũi tên mình, nói: "Lực cánh tay mạnh quá!"

Đối thủ của anh tháo mặt nạ, lộ ra một đường nét khuôn mặt cứng rắn, khí khái hào hùng bừng bừng tuổi trẻ, trong đôi mắt nâu có mấy phần đắc ý không che dấu hết.

"Người thắng Tướng quân là Mạc Bì Đa." cận vệ bên cạnh Dao Anh nói.

Tất Sa thua cuộc tranh, trên mặt cũng không vẻ nào không vui, cùng rút lui xuống với Mạc Bì Đa, thấy Dao Anh chờ ở bên sân, ruổi ngựa lên đón.

Dao Anh nói rõ chuyện muốn nhờ.

Tất Sa nói: "Tôi có lưu ý qua, Bắc Nhung dời trướng Oát Lỗ Đóa, mấy đội kỵ binh tinh nhuệ nhất đang đi về hướng Tây, vùng phía Đông hẳn đã buông lỏng giới nghiêm, tạm thời không có tin tức của đám người Trương Cửu."

Dao Anh tính thời gian, "Không có tin tức cũng tốt, Bắc Nhung vừa loạn tổn hại đến nguyên khí, mong họ cố thừa dịp loạn vượt biên giới Bắc Nhung."

Tất Sa liếc nàng một cái, an ủi nói: "Họ anh dũng không sợ, chắc chắn bình an vô sự."

Dao Anh gật đầu, "Chỉ mong họ có thể gặp dữ hóa lành."

Hai người nói chuyện một lúc, một đường về thành, mới vừa vào cửa thành, phía trước nghe tiếng vó ngựa vang rền, một con khoái mã chạy vội đến, dừng trước mặt hai người.

Người lập tức phóng xuống ngựa, ra hiệu với Dao Anh và Tất Sa, thì ra là Duyên Giác. "Tướng quân, Vương lệnh ngài lập tức đi Vương Tự."

Duyên Giác nói xong, nhìn sang Dao Anh. "Vương nói, nếu Văn Chiêu công chúa cũng ở đây, mời công chúa đi cùng ạ."

Tất Sa và Dao Anh cùng chạy về Vương Tự.

Trước cửa điện Vương Tự vẫn rộn rộn ràng ràng, hai người tránh đám đông, từ cửa hông vào chùa, đi đến hành lang thông với thiền thất.

Hai tiếng bước chân một trước một sau, một gấp rút, một nhẹ nhàng chậm rãi.

Họ cùng trở về.

Tất Sa tay dài chân dài, đi rất nhanh, sắp đến thiền thất, cố ý chậm chân chờ Dao Anh.

Dao Anh nhìn anh ta cười cười. Hai người sóng vai bước xuống thềm đá.

Ở góc sâu trong hành lang, Đàm Ma La Già đứng trước bậc thềm, buông tầm mắt, tay vuốt khẽ con ưng chợt ngừng một chút.

Lập tức con ưng phát ra tiếng kêu bất mãn.

Đàm Ma La Già không để ý đến nó, thu tay lại, tay áo cà sa phất nhẹ, xoay người đứng quay lưng về phía đình viện, đưa mắt ra hiệu Tất Sa bước đến xem tin báo con ưng vừa mang về.

Dao Anh thấy thế, biết mình nên tránh mặt, rời khỏi hành lang, gỡ mạng che mặt, lấy thịt khô đút cho con ưng.

Con ưng liếc qua nàng, đập cánh, bay đến lan can trước mặt nàng.

Tất Sa xem xong thư báo, cau mày, khóe mặt trông thấy Dao Anh lùi ra, trong lòng thầm gật đầu, bước lên hai bước, nhỏ giọng nói: "Bắc Nhung đang lặng lẽ điều binh, có phải chúng không kiềm chế nổi muốn tiến đánh chúng ta?"

Đàm Ma La Già gật đầu, bình tĩnh nói: "Ta đã truyền lệnh các nơi tăng cường cảnh giới, trận chiến giữa Vương Đình và Bắc Nhung không thể tránh."

Tất Sa gật gật đầu, vẻ mặt nghiêm túc.

Vương Đình trải qua một trận rung chuyển nội bộ, lòng người còn lung lay, trận chiến này có thể rất khó đánh.

Nhưng mà, mấy năm qua, mỗi lần đối chiến với Bắc Nhung, có lần nào Vương Đình nắm chắc đâu? Mỗi lần Ngõa Hãn Khả Hãn lãnh binh tiến đánh Vương Đình, quý tộc đều sợ đến run chân, hoặc là vội vàng chuyển dời gia tài ra khỏi thành tránh họa, hoặc là khóc quỳ cầu Đàm Ma La Già ra khỏi thành đầu hàng, nhiều lần kéo chân, giờ đây không còn họ cản tay, La Già mới có thể lòng không phân tâm mà đối địch.

Bất an trong lòng Tất Sa rất nhanh nhạt đi, nghĩ tới một chuyện, ngước lên nhẹ giọng hỏi: "Vương, lần này do ai lãnh binh xuất chinh?"

Đàm Ma La Già đứng chắp tay, ngóng nhìn tuyết đọng ngoài tiền đình, nói: "Cậu làm tiên phong."

Tất Sa hiểu ý, thầm than một tiếng, gật đầu vâng lời.

Anh làm tiên phong, thống soái dĩ nhiên chính là Nhiếp Chính Vương Tô Đan Cổ.

Hai người thương lượng vài chuyện xuất binh nữa, chợt Đàm Ma La Già ngừng lại, nhìn ra ngoài hành lang.

Tất Sa rướn cổ lên, nhìn theo tầm mắt chàng, mi tâm giật giật.

Dao Anh đứng cạnh lan can trước mặt, đang cúi người nói chuyện với con ưng, khóe mắt đuôi mày cười nhẹ nhàng, ánh lấp lánh của tuyết trắng mênh mang trước đình dường như cũng đọng trên người nàng, nổi bật làn da trắng hơn tuyết, dung mạo xinh đẹp trong trẻo..

Nàng phát giác phía bên kia hai người nam tử đang nhìn mình chăm chú, đứng dậy, hấp háy mắt với La Già, tỏ ý hỏi.

Cằm Đàm Ma La Già nhẹ nhàng gật.

Dao Anh đi vào hành lang.

Tất Sa đưa tin cho nàng, nàng lướt nhanh đọc xong.

Đàm Ma La Già nói: "Hải Đô A Lăng còn sống, vẫn được Ngõa Hãn Khả Hãn tín nhiệm như trước."

Dao Anh gật đầu.

Tất Sa mãi nhìn nàng, thấy nàng phản ứng bình tĩnh, hơi lộ ra vẻ kinh ngạc, "Công chúa đã đoán được từ trước à?"

Dao Anh cười cười, nói: "Hải Đô A Lăng không dễ thất thế vậy đâu, Tướng quân không cần lo lắng cho ta, ta không mong chỉ có mấy lần châm ngòi ly gián là nghĩ đã diệt xong y."

Nàng biết Lý Huyền Trinh trọn vẹn mấy năm, đối mặt với một đối thủ dù rơi vào nguy hiểm đến thế nào vẫn biến nguy thành an, giống như có thần giúp đỡ, nàng còn có thể bình tĩnh hòa nhã, Hải Đô A Lăng vẫn được Ngõa Hãn Khả Hãn trọng dụng như trước không đả kích được ý chí của nàng.

Dao Anh ngẩng lên đón ánh mắt tiếc nuối đồng tình của Tất Sa, nói: "Hải Đô A Lăng là Đệ nhất dũng sĩ Bắc Nhung, muốn đánh bại y hoàn toàn, chỉ có thể ở trên chiến trường."

Hải Đô A Lăng mạng cứng, một lần không giết được y, vậy thì thử lần hai, lần ba.

Tất Sa chấn động trong lòng, chăm chú nhìn Dao Anh thật lâu, cười gật đầu.

Dao Anh nhìn sang Đàm Ma La Già, "Pháp sư gọi ta đến, chính là muốn nói việc này ạ?"

Đàm Ma La Già bước xuống thềm đá, ra hiệu Dao Anh đi theo mình.

Dao Anh đuổi theo Đàm Ma La Già. Tất Sa nối theo sau lưng nàng.

Cả đêm qua gió lạnh, trước đình phủ kín tuyết, ba người bước đi qua vùng tuyết đọng, tiếng chân rồm rộp.

Đàm Ma La Già bước đi ung dung, không nhanh, nhưng do chàng cao lớn, chân dài sải một bước, cà sa phần phật, trong chớp mắt đã cách ra một khoảng.

Dao Anh bước nhanh đuổi theo, đột nhiên cảm thấy chân bị lún cứng, cả người đóng cứng tại chỗ không thể động đậy. Nàng cúi đầu, phát hiện nửa chiếc ủng dài đã kẹt sâu trong tuyết. Gần đây thời tiết ấm áp dần, tuyết không đông cứng chắc như vào trời đông giá rét. Dao Anh thử rút ủng, thử mấy lần, vẫn không thể động đậy.

Tất Sa theo sát sau lưng nàng, thấy thế, nhịn không được cười ha ha, bước tới vừa đưa tay dìu nàng vừa cười nói: "Công chúa đừng nóng vội, để tôi giúp người..."

Vừa vươn tay đến Dao Anh, đuôi khóe mắt thoáng thấy hiện một góc cà sa trắng, nụ cười có phần cứng đờ.

Dao Anh tự nắm ủng rút mấy lần, người hơi chao đảo muốn đứng không vững, trước mặt thoáng thấy hai bóng đen xuất hiện, nàng ngẩng lên đưa tay vô thức chụp nhẹ tay áo một người.

Cả ba đều không lên tiếng.

Tất Sa rũ mắt nhìn mấy ngón tay thon dài của Dao Anh, ánh mắt hơi khác thường.

Dao Anh cũng nhìn tay mình, trong lòng hơi chột dạ, chậm rãi nhướng mi đối diện với ánh mắt trong trẻo lạnh nhạt của La Già.

Chàng đứng ngay trước mặt nàng, gương mặt tuấn tú, thần thái tuấn lãng, mặt như không lộ cảm xúc, phong thái xuất trần.

Không biết sao, lúc cấp bách nàng chụp phải ống tay áo của chàng. Hoa văn thêu chỉ vàng tinh xảo trên cà sa cạ vào lòng bàn tay, hơi ngứa.

Dao Anh hoàn hồn, nhìn Đàm Ma La Già cười cười xin lỗi, định thả lỏng ngón tay thì cánh tay chàng nhẹ nâng, ra hiệu nàng đừng buông ra.

Nàng hiểu ý, nắm thật chặt tay áo chàng, mượn lực rút giày mình kẹt trong tuyết.

"Giống nhổ măng ghê..." Dao Anh cười khẽ, buông tay ra, phủi nhẹ bông tuyết bám trên giày.

Đàm Ma La Già không nói, đợi nàng đứng vững vàng mới xoay người đi tiếp.

Dao Anh đuổi theo hắn, nhìn Tất Sa đang mờ mịt bên cạnh hỏi: "Tướng quân chưa từng thấy măng à?"

Tất Sa nhìn nàng cười cười, lắc đầu nói: "Chưa, thường nghe đất Hán bao la, đất rộng vật nhiều, có rất nhiều thứ nơi này bọn tôi không có..." rồi anh chuyển đề tài, "Công chúa rời nhà lâu vậy hẳn rất nhớ quê nhà nhỉ?"

Dao Anh nhớ đến quê nhà cách Vương Đình xa vạn dặm, trong lòng phiền muộn.

Tất Sa nhìn chằm chằm bóng lưng Đàm Ma La Già không chớp mắt, hơi cất cao giọng: "Cũng tại tôi nhắc đến nỗi buồn của công chúa, công chúa đừng buồn, giờ Bắc Nhung hỗn loạn, nói không chừng người thân của công chúa đã tìm tới, tin rằng không bao lâu nữa, công chúa nhất định có thể về nhà đoàn viên với người thân."

Dao Anh gật đầu, "Xin mượn tốt lành từ lời Tướng quân nhé."

Ba người đi qua đình viện, bước lên thềm đá, cận vệ vén màn, Đàm Ma La Già đi vào, chỉ vào một cuộn da thú cuốn lại trên bàn: "Tất Sa, cậu đưa cái này đến đại doanh."

Tất Sa chợt ngẩng nhìn Đàm Ma La Già, nét mặt cứng ngắc.

Ủa mấy việc này đâu cần tự anh đi.

Đàm Ma La Già vẫn bình tĩnh. Tất Sa không dám nói gì, thầm thở dài, trầm giọng vâng rồi cầm cuộn da thú rời đi.

Đàm Ma La Già nhìn Dao Anh: "Ngồi đi."

Dao Anh cúi nhìn tấm thảm nhung Ba Tư trải trên đất, chần chừ không biết ngồi vào đâu. Đàm Ma La Già ngước mắt, nhìn qua trường án bên cạnh. Dao Anh hiểu ý, đi qua ngồi xếp bằng xuống.

Chậu than trong góc khuất cháy đỏ rực, tí tách vang, trong trướng ấm áp như xuân.

Đàm Ma La Già lấy một phong thư trên bàn đưa cho Dao Anh. Dao Anh nhận lấy, thấy phía trên ghi bằng chữ Hán rất đẹp, hơi lộ vẻ kinh ngạc, mở ra xem, nhoẻn cười: "Là thư của Pháp sư Đề Bà Mông Đạt."

Sau khi Đề Bà Mông Đạt rời Vương Đình, trước khi về phía Tây, ông đến Khang Quốc rồi đi về phía Nam, men theo Hoạt Quốc, Hoạt Tất Na, Kiền Đà La về Thiên Trúc, bức thư viết lúc ông ở Hoạt Quốc, kể vài chuyện trên đường đi, báo bình an với nàng.

Dao Anh xem xong rất nhanh. "Đề Bà Mông Đạt bảo mọi việc đều tốt, ông có hỏi thăm Pháp sư, dặn Pháp sư lúc uống thuốc phải đặc biệt để ý, đừng quá ỷ lại vào đan dược."

Đàm Ma La Già gật đầu, nói: "Lúc ở Hoạt Quốc Đề Bà Mông Đạt gặp được Quốc Vương của Tì Ra Ma La, mới gửi nhờ họ đưa giùm, thư được sứ đoàn Thiên Trúc chuyển đến. Trong đoàn còn có một vị y giả người Thiên Trúc tinh thông dược lý, Đề Bà Mông Đạt đã mời ông ta đến Vương Đình."

Dao Anh không kìm lòng được ngồi dậy: "Ông ấy đến xem bệnh cho Pháp sư ạ? Đề Bà Mông Đạt mời ông ta đến chắc chắn là vì ông ta có thể chữa trị cho Pháp sư!"

Đàm Ma La Già rũ mắt nhìn nàng. Dao Anh ngồi quỳ chân trước trường án, đón lấy ánh mắt chàng, cả khuôn mặt đầy vẻ chờ mong vui mừng, một đôi mắt sáng lóng lánh rực rỡ.

Nàng rất ít khi lộ ra thần thái cao hứng đến vậy.

Mà giờ phút này nàng cao hứng, hoàn toàn là vì mình.

Đàm Ma La Già không nói, ngón tay nhẹ khẩy cầm châu.

Dao Anh vỗ tay, nhẹ nhàng cười mà nói: "Pháp sư cầu phúc quả nhiên linh nghiệm."

Đàm Ma La Già nhướng mày: "Cầu phúc?"

Dao Anh nhìn chàng, gật đầu, cười nói: "Sáng nay ở đại điện Pháp sư tụng kinh cầu phúc cho bách tính, trong lòng tôi nghĩ, nếu Phật thật có hiển linh, người đầu tiên nên được ban phúc hẳn phải là Pháp sư mới đúng, khi Pháp sư điểm vào tôi, tôi đang nghĩ nếu Đề Bà Mông Đạt có thể sớm tìm được cách trị cho Pháp sư thì tốt biết mấy..."

"Không ngờ lại có y giả Thiên Trúc đến thật."

Mày Dao Anh cong cong, mặt như thuấn hoa. Đàm Ma La Già nhìn nàng, không hề nhúc nhích.

Trong chậu than búng mấy tiếng lách tách, một phòng ấm áp.

Chàng lặng thinh một lúc rồi hỏi: "Sao công chúa không cầu phúc phù hộ cho mình?"

Dao Anh cười cười, lơ đãng nói: "Lúc ấy không nhớ ra..." Nói xong, ánh mắt rơi xuống cây hương trượng mạ vàng dựng bên cạnh. "Lần sau Pháp sư cầu phúc, tôi lại đến tham bái."

Nàng thuận miệng nói, nghĩ tới một chuyện, tò mò hỏi, "Đúng rồi, lúc Pháp sư cầm hương trượng điểm lên đầu tôi, ngài niệm gì thế ạ?" Kinh văn chàng tụng đa số bằng tiếng Phạn hay tiếng Hồ, vần luật ưu nhã, tuy nàng nghe không hiểu nhưng cũng nghe đến nhập thần.

Đàm Ma La Già nói: "Kinh văn."

Dao Anh lắc đầu bật cười, không hỏi nữa.

Đàm Ma La Già ngồi yên, đột nhiên hỏi: "Công chúa có từng nghĩ tới vào cửa Phật không?"

Dao Anh giật nảy, mắt trợn to, kinh ngạc lắc đầu liên tục, cười nói: "Tôi không cao khiết như Pháp sư, tôi không bỏ được hồng trần thế tục, tham, sân, si, một cái tôi đều không bỏ được."

Nói xong, quay sang chàng thả lỏng tay, thần sắc hoạt bát. "Chỉ cần mỗi ngày phải đọc thuộc kinh văn, tôi đã rất nhức đầu."

Với cả nàng chẳng bỏ được đồ ăn mặn.

Đàm Ma La Già lặng yên, ngón tay vuốt ve cầm châu.

Sáng nay, trước điện thờ Phật, hương trầm nồng đậm, tín đồ thành kính chật ních cả đại điện, từng người một bước đến nhận lời chúc phúc của chàng.

Pháp hội kiểu này chàng từng chủ trì rất nhiều lần, nam nữ già trẻ, tóc bạc tóc trái đào, người Hồ người Hán, trong mắt chàng, tất cả đều là những khuôn mặt mơ hồ, không phân sang hèn, không gì khác biệt.

Nhưng, trong một loáng nàng xuất hiện, chàng nhìn ra khuôn mặt xinh đẹp sáng rỡ của nàng.

Nàng từng bước một đi đến trước mặt chàng, trong con ngươi thanh tịnh phản chiếu bóng chàng, có vẻ giống những tín đồ khác, kính ngưỡng chàng, sùng bái chàng, kính cẩn ngoan đạo.

Lúc ấy, Đàm Ma La Già cụp mắt, đọc không phải kinh cầu bình thường.

Chàng đọc:

Nguyện nàng vô bệnh vô tai.

Nguyện nàng bình an vui vẻ.

Nguyện nàng trí tuệ thêm dài, tiêu trừ phiền não.

Nguyện nàng tâm tưởng sự thành, sớm ngày về lại cố hương.

Vạn dặm tầng mây, thiên sơn mộ tuyết, nàng đem về quê cũ, cả đời này không còn lưu lạc xông pha...

Một thế này, nàng sẽ không đặt chân lại tuyết vực ngàn dặm, càng sẽ không trù trừ ở tòa ốc đảo sa mạc này.

Đàm Ma La Già chúc phúc qua rất nhiều người, sinh giả tất diệt, hợp hội tất ly, thịnh tất hữu suy, chúng khổ lưu chuyển, vô hữu hưu tức*, thường vì chịu đau khổ mà mọi người tìm kiếm Phật pháp phù hộ, muốn thoát khỏi khỏi nỗi khổ, chàng giáo hóa bách tính, cầu phúc cho chúng sinh, thầm nghĩ đủ loại khổ sở con dân phải gặp trong thời loạn.

Khi đối diện với Dao Anh... Chàng nghĩ đến nỗi đau của nàng. Chàng muốn nàng bình an vui vẻ, còn muốn...

Đàm Ma La Già nhắm mắt lại, ngón tay nắm chặt cầm châu.

*tác giả: trích dẫn nguyên văn Phật kinh tương quan luận – có sinh tất có diệt, có gặp tất có phân, có thịnh hẳn có suy, nỗi khổ của mọi người luôn lưu chuyển, không hề nghỉ ngơi

Lúc này, ngoài cửa có tiếng động, cận vệ ngoài màn thông báo: "Vương, y giả Thiên Trúc tới."

Đàm Ma La Già mở mắt, buông cầm châu, trên mặt đã khôi phục vẻ lạnh nhạt, ừm một tiếng. "Mời y giả vào."

Màn nỉ lay động, một người đàn ông trung niên mặt dài môi mỏng, da màu nâu nhạt, tóc quăn màu nâu nhạt, người mặc bào trắng bước vào, hành lễ với Đàm Ma La Già, ánh mắt ngừng một thoáng trên người Dao Anh ngồi cạnh trường án, không chớp mắt tường tận xem xét nàng.

Đàm Ma La Già nói: "Vị này là Văn Chiêu công chúa."

Y giả Thiên Trúc quay sang nàng hành lễ thăm hỏi. Dao Anh đáp lễ, nghiêng đầu nhìn Đàm Ma La Già.

Đàm Ma La Già liếc qua phòng trong sau màn gấm, nhẹ gật đầu.

Dao Anh định cáo lui nhưng thấy thần sắc ngài ấy như muốn mình tránh mặt, lại có ý vị không cho tranh cãi, buồn bực không hiểu vì sao ngài không dứt khoát cho mình về, đứng dậy lùi vào sau màn gấm.

Màn gấm rủ xuống, ngăn tiếng nói chuyện bên ngoài.

Phòng trong cũng đốt chậu than, màn phủ dày kín nên còn ấm áp hơn cả bên ngoài, trước giường thấp Dao Anh từng ngủ vẫn còn để án thư nàng từng dùng, giấy bút sách vở trên bàn dường như cũng loáng thoáng giống như lần trước nàng đụng đến.

Nàng đi đến trước thư án, tiện tay cầm lấy một cuốn sách, lật ra mới phát hiện thẻ kẹp sách ở đúng chỗ lần trước mình đọc đến.

Tiếng nói chuyện đứt quãng bên ngoài màn gấm, Đàm Ma La Già và y giả đổi sang trò chuyện bằng tiếng Phạn. Cách mấy tầng màn, Dao Anh nghe không rõ, cũng nghe không hiểu, lật sách một lúc, buồn chán ghê gớm, bèn trải giấy nhấc bút, dựa bàn vẩy mực.

Tay nàng bôi bôi xóa xóa, vẽ đến nhập thần, cũng không biết sau bao lâu, nghe tiếng Đàm Ma La Già gọi nàng ngoài trướng.

"Văn Chiêu công chúa."

Bốn chữ vô cùng đơn giản, âm điệu trong suốt, giọng bình thản, như ngọc thạch va nhau, lại giống suối vắng ào ạt chảy.

Dao Anh để bút xuống bước ra ngoài.

Y giả Thiên Trúc còn chưa đi, đi đến trước mặt nàng, cười híp mắt quan sát nàng hồi lâu, rồi quay lại cạnh trường án dùng tiếng Phạn nói nhỏ vài câu. Đàm Ma La Già nghe ông nói, ánh mắt luôn đặt trên người Dao Anh, gật gật đầu.

Trên mặt Y giả Thiên Trúc lộ vẻ vui mừng, cuống quít hành lễ, rồi bô bô một tràng.

Dao Anh hơi ngơ ngẩn.

Đàm Ma La Già gọi Duyên Giác đến dặn dò: "Đưa công chúa về đi."

Duyên Giác thưa vâng, đưa Dao Anh về viện tử.

Đợi đến khi bóng Dao Anh khuất sau góc sâu hành lang, Đàm Ma La Già hỏi y giả Thiên Trúc: "Có mấy phần chắc chắn?"

Thầy thuốc nghĩ ngợi rồi nói: "Hôm qua Vương cho người mang đến mọi phương thuốc và kết luận mạch chứng của công chúa, tiểu nhân và mấy vị y quan đã xem qua rất kỹ lưỡng, tiểu nhân làm việc ở cung đình nhiều năm, am hiểu loại bệnh này, trong lòng đã có mấy phần tự tin. Hôm nay gặp công chúa, tiểu nhân không dám nói ngoa, nhưng nhìn thần thái của công chúa thì bệnh ngài cũng không khó trị, công chúa sinh non, những năm tháng qua được nuôi nấng phù hợp nên đã khá lên không ít, chỉ cần điều chỉnh một tí chắc chắn sẽ có cơ thể khỏe mạnh, giảm hết ốm đau, không cần mỗi tháng phải chịu nỗi đau tán thuốc. Chỉ cần Vương sai bảo, tiểu nhân chắc chắn sẽ tận tâm tận lực chẩn trị cho công chúa."

Mặt Đàm Ma La Già không chút cảm xúc, nói: "Sau này phải phiền đến y giả rồi."

Y giả Thiên Trúc gấp không dám nhận, lặng lẽ đưa mắt nhìn chàng, thấy chàng lại hoàn toàn lạnh lùng như trước, dè dặt hỏi: "Công chúa Man Đạt của bỉ quốc từ nhỏ sùng bái Phật pháp, lần này công chúa theo lệnh Quốc Vương đến tham bái, Vương có thể cho phép công chúa đến Vương chùa lễ Phật, cầu phúc cho dân bỉ quốc không?"

Đàm Ma La Già gật đầu.

Y giả Thiên Trúc lặng lẽ thở phào, ông ta đồng ý chẩn trị cho công chúa Văn Chiêu người Hán là vì xin cho công chúa Man Đạt một cơ hội tiếp cận Vương Tự.

Từ khi công chúa Man Đạt đến Vương Đình, dù lễ quan Vương Đình khách khách khí khí, không có chút nào tiếp đón không chu đáo, nhưng Đàm Ma La Già chưa từng ra mặt, công chúa hoa dung nguyệt mạo, tài múa xuất chúng, từng với một khúc Thiên Ma Vũ nổi danh toàn Thiên Trúc, thế mà ngay cả mặt Phật Tử còn chưa gặp, bản lãnh cả người vốn không cách nào thi triển.

Có sự cho phép của Đàm Ma La Già, cuối cùng công chúa Man Đạt đã có cơ hội múa tặng Phật Tử.

Y giả Thiên Trúc cáo lui, trên mặt khó nén vui mừng.

Sau lưng nghe thấy tiếng Đàm Ma La Già: "Việc này xin y giả giữ bí mật, không được nhắc với người khác."

Y giả Thiên Trúc vội vàng xoay người, cung kính nói: "Tiểu nhân nhớ kỹ, chuyện liên quan đến ngọc thể của công chúa, tiểu nhân chắc chắn miệng kín như hũ nút."

Một canh giờ sau, Tất Sa từ đại doanh trở về thiền thất: "Vương, đã đưa đồ xong."

Đàm Ma La Già dựa vào bàn viết, hờ hững đáp một tiếng.

Tất Sa lui về cạnh cửa.

Loảng xoảng vài tiếng, ưng bay về thiền thất, không ngừng kêu to, Duyên Giác vào thiền thất, thêm than vào chậu trong góc khuất, châm thức ăn nước uống cho ưng, thì thấy trên thư án mở ra một bức vẽ, ồ lên, nâng đến trước án cho Đàm Ma La Già.

"Vương, bức này hình như là công chúa vừa vẽ." Sắc mặt Duyên Giác rất lạ kỳ. "Là kỹ thuật vẽ đang thịnh ở Trung Nguyên sao?"

Đàm Ma La Già dừng bút, nhận bức vẽ.

Trên giấy vàng nhạt, bằng mấy nét cong màu đen phác họa giản lược mấy bụi trúc và bóng một nam tử, thân hình cao gầy, mặc cà sa, trên tay một chuỗi phật châu, đang nắm một búp măng mập lùn nhổ lên.

Bức vẽ đường nét đơn giản, nhìn qua vụng về, nhưng rất có cảm xúc, người vẽ có lẽ rất thỏa mãn, bên cạnh còn đề mấy chữ rồng bay phượng múa: Phật Tử nhổ măng đồ.

Thì ra nàng nói giống như đang nhổ măng, là ý này.

Bảo nàng tránh mặt, nàng đi vẽ cái này.

Đàm Ma La Già nắm vuốt bức vẽ, khóe miệng nhẹ nhàng kéo.

Giống như tam sinh cạnh ao, một nhánh hoa sen xanh khẽ đung đưa, mặt nước mang theo một vòng gợn sóng.

Như có như không, thoáng qua liền mất.

Duyên Giác trợn to hai mắt, không dám tin, quay qua nhìn Tất Sa. Tất Sa giống cậu, hai mắt trợn to, cũng một vẻ chấn kinh.

Hai người không dám lên tiếng, đến khi nhìn lại Đàm Ma La Già, ngài đã buông giấy vẽ, thần sắc bình tĩnh, không một tia gợn sóng.

Trong lúc thám báo Vương Đình đưa về từng phong từng phong tin, mật thám bên Bắc Nhung cũng một phong lại một phong chuyển đến trong tay Ngõa Hãn Khả Hãn.

Quan Đoạn Sự nói: "Bốn quân Vương Đình vừa mới trải qua một trận náo động, lòng quân chưa ổn định, quan tướng tiếp quản còn chưa thể phục chúng. Bây giờ Tô Đan Cổ đã chết, không có Nhiếp Chính Vương đại diện triều chính, Phật Tử bận rộn chính vụ, lại thêm sắp đến sinh thần, sứ đoàn và dân chúng các nước chen chúc đến Thánh Thành, Thánh Thành đang ca múa thái bình, náo nhiệt hơn bình thường, chắc trong ngoài triều Vương Đình đều bề bộn lo cho chuyện này, không còn sức bận tâm chuyện khác."

Ngõa Hãn Khả Hãn trầm ngâm một lát, gọi mấy đứa con trai và Hải Đô A Lăng đến cho chúng phân tích thế cục.

Mấy đứa con trai cũng cảm thấy lúc này Vương Đình vừa trải qua nội loạn, phòng giữ còn trống không, là thời cơ tốt để đánh úp. Mượn cớ xé bỏ minh ước ư, tùy tiện bắt giết một nhóm dân du mục, là có.

Chỉ có Kim Bột vẻ mặt hơi khác lạ.

Ngõa Hãn Khả Hãn đuổi mấy đứa kia ra, giữ lại Kim Bột, hỏi: "Ngươi có nhận xét gì?"

Kim Bột thấy trong trướng không còn ai, bước lên mấy bước, trưng một khuôn mặt vui vẻ, nói: "Phụ Hãn, Vương Đình có ân cứu mạng với con... Một đoàn buôn của họ đã từng cứu mạng con..."

Ngõa Hãn Khả Hãn ngó lên trời trợn trắng mắt, "Ngốc! Người của đội buôn thì sao có khả năng ai nấy đều có thân thủ tốt chứ? Người cứu ngươi chắc chắn là có lai lịch lớn, kế hoạch ám sát của A Lăng tiến hành được có thể không thiếu tay chúng đổ dầu vô lửa. Huống hồ mùa đông năm nay phá lệ dài đăng đẳng, chúng ta nhất định phải nghĩ cách để tất cả bộ lạc được no ấm, nếu không chúng lại phản loạn!"

Kim Bột gãi gãi da đầu: "Nhưng sau đó con đã hứa sẽ báo đáp ân tình của Vương Đình, Phụ Hãn, con là con trai ngài, con cháu Thần Lang sao có thể nói mà không giữ lời chứ?"

Mi mắt Ngõa Hãn Khả Hãn thẳng đứng: "Chúng ta là Lang tộc lớn lên trên lưng ngựa, cướp bóc và chinh phạt là đạo sinh tồn của chúng ta, ân là ân, oán là oán. Đối diện với kẻ địch bên ngoài, mọi minh ước đều tạm thời ngủ đông đi. Ngươi đã hứa sẽ báo đáp ân tình, không có nghĩa là Bắc Nhung sẽ không tập kích Vương Đình."

Mặt Kim Bột ngu ra: "Phụ Hãn, chứ không phải trước giờ ngài luôn dạy con phải giữ lời hứa sao ạ?"

Ngõa Hãn Khả Hãn thản nhiên cười: "Kim Bột, chừng nào ngươi là kẻ mạnh, ngươi mới có tư cách giữ lời hứa, người Bắc Nhung chúng ta chỉ cần kẻ mạnh, không cần kẻ chết có đức hạnh. Chờ ngươi đánh bại Vương Đình rồi hãy đi thực hiện lời hứa của cá nhân ngươi."

Kim Bột rớt miệng: Thì ra ý của Phụ Hãn nói giữ lời hứa là thế! Trước đánh bại đối phương, sau lại nhân từ tha thứ hắn.

Ngõa Hãn Khả Hãn nhìn thằng con trước mắt chưa từng một mình lãnh binh tác chiến bao giờ, ngẫm nghĩ một lát rồi nói: "Mấy thằng anh của ngươi sẽ theo ta xuất chinh, A Lăng mang ba ngàn người tập kích bất ngờ, ta để cho ngươi bốn ngàn kỵ binh, ngươi đi trông chừng con đường Sa Hải."

Kim Bột thất vọng nói: "Con cũng muốn theo Phụ Hãn xuất chinh."

Ngõa Hãn Khả Hãn lắc đầu: "Ngươi đã thiếu Vương Đình một phần ân tình, lần tập kích bất ngờ này nên tránh mặt đi. Cần bảo vệ con đường Sa Hải cho tốt, không được khinh thường, nếu chiến sự không thuận lợi, ta sẽ dẫn Trung quân lui theo đường này."

Kim Bột vội cung kính vâng lời, thầm nói, không biết vị hộ vệ của đoàn buôn đã cứu mạng mình kia có xuất chinh không nhỉ. Nếu nhìn thấy ân nhân, hắn vẫn phải giữ lời hứa.

...

Trong lúc Bắc Nhung hành quân, Tất Sa cũng đang bận điều binh khiển tướng.

Vì sợ tin tức tiết lộ, để người Bắc Nhung thăm dò bố trí, mỗi ngày sau khi xong quân vụ, anh theo thường lệ đi võ trường tỷ thí với dũng sĩ các bộ lạc khác, tận sức đánh tiếng trước ngọn gió.

Hôm nay, anh ta mới vừa cùng Mạc Bì Đa thi bắn tiễn trên lưng ngựa, thân binh mang đến tin nhắn của Dao Anh mời ra ngoại thành một chuyến.

Không để ý đến mỏi mệt, anh thay y phục, đuổi ra ngoại thành.

Vừa sau trận tuyết rơi, bầu trời trong suốt như bảo thạch, trong một sơn cốc chỗ khuất gió, mấy chục xe ngựa phủ kín màn nỉ trên mặt tuyết chen chúc, đen kịt một mảnh, thân binh và hộ vệ đội buôn mặc áo da đang dỡ từng túi vải trên lưng lạc đà xuống, rất bận rộn.

Dao Anh mang lụa mỏng che mặt, người mặc một bộ tay áo hẹp cổ bẻ viền lông cừu, tiêu sái xinh đẹp, giẫm lên tuyết ra đón, ánh mắt rơi lên người đi cùng Tất Sa, định nói lại thôi.

Thanh niên mắt nâu tóc thắt bím áo choàng này chính là người ngày đó thắng Tất Sa ở võ trường.

Tất Sa nói: "Cậu ta là Mạc Bì Đa, công chúa yên tâm, là người Vương tin tưởng, lần này xuất chinh cậu ta cũng có mặt, không thì tôi cũng không dẫn đến."

Dao Anh gật gật đầu, ra hiệu thân binh tiếp tục dỡ hàng hóa, nàng từng nghe về vị Vương tử trẻ tuổi này, trước đó không lâu vừa lập công lớn, hiện là một trong các cận vệ của Đàm Ma La Già.

Mạc Bì Đa nghiêng người ra trước, hai tay giơ ngang thăm hỏi nàng, nhìn tư thế có phần buồn cười.

Dao Anh trả lễ theo bộ lạc Ô Cát Lý, dùng tiếng Ô Cát Lý nói: "Ngưỡng mộ đại danh Vương tử đã lâu."

Mạc Bì Đa sửng sốt, trong mắt hiện lên vẻ kinh ngạc.

Tất Sa cũng có phần ngạc nhiên: "Sao công chúa lại biết lễ nghi của Ô Cát Lý, còn nói tiếng bọn họ?"

Dao Anh cười, nói: "Không gạt Tướng quân, hồi ta còn làm bạn với nô lệ Bắc Nhung có từng học qua phong tục lễ nghi và ngôn ngữ mười mấy bộ lạc lớn nhỏ."

Trong đại mạc, thông thường rong ruổi trăm dặm cũng không thấy người ở, mỗi một tòa ốc đảo sâu trong hoang mạc có thể là một nước nhỏ, bộ lạc lớn nhỏ thế lực phức tạp, mỗi bộ lạc có tiếng nói riêng, lúc nàng học tiếng Hồ cũng học qua phong tục của các bộ lạc khác, thứ nhất khi chạy trốn có thể dễ trà trộn vào dân bản xứ, thứ hai có thể tránh vô tình xúc phạm bộ lạc nào.

Mạc Bì Đa thẳng tắp nhìn Dao Anh, nói: "Công chúa học rất khá."

Dao Anh cười cười, "Ta chỉ biết vài câu hỏi thăm đơn giản, để Vương tử chê cười."

Tất Sa bật cười: "Còn tiếng Phạn công chúa học sao rồi?"

Nhắc đến Dao Anh liền đau đầu, mấy hôm trước Đàm Ma La Già có hỏi tiếng Phạn nàng học đến đâu, Bát Nhã lập tức phấn khởi không thôi, hận không thể trong vòng vài ngày dạy cho nàng mấy trăm bộ kinh Phật bằng tiếng Phạn.

"Pháp sư muốn độ ta xuất gia, mỗi ngày Bát Nhã bưng cả đống quyển trục dí sau lưng ta, hà khắc ép ta học hành nghiêm túc, gần đây hễ thấy Bát Nhã ta liền vòng đường khác."

Tất Sa dừng bước, đáy mắt có một ánh lạ thường xẹt qua: "Vương muốn độ công chúa xuất gia?"

"Pháp sư có đề cập một câu..." Dao Anh gật đầu, phát hiện vẻ cổ quái trên mặt Tất Sa, dừng mắt trên mặt anh ta. "Có gì không ổn hả?"

Tất Sa rất nhanh khôi phục sắc mặt như thường, lắc đầu, nói: "Xưa nay Vương như vậy, gặp người có tuệ căn liền muốn độ người ta xuất gia."

Đang nói, thân binh mở ra một tấm màn phủ một chiếc xe ngựa, Tất Sa và Mạc Bì Đa bước đến trước, phát hiện trong xe ngựa chất đầy trường cung màu đen và từng bó tên.

Mạc Bì Đa nhấc thử một thanh trường cung, kéo thử chân cung, khẽ cau mày, bàn tay to rộng nắm lấy một mũi tên, đi đến một chỗ địa thế trống trải, giương cung bắn tên, vút vút vài tiếng, thế tên mãnh liệt, cực nhanh, mỗi một tên đều cắm giữa một cỗ xe ngựa trống.

Binh sĩ chạy bộ đến, phí hết sức nửa ngày mới rút được mũi tên ra, khen vang một góc.

Trên mặt Mạc Bì Đa cũng không có vẻ đắc ý, đưa trường cung cho Tất Sa, nói: "Cây cung này lực gần hai thạch*, rất rắn chắc."

Về thể tích, 1 Thạch là 10 Đấu. (~100l)

Về khối lượng, 1 Thạch là khoảng 71,616 kg. 2 thạch là sức bắn 140kg

Mắt Tất Sa lấp lánh, nhìn Dao Anh.

Đối với hành quân đánh trận mà nói, cung có lực một thạch đã thuộc dạng cường cung, bình thường công thành dùng cung một thạch bắn vào tường thành đối phương, trong khi kỵ xạ thì dùng cung có lực hơi nhỏ hơn bảy đấu chút.

Cung có lực gần hai thạch, tầm bắn gần bằng xe cung nỏ của Vương Đình.

Dao Anh đón lấy ánh mắt nghiêm túc chăm chú của Tất Sa, nói: "Xe cung nỏ của Vương Đình uy lực mạnh mẽ, khi thủ thành dùng có thể ngăn cản kỵ binh Bắc Nhung, nhưng xe nỏ cồng kềnh, lúc chinh chiến di chuyển không tiện, nên hay dùng nhiều khi thủ thành, thủ trận. Còn mấy cây trường cung này mặc dù không theo kịp tầm bắn xa như xe cung nỏ nhưng sức kéo mạnh, phối hợp trong chiến trận có thể bắn thủng ba lớp áo giáp."

Tất Sa nhìn quanh một vòng, thầm rung động, mấy chục xe lớn nếu bên trong chất đầy tên, tổng số phải đến mấy vạn!

"Mớ vũ khí này ở đâu ra thế?"

Dao Anh đáp: "Từ Bắc Nhung đấy."

Tất Sa há hốc miệng.

Dao Anh giải thích: "Mấy năm qua Bắc Nhung chinh phục rất nhiều bộ lạc, một số ít người không muốn đầu hàng Bắc Nhung, lưu vong khắp nơi thành kẻ liều mạng. Trong đó có một người là tù trưởng A Lặc thu nhập tàn quân và dũng sĩ lưu vong thành lập một đội quân đánh thuê, chỉ cần đưa đủ tiền của, họ sẽ bán mạng cho người."

"Trước đó ta từng thuê A Lặc bảo vệ đội buôn của mình. Lúc từ Cao Xương về, ta muốn ông ta thừa dịp Bắc Nhung nội loạn cắt đứt tiếp tế cho Hải Đô A Lăng, mấy vũ khí này chính là do bọn họ giành được từ một doanh địa Bắc Nhung không có người phòng thủ."

Sở dĩ Hải Đô A Lăng không có phần thắng, lựa chọn trực tiếp nhận tội, một nguyên nhân trong đó là do lực lượng của y ở một nơi bí mật gần đó cả ngày bị tù trưởng A Lặc quấy rối đến mệt mỏi.

Cuối cùng, Dao Anh bổ sung một câu: "Tướng quân yên tâm, tù trưởng A Lặc làm việc lưu loát sạch sẽ, người Bắc Nhung không biết đến chỗ cung tiễn này, bọn họ đã giả làm đội buôn vận chuyển vải vóc, trên đường không hở ra tiếng nào. Vả lại nếu có chuyện gì cũng không ai biết là ta hạ lệnh, tuyệt đối sẽ không mang đến phiền phức cho Vương Đình."

Tất Sa nhìn Dao Anh, mãi không khép được miệng.

Trên đường từ Cao Xương trở về, họ gặp phục kích, thế nhưng Văn Chiêu công chúa vẫn không quên thuê đội bộ tộc lưu vong làm suy yếu Hải Đô A Lăng?

Dao Anh vẫn thản nhiên nói tiếp: "Cung kỵ binh Bắc Nhung huấn luyện nghiêm chỉnh, mỗi người được trang bị ba con chiến mã, dùng đoản cung, trường cung, đoản cung của họ thích hợp đánh từ xa, trường cung có thể đánh vừa gần vừa xa, tầm bắn có thể đạt đến bốn trăm bước."

Tất Sa lấy lại tinh thần từ trong kinh ngạc, nói: "Không sai, người Bắc Nhung lớn lên trên lưng ngựa, từ nhỏ tất cả đã kéo cung bắn tên, lực cánh tay cực mạnh, kỵ binh của họ từng người đều có thể vừa phi nhanh vừa giương cung cài tên, một khi phát động công kích, vài trăm người là có thể đánh bại một doanh địa."

Anh ta áng chừng trường cung trong tay, "Cung của Bắc Nhung nhìn thì bình thường, nhưng lại bền bỉ rắn chắc."

Dao Anh nói: "Ta từng thấy họ chế cung, họ còn có cung song khúc, phôi cung được cải tiến, lớp bên trong là sừng trâu nấu qua, bao bên ngoài là gân trâu luộc qua, phôi cung mềm dẻo đầy lực, dây cung là gân trâu đã thuộc, có thể chịu sức kéo rất lớn, cán tên phần lớn dùng cây hoa*, cung này không khó chế tạo, chỉ cần thu thập đủ vật liệu, nam nữ đều có thể chế tạo thành thạo."

*Betula, cây hoa, dẻo dai co giãn tốt, khô hạn dễ nứt, thường được làm gỗ ván, sàn nhà, trang trí nội thất, xe, thuyền,...

Tất Sa khẽ cau mày, "Chế tạo không khó... Cho nên cung kỵ binh của chúng dễ dàng được trang bị vũ khí thế này, mỗi người đều sử dụng thành thạo, người người đều là tay cung kỵ."

Người Bắc Nhung dã man, nhưng bộ lạc dã man này thực lực rất mạnh.

Mạc Bì Đa ở một bên nói: "Công chúa đã nói cung song khúc chúng cải tiến chế tạo không khó, vậy có thể tìm thợ thủ công chế tạo không?"

Xe cung nỏ chế tạo rườm rà, giá vật liệu đắt đỏ, khi thao tác cần mấy người lính phối hợp, khi hư hỏng sửa chữa rất phiền phức, trong Vương Đình chỉ có những thành trì trấn quan trọng mới được phân cho xe nỏ. Cung tiễn chế tạo đơn giản, không cần phụ thuộc thợ mộc, binh sĩ trong quân đều có thể được trang bị, nếu có thể tiến hành cải tiến đã lập nửa công to.

Tất Sa lắc đầu, nói: "Từ lâu chúng ta đã biết cung song khúc người Bắc Nhung cải tiến, nhưng muốn làm ra giống như đúc, không đơn giản vậy..."

Dù ngay bây giờ họ đã đoạt được vũ khí của Bắc Nhung nhưng không thể trong thời gian ngắn bắt chước đạt tới.

Dao Anh ngắt lời, nói: "Thợ thủ công của ta làm được."

Tất Sa giật mình, suýt sặc nước bọt chính mình.

Dao Anh ra hiệu thân binh lấy một xấp giấy được bao lại bằng vải lụa, đưa cho Tất Sa, nói: "Trước kia ta từng gặp thợ thủ công nhắc đến cung song khúc, họ luôn thử cải tiến, thử rất nhiều lần, cũng không bằng cung của Bắc Nhung, cách đây không lâu cuối cùng họ cũng nghiên cứu ra, vừa vặn có đám vũ khí này mới chuyển tới, họ đã so sánh nghiệm thu, uy lực gần đạt đến cung song khúc của người Bắc Nhung, có điều lực mềm dai còn chưa đủ mạnh, còn ưu điểm là vật liệu dễ kiếm, có thể chế tạo số lượng lớn."

"Đây là bản vẽ."

Tất Sa vui mừng khó nhịn, nói: "Có thể chế tạo số lượng lớn thì không còn gì bằng!"

Cung quân đội chuyên dùng cũng không phải cần cung lực càng mạnh càng tốt, tốt nhất là thỏa mãn được nhu cầu của binh sĩ, lại tiện nghi bền bỉ, trang bị được số lượng lớn.

Anh ta chần chừ rồi nói: "Những vũ khí và bản vẽ chế tạo này đều do công chúa phí hết tâm tư mới có, cứ thế mà công chúa chắp tay đưa cho Vương Đình sao?"

Dao Anh cười nói: "Đã là đồng minh, tình thế trước mắt cực kỳ nghiêm trọng, đương nhiên muốn góp một phần sức cho Vương Đình."

Cung song khúc này cũng không phải là vũ khí hiếm có trên đời, đối mặt với kẻ địch mạnh như Bắc Nhung, giữa các phe hẳn phải đoàn kết nhất trí, vả lại xưa nay Vương Đình và Vương triều trước kia của Trung Nguyên thông thương, giữa hai nước không có xung đột về lợi ích.

Tất Sa ngắm nàng hồi lâu, nhận vải lụa, bảo thuộc hạ mình phái người đến bàn giao vũ khí.

Đợi binh sĩ tháo dỡ xong hàng hóa, Dao Anh và thân binh đi qua một bên nói chuyện bàn giáo các thứ rồi đạp lên yên ngựa. Tất Sa và Mạc Bì Đa ở trên đường núi chờ nàng.

Ba người cùng đi, ra nửa dặm, Dao Anh quay lại nhìn xe ngựa xếp thành một đường rồng rắn rời đi, hít một hơi, như suy nghĩ điều gì nói: "Kỵ binh Bắc Nhung không chỉ có kỵ xạ tinh xảo, phối hợp chặt chẽ, mà còn mọi lúc mọi nơi phát động tập kích nhanh chóng, mỗi người được trang bị vài con chiến mã, ngựa chúng đều là ngựa tốt, đủ sức chịu đựng, nếu A Lặc có thể giúp ta cướp một bầy chiến mã thì tốt biết mấy..."

Khóe miệng Tất Sa giật giật, yên lặng một lát, lắc đầu cười khẽ.

Mạc Bì Đa nghiêng đầu nhìn anh ta: "Tướng quân cười gì thế?"

Tất Sa ngó Dao Anh, cách nàng xa chút, thầm thì: "Ta đang nghĩ, nếu Hải Đô A Lăng mà biết Văn Chiêu công chúa hai năm nay làm gì, chắc chắn hối hận phát điên."

Mạc Bì Đa nhìn theo ánh mắt anh ta.

Trên mặt Văn Chiêu công chúa che mạng kỹ lưỡng, không thấy rõ dung mạo, nhưng chỉ cần nhìn cặp mắt sáng kia và tư thái là biết, nàng quả nhiên giống như lời đồn, xinh đẹp vô cùng, sáng như trăng.

Người Thánh Thành coi thường bộ lạc Ô Cát Lý, mấy ngày này, Văn Chiêu công chúa là nữ tử đầu tiên không cười ra tiếng khi cậu hành lễ chào hỏi.

Chợt nghe Mạc Bì Đa hỏi: "Tướng quân, tin đồn giữa Văn Chiêu công chúa với Vương là thật hay giả thế?"

Tất Sa cười: "Đồn thì sao có thể thật chứ?" Nói xong, trong lòng thầm nhảy, nhìn sang Mạc Bì Đa.

Mạc Bì Đa đối mặt với anh ta, vẻ rất thản nhiên, trên gương mặt trẻ tuổi lộ nét sáng sủa phóng khoáng.

Tất Sa nhíu mày.

Ba người cùng trở lại Vương Tự, vừa lúc gặp Duyên Giác từ chỗ rừng Phật tháp đi tới, thấy Dao Anh, biến sắc, ho khan mấy tiếng, nói: "Không phải hôm nay công chúa ra khỏi thành à, sao về sớm vậy?"

Dao Anh ngẩng đầu nhìn, ráng chiều đầy trời, nắng chiều chiếu xéo, tạt lên tháp cao một tầng sáng vàng óng ánh.

Về sớm ư?

Mặt Duyên Giác ửng đỏ, ánh mắt trốn tránh.

Dao Anh nghĩ ngợi, đoán chắc trong chùa có ai tới, nàng cần tránh mặt, nhân tiện nói: "Ta từ phía cạnh Hình đường về." Không có gặp người ngoài.

Duyên Giác không nói, trên mặt càng đỏ.

Đợi Dao Anh và thân binh quay đi, Tất Sa quét mắt một vòng qua Duyên Giác, hỏi: "Ai đến thế?"

Duyên Giác phun ra một ngụm ngột ngạt thật dài, nhỏ giọng nói: "Thiên Trúc công chúa Man Đạt đến! Người còn ở đại điện, còn chưa đi."

Mày Tất Sa xoắn lại thật chặt.

Tất Sa đã đến đại điện, thân vệ kiểm tra đồng phù, để anh vào điện.

Trong đại điện bầu không khí nặng nề trang nghiêm, cờ Kinh tung bay, hương trầm lượn lờ.

Trước điện người người nhốn nháo, Bát Nhã đứng trước cửa điện tiếp đón, sứ đoàn các nước đến tham bái theo thứ tự vào điện, chính thức dâng lên quốc thư.

Trong điện, tiếng Phật xướng quanh quẩn, ánh nến chập chờn, tượng Phật tỏa sáng lấp lánh, Đàm Ma La Già mặc một bộ cà sa đỏ ngồi trên Pháp đài, bên dưới đài chúng tăng mặc Pháp y vây quanh, cùng niệm kinh, chàng tắm trong tiếng Phạn và ánh nến, đường nét tươi sáng, khuôn mặt thanh tú, thần sắc lạnh nhạt, như đang ở trên đám mây cao vời vợi, trong lạnh thánh khiết.

Thành viên sứ đoàn Tì Ra Ma La thân mặc áo gấm, đầu đội kim quan bước lên từng người một, quỳ bái tượng Phật. Tham bái xong, sứ giả Tì Ra Ma La hành lễ với Đàm Ma La Già, nghiêng người ra hiệu với hầu cận sau lưng.

Chỉ nghe một tràng vòng va chạm leng keng, một nữ tử mặc váy lụa dài có thêu trân châu, viền hoa văn cây cỏ bằng sợi vàng sợi bạc nhỏ bước đến, tháo mạng sa che mặt, chậm rãi thi lễ.

Nữ tử có làn da màu nâu, ngũ quan rõ ràng, dáng người lả lướt, màu áo váy tươi sáng rực rỡ, trên trán điểm châu ngọc, trên cổ, tay, bên hông, chân đều mang vòng vàng điểm châu, sau khi vào điện từ từ giương mi mắt, đôi mắt màu xanh nâu nhìn đến Đàm Ma La Già, sóng mắt hơi lưu chuyển, từng cái giơ tay nhấc chân, vòng eo đều như nhẹ nhàng uốn éo theo vận luật, mê ly mị hoặc.

Thành viên sứ đoàn các nước ở trước điện nhìn thấy nữ tử, trong mắt là nỗi si mê không chút che giấu.

Sứ giả Tì Ra Ma La thỏa mãn nghe tiếng xuýt xoa không đè nén được chung quanh, có phần kiêu ngạo mà nói: "Vị này là công chúa Man Đạt của bỉ quốc."

Đám người ngoài điện nhốn nháo, xì xào bàn tán.

Công chúa Man Đạt đón ánh nhìn chằm chằm của đám đông, tay nâng một mâm vàng, trong mâm đựng hoa tươi cực kỳ hiếm có ở thời tiết này, bước đi liên tục nhẹ nhàng, đi đến trước Pháp đài dâng lên. Đôi mắt xanh nâu chằm chằm nhìn Đàm Ma La Già giây lát, tự dưng cười một tiếng, rũ mắt cúi đầu, như là e thẹn, quyến rũ động lòng người không tả xiết.

Thành viên sứ đoàn cũng thấy ngây dại.

Đàm Ma La Già cụp mắt, ánh mắt khẽ quét qua người công chúa Man Đạt, ra hiệu tăng nhân nhận mâm vàng đến cúng trước tượng Phật.

Công chúa Man Đạt cứng đờ mặt.

Nàng thiên sinh lệ chất, dung mạo xuất chúng, từ nhỏ đã theo vũ giả ưu tú nhất chùa miếu học múa, tài múa siêu quần, một khúc Thiên Ma Vũ có thể khiến một nửa đàn ông quý tộc trong thành quỳ gối dưới chân nàng, mặc nàng muốn gì cứ lấy. Nàng từng gặp rất nhiều loại đàn ông, cho dù là Vương tộc cao quý, dân buôn ranh ma, hay tăng nhân giữ giới, tất cả đều nhìn nàng bằng ánh mắt tham lam khó che giấu, thế nhưng ánh mắt vị Quân chủ Vương Đình trước mắt này nhìn nàng lại lạnh nhạt đến thế, không vui không buồn, không một tia gợn sóng.

Quân chủ Vương Đình không giống những vị sư nàng từng gặp, ánh mắt họ trốn tránh, không dám nhìn nàng, còn ngài ấy không một tia dao động, ngồi ngay ngắn ở Pháp đài, nhìn xuống nàng, như đang nhìn một đóa hoa, một bụi cỏ gấu, một cục đá, một người phàm không khác với những người khác.

Ánh mắt trang nghiêm bậc này, công chúa Man Đạt chỉ từng thấy trên tượng Phật ở chùa miếu. Lòng nàng hơi chùng, xem ra vị Quân chủ Vương Đình này là người khó bị đánh động.

Sứ giả cũng không nhìn ra công chúa Man Đạt đang cứng đờ, cười nói: "Từ nhỏ công chúa Man Đạt đã theo các sư trong Vương Tự tu tập Phật pháp, là một vị ưu bà tư kha*, công chúa ngưỡng mộ Phật Tử đã lâu, từng đọc kinh văn Phật Tử dịch, thức ngủ đều phục, lần này công chúa đến Vương Đình, nguyện noi theo Ma Đăng Già Nữ, vào chùa tu hành, mong Phật Tử cho phép."

*chú thích tác giả: nữ tử ở nhà tin Phật.

Trong nháy mắt, bầu không khí thoáng chốc trở nên yên lặng.

Từng người trong điện ngẩng lên, cố hết sức che giấu nỗi ganh tỵ và không cam lòng thầm dâng: Dù công chúa của họ cũng đều là mỹ nhân như hoa như nguyệt, nhưng khó mà so với công chúa Thiên Trúc này. Công chúa Thiên Trúc không chỉ có khuôn mặt đẹp, giữa nhất cử nhất động còn có một loại ý vị mê hoặc như có như không. Công chúa Thiên Trúc ra mặt, tất cả các công chúa đều trở thành phông nền, lấy gì mà Phật Tử nhìn các nàng ấy thêm một cái?

Ngoài điện, Tất Sa Duyên Giác chau mày, Bát Nhã đang tiếp đón dựng đứng đôi mày, hận không thể nhảy dựng lên mắng chửi.

Sứ giả Tì Ra Ma La không thèm để ý đến ánh mắt chướng mắt chung quanh, vẫn dương dương đắc ý, công chúa Man Đạt đi sứ các nước, đến bất cứ đâu, Quốc Vương, Vương tử đều mê say làm thần của nàng, gã tự tin lần này Quân chủ Vương Đình cũng không đỡ nổi vẻ xinh đẹp của công chúa.

Trong tĩnh lặng, Đàm Ma La Già ngước mắt.

Công chúa Man Đạt nhìn chàng, trong lòng không khỏi khẩn trương.

Đàm Ma La Già thản nhiên nói: "Thí chủ đã là ưu bà tư kha, nên dốc lòng vì Phật pháp." Nói xong, ánh mắt chàng đảo một vòng, nhìn đám người trong điện trước điện không dám thở mạnh một tiếng. "Việc này về sau đừng nhắc lại."

Giọng chứa đầy uy nghiêm, không cho phép tranh cãi.

Lúc này, trong điện phá lệ yên tĩnh, tất cả trợn mắt rớt mồm, thật lâu không nói gì.

Sứ giả Tì Ra Ma La không ngờ Đàm Ma La Già sẽ từ chối dứt khoát đến thế, không khỏi ngây ra định tranh luận mấy câu: Văn Chiêu công chúa người Hán thì có thể, sao công chúa Man Đạt thì không được?

Lời còn chưa thốt ra miệng, đối mặt với ánh mắt cận vệ đeo đao trước điện phóng tới, sứ giả chợt tỉnh táo lại, tay chân cứng đờ. Suýt thì quên, Phật Tử là Quân chủ Vương Đình, Phật Tử đã cự tuyệt ngay trước mặt, còn nói về sau đừng nhắc lại, các nước đến tham bái sao dám lỗ mãng trước mặt ngài?

Phật Tử muốn giữ ai thì giữ, ngay cả tư cách gặng hỏi họ còn không có.

Sứ giả tỉnh táo lại, trong lòng không hiểu: công chúa Man Đạt xinh đẹp thế này mà Phật Tử hoàn toàn dửng dưng, vị Văn Chiêu công chúa kia đến cùng là thần thánh phương nào mà có thể làm Phật Tử phá lệ?

Đang lúc buồn bực, một sứ giả bộ lạc khác không nhịn được bước lên mấy bước, cất giọng hỏi: "Quý quốc đã có thể giữ lại công chúa Văn Chiêu người Hán, sao công chúa của chúng ta thì không được? Chúng ta cùng quý quốc lui tới gần trăm năm, tình nghĩa sâu nặng, chả nhẽ kém xa vùng đất Hán xa ngoài vạn dặm sao? Quý quốc không thể bên nặng bên nhẹ thế!"

Khóe miệng sứ giả giật một cái, kết giao giữa các nước, nước mạnh dĩ nhiên có thể bên nặng bên nhẹ, người tiểu bộ lạc kia đúng là thô tục, còn hỏi ra miệng.

Gã vừa xem thường, vừa giương mắt nhìn Đàm Ma La Già, muốn nghe ngài ấy trả lời thế nào.

Mấy sứ giả nước khác cũng phản ứng giống gã, vô số ánh mắt sắc bén tập trung vào người Đàm Ma La Già.

Khuôn mặt Đàm Ma La Già trầm tĩnh, nói: "Ma Đăng Già Nữ chỉ có một."

Lời vừa dứt, cả đám không dám tin, các sư trong điện cũng nhao nhao lộ vẻ kinh ngạc.

Ngoài điện, Tất Sa giống như vừa bị quất một roi, muốn đứng không vững.

...

Nhận xong lễ vật các nước đến hiến, Đàm Ma La Già đứng dậy rời đi.

Sứ đoàn các nước rời khỏi đại điện, bàn tán ầm ĩ.

Có người quăng một tia giễu cợt về sứ giả Tì Ra Ma La, sứ giả thầm tức giận, quay lại nói với công chúa Man Đạt: "Chúng ta còn cơ hội, đợi xem Thiên Ma Vũ của ngài, có là Phật Tử cũng phải động tâm."

Công chúa Man Đạt nhẹ giọng hỏi: "Ngươi từng thấy Văn Chiêu công chúa chưa?"

Sứ giả nói: "Chưa từng, từ khi Pháp hội bắt đầu vị công chúa này rất ít khi lộ diện, thỉnh thoảng ra ngoài vài lần cũng đều đeo mạng che mặt, người của chúng ta không thấy được chân dung ngài ấy."

Gã khẽ cười, giọng điệu lộ vẻ khinh thường. "Một công chúa Hán, sao vượt được người?"

Công chúa Man Đạt lắc đầu: "Ngươi quá khinh địch. Ta có cho thị nữ nghe ngóng chỗ thân binh của Phật Tử về Văn Chiêu công chúa, ngươi biết họ hình dung vẻ đẹp của Văn Chiêu công chúa thế nào không?"

Sứ giả nhíu mày.

Công chúa Man Đạt chậm rãi nói: "Họ nói, Văn Chiêu công chúa xinh đẹp rạng ngời, nhìn nàng, họ nghĩ đến thạch lựu ngậm mật ong, nghĩ đến trăng sáng cao khiết, biển cả xanh thẳm, là cây trong ngôi vườn Cấp Cô độc* rải ngàn vàng, miệng cười của nàng, có thể khiến mỗi một dũng sĩ thân kinh bách chiến biến thành kẻ thiếu niên."

*CẤP CÔ ĐỘC (tiếng Phạn: Anathapindika) là một đệ tử tại gia của Phật Tổ. Kinh Phật chép rằng ông là một trưởng lão giàu có, người nước Kosala phía Đông Bắc Ấn Độ cổ. Tên của ông là Tu-đạt-đa, do ông thường xuyên cung cấp thức ăn cho những người nghèo và vô gia cư nên được gọi là Cấp Cô Độc.

Ông đã hiến tặng một khu vườn mua của Thái tử Jeta; (con vua Ba-tư-nặc xứ Kosala) cho giáo đoàn của Đức Phật. Trong khu vườn đó ông đã rải một lớp gồm 1,8 triệu miếng vàng. Sau khi qua đời, Cấp Cô Độc được sinh vào cõi trời Tusita, hay cõi của các vị Bồ-tát. Cấp Cô Độc được biết đến là đệ tử hào phóng nhất của Đức Phật. (trích wiki)

Vẻ mặt sứ giả trở nên trịnh trọng: "Là tôi quá xem thường công chúa người Hán. Nếu vẻ đẹp ngài ấy thật giống trong truyền thuyết thì khó trách Phật Tử nói Ma Đăng Già Nữ chỉ có một."

Công chúa Man Đạt đeo lại mạng che mặt, nói: "Ngươi phái người đi theo dõi Văn Chiêu công chúa, tìm hiểu rõ ràng trên người cô ta rốt cuộc có chỗ nào đặc biệt."

Sứ giả gật đầu.

...

Phía bên kia, Dao Anh vừa trở lại viện tử, thân binh lập tức chào đón: "Công chúa, người nghe gì chưa? Hôm nay công chúa Thiên Trúc kia đến Vương Tự!"

Dao Anh sửng sốt, "Công chúa Thiên Trúc?"

Duyên Giác không muốn để nàng đi đại điện là vì Thiên Trúc công chúa chăng? Sợ các nàng có tranh chấp sao?

Thân binh nói: "Công chúa, nghe nói công chúa sứ đoàn các nước ai cũng xinh đẹp, nếu đều giữ lại, người nên làm sao đây?"

Dao Anh lắc đầu, vào nhà ngồi xuống, nâng bút viết thư, nói: "Pháp sư là cao tăng, cho dù mấy cô công chúa kia đẹp nhường nào, trong mắt Pháp sư cũng chỉ là mấy túi da thôi." Đã từng có lão ẩu miệng méo mắt lác, tướng mạo xấu xí tham bái ngoài điện, người khác tránh xa bà, Đàm Ma La Già không hề để ý bà xấu xí bẩn thối, cầu phúc cho bà, trong mắt ngài ấy không hề phân đẹp xấu.

Thân binh bưng chậu than đặt trước thư án, nhỏ giọng nói: "Công chúa, cao tăng cũng là người, ngày đại hội tỷ võ, Phật Tử sẽ lấy thân phận Quân chủ tham dự buổi lễ, đến chừng đó công chúa Thiên Trúc sẽ múa tặng ngài, tiểu nhân nghe người ta nói, xem điệu Thiên Ma Vũ của công chúa Thiên Trúc, đến tảng đá cũng phải động tâm."

Dao Anh dừng tay, "Thiên Ma Vũ?"

Nàng nhớ đến bức bích hoạ «Hàng ma biến», có một bức vẽ chuyện tích Ma vương phái ba người con gái xinh đẹp đến dẫn dụ Phật Tổ. Đám ma nữ người trần truồng, chỉ choàng một lớp vải sa mỏng trong suốt, vây quanh Phật Tổ nhẹ nhàng nhảy múa, tạo dáng õng ẹo, thái độ rất lẳng lơ xinh đẹp.

Thiên Trúc công chúa muốn dẫn dụ Đàm Ma La Già, dao động ý chí ngài ấy?

Mày Dao Anh nhẹ chau lại. Nàng biết Đàm Ma La Già sẽ không động tâm, nhưng nói cho cùng chuyện này là do nàng, là do La Già phá lệ vì nàng mới chuốc phải sóng gió thế này.

Dao Anh trầm ngâm một lát rồi hỏi: "Vật ta cần đã chuẩn bị xong chưa?"

Thân binh nói: "Đã xong, lão Tề tự mình làm."

Dao Anh gật đầu, lấy giấy viết thư đính kim tuyến mà cửa hàng cách đấy không lâu tự làm ra được, viết một bức mừng tuổi, thổi khô mực.

Hôm sau, nàng cầm quốc thư đi tìm Duyên Giác.

Người trên đường đều quan sát đánh giá nàng.

Dao Anh thầm nghĩ, gần đây ánh mắt người Vương Đình nhìn nàng tràn ngập căm thù, nàng phải nghĩ cách nhanh chóng rời Vương Tự.

...

Duyên Giác đang gác ở thiền thất, nghe Dao Anh tìm mình mới bảo người truyền tin: "Mời Văn Chiêu công chúa về trước đi, buổi trưa ta mới rảnh."

Đang cúi đầu phê duyệt tấu chương Đàm Ma La Già nghe thấy tiếng nói chuyện, ngước mắt quét qua cậu một cái.

Duyên Giác bước lên trước, khom người giải thích: "Vương, Văn Chiêu công chúa có chuyện muốn tìm tôi bàn bạc."

Đàm Ma La Già rũ mắt xem quyển da cừu, nói: "Để nàng vào đi, cậu ra ngoài gặp nàng."

Duyên Giác ngây ra, thưa vâng. Chỉ sau thoáng chốc, người truyền tin dẫn Dao Anh đến.

Dao Anh không dám quấy rầy Đàm Ma La Già, đứng ngoài điện chờ Duyên Giác đi tới, nhỏ giọng hỏi: "Ta nghe nói, ngày đầu tiên của điển lễ, đại thần, dân chúng, tất cả bộ lạc và sứ đoàn đều đến dâng tặng lễ vật đến Phật Tử?"

Duyên Giác gục gặc đầu.

Dao Anh lại hỏi: "Hôm đó công chúa Thiên Trúc cũng hiến múa à?"

Mặt Duyên Giác chợt thay đổi, một hơi nói: "Vương đã nói, công chúa là Ma Đăng Già Nữ duy nhất, công chúa Thiên Trúc sẽ không được như ý, công chúa an tâm đi!"

Dao Anh ngơ ngác. "Ma Đăng Già Nữ duy nhất là ý gì?"

Duyên Giác cũng sửng sốt: "Công chúa chưa nghe nói ạ?" Cậu kể lại chuyện hôm qua, cuối cùng nói: "Đợi điển lễ kết thúc, toàn bộ các công chúa đều phải rời Thánh Thành trước cuối tháng, về lại nơi các nàng, công chúa Thiên Trúc cũng thế."

Dao Anh đứng trước điện, ngây ra một lúc.

Nếu trước kia Đàm Ma La Già trực tiếp cự tuyệt nàng như cự tuyệt công chúa Thiên Trúc, nàng không thoát nổi lòng bàn tay của Hải Đô A Lăng.

...

Sau một tuần trà, Duyên Giác quay lại thiền thất, đứng vững vàng ở trong góc.

Đàm Ma La Già không ngẩng đầu lên, hỏi: "Chuyện gì thế?"

Duyên Giác đoán ngài ấy hỏi chuyện Lý Dao Anh, trả lời: "Văn Chiêu công chúa nói, hôm điển lễ nàng cũng muốn tặng lễ vật đến Vương, hỏi tôi có thể sắp xếp chỗ ngồi cho mình không, đến lời chúc mừng cũng đã viết xong... Tiểu nhân đang muốn xin chỉ thị Vương, có thêm một chỗ cho Văn Chiêu công chúa không ạ?"

Bút trong tay Đàm Ma La Già chợt ngừng.

Duyên Giác gãi gãi da đầu thăm dò: "Thêm ạ?"

Đàm Ma La Già tiếp tục viết, khẽ gật đầu.

...

Chớp mắt đã tới ngày đầu của điển lễ.

Muôn người đổ xô ra đường Thánh Thành, chưa từng rầm rộ đến vậy, trong ngoài trường diễn võ đầy người chen chúc, rộn rộn ràng ràng.

Dao Anh được Duyên Giác dẫn vào một căn lều trướng bằng vải trên đài cao. Trong lều trướng trải thảm nhung Ba Tư, các quý phụ ngồi trước án, nhìn qua ăn mặc đẹp đẽ, cả phòng lấp lánh ánh vàng.

Hôm nay Dao Anh không cố chú trọng ăn mặc, vẫn trang phục bình thường, cẩm bào ủng dài, chải búi tóc kiểu nam, không có trang sức gì chỉ đeo một cây trâm ngọc hình hoa sen, mặt che mạng.

Duyên Giác nhìn kỹ nàng mấy lần, thầm nói: sao hôm nay Văn Chiêu công chúa không trang điểm kỹ càng như hôm ở Cao Xương nhỉ? Dù thế này cũng xinh đẹp, nhưng mấy công chúa kia ai cũng đầu đầy châu ngọc, so kè sắc đẹp, Văn Chiêu công chúa đến một đóa hoa cũng không cài, lại ngay cả một đóa hoa đều không có mang, có mộc mạc quá không?

Đội buôn bán của công chúa lui tới trên đường buôn, tiệm tơ lụa mỗi tháng đổi một hoa văn mới, phu nhân mấy nước đổ xô theo như vịt, nên không thiếu của.

Hẳn công chúa chơi ngược, cố tình mặc nam trang gặp người, sẽ không giống đám đông?

Dao Anh không biết Duyên Giác đang bình luận cách ăn mặc của mình trong lòng, tìm tới chỗ của mình, ngồi xuống.

Phu nhân và đám công chúa trên đài người đầy gấm vóc, trang sức trân châu nặng trĩu tầng tầng, Dao Anh chỉ mặc tay áo hẹp tiêu sái, mới vừa xuất hiện lập tức hấp dẫn chú ý của mọi người.

Công chúa Man Đạt và mấy công chúa nước khác lao xao nhìn về phía nàng. Mấy vị công chúa tiểu quốc thì thầm: "Nàng ta chính là Văn Chiêu công chúa đến từ đất Hán..."

"Cô gái Ma Đăng Già mà Phật Tử nói chính là nàng ta."

"Là nàng ta sao?" Một vị công chúa dùng ánh mắt bắt bẻ nhìn Dao Anh thật kỹ, hừ nhẹ, "Cũng chỉ thế thôi."

"Nàng ta đến mạng che mặt cũng không dám lấy xuống, chắc chắn là tự biết mình không đẹp bằng công chúa Man Đạt nên không dám lộ mặt đây."

"Ta từng nghe mấy ông bán hàng người Hồ nói, gái Hán có thủ đoạn mê hoặc đàn ông ấy, chắc chắn là Văn Chiêu công chúa dựa vào thủ đoạn đó mới tranh thủ lòng vui của Phật Tử."

"Đúng, gái Hán có yêu pháp!"

Tiếng đám đông giễu cợt bay vào tai Duyên Giác, cậu nhìn quanh một vòng, nhíu mày rồi nhấc chân đi ra.

Dao Anh biết hôm nay công chúa các nước cũng có mặt xem điển lễ, vừa bước vào lều trướng đã nhìn qua phía các nàng ấy. Nàng không hiểu mấy lời thì thầm của đám công chúa nhưng thấy thần sắc các nàng ấy thì biết đang bàn tán về mình, mỉm cười, đôi mày giãn ra, ánh mắt sáng sủa sắc bén.

Bởi nụ cười của nàng, toàn bộ lều trướng thoáng chốc sáng rỡ mấy phần.

Đám công chúa nhớ đến lời đồn Dao Anh đánh công chúa Bắc Nhung bên đường, thấy nàng khí thế bình tĩnh, thầm nghi ngờ nàng muốn ra tay, giật nảy mình, ánh mắt trốn tránh, không dám nhìn nàng.

Dao Anh liếc nhìn một vòng, thấy mấy công chúa tiểu quốc kia vì chột dạ trong lòng mà mặt đỏ tới mang tai, cảm giác được một ánh mắt sắc bén dừng trên người mình rất lâu, thoải mái liếc nhìn lại.

Công chúa Man Đạt nghiêng người dựa vào bằng ỷ, đối mặt với Dao Anh, hôm nay nàng ta không mang mạng che mặt, đôi mắt xanh nâu ngó Dao Anh một lúc rồi thu ánh mắt.

Dao Anh ngồi ngay ngắn thẳng tắp, tiếp tục mỉm cười dò xét đám công chúa khác. Cả đám tê rần cả da đầu, không lên tiếng.

...

Duyên Giác bước nhanh vào chính điện đài cao, Đàm Ma La Già đã đến, đang nói chuyện với Mạc Bì Đa mặc một người nhung trang.

Mạc Bì Đa lui ra, Duyên Giác tiến tới nhỏ giọng nói: "Vương, tiểu nhân thấy nên đổi chỗ cho Văn Chiêu công chúa ạ."

Đàm Ma La Già giương mắt nhìn cậu.

Duyên Giác nói: "Mấy công chúa và các phu nhân Vương Đình đều đang bàn tán về Văn Chiêu công chúa, có nói mấy lời khó nghe." Cậu sợ Văn Chiêu công chúa một lời không hợp, giống hôm chỉnh lại công chúa Bắc Nhung, sai thân binh nàng trực tiếp ra tay đánh người.

Đàm Ma La Già nhìn về phía lều trướng của các quý phụ, nói: "Mời công chúa đến đi."

Duyên Giác ngẩn ra.

...

Một lát sau, Duyên Giác đi vào lều ra hiệu Dao Anh theo cậu rời đi.

Mặt Dao Anh đầy khó hiểu, đứng dậy đuổi theo cậu, từ hành lang dài đi đến chính điện trên đài cao, chung quanh cận vệ trấn giữ nghiêm ngặt, cờ trắng tung bay, gió thổi phần phật, yên tĩnh trang trọng.

Hoa ưu đàm (tiếng Phạn: uḍumbara, có nghĩa là "một loài hoa mang đến điềm lành từ Thiên đàng."), theo Phật giáo là hoa của cây sung. Trong kinh điển Phật giáo và Vệ Đà, đây là một loài hoa hiếm hoi và mang lại điềm lành. Quyển 8 Kinh "Huệ Lâm Nghĩa" của nhà Phật viết: "Hoa Ưu Đàm do điềm lành linh dị sinh ra; đây là một loài hoa của Trời, trên thế gian không có. Nếu đấng Như Lai hoặc Chuyển Luân Thánh Vương hạ xuống thế gian con người, loài hoa này sẽ xuất hiện nhờ đại ân và đại đức của Ngài." (gg)

Cận vệ phòng thủ vén màn trướng.

Trong trướng lặng lẽ không có tiếng người, chỉ có mấy cái cận vệ canh giữ ở góc khuất. Dao Anh được Duyên Giác ra hiệu đi vào đài cao, ánh mắt rơi vào người Đàm Ma La Già đang ngồi ngay ngắn trên bảo tháp, hơi ngẩn ra.

Đàm Ma La Già mặc bộ cà sa đỏ, tay cầm bảo khí, đầu đội vương miện lá cây bằng vàng, trên miện khảm kim thạch, hổ phách, mã não, rực rỡ chói mắt, ưu nhã hoa lệ sang trọng.

Lần đầu tiên Dao Anh thấy chàng đội vương miện Quân chủ Vương Đình, trong lòng dâng lên một cảm giác kỳ lạ, nhịn không được nhìn thêm mấy lần.

Đàm Ma La Già gọi Bát Nhã đến. Bát Nhã nhìn thấy Dao Anh, trợn to mắt, dẫn nàng đến một góc khuất sau tấm rèm che cạnh bảo tháp.

Dao Anh vừa nghe theo, vừa liên tục quay đầu nhìn Đàm Ma La Già, chàng vừa vặn ngước lên nhìn nàng, cả người sáng rực, ung dung trang nghiêm.

Ánh mắt chạm nhau, không hiểu sao Dao Anh lại thấy chột dạ, nhanh chóng lùi về sau tấm màn.

"Đây là chỗ của ai thế?" Nàng hỏi Bát Nhã.

Cảm xúc trên mặt Bát Nhã đầy phức tạp, nói: "Trước kia là chỗ mấy tiểu Công chúa, tiểu Vương tử ấy. Công chúa ngồi đây đi, trước khi điển lễ kết thúc tuyệt đối đừng đi lại, bị người thấy thì không hay." Là xem Dao Anh như đứa trẻ hiếu động mà dặn dò.

Dao Anh bật cười, ngồi xuống xếp bằng.

...

Tấm màn nhẹ nhàng lay động, không nhìn thấy được dáng vẻ nàng lén lút thò đầu ra nhìn.

Đàm Ma La Già nhìn về phía Dao Anh, trong tích tắc thu tầm mắt, ngón tay nhẹ phẩy bảo khí.

Beng, cận vệ trước điện lần lượt giơ lên cờ xí, từ đài cao, hành lang dài kéo dài mãi đến dưới đài, xếp thành mấy con rồng lớn, giữa sân lập tức yên tĩnh lại.

Trong võ trường chuông trống nổi lên, kỵ sĩ năm quân mặc y phục khác nhau cưỡi tuấn mã, lập thành chiến trận, dưới sự dẫn dắt của Tất Sa mặc áo giáp uy vũ cùng với Mạc Bì Đa lao vụt ra trận, thanh thế đầy hùng tráng.

Cả vùng như rúng động.

Dao Anh ngồi sau tấm màn, từ trên cao nhìn xuống, thấy được lều trướng sứ đoàn các nước, tất cả đều nhìn kỵ sĩ năm quân dưới đài không chớp mắt.

Kỵ sĩ năm quân trật tự ngay ngắn, quân dung nghiêm chỉnh, sau một trận biểu diễn kỵ xạ, công kích, lược trận, công thành, sứ đoàn các nước vẻ đầy nghiêm túc, sứ giả mấy tiểu bộ lạc lặng lẽ lau mồ hôi.

Đến khi Tất Sa và Mạc Bì Đa dẫn các kỵ sĩ lui ra, đám người lặng lẽ thở phào.

Tiếng trống ngừng lại, nhạc công người Quy Tư tấu lên khúc nhạc vui vẻ, Vương công quý tộc ăn mặc lộng lẫy, sứ đoàn các nước, dân chúng bình dân xếp thành hàng, lần lượt tiến về chính điện dâng quà mừng tuổi, lễ vật quý hiếm, vàng bạc châu ngọc, mâm vàng chất đầy.

Cho đến phiên nước Tì Ra Ma La dâng tặng lễ vật, tiếng ồn ào trong sân tự dưng yên tĩnh lại, vô số ánh mắt dừng trên người công chúa Man Đạt đang được vây quanh bởi một đám vũ nữ ăn mặc sặc sỡ.

Đám vũ nữ bắt đầu nhảy múa, đủ các tư thế hướng thần cầu nguyện, công chúa Man Đạt vượt qua đám người từ từ bước đến, dáng người uyển chuyển, thướt tha tự nhiên.

Trán nàng điểm một điểm đỏ, đầu đội khăn lụa, người mặc bộ váy dài bó sát người hoa văn hoa sen thêu đầy trân châu bảo thạch, phức tạp hoa lệ, bên ngoài khoác một lớp sa mỏng trong suốt, phác hoạ ra đường cong lả lướt, đai lưng bên hông khảm đầy bảo thạch, trên cổ tay và mắt cá chân trần trụi đeo mấy chục vòng vàng, theo điệu nhạc, hai tay như cánh hoa uốn éo, hai chân uốn lượn, chầm chậm cúi xuống bái lạy Đàm Ma La Già.

Còn chưa múa, đã phong tình vạn chủng.

Một nháy mắt, cơn gió táp vào mặt cũng trở nên hiền lành dịu dàng.

Mọi người tại chỗ không khỏi nín thở.

Trong góc vắng, Dao Anh nghe tiếng Bát Nhã nghiến răng.

"Người nước Tì Ra Ma La thật không biết xấu hổ!" Cậu thở phì phò nói.

Người nước Tì Ra Ma La người xem vũ đạo là phương thức giao tiếp với thần linh, mỗi khi tế lễ, khánh điển đều có màn hiến múa cho thần, vũ đạo giống như một nghi thức tôn giáo, người Tì Ra Ma La lấy bài hiến múa làm cách biểu đạt chúc phúc, lễ quan Vương Đình hết cách cự tuyệt.

Nghe nói từ nhỏ công chúa Man Đạt học múa ở chùa miếu, điệu múa của nàng ta xinh đẹp cổ điển, lại tràn ngập dụ hoặc, khơi gợi dục vọng đàn ông, nàng ta hiến bài múa trên danh nghĩa kính thần, không có ý tốt!

Bát Nhã nhìn công chúa Man Đạt, mặt xanh lại. Dao Anh cố nén cười, tránh thêm dầu vào lửa.

Dưới đài, công chúa Man Đạt nhẹ nhàng nhảy múa đã theo điệu nhạc, eo lắc lư, cánh tay thiên biến vạn hóa, vòng xuyến nơi cổ tay, cổ chân leng keng rung động theo vần luật, huyên phong hồi tuyết, loan hồi phượng chứ*, châu anh huyễn chuyển tinh túc diêu, hoa mạn đấu tẩu long xà động**.

*gió về tuyết bay, chim loan chim phượng bay liệng: hình dung dáng múa nhẹ nhàng tuyệt đẹp.

**trích thơ Phiêu Quốc Nhạc – Bạch Cư Dịminh châu lấp lánh giống như sao đầy trời lay động; tóc mềm mại uyển chuyển như long xà nhảy múa. Chỉ vũ nữ nhảy múa mang tư thái xinh đẹp bồng bềnh.

Ưu nhã động lòng người, hết sức quyến rũ.

Đám người xem đến hồn điên phách đảo, mấy tên đàn ông ngơ ngác đứng lên, rướn cổ, hận không thể nhích lại gần xem kỹ.

Lúc nhỏ người Dao Anh yếu ớt, thần y có đề nghị nàng học múa để khoẻ người, nàng từng theo tì nữ người Hồ học kiện vũ và nhuyễn vũ*, cũng nhìn mê mẩn.

*điệu múa hùng hồn mạnh mẽ lẫn điệu mềm mại uyển chuyển.

Sau một khúc, tiếng nhạc tự dưng chậm lại, công chúa Man Đạt sóng mắt lưu chuyển, chậm rãi gỡ mạng che mặt, chân ngọc lả lướt bước trên thảm đỏ Ba Tư, từng bước tiến đến chính điện.

Sau tấm màn, Dao Anh không khỏi tán thưởng: Thảo nào ai cũng nói tài múa của công chúa Man Đạt tinh xảo, dáng nàng ấy múa linh hoạt mà trang nhã, có cứng có mềm, tràn ngập sức sống, lại có ý vị tôn giáo cao quý ung dung khó tả bằng lời, thánh khiết và mê hoặc tập trung vào một con người, dường như có thể đoạt hồn phách người khác.

Công chúa Man Đạt đã đến chính điện.

Đàm Ma La Già chưa từng xem ca múa, nước Tì Ra Ma La đành mượn cớ kính thần cho nàng hiến múa, nàng biết cơ hội hiếm có, xuất ra tất cả vốn liếng, dáng múa khi thì nhẹ nhàng, khi thì thanh thoát, tấm sa mỏng trên người như ẩn như hiện, rực rỡ hoa lệ.

Công chúa Man Đạt múa đến trước bảo tháp của Đàm Ma La Già, dáng múa càng lúc càng thướt tha, khi cúi người, hai chân hơi tách ra, trút lớp sa mỏng, hiện ra lớp da màu mật ong óng ả, ý cám dỗ vô cùng sống động, trong lều trướng mơ hồ có dòng tình ý | dục vọng mê hoặc chảy xuôi.

Mặt của Bát Nhã bắt đầu từ từ phát tím.

Dao Anh tiến đến trước tấm màn, mắt chăm chú dõi theo công chúa Man Đạt giống như một đóa hoa diễm lệ nở rộ chói mắt, đang xem như si như say, cảm giác có một ánh mắt trong lạnh nhìn mình, không khỏi giật mình, nhìn lại phía Đàm Ma La Già.

Chàng nhìn nàng, mặt không cảm xúc.

Một lần nữa đáy lòng Dao Anh lại dâng lên cảm giác chột dạ, ngượng ngùng rụt về, khép lại màn trướng.

Với ngài ấy mà nói, tình cảnh lúc này hẳn rất xấu hổ, nàng không nên tràn đầy phấn khởi xem náo nhiệt thế kia.

Ngoài màn trướng tiếng nhạc vẫn còn tiếp tục, đôi mắt xanh nâu ngập nước của công chúa Man Đạt nhìn Đàm Ma La Già, phát giác thì ra ngài ấy chẳng nhìn mình, lòng chùng xuống.

Xem ra vị sư này thật sự đoạn tuyệt tình dục sao?

Dáng múa nàng tuyệt đẳng, vừa xoay tròn rất nhanh, vừa lưu ý quan sát Đàm Ma La Già, phát hiện thỉnh thoảng ngài ấy thoáng liếc nhìn về chỗ màn trướng cạnh bảo tháp, eo nhẹ xoay, tới gần bức màn.

Mày Đàm Ma La Già nhẹ nhíu.

Cặp mắt công chúa Man Đạt chuyển một chuyển, nghiêng người về phía trước, ngón tay thon dài cố hất tấm màn cho ra nhẽ.

Sau màn, Dao Anh phản ứng rất nhanh, đẩy Bát Nhã ra.

Công chúa Man Đạt nhìn thấy một người đùng đùng giận dữ, méo mó cả mặt, giật mình, nghi hoặc dời chân.

Bát Nhã tức giận đến giơ chân, khép lại màn trướng, bước tới cạnh Đàm Ma La Già: "Vương, để tôi đi bảo nhạc công dừng khúc nhạc lại!"

Đàm Ma La Già thản nhiên nói: "Đã là lễ vật nước khác dâng tặng, cứ để họ diễn xong."

Bát Nhã cắn răng thưa vâng.

Một khúc kết thúc.

Công chúa Man Đạt cúi người hành lễ, quyến rũ thướt tha.

Đàm Ma La Già nhìn nàng.

Trên đài dưới đài lặng ngắt như tờ. Tất cả nhìn lên đài cao.

Trong yên ắng, ngón tay Đàm Ma La Già nhẹ phẩy.

Bát Nhã lập tức cất giọng tuân lệnh: "Đoàn kế tiếp!"

Mọi người dưới đài ầm ĩ một trận, thoáng như tảng đá rơi vào mặt nước, đẩy ra tầng tầng gợn sóng, tiếng bàn tán từng vòng từng vòng lan ra.

Công chúa Man Đạt cứng đờ, mặt hiện vẻ kinh ngạc không hiểu, nhục nhã, từ từ đứng dậy, rời đi trong tiếng Bát Nhã thúc giục.

...

Trong lều trướng, Dao Anh nghe tiếng nhạc khúc dừng lại, lặng lẽ kéo ra một khe hẹp nhìn ra ngoài.

Bóng lưng công chúa Man Đạt rời đi vẫn nhẹ nhàng như trước.

Đàm Ma La Già nghiêng đầu nhìn sang Dao Anh.

Tay Dao Anh nắm màn trướng, chỉ lộ ra nửa khuôn mặt, nhìn chàng cười một tiếng, nàng biết ngài ấy sẽ không bị Thiên Ma Vũ của công chúa Man Đạt mê hoặc.

Ánh mắt trong suốt, ngoài kính ngưỡng, bội phục, còn có mấy phần có lỗi vì đem thêm phiền toái cho chàng.

Đàm Ma La Già thu tầm mắt.

...

Sau đó, các nước tiếp tục ra mặt đưa lễ mừng.

Chờ đến lượt Dao Anh, Duyên Giác tới báo, nàng rón rén đi ra, theo hành lang dài bên kia ra khỏi lều trướng. Tất Sa và Mạc Bì Đa đã thay áo giáp, đang từng bước bước lên, thấy nàng từ chính điện ra, dừng bước.

Dao Anh chưa kịp chào hỏi Tất Sa, vội vàng theo hướng khác đi xuống đài cao.

Bát Nhã cao giọng xướng danh hào của Dao Anh.

Trong tích tắc, tiếng nhạc, tiếng nói chuyện đều ngừng lại, đến tiếng gió phần phật cũng lặng lẽ bỏ chạy.

Dao Anh không vào điện, đứng trên đất tuyết dưới đài, đón vô số ánh mắt hoặc hiếu kì hoặc cảnh giác hoặc chán ghét hoặc khinh bỉ, mỉm cười, nhìn quanh một vòng, sóng mắt sóng sánh như làn nước trong xinh đẹp.

Trên sân dưới sân vẫn yên lặng như tờ.

Dao Anh ra hiệu lễ quan Vương Đình bước lên, nói: "Ta phải dâng lễ vật đến Phật Tử, mời chư vị công chúa đến gần quan sát."

Lễ quan hoảng sợ, liếc nhìn nàng, thấy trong mắt nàng cười nhẹ nhàng, biết nàng không phải là đang nói đùa, phái người thông báo các công chúa.

Đám công chúa kinh ngạc không thôi, nghi ngờ Dao Anh muốn giở trò, nhưng nếu khinh thường từ chối không đi sẽ bị người coi nhẹ, hơn nữa các cô cũng rất muốn nhích lại gần xem rốt cuộc Dao Anh biết thủ đoạn gì, liếc mắt nhìn nhau, nghĩ mình số đông, hừ lạnh, đi ra lều trướng.

Rất nhanh, ghế ngồi công chúa các nước dời đến dưới đài.

Giữa sân xôn xao một vùng.

Trên đài, Tất Sa nhíu mày, "Văn Chiêu công chúa muốn toàn bộ công chúa đều đến gần xem nàng dâng tặng lễ vật sao?"

Bát Nhã nghiến răng nghiến lợi, chỉ tiếc rèn sắt không thành thép mà nói: "Ta còn tưởng Văn Chiêu công chúa sẽ giữ được bình thản, ai ngờ nàng ta lại đi giành tình nhân!"

Duyên Giác nơm nớp lo sợ, nhìn quanh: "Công chúa sẽ không đánh người chứ? Chúng ta có nên ngăn công chúa lại không?"

Chỉ có Mạc Bì Đa chăm chú nhìn Dao Anh dưới đài, nhếch miệng cười: "Văn Chiêu công chúa thoải mái khiêu chiến toàn bộ đám công chúa, sao không được?"

Tất Sa nhìn sang Đàm Ma La Già.

Đàm Ma La Già nhẹ nhíu mày, nhìn Dao Anh dưới đài, gật đầu với anh ta. Tất Sa hiểu ý, vội vàng bước xuống đài cao.

Giữa băng thiên tuyết địa, Dao Anh một người tay áo hẹp, phía sau hai thân binh đứng, liếc một chút trước sân khấu công chúa khác.

Công chúa các nước biểu lộ khác nhau, không chớp mắt nhìn nàng chằm chằm, chờ xem nàng dâng lễ vật gì.

Một vị công chúa nhỏ giọng: "Chả nhẽ nàng ta cũng muốn hiến múa?"

Người khác cười nhạo: "Thiên Ma Vũ của công chúa Man Đạt còn không đả động được Phật Tử, chả nhẽ tài múa nàng ấy còn tốt hơn công chúa Man Đạt?"

Trong tiếng xôn xao, Tất Sa đứng trong góc nhỏ, nhìn Dao Anh. Dao Anh ung dung không vội, phẩy tay.

Thân binh ôm một bình đồng cổ lên, nàng mở nắp bình, lấy một chiếc bình nhỏ ra, chậm rãi đổ nước sôi trong bình vào bình đồng, hai tay cầm tay cầm hình hoa sen, miệng lầm rầm niệm.

Trong tích tắc, từng tia từng sợi mây ngũ sắc thoát ra từ miệng bình, tràn ngập, ánh nắng vừa chiếu, rực rỡ chói mắt.

Dao Anh đứng trên mặt tuyết, dáng người yểu điệu, khí độ ung dung, đám mây vờn quanh, đâu đó như thần nữ đặt giữa chốn tiên cảnh trong bích hoạ.

Đám người rớt cả mồm, cố gắng che giấu hết sức vẫn không giấu được vẻ sợ hãi thán phục.

Dao Anh chỉ vào mây ngũ sắc, cao giọng: "Ta từng mơ thấy một gốc đại thụ che trời, trên cây nở đầy đóa hoa màu vàng óng, trang nghiêm mỹ lệ. Hôm nay, ta muốn dâng tặng đến mừng sinh thần Phật Tử, chính là hoa vàng từng thấy trong mộng."

Đám người nhìn nàng, nhìn qua nhìn lại giữa băng thiên tuyết địa trống trải, đầy nghi ngờ.

Có người cười lên ha hả: "Thời tiết này không có một ngọn cỏ, hoa ở đâu ra?"

Hắn vừa dứt lời, Dao Anh nhẹ vung tay áo, trong mây mù ngũ sắc, loáng thoáng hiện ra một bóng cây đại thụ, theo mây mù phun trào, hình dáng đại thụ càng lúc càng rõ ràng, trong sân tuyết bỗng xuất hiện một mảng xanh, một cây đại thụ đột ngột từ mặt đất mọc lên, cành lá um tùm, xanh um tươi tốt. Chỉ sau chốc lát, trên cây bắt đầu nở hoa chi chít, mỗi một đóa hoa đều sắc vàng rực rỡ.

Đám người ngây ra như phỗng, kìm lòng không được đứng lên.

Trên tuyết, hoa vàng nở rộ đầy cây, toả ánh hào quang lấp lánh rung động, trang nghiêm, thánh khiết, hoa lệ, tựa như ảo mộng, đẹp không sao tả xiết.

Mông lung như có tiếng nhạc truyền đến, uyển chuyển du dương, giống âm thanh cõi tiên.

Trên đài dưới đài, hoàn toàn yên tĩnh.

Trong mây mù, ngàn vạn đóa hoa vàng nở bung, không có dấu hiệu héo tàn.

Sau một lúc khá lâu, trên đài cao, có người hai mắt rưng rưng, kích động hô to thành tiếng: "Hoa ưu đàm bát la! Là hoa ưu đàm bát la!"

"Hoa ưu đàm bà la ba ngàn năm mới hiện thế, lúc nở rộ hoa vàng đầy cây, chính là Hoa ưu đàm bà la mà Kinh Phật bàn nê hoàn nhắc đến!"

"Phật Tử công đức vô lượng, thần Phật báo mộng cho cô gái Hán, chính là vì muốn hoa Ưu đàm bát la hiện thế ngay vào lễ sinh thần của Phật Tử!"

Truyền thuyết về hoa ưu đàm bát la mọi người đều nghe qua, nhóm tín đồ tin Thần Phật nhập mộng, bừng tỉnh, trên mặt hiện ra vẻ cuồng nhiệt, nhao nhao quỳ xuống, chắp tay trước ngực, quay sang Đàm Ma La Già quỳ bái.

Tiếng cung chúc vang tận mây xanh.

Sứ đoàn các nước người người nghẹn họng nhìn trân trối, rung động không thôi, con ngươi như muốn rớt ra khỏi mắt.

Trong khóc khuất Tất Sa nhìn Dao Anh trong mây mù, thần sắc chấn động.

Dao Anh không nhúc nhích, mây mù bắt đầu tan, hình dáng cây đại thụ dần dần mờ đi.

Sứ giả Tì Ra Ma La vừa hoàn hồn thấy bầu không khí cả vùng bị Dao Anh lôi kéo, quyết định chắc chắn, hô to giữa không: "Hoa không còn!"

Đám người bận rộn nhìn lên không trung, hoa vàng dần mờ nhạt. Họ nhìn nhau vẻ lo lắng.

Dao Anh không chút hoang mang, khoát tay lên không trung.

Mây mù đã tan đi, tiếng nhạc biến mất, trên mặt đất vẫn lớp tuyết trắng sáng thật dày, không còn đại thụ, càng không có hoa nở rực rỡ.

Đám người đầy thất vọng, đồng loạt nhìn Dao Anh hy vọng nàng có thể cầu đến thần tích lần nữa.

Dao Anh chậm rãi giang hai tay ra, trong lòng bàn tay ánh sáng vàng rực rỡ.

Đám người ngạc nhiên kêu thành tiếng: Trong tay nàng đang nâng một bó hoa màu vàng óng nở rộ!

Vừa rồi tất cả không phải ảo ảnh, hoa ưu đàm bát la thật sự hiện thế!

"Hoa ưu đàm bà la lại hiện thế lần nữa, Vương Đình nhất định có thể trường trì cửu an, phồn vinh hưng thịnh!"

Một người cao giọng hô, những người khác hoà theo, thành tiếng hô to lớn.

Bát Nhã không dám tin, vừa mừng vừa sợ, đợi tâm tình mọi người bình phục lại, mặt đầy tươi cười lao xuống đài, cẩn thận từng chút nhận lấy hoa vàng bày trên mâm từ tay Dao Anh đưa đến trước án Đàm Ma La Già.

Dưới đài, công chúa các nước từ từ hoàn hồn, nhìn nhau.

Các nàng thua rồi, Văn Chiêu công chúa trong mộng được thần Phật báo ứng, còn dâng lên Phật Tử hoa ưu đàm bát la, các nàng lấy gì mà so?

Dao Anh dâng hoa vàng xong, không lập tức đi, mỉm cười nhìn chư vị công chúa. Đám công chúa chợt rục rịch, lông tóc dựng đứng, trong lòng lướt qua một cơn dự cảm không rõ.

...

Điển lễ kết thúc.

Dân chúng còn đắm chìm trong niềm kinh hỉ hoa ưu đàm bát la hiện thế, khắp nơi cười nói vui vẻ.

Trong xe ngựa về Vương Tự, Bát Nhã cung kính bưng mâm vàng, mặt đầy ý cười.

Đàm Ma La Già quét mắt một vòng qua hoa trong mâm, ánh mắt yên tĩnh.

Bên ngoài màn vang tiếng vó ngựa dồn dập, Duyên Giác ghìm cương cạnh cửa sổ xe ngựa, chắp tay nói: "Vương, sau khi điển lễ kết thúc, Văn Chiêu công chúa không lập tức trở về Vương Tự."

Đàm Ma La Già ngước mắt: "Đi đâu?"

Duyên Giác chần chừ rồi nói: "Công chúa... Công chúa ở lại với mấy công chúa kia, vẻ như muốn tranh tài với các nàng, A Sử Na Tướng quân có đi cùng công chúa... Chuyện khác tiểu nhân không nghe rõ..."

Cặp mày Đàm Ma La Già hơi nhăn lại, "Cậu đi theo xem sao."

Duyên Giác vâng lệnh, thúc ngựa quay người.

Đàm Ma La Già trở lại Vương Tự, các sư trong chùa đã nghe nói trong điển lễ xuất hiện kỳ tích, tranh nhau tới xem hoa ưu đàm bát la.

Chàng bảo Bát Nhã thu lại hoa vàng, gỡ vương miện, trở lại thiền thất, tay cầm cầm châu, nhắm mắt thiền định.

Sau nửa canh giờ, sắc trời dần tối, một cận vệ trở về phục mệnh. "Vương! Văn Chiêu công chúa đang giằng co với công chúa các nước ở ngoại thành ạ."

"Văn Chiêu công chúa nói, nàng thật lòng ngưỡng mộ Vương, trong mộng bị thần Phật trừng trị, chịu qua nỗi khổ thiêu chết, gậy đánh, dìm nước, sống không bằng chết, nhưng nàng vẫn một tấm chân tình với Vương, nếu công chúa các nước muốn ở lại giống nàng, hẳn phải trải qua hình phạt giống nàng."

"Thân binh của Văn Chiêu công chúa xếp đặt Pháp đàn ở ngoại thành, trong vò lửa cháy hừng hực, công chúa nói, ai dám đi qua lửa lớn mới có tư cách nói ngưỡng mộ Vương. Dân chúng nghe xong, tất cả đều chạy tới xem náo nhiệt."

"Có công chúa thử ném một chiếc khăn lụa vào lửa đàn, khăn lụa cháy thành sợi khói đen, đám công chúa sợ không dám bước lên."

Nói đến đây, giọng cận vệ quỳ gối ngoài thiền thất chợt cất cao. "Trước mắt bao người, Văn Chiêu công chúa bước vào trong lửa đàn!"

"Y phục công chúa lập tức bị cháy, có công chúa sợ quá khóc lên..."

Thiền thất yên tĩnh một tích tắc.

Sau một khắc, một tiếng Phật châu ma sát chói tai, Đàm Ma La Già mở mắt.

...

Hoàng hôn buông xuống, ráng chiều đầy trời.

Một chiếc xe ngựa chạy đến bên cửa hông Vương Tự.

Tất Sa và Dao Anh một trước một sau nhảy xuống xe ngựa, Duyên Giác đi theo xuống ngựa, ba người cười cười nói nói, bước vào Vương Tự, vừa qua hành lang, thấy mấy cận vệ phía đối diện vội vàng chạy đến, thấy Dao Anh, không nói hai lời, ngăn trước mặt nàng. "Vương triệu kiến công chúa."

Tất Sa nói: "Các ngươi chờ lát, công chúa cần quay về thay y phục."

Cận vệ không thèm nể mặt, nói: "Xin công chúa thứ cho tiểu nhân vô lễ, Vương đã căn dặn, bất kể công chúa đang làm gì, bọn tôi buộc phải lập tức đưa công chúa đến thiền thất, một khắc cũng không thể chậm trễ."

Tất Sa khẽ cau mày.

Dao Anh nghĩ ngợi rồi nói: "Không sao, Pháp sư tìm ta chắc chắn là có chuyện quan trọng."

Nói xong, nhìn qua áo choàng trên người Tất Sa, "Tướng quân cho ta mượn áo choàng dùng một lát."

Tất Sa cởi áo choàng đưa cho nàng, nàng nhận lấy khoác vào người, theo cận vệ đi thiền thất.

Thiền thất đã đốt nến, cận vệ vén màn, mang theo một cơn gió mát, ánh nến chập chờn chiếu lên khuôn mặt Đàm Ma La Già đang ngồi ngay ngắn trên bồ đoàn, trong cặp mắt xanh biếc luôn luôn không vui không buồn kia hình như đang gợn sóng chập trùng.

"Pháp sư?" Dao Anh đi vào, nhẹ giọng chào hỏi.

Đàm Ma La Già giương mi, ánh mắt đảo qua áo choàng trên người nàng, "Cởi ra."

Giọng hờ hững, không mang chút tình cảm.

Dao Anh sửng sốt, tay nắm lấy áo choàng không buông.

Đàm Ma La Già khẽ cau mày, cằm chỉ qua bồ đoàn bên cạnh chàng nhẹ điểm.

Dao Anh bước qua, ngồi xuống bồ đoàn, ngẩng mặt nhìn chàng.

Chàng cúi đầu nhìn nàng, ánh mắt uy nghiêm, "Cởi ra."

Trong giọng điệu lộ ra vẻ nghiêm khắc không giống bình thường.

Dao Anh biết có lẽ chàng đã nghe chuyện lửa đàn, đành cúi đầu cởi lớp áo choàng. Ánh nến vàng ấm áp chiếu trên người nàng, chiếu sáng xiêm y của nàng, tay áo hẹp rách rưới, tay áo bào đã bị đốt sém đen.

Đàm Ma La Già nhìn nàng, bên tai vang lên câu nói của cận vệ.

Văn Chiêu công chúa bước vào lửa đàn!

Y phục bị cháy, người còn thế nào chứ? Thân phàm xác thịt, sao có thể chịu đựng được lửa cháy bừng bừng?

Chàng nhìn nàng, ánh mắt thật nặng nề.

Ánh mắt rơi trên người thoảng như hoá thành vật thật, lực nặng ngàn quân, từng tấc từng tấc cắt vào Dao Anh, lòng nàng nhảy loạn, lòng bàn tay từ từ rịn đầy mồ hôi lạnh.

"Pháp sư?" Nàng kiên trì gọi chàng.

Đàm Ma La Già không nói.

Dao Anh nghẹn lại, ngay lúc nàng gần như ướt đẫm mồ hôi cả người, Đàm Ma La Già rũ mắt: "Đưa tay đây."

Giọng đã khôi phục vẻ hiền hoà như thường.

Dao Anh thở phào, vươn tay ra.

Đàm Ma La Già nhìn qua ống tay áo của nàng bị cháy khét, cuốn lên chỗ cháy, chìa hai ngón tay bắt mạch cho nàng, đầy dịu dàng.

"Có bị bỏng không?" Chàng đột nhiên hỏi.

Dao Anh lắc đầu: "Pháp sư yên tâm, lửa đàn là do thân binh của tôi tự bố trí, trước kia lúc họ còn ở Trường An, đi lại trong giang hồ thường dùng cách này dọa người, nhìn thì rất ghê gớm, thật ra chỉ múa may vẽ vời thôi, vốn không làm tổn thương người. Hôm nay tôi cố ý mặc y phục bó chặt đặc chế này, tóc cũng búi kỹ, những chỗ bị cháy này..."

Nàng giơ lên ống tay áo kia, lắc lắc cho Đàm Ma La Già xem.

"Chỉ có mấy miếng vải long bố đặc chế vô dụng này, gặp lửa sẽ cháy, nhưng cháy cũng không hỏng."

Nàng cười thật giảo hoạt.

"Dù gì cũng phải có tí bắt lửa, mới dọa được mấy công chúa chứ."

Lúc nàng ép cung Chu Lục Vân, cố ý dụ thám báo của công chúa các nước ra, tung tin đồn, để đám công chúa sinh lòng e ngại. Hôm nay, nàng trước diễn ảo thuật mê hoặc lòng người, lại lấy hoa ưu đàm bát la để đám đông tin phục, đám công chúa mới bán tín bán nghi đối với chuyện nàng bị Thần Phật trừng phạt trong mộng, cuối cùng nàng xả thân bước vào lửa đàn, đám công chúa bị dọa đến không thể nhúc nhích.

Ngoài ra, dâng lên hoa ưu đàm bát la, Đàm Ma La Già sẽ càng được trăm họ kính yêu, nàng hy vọng nó sẽ bù đắp chuyện mình làm tổn hại danh tiếng của ngài ấy.

Hoa ưu đàm bát la thật ra là một loại cây sinh trưởng ở Thiên Trúc, bởi kinh Phật ghi chép nó chỉ nở rộ khi Thần Phật hiện thế, lại thêm mấy gán ghép miễn cưỡng, mới được xem như hoa linh dị hiếm thấy trên đời. Nàng nhờ thợ thủ công chế tác hoa vàng giống đến có thể đánh tráo, người Thiên Trúc có nhìn thấy hoa thật cũng không thể phân biệt không ra thật giả, người Vương Đình càng nhìn không ra mánh khóe.

Dao Anh nói rủ rỉ êm tai, giọng điệu qua loa, cuối cùng nói: "Cứ vậy thì, sau này không ai dám nhắc tới chuyện noi theo Ma Đăng Già Nữ nữa."

Ai dám nhắc lại, dân Vương Đình sẽ nhảy ra đầu tiên, yêu cầu họ bước vào lửa đàn cháy thử.

Dao Anh nhìn Đàm Ma La Già, chun chóp mũi, áy náy nói: "Tôi mang đến cho Pháp sư rất nhiều phiền phức, lúc đầu tôi định trong điển lễ thông báo trước đám đông rằng, tôi đã được Pháp sư điểm hóa, đã cắt đứt mọi ý nghĩ, từ nay về sau tuyệt đối sẽ không xuất hiện trước mặt Pháp sư nữa... Thế nhưng Hải Đô A Lăng còn chưa thất thế, trong lòng tôi còn lo lắng, đành mở đường riêng, dùng cách này đoạn tuyệt suy nghĩ mọi người, sau này Pháp sư có thể hoàn toàn thanh tịnh."

Đàm Ma La Già lặng thinh không nói.

Giọng Dao Anh nhỏ đi, nói tiếp: "Xin Pháp sư yên tâm, tròn kỳ hạn một năm, cho dù thế cục thế nào, tôi chắc chắn sẽ rời Thánh Thành."

Đàm Ma La Già vẫn không lên tiếng.

Dao Anh nghĩ thầm có lẽ ngài ấy không muốn thảo luận chuyện Ma Đăng Già Nữ, không nói nữa.

Thật lâu, Đàm Ma La Già thu ngón tay lại.

Mạch tượng của nàng ổn định.

Dao Anh thu tay, thả ống tay áo.

Đàm Ma La Già giương mắt nhìn nàng, im lặng hồi lâu, hỏi: "Trong mộng người có bị Thần Phật trừng trị à?"

Dao Anh giật mình, lắc đầu: "Không có, là chỉ hù dọa đám công chúa kia thôi, tôi không mơ thấy Thần Phật."

Đàm Ma La Già ừ một tiếng, "Sau này công chúa đừng nói mấy lời tiên tri thế nữa."

Dao Anh gật gật, có phần xấu hổ, "Để Pháp sư chê cười, ngày mai tôi sẽ chép mấy quyển kinh thư, thỉnh tội với Phật Tổ."

Trước mặt người xuất gia ngài, nàng dối gian quá nhiều, trong lòng ngài chắc chắn không đồng ý.

Đàm Ma La Già thấy nàng không được tự nhiên, dời mắt, ngóng nhìn ánh nến đang rung động.

Không phải chàng đang chỉ trích nàng.

Không cho nàng nói lời tiên tri như thế là bởi vì... chàng sẽ làm thật.

Ánh nến chao đảo.

Trong lòng của chàng cũng lung lay theo.

*Mai: Ảo thuật Tiểu Thất biểu diễn tham khảo Hàn Nguyệt hoa sen – Bồ Tùng Linh và vài ghi chép ảo thuật cổ đại.

Hỏi: Sao phải biểu diễn ảo thuật? Còn dùng lửa lớn dọa người?

Dao Anh: Vì chỉ có dùng ma pháp mới đánh bại được ma pháp.

...

Văn ta viết còn đang tìm tòi, có rất nhiều chỗ cần sửa chữa, đề nghị của anh chị em ta đều xem kỹ, nhưng tình cảm chưa nóng thật sự không phải cố ý làm mồi nhử, khi quyết định viết về một tay nam chính là hòa thượng, dự tính trong lòng ta về tiết tấu tình cảm không khác mấy.

La Già là hòa thượng, hắn phá Sát giới là vì lý tưởng trong lòng, con đường hắn chọn không giống ai, nhưng hắn vẫn là người xuất gia, hơn nữa lại là Quân chủ, không thể mới động lòng đã lập tức bỏ đi trách nhiệm niềm tin mà cùng song túc song tê với một cô gái ngoại tộc đã định sẵn sẽ rời đi.

Đã không vứt bỏ được trách nhiệm tín ngưỡng, vậy hắn sẽ không biểu hiện tình cảm, cũng sẽ không chủ động gần gũi, vì như vậy sẽ chỉ hại Dao Anh.

Mọi người đừng dùng ánh mắt của người hiện đại và thị giác của Thượng Đế để đọc, nghĩ rằng trong vài phút là có thể hoàn tục. Mấy người Tất Sa chưa từng nghĩ La Già sẽ hoàn tục, họ đề phòng Tiểu Thất, vì sợ La Già tẩu hỏa nhập ma hay phá giới.

Trong truyện, cho tới giờ, không ai nghĩ La Già sẽ hoàn tục, bao gồm chính La Già.

Sau đó Tiểu Thất đã cảm thấy thẹn với La Già, sẽ không vì thấy La Già đối xử cô ấy tốt mà suy nghĩ theo hướng tình yêu nam nữ.

Nếu mọi người thấy tình cảm tiến triển chậm, có thể thử vỗ béo một tí, chọn phần thấy hứng thú mà đọc, tuyệt đối đừng khó chịu, vì truy văn là để vui vẻ.

Dao Anh lập cam đoan trước mặt Đàm Ma La Già, nói muốn xin tội, đêm đó về chép hai quyển kinh thư.

Hôm sau, thân binh đưa kinh văn đến trước điện, sư trong chùa đang muốn để chung với những quyển kinh văn, tấm gỗ cầu phúc, cáo lỗi của mấy tín đồ khác vào một chỗ, Duyên Giác tìm tới, hỏi: "Kinh văn Văn Chiêu công chúa đưa tới đâu?"

Sư trong chùa bận bịu lục ra. Duyên Giác lấy đi, dặn dò: "Việc này đừng nói cho ai khác."

Sư chùa bảo được.

Duyên Giác đưa kinh văn đến trước mặt Đàm Ma La Già. Chàng nhận lấy, dâng trước tượng Phật, niệm kinh vì Dao Anh.

Lát sau, tụng xong chàng hỏi: "Hôm qua khi Văn Chiêu công chúa bước vào lửa đàn, cậu cũng có mặt à?"

Duyên Giác gật đầu, nói: "Trước đó khi chưa có ai thân binh công chúa lén biểu diễn mấy lần, tôi và Tướng quân A Sử Na đều có mặt, xác định không tổn thương người mới phối hợp công chúa hù dọa mấy vị công chúa khác."

Nói đến đây, cậu nhịn không được cười trộm. "Vương, ngài không thấy thôi, khi Văn Chiêu công chúa nói muốn bước vào lửa đàn, mấy công chúa kia nhìn người như kẻ điên, công chúa Man Đạt cười lạnh, nói công chúa chỉ dọa người, mới bảo người quăng khăn lụa vào Pháp đàn, khăn lập tức cháy rụi, công chúa Man Đạt choáng váng luôn..."

...

Không biết thân binh dùng cách thần kỳ gì mà lửa đàn cháy rừng rực toát ra từng sợi lửa xanh lam sẫm, người đứng gần còn cảm giác muốn cháy bỏng, tuyết đọng cũng phải tan. Công chúa Man Đạt và tùy tùng kiểm tra mấy lần, không tìm ra cơ quan nào.

Đến khi Lý Dao Anh giữa ánh mắt chăm chú của mọi người cười bước vào lửa đàn, người xem xôn xao ra tiếng, cận vệ Trung quân chuẩn bị mấy vạc lớn đựng đầy nước, mỗi người ôm sẵn một thùng, không chớp mắt nhìn chằm chằm lửa đàn.

Trong tiếng lửa cháy rực rất lớn, Dao Anh cất bước vào lửa đỏ, gió nóng táp lên mạng che mặt của nàng, khuôn mặt vẫn không hề lộ vẻ sợ hãi.

Cả đám ngây ra nhìn nàng đi qua dòng lửa xanh lam sẫm. Cẩm bào trên người nàng đã bắt lửa, nàng vẫn ung dung không vội, chờ lửa xanh dập tắt, nàng đứng trước lửa đàn, dù y phục đã cháy đen, nhưng vẫn bình yên vô sự.

Nàng bước tới, giơ tay áo còn đang bốc khói thổi thổi, nhìn qua đám công chúa, hỏi, "Ai là người kế tiếp?"

Công chúa các nước liên tiếp lùi lại, mặt xám như tro, công chúa Man Đạt cũng không dám bước lên.

...

Duyên Giác kể xong, vẫn không nhịn được cười thành tiếng: "Vương, tôi có hỏi thân binh rồi, bản lãnh đó bọn hắn học ở mấy thuật sĩ giang hồ và thầy tế Ba Tư ấy. Bọn hắn nói, nếu lửa đàn mà còn chưa dọa nổi thì còn cách khác, như lăn qua bản đinh, nuốt đinh... chiêu nào cũng đầy dọa người..."

Tay Đàm Ma La Già lần cầm châu, nghe xong, nói: "Về sau mà có chuyện như vậy thì phải về bẩm trước."

Duyên Giác rét lạnh, cung kính vâng dạ.

Có tiếng bước chân trước cửa, Bàn Nhược vào điện, đến Đàm Ma La Già xin chỉ thị: "Vương, chủ chùa và mấy vị quản sự không biết nên cung phụng hoa ưu đàm bát la ở đâu phù hợp, xin chỉ thị của Vương."

Tin hoa ưu đàm bát la hiện thế đã lan truyền nhanh chóng, con dân chen chúc chạy đến Vương Tự chiêm ngưỡng hoa thần kỳ. Chủ chùa lo sợ hoa bị hỏng, do dự muốn chuyển hoa vàng vào nội điện, các sư khác không đồng ý, cho rằng nên thờ ở đại điện, để tất cả trăm họ đến đây bái Phật có thể nhìn.

Đàm Ma La Già bình tĩnh nói: "Đã không phải vật thế tục, không cần thờ cúng, cất lại đi."

Duyên Giác Bàn Nhược đều sửng sốt, thấy vô cùng đáng tiếc.

Bàn Nhược có phần không cam tâm, chần chừ nói: "Đây là hoa ưu đàm bát la đó ạ, là bảo vật biểu dương công đức của Vương, cứ thu lại vậy không cho nó nhìn ánh mặt trời sao ạ?"

Đàm Ma La Già gật đầu, ờ.

Bàn Nhược dè dặt nói: "Vương, dân chúng không xem được hoa ưu đàm bát la, sẽ thất vọng, phàn nàn Vương Tự độc chiếm bảo vật ấy."

"Cất lại." Đàm Ma La Già nói, giọng điệu uy nghiêm.

Bàn Nhược không còn dám khuyên, ủ rũ cúi đầu đi ra.

Đàm Ma La Già xem bản kinh viết tay của Dao Anh, ngón tay lần cầm châu.

Hoa vàng cho đến cùng cũng không phải thật, trước mặt mọi người nàng dâng lên, cứ thế mà thờ phụng trước Phật, không khỏi lừa gạt Thần Phật, hơn nữa sau này khó tránh khỏi dẫn tới thị phi, cất đi vẫn hay hơn.

Tuy xưa nay nàng không để ý mấy chuyện này..

Yên tĩnh một lát, một cận vệ ở ngoài cửa ôm quyền, nói: "Vương, y giả Thiên Trúc cầu kiến."

Đàm Ma La Già đeo cầm châu lên, nhẹ gật đầu. Duyên Giác hiểu ý, ra hiệu y giả Thiên Trúc nhập điện.

Y giả Thiên Trúc bưng một chiếc hộp quý vào điện, hành lễ với Đàm Ma La Già, nói: "Vương, tiểu nhân đã điều phối thuốc viên cho Văn Chiêu công chúa xong, lần đầu công chúa uống một viên trước, nếu không thấy quá mức khó chịu, sau này cứ mỗi mười ngày uống một lần, chỉ cần một hai năm sẽ có thể khỏi hẳn, sau này không cần phải dùng đến Ngưng Lộ Hoàn nữa."

Ông đưa một phần toa thuốc cặn kẽ cho Duyên Giác, Duyên Giác mang đến trước thư án.

Đàm Ma La Già cầm lấy xem một lát, cặp mày khẽ nhíu: "Mạn Đà La?"

Tim Y giả Thiên Trúc siết chặt, thầm nói, Đề Bà Mông Đạt nói quả không sai, bản thân Quân chủ Vương Đình tinh thông dược lý, tuyệt đối không thể cho rằng ngài ấy là một Quân chủ tự đại khinh cuồng mà tùy ý lừa gạt.

"Hồi bẩm Vương, Mạn Đà La tính ấm, dù có độc nhưng cũng có thể dùng để trị liệu, cánh hoa có thể dừng suyễn, kiềm ho khan, nhất là còn có thể giảm đau và gây tê. Công chúa sinh non, muốn khử tận gốc, không thể không tăng lượng thuốc, lúc thuốc tan sẽ phải chịu nỗi đau mà người thường khó chịu đựng, cho nên trong thuốc viên phải buộc thêm một ít Mạn Đà La."

Nói xong, ông cung kính nói: "Khi công chúa uống thuốc, tiểu nhân sẽ đợi cùng một bên, nếu công chúa có bất kỳ bất trắc nào, tiểu nhân nguyện lĩnh tội."

Đàm Ma La Già thả toa thuốc xuống, "Y giả không cần phải vậy." Chữa bệnh vốn phải có nguy hiểm, chính chàng là người bệnh biết rất rõ, hỏi thêm một câu đâu phải để trách tội, chỉ muốn hỏi rõ hậu quả khi dùng thuốc.

"Văn Chiêu công chúa có ở tiền điện không?" Chàng hỏi Duyên Giác.

Duyên Giác lắc đầu, trả lời: "Hôm nay công chúa đi sân diễn võ." Buổi sáng thân binh có nói.

Đàm Ma La Già nói: "Khi nào nàng về, mời nàng ấy đi hầm đá."

...

Ngày điển lễ thứ hai là đại hội tỷ võ, người thắng được khen thưởng phong phú, người thua cũng không tay không mà về. Bên cạnh đó, sứ đoàn các nước còn ra bảo vật riêng phần mình làm phần thưởng ban cho bên thắng, người Vương Đình và dũng sĩ các nước nô nức tấp nập tham gia, hết sức náo nhiệt.

Trước đó Dao Anh cũng chọn lấy mấy vật trân bảo có giá trị không nhỏ làm tặng thưởng, chọn lấy một chỗ ngồi.

Nàng để thân binh tham gia tranh tài phi ngựa và kỵ xạ, bản thân thừa lúc so tài đi trên sân xem thi đấu, âm thầm quan sát từng chiến mã, mã cụ dũng sĩ bộ lạc cưỡi và sử dụng.

Pháp bảo giúp Hải Đô A Lăng chiến thắng có mấy thứ: Kỵ binh nghiêm chỉnh huấn luyện, sức nhẫn nại cao, có thể di chuyển nhanh chóng, vũ khí trang bị số lượng lớn, chiến mã có sức chịu đựng cao và khả năng chịu tải trọng nặng, số lượng dư dả.

Không thể xem thường tác dụng của ngựa, mức độ tốt xấu của ngựa quyết định lực chiến đấu của binh đội mạnh yếu, năm đó Hán Vũ Đế để đạt được Hãn Huyết Bảo Mã phí hết tâm huyết, chính là vì cải tiến chiến mã trong quân, tăng thực lực đội quân.

Trước mắt, do mấy năm liên tục chiến loạn, Trung Nguyên mất đi Hà Lũng, đánh mất vùng cung cấp chiến mã tốt, binh đội các nước phần lớn dùng ngựa Tây Nam hành quân.

Ngựa Tây Nam thích hợp vận chuyển ở vùng đồi núi, nhưng dáng vóc nhẹ, thấp bé, chịu tải trọng kém xa ngựa cao to, nếu gánh túi nước lương khô cung tiễn, thì lại không thể gánh thêm một binh sĩ mặc áo giáp nặng nề, nên binh sĩ không thể mặc giáp, chỉ có thể dùng khiên da để phòng hộ.

Hơn nữa, thể lực và sức bật của ngựa Tây Nam đều không đủ, không thể nhanh chóng hành quân, không thể phát động tập kích, bởi vậy, quân Trung Nguyên không thể giống kỵ binh Bắc Nhung dùng kỵ binh xông trận.

Vì lẽ này, Trung Nguyên không xây dựng được đội kỵ binh lớn mạnh, hành quân tác chiến đều lấy bộ binh làm chủ.

Nhưng chỉ dựa vào bộ binh thì không cách nào đoạt lại Hà Lũng, càng không có cách nào chiến thắng Bắc Nhung.

Dao Anh thầm nghĩ, chiến mã mà quân sau này của Hải Đô A Lăng cưỡi có lẽ đến từ mấy bộ lạc khác, nếu có thể trước khi y cải thiện quân mã mà phá hỏng kế hoạch thì tốt rồi.

Tất Sa từ sân so tài bước xuống, thấy Dao Anh bên sân, nhướng mày nhắc nhở nàng: "Người nhìn sang kia xem."

Dao Anh nhìn theo hướng ngón tay anh ta, một bóng người lén la lén lút lập tức rút vào trong đám đông.

Tất Sa nói: "Là người sứ đoàn nước Tì Ra Ma La, hai hôm nay họ nghe ngóng chuyện của người khắp nơi." Mấy công chúa nước khác đều nản cả, chỉ còn công chúa Man Đạt không hề có dấu hiệu từ bỏ.

Mày Dao Anh nhẹ chau. Tất Sa an ủi nàng: "Cuối tháng này sứ đoàn Tì Ra Ma La chắc chắn phải rời đi, công chúa Man Đạt có không cam tâm cũng không có lý do ở lại. Mấy hôm nay công chúa cần đề phòng họ, qua tháng sẽ không sao."

Dao Anh gật đầu.

Buổi chiều, hai người cùng về Vương Tự, Duyên Giác chờ ở cửa, bảo Đàm Ma La Già mời Dao Anh qua.

Tất Sa dừng bước, vẻ kinh ngạc lướt qua khuôn mặt. "Hôm nay Vương muốn gặp Văn Chiêu công chúa à?"

Duyên Giác gật đầu.

Tất Sa như bị lén nện một gậy, hai tay nắm lại.

Dao Anh vừa vặn có chuyện tìm Đàm Ma La Già, không để ý đến vẻ kỳ lạ của anh ta, nói với Duyên Giác: "Cậu chờ tí, ta quay về lấy ít đồ."

Duyên Giác bảo được, đứng ngoài viện đợi nàng. Tất Sa không đi, cũng chờ một bên.

Duyên Giác liếc anh ta, nhỏ giọng nói: "Tướng quân, Vương không có triệu kiến ngài."

Mặt Tất Sa không lộ cảm xúc, nói: "Không phải Vương gặp công chúa ở thiền thất à? Ta cũng muốn đi thiền thất, cũng tiện đường, vừa vặn đi cùng."

Duyên Giác lắc đầu: "Hôm nay không phải ở thiền thất."

Mi tâm Tất Sa nhảy dựng, hỏi: "Thế ở đâu?"

Duyên Giác gãi da đầu, nói: "Ở thiền phòng bên hầm đá, cách Hình đường rất gần, Vương đã qua bên ấy."

Phần lớn viện lạc bên phía Hình đường bỏ trống, hiếm có người qua lại, hôm trước tự dưng Đàm Ma La Già cho người quét dọn thiền phòng, sau không nhắc lại, cậu buồn bực rất lâu, giờ mới biết thì ra là Vương chuẩn bị cho hôm nay.

Tất Sa nghe được mấy chữ hầm đá và Hình đường, chấn động cả người, không dám tin mở to hai mắt.

Bên kia, Dao Anh cầm theo món đồ đi ra, Duyên Giác đón lấy, dẫn nàng rời đi.

Dao Anh theo cậu qua hành lang, rừng Tháp, hành lang dài, đi đến một góc trước hầm đá.

Hầm đá khuất ở một góc hẻo lánh, cách vách đá chỗ hang đá đục đầy lỗ lớn nhỏ kia một đường hành lang đen nhánh, nói là hầm đá, thật ra nhìn giống một phòng ở hơn, trước hiên trồng một gốc cây, có điều cành trụi lủi, nhìn không ra cây gì.

"Pháp sư ở trong ấy à?" Dao Anh nhỏ giọng hỏi, nàng không thấy cận vệ Trung quân bảo vệ.

Duyên Giác gật đầu, nói: "Công chúa vào đi."

Dao Anh ôm bọc đồ đi vào, hầm đá là một không gian đào ra từ vách núi, ban ngày cũng có tia sáng lờ mờ, bên trong thắp đèn, chụp xuống cả phòng ánh sáng mờ ảo.

Đàm Ma La Già đưa lưng về phía nàng, ngồi trên bồ đoàn dưới đèn. Ánh nến chập chờn lồng quanh người chàng, cà sa màu đỏ như lửa.

Dao Anh bước đến: "Pháp sư tìm tôi ạ?"

Đàm Ma La Già nghiêng đầu nhìn nàng, cằm chàng hướng về giường thấp nhẹ điểm. Dao Anh đi đến trước giường thấp ngồi xuống, buông bọc đồ, chờ chàng mở miệng.

Đàm Ma La Già mở chiếc hộp lấy thuốc viên đưa cho Dao Anh. "Y giả điều chế thuốc viên cho công chúa, ta đã xem qua, công chúa uống một viên trước, có thể sẽ có chút khó chịu, nếu khó chịu..."

Còn chưa nói xong, Dao Anh đã lấy viên thuốc, nuốt xuống, rót cho mình một chén trà, chậm rãi uống mấy ngụm.

Đàm Ma La Già: ...

"Công chúa không hỏi đây là thuốc gì à?"

Dao Anh cười một tiếng, mắt sáng lấp lánh như ánh sao lay động: "Pháp sư tìm y giả cho tôi, chắc chắn là thuốc hay chữa bệnh, cảm ơn Pháp sư."

Đàm Ma La Già nhìn nàng thật lâu, dời mắt.

...

Bên ngoài Vương Tự.

Tất Sa vẫn ở nguyên tại chỗ, đứng một lúc lâu, nhắm cặp mắt, xoay người ra khỏi Vương Tự.

Phía ngoài Vương Tự tín đồ thành kính hướng về điện chính quỳ lạy như nước chảy, nhìn qua, phố dài đen nghịt người.

Tất Sa cưỡi ngựa, xuyên qua giữa đám đông chật như nêm cối, tâm tư hoảng hốt.

Trở về phủ, anh ta gọi bộ hạ hỏi chuyện quân vụ một lát, Mạc Bì Đa đến hỏi thăm chuyện phát binh, hai người vừa uống rượu vừa nói, không biết chạng vạng tối từ lúc nào, đợi Mạc Bì Đa rời đi, anh ta đã say chuếnh choáng, nằm xuống ngáy o o.

Anh mơ một giấc.

Trong mơ, là anh ta thời niên thiếu quỳ gối trước giường trong hầm đá, một ông lão thoi thóp trên giường, đôi tay khô gầy không ngừng run rẩy, trịnh trọng đưa cho cậu ấy một thanh đao lấp lánh sắc lạnh. "Tất Sa, con hãy thề với ta."

Cả người Tất Sa phát run, không dám nhận chuôi đao kia, "Sư tôn... thật sự con làm không được!"

Cặp mắt đục ngầu của ông lão nhìn cậu chăm chú một lúc lâu, thở dài. "Gọi Duyên Giác đến."

Tất Sa rét lạnh, nhào tới trước nhận lấy chuôi đao.

Sau một khắc, ông lão và đao cùng biến mất.

Anh ta lại thấy một tòa Phật điện trống rỗng, ánh nến mờ mịt, hương trầm lượn lờ.

Một vị sư ngồi xếp bằng trên Pháp đài trước Phật, nét mặt tươi sáng, đôi mắt xanh như giấu cả hoa sen, người vận tăng y rộng rãi, quanh thân được bao bọc bởi ánh nến và hương trầm, thanh lãnh cao quý, bóng bẩy xuất trần.

Nhìn ngài ấy thánh khiết trang nghiêm thế, nhưng trong ngực lại ôm một nữ tử xinh đẹp da trắng hơn tuyết, mặt nữ tử ngó ngài, đôi tay trắng quấn cổ ngài thật chặt. Hai người ngồi đối diện nhau, ngài cúi đầu nhìn nàng.

Ngoài Phật điện vang tới một trận bước chân dồn dập, vô số ánh đuốc tụ tập về Phật điện, lốm đa lốm đốm, rực rỡ như ngân hà.

Có người đá văng cửa chính, trong tiếng loảng xoảng, một thanh trường đao chém đến người nữ tử trong ngực vị sư.

Vị sư ngửa mặt lên, mồ hôi dầm dề trên người, ẩm ướt phản quang, trên khuôn mặt tuấn mỹ lạnh tanh tràn đầy sát khí.

Đôi mắt xanh biếc vốn luôn bình tĩnh không dao động, đỏ như máu.

Tất Sa nhìn ngài, giơ lên trường đao.

...

Gió mát từ kẽ hở thổi vào trong phòng, màn nỉ lắc lư.

Tất Sa từ trong cơn mơ bừng tỉnh, toàn bộ chuếnh choáng đã tan, cả người đầy mồ hôi lạnh, ngồi một lát, xoay người khoác áo mặc giày, vội vã chạy tới Vương Tự.

Duyên Giác nhìn thấy anh ta đầu đầy mồ hôi, khẽ giật mình, hỏi: "Tướng quân có quân tình khẩn cấp phải bẩm báo hả?"

Tất Sa không trả lời mà hỏi lại: "Vương từ hầm đá về chưa?"

Duyên Giác lắc đầu: "Vương còn chưa về."

"Văn Chiêu công chúa về rồi chứ?"

Duyên Giác tiếp tục lắc đầu: "Hình như cũng chưa..."

Sắc mặt Tất Sa âm trầm như nước, siết chặt cậu ta: "Dẫn ta đi gặp Vương! Lập tức! Ngay lập tức!"

Sắc trời dần tối.

Nắng chiều chói lọi vương vãi trên Vương Tự cao thấp chập trùng, xen lẫn vào giữa những Phật tháp tinh tế trên hang đá, hoàng hôn nặng buông, vàng rực lay động, chuông đồng dưới mái cong Phật tháp nhẹ lay theo gió, leng ka leng keng, trang nghiêm tề chỉnh.

Tất Sa trèo lên thềm đá, bước chân nhanh nhẹn.

Ám vệ Ba Murs trong góc khuất chặn anh ta lại, nói: "Tướng quân dừng bước."

Tất Sa gỡ đồng phù của mình: "Ta muốn gặp Vương."

Ba Murs cầm đồng phù đi vào, chỉ sau chốc lát đi ra, dẫn anh ta vào viện, để anh ta chờ dưới bóng cây.

Tất Sa ngẩng nhìn hầm đá lộ ra vài ánh đuốc lờ mờ, lòng nóng như lửa đốt, đi qua đi lại, ánh mắt đảo qua gốc cây trụi lủi kia, nhìn mấy vết sẹo trên thân cây quen thuộc.

Anh ta nhìn đến ngây người.

Cây này là tự tay Đàm Ma La Già dời đến trồng.

Căn hầm đá này, từng là nơi Đàm Ma La Già ở, cũng là nơi ngài ấy chính thức thọ giới.

Văn Chiêu công chúa không biết... khánh điển mừng sinh thần của La Già kéo dài mấy ngày, nhưng hôm nay mới đúng là ngày sinh của ngài.

Tay phải Tất Sa nắm chặt chuôi đao.

Đàm Ma La Già không thèm để ý đến sinh thần, bao năm qua đều do tín đồ tự phát ăn mừng cho ngài. Ngày này năm ngoái, một mình ngài ngồi chép Phật kinh từ sáng đến tối, không gặp ai.

Ngày này năm nay.

Tại thời điểm ý nghĩa phi thường này, ngài ấy đưa Văn Chiêu công chúa đến căn hầm đá có ý nghĩa phi thường với mình.

Chứng tỏ, Văn Chiêu công chúa với ngài ấy mà nói, cũng ý nghĩa phi thường như thế.

...

Trong hầm đá.

Dao Anh đã uống thuốc viên, ngồi xếp bằng.

Đàm Ma La Già ngồi đối diện nàng, ngón tay lần cầm châu, đôi ngươi cụp xuống.

Tĩnh lặng im ắng, khói xanh mềm mại.

Dao Anh không quen ngồi quỳ chân ngay ngắn, chỉ một chốc đã thấy xương sống, thắt lưng đau chân tê dại, còn Đàm Ma La Già vẫn không hề nhúc nhích, hoa văn trên tấm cà sa lặng như sóng nước, giống một pho tượng Phật, chỉ có cầm châu trong tay xoay nhẹ, xem ra, ngài ấy có thể ngồi cả ngày bất động.

Ánh mắt nàng đảo một vòng, trong phòng bày biện đơn giản, án thư bình phong giường thấp bàn thờ Phật, không gì để ngắm cả, bèn quay lại nhìn Đàm Ma La Già, một tay chống cằm, lẳng lặng ngắm chàng.

Ngũ quan chàng rất sắc sảo, đường nét tươi sáng, là cao tăng được vạn dân kính ngưỡng, bình thường nhìn hiền hòa như là ngọc thạch, trong lạnh xuất trần, thật ra nếu ngắm kỹ, gương mặt có mấy phần hào hùng khí khái, nên khi nghiêm khắc lên thì đầy cứng rắn uy nghiêm ung dung, đôi mắt xanh biếc vẫn mềm mại hiền lành, giống như một vũng nước sâu, thong thả sáng ngời, phong thái thần tú.

Dao Anh không nhịn được mà nghĩ: Hẳn khi cười nhìn ngài rất đẹp.

Từ khi quen biết đến giờ, chưa từng thấy ngài ấy cười.

Nàng nhìn đến nhập thần, Đàm Ma La Già ngước lên, đối diện tầm mắt nàng.

Hai người im ắng đối mặt, chàng không nói gì, Dao Anh thấy chàng không giống đang thiền định, bèn cười với chàng, cúi đầu mở chiếc túi nhỏ mang theo đến.

"Tôi còn chưa có quà chúc mừng sinh thần của Pháp sư..." Nàng lôi ra mấy quyển kinh văn đưa cho Đàm Ma La Già.

Đàm Ma La Già nói: "Công chúa đã tặng quà rồi mà."

Ở buổi điển lễ nàng cố ý lấn lướt các công chúa khác, bảo đội buôn hàng chuẩn bị hậu lễ, khi lễ quan bưng quà tặng của nàng, cả sân khấu suýt xoa thành tiếng, tượng Phật vàng tinh xảo, bảo khí châu ngọc bát bảo, vàng bạc châu báu rực rỡ muôn màu, còn có mấy quyển kinh thư được đóng gáy rất tinh xảo, minh họa rất đẹp.

Sứ đoàn các nước chưa từng thấy qua mấy quyển kinh thế kia, kinh ngạc không thôi, định mượn xem nhưng chủ chùa không cho, hiện giờ kinh thư cũng đã dùng trong Vương Tự.

Nàng chưa từng bỏ qua bất cứ cơ hội nào khuếch trương đội buôn của mình, tơ lụa đem từ Trung Nguyên dĩ nhiên quý giá nhưng số lượng có hạng, vải tơ tằm không thể gấp trong một lúc, sản xuất giấy có vẻ dễ hơn, chi phí lại rẻ, lời nhiều, nghĩ mấy hôm nữa tiệm nàng sẽ bán mấy quyển kinh Phật đóng gáy như kia mới được.

Nghe chàng nhắc tới mấy lễ vật lấp lánh kia, Dao Anh mỉm cười, cầm quyển kinh nói: "Đó là để cho họ nhìn, đây mới là quà mừng tự tay tôi chuẩn bị cho Pháp sư."

Đàm Ma La Già liếc nhìn nàng, nhận lấy quyển kinh, lật ra xem, trên giấy hoa tiên có in chìm hoa văn hoa sen đầy chữ chi chít.

Chàng chau mày.

Dao Anh biết chàng thông thạo nhiều thứ tiếng, thư pháp tinh xảo, hơi có phần thẹn thùng, nói: "Chữ viết Vương Đình và chữ Hán khác nhau quá lớn, tôi viết không được khá, Pháp sư chê cười."

Đàm Ma La Già khép lại quyển kinh văn.

Chữ viết Vương Đình của nàng không tốt thật, nhưng chàng có thể nhận ra, tay nàng chép đủ cả bộ gốc của Địa Tạng Bồ Tát kinh nguyện.

Dao Anh cười nói: "Mẹ tôi tin Phật, tôi từng chép Kinh Dược Sư tặng bà. Pháp sư là người xuất gia, người tu hành thoát khỏi vòng sinh tử, không ham sống, không sợ chết, nhưng tôi là người cõi tục, tôi hy vọng Pháp sư sống lâu trăm tuổi, dứt bệnh mạnh khoẻ, sớm dứt được thuốc, cho nên mới nghĩ, muốn chép Kinh Địa Tạng cầu phúc cho Pháp sư."

Đàm Ma La Già lặng yên một lát rồi hỏi: "Sao công chúa lại chép Kinh Địa Tạng?"

Dao Anh đáp: "Tôi thấy bình thường Pháp sư hay lật xem kinh này."

Trong phòng ngài ấy mấy quyển Kinh Địa Tạng trên thư án ghi đầy chú thích phê bình, thẻ đọc nhét trong quyển trục, ngày thường ngài tranh biện về Phật pháp với người khác cũng hay trích dẫn Kinh Địa Tạng, hẳn nghĩa của kinh đã thấm sâu trong người, hiểu rất rõ, cực kì tâm đắc, nên nàng quyết định chép bộ kinh này.

Đàm Ma La Già nhìn Dao Anh, nói: "Công chúa không hề tin Phật mà."

Dao Anh mở to hai mắt: "Nhưng Pháp sư ngài tin."

Bởi vì đây là tín ngưỡng của chàng, nên nàng muốn dùng cách của chàng mà đeo đuổi việc cầu phúc cho chàng.

Gió thổi vào trong nhà, ánh nến lắc lư, ánh sáng giao thoa chiếu lên mặt Dao Anh, một đôi mắt sáng, nước hồ thu sóng sánh.

Trong lòng động, cờ lay.

Đàm Ma La Già rũ mắt, nhìn quyển kinh văn, hôm nàng thỉnh tội với Phật Tổ, một đêm chép xong hai quyển kinh, chữ viết tinh tế tú lệ, nhưng có thể nhìn ra không hề để tâm tư vào, còn có chỗ bôi xoá. Còn chép Kinh Địa Tạng tặng mình, mặc dù chữ viết xiêu xiêu vẹo vẹo, nhưng lại là từng nét từng thanh chăm chú mà chép.

Chàng xuất thần một lúc, đâu như có thể thấy hình ảnh nàng dựa bàn viết nghiêm túc, chăm chú cẩn thận.

Dao Anh biết ngài ấy không hề để ý đến ngày sinh thần, nhìn chàng nhận quà xong mặt cứ đờ ra, không để trong lòng, dặn một câu: "Nhưng Pháp sư vẫn nên tìm danh y, đúng bệnh bốc thuốc mới có thể khỏi hẳn. Tôi có cho người tìm vài vị thuốc, cũng không biết có tác dụng hay không, đã gửi Duyên Giác, vừa vặn y giả Thiên Trúc đang ở Vương Đình, không ấy mời y giả kiểm tra qua, nếu hữu dụng thì tôi bảo kiếm thêm."

Đàm Ma La Già cất quyển kinh, ừ một tiếng, tại lúc nàng không thấy, khóe miệng nhẹ giật.

Nàng đại khái muốn nói, Pháp sư, xem bệnh rồi phải uống thuốc.

Lợi dụng lúc nói chuyện, Dao Anh động đậy chân, xoa bả vai, tự dưng thấy một cơn rã rời ập đến, nghiêng người che miệng ngáp, trên trán rịn lớp mồ hôi mịn.

Từ lúc nàng uống thuốc, Đàm Ma La Già luôn quan sát nàng, thấy nàng mơ màng, khẽ nói: "Công chúa uống thuốc này lần đầu, hiệu quả thuốc rất mạnh, nếu thấy buồn ngủ, có thể nằm xuống."

Dao Anh làm bộ muốn đứng dậy: "Vậy tôi về..."

Đàm Ma La Già lắc đầu, đứng dậy: "Lần đầu người uống thuốc, không thể không có ai."

Nói xong, đứng dậy ra ngoài tránh mặt.

Dao Anh đáp ừm một tiếng với bóng lưng cao gầy của chàng, nhìn qua nhìn lại, trên góc giường có chăn gối sạch, xem ra ngài ấy đã có chuẩn bị sẵn.

Hòa thượng là một vị thầy thuốc chu đáo ghê.

Mí mắt càng thêm nặng nề, nằm xuống chưa đầy một lát nàng đã ngủ mất.

...

Nghe thấy tiếng hô hấp của Dao Anh sau tấm bình phong đã ổn định một lúc lâu, Đàm Ma La Già quay lại trong phòng.

Dưới ánh nến, chàng chuyển cây nến đến trước giường thấp, ngồi bên giường quan sát kỹ sắc mặt nàng, cuốn chăn lên, cầm chiếc khăn mềm nâng cổ tay nàng lên, đưa hai ngón dò mạch.

Người Dao Anh càng lúc càng nóng, bên tóc mai rịn đầy mồ hôi.

Đàm Ma La Già nhíu mày, mang khăn nóng lau cho nàng. Trong mơ nàng cảm giác được động tác dịu dàng của chàng, đưa tay bắt lấy ống tay áo chàng.

"Pháp sư..." Nàng vô thức kêu, giọng khàn khàn, nghe phá lệ thân mật.

Giống như thì thầm trong màn.

Đàm Ma La Già ngừng tay một lát, rút tay áo cà sa mình ra, tiếp tục lau.

"Pháp sư..." Dao Anh tiếp tục gọi, lần này chụp lấy ống tay áo chàng, ngón tay nắm chặt.

Đàm Ma La Già giật tay áo.

"Pháp sư, đau..." Nàng chợt nói.

Tiếng nói mớ rất nhỏ, hừ nhẹ trong mũi, không phải phàn nàn, cũng không kể khổ, chỉ là vì trước mặt người tin tưởng nên buông hết mọi phòng bị.

Đàm Ma La Già dừng lại, hàng mi đen dày cụp xuống, che đi mọi suy nghĩ.

"Đau chỗ nào?" Lát sau, chàng nhẹ giọng hỏi.

Dao Anh cuộn thành một cục, mồ hôi rịn cả người: "Đau cả người..."

Đàm Ma La Già không nhúc nhích, lát sau, cúi người, ngón tay thon dài chậm rãi vươn tới gần gương mặt nàng, đến khi gần chạm đến, vững vàng dừng lại.

Ánh mắt chàng dừng trên mặt nàng, nhìn thật lâu, cúi đầu gỡ cầm châu bồ đề trên cổ tay, vẫn cách tấm khăn mà cầm cổ tay nàng lồng lên.

Cầm châu bồ đề thường ví như vật phép, trừ tà, tăng trí tuệ, tiêu trừ tai họa, tăng công đức, trừ ốm đau...

Xâu cầm châu này, chàng đã mang theo người nhiều năm.

Chàng đeo cầm châu, niệm kinh cho nàng.

Nguyện nàng giảm bớt nỗi đau, nguyện nàng vô bệnh vô tai, mong muốn đạt thành, gặp nạn vẫn có tốt lành.

Nghe tiếng tụng kinh trong lạnh uyển chuyển quen thuộc, Dao Anh dần dần yên ổn, ngón tay vẫn níu lấy tay áo cà sa của La Già.

Chàng không rút tay áo ra nữa.

Nghe tiếng bước chân ngoài bình phong, Ba Murs tới bẩm có Tất Sa đến.

"Bảo cậu ấy chờ đi." Đàm Ma La Già nhìn Dao Anh, nói.

Sau một khắc, Mạn Đà La có hiệu quả, đôi mày cau lại của Dao Anh đã thả lỏng bớt, không còn thấp giọng nói mê, ngón tay níu ống tay áo chàng cũng đã buông lỏng.

Đàm Ma La Già đợi một lúc lâu, kéo cánh tay lộ ra ngoài vào trong chăn, ngồi lại trước thư án ghi phản ứng của nàng bằng tiếng Phạn, rồi xoay người ra ngoài.

...

Trời đã tối.

Tất Sa chờ ở trong viện, thấy Đàm Ma La Già đi tới, vẻ rất nghiêm túc.

"Vương, trong mắt ngài có phải Văn Chiêu công chúa không giống những người khác?"

Nếu Lý Dao Anh chỉ là một cô gái tầm thường, chỉ như công chúa Man Đạt dựa vào sắc đẹp đến mị hoặc lòng người... Tất Sa tuyệt đốt sẽ không khủng hoảng như bây giờ.

Nàng không phải cô gái tầm thường, nàng đã có vẻ đẹp của thần nữ không gì sánh kịp, lại luôn tâm ý tương thông với La Già.

Tất Sa cũng là đàn ông, ở bên Lý Dao Anh lâu ngày, anh ta càng thêm lo La Già sẽ động tình với nàng ấy.

Anh chờ La Già trả lời, ánh mắt thấp thỏm.

Gió đêm phất qua, Đàm Ma La Già đứng trước hiên, ánh trăng tròn đậu trên vai, cà sa phần phật.

"Không giống."

Chàng thản nhiên nói.

Tất Sa chấn động cả người, đã đoán được là thế nhưng chính mắt thấy Đàm Ma La Già thản nhiên thừa nhận, anh ta vẫn không dám tin.

"Vương, Văn Chiêu công chúa không thể ở lại Vương Đình." Giọng điệu anh kiên quyết, "Công chúa là người Hán, còn ngài là Phật Tử cao quý đó!"

Tiếp tục thế này, đối với Đàm Ma La Già hay Lý Dao Anh đều không phải chuyện tốt. La Già nếu vì động tình mà hỏng đi tu hành, Lý Dao Anh sẽ bị xem như ma nữ dụ hoặc Phật Tử sa đọa, nàng sẽ chịu mọi thóa mạ, căm hận, khinh bỉ, mà đám tín đồ cuồng nhiệt chuyện gì cũng làm ra được, bọn họ sẽ cố gắng hết sức hủy hoại nàng.

Đàm Ma La Già ngắm nhìn bóng đêm, sắc mặt bình tĩnh, nói: "Thất tình lục dục, đều thuộc tự nhiên, thiên tính con người có ý dục về nam nữ, ăn uống, không cần né tránh, người tu hành vốn là muốn đoạn trừ mọi dục vọng, trui luyện tâm chí."

Thất tình lục dục là thiên tính, chàng là người phàm, động tình là bình thường, không cần kiêng kị.

Chàng là người tu hành, động tình chỉ là một kiếp nạn trên con đường tu hành chàng gặp phải.

Lòng không động, cờ không lay.

Chàng vốn là một cái giếng cổ, trong giếng một gốc sen nước lặng lẽ lớn lên, quạnh quẽ cô tuyệt, nàng vượt qua ngàn sông vạn núi mà đến, như gió xuân phất qua, thổi nhàu mặt nước phẳng, lăn tăn thành vòng, sen nước khẽ đung đưa theo.

Gió ngừng, nước dừng.

Chuyện trên thế gian, trôi qua không dừng, tình yêu như hạt sương, mỹ nhân như bọt nước.

Nàng sẽ trở lại vùng đất Hán xa xôi đoàn viên với người thân, cả đời vui vẻ.

Chàng tiếp tục cô độc tu hành, dẫu thịt nát xương tan, cũng không quay đầu.

Tất Sa cười khổ.

Anh ta tin tưởng Đàm Ma La Già tâm tính kiên định, có thể xử lý tốt quan hệ với Lý Dao Anh. Nhưng chuyện đời nào đơn giản thế.

La Già là Quân chủ Vương Đình, là Phật Tử trăm họ kính ngưỡng, mà còn là Nhiếp Chính Vương Tô Đan Cổ...

Tất Sa ổn định tâm trạng, nói: "Vương, chuyện Văn Chiêu công chúa tranh chấp với công chúa các nước đã lan truyền, dân chúng lén dùng mọi lời chửi mắng khó nghe nhất với người, bảo người ngăn cản Vương tu hành, si tâm vọng tưởng, nói người vô sỉ, thấp hèn, sẽ gặp báo ứng, vĩnh viễn rơi vào địa ngục Tu La... Người còn nói từng mơ bị Thần Phật trừng trị, ai nấy đều tin cả, vì họ đều cho rằng trừ phi người xuất gia như Ma Đăng Già, nếu không chắc chắn sẽ có kết cục thảm hại."

"Vương, cuối cùng rồi Văn Chiêu công chúa sẽ về Hán, để tốt cho nàng ấy, ngài không thể ưu đãi nàng thế nữa."

"Tôi nguyện vì Vương mà chăm sóc cho Văn Chiêu công chúa, Vương, tôi chắc chắn sẽ dùng hết sức mình bảo vệ công chúa, dù máu chảy đầu rơi vẫn không chối từ."

Đàm Ma La Già quay lại, nhìn Tất Sa, đôi mắt xanh biếc trầm tĩnh.

Tất Sa trong lòng than thầm, quỳ một gối trên đất: "Vương, thần và Văn Chiêu công chúa là bạn, thần thề, tuyệt đối không dám, cũng không có bất kỳ cử chỉ ác ý nào đối với công chúa... Thần chỉ là, lo lắng cho tình cảnh của Văn Chiêu công chúa."

Anh ta nhắm mắt, hai tay nắm chặt đầy quyết tâm. "Vương, ngài động tình với công chúa, rất có thể mang tai họa đến cho người, hơn thế nữa, là tính mạng."

"Bọn họ sẽ giống như xử tử yêu nữ ngoại đạo, ném Văn Chiêu công chúa vào lửa đàn thật sự, thiêu sống người, để rửa sạch tội lỗi của người."

Đình tiền yên tĩnh đến lạ kỳ.

Gió đêm lồng vào cà sa của La Già, chàng nói: "Tất Sa, ta động tâm hay không, không liên quan đến Văn Chiêu công chúa." Giọng điệu uy nghiêm, hàm ý cảnh cáo.

Cho dù chàng hơi động một tí lòng, tất cả hậu quả chàng một mình gánh chịu, không liên can đến Lý Dao Anh.

Tất Sa nghe ra quyết tâm của chàng, cảm thấy khổ sở trong lòng, tia đắng chát lướt trên mặt.

"Thần ghi nhớ." Anh ta hiểu rõ Đàm Ma La Già, biết La Già sẽ không trốn tránh, dù kết quả thế nào, La Già vẫn sẽ một mình gánh vác mọi quả đắng.

Nên anh mới lo lắng đến như thế.

...

Tất Sa đứng dậy, rời hầm đá.

Nỗi sợ quanh quẩn trong lòng anh ta mấy năm qua lại dâng lên.

Anh ta nhớ tới lời sư tôn trước khi lâm chung: "Tất Sa, không được mềm lòng, không được chần chừ... Thật đến ngày đó, con phải tự tay giết ngài ấy."

Câu nói này, La Già cũng từng nói với anh. "Tất Sa, không cần chần chừ, ta thân mang bệnh nặng, vốn đã là người sắp chết."

Tất Sa chùi khóe mắt.

...

Nhiều năm trước, Đàm Ma La Già tu tập công pháp.

Chàng rất kiên cường, không chỉ chịu đựng đau đớn ghê gớm của thân thể mà còn chịu khảo nghiệm tinh thần, trừ lúc vận công lộ ra vẻ phá lệ lạnh lùng, cũng không khác thường.

Trước khi lâm chung, sư tôn Ba La Lưu Chi gọi Tất Sa đến, đưa cho anh ta một thanh đao. "Tất Sa, con là đồng môn của La Già. Sau này nếu La Già lên cơn điên cuồng, đại khai sát giới, con phải tự tay giết ngài ấy."

Tất Sa cả kinh thất sắc: "Sư tôn, La Già là Phật Tử, ngài tu công pháp là bởi vì không đành lòng nhìn từng người cận vệ chết thảm, sao đại khai sát giới được?"

Ba La Lưu Chi run run: "Trên đời không có gì là tuyệt đối... Con đã từng nghe chuyện Tái Tang Nhĩ Tướng quân rồi chứ?"

Tất Sa gật đầu, đương nhiên anh ta biết, mỗi một thiếu niên lang của Vương Đình đều muốn trở thành đại anh hùng như Tướng quân Tái Tang Nhĩ.

Ba La Lưu Chi nhìn anh ta, ánh mắt thương xót. "Tất Sa, Tướng quân Tái Tang Nhĩ là sư huynh của ta... Huynh ấy không phải chết trong âm mưu của thế gia... mà là dưới đao sư tôn."

Tất Sa mở to hai mắt nhìn.

Ba La Lưu Chi vuốt ve cây đao trong tay. "Từ nhỏ sư huynh tu hành trong Vương Tự, luyện tập công pháp, trong sư huynh đệ đồng môn ngộ tính của huynh ấy tốt nhất, tính tình cũng tốt nhất, các sư huynh đệ đều rất sùng bái huynh ấy."

"Mười bốn tuổi, sư huynh bắt đầu đi theo cha anh chinh chiến vì Vương Đình, trận đầu tiên đã chém đầu kẻ địch. Mười tám tuổi, sư huynh dẫn ba ngàn kỵ binh ra Hành Lĩnh, đánh bại Hãn quốc Đột Quyết, diệt tám ngàn quân địch, bắt tù binh hơn hai vạn người... Huynh ấy võ nghệ cao cường, tính tình cương nghị, không gì có thể quật ngã huynh ấy..."

"Cả đời sư huynh trung trực, giữ vững biên cảnh cho Vương Đình, khống chế con đường buôn bán Đông Tay trong tay Vương ĐÌnh, khắc địch phục viễn*, anh dũng thiện chiến, cờ Vương Đình tung bay trong đại mạc Tuyết Vực, các nước tiểu bang lớn nhỏ nghe tin đã sợ mất mật, có huynh ấy, các Vương triều lớn mạnh Đông Tây đều không dám xâm chiếm Vương Đình..."

"Sư huynh xem lính như con, được bộ hạ kính yêu, chính trực dũng cảm, không màng danh lợi, chưa từng tự ngạo vì quân công của mình, sinh hoạt hàng ngày luôn cố gắng hướng đến đơn giản, thành thân chưa đến mấy ngày đã ra tiền tuyến..."

"Sư huynh thường nói, thân là binh sĩ Vương Đình, thân là một người tập võ, đương nhiên phải trung với nước, bảo vệ dân."

Nói đến đây, cặp mắt đục ngầu của Ba La Lưu Chi tràn đầy nước mắt. "Sư tôn nói, sư huynh là người thích hợp nhất để chọn luyện công pháp, tâm tính huynh ấy cao thượng, cho dù Vương thất nghi kỵ gì, thế gia sắp xếp gạt bỏ thế nào, trong lòng huynh ấy đều đặt Vương Đình và bách tính lên đầu, huynh ấy trời sinh là anh hùng, tuyệt đối sẽ không tẩu hỏa nhập ma."

"Mãi cho đến năm đó... Sư huynh ra ngoài đánh trận, mẹ huynh ấy trong lúc vô tình đắc tội Thái hậu và quý thích Vương thất, bị Thái hậu hạ độc chết, Thái hậu sợ việc bại lộ, nghe gian thần giật dây, dứt khoát hoặc là không làm, đã làm thì làm cho trót, mua đám cướp giết người nhà của sư huynh, giá họa cho thế gia, người nhà chạy ra thành báo tin, đều bị giết.... Đến khi Vương biết thì sai lầm của Thái hậu đã quá lớn, thế gia mắt lạnh đứng nhìn... Cuối cùng, cả nhà sư huynh đều đã chết..."

Ba La Lưu Chi cười khổ. "Sư huynh đánh thắng một trận lớn, mang binh khải hoàn, làm sao ăn nói với sư huynh đây..."

"Huynh ấy cúc cung tận tụy vì Vương Đình, vui vui vẻ vẻ quay về, còn ta thì phải báo cho huynh ấy, sư huynh, người nhà của huynh chết hết, cha huynh, mẹ huynh, người vợ đang mang thai và hai đứa con huynh, anh chị em huynh... đều chết cả rồi! Chết dưới tay gian thần quý thích..."

Ba La Lưu Chi nhìn chằm chằm vào cái tay phát run của mình.

"Về sau, khi sư huynh trở về, Vương sợ sư huynh phát cuồng, càng sợ đám binh lính sùng bái huynh ấy tạo phản, đành che giấu chứng cứ phạm tội, bao che mẹ ngài... Sư huynh không biết bất kỳ điều gì, chỉ cho rằng người nhà mình chết do tai vạ bất ngờ... rồi thế gia cố ý tiết lộ tin tức cho huynh ấy..."

Tái Tang Nhĩ phát điên.

Anh ta xách đao xông vào Vương cung, trên đường đi đại khai sát giới, cận vệ Vương cung là bộ hạ huynh ấy, không phải là đối thủ của anh ta, cũng không ra tay được, nhưng họ không thể trơ mắt nhìn anh ta lạm sát kẻ vô tội.

Cuối cùng, sư tôn của Tái Tang Nhĩ dẫn đầu tăng binh Vương Tự bao vây tấn công anh ta. Khi đó Ba La Lưu Chi tuổi còn rất nhỏ, vụng trộm lẫn vào đám đông.

Ông vĩnh viễn không quên được đêm mưa ấy.

Vị đại anh hùng mà thiếu niên lang Vương Đình sùng bái nhất như một con thú hoang bị nhốt, cùng đồng môn sư huynh đệ chém giết, máu thịt tung tóe.

Cuối cùng Tái Tang Nhĩ chết dưới đao của sư tôn mình.

"Hùng ưng bay lượn nơi chân trời, thần sói rong ruổi nơi đại mạc, huynh ấy không chết ở chiến trường, không chết dưới đao của kẻ địch, mà chết trong tay người một nhà! Cận vệ Vương Đình, sư tôn, sư đệ của huynh ấy... Trung quân đã điều ra vài trăm người lập bẫy, còn bắt họ hàng xa của huynh ấy chỉ vì muốn dụ ra huynh ấy, vây bắt huynh ấy... Đêm hôm ấy, Vương Tự máu chảy thành sông, ta vĩnh viễn sẽ không quên được..."

"Tái Tang Nhĩ chết trong tay chúng ta..."

Toàn bộ tăng nhân Vương Tự tham gia vây quét Tái Tang Nhĩ đều không thể quên đêm ấy, tinh thần ý chí họ sa sút, theo nhau trốn đi trở thành sư khổ hạnh.

Từ đó, Vương thất suy yếu, thực lực quốc gia suy sụp, dòng họ Đàm Ma mấy đời Quân chủ trở thành bù nhìn của đám thế gia.

Mãi cho đến khi Đàm Ma La Già ra đời.

Ba La Lưu Chi nắm chặt lấy bả vai Tất Sa. "Sư huynh không phải bị sư tôn giết chết... Mà là huynh ấy cầu được chết..."

Trước khi Tái Tang Nhĩ lâm chung, liếc nhìn một vòng, nhìn đồng môn mình, lẩm bẩm một câu, "Thật xin lỗi."

Các sư huynh đệ quỳ gối trước thi thể anh ta, lệ rơi đầy mặt.

Một khắc cuối cùng tỉnh táo, Tái Tang Nhĩ ý thức được lúc mình phát điên đã giết quá nhiều người vô tội, từ bỏ chống cự, ung dung chịu chết.

Các sư huynh đệ tình nguyện anh ta đừng tỉnh lại, tình nguyện anh ấy thật điên mãi.

Một anh hùng, mất đi tất cả, niềm tin suốt đời kiên trì sụp đổ, cuối cùng còn phải tỉnh táo chịu chết, đau đớn nhường nào.

Ba La Lưu Chi nhìn Tất Sa, khuôn mặt vặn vẹo. "Đã nhiều năm... Chỉ có La Già giống anh ấy nhất, La Già là người luyện tập môn công pháp này thích hợp nhất... Nếu đã là ý trời... Con phải theo dõi ngài thật kỹ, trung thành với ngài, đừng để ngài rơi vào cảnh như Tái Tang Nhĩ..."

"Nếu thật sự có ngày đó... Giết ngài, để ngài giải thoát..."

...

Một trận gió lạnh thổi qua, Tất Sa từ trong hồi ức tỉnh táo lại, đứng trước bậc, giật nảy mình.

Dù La Già lựa chọn con đường nào, vĩnh viễn anh ta sẽ không giơ đao lên với La Già.

Anh ta biết, La Già sẽ không dễ dàng từ bỏ lòng tin. Cho nên, anh ta không sợ La Già phá giới.

Anh ta chỉ sợ La Già động tình.

Phá giới không dao động tâm chí của La Già, nhưng động tình thì không giống. Không động tình, trên đời này không có gì có thể tổn thương đến ngài ấy, động tình, là ngài đã có uy hiếp. Nhưng mà thân phận và công pháp ngài luyện tập đã định sẵn ngài không thể có uy hiếp và nhớ mong.

Ba La Lưu Chi nói, vừa là Phật Tử vừa là Quân chủ, chỉ có một mình La Già. Từ nhỏ ngài đã ẩn nhẫn khắc chế, càng khắc chế, đến khi bùng nổ, càng dữ dội.

Ngài còn chưa động tới tình, cứ coi như chỉ là một thoáng chớp rung động, nào biết, động tình, sao lại không động dục vọng?

Đụng tới dục vọng, liền sẽ có cầu mà không được, oán hận, sinh ly tử biệt... Mỗi một loại, đều có thể dẫn đến việc La Già mất lý trí.

La Già muốn độ Văn Chiêu công chúa xuất gia... Thật ra là đã động tham dục, ngài ấy muốn giữ lại nàng.

Nhưng mà Văn Chiêu công chúa sẽ không ở lại.

Tất Sa không muốn nhìn thấy La Già vì thế phiền muộn khổ sở. Biết rõ sẽ mất đi, còn để ngài ấy ngắn ngủi đạt được, sao mà tàn nhẫn.

Tất Sa cúi đầu nhìn bội đao bên hông, thở dài một hơi, hồi phục suy nghĩ, bước vào màn đêm thăm thẳm.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#truyện