Chương 41 - 50

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Đề Bà Mông Đạt đứng dậy nhìn hai chân của Đàm Ma La Già, sắc mặt đông cứng lại.

Bát Nhã và hai thân binh khác vây quanh cạnh giường, thảo luận mấy câu với Đề Bà Mông Đạt. Ai nấy đều ảm đạm.

Vẻ mặt người bệnh nặng Đàm Ma La Già trái lại bình tĩnh nhất, ánh mắt trong lạnh đảo qua mặt mấy người, thấp giọng dặn dò gì đó.

Bát Nhã vừa lau nước mắt vừa gật đầu vâng dạ. Họ nói tiếng Phạn, Dao Anh nghe không hiểu, chỉ nghe giọng khàn khàn của Đàm Ma La Già tuy đang bệnh bằng cách nào đó vẫn có vần luật ưu nhã.

Tiếng bước chân càng lúc càng gần làm nàng bừng tỉnh, một thân binh xốc màn trướng bước nhanh vào trong, nói tiếng Hồ: "Vương, đám người Đại tướng đến, họ kiên trì đòi phải vào điện yết kiến Vương!"

Mấy người Bát Nhã nhìn nhau.

"Không thể để họ vào!" Bát Nhã ngăn trước giường, hỏi, "Nhiếp Chính Vương đâu?"

Thân binh nói: "Cách đây không lâu Tô tướng quân đi Cao Xương, còn chưa về."

"Công chúa Xích Mã đâu?"

"A Sử Na tướng quân hộ tống công chúa Xích Mã đi Vân Phù Thành, họ cũng không ở trong thành, đã phái người đi mời rồi." Thân binh rịn đầy mồ hôi, "Mấy người Đại tướng đang định xông vào!" Mấy thân binh luống cuống, Đề Bà Mông Đạt không muốn nhúng tay vào triều đình chính sự của Vương Đình, bất đắc dĩ thở dài.

Đè nén trong yên lặng, Đàm Ma La Già mê man trên giường lại gượng dậy, bờ vai thon gầy căng thành một đầu cung, trên khuôn mặt tái nhợt không chút bối rối, nói khẽ: "Đỡ ta đi chính điện."

Giọng vẫn ung dung không vội.

Bát Nhã xoa khóe mắt, xoay người dìu Đàm Ma La Già, động tác thành thạo vô cùng, như làm vô số lần.

Dao Anh tiến lên một bước, "Tốt nhất ngài đừng xuống đất."

Đàm Ma La Già nâng tầm mắt, đôi mắt xanh thẳm chăm chú nhìn nàng.

Ánh mắt chàng nhìn người cũng trong lạnh như chàng, như đang nhìn người, mà cũng như xuyên thấu qua người nhìn vật khác, như vạn vật trong thế gian trong mắt chàng đều là tục vật.

Một thứ uy áp vô hình quanh quẩn quanh người chàng, cũng không sắc bén, như có như không.

Dao Anh và chàng nhìn nhau hồi lâu, ánh mắt rơi xuống trên đùi chàng, lông mày nhẹ chau lại, dùng tiếng Hồ không sõi lắm nói: "Chân ngài sưng thế này, tuyệt đối phải nằm tĩnh dưỡng trên giường, xuống đất thì cho dù giờ có An tức hoàn, đôi chân này cũng hoàn toàn bỏ đi đấy."

Nàng không biết Đàm Ma La Già chết bệnh ra sao, chỉ biết lần cuối cùng ngài công khai giảng kinh được tín đồ đỡ lên Pháp đàn, giờ nhìn chân ngài, nàng suy đoán hẳn khi đó chân ngài đã hỏng.

Bát Nhã kinh hãi, thút thít hỏi: "Vương, nói với mấy Đại tướng sự thật đi!"

Đàm Ma La Già cụp mắt nhìn hai chân mình, mi mắt rung động, thản nhiên nói: "Không chuyện gì."

Bắc Nhung đang dòm ngó, thế cục trong triều bất ổn, tin chàng bệnh nặng không thể tiết lộ ra ngoài.

Bát Nhã và thân binh nhìn nhau, không dám nói thêm, chỉ đỡ chàng.

Mày Dao Anh càng nhíu chặt.

Đàm Ma La Già đã không thương tiếc thân thể của mình, người bên cạnh thật coi ngài là thần sao?

Ngài ấy là người.

Nghe các nô lệ nói, Vương Đình từ quý tộc đến bình dân đều thù người Hán, chỉ có hòa thượng lòng dạ từ bi, không chỉ xem tất cả nô lệ đều là con dân của mình, đối xử tốt với dân các tộc, còn cổ vũ tín đồ bình đẳng chung sống hòa bình cùng Hỏa giáo, Ma Ni giáo, Cảnh giáo*.

*Cảnh giáo, đạo Cơ Đốc truyền vào TQ thời Đường, từ Hy Lạp chính giáo phân ra, khởi nguồn là giáo sĩ Syria Constantine thành lập giáo hội ở Ba Tư (~428-431).

*Ma Ni giáo, Manichaeism-Minh Giáo, nguyên từ Hỏa Giáo Ba Tư xưa, người Ba Tư (Mani) sáng lập giữa TK III. Có hấp thu Cơ Đốc giáo, có tín ngưỡng riêng, tiếp thu Zoroastre và Phật giáo. GIáo lý chủ yếu là nhị tông tam tế luận, có giới luật và chùa chiền thể chế riêng.

Người này sống thêm một ngày, Bắc Nhung không cách nào tấn công Vương Đình, cũng sẽ không thể rút chủ lực tiến đánh Trung Nguyên.

Lòng Dao Anh chuyển tính mấy vòng, ngăn Bát Nhã lại, nói: "Vương của các ngươi hiện giờ không thể xuống đất, tìm lý do đuổi mấy người Đại tướng đi."

Bát Nhã cảnh giác nhìn nàng mấy lần: "Đại tướng cố chấp, lý do bình thường không ngăn được ngài ấy..."

"Ta chính là lý do." Dao Anh ngắt lời, đưa tay vuốt tóc mai, đuôi mắt hoạt bát hơi kéo lên, sóng mắt trong như nước hồ thu sóng sánh, giống như nhành hoa đầy nụ bỗng nhiên trong tích tắc mỉm cười hé nhuỵ, trời quang mây tạnh, dung mạo rực rỡ, khiến người không dám nhìn gần.

Thoáng chốc, cả phòng như vào xuân.

"Ngươi ra ngoài nói với Đại tướng, công chúa Đại Ngụy một lòng say mê, đau khổ quấn lấy Phật Tử, Phật Tử thoát thân không được."

Bát Nhã đỏ mặt, cúi đầu nhìn Đàm Ma La Già.

Đàm Ma La Già không ngẩng nhìn Dao Anh, đôi mắt buông xuống, nhìn giày cỏ mài đến rách trên chân thiếu nữ. Dọc đường chàng quên căn dặn bộ hạ chăm sóc vị công chúa Ngụy triều, đi chung với mấy nô lệ hẳn nàng chịu không ít khổ.

Đàm Ma La Già ho khan một tiếng, nói: "Không cần, việc này không liên quan đến Thất công chúa."

Dao Anh kinh ngạc phát hiện chàng nói tiếng phổ thông Bắc Trung Nguyên, mà so ra còn lưu loát hơn Đề Bà Mông Đạt cái người Thiên Trúc ở Trung Nguyên khá lâu, một chút khẩu âm cũng không có.

Nghe nói ngài thông minh từ nhỏ, mười mấy tuổi đã thành thạo bảy tám ngôn ngữ, không ngờ gồm cả Hán ngữ.

Người như ngài nếu đơn thuần làm một nhà sư dốc lòng tu tập, nghiên cứu Phật lý, chắc hẳn sẽ không vất vả thế này.

Dao Anh cảm khái trong lòng, cười cười, không hề lo lắng nói: "Khi ta bị rơi vào nguy hiểm, Phật Tử cứu ta từ trong nước lửa, ta nên báo đáp."

Nói xong, nàng ngồi xổm xuống, đối mặt với Đàm Ma La Già, con ngươi đen nhánh tỏa sáng phản chiếu lên bộ mặt tái nhợt của đối phương.

"Chân của ngài thành thế này, không được đi sẽ động."

Không đợi chàng kịp nói gì, Dao Anh đứng lên, tháo dây buộc tóc, cởi đôi giày cỏ rách rưới, chân trần giẫm trên thảm, tóc dài xõa vai, từng bước một đi ra ngoài, từng bước sen nở, bóng lưng thướt tha.

Giữa hoa văn hình thú rực rỡ một đôi chân ngọc trắng sáng bóng trơn mềm, ẩn hiện mấy phần hương sắc khiến người miệng đắng lưỡi khô.

Thân vệ trong phòng trợn mắt há mồm.

Ngoài chính điện, một đám trung niên bốn mươi năm mươi tuổi sải bước xuống thềm đá.

Người dẫn đầu chính là Đại tướng Vương Đình Khang Mạc Già, người mặc áo bào ngắn cổ bẻ tay bó hoa văn chim đối xứng, thắt lưng rộng, giày ống cao, bên hông đeo bảo đao, tóc quấn dải lụa màu cột sau ót, vừa đi vừa quát lớn thân vệ: "Đêm qua Vương đã về, sao không lập tức triệu kiến đại thần?"

Bát Nhã tiếp đón, chỉ vào Dao Anh đang chặn trước cửa điện đang nước mắt lưng tròng: "Đại tướng có chỗ không biết, công chúa Nguỵ triều muốn tìm cái chết, nhất định phải gả cho Vương, Vương thực sự không thể phân thân."

Khang Mạc Già sững sờ, theo hướng ngón tay cậu nhìn lại.

Nhìn từ bên là một vóc người nhỏ yếu xinh đẹp, tươi tắn sáng rỡ, phong thái càng sâu hơn hẻm núi rộ hoa nở đầu xuân.

Đám người chỉ thoáng nhìn ngắn ngủi, đã không khỏi thả nhẹ một hơi.

Dao Anh đón ánh mắt dò xét, hu hu khóc ròng, khóc càng thêm thương tâm.

Khang Mạc Già đã từ miệng tư binh nghe nói chuyện công chúa Nguỵ triều cầu hôn trước vạn quân, nghĩ tư binh phóng đại, giờ phút này gặp được người thật, mới phát hiện thì ra tư binh miêu tả không nổi một nửa sắc đẹp của công chúa Nguỵ triều.

Nhưng mỹ nhân này mắt kém quá, đi coi trọng một người xuất gia không bị sắc đẹp đả động.

Con mắt Khang Mạc Già chợt đảo, cười nói: "Thế gian lại có tuyệt sắc nhường ấy."

Cả đám trố mắt nhìn nhau.

Vương là Phật Tử, ngài bị một mỹ nhân quấn quýt si mê, giây phút xấu hổ bực này, bọn họ có nên đi vào không?

"Tụi tôi không ngăn được công chúa Ngụy triều." Đám thân vệ đều làm ra vẻ lo lắng, "Ngài ấy là phụ nữ, lại là công chúa Trung Nguyên, tụi tôi không dám đả thương ngài, chỉ cần Vương vừa xuất hiện, ngài ấy liền một tấc không rời theo sát Vương, Vương hết cách, chỉ còn cách trốn trong tẩm điện."

Đám người hiểu ý cười khẽ: Được một mỹ nhân tuyệt sắc dây dưa, Vương còn có cách nào? Đổi lại là bọn họ, đã sớm thành chuyện tốt, cũng chỉ có Vương mới chống được cám dỗ này.

Bát Nhã thẳng tắp lưng, nói: "Xin chư vị đại thần về đi, chờ Vương giải quyết xong chuyện cô công chúa Trung Nguyên sẽ tự triệu kiến mọi người."

Khang Mạc Già nhắm cặp mắt lại. Mấy người khác cười ra tiếng, Phật Tử lục căn thanh tịnh, mà cũng gặp chuyện thế này: "Bọn ta chỉ muốn đến xác nhận có phải Vương đã an toàn về thành chưa, Vương an toàn rồi thì, bọn ta cáo lui."

Cả đám nháy mắt với Khang Mạc Già: "Đại tướng, yết kiến bây giờ không phải lúc."

Ánh mắt Khang Mạc Già dừng trên người Dao Anh thật lâu, đáy mắt thoáng một tia lạnh, cùng quay người rời đi.

Mãi đến bóng dáng họ khuất sau cửa cung không thấy nữa, Bát Nhã mới lặng lẽ thở hắt ra.

Ra cửa cung, Khang Mạc Già cáo biệt với đám người, gọi tùy tùng đến: "Báo cho Tiết Tướng quân, trong thành có một mỹ nhân tuyệt sắc đến, hơn nữa còn là một cô gái người Hán."

Tùy tùng nhận lệnh đi đi.

Bát Nhã xác định Đại tướng rời đi thật rồi mới trở lại trước cửa điện, vẻ hơi mờ mịt: "Đại tướng cứ vậy mà đi nhỉ."

Dao Anh đứng lên, phủi nhẹ nước mắt, vén mớ tóc dài.

Đám đại thần không hề lo lắng sự tồn tại của nàng có tổn hại tiếng tăm của Đàm Ma La Già không, mà ngược lại từng người đều biểu lộ vẻ cười khi người gặp họa. Xem ra triều đình của Vương Đình cũng không ổn định, một nước mà Quân chủ đề phòng đại thần trong triều, đại thần thì ngầm mang tâm tư.

Khó trách Đàm Ma La Già vừa chết, Vương Đình liền chia năm xẻ bảy.

Dao Anh trở lại nội điện, trong màn trướng yên tĩnh, chỉ có tiếng nến cháy.

Đàm Ma La Già đã ngủ mê man.

Bát Nhã chạy về trước giường quỳ xuống, quay nhìn Đề Bà Mông Đạt, mặt tràn đầy hi vọng.

Đề Bà Mông Đạt thở dài: "Châm cứu chỉ làm chậm nỗi đau thôi."

Dao Anh gật đầu: "Châm cứu chỉ kéo một thời gian, ngài ấy sẽ không chống đỡ được quá lâu. Người ngài phái đi Trung Nguyên xin thuốc khi nào có thể về Vương Đình?"

Đề Bà Mông Đạt đau xót lắc đầu: "Nhiếp Chính Vương sợ bị lộ tin tức nên chỉ bí mật phái người trà trộn vào đội buôn đi về phương Đông gặp cơ hội tìm thuốc. Trước sau cậu ta phái đi tất cả hơn mươi người, bây giờ đường đi buôn bán đã bị Bắc Nhung cắt đứt, thương đội đi Trung Nguyên không hề có tung tích, duy nhất chỉ một đội bình an trở về là đội đi qua Thổ Phiên, thân vệ đó không mang được dược liệu cần thiết về."

Dao Anh nhớ lại đoạn đường đã qua, đội buôn Vương Đình mà Đại Vương tử Diệp Lỗ tru sát kia rất có thể có thân vệ của Đàm Ma La Già tìm thuốc. Bắc Nhung vắt ngang giữa Tây Vực và Trung Nguyên, đường xá cách trở, Vương Đình muốn từ Trung Nguyên thuận lợi mang thuốc về khó như lên trời, đám thân vệ dữ nhiều lành ít.

Vả lại cũng không kịp.

Dao Anh nói: "Ta biết một nơi ở Tây Vực có Thủy mãng thảo."

Trong mắt Bát Nhã và Đề Bà Mông Đạt đồng thời dâng lên nỗi sợ hãi lẫn vui mừng.

Dao Anh nhìn họ: "Trong doanh địa của Hải Đô A Lăng."

Nàng sinh thiếu tháng, điều dưỡng rất nhiều năm không thể dừng thuốc, vị thuốc chính trong Ngưng lộ hoàn chính là Thủy mãng thảo. Lúc gả đi Diệp Lỗ, của hồi môn nàng đem theo có một lượng lớn dược liệu quý hiếm và một số thuốc viên đã điều chế. Lúc nàng và thân binh chạy khỏi Diệp Lỗ chỉ kịp mang ít Ngưng lộ hoàn, còn lại để lại bộ lạc. Mà cuối cùng, toàn bộ Diệp Lỗ lại về tay Hải Đô A Lăng.

Dao Anh chắc chắn: "Ta nghe ngóng, của cải mà Hải Đô A Lăng vơ vét đều lục tục vận chuyển về giấu ở trong doanh địa."

Con trai Ngõa Hãn Khả Hãn sẽ không vì vài lời đồn mà đánh lén Hải Đô A Lăng, trong doanh địa của y giấu không ít của cải tơ lụa vét từ Trung Nguyên.

Đề Bà Mông Đạt ngơ ngẩn. Dược liệu có thể chữa khỏi Phật Tử đang ở Bắc Nhung?

"Bắc Nhung sẽ không tốt bụng mà đưa ra, chúng ta cũng không thể để lộ mấy vị thuốc đó quan trọng với Vương chừng nào." Bát Nhã đứng lên, mặt ủ dột, "Chúng ta cũng không thể ra tay chiếm đoạt, Vương Đình vừa ký minh ước với Bắc Nhung, không thể tiến đánh chúng."

Đề Bà Mông Đạt lặng thinh, dính đến đại sự nước nhà, xưa nay ông không há miệng.

Bát Nhã gấp gáp đi tới đi lui: "Nhiếp Chính Vương lúc này không có đây! A Sử Na tướng quân cũng không có đây! Một người có thể quyết định đều không có! Nên làm gì đây?"

Dao Anh nhìn Đàm Ma La Già trên giường, nói: "Vương Đình không cần đánh Bắc Nhung đâu, đó là đồ cưới của ta."

Bát Nhã quay nhìn nàng. Dao Anh đi đến trước thư án, cầm bút viết trên gấm lụa một bức thư: "Ta lấy thân phận công chúa Đại Ngụy, yêu cầu Khả Hãn Bắc Nhung trả lại của hồi môn cho ta."

Nàng dừng lại giây lát, nhướng mày ngó Bát Nhã. "Còn Bắc Nhung có thành thành thật thật trả lại hay không thì phải xem thư này là do ai đưa đi. Nếu người đưa tin là Trung quân của Vương Đình, nói không chừng Khả Hãn Bắc Nhung sẽ đích thân đốc thúc Hải Đô A Lăng trả lại."

Bát Nhã hiểu rõ lời nàng.

Vương Đình thay mặt công chúa Ngụy triều tìm Bắc Nhung đòi của hồi môn, không phải tương đương nói rõ ràng với thiên hạ: Phật Tử nhận lời cầu hôn của công chúa Ngụy triều rồi?

Vậy cô người Hán này chẳng phải có thể quang minh chính đại vô lại ngồi lỳ không đi?

"Không được!" Bát Nhã quả quyết lắc đầu.

Dao Anh buông tay: "Giờ tính mạng Phật Tử đang như ngàn cân treo sợi tóc, thuốc duy nhất có thể cứu ngài gần ngay trước mắt, ta vô binh vô tướng, Bắc Nhung sẽ không vì một bức thư của ta mà trả đồ, rốt cuộc nên làm gì, các ngươi tự quyết định."

Dù sao lúc này người cần Thủy mãng thảo không phải nàng.

Mạng Đàm Ma La Già như treo trên sợi tóc là thứ nhất, đám đại thần mới vừa vặn đuổi đi, không quá mấy ngày họ sẽ yêu cầu gặp mặt Quân chủ nữa. Họ không có đường lui.

Vẻ mặt Bát Nhã biến đổi, lúc thì tức giận lúc thì lo lắng rồi do dự, quay lại nhìn Đàm Ma La Già vẫn mê man, vùng vẫy mãi mới nhận tin từ tay Dao Anh. "Cô gái Hán kia, ngươi dám thề lời ngươi nói đều là thật không?"

Dao Anh cười khì, nhìn Đề Bà Mông Đạt: "Pháp sư, từng câu ta thực lòng."

Đề Bà Mông Đạt chắp tay trước ngực: "Bần tăng tin tưởng công chúa." Nói rồi gật đầu với Bát Nhã nói mấy câu tiếng Phạn.

Bát Nhã siết chặt tin, ngón tay dùng sức đến vặn vẹo, nhướng cổ: "Được! Ta đi Vân Phù Thành tìm công chúa Xích Mã và A Sử Na tướng quân thương lượng, nếu công chúa và tướng quân cũng đồng ý, ta tự mình đi đưa thư!" Cậu cắn răng, quay người xông ra ngoài.

Thân binh khác dẫn Dao Anh đến một gian phòng khác ở thiên điện, Đề Bà Mông Đạt áy náy nói: "Mong công chúa thứ lỗi, chuyện Phật Tử bệnh tình nguy kịch không thể truyền ra."

Dao Anh hiểu điều cố kỵ, cười lắc đầu, ra hiệu không việc gì. Giờ đây họ là người cùng thuyền, nàng cũng hy vọng Đàm Ma La Già có thể vượt qua cửa ải khó khăn này.

Hy vọng từ Bắc Tây Vực về lại Trung Nguyên của nàng gửi gắm vào người ngài ấy.

Bát Nhã cưỡi ngựa ra Thánh Thành, thẳng tiến Vân Phù Thành, nửa đường vừa vặn gặp Xích Mã công chúa hướng đối diện đang về Vương Đình.

Trên đường cái cát bụi cuồn cuộn, đi đầu đội xe là một thanh niên mũi cao mắt sâu, cao lớn mạnh mẽ cưỡi tuấn mã, hông đeo trường đao, một thân trường bào gấm màu lam cánh tay thêu khổng tước, chân mang ủng cao, đai lưng dắt một thanh dao găm ngắn, khoác choàng trắng thêu chỉ vàng ngắn tay, là y phục tướng của Trung quân Vương Đình.

Bát Nhã nghênh đón: "Tướng quân A Sử Na!"

A Sử Na Tất Sa nhận ra Bát Nhã, nới lỏng dây cương, đôi mắt màu xanh biếc hiện lên vẻ lo lắng: "Sao ngươi lại rời khỏi Vương?"

*Mai quỡn: tên của anh í được lấy từ tiếng Suguda, cổ Ba Tư, rất có nội hàm. Ý nghĩa: người đặc sắc – rất ưu nhã rất cao quý rất có ý nghĩa!

Bát Nhã ruổi ngựa tiến lên, nức nở: "Pháp sư Đề Bà Mông Đạt nói, Vương không cầm cự được mấy ngày nữa!"

A Sử Na Tất Sa ngẩng đầu nhìn về hướng Vương Đình, chực trào nước mắt, tay nắm thành quyền.

Bát Nhã quệt khóe mắt, lấy bức thư Lý Dao Anh ra: "Giờ chỉ có tìm Thủy mãng thảo mới cứu được Vương, công chúa Ngụy triều này nói trong đống hồi môn của cô ta có Thủy mãng thảo, Vương tử Bắc Nhung Hải Đô A Lăng đã cướp mất, chúng ta phải đoạt về thì mới lấy được mấy dược liệu." Cậu tóm tắt mấy câu.

Giữa lúc hai người trò chuyện, đội xe dừng lại, tóc đỏ mắt nâu, lụa mỏng che mặt Xích Mã công chúa được thị nữ đỡ xuống xe, khẽ cau mày hỏi: "Sao dừng xe lại?"

Tất Sa ra hiệu thị nữ lui xuống, nói rõ chuyện Thủy mãng thảo cho Xích Mã công chúa.

Bát Nhã gấp gáp cào đầu: "Công chúa, giờ nên làm gì đây? Thử cách của cô công chúa Ngụy triều được không? Pháp sư nói, lúc trước nếu không phải công chúa Ngụy triều giúp ngài giấy thông quan, còn hào phóng tặng ngài người ngựa đi đường, ngài ấy không thể nào vượt qua tầng tầng phong tỏa mà đi Vương Đình, ngài nói mọi việc đây đều là Phật an bài."

Tất nhiên cậu phẫn nộ vì Lý Dao Anh khinh bạc Phật Tử nhưng sống chết trước mắt, cậu thà tin mọi thứ giống như truyền thuyết: Phật Tử là A Nan, công chúa Ngụy triều chính là Ma Đăng Già Nữ của Phật Tử, nàng là do Phật phái tới để khảo nghiệm Phật Tử.

Vậy chứng tỏ Phật Tử còn cứu được, A Nan cuối cùng vượt qua khảo nghiệm, Phật Tử cũng có thể!

Thư của Dao Anh viết bằng chữ Hán và chữ Đột Quyết, Tất Sa là hậu duệ của Vương tộc Đột Quyết, dĩ nhiên nhận ra tiếng Đột Quyết. Hắn cúi đầu xem tin, lông mày xoắn lại trầm ngâm.

Xích Mã công chúa lạnh lùng quét mắt Bát Nhã một vòng, cả giận nói: "La Già là Vương tử Vương Đình, là Phật Tử cao quý, sao có dính dáng đến gái Hán thế!"

Tất Sa nghe vậy, ngẩng đầu, ánh mắt lạnh lùng: "La Già bệnh nặng, chỉ có An tức hoàn mới tạm làm chậm nỗi đau của ngài ấy."

Xích Mã công chúa cười lạnh: "Đàm Ma ta một tộc trên dưới hơn hai trăm người chết dưới tay người Hán, người Hán là kẻ địch của Vương Đình, ta hận không thể ăn sạch thịt chúng! Uống cạn máu chúng! La Già là Quân chủ của Vương Đình, nó không được quên nợ máu đó!"

Bát Nhã nhớ tới thân thế của Đàm Ma La Già, không dám lên tiếng. Tất Sa mặt không đổi sắc, thúc ngựa chuyển hướng, "Công chúa, người biết vì sao La Già bảo ta đưa người đi Vân Phù Thành không?"

Xích Mã công chúa không lên tiếng.

Tất Sa nhét tin vào ngực, chậm rãi nói: "Ta là kỵ sĩ của Trung quân, đáng lý nên theo sát hộ giá, La Già sợ lần này ngài không giữ được Vương Đình, lo cho người sẽ bị Bắc Nhung khi dễ, bảo ta đưa người đi Vân Phù Thành, mãi đến khi ký minh ước xong với Bắc Nhung mới để người về. Có minh ước rồi, dù ngài sống hay chết, trước sau người đều là công chúa nhà Đàm Ma, dù thành phá, Ngõa Hãn Khả Hãn cũng sẽ đối xử tử tế với người." Hắn dừng một lát, quay nhìn Xích Mã công chúa. "Giờ tính mạng của La Già đang như ngàn cân treo sợi tóc, chỉ có thuốc của công chúa người Hán mới cứu được ngài, người chỉ nhớ thù hận với người Hán mà không suy nghĩ chút nào cho La Già à? Mấy năm qua ngài ấy sống ra sao, người cũng thấy rồi đó."

Xích Mã công chúa không nói, khuôn mặt dưới khăn che mặt lạnh như sương.

Tất Sa giục ngựa đi đến trước đội, gọi phó tướng đưa tín vật của mình: "Phái người đưa công chúa về thành. Ngươi đi triệu tập người ngựa đợi hiệu lệnh của ta ở Sa Thành. Ta đưa phong thư này đi Bắc Nhung."

Hắn chuyển sang tùy tùng của mình, "Nếu Bắc Nhung không nhận nợ, ta tự mình dẫn Trung quân đi nha trướng Bắc Nhung đòi lại của hồi môn của công chúa Ngụy triều! Trung quân Vương Đình vĩnh viễn trung thành với Phật Tử!"

"Trung với Phật Tử!" Đám người cao giọng nghe lệnh, vang rung tận trời.

Bát Nhã đuổi sát Tất Sa: "Cần cho người đi Cao Xương báo Nhiếp Chính Vương không?" Quyền hành quân chính ở Vương Đình nằm trong tay Nhiếp Chính vương Tô Đan Cổ.

Tất Sa cứng người, nhẹ thở dài: "Không cần, Tô Đan Cổ không ở Cao Xương... Nếu hắn ở đây cũng sẽ quyết định như ta. Phật Tử hi sinh nhiều cho Vương Đình như vậy... Chỉ cần cứu Phật Tử, mọi tội lỗi ta gánh chịu."

Nếu tin là giả, hắn có nắm chắc toàn thân trở ra không.

Nếu tin là thật, dù cược tính mạng cũng phải cướp Thủy mãng thảo về!

Bát Nhã vâng đáp: "Công chúa Ngụy triều nói, nàng sẽ nghĩ kỹ danh sách rồi giao tùy tùng đưa đến Trung quân, nếu Bắc Nhung muốn quỵt nợ, tùy tùng nàng ấy có thể xác nhận với Vương tử Bắc Nhung, nàng ấy từng bị Vương tử Bắc Nhung cầm tù, tùy tùng kia biết chỗ giấu của cải."

Tất Sa nhíu mày, hắn định đi lấy Thủy mãng thảo, cũng không nghĩ tới. "Vị công chúa Ngụy triều này rất thông minh."

Bát Nhã khinh miệt bĩu môi.

Tất Sa không dám chậm trễ, ra roi thúc ngựa, không tới mấy ngày tìm đến nha trướng của Ngõa Hãn Khả Hãn, đơn thân độc mã xông vào đại doanh Bắc Nhung, dâng tin. Ngõa Hãn Khả Hãn vừa mới rời Sa Thành đang chuẩn bị đi Tây Châu, xem xong thư, hết sức kinh ngạc.

A Lăng giam một vị công chúa Ngụy triều hồi nào thế?

Tất Sa đứng trước mặt Ngõa Hãn, đúng mực nói: "Bảo Hải Đô A Lăng ra đối chất với ta! Tùy tùng của công chúa Ngụy triều đang ở Sa Thành, bọn họ có thể làm chứng, Hải Đô A Lăng giam giữ khách của Vương Đình bọn ta cả nửa năm! Còn giữ hồi môn của công chúa nữa! Vương Đình ta chưa từng làm khó thương đội Bắc Nhung, dù hai nước đang giao chiến, thương đội Bắc Nhung cũng có thể đi Thánh Thành trao đổi hàng hóa, Đại Hãn, xin ngài tuân thủ minh ước, trả lại của hồi môn cho công chúa."

Mấy vị Vương tử vừa vặn cũng đang ở trong trướng, nghe vậy, trao đổi ánh mắt.

Tiểu Vương tử đi đến cạnh Ngõa Hãn nhỏ giọng nói: "Phụ Hãn, cách đây không lâu đúng là Hải Đô A Lăng giấu một mỹ nhân tuyệt sắc trong doanh địa, con nghe nói mỹ nhân đó do anh ta bắt từ Trung Nguyên, không ngờ là một vị công chúa."

Mặt Ngõa Hãn Khả Hãn trầm xuống.

Tiểu Vương tử cười lạnh mấy tiếng: "Phụ Hãn, Hải Đô A Lăng lòng lang dạ thú, ngài còn không tin sao? Anh ta giấu không phải mỹ nhân bình thường, mà là đích công chúa Ngụy triều, là khách của Phật Tử Vương Đình! Anh ta giấu diếm ngài lâu như vậy, lòng tham không nhỏ! Còn nữa, thân là Vương tử Bắc Nhung mà gom góp của cải! Là muốn tạo phản chăng?"

Con ngươi màu nâu nhạt của Ngõa Hãn Khả Hãn lạnh lùng nhìn thằng con.

Sắc mặt Tiểu Vương tử tái nhợt.

Ngõa Hãn Khả Hãn thu hồi tầm mắt, tia nhìn lấp lóe mấy lần, nhanh chóng ra quyết định, nhìn Tất Sa cười ha ha: "Không hổ là con cháu A Sử Na, quả nhiên anh dũng! Chắc là hiểu lầm thôi." Dứt lời, sai người mời Hải Đô A Lăng.

Chỉ lát sau, Hải Đô A Lăng đến, nhìn thấy Tất Sa tóc vàng mắt xanh dáng vẻ lẫm liệt, con ngươi màu vàng nhạt hơi nheo lại.

Ngõa Hãn ôn tồn hỏi: "Lang nô, ngươi từng giam giữ công chúa Ngụy triều à?"

Từ giây phút Lý Dao Anh được Đàm Ma La Già cứu, Hải Đô A Lăng biết cô gái ấy sẽ không từ bỏ, thấy Tất Sa tìm tới cửa, biết đương nhiên gạt không được, không phủ nhận, ngả ngớn hỏi: "Hiện giờ không phải công chúa Ngụy triều đang ở bên Phật Tử à? Sao nào, Phật Tử đây là muốn vì một người phụ nữ mà trở mặt với Bắc Nhung chăng?"

Vẻ mặt Ngõa Hãn Khả Hãn vẫn hòa hoãn nói: "Lang nô, ta đã ký minh ước với Quân chủ Vương Đình, còn lập lời thề sẽ không làm khó gia quyến đối phương. Công chúa Ngụy triều ngưỡng mộ Quân chủ Vương Đình, ngàn dặm xa xôi theo đến, đồ cưới cô ta bị ngươi giữ lại, nên Quân chủ Vương Đình cho người đến đòi, ngươi xem nên làm gì?"

Vẻ mặt ông hiền hoà, trong mắt thậm chí còn có mấy phần ý cười, nhưng người có mặt đều hiểu nụ cười của Đại Hãn đại biểu cho cái gì.

Đám người trong trướng mồ hôi đầm đìa.

Hải Đô A Lăng tức điên trong lòng nhưng trên mặt vẫn cung kính, không hề do dự, chỉ thuận theo nói: "Dĩ nhiên là trả lại đủ số rồi."

Ngõa Hãn Khả Hãn gật đầu, nụ cười tràn đầy nhưng đáy mắt lại có một chút âm đọc lướt qua.

Hải Đô A Lăng nhìn Tất Sa, đột ngột đổi chủ đề, "Xin hỏi Quân chủ Vương Đình lấy thân phận gì đến đòi đồ cưới của công chúa Ngụy triều?"

Tất Sa bình tĩnh nói: "Công chúa Ngụy triều nguyện gả cho Vương chúng ta."

Hải Đô A Lăng khẽ nhếch khóe miệng: "Ồ, thế nên Vương các ngươi định phá giới chăng?"

Tất Sa khoanh tay đứng: "Vương là người xuất gia, không thể cưới công chúa, công chúa cũng không đòi hỏi, tự nguyện làm cô gái Ma Đăng Già, tu tập vì Vương, Vương đã nhận lời, đây cũng là khảo nghiệm của Phật với ngài ấy."

Con ngươi Hải Đô A Lăng chợt co rút: Đàm Ma La Già thật sự nhận lời cầu hôn ngày đó của Lý Dao Anh?

Nhận Lý Dao Anh vào chùa tu tập, không phải nghĩa là giấu mỹ nhân bên cạnh sao?! Hắn không sợ tin tức truyền khắp Vương Đình, lòng người dao động sao?

Hải Đô A Lăng nhanh chóng suy tính: Lúc trước Khả Hãn Diệp Lỗ chỉ mới thoáng thấy Lý Dao Anh đã dùng Lương Châu để cầu hôn, y khuyên thế nào đều vô dụng. Mấy vương tử Diệp Lỗ sau đó thấy lý Dao Anh cũng thèm thuồng muốn rớt cả mắt. Chính hắn đây, cũng vì sắc đẹp của Lý Dao Anh mà phá lệ kiên nhẫn với nàng.

Chả nhẽ Đàm Ma La Già cũng bị sắc đẹp Lý Dao Anh mê hoặc?

Y đúng là đã xem thường cô gái kia, cứ nghĩ đưa nàng ta ra Tây Vực ngoài tám ngàn dặm sẽ khiến nàng ta triệt để tuyệt vọng, mà thành thật thần phục, không ngờ nàng ta quen biết Phật Tử, ngay cả Phật Tử giờ cũng khuynh đảo vì nàng.

Hải Đô A Lăng thầm cười lạnh. Đã thế, y càng muốn chiếm được cô gái này.

Tất Sa đạt được lời hứa của Ngõa Hãn Khả Hãn cũng không dây dưa lâu, cáo từ rời đi.

Bóng lưng anh ta vừa mới biến mất sau màn cửa, Hải Đô A Lăng lập tức cúi lạy Ngõa Hãn Khả Hãn, vẻ đầy xấu hổ: "Lúc chất nhi còn ở Trung Nguyên, gặp vị công chúa Ngụy triều kia tuyệt sắc nhân gian liền bắt về trong trướng, định kính hiến cho Đại Hãn, ai ngờ cô ta có liên quan đến Phật Tử, nửa đường chạy mất. Chất nhi trước lớn mật làm bậy, sau lại vô năng, xin Đại Hãn trách phạt!"

Đám người trong trướng trợn trắng mắt. Ngõa Hãn Khả Hãn lặng thinh không nói. Hải Đô A Lăng quỳ trên mặt đất, không nhúc nhích.

Một sự yên lặng như vùng nước sâu.

Sau một lúc lâu, Ngõa Hãn Khả Hãn đứng dậy, đỡ Hải Đô A Lăng dậy, sâu xa nói: "Được rồi, ngươi đây là lòng có hiếu."

Hải Đô A Lăng ra vẻ hết sức lo sợ: "Đa tạ Đại Hãn thông cảm!"

Ngõa Hãn Khả Hãn vỗ vỗ bờ vai y, cười cười, "Mấy năm nay chư quốc Tây Vực dâng mỹ nhân bảo vật đếm không hết, Phật Tử chưa hề động tâm, giờ chỉ vì của hồi môn của một người phụ nữ mà hắn lại làm to chuyện, xem ra ánh mắt của ngươi rất tốt, vị công chúa Ngụy triều đúng là tuyệt sắc."

Mi tâm Hải Đô A Lăng run rẩy, cười lạnh: "Là mỹ nhân quốc sắc thiên hương đó ạ."

Ngõa Hãn Khả Hãn gật đầu: "Lang nô, dù mỹ nhân kia là từ đâu tới, cũng mặc kệ ngươi có cam tâm nhường mỹ nhân cho người không, giờ đây mỹ nhân đã thành người của Phật Tử, hẳn sẽ có trướng ngại cho thanh danh hắn, với Bắc Nhung ta chỉ có chỗ tốt."

Hải Đô A Lăng cúi đầu, trên khuôn mặt tuấn lãng mây đen bao phủ: "Chất nhi hiểu ạ, chất nhi không chỉ không thể ngăn cản Vương Đình ra mặt cho cô gái kia mà còn nên đem chuyện đại sự này rêu rao ra ngoài, tốt nhất để từng người đều biết Phật Tử thánh khiết cam tâm trầm luân vì một cô gái người Hán."

Ngõa Hãn Khả Hãn thỏa mãn gật đầu.

Cha con, chú cháu mấy người ở trong lều bàn một hồi, Hải Đô A Lăng cáo lui ra ngoài.

Tiểu Vương tử lập tức nhảy dựng: "Phụ Hãn! Hải Đô A Lăng nói bậy! Anh ta giấu giếm thân phận công chúa Ngụy triều là vì không muốn giao mỹ nhân ra đó! Phụ Hãn là người anh dũng nhất đời, đàn bà đẹp nhất dưới gầm trời này phải nên đưa đến giường Phụ Hãn chứ, Hải Đô A Lăng giấu riêng mỹ nhân là bất kính với ngài!"

Ngõa Hãn Khả Hãn mở to mắt, giận dữ mắng: "Bây là con trai của Thần Lang, trong người là máu của thần Lang chảy! Sao lại như đàn bà vô tri, ngay trước mặt cha mình mà châm ngòi ly gián?"

Tiểu Vương tử hừ nhẹ, ngượng ngùng ngậm miệng. Ngõa Hãn Khả Hãn nhìn một vòng, nhìn tâm phúc giữ cạnh màn cửa.

Tâm phúc nhỏ giọng nói: "Vương tử Hải Đô A Lăng trực tiếp về trướng, không dừng lại."

Ngõa Hãn Khả Hãn khẽ vuốt cằm.

Tiểu Vương tử tỉnh táo lại, chảy mồ hôi lạnh kinh sợ ướt sũng cả người.

Ngõa Hãn Khả Hãn nhìn thằng con, lắc đầu: "Bây quá non nớt, không phải đối thủ của Lang nô, Lang nô là đứa nhỏ sói nuôi lớn, sói dạy nó đi săn, ta dạy nó lãnh binh chiến đấu, giờ nó vẫn còn trẻ, lỗ mãng, kiêu ngạo, đến lúc nó chân chính trưởng thành, chắc chắn sẽ thay thế ta."

Tiểu Vương tử cứng cổ: "Con cũng là con được Phụ Hãn dạy dỗ mà!"

Ngõa Hãn Khả Hãn chỉ liếc mắt nhìn trời.

Ngài là một con sói đầu đàn hung mãnh của một tộc đàn lớn mạnh, nuôi lớn một bầy con, dẫn tộc nhân thống nhất thảo nguyên, ngài cảm thấy mình còn rất khỏe mạnh, còn tiếp tục chinh phạt được. Nhưng mà đám sói trẻ đã đợi không kịp, chúng đều muốn khiêu chiến với sói đầu đàn ngài, trở thành sói đầu đàn mới.

Kẻ mạnh là vua.

Các con ngài cũng là sói, đáng tiếc chúng quá ngu xuẩn, hẳn sẽ chết trong tay Hải Đô A Lăng đang muốn trở thành sói đầu đàn.

Ngõa Hãn Khả Hãn cũng không ghét Hải Đô A Lăng khiêu chiến, nhưng ông không thích Hải Đô A Lăng giấu giếm tâm tư. Bức thư từ công chúa Ngụy triều đã thức tỉnh ông, Hải Đô A Lăng vụng trộm chiếm đoạt Hà Lũng, Bắc Mạc, giữ riêng ngựa và binh khí, nuôi dưỡng tư nô, dã tâm của nó rốt cuộc lớn đến bực nào?

Ngõa Hãn Khả Hãn trầm ngâm hồi lâu. Ông đang đề phòng sói con được chính sói nuôi lớn.

Hôm nay ông bức bách Hải Đô A Lăng trả lại đồ cưới cho công chúa Ngụy triều, giữa Hải Đô A Lăng và Phật Tử Vương Đình kết tử thù, nếu sau này thật sự Hải Đô A Lăng phản loạn, mấy đứa con nhu nhược vô dụng của ông có thể chạy trốn tới Vương Đình tránh họa.

Trong lòng Ngõa Hãn Khả Hãn không khỏi cảm thán, đời này người ông kiêng kỵ nhất là Đàm Ma La Già, người muốn đánh nhất bại nhất cũng là hắn, người tín nhiệm nhất... haizzz cũng là hắn.

Phật Tử là chân quân tử, sẽ không giết hại thần dân ông.

...

Tất Sa từ đại trướng ra, lập tức cho người đi Sa Thành báo tin.

Thân binh đã đuổi tới Sa Thành, nghe thấy bèn mang danh sách Dao Anh tự tay viết vào doanh địa kiểm kê đồ cưới, phó tướng Trung quân phái ra hai trăm người hộ tống bọn họ.

Lúc Hải Đô A Lăng nhìn thấy thân binh cầm danh sách, con mắt hẹp dài màu vàng óng lạnh lùng nhìn thân binh chằm chằm, hẩy khóe môi phẩy tay áo bỏ đi.

Tất Sa dẫn người áp giải đồ cưới. Ra khỏi doanh địa, thân binh lập tức tìm từng rương dược liệu, nộp hết cho Tất Sa. Tất Sa cầm thuốc phi ngựa nhanh hết mức chạy về Thánh Thành.

...

Dao Anh và mấy thân binh còn lại vẫn bị giam giữ, có điều đổi qua căn phòng rộng rãi sáng sủa hơn. Đề Bà Mông Đạt bốc thuốc cho Tạ Thanh, được chăm sóc thích đáng, vết thương nàng rốt cục từ từ phục hồi, sắc mặt ngày càng tốt.

Dao Anh đếm từng ngày, nghĩ thầm hẳn Bát Nhã đã cầm tới Thủy mãng thảo, không biết Đàm Ma La Già có chuyển biến tốt đẹp không.

Hôm đó, nàng đang cùng học tiếng Phạn với tiểu sa di trông chừng mình, đệ tử Pháp sư bỗng vội vã đi vào viện, mời nàng tranh thủ thu dọn đồ đạc, đi viện tử của Đề Bà Mông Đạt tránh né mấy ngày.

"Sao thế?"

Giọng đệ tử phát run: "Công chúa đi theo tôi là được, là Pháp sư căn dặn."

Dao Anh tin Đề Bà Mông Đạt sẽ không hại mình, theo đệ tử đi, vừa bước xuống thềm đá, cửa sân đã bị người chặn.

Có người cao giọng la lối bằng tiếng Hồ, các sư ra sức ngăn cản, họ vẫn lớn tiếng quát, đập cửa gỗ váng trời. Thấy cửa bị phá nát, đệ tử hoảng sợ đưa Dao Anh lui về phòng: "Ngoài đó là Tiết Duyên Na tướng quân! Gã dẫn người xông vào!"

Dao Anh nhíu mày hỏi: "Sao Tiết Tướng quân lại xông vào đây?"

Mấy hôm nay nàng luôn ở thiên điện trong Vương cung, bắt chuyện với các nhà sư, nghe ngóng rất nhiều chuyện của Vương cung, đã từng nghe về Tiết Duyên Na.

Vương Đình xưa nay do họ Đàm Ma thống trị, mấy mươi năm trước, Đàm Ma suy sụp, thế gia nắm giữ triều đình. Đàm Ma La Già năm đó năm tuổi, thị tộc Trương thị tàn nhẫn tru sát Đàm Ma thị để thay thế, dân chúng Vương Đình ca thán sôi trào, Trương thị bất đắc dĩ đành phải giữ lại chị em Xích Mã công chúa và Đàm Ma La Già.

Đàm Ma La Già đăng cơ tuổi thiếu niên, bị Trương thị cầm tù trong Phật Tự tu tập Phật pháp. Mãi đến năm mười ba tuổi, Bắc Nhung xâm lấn đầy quy mô, thế gia bỏ thành chạy, đức Vương bù nhìn này lấy thân là Phật Tử dẫn Trung quân đánh lui Ngõa Hãn Khả Hãn, danh chấn Tây Vực, uy vọng chưa từng có, thừa cơ đoạt lại vương quyền. Sau đó, Đàm Ma La Già chèn ép thế gia, thu lại vương quyền, bổ nhiệm tùy tùng Tô Đan Cổ là Nhiếp Chính Vương, vừa nghiên cứu Phật pháp, vừa giáo dưỡng dân chúng, danh vọng ngày hưng thịnh.

Nhưng đám đại thế gia Vương Đình vẫn không cam lòng thất thế. Tướng quốc Khang Mạc Già, đại tướng quân Tiết Duyên Na, thống lĩnh Hữu quân An Du Nhạc, phụ quốc Mạnh Vân Hán và mấy gia tộc lớn sau lưng bất mãn với Đàm Ma La Già đối xử tử tế với các bộ tộc khác, thường thầm than phiền.

*Mai: truyện hư cấu lịch sử, đang sử dụng mấy họ Khang, An, Mạnh,...phổ biến của người Hồ.

Đàm Ma La Già là Phật Tử, đời này không thể lấy vợ, huyết mạch Vương thất chỉ còn lại ngài và Xích Mã công chúa, Vương Đình không có người thừa kế, mấy năm nay bệnh tình ngài ngày càng nặng, dù cố hết sức giấu diếm vẫn lọt phong thanh, tâm tư đám thế gia càng linh động.

Trong đó, Tiết Duyên Na ngang ngược táo bạo nhất, dường như chưa từng che giấu ý đồ không tốt. Tính gã thích câu dẫn sắc đẹp, thường xuyên làm nhục nữ nô, vì ngược sát nô lệ người Hán nô lệ mà từng mấy lần xung đột với Đàm Ma La Già.

Không biết nghe ở đâu rằng Dao Anh ở trong Vương cung, mấy ngày trước tìm tới, la hét muốn gặp mỹ nhân như tiên. May Dao Anh lanh trí, đang ngồi giải khuây trên lầu các thấy gã người Hồ to cao đen hôi như gấu ở bên ngoài tò mò, biết kẻ đến không có gì tốt, lập tức nhắc nhở mấy sư đi mời Đề Bà Mông Đạt. Ông kịp thời đến khuyên Tiết Duyên Na rời đi và cho tăng cường trông chừng các nơi.

Sau Tiết Duyên Na còn đến mấy lần, gặp thủ vệ và mấy sư nghiêm khắc, không xông vào. Hôm nay gã lại trực tiếp dẫn người vào nội viện định xông vào tới nơi.

Đệ tử gấp gáp mồ hôi đầy đầu: "Tiểu tăng cũng không biết gã vào bằng cách nào!"

Phịch một tiếng, cửa gỗ phá nát, tiếng người Hồ quát tháo ngày càng gần.

Đệ tử thất kinh: "Pháp sư đi phòng trữ thuốc lấy thuốc, ít nhất phải nửa canh giờ mới đến được!"

Dao Anh quyết định thật nhanh: "Đi lầu các, nơi đó có mấy gian bí mật, tránh mặt trước."

Ngày đầu nàng bị giam giữ đã đi khắp để quen thuộc địa hình, phòng tình huống khẩn cấp có thể tạm thời tránh né.

Mấy thân binh đuổi theo Dao Anh, trèo lên lầu các trốn vào mật thất, căn phòng này vốn dùng để làm tháp canh, sau bỏ xó, hành lang thông tới mấy tầng giấu ở góc hẻo lánh chật chội, bình thường không nhìn kỹ sẽ không để ý.

Tạ Thanh canh cạnh cửa, lắng nghe động tĩnh dưới lầu, ngón tay đặt trên chuôi đao. Dao Anh đè tay nàng lại: "Giờ chúng ta đang ở Vương cung Vương Đình, không phải vạn bất đắc dĩ, đừng đả thương người."

Đối mặt một Tiết Duyên Na thì họ có thể tự vệ, nhưng Tiết Duyên Na là trọng thần Vương Đình, hơn nữa Tiết gia có mấy vạn kỵ binh Tả quân đều là người nước khác, họ đang ở Vương Đình không thể gây chuyện.

Tạ Thanh gật đầu.

Dưới lầu bát nháo la hét ầm ĩ, chỉ sau chốc lát, nghe Tiết Duyên Na nổi giận rống lên: "Công chúa người Hán đâu?"

Không ai đáp.

Mấy sư đứng dưới hiên, chắp tay trước ngực, cúi đầu tụng kinh văn.

Vương Đình sùng Phật, họ là tăng nhân, Tiết Duyên Na to gan mấy cũng không dám nhấc đao lên người các sư.

Tiết Duyên Na dẫn binh tìm một vòng trong viện tử không thấy bóng dáng Dao Anh, giận tím mặt, một đao chém nát cửa gỗ, rống to: "Ai dám giấu cô gái Hán, ta vặn đầu hắn!"

Trên lầu các, Dao Anh rất gấp. Họ sẽ không tránh được bao lâu, cũng không biết chừng nào Đề Bà Mông Đạt mới đến.

Tiết Duyên Na xách trường đao đi qua đi lại, cặp mắt sắc bén vòng đi vòng về, ánh mắt dừng lại trên lầu các. Đám đệ tử tăng nhân không kìm lòng hơi run.

Tiết Duyên Na nhe răng cười, co cẳng xông lên lầu hai.

Lúc này, đột nhiên hướng cửa sân vang lên tiếng bước chân dồn dập.

Thường cùng đứng cạnh Bát Nhã là cận vệ Trung quân Duyên Giác bước nhanh vào viện tử, lạnh lùng quét mắt một vòng tìm binh sĩ rồi nhìn về phía Tiết Duyên Na trên bậc thang.

"Tiết Tướng quân, Vương triệu kiến ngài."

Tiết Duyên Na tiếp tục bước lên.

Duyên Giác cao giọng: "Tiết Tướng quân, ngài nhớ Nhiếp Chính Vương xử lý chú ngài thế nào không?"

Bầu không khí thoáng chốc ngưng trệ, binh sĩ trong viện nhìn nhau.

Tiết Duyên Na đột nhiên dừng bước, khí thế cuồng nộ đầy người thu lại mấy phần, quay người đi xuống cầu thang, liếc nhìn một vòng, ánh mắt dừng trên mặt Duyên Giác.

"Nhiếp Chính Vương từ Cao Xương về rồi à?" Giọng gã có ý thăm dò.

Duyên Giác lạnh lùng nói: "Hành tung của Nhiếp Chính Vương nào để chúng ta nghe ngóng?"

Trên mặt Tiết Duyên Na lộ ra vẻ kiêng kị, nghĩ rồi tức giận tra đao vào vỏ: "Vương thân là Phật Tử, vậy mà lại giấu gái Hán xinh đẹp trong Vương cung, tâm Phật không thành! Ta đi gặp Vương hỏi cho rõ!" Nói xong, nghênh ngang rời đi.

Duyên Giác ở lại, ngẩng đầu cất cao giọng: "Văn Chiêu công chúa, Vương mời ngài đi chính điện."

Dao Anh từ chỗ nấp đi tới, nhìn Duyên Giác: "Bát Nhã và Tướng quân A Sử Na đem thuốc về rồi à?" Đàm Ma La Già triệu kiến Tiết Duyên Na có phải chuyển biến tốt hơn rồi?

Duyên Giác lắc đầu, da mặt căng cứng, giọng khẽ run lại có xót xa và bối rối: "Mãi không có tin tức, các sư trong chùa đều đã đến."

Các sư đến để làm Pháp sự cho Quân chủ bọn họ.

Dao Anh nhẹ thầm thở dài —— không phải vì mất đi sự che chở mà buồn rầu chỉ đơn thuần tiếc thương cho Đàm Ma La Già.

Ngài thiên tư thông minh, nổi tiếng khắp Tây Vực, vốn có thể làm một vị cao tăng xa rời trần thế nhưng khi Bắc Nhung tiến đánh Thánh Thành, thế gia đã bỏ thành đào vong, Phật Tử lại thừa dịp loạn ra mặt, các sư đã khuyên ngài đi xa tránh họa nhưng thiếu niên ấy quả quyết cự tuyệt, dẫn Trung quân bảo vệ Vương Đình, cứu vớt mấy vạn bách tính. Dao Anh nhìn thấy trên người Đàm Ma La Già bóng dáng rất nhiều người, nàng nhớ tới Cậu Tạ Vô Lượng, Chu thị, từng chí sĩ yêu nước lớp trước ngã xuống lớp sau tiếng lên trong thời loạn.

Dù là Trung Nguyên hay Tây Vực, mỗi khi sơn hà vỡ vụn, lê dân đồ thán, luôn có anh hùng dứt khoát đứng ra, dùng máu thịt của họ để đem lại cho kẻ yếu một hi vọng sống.

Đàm Ma La Già là một vị cao tăng chân chính, không chỉ có thành tựu Phật pháp cực sâu, còn dùng cả đời đưa tín ngưỡng của ngài đến thực tiễn, bảo vệ vạn dân, phổ độ chúng sinh.

Đáng tiếc căn bệnh quái ác quấn lấy, đã định trong mệnh mất sớm khi còn trẻ.

Trước kia Dao Anh chưa gặp Đàm Ma La Già, không cảm thấy gì, giờ chính là người vừa mới cứu nàng không lâu sắp chết đi, vô thức trong lòng nàng sinh mấy phần thẫn thờ.

Nàng mang mạng che mặt, đi theo Duyên Giác đến chính điện.

Tiết Duyên Na và đám binh sĩ đi trước mặt bọn họ, đang từng bước mà lên bậc thang.

Cửa chính điện đóng chặt, chỉ mở một khe nhỏ bên cửa hông, sư tăng người mặc áo cà sa nửa cánh tay, thông vai, từ hai bên hành lang lần lượt vào điện.

Tiết Duyên Na một hơi leo lên đài, cả giận: "Vương đã triệu kiến ta sao còn không mở cửa?"

Không ai trả lời gã, đột nhiên vang tiếng bước chân, hai đội kỵ sĩ Trung quân áo lam bào trắng từ bốn phương tuôn ra, xuống hành lang, vây Tiết Duyên Na và tùy tùng vào chính giữa.

Tiết Duyên Na cười lạnh: "Ta phạm vào tội gì?"

Các kỵ sĩ lặng thinh không nói.

Tiết Duyên Na hừ lạnh, tiếp tục tiến lên: "Cút!"

Bỗng một luồng sáng vàng lóe lên, một bóng đen gầy thoăn thoắt từ trên trời phóng xuống, như tia chớp nhào tới Tiết Duyên Na.

Trên đài cao yên lặng một chốc, rồi vang lên tiếng gào thảm thiết xé lòng.

Cách đó không xa Dao Anh giật nảy mình, vô thức lùi nửa bước.

Tiết Duyên Na vẻ đầy hoảng sợ, tay trái máu me đầm đìa, giữa đám tùy tùng đông đúc lảo đảo lùi lại, lại bị kỵ sĩ áo lam ép quay về chỗ. Gã nhịn đau ngẩng nhìn bốn phía, gương mặt co rút mấy lần, trong hốt hoảng nhấc đao chém lung tung.

Bóng đen đứng thẳng dậy vọt lên, linh hoạt tránh đi trường đao, há cái mồm rất to đầy máu, cắn kẻ tùy tùng cạnh gã. Người tùy tùng ngã nhào xuống đất chưa kịp kêu đã co quắp toàn thân, máu tươi tràn ra từ cuống họng, không còn hơi thở.

Mấy tùy tùng khác suýt nữa không cầm nổi đao, vây chặt quanh Tiết Duyên Na, mặt trắng bệch.

Bóng đen trên đất buông gã tùy tùng ra, ngẩng cái mặt nhuộm đầy máu tươi.

Dao Anh đứng trước bậc, tim nhảy thình thịch.

Đó là một con báo đốm sắc vàng, màu lông bóng loáng lộng lẫy, đốm vằn vện như những đồng tiền cổ. Nó cắn một đoạn cổ của người tùy tùng, lắc lắc cái đuôi, ngồm xổm cạnh cái xác nhìn về phía tháp cao chỗ chính điện, thè đầu lưỡi đỏ quạch liếm láp cái cẳng trước nhuốm máu.

Yên tĩnh như bãi nước đọng trước điện.

Tiết Duyên Na mồ hôi lạnh ròng ròng, nhìn qua kẻ hầu chết dưới miệng báo, rồi nhìn về phía tháp.

Mặt trời chiều ngả về Tây, lầu các trong cung điện rải đầy ánh vàng rực rỡ, trước cửa sổ sơn nhũ vàng dường như có một bóng người cao ngất đứng, người mặc cẩm bào đen, dáng thon gầy như con báo săn mồi đang phục trong chỗ tối.

Tiết Duyên Na gầm lên: "Tô Đan Cổ! Ngươi giết người của ta!"

Bóng người hào sảng đứng khoanh tay, như hoàn toàn không để Tiết Duyên Na vào mắt.

Trán gã Tiết Duyên Na nổi gân xanh.

Dao Anh hơi động trong lòng. Tô Đan Cổ, là người thay mặt Đàm Ma La Già nhiếp chính?

Đàm Ma La Già là thần trong mắt người dân Tây Vực, Tô Đan Cổ là Nhiếp Chính Vương nắm giữ đại quyền trong thế tục ở Vương Đình, rất khác với một Đàm Ma La Già khoan hòa tình cảm, anh ta mạnh mẽ độc đoán, tàn nhẫn vô tình, dân chúng lén gọi đùa là Tu La kim cương bảo vệ Phật Tử.

*A Tu La: Asura nguyên là thần viễn cổ Ấn Độ nghĩa quả báo, phi thiên (không phải trời), tồn tại đối lập với đức trời, Deva. Dễ giận, hung mãnh, hiếu chiến, đánh nhau với Deva nhiều lần, được coi là ác thần

Quỷ dạ xoa Tu La, hung ác hiếu chiến, dữ tợn kinh khủng, dọa con nít ngừng khóc đêm.

Tô Đan Cổ hành tung bất định, nghe nói đang đi Cao Xương, mấy hôm nay Dao Anh hay nghe mấy vị sư nhắc tên.

Cận vệ Trung quân dài cổ ngóng Tô Đan Cổ về sớm chút, đại thần trong triều thì ngược lại, sợ Tô Đan Cổ về —— khó trách họ sợ Tô Đan Cổ, ngày đầu anh ta vừa về Vương Đình đã hủy Tiết Duyên Na một cánh tay.

Tay trái của Tiết Duyên Na be bét máu thịt, ráng gượng đứng vững, rống về phía chính điện: "Tô Đan Cổ, ngươi dám giết người trước điện, ngươi đặt Vương ở đâu?!"

Người đàn ông đứng ở lầu tháp như chẳng nghe thấy, quay đi, báo săn trên đất nhảy một cái phóng lên hành lang, bóng dáng lộng lẫy thả người mấy bận đã biến mất giữa vườn trong cung.

Sau lưng để lại mấy dấu cào đỏ tươi.

Cửa điện mở, cận vệ Trung quân đi ra.

Vết thương tay trái của Tiết Duyên Na đau đớn, cả giận nói: "Các ngươi không thấy Tô Đan Cổ vừa làm gì à? Súc sinh hắn nuôi giết người của ta đó!"

Cận vệ ngạo nghễ nhìn Tiết Duyên Na, cao giọng: "Mấy hôm nay Tiết Tướng quân mấy lần tự tiện xông vào Vương cung, quấy nhiễu khách quý, Nhiếp Chính Vương chỉ trừng phạt nhẹ để cảnh cáo, Vương biết rồi, Vương còn nói, nếu sau này còn có người tự tiện xông vào Vương cung, thì Nhiếp Chính Vương có thể xử quyết ngay tại chỗ!"

Chữ chữ câu câu, nói đầy khí phách.

Tiết Duyên Na giận run người, xanh lè mặt. Cận vệ Trung quân chậm rãi rút trường đao, tiến gần một bước.

Ánh đao trước bậc lấp lóe.

Cận vệ nói: "Vương muốn bàn chuyện với Nhiếp Chính Vương, Tiết Tướng quân cáo lui thôi."

Tùy tùng run rẩy, nhỏ giọng khuyên Tiết Duyên Na: "Tướng quân, ngài bị thương, về trị thương trước quan trọng hơn... Nghe nói Nhiếp Chính Vương nuôi báo săn răng có độc..."

Lời còn lại tùy tùng không dám nói ra miệng: sở dĩ Nhiếp Chính Vương dám đả thương người ở trước điện, còn không phải để cảnh cáo tướng quốc Khang Mạc Già mấy hôm nay nhiều lần tự tiện xông vào Vương cung sao! Vương là Phật Tử, chưa từng sát sinh chứ Nhiếp Chính Vương là Dạ Xoa giết người như ngóe đó! Tướng quân hoàn toàn là tự làm tự chịu rồi...

Tiết Duyên Na trợn mắt trừng trừng, thở hổn hển như trâu, người lảo đảo, vết thương càng lúc càng đau, không khỏi nghi ngờ con báo đốm có độc thật không, cắn răng nói: "Một ngày nào đó, ta nhất định phải tự tay giết Tô Đan Cổ!"

Tùy tùng liên tục phụ họa, đỡ Tiết Duyên Na chật vật rời đi.

Kỵ sĩ áo lam kéo cái xác đi, nô lệ xách thùng nước tới rất nhanh dọn dẹp vết máu trên đất.

Dao Anh đi qua từ hành lang dài, cảm giác cái bóng đen trong lầu tháp kia vẫn còn nhìn, nhớ lại cảnh tượng con báo đốm cắn cổ người tùy tùng mà lòng bàn tay lạnh buốt.

Nhiếp Chính Vương Tô Đan Cổ, quả nhiên danh bất hư truyền.

Duyên Giác dẫn Dao Anh vào điện.

Trong điện màn trướng buông, hương xông mờ mịt, các thứ trang trí châu báu đá quý đều bị lấy xuống, sau hành lang cột ánh sáng chập chờn, các sư mặc pháp y ngồi xếp bằng, thấp giọng niệm kinh bằng tiếng Phạn lẫn tiếng Hồ. Bốn góc điện đốt hương nến, trước án bày biện hoa quả tươi, trong không khí đậm mùi đàn hương thuần hậu.

Tiếng tụng kinh trang nghiêm lạnh lẽo, Dao Anh không ngẩng nhìn nhiều, đi vào nội điện.

Trước giường cũng lớp lớp màn lụa kim văn, đã xế chiều, một luồng nắng cuối cùng nghiêng nghiêng từ cửa sổ lọt vào trong điện, chụp trên gạch vàng mấy đốm sáng, ánh sáng bồng bềnh, bụi khí chuyển động.

Một giọng nói yếu ớt từ sau màn truyền đến: "Đại thần Vương Đình vô lễ, đã làm Văn Chiêu công chúa sợ hãi."

Lạnh lùng, như không có chút cảm xúc, nhưng khiến người nghe chấn động.

Dao Anh ngơ ngẩn.

Đàm Ma La Già sắp không được, cố ý mời nàng tới, là muốn nói với nàng câu này.

Trong phút chốc nàng không biết nên đáp gì

Sau tấm màn, Đàm Ma La Già thấp giọng hỏi Duyên Giác: "Công chúa Xích Mã đâu?"

Duyên Giác mời Dao Anh tránh qua một bên, đáp: "Công chúa Xích Mã sắp đến rồi ạ."

Vừa dứt lời, có tiếng bên cửa hông, hai tỳ nữ trắng như tuyết vây quanh công chúa Xích Mã vào điện.

Công chúa Xích Mã tóc đỏ mắt nâu, nét mặt sắc sảo, dáng người lả lướt, đi đến trước màn lụa, ánh mắt khẽ quét qua người Dao Anh, mới đầu hững hờ, rồi kịp phản ứng, ánh mắt lạnh như băng quay lại khóa trên người nàng, biến sắc.

Dao Anh đã nghe chuyện vương thất Đàm Ma chết thảm dưới đao của Trương thị, không bất ngờ trước ánh mắt như đao của Xích Mã công chúa, trong lòng nghi ngờ: Đàm Ma La Già đang định làm gì thế?

Công chúa Xích Mã còn kinh ngạc hơn cả Dao Anh, cả giận: "La Già, ngài gọi ả người Hán tới đây làm gì!"

Sau màn truyền ra tiếng của Đàm Ma La Già, vẫn trong lạnh như nước, không chút gợn sóng: "Xích Mã, Tiết Duyên Na do người xúi vào Vương cung phải không?"

Công chúa Xích Mã sửng sốt, đoạn cười lạnh: "Sao ngài biết là ta?"

Đàm Ma La Già không nói.

Công chúa Xích Mã giật mạng che mặt xuống, ngẩng đầu, đôi mắt nâu đầy ánh giận dữ, xúc động phẫn nộ: "Không sai, ta cố ý xúi Tiết Duyên Na vào cung đấy, ta còn bảo thị nữ báo cho gã là ả công chúa Hán đang ở thiên điện Vương cung. La Già, sao ngài lại muốn bảo vệ một ả người Hán chứ? Ngài quên thù hận của nhà Đàm Ma rồi à? Hơn hai trăm tính mạng... Hơn hai trăm người sống đó! Đó là trưởng bối, anh chị em của ta và ngài,... Là người thân của chúng ta, ngay trước mặt chúng ta người Trương gia giết từng người từng người một, mỗi đêm ta đều mơ thấy những người đã khuất, ta hận Trương thị! Hận tất cả người Hán!"

Cận vệ đứng hầu trước trướng đều cúi đầu. Trong điện lặng ngắt như tờ.

"Tru sát người nhà Đàm Ma là Trương thị." Sau màn lụa vang lên vài tiếng ho đứt quãng, Đàm Ma La Già lạnh nhạt, "Liên can gì đến Văn Chiêu công chúa?"

Công chúa Xích Mã cứng đờ người.

Dao Anh nâng tầm mắt, nhịn không được liếc qua màn lụa.

Công chúa Xích Mã nhắm mắt, như khóc như cười. "La Già, ngài là thánh nhân, là Phật Tử, từ nhỏ đọc nhiều kinh văn, lòng dạ từ bi, ngài chặt đứt trần duyên, là Vương tử nhà Đàm Ma nhưng trong lòng vốn không có Vương thất Đàm Ma này! Không có người chị này! Trong mắt ngài chỉ có Phật pháp chí cao vô thượng, chỉ có những kẻ xa lạ không quan hệ với ngài! Trương thị giết người thân của chúng ta, ngài vẫn cứ đối xử tốt với người Hán... chúng sinh bình đẳng, ngài xem tất cả đều là thần dân của mình, còn ta thì ở đâu? Tộc Đàm Ma ở đâu? Xem chúng ta là gì?"

Cô ta cười ha hả. "Ta không phải là ngài! Ta là công chúa của tộc Đàm Ma! Là phàm phu tục tử! Ta hận không thể giết sạch tất cả người Hán ở Vương Đình, lấy xương cốt chúng để tế điện cho gia tộc Đàm Ma!" Bỗng cô ta bước tới, xốc màn lụa rủ, nhào tới trước giường: "Ngài mở mắt ra nhìn kìa, ả là gái Hán! Là người Hán ở ngay trước mặt ngài tàn nhẫn giết chết mẹ của chúng ta, sát hại anh chị em của chúng ta!"

Màn lụa vén lên, cận vệ không kịp ngăn cản, Xích Mã công chúa nhào lên giường nhìn thấy đệ đệ ngồi xếp bằng, trợn mắt.

Dao Anh mở to hai mắt.

Đàm Ma La Già cả người cà sa đỏ thẫm, ngồi dựa vào bảo tháp, hai tay rũ xuống một bên chân, trên cổ tay đeo một chuỗi cầm châu màu tối sáng bóng, sắc mặt trắng bệch, vẻ rất tiều tụy, chỉ có đôi mắt xanh thẫm sâu lắng còn được vài phần sinh khí.

Công chúa Xích Mã sửng sốt thật lâu, vẻ điên cuồng trên mặt vẻ từ từ rút đi. "La Già, đệ sắp chết." Cô ta lạnh nhạt.

Đàm Ma La Già rũ mắt bình thản nói: "Sinh lão bệnh tử, như khói tản mây tan." Giọng trong trẻo, như tụng kinh văn.

Công chúa Xích Mã lùi hai bước, cười nhẹ: "Ngài sắp chết rồi còn vì một ả Hán mà chỉ trích ta... Ngài cũng sắp chết rồi! La Già, sao đệ có thể tuyệt tình thế? Đệ tu Phật, là thật sự cắt hết trần duyên, dứt bỏ chuyện nhà Đàm Ma ư?"

Đàm Ma La Già chậm rãi ngước mắt, nhìn Xích Mã công chúa. "Văn Chiêu công chúa là khách của Vương Đình, là ân nhân của Pháp sư... Xích Mã, người hãy thề dưới Phật Đà, sau này không thể vô cớ tổn thương Văn Chiêu công chúa."

Công chúa Xích Mã ngẩn ra, nhìn ánh mắt đứa em trai như đang nhìn một kẻ điên. "La Già, ta là chị ngài."

Đàm Ma La Già nhìn chị gái mình, hơi thở mong manh, giọng lại nặng như vạn tấn: "Xích Mã, ta là Quân chủ của người."

Cận vệ xung quanh nhìn công chúa Xích Mã. Cô ta nhìn quanh một vòng, ha ha cười lạnh, xoay người định đi. Cận vệ tiến lên, chặn đường. Công chúa Xích Mã quay lại, tức giận nhìn Đàm Ma La Già.

Đàm Ma La Già cụp mắt không nói.

Xích Mã công chúa giận quá thành cười, "Được, Đàm Ma Xích Mã ta từ hôm nay thề, nếu như có lòng hại Văn Chiêu công chúa, sẽ gặp phản phệ, vĩnh viễn đọa lạc vào nỗi khổ luân hồi, không được siêu sinh!"

Hai mắt trợn tròn, cô hậm hực trừng Đàm Ma La Già: "Vương, ngài hài lòng chưa?"

Đàm Ma La Già liếc nhìn cô ta, thở dài một hơi, mệt mỏi thu tầm mắt lại.

Công chúa Xích Mã run cả người, gần như sắp không khống chế nổi vẻ mặt, hung hãn xéo xắt nhìn Dao Anh rồi phẩy tay áo bỏ đi.

Dao Anh trong lòng ngũ vị tạp trần, thật lâu không nói.

Đàm Ma La Già rũ mắt như thiếp đi, giống như thật sự rời trần thế.

Ánh mắt nàng dừng trên gương mặt tiều tụy của chàng thật lâu, đang muốn mở miệng thì mi mắt chàng lại nâng lên, con ngươi xanh thẫm nhìn nàng.

"Văn Chiêu công chúa, người có thể theo Pháp sư Đề Bà Mông Đạt về Thiên Trúc, rồi từ đường biển về nhà."

Dao Anh run rẩy trong lòng.

Đúng là nàng có quyết định này —— nếu Đàm Ma La Già chết.

Trong điện quanh quẩn tiếng kinh Phật trang nghiêm. Hoa thơm xếp như núi, tượng Bồ Tát đắp đầy vàng bạc một tay cầm nhánh sen, một tay nâng hoa sen, ánh mắt rủ xuống, vẻ thương xót.

Trên bảo tháp*, Đàm Ma La Già khoác cà sa, tướng mạo gầy gò, mắt sâu thẳm, quanh người như có ánh sáng Phật mờ nhạt, nhìn qua còn giống một tòa Phật thiền định hơn cả bức tượng vàng trên bàn thờ.

*tạm hiểu là giường.

(minh: Ở nhiều nơi người thành kính hay dán vàng giấy lên người bức tượng mỗi khi thăm viếng, là vàng thật, càng nhiều càng thành ý.)

Chàng nhìn Dao Anh, ánh mắt an tĩnh giống như đang từ trên mây quan sát chúng sinh. "Vương Đình không phải chỗ công chúa an thân, sáng mai Đề Bà Mông Đạt sẽ rời Vương Đình, công chúa hãy đi với ông ấy, thân vệ Duyên Giác của ta sẽ hộ tống công chúa đến Thiên Trúc."

Lông mi Dao Anh chao nhẹ, đôi mắt thon dài quyến rũ lặng đi nhìn Đàm Ma La Già.

Bắc Nhung tuần tự bại ba lần dưới tay của Đàm Ma La Già, Ngõa Hãn Khả Hãn và Hải Đô A Lăng tạm thời không dám tiến đánh Vương Đình. Nàng trốn tới Vương Đình, có sự che chở của Đàm Ma La Già tạm thời có thể thở phào, nhưng Đàm Ma La Già bệnh nặng, phía Bát Nhã mãi không có tin tức, nếu Đàm Ma La Già chết, Vương Đình lâm nguy như đống trứng xếp chồng, Hải Đô A Lăng sẽ không bỏ qua nàng.

Mấy hôm nay Dao Anh đã cân nhắc, nếu Đàm Ma La Già vẫn không thoát khỏi bi kịch chết bệnh, nàng sẽ cùng Đề Bà Mông Đạt đi Thiên Trúc, sau đó từ đường biển về Trung Nguyên. Chỉ cần Hải Đô A Lăng còn sống, nàng vĩnh viễn không thể chọn tuyến đường từ Hà Lũng về quê nhà, mà gián tiếp vòng qua Thiên Trúc, nếu không sẽ lại rơi vào tay Hải Đô A Lăng.

Những quyết định này là nàng đã suy tính rất lâu. Nên bữa giờ bị giam giữ nàng không hề rảnh, ngày ngày lôi thân binh cùng học tiếng Phạn với mấy sư.

Không ngờ Đàm Ma La Già cũng nghĩ đến.

Ngài là Quân chủ Vương Đình, không thân cũng chẳng quen nàng, sao lại tính toán giúp nàng chu toàn đến thế?

Mới cả chuyện ai hộ tống nàng đi Thiên Trúc cũng thu xếp xong.

Chẳng còn sống mấy ngày, vẫn không quên suy nghĩ cho người xa lạ như nàng.

Ánh mắt Dao Anh dừng trên đùi Đàm Ma La Già. Áo cà sa thùng thình che khuất cặp chân bị sưng, nhìn qua như chàng chỉ đang ngồi xếp bằng tham thiền.

Người này còn sống vì tín ngưỡng của vạn dân, cả đời canh giữ Vương Đình, chết rồi vẫn giữ tư thế ngồi tĩnh tọa. Đến khi người Bắc Nhung công chiếm Thánh Thành xông vào Phật Tử, nhìn thấy xác ngài không kẻ nào dám tiến lên, đến Hải Đô A Lăng cũng phải lần đầu nhân từ một lần, dẫn binh lùi khỏi Phật Tự.

Dân chúng Tây Vực nói Đàm Ma La Già là Phật A Nan hóa thân, nên thân xác không thối rữa, tọa hóa đắc đạo*.

*chỉ hòa thượng chết trong tư thế ngồi, đắc đạo thành Phật.

Dao Anh chưa từng thấy cao tăng tọa hóa, nàng nhìn gương mặt Đàm Ma La Già đẹp trầm tĩnh, tưởng tượng cảnh ngài ấy giấu diếm bệnh tình của mình, ngày ngày suy yếu tiều tụy, trút mọi tâm huyết vào Vương Đình, mãi cho đến lúc cô độc chết đi, trong lòng tự dưng chua xót.

Từ bé, cả họ bị Trương thị tàn sát chết thảm, công chúa Xích Mã vì đó mà căm hận người Hán, ngài cũng không giận chó đánh mèo vô tội, một mực nhân từ.

Mười mấy năm qua Dao Anh và anh mình vì cha con Lý Đức, Lý Huyền Trinh giận cá chém thớt mà phải sống để ý từng chút một, gặp được Đàm Ma La Già trải qua lao đao vẫn là một Quân chủ giữ một lòng khoan hậu ôn hòa trong thời loạn lạc, không khỏi xúc động.

Nàng kính ngưỡng những người như thế. Đáng tiếc nàng không giúp được gì ngài.

Dao Anh ngẩn ra hồi lâu, tiến lên một bước, ngồi quỳ bên giường, cầm lấy khay gỗ đựng hoa tươi nở rộ trên bàn bên, phủ miếng lụa mỏng, gấp thành hình một gối dựa, nhẹ nhàng nhét vào cạnh cà sa của Đàm Ma La Già, cẩn thận đặt sát chân ngài.

Mấy cận vệ xung quanh đầy kinh ngạc, không biết nàng muốn làm gì, trong phút chốc đứng hình.

Đàm Ma La Già giật mình.

Dao Anh nhô nửa người tới trước, cẩn thận điều chỉnh vị trí mâm gỗ, tóc mai đen nhánh rớt vài lọn phất phơ dưới ánh nến, da thịt tuyết trắng, dây lụa buộc tóc màu đỏ thắm thả xuống cần cổ, khiến làn da trắng bóng như tỏa sáng.

Trong mùi thơm nồng của cả căn phòng, vẫn nghe được mùi ngọt thanh nhẹ trên người nàng.

"Pháp sư, ngài thử xem, thế này sẽ giúp ngài dễ chịu đôi chút." Dao Anh ngẩng nhìn Đàm Ma La Già cười cười, đôi mắt sáng cong thành hai vầng trăng khuyết.

Lúc nhỏ nàng không thể xuống đất bước đi, mỗi ngày chỉ nằm, đây là cách đại phu chỉ nàng.

Đáy mắt của Đàm Ma La Già có nét kinh ngạc —— nhưng vẫn chỉ lộ vẻ hờ hững, như mây trôi phớt qua bầu trời quang đãng, không thấy gợn sóng.

Chàng hiểu ra, chắp tay trước ngực.

Dao Anh lùi về làm lễ rồi đứng dậy rời đi. Nàng không thể làm gì cho ngài ấy, chỉ hy vọng trước khi lâm chung người đàn ông này bớt đau đớn đi chút ít.

Duyên Giác đưa Dao Anh ra chính điện. Lúc hai người đi tới hành lang, đột nhiên trong góc khuất vang lên mấy tiếng ùng ục.

Binh sĩ phòng thủ nhao nhao lùi lại.

Tiếng ùng ục ngày càng trầm thấp hơn, mang ý thị uy.

Dao Anh ngẩng lên mà rùng mình cả người.

Một con báo đốm hoa văn như tiền cổ đứng ở chỗ tối đầu tường, trên cao nhìn xuống đám người, con mắt màu vàng nhạt trong sắc tối lờ mờ phát ra ánh lân tinh khiếp người.

Duyên Giác che trước người Dao Anh, khẩn trương nuốt ngụm nước miếng.

"Đây là báo Nhiếp Chính Vương nuôi, dã tính chưa dứt, chỉ nghe lời ngài ấy... Công chúa, ngài tuyệt đối đừng động đậy, đừng nhìn nó!"

Dao Anh dời ánh mắt, không nhúc nhích —— nhìn thấy con báo đốm mai phục chỗ tối hai chân nàng như nhũn ra, muốn động cũng không động được.

Người và báo giằng co một lát, từ chỗ sâu hành lang có tiếng bước chân, một bóng người cao gầy ẩn hiện. Duyên Giác vội vàng nhỏ giọng hô: "Nhiếp Chính Vương, A Ly ở đây!"

Bóng người lay động mấy lần, bội đao bên hông sáng loáng, xoay người đi hướng khác, báo đốm thẳng người dậy nhảy xuống tường cao, đi theo.

Dao Anh thở phào.

Trong cung Thái Cực Trường An nuôi dưỡng không ít chim quý thú lạ, rảnh rỗi Lý Trọng Kiền thường dẫn nàng đi nghịch, trong đó cũng có báo, có điều đám đó đều là cống phẩm được hiến tới đã nuôi thuần, nàng chưa từng gặp con báo còn hung tàn như thế.

Đêm nay, Bát Nhã và A Sử Na Tất Sa không về Thánh Thành.

Ánh nến chính điện cháy cả đêm, kỵ sĩ Trung quân Thánh Thành chạy về Vương cung, trong cung cấm vệ rất nghiêm. Chưa đến hai canh giờ, tin Nhiếp Chính Vương hủy cánh tay của Tiết Duyên truyền khắp Thánh Thành, tạm thời đại thần trong triều yên ắng, lặng lẽ triệu hồi thám tử còn chờ ngoài cung, kẻ nhát gan còn thu xếp hậu lễ đưa đến Vương cung.

Trong khi các vị sư đang tụng niệm cầu khẩn cho Đàm Ma La Già, Đề Bà Mông Đạt về viện tử của mình thu xếp hành trang, triệu tập đệ tử tùy tùng, chuẩn bị lên đường. Dao Anh cũng gói ghém xong hành lý, chuẩn bị rời đi cùng sư đồ Đề Bà Mông Đạt.

Ra tới cửa cung, Đề Bà Mông Đạt nhìn lại Vương cung sau lưng thở dài: "Bần tăng vô năng, không thể cứu chữa cho Phật Tử."

Dao Anh cỡi ngựa đuổi theo ông, hỏi: "Sao không chờ thêm vài ngày?"

Đề Bà Mông Đạt quay đầu, chắp tay trước ngực: "Không còn thời gian."

Dao Anh lặng người.

Đề Bà Mông Đạt nói tiếp: "Phật Tử từ bi, lo đại thần Vương Đình sẽ xử khó bần tăng và công chúa. Ngày bần tăng vừa tới Vương Đình từng cùng Phật Tử tranh luận kinh văn, thua dưới Phật Tử, bần tăng và ngài ấy đã lập ước định ở lại chẩn trị cho ngài ấy, hôm nay vừa mãn hạn, đi lúc này, đại thần Vương Đình không có lý do tạm giam bần tăng."

Nếu đúng quy định của tranh luận kinh văn, ông thua Đàm Ma La Già sẽ phải bái Đàm Ma La Già làm thầy. Nhưng Đàm Ma La Già nói kinh Phật họ nghiên cứu khác biệt, giải thoát theo đuổi cũng khác, không dám nhận ông làm đệ tử, chỉ yêu cầu ông ở lại làm Ngự y trong cung hết thời hạn có thể đi.

Dao Anh biết Phật giáo từ Thiên Trúc vẫn để tóc, truyền bá vào Tây Vực, Trung Nguyên giao hòa với tín ngưỡng bản địa phức tạp, trải qua mấy trăm năm phát triển dần dần phân hoá, giáo phái khác biệt.

Ở Tây Vực, Phật giáo chiếm địa vị thống trị, cao tăng xuất hiện lớp lớp, tháp chùa san sát, từ quốc vương đến nô lệ đều là tín đồ thành tín nhất, các nước Tây Vực xây dựng rất nhiều chùa chiền, để lại một lượng lớn Phật kinh điển tịch, mỗi năm đều hành lễ Phật rất trọng thể, còn được các sư tăng ở Trung Nguyên gọi là "Tiểu Tây Thiên".

Mà ở Thiên Trúc quê hương của Đề Bà Mông Đạt, Phật giáo đã có dấu hiệu suy yếu.

Dao Anh nhớ rõ trước kia Đề Bà Mông Đạt dù muôn vàn khó khăn cũng muốn đến Tây Vực, sao ông chỉ ở Tây Vực chưa đến một năm đã đi? Nàng hỏi ra nghi vấn của mình.

Đề Bà Mông Đạt mỉm cười: "Bần tăng gặp được Phật Tử, biết sở cầu xưa nay của mình cũng không phải là hư ảo, Phật độ chúng sinh, đều có nhân duyên, ứng với hình thức độ nào sẽ có hình thức độ thoát đó, Tây Vực không phải nơi bần tăng hội tụ."

Dao Anh nhớ tới đôi mắt xanh sâu hun hút như che phủ hoa sen của Đàm Ma La Già, hỏi: "Tu hành mà Phật Tử theo đuổi, là độ thoát loại nào?"

Đề Bà Mông Đạt chần chừ, như không tìm được từ ngữ để hình dung, lặng đi mãi mới nói: "Phật Tử lựa chọn một con đường tu hành rất khó khăn."

Dao Anh thầm than. Nàng nghĩ Đàm Ma La Già thờ phụng có thể là giáo nghĩa Đại Thừa.

Phật giáo chia làm Tiểu thừa và Đại Thừa, nói thông tục thì, Phật giáo Tiểu thừa cho rằng người bình thường không thể thành Phật, cường điệu tự thân tu luyện, mong bản thân đắc đạo giải thoát, là xuất thế. Phật giáo Đại Thừa lại cho rằng thập phương tam kiếp có vô số Phật, Thích Ca Mâu Ni chỉ là một trong số đó, người người đều có Phật tính, ngoài tự độ mình còn theo đuổi phổ độ chúng sinh.

Đàm Ma La Già bảo vệ Vương Đình, lòng mang vạn dân, hiển nhiên là giáo phái Đại Thừa.

Họ rời Vương cung, xuyên qua mấy vách tường đá, trải qua một con đường rải đá xuyên qua một cái hang âm u chật hẹp thật dài, rồi thấy phía trước có ánh sáng rộng mở, ánh sáng nóng bỏng chiếu vào, trong gió có tiếng người ồn ã.

Ngày Dao Anh vào Thánh Thành đã là đêm khuya, rồi ở mãi trong Vương cung, đến giờ chưa được ngắm nhìn Thánh Thành vào ban ngày, nghe thấy tiếng người, tò mò nhìn quanh.

Một ánh nhìn này, không khỏi làm nàng nín thở.

Nắng sớm tinh mơ, bầu trời mênh mông, ngàn dặm không một bóng mây, xanh trong veo vẻo.

Nơi chân trời là dãy núi tầng tầng lớp lớp chập chùng, cao vút trong mây, nắng sớm nghiêng chiếu, quét lên đỉnh núi quanh năm tuyết phủ một mảng vàng sáng chói, rực rỡ hùng tráng không tả xiết.

Giữa sườn núi từng mảng lớn xanh biếc đậm nhạt, mây lẫn sương mù, diễm lệ ướt át, mơ hồ nhìn thấy ẩn giữa núi rừng là cổ tháp trong hang đá. Dưới chân hẻm núi tĩnh mịch, lòng chảo sông chảy quanh tạo những hồ nước to nhỏ xanh ngọc như đá quý khảm giữa thiên nhiên, phản chiếu sắc trời xanh thẳm, cỏ xanh rì bên hồ như tấm nệm rất nhẹ nhàng.

Dao Anh đi về phía Nam nhìn lại, sóng lúa cuồn cuộn mênh mông vô bờ ngàn dặm màu mỡ đập vào mi mắt nàng.

Cuối nơi phì nhiêu đó, là Thánh Thành mà Đàm Ma La Già canh giữ.

Ấy là một tòa đô thành to lớn phồn hoa, rộng trải từ Tây sang Đông, tường thành cao lớn vững chải vòng quanh, bốn góc tường là tháp cao sừng sững, khí thế bàng bạc. Trong thành bố cục tề chỉnh giống như Trường An, san sát khắp nơi, phía Nam là khu phố chợ náo nhiệt chập trùng theo địa thế, phía Bắc nhà ở dày đặc. Ở cực Bắc là tầng tầng bậc cấp lên điện, bao quanh bảo vệ hơn ngàn tòa Già Lam đứng sừng sững trên cao, lầu cao điện tiếp điện, mái hiên răng lược, thoáng nhìn, Phật đường chùa chiền một tòa cạnh một tòa, mấy trăm tòa Phật tháp cao tới mấy trượng sừng sững đứng lẫn, vàng son lộng lẫy, trang nghiêm hùng vĩ, tuyên bố uy nghiêm ở Vương Đình.

Đó là Phật Tự của Đàm Ma La Già.

Trong thành xe ngựa đầy đường, dòng người như dệt, mặc đủ trang phục khác nhau, nhiều nhóm người đến từ nhiều bộ lạc khác nhau ghé qua phố lớn ngõ nhỏ, trên con đường lớn phía ngoài thành cát bụi cuồn cuộn, lạc đà, voi, ngựa, bò yak của thương nhân vội vàng vào thành, tiếng tì bà vui vẻ xen lẫn tiếng cười nói, một cảnh tượng rất giàu có phồn hoa.

Dao Anh ghìm ngựa dừng lại, nhìn dưới chân Thánh Thành, cảm xúc vô cùng, thật lâu không nói gì.

Thế núi hùng vĩ, sơn cốc xanh biếc, đô thành phồn hoa, nhà cửa san sát, Phật tháp cao thấp chập chùng, non sông tươi đẹp, nhân gian khói lửa thái bình yên vui, như những bức tranh tráng lệ đang chậm rãi trải ra di chuyển trước mắt.

Trong hoang mạc xa cách Trung Nguyên tám ngàn dặm, nàng lại có thể nhìn thấy được cảnh giàu có đào mận nở rộ, đất đai trù phú. Nếu không phải xa xa kia là núi tuyết chen lớp lớp mây mù, ngoài sông dài kia là biển cát vàng bát ngát, chùa chiền Phật tháp san sát trong thành khác hẳn với Trung Nguyên nhắc nhở, Dao Anh ngỡ như đã trải qua hết con đường gian khổ dài đằng đẵng và lập tức về đến Kinh Nam.

Quốc gia cạnh ốc đảo sa mạc này lại giàu có phồn hoa đến thế.

Khó trách Bắc Nhung luôn ép Vương Đình vào thế khó, hèn gì Đàm Ma La Già nhiều năm qua đau đớn chèo chống, canh giữ toà đô thành này...

Dao Anh ngắm nhìn tòa Thánh Thành trong nắng mai, quanh quẩn như thấy cả một cuộc đời cô độc của Đàm Ma La Già.

Đám Đề Bà Mông Đạt đã đi xa, nàng vẫn còn dừng trước cửa hang ngây ra nhìn cảnh tượng trước mắt.

Thân binh cũng chấn kinh như nàng, thật lâu không bình tĩnh nổi.

Dao Anh cúi xuống, phát hiện bản thân họ đang ở một vùng đất cao treo trên sườn núi, dưới là vách đá dốc đứng, sóng nước vỗ động từ lòng sông uốn lượn qua vách núi, gió thổi vù vù.

Đêm đó đợi trời tối hẳn Đàm Ma La Già mới đưa người về thành, chọn đường nhỏ khuất, trực tiếp trèo từ thềm đá sau núi vào Vương cung. Nàng chỉ kịp thấy sườn núi cao ngất và con sông lớn rộng chừng mấy chục trượng, cứ ngỡ Thánh Thành chỉ là một tòa thành nhỏ cạnh ốc đảo bình thường. Thì ra Thánh Thành dựng sâu trong thung lũng, bốn phía sườn núi bao bọc tạo thành một tấm bình phong thiên nhiên, hẳn địa hình đặc biệt này cũng là một trong những nguyên nhân mà Bắc Nhung mấy lần tiến đánh đều không được.

Đáng tiếc thật, sau khi Đàm Ma La Già chết nó vẫn phải chôn dưới gót sắt Bắc Nhung.

Dao Anh thúc ngựa quay đầu. Các thân binh lần lượt đuổi theo nàng.

Họ xuống tới một khe núi yên tĩnh, lúc quay lại đã không còn nhìn thấy những tòa Phật tháp cao ngất kia nữa. Đoàn người dừng lại nghỉ ngơi, Dao Anh cho ngựa mình ăn hai bánh cỏ, phía trước bỗng nhiên vang tiếng vó ngựa như mưa.

Cát bụi đầy trời, một người một ngựa nhanh như tia chớp vụt tới, tiếng vó ngựa quanh quẩn giữa những vách đá cao.

Duyên Giác hộ tống Dao Anh đi Thiên Trúc bỗng nhảy dựng, chỉ vào người cưỡi trên lưng ngựa, mừng rỡ vô cùng: "Là A Sử Na tướng quân! A Sử Na tướng quân đã về!"

Dao Anh nhìn theo tầm mắt cậu, vị Tướng quân trẻ tuổi kia đã kịp chạy đến gần nàng, là một người đàn ông hơn hai mươi, tóc vàng mắt xanh, nét mặt sâu sắc, trường bào trắng tuyết phần phật trong gió.

Ánh mắt hai bên chạm nhau, A Sử Na Tất Sa thoáng thất thần nhưng không dừng lại, phóng ngựa vọt qua.

Dao Anh ngẩn người, đột nhiên thấy ánh mắt đối phương hơi quen thuộc.

Anh ta cũng có một đôi mắt màu xanh biếc.

...

A Sử Na Tất Sa kịp thời chạy về, Đề Bà Mông Đạt lập tức quay lại Vương cung.

Đàm Ma La Già được cứu rồi.

Dao Anh không do dự, cùng theo về Thánh Thành.

Từ Thiên Trúc đi đường biển về Trung Nguyên có thể thoát khỏi Hải Đô A Lăng, nhưng đường xá xa xôi, vô cùng nguy hiểm, vạn bất đắc dĩ nàng vẫn hy vọng có thể đi từ Hà Lũng về Trung Nguyên.

Vì nàng sợ bỏ lỡ Lý Trọng Kiền. Nàng rời đi lâu thế này, anh trai chắc chắn sẽ đến tìm nàng, dù vết thương của anh có xấu cỡ nào, tin Diệp Lỗ bị hủy diệt có đến được Trường An hay không, Dao Anh vững tin, chỉ cần anh còn sống nhất định sẽ tìm nàng.

Đàm Ma La Già đã có thể cứu, nàng nên ở lại tìm cơ hội vậy.

Hải Đô A Lăng sớm muộn sẽ đánh Trung Nguyên, so với lo sợ nơm nớp mỗi ngày, chi bằng chuẩn bị sớm. Hiện giờ y chỉ đang là một Vương tử Bắc Nhung căn cơ chưa ổn, u ám táo bạo, còn thua xa y đa mưu túc trí của mấy chục năm sau, đã là địch thủ của y vậy chi bằng khi y còn chưa lớn mạnh thì chặt đứt cánh chim hẵng tính!

Ngày thứ ba A Sử Na Tất Sa quay lại Thánh Thành, Vương cung ra bố cáo, vào khoảng đầu tháng sau cử hành Lễ hành tượng, Đàm Ma La Già sẽ xuất hiện ở Pháp hội.

Mới vừa ký minh ước với Bắc Nhung lại sắp đón lễ hội lớn, dân chúng trong thành vui mừng khôn xiết. Còn chưa tới ngày, từ Vương cung đến nhà dân bắt đầu chuẩn bị, lau chùi đình viện, treo màn, hết sức náo nhiệt.

Tiểu sa di dạy tiếng Phạn cho Dao Anh nói, hàng năm vào lễ hành tượng, hàng ngàn người Thánh Thành đổ xô ra đường chen chúc nhau đến mức thường có chuyện người bị giẫm chết.

"Xem hành tượng có thể giảm bỏ tội ác, tích phúc đức, công chúa cũng tham gia Pháp hội đi, đến lúc đó cầu nguyện, linh nghiệm hơn bình thường!"

Dao Anh nhớ tới Pháp hội Phật đản ở Cung Thái Cực năm ngoái, không mấy hứng thú.

Ánh mắt tiểu sa di cuồng nhiệt: "Ngày lễ hành tượng á, Phật Tử sẽ về Phật Tự, khai đàn giảng kinh, tranh luận Phật Pháp với cao tăng của Quy Tư, Cao Xương, Sơ Lặc, là lễ lớn trăm năm khó gặp đó! Tôi có nói với sư huynh quét rác trong chùa rồi, nhờ chừa cho một chỗ tốt!"

Mắt Dao Anh lộ vẻ kinh ngạc: "Phật Tử muốn khai đàn giảng pháp à?"

A Sử Na Tất Sa cầm Thủy mãng thảo về đã hoãn được nỗi đau của Đàm Ma La Già, nhưng mới ba ngày thôi mà! Mấy ngày ngắn ngủi, mới vừa từ cảnh sắp chết khôi phục chút sinh khí, đã chuẩn bị tranh biện với một đám cao tăng, là không chỉ khảo nghiệm trí tuệ mà còn thể lực của ngài đó ngài.

Cao tăng Tây Vực đều là cao thủ tranh biện, ngài ứng phó được à?

Tiểu sa di gục gặc, nhìn Dao Anh, "Công chúa, có phải ngài rất muốn xem Phật Tử tranh biện kinh Phật?"

Dao Anh nhẹ rớt khóe miệng, Đàm Ma La Già với cao tăng tranh biện kinh Phật không phải dùng tiếng Phạn thì cũng dùng tiếng Hồ, một câu nàng còn không hiểu, đương nhiên không muốn đi, nàng chỉ kinh ngạc vì nghị lực của Đàm Ma La già thôi.

Sau một trận sóng gió biến thành vô hình, dân chúng Vương Đình lòng đầy chờ mong lễ hội đến, vĩnh viễn không biết Phật Tử của họ cửu tử nhất sinh, mỗi một khắc đều chịu đủ dày vò ra sao.

Vẻ mặt nàng đầy thương tiếc, tiểu sa di nhìn nàng mấy lần, mắt đảo mấy vòng: Công chúa Trung Nguyên đối với Phật Tử đúng là một lòng say mê, nhắc tí đã bắt đầu mất hết hồn vía.

Đêm đó, lời đồn vì Đàm Ma La Già mà Dao Anh cơm nước không ăn, dùng nước mắt rửa mặt truyền khắp Vương cung.

Dao Anh không để ý đến, nghe Đề Bà Mông Đạt nói kỵ sĩ Trung quân đã mang đồ cưới về, dẫn theo thân binh ra đón.

A Sử Na Tất Sa cầm Thủy mãng thảo trực tiếp vào cung trước, còn lại xe ngựa vận chuyển vải vóc tơ lụa, thư tịch điển chương, tượng Phật châu báu bốn ngày sau mới đến Thánh Thành, người phụ trách vận chuyển là Bát Nhã.

Cậu giao sổ cho Dao Anh, vỗ ngực: "Mời công chúa tra sổ kiểm kê nè, trừ Thủy mãng thảo mọi thứ đều đủ."

Dao Anh cám ơn cậu, chẳng thèm kiểm, trực tiếp bảo kỵ sĩ kéo xe ngựa vào nhà kho của Vương cung.

Bát Nhã bàn giao xong lập tức về Vương cung, thấy Đàm Ma La Già đúng là có chuyển biến tốt đẹp, niệm Phật không thôi.

Hôm sau, lời đồn lan đến tai cậu.

Bát Nhã vừa tức vừa gấp tìm đến Dao Anh, xỉa ngón tay chỉ vào nàng, run cả người.

Dao Anh chả hiểu gì, hỏi: "Phật Tử có chỗ không ổn hả?"

Thủy mãng thảo có độc tính rất lớn, có thể cứu người nhưng dùng nhiều sẽ có hại, sở dĩ thuốc Ngưng lộ hoàn mà nàng uống đắt đỏ cũng bởi vì phải dùng rất nhiều dược liệu giảm bớt độc tính của nó. Vẻ lo lắng của Dao Anh không giống giả vờ, Bát Nhã không khỏi khẽ giật mình, nhớ lời dặn dò của Đàm Ma La Già, miễn cưỡng nuốt xuống bụng trách móc đang sôi trào.

Được, vị công chúa này dù mặt dày vô sỉ, nhưng ngưỡng mộ Vương là thật lòng, nếu không có đồ cưới của cô ta, sao Vương thoát hiểm được?

Bát Nhã cứng mặt nói: "Vương khỏe nhiều rồi."

Dao Anh mờ mịt, ồ một tiếng, nói: "Pháp sư cát nhân thiên tướng*."

*người hiền gặp lành

Bát Nhã trừng trộ: "Ta nghe nói, mỗi ngày cô quấn lấy mấy vị sư nghe ngóng bệnh tình của Vương... Cô không nên hóng chuyện của Vương khắp nơi thế, đồn ra làm xấu mặt Vương, có gì thì cứ đến hỏi ta!"

Dao Anh phút chốc câm nín: ơ hóng chuyện Đàm Ma La Già khắp nơi hồi nào? Trên dưới Vương cung ai cũng sùng bái Đàm Ma La Già, câu nào cũng không tách khỏi Phật Tử, nàng đâu có cố ý nghe ngóng.

Bát Nhã lại cho rằng Dao Anh vẫn trăm phương ngàn kế tiếp cận Đàm Ma La Già, cảnh cáo: "Cô đừng nghĩ thừa cơ tiếp cận Vương nha, thuốc cô mang tới đúng là cứu được Vương, Vương rất cảm kích cô nhưng ngài sẽ không bị cô đả động đâu!"

Cậu vừa dứt lời, bóng Duyên Giác đã xuất hiện trước cửa sân. "Công chúa, Vương mời ngài đi chính điện."

Bát Nhã rớt mồm.

Dao Anh giang tay ra, "Là Vương của mấy người mời ta nha."

Bát Nhã không cãi được, vặn vẹo cổ, không nói gì.

Dao Anh đi ngang qua người cậu, theo Duyên Giác đến chính điện.

Lúc tới tiền đình, trước cửa hiên vắng vẻ ánh lên sắc vàng, con báo đốm lộng lẫy không một tiếng động từ trên tường nhảy xuống, một vuốt đè dây leo quấn trước bậc.

Duyên Giác dừng chân ra hiệu Dao Anh đừng hoảng hốt.

Mấy hôm nay Dao Anh thường xuyên gặp con báo đốm chưa hết dã tính này nên không còn sợ nhiều, thu tầm mắt, không nhúc nhích.

Báo đốm nhắm mắt, nhảy lên hành lang, rủ thấp đuôi, đi về phía Dao Anh.

Mặt Duyên Giác biến đổi.

"A Ly!"

Một tiếng gọi mang theo ý cười vang lên, tướng quân Trung quân tóc vàng mắt xanh từ nội điện bước nhanh ra, chặn trước Dao Anh khua tay với con báo, "Không được dọa Văn Chiêu công chúa!"

Báo đốm liếc anh ta ra vẻ khinh thường, quay người nhảy xuống thềm đá, lười biếng chợp mắt trong bóng râm của mớ dây leo bò.

A Sử Na Tất Sa quay lại mỉm cười với Dao Anh: "Công chúa, không dọa cô sợ chứ?"

Dao Anh nhìn đôi mắt xanh biếc của anh ta, lắc đầu.

Mẹ của A Sử Na Tất Sa là công chúa Đột Quyết, cha là quý tộc Vương Đình, dáng cao vút, khuôn mặt rất lãng tử. Hôm nọ thoáng nhìn nàng thấy nét mặt anh ta hơi giống Đàm Ma La Già nhưng giờ nhìn kỹ lại, thật ra chẳng giống, trừ màu mắt.

Tất Sa cười cười, nụ cười rực rỡ như ánh nắng ngoài kia, rõ ràng rất lãng tử nhưng giọng nói thì chân thành đến chất phác: "Nếu không nhờ Thủy mãng thảo của công chúa, Vương khó thoát kiếp nạn này, công chúa là khách quý của Vương Đình, sau này Tiết Duyên Na mà còn dám mạo phạm công chúa, công chúa không cần sợ, bảo người báo tin cho tôi là được."

Dao Anh cám ơn, đi vào nội điện.

Tất Sa đứng trong cửa hiên nhìn bóng lưng nàng, ngẩn ra một lúc, gãi đầu rồi lắc đầu bật cười, tiếp tục canh giữ.

Trong điện trống trải sáng sủa, tượng Phật dát đầy vàng, hương án đều được dọn đi, trong không khí chỉ còn mùi nhang trầm quanh quẩn.

Đàm Ma La Già xếp bằng trên nệm nỉ, cà sa trắng chỉ vàng, một chuỗi cầm châu trong tay, trong trẻo xuất trần.

Hai người hầu quỳ một bên dâng thuốc, chàng bưng chén uống một hơi cạn sạch, rất nhanh, cũng rất tao nhã.

Người hầu bưng chén không lui ra.

Dao Anh dừng ánh mắt trên mặt Đàm Ma La Già, khí sắc chàng đã khá hơn nhiều, mặt như trăng lạnh, ánh mắt thanh tịnh, có lẽ vẻ mặt chàng luôn an tĩnh nhẹ nhàng nên rất khó đoán lúc nào chàng đang bị nỗi đau tra tấn.

Đàm Ma La Già nâng tầm mắt ra hiệu Dao Anh ngồi xuống.

Dao Anh ngồi quỳ chân đối diện chàng, bình thường nàng lười làm nhưng trước mặt vị Phật này không tự chủ thẳng tắp sống lưng, ngồi rất tề chỉnh.

Đàm Ma La Già cụp mắt: "Sao công chúa không đi Thiên Trúc?" một giọng rất bình thản, như vô tình vô dục, nhưng nhẹ nhàng mang mấy phần áp đảo, Dao Anh ngồi càng ngay ngắn, không trả lời mà hỏi lại: "Xin Pháp sư thứ ta mạo muội, sao Pháp sư lại phái Nhiếp Chính Vương Tô Đan Cổ đi Cao Xương?"

Đàm Ma La Già yên lặng không nói.

Dao Anh nhẹ giọng hỏi: "Có phải Pháp sư định kết minh với Cao Xương không?"

Ánh mắt Đàm Ma La Già đặt lên nàng.

Dao Anh đối mặt với chàng, chậm rãi nói: "Quốc chủ và quý tộc ở Cao Xương phần lớn là vọng tộc từ Hà Tây, là người Hán, Cao Xương bắt chước lễ chế của Vương triều Trung Nguyên, Nho học hưng thịnh, phong tục lễ nghi giống Trung Nguyên, Vương Đình thù người Hán, nên Pháp sư đành bí mật để Nhiếp Chính Vương đi dò xét ý đồ của Quốc chủ Cao Xương."

Tô Đan Cổ một mình đi Cao Xương, chắc chắn theo mật lệnh, lúc đó Bắc Nhung đang muốn xâm lấn Vương Đình, Dao Anh suy đoán Đàm Ma La Già có lẽ biết mình không còn nhiều thời gian định tính một đường lui cho Vương Đình nên sai Tô Đan Cổ đi Cao Xương cầu viện.

Vẻ mặt Đàm Ma La Già xác nhận suy đoán của Dao Anh.

Lời nàng xoay chuyển: "Ta đoán, Cao Xương cự tuyệt Nhiếp Chính Vương."

Đàm Ma La Già im lặng không nói, đáy mắt xanh thẫm có một tia kỳ lạ thoáng qua.

Dao Anh đón ánh mắt chàng, nói: "Nước nhỏ dân ít, đạo lập quốc của Cao Xương là phải thuận lợi mọi bề, lấy thần phục từng Vương triều lớn mạnh mà đổi lấy sinh tồn, giờ đây Bắc Nhung cường thịnh, Cao Xương đã xưng thần với Bắc Nhung, Vương Đình dù phồn hoa nhưng binh lực có hạn, Cao Xương sẽ không dại gì nhận lấy nguy hiểm với Bắc Nhung mà kết minh với Vương Đình."

Cao Xương Đông nối với Trung Nguyên, Tây thông với Tây Vực, Nam chặn bởi con đường tơ lụa, Bắc chận bởi thảo nguyên, đường xá ngang dọc, bộ lạc hỗn tạp, vị trí địa lý quyết định nó có thể công không thể giữ. Từ xưa đến nay, quốc gia cạnh ốc đảo trên con đường tơ lụa này luôn khó khăn, luôn cố gắng sinh tồn giữa khe hở của các chính quyền và thế lực.

Vương triều Trung Nguyên từng coi Cao Xương là Châu huyện, đặt binh trấn giữ, sau đó Trung Nguyên đại loạn, không rảnh củng cố phía Tây, Tây Vực rơi vào phân loạn, Cao Xương và những tiểu quốc Tây Vực không thể khai thông với Trung Nguyên nữa, mạnh ai nấy quản.

Dao Anh đã nghe ngóng, Quốc chủ Cao Xương hiện tại mang họ Uất Trì, là vọng tộc sau này của Lũng Tây. Cao Xương thần phục với Bắc Nhung, hai năm trước Quốc chủ Uất Trì cưới cháu gái của Ngõa Hãn Khả Hãn Bắc Nhung làm phu nhân.

Nàng nhìn Đàm Ma La Già, cười cười, lúc này mới bắt đầu trả lời câu hỏi ban nãy: "Pháp sư, ta ở lại Vương Đình, có thể đi sứ Cao Xương cho Vương Đình."

Trong điện không biết đốt nhang gì, mùi thơm nhẹ bay lượn lờ.

Đàm Ma La Già nhìn Dao Anh, đôi mắt sâu thẳm, hơi kinh ngạc.

Dao Anh trịnh trọng: "Cao Xương từng là Châu huyện dưới Trung Nguyên, Quốc chủ quý tộc vẫn còn nhớ về Trung Nguyên, ta là công chúa Đại Ngụy, ta đi sứ Cao Xương hẳn phần thắng lớn hơn Nhiếp Chính Vương."

Cao Xương không muốn đắc tội Bắc Nhung, nhưng Cao Xương cũng sẽ không chân chính thần phục Bắc Nhung, Quốc chủ quý tộc họ luôn hy vọng có thể khôi phục kết nối với Vương triều Trung Nguyên, nàng là công chúa Đại Ngụy, đi sứ Cao Xương nói không chừng Quốc chủ Cao Xương sẽ cân nhắc đề nghị của Đàm Ma La Già.

Dao Anh dừng lại một chút, nói tiếp: "Có thể ta không thuyết phục được Quốc chủ Cao Xương nhưng chí ít Cao Xương sẽ không thành kẻ địch của Vương Đình. Trước mắt, Đông từ Liêu Hải, Tây đến Tây Hải, Nam đến Hà Lũng, Bắc đến Bắc Hải, đều thần phục Bắc Nhung, lực lượng một nước Vương Đình khó mà chống lại Bắc Nhung, cho dù câu trả lời của Cao Xương là gì, Đại Ngụy nguyện cùng Vương Đình kết minh, cùng nhau chống Bắc Nhung."

Đàm Ma La Già nhìn Dao Anh thật lâu.

Giọng người thiếu nữ mềm mại uyển chuyển, điệu bộ bình thản, như hoàn toàn không biết lời nàng nói đại biểu cho chuyện gì.

Từ Đông đến Tây, Đại Ngụy, Vương Đình, Cao Xương... còn nhiều những tiểu quốc phía Đông nữa, nếu đồng minh thật sự đạt được, sẽ thay đổi không phải chỉ vận mệnh của Vương Đình, cũng không phải chỉ bố cục Tây Vực, mà là thiên hạ đại thế.

Đàm Ma La Già nhớ tới năm mười ba tuổi, lúc kỵ binh Bắc Nhung đánh vào Thánh Thành, gió thốc cát đầy trời, chàng chỉ thầm niệm kinh trong lòng, dẫn đầu Trung quân đón đầu quân địch như dòng lũ hủy trời diệt đất.

Từ một khắc đó, chàng nhất định gánh vác quốc gia này, cho đến chết.

Chàng là Phật Tử, là Quân chủ, nhưng vị công chúa trước mắt này chỉ là một thiếu nữ mảnh mai xinh đẹp đang lưu lạc ngoài vực, con đường phía trước mịt mờ.

Cầm châu trong tay Đàm Ma La Già di chuyển, nhẹ giọng hỏi: "Vì đâu công chúa muốn kết minh với Vương Đình?"

Dao Anh nhẹ vểnh khóe môi, đôi mắt lặng yên nhìn Đàm Ma La Già, mỉm cười: "Bởi vì ngài."

Đàm Ma La Già khẽ giật mình.

"Bởi vì Quân chủ Vương Đình là Phật Tử, nên ta dám cùng Phật Tử lập ước định này."

Dao Anh cười, nói khẽ. Nàng vẽ ra tấm bánh nướng cho Đàm Ma La Già. Ăn được hay không, không ai nói chắc.

Cao Xương sẽ bằng lòng kết minh chứ? Bọn họ có thể đưa tin thuận lợi về Trung Nguyên chăng? Cách xa ngàn núi vạn sông, đến khi tin tức của họ đưa được đến Trung Nguyên, ai biết có biến cố gì?

Đều là biến số.

Nhưng chỉ cần họ có nhiều hơn một hướng bước đi, là nhiều một phần hy vọng.

Nếu Vương Đình vẫn do đám đại thần quý tộc Khang Mạc Già nắm triều chính, Dao Anh tuyệt đối không đưa ra lời kết minh với Vương Đình, vì chúng là người chỉ lo lợi ích gia tộc vốn chẳng để ý đến Vương triều Trung nguyên tám ngàn dặm xa kia, đề nghị của nàng chẳng những chẳng được coi trọng mà còn chỉ đổi lấy chế giễu.

Hơn nữa kết minh với đám Khang Mạc Già, nàng còn phải đề phòng bị đối phương lợi dụng hãm hại.

Đàm Ma La Già không giống, ngài ấy đặt sống chết của dân chúng Vương Đình trong lòng, tầm nhìn lâu dài khoáng đạt, thông minh như ngài ấy chắc chắn biết hy vọng xa vời chừng nào nhưng nhất định ngài sẽ muốn thử một lần —— thêm một bạn tốt, là bớt một kẻ thù, ngài không biết mình còn chống chọi bao lâu, càng cần nhiều bạn tốt.

Nên Dao Anh chẳng cần nói hoa nói hòe, cũng không cần đưa cam kết gì.

Mặc cho kết quả cuối cùng là gì, Đàm Ma La Già sẽ không làm khó nàng, dù ngài ấy cũng không có ý định kết minh với Trung Nguyên. Dao Anh chắc chắn điểm này.

Người đàn ông trước mắt này làm nàng rất an tâm, nửa năm lưu lạc đến Tây Vực này, mỗi ngày nàng phập phồng lo sợ, mãi đến khi bước vào Vương Đình mới rốt cục ngủ được một giấc ngon, không mộng mị kinh hoàng hàng đêm.

Ngài ấy có một đôi mắt sâu thẳm như nhìn thấu mọi thứ, đối mặt với ngài, nàng không cần che dấu, không cần tính toán, chỉ cần nói ra suy nghĩ trong lòng là được.

Dao Anh nói tiếp: "Thượng binh phạt mưu, kỳ thứ phạt giao, kỳ thứ phạt binh, kỳ hạ công thành*. Lấy mưu lược phe ta để đánh địch, không đánh mà thắng là vì binh, là vì binh trên hết, Phật Tử lòng dạ từ bi, hẳn đồng ý điểm này."

*Binh pháp Tôn Tử: dùng mưu kế đập địch trước, mới đến ngoại giao đấu tranh giành chủ động, rồi mới đến dùng binh, cuối cùng mới là công thành – cách bất đắc dĩ nhất.

Thiếu nữ tuổi mười lăm, đương thanh xuân rực rỡ nhất, tóc mai đen nhánh, dây buộc tóc màu đỏ rủ trên cần cổ trắng, da thịt như tuyết, mặt rạng rỡ như hoa dâm bụt, xinh đẹp đến sáng trưng cả nội địa.

Giống như có câu tả ở Trung Nguyên, đông phong dạ phóng hoa thiên thụ*.

*Thanh Ngọc Án – thơ Nam Tống – đại ý gió đông thổi, hoa đăng thả đêm nguyên tiêu rực rỡ như hoa nở trên ngàn gốc cây.

Nắng chiếu vào trong điện bốn bức tường trắng như trốn tìm, vàng rực trước trường án, trên bàn một quyển kinh thư mở ra, trang giấy ố vàng.

Ánh mắt Đàm Ma La Già rơi lên quyển kinh. "Đợi sau Pháp hội hành tượng, A Sử Na Tất Sa sẽ hộ tống công chúa đi Cao Xương."

Mặt Dao Anh lộ vẻ rạng rỡ: Vầy là ngài đồng ý nhỉ!

"Chuyện không được truyền ra ngoài, thiệt thòi cho Văn Chiêu công chúa rồi."

Dao Anh gục gặc: "Pháp sư không cần lo, ta biết chừng mực, ước định này chỉ giữa ta và ngài."

Nàng thở hắt một hơi, cười cười. "Ta rời xa Trung Nguyên, không binh không tướng, Pháp sư bằng lòng tin tưởng ta, ta rất cảm kích, thiệt là thiệt thế nào? Nếu có thể trở lại Trung Nguyên, ta sẽ vô cùng cố gắng thúc đẩy minh ước."

Đầu ngón tay Đàm Ma La Già nhẹ lật quyển kinh, yên tĩnh một lúc, nói: "Công chúa không cần tự coi nhẹ mình."

Phần dũng khí và ánh mắt nhạy cảm này của nàng, đáng giá sự tin cậy của chàng.

Năm mười ba tuổi chàng dẫn chỉ mấy ngàn kỵ sĩ Trung quân đánh đâu thắng đó, chưa từng thua Bắc Nhung, thời điểm đó chàng cũng là không nắm chút phần thắng nào, nhưng cuối cùng vẫn thắng.

Đàm Ma La Già che miệng ho khan, giữa hai đầu lông mày in vẻ mệt mỏi.

Ánh mắt của Dao Anh đảo qua lại trên mặt chàng, nhẹ giọng hỏi: "Dạo này Pháp sư có hay bị tim đập nhanh, nóng sốt, đêm đổ mồ hôi trộm không?"

Đàm Ma La Già ngước nhìn nàng.

Dao Anh vẻ đầy lo lắng, nhìn kỹ sắc mặt của chàng, lộ rõ ân cần: "Thuỷ mãng thảo có độc, không thể dùng lâu dài, nếu Pháp sư thấy khó chịu nhất định phải báo cho Đề Bà Mông Đạt."

Đàm Ma La Già vâng nhẹ nhàng.

Dao Anh nhớ tới chàng còn mang bệnh nặng chưa khoẻ, đứng dậy cáo từ: "Pháp sư còn phải chuẩn bị cho đại hội tranh biện kinh thư, ta không quấy rầy pháp sư suy nghĩ."

Sau lưng không một tiếng động, trước khi ra cửa nàng đưa mắt nhìn lại, Đàm Ma La Già cúi đầu xem kinh thư trên bàn, ánh nắng vàng mênh mông phác hoạ mặt bên chàng một nét thon gầy.

Dao Anh trở lại chỗ nghỉ, lục danh sách hồi môn, dặn thân binh lọc ra tất cả Phật kinh điển tịch, đưa tới chỗ Phật Tử.

"Kinh Phật lưu truyền ở Trung Nguyên và Tây Vực có khác biệt, Pháp sư và các vị sư trong chùa vài hôm còn luận bàn về kinh Phật với tăng nhân các nước, mấy quyển kinh Phật này có khi phát huy tác dụng."

Ngoài kinh Phật, nàng còn dặn thân binh đưa qua chỗ Phật Tử toàn bộ các tượng Phật vàng ngọc lớn nhỏ, sẵn trên dưới Vương Đình đều đang chuẩn bị cho lễ Hành tượng, mấy bức tượng này giữ lại cũng không có chỗ dùng, không bằng tặng đi.

Vương Đình sùng Phật, khắp trong thành đều có thạch tháp Phật Tử, tượng Phật Dao Anh tặng đi cũng chẳng lạ, nhưng mấy quyển kinh Phật rất nhanh được các sư trong chùa chú ý, tranh nhau truyền tay đọc mấy bản chép tay bằng tiếng Phạn, kịch liệt thảo luận về chân ý nghĩa trong kinh thư.

Bát Nhã biết được, quá sợ hãi, chạy vội tới chủ trì Phật Tự: "Mấy bức tượng Phật mà Văn Chiêu công chúa tặng đâu? Gom đủ nguyên vẹn trả về đi!"

Chủ trì đáp: "Còn mấy ngày đã tới Pháp hội, Văn Chiêu công chúa gửi tới đều là những bức tượng Phật sắc sảo, đã mang đi bố trí công đường, công chúa hào phóng, còn tặng vài tượng vàng trong đó để bách tính thờ cúng, họ đều rất cảm kích công chúa."

Bát Nhã giẫm chân thở dài, vò đầu bứt tai: "Còn mớ kinh thư Văn Chiêu công chúa tặng đâu? Mấy người lấy hết à? Tranh thủ trả lại!"

"Kinh thư mà công chúa tặng câu từ đẹp đẽ, ý nghĩa sâu sắc, mấy sư trong chùa nghiên cứu đến quên cả ăn, thiền sư đã mấy ngày rồi không dạy thiền pháp."

Bàn Nhược vô cùng tuyệt vọng: "Các người, các người còn nhận của cổ bao nhiêu thứ nữa vậy?"

Chủ trì nghĩ nghĩ đáp: "Hôm kia thì công chúa gửi tới một xe tơ lụa cao cấp để các vị tăng nhân cắt may Pháp y dùng trong Pháp hội... Hôm qua thì hộ vệ của công gửi tiền bố thí..."

Nói ngắn gọn, tiền đã nhận, tượng Phật đã trưng dùng, sách đã xem, Pháp y cũng may luôn.

Vậy thì trả gì.

Chủ trì chắp tay trước ngực, ngại ngùng lắc đầu.

Không thể.

Bát Nhã đầu váng mắt hoa, lảo đảo mấy lần, khóc không ra nước mắt.

Lần này hay rồi, không chỉ mỗi Vương dùng Thuỷ mãn thảo trong mớ đồ cưới mà Phật Tử còn nhận nào tương Phật, sách kinh, tơ lụa,... công chúa tặng, đến cả dân chúng cũng cầm đồ cưới của cổ rồi luôn rồi! Lòng như lửa đốt Bát Nhã quay về Vương cung, vào nội điện, bước chân nặng nề.

"Vương, Văn Chiêu công chúa có ý đồ, đồ cưới cô ta gửi qua hết rồi! Tôi nghi cô ta cố tình, muốn ngài chịu trách nhiệm cả đời!"

Đàm Ma La Già mặc cà sa tuyết trắng ngồi trước cửa sổ xem kinh thư, nghe vậy ngẩng đầu, nhẹ nhăn mày. "Mời Văn Chiêu công chúa tới."

Dao Anh còn tưởng Đàm Ma La Già muốn thương lượng chuyện nàng đi Cao Xương, không ngờ khi bước vào nội điện, đã thấy rất nhiều người đứng, A Sử Na Tất Sa, tổng quản Vương cung, mấy người đều khoanh tay đứng hầu vẻ hơi ngượng ngùng.

Bát Nhã, Duyên Giác và thân binh khác đứng trước cửa, bầu không khí trong điện như ngừng trôi.

Ngồi trên bảo tháp, Đàm Ma La Già tay cầm một quyển kinh văn đang đọc, rất thanh nhã.

Đám dưới điện mồ hôi đầy đầu. Trong điện yên tĩnh, tiếng kim rơi còn nghe được.

Tất Sa thấy Dao Anh bước vào, lặng lẽ thở hắt, gãi đầu, ôm quyền chào nàng, nói: "Công chúa, là ta sơ sót, chăm sóc không chu toàn."

Tổng quản Vương cung cũng quay sang Dao Anh thở dài.

Dao Anh ngơ ngác, vội cuống quýt đáp lễ.

Tất Sa quay lại nhìn Đàm Ma La Già, nói: "Vương, sách quý do công chúa mang từ Trung Nguyên tới thì vẫn còn, còn mấy thứ kia không thể trả lại nữa, tôi sẽ đưa công chúa đến khố phòng, mời công chúa tùy ý chọn bảo vật, không để công chúa bị thiệt thòi ạ."

Đàm Ma La Già không nói lời nào, khoát tay áo. Đám Tất Sa cung kính hành lễ với ngài rồi nháy mắt ra hiệu Dao Anh cùng lui ra.

"Công chúa, mời đi lối này." Tất Sa dẫn Dao Anh đi bảo khố Vương cung.

"Công chúa đã bỏ ra bao nhiêu thứ, giá trị bao nhiêu, cứ nói hết với tôi, không cần khó xử. Thủy mãng thảo với mấy vị thuốc hẳn rất đắt nhỉ? Mới cả kinh thư quý báu rồi tơ lụa cao cấp nữa, ở Tây Vực, lụa Trung Nguyên một thớt giá trị trăm vàng đó. Đồ cưới của công chúa là vĩnh viễn thuộc về người, không nên bị người Vương Đình chiếm dụng. Ban nãy Vương mới trách phạt tôi với tổng quan Vương cung đấy."

Dao Anh dở khóc dở cười: "Nhờ ngài nhắn dùm Pháp sư, tổng quản Vương cung không hề ghẻ lạnh với ta, còn mớ sách kinh tơ lụa là ta tự nguyện gửi, không liên quan đến tổng quản."

Tất Sa cười cười: "Vương biết tượng Phật, kinh thư, tơ lụa và tiền cúng đều do công chúa tự nguyện đưa ra, không ai ép buộc mà."

Dao Anh khẽ giật mình: "Vậy vì sao Pháp sư còn trách phạt tổng quản?"

Nét cười tràn đầy trên mặt Tất Sa, "Công chúa một thân một mình ở nước khác, suy nghĩ nặng lòng, gửi đi đồ cưới là muốn cuộc sống ở Vương Đình thoải mái hơn chút."

Dao Anh gật gật, lại lắc lắc: "Nếu không có sự hỗ trợ của Vương Đình thì ta đâu thể đoạt lại mấy thứ đó? Ta gửi kinh sách và tượng Phật vì muốn mở rộng thiện duyên, cũng bởi vì cảm kích Phật Tử, tuyệt đối không có gì khó xử."

Mi dài Tất Sa hơi nhíu, "Công chúa thật sự buông được à?"

Dao Anh cười khẽ: "Ta giữ được mạng này, lòng đã vô cùng cảm kích rồi."

Đúng là có người ở Vương Đình ngấp nghé xe của cải khi Trung quân từ Bắc Nhung đưa về, nàng nhanh tay gửi đi hết, ngoại trừ ngoài mặt cảm tạ Đàm Ma La Già cũng có lo nghĩ cho bản thân, nào có chỗ khó xử. Gửi đi càng có lợi hơn mà.

Ánh mắt Tất Sa lộ vẻ tán thưởng: Công chúa quả nhiên thông minh.

Hàng xe xe chứa đầy châu ngọc của cải đánh vào Vương cung, ngày nào không bị bao nhiêu ánh mắt dòm ngó, của cải động lòng người, sớm muộn cũng có người có chủ ý nhằm vào đống này. Công chúa chủ động bố thí hết, đưa qua cả chỗ Vương Phật Tử, ai dám ra tay nữa? Vậy thì chẳng phải nàng không chỉ bảo toàn chính mình, có tiếng tốt, lại không để đại thần tham lam có cơ hội ra tay, một công nhiều việc ư.

Tất Sa vỗ tay nói: "Công chúa thật quả quyết giữ hay bỏ, tôi rất bội phục! Có điều Vương nói, người là khách của Vương Đình cũng không thể để người phải ra quyết định thế này, mới cả Vương đã dùng thuốc của người cũng nên đền bù chút đỉnh."

Anh ta ra hiệu tổng quản mở ra khố phòng Vương cung. "Công chúa nhìn trúng vật gì, cứ việc chọn nhé!"

Dao Anh theo vào khố phòng, trước mắt ánh vàng lấp lánh, mùi đầy bảo vật. Dù nàng vẫn luôn thường thấy hào nhoáng phú quý nhân gian, vẫn không khỏi ngẩn ngơ.

Hòa thượng có tiền ghê!

Vàng bạc ngọc quý, châu báu quý hiếm, san hô cao mấy thước, đèn lưu ly tinh xảo đặc sắc, tỏa ra ánh sáng lung linh, rực rỡ muôn màu. Trên mặt đất rương đựng của cải lộn xộn chất đống phát ra từng luồng hào quang, suýt lóa cả mắt Dao Anh.

Tất Sa đứng bên cạnh đưa tay mời: "Công chúa tùy ý chọn, bên ngoài đã chuẩn bị sẵn mấy xe ngựa, chỉ cần công chúa thích thì có thể lấy dùng."

Dao Anh lấy lại tinh thần, thầm nghĩ: Đàm Ma La Già có tiền vầy thì nàng không cần khách khí. Lia mắt một vòng, ánh mắt dừng lại trên một chiếc hộp con, ngơ ngẩn, trong lòng như sóng biển dâng trào, bước tới cầm lấy chiếc hộp, chóp mũi cay xè, mắt hơi ửng đỏ.

"Vậy thứ này đi." Giọng nàng nghe mềm mại khàn khàn.

Tất Sa sửng sốt một lát định nói lại thôi, về nội điện nhận lệnh. Trong điện lặng ngắt như tờ, hương khói lượn lờ, Đàm Ma La Già đang chìm trong một chùm sáng mát lạnh, không lên tiếng.

Tất Sa đợi một lúc thấy ngài xem sách kinh đến nhập thần không dám quấy rầy, lui ra.

Bát Nhã ngăn ngoài cửa điện, rất khẩn trương hỏi: "Văn Chiêu công chúa lấy bao nhiêu thứ thế?"

Tất Sa quay nhìn Đàm Ma La Già trên bảo tháp, ra chiều suy nghĩ, hững hờ nói: "Văn chiêu công chúa chỉ lấy một vật."

Bát Nhã gấp đến sắp bốc khói, hỏi luôn một tràng: "Công chúa lấy gì?"

Tất Sa quay lại, nói: "Một viên Dạ quang bích, có vẻ công chúa rất thích nó."

Bát Nhã dậm chân nói: "Sao chỉ lấy Dạ quang bích nhỉ?"

Tất Sa liếc cậu, ánh mắt lạnh như băng: "Sao hả, cậu chê công chúa lấy nhiều quá à?"

Bát Nhã gấp gáp đấm ngực: "Tôi ngại công chúa lấy ít thì có! Mấy vị thuốc kia đâu chỉ đáng một viên Dạ quang bích! Sao cô ta chẳng lấy nhiều hơn nhỉ!"

Tất Sa nhếch miệng cười ra tiếng: "Cô ấy lấy ít cậu nổi điên làm gì? Ta nhớ cậu rất không thích công chúa Văn Chiêu mà."

Bát Nhã ai oán nguýt anh: "Tướng quân còn cười được à? Đồ cưới của Văn Chiêu công chúa đưa hết qua Phật tự, giờ cả thành đồn công chúa một lòng say mê Vương, bỏ hết vật ngoài thân chỉ vì đi theo Vương! Cô ta lại có cớ quấn lấy Vương tiếp ấy!"

Tất Sa cười cười, "Cậu sợ cái gì? Văn Chiêu công chúa si tâm ra sao, chỉ cần Vương không động tâm, sau một năm thì cô ấy sẽ rời đi. Cô ấy là người giữ lời, sẽ không quấn quýt si mê Vương đâu."

Cô gái Ma Đăng Già vì gả cho A Nan nguyện tu hành một năm, Lý Dao Anh đã thề, làm theo Ma Đăng Già, chỉ ở Vương Đình đợi một năm.

Trừ phi Đàm Ma La Già động tâm với nàng ấy.

Bát Nhã hất cằm: "Đương nhiên Vương không động tâm rồi!" Vương là A Nan chuyển thế, lúc sinh ra Thánh Thành mây ngũ sắc đầy trời, Vương cung ẩn hiện tiếng Phật. Vương cao quý thánh khiết, thanh tịnh cách dục, sao bị một công chúa Hán dẫn dụ được? Dù có nghiêng nước nghiêng thành đi nữa...

Tất Sa trêu: "Vậy cậu đang sợ chuyện gì?"

Bát Nhã ngơ ra.

...

Dao Anh cầm hộp quý về viện tử, ngồi trong góc khuất hành lang nhìn viên Dạ quang bích bên trong đến ngơ ngẩn.

Tạ Thanh đang luyện quyền trong đình thấy đôi mắt nàng đỏ bừng, bèn bước lên thềm đá, chau mày: "Công chúa, ai làm khó ngài?"

Dao Anh lấy lại tinh thần, cười cười, chùi khóe mắt: "Không có, ta nhớ anh ta." Viên Dạ quang bích của Vương Đình màu sắc trơn bóng, còn muốn lớn hơn viên anh cho nàng nhưng nàng vẫn thích viên kia nhất. Giờ, không rõ nó rơi vào tay ai rồi.

Như thường lệ, mặt Tạ Thanh không lộ cảm xúc an ủi Dao Anh: "Chắc chắn người sẽ bình an về lại Trung Nguyên, đoàn tụ với Tần Vương."

"Giờ anh không còn là Tần Vương, là Vệ Quốc Công rồi." Chắc chắn anh rất lo cho nàng, nàng cần về sớm chút. Dao Anh thở ra một hơi thật dài, thu nỗi muộn phiền, tự phấn chấn tinh thần triệu tập thân binh, căn dặn: "Chờ Pháp hội kết thúc, Tạ Bằng, Tạ Xung và A Thanh theo ta đi Cao Xương."

Các thân binh đáp vâng, Tạ Thanh hỏi: "Vương của Cao Xương sẽ giúp công chúa ạ?"

Dao Anh nói: "Đi mới biết được."

Mấy thân binh im lặng. Dao Anh nhìn qua đám thân binh ủ rũ cúi đầu, cất cao giọng: "Ban Siêu* đời Hán đi sứ Tây Vực, chỉ mang ba mươi sáu người, không mất một binh một tốt của triều đình mà thu phục hơn sáu mươi nước Tây Vực."

"Vương Huyền Sách** đời Đường đi sứ Thiên Trúc, sứ đoàn bị bắt, ngài may mắn trốn thoát, mượn binh Thổ Phiên dẫn quân đánh Thiên Trúc, chém đầu hàng ngàn, bắt sống Quốc vương Thiên Trúc A La Na và bộ hạ, tiếng tăm khắp nơi, hơn năm trăm tòa thành Thiên Trúc quy hàng."

*nhà quân sự, ngoại giao, sử học nổi tiếng Đông Hán, phụng mệnh đi sứ Tây Vực, trong 31 năm thu phục hơn 50 nước Tây Vực, có nhiều cống hiến lớn, phong Định Viễn Hầu.

**người Lạc Dương, quan triều Đường, nhà ngoại giao, mấy lần đi sứ Ấn Độ. Lần thứ hai bị vua mới lên của Thiên Trúc cho người cướp sứ đoàn.

Nàng dừng lại, ánh mắt lướt qua từng gương mặt thân binh, "Trước mắt chúng ta dù đang chịu nạn ở Tây Vực cũng chưa hẳn không thể thoát, triều đình vẫn luôn hy vọng có thể khôi phục lại con đường nối kết với Tây Vực mà chư quốc Tây Vực cũng ngóng có ngày thuộc Đông, đi sứ Cao Xương, chính là thời cơ tốt cho các ngươi thi thố tài năng!"

Thân đang ở ngoại vực xa xôi, con đường phía trước xa vời, ngôn ngữ không hiểu, đám thân binh sĩ khí đang não nề, nghe xong đột nhiên cảm thấy tầm mắt được khai sáng, nhiệt huyết sôi trào, nếu họ cũng học Ban Siêu, Vương Huyền Sách giúp triều đình thu phục Tây Vực, chẳng phải sẽ có thể vang danh sử sách, vinh quang gia tộc ư?

Họ nhìn công chúa, trong mắt dần cháy lên hai ngọn lửa đỏ rực.

Dao Anh đứng trước bậc vẻ rất trịnh trọng: "Bắc Nhung đang dòm ngó Trung Nguyên, sớm muộn gì chúng ta cũng phải dùng vũ lực với họ. Lần này đi Cao Xương, nếu không thể đạt được bất kỳ trợ giúp từ Vương của Cao Xương thì chí ít cũng nhiều ít thám thính được quân tình, biết người biết ta, mới thêm một phần thắng."

Đám người cao giọng đã rõ, khí thế ngùn ngụt, hận không thể lập tức xuất phát.

Dao Anh thấy họ kích động mà cười cười. Thân binh nửa năm bị cầm tù của nàng đang suy sụp, tinh thần sa sút, giờ lại thấy vài phần nhiệt huyết hào hùng nam nhi sao không mang ngô câu*, dù họ có lập được chiến công xuất thế hay không, khí phách và khát vọng trước mắt này, là họ đã nhặt lại lòng tin, bình tĩnh ứng đối mọi nguy hiểm.

*Ngô Câu là một loại loan đao thời Xuân Thu, đúc bằng đồng thau, là vũ khí rất điển hình, tràn ngập vẻ truyền kỳ, sau được các văn nhân lớn đưa vào thơ, trở thành vật tượng trưng cho tinh thần xông pha chiến trường, dốc lòng báo quốc.

Càng trong lúc bị vây hãm, càng không thể mất ý chí chiến đấu.

"Vương Đình có thể nhiều lần ngăn cản đại quân Bắc Nhung, hẳn họ có cách chiến thắng, trên đường đi Cao Xương, các ngươi phải chú ý quan sát Trung quân Vương Đình, học tập sở trường của họ."

Mấy thân binh đồng thanh vâng lời, đưa mắt nhìn Dao Anh về phòng, nháy mắt với Tạ Thanh vẫn một vẻ bộc trực: "Sao cô không đi theo?"

Tạ Thanh ngơ ngác. Tạ Xung ầy một tiếng, nói: "Công chúa nhớ Vệ Quốc Công, tâm tình không tốt, cô theo mà an ủi công chúa, đừng để người thương tâm khổ sở, bọn ta chắc chắn sẽ đưa người về nhà!"

Tạ Thanh xụ mặt: "Sao lại nghĩ ta phải đi an ủi công chúa?"

Đám thân binh cũng chả rõ tự dưng nàng nổi đóa, nhìn nhau.

Tạ Thanh chụp lấy thanh kiếm gỗ luyện võ, khẽ xoay cổ tay chĩa mũi kiếm về đám thân binh. "Là vì các ngươi cho ta là con gái nên khi công chúa buồn rầu thì cứ phải bảo ta đi dỗ à, vậy ta có cần thay đồ con gái, ngồi thêu hoa cùng, uống trà khóc lóc cùng với người để người bớt buồn không?"

Đám thân binh đau đớn hét rầm, vừa ôm đầu né vừa xin tha "Đại ca! Đại tỷ! Đại nương! Tụi tôi sai rồi! Tụi tôi sai rồi!"

Tạ Thanh tiếp tục đuổi đánh, cười lạnh: "Vốn các ngươi chẳng thấy có lỗi!"

"Ta nói này, dù ta có là thân gái, vẫn là hộ vệ của công chúa! Là đội trưởng của các ngươi! Có thể đánh bọn ngốc các ngươi không còn sức chống đỡ đó!"

Đám thân binh bị dồn vào góc tường hết chỗ trốn, dứt khoát ngã xuống đất, kêu rên liên tục, khóc xin tha: "Vâng! Phải rồi! Chúng ta là đồ ngốc!"

Tạ Thanh chém xuống, kiếm gỗ gọt sạch sợi tóc của tên thân binh. Tạ Bằng Tạ Xung ôm nhau một chỗ run lẩy bẩy.

Tạ Thanh xách kiếm, đá tên thân binh nhào vào ôm chân mình một cái bay tưng: "Dù ta là nam hay nữ, công chúa xem ta là hộ vệ của người, còn người là chúa công, các ngươi nhớ kỹ, ta là đội trưởng của các ngươi, không phải thị nữ của công chúa! Ta trung thành phụng dưỡng công chúa thế nào, không tới phiên các ngươi chỉ điểm!"

Cả đám mặt mũi bầm dập, lòng đầy ấm ức.

Tạ Xung khóc ròng: "Đại ca! Đại gia! Tổ tông! Tụi tôi thật sự đâu có ý xem nhẹ chọc ghẹo gì cô! Xưa nay thấy cô gần gũi với công chúa nên mới bảo cô đi an ủi người, công chúa tôn quý, mấy tên thô lậu tụi tôi vừa thấy đã không nói ra lời, khuyên là khuyên làm sao..."

Đám kia vội vàng phụ họa.

Tạ Thanh dịu cơn giận chút, thu kiếm gỗ, "Từ rày bớt chỉ huy ta đi!"

Đám người nằm rạp trên mặt đất, gật đầu như giã tỏi.

Chờ tiếng kêu la xin tha ngoài kia lắng xuống, Dao Anh nhô nửa người ra hành lang nhìn lướt, cười nhẹ nhàng, nheo khóe mắt, thật dễ thương.

Tạ Thanh lầm lì, vóc người cao lớn, mặt gãy gọn, nhìn góc nào cũng không giống con gái. Dao Anh nhẹ giọng gọi nàng: "A Thanh, đừng nóng giận."

Tạ Thanh không nói.

Dao Anh ghé vào trước cửa sổ, khẽ nói: "Đám Tạ Bằng ỉu xìu suốt, cô đánh họ một trận cũng hay, ta thấy tinh thần họ lên gân nhiều đó." Thấy nàng không có ý trách tội, mặt Tạ Thanh vẫn bơ bơ, chỉ yên lặng ưỡn ngực thẳng tắp.

Đám thân binh hết bị đánh, thấy mất mặt trước Dao Anh, nóng lòng biểu hiện, đột nhiên phấn khởi như được ăn tiên đan, trời chưa sáng đã rời giường luyện võ.

Dao Anh bị đánh thức mỗi sớm: ...

Nàng thật thèm cảm giác ngủ say sưa.

Lễ hành tượng đã gần đến, không khí chào mừng trong thành ngày càng đậm, mấy thân binh tinh lực cả người không biết xài vào đâu, tò mò muốn xem Pháp hội Phật quốc náo nhiệt.

Tạ Xung đến xin Dao Anh: "Công chúa cùng đi với tụi tôi xem tí đi."

Công chúa cành vàng lá ngọc bị nhốt ở doanh địa của Hải Đô A Lăng gần nửa năm thế nào, họ nhìn rất đau lòng, giờ ở Vương Đình cả, người Bắc Nhung không dám làm loạn, công chúa có thể ra ngoài hít không khí.

Dao Anh cũng ngại cả ngày ở mãi một góc trong cung, nhưng đang ăn nhờ ở đậu nàng không muốn ra ngoài nhỡ đụng phải Tiết Duyên Na ngoài cung, cười nói: "Các ngươi đi chơi đi."

Nàng cho Tạ Thanh phát mỗi người vài đồng bạc có thể lưu thông ở Tây Vực, một đồng có thể mua không ít thứ.

Tạ Thanh căn dặn thân binh: "Luôn phải tỉnh táo đừng chuốc thêm phiền cho công chúa."

Thân binh cười hì hì nhận tiền, cam đoan luôn miệng, cặp kè ra cung, trong đêm quay về ôm theo một đống đồ chơi mới lạ chưa thấy bao giờ cho Dao Anh giải buồn.

Hôm nay, đám thân binh tiếp tục dậy luyện quyền lúc trời còn chưa sáng, ăn xong ra cung xem náo nhiệt.

Dao Anh đang chuẩn bị để đi Cao Xương, gói ghém hành lý, kiểm kê sổ sách, bận đến chiều, bỗng Tạ Xung từ ngoài chạy xông vào viện: "Công chúa, mấy đứa Tạ Bằng bị bắt!"

Tạ Thanh ra đón: "Xảy ra chuyện gì? Ai bắt? Các ngươi gây tai hoạ gì rồi?"

Quần áo Tạ Xung lộn xộn, cả người thương tích, cúi đầu trước Dao Anh mới bước ra khỏi phòng, áy náy nói: "Công chúa, đám Tạ Bằng không cẩn thận phạm luật của Vương Đình, bị dẫn đến chỗ Nhiếp Chính Vương."

Dao Anh biến sắc.

Phật tử Đàm Ma La Già lấy nhân đức được vạn dân kính ngưỡng, còn Nhiếp Chính Vương Tô Đan Cổ thì trấn áp lòng người bằng giết chóc, hắn tàn nhẫn vô tình, chấp chưởng quyền sinh sát, tự mình xử tử Vương công đại thần hết người này đến người khác, đại thần trong triều nghe đến tên hắn liền đau tim, nghe tin đã sợ mất mật, còn dân chúng sợ hắn như hổ sói.

Ngay cả mấy người trung thành với Đàm Ma La Già như Bát Nhã, Duyên Giác cũng rất sợ Tô Đan Cổ, thấy hắn máu lạnh giết chóc, tội nghiệt quá nặng, dù họ thường xuyên dùng Tô Đan Cổ dọa Tiết Duyên Na nhưng bình thường kiệm lời chẳng muốn nhắc đến hắn.

Trên dưới Vương Đình không ai dám đi gần Tô Đan Cổ. Chỉ đến khi cần hù người mới nhắc đến cái tên này.

Mấy đứa Tạ Bằng rơi vào tay Tô Đan Cổ, dữ nhiều lành ít.

Năm đó chú của Tiết Duyên Na định phát động phản loạn, ép đại thần ủng hộ hắn lên ngôi, vị Nhiếp Chính Vương này đến một tên hộ vệ cũng không đem, một mình một đao giết vào triều đình Vương Đình, ngay trước mặt văn võ quần thần chém đầu chú Tiết Duyên Na, vác ra trước cửa cung, thét lớn lệnh thống lĩnh Tả quân Tiết gia đầu hàng, hung tợn ngập trời như Tu La.

Tiết Duyên Na sợ đến mềm nhũn chân tay, từ đó về sau, chỉ cần nghe cái tên Tô Đan Cổ đã túa mồ hôi lạnh ướt sũng cả người.

Tạ Bằng phạm luật Vương Đình gì mà bị bắt vào trong tay Tô Đan Cổ nhỉ? Dao Anh ổn định tinh thần, hỏi Tạ Xung: "Rốt cuộc đám Tạ Bằng phạm vào tội gì?"

Mỗi một thân binh đều trung thành tuyệt đối trải qua long đong cùng nàng, nàng không thể đứng nhìn họ bị Tô Đan Cổ xử quyết. Nhưng hiện đang ở Vương Đình phải nên nhập gia tùy tục, đúng là đám Tạ Bằng đã làm sai trước. Phải hỏi rõ ràng trước thì mới có cách giải quyết.

Tạ Xung nghiến răng nghiến lợi, cả giận nói: "Gần đây trong thành rất náo nhiệt, có rất nhiều đội buôn sẵn dịp lễ vào thành bán hàng, tụi tôi nghe nói thương lái Thành Nam bán ngựa tốt nên qua tìm thử, ai ngờ nơi đó không chỉ bán ngựa..."

Hai mắt cậu đỏ rực, "Chúng còn bán người! Bán toàn là người Hán!"

Dao Anh khẽ thầm thở dài.

Buôn bán người là một trong những mối buôn bán kiêm lợi nhiều nhất ở Tây Vực, gần như tất cả nhà buôn ở Tây Vực đều buôn bán nữ nô. Thường ngày bán ở Trung Nguyên phần lớn là gái Hồ có khuôn mặt xinh đẹp, còn ở Tây Vực này, là tù binh bị mấy bộ lạc cướp bóc lẫn nhau trói bằng dây cỏ như súc vật, trong đó có một lượng lớn là người Hán.

Vương triều Trung Nguyên suy sụp, địa vị người Hán ở Tây Vực rớt xuống ngàn trượng, biến thành dân đen, bị ép cắt đứt mọi liên hệ với Trung Nguyên, nói tiếng Hồ, theo tục lệ người Hồ, tết tóc, mặc áo cài bên trái, mặc cho mua bán.

Tạ Xung quỳ trước mặt Dao Anh, mắt cọp rưng rưng: "Công chúa, tôi với Tạ Bằng cũng hiểu tình cảnh của chúng ta bây giờ, không muốn đụng tới, ban đầu định lặng lẽ lùi ra... nhưng có một lão giả nghe tụi tôi nói thì tự nhiên khóc xông ra..."

Lão giả tóc trắng xoá, gầy như một bộ khung xương khoác tấm da người, té nhào xuống dưới chân Tạ Bằng, ngón tay khô đét nắm chặt vạt áo cậu ấy, mở miệng, bằng tiếng phổ thông chính gốc: "Ông trời có mắt! Ông trời có mắt mà! Trương Tùng ta trước khi lâm chung có thể nghe được giọng quê nhà!"

Tạ Xung với Tạ Bằng đỡ lão dậy. Lão hỏi thăm thì biết họ từ Trung Nguyên đến, sửng sốt mãi rồi đột nhiên bật khóc. "Hoàng đế Trung Nguyên còn nhớ những người dân bọn ta này hay không? Bọn ta khổ sở đợi chờ vương sư thu phục non sông, chờ đã mấy chục năm rồi đó!"

Hai người Tạ Xung đỏ mắt, không nói nên lời. Lúc Chu thị tiền triều lập quốc đã từng nghĩ đến việc thu phục Tây Vực, nhưng binh lực chưa đủ, mâu thuẫn trong triều lớn, chưa đến mấy đời đã mất nước. Hoàng đế bản triều Lý Đức và Thái tử Lý Huyền Trinh đều muốn thu phục Hà Lũng nhưng Đại Ngụy mới dựng nước một thời gian ngắn lại đứng trước loạn trong giặc ngoài, không hiểu rõ tình thế ở Tây Vực, tạm thời không dám tùy tiện phát binh.

Hai người không biết trả lời sao, lão giả cũng không nghĩ sẽ nghe được một câu khẳng định, tuyệt vọng khóc rống.

Đúng lúc này, tên buôn người Hán mới một roi đánh tới, lão giả bị đánh ngã ngửa.

Tạ Bằng không đành lòng nhìn lão giả chịu nhục mới dùng tiền mua nhưng tên buôn người lại cố ý khó dễ vì họ là người Hán nên đánh chết tươi lão giả trước mặt hai người!

Một ông lão xuất thân từ vọng tộc Hà Tây, lúc còn trẻ bị bắt cóc đến Tây Vực, làm nô lệ mấy mươi năm vẫn chưa quên giọng nói quê hương, chỉ mong đến ngày binh đoàn đánh đến, cứ thế đã bị đánh chết tươi!

Nói đến đây, hai tay Tạ Xung nắm chặt, run cả người, cố nén phẫn nộ và bi thương, nói: "Tạ Bằng muốn cứu lão giả nên đã xung đột với tên buôn người, không cẩn thận đả thương gã, binh sĩ Phường thị đã bắt đi, bảo họ phạm giới luật, theo luật chém! Rồi bị giải đến chỗ Nhiếp Chính Vương!"

Dao Anh thở dài. Họ quá manh động rồi.

Nàng tính toán thật nhanh, gọi mấy thân binh khác tới dặn: "Các ngươi nhanh tới khố phòng, lựa ít vải vóc tơ lụa, châu báu ngọc thạch, đưa đến nhà gã buôn người kia nói chuyện. Hỏi thăm ở chỗ Phường thị xem có dùng tiền chịu tội thay được không."

Thân binh đáp lời, chia ra làm việc.

Dao Anh đem theo Tạ Thanh nhanh chân đi chính điện, lúc sắp đến hành lang thì dừng lại.

Đàm Ma La Già cao quý thuần khiết vậy sẽ rảnh rỗi đi giải quyết mấy việc này chăng? Mấy hôm nay ngài bận rộn chuẩn bị biện kinh ở Pháp hội, nghe nói đã bế quan, ai cũng không gặp.

Dao Anh chần chừ một lát, quay lại viện tử, nghe ngóng chỗ thủ vệ: "Hôm nay Tướng quân A Sử Na có trực ở đây không?"

Vệ sĩ lập tức nói: "Công chúa chờ chút, tôi đi mời Tướng quân A Sử Na."

Dao Anh sửng sốt. Một người khác giải thích: "Tướng quân A Sử Na đã dặn kỹ, nếu công chúa có đến hỏi ngài thì dù có trực hay không cũng phải lập tức thông báo."

Bóng dáng cao lớn khỏe mạnh của A Sử Na Tất Sa rất nhanh hiện ở cửa sân, nắng chiếu trên mái tóc tết bím vàng óng ánh như muốn lu mờ mấy phần.

"Công chúa tìm tôi à?" Anh ta cười hì hì hỏi.

Dao Anh bước tới nói qua chuyện Tạ Bằng đánh người: "Thân binh của ta vi phạm luật của quý quốc, lẽ ra phải chịu phạt theo luật nhưng vì họ trung thành tuyệt đối, cùng trải qua bao trắc trở với ta nên thực sự ta không đành lòng nhìn họ bỏ mình phương xa, mới cả họ cũng chưa làm tổn thương tới tính mệnh, thực sự tội không đáng chết, không biết có cách gì cứu vãn không nhỉ?"

Tất Sa thu vẻ đùa giỡn, khẽ cau mày: "Họ được đưa qua chỗ Tô Đan Cổ à?"

Tạ Xung đứng một bên gật đầu.

Tất Sa thở dài, cười khổ nói: "Tính tình của Nhiếp Chính Vương... E không dễ."

Tim Dao Anh siết chặt.

Tất Sa cúi nhìn nàng, thấy cặp lông mày nhẹ nhăn, mặt tái đi, đôi mắt sáng long lanh yên lặng nhìn mình, khuôn mặt thanh tú như vẽ, thấy cả người mềm nhũn ra, gãi gãi đầu, giọng cũng mềm nhũn theo: "Cũng không ảnh hưởng tính mạng hay thương tổn gì, thật ra không phải chuyện gì lớn, công chúa đi theo tôi, tôi đi xin Nhiếp Chính Vương."

Nói xong, sợ Dao Anh lo, bổ sung, "Công chúa đừng sợ, có tôi đây rồi!"

Dao Anh lặng lẽ thở phào, cảm ơn trước rồi theo ra Vương cung.

Chỗ xử quyết phạm nhân ở cửa thành, là khu vực tất cả thương nhân ra vào Thánh Thành phải đi qua, người đến người đi, ngựa xe như nước, mỗi khi Nhiếp Chính Vương xử quyết phạm nhân, dưới cửa thành chật cả người.

Hôm nay Tô Đan Cổ giám sát xử trảm một đám cướp tàn nhẫn giết chết cả một bộ lạc, bố cáo đã dán từ lâu, đường cái ngay cửa thành đã chật ních dân chúng vây xem, tiếng người ồn ã.

Dao Anh đi theo sau Tất Sa, cưỡi ngựa ra Vương cung. Thủ vệ cửa thành nhận ra Tất Sa, trò chuyện với anh ta mấy câu rồi để họ qua cửa.

Trước cửa thành một đám phạm nhân bị trói gô ngồi xổm, bên cạnh có binh sĩ canh giữ.

Một tiếng hô lớn, ngoài cửa thành đột nhiên im ắng lại, hai binh sĩ bước tới, lôi hai kẻ cao lớn vạm vỡ trong đám tòng phạm lên thành lâu.

Bầu không khí nặng nề nghiêm trọng, sau chốc lát, lại vang lên tiếng hô từ cổng tò vò.

Hai tên cướp bị xử tử.

Tim Dao Anh đập thình thịch, nhìn quanh một vòng tìm thấy bóng Tạ Bằng trong đám người, mặt tái nhợt. Tạ Bằng cũng nhìn thấy nàng, lập tức sắc mặt thay đổi rõ, bờ môi ngập ngừng mấy lần, đầy xấu hổ cúi đầu. Rồi bỗng ngẩng đầu, lắc đầu với nàng.

Công chúa, đừng cứu tôi.

Dao Anh không tiến lên, ổn định lại mình rồi vội vàng đi theo Tất Sa lên cầu thang. Mấy thân binh chặn lại lại, rung trường đao trong tay, nghiêm nghị quát: "Là ai?"

Tất Sa ngẩng đầu: "Là ta, ta muốn gặp Nhiếp Chính Vương."

Giọng thân binh lạnh lùng: "Nhiếp Chính Vương đang xử quyết phạm nhân! Sau nửa canh giờ tướng quân hãy quay lại!"

Tất Sa cười xuề xòa, "Ngươi cứ đi thông báo một tiếng, bảo Tất Sa đến có việc rất quan trọng cần báo cáo, hẳn Nhiếp Chính Vương sẽ gặp ta."

Thân binh do dự rồi xoay người thông báo, lát sau quay lại, tránh đường, chắp tay mời.

Tất Sa vội dẫn Dao Anh lên thành lâu, chuyển qua tháp canh, một cơn gió đậm mùi tanh tưởi đánh thẳng vào mặt.

Dao Anh nghẹn thở, cố nén cơn buồn nôn tiếp tục đi.

Roạt, có thứ gì tung tóe bắn ra tưới lên khăn che mặt, quần áo, trên váy nàng, thấm ướt rồi từ từ nhỏ xuống tóc tóc.

Hơi lạnh từ sống lưng mà vọt lên, Dao Anh cứng cả người, cúi nhìn dưới chân mình.

Một cái đầu người trơ trọi lăn đến cạnh giày nàng, tóc dài rối tung, mặt mũi dữ tợn, đầu lưỡi thè ra, máu nhuốm đỏ đầy đất.

Sau yên ắng như vũng nước đọng, dưới cổng thành vỡ lên tiếng la như sấm sét, dân chúng đang vỗ tay reo hò. Tô Đan Cổ vừa mới xử tử một tên cướp.

Tất Sa giật mình, quay lại nhìn, cả người Dao Anh dính đầy máu, mạng che mặt còn bị nhuộm đỏ, vừa điên người, vừa xót vừa áy náy, vội vươn tay đỡ nàng, vừa quay sang trách Tô Đan Cổ: "Nhiếp Chính Vương, ngài dọa Văn Chiêu công chúa rồi!"

Tay chân Dao Anh mềm oặt đi, nhờ Tất Sa đỡ từ từ bước qua.

Trước thành lâu, một người đàn ông mặc cẩm bào màu đen xách cây đao đứng đó, dáng cao ngất thon gầy, còn gầy hơn cả Tất Sa, nhưng cả người như một cây cung kéo căng, tràn đầy sức lực bàng bạc, khí thế lạnh lẽo hung hãn, hai tay thon dài, thắt lưng gấm siết eo, vẽ nên đường cong của cơ bắp, nhìn là biết thành thạo cung ngựa.

Chính là chấp chưởng đại quyền quân chính của Vương Đình Nhiếp Chính Vương Tô Đan Cổ, là ác quỷ Dạ Xoa đến từ quỷ vực Tu La giết người như ngóe trong miệng người dân.

Tay hắn xách trường đao, liếc qua Tất Sa và Dao Anh, cặp mắt thật lạnh trống rỗng, như sương mù mờ mịt sớm mùa đông, mà nắng mùa hạ chói chang chiếu cũng không thấu không tan.

Một vạt nắng cắt qua khuôn mặt hắn, chiếu sáng gương mặt, như trong truyền thuyết, xấu xí kinh khủng, sẹo bò đầy dữ tợn, nhìn không ra nét mặt thật sự.

Dạ Xoa sống.

Dao Anh không khỏi run rẩy nhẹ.

Tất Sa cảm giác được sự sợ hãi của nàng, cởi áo choàng choàng qua đầu vai nàng, nhẹ nhàng nắm chặt hai vai nàng, không biết an ủi sao, bối rối nói: "Công chúa, người đừng sợ! Nhiếp Chính Vương chưa từng giết người vô tội, kẻ ngài giết là tên cướp tội ác chồng chất..."

Dao Anh ổn định lại, khẽ nói: "Không, là ta lỗ mãng."

Tất Sa giật mình, nhẹ thở dài, vịn Dao Anh đi đến cạnh tháp canh, "Phải trách tôi, là tôi quá sơ ý! Không nên dẫn công chúa tới đây. Công chúa chờ một lát, tôi đi giải thích với Nhiếp Chính Vương rõ ràng."

Dao Anh ngẩng nhìn anh ta, cảm kích nói: "Đa tạ Tướng quân."

Mặt Tất Sa ửng đỏ, cười cười, quay người, căm ghét liếc đầu người dưới chân, mấy bước nhảy đến cạnh Tô Đan Cổ.

"Nhiếp Chính Vương." Anh chỉ vào đám người bị trói gô dưới cổng thành, "Trong đó có mấy người Hán cãi nhau với Hồ thương rồi ẩu đả, đả thương người, tội không đáng chết, nhưng Hồ thương và Công sở Phường thị cấu kết, cố ý đưa họ tới, Nhiếp Chính Vương đừng giết lầm người."

Tô Đan Cổ không để ý đến Tất Sa, tra đao vào vỏ, qua tháp canh bên kia đi xuống thành lâu, bóng lưng cứng cáp, dáng như núi cao sừng sững cạnh vực sâu.

Tất Sa vội vàng đuổi theo, la một tràng: "Nhiếp Chính Vương, họ thật không có giết người!"

Tô Đan Cổ không quay lại, nói: "Theo luật xử lý." Giọng đè trầm thấp.

Dao Anh nghiêng tai lắng nghe, nghe xong câu này, thấp thỏm bất an cuối cùng đã ổn. Theo luật xử lý, là chỉ cần nộp tiền phạt.

Tất Sa cũng thở phào, dẫn Dao Anh xuống, tìm tới chỗ binh sĩ giữ người giải thích rõ ràng.

Binh sĩ tìm văn thư bên Công sở Phường thị gửi đến, à một tiếng, nói: "Tướng quân không cần hoảng, dù họ có bị định tội chết thì cũng phải được Nhiếp Chính Vương xác nhận xong mới dẫn tới chỗ xử quyết ở cổng thành, hôm nay kéo họ tới là chỉ để họ mở tầm mắt."

Nói cách khác, hôm nay chỉ xử quyết mấy tên cướp, mọi vụ án có định tội chết đều phải được đích thân Tô Đan Cổ xem qua, đám Tạ Bằng tội không đáng chết, Tô Đan Cổ sẽ không vì lời một phía Công sở mà định tội chết cho họ.

Dao Anh đã hoàn toàn yên tâm, liên tục cám ơn Tất Sa. Tất Sa thấy nàng bị máu nhuộm đỏ, áy náy vô cùng, đưa nàng về Vương cung, hòa nhã nói: "Để mấy việc còn lại cho tôi xử lý, công chúa cứ yên tâm ngồi chờ, đám Tạ Bằng vài ngày nữa sẽ nguyên vẹn trở về."

Dao Anh lắc đầu, nói: "Là mấy người Tạ Bằng xúc động lỗ mãng gây ra, ta thân là công chúa, lơ là dạy dỗ, không dám để tướng quân vất vả."

Tất Sa nghiêm mặt nói: "Công chúa không cần khách khí với tôi, công chúa tha hương nơi xa không ai chăm sóc, nếu gặp chuyện luôn có thể đến tìm tôi không cần kiêng kị, tôi chỉ buồn nếu không có cơ hội vất vả vì công chúa thôi." Câu cuối cùng cố gắng buông giọng rất nhẹ, rất dịu dàng.

Dao Anh giật mình.

Tất Sa cười cười, "Bữa nay công chúa sợ hãi rồi, nghỉ ngơi sớm đã, mai ta lại đến chào công chúa."

Dao Anh đưa mắt nhìn bóng cao lớn của anh ta đi xa, nhớ tới chiếc áo choàng còn khoác trên người, lắc đầu, quay người về phòng.

Mấy thân binh lần lượt về chờ lệnh, họ đã đưa châu báu ngọc thạch đút lót cho Công sở phường thị, Công sở đồng ý mai sẽ rút cáo trạng, còn gã buôn người Hồ thấy tơ lụa đưa qua đã bắt chẹt thêm ít tiền, đồng ý hoà giải.

Hôm sau, quả nhiên Tất Sa đến giúp Dao Anh xử lý mấy việc còn lại, đám Tạ Bằng nhận tội thái độ rất tốt, Dao Anh đưa ra thư hoà giải, họ nhanh chóng được thả. Tạ Thanh phạt mỗi ngày họ phải ngồi trên ngựa tập trong sân, cả đám biết chỉ một xíu nữa đã thành sai lầm lớn liên lụy Dao Anh, không dám cãi lại, thành thành thật thật nhận phạt.

Dao Anh không quở trách Tạ Bằng, sai người tìm đến Hồ thương kia mua lại toàn bộ người Hán, sắp xếp một chỗ ở ngoại thành. Còn lão giả bị chết hôm đó, nàng cho người tìm xác bị ném ra ngoài thành của ông, xử lý hậu sự.

Tạ Bằng nghe nói, lau nước mắt, tiếp tục ngồi trên ngựa.

Xử lý xong chuyện Tạ Bằng, cuối cùng Dao Anh có thể ngủ một giấc ngon.

Đêm đấy, nàng mơ thấy mình đứng ở thành lâu, một luồng máu nóng bỏng phụt ra tung tóe đầy người nàng, máu tươi theo mép váy nhỏ tóc tóc, từng tiếng từng tiếng.

Một bóng người đứng trước mặt nàng, trong tay cầm cây đao nhuốm máu.

Dao Anh không dám cử động, bỗng người kia quay đầu, một khuôn mặt Dạ Xoa, chỉ có một đôi mắt yên tĩnh, xanh như nước hồ.

Nàng giật mình tỉnh lại, đầy mồ hôi lạnh.

Trước lễ hành tượng một ngày, A Sử Na Tất Sa dẫn Dao Anh qua chỗ gã buôn người Hồ để bồi thường châu báu ngọc thạch rồi quay về.

"Họ vô cớ đánh chết nô lệ cũng có phần sai, Công sở Phường thị đã tra rõ nguyên nhân nhưng chuyện Tạ Bằng đánh người bị thương thì tiền phạt cũng không trả được."

Dao Anh hơi bất ngờ, cám ơn Tất Sa.

Tất Sa nhún vai nói: "Luật Vương Đình không nghiêm khắc chi tiết như Trung Nguyên, thương nhân có thể tùy ý đánh chết nô tỳ, Vương có hạ lệnh cấm mấy lần vẫn không chặn được tội ác này, mãi đến khi Nhiếp Chính Vương giết một lượt đám quý tộc lấy ngược sát nô lệ làm thú vui thì họ mới bớt phóng túng đi chút. Đây là ở Vương Đình, có Vương nhắc nhở, ở mấy thành bang khác, mạng người còn không bằng một con dê."

Dao Anh nhẹ thở dài. Trong thời loạn thì dù Trung Nguyên hay ngoại vực thì mạng người cũng như cỏ rác thôi. Ở Tây Vực, không chỉ người Hán bị sỉ nhục, giữa các bộ tộc chiếm đoạt nhau, rất nhiều bộ tộc bị bộ tộc khác ép thành nô dịch, sống không bằng heo chó.

Trung Nguyên cần một Vương triều lớn mạnh để thống nhất, Tây Vực cũng vậy.

Tất Sa vỗ vỗ tay, hai thị nữ đáp lời đi vào viện tử, trong tay nâng chiếc tráp.

"Hôm ấy là tôi suy nghĩ không chu toàn, y phục công chúa bị vấy bẩn, đây là tôi đặc biệt chuẩn bị cho người." Tất Sa chỉ chiếc tráp, cười híp mắt nói.

Dao Anh từ chối: "Tướng quân vất vả vì ta, ta còn chưa đa tạ Tướng quân, không dám làm Tướng quân tốn kém."

Tất Sa phất tay, ngắt lời: "Nếu công chúa muốn đa tạ thì mai là lễ hành tượng, nam nữ già trẻ trong thành đều mặc đẹp tham gia bái Phật, Công chúa giúp tôi đi Phật tự dự Pháp hội nhé? Người còn chưa từng đi dạo Thánh Thành nhỉ? Vừa vặn cho tôi một cơ hội làm người chủ nhà tận tình vậy."

Dao Anh chần chừ ít lâu, mấy hôm nay A Sử Na Tất Sa tất tả giúp đỡ nàng, cũng nên cảm tạ, sau Pháp hội còn cùng đi Cao Xương nữa, bèn gật đầu đồng ý. Nàng không tiện ra ngoài đi lại nhưng nếu có quý tộc Vương Đình đi cạnh như Tất Sa, hẳn gã Tiết Duyên Na không dám đến khiêu khích.

Tất Sa cười đầy rạng rỡ: "Tôi sẽ bảo sử nữ* giúp công chúa chuẩn bị y phục đẹp cho Lễ hội, công chúa thử thay đổi, nếu không vừa, bảo mấy cô ấy chỉnh lại."

*hầu gái, thị nữ

Nói xong, lại tiếp, "Đã áng theo cỡ người của công chúa mà cắt may, công chúa tuyệt đối đừng khách khí nhé, công chúa là khách của Vương cũng chính là khách của tôi."

Thấy Dao Anh cụp mắt như định tìm lý do từ chối, anh ta hất mày rậm, cố tạo vẻ nghiêm nghị cứng rắn: "Công chúa thật tình muốn thấy tôi buồn khổ à?"

Dao Anh cười cười, đa tạ xong ra hiệu thân binh tiếp nhận tráp, nhưng không về phòng ngay để thay mà hỏi một chuyện. "Người hôm đó trên Thành lâu là Nhiếp Chính Vương Tô Đan Cổ, hầu cận của Phật tử nhỉ?"

Ánh mắt Tất Sa hơi lóe, gật đầu, lại cười nói: "Nhiếp Chính Vương đã dọa công chúa rồi nhỉ? Công chúa không cần sợ ngài ấy, ngài thưởng phạt phân minh, hơn nữa lại rất trung thành với Vương."

Dao Anh quả thật đã bị Tô Đan Cổ dọa, mấy đêm nay toàn mơ cảnh hắn chặt đứt đầu tên cướp, bóng lưng cao lớn gầy gò thẳng tắp kia vô cùng dứt khoát, sát khí lẫm liệt, như Dạ Xoa. Trong mộng bừng tỉnh, trong đầu nàng hiện lên một nghi vấn: sau khi Đàm Ma La Già chết bệnh, Vương Đình hủy diệt, Tô Đan Cổ thân là Nhiếp Chính Vương đi đâu? Hắn chấp chưởng đại quyền quân chính, sao biến mất không một dấu vết?

Chả nhẽ hắn bị Vương công đại thần ám sát?

Dao Anh trăm mối không có lời giải.

Tô Đan Cổ quá thần bí, hành tung bí hiểm, rất ít khi ra mặt, khi mà khuôn mặt xấu xí dữ tợn kia xuất hiện trước đám đông cũng chính là lúc hắn đại khai sát giới.

Nàng thử thăm dò: "Nhiếp Chính Vương bao nhiêu tuổi nhỉ?"

Ngón tay Tất Sa sờ sờ cằm, nghĩ một lát rồi nói: "Nhiếp Chính Vương lớn hơn tôi với Vương mấy tuổi, hắn là sư huynh bọn tôi."

Thì ra Tô Đan Cổ là sư huynh của Đàm Ma La Già.

Dao Anh như có điều suy nghĩ, nghe xong nửa câu, kinh ngạc nói: "Tướng quân và Phật tử từng là sư huynh đệ à? Tướng quân cũng là người theo Phật?"

A Sử Na Tất Sa là hậu duệ của Vương tộc Đột Quyết, tên anh ta Tất Sa lấy từ tiếng Túc Đặc*, nghĩa là người rực rỡ, mẹ anh ta thờ phụng Hỏa giáo, sao lại không theo Hỏa giáo giống mẹ?

*Tiếng Suguda, xuất hiện khoảng thế kỷ VI TCN, dùng 3 loại chữ viết, một là chữ Suguda, sau phát triển dùng để viết kinh Phật; hai là chữ Mani, sau thành tiếng Ba Liệt, Hồi Hột; ba là chữ Syria, cũng dùng để viết tiếng Ba Liệt, Syria, Đột Quyết. Đều là biến thể từ chữ Aramaic, viết ngang từ phải sang trái, cũng có một số ít từ trên xuống dưới.

Tất Sa cười cười, buông lỏng tay, nhìn vẻ lãng tử: "Nhìn tôi không giống con cháu cửa Phật à? Thật ra lúc bé tôi cũng được đưa đi học Phật pháp, con em quý tộc Vương Đình đều vậy, từ nhỏ đã đi theo trưởng bối nghiên cứu kinh thư, chỉ có những người thông minh nhất, có tuệ căn nhất mới có tư cách tiếp tục theo sư tôn tu hành, Vương là người thông minh nhất, thiên tư bất phàm, sư tôn nói, tụi tôi so với ngài chỉ là một đám dê con suốt ngày be be."

Nói đến đây, Tất Sa cười khẽ. "Vương học gì cũng nhanh, lúc ngài nói bốn thứ tiếng thì tụi tôi mới bắt đầu học tiếng Túc Đặc thôi. Lúc ngài nghiên cứu thảo luận Phật lý với sư tôn, bọn tôi nghe như là thiên thư."

Dao Anh nhớ đến truyền thuyết bữa giờ nghe được, "Ta nghe tiểu sa di nói, lúc Phật Tử ra đời, trên trời Thánh Thành có hiện tượng lạ, dân chúng cả thành đều thấy."

Tất Sa thoáng lặng thinh trong chớp mắt, kéo khóe miệng: "Phải, hôm đó mây ngũ sắc đầy trời, trên đầu Vương cung cứ như có ánh Phật quang bao phủ nên hình ảnh Phật, còn có cả tiếng Phật niệm kinh. Sư tôn nói, là vì thế gian loạn lạc nên thần Phật chuyển thế đầu thai trong thân xác phàm, xuống trần lịch kiếp, cảm hóa vạn dân, phổ độ chúng sinh."

Dao Anh cười cười. Dù lời Tất Sa là thật hay giả, dân chúng Vương Đình hẳn rất tin tưởng.

Đêm đến, Dao Anh thử đồ Tất Sa đưa tới, quả nhiên là lấy cỡ người nàng mà may cắt, rất vừa vặn, không biết Tất Sa thăm dò số đo nàng từ đâu nữa.

Đến nửa đêm, đang ngủ mơ mơ màng màng, ngoài cửa sổ có tiếng người đi lại ồn ào, nàng hoảng sợ thức dậy. Tạ Thanh từ ngoài vào, nhỏ giọng: "Công chúa, là phía chính điện, Phật Tử dọn đi Phật Tự."

Bình thường Đàm Ma La Già ở Phật Tự, lần này không biết tại sao luôn ở lại Vương cung dưỡng bệnh, ngày mai trong chùa cử hành Pháp hội, chàng phải chuyển về.

Dao Anh nằm xuống ngủ tiếp, nghĩ thầm: hình như hòa thượng cứ luôn dọn nhà lúc nửa đêm nhỉ.

Sáng sớm hôm sau, Tất Sa mặc một bộ y phục mới lộng lẫy, thắt lưng gấm, bừng bừng phấn chấn, cầm một bó hoa tươi lớn đến, đứng trước cửa sân, tóc vàng lấp lánh.

Dao Anh đã thay trang phục nữ tử Vương Đình, tóc đen chải thành bím, quấn dây lụa rực rỡ và đá quý, một bộ cẩm bào áo cổ bẻ đoàn khoa hình cây cối và hươu nai, ống tay áo điểm vòng châu, dưới chân giày cổ cao thêu chỉ vàng, cũng học dáng vẻ người địa phương, bên hông đeo chủy thủ khảm đầy đá quý, bước xuống thềm đá, ngẩng mặt mỉm cười.

Giống như toàn bộ tia nắng chói chang từ cao cao chiếu xuống đang lồng lên người nàng.

Tất Sa trố mắt rớt miệng nhìn Dao Anh, ngẩn ngơ mãi, đến khi nàng đến trước mặt quơ quơ tay mới lấy lại tinh thần.

"Công chúa thật đẹp." Moi ruột gan cũng không nghĩ ra nên ca ngợi thế nào, trở nên ấp úng vụng về.

Dao Anh nhẹ cong khóe môi, mạng che bịt kín gương mặt, nhìn Tất Sa bối rối trước mặt chợt nhớ tới đám thiếu niên lang ăn chơi Trường An kia suốt ngày giục ngựa chạy theo nàng.

Giờ đây nhớ lại những năm tháng ở Trường An, dường như đã qua mấy đời.

Lễ hành tượng bắt đầu từ sáng sớm, các con đường trong thành được chùi rửa, cửa thành, cửa Lâu chăng màn, trang trí khắp nơi đổi mới toàn bộ.

Tượng Phật sắc sảo được đặt trên chiếc xe hai mươi chỗ bốn bánh lớn, cao ba bốn trượng, di chuyển quanh mấy đường chính trong thành. Mỗi vòng bốn bánh đều rất lộng lẫy, trang trí vàng bạc, ngọc lưu ly, pha lê, mưu sa lạc yết lạp bà, trân châu đỏ, a thấp ma yết lạp bà*, màn chướng rủ xuống, dù che đi theo, như một tòa cung điện cỡ nhỏ di động. Bức tượng Phật có hoa văn trang sức vàng bạc, chuỗi ngọc rủ xuống ngực, duyên dáng xinh đẹp, tư thái trang nghiêm.

*thất bảo, phiên âm theo tiếng Phạn: kim, ngân, phệ lưu ly, pha chi già, mưu sa lạc yết lạp bà, xích chân châu, a thấp ma yết lạp bà. Mai: tả lễ hành tượng tham khảo truyện Pháp hiển.

Dân chúng trong thành đổ xô ra, nam nữ già trẻ, tóc bạc tóc trái đào, ai cũng thay y phục mới tinh, nhảy cẫng reo hò sát đoàn xe về hướng cửa thành, miệng niệm tụng Phật hiệu.

Tất Sa đưa Dao Anh ra Vương cung, người trên đường lớn như sóng, chen vai sát cánh.

Tạ Thanh Tạ Xung chau mày, sợ bị đám người tách ra, theo thật sát bên cạnh Dao Anh.

Trên đường, A Sử Na Tất Sa giải thích mỗi một nghi thức cho Dao Anh, quan tâm chu đáo, kiên nhẫn nhiệt tình, trong đám đông thỉnh thoảng có người chào hỏi, anh ta cười đáp lại, rất có duyên.

Bị lây tâm tình của anh, Dao Anh tạm thời thả lỏng, cảm nhận lễ hội náo nhiệt của Vương Đình.

Dưới cửa thành thảm nỉ trải dài, dài trải chiên thảm, chiếc xe lớn chậm rãi đến trước cửa lâu bên dưới đài cao. Trên đài cao đặt hương án, trang trí đầy ngọc châu tơ lụa, ánh vàng óng ánh, đám Vương công đại thần mặc hoa phục đi xuống đài, cởi mũ mềm, chân trần tiến lên đón.

Một bản nhạc réo rắt nhẹ nhàng từ phía Nam đến, đám người đang sục sôi bỗng yên ắng lại, tất cả như nín thở, tự giác lùi qua hai bên đường, ngẩng đầu chăm chú nhìn qua bên kia con phố dài, vẻ đầy cung kính, trong mắt mang cuồng nhiệt.

Dao Anh nhìn theo .

Hai nhóm nhà sư mặc Pháp y, tay cầm lư hương dẫn đường, một con voi phủ tấm che đính đầy châu báu, trang trí hoa lệ từ phía Nam chậm rãi đi tới, trên lưng voi đặt bảo tọa, có người ngồi ngay ngắn trên đó, mặt như trăng lạnh, mắt như hoa sen, một tay cầm nhánh sen, một tay nâng hoa sen, người mặc áo cà sa rộng rãi màu trắng thêu chỉ vàng, đôi mắt cụp xuống như đang thiền định, quanh người như có ánh Phật quang mờ nhạt bao phủ, thoảng như vị thần.

Đàm Ma La Già tới.

Chàng nhẹ nhàng liếc qua đám đông, thế gian vạn vật như không lưu vào đáy mắt.

Đám người đang rộn rộn ràng ràng yên tĩnh được một lát rồi vỡ ra tiếng reo hò vang tận mây xanh, tất cả ngước nhìn chàng, đầy kích động, mặt đỏ ửng, tranh nhau rải hoa về phía chàng, còn có người muốn tiến lên chạm vào góc áo chàng, bị kỵ sĩ Trung quân áo lam ngăn lại.

Tiếng nhạc uyển chuyển mượt mà, hoa tươi bay xuống như mưa.

Voi đi đến trước đài cao, hiền lành ngoan ngoãn uốn gối, Vương công đại thần tiến lên mấy bước, quỳ cạnh chân voi, Đàm Ma La Già buông chân, đạp trên tay và vai đại thần bước lên đài cao.

Tạ Thanh Tạ Hướng hơi sửng sốt, nhỏ giọng hỏi: "Công chúa, quy củ gì thế? Vương họ giẫm lên cả vai của đại thần ạ!"

Dao Anh giải thích: "Đây là lễ thăng tọa, rất phổ biến ở Thiên Trúc và Tây Vực."

Ánh mắt nàng tập trung vào đám đại thần, đám Khang Mạc Già đứng nghiêm túc dưới đài cao, thần thái cung kính, trên mặt không chút vẻ oán giận — nhìn uy tín Đàm Ma La Già như rồng cuốn, họ nào dám ko nghiêm túc?

Một giọng nói tinh khiết nhẹ nhàng bắt đầu vang trên đài cao, Đàm Ma La Già bắt đầu tuyên giảng, dùng tiếng Hồ mà dân phổ thông đều có thể nghe hiểu. Dao Anh nghe một lúc chỉ hiểu đại khái một điều, ngài đang giảng tích cũ, Phật thấy cuộc sống đau khổ, từ đó chán nản, tham thiền ngộ đạo.

Giọng chàng trong lạnh uyển chuyển, mang theo vần luật trong sáng ung dung, dân chúng nghe như si như say.

Nửa khắc sau đó Dao Anh hoàn toàn hết hiểu, ngẩng nhìn Đàm Ma La Già trên đài, khuôn mặt đẹp khí độ xuất trần, đã hoàn toàn nhìn không ra dấu vết của người mang bệnh nặng.

Dao Anh phát hiện hình như mình chưa từng thấy phong thái của Đàm Ma La Già khi đứng thẳng, vừa rồi ngài ấy giẫm lên vai đại thần lên đài cao, đứng thẳng người, thân hình cao gầy thẳng tắp, có vẻ cao hơn cả Tất Sa một chút.

Rốt cuộc bệnh của ngài ấy là sao thế nhỉ?

Pháp hội kéo dài một canh giờ, A Sử Na Tất Sa nghe được một nửa, đưa Dao Anh lui ra ngoài, dẫn nàng đi Phật Tự.

Phật Tự sẽ cử hành đại hội tranh biện kinh thư, sau khi Đàm Ma La Già tuyên giảng xong, đại hội liền bắt đầu. Nhóm cao tăng đã tới trước, ngoài việc tham quan Pháp hội, những người còn lại chuẩn bị để tranh luận, giữa đình viện chật ních tăng nhân, đám thì ngồi vào bàn nhắm mắt trầm tư mặc tưởng, kẻ thì ngồi cạnh nhau tranh luận lớn tiếng.

Bầu không khí trong chùa khẩn trương mà sinh động, đám tiểu sa di trong chùa ai cũng vẻ mặt đầy mong chờ, chờ xem phong thái Đàm Ma La Già khẩu chiến với một đám sư kia.

Lúc xưa chàng nổi danh vì thắng trong đại hội tranh biện.

Dao Anh đi theo Tất Sa tìm đến chỗ ngồi, buồn bực ngán ngẩm đảo mắt một vòng. Tất Sa cúi đầu kể vài câu chuyện vui khi tu hành lúc bé, đột nhiên một ánh mắt sắc bén quét tới.

Tim Dao Anh giật thót, đón lấy ánh mắt kia.

Trong góc đình viện, một người đàn ông mặc trường bào tay lỡ lười biếng dựa vào cạnh Phật tháp, vừa trò chuyện với vị sư bên cạnh, vừa ngước nhìn nàng, con ngươi màu vàng nhạt lóng lánh dưới ánh mặt trời đủ làm người rét lạnh.

Là Hải Đô A Lăng!

Thấy nàng nhận ra mình, Hải Đô A Lăng khẽ nhếch miệng, hất cằm, đường cong thô kệch cứng cáp.

Dao Anh không muốn chung một chỗ với y, đứng dậy rời đi.

Tất Sa ngơ ngác đứng lên, thấy thần sắc nàng rất không thích hợp bèn nhìn theo hướng nàng ban nãy, đụng phải ánh mắt của Hải Đô A Lăng. Hai bên nhìn nhau một lúc, Hải Đô A Lăng quệt khóe môi, thu tầm mắt, nở nụ cười giễu cợt.

Tất Sa mặt đỏ bừng, cất bước đuổi theo Dao Anh, xấu hổ nói: "Văn Chiêu công chúa, Bắc Nhung cũng phái các sư đến tranh biện với Vương, có điều tôi không biết sứ giả họ phái tới là Vương tử Hải Đô A Lăng!"

"Công chúa không cần sợ, đây là Vương Đình, y không dám làm loạn!"

Dao Anh vội vàng ra khỏi Phật Tự, từ từ trấn an lại, dừng bước quay sang Tất Sa cười cười: "Ta không muốn nhìn thấy y, không thể cùng Tướng quân xem đại hội biện kinh rồi."

Tất Sa vội nói: "Vừa vặn tôi cũng không muốn xem nữa, tôi đưa công chúa về hoàng cung."

Hai người trở về Vương cung, Dao Anh căn dặn thân binh: "Mấy hôm nay không cho phép ai ra cung, người Bắc Nhung đang ở Thánh Thành."

Đám người biết nặng nhẹ, gật đầu nghe lời.

Dao Anh nhớ tới nụ cười vẻ chắc chắn phải được bên môi Hải Đô A Lăng, ăn ngủ không yên. Nàng sẽ không rơi vào tay y lần nữa, nàng phải về được Trung Nguyên.

...

Dao Anh không biết, Trung Nguyên tám ngàn dặm ngoài kia, cũng có người nghĩ đến nàng.

Mấy tháng trước, Trường An.

Một con khoái mã xuất phát từ Bùi gia, chạy cả ngày lẫn đêm, liên tục ba ngày ba đêm, đến kinh thành, không kịp thở mấy hơi đã thẳng đến Đông cung.

Có tiếng thái giám thông báo: "Điện hạ, người phái đi Bùi gia đã về!"

Tiếng bước chân đột ngột vang lên, một người mặc lễ phục Thái tử sải bước đi ra, mắt phượng đỏ quạch.

Trường An.

Lý Huyền Trinh xem hết mật báo, sắc mặt âm trầm như nước.

Tần Phi và mấy bộ hạ khác từ thư phòng cùng ra, nhìn bóng lưng Lý Huyền Trinh, đưa mắt nhìn nhau, còn chưa kịp nói gì, bỗng Lý Huyền Trinh run không ngừng, ngã xuống đất.

"Điện hạ!" Tần Phi xông lên, đỡ dậy Lý Huyền Trinh.

Lý Huyền Trinh nắm chặt tin, ho ra một ngụm máu.

Cả bọn quá sợ hãi, trước đây không lâu Bắc Nhung tập kích, Thái tử tử thủ Lương Châu, người bị thương nặng còn chưa khỏi hẳn, thổ huyết không thể coi thường!

Thái giám giật mình, co cẳng chạy, luôn miệng thúc giục hộ vệ đi mời Thái y.

Tần Phi vịn Lý Huyền Trinh về phòng, chỉ sau chốc lát có tiếng bước chân ngoài sảnh, phụ tá, binh tướng đang đợi bên ngoài rối rít tránh qua, Thái tử phi Trịnh Bích Ngọc cùng Thái y tới.

Trịnh Bích Ngọc vào trong phòng, hỏi: "Sao Điện hạ lại bị thổ huyết? Vì luyện võ lại à?"

Tần Phi cụp mày, lùi ra ngoài bình phong đáp: "Điện hạ vừa mới xem xong tin từ Bùi gia."

Trên giường, Lý Huyền Trinh nhắm nghiền mắt, mặt như giấy vàng, trong tay còn siết chặt thư. Trịnh Bích Ngọc ngồi trước giường, gỡ ngón tay hắn ra vội vàng xem thư, trong phút chốc trăm mối cảm xúc ngổn ngang trong lòng, nhẹ thở dài.

Văn Chiêu công chúa đã hương tiêu ngọc vẫn, tra rõ thân thế em ấy thì có ích lợi gì? Thất công chúa thiên kiều bá mị, làm thiếu niên lang Ngũ Lăng trong kinh nhớ mong, cũng sẽ không quay về nữa.

Thái y xem qua vết thương cũ của Lý Huyền Trinh, bôi thuốc một lần, rồi kê toa mới, dặn dò: "Vết thương cũ Điện hạ chưa lành, phải thả lỏng tâm trạng, đừng để tức giận."

Trịnh Bích Ngọc nhìn Lý Huyền Trinh trong cơn mê vẫn nhíu chặt mày rậm, nhớ lại chuyện phát sinh trong mấy tháng qua, mặt nặng nề.

Bảo Lý Huyền Trinh thả lỏng, e là khó đấy!

...

Mấy tháng trước, Bắc Nhung tập kích, Lý Huyền Trinh trấn thủ Lương Châu, dẫn tướng sĩ biên quan huyết chiến mấy ngày, chờ viện binh gấp rút tiếp viện.

Tin tức truyền về Trường An, cả triều chấn kinh, chưa kịp đợi Lý Đức hạ chỉ tăng binh, Tây Bắc có Kim Thành, Tiêu Quan, Thiện Châu, Đông Bắc có Hạ Châu, Tấn Châu, phía Nam có Giang Châu, Thư Châu, và Tây Thục tiếp giáp Lãng Châu đồng thời dấy lên phong hỏa, trong mấy ngày, mấy cổng canh gác lớn cùng với Bắc Nhung, Nam Sở, Tây Thục huyết chiến mấy trận, tử thương vô số.

Cả nước chấn động.

Nghe kỵ binh Bắc Nhung xuôi Nam, Nam Sở thừa cơ tập kích quấy rối, người giàu có ở Trường An nghe tin sợ mất mật, rối rít gom vàng bạc của cải chạy về phía Nam, đại thần trong triều hoang mang lo sợ, cố gắng khuyên nhủ Lý Đức dời đô.

Đang phút giây lòng người bàng hoàng, Lý Huyền Trinh gửi một phong hịch văn đi Trường An, mãnh liệt công kích đám chuột nhắt muốn bỏ thành mà chạy, nói lúc này mà dời đô, lòng dân dao động, biến Đại Ngụy thành trò cười vạn kiếp, ngày sau sao nhất thống thiên hạ được?

Lúc này các nơi Kim Thành, Tấn Châu gửi chiến báo khẩn cấp tám trăm dặm về Trường An, dù trạm gác vội vàng ứng chiến, mất đi vài toà thành trì, nhưng tướng sĩ anh dũng, rất nhanh tập trung lui về giữ quan, dựa vào địa hình dễ thủ khó công cố thủ không ra, giằng co với quân địch, hơn nữa đã nhận được cảnh báo trước, kịp thời gửi thư cầu cứu, quân đóng gần đó đuổi tới cứu viện, nội ứng ngoại hợp cùng với quân tại chỗ, dẹp yên quân địch tập kích, chỉ chờ triều đình tiếp tục phát binh phát lương, họ có thể một trận mà đoạt lại trạm gác.

Ngay sau đó, văn lại của Kim Thành Đỗ Tư Nam ngày đêm chạy tới Giang Châu, dựa vào miệng lưỡi ba tấc không nhão của y, thành công bức lui Đại tướng Nam Sở. Nam Sở, Tây Thục trong vòng một đêm đồng thời lui binh, không đến mấy ngày, tin đổi trữ chấn động triều đình Nam Sở, Mạnh gia Tây Thục trình quốc thư đến Đại Ngụy bảo tất cả đều là hiểu lầm, họ không có ý tiến đánh Đại Ngụy.

Lý Đức ra sức dẹp nghị luận của mọi người, giận dữ mắng mỏ đại thần đề nghị dời đô hại nước hại dân, phát binh tiếp viện mấy vùng Lương Châu, Kim Thành, bổ nhiệm Bùi Đô đốc làm Đại tổng quản hành quân, đoạt lại thành trì đã mất.

Nam Sở, Tây Thục lui binh khiến Đại Ngụy bớt một nỗi lo sau lưng, có thể tập trung binh lực chống cự uy hiếp đến từ phía Bắc.

Khí thế kỵ binh Bắc Nhung rất dữ nhưng quân số không nhiều, lương thảo không đủ, hơn nữa trong vòng nửa tháng tấn công phòng tuyến phương Bắc không nổi, không cách nào xâm nhập Trung Nguyên, ý thức được Đại Ngụy bắt đầu phát động phản công, cũng không ham chiến, sau khi đánh cướp một vùng Kim Thành quả quyết thu binh.

Đại Ngụy giữ vững.

Nhưng Hà Lũng đã hoàn toàn rơi vào tay Bắc Nhung, Bắc Hán nước láng giềng Đại Ngụy một đêm hủy diệt, Kim Thành tổn thất nặng nề, suýt nữa thất thủ, chỉ cần Bắc Nhung tập trung binh lực phát động một cuộc đột kích sớm nữa, Đại Ngụy sẽ phải không ngừng phái binh liều chết bảo vệ các cửa ải.

Cũng may hiện Bắc Nhung chưa thể tấn công toàn diện, Lý Huyền Trinh giữ vững Lương Châu, Đại Ngụy không đến mức hoàn toàn thua dưới gót sắt Bắc Nhung.

Đại Ngụy đã vượt qua nguy cơ không còn nguy hiểm.

Thời gian đó người người bất an, thời thế biến ảo, làn sóng cổ quái, đủ loại kinh tâm động phách, Trịnh Bích Ngọc một nữ tử khuê các ở sâu trong cung cũng có thể cảm nhận được. Bây giờ nghĩ lại vẫn còn thấy sợ, lạnh run cả người.

Chỉ thiếu một chút, Đại Ngụy đã bị cuốn vào trong chiến hỏa, bốn bề là địch.

Khi Bắc Nhung lui binh, Tây Thục, Nam Sở tạm thời khôi phục quan hệ ngoại giao với Đại Ngụy, cả nước ăn mừng, triều đình bắt đầu luận công ban thưởng, Lý Đức cho gọi Đỗ Tư Nam lập đại công ở chiến dịch Kim Thành, hỏi y ai đã kịp báo tin trước khi Bắc Nhung tập kích, để y kịp thời phát hiện âm mưu Bắc Nhung, không chỉ giữ vững Kim Thành còn khuyên lui Nam Sở.

Đỗ Tư Nam không lập tức cho ra đáp án.

Mấy hôm sau, thành Trường An, phố Chu Tước, dân chúng chen chúc xô ra nghênh đón tướng sĩ khải hoàn.

Lý Đức dẫn đầu văn võ quần thần ra đón.

Một thân binh cả người bị thương đi cà nhắc cà nhắc phía trước cả đội từ phương Bắc về.

"Lương Châu giữ vững, Kim Thành giữ vững, Tiêu Quan giữ vững, Đại Ngụy bình yên vô sự, dân chúng không cần chịu trong biển lửa."

Hắn quỳ rạp dưới cửa thành, ngẩng đầu, hai mắt đỏ như máu: "Bệ hạ, mạt tướng nhận lệnh Văn Chiêu công chúa, về các cửa ải cảnh báo, may mắn không làm nhục mệnh!"

Một khắc này, cả bầu trời ở phố dài yên lặng như tờ.

Giọng cậu ấy quanh quẩn trước cửa cung rất lâu.

Đám người rộn rộn ràng ràng lặng người nhìn thân binh.

Văn võ quần thần người mặc hoa phục kinh ngạc nhìn thân binh.

Hồi lâu không ai nói chuyện, người người lặng yên, trang nghiêm như tờ.

Lý Đức run run mãi lâu, hỏi: "Văn Chiêu công chúa đâu? Nó có công với đất nước, trẫm muốn ban thưởng."

Quần thần phụ họa theo, tiếng ca ngợi bên tai không dứt.

Thân binh nước mắt đầy mặt: "Bộ lạc Diệp Lỗ bị hủy diệt, công chúa ngài... Ngài..." Hắn khóc không thành tiếng, như đã trút hết toàn bộ sức lực.

Trong đám người lặng im bắt đầu có tiếng khóc bi thương, từ kiềm chế nức nở rồi òa lên khóc liên hồi.

Mấy tháng trước, cũng ở chỗ này họ đưa tiễn Thất công chúa, nhìn nàng gả đi tái ngoại, hy vọng nàng có thể cả đời bình an.

Mấy tháng sau, Thất công chúa ở xa liều chết nhắc nhở tướng sĩ giữ ải, Đại Ngụy bình yên không ngại, Thất công chúa lại hương tiêu ngọc vẫn, bỏ mình xa xứ.

Quan viên Lễ Bộ đưa Thất công chúa xuất giá, lúc cả đội ngũ qua khỏi trường thành, hỏi Thất công chúa có câu gì muốn chuyển báo cho Lý Đức.

Thất công chúa nhìn lại thành trì nguy nga xuyên núi sau lưng, cười nhạt: "Nguyện hà thanh hải yến, thương hải ba bình*."

*đại ý là thiên hạ thái bình, trời yên biển lặng

Công chúa hòa thân, chống đỡ trăm vạn binh.

Nam nữ già trẻ quỳ xuống đất dập đầu khóc.

Hôm ấy, Trịnh Bích Ngọc ở trên thành lâu của đường bên hông, nghe tiếng khóc như thủy triều từ bên này truyền tới, hốc mắt cũng không khỏi ươn ướt.

Nàng không tìm được bóng dáng Lý Huyền Trinh trong đội khải hoàn, phái người đi hỏi thăm.

Tần Phi hồi bẩm: "Điện hạ, Thái tử điện hạ... ngài đã mang theo đội phi kỵ đi Hà Lũng."

Trịnh Bích Ngọc vô cùng kinh ngạc: Hà Lũng hiện giờ là địa bàn của Bắc Nhung, Lý Huyền Trinh bị thương nặng chưa khỏi, không muốn sống nữa sao!

"Sao chàng phải đi Hà Lũng?"

Tần Phi thở dài: "Lúc Bắc Nhung tập kích, điện hạ phái một đội đến Diệp Lỗ để đón Văn Chiêu công chúa về kinh, chờ Bắc Nhung lui binh, mấy người đó về phục lệnh báo Diệp Lỗ đã hủy diệt. Họ tìm mấy ngày không tìm được công chúa, bị một đám kỵ binh Bắc Nhung bao vây, không dám chờ lâu đành lui về Lương Châu trước."

Đội quân không đánh mà lui, Lý Huyền Trinh giận tím mặt, xử lý xong quân vụ lệnh trưởng sử ở lại thủ Lương Châu, liều mạng dù bị thương, tự mình dẫn đội phi kỵ đi Diệp Lỗ tìm người.

Lần này tìm hơn một tháng, chẳng những Lý Huyền Trinh không tìm được thứ gì, còn mấy lần bị Bắc Nhung bao vây chặn đánh, thân binh bên cạnh chết một nửa, cửu tử nhất sinh chật vật lui về Lương Châu.

Bắc Lương Châu đã hoàn toàn rơi vào tay Bắc Nhung, họ không còn cách nào khác.

Bộ hạ khổ sở khuyên bảo Lý Huyền Trinh về kinh trị thương trước, Lý Huyền Trinh quả quyết bác bỏ, khăng khăng muốn tìm Văn Chiêu công chúa về, không thể mang binh vượt qua phòng tuyến của Bắc Nhung, hắn ngụy trang thành dân du mục trà trộn!

Tướng thủ Lương Châu bản địa rùng mình: Lý Huyền Trinh đường đường là Thái tử một nước, nếu ngài ấy chết trong tay người Bắc Nhung, họ chết muôn lần cũng không chuộc được tội! Cả đám run sợ, nghĩ trăm phương ngàn kế khuyên can Lý Huyền Trinh, chỉ có Tần Phi không mở miệng nói gì.

Hắn hiểu rõ Thái tử, bình thường Thái tử khiêm tốn nghe can, nhưng khi ngài đã điên lên thì chẳng ai khuyên được. Năm đó Thái tử vì cứu Chu Lục Vân vụng trộm trốn ra ngoài, một mình xông trại địch, huyết chiến cả đêm. Giờ Văn Chiêu công chúa tung tích không rõ, trừ phi tìm ra Văn Chiêu công chúa, Thái tử sẽ không hồi kinh.

Tần Phi đành để lại tất cả thân binh, quay về kinh gặp Trịnh Bích Ngọc bẩm báo.

Trịnh Bích Ngọc lòng gấp như lửa đốt, nếu sớm biết Lý Huyền Trinh sẽ nổi điên, nàng không nên gửi thư nói rõ thân thế của Thất công chúa, hẳn chàng đã đọc thư, cảm thấy thẹn với Thất công chúa, mới điên cuồng như vậy.

Nàng lập tức sai thị nữ mài mực bày giấy, chuẩn bị viết thư khuyên Lý Huyền Trinh về kinh, bỗng tùy tùng cầm về một phong thư.

Trịnh Bích Ngọc nhìn bức thư chính mình gửi đi trước đây không lâu, mãi lâu không nói gì.

Tùy tùng giải thích, bức thư không đưa được đến tay Lý Huyền Trinh, khắp Lương Châu đang chiến tranh, người mang tin trên đường xảy ra ngoài ý muốn, tin bị trả lại.

Lạch cạch một tiếng, bút trong tay Trịnh Bích Ngọc rơi xuống đất, mực đầm đìa, theo mép váy nhỏ xuống.

Lý Huyền Trinh không nhận được tin.

Chàng không biết thân thế của Thất công chúa, dù em ấy là con của Tạ Quý phi, dù mấy năm qua giờ giờ phút phút chàng bị thù hận tra tấn, chàng vẫn phải cứu Thất công chúa.

Trịnh Bích Ngọc suy nghĩ bỗng nhiên hiểu ra rất nhiều chuyện.

Hiểu ra vì sao Lý Huyền Trinh căm hận Thất công chúa khuê các như vậy, căm hận đến muốn phái người ngày đêm giám sát Thất công chúa, căm hận đến giữa đêm nằm mộng vẫn nghiến răng nghiến lợi kêu tên Thất công chúa.

Trịnh Bích Ngọc ngồi ngay ngắn trước cửa sổ, nhắm mắt, vẻ mặt như khóc như cười.

Sớm biết hôm nay, sao hôm qua còn vậy!

Chàng ngầm đồng ý Ngụy Minh gài Thất công chúa, tự tay dâng cô em yếu đuối đến giường của Khả Hãn Diệp Lỗ dã man, chàng nói chàng sẽ không hối hận...

Chàng hối hận lâu rồi!

Thảo nào Ngụy Minh luôn nhắm vào Thất công chúa, là quân sư của Lý Huyền Trinh, hẳn đã nhìn ra chuyện giữa hai người không phải tầm thường, đưa Thất công chúa gả thay không chỉ là cứu Chu Lục Vân mà cũng vì để Lý Huyền Trinh tuyệt tình hoàn toàn!

Trịnh Bích Ngọc vò nhăn tờ giấy, không viết thư khuyên Lý Huyền Trinh hồi kinh nữa.

Cùng giường chung gối mấy năm, nàng và Lý Huyền Trinh tương kính như tân, tôn trọng lẫn nhau, trên đời này không ai hiểu rõ Lý Huyền Trinh hơn nàng, nàng khuyên không được.

Trịnh Bích Ngọc bắt đầu mưu đồ cho tương lai, nàng dẫn con trai qua cung Thái Cực, dạy con cách lấy lòng Lý Đức, chẳng bao lâu, Lý Đức ban chỉ, ngài muốn đích thân dạy dỗ Hoàng thái tôn.

Địa vị Đông cung vẫn luôn vững chắc.

Một tháng sau, Lý Huyền Trinh trở về. Vết thương chằng chịt, ngựa còn cưỡi không được, được thân binh khiêng về.

Thân binh còn đem theo tin dữ: Thất công chúa Lý Dao Anh hương tiêu ngọc vẫn, chết trong tay người Bắc Nhung, có người tận mắt nhìn thấy người Bắc Nhung giết sạch hộ vệ của công chúa, đến ngựa cũng không tha.

Lý Huyền Trinh tinh thần uể oải, cả ngày lặng thinh.

Trịnh Bích Ngọc lập tràng làm pháp sự cho Lý Dao Anh.

Người người đều biết Thất công chúa dữ nhiều lành ít, nàng ấy trước âm thầm mua hơn chục người Hồ báo tin cho mình, sau lại phái đi mười mấy thân binh, cuối cùng phần lớn là người Hồ thành công báo tin, chỉ còn một thân binh may mắn sống tiếp —— tình thế nguy hiểm đến mức đó, Diệp Lỗ một đêm diệt vong, sao Thất công chúa có thể chạy trốn nổi?

Tin Lý Dao Anh chết truyền khắp Trung Nguyên, dân chúng khóc than không ngừng, tự phát lễ truy điệu cho Lý Dao Anh, vì kỷ niệm nàng, xây miếu ở Kinh Nam, cúng nhiều hoa trái. Lý Đức hạ chỉ truy phong Lý Dao Anh là Trấn Quốc công chúa, Tạ hoàng hậu lại được thưởng phong —— vị hoàng hậu này ở trong Ly cung vốn không biết con gái mình chết ở tái ngoại, cả việc Lý Trọng Kiền dưỡng thương ở Lạc Dương cũng bị giấu diếm.

Nhoáng cái đã qua nửa tháng, thương thế Lý Huyền Trinh ngày càng tốt, nhưng người ngày càng gầy gò.

Trịnh Bích Ngọc đưa Chu Lục Vân đến bên hắn.

Trong lúc Lý Huyền Trinh tử thủ Lương Châu, Đỗ Tư Nam và Trịnh Cảnh dựa vào tình báo từ Lý Dao Anh, đã tra hỏi từng nô bộc cạnh Chu Lục Vân chuyện cô ta cấu kết với Nam Sở, Tây Thục, Bắc Nhung. Theo lời hộ vệ phủ công chúa, kẻ chết dưới đao Lý Huyền Trinh chỉ là một trong mấy tâm phúc mà Trưởng công chúa Nghĩa Khánh phái về Trung Nguyên, còn rất nhiều tùy tùng trung với bà rải rác ở Tây Thục Nam Sở.

Mục đính thực sự của họ chẳng phải thỉnh cầu Vương triều Trung Nguyên phát binh cứu Trưởng công chúa về, mà là lợi dụng thân phận con gái Chu thị của Trưởng công chúa châm ngòi lòng người, thu thập tình báo cho Bắc Nhung, kích động các quốc gia Trung Nguyên chinh chiến với nhau, suy yếu binh lực các nước, khi Trung Nguyên phân loạn, Bắc Nhung sẽ tiến quân thần tốc.

Lần này Bắc Nhung tập kích chỉ là thăm dò của Hải Đô A Lăng.

Lý Đức và đại thần trong triều xem hết lời khai, lòng còn sợ hãi, mồ hôi lạnh chảy ròng ròng.

Trịnh Cảnh còn thuận tay tra rõ một sự kiện đã khiến quần thần buồn bực đã lâu: vì sao Nam Sở muốn phục kích Lý Trọng Kiền?

Mật thám nói thật từ đầu: thế gia Nam Sở mọc như nấm, hoàng quyền suy yếu, các đại thế gia minh tranh ám đấu vì vị trí Trữ quân, tâm phúc của Hải Đô A Lăng thừa cơ ra tay, khuyên Đại hoàng tử ham tranh công lớn đánh lén Lý Trọng Kiền, dấy lên chiến sự với Đại Ngụy.

Đội đánh lén đó là tinh nhuệ của Nam Sở, nếu không phải Lý Dao Anh giao dịch với Lý Huyền Trinh đi cứu Lý Trọng Kiền, hẳn hắn đã chết chắc.

Đỗ Tư Nam viết một bức thư ngôn từ khẩn thiết mà không thiếu phần cay độc, báo mưu đồ của Hải Đô A Lăng cho bạn cũ ở Nam Sở, mấy vị bạn cũ ở triều đình Nam Sở nắm chức cao, sau khi xác nhận cạnh Đại hoàng tử có mật thám đã cùng nhau lật đổ Đại hoàng tử: mặc dù họ cùng Ngụy triều thế như nước với lửa, nhưng môi hở răng lạnh, nếu Bắc Nhung công chiếm Trung Nguyên, chả nhẽ Nam Sở có thể tự lo thân mình?

Đại hoàng tử và Tây Thục đều vì bảo hổ lột da!

Nam Sở rất nhanh đổi Trữ.

Trịnh Cảnh dâng sớ, đề nghị lấy tội phản quốc bắt Chu Lục Vân, đại thần trong triều kịch liệt tranh cãi, bảo Chu Lục Vân không hề biết đến kế hoạch của Hải Đô A Lăng, cuối cùng miễn tội cho cô ta, giết sạch nô bộc bên cạnh.

Chu Lục Vân thấy Lý Huyền Trinh trọng thương trở về, vừa áy náy vừa đau lòng. Lần này Lý Huyền Trinh không giống trước kia nhẹ lời an ủi cô ta nữa, cả ngày ngơ ngơ ngác ngác, Chu Lục Vân ầm ĩ một trận, khóc nói muốn rời khỏi Trường An.

Trịnh Bích Ngọc phiền phức vô cùng, sai người đưa Chu Lục Vân về phòng.

Vài ngày sau, trong lúc vô tình Lý Huyền Trinh nhìn thấy bức thư vốn nên nằm trong tay mình cách đây mấy tháng.

Hắn run cả người, ói một miệng máu, tìm tới Trịnh Bích Ngọc, mắt phượng đỏ rực không chớp nhìn nàng chằm chằm như lệ quỷ: "Sao không báo cho ta biết sớm hơn? Vì sao?!"

Trịnh Bích Ngọc thở dài, thản nhiên nói: "Điện hạ, lúc thiếp biết tin, chàng đã đưa Văn Chiêu công chúa đi Diệp Lỗ rồi."

Lý Huyền Trinh suýt không kiềm chế nổi cảm xúc, răng nghiến kèn kẹt, lảo đảo lùi mấy bước, ngửa mặt lên trời cười to.

"Đúng nhỉ! Là ta tiễn muội ấy đi!"

"Tự tay ta đẩy muội ấy vào đường chết!"

"Vì sao?! Vì sao muội ấy lại muốn cứu Lý Trọng Kiền? Vì sao không muốn cắt đứt quan hệ với Lý Trọng Kiền?"

"Chỉ cần muội ấy cắt đứt quan hệ với mẹ con Tạ thị... chỉ cần muội gật đầu... Ta cũng không cần hận muội..."

"Vì sao muội ấy không gọi ta Trường Sinh ca ca nữa?"

Hắn đột nhiên ngừng lại, khuôn mặt vặn vẹo: "Ta muốn báo thù cho mẹ... Muốn báo thù cho mẹ... Lý Đức còn chưa có chết, Tạ thị chưa chết... Ta có lỗi với mẹ... Ta có lỗi với mẹ!"

Trịnh Bích Ngọc nhìn người chồng phát cuồng, ánh mắt thương xót.

Chàng hủy hoại mình, cũng hủy hoại Thất công chúa.

...

Sau hôm phát cuồng, Lý Huyền Trinh tỉnh táo lại một cách lạ thường, bắt đầu điều tra lời của Vinh phi là thật hay giả. Hắn phái người đi Kinh Nam nghe ngóng chuyện Tạ gia, nhờ Bùi Đô đốc viết phong thư, mang đến nhà Bùi gia.

Bùi gia Tạ gia cả đời không qua lại, có thể Bùi công biết chút ít ẩn tình nên lúc ấy mới không ngại ngàn dặm xa chạy đến Trường An ra mặt giúp Lý Dao Anh.

Bức thư này giờ đây nằm trong tay Trịnh Bích Ngọc. Thư Bùi công nói, Lý Dao Anh đúng là không phải con gái Tạ Quý phi.

Năm đó Đường thị tự thiêu mà chết, Lý Đức bỏ quân chạy về quận Ngụy, lòng quân tan rã, tiền tuyến thất bại, Tạ Vô Lượng cùng với Bùi công lãnh binh đối địch, trong lúc dọn dẹp chiến trường sau trận chiến vô tình nhìn thấy một đứa trẻ bị vứt bỏ.

Đứa bé trong tã lót quá nhỏ quá yếu ớt, cuộn thành một khối nhỏ xíu, không phát ra chút âm thanh. Binh sĩ nghĩ nó chết rồi định chôn tại chỗ, thì Tạ Vô Lượng xuống ngựa, ôm lấy, sờ mạch đứa bé, nói: "Còn sống."

Bùi công quét mắt một vòng qua đứa bé, lạnh lùng thốt: "Đứa nhỏ này cả người xanh mét, lượm về cũng chẳng sống nổi mấy hôm, không bằng để nó chết thống khoái đi, kiếp sau đầu thai vào một nhà tốt đẹp."

Tạ Vô Lượng cười cười, đầu ngón tay phủi bụi đất trên mặt con bé: "Gì cũng là một mạng người. Lúc cháu ra đời cũng chẳng khác nó mấy, cháu đã sống được, có lẽ nó cũng có thể."

Bùi công thầm nghĩ: Vô Lượng công tử đúng là trời sinh mềm lòng, đáng tiếc, làm vậy cũng chỉ uổng công, đứa bé bị vứt bỏ này chẳng sống được mấy tháng.

Sau này, đứa bé vẫn còn sống, dù thân thể ốm yếu không thể bước đi, nhưng vẫn còn sống.

Tạ Vô Lượng từng gửi cho Bùi công một phong thư, trong thư là một bài thơ.

Trung sinh bạch phù dung, hạm đạm tam bách hành.

Bạch nhật phát quang thải, thanh tiêu tán phương hinh.

Tiết hương ngân nang phá, tả lộ ngọc bàn khuynh.

Ngã tàm trần cấu nhãn, kiến thử quỳnh dao anh.

*Trích Đóa sen trắng chùa Đông Lâm – Bạch Cư Dị.

Bùi công chỉ trả lời một câu: Đặt tên rất hay.

Trịnh Bích Ngọc buông tin xuống, thở thật dài.

Có tiếng bước chân ngoài cửa sổ, một thị nữ vội vàng đi vào nhỏ giọng nói: "Điện hạ, không thấy Phúc Khang công chúa đâu ạ."

Trịnh Bích Ngọc nhẹ chau mày, nhìn Lý Huyền Trinh đang mê man, nói: "Cho người chia ra đi tìm, mấy bữa nay cô ta lộn xộn đòi đi, ở cửa thành chờ là được."

Thị nữ vâng dạ ra ngoài, chỉ sau chốc lát, lại có thị nữ chạy vào.

Trịnh Bích Ngọc nhíu mày hỏi: "Tìm thấy Chu nương tử rồi à?"

Thị nữ lắc đầu, vẻ hoảng sợ: "Điện hạ, Nhị hoàng tử... Không, Vệ Quốc Công đã về!"

Trịnh Bích Ngọc hơi hồi hộp trong lòng.

Lý Trọng Kiền đã biết tin Lý Dao Anh chết.

Trước cửa thành rộn rộn ràng ràng, dòng người như dệt.

Trời đang vào xuân gió ấm áp, ngựa tốt xe thơm ra ngoài thành ngắm cảnh nối đuôi không dứt, liếc nhìn lại, hồng trần cuồn cuộn, màn trướng không ngớt.

Cạnh con đường dài, đội xe buôn chờ vào thành tạo thành một đội hình uốn lượn quanh co, không nhìn thấy đuôi.

Cảnh tượng phồn hoa giàu có thái bình.

Lúc xe chở Vệ Quốc Công Lý Trọng Kiền vào hoàng thành, dân trên đường nhận ra cờ của Tạ gia, rối rít dừng xe ngựa nhường đường, dân chúng dừng chân quan sát.

Tất cả hộ vệ cưỡi ngựa mang đao trước xe ngựa đều đốt giấy để tang, người mặc tang phục, vẻ lạnh lùng. Họ đang để tang cho Văn Chiêu công chúa.

Dân chúng châu đầu ghé tai, khẽ bàn tán: Nghe nói Vệ Quốc Công bị trọng thương, võ công bị mất sạch, sau này không còn khả năng ra đánh trận, em gái ruột duy nhất chết ở tái ngoại, thật đáng thương tiếc!

Trong tiếng xì xào, rèm xe gió thổi không lay, luôn thả thấp, vị Nhị Hoàng tử thích cưỡi tuấn mã lao vùn vụt vào thành mỗi lần khải hoàn kia như xấu hổ gặp người, trước sau không hề lộ diện.

Dân chúng đưa mắt nhìn xe ngựa đi xa, nhớ đến vị Nhị hoàng tử luôn phấn chấn rạng rỡ anh hùng, nhìn nhau, lắc đầu thở dài.

Tin tức rất nhanh truyền đến cung Thái Cực, thái giám vào thông báo.

Lý Đức nhíu mày, nói: "Để Thiên Ngưu vệ gặp nó."

Thái giám vâng dạ, truyền xuống Thiên Ngưu vệ, họ không kịp chuẩn bị, vội vàng triệu tập người, luống cuống vọt ra nội thành đón tiếp.

Một canh giờ sau, mấy trăm lính gác cửa mặc nhung trang, tả hữu Thiên Ngưu vệ, tả hữu Kiêu vệ canh giữ trước cửa phủ Vệ Quốc Công, như sẵn sàng đón địch, trong cổng ánh đao lập loè, từ phố dài đến quảng trường, khắp nơi đều có vệ binh mai phục.

Trịnh Cảnh và Tiết Ngũ vội vàng chạy tới, chờ trước thềm cửa phủ. Thiếu niên lang đánh ngựa truy đuổi Thất công chúa ngày xưa giờ đây đã là quan đồng liêu, đều mặt quan bào màu xanh cổ tròn.

Tiết Ngũ ra vẻ khẩn trương, không ngừng lau mồ hôi.

Trịnh Cảnh liếc hắn: "Ngươi sợ gì thế?"

Tiết Ngũ đá lại: "Trịnh Tam, chả nhẽ ngươi không sợ Vệ Quốc Công à? Năm đó là ai suýt tí bị Vệ Quốc Công dọa té ngựa?"

Nghe gã khơi lại chuyện cũ, Trịnh Cảnh giật mình. Đúng vậy, cậu đã từng e ngại Lý Trọng Kiền —— tử đệ quý tộc ngưỡng mộ Văn Chiêu công chúa có ai không sợ Lý Trọng Kiền?

Văn Chiêu công chúa tự nhiên hào phóng, cử chỉ văn nhã, Lý Trọng Kiền là anh cùng mẹ lại bá đạo lỗ mãng, ông trời là lão đại lão nhị thì hắn lão tam, thường xuyên có cử chỉ đáng sợ, xem thường kẻ khác. Hơn hai năm hơn phân nửa đám thế gia công tử muốn cầu thân với Văn Chiêu công chúa bị Lý Trọng Kiền đánh gần chết.

Không nói đâu xa, tỷ như Tiêu Bát Lang nhà Tể tướng, bên ngoài nuôi mấy mỹ cơ, con ba bốn đứa rồi còn dám can đảm cầu hôn Văn Chiêu công chúa, Lý Trọng Kiền đánh cho sưng mấy cục đầy đầu.

Bác Lăng trưởng tôn Thôi gia, thề son thề sắt nói mình không có thiếp không có ngoại thất càng không có con cái, lại bị tra ra rằng thích Long dương*, Lý Trọng Kiền giận dữ, ngay trước mặt Hoàng đế Lý Đức và văn võ đại thần, sương sương đánh gãy một chân Thôi Đại Lang.

*thích trai

Lúc ấy Trịnh Cảnh cũng có mặt, dư âm tiếng kêu thảm thiết của Thôi Đại Lang còn văng vẳng bên tai, ba ngày không dứt, nghĩ lại còn thấy đau giùm

Cho nên khi Trịnh Cảnh đến Vương phủ cầu thân, mẹ cậu khóc lóc, suýt quỳ xuống xin: Ai cũng biết Lý Trọng Kiền yêu thương Văn Chiêu công chúa cỡ nào, cậu vô công vô danh lại dám đi cầu cưới công chúa, không muốn sống nữa sao?

Trịnh Cảnh tốt không phô, không bao giờ làm chuyện khác người, lần đó lấy hết khí phách cầu hôn cho mình. Cậu cho rằng mình sẽ không sợ, nhưng đến khi cặp mắt phượng kia của Lý Trọng Kiền lạnh lùng liếc qua, cậu vẫn sợ đến hồn phi phách tán, chỉ muốn tìm kẽ đất trốn vào.

Ánh mắt lạnh như băng vẫn ở sâu trong ký ức của Trịnh Cảnh, nhớ tới còn thấy lưng phát lạnh. Khi đó, cậu thực lòng cầu hôn Văn Chiêu công chúa, ánh mắt ông anh lập tức như muốn lập tức chặt đầu cậu.

Giờ thì, Văn Chiêu công chúa chết rồi.

Cô độc chết ngàn dặm xa, trước khi chết không biết bị bao nhiêu tra tấn.

Lý Trọng Kiền đập gãy một chân Thôi Đại Lang có thể bỏ qua sao?

Quan viên trong triều đều biết đáp án: Không thể.

Cung Thái Cực lẫn Đông cung đều tăng cường cảnh giới, thân binh Vương phủ bị chia đều ra cho các nha thự, cạnh Lý Trọng Kiền giờ chỉ còn thân binh của Tạ gia, đám quan chức vẫn không yên lòng, đuổi luôn thân binh Tạ gia, chỉ cho phép Lý Trọng Kiền mang hai mươi người vào thành.

Chỉ có hai mươi người, không lật được trời. Hơn nữa Lý Trọng Kiền đã thành người tàn phế, đến kim chùy còn cầm không được, nếu không thì Lý Đức làm sao dám để hắn hồi kinh?

Trịnh Cảnh từ từ trấn định, Tiết Ngũ vẫn không bình tĩnh nổi. Hắn đi cà nhắc nhìn ra hướng phố dài, thấp giọng nói: "Hai ta vì mới ra làm quan, căn cơ nông cạn, mới bị đẩy ra đón Vệ Quốc Công, mấy người đó đúng là cố tình mà! Lát Vệ Quốc Công đến, tiện tay chặt ngươi ta một đao, chả nhẽ Thánh thượng sẽ trách tội ngài? Tụi mình là để Vệ Quốc Công trút giận đây mà!"

Trịnh Cảnh rủ mắt không nói.

Tiết Ngũ cười, châm chọc: "Trịnh Tam, ngươi chưa nghe chuyện Hạ Lan Dương phải không?"

Trịnh Cảnh lắc đầu.

Tiết Ngũ xích lại gần, hạ giọng: "Năm ngoái lúc Thánh thượng và Nam Sở đoạt Kinh Tương, từng đại bại, mưu thần Hạ Lan Dương đề nghị gả Văn Chiêu công chúa đổi lấy ủng hộ của gia tộc quyền thế Kinh Tương, Vệ Quốc Công đang đánh trận, nghe vậy giận dữ, lĩnh ba ngàn kỵ binh phá vây, giải nguy Kinh Tương, rồi xách đao xông vào đại trướng, ngay trước mặt Thánh thượng chính tay đâm Hạ Lan Dương, một đao chém, đầy trướng đều là máu."

"Từ đó về sau, không ai dám nói vào ra gì chuyện hôn sự của Văn Chiêu công chúa luôn. Không thì, mấy đứa ranh bọn mình làm gì có cơ hội cầu hôn chứ?"

Tiết Ngũ run lên, mồ hôi lạnh chảy ròng ròng. "Ta không hù ngươi, lần này Vệ Quốc Công hồi kinh, nhất định sẽ giết mấy người xả hận, Thánh thượng thẹn với Văn Chiêu công chúa, tuyệt đối sẽ không hỏi tội, ta từng đắc tội Vệ Quốc Công rồi, hôm nay nói không chừng thành vong hồn dưới chùy Vệ Quốc Công mất!"

Gã vừa dứt lời, có tiếng lộc cộc của xe ngựa chạy qua nền gạch phố dài, hộ vệ áo trắng vây quanh một chiếc xe ngựa từ từ chạy đến gần.

Tiết Ngũ sợ đến nhảy lên cao ba thước. Trịnh Cảnh bước ra chào đón.

Tiết Ngũ ngây ra, thầm mắng Trịnh Cảnh không sợ chết, khẽ cắn môi, ra hiệu vệ binh mai phục chung quanh đề cao cảnh giác, cũng đi theo.

Xe ngựa chạy thẳng đến trước thềm đá mới dừng lại, Úy quan Thiên Ngưu vệ bảo thái giám bưng chiếu thư chờ một bên, tay cầm trường đao tiến lên quát: "Thánh chỉ ở đây, Vệ Quốc Công xuống xe nghe chỉ?"

Hộ vệ không nói một lời.

Úy quan chau mày, lớn tiếng lặp lại: "Thánh chỉ ở đây, sao Vệ Quốc Công còn không xuống xe nghe chỉ"

Màn xe không nhúc nhích, hộ vệ cũng không lên tiếng.

Úy quan giận dữ, bước lên vén rèm xe, thấy cảnh bên trong, ngây người vô thức lùi hai bước.

Trịnh Cảnh và Tiết Ngũ nhìn theo.

Một bóng người thon gầy yếu ớt được hộ vệ dìu xuống xe, đứng xuống đất, lắc người mấy lần, ngẩng đầu.

Trước cửa phủ lặng ngắt như tờ.

Ánh mắt Trịnh Cảnh lộ vẻ kinh ngạc, Tiết Ngũ phản ứng càng mãnh liệt hơn, như rớt luôn tròng mắt ra ngoài.

Lý Trọng Kiền dũng mãnh thiện chiến, cao lớn to con xưa kia, không chỉ gầy như một cây sậy, đứng còn không vững, đến ánh mắt sắc bén cũng không thấy, cả người uể oải suy sụp, dáng vẻ nặng nề. Như bị rút hết tinh khí chỉ còn lại một cái xác không hồn.

Cả đám kinh ngạc mãi, trong phút chốc không biết nên nói gì.

Nghe nói Vệ Quốc Công trúng kỳ độc, thành một người tàn phế, thì ra là thật!

Sau một lúc lâu, Thiên Ngưu vệ thu trường đao.

Tiết Ngũ từ trong khiếp sợ tỉnh táo lại, lặng lẽ thở hắt: Vệ Quốc Công bây giờ đừng nói giết người cho hả giận, đi đứng còn phải có người đỡ, giết người thế nào được?

Gã tiến lên một bước, thấp giọng nói: "Vệ Quốc Công, Thánh thượng có chỉ."

Lý Trọng Kiền nhướng mày, hững hờ quét qua. "Cút." Giọng không có chút lực.

Tiết Ngũ chần chừ một lát, không biết nên nói gì, Lý Trọng Kiền đi ngang qua gã, bước rất lớn, chưa được mấy bước đã thở hồng hộc, thân binh vội vàng dừng lại, hắn gầm nhẹ, thân binh không dám lên tiếng, đỡ hắn bước lên thềm đá.

Thiên Ngưu vệ nhìn chằm chằm bóng lưng Lý Trọng Kiền run run rẩy rẩy đi xa, cất cao giọng: "Vệ Quốc Công, ngài muốn kháng chỉ à?"

Thái giám bưng lấy chiếu thư ra trước.

Lý Trọng Kiền dừng bước, nhìn thân binh bên cạnh. Thân binh hiểu ý, quay người chạy xuống bậc cấp, rút đao chém cái tráp trong tay thái giám.

Rắc rắc hai tiếng nổ mạnh, tráp vỡ thành hai nửa, rơi xuống đất, chiếu thư trong hộp cũng bị chém rách.

Thái giám hồn vía lên mây, thét lên chói tai rồi lùi lại.

Thiên Ngưu vệ giận dữ: "Vệ Quốc Công, ngươi dám bất kính đối với Thánh thượng à!"

Lý Trọng Kiền không thèm để ý, cũng không quay lại, đi vào cửa phủ.

Cạch, cửa từ bên trong khép lại. Đám người nhìn nhau. Trịnh Cảnh và Tiết Ngũ ngó xong, về cung chờ lệnh.

Mặc dù Vệ Quốc Công đại nghịch bất đạo, cự tuyệt tiếp chỉ, nhưng không làm bị thương ai, đã là vạn hạnh. Tiết Ngũ nói thay cho Lý Trọng Kiền vài câu tốt đẹp.

Thượng quan nhíu mày hỏi: "Vệ Quốc Công thành phế nhân thật à?"

Hai người gật đầu: "Không sai, bọn tôi tận mắt nhìn thấy."

Tiết Ngũ chậc chậc vài tiếng, thở dài: "Ngài không thấy đó thôi, Vệ Quốc Công đã gầy như cây sậy! Gió thổi là ngã, đi mấy bước đã thở như kéo bễ rồi."

Cùng với Thái tử Lý Huyền Trinh nổi danh chiến tướng, cứ thế thành người bỏ đi

Thượng quan gật đầu, vào điện bẩm báo Lý Đức.

Hôm sau, Đông cung.

Thị nữ vào bẩm báo cho Trịnh Bích Ngọc tin tức nghe được: "Tối qua Thánh thượng phái Thái y đi phủ Quốc công bắt mạch cho Vệ Quốc Công, mấy Thái y đều nói Vệ Quốc Công mất đi võ nghệ, cầm đũa còn run. Thánh thượng hạ chỉ ngợi khen Vệ Quốc Công, Vệ Quốc Công cự tuyệt không nghe chỉ, hộ vệ ngài đả thương mấy thái giám, mấy tướng công Chính sự đường đến vấn an cũng bị hộ vệ đuổi đi. Giờ chẳng còn ai dám tới phủ Quốc công nữa."

Trịnh Bích Ngọc thở phào. Nếu Lý Trọng Kiền không bị tổn thương, chắc chắn sẽ đại náo Trường An, như bây giờ, thật ra với ai cũng tốt.

Ngụy Minh không yên lòng, tiếp tục cho người tìm hiểu.

Thám tử về nói chỉ cần có người trong cung đến là Lý Trọng Kiền đã nổi trận lôi đình, thị nữ nhiều lần nhìn thấy hắn muốn vác kim chùy đánh người, chưa nâng nổi đã ngã xuống đất.

Đám thuộc hạ trong Đông cung thầm thấy may mắn: cuối cùng Vị Sát Thần này về sau sẽ không còn uy hiếp được địa vị Thái tử.

Ngụy Minh báo tin vui cho Lý Huyền Trinh. Vết thương Lý Huyền Trinh còn chưa tốt, nghiêng người dựa vào bằng ỷ, mặt không cảm xúc ừ một tiếng, bảo Ngụy Minh qua dạy Hoàng thái tôn đọc sách.

Ngụy Minh ngẩn người, cười khổ bái lễ với Lý Huyền Trinh lui ra.

Đám người không hiểu ra sao: Thái tử sao vậy? Sao đuổi Ngụy trưởng sử ngài coi trọng nhất?

Có người cầu gặp Trịnh Bích Ngọc, xin nàng cứu vãn cho Ngụy Minh. Trịnh Bích Ngọc nghiêm nghị cự tuyệt, nói mình là phụ nữ trong nhà, không tiện can thiệp việc Đông cung. Họ đành phải an ủi Ngụy Minh: Chờ tử khí tiêu tan, chắc chắn sẽ triệu gã về!

Ngụy Minh có phần nhụt chí, trước khi đi dặn dò đám người: "Nếu có biến cố chuyện Văn Chiêu công chúa, phải báo tin cho ta!"

Cả đám ngoài miệng đồng ý lia lịa, lòng thầm lơ đễnh. Văn Chiêu công chúa đã chết, còn biến cố gì?

Giờ đang phải rầu chuyện khác đây: Chu Lục Vân lén chạy mất, tung tích không rõ, tìm khắp vẫn không thấy đâu. Cũng may Lý Huyền Trinh ngài trọng thương chưa lành, tinh thần hoảng loạn, chưa hỏi tới Chu Lục Vân ấy.

Lý Trọng Kiền hồi kinh khiến văn võ cả triều nơm nớp lo sợ, nhưng hiện tại hắn đã phế đi võ công, cũng không gây sóng to gió lớn, đám người yên lòng.

Hôm sau, đại yến trong cung mừng tướng sĩ khải hoàn. Yến hội diễn ra ở điện Lân Đức, ca múa vang trời, đèn nến rực rỡ.

Lý Huyền Trinh đã lâu không xuất hiện cũng có mặt ở yến hội, sắc mặt tái nhợt u ám.

Quan viên cầm chén rượu đến bắt chuyện, hắn phản ứng hờ hững, không bình dị gần gũi như ngày thường, làm họ ngượng ngùng lui xuống.

Trịnh Cảnh ngồi ở một chiếu hẻo lánh, nhìn Lý Huyền Trinh mấy lần, như có điều suy nghĩ, đứng dậy bước qua.

"Điện hạ." Trịnh Cảnh nâng chén, nhìn quanh một vòng, "Tôi nhớ đêm Văn Chiêu công chúa mời cưới, cũng yến hội thế này, nàng ăn mặc trang trọng, xinh đẹp vô cùng, sứ thần các nước đều hỏi thăm nàng là vị công chúa nào."

Lý Huyền Trinh nhắm mắt, cúi đầu rót cho mình chén rượu.

Trịnh Cảnh không chút ý vị cười cười, quay người mời lại.

Văn võ triều thần ngồi đầy tiệc uống đã ngà say, Lý Đức đứng dậy, móng tay chấm rượu, gảy mấy lần ra không trung, đang muốn mở miệng động viên tướng sĩ, bỗng ngoài cửa điện có tiếng động lớn.

Tiếng nhạc im bặt. Bầu không khí thoáng chốc trở nên nặng nề.

Cả đám ngây người không biết chuyện gì, nhìn ra nơi có tiếng động. Dưới ánh nến chập chờn, một bóng người cao gầy chậm rãi bước lên thềm, từng bước đi đến trong đại điện.

Là võ nghệ bị phế sạch Lý Trọng Kiền.

Hắn một người trường bào trắng, gầy giơ xương, đứng trong điện, mắt phượng dài hẹp âm u liếc nhìn một vòng.

Cả đám không khỏi rùng mình, trong lòng đánh trống, ánh mắt rơi xuống lưng hắn, thấy cả người áo trắng không đeo đao kiếm, cũng không thấy đôi kim chùy nghe tới đã sợ mất mật, lặng lẽ thở ra một hơi.

Một Lý Trọng Kiền đã tàn phế, không đáng để lo.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#truyện