Chương 51 - 60

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Nước đọng yên lặng. Ánh nến cả phòng chao đảo.

Lý Trọng Kiền đón ánh mắt dò xét của từng người, từng bước một tiến lên, bước đi hơi chao đảo.

Kim Ngô Vệ chần chừ không biết có nên bước tới ngăn hắn, rối rít nhìn Lý Đức ở bàn chủ yến. Lý Đức uống ngà say, khuôn mặt hơi đỏ, đặt chén rượu xuống, nheo mắt nhìn Lý Trọng Kiền sắc mặt trắng bệch, không lên tiếng.

Kim Ngô Vệ liếc nhau, ở nguyên tại chỗ, tay nắm chặt chuôi đao, cảnh giác nhìn Lý Trọng Kiền chằm chằm.

Văn võ đại thần nhìn nhau.

Trịnh Tể tướng trầm ngâm chốc lát, thở dài, đứng dậy rời bàn, xách bình rượu bạc mạ vàng đón Lý Trọng Kiền. Trên mặt nở nụ cười, rót chén rượu đưa cho Lý Trọng Kiền, hạ giọng nói: "Văn Chiêu công chúa có công với đất nước, đáng tiếc trời ghen tỵ hồng nhan, chén rượu này của người, hẳn phải nên để anh trai người uống. Trọng Kiền, trước khi Văn Chiêu công chúa xuất các, không yên tâm nhất chính là ngài." Câu cuối đầy ý nhị, giọng rất thực lòng.

Văn Chiêu công chúa đã chết, nàng dùng một cuộc hôn nhân đổi lấy an ổn cho mẹ và anh trai. Nếu Lý Trọng Kiền si ngốc thì chẳng phải công chúa hy sinh một cách vô ích sao?

Lý Trọng Kiền lại không hề cảm kích, nâng tầm mắt, mắt phượng sắc lạnh liếc Trịnh Tể tướng như đang nhìn một người chết.

Trịnh Tể tướng không khỏi dựng tóc gáy. Lý Trọng Kiền trực tiếp vượt qua ông, lảo đảo đi đến chỗ Lý Huyền Trinh ngồi.

Lý Huyền Trinh ngẩng lên đối mặt với hắn, không nhúc nhích. Hai anh em đều có một đôi mắt phượng, bốn mắt đụng nhau, một bên chết lặng, một bên u ám.

Thuộc thần của Đông cung nhảy dựng, ngăn Lý Trọng Kiền: "Vệ Quốc Công, chỗ ngài không phải ở đây."

Lý Huyền Trinh khoát tay ra hiệu họ lui ra. Cả đám nhíu mày nhìn nhau. Sắc mặt Lý Huyền Trinh lạnh xuống, lạnh lùng nói: "Lui ra!"

Thuộc thần đành phải lui ra.

Da mặt Lý Trọng Kiền giật giật, một chưởng đánh về Lý Huyền Trinh. Vừa nghe, Kim Ngô Vệ bay ra. Bốp bịch, nắm đấm Lý Trọng Kiền sượt qua Lý Huyền Trinh, không thu được thế, ngã xuống chiếu nỉ.

Kim Ngô Vệ đứng chết trân tại chỗ, đám người kinh ngạc đứng lên, nhìn Lý Trọng Kiền giãy dụa bò dậy, lắc đầu thở dài, ánh mắt thương tiếc và đồng tình.

Vừa rồi họ đều nhìn thấy, Lý Huyền Trinh không hề tránh, khoảng cách gần như vậy, Lý Trọng Kiền không làm Lý Huyền Trinh bị thương mà còn tự ngã, xem ra Lý Trọng Kiền hỏng thật rồi —— hắn là Lý Trọng Kiền sắc sảo tài năng, công thành đoạt đất chưa từng lùi bước đó!

Thuộc thần Đông cung lại bước ra. Lý Huyền Trinh liếc mắt cảnh cáo. Hai tay nắm chặt, họ cắn răng lui ra.

Lý Trọng Kiền giãy giụa đứng dậy, nhào về phía Lý Huyền Trinh lần nữa, một quyền đánh tới.

Cú đánh không bao nhiêu lực, Lý Huyền Trinh vẫn không né tránh, bị đụng nhẹ vào đầu. Lý Trọng Kiền tiếp tục vung nắm đấm, hắn vẫn không nhúc nhích, nắm đấm như mưa rơi xuống người.

Lý Đức vẫn để ý đến động tĩnh hai anh em, thấy thế, nhíu mày nhẹ, ra hiệu Kim Ngô Vệ can ra.

Kim Ngô Vệ đẩy ra hai bên, Lý Trọng Kiền võ công mất hết, bị trực tiếp kéo đến chỗ ngồi, mặt Lý Huyền Trinh một chút dấu vết xanh tím còn không có.

Cả đám thở dài: Lý Trọng Kiền thật tự rước lấy nhục.

"Thánh thượng!" đột nhiên Lý Trọng Kiền bị kéo vào ghế lên tiếng hô to, "Năm đó hai nhà Tạ Lý kết minh, ngài đã đồng ý với Cậu tôi chuyện gì?"

Cả điện yên tĩnh.

Văn võ đại thần thầm kêu khổ, muốn cáo lui ra nhưng không dám lên tiếng, chỉ cúi đầu giả như không nghe thấy Lý Trọng Kiền vặn hỏi.

Lý Đức đứng lên, trầm mặt.

Lý Trọng Kiền cười lạnh, giọng khàn khàn bén nhọn: "Lúc Thánh thượng cưới Mẹ tôi, Đường hoàng hậu bước vào hỉ đường, Cậu muốn đưa Mẹ đi, lúc ấy, Thánh thượng nói với Mẹ câu gì?"

Một câu hỏi ra, đại thần trong điện vùi đầu càng thấp hơn. Chỉ có Lý Huyền Trinh ngẩng lên.

Lý Trọng Kiền nhìn Lý Huyền Trinh, bên môi cười châm chọc: "Thánh thượng ngay trước mặt Đường hoàng hậu nhìn Mẹ nói tám chữ: Minh ước đã thành, vĩnh không tướng phụ."

Tám chữ đó, khiến Tạ Mãn Nguyện nghĩ Lý Đức có tình với bà.

Con ngươi Lý Huyền Trinh bỗng co rút, đứng dậy, đi đến trước mặt Lý Trọng Kiền: "Ngươi lặp lại lần nữa."

Kim Ngô Vệ sợ khí thế của hắn, buông Lý Trọng Kiền ra. Lý Trọng Kiền ngã nhào trên đất, cười lạnh mấy tiếng, đón ánh mắt Lý Huyền Trinh, từng chữ nói: "Minh ước đã thành, vĩnh không tướng phụ."

Hai tay Lý Huyền Trinh cứng lại, đầu lông mày tức giận cuồn cuộn, quay nhìn Lý Đức, ánh mắt như đao, nhấc chân định bước đến.

Thuộc thần lập tức níu cánh tay Lý Huyền Trinh, không cho hắn nổi giận.

Lý Đức lạnh lùng nhìn Lý Trọng Kiền, không nói gì, tóc mai hoa râm dưới ánh nến lóe lên mấy tia lạnh buốt, đưa tay ra hiệu.

Đại thần trong điện đang chỉ mong có thế, nhanh chóng đứng dậy, hốt hoảng lui ra.

Lý Huyền Trinh muốn phóng tới nội điện, thuộc thần không dám buông tay, mấy người hợp lực cản lại, khuyên hắn bình tâm rồi kéo hắn rời đi.

Kim Ngô Vệ rút đao ngăn trước mặt Lý Đức, đề phòng Lý Huyền Trinh, mấy Kim Ngô Vệ khác bước tới, nắm lấy Lý Trọng Kiền kéo đến dưới chân Lý Đức.

Lý Đức nhìn xuống Lý Trọng Kiền, bình tĩnh nói: "Văn Chiêu đã chết, ngươi sau này còn phải thừa kế hương khói Tạ gia, đừng để em gái ngươi chết vô ích."

Giọng vẫn lý trí mà ung dung, không hề gợn sóng.

Lý Trọng Kiền tê liệt té xuống đất, nghe vậy, ngẩng đầu, búi tóc ban nãy giãy dụa tóc đã rối loạn, khuôn mặt vặn vẹo.

Trịnh Tể tướng đang cùng những người khác rời khỏi nội điện, xuyên qua ánh nến nhìn thấy Lý Trọng Kiện bị đè vai quỳ xuống đất, chợt nhớ tới ánh mắt lạnh âm u của hắn vừa rồi, trong lòng mãnh liệt run sợ, dừng bước hô to: "Thánh thượng —— "

Một tiếng nhắc nhở vẫn bị chậm.

Biến cố phát sinh.

Lý Trọng Kiền đang nằm trên đất bỗng nhiên bật dậy, lao thẳng về phía Lý Đức, người nhanh như chớp, mang theo thế hùng hồn như sóng thần, nào có vẻ giống như võ công mất sạch?

Tất cả đều nghĩ hắn mất hết võ công, tất cả đều đề phòng Lý Huyền Trinh, trong phút chốc mất cảnh giác, không phòng bị. Lý Huyền Trinh cách quá xa, lại bị thuộc thần cản trở không thể động đậy. Mấy văn võ đại thần khác không dám xen vào việc trong nhà của Hoàng đế, kẻ thông minh đã sớm bôi dầu lòng bàn chân chạy mất dép.

Trong nội điện, ngoại trừ cha con mấy người, chỉ còn lại Kim Ngô Vệ và tùy tùng.

Lý Đức thấy cổ tay bị siết chặt, cả người bị một sức lớn kéo lảo đảo mấy lần, một cánh tay lạnh băng giữ cổ họng ông.

Ngay phút sấm to chớp giật, hậu vệ cách gần nhất kịp phản ứng, giơ đao chém xuống, rất hung mãnh. Lý Trọng Kiền không hề bối rối, đẩy Lý Đức ra đón, ngang nhiên tiếp mấy đao, da tróc thịt bong, máu tươi bắn ra. Hắn như hoàn toàn không thấy đau đớn, đón gió đao mưa kiếm, toàn thân đẫm máu, hai tay tiếp tục giữ cổ họng Lý Đức.

Cận vệ không dám ra tay mạnh, trong lúc bối rối, suýt chém phải cánh tay của Lý Đức, lật đật co lại, thấy điệu bộ Lý Trọng Kiền như vậy, sợ hãi trong lòng, giảm bớt thế công, toàn bộ dừng tay.

Nội điện ngoại điện rất vắng vẻ. Đám người đứng chết trân tại chỗ, lạnh khắp người.

Chẳng ai ngờ Lý Trọng Kiền một mình đến điện Lân Đức, là muốn hành thích!

Dù ngài đã được phong làm con thừa tự của họ ngoại thì vẫn là con ruột của Lý Đức! Chả nhẽ muốn giết cha?

Trong điện là Kim Ngô Vệ võ công cao cường, ngoài điện là cận vệ lớp lớp trấn giữ, ngài chỉ một mình, mọc cánh khó thoát, sao dám coi trời bằng vung, giết cha hành thích vua?!

Mọi người kinh hãi không thôi.

Lý Trọng Kiền siết ngón tay, vẻ mặt Lý Đức đầy đau đớn.

Lý Trọng Kiền nhìn tên Kim Ngô Vệ đến gần, mắt đỏ như chảy ra máu: "Sao hả, các ngươi muốn nhìn máu thánh nhân văng tại chỗ à?"

Cả đám chưa từng thấy bộ dáng Lý Trọng Kiền điên cuồng như thế, tê rần da đầu, một cử động nhỏ cũng không dám.

"Trọng Kiền!"

"Vệ Quốc Công!"

"Tần Vương!"

"Nhị Lang!"

Đám đại thần đang định rời nội điện rất hoảng sợ, chạy vội vào, điên cuồng la lớn, "Đừng xúc động! Ngài mau thả thánh nhân! Là cha ruột ngài đó!"

Lý Trọng Kiền cười lạnh: "Cha ruột? Ông ta không xứng!"

Cả đám lòng như lửa đốt, nhìn Thái tử Lý Huyền Trinh. Lý Huyền Trinh đứng một bên, trên mặt đã không còn phẫn nộ cũng không bối rối, chỉ một vẻ hờ hững.

Cả đám bị choáng, quay lại chằm chằm nhìn Lý Trọng Kiền, có trực tiếp chửi ầm, có nhẹ lời khuyên bảo.

Lý Trọng Kiền như chẳng thèm nghe thấy.

"Vệ Quốc Công!" Một giọng trẻ tuổi vọng đến, Trịnh Cảnh hốt hoảng chạy tới nội điện, "Vệ Quốc Công, ngài hãy nghĩ tới Tạ Hoàng hậu! Hoàng hậu điện hạ chỉ có đứa con trai ngài để dựa! Ngài muốn Văn Chiêu công chúa dưới cửu tuyền không yên lòng à?"

Lý Trọng Kiền cười lạnh: "Tổ chim bị phá không còn trứng lành, vô tri vô giác mà sống không bằng chết cho rõ ràng."

Mặt Trịnh Cảnh không còn giọt máu.

Tiếng bước chân hỗn loạn, cung thủ từ bốn phương tám hướng tràn vào nội điện, chen đầy ngõ ngách, vô số mũi tên chĩa thẳng vào Lý Trọng Kiền.

Lý Trọng Kiền bóp chặt họng Lý Đức: "Cậu từng dạy tôi, trung thành với quân vương, không thể không chú ý đại cục, không thể quá so đo được mất, có lợi ở thiên hạ ắt có mưu đồ... Tôi cố gắng làm theo, không tranh không đoạt, ra trận giết địch, mở rộng bờ cõi cho Đại Ngụy, tôi chỉ mong chăm sóc mẹ và em thật tốt, nhưng ngài vẫn cứ dung túng Lý Huyền Trinh dồn ép tôi."

Lý Trọng Kiền liếc mắt, "Phụ phụ tử tử, Quân quân thần thần, xương thịt thân này vốn là ngài ban cho, ngài muốn giết thì giết, tôi không còn muốn sống từ lâu rồi... Nhưng vì sao các người lại động vào Minh Nguyệt Nô? Vì cái gì chứ? Nó làm sai chỗ nào?! Lúc nó bị đưa đi, mới mười bốn tuổi thôi!"

"Mười bốn tuổi! Từ nhỏ nó đã không thể dứt uống thuốc, tôi không nỡ để nó khổ một chút, chỉ muốn nó gả cho một tấm chồng tốt, sau này cắt đứt quan hệ với tôi, không bị tôi liên lụy... Tôi chỉ muốn nó bình an vui vẻ... Mà ông ngay cả nó cũng không buông tha! Ngay cả nó cũng không buông tha!"

Không ai trả lời.

Trịnh Cảnh nhìn Lý Trọng Kiền con mắt đỏ ngầu, ý lạnh từ lòng bàn chân chạy lên, ngã ngồi trên đất, trợn mắt: "Ngài điên rồi! Ngài điên rồi! Lý Trọng Kiền, ngài điên rồi!"

Lúc nhìn Lý Trọng Kiền xuống xe ngựa, cậu nghi đối phương cố ý yếu ớt giấu mình. Cậu không vạch trần, lúc bẩm báo lên còn dặm mắm thêm muối tăng thêm bệnh tình, nhưng muôn lần không ngờ mục đích của Lý Trọng Kiền không phải muốn ẩn dật, hắn chỉ muốn một phát liều chết, hắn đã hoàn toàn đánh mất lý trí, mặc kệ tất cả!

"Nhị Lang, ngài điên thật rồi!"

Lý Trọng Kiền câu khóe môi, liếc mắt phượng rất quỷ mị: "Phải, ta điên rồi."

Từ giây phút cả nhà Tạ gia cả nhà hủy diệt hắn đã điên rồi, trong lòng cha hắn chỉ có một đứa con trai là Lý Huyền Trinh, Cậu chết, Mẹ điên, không nhận hắn, trong vòng một đêm hắn mất đi tất cả, quỳ gối trước linh đường, không ăn không uống.

Cậu hắn là anh hùng, anh hùng luôn bị bỏ rơi lãng quên, lòng hắn mù mịt, không biết đi đâu.

Cả ngày Dao Anh ba tuổi quấn lấy hắn, cùng hắn túc trực bên linh sàng Tạ Vô Lượng. Khi đó em ấy còn chưa bước đi được, mỗi ngày ỷ lại cạnh hắn, muốn hắn ôm, nho nhỏ mũm mĩm, cuộn trong ngực hắn, móc một miếng bánh Hồ nướng đút tới môi hắn: "Anh, ăn."

Lý Trọng Kiền cúi nhìn đứa em gái trong lòng và bánh nó giơ trong tay, rơi nước mắt, rưng rưng ăn hết miếng bánh.

Dao Anh gọi thần trí hắn về, cho hắn lý do sống tiếp, anh em nương tựa nhau, mới không thành kẻ điên.

Còn giờ, Tiểu Thất của hắn không còn. Vì hóa giải nguy cơ cứu hắn mà phải bắt buộc giao dịch với Lý Huyền Trinh.

Lá gan Tiểu Thất rất nhỏ, lười biếng yếu đuối, thích làm nũng hắn, lúc hắn hôn mê, mình em ấy lo liệu gánh vác hết cả, gả đi Diệp Lỗ cho lão tù trưởng sáu mươi tuổi, chết trong tay người Bắc Nhung...

Ngày trưởng sử khóc báo lại cho hắn, tựa như cầm một thanh đao rỉ sét từng chút từng chút khoét thịt hắn.

Lý Trọng Kiền đau.

Tim gan bị móc đi, khắp người trên dưới, từ da thịt đến tim phổi, cả người đều rất đau.

Dao Anh có sợ không? Mảnh mai thế kia, rời xa Trung Nguyên... Hắn vốn không có dũng khí tưởng tượng em đã khổ chừng nào!

Lý Trọng Kiền đã từng nghĩ, nếu mình chết, mẹ và Dao Anh sẽ an toàn. Nhưng hắn có Tiểu Thất làm bạn, không nỡ chết! Hắn muốn chăm sóc em thật tốt, xem em lớn lên, đưa em xuất giá, Tiểu Thất của hắn đáng giá những thứ tốt nhất trên đời.

Tiểu Thất không còn. Không còn ai ngăn được hắn nổi điên.

Đáy mắt Lý Trọng Kiền ngày càng đỏ.

Trịnh Cảnh khàn giọng hét: "Vệ Quốc Công! Ngài kế thừa họ Tạ gia! Hôm nay nếu người lỡ tay, chắc chắn sẽ gây hận thiên cổ! Thanh danh trăm năm của Tạ gia hôm nay hủy trong tay ngài! Ngài đặt Đại Ngụy ở đâu! Đặt dân chúng thiên hạ ở đâu?"

Lý Trọng Kiền cười châm chọc. "Dân chúng? Giang sơn? Liên can gì đến ta?"

Hắn đứng trong vòng vây không một kẽ hở, mặt không cảm xúc. "Tiểu Thất của ta mất rồi, ta chẳng cần để ý gì nữa hết."

Hắn không phải Cậu, cũng không phải Dao Anh, hắn không muốn quan tâm chết sống của người khác, chỉ muốn chăm sóc em hắn thôi.

Lý Trọng Kiền cười lạnh, trên tay dùng sức. "Coi như toàn bộ Đại Ngụy chôn cùng Minh Nguyệt Nô đi, thì sao chứ?"

Trịnh Tể tướng nghe xong, biết Lý Trọng Kiền đã hoàn toàn điên, ra hiệu với Kim Ngô Vệ, chậm rãi nhắm mắt, vẻ xót xa.

Cung thủ giương cung, chờ vạn tên cùng bắn, Kim Ngô Vệ nhìn thấy Lý Trọng Kiền không có vũ khí trong người, tìm đúng thời cơ, cùng tiến lên.

Tiếng kêu la quát tháo loạn xị. Cung thủ sợ ngộ thương người, vội vàng lùi ra sau.

Trịnh Tể tướng nhào đến Lý Đức, thấy ông bị ghìm đến hai mắt trắng dã ngất đi, không biết sống chết, run cả người.

Hoàng Thái tử hồn vía lửng lơ, Vệ Quốc Công ngang nhiên giết cha, nếu lúc này Thánh thượng băng hà, chắc chắn Đại Ngụy phát loạn!

Đám đại thần ở một bên, lòng như lửa đốt.

Thái y vội vàng chạy tới kiểm tra thương thế, đập vào ngực mấy phát. Từ từ Lý Đức ô ô mấy tiếng tỉnh lại, ánh mắt dần dần khôi phục vẻ tỉnh táo, được Kim Ngô Vệ đỡ ngồi dậy.

Cả đám chưa tỉnh hồn, quỳ dập đầu sơn hô vạn tuế. Có kẻ vui đến phát khóc ra tiếng.

Mặt Lý Đức trầm như nước, đã qua được không ít sóng to gió lớn vậy mà suýt lật thuyền trong mương. Ông không ngờ Lý Trọng Kiền bị thương thế kia còn có gan ra tay trước mặt mọi người.

Một trận sóng gió phát sinh trong chớp mắt, cũng kết thúc trong chớp mắt, quan cấp thấp ngoài điện còn chưa kịp phản ứng, thấy mấy đại thần mới ra khỏi đại điện, chưa kịp nghe ngóng đã thôi sóng gió.

Mấy tên thái y bắt mạch lần nữa cho Lý Trọng Kiền, nhỏ giọng thảo luận mấy câu, bẩm báo Lý Đức: Lý Trọng Kiền đúng là đã mất hết võ công. Vừa rồi không phải hoàn toàn là diễn trò.

Nhóm Tể tướng lặng thinh không nói. Mấy năm nay không ít kẻ ám sát Lý Đức nhưng chưa ai làm Lý Đức bị thương thật sự. Lý Trọng Kiền mất hết võ công lại dám ám sát ngài, dùng cách thức thí mạng cùng chết! Hắn biết rõ thất bại vẫn liều chết thử một lần, khí thế đột nhiên bộc phát, không phải hắn cố ý giấu diếm từ trước mà chỉ bộc phát trong khoảnh khắc, hắn đang liều mạng!

Dù gì Văn Chiêu công chúa cũng là em ruột hắn!

Trịnh Tể tướng thở dài, đưa mắt ra hiệu Kim Ngô Vệ tranh thủ đưa Lý Trọng Kiền ra ngoài. Mấy đại thần khác nhìn với ánh mắt trách cứ: Vệ Quốc Công dám can đảm hành thích quân, ông còn muốn bao che Vệ Quốc Công à?

Trịnh Tể tướng nhìn cả đám, im lặng phun ra hai cái tên.

Tạ Vô Lượng, Lý Dao Anh.

Vì Tạ gia, vì Văn Chiêu công chúa, giữ lại mạng Lý Trọng Kiền đi.

Đám người yên lặng, dời tầm mắt, ngầm cho phép, chuyển sang người Thái tử Lý Huyền Trinh.

Lý Huyền Trinh đứng ở một bên, từ đầu tới đuôi tỏ vẻ không liên quan, như không để ý chút nào đến sống chết của Lý Đức.

Cả đám thở dài, tự suy nghĩ.

...

Lý Đức không xử lý Lý Trọng Kiền tại chỗ. Hắn bị Kim Ngô Vệ mang đi, quăng vào ngục.

Hai ngày sau, Trịnh Cảnh sang thăm: "Trong triều rất nhiều đại thần cầu tình cho ngài."

Tạ gia cả nhà anh liệt, Văn Chiêu công chúa hương tiêu ngọc vẫn, Lý Trọng Kiền vì Đại Ngụy Nam chinh Bắc chiến, mất hết võ công, đại thần khuyên Lý Đức mở một mặt lưới, giải thích vì mất em gái mà hắn nhất thời khống chế, về tình có thể hiểu.

Hiếm thấy Đông cung yên tĩnh như lúc này, không thừa cơ bỏ đá xuống giếng.

Trịnh Cảnh đuổi ngục tốt đi, hỏi nghi vấn trong lòng: "Nhị Lang, lúc đó ngài thật sự muốn ám sát Thánh thượng à?" Kim chùy còn không nâng nổi, trước khi vào cung dự tiệc phải qua kiểm tra, người không có vũ khí, làm sao dám làm ra chuyện như vậy? Cung thủ mà vạn tên cùng bắn, chỉ một chốc đã biến thành cái sàng! Cha Lý Đức lại giỏi võ công, co chân đã đá văng hắn.

Lý Trọng Kiền đang nằm trên đống cỏ khô, mặt vô cảm: "Nếu thành công thì cùng chết."

Giọng rất bình thản, không thèm để ý nếu thật sự thành công sẽ thay đổi kinh thiên thế nào.

Trịnh Cảnh hít sâu một hơi, Lý Trọng Kiền muốn giết cha thật! Cậu yên lặng mãi thật lâu, mới nói: "Nhưng ngài thất bại rồi."

Lý Trọng Kiền cười lạnh: "Tam Lang, ngươi cho rằng ta thật sự giấu tài thì họ sẽ buông tha à?"

Mắt Trịnh Cảnh lấp lánh. Nhà Đế vương là vô tình nhất.

Văn Chiêu công chúa đã chết, Lý Đức biết Lý Trọng Kiền không thể bỏ thù hận, cho dù là hắn cố che dấu hay là phát điên như đêm qua, Lý Đức cũng sẽ không giữ lại tai hoạ ngầm này. Quân vương đa nghi, Lý Đức bằng mọi giá sẽ vì Lý Huyền Trinh mà dọn sạch mọi chướng ngại, tránh khi Lý Huyền Trinh đăng cơ thời cuộc rung chuyển.

Lý Trọng Kiền rất rõ lòng nhạt nhẽo của Lý Đức, Lý Đức cũng biết rõ tính hắn, nếu hắn thật sự giấu tài, Lý Đức không chỉ không buông cảnh giác mà ngược lại sẽ càng thêm lo lắng, lập tức ra tay diệt trừ.

Lý Huyền Trinh đến cùng là người giữ chữ tín, không vội vã hãm hại hắn, Lý Đức vẫn không yên lòng, vội vã triệu hắn hồi kinh muốn thăm dò hắn.

Không bằng hắn đánh cược một lần. Kết quả xấu nhất cũng chỉ là trả bằng mạng mình thôi.

Giờ hắn đâu còn thứ không thể mất.

Trịnh Cảnh sâu kín thở dài: "Ngài đã nếm thử rồi, sau này đừng có ý nghĩ vậy nữa, bệ hạ dám thả ngài hồi kinh thì không sợ ngài ám sát đâu. Từ đường của Văn Chiêu công chúa mới vừa vặn dựng lên không lâu, lần này tạm thời bệ hạ không dám lấy tính mạng ngài... Nhị Lang, sau này ngài tính thế nào?"

Lần mạo hiểm này, trái lại Lý Đức sẽ thả lỏng hơn với Lý Trọng Kiền, một hoàng tử không ổn định thì dù sao vẫn dễ đối phó hơn kẻ tâm cơ thâm trầm, nhưng ông ta cũng không thể phớt lờ.

Lý Trọng Kiền nhìn đỉnh tường gạch lao thất ẩm ướt: "Tam Lang, chuẩn bị cho ta lương khô xe ngựa."

Trịnh Cảnh ngơ ngẩn: "Ngài muốn đi đâu đấy?"

Lý Trọng Kiền bình tĩnh nói: "Đi Hà Lũng. Ta sẽ xin đi đòi lại Hà Lũng."

Lý Đức sẽ thuận nước đẩy thuyền đồng ý.

Trịnh Cảnh nhíu mày: "Nhị Lang... Văn Chiêu công chúa đã không còn, người Hồ tận mắt nhìn thấy, giờ Hà Lũng bị Bắc Nhung xâm chiếm, tình thế nghiêm trọng."

Lý Trọng Kiền nói khẽ: "Con bé có chết ta cũng phải đem về, nó nhát gan, luôn sợ hãi, ta muốn đem con bé về nhà. Ta đã đồng ý với con bé, dù nó ở đâu ta cũng sẽ tìm tới."

Trịnh Cảnh thấy Lý Trọng Kiền đúng là vô cùng hão huyền: Ở tái ngoại mênh mông tìm xác một người, sao tìm được? Cậu không biết nên khuyên thế nào, nghĩ đến Thất công chúa chết ở tái ngoại, ngực cậu như bị kim đâm, đau râm ran. Lý Trọng Kiền là anh ruột của Thất công chúa hẳn còn đau đớn hơn nhiều.

Nhưng Lý Trọng Kiền tìm bằng cách nào đây?

"Võ công của ngài..." Trịnh Cảnh muốn nói lại thôi.

Lý Trọng Kiền không đổi sắc: "Cầm không nổi kim chùy thì ta có thể đổi qua cầm trường đao, dùng đoản kiếm, dùng thương... Ta đã từng bỏ võ theo văn, lại bỏ văn theo võ, tổn thương của mấy cây tiễn độc không hủy được ta." Trước khi tìm được Tiểu Thất, hắn sẽ không ngã xuống.

Trịnh Cảnh thở thật dài. Dù cậu khuyên can nhiều ít, Lý Trọng Kiền không nghe vào, cậu không cách nào ngăn cản Lý Trọng Kiền đi tái ngoại.

Thư Lý Trọng Kiền thỉnh tội rất nhanh đến, dân gian bá tánh nghe nói hắn muốn đi Hà Lũng tìm xác Lý Dao Anh, không tới mấy ngày đã tập hợp thư vạn ngôn, xin đồng hành cùng.

Lý Đức triệu Lý Trọng Kiền hồi kinh, vốn để giam cầm đứa con trai này, thấy dân ý sôi trào, cân nhắc lại, bỏ đi ý nghĩ này.

"Nó thật sự muốn đi Hà Lũng?" Lý Đức nửa tin nửa ngờ.

Trịnh Tể tướng trả lời: "Vô cùng chuẩn xác."

Lý Đức nhìn tích ung nghiên* trên bàn, ngẩn một hồi, nói: "Thôi được."

Mấy hôm sau, Lý Trọng Kiền mang theo mấy thân binh, dưới áp giải của binh sĩ rời Trường An.

Trưởng sử tiễn đưa hắn, khóc nói: "Lão nô sẽ chăm sóc tốt cho nương tử, Nhị Lang, ngài mau về nhé! Dù có tìm được Thất Nương hay không ngài cũng phải về! Lão nô luôn chờ ngài!"

Lý Trọng Kiền đuổi Trưởng sử, ghìm ngựa trước đường núi, ngoái nhìn thành cung đồ sộ phía Đông Bắc.

Đáng tiếc thật, hắn chưa khỏi hẳn, nếu không đêm đó đã có thể bóp chết Lý Đức.

Nếu đêm đó không ra tay, tiếp tục ẩn núp, thực ra có thể tìm được thời cơ thích hợp hơn. Nhưng hắn không đợi được lâu như vậy, từ lúc tỉnh lại tới giờ đã trôi qua quá lâu.

Tiểu Thất trơ trọi ngoài kia, hắn muốn đón con bé về nhà trước đã. Đợi tìm được Tiểu Thất, hắn sẽ quay lại báo thù.

Hắn đã đâm thủng cảnh giả tạo phụ từ tử hiếu giữa Lý Đức và Lý Huyền Trinh, trước mắt cứ để họ ngờ vực lẫn nhau, phụ tử tương tàn, đợi khi hắn về, hắn muốn tất cả phải trả giá đắt!

Roi ngựa Lý Trọng Kiền phi qua cầu sông Bá sương khói bóng liễu nhẹ bay, cũng không quay đầu lại đi thẳng về hướng Tây.

Tiểu Thất, đừng sợ, anh tới đón em.

...

Tám ngàn dặm ngoài xa, Vương Đình.

Ban ngày gặp phải Hải Đô A Lăng ở Phật Tự, Dao Anh cả đêm ngủ không ngon.

Trong mơ, một thanh niên mặc ngân giáp, áo khoác ngắn tay mỏng bào trắng phi xuống sườn núi, vì chính nghĩa không lùi bước phóng tới trận địa địch Bắc Nhung đầy giáp đen.

Thanh niên bị bao hãm giữa trùng vây, kiệt lực mà chết, chiến bào rách nát.

Tướng lĩnh đối phương thúc ngựa đi đến trước trận, dưới ánh mặt trời, một đôi mắt dài nhỏ hiện ra ánh màu vàng nhạt.

"Anh à! Đừng đi, đừng đi... Đừng gặp phải Hải Đô A Lăng..."

Dao Anh giật mình tỉnh lại, cả người run rẩy.

Nàng đã thay đổi vận mệnh của Lý Trọng Kiền, hai năm trước, đáng nhẽ anh đã chết dưới tay Hải Đô A Lăng trong lúc đối địch, khi đó, nàng nghĩ cách đưa anh tránh đi tái ngoại.

Giờ đây, anh đang tìm đến mình, không biết anh có cho là mình còn ở doanh địa của Hải Đô A Lăng mà trực tiếp đi Bắc Nhung tìm không?

Dao Anh đứng dậy rửa mặt.

Nàng phải sớm thả tin mình đang ở Vương Đình, sớm trở lại Trung Nguyên.

Ngoài cửa sổ líu ríu tiếng nói chuyện, thân binh lại sáng sớm luyện quyền. Dao Anh nghe tiếng đùa giỡn, cười cười, đẩy cửa sổ.

Tạ Bằng, Tạ Xung lập tức như ong vỡ tổ xông lên hành lang, mồm năm miệng mười nói: "Công chúa, hôm qua ở đại hội tranh biện kinh Phật, Pháp sư thắng!"

Dao Anh đã đoán trước rằng Đàm Ma La Già sẽ thắng, không hề bất ngờ.

Tạ Xung vỗ tay cười nói: "Hải Đô A Lăng Bắc Nhung cố ý mang theo mười cao tăng đến, từ giữa trưa đến tối, mười mấy người thay phiên biện luận với Pháp sư, Pháp sư vẫn là thắng!"

Họ không đi xem biện kinh, chỉ hóng kết quả, lúc này tranh nhau kể lại từng trận cho Dao Anh như đã từng xem. Dao Anh tựa vào cửa sổ, nhìn họ sinh động kể chuyện Pháp hội rầm rộ như thật, dần bình tĩnh lại.

Đây là Vương Đình của Đàm Ma La Già, nàng không cần phải sợ.

Dao Anh tinh thần phấn chấn, hỏi Tạ Xung: "Có ai hỏi tới Pháp y của tăng nhân không?"

Tạ Xung gãi da đầu: "Hổng có."

Tạ Bằng duỗi đầu tới: "Công chúa, hay thay bằng cách khác?"

Dao Anh mỉm cười: "Không vội, Đại hội biện kinh chỉ vừa mới kết thúc mà."

Các thân binh vang dội đáp vâng, đang muốn tiếp tục kể chuyện Pháp hội với Dao Anh, thoáng thấy bóng cao lớn của Tạ Thanh xuất hiện trước hành lang, vo ve mấy tiếng nhảy ra ngoài sân tiếp tục luyện quyền, la đầy sân.

Dao Anh lắc đầu bật cười, hỏi Tạ Thanh: "Hỏi thăm rõ chưa?"

Tạ Thanh gật đầu, nói: "Hải Đô A Lăng là phó sứ của sứ đoàn Bắc Nhung, ở trong dịch quán thành Nam, cả đoàn có ba mươi hai người, chúng tới tham gia đại hội biện kinh. Ban đầu người được chọn làm phó sứ là người khác, đột nhiên đổi người."

Dao Anh nhẹ chau mày. Thảo nào A Sử Na Tất Sa không biết Hải Đô A Lăng sẽ xuất hiện.

Tạ Thanh nói tiếp: "Hải Đô A Lăng ra vào đều có người đi theo, không hề đi đâu một mình, cũng không có cử chỉ gì quái lạ."

Dao Anh mấp máy môi, quyết định trong khoảng thời gian sứ đoàn Bắc Nhung chưa đi sẽ không ra khỏi cửa.

Mỗi ngày Tất Sa tới thăm mời nàng ra ngoài chơi, nàng nói rõ lý do, Tất Sa đành thôi, sau mấy hôm, cao hứng bừng bừng tới: "Người Bắc Nhung đi hết rồi!"

Dao Anh vẫn không yên lòng. Hải Đô A Lăng đến Bắc Nhung một chuyến, chỉ để xem trình độ Phật học của Đàm Ma La Già thôi ư?

Nàng tiếp tục sai Tạ Thanh đi nghe ngóng, mãi đến khi Thánh Thành không còn xuất hiện bóng người Bắc Nhung mới dám thi thoảng xuất cung lộ diện cùng A Sử Na Tất Sa.

Hôm nay, hi vọng cuối cùng của Dao Anh đã tới cửa.

Tạ Xung kích động chân trái vấp chân phải, xông vào sân vườn, lớn tiếng: "Hôm nay có người hỏi thăm pháp y hôm đó các nhà sư Phật tự mặc này!"

Dao Anh thở hắt ra, "Tốt, trong kho Vương cung còn mấy xe tơ lụa, bán được rồi."

Đại hội biện kinh người như nêm, là một sự kiện lớn ở Thánh Thành, các sư ở Pháp hội mặc Pháp y nàng tặng, mấy quý khách các thành bang nhìn thấy chói mắt, đẹp đẽ óng ánh, hẳn phải hỏi thăm chỗ cắt may.

Dao Anh chờ chính là hôm nay.

Ánh bình minh vừa hé rạng, mạ vàng rực rỡ cho núi tuyết trùng điệp nơi chân trời, cánh ưng lướt qua bầu trời xanh thẳm quang đãng, để lại bóng nhạt như mây bay, chuông sớm vừa mới vang lên ba lần, phố chợ phía Nam Thánh Thành đã náo nhiệt, người người nhốn nháo, rộn ràng.

Dao Anh mặc bộ váy sa rực rỡ hoa văn quyển thảo hình thú đối xứng, lụa che trên mặt, cùng A Sử Na Tất Sa đi vào phố chợ.

Đường sá phố chợ không gọi là dài, nhưng khách buôn tụ tập, hai bên cửa hàng chen chúc, san sát nối tiếp nhau, trong màn trướng xanh xanh đỏ đỏ người đứng đầy, thật không tìm được chỗ chen chân, các thương lái lui tới khác biệt màu da, khác biệt ngôn ngữ, y phục cũng khác, đến từ các bộ tộc khác nhau, hàng hóa các nước Tây Vực cùng tụ tập bán ở đây, so với phố chợ Trường An là một loại phồn hoa náo nhiệt rất khác.

Tiếng người ồn ã, trong tiếng rao hàng bằng tiếng Túc Đặc, tiếng Hồ xen lẫn âm lục lạc trong trẻo.

Dao Anh vừa đi, vừa quan sát kỹ, mấy cửa hàng mua bán phần lớn là châu báu, da lông, hương liệu, tơ lụa, thảm nỉ, rực rỡ muôn màu, tất cả đều đẹp sắc sảo, nhìn hoa cả mắt. Có điều nàng phát hiện hàng hóa đến từ Trung Nguyên cũng không nhiều.

A Sử Na Tất Sa giải thích: "Con đường mua bán thông về hướng Trung Nguyên không chỉ núi non trùng điệp, sa mạc trải rộng, đường đi gian nguy, mà còn chiến tranh liên tục mấy năm gần đây, nên nó sớm đã bị bỏ hoang, mấy đội buôn bình thường không dám tùy tiện mạo hiểm. Dân buôn ở đây phần lớn đến từ ba đường, đường phía Bắc vượt qua Thiên Sơn, qua Toái Diệp Thành*, Khang quốc, Sử quốc, Lạp Y, tận cùng là Phật Lâm, phía Tây nửa đường dọc theo sa mạc biên giới phía Tây, từ Quy Tư, Sơ Lặc đến Kiền Đà La, lại lên Khang Quốc phía Bắc hoặc xuống Thiên Trúc phía Nam, đường phía Nam dọc theo sa mạc Nam Duyên, qua Lâu Lan, Lại Mạt, Vu Điền, Sa Xa, đến Sơ Lặc."

"Sau khi đến Thiên Trúc, một số thương nhân xuôi Nam, xuôi theo Nữ Thành, Vương Xá Thành, tới Thổ Phiên, hoặc theo Phiêu Quốc tới Vĩnh Xương, là đến được Nam Cảnh Trung Nguyên. Một số khác theo đường biển, vòng qua Thiên Trúc, trải qua mấy tháng đổi chác với thương nhân Trung Nguyên trên biển, mấy nhà buôn đó phần lớn đến từ phía Nam Trung Nguyên như Quảng Châu, Minh Châu, Dương Châu."

Dao Anh nghe thấy cảm khái không thôi.

Ba tuyến đường Tất Sa vừa nói thật ra hoàn toàn trùng với tuyến đường phía Tây của con đường tơ lụa xưa kia, chỉ là đoạn xuất phát từ Trường An Trung Nguyên đến Đôn Hoàng, Ngọc Môn quan bị cắt đứt, vì Trung Nguyên đã mất khống chế với vùng sông Lũng từ lâu, đoạn đường bị trở ngại không còn lưu thông qua lại.

Mấy nhà buôn không sợ gian nguy, xuyên qua Đại lục Đông Tây mênh mông sa mạc và liên miên núi tuyết, xuyên qua chân trời, lui tới Trung Nguyên và Phật Lâm, đương nhiên không vì đường đi cách trở mà nhụt chí, khi ngành đóng tàu lớn mạnh, càng ngày càng nhiều nhà buôn lựa chọn thuyền có tải trọng lớn, chi phí thấp đi đường biển để trao đổi lưu thông hàng hoá.

Tuyến đường buôn bán trên biển xuất phát từ các bến cảng ở Minh châu, Dương Châu, Tuyền Châu, Quảng Châu Trung Nguyên, qua Nam Hải, qua Ca La Phú Sa La*, đến Tây Thiên Trúc, chuyển sang đường bộ đến Tây Vực, Ba Tư, xa nhất đến Phật Lâm, Jerusalem, được hậu thế gọi là con đường tơ lụa trên biển.

*tên nước cổ, Nam vịnh Thái Lan – đến bán đảo Cara, Kalah Malaysia – đoạn đường với mấy tên địa danh phiên âm mình chịu chết, nhìn bản đồ áng man mán.

Dao Anh nghe Lý Trọng Kiền nhắc qua, hàng từ Trung Nguyên vận chuyển về phía Tây chủ yếu là đồ sứ, trà, tơ lụa, đồ đồng đồ sắt, đem về Trung Nguyên là hương liệu hoa cỏ quý hiếm, bảo vật quý hiếm, mớ hàng đó thường vừa tới bến cảng đã bị thế gia quý tộc Nam Sở giành mua hết sạch, Nam Sở giàu có sung túc cũng là điều dễ hiểu.

Lúc đó Lý Trọng Kiền còn nói đùa, nếu hắn đánh hạ đô thành Nam Sở, chắc chắn sẽ đưa nàng dạo khố phòng hoàng cung Nam Sở.

Dao Anh ngây ra một lúc, tiếp tục quan sát phố chợ Thánh Thành.

Ngõa Hãn Khả Hãn Bắc Nhung muốn nhất thống Tây Vực phải đánh hạ Vương Đình, bảo đảm các chư quốc ven đường phía Bắc phải bị Bắc Nhung khống chế, nhưng chỉ cần Đàm Ma La Già giữ vững Vương Đình, Ngõa Hãn Khả Hãn sẽ không lấy nổi Bắc Tây Vực. Trong lúc hai nước giằng co, mấy nước nhỏ như Cao Xương, Yên Kỳ mới có không gian thở dốc.

Mà sự phồn vinh của Cao Xương phụ thuộc rất lớn vào thông suốt của tuyến đường buôn bán. Từ điểm này có thể thuyết phục Uất Trì Vương tộc Cao Xương đồng ý kết minh.

Hàng hóa ở phố chợ rất đa dạng phong phú.

Dao Anh vừa trầm tư vừa đi dạo, thấy thảm nỉ Ba Tư, đèn lưu ly Phật Lâm, răng Phật Thiên Trúc, rượu nho Cao Xương, còn có kinh thư Ai Cập dùng kim nê* để viết.

*bột vàng trộn với thủy ngân

Tạ Thanh, Tạ Bằng Tạ Xung đi bên cạnh, mắt không theo kịp. Tạ Bằng bắt gặp Dao Anh nhìn chằm chằm một cửa hàng của một nhà Túc Đặc treo màn gấm, lập tức móc tiền ra: "Công chúa muốn mua gì?"

Dao Anh lắc đầu, nói: "Hôm nay không phải tới mua đồ." Tạ Bằng ngơ ngác.

Thời tiết nóng dần, khí hậu Vương Đình rất thích hợp trái cây sinh trưởng, khắp nơi có xe trái cây được người Hồ đẩy đi bán, cả nhóm mua ít trái cây, xuyên qua phố chợ tới một đình viện xây bằng gạch mộc ngoài thành.

Trong viện đám người Hán từ già đến trẻ, tất cả ra đón, quỳ trên mặt đất khóc ròng.

Một lão giả râu ria hoa râm khóc nói: "Ơn cứu mạng của công chúa không thể báo đáp, nguyện làm trâu làm ngựa cho ngài."

Dao Anh ra hiệu Tạ Bằng đỡ lão dậy, nhìn quanh một vòng. Nam nữ già trẻ trong viện đều lộ vẻ chờ đợi nhìn nàng.

Đám người xanh xao vàng vọt, quần áo tơi tả, là nô lệ người Hán đợt đó nàng mua lại từ gã buôn người người Hồ. Trong số họ có người nguyên quán Hà Tây, có người sinh ở Tây Vực, hoặc chuyển đến Tây Vực, khi Tây Vực chia năm xẻ bảy, họ thành dân đen, cảnh ngộ bi thảm, bị bắt cóc đến tận đây buôn bán.

Lão giả lau khô nước mắt, hỏi ra kỳ vọng của trong lòng tất cả mọi người: "Công chúa, Hoàng đế Trung Nguyên muốn phát binh thu Hà Tây và Bắc Đình sao?" Mọi người ngẩng nhìn Dao Anh, mắt như có hai ngọn lửa cháy hừng hực.

Dao Anh lắc đầu: "Trước mắt Trung Nguyên không có năng lực đó."

Ánh sáng trong mắt lão giả trong mắt lu mờ trong nháy mắt.

Dao Anh nhìn đám người, cất cao giọng, vẻ nghiêm nghị: "Có điều Trung Nguyên chưa hề quên con dân của mình, văn võ đại thần trong triều đều chờ đợi sớm ngày giành lại đất cũ, Đại Ngụy đã bình định Trung Nguyên, sẵn sàng dùng người tài, chuẩn bị binh mã, nhất định thu phục non sông không xa!"

Nghe đến, lão giả lại kích động: "Công chúa nói đúng lắm, chúng ta đã chờ nhiều năm như vậy, nhất định sẽ chờ được đến ngày về Đông!"

Cả đám rưng rưng gật đầu phụ họa.

Tạ Bằng đem mớ trái cây chia xuống, họ vô cùng cảm tạ, dập đầu trước Dao Anh. Lão giả là người duy nhất trong số họ biết đọc, Tạ Xung đưa danh sách ông viết cho Dao Anh xem qua.

"Công chúa, tất cả chỗ này có 111 người, năm mươi mốt nam, sáu mươi nữ, phần lớn già yếu tàn tật, không kiếm sống được mới bị bán đổ bán tháo."

Dao Anh xem hết danh sách, gật đầu.

Tạ Xung hỏi: "Công chúa, chúng ta thu xếp cho họ sao đây? Cùng đưa về Trung Nguyên ạ?"

Dao Anh đứng trên bục cao, nhìn cả đám ôm thức ăn ăn như hổ đói, nhẹ chau mày. "Chúng ta muốn về Trung Nguyên cũng không thể đưa họ theo cùng mạo hiểm. Sau này hẳn chúng ta còn cứu nhiều người nữa, chúng ta đi đâu, họ đi đó hay sao?"

Tạ Xung gãi đầu, đúng thật khó giải, họ không thể đưa những người Hán này đi theo cùng, hơn một trăm người công chúa còn nuôi nổi, số lượng sau này càng lúc càng tăng, cũng không thể dựa vào một mình công chúa?

Dao Anh chậm rãi nói: "Cho người con cá không bằng cho người cần câu. Hỏi rõ ràng từng người họ ai biết nghề gì, nhuộm, thêu, mộc, hay biết chữ,... Chỉ cần thành thạo một nghề là được, không biết cũng không cần gấp, có thể học từ bây giờ, ai không khỏe thì ở nhà chăm sóc con nít người già."

Tạ Xung vâng lệnh, hỏi: "Công chúa muốn giúp họ tìm công việc ạ?"

Dao Anh lắc đầu: "Giúp họ tìm việc họ vẫn sẽ bị ức hiếp. Ta đã nhờ Tất Sa hỗ trợ mua hai gian bán hàng tơ lụa, trước tiên giao cửa tiệm cho mấy người này kinh doanh. Hôm nay ta đã nhìn qua phố chợ một vòng, gấm vóc Trung Nguyên ở đây bán hoa văn đã là kiểu dáng mấy năm trước, không mới mẻ sắc sảo như của chúng ta."

Tạ Xung bừng tỉnh: Hèn gì công chúa đưa tơ lụa cho hoà thượng Phật Tự!

Pháp hội qua đi, quý tộc Vương Đình nghe ngóng khắp nơi chỗ mua lụa từ đám Hồ thương, Tất Sa thả ra tin tức, nói gấm vóc tinh xảo ấy đến từ Trung Nguyên, mấy ngày nay dân buôn người Hồ đến đây nghe ngóng hỏi giá nhiều như cá diếc sang sông, một cây lụa trăm tiền đều không đủ bán.

Tạ Xung nghi hoặc hỏi: "Sao công chúa không trực tiếp bán cho quý tộc Vương Đình?"

Trong đồ của công chúa không thiếu lá trà, tơ lụa, châu báu, là những mặt hàng hiếm cực kỳ bán chạy ở Tây Vực, công chúa chỉ tặng một phần sách kinh, tượng Phật vàng ngọc, tơ lụa qua Phật Tự, số còn lại vẫn ở khố phòng. Quý tộc Vương Đình ưng loại tơ lụa này, sao không trực tiếp bán cho quý tộc mà phải mua cửa hàng rồi bán lại?

Dao Anh giải thích cho cậu: "Dù sao chúng ta cũng là kẻ bên ngoài mới đến, trực tiếp bán cho quý tộc, thứ nhất là đắc tội với các nhà buôn ở đây, thứ hai là định giá không tốt, dễ bị người ghen ghét. Nên theo quy củ ở đây, bớt đi thị phi lại có thể tìm chút việc làm cho đám người này sau này có rời đi, họ cũng có kiếm được cơm no bụng."

Đồ cưới quá bắt mắt lại không tiện mang theo, phải nhanh chóng bán đi, nhưng không thể trực tiếp bán ra từ chỗ nàng. Tây Vực khác với Trung Nguyên, quý tộc các nước ở đây lớn mạnh, nắm giữ việc buôn bán, không cẩn thận tí là đắc tội đại quý tộc, đến lúc đó mua bán không thành mà còn chuốc họa, chi bằng hợp tác với họ, lưng tựa gốc đại thụ lớn hóng mát, còn phòng ngừa được tranh chấp, lưu một đường lui về sau.

Đám Tạ Xung, Tạ Bằng nhìn nhau, nói: "Vẫn là công chúa nghĩ chu đáo!" Họ cứ tưởng chỉ cần bán đổi hàng hóa kia thành vàng bạc là được.

Dao Anh gọi lão giả đến hỏi: "Lúc xưa các người làm nghề gì?"

Lão giả cung kính nói: "Hồi công chúa, bọn ta làm mỗi nghề một chút! Trồng cây, nuôi bò dê, quét phân dê, dệt lông cừu, cắt lông dê, bện thừng, dệt gấm!"

Vương Đình mặc dù nằm sâu sa mạc nhưng có nước từ núi băng chảy xuống tưới đều, có mảnh đất lớn màu mỡ và nông trại, trồng cây hoa quả, giống như Cao Xương có vườn nho lớn, dê bò thành đàn trên sườn núi. Lão giả từng là người chăn thả cho chủ, lúc vụ mùa bận rộn còn giúp dệt lông cừu.

Dao Anh nói qua việc mở tiệm tơ lụa, "Ta sẽ mời người Hồ hỗ trợ quản lý cửa hàng, ông chọn ra mấy người biết viết tới hỗ trợ cửa hàng, ai khéo tay đi học nghề rồi mở xưởng, ta mang từ Trung Nguyên đến không ít hoa văn, đủ để các ngươi dùng nhiều năm."

Lão giả từng làm quản sự, nghe qua lập tức hiểu Dao Anh đang tính toán tương lai cho họ, kích động nước mắt tuôn đầy, quỳ xuống dập đầu.

Dao Anh nhìn ra lão giả rất có tiếng nói trong nhóm, cười khẽ: "Hiện chỉ là hai gian cửa hàng, các ngươi theo trông nom, đừng nóng lòng kiếm lời, trước mắt tìm cách sống yên phận đã."

Lão giả khóc gật đầu vâng lời, vẻ càng thêm cung kính.

Dao Anh hỏi: "Các ngươi từ đâu bị bán đến đây? Có bao nhiêu người Hán?"

Lão giả đáp: "Trong đám tụi tôi có người bị bắt từ Hà Tây, Sa Châu, Qua Châu, có người là người địa phương... người Hán mấy chỗ khác cũng giống bọn tôi làm việc cho quý tộc, có người là thuộc hạ của quý tộc, có thế gia đại tộc, thông gia với quý tộc."

Dao Anh trầm ngâm, hỏi: "Có ai trong số họ từng là đại tộc nắm giữ quân đội không?"

Lão giả ngẩn ra, lập tức hiểu ý Dao Anh, thoáng chốc nét mặt trở nên trang nghiêm, bái trước Dao Anh, đầu dập đất, vang ầm ầm.

"Lão hủ Tề Niên, chính là hậu duệ Tề thị Hà Tây, nguyện theo công chúa!"

Dao Anh cười cười, ra hiệu Tạ Xung đỡ lão dậy, không đáp.

Tề Niên không dám hỏi nhiều, khắp khuôn mặt không che giấu được sự phấn chấn cuồng nhiệt, nhỏ giọng nói: "Công chúa, các nơi vẫn có đại tộc lòng hướng về Trung Nguyên, còn có cả gia tộc bí mật huấn luyện nghĩa quân, để chờ khi vương sư đến có thể góp phần nào sức lực, tiếc rằng thực lực bọn họ chưa đủ khởi sự. Vương Đình thái bình thôi chứ các nơi khác đã bị chiếm cứ từ lâu, cách Sa Châu quá xa, tin tức không liên thông."

Dao Anh vẫn bình thường, nói: "Tinh hỏa liêu nguyên*."

*một đốm lửa có thể thiêu cháy thảo nguyên.

Nàng không ngừng chiêu mộ sức người, liên lạc đại tộc các nơi lòng nhớ nước nhà, thu nhận người lưu vong, lấy đồ cưới đổi tiền sung quân phí, mua thương nhân người Hồ, mời chào nhân thủ, lấy hình thức đội buôn lui tới các bộ lạc ở Tây Vực, họ không phải đối thủ của Bắc Nhung nhưng có tác dụng riêng, tỷ như hỗ trợ truyền tin. Dù thu nhận loại người gì, trước tiên, nàng phải chiêu mộ một đội vũ trang cho riêng mình để dựa vào. Chỉ với mấy người Tạ Thanh, khó mà thành sự.

Tề Niên nhìn Dao Anh, lặng yên hồi lâu, trong hai mắt đục ngầu dấy lên hai ngọn lửa, kinh ngạc, kính nể, kích động, hưng phấn từng thứ hiện lên, nhiệt huyết sôi trào khắp người. Ông đã nghe hộ vệ kể về lai lịch của công chúa, ngài lưu lạc Tây Vực, tự bản thân khó đảm bảo, vẫn không quên giải cứu đám dân đen họ, không chỉ thế, còn trù tính cho sau này, công chúa chính là cứu tinh của họ!

Nhất định là họ ngày đêm cầu nguyện cảm động thần Phật, thần Phật mới phái công chúa đến cứu vớt bọn họ.

Tề Niên lại quỳ rạp xuống dưới chân Dao Anh, nước mắt lưng tròng. Trong lòng ông có một dự cảm mãnh liệt: Chắc chắn công chúa có thể dẫn họ về quê hương! Người trong đình viện thấy thế, buông đồ ăn trong tay, đứng lên, từng người theo từng người quỳ xuống, như thuỷ triều, phủ phục quỳ trước mặt Dao Anh.

A Sử Na Tất Sa không giỏi tiếng Hán, từ sau khi vào đình viện, Dao Anh hết dặn dò từng thân binh, trấn an người già yếu, lại nói chuyện với lão giả, anh không tiện ra mặt, xa xa đứng một bên quan sát.

Đến khi tất cả mọi người trong đình viện quỳ lạy Dao Anh, anh ta không khỏi thu hồi vẻ lơ đễnh, thẳng tắp lưng, chăm chú nhìn vị công chúa người Hán lưu lạc đến Vương Đình.

Nàng đứng trước bậc, khóe môi mỉm cười, khí chất hoa lệ cao quý, đâu đấy giống hoa Tuyết Liên trên đỉnh Thiên Sơn.

Cao quý như thế, xa không thể với.

Tất Sa run sợ thật lâu.

Trên đường quay về, Dao Anh nhờ Tất Sa hỗ trợ nghe ngóng chỗ bán đất ở Vương Đình, đám Tề Niên giỏi làm nông, nàng muốn mua miếng đất, để mấy phụ nữ người già có việc làm kiếm ăn, cũng thuận tiện sắp xếp ăn ở.

Tất Sa đồng ý giúp nhưng kiên quyết không lấy thù lao.

Dao Anh cười nói: "Vậy thì không được." Nàng nhờ Tất Sa hỗ trợ, tự nhiên phải gởi thù lao.

Tất Sa bất đắc dĩ chịu thua, nói: "Công chúa thật quá khách khí, sao xa lạ với tôi vậy? Chúng ta là bạn bè, ngài còn là khách của Vương, sao tôi có thể nhận thù lao?"

Dao Anh cười nói: "Nếu đã như vậy, ta cũng không dám phiền Tướng quân hỗ trợ, ta nghe nói trong thành có rất nhiều người Túc Đặc làm chạy vặt."

Tất Sa nhìn khuôn mặt mỉm cười của nàng, tim đập như hươu chạy, không dám từ chối.

Trở lại phố chợ, Dao Anh đã nghe ngóng quy định phố chợ của Vương Đình, giao nộp một khoản tiền mua cửa hàng, thuê hai người Hồ lanh lợi quản lý, cửa hàng sẵn đã bán tơ lụa, cứ tiếp tục kinh doanh.

Nàng thả tin ra, mấy thương nhân tới hỏi luôn: "Tơ lụa của vị công chúa Trung Nguyên thật sự là chia cho tụi ta bán à?"

Chủ cửa hàng cười híp mắt gật đầu, nói: "Nhưng mà chư vị tới không khéo rồi, mớ tơ lụa kia đã bị mấy nhà Khang gia, Tiết gia đặt trước một số, còn lại không nhiều lắm."

Cả đám cả kinh, như ong vỡ tổ tràn vào, sợ chậm một bước bị người khác cướp hết phần tơ lụa. Còn lại một phần rất ít, họ để bán từ từ trong cửa hàng. Không lâu sau, nàng có thể đổi lấy tiền chiêu mộ nhân lực cho mình.

Tất Sa đưa Dao Anh về cung, rồi trực tiếp đi Phật Tự cầu kiến Đàm Ma La Già.

Phật đường yên tĩnh, La Già đang xem một cuốn kinh, bóng lưng thon gầy.

"Vương..." Tất Sa cởi bội đao, quỳ một gối xuống dưới hiên, trịnh trọng nói, "Tôi muốn cầu ngài một việc."

Thiền thất được lau chùi sạch sẽ, bốn góc lớn sân vườn có mấy cây táo, cánh hoa trắng bạc đầy cành, từng chùm như hạt châu, ánh nắng trút xuống xuyên tán lá rậm ẩn lên bóng sáng nhè nhẹ.

Đàm Ma La Già không quay lại, ngón tay thon dài trắng trẻo tiếp tục lật sách kinh, người mặc cà sa bóng lưng gầy gò cứng cáp.

"Chuyện gì?" Chàng nhẹ giọng hỏi.

A Sử Na Tất Sa quỳ gối ngoài cửa, chần chừ đôi chút, mặt ửng đỏ, ưỡn ngực ngẩng lên, từng chữ nói: "Vương, tôi thích Văn Chiêu công chúa Đại Ngụy, nàng xinh đẹp, cứng cỏi, lại dũng cảm, tôi ngưỡng mộ nàng ấy, muốn bảo vệ nàng ấy, để nàng mỗi ngày có thể vui cười không lo không nghĩ."

Có cơn gió phớt qua đình viện, cành táo điểm đầy hoa khẽ đung đưa, tỏa hương thoang thoảng.

Đàm Ma La Già lặng thinh một lát, cụp mắt: "Tất Sa, Văn Chiêu công chúa là công chúa Đại Ngụy, không phải công chúa Vương Đình."

Tất Sa cười cười: "Tôi biết, Văn Chiêu công chúa không phải công chúa Vương Đình, Vương, tôi cũng không phải tới xin ngài tứ hôn... Tôi chỉ muốn đến xin được ngài cho phép."

Anh dừng lại một chút, nhìn bóng lưng Đàm Ma La Già, vẻ trịnh trọng. "Vương, ngài cho phép tôi thích Văn Chiêu công chúa chứ?"

Động tác lật sách kinh của Đàm Ma La Già dừng lại.

Tất Sa nói tiếp: "Văn Chiêu công chúa dù sao cũng là lấy lý do noi theo cô gái Ma Đăng Già ở lại Vương Đình, tuy nói Vương là Phật Tử, từ lâu đã thoát thất tình lục dục, sinh tử, đoạn tuyệt ham muốn, sẽ không đả động vì công chúa, nhưng là thần tôn kính Vương, nên vẫn cả gan hỏi một câu... Vương, thần có thể thích công chúa không?"

Ngón tay Đàm Ma La Già di chuyển cầm châu trong tay, nói: "Tất Sa, cậu không nên hỏi ta."

Tất Sa khẽ giật mình, ngay sau đó cười khổ.

Đúng, anh không nên đến hỏi La Già, Văn Chiêu công chúa không phải trân bảo trên kệ, nàng là người sống, nếu thực tình anh thích Văn Chiêu công chúa, dù Vương không đồng ý, anh cũng nên lấy dũng khí theo đuổi.

Anh nhìn Đàm Ma La Già, nói: "Thần hiểu rồi ạ."

Đàm Ma La Già rủ mắt, tiếp tục xem sách kinh: "Văn Chiêu công chúa tuổi còn nhỏ, lưu lạc ở vực ngoại, triều không lự tịch*, Tất Sa, không được tùy tiện với nàng."

*sáng sớm không biết buổi tối sẽ thế nào; hình dung tình thế nguy cấp, khó có thể đoán trước.

Tất Sa lấy lại tinh thần, đầu chạm đất: "Thần lập thệ, tuyệt đối sẽ không bởi vì ngưỡng mộ công chúa mà làm ra chuyện gì xem nhẹ nàng ấy, càng không lợi dụng lúc nàng khó khăn, dùng thân phận ép buộc công chúa, nếu trái này thề, mặc Vương xử lý!"

Anh ta đợi một lúc, cầm bội đao rời thiền phòng, đứng cạnh cánh cửa, quay lại nhìn bóng lưng Đàm Ma La Già.

Trước khi lâm chung Sư tôn từng nói, La Già chưa dứt duyên trần.

Lúc trước Tất Sa không xem lời tiên tri này ra gì, đến chừng nhìn thấy Văn Chiêu công chúa xinh đẹp động lòng người, ở chung với người đó vài ngày, lời dặn dò của Sư tôn lại vang vọng trong đầu anh.

Anh sợ lời sư tôn trở thành sự thật.

Nhất niệm thành Phật, nhất niệm thành ma, La Già không giống kẻ khác, nếu ngài động tâm, biết được tư vị tình yêu...

Mặt Tất Sa nghiêm trọng.

Sau lưng có một chuỗi bước chân, Bát Nhã lén lén lút lút sáp tới: "Tướng quân A Sử Na, ngài thật ngưỡng mộ Văn Chiêu công chúa à?"

Tất Sa gật đầu, giọng vang dội: "Không sai, ta thích công chúa, lòng sáng như nhật nguyệt!" Nói xong, quay đi.

Bát Nhã đưa mắt nhìn bóng lưng cao lớn của anh biến mất sau cây táo, hưng phấn xoa tay: A Sử Na tướng quân phong lưu phóng khoáng, mười ba tuổi đã làm tim mấy cô gái nhà quý tộc rung rinh mơ màng, mấy năm qua chuyện phong lưu của tướng quân chưa từng đứt đoạn. Lần này hay rồi, ngài thích Văn Chiêu công chúa thì cuối cùng Vương cũng thoát được cô ta rồi!

Gió hiu hiu thổi qua hành lang lạnh âm u, tràn vào thiền thất, tốc lên trang sách trên bàn, Đàm Ma La Già cúi đầu đọc kinh văn, cà sa trải qua trường án, sột soạt.

Sau nửa canh giờ, ngoài hành lang lại nghe tiếng bước chân. Duyên Giác đứng trước cửa, ôm quyền: "Vương, bên Sa Thành báo tin về, Vương tử Hải Đô A Lăng không về Bắc Nhung."

Bắc Nhung không có đô thành cố định, doanh trướng Ngõa Hãn Khả Hãn dời đi đâu, nha trướng Bắc Nhung ở đấy. Sau khi Bắc Nhung ký minh ước với Vương Đình, bệnh tình của Ngõa Hãn Khả Hãn chuyển biến tốt đẹp, trong thời gian ngắn dấy lên lời đồn đãi về chuyện trời phạt, danh vọng của Đàm Ma La Già lại tăng một cấp, Ngõa Hãn Khả Hãn quyết định rất nhanh dời về Y Châu tránh cho lòng quân tan rã. Hải Đô A Lăng đi sứ Vương Đình, theo hành trình hẳn giờ đã đến Bắc Nhung, thế mà dân du mục bên đó chưa nhìn thấy bóng dáng hắn.

Khuôn mặt Đàm Ma La Già trầm tĩnh, ngón tay khẽ gảy cầm châu: "Tăng cường cảnh giới các nơi trong Vương cung."

...

Vương Đình ban ngày nóng như thiêu, ban đêm lạnh lẽo, ánh trăng lạnh lùng nghiêng chiếu, như rải đầy sương lạnh trên đất.

Trong phòng dưới ánh nến sáng như hạt đậu, Dao Anh và thân binh ngồi trên thảm thảo luận về chuyện an bài cho dân chúng người Hán ở Sa Châu, Qua Châu.

Mấy hôm trước nàng bảo Tạ Thanh làm sa bàn, xếp ra địa thế đại khái của phía Bắc Tây Vực, giảng giải cho mấy người Tạ Xung: "Tây Vực nhiều hoang mạc, con đường buôn bán dựa vào những khu vực ốc đảo hẹp dài xây lên, ven đường có đặt dịch trạm, vì chiến loạn mà rất nhiều dịch trạm bỏ hoang, dân buôn người Hồ biết đường thường có thể khống chế mua bán, lúc liên hệ với họ phải có tầm nhìn lâu dài chút, thà nhường một ít lợi nhuận cũng phải hợp tác với họ. Nếu có thể đứng vững ở Vương Đình, sau này chúng ta có thể cứu trợ thêm nhiều người."

Mấy người Tạ Xung chăm chú lắng nghe, hỏi: "Công chúa, sau này tụi tôi phải đi theo dân buôn người Hồ làm ăn ạ? Dẫn binh đánh giặc tôi còn khoác lác được mấy câu, chứ làm ăn tôi một chữ không biết đâu..."

Dao Anh liếc cậu nói: "Bây giờ Tây Vực thảm hoạ chiến tranh liên tục, rất nhiều bộ lạc nhỏ phồn vinh dựa vào con đường giao thương này đều suy vong, lúc này mấy đội buôn có thể lui tới các nước đều có vũ trang ủng hộ, các ngươi phải học cách liên hệ với họ. Họ rất nhạy về tin tức, biết đâu có thể giúp chúng ta truyền tin."

Trong chiến loạn đám người buôn bán ở Tây Vực thường có quan hệ mật thiết với từng bộ lạc, dùng vàng bạc của cải lôi kéo đại quý tộc ảnh hưởng thế cục nơi ấy, thuận lợi cho việc mua bán, thậm chí còn điều động được cả quân đội.

Tạ Xung rõ ràng hơn, liên tục gục gặc, cười nói: "Chỉ cần công chúa đừng để tôi quản lý sổ sách là được!"

Tạ Bằng lườm cậu: "Cho ngươi quản lý sổ sách? Đợi chúng ta không có gì ăn đi!"

Mấy người còn lại cười một trận.

Bàn đến nửa đêm, đám người cáo lui. Tạ Thanh ở lại đưa mấy quyển binh thư vài hôm trước Dao Anh cho nàng: "Công chúa, tôi xem hết rồi." Chữ nào cũng cắn nhả rất mạnh, không khó nghe ra vẻ hãnh diện bên trong.

Dao Anh dở khóc dở cười, chuyện này rất đáng hãnh diện sao? "A Thanh, mấy quyển binh thư này là cho cô nghiên cứu cho thật kỹ, giữ lại mà xem vài lần nữa đi, không cần trả."

Tạ Thanh ồ một tiếng, nhận lại sách.

Dao Anh nhỏ giọng: "A Thanh, vừa vặn chúng ta đang ở Vương Đình, chỗ nào cô không hiểu có thể tìm bọn Tất Sa thỉnh giáo, dù binh thư hai nước khác biệt nhưng cũng cùng một đạo lý."

Tạ Thanh gật đầu. Nàng trời sinh có sức mạnh, lúc nhỏ hay luyện võ với anh em trai trong nhà, nhưng vì thân gái, cha chưa từng dạy nàng bài binh bố trận, lúc trước nàng cũng không muốn ra trận, chỉ làm một chức hộ vệ, giờ lưu lạc bên ngoài, thân binh đều nghe nàng chỉ huy, công chúa bảo nàng học binh pháp, nàng sẽ học cho tốt.

Công chúa chưa từng vì nàng là nữ mà nhìn nàng bằng ánh mắt khác, không bất công cũng không hiếu kỳ, như trong mắt công chúa, đây không thể là chuyện bình thường hơn.

Nàng không thể phụ lòng tín nhiệm của công chúa.

Tạ Thanh cất binh thư, nhìn ánh trăng như nước trước cửa sổ, đột nhiên hỏi: "Công chúa, nếu như tin chúng ta đưa về được tới Trung Nguyên, Trung Nguyên sẽ hồi đáp sao?"

Dao Anh gật gật đầu: "Sẽ."

Nàng chắc chắn Trung Nguyên sẽ đáp lại, vì nàng xem Lý Đức, Lý Huyền Trinh và các đại thần trong triều là chính khách, cho dù giữa họ có gút mắc gì, chính khách sẽ không cự tuyệt giao dịch có lợi, vả lại trong triều còn có Trịnh Cảnh nhân tài xuất thân từ thế gia mới nổi, có Đỗ Tư Nam từ hàn tộc dã tâm bừng bừng, nóng lòng kiến công lập nghiệp, vì tiền đồ có thể không từ thủ đoạn, những người này không thiếu tầm mắt lâu dài, yêu nước thương dân, luôn sẽ có người hồi đáp.

Về phần thù riêng cha con anh em bọn họ, sẽ luôn có lúc tính toán cho rõ.

Tạ Thanh nhíu mày: "Về Trung Nguyên rồi sao ạ? Công chúa, ngài phải có dự định cho riêng mình."

"Ta biết." Dao Anh ngáp một cái, giọng nhu mì lười biếng, "Về Trung Nguyên không phải về Trường An, trong lòng ta nắm chắc, A Thanh, những chuyện ta làm, là vì đại cục, trừ họa chiến tranh, cũng có lợi cho chính ta, cô yên tâm."

Tạ Thanh ừm, thấy nàng đầy mệt mỏi, đứng dậy dời ánh đèn: "Công chúa nghỉ sớm đi."

Mí mắt Dao Anh sụp xuống, thay đồ nằm chưa đầy một lát đã ngủ mất, trong mơ mơ màng màng bỗng nhiên cảm giác có gì kỳ lạ, giật mình tỉnh lại, vừa vặn nghe thấy có mấy tiếng chân đạp trên nóc nhà.

Có người đi trên mái nhà!

Dao Anh nghiêng tai lắng nghe, có tiếng trầm đục trong vườn, rồi tiếng người ngã xuống, nghe Tạ Xung kêu lên, không biết bị ai đánh ngất, tiếng la im bặt.

Ngoài hành lang tiếng bước chân hỗn loạn, bóng người di chuyển trước cửa sổ.

Tim Dao Anh đập bình bịch, sờ soạng lôi chủy thủ ra, bò dậy, chân trần bước xuống đất, rón rén trốn đến sau cửa.

Két két, then cửa bị đẩy ra từ ngoài, một đôi tay đẩy cửa ra, mấy bóng đen chui vào phòng, trực tiếp chạy tới giường.

"Công chúa!"

Tiếng Tạ Thanh, Tạ Bằng quát lớn, trong vườn có bóng người cầm đao chợt lóe, thân binh vừa la lớn vừa quấn đấu với người mặc đồ đen, trong trong ngoài ngoài hành lang đầy người.

Dao Anh trốn phía sau cửa, hay tay nắm chặt chủy thủ.

Mấy bóng đen kia chạy vội tới cạnh giường, xốc tấm chăn mỏng, không thấy Dao Anh, lập tức tìm kiếm xung quanh.

Một bóng đen trong đó bỗng híp mắt, xoay người lóe lên trong chớp mắt cơ thể cao lớn mạnh mẽ đã đứng trước mặt Dao Anh, tay dài duỗi ra, một tay nắm chặt cổ tay nàng, hơi dùng sức.

Rắc, hai tay Dao Anh xụi lơ, chủy thủ trong tay rơi xuống đất.

Sau tấm mặt nạ có tiếng cười nhẹ, lộ vẻ không kiềm chế: "Văn Chiêu công chúa, cô luôn thích trốn ở chỗ sau cửa này nhỉ."

Máu khắp người Dao Anh như đông lại, đối mặt với đôi mắt màu vàng nhạt sắc bén, mở to hai mắt: Hải Đô A Lăng!

Hải Đô A Lăng cười nhạo, ngón tay thô ráp bóp cằm Dao Anh, khinh miệt nói: "Ta nói rồi, cô trốn không thoát lòng bàn tay của ta."

Răng Dao Anh nghiến kèn kẹt, muốn tránh thoát hai cánh tay y nhưng tay chân lại cứng ngắc, không động được. Hải Đô A Lăng cười nhẹ, cúi người ôm lấy nàng, ánh mắt lóe lên vẻ tràn đầy dục vọng chinh phục con mồi: "Công chúa, chơi bên ngoài chán rồi, phải về thôi."

Y ôm Dao Anh ra hành lang, mấy bước nhảy lên tường rào, mấy nhịp lên xuống nhanh nhẹn, trong nháy mắt đã lướt qua một loạt nóc nhà.

Mấy người Tạ Thanh trơ mắt nhìn Dao Anh bị bắt đi, muốn nứt cả mắt định xách đao đuổi theo nhưng bị mấy người mang mặt nạ quấn lấy, khổ đấu một trận, ngẩng lên chỉ còn một vầng trăng bạc, nào còn bóng hình của Dao Anh?

"Công chúa!" Tạ Xung lo lắng rống to.

Dao Anh bị mang ra Vương cung, không còn nghe được tiếng thân binh vội hô hoán, bên tai chỉ có tiếng gió vù vù và tiếng thở trầm ổn chậm rãi của Hải Đô A Lăng, đôi tay dài rắn chắc có lực ôm chặt nàng như cái vòng sắt, siết chặt khiến nàng không cách nào động đậy.

Nàng nhẹ run rẩy, nhìn thấy Vương cung ngày càng xa, dùng hết sức lực, cắn cổ Hải Đô A Lăng một phát.

Hải Đô A Lăng khẽ cười, nhanh nhẹn tránh đi, bắt lấy cằm nàng, hơi nóng phả lên chóp mũi nàng: "Mấy ngày không gặp, công chúa học được cách cắn người rồi sao?"

Nhưng đúng lúc này, dưới ánh trăng trong lạnh bỗng lóe một vầng sáng màu vàng rực rỡ. Hải Đô A Lăng nhạy bén ngửi được mùi nguy hiểm, con ngươi co rút, ôm chặt Dao Anh, tung người phóng lên.

Vầng sáng còn nhanh hơn y, trong giây lát đã đuổi kịp y, bổ thẳng đứng vào lưng y, móng vuốt sắc nhọn rạch đứt áo giáp.

Áo giáp vừa cứng vừa dẻo dai bị xé đôi, y phục rách hết.

Hải Đô A Lăng rên cả người, bắp thịt cánh tay xoay vần, đánh ra một chưởng xé không, nhẹ lay người, hất bóng đen, nhảy lên đỉnh nóc nhà ngói, quay đầu lạnh lùng nhìn bóng đen kia.

Dao Anh nhìn theo ánh mắt y. Một con báo màu sắc lộng lẫy từ trong bóng tối từ từ bước ra, thân hình mạnh mẽ, vẻ nhẹ nhàng ưu nhã, hai mắt màu vàng lóe lên lân quang kỳ dị.

Hải Đô A Lăng lột mặt nạ, nét mặt dữ tợn, thả Dao Anh xuống, rút đao ra khỏi vỏ, ánh mắt tối tăm: "Tô Đan Cổ, ta đã đoán sẽ sớm gặp ngươi!"

Vài tiếng chấn động nhẹ trên mái, báo đốm nâng đuôi, chạy về hướng Đông.

Ánh trăng trong veo nhè nhẹ, gió đêm gào thét, thấp thoáng lấp lóe dưới ánh trăng, một bóng người cao gầy đứng một chỗ trên nóc nhà, tay cầm trường đao, một thân áo đen, khuôn mặt đáng sợ, trầm tĩnh lạnh nhạt, như hòa vào bóng đêm vô biên vắng vẻ thành một.

Như Tu La đi ra từ quỷ vực, lạnh lẽo túc sát, hung mãnh vô tình.

Hải Đô A Lăng lạnh lùng nhìn hắn, nâng trường đao.

Tô Đan Cổ đón gió mà đứng, không nhúc nhích, y phục màu đen phần phật bay, ôm lấy dáng người thon gầy lại căng chứa đầy lực, cả người tràn đầy sức bật rất mãnh liệt.

Dao Anh kinh ngạc nhìn hắn.

Hải Đô A Lăng tiến lên, quát khẽ lấn lên, Tô Đan Cổ đang đứng bất động bỗng nhiên rút đao tiến tới, động tác mau lẹ, ánh đao lấp lóe, hai bóng người mạnh mẽ quấn đấu.

Dao Anh đứng trên nóc nhà, gió thổi chao đảo, tim đập loạn, không chớp mắt nhìn hai người.

Hải Đô A Lăng nhanh nhẹn uy mãnh, tấn công mạnh mẽ, đao mang lực hung ác.

Tô Đan Cổ ác liệt tàn bạo, khí thế bàng bạc, mỗi đao đều tàn nhẫn vô cùng, ra tay không chút lưu tình, giữa di chuyển lại mang vẻ uy nghi ung dung trầm ổn, mơ hồ có phần thương xót.

Hai người qua hơn một trăm chiêu vẫn chưa rõ cao thấp, hai luồng lực đạo va chạm khuấy động, mái nhà vỡ vụn, bụi rơi lả tả.

Hải Đô A Lăng tâm tình nóng nảy, đánh mãi chưa tới đâu, giận tím mặt, bức Tô Đan Cổ vào góc, một chiêu thanh toán, bắp thịt cả người gồng lên, giơ trường đao chém về phía Tô Đan Cổ.

Một phát như dùng hết toàn lực của gã, như Thái Sơn áp đỉnh, Phật cản giết Phật!

Dao Anh khẩn trương nín thở.

Tô Đan Cổ thẳng người, mặt lầm lì, tay trái trường đao quét ngang, khí thế bừng bừng, mang theo vẻ bá đạo tận trời sôi trào mãnh liệt, cứ thế mà bổ vào thế công của Hải Đô A Lăng!

Hải Đô A Lăng lùi về một bước, rên nhẹ, khóe miệng tràn tia máu.

Y quét mắt một vòng sau lưng, phát hiện người của y không đuổi theo, ánh mắt âm u, bỗng lui lại mấy bước, phóng tới cạnh Dao Anh, ôm lấy eo nàng, xoay người bỏ chạy.

"Tô Đan Cổ, sau này gặp trên chiến trận, chúng ta lại so cao thấp!"

Dao Anh còn chưa kịp kêu cứu, sau lưng có luồng đao khí chém tới, trong tiếng áo bào phần phật, Tô Đan Cổ tung người mấy cái đuổi theo, thân ảnh quỷ mị, chém một đao về phía cánh tay phải của Hải Đô A Lăng.

Hải Đô A Lăng sợ hãi, lách mình né tránh, Tô Đan Cổ sấn lên, bắt lấy vai Dao Anh ôm vào trong lòng.

Dao Anh cảm thấy tia đao lóe bên khóe mắt, lớn tiếng nói: "Cẩn thận!"

Một thanh đoản đao từ trong tay áo Hải Đô A Lăng phóng ra, thẳng vào Tô Đan Cổ!

Tô Đan Cổ không rên một tiếng, bóng người cao lớn bay tới, thế như ưng bắt thỏ, tay phải ôm lấy eo Dao Anh, sượt qua người Hải Đô A Lăng, tay trái phóng một chưởng, chưởng phong rất mạnh, thế không thể đỡ.

Hải Đô A Lăng nhắm mắt thu đoản đao, chạy ra sau.

Dao Anh kinh sợ, đổ đầy mồ hôi lạnh, trong lúc bối rối bấu ngay cổ Tô Đan Cổ, người dính sát vào lồng ngực hắn, run nhè nhẹ.

Tô Đan Cổ ôm nàng nhanh chóng lướt qua nóc nhà, dừng lại một chỗ trên tường viện, quay người nhìn Hải Đô A Lăng.

"Văn Chiêu công chúa là Ma Đăng Già của Vương, nếu có lần sau, ta ra tay sẽ không lưu tình." Hắn nhả từng chữ, giọng khàn khàn.

Hải Đô A Lăng mặt trầm như nước, nhìn Dao Anh nép trong ngực Tô Đan Cổ, khóe miệng co giật mấy cái, quay người nghênh ngang rời đi.

Bầu trời cao xa vắng vẻ, ánh trăng tung xuống một mảng sáng lạnh trong lấp lánh như nhũ bạc, gió đêm thổi tới, phất qua da thịt dưới lớp áo mỏng, lạnh buốt như tuyết.

Tô Đan Cổ ôm lấy Dao Anh run lẩy bẩy, thoăn thoắt nhảy vượt giữa Vương cung nguy nga, báo đốm ngay sau lưng bọn họ, động tác tung chân nhẹ nhàng tinh tế.

Dần dần nghe tiếng người ồn ào, vút vút mấy mũi tên nhọn xé không tới, tiếng rít lạnh gần trong gang tấc.

Dao Anh trong lòng rất gấp, ngón tay không khỏi nắm chặt áo bào của Tô Đan Cổ. Hắn không nói không rằng, che nàng trong lòng, ngang tay nâng đao, chém mấy mũi tên, nhảy xuống tường viện, hạ xuống cạnh một gốc cây táo trong vườn.

Cách một bức tường viện, có tiếng la to với đám cung thủ: "Nhìn kỹ đi! Là Nhiếp Chính Vương!"

Vệ binh bắn tên run lẩy bẩy, lập tức rối loạn, tiếng kêu la tứ phía.

Thu cánh tay kiên cố vòng quanh bờ vai kia về, Dao Anh được đặt xuống, đôi chân trần chạm mặt đất lạnh lẽo, hơi lạnh xông thẳng lên người.

Sau lưng nghe một tiếng kêu rên đè nén. Dao Anh nheo mắt, quay lại nhìn. Tô Đan Cổ che ngực lùi về một bước, áo bào xẹt qua nhánh cây táo, đám hoa màu trắng bạc xào xạc rơi.

"Ngài bị thương à?" Dao Anh giật mình, đưa tay đỡ Tô Đan Cổ, vừa rồi lúc hắn ôm nàng đối địch với Hải Đô A Lăng, Hải Đô A Lăng phóng một thanh đoản đao từ tay áo, hắn sợ nàng bị đâm trúng, lộn vòng người chặn một đao, có lẽ đã bị thương.

Tô Đan Cổ hơi lảo đảo.

Dao Anh xông tới đỡ lấy cánh tay hắn, nghĩ có khi hắn không hiểu tiếng Hán mình nói trong lúc vội, đổi tiếng Hồ hỏi lại: "Ngài bị thương à?"

Tô Đan Cổ lấy lại thăng bằng, hờ hững liếc nàng, vết sẹo trải rộng trên mặt xấu xí dữ tợn, một đôi mắt sâu xanh lục vô tình, như bầu trời mênh mông rực rỡ, lạnh lùng lãnh đạm, không vui không buồn.

Đột nhiên Dao Anh có cảm giác đứng trước mặt không phải là một người, mà là một thanh đao lẫm liệt tỏa đầy sắc lạnh.

Một thanh đao vô tình vô dục, chuyên giết chóc mà thành.

Hai người bốn mắt chạm nhau.

Dao Anh nhíu mày nhìn lên Tô Đan Cổ, trên mặt không hề sợ hãi chán ghét, chỉ có chân thành lo lắng và cảm kích, ánh trăng lọt vào đôi mắt trong suốt thon dài của nàng, đáy mắt có ánh lấp lánh, như nước hồ sóng sánh, dịu dàng xinh đẹp.

Ánh mắt Tô Đan Cổ lại như hồ nước tĩnh lặng tịch mịch, không một gợn sóng.

Nhìn nhau trong chớp mắt, Dao Anh tiếp tục nhẹ giọng hỏi: "Tô tướng quân, ngài bị thương chỗ nào?"

Nghe có tiếng bước chân như mưa rơi từ cửa sân, A Sử Na Tất Sa người mặc nhung trang dẫn đám vệ binh chạy tới, xông vào đình viện.

Vệ binh nhìn thấy mũi tên rơi trên đất, liếc qua khuôn mặt dữ tợn của Tô Đan Cổ, nhìn nhau, sợ không dám bước tới.

Tất Sa bước qua mớ tên rơi loạn đầy đất, lo lắng chạy tới, ánh mắt rơi xuống cánh tay Dao Anh dìu lấy Tô Đan Cổ, chau mày. "Hộ vệ trong cung bất lực, làm công chúa bị sợ hãi." Anh cười cười với Dao Anh, quay lại ra hiệu hai tên vệ binh, "Đưa công chúa về nghỉ đi."

Dao Anh đảo mắt một vòng. Trong hành lang chen đứng đầy vệ binh, ai cũng đầy đủ vũ trang, chỉ tính người vác trường cung đã có bảy tám người —— bình thường Đàm Ma La Già không ở Vương cung, trong cung cấm không có thủ nghiêm thế này, hiển nhiên họ đã có chuẩn bị đón địch từ trước.

Tất Sa biết Hải Đô A Lăng sẽ xông vào Vương cung, nên mới thu xếp nhiều người thế này chạy tới cứu nàng.

Dao Anh có vẻ suy nghĩ, nhìn Tô Đan Cổ đã đứng vững vàng, nói: "Đa tạ Tô Tướng quân."

Tô Đan Cổ không lên tiếng, trên gương mặt đáng sợ nhìn không ra cảm xúc gì.

Dao Anh thu tay lại, quay đi.

"Công chúa, chờ tí!"

Tất Sa đuổi theo, cúi nhìn Dao Anh.

Dao Anh nửa đêm tỉnh giấc, không mặc áo ngoài, chỉ một lớp áo trong mỏng manh, có lẽ mang từ Trung Nguyên tới, mỏng như cánh ve, nhẹ nhàng trong suốt, dưới ánh trăng nhẹ lồng xuống, dáng người yểu điệu như ẩn như hiện, lớp vải mỏng lộ ra vòng eo tinh tế mềm mại, vừa rồi lúc giãy dụa cổ áo mở một nửa, một bờ vai óng ánh trắng nõn lộ ra, còn muốn nhẵn mịn trắng dính hơn cả mỡ dê, đâu đấy như có mùi thơm quanh quẩn.

Ánh mắt vệ binh trong viện dao động, tất cả đều đang len lén nhìn nàng. Tất Sa nhìn bờ vai tuyết trắng của Dao Anh, lông mày càng nhíu chặt.

Dao Anh biết mình chật vật, cười cười, ôm lấy vạt áo, động tác tự nhiên không chút xấu hổ. Nàng chân trần nhảy xuống giường trốn, phản ứng đã rất nhanh, đáng tiếc vẫn bị Hải Đô A Lăng bắt rùa trong hũ, y đã coi nàng là con mồi, đã thăm dò thói quen chạy trốn của nàng.

Tất Sa vốn nghĩ Dao Anh sẽ lộ vẻ thẹn thùng xấu hổ, hoặc sợ túa nước mắt sướt mướt, ai ngờ nàng lại cười, mắt lộ vẻ kinh ngạc.

"Công chúa, người đang phát run lên kìa."

Anh cởi áo choàng trắng trên người xuống, choàng qua vai Dao Anh, nắm chặt bờ vai nàng, nhẹ nhàng nói, "Công chúa không cần sợ, cả đêm tôi sẽ canh ở đây."

Đám vệ binh nghẹn họng nhìn anh ta trân trối: Tướng quân quả thật phong lưu phóng khoáng, lúc này vẫn không quên dâng hiến ân tình!

Dao Anh lạnh run, không khách khí, quấn áo choàng, nói: "Đa tạ."

Tất Sa đưa mắt nhìn nàng đi xa, ánh mắt mềm mỏng, mãi khi bóng lưng nàng biến mất sau cửa sân, mới quay nhìn Tô Đan Cổ, khóe miệng nhẹ vểnh.

"Nhiếp Chính Vương, đa tạ người cứu Văn Chiêu công chúa, ban nãy tôi thật tình sợ nàng ấy bị Hải Đô A Lăng cướp mất." Nghĩ lại mà sợ, vỗ vỗ ngực, anh cất cao giọng nói.

Tô Đan Cổ không nói gì, tra đao vào vỏ, ngẩng lên quét mắt một vòng đình viện.

Cả đám bị ánh mắt quét tới thầm sợ, run run rẩy rẩy quỳ xuống.

Tất Sa cũng quỳ một chân trên đất, cung kính nói: "Nhiếp Chính Vương, bọn tôi bắt được tám người, giết năm, còn hai kẻ tự vận, còn một không chạy thoát!"

Anh dẫn đội mai phục gần chỗ Lý Dao Anh, nghe động tĩnh chạy tới ngay.

Tô Đan Cổ gật đầu, vạt áo đen đảo qua trước mặt mọi người, bóng người cao gầy rắn rỏi đi vào hành lang, tan vào trong bóng đêm.

Báo đốm ngoắt ngoắt cái đuôi đi theo.

Chỉ sau chốc lát, tiếng bước chân biến mất.

Như Tu La quỷ mị, vô tung vô ảnh.

Mấy tên vệ binh vừa rồi trong lúc bối rối đã bắn phải Tô Đan Cổ nhìn nhau, run rẩy: "Nhiếp Chính Vương có đang tức giận không nhỉ? Không biết có trị tội chúng ta không ta?"

Họ thật không cố ý, nhìn thấy một bóng người ôm công chúa còn tưởng là Hải Đô A Lăng! Ai biết Nhiếp Chính Vương xuất quỷ nhập thần lại đột nhiên ra mặt?

Nhiếp Chính Vương tuyệt đối đừng chém đầu họ nghen!

Tất Sa đứng lên, đạp tên vệ binh: "Lần sau tỉnh táo hơn cho ta! Nếu ngộ thương Nhiếp Chính Vương thì làm thế nào? Đám cung thủ đi Hình đường lãnh phạt hết đi, mỗi người mười côn!"

Cả đám không dám xin khoan dung, dập đầu vâng dạ, chịu mười côn dù sao cũng ngon hơn rơi đầu!

Vệ binh xin chỉ thị Tất Sa: "Tướng quân, có cần phái người đi Phật Tự bẩm với Vương không ạ?"

Là Vương nhắc họ phòng bị, giờ bắt được người, hẳn phải bẩm báo Vương trước.

Tất Sa lắc đầu: "Không cần phái người đi Phật Tự... Nhiếp Chính Vương sẽ đích thân bẩm báo."

...

Dao Anh trở lại nơi ở.

Tạ Thanh, Tạ Xung lập tức lao đến, họ cùng vệ binh đã khống chế bộ hạ của Hải Đô A Lăng, đang chuẩn bị đi tìm nàng.

Dao Anh về phòng mang giày vào trước —— mấy con đường trong Vương cung phần lớn là đi trên đất, một đường chân trần, lòng bàn chân nàng đã muốn mài hỏng.

Tạ Xung cả giận nói: "Không ngờ Hải Đô A Lăng chưa hết hi vọng, công chúa đã ở trong Vương cung Vương Đình rồi mà y còn dám dấn thân mạo hiểm."

Dao Anh đổi áo choàng dày hơn, nói: "Phật Tử rất ít khi ở Vương cung, ở đây phòng thủ không nghiêm."

Từ lúc Hải Đô A Lăng xuất hiện ở đại hội tranh biện kinh Phật nàng đã biết đối phương không tốt, nên trốn kỹ không ra, không bước ra cửa cung một bước, sau khi sứ đoàn Bắc Nhung rời đi đợi mấy ngày mới dám xuất cung đi lại, không ngờ lần này Hải Đô A Lăng còn kiên nhẫn hơn trước, chờ đến đêm nay mới ra tay.

Dao Anh nhớ đến A Bố con chim ưng Hải Đô A Lăng tự mình thuần dưỡng, gã thích cảm giác chinh phục con mồi, sẽ không dễ dàng buông tha nàng.

"Giờ phải mau chóng nghĩ cách truyền tin về Trung Nguyên..." Dao Anh thì thào, "Cũng không biết vết thương của anh đã lành chưa... Tính anh nóng nảy, ai khuyên cũng không nghe..." Nàng nhớ đến Lý Trọng Kiền, lại sợ Lý Trọng Kiền gặp Hải Đô A Lăng, bi kịch tái diễn.

Dao Anh hà hơi, nửa đêm gió lạnh, sắc mặt trắng bệch, môi tái xanh, người run rẩy nhẹ.

Đám Tạ Xung liếc mắt nhìn nhau, không đành lòng dọa nàng, cười nói: "Công chúa an tâm, Tần Vương chắc chắn sẽ bình yên vô sự! Đêm nay công chúa đã hoảng sợ, nghỉ ngơi sớm đi, Hải Đô A Lăng còn dám đến, tụi tôi chặt tay y."

Dao Anh thu nỗi phiền muộn, cười với mọi người rồi đuổi ra, một mình ngồi lại trong phòng u ám, vừa xoa bàn chân bị đất cát mài đến vết thương chồng chất, vừa lẳng lặng suy tư.

Lúc này Tạ Thanh không dám để Dao Anh lọt ra ngoài tầm mắt, canh giữ ở một góc khuất trong phòng, ngồi xếp bằng, nhắm mắt thiếp đi.

Ngày hôm sau, A Sử Na Tất Sa tới thăm Dao Anh, liên tục cam đoan, Vương cung đã tăng cường phòng bị, bộ hạ Hải Đô A Lăng kẻ chết, người bị bắt, y tuyệt đối không dám giữa đêm xông vào Vương cung nữa.

Dao Anh cám ơn anh ta đêm qua dẫn binh bảo vệ, trực tiếp hỏi: "Có phải Tướng quân đã biết trước rằng Hải Đô A Lăng sẽ đến?"

Tất Sa ngây người.

Sóng mắt Dao Anh trong trẻo, bình tĩnh nhìn anh ta.

Tất Sa với nàng nhìn nhau một lúc, thu lại vẻ đùa giỡn, gật đầu: "Không sai, Nhiếp Chính Vương biết Hải Đô A Lăng còn núp chờ ở Thánh Thành, dặn bọn tôi tăng cường phòng bị, tránh Hải Đô A Lăng cướp đi công chúa."

Dao Anh khẽ giật mình. Nàng tưởng người an bài phục binh đêm qua là Tất Sa, ai dè là Tô Đan Cổ? Không hổ là Nhiếp Chính Vương chấp chưởng quân chính, trấn áp mấy đại quý tộc, quả nhiên tâm tư tỉ mỉ, âm thầm đề phòng Hải Đô A Lăng.

Tất Sa gãi gãi da đầu: "Công chúa, không phải tôi cố ý giấu người, thật ra vì sợ người sợ nên không nhắc nhở trước. Nhiếp Chính Vương cũng không biết Hải Đô A Lăng có tới không, lại không biết khi nào, sợ báo cho công chúa, khó tránh khỏi ăn ngủ không yên, ngày đêm lo sợ."

Dao Anh không hề lo lắng cười lắc đầu: "Ta không có giận..."

Nàng chuyển đề tài, "Nhưng hi vọng sau này Tướng quân đừng giấu ta, người mà Hải Đô A Lăng muốn cướp là ta, ta chính là mồi nhử tốt nhất, nếu Tướng quân báo ta sớm chút, ta có thể cùng Tướng quân nội ứng ngoại hợp, nói không chừng có thể bắt được Hải Đô A Lăng."

Tất Sa chấn động, lặng thinh rất lâu. Dao Anh nhìn anh ta mỉm cười, mặt mày tỏa sáng.

Tất Sa tránh tầm mắt nàng, hỏi: "Công chúa có nghĩ tới, chúng ta nội ứng ngoại hợp giết Hải Đô A Lăng, thì sau công chúa không phải lo nữa."

Dao Anh cười nhạt, ngẩng nhìn bầu trời xanh thẳm trong veo: "Vương Đình và Bắc Nhung ký minh ước, Hải Đô A Lăng là Vương tử Bắc Nhung, lúc này Vương Đình mà giết Hải Đô A Lăng, Bắc Nhung chắc chắn sẽ kiếm cớ khai chiến —— tướng quân yên tâm, ta được Vương Đình che chở, phân rõ nặng nhẹ, Hải Đô A Lăng phải chết ngoài đất của Vương Đình, hoặc là ra tay không chừa chút hậu hoạn, không để Bắc Nhung nắm được, hoặc là hai quân đối địch."

"Hải Đô A Lăng không vô duyên vô cớ đi sứ Bắc Nhung, chắc chắn Nhiếp Chính Vương đã biết nên đêm qua không xuống tay sát thủ."

Tất Sa quay nhìn Dao Anh, trên gương mặt tuấn lãng lướt qua một tia kỳ lạ.

Công chúa nói đúng, Vương Đình không nên khai chiến với Bắc Nhung lúc này. Trung quân đối Đàm Ma La Già trung thành tuyệt đối nhưng Tả quân, Hữu quân, Tiền quân, Hậu quân lại nằm trong tay các đại quý tộc, vừa mới trải qua mấy trận đại chiến, lòng người còn chưa hoàn hồn, lại đến mùa vụ, nguồn chiêu mộ lính không đủ. Sau cuộc chiến, mở Đại Pháp hội hoành tráng để ăn mừng thắng lợi, cũng để trấn an lòng người, uy hiếp đại thần, ổn định triều chính.

Đêm qua sở dĩ anh ta không báo trước cho Lý Dao Anh chính là vì sợ vị công chúa Đại Nguỵ này sợ hãi làm xáo trộn kế hoạch của họ, kéo toàn bộ Vương Đình vào vũng bùn.

Tất Sa thở dài, ôm quyền, vẻ rất nghiêm túc: "Công chúa, thật xin lỗi." Anh biết Hải Đô A Lăng nhất định phải đoạt được công chúa, lại không thể giết y giúp công chúa an giấc, còn mặt mũi nào tự xưng là bạn của công chúa?

Dao Anh đứng dậy, đứng dưới hiên, đáp lễ lại Tất Sa, nói: "Tướng quân, ta được Phật Tử che chở, lại kết minh với Phật Tử, Vương Đình an ổn, ta mới có thể an toàn, ta không thể không để ý đại cục, cũng sẽ không cuồng vọng yêu cầu quý quốc vì ta mà giết Vương tử Bắc Nhung."

Kết minh với Cao Xương là dự định cho tương lai về sau, nàng ở Vương Đình luôn có chỗ tốt, nàng không ngây thơ cho rằng Đàm Ma La Già sẽ vì người không liên quan như nàng hạ lệnh giết Hải Đô A Lăng.

Mới lại Hải Đô A Lăng là cao thủ bậc nhất của Bắc Nhung, đâu phải dễ giết? Đàm Ma La Già cứu được nàng, phái vệ binh bảo vệ nàng, phòng bị Hải Đô A Lăng, nàng đã rất cảm kích.

Tất Sa ngóng nhìn Dao Anh, mắt chớp chớp, thay đổi vẻ khinh cuồng hời hợt trước đó, dáng người cao ngất, nói: "Công chúa cũng không cần quá khách khí, công chúa cứu Vương chính là đã cứu toàn bộ Vương Đình. Dù ngay lúc này tôi không thể giết Hải Đô A Lăng, nếu có gặp trên chiến trận sau nay, tôi nhất định giết hắn!"

Dao Anh mỉm cười: "Tuy lúc này không thể giết Hải Đô A Lăng... nhưng cũng không thể để y cứ vậy yên ổn về Bắc Nhung."

Tất Sa nhếch miệng: "Công chúa yên tâm, Hải Đô A Lăng xông vào Vương cung nửa đêm, bọn tôi không bắt được y, không có chứng cứ, nhưng người của y đã rơi vào trong tay bọn tôi, Nhiếp Chính Vương căn dặn, đưa chúng đi Bắc Nhung, Ngoả Hãn Khả Hãn chắc chắn sẽ tức giận."

Dao Anh gật đầu.

Đây đúng là một cách, Ngoả Hãn Khả Hãn còn biết nói tình nghĩa hơn Hải Đô A Lăng, vả lại đã thầm xem Đàm Ma La Già như khắc tinh, không dám khai chiến với Vương Đình.

Có điều còn có một cách tốt hơn, độc ác hơn.

Dao Anh ra hiệu thân binh lấy bình thuốc nàng đã sửa soạn đêm qua ra: "Đêm qua ta được Nhiếp Chính Vương cứu, ta muốn trực tiếp gặp Nhiếp Chính Vương nói lời cảm tạ."

Ánh mắt Tất Sa lấp lánh, cười nói: "Nhiếp Chính Vương hành tung bất định, tôi cũng không biết ngài ấy ở đâu."

Dao Anh cũng cười cười: "Vậy xin Tướng quân chuyển lời một câu."

Tất Sa còn chần chừ, chưa kịp há miệng, một vệ binh lộn nhào xông vào đình viện, "Hải Đô A Lăng đến rồi!"

Cả đám kinh hãi, thân binh hộ vệ cuống quít nắm binh khí, thủ thế phòng vệ.

Tất Sa biến sắc, trấn an Dao Anh: "Công chúa không cần sợ, Hải Đô A Lăng chỉ một mình, không dám làm loạn." Nói xong, quay người chạy đi.

Dao Anh trấn định lại, tránh lên lầu hai nấp trong tháp các chờ tin. Chỉ sau chốc lát, vệ binh quay lại báo, Hải Đô A Lăng hiện đang ở Vương cung.

Sau thất bại đêm qua y không trốn mất dạng, mà tìm chỗ chỉnh đốn một đêm, sáng sớm hôm nay nghênh ngang xuất hiện trước cửa dịch quán, nói trên đường mình về Bắc Nhung gặp cướp, thân binh bên cạnh đều đã chết, yêu cầu Vương Đình xuất ngựa lương khô đưa tiễn, còn phái người hộ tống y về nha trướng.

Tạ Xung nghiến răng: "Tên này đúng là gan to bằng trời, không sợ chúng ta giết à?"

Dao Anh nhíu mày.

Hải Đô A Lăng không chỉ gan cả người, mà còn biết lấy lui làm tiến, bên cạnh y không còn thân binh hộ vệ, sợ Tô Đan Cổ đuổi giết, dứt khoát lộ ra thân phận sứ giả, yêu cầu Vương Đình tiễn mình về Bắc Nhung, từ đây, y sẽ không phải sợ Vương Đình ngầm ra tay. Chuyện đêm qua xông vào Vương cung y có thể liều chết không nhận.

Quả nhiên, vệ binh tới thuật lại, Hải Đô A Lăng là sứ giả Bắc Nhung, đại thần trong triều không muốn sinh sự, chuẩn bị ngựa cho y.

Vệ binh nói: "Công chúa, Vương tử Hải Đô A Lăng nói trước khi đi muốn gặp ngài nói mấy câu. A Sử Na tướng quân nói, ngài có thể đi, cũng có thể không đi."

Đám Tạ Xung nhảy lên, mặt đỏ bừng: "Mơ tưởng!"

Dao Anh trầm ngâm một lát rồi đứng dậy.

Gặp thì gặp, lúc này Hải Đô A Lăng không thể làm gì nàng, nàng muốn biết mục đích thực sự của Hải Đô A Lăng.

Hải Đô A Lăng đã thay đổi y phục, tóc bím áo choàng, một bộ cẩm bào gấm nửa cánh tay, dựa vào cây cột ở hành lang, chân dài hơi cong, cơ bắp đầu vai căng cứng.

Đại thần đứng một bên quan sát, Tất Sa dẫn vệ binh Vương Đình giằng co cùng Hải Đô A Lăng, ánh đao lấp lóe, trường thương như rừng.

Khí thế cả viện đều chĩa vào trên người một mình Hải Đô A Lăng.

Y nhìn thấy Dao Anh, khẽ nhếch miệng đi về phía nàng: "Công chúa thật sự có bản lãnh, thủ đoạn lại cao, Phật Tử cao cao tại thượng đối với cô đặc biệt, ngay cả Tô Đan Cổ giờ cũng tự ra tay cứu cô."

Dao Anh tỏ ra như thường: "Vương tử định nói mấy câu này đó à?"

Con ngươi màu vàng nhạt của Hải Đô A Lăng yên lặng nhìn mặt nàng, rực rỡ động lòng người, thịt da như gió tuyết, lúc cười rực rỡ như hoa xuân, một đôi mắt thon dài tươi tắn, lúc khóe mắt hơi vểnh vô tình toát ra mấy phần mềm mại rung động lòng người, nhưng riêng đối với y luôn lạnh lùng như băng, chưa từng lộ ra vẻ uyển chuyển xinh đẹp trước mặt y.

"Ta thật không rõ." Y nhắm hai mắt, "Ta là dũng sĩ mạnh nhất anh dũng nhất Bắc Nhung, sao cô hết lần này đến lần khác cự tuyệt ta?"

Ở Bắc Nhung, cô gái xinh đẹp nhất thuộc về người đàn ông cường tráng nhất, sao Văn Chiêu công chúa không chịu thần phục y?

Hải Đô A Lăng cười nhạo. "Đêm qua gã quái dị Tô Đan Cổ kia tới cứu cô, cô nép vào người hắn, nép đến thật sát... Chả nhẽ ta còn không bằng một gã quái dị?"

Dao Anh thản nhiên nói: "Đẹp xấu không ở bề ngoài, Tô Tướng quân chinh chiến vì nước, bảo vệ một phương yên ổn, thưởng phạt phân minh, công chính vô tư, ta kính nể Tướng quân. Vương tử dù tuấn lãng phong lưu, trong mắt ta, cũng chỉ bình thường."

Hải Đô A Lăng nhếch miệng cười cười, ánh mắt âm u: "Cha nuôi ta năm đó thích một người, bèn đến cầu thân, tù trưởng bộ lạc đó xem thường, cự tuyệt ông ấy. Cha ta không nhụt chí, một tháng sau, dẫn người tập kích bộ lạc đó, giết sạch đàn ông, ngay trước mặt người đó giết cha và tám người anh em của bà."

"Cô gái đó chính là mẹ nuôi ta, bà gả cho cha, sinh mười đứa con cho cha, bà kính yêu cha nuôi, ông ấy chính là trời của bà."

Ở Bắc Nhung, đàn ông muốn lấy vợ có thể không từ thủ đoạn, giết sạch tất cả ai ngăn cản hắn, dù có là anh em ruột của cô vợ đi chăng nữa. Phụ nữ Bắc Nhung chỉ thần phục người anh dũng, họ sinh ra để giạng chân cho đàn ông chiếm hữu, sinh con dưỡng cái cho người.

"Trên đời này người phụ nữ xinh đẹp nhất hẳn phải thuộc về ta." Mắt Hải Đô A Lăng lóe ra ánh sáng vàng nhạt, "Công chúa, cô trốn không thoát lòng bàn tay của ta đâu."

Y không quan tâm giờ đây Lý Dao Anh thuộc về Đàm Ma La Già hay Tô Đan Cổ, hay là cả hai đều thành thần dưới váy của nàng, đàn ông Bắc Nhung không thèm để ý phụ nữ còn trong trắng, họ cướp đất, chinh phục dị tộc, chiếm hữu người đẹp.

Giờ Văn Chiêu công chúa không thuộc về hắn, sớm muộn vẫn sẽ rơi vào tay hắn.

Dao Anh không nói, Tất Sa kế bên bỗng biến sắc, xách đao định xông lại.

Đột nhiên, một luồng gió tanh lạnh lùng thốc tới, một bóng đen từ trên trời phóng xuống, đôi vuốt đen sắc nhọn thẳng tắp chộp tới mặt Hải Đô A Lăng.

Hải Đô A Lăng không kịp chuẩn bị, vô thức đưa cánh tay lên cản, vẫn chậm một bước, móc sắt như vuốt ưng xẹt qua mặt, lập tức máu me đầm đìa.

Hai tiếng kêu trong trẻo lạnh như băng vang lên, một con ưng to lớn lướt qua trước mắt mọi người, giương cánh bay về không trung.

Đám người rớt miệng. Mấy tên vệ binh kịp phản ứng, đầy kích động: "Đó là ưng của Vương!"

Lời còn chưa dứt, cửa sân mở ra, mấy vị sư mặc Pháp y và binh sĩ áo lam chạy đến, dẫn đầu là thân vệ Đàm Ma La Già Duyên Giác.

Cậu đứng ở hành lang trước, nhìn bộ mặt tức giận của Hải Đô A Lăng, cất cao giọng nói: "Văn Chiêu công chúa là Ma Đăng Già của Vương, được Vương che chở, xin Vương tử chú ý ngôn từ, nếu lại mạo phạm sẽ không dễ tha!"

Đột nhiên trong đình viện yên tĩnh lại, lặng ngắt như tờ, nghe được tiếng kim rơi.

Cả đám nín thở, rất kinh ngạc.

Tất Sa đầy vẻ không dám tin, sắc mặt trắng bệch.

Dao Anh cũng trợn mắt hồi lâu.

Đêm qua Tô Đan Cổ nói với Hải Đô A Lăng câu này chỉ để ép y lui, lúc ấy không có kẻ khác, sẽ không lan truyền.

Giờ trước mặt mọi người Duyên Giác tuyên bố, là nói với sứ giả Bắc Nhung Hải Đô A Lăng, còn không phải tương đương với thừa nhận thân phận nàng?

Nàng tự nói mình nguyện làm theo Ma Đăng Già, thì chẳng là gì cả vì người đời chỉ coi nàng là kẻ ái mộ Đàm Ma La Già đến cuồng nhiệt.

Đàm Ma La Già thừa nhận trước chúng, ý nghĩa không giống!

Máu khắp người Dao Anh ngưng chảy, trong đầu ong ong.

Trong yên lặng nặng nề quỷ dị, gã Bắc Nhung Hải Đô A Lăng này kịp phản ứng nhanh nhất, con ngươi co giật, nhìn Dao Anh, cười lạnh: "Thủ đoạn của công chúa cao thật!"

Nói xong, nghênh ngang rời đi.

Lúc này, chẳng ai còn để ý Hải Đô A Lăng nói gì.

Tất cả mọi người, đại thần, vệ binh, tuỳ tùng, sư sãi, Tất Sa... đều vẹo cổ nhìn Dao Anh, động tác cứng ngắc, ánh mắt kinh hãi. Trong nháy mắt mấy trăm ánh mắt như đao phóng qua, mang theo tiếng gió vèo vèo, quấn trong đầu Dao Anh đến choáng váng.

Nàng miễn cưỡng trấn định lại, nhìn Duyên Giác.

Duyên Giác nhìn nàng, từng chữ từng chữ nói: "Từ hôm nay trở đi, công chúa vào Phật Tự ở, theo các sư trong chùa tu tập Phật pháp."

Dao Anh thầm chấn động, cảm giác ánh mắt rơi vào người mình thật sự biến thành từng thanh từng thanh đao hữu hình, chém nàng đau nhức.

Từ Vương cung đi Phật Tự phải qua đoạn phố thị dài phồn hoa nhất thành, trên đường dòng người như dệt, ngựa xe như nước.

Lúc Dao Anh ngồi xe ngựa giữa đám kỵ sĩ áo lam bào trắng rời Vương cung, dù cách lớp màn nỉ thật dày, nàng vẫn nghe thấy tiếng bàn tán như sóng biển sóng sau xô sóng trước.

Nàng ngồi xếp bằng, trước mắt hiện ra khuôn mặt kinh hoàng muốn chết của Bát Nhã.

Mấy lúc trước chỉ là lời đồn nhảm, giờ thì hay rồi, nàng không chỉ khinh bạc vị thần trong lòng họ, còn muốn ở chung phòng với vị thần dưới cùng một mái hiên.

Không hề giống như nàng dự đoán.

Dao Anh hai tay chống cằm, còn chưa tỉnh táo lại.

Đàm Ma La Già ngầm đồng ý cho nàng ở lại Vương cung, với nàng mà nói đã là che chở tốt nhất, giờ ngài công khai thừa nhận thân phận nàng, đừng nói đám Bát Nhã đau tim kinh sợ, chính nàng cũng bất ngờ.

Tự nàng đơn phương mặt dạn mày dày quấn tới, dân chúng Vương Đình chỉ coi như nàng là oán nữ yêu đương cuồng nhiệt. Còn Đàm Ma La Già cho phép nàng vào ở Phật Tự, ý nghĩa không còn bình thường. Đối với nàng, đương nhiên là chuyện tốt, nhưng đúng là đã tổn hại thanh danh của Đàm Ma La Già —— từ sau ngày hôm qua Duyên Giác tuyên đọc chiếu thư ở dịch quán, sứ thần các nước ở đấy và Vương công đại thần bàn bạc ầm ĩ, Bát Nhã lã chã chực khóc, Tất Sa xưa giờ nhiệt tình độ lượng cũng âm u.

Dao Anh nhớ lại lần cuối thấy Đàm Ma La Già, trên Pháp hội ngài cao khiết xuất trần, làm lu mờ ảm đạm mọi trọc vật thế gian.

Đàm Ma La Già đây là cứu nàng.

Hải Đô A Lăng không chịu từ bỏ ý định, nàng đề phòng ngày đêm. Lần này Hải Đô A Lăng mạo hiểm xông vào ban đêm, làm nàng hiểu Vương Đình cũng không an toàn, đang buồn rầu thì Đàm Ma La Già đến giúp nàng.

Lúc mới gặp, trước vạn quân nàng thỉnh cầu được phép làm theo Ma Đăng Già, Đàm Ma La Già ghìm ngựa trước trận, đôi mắc xanh biếc hờ hững liếc qua nàng, từ chối cho ý kiến.

Giờ ngài cho đáp án. Ngài đã đồng ý.

Tuy trễ mấy tháng nhưng sấm rền gió cuốn, khuya hôm kia Hải Đô A Lăng xông vào cung, hôm qua ngài tuyên bố trước chúng, hôm nay phái người đón nàng đi Phật Tự, không hề dây dưa.

Xe ngựa đến Phật Tự, qua cửa hông vào chùa, kỵ sĩ Trung quân dẫn đường cho Dao Anh.

Lòng bàn chân nàng như xụi lơ, cảm giác không chân thật, như bước lên mây.

Phật Tự Thánh Thành xây dựng lâu đời, lưng tựa vách đá, cổ kính trang nghiêm, đồ sộ hùng vĩ, khắp nơi là hang đá Phật tháp, đền các cao, hương khói thịnh vượng, lao xao tiếng Phạn. Dao Anh theo sau lưng kỵ sĩ, ngang qua hành lang cột, thấy khắp nơi trên tường có bích họa về sự tích kinh Phật, lầu các xuyên sơn, nhảy múa lên trời, ánh vàng lấp lánh, lộng lẫy nhiều màu, chói lọi mượt mà, nét vẽ cứng cáp lưu loát, nhân vật tráng kiện, phong cách hoa lệ không gò bó.

Đình viện sáng sủa thoáng đãng, Phật tháp như rừng. Càng đi vào trong càng u lạnh yên tĩnh, bích họa trên tường điêu khắc càng thêm sắc sảo, từng mảng rực rỡ màu xanh nhũ vàng, muôn hình vạn trạng, bao la phóng khoáng.

Dao Anh nhìn hoa cả mắt.

Trong thuốc màu, màu xanh nhũ vàng, màu đỏ son đều cực kì đắt đỏ, những họa sĩ nổi tiếng bậc nhất Trường An cũng không thể tùy ý thích mà dùng để vẽ, khắp Phật Tự toàn bích họa hai màu này, điểm thêm vàng bạc, cho thấy Vương Đình thật giàu có.

Duyên Giác Bát Nhã hộ tống Dao Anh, sắc mặt hai người một trầm tĩnh, một như cha mẹ chết, dẫn nàng đến trước một viện lạc nho nhỏ yên tĩnh cách xa điện chính, chỉ huy kỵ sĩ giúp chuyển hành lý.

Sân vườn không lớn, trong đình trồng vài cây hoa cỏ rất hiếm thấy ở Vương Đình, đình viện rất sâu, nhà chính xây trên vùng đất cao, bốn phía hành lang quét vôi trắng trong trẻo, viện lạc rộng rãi chỉnh tề, cạnh bức tường gạch mộc đắp bùn có bố trí một giàn cây nho, trên kệ dây leo bò đầy, phủ bóng mát lớn.

Trên vách tường phòng chính cũng quét vôi trắng, trong phòng bày biện đơn giản, thảm nỉ trải trên đất, bố trí giường nằm, bàn ngồi, tủ sách, bình phong, trước giường treo màn, ngoài ra không có vật trang trí khác.

Duyên Giác chỉ nhà chính, nói: "Công chúa, hàng năm xuân hạ giao mùa sẽ có gió lớn tàn phá, ban đêm sẽ lạnh, phòng ở đây không trổ cửa sổ, chỉ mở cửa trước, trong nội viện không có giếng nước, mỗi ngày sẽ có người đưa tới nước sạch cho công chúa. Công chúa xem còn thiếu thứ gì, tôi sẽ bố trí đưa tới."

Lại nói, "Công chúa chỉ tu hành, không cần tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của các sư trong chùa, nhưng cũng không thể không làm gì, lát sẽ có vị sư đưa sách kinh tới, giảng cho công chúa về khóa sớm tối* mỗi ngày."

*Mỗi ngày vào sáng sớm sư hoặc đạo sĩ (tầm từ 3-6g) tụ tập đầy đủ ở đại điện, tụng kinh tuần.

Dao Anh cám ơn cậu ta, nghĩ nghĩ rồi hỏi: "Phật Tử có tiện gặp ta một lần không?"

Bát Nhã kế bên lập tức trợn mắt, hung dữ trừng trộ nàng, bờ môi run run, không dám lên tiếng trách mắng, tự thấy ngột ngạt, nhấc chân bước ra.

Dao Anh là người Đàm Ma La Già cho người tiếp đãi,cậu không dám mở miệng nói độc địa.

Duyên Giác nhẹ gật: "Vương có dặn, đợi công chúa chuyển tới bảo tôi dẫn người đi thiền phòng gặp ngài."

Dao Anh để mấy người Tạ Thanh sắp xếp hành lý, theo Duyên Giác đi gặp Đàm Ma La Già.

Thiền phòng của Đàm Ma La Già lót gạch xanh, tĩnh mịch trang nghiêm, cổng vòm, hành lang mái vòm trên cột đá được vẽ trang trí lá xanh hoa xanh biếc, bốn phía là hoa văn quyển thảo hình cây lựu, hoa sơn trà, cây kim ngân, xinh đẹp thanh nhã ung dung. Trước hành lang tùng bách cứng cáp, bạch dương thẳng tắp, trong đình viện chỗ sâu có cây táo, hoa trắng bạc rơi từng đống, hương thơm ngào ngạt.

Đình viện lặng ngắt như tờ, cận vệ khoanh tay đứng hầu như tượng đất.

Đàm Ma La Già ngồi trước thư án thiền đường đang viết, bóng lưng cao gầy.

Duyên Giác vào thông báo, Dao Anh chờ ở tiền sảnh, ánh mắt rơi vào người Đàm Ma La Già, giật mình.

Đang giữa trưa nóng bức nhất, hôm nay Đàm Ma La Già mặc tăng y lộ trần vai phải, màu da lộ ra như màu mật ong, vân da rõ ràng, ánh lên sáng bóng.

Dao Anh dời ánh mắt, nhìn nhánh hoa chập chờn theo gió trong sân, nhớ đến đêm trước, Tô Đan Cổ lảo đảo lùi về cây táo, hoa trắng bạc rơi đầy. Dưới đêm trăng, trong tích tắc đối mặt với Tô Đan Cổ, đáy lòng nàng bỗng dâng lên một cảm giác cổ quái.

Không biết vì sao, nàng luôn cảm thấy khuôn mặt dữ tợn kia của Tô Đan Cổ đang che giấu thứ gì, thậm chí trong tích tắc đó, nàng thấy Tô Đan Cổ có chỗ giống Đàm Ma La Già.

Thế nhưng Đàm Ma La Già triền miên nằm trên giường bệnh, xuống ngựa phải cần cận vệ nâng đỡ, Tô Đan Cổ dũng mãnh uy vũ, đao phong bá đạo mạnh mẽ, hai người một là Phật Tử lòng dạ từ bi, một là Nhiếp Chính Vương tàn nhẫn vô tình.

Nỗi hoài nghi của Dao Anh vốn không có cơ sở.

Hơn nữa lúc Tô Đan Cổ cứu nàng, nàng dựa sát vào ngực hắn, cảm giác được bắp thịt rắn chắc tích lực trong cánh tay, ôm lấy thân thể của nàng, đầy dẻo dai.

Duy nhất giống là đôi mắt xanh biếc.

Nhắc đến, Tất Sa cũng có cặp mắt màu xanh lục... Dao Anh lấy lại tinh thần, lắc đầu bật cười. Nàng thật sự đã có ý nghĩ hão huyền, lúc Đàm Ma La Già bệnh nặng, Tô Đan Cổ ra mặt dọa Tiết Duyên Na, phiêu diêu xuất trần Đàm Ma La Già và giết người như ngóe Tô Đan Cổ làm sao là cùng một người?

Duyên Giác bước ra, ra hiệu Dao Anh vào phòng. Dao Anh thu lại suy nghĩ, nhấc váy rảo bước vào thiền thất.

Trong phòng ngăn nắp sạch sẽ, không huân hương, trên bàn chất đầy sách kinh, Đàm Ma La Già đang cúi đầu viết, ngón tay thon dài, dù gầy nhưng vẫn thấy rất có lực.

Dao Anh ngồi quỳ chân đối diện chàng, vô thức thẳng tắp lưng, tư thế rất chỉnh tề, đi thẳng vào vấn đề: "Vương tử Bắc Nhung âm hồn bất tán, Pháp sư vì bảo vệ tôi ban chiếu thư cho phép tôi vào Phật Tự ở, tôi vô cùng cảm kích, có điều làm vậy có bất lợi cho thanh danh ngài không?"

Đàm Ma La Già khí thế nội liễm, lại có một vẻ uy áp không gì không biết, ở trước mặt chàng, nàng không cần lá mặt lá trái, khéo léo quanh co, nghĩ gì nói đó, dù sao cũng không gạt được đối phương.

Dao Anh nói xong, mắt trợn to, chăm chú nhìn Đàm Ma La Già không chớp.

Đàm Ma La Già ngừng bút, ngẩng đầu, ánh mắt trong lạnh ôn tồn: "Công chúa đừng để ý, cùng lắm chỉ có vài lời chỉ trích thôi. Sau một năm, công chúa bình an rời đi, chỉ trích tự sẽ mất."

Giọng điệu chàng ung dung, mây trôi nước chảy.

Dao Anh trong chốc lát cảm thấy lòng cảm kích suy nghĩ cả một đêm không thể nói ra lời.

Đàm Ma La Già rất thông minh, chưa hề coi lời nàng là thật, ngài không cần nàng cảm kích, cũng không cần nàng trả bất kỳ giá gì, ngài giúp nàng chỉ vì nàng là một người trong chúng sinh cần trợ giúp, hơn nữa đã từng cứu ngài, nên khi có thể, sẽ giúp, thấy nàng gặp nguy hiểm, thì ra tay giúp.

Nàng đã gặp được một người tốt.

Dao Anh cười cười, cả người hoàn toàn trầm tĩnh lại, lo lắng trong lòng không vất đi được cũng đã như bị thổi tan.

Mi mày hơi cong, hai mắt óng ánh, nàng dịu dàng nói: "Đa tạ."

Cô gái tuổi mười lăm, ở tuổi thanh xuân, tạm thời bỏ xuống gánh nặng, ánh sáng rực rỡ trên vầng trán, tinh thần phấn chấn.

Toàn bộ thiền thất dường như sáng hơn mấy phần, xuân sắc rực rỡ.

Đàm Ma La Già để bút xuống, cầm mấy quyển kinh đưa cho Dao Anh.

Dao Anh ngồi dậy tiếp nhận, phát hiện mấy quyển kinh bằng tiếng Hán «Kinh Đại bàn Niết Bàn », «Nhiếp Đại Thừa Luận », « A tỳ đàm Luận ».

Trong tích tắc nàng hoàn toàn bó tay.

Hay thật, người xuất gia không nói dối, Đàm Ma La Già ban chiếu thư bảo nàng đến Phật Tự tu tập Phật pháp, là thật sự muốn nàng chăm chỉ nghiên cứu Phật lý, không chỉ quy định nàng sớm tối học bài, đến sách kinh cũng chuẩn bị xong.

Người này thật là thành thật.

Dao Anh bưng lấy đống sách vừa dày vừa nặng, cứ nghĩ từ rày về sau không chỉ phải xử lý chuyện lặt vặt thành lập đội buôn bán, mà còn phải đọc mấy quyển kinh này, tê hết da đầu, chợt nhớ tới một chuyện, ngẩng lên, ánh mắt sáng rực nhìn Đàm Ma La Già.

"Pháp sư..." Vẻ rất chăm chú, nàng hỏi, "Tôi cũng phải quy y á?"

Mặt Đàm Ma La Già thoáng kinh ngạc.

Dao Anh lộ vẻ ngượng ngùng.

Ma Đăng Già vì gả cho A Nan, quy y tu hành, nàng có cần phải quy y luôn không nhỉ? Tuy so sánh với tính mạng, mớ tóc này không đáng nhắc, không nên do dự, nhưng nếu có thể không cạo thì đừng cạo, tóc vừa dày vừa dài, dưỡng đã nhiều năm rồi!

Giữa hè nóng bức, ánh nắng như đổ vàng, một chùm nắng xuyên qua cửa sổ mái lọt vào thiền thất, chiếu lên tóc mai đen nhánh xinh đẹp của Dao Anh, da thịt như tuyết, người mặc váy dài màu xanh nhạt, áo màu son tay lửng, đẹp như nhánh hoa vừa nở kiều diễm đón gió xuân, sum sê rực rỡ.

Đàm Ma La Già rũ mắt, nói: "Công chúa còn chưa quy y cửa Phật, có thể để tóc tu hành."

Dao Anh thở phào, nhìn Đàm Ma La Già, trong mắt tràn đầy kính ngưỡng và tin cậy, cười nói: "Đa tạ Pháp sư."

Giọng reo lên nhẹ nhàng, tự nhiên hơn nhiều so với lúc mới bước vào.

Đàm Ma La Già không nói gì, liếc Duyên Giác đứng hầu ngoài cửa. Duyên Giác hiểu ý, đưa Dao Anh về viện tử.

Váy xanh nhạt của thiếu nữ phết qua thảm nỉ, bóng dáng xinh đẹp, trong không khí còn quanh quẩn mùi thơm nhè nhẹ.

Đàm Ma La Già cúi đầu viết tiếp.

Chỉ lát sau, nghe tiếng bước chân vang lên trong hành lang, bóng người cao lớn của A Sử Na Tất Sa xuất hiện ngoài cửa.

"Vương vừa gặp Văn Chiêu công chúa à?"

Đàm Ma La Già ừm, không ngẩng đầu.

Tất Sa đi vào thiền thất, hành lễ trước Đàm Ma La Già, ngồi xếp bằng xuống, "Vương, sao ngài lại muốn giúp Văn Chiêu công chúa? Ngài để nàng ấy ở lại Vương cung đã là phá lệ, giờ còn chuyển cả vào Phật Tự, trong thành bàn tán ầm ĩ. Đã nhiều năm rồi, nàng ấy là nữ tử đầu tiên bước vào thiền thất của ngài đó."

Đàm Ma La Già thản nhiên nói: "Người Bắc Nhung trục thủy thảo mà cư*, man dã chưa mất, Hải Đô A Lăng hung ác bạo ngược, không muốn dừng tay, làm vậy có thể giúp Văn Chiêu công chúa thoát khỏi Hải Đô A Lăng."

*mình tạm hiểu là sống du mục trôi nổi như theo bèo nước, di chuyển theo nguồn sống.

Tất Sa nhìn chàng, "Vương, dân gian họ đồn đủ hết."

Đàm Ma La Già cũng không ngẩng đầu lên: "Thanh danh chẳng qua là vật ngoài thân, ta là Quân chủ Vương Đình, sau một năm, lời đồn nhảm tự sẽ giảm đi."

Tất Sa lặng thinh một lúc, "Sau một năm, thật sự sẽ bớt đồn đãi ạ?"

Đàm Ma La Già cúi đầu viết: "Tất Sa, cậu cho rằng Văn Chiêu công chúa ngưỡng mộ ta à? Lo nàng ấy ỷ lại không đi?"

Tất Sa sửng sốt.

Đàm Ma La Già bình tĩnh nói: "Công chúa lưu lạc ở ngoại vực, thân bất do kỷ, sau khi tìm được người nhà, nàng sẽ đi."

"Còn Vương?" Tất Sa hỏi tới, "Vương giúp công chúa, có thật chỉ là vì cảm kích và không đành lòng ư? Công chúa là người con gái đẹp nhất mà tôi từng gặp ấy."

Đàm Ma La Già nhẹ nhíu mày, "Vạn vật thế gian, trôi qua không ở, tình yêu như giọt sương, mỹ nhân như bọt nước."

Tất Sa lặng lẽ thở phào, đứng dậy, quỳ xuống lễ bái. "Thần đã vượt khuôn khổ."

La Già không hề động tâm, như vậy cũng tốt. Anh chỉ lo La Già bị Văn Chiêu công chúa đả động, chỉ xinh đẹp thôi thì không nói, Văn Chiêu công chúa còn nhiều thứ hấp dẫn người nữa, may mà La Già tâm tính kiên định.

"Tất Sa." Đàm Ma La Già ngừng bút, nhìn Tất Sa, "Cậu nói mình ngưỡng mộ Văn Chiêu công chúa, là thật hay giả?"

Ánh mắt chàng hòa nhã, không có ý vặn hỏi.

Tất Sa đổ đầy mồ hôi hột, xấu hổ đến không ngẩng đầu lên được: "Vương, thần biết tội." Anh ta làm đủ chuyện chỉ để thăm dò tâm ý của La Già, dời lực chú ý của Văn Chiêu công chúa, phòng nàng tiếp xúc với La Già.

Đàm Ma La Già khép lại chiếu thư đã viết xong: "Đừng có lần sau, ta có kiên trì giữ ngũ giới hay không, không liên can đến ai."

Tất Sa cung kính vâng lời, nhận chiếu thư, con mắt bỗng trừng lớn.

Đây là phong thư ngài tự viết cho Ngõa Hãn Khả Hãn, tương đương với quốc thư, La Già dùng quốc thư giải thích rõ địa vị của Văn Chiêu công chúa, yêu cầu Ngõa Hãn Khả Hãn trừng trị Hải Đô A Lăng.

La Già không chỉ cảnh cáo bộ hạ bổn quốc, còn nói rõ cho các nước, thông báo thiên hạ, sau này mười mấy quốc gia thành bang lớn nhỏ sau lưng núi Thiên Sơn đều biết có vị Văn Chiêu công chúa đang ở Phật Tự, được Vương che chở!

Tất Sa thầm chấn động.

"Quốc thư này, cậu tự tay đưa đến nha trướng Bắc Nhung." Đàm Ma La Già nói, giọng rất bình thường.

Đôi tay Tất Sa nhẹ run mấy lần, nắm chặt chiếu thư, cung kính vâng lời.

Anh về chỗ mình ở, thu xếp hành lý.

Thân binh tới bẩm báo: "Tướng quân, Văn Chiêu công chúa gửi ít thuốc đến."

Tất Sa dừng tay lại, "Công chúa nói gì?"

Thân binh trả lời: "Công chúa nói thuốc đó để đưa cho Nhiếp Chính Vương, xin ngài chuyển giùm, còn nói nàng muốn gặp ngài thương lượng chuyện Vương tử về Bắc Nhung."

Tất Sa ừ một tiếng, bảo thân binh cất thuốc vào phủ Vu y.

Vu y nói, thuốc Dao Anh chọn đều là những dược liệu quý giá hiếm có ở Tây Vực, trị thương, lưu thông máu bầm, làm dịu tổn thương nội tạng, trong đó có mấy loại tìm khắp Tây Vực không có.

Tất Sa ngẩn ra một hồi, bảo thân binh cất vào khố phòng.

Thân binh vâng dạ, quay đi.

Sau lưng bỗng vang tiếng bước chân, Tất Sa đuổi tới, một tay chụp chặt bờ vai hắn. Thân binh mờ mịt, thấy trên mặt Tất Sa mây đen giăng đầy, nhìn chằm chằm mớ thuốc trong tay hắn, nhắm cặp mắt.

"Đưa qua Phật Tự giao cho Duyên Giác, nói với cậu ta, thuốc này do đoàn buôn hàng mang về. Nhớ kỹ, chuyện này không nói cho ai khác, nếu công chúa có hỏi thì nói ta đã thay cô ấy đưa rồi."

Thân binh vâng lời, mang thuốc rời đi. Tất Sa đứng tại chỗ, phiền muộn thở dài.

Chỉ mong tất cả chỉ là anh ta buồn lo vô cớ.

Sử Na Tất Sa dọn xong hành trang, an bài xe ngựa, đi Phật Tự gặp Dao Anh.

Ở bức tường mộc giàn hoa quấn đầy dây leo trong viện, loáng thoáng trái đậu từng chùm, nho còn chưa chín, nhưng trái trái đầy đặn mượt mà, óng ánh trong suốt.

Tất Sa đưa tay hái hai chùm đưa vào phòng.

Dao Anh ngồi quỳ chân trước trường án, nhẹ nhíu mày, trước mặt chất một đống kinh thư lớn.

Tất Sa không khỏi cười khẽ: "Vương bảo người xem à?"

Dao Anh gật đầu cười, đẩy kinh thư ra, ngồi dậy, ra hiệu Tất Sa ngồi xuống.

Tạ Bằng canh giữ một góc khuất trong phòng cúi đầu lui ra ngoài.

Tất Sa ngồi trên nệm nỉ, ánh mắt nhanh chóng quét một vòng, trong phòng vẫn bày biện như lúc đầu, không bố trí thêm màn trướng gấm, chăn nệm mềm, chỉ thêm mấy rương đầy sách.

Văn Chiêu công chúa là một vị công chúa rất chịu được cực khổ, dễ thích nghi với hoàn cảnh.

Đây cũng chính là điểm Tất Sa lo lắng, có sắc đẹp tuyệt thế, có nhu mì uyển chuyển của cô gái nhỏ, có phóng khoáng của công chúa Vương thất, còn có khí khái cứng cỏi, anh ta rất thưởng thức phụ nữ như vậy, do vậy càng sợ Văn Chiêu công chúa tiếp cận La Già.

Liếc thấy anh kinh ngạc nhìn đến ngẩn người, Dao Anh hỏi: "Tướng quân, Nhiếp Chính Vương không tiện gặp ta à?"

Tất Sa lấy lại tinh thần, tằng hắng nói: "Nhiếp Chính Vương có việc quan trọng cần giải quyết, không tiện gặp công chúa, công chúa có gì muốn nói tôi có thể chuyển lời."

Dao Anh trầm ngâm một chút, Tô Đan Cổ hành tung quỷ bí, lệnh quan trọng đều cho thân binh truyền đạt, nàng muốn gặp đối phương không biết phải chờ tới ngày tháng năm nào, có mấy lời nói cho Tất Sa cũng vậy.

"Đêm đó người Bắc Nhung Tướng quân bắt được đã thả về Bắc Nhung chưa?"

Tất Sa lắc đầu: "Vẫn chưa, đêm nay tôi xuất phát đi Bắc Nhung, tự mình áp giải chúng."

Dao Anh sửng sốt: "Tướng quân đích thân áp giải chúng ư?"

Ánh mắt Tất Sa lóe lên, không nhắc đến chuyện quốc thư La Già thân bút viết kia: "Vâng, tự tôi đưa chúng về Bắc Nhung, hộ vệ Vương tử xuất hiện ở Vương cung Vương Đình, Bắc Nhung Khả Hãn phải cho Vương Đình một câu trả lời."

Dao Anh không hỏi nhiều, nói: "Ta đang muốn thương lượng với Tướng quân chuyện này, mấy người Bắc Nhung đó có thể có tác dụng lớn."

Tất Sa nhíu mày.

Dao Anh đón lấy ánh mắt thăm dò của anh ta, thoải mái nói: "Ta từng gặp khốn ở doanh địa Bắc Nhung, nghe nói rất nhiều về bí mật Vương thất Bắc Nhung. Hải Đô A Lăng là người tộc khác do Ngõa Hãn Khả Hãn nhận nuôi, mấy người con trai của Ngõa Hãn Khả Hãn không ưa gã đã lâu, Khả Hãn cũng sinh lòng kiêng kỵ với gã, nội bộ Vương thất mâu thuẫn trùng trùng, nếu Tướng quân có cách lợi dụng mấy người Bắc Nhung đó, có thể làm tăng khoảng cách giữa Ngõa Hãn Khả Hãn và Hải Đô A Lăng."

Tất Sa nheo mắt, ánh mắt nhìn Dao Anh rất khác mọi ngày: "Sao công chúa lại biết giữa Hải Đô A Lăng và Ngõa Hãn Khả Hãn đã có khoảng cách?"

Dao Anh cười khẽ: "Lúc Phật Tử cần gấp Thủy mãn thảo, Tướng quân tự mình đi Bắc Nhung đòi lại đồ cưới của ta, có phải Ngõa Hãn Khả Hãn đồng ý trả về ngay, còn trách mắng Hải Đô A Lăng không?"

Tất Sa sờ sờ cằm, nói: "Không sai."

Dao Anh nói chắc chắn: "Nếu là Vương tử khác cướp, tướng quân có đến Bắc Nhung đòi, Ngõa Hãn Khả Hãn sẽ không dễ dàng đồng ý trả về vậy đâu."

Tất Sa nhớ lại tình hình hôm đó, nhẹ gật đầu: "Đúng rồi, Ngõa Hãn Khả Hãn vô cùng khách khí với tôi, còn mắng Hải Đô A Lăng trước mọi người..."

Ánh mắt anh ta sáng lên, vỗ tay cười khẽ. "Ngõa Hãn Khả Hãn mượn Vương Đình ta cố ý chèn ép Hải Đô A Lăng !"

Người Bắc Nhung đề cao kẻ mạnh, man dã chưa mất, trong vòng một ngày chức Khả Hãn đổi chủ nhìn mãi quen mắt, ai mạnh hơn là có thể trở thành Khả Hãn mới, là cha con anh em cũng thế. Vì thế, tình thân của Vương thất mờ nhạt, khi có Khả Hãn già chết đi, bộ lạc sẽ kịch liệt rung chuyển vì tranh quyền đoạt vị, đế quốc có thể mấy năm ngắn ngủi lớn mạnh rất nhanh, dẹp yên thảo nguyên, cũng có thể trong một đêm sụp đổ, không gượng dậy nổi.

Ngõa Hãn Khả Hãn dần già đi, Hải Đô A Lăng tuổi trẻ khỏe mạnh, cũng không phải cháu ruột, Khả Hãn già đã bắt đầu phòng bị Hải Đô A Lăng .

Tất Sa hưng phấn một hồi nhướng mày nói: "Cũng có thể chỉ là suy đoán của chúng ta, Ngõa Hãn Khả Hãn muốn dẫn dụ ta thôi."

Dao Anh gật đầu, "Có thể, Ngõa Hãn Khả Hãn đa mưu túc trí, ngay lúc ấy có thể là dẫn dụ tướng quân, nhưng sau này thì không hẳn, lần này Hải Đô A Lăng đi sứ Vương Đình, xác nhận suy đoán của ta không giả."

Tất Sa híp mắt: "Ồ? Công chúa vì đâu mà khẳng định?"

Dao Anh cười: "Tướng quân, nếu ngài là Vương tử Hải Đô A Lăng, tay nắm trọng binh, Nam chinh Bắc chiến, dã tâm bừng bừng, sau minh ước của Vương Đình và Bắc Nhung, ngài sẽ ở Vương Đình nhiều lần vì một nữ tử như ta mà khiêu khích Vương Đình sao?"

Tất Sa giật mình, ánh mắt rơi trên mặt Dao Anh: "Dung mạo công chúa như thần nữ, Hải Đô A Lăng đối với người là nhất định phải được."

Ánh mắt Dao Anh yên tĩnh: "Đúng, Hải Đô A Lăng coi ta là con mồi của y, có điều y là một thợ săn kinh nghiệm phong phú, một thợ săn tỉnh táo sẽ không vì con mồi mà một mình mạo hiểm."

Tất Sa nhìn Dao Anh, ánh mắt dần dần biến hóa, không khỏi ngồi nghiêm chỉnh lại, nét mặt cũng càng thêm nghiêm túc. "Ý công chúa là?"

Dao Anh chậm rãi nói: "Đối với Hải Đô A Lăng ta có mấy phần hiểu rõ, ngoài thì thô tục trong lại tinh vi, hoài bão rất lớn, tuyệt không phải người vì một phụ nữ không để ý đến đại cục, y đây chỉ vì muốn mê muội Ngõa Hãn Khả Hãn và con trai ông ta khiến ông ta nới lỏng cảnh giác."

Nàng dám khẳng định như vậy không phải là không có nguyên nhân.

Hải Đô A Lăng ở trong sách dũng mãnh thiện chiến, nhanh chóng quật khởi, khiến các Vương tử và Ngõa Hãn Khả Hãn nghi kỵ. Đám Vương tử bố trí mai phục hãm hại Hải Đô A Lăng, y trúng kế, suýt nữa chết thảm dưới loạn đao, thân binh tín nhiệm bên người chết hơn phân nửa. Sau khi thương thế tốt lên, Hải Đô A Lăng ẩn nhẫn ẩn núp, giả bộ bị thương què chân cam chịu, hơn một năm trời y kiên trì đi đứng cà nhắc. Sau trong một lần chinh chiến y cướp được vài mỹ nhân Bắc Mạc, trong đó có một vị được gọi là đệ nhất mỹ nhân, xinh đẹp quyến rũ, am hiểu thuật phòng the, cả ngày y cùng đàn bà lăn lộn trong lều, sa vào trăng gió, bỏ quên việc quân, bộ hạ can gián y xách đao giết tức thì.

Cha con Ngõa Hãn Khả Hãn thấy Hải Đô A Lăng thành phế nhân, sống mơ mơ màng màng, chúng bạn xa lánh, ra vào không rời khỏi phu nhân xinh đẹp, dần dần buông lỏng đề phòng. Sau này, Hải Đô A Lăng mang binh xâm nhập vào nha trướng, tự tay giết Ngõa Hãn Khả Hãn, giết sạch Vương thất Bắc Nhung, trở thành Khả Hãn Bắc Nhung mới.

Lúc Dao Anh còn ở doanh địa Bắc Nhung, giữa Vương tử Bắc Nhung và Hải Đô A Lăng nhiều lần minh tranh ám đấu, nàng dứt khoát thắp thêm ngọn đuốc, dẫn dụ Vương tử khác ra tay cưới động thủ cướp chiến lợi phẩm của Hải Đô A Lăng, gia tăng xung đột. Đến khi Tất Sa cầm thư đòi Ngõa Hãn Khả Hãn đồ cưới, nàng úp mở chút trong thư, khiến Khả Hãn Bắc Nhung sinh lòng cảnh giác với Hải Đô A Lăng.

Lúc này nội bộ Vương thất Bắc Nhung hẳn đang giương cung bạt kiếm.

Dao Anh khẽ nói: "Hải Đô A Lăng không phải người bị sắc đẹp mê hoặc, y và cha con Ngõa Hãn Khả Hãn chắc chắn có xung đột, nên cố ý đi sứ Vương Đình, đêm xông vào Vương cung, cố ý để Ngõa Hãn Khả Hãn nghĩ hắn là kẻ ngốc vì phụ nữ mà trở nên lú lẫn."

Nói xong, nàng cười cười, "Nhưng này đều chỉ là suy đoán của ta. Vừa vặn Tướng quân sắp đi nha trướng Bắc Nhung, ngài có thể để ý quan sát, xem có phải giữa họ mâu thuẫn trùng trùng không."

Tất Sa thầm chấn động, sửng sốt mãi rồi gật đầu. "Nếu mọi việc đúng như công chúa đoán, ta có thể từ tay mấy kẻ bộ hạ mà phá hỏng kế hoạch giả vờ của Hải Đô A Lăng, tăng cảnh giác của Ngõa Hãn Khả Hãn."

Dao Anh vỗ tay cười nhẹ, đây chính là chuyện nàng muốn thương lượng: "Mặc kệ Hải Đô A Lăng thật xúc động nhất thời xông vào Vương cung giữa đêm hay có ý đồ khác, Tướng quân đều có thể thừa cơ sinh sự, nếu ta đoán sai, Tướng quân tùy cơ ứng biến, tỷ như làm Ngõa Hãn Khả Hãn nghĩ Vương tử Hải Đô A Lăng đang muốn đạt thành thỏa thuận gì đó với Vương Đình, lúc ấy, dù Ngõa Hãn Khả Hãn chưa hề có lòng kiêng kỵ Hải Đô A Lăng cũng sẽ hoài nghi y."

Tất Sa trợn mắt. Văn Chiêu công chúa mà có thể nghĩ ra kế sách độc ác như vậy ư!

Nếu Vương thất Bắc Nhung gió êm sóng lặng, họ sẽ ly gián Ngõa Hãn Khả Hãn và Hải Đô A Lăng. Nếu Vương thất Bắc Nhung đã nổi sóng gió, họ châm củi thêm lửa, lửa rực kia càng vượng hơn.

Tóm lại, dù vì lý do gì Hải Đô A Lăng đi sứ Vương Đình, Văn Chiêu công chúa đều muốn kéo Hải Đô A Lăng xuống nước, sương sương đớp một miếng thịt, hoàn toàn làm đảo loạn Vương thất Bắc Nhung!

Thấy Tất Sa quá chấn kinh, vẻ mặt Dao Anh khó hiểu, giải thích: "Thượng binh phạt mưu, thứ yếu phạt giao*, dụng binh không đánh mà thắng là thượng sách. Chúng ta nhắc nhở Ngõa Hãn Khả Hãn đề phòng Hải Đô A Lăng, gia tăng mâu thuẫn nội bộ, suy yếu Bắc Nhung, để chúng ốc còn không mang nổi mình ốc, cũng là một trong mấy binh pháp phòng ngừa chiến tranh."

*Binh pháp Tôn Tử, đã giải thích chương trước

Bắc Nhung châm ngòi ly gián, kích động các nước Trung Nguyên khai chiến, chờ dịp để vào cướp lấy, nàng chỉ ăn miếng trả miếng thôi.

Dao Anh nói xong, đứng dậy, trịnh trọng hành lễ với Tất Sa: "Ta cũng không phải là người Vương Đình, sống nhờ ở Thánh Thành, vốn không nên xen vào bàn luận đại sự, chỉ vì cùng đứng trước uy hiếp của Bắc Nhung với quý quốc, mới lớn mật nói ra suy nghĩ trong lòng, mong Tướng quân đừng trách. Tướng quân coi như ta trẻ người non dạ, thuận miệng nói bậy thôi."

Lòng bàn tay Tất Sa rướm mồ hôi, lặng đi một lúc rồi đứng dậy đỡ Dao Anh: "Công chúa là quý khách của Vương Đình, những lời này, người biết tôi biết, không có kẻ khác."

Dao Anh cười nhạt. Nàng không quan tâm Tất Sa nhìn nàng ra sao, chỉ cần đề nghị có chỗ phát huy là được.

Tất Sa đột nhiên hỏi: "Vì sao công chúa không trực tiếp gặp Vương đề xuất? Tôi chỉ là Tướng quân Trung quân, mọi quyết sách đều phải được Vương cho phép."

Dao Anh hấp háy mắt, ánh nhìn lấp lánh, mang theo vẻ hoạt bát gian xảo của thiếu nữ: "Không gạt Tướng quân, Pháp sư là người cao khiết bậc nào, với Pháp sư, âm mưu quỷ kế cỡ này... Ta không nói ra lời."

Đàm Ma La Già như một đoá sen đứng trước gió, thanh lãnh cao quý, thảo luận mấy chuyện này, ngài có nhíu mày đá đít nàng khỏi Phật Tự không chứ?

Tất Sa ngẩn ngơ, lập tức cao giọng cười to. "Người xem Vương là ai chứ? Ngài là Quân chủ Vương Đình..."

Cười một hồi, nỗi buồn lo của Tất Sa cũng tiêu tan mấy phần. La Già nói không sai, Văn Chiêu công chúa đối với ngài ấy không có tình cảm mến mộ, chỉ thuần túy kính ngưỡng và cảm kích.

La Già luôn thanh tỉnh lý trí, chưa từng nhìn biểu hiện mà bị mê hoặc. Dù là La Già hay là một thân phận khác.

Tất Sa đứng dậy rời đi, ra đến hành lang bỗng nhiên quay lại thò người vào phòng: "Công chúa, có câu người nói sai rồi."

Dao Anh ngẩng đầu: "Hửm?"

Tất Sa nghiêm túc nói: "Hải Đô A Lăng Nam chinh bắc chiến, dã tâm bừng bừng, y vì nhất định phải có được công chúa mà hết lần này đến lần khác khiêu khích Vương Đình, chưa hẳn hoàn toàn là diễn trò."

Dao Anh lắc đầu bật cười.

Nàng thiên sinh lệ chất, là mỹ nhân từ trong trứng, công thêm thân phận tiểu thư Lý gia, chưa xuất đầu lộ diện đã rất nhanh nổi khắp Trung Nguyên, công tử ham chơi ái mộ nhiều như cá diếc sang sông.

Mỗi khi nàng cưỡi ngựa đi dạo, đám Nhi lang nhà gia thế ruổi ngựa đuổi theo, chỉ để ngắm nàng thêm vài lần. Trịnh Cảnh, Ngũ Lang Tiết gia, Bùi công tử, Lưu công tử, Thôi công tử... bộ hạ Lý Đức, thân binh Tạ gia... rất nhiều người hâm mộ sắc đẹp nàng.

Dao Anh tin rằng họ đều ái mộ từ trong lòng, vậy thì sao chứ? Nàng sinh trong thời loạn, lớn lên trong môn phiệt thế gia, hiểu rõ còn có nhiều thứ làm cho đàn ông ham muốn chinh phục vượt xa sắc đẹp, đó chính là quyền thế.

Để leo lên đỉnh cao quyền lực, đàn ông có thể từ bỏ mọi thứ.

Đây là thời đại mà quần hùng cùng nổi lên, anh hào xuất hiện lớp lớp, đàn ông bận rộn với tranh giành quyền lực, sắc đẹp với họ mà nói, chỉ là sau khi chinh chiến dệt hoa trên gấm tô điểm thêm thôi.

Chỉ cần khoác lên hoàng bào, đã nắm thiên hạ trong tay thì sá gì mỹ nhân?

Lý Đức truy phong Đường thị làm hậu, người đời cảm thán ông đối với vợ thuở hàn vi tình sâu ý trọng, hoàn toàn quên lúc trước vì củng cố thế lực mà ông dứt khoát vứt bỏ Đường thị.

Lý Huyền Trinh và Chu Lục Vân quấn quýt si mê nhiều năm, cam tâm chết vì Chu Lục Vân nhưng vẫn vì ngôi vị Thái tử mà cưới con gái thế gia Trịnh Bích Ngọc.

Hải Đô A Lăng người như vậy, vĩnh viễn sẽ không vì một phụ nữ mà dừng bước chân chinh phạt. Mỗi cử động của y cũng chỉ vì khát vọng của chính mình.

Nhìn Dao Anh tỏ vẻ rất xem thường, Tất Sa nhếch miệng cười cười. "Công chúa, tôi không hiểu rõ Hải Đô A Lăng, nhưng tôi là đàn ông."

Là một đàn ông đối với phụ nữ mình xác định nhất định phải có, có thể không để ý đến tất cả, chó cùng rứt giậu.

Dao Anh thả lỏng. Nàng không quan tâm Hải Đô A Lăng rốt cuộc suy nghĩ gì, dù bị y giam nửa năm, dù thỉnh thoảng y thể hiện một vài lúc dịu dàng, nàng vẫn luôn tỉnh táo, nàng bị y cướp đi, y muốn chinh phục nàng.

Tất Sa hứng thú, vịn khung cửa, nhìn xuống dò xét Dao Anh. "Công chúa là con gái Trung Nguyên, người Trung Nguyên coi trọng lễ nghi, còn Bắc Nhung không thích mấy thứ rườm rà đó, chỗ bọn tôi cũng thế, đàn ông khỏe mạnh giỏi võ nhất bộ lạc có thể nhận lấy ái mộ của toàn bộ đàn bà. Hải Đô A Lăng oai hùng mạnh mẽ vậy, công chúa thật không động lòng chút nào à?"

Dao Anh ngẩng lên, nhìn Tất Sa như đang nhìn đồ đần: "Tướng quân hỏi vậy, hẳn là Tướng quân cũng ái mộ Hải Đô A Lăng nhỉ?"

Tất Sa bị chặn họng đến nghẹn.

Dao Anh cúi đầu lật xem kinh thư.

Lý Trọng Kiền nuôi nàng lớn, thương nàng yêu chiều nàng thương tiếc nàng, sao nàng có thể thiếu tự trọng, động tâm với kẻ xem mình như thứ đồ chơi?

Nàng tôn trọng mỗi một tấm chân tình, dù không thể đáp lại cũng sẽ không tùy ý coi khinh, nhưng cái loại tình cảm yêu thích kia của Hải Đô A Lăng, thứ lỗi, nàng tiêu hoá không được.

Tất Sa sờ chóp mũi, ngượng ngùng quay đi. Giờ anh ta hoàn toàn yên tâm, công chúa lý trí vậy, tuyệt đối sẽ không nhận sự nguy hiểm bị toàn bộ Vương Đình mang hận mà đi câu dẫn La Già.

...

Tất Sa về phủ nói chuyện với phụ tá một lát, hội ý lại thành điều trần đưa đi Phật Tự.

"Những kế sách này là công chúa đề nghị ạ!" Anh phăm phăm thuật lại nguyên văn lời Dao Anh, nhấn mạnh câu cuối cùng.

La Già cao thượng thế kia, chắc chắn sẽ chán ghét phụ nữ tâm cơ thâm trầm.

Đàm Ma La Già xem hết điều trần, vẻ mặt lạnh lạnh nhạt nhạt, không nói câu nào, cụp mắt, cầm bút phê chỉ thị.

Tất Sa cũng không biết mình đạt được mong muốn không, nhận chỉ thị phê duyệt rời khỏi thiền phòng. Trước khi chuẩn bị đi, anh ta còn phải đi Vương cung một chuyến.

Công chúa Xích Mã đang tổ chức yến hội, ca múa nhẹ nhàng, ăn uống linh đình, tân khách ngồi đầy uống đến say khướt, khắp nơi Vương công đại thần ôm ca cơ tầm hoan túng dục, nhạc khúc du dương không che được những tiếng mập mờ, xa hoa truỵ lạc, rượu chè say sưa.

Tất Sa tìm tới công chúa Xích Mã say chuếnh choáng, kéo tên đàn ông đang nằm trên người cô ta ra, ném ra ngoài, nói: "Công chúa, mấy này nữa ta cần đi Bắc Nhung một chuyến."

Công chúa Xích Mã nghe vậy, khoảnh khắc chếnh choáng vơi mấy phần, từ trên giường ngồi dậy, bờ vai tuyết trắng lộ ra, "Ngươi không thể đi! Quá nguy hiểm!"

Tất Sa thản nhiên: "Ta là Tướng quân Trung quân, nhận lệnh đi sứ Bắc Nhung, có gì nguy hiểm?"

Anh ngưng một chút vẻ hơi không kiên nhẫn. "Công chúa, ta khuyên người một câu, đừng làm bất cứ chuyện gì ngu xuẩn tổn thương La Già, mấy ngày ta đi, sẽ cho người chăm sóc người."

Công chúa Xích Mã trầm sắc mặt. "La Già cho ả người Hán kia vào ở Phật Tự." Cô ta lạnh lùng thốt, "Nó bị sắc đẹp mê hoặc, vứt bỏ thù nhà không thèm để ý, còn phạm vào Bất dâm trong ngũ giới, nó làm ra chuyện xấu hậu thế bất dung thế này, dân gian bàn tán ầm ĩ, ngươi không đi khuyên can nó, còn đến cảnh cáo ta à?"

Cô ta ngẩng lên, ngừng nhìn Tất Sa. "Ta biết, các ngươi đều nói ta cay nghiệt, âm hiểm, tùy hứng... so với La Già cao quý, ta là người đàn bà độc ác, sự vị tha của nó khiến nỗi hận của ta trở thành buồn cười."

"Tất Sa, tận mắt nhìn người nhà của mình một người tiếp một người chết thảm, ta có thể không hận à?"

Cô ta liên tục cười lạnh, ngón tay cắm sâu vào lòng bàn tay. "Sao nó cứ phải đối nghịch với ta?! Vì đâu? Năm đó ta muốn giết sạch Trương thị, nó từ bi, không cho phép ta tàn sát vô tội, được thôi! Ta không giết người vô tội! Giờ thì sao nữa? Sao nó lại phải đối xử rộng rãi với cô ả người Hán kia nữa?"

Nói đến đây, công chúa Xích Mã bỗng tỉnh táo lại, như suy nghĩ điều gì.

"La Già luôn thủ hạ lưu tình với người Hán... Có phải nó biết điều gì rồi không?"

Tất Sa chau mày, cầm lấy sa y cạnh đó khoác lên vai công chúa: "Không phải như người nghĩ, La Già chỉ vì cứu người, Văn Chiêu công chúa đã cứu ngài một mạng."

Công chúa Xích Mã cười lạnh.

Tất Sa thở thật dài, "La Già gánh vác trên vai đã quá nặng, người đừng gây thêm phiền cho ngài ấy nữa."

Mặt công chúa Xích Mã đầy tức giận, run cả người, nhịn một chút đè xuống cơn giận, lạnh lùng nói: "Người Bắc Nhung xảo trá tàn nhẫn, khi nào đi nhớ mang thêm người."

Tất Sa cười cười, "Đừng lo lắng cho ta, Ngõa Hãn Khả Hãn sợ La Già, không dám đụng đến ta đâu." Vừa nói vừa thở dài. "Ta nghe nói dạo này người hay cùng đám sâu bọ trong triều tiệc tùng, có ý gì thế? Nhớ đừng tổn thương thân thể."

Công chúa Xích Mã hững hờ ừ một tiếng, mặt âm u nhìn Tất Sa đi ra, lập tức gọi thị nữ: "Tất Sa đi Bắc Nhung, các ngươi theo dõi Phật Tự cho kỹ, ta không tin La Già cứu ả Hán đó chỉ là vì báo ơn! Chúng chắc chắn đã tằng tịu với nhau từ lâu!"

Thị nữ khó xử nói: "Công chúa, thủ vệ Vương cung không nghiêm, tụi tôi còn thám thính tin tức được... còn Phật Tự là chỗ ở của Vương, toàn bộ cấm vệ là cận vệ Trung quân, người của chúng ta vừa tới gần đã bị phát giác. Hơn nữa Nhiếp Chính Vương đã về, nếu như bị ngài ấy phát hiện..."

Đôi mắt màu nâu của công chúa Xích Mã hơi nheo lại, ngắt lời: "Ngu xuẩn! Các ngươi không thể tới gần thì không thể tìm ai có thể à? Thủ vệ Phật Tự dù có nghiêm ngặt vẫn phải có kẽ hở! Cẩn thận thám thính cho ta, tìm chứng cứ chúng tằng tịu với nhau!"

Thị nữ không dám nhiều lời nữa, dập đầu vâng dạ.

Công chúa Xích Mã đứng dậy, cầm lấy một chén rượu nho, đi tới trước cửa sổ. Bóng dáng Tất Sa vội vàng xuyên qua đình viện, bước chân nhẹ nhàng.

Cậu ta trung thành tuyệt đối với Đàm Ma La Già, La Già lại phái đi sứ địch quốc.

Đôi mắt nâu của Xích Mã đầy hận thù, ngón tay siết chặt chén rượu.

Họ Đàm Ma không phải chỉ có một vị Vương tử La Già, cô ta là công chúa Đàm Ma, La Già lần lượt khiến cô thất vọng, vậy thì đoạt lại quyền hành của họ Đàm Ma vậy.

Văn võ đại thần trong triều chắc chắn sẽ đứng về phía cô ta.

...

Sau khi Tất Sa đi, Duyên Giác được phái tới bảo vệ Dao Anh. "Lúc công chúa ra cửa cần người dẫn đường."

Dao Anh thở phào, dù Đàm Ma La Già ra bài tập cho nàng nhưng vẫn cho phép sau giờ tảo khóa nàng có thể rời Phật Tự tùy tiện đi lại, đúng là quan tâm rất sáng suốt.

Lão giả Tề Niên ở ngoại thành có truyền tin, mớ tơ lụa đầu tiên trong cửa hàng đã bị giành giật hết, hỏi mớ tiếp theo nên lúc nào bán. Dao Anh khuyên đừng vội, đợi hàng trong tay người Hồ bán ra không còn nhiều lại tính.

Trước khi đi Tất Sa giới thiệu cho Dao Anh một nhà buôn người Túc Đặc, nhờ ông ta hỗ trợ nàng mua được một mảnh đất lớn, theo kế hoạch lúc đầu, để bố trí cho những người sống ngoại thành, mua thêm mấy trăm con dê, hạt giống, cây ăn quả, dành cho những người biết làm nông canh thời gian trồng trọt dâu tằm.

Tề Niên từng làm quản sự, quản lý mọi việc ngay ngắn rõ ràng.

Đội buôn hợp tác với Dao Anh đã đồng ý truyền tin giúp nàng, có điều hiện giờ Bắc Nhung cố gắng chặt đứt mọi liên hệ giữa Trung Nguyên và Tây Vực, đường phía Tây xa xôi, họ chỉ đi tuyến phía Đông, không cam đoan có thể chắc chắn đưa được tin đến nơi.

Dao Anh không nản, thêm một phần hy vọng là tốt.

Nàng từ Duyên Giác nghe ngóng xem ở Vương Đình có thợ mộc giỏi không, Duyên Giác đề cử mấy nhà buôn lưu vong người Ba Tư.

Dao Anh tìm đến, nhờ họ hỗ trợ làm mấy món đồ gỗ nàng tự chế. Người Ba Tư hông biết tiếng Hán, nàng không sõi tiếng Hồ, hai bên nói gà nói vịt mãi lâu, người Ba Tư đồng ý ngoài miệng sẽ chế tác ra thứ nàng muốn. Dao Anh nghĩ người Ba Tư chắc hẳn chẳng hiểu yêu cầu của mình nhưng thấy đối phương ra vẻ đầy tự tin, đành chấp nhận.

Xử lý xong chuyện vặt vãnh, nàng bắt đầu mời chào vệ binh.

Các bộ lạc Tây Vực có rất nhiều người bị ép lưu vong, họ có thể vì một đồng Tát San* mà vào sinh ra tử.

*Sassanid Empire, còn gọi là đế quốc thứ hai của Ba Tư, trước thời kỳ Islam Ba Tư (224- 651CN) ở Tây Á được coi là đế quốc lớn mạnh, lãnh thổ thống trị gồm Iran, Afghanistan, Iraq, Syria, Caucasus, Trung á Tây Nam bộ, một phần Thổ Nhĩ, một phần bán đảo Ả Rập, một phần vịnh Ba Tư, Tây Nam bộ Pakistan, kéo dài đến Ấn Độ.

Chưa đến mấy ngày, nhà buôn người Túc Đặc chiêu mộ được một nhóm vệ binh cho Dao Anh. Tóc đen mắt đen có, tóc xoăn mắt nâu có, tóc đỏ mắt xanh có, từ các bộ tộc bị hủy diệt.

Dao Anh tạm thời không dám đảm nhiệm người ngoài, chỉ để họ bảo vệ đám già yếu như Tề Niên, hoặc đi theo đội binh, những vệ binh vì tiền mà trung thành với nàng cũng dễ vì tiền mà phản bội nàng.

Lộn xộn mấy hôm, Dao Anh rệu rã cả người. Vừa định nghỉ xả hơi, Duyên Giác báo, mấy hôm nữa ở buổi tảo khóa Đàm Ma La Già sẽ giảng kinh, muốn nàng chuẩn bị sẵn sàng.

Dao Anh thầm không ngừng kêu khổ, chuẩn bị gì đây? Chả nhẽ Đàm Ma La Già định kiểm tra bài hở?

Làm gì ngài phải nghiêm túc vậy!

Nàng nghĩ tu tập mỗi ngày chỉ cần làm dáng một chút là được, đâu có nhớ cái gì!

Dao Anh không dám phản bác, mấy hôm sau cứ sáng sớm lại ngồi trước án ngoan ngoãn đọc sách kinh.

Sáng sớm hôm nay, nàng đã kiểm danh sách xong, ngồi trước án lật sách kinh, bỗng nghe tiếng lạch cạch lớn, một chùm nho từ bên ngoài bay đến, rớt trên bàn, nho lục tục rớt ra.

Dao Anh đọc kinh thấy chóng mặt hoa mắt, giật nảy mình, nhìn mấy chùm nho xanh xanh vàng vàng trên bàn thất thần.

Từ ngoài hành lang có tiếng tạ tội một tràng, là đám thân binh vừa rồi giỡn trong vườn ném nho qua lại, không cẩn thận rơi vào.

Tạ Thanh lập tức rút đao, đứng dậy định ra giáo huấn mấy cậu.

Dao Anh khoát tay, gọi Tạ Thanh: "A Thanh, cô ăn nho khô chưa?"

Trời còn chưa sáng, Dao Anh đã bị Tạ Thanh đánh thức.

Nàng nhớ hôm nay là ngày Đàm Ma La Già giảng kinh, đứng dậy rửa mặt, mặc bộ áo vải mộc mạc, vừa gặm bánh Hồ mè vừa cố xem nốt kinh trong ánh đèn chập chờn, thầm nhớ nằm lòng.

Tiếng chuông từ ngoài tường hoa vẳng đến, cách tầng tầng lớp lớp, nghe xa thăm thẳm.

Ánh bình mình vừa hé rạng, Duyên Giác tới đón Dao Anh đến đại điện, nhìn nàng ăn mặc giản dị, mái tóc dài đen nhánh búi gọn gàng cùng một cây trâm bích ngọc đơn giản, không phấn son hay đeo trang sức vàng ngọc gì khác, thỏa mãn gật gù.

Dao Anh ở viện tử góc Đông Bắc Phật Tự, cách đại điện rất xa, trên đường xuyên qua mấy hành lang thật dài bay giữa trời không. Nàng chỉ vào vài tòa viện lạc dưới chân, tò mò hỏi: "Đấy là chỗ nào?"

Mấy ngày qua nàng phát hiện ở ngoài cùng của Phật Tự có rất nhiều cung điện dinh thự xen lẫn nhau, có công sở, có dịch quán, có cửa hàng, có chỗ thanh tu dành cho Vương công quý tộc, tỷ như viện lạc nàng ở thuộc về khu này, nên nghiêm chỉnh mà nói nàng không tính là đang ở trong Phật Tự, vì vậy có thể tự do ra vào.

Phật Tự là chỗ Quân chủ Vương Đình tu tập, chiếm diện tích rất rộng, các sư tụ về, khắp nơi có thủ vệ, ngày ngày còn có rất nhiều người dân đến thăm viếng chiêm ngưỡng, vô cùng náo nhiệt, có điều trong Phật Tự có một góc viện lạc luôn bỏ trống, yên tĩnh âm u, rất ít người ra vào.

Chính là khu viện tử dưới chân nàng.

Duyên Giác theo ánh nhìn của Dao Anh, nhỏ giọng: "Đó là Hình đường."

Dao Anh không hỏi tiếp. Nàng lán mán nhớ lại, từ lúc mới sinh Đàm Ma La Già đã bị giam cầm ở Phật Tự, Vương công quý tộc muốn dọa ngài, mài mòn ý chí, cố ý nhốt ngài vào Hình đường, mãi đến năm ngài mười ba tuổi.

Hình đường là một tầng bán hầm đào xuống đất, nắng sớm nghiêng chiếu qua mấy gian đình viện âm u như lọt vào đáy giếng cổ sâu không đáy, không thấy chút ánh sáng, u ám lạnh lẽo.

Ở đây hơn mười năm có bao nhiêu khó chịu?

Gần đến đại điện, tiếng người ồn ào lọt vào tai Dao Anh.

Đàm Ma La Già cho phép dân thường vào chùa nghe bài tuyên giảng, không kể nam nữ giàu nghèo. Từ sáng sớm người dân thành kính tề tụ dưới điện, trước bậc thềm người người nhốn nháo, dù đã cố hạ giọng nói chuyện vẫn ong ong xôn xao.

Giảng kinh sắp bắt đầu.

Đại điện xây trên mỏm đá, không giống chùa Phật ở Trung Nguyên hương khói lượn lờ, hiển nhiên Phật giáo Vương Đình hay Trung Nguyên đều giống nhau, trong quá trình lưu truyền đã tiếp thu truyền thống bản địa rất nhiều, bốn bức tường vẽ đầy bích họa tinh xảo, đỉnh mái vòm là khung lam màu xanh thật lớn rất thanh nhã, trong điện đường trống trải sạch sẽ, rất thoáng, lối đi xung quanh được xây hẹp khoảng hai người đi lọt.

Trong điện bố trí đài cao, dưới đài các vị sư ngồi đầy kín, chỗ ngồi góc bên trái trước nhất sắc vàng lấp lánh, là một đám Vương công quý tộc áo quần lộng lẫy, trong hành lang có tăng binh phòng thủ, dưới thềm có dân chúng thi thoảng tham quan.

Duyên Giác dẫn Dao Anh đến một chỗ ngồi trong góc kẹt, vô số ánh mắt bắn tới nàng, nàng thản nhiên, mỉm cười nhìn lại. Mặt họ cứng đờ.

Dao Anh vào chỗ, nhìn quanh một vòng, đa số là Vương công quý tộc và dân chúng nhìn nàng, các vị sư ổn định hơn nhiều, chỉ lặng lẽ đưa mắt dò xét nàng một lát rồi yên lặng thu về.

Các quý phụ liếc nhìn Dao Anh, nháy mắt nhau ra hiệu.

Dao Anh mắt nhìn mũi, mũi nhìn tim, tiếng Hồ của nàng không giỏi đến mức nghe hiểu các bà xì xào bàn tán, vừa vặn rảnh tai.

Chỉ sau chốc lát, các sư vây quanh Đàm Ma La Già đến.

Mắt Dao Anh trợn lớn, trong chốc lát không kịp phản ứng.

Đàm Ma La Già đi đến, người mặc áo cà sa rộng đỏ thắm, tay đeo cầm châu, bước đi ung dung, phiêu phiêu dục tiên, ánh mắt lạnh nhạt không chút khói lửa. Đây là lần đầu Dao Anh thấy Đàm Ma La Già bước đi, không khỏi dấy lên cảm xúc rất khác thường trong lòng, ánh mắt luôn yên lặng vây quanh chàng.

Vóc dáng chàng cao gầy, mắt như sao lạnh, khí chất trong veo.

Dao Anh nghĩ đến đôi chân trước đây không lâu còn sưng đến tím đen, áo cà sa rộng rãi che phủ, không biết chân ngài đã khôi phục thế nào.

Nhìn ngài đi ưu nhã thế này hẳn là sắp khỏi hẳn. Đề Bà Mông Đạt đã về Thiên Trúc, không rõ bệnh của ngài ấy cuối cùng là gì, Thủy mãng thảo chỉ là lấy độc trị độc, dùng lâu dài chắc chắn có hậu hoạn tiềm ẩn.

Bên cạnh có vài tiếng ho khan, có tiếng cười trộm, Duyên Giác thấp giọng nhắc nhở Dao Anh: "Công chúa..." Thấy nàng nhìn Đàm Ma La Già quá tập trung.

Dao Anh hồi phục tinh thần, phát hiện toàn bộ phụ nữ trong điện đều đang nhìn mình, phát giác được mình thất thố, thu tầm mắt.

Đàm Ma La Già đứng trên điện cao cao, vào chỗ ngồi, bắt đầu dẫn chúng tăng niệm kinh, dáng thật trang nghiêm.

Vương công quý tộc và dân chúng ngoài điện cũng ngồi nghiêm túc, cùng tụng theo, đám người sánh vai nhau, vẻ mặt tất cả rất thành kính.

Tiếng Phạn trong trẻo vang xa, nghiêm trang, rung động lòng người.

Dao Anh không khỏi nín thở, sửa tư thế ngồi ngay ngắn, tụng kinh cùng Duyên Giác. Đợi nàng tụng xong đống kinh văn mấy hôm liên tục ôm chân Phật học thuộc năm ba lần, tiếng tụng kinh ngừng lại.

Một tiểu tăng bưng quyển văn rất cung kính đi đến trước đài cao, Đàm Ma La Già tiện tay rút từ quyển văn ra một quyển, tiểu tăng cao giọng đọc lên tên một người.

Một vị sư dưới đài đáp lời bước lên, hành lễ với Đàm Ma La Già, bắt đầu đặt câu hỏi. Đàm Ma La Già trả lời vài câu, vị sư nhíu mày suy tư, chắp tay về chỗ.

Tiếp đến Đàm Ma La Già lại rút ra một quyển kinh văn, tiểu tăng liếc cái tên trên tấm vải đọc ra, một vị sư khác lại kích động đứng dậy, lớn tiếng đặt câu hỏi, nói cực nhanh, Đàm Ma La Già luôn lạnh nhạt, trả lời không hề chậm, vị sư không ngừng gặng hỏi, thậm chí còn hơi hùng hổ dọa người, chàng vẫn không đổi sắc, tuần tự trả lời. Cuối cùng, vị sư chắp tay trước ngực, vẻ rất bội phục, ngồi lại.

Tiểu tăng tiếp tục điểm danh, mỗi một vị sư được điểm danh đều phấn chấn, đặt câu hỏi cho Đàm Ma La Già, Đàm Ma La Già đáp từng câu với giọng bình thản.

Dao Anh không hiểu mấy.

Duyên Giác nhỏ giọng giải thích, này gần như là bàn luận Phật pháp, chúng tăng viết câu hỏi lên cuốn da trình lên, Đàm Ma La Già rút trúng ai, người ấy có thể cùng ngài biện luận, vạn sự vạn vật, Phật pháp Phật lý, từ không tới có, mây trên trời, cỏ dưới đất, gì cũng tranh biện được.

Dao Anh tặc lưỡi, kiên trì tiếp tục nghe, các vị sư và La Già tranh biện bằng tiếng Phạn, nàng nghe không hiểu, chỉ thấy tốc độ hai bên tranh biện rất nhanh, nhìn vẻ khó xử, hoặc mừng thầm, hoặc mất mát, hoặc vắt hết óc nghiền ngẫm cũng rất thú vị.

Sau khi Đàm Ma La Già rút khoảng mười quyển kinh văn, tiểu tăng hạ khay, vẻ mặt các sư lấy lại bình thản, bầu không khí trong điện trở nên dễ thở hơn nhiều, La Già bắt đầu thuyết pháp. Chàng giảng bằng tiếng Phạn, sau chuyển thành tiếng Hồ, ngẫu nhiên xen lẫn một ngôn ngữ khác, giọng trong trẻo, trầm ấm, âm điệu uyển chuyển như châu ngọc rơi xuống mâm, mang theo vần luật thư giãn.

Trong ngoài điện ai cũng nghe như si như say, thỉnh thoảng có phụ nữ cúi đầu lau nước mắt.

Dao Anh nghe man mán ra Đàm Ma La Già đang giảng chuyện thiện ác nhân quả, rồi sau đó hết hiểu. Nàng ngồi sống lưng thẳng tắp, quỳ nửa ngày, cả người đau nhức, nhịn không được vụng trộm đổi một tư thế.

Một ánh mắt trong lạnh quét tới.

Nhẹ nhàng, lại đầy sức sắc sảo không lộ.

Dao Anh không khỏi giật mình, lập tức thành thật, không nhúc nhích, tiếp tục lắng nghe.

Đàm Ma La Già nhìn trên đỉnh mái tóc đen nhánh mềm mại của nàng một chút rồi dời ánh mắt.

Dao Anh không dám động đậy, ngồi tiếp một khắc nữa, trong đám đông vang lên tiếng xúc động, tiếng tụng kinh liên tiếp, rồi tất cả đứng dậy, chắp tay về phía Đàm Ma La Già, đưa mắt nhìn ngài xuống đài cao, giữa các vị sư vây quanh rời đi.

Chờ bóng lưng cao gầy của chàng biến mất sau cửa điện, tim Dao Anh mới thả lỏng: Vậy xong rồi nhỉ? Ngài ấy không kiểm tra bài nàng à?

Thì ra chỉ cần nàng thành thành thật thật ngồi nghe tảo khóa là được.

Dao Anh đứng dậy định rời đi, thì mấy bóng người lướt tới.

Bát Nhã và mấy vị sư đứng trước mặt nàng, vẻ rất nghiêm túc, cười lạnh chìa ra mấy quyển kinh: "Công chúa tu tập Phật pháp, có thu hoạch được gì không?"

Dao Anh giật khóe miệng: Mừng quá sớm rồi, người kiểm tra bài còn chờ đây nè!

Bát Nhã đứng trước mặt Dao Anh, sống lưng ưỡn như khúc cây bạch dương, bắt đầu rút ra vài nội dung trong quyển kinh Dao Anh đọc. Câu hỏi vừa đúng phần Đàm Ma La Già nói Duyên Giác nhắc qua Dao Anh.

Dao Anh sửng sốt, lập tức cười thầm: Hòa thượng giúp nàng gian lận.

Dù nàng không thể giải thích sâu xa nghĩa trong sách nhưng học thuộc lòng không làm khó được nàng, đối đáp trôi chảy.

Bát Nhã nhíu mày, lật ra một quyển khác, tiếp tục hỏi. Dao Anh vẫn lưu loát thuộc lòng.

Liên tiếp hỏi mấy quyển không làm khó được Dao Anh, Bát Nhã không khỏi tức giận, hỏi: "Giải nghĩa được không?"

Dao Anh nhắm hai mắt lại, cười nói, "Không thể."

Không đợi Bát Nhã nói tiếp, nàng hỏi lại: "Thế cậu hiểu không?"

Bát Nhã vốn định phản bác, đối diện với ánh mắt cười khanh khách của Dao Anh, đỏ hết cả mặt, cậu không phải sư quy y mà chỉ là hộ vệ đi theo Đàm Ma La Già, nào dám nói mình có thể hiểu được ý nghĩa trong sách kinh? Nếu cho ra một câu trả lời khẳng định, hẳn sẽ bị hỏi đuổi đến cùng!

Cậu đành phải lắc đầu. Dao Anh mỉm cười. Bát Nhã không chịu thua, hỏi tiếp: "Mấy nay công chúa học bao nhiêu đây thôi hả?"

Dao Anh ho nhẹ, nghiêm mặt nói: "Mấy ngày qua ta dốc lòng nghiên cứu một bộ kinh văn."

Bát Nhã nhìn ánh mắt nàng tràn ngập hoài nghi: "Kinh văn gì?"

Dao Anh đọc từng chữ Tâm kinh.

Tâm kinh, còn gọi Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa tâm kinh, ngắn gọn tỉ mỉ, bản dịch của Đường Huyền Trang tổng cộng chỉ hơn ba trăm chữ, đơn giản rõ ràng, lại hàm nghĩa vô tận, bởi vì nó là tinh hoa rút ra từ mấy trăm bộ kinh Phật, cô đọng từ điển tịch Phật giáo mấy trăm vạn chữ mênh mông như biển khói.

*Mai: bản dịch và số chữ của Tâm kinh có nhiều phiên bản khác nhau.

Dao Anh nghĩ qua rồi, bộ kinh này ở Trung Nguyên lưu hành rộng rãi, đủ cho nàng đối phó được mấy tháng kiểm tra, nhẹ bớt việc.

Nàng đọc được rất lưu loát, vẻ mặt Bát Nhã lại mờ mịt: "Cô đọc gì thế?"

Dao Anh càng mờ mịt hơn cậu: "Tâm kinh?"

Bát Nhã nói chắc chắn: "Ta chưa từng nghe qua kinh này."

Dao Anh giải thích: "Ta đọc là bản dịch của Pháp sư Trung Nguyên Huyền Trang, có thể khác với chỗ các cậu nghiên cứu."

Bát Nhã chau mày, cùng mấy vị sư đứng cạnh liếc nhau, một người lắc đầu, mấy người nhỏ giọng thảo luận một lát, nói: "Công chúa có thể lĩnh ngộ không ạ?"

Dao Anh chắp tay trước ngực, nói: "Kinh văn sâu sắc, ta vẫn chưa lĩnh ngộ được chân nghĩa trong đó, có điều sau khi niệm mấy lần giúp tâm tình trở nên yên tĩnh ôn hòa."

Bát Nhã ngây ra, Dao Anh nếu có nói ra vài điểm cậu còn tranh cãi được, nói thế này đúng là không tìm thấy sai lầm.

Một vị sư đứng cạnh lộ vẻ vẻ tán thưởng, vuốt cằm: "Công chúa có thể lĩnh ngộ thế này, thật đúng là dốc lòng tu tập."

Dao Anh cười khiêm tốn. Mi mắt Bát Nhã giật giật. Mấy vị sư cúi chào Dao Anh rời đi.

Dao Anh hỏi Duyên Giác đứng cạnh: "Vậy là ta qua được kỳ kiểm tra rồi nhỉ?"

Duyên Giác cười cười, nói: "Công chúa biểu hiện rất tốt, sau này trong thành cũng bớt đi ít lời đồn nhảm, chỉ cần công chúa biểu hiện tốt trong tu tập Phật pháp, họ cũng không dám cố tình khó xử công chúa."

Dao Anh trong lòng chợt động. Thì ra Đàm Ma La Già dặn nàng trả lời kiểm tra cho tốt là để giúp thời gian nàng ở Thánh Thành trải qua tốt hơn.

Thấy đến giờ dùng cơm trưa, Duyên Giác đưa Dao Anh về viện tử.

Sau lưng có tiếng bước chân, một cận vệ đuổi đi theo: "Vương mời công chúa đi thiền phòng."

Duyên Giác vâng lời, hộ tống Dao Anh đi thiền phòng.

Trong viện yên tĩnh, bầu trời xanh thẳm, mây trôi nhẹ lượn lờ, mảnh hoa lá trên khung lam mái vòm tản ánh nắng chiếu qua thành màu xanh mát rượi, ánh vàng trên mấy tấm bích họa như đang nhảy nhót.

Đàm Ma La Già ngồi trước trường án đọc thư, mấy tên vệ sĩ mặc áo lam phong trần mệt mỏi quỳ gối trước đình viện, một trong số đó là hầu cận của A Sử Na Tất Sa.

Tin từ Bắc Nhung truyền về.

Dao Anh bước nhanh vào hành lang, đến ngoài thiện phòng, dừng bước, trong vô thức nín thở ngưng thần, rảo bước vào phòng.

Trong phòng mát lạnh, Đàm Ma La Già không ngẩng lên, ngón tay thon dài giơ lên, ra hiệu Dao Anh ngồi xuống.

Dao Anh ngồi quỳ thẳng thớm đối diện chàng.

Đàm Ma La Già xem xong thư, nâng tầm mắt, nói: "Hải Đô A Lăng bị thương ở chân."

Dao Anh khẽ giật mình. Đàm Ma La Già liếc qua đình viện, Duyên Giác hiểu ý, ra hiệu hầu cận của A Sử Na Tất Sa tiến lên.

Hầu cận quỳ gối ngoài hành lang, chậm rãi nói: "Khi Tướng quân A Sử Na đến Bắc Nhung, Vương tử Hải Đô A Lăng đã về nha trướng, nghe nói dọc đường y bị cướp tập kích, một chân bị ngựa hoảng đạp nát. Khí trời nóng bức, vết thương thối rữa, Vu y cứu chữa dùng sai thuốc nên đùi phải của Hải Đô A Lăng bị phế. Tướng quân nói, mấy vị Vương tử xông vào lều vải chính mắt nhìn thương thế của Hải Đô A Lăng, chân y còn đang sinh giòi bọ."

Dao Anh nghe mí mắt không ngừng giật. Quả nhiên Hải Đô A Lăng vẫn bị "hỏng" một chân. Mấy toán cướp mai phục kia hẳn là cạm bẫy của mấy vị Vương tử bố trí, y tương kế tựu kế, giả vờ hỏng một chân

Hầu cận cuối cùng nói: "Tướng quân nhớ Văn Chiêu công chúa nhắc nhở ngài rằng Hải Đô A Lăng sẽ dùng khổ nhục kế, sinh nghi chân của y không hỏng thật, phái thuộc hạ về gặp Vương xin chỉ thị, tiện hỏi công chúa một câu."

Đàm Ma La Già nhìn Dao Anh. Lập tức Dao Anh thấy không thở nổi, nói: "Đúng là ta có nhắc nhở Tướng quân A Sử Na."

Hầu cận nhỏ giọng nói: "Công chúa hiểu tính tình của Vương tử Hải Đô A Lăng như lòng bàn tay, tướng quân muốn nghe đề nghị của công chúa."

Cả viện yên tĩnh.

Dao Anh đón ánh mắt mong chờ của hầu cận, nhắm mắt nói: "Hải Đô A Lăng đã dùng khổ nhục kế, không bằng Tướng quân tương kế tựu kế, để Vương tử Hải Đô A Lăng dưỡng thương cho tốt." Hải Đô A Lăng giả bộ hư một chân, A Sử Na Tất Sa có thể lợi dụng lòng nghi kỵ của mấy vị Vương tử, làm chân đó hư thật.

Mấy hầu cận trao đổi một ánh mắt, mắt Duyên Giác canh giữ ngay cửa lộ vẻ kinh ngạc.

Đàm Ma La Già như không hề ngạc nhiên với câu trả lời của Dao Anh, không lên tiếng, cầm bút viết thư. Hầu cận đứng dậy nhận thư, cúi chào, vội vàng rời đi.

Dao Anh cũng đứng dậy rời khỏi thiền phòng, khi xuống hành lang, vừa vặn gặp mấy cận vệ dọn bàn ăn đến, nàng hờ hững quét mắt qua mâm bạc, ngớ ra.

Một mâm thịt bò nhoáng qua ngay trước mắt.

Dao Anh quay lại, ánh mắt dán lên mâm thịt bò.

Bàn ăn được đưa đến trước mặt Đàm Ma La Già, ngón tay thon dài thanh tú của chàng nhón một miếng thịt.

Dao Anh rớt cả miệng.

Trong phòng, Đàm Ma La Già phát hiện ánh mắt Dao Anh đang nhìn chăm chú, ngước nhìn lại.

Thiếu nữ đứng trong đình viện, ngơ ra nhìn chàng, vẻ mặt như bị sét đánh.

Đàm Ma La Già khựng lại, một tia nghi hoặc nhẹ lướt qua đôi mắt xanh trong.

Nàng ấy đói bụng à?

Dao Anh trở lại viện tử của mình, nhìn một mâm lớn bánh naan và nước ấm mà người hầu vừa dọn lên trên trường án, nhớ tới mớ thịt nướng vừa nãy bay qua trước mắt.

Nếu biết trước không cấm ăn thịt, mấy bữa nay nàng đâu cần ăn chay mỗi ngày. Trên đường về Duyên Giác có giải thích, sư ở Vương Đình không hề bị cấm ăn thịt. Phần lớn sư các nước Tây Vực đều vậy, chỉ nhắc đến tam tịnh nhục và ngũ tịnh nhục, tam tịnh nhục tức không thấy giết, không nghe tiếng giết, không giết, ngũ tịnh nhục ngoài ba điều trên còn thêm hai loại: tự chết, thịt dư của điểu thú giết.

Nói cách khác, không tận mắt nhìn thấy giết chết động vật, không nghe thấy động vật bị giết chết hoặc nghe nói động vật là bị giết vì mình, không phải do mình muốn ăn mà sát sinh, chỉ là thịt, thì có thể ăn. Có điều lúc chế biến thịt không cho gia vị, sư không dính dáng tới món mặn, trong đó "mặn" chỉ hành, gừng, tỏi các gia vị có hương vị kích thích.

Thêm nữa, nếu sư sinh bệnh, cần ăn mặn, cũng có thể phá lệ ăn.

Dao Anh bừng tỉnh.

Giới luật khu vực khác biệt nhỏ cũng không hiếm thấy. Tỉ như trước kia từng có quy định sư không ăn trưa, nếu giữa trưa đã ăn thì đến hôm sau mới ăn tiếp, gọi là "cầm trai". Sau khi Phật giáo truyền vào Trung Nguyên, quy định này đã thay đổi, rất nhiều sư Trung Nguyên bỏ qua cầm trai, bắt đầu một ngày ba bữa, nếu không không thể đảm bảo thể lực.

Phật giáo khởi nguồn từ Thiên Trúc, lúc đầu đại bộ phận tăng lữ xuất thân từ quý tộc Thiên Trúc, ý nghĩa cơ bản của Phật giáo quan hệ chặt chẽ với xã hội Thiên Trúc, khi vừa mới lưu truyền đến Trung Nguyên, từng phát sinh xung đột và không thích ứng với truyền thống luân lý Pháp tông Trung Nguyên. Sau đó Phật giáo nhập gia tuỳ tục, dựa vào luân lý Pháp tông của Trung Nguyên điều chỉnh thay đổi, không ngừng phát triển, thu nạp tầng lớp dân chúng phổ thông, mới có thể phổ cập truyền bá ở Trung Nguyên.

Các nước Tây Vực và Trung Nguyên vốn đã khác biệt, Phật giáo phát triển tự nhiên cũng thể hiện một diện mạo khác, ở một số ít các nước Tây Vực, toàn dân đều là tín đồ, sư sãi có địa vị cực cao, quan hệ mật thiết với quý tộc, thậm chí đôi khi Vương quyền thế tục và giáo quyền có thể khống chế trong tay một người.

Tóm lại, vùng đất khác biệt, phong tục khác biệt.

Giới luật Trung Nguyên nghiêm khắc, một vị hoàng đế Nam Bắc triều từng ban lệnh 'Cấm rượu', cấm sát sinh, yêu cầu sư không được ăn thịt, thêm nữa các nhà sư Trung Nguyên không cầm bát khất thực, được ban ruộng, khai khẩn vườn, tự mình trồng trọt, hoàn toàn có thể tự cấp tự túc, có thể không cần ăn thịt.

Dao Anh nhớ năm đó Pháp sư Huyền Trang đi Tây phương thỉnh kinh, lúc qua Tây Vực, các sư cũng ăn thịt. Nàng từng cho rằng Vương Đình sùng bái những sách kinh có dấu hiệu theo hướng Đại thừa quá độ, nên cũng không ăn thịt sống, muốn tôn trọng các sư, nhập gia tùy tục, từ lúc vào ở Phật Tự chưa hề ăn thịt, không ngờ sư trong chùa không kiêng ăn thịt.

Nói cho đám thân binh, cả đám sướng rơn nhảy cẫng – họ là lính, ngày ngày cơm trắng, thèm muốn điên!

...

Phía bên kia, Duyên Giác quay về thiền phòng báo lại Đàm Ma La Già, cười nói: "Vương, không phải chủ chùa lạnh nhạt với Văn Chiêu công chúa đâu, là do lúc người vào ở, chủ động nói chỉ ăn thức ăn chay, nên chủ chùa không sắp xếp đưa qua món khác."

Đàm Ma La Già cúi đầu lật mấy cuốn sách da, trước mắt hiện ra vẻ thiếu nữ ngây ra như phỗng, mắt muốn rớt ra ngoài, nhìn chằm chằm mâm thịt nướng của mình mà vài phần tủi thân.

Còn tưởng nàng bị lạnh nhạt. Thì ra không phải ấm ức mà chỉ đơn thuần là kinh ngạc, đại loại như "sao ngài lại ăn thịt?".

Nàng cho là mình có thể uống sương ăn gió chăng?

Mặt Đàm Ma La Già trong veo, ngón tay thon dài nhẹ phẩy cầm châu.

...

Ngày hôm sau, mâm cơm đưa đến viện Dao Anh nhiều thêm mấy đĩa thịt nướng. Đáng tiếc thịt nướng không được chế biến tỉ mỉ, chỉ sơ sài ướp vài hạt muối.

Nhưng đám thân binh đói lâu ngày vẫn khoái chí ăn mãi, gặm đến không còn mảnh xương.

Cơm nước xong xuôi, Dao Anh bảo thân binh chia nhau làm việc.

Nàng đã tìm Duyên Giác nghe ngóng, Vương Đình có vườn nho lớn, phần lớn được hái để ủ rượu nho. Rượu nho Cao Xương có tiếng gần xa, là món bán chạy, rượu nho Vương Đình không tinh khiết bằng Cao Xương, nhưng thắng ở chỗ có thể để rất lâu không biến chất.

Mảnh đất Dao Anh mua vừa vặn có mấy khoảnh trồng nho.

Trước đó Tề Niên từng nhắc qua ông biết cất rượu, nàng cho ông thử chút, dù gì cũng không nghĩ trông vào tiền họ kiếm. Chăn cừu, thuộc da đều là việc tốn thể lực, phần lớn họ đều là ít khả năng lao động mới bị bán, nàng luôn nghĩ cách tìm công việc thoải mái chút cho họ.

Dạy họ phơi nho khô? Ý này vừa chợt lóe, Dao Anh sai thân binh đi phố chợ mua ít nho khô, thăm dò nghe cách phơi nho bản địa.

Nàng ngồi trước đình viện, nhìn đám nho từng chùm từng chùm rủ xuống trước tường hoa, ngẩn người.

Nàng từng vì muốn uống rượu nho mà ầm ĩ với Lý Trọng Kiền.

Ở Trường An, giá rượu nho rất đắt đỏ.

Năm đó lính nhà Đường chinh phục Cao Xương, mang ngựa sơ sinh, phương pháp ủ nho Cao Xương về Trung Nguyên, Thái Tông Lý Thế Dân cho trồng nho trong vườn của Hoàng gia, tự mình ủ rượu, ban cho quần thần cùng hưởng. Sau này mở rộng xuống dân gian, phổ biến trong phố chợ, có điều vì chiến loạn liên tục nhiều năm, nho tươi trở nên quý hiếm, phương pháp ủ nho thất truyền, nên rượu nho trở nên hiếm hơn.

Từng có vị Thái y nói uống rượu nho vừa phải rất tốt cho phụ nữ, vừa vặn Dao Anh lên cơn thèm, đòi uống mấy chén, bị Lý Trọng Kiền quạu mặt dạy dỗ mấy câu. Nàng luôn phải uống Ngưng lộ hoàn, thần y đã dặn, trong thời gian uống thuốc tốt nhất không được uống rượu.

Nghĩ tới đây, Dao Anh chợt nhớ. Đàm Ma La Già đang dùng Thủy Mãng Thảo, ngài có biết phải kiêng thứ này không? Nghĩ một lát, lắc đầu bật cười: Đàm Ma La Già là hòa thượng, nào uống rượu?

Trong đêm, thân binh cầm mấy bao nho khô về, mở ra trên bàn.

Dao Anh vừa nhìn đã biết mớ nho khô màu nâu này chất lượng không tính là thượng thừa.

Thân binh nói: "Công chúa, đây là mớ nho khô tốt nhất trong thành, người ở chợ nói nho khô ở Vương cung cũng là họ cung cấp. Y nói, trời hè thu Vương Đình nóng bức khô ráo, nắng nhiều, mưa ít, họ hái nho rồi phơi trực tiếp, không cần làm gì nữa hết."

Dao Anh nhặt vài hạt nho khô lên nhìn kỹ màu, ngửi mùi, nếm mấy miếng, trầm ngâm một lát, xem ra phương pháp phơi nho hiện tại còn rất thô sơ.

Nàng dặn dò thân binh: "Mai ngươi ra khỏi thành nói lão Tề, không được tiếc mớ nho đã kết quả kia, thu hoạch toàn bộ, toàn bộ vườn đổi qua trồng trái cây ngọt quý hiếm, ngựa sơ sinh, nho trân châu đen*, nếu không được mua nho, bảo ông ta đi Thành Nam tìm người buôn tên Khang Đại, đổi thêm trà, tơ lụa."

* giống không hạt kháng bệnh, sản lượng cao, trưởng thành nhanh, chất lượng tốt, hàm đường lượng cao, dễ vận chuyển.

Thân binh vâng dạ, lại nhắc một việc: "Lão Tề nói ông ta có liên hệ người Sa Châu lưu vong các nơi, phần lớn họ không có cơm ăn áo mặc, ông bảo tôi về xin chỉ thị công chúa, có thể thu nhận họ không?"

Dao Anh nhíu mày. Vương Đình cuối cùng chỉ là nơi tạm thời che chở cho nàng, họ không thể đem lại phiền phức cho Vương Đình, người thu nhận càng lúc càng nhiều, không thể nhận tất cả vào Vương Đình được.

"Hiện giờ nhân số không nhiều, nhận được thì nhận nhưng nhớ kỹ, căn dặn lão Tề, bắt buộc phải lập danh sách không được thiếu một người, dựa vào đó ta còn nộp tiền thuế."

Đại thần Vương Đình hám tiền, nàng cứ theo đầu người nộp thuế, mới không bị chỉ trích quá lớn, lập danh sách cũng dễ quản lý nhân khẩu, làm cơ sở huấn luyện binh sĩ biết đánh trận. Nàng thiếu người, giờ chiêu mộ càng nhiều người càng tốt.

Thân binh gật đầu, ghi nhớ từng việc một, chần chừ chút rồi hỏi: "Có vài người Sa Châu... Lão Tề không biết nên nhận không."

Dao Anh hỏi: "Đã là người Sa Châu, sao không thể nhận?"

Thân binh đáp: "Mấy cô đó không phải người Hán, mà đều là người Hồ lưu lạc đến Tây Vực, bị thương đội bán trao tay nhiều lần, cuối cùng lưu lạc đến Vương Đình, nghe nói chỗ lão Tề chứa chấp rất nhiều người Hà Tây nên mấy cổ tới xin vào."

Dao Anh nhíu mày, nhìn thân binh một lát rồi gọi tất cả tới, ánh mắt đảo qua gương mặt từng người. Vẻ mặt nàng có phần nghiêm khắc, đám Tạ Xung, Tạ Bằng không dám đùa, ai cũng khoanh tay đứng hầu.

Dao Anh từng chữ nói: "Sa Châu, Qua Châu đều thuộc đất Hà Tây, dân địa phương dù là Hồ hay Hán, đều là con dân Đại Ngụy, các ngươi nhớ rõ chưa?"

Cả đám trầm giọng thưa vâng.

Lúc này Dao Anh mới bảo thân binh ban nãy: "Đã là người Sa Châu, lại tới xin vào, có thể nhận thì nghĩ cách nhận." Lại nói: "Nếu có người không tuân thủ quy định, quyết không nhân nhượng, lập tức đuổi đi. Chúng ta chỉ có cứu mình trước, mới có thể cứu người, bảo lão Tề cẩn thận chút, tuyệt đối đừng để xảy ra nhiễu loạn."

Thân binh vâng lời.

Liên tiếp mấy ngày bận rộn, đoán chừng A Sử Na Tất Sa sắp về, Dao Anh bắt đầu chuẩn bị đi Cao Xương, Đàm Ma La Già đã có nói Tất Sa sẽ đi sứ Cao Xương với nàng.

Trong thời gian này, mỗi sáng sớm nàng kiên trì xuất hiện ở buổi tảo khóa, dù nghe tuyên giảng không hiểu, vẫn thành thật ngồi nửa canh giờ, niệm tụng kinh văn với các nhà sư.

Đàm Ma La Già giúp nàng, nàng không thể phụ tâm sức của ngài.

Mấy vị sư với Dao Anh không đồng ngôn ngữ, thấy thái độ nàng thành kính, trẻ tuổi xinh đẹp, có thể mộc mạc, không chút phấn son, ngày ngày trời chưa sáng đã đứng dậy tảo khóa, thái độ đối với nàng hiền lành đi rất nhiều. Có điều vẫn không ai dám tiếp chuyện Dao Anh, chỗ nàng đi qua, tất cả các sư lập tức dời mắt, không dám nhìn nàng nhiều, có người nhắm mắt niệm kinh, có người thiền định, còn có người quay đầu né tránh.

Bát Nhã tức hổn hển: Rất hiển nhiên, mấy vị này định lực không đủ, vì sắc đẹp của Dao Anh tâm tình lay động, coi nàng là hồng thủy mãnh thú* mới tránh né!

*nước lũ và thú dữ: kiểu như tai họa lớn

Cậu vụng trộm phàn nàn với Duyên Giác: "Cứ mỗi lần Văn Chiêu công chúa đi ngang tiền điện, đám tiểu sa di kia rớt hết cả mắt! Cứ tiếp tục thế thì phải làm sao đây?"

Duyên Giác cười cười: "Công chúa chỉ đến điện tụng kinh lúc tảo khóa, còn lại đều không đi lại trong chùa, không cố ý dẫn dụ ai, không trang điểm múa máy khắp nơi. Các phụ nữ Vương công quý tộc trong thành cũng thường xuyên đến tiền điện nghe thiền sư giảng kinh, người nào cũng trang điểm kỹ càng, đầu đội trang sức, người đeo chuỗi chuỗi vàng ngọc, còn sợ bị so sánh ai cũng dẫn theo bốn năm thị nữ, nhiều nữ tử đến nghe giảng vậy, sao ngươi chỉ nhằm mỗi Văn Chiêu công chúa thế?"

Bát Nhã không cãi lại, im một lúc, tức giận giậm chân: "Văn Chiêu công chúa đẹp như thần nữ, đẹp hơn họ!"

Duyên Giác buồn cười chịu thua, "Sắc đẹp của công chúa trời ban, không phải tội nghiệt. Đây cũng là Phật khảo nghiệm đám tiểu sa di, nếu chúng thông qua khảo nghiệm, tức là vững tâm, còn nếu mỗi ngày mơ mơ mộng mộng, chứng tỏ tâm không vững, vừa vặn có thể ma luyện rồi."

Cậu dừng lại một lát, trịnh trọng nói, "Với Vương mà nói, cũng vậy thôi."

Bát Nhã nghĩ nghĩ, cũng có lý, đành thôi.

Dao Anh không biết Duyên Giác thật sự coi nàng là khảo nghiệm của Phật dành cho Đàm Ma La Già, ngày ngày tuân thủ đi tảo khóa.

Bình thường nàng tự đến tự đi, hôm đó, sau bài giảng kết thúc mấy vị sư ngăn nàng lại, mở miệng một tràng tiếng Phạn.

Nàng nghe không hiểu, mặt đờ ra.

Sau đó lại một tràng tiếng Hồ, một vị sư bên cạnh bất mãn, lôi kéo người kia tranh luận kịch liệt, hai người nhao nhao kích động, mấy sư khác bên cạnh tham dự vào, rất nhanh lôi cuốn sự chú ý của chủ chùa.

"Có việc gì?" Chủ chùa chạy tới hòa giải.

Tiếng cãi nhau cũng không hạ giọng mà ngược lại càng ồn ã cao giọng hơn, còn dùng tay lôi kéo đối phương, đánh bả vai đối phương, mặt đỏ tới mang tai.

Chủ chùa giận dữ, nhưng sau khi ông nghe rõ lý do, cũng không quát họ, chỉ nhíu mày nói: "Việc này ta không làm chủ được, phải do Sư tôn quyết định."

Dao Anh còn chưa nghe ra đám sư tranh luận chuyện gì, đã bị đưa cùng với cả đám đến thiền phòng của Đàm Ma La Già.

Cây táo trong vườn hoa trắng xóa đã rụng từ lâu, cánh hoa đầy đất.

Đàm Ma La Già đang xử lý công vụ, người mặc cà sa lộ vai, bả vai màu mật ong láng mịn.

Chủ chùa cung kính hành lễ rồi báo với cận vệ, đợi Duyên Giác ra hiệu đi vào, lập tức mang mấy vị sư vào thiền phòng báo lại mọi việc.

Đàm Ma La Già nghe ông nói xong, ngước mắt, nhìn về phía Dao Anh đứng trước cửa.

Dao Anh hiểu ý, đi vào.

Đàm Ma La Già bảo Duyên Giác: "Lấy giấy bút."

Duyên Giác chuyển đến một bàn trà nhỏ, mang giấy bút tới, đặt bên phải Đàm Ma La Già.

Đàm Ma La Già hỏi Dao Anh: "Công chúa có thể chép lại Tâm kinh đã từng tụng không?"

Chàng nhìn nàng, mắt như chứa một dòng nước xanh biếc, trong lạnh lại ôn hòa. Dù không cố tình có ý trấn an, vẫn khiến người bình tĩnh lập tức.

Dao Anh lấy lại tinh thần, nhẹ gật đầu, đi đến trước bàn nhỏ, ngồi xếp bằng, cầm bút bắt đầu chép lại.

Trong phòng yên tĩnh, chỉ có tiếng bút sột soạt lướt qua giấy. Sau chốc lát, Dao Anh chép xong, đưa cho Duyên Giác, Duyên Giác chuyển qua trước án của Đàm Ma La Già.

Đàm Ma La Già liếc qua thật nhanh, sau đó lại xem từ đầu, đọc rất cẩn thận.

Sau khi xem xong, chàng đặt tờ giấy xuống. "Công chúa có bản Tâm kinh bằng tiếng Phạn không?"

Dao Anh lắc đầu, phần lớn các bản Phật kinh điển tịch nguyên thủy là tiếng Phạn, sau có nhiều bản dịch khác nhau, trong đồ cưới nàng có nhiều quyển kinh Phật tiếng Phạn nhưng lại không có Tâm kinh.

Mấy vị sư nghe đến đó, xì xào bàn tán, một người trong đó vẻ mặt hơi kích động. Đàm Ma La Già hờ hững liếc y. Y vội đỏ bừng mặt, dừng tranh luận, cúi đầu.

Đàm Ma La Già bảo Duyên Giác đem giấy bút, cầm bút, đối chiếu bản tiếng Hán Dao Anh vừa mới chép ra, bắt đầu viết.

Dao Anh hơi hiếu kỳ, ánh mắt rơi xuống ngòi bút chàng, phát hiện chàng đang viết tiếng Phạn, nàng nhìn không hiểu.

Là ngài trực tiếp dịch từ nội dung nàng thuộc lòng ư?

Nàng nhìn một lúc, chưa kịp nhìn rõ, Đàm Ma La Già bỗng ngẩng đầu, ánh mắt bắt gặp nàng.

Dao Anh khẽ giật mình, nhìn chàng cười cười, mày hơi cong, hai con ngươi đen nhánh tỏa sáng. Như hoa đầu cành, nở rộ rực rỡ xinh đẹp, tràn đầy kiêu ngạo tự mãn của thanh xuân, ánh mắt tràn ngập tin cậy.

Giờ không so đo chuyện mình ăn thịt nữa nhỉ?

Đàm Ma La Già rũ mắt, chỉ vào một câu trên giấy, nhẹ giọng hỏi Dao Anh.

Dao Anh lấy lại tinh thần, thấp giọng trả lời.

Đàm Ma La Già ừm một tiếng, cầm bút sửa lại chữ ban nãy viết, lát sau lại hỏi, Dao Anh nghiêm túc đáp. Họ nói chuyện bằng tiếng Hán, cận vệ phòng thủ và các sư nghe không hiểu, không thể xen vào, chỉ đứng nín hơi yên lặng không nháy mắt chăm chú nhìn họ, quan sát thần sắc họ.

Dao Anh ngồi cạnh Đàm Ma La Già, chàng hỏi một câu, nàng đáp một câu.

Nàng nhìn qua vẻ mặt căng thẳng, trông đợi của mấy vị sư, đàng hoàng nói: "Pháp sư, ta cũng không hiểu rất rõ ý nghĩa trong kinh, Pháp sư có muốn tìm vài người hỏi không?"

Đàm Ma La Già cúi mày, nói: "Không việc gì, công chúa chỉ cần thuật lại nguyên văn là được."

Cũng không biết cuối cùng mất bao lâu, chàng đã dịch xong, cầm một trang sao lại, đưa cho Duyên Giác.

Duyên Giác giao cho mấy vị sư đang chờ đợi, họ tranh nhau chuyền tay xem, lại ào ào thảo luận, xong cúi người với Đàm Ma La Già vẻ như chờ chàng phân tích.

Đàm Ma La Già nói mấy câu.

Mấy vị sư sửng sốt mãi rồi lộ ra vẻ đăm chiêu, có người đã ngộ, người còn mờ mịt, sau một lúc lâu, cả đám chắp tay cúi chào Đàm Ma La Già lui ra ngoài.

Chỉ còn mỗi Dao Anh ngớ ra trước trường án: Chuyện gì thế nhỉ?

Nàng nhìn Đàm Ma La Già, nhỏ giọng hỏi bằng tiếng Hán: "Pháp sư, ta không gây thêm cho ngài phiền phức chứ? Sao họ lại cãi nhau vì Tâm kinh?"

Đàm Ma La Già khẽ lắc đầu, ra hiệu không có gì, nói: "Họ chưa từng được đọc bản tiếng Phạn của Tâm kinh, sách khắp nơi cũng không tìm được ghi chép, nghi ngờ đây là quyển kinh giả nên cãi nhau, không liên can đến công chúa."

Dao Anh đầy kinh ngạc, nghĩ nghĩ, quả quyết nói: "Vậy sau này ta không niệm nữa."

Tông phái Phật giáo như rừng, Phật pháp ở Tây Vực chịu ảnh hưởng Thiên Trúc càng sâu, lại dung hợp với phong tục truyền thống bản địa, xen lẫn rất nhiều thứ nàng không hiểu, nàng không muốn bởi vì mình vô tình mà xúc phạm người khác.

Đàm Ma La Già cúi nhìn Tâm kinh Dao Anh vừa mới chép lại, nói: "Công chúa không cần để ý, Tâm kinh thật hay là giả, không phải do họ thừa nhận, cũng không vì không có nguyên bản tiếng Phạn, kinh văn vẫn chứa Phật lý. Phật diệt độ đã hơn nghìn năm, các tông các phái giải thích nghĩa kinh khác nhau, Phật kinh điển tịch sáng tác phong phú, chả nhẽ thứ họ chưa từng xem qua đều là giả sao?"

Dao Anh bừng tỉnh hiểu ra, vừa rồi mấy vị sư vì Tâm kinh ai cũng cho mình là đúng, mới mời Đàm Ma La Già phân tích, đây cũng là đáp án ngài đưa ra.

Thảo nào các vị sư đều bị thuyết phục.

Việc các sư ở Phật Tự tranh luận Tâm kinh là thật hay giả không ảnh hưởng đến Dao Anh, có điều nàng cảm giác họ vẫn bí mật bàn tán mà không cãi nhau trước đám đông thôi. Bát Nhã Duyên Giác cũng bị kéo vào, Dao Anh nhiều lần bắt gặp cả hai tức giận, như vừa tranh chấp với mấy người khác.

Nàng là người ngoài, không tiện hỏi thăm việc chùa, liền về viện tử vùi đầu vào bận rộn riêng mình.

Lão Tề sau khi được nàng căn dặn đã nhận các cô gái người Hồ đến xin ở, đổi được một lượng trái cây, ngựa con chỗ Khang Đại, Khang Đại nói gã không có nho đen trân châu, vì nho này vị chua, hơi đắng, hạt tròn nhỏ, là chủng loại không được ưa chuộng, khó thấy ở Tây Vực.

Dao Anh sai Tạ Bằng truyền lời, bảo ông nghĩ cách dụ mấy nhà buôn người Hồ đi Cao Xương kiếm nho trân châu đen, loại này lúc chín đúng là không ngọt đậm như nho khác nhưng rất thích hợp dùng để cất rượu.

Thời tiết ngày càng nóng bức, trái cây bội thu, Dao Anh và thân binh ngày ngày được ăn nhiều trái cây mới mẻ, ở Trung Nguyên chỉ có ở cung yến Hoàng gia mới có thể thấy dưa Hồ, ở đây chỗ nào cũng có, cảm tạ trời cho bữa ăn, bụng lộn xộn mất mấy ngày.

Hôm nay, thân binh của A Sử Na Tất Sa cưỡi ngựa về báo tin, Tất Sa muốn hoãn mấy ngày mới về, Hải Đô A Lăng quá giảo hoạt, anh không tìm được cơ hội ra tay, không cam tâm trở về tay không.

Duyên Giác nói, trời quá nóng, giờ không phải là lúc thích hợp để đi đường, đợi Tất Sa về vừa vặn trời chuyển lạnh, khi đó đi sứ Cao Xương, đỡ chịu vất vả.

Dao Anh xem thời gian, thành thạo gói thêm mấy món áo quần da dày. Dù ban ngày trời rất nóng, nhưng không giống cái oi bức ẩm ướt ở Kinh Nam, chỉ cần trốn vào phòng hay dưới bóng cây đã rất mát mẻ, đêm lại rất lạnh, trời nóng bức đến tối khi chìm vào giấc ngủ cũng phải đắp chăn lông.

Hiện giờ cạnh nàng chỉ có thân binh, một đám đàn ông bỗ bã, Tạ Thanh cũng không phải thị nữ, nàng tự mình chăm sóc sinh hoạt thường ngày, chuẩn bị vật dụng tùy thân kỹ càng, khỏi có sự cố khi lên đường.

Liên tiếp bận rộn mấy ngày, Dao Anh nhớ đến một việc, hôm nay tảo khóa xong, thăm dò được Duyên Giác đang ở chủ điện, tới tìm cậu.

Cận vệ biết thân phận nàng, dẫn nàng vào trong, lúc này sau tường có tiếng la hét ầm ĩ.

Dao Anh đi đến thăm dò.

Bát Nhã đang đứng trong sân đình cãi nhau với mấy sư, nắng trên đỉnh đầu rất độc, muốn hoa cả mắt, cả đám đứng giữa nắng chang chang cãi nhau mặt đỏ đến mang tai, đầu đầy mồ hôi, nước miếng văng tung tóe, thỉnh thoảng lôi kéo xô đẩy đối phương.

Dao Anh tránh sang bên trong hành lang, thập thò nhìn.

Lần đầu thấy các sư cãi nhau nàng còn rất kinh ngạc, vì các sư Trung Nguyên thường sẽ không vì tranh luận mà kích động đến thô lỗ đến thế, Vương Đình không giống, khi bắt đầu cãi cọ họ vô cùng hăng máu, không chỉ dùng từ ngữ chế nhạo đối phương, còn lôi kéo cấu xé nữa.

Bát Nhã há miệng khổ sở đối phó bốn người, ầm ĩ một lát bị thua, nhưng cứng cổ không chịu cúi đầu, gấp gáp đỏ ngầu cả mắt.

Bên kia hành lang vang tiếng bước chân, Duyên Giác đi tới, nhìn thấy tình cảnh, nhẹ giọng quát lớn Bát Nhã bảo cậu nhận thua.

Bát Nhã buồn bực không nói.

Thấy giằng co căng thẳng, Dao Anh ho khan mấy tiếng, chậm rãi bước thong thả ra hành lang râm mát, mỉm cười nhìn cả đám: "Nắng nóng khó nhịn, mát mẻ khó được."

Hai chữ mát mẻ thâm ý sâu sắc, mấy vị sư giật mình, chắp tay chào nàng đi thẳng. Bát Nhã trừng mắt theo bóng lưng các sư, đầy tức giận.

Duyên Giác chắp tay cảm ơn Dao Anh, Dao Anh phất tay ra hiệu không có gì, quét mắt nhìn Bát Nhã một vòng: "Cậu biết cãi không lại sao không nhận thua?"

Bát Nhã hừ nhẹ, ưỡn ngực: "Bọn hắn bất kính với Vương, ta tuyệt đối không nhận thua!"

Duyên Giác thấp giọng mắng: "Ngươi cãi thua thì phải nhận thua! Thanh danh của Vương cũng không phải ngươi thắng một trận tranh biện mà được."

Bát Nhã không phản bác được, mặt vô cùng ấm ức.

Dao Anh nhẹ chau mày: "Vì chuyện gì mà họ bất kính với Vương thế?"

Không nói còn đỡ, vừa mới mở miệng, mắt Bát Nhã càng đỏ. "Là bọn hắn bất kính với Vương!" Cậu chỉ về hướng đám sư mới rời đi, từ từ kể ra.

Mấy hôm nay các sư trong chùa hay tập hợp thảo luận chuyện thật giả, nói đến bản dịch tiếng Phạn của Đàm Ma La Già.

Dao Anh hỏi: "Họ có chỗ nào không đồng tình với bản dịch của ngài ấy à?"

Bát Nhã trừng lớn mắt: "Vương tinh thông tiếng Phạn, không đồng ý sao được!"

Khóe miệng Dao Anh giật giật.

Bát Nhã trừng nàng mấy cái, nói tiếp: "Bọn hắn nói Vương thuộc lòng kinh văn, vốn có thể đạt thành tựu lớn hơn, sáng tác, hay dịch thuật, nhưng Vương không, ngài trễ nải tu hành."

Thì ra các sư trong chùa cho rằng Đàm Ma La Già thiên tư thông minh, nghe nhiều biết rộng, từng có cao tăng tiên đoán chàng sẽ trở thành vị Phật đức độ vĩ đại, nhưng ngài không thể toàn tâm toàn ý nghiên cứu kinh thư, không chỉ phân tâm quản lý chuyện thế tục Vương Đình, đôi khi còn phải dẫn binh chinh chiến, còn trọng dụng dung túng một Nhiếp Chính Vương tàn nhẫn ngoan độc, tăng thêm sát nghiệt, cố sức mà không có kết quả, không thể phát dương Phật pháp tích lũy công đức, dẫn đến phúc báo, lãng phí tuệ căn của chàng.

Dao Anh như có điều suy nghĩ.

Những điều các sư nói lại vừa vặn trùng hợp nghi vấn quanh quẩn trong lòng nàng.

Tông giáo Phật giáo mọc như nấm, mỗi người mỗi vùng đều có lý giải khác biệt về nghĩa kinh, thường truyền bá tư tưởng mục đích của mình, căn cứ vào giáo nghĩa của Phật chỉnh lý thành hệ thống luận chính mình, rồi sinh ra các nhánh khác cùng tông phái, tỉ như Trung Nguyên Thiền tông, Thiên Thai Tông, Tam Luận Tông, Pháp tướng tông vân vân.

Với một vị sư lấy phổ độ chúng sinh là tín ngưỡng mà nói, hẳn sẽ hy vọng đem sở ngộ cả đời của mình đạt được viết thành kinh văn luận nghị, khai tông lập phái, chỉ dẫn phương hướng cho người đời, giúp thêm nhiều người thoát ly biển khổ, trèo được tới bờ.

Đàm Ma La Già sớm nổi danh, lại là Vương tử quý tộc, địa vị thân phận như vậy, sao không có bản viết nào để lại cho đời?

Khi còn sống ngài nổi tiếng khắp Tây Vực, chết rồi, như một làn khói xanh như Phật trước kia, không một dấu vết.

Không để lại một chút gì.

Hôm đó Dao Anh ngồi cạnh ngài, nhìn ngài dịch kinh văn tiếng Hán tại chỗ, dựa vào phản ứng của các vị sư, ngài không chỉ dịch rất nhanh, còn rất thông suốt, đến mức họ tin đúng là có bản gốc bằng tiếng Phạn.

Nàng tin chỉ cần ngài muốn, ngài có thể bắt tay luận nghị của chính mình.

Sau tuổi mười ba ngài thoát khỏi khống chế của quý tộc nắm giữ thực quyền, không ai dám ngăn cản ngài tu hành.

Dao Anh suy tư thật lâu, nghĩ chỉ có một lời giải thích miễn cưỡng chấp nhận: trách nhiệm trên vai Đàm Ma La Già quá nặng, ngài lấy cứu vớt vạn dân làm nhiệm vụ của mình, tự nhiên không rảnh ngồi sáng tác kinh văn luận nghị.

Hiển nhiên các sư cũng nghĩ vậy nên mới bàn ầm, phàn nàn ngài không tạo lòng tin cho người đời, lãng phí tuệ căn.

Bát Nhã kể xong, khịt mũi: "Sao bọn hắn có thể chỉ trích Vương thế chứ?"

Duyên Giác thở dài, nói: "Thôi sau này ngươi đừng tìm họ phân trần nữa, Vương không để ý mấy việc này đâu."

Dao Anh lấy lại tinh thần, nhìn Bát Nhã, nói: "Ta nghe nói tên cậu là Pháp sư đặt hả?" Nàng đột nhiên đổi chủ đề, Duyên Giác Bát Nhã đều mờ mịt, Bát Nhã gật đầu.

Bát Nhã sửng sốt một lát, kịp phản ứng, đỏ bừng mặt.

Dao Anh cười nhạo: "Bát Nhã trong tiếng Phạn nghĩa là thông suốt trí tuệ, tên cậu đặt không đúng lắm."

Cậu chưa kịp mở miệng, Dao Anh mỉm cười nói: "Các vị sư nói Pháp sư như vậy vì họ phó thác kỳ vọng vào ngài, cậu là đệ tử tục gia, không nên tranh về Phật lý với họ, cãi sao lại. Họ không hiểu theo đuổi của Pháp sư, dĩ nhiên sẽ không hiểu lựa chọn của ngài, dù cậu múa lưỡi giỏi cỡ nào, họ cũng có lý do phản bác thôi."

Khóe mắt Bát Nhã móc nghiêng, nhìn Dao Anh đầy nghi ngờ: "Công chúa nói vậy... Chả nhẽ cô tán đồng Vương của bọn ta?"

Dao Anh thoải mái gật đầu, nói: "Lần sau cậu mà có tranh chấp với họ, đừng vin vào Phật lý, xuất thế hay nhập thế, là lựa chọn của người, cách biệt với đời, rời xa trần tục, dĩ nhiên có thể dốc lòng tu hành, nhưng nếu như người người đều chỉ tìm giải thoát của bản thân thì Vương Đình sẽ ra sao? Bá tánh sẽ ra sao? Pháp sư là cao tăng, cũng là Quân chủ một nước, lòng ngài chứa vạn dân, không so đo được mất, sở cầu là giải thoát chúng sinh chứ không phải danh vọng cá nhân ngài."

"Các nước chia loạn mấy mươi năm, dân chúng lang bạt khắp nơi, mạng như cỏ rác, Vương Đình có thể yên ổn thái bình, dân các tộc an cư lạc nghiệp, phố chợ náo nhiệt, dân buôn tụ về, hàng hóa các nước rực rỡ muôn sắc..."

Dao Anh đứng trước hành lang, đôi mắt sáng tươi đen nhánh, từng chữ nói: "Đó chính là giải thích của Pháp sư về Phật pháp, chính là thành tựu của Pháp sư!"

Trong thời loạn, Đàm Ma La Già phù hộ sinh linh một phương.

Dao Anh vĩnh viễn kính nể dạng người này, vì nàng biết rõ mùi vị giãy dụa cầu sống trong thời loạn là thế nào.

Duyên Giác Bát Nhã thầm chấn động, nhìn gương mặt xinh đẹp của Dao Anh, thật lâu không nói gì.

Sau một lúc, hai người nhìn nhau, thở dài: "Nhưng các sư trong chùa không cho là như vậy."

Dao Anh không khỏi cảm khái.

Người ôm củi vì mọi người, không thể bị chết cóng trong gió tuyết. Nhưng sự thật thì, anh hùng mà người đời khắc ghi, thường cô độc trống vắng.

Thật ra Duyên Giác Bát Nhã cũng có phần tán đồng quan điểm các sư nên khi tranh luận không đủ lực, dĩ nhiên không thể thắng phản biện. Họ là cận vệ trung thành nhất bên cạnh Đàm Ma La Già, cũng không có cách nào lý giải Đàm Ma La Già.

Tuy nói người lý trí sáng suốt như Đàm Ma La Già không cần người bình thường lý giải, Dao Anh vẫn tiếc nuối cho ngài.

Nàng nhìn Bát Nhã: "Cậu có thể từ góc độ khác mà phản bác, sau này mà họ có bàn tán về Pháp sư ấy, cậu hãy hỏi, mười năm trước, là ai dẫn Trung quân đánh bại Bắc Nhung? Là ai cứu dân Vương Đình? Phật Tự là ai phù hộ? Ăn ở của họ do ai cung phụng? Phật lấy lòng từ bi, Pháp sư có thể thấy chết mà không cứu à?"

Dao Anh hấp háy mắt. "Trung Nguyên bọn ta có câu, bưng bát lên ăn cơm, buông bát xuống mắng mẹ."

Cặp mắt Bát Nhã tỏa sáng.

Dao Anh nói tiếp: "Nếu họ nói mọi thứ đều là hư ảo, kinh nghĩa mới là cứu rỗi cuối cùng thì cậu bảo họ ngẫm lại chuyện Pháp sư Đề Bà Mông Đạt đi."

Phật giáo xuất phát từ Thiên Trúc, nhưng vì các nguyên nhân phức tạp, giáo lý thượng kỳ chưa thích ứng diễn biến thời sự, ngày càng xa rời nhu cầu của dân chúng, kết quả? Phật pháp Thiên Trúc dần dần suy sụp. Đề Bà Mông Đạt cảm ngộ được, mới trằn trọc ngàn dặm đi Trung Nguyên, Tây Vực, muốn tìm kiếm dòng chảy chân lý của Phật pháp.

Bát Nhã tán đồng gật đầu, chần chừ rồi nghiêng sang Duyên Giác nói vài câu bằng tiếng Phạn, vẻ mặt trịnh trọng, vừa nói vừa liếc liếc Dao Anh.

Dao Anh mỉm cười nói bằng tiếng Hồ: "Sao hả, tiểu sư phụ Bát Nhã đang nói xấu ta à?"

Bát Nhã đỏ bừng mặt, hứ một tiếng, uốn éo người chạy mất.

Duyên Giác chắp tay với Dao Anh: "Bát Nhã mới vừa nói, công chúa vào ở Phật Tự đến nay, rửa sạch phấn son, trung thực tu hành, chuyện gì cũng cân nhắc cho Vương, có thể thấy người đối với Vương là thật lòng, trước kia cậu ấy đã trách oan người."

Dao Anh ngây ra, lắc đầu bật cười, nói: "Đáng tiếc, mấy ngày qua ta khổ học tiếng Phạn, học được mấy câu mắng người, đang chuẩn bị cãi nhau với Bát Nhã bằng tiếng Phạn ấy."

Duyên Giác cười khẽ: "Công chúa cao quý như vậy, học mấy câu thô tục làm gì?"

Dao Anh lắc đầu, nghiêm túc nói: "Tiểu sư phụ Duyên Giác, ta với cận vệ học tiếng Phạn, để khi cậu ấy mắng ta ta hiểu được, còn có thể phản lại tại chỗ."

Duyên Giác cười ha ha.

Trước tường hoa xanh um tươi tốt, dây leo bò đầy, hai người đi dưới hành lang nói cười, bỗng ở chỗ hẻo lánh ánh lên sắc vàng.

Dưới gốc cây có tiếng ừng ực trầm thấp.

Duyên Giác lập tức dừng bước, giơ cánh tay che trước người Dao Anh.

Trong bóng tối ẩn hiện ánh vàng, một con báo đốm từ trên tường đất nhảy ra, dáng vẻ mạnh mẽ, màu lông bóng loáng, đôi mắt phản xạ ánh nắng sáng ngời.

Trên mặt Duyên Giác lướt qua một tia kinh ngạc, đảo cực nhanh một vòng, cười thấp giọng trấn an Dao Anh: "Công chúa không cần sợ hãi, A Ly sẽ không vô cớ đả thương người."

Dao Anh nói khẽ: "Không sao, con báo này đã từng cứu ta." Đêm đó Tô Đan Cổ và báo đốm đột nhiên xuất hiện, cứu nàng từ trong tay Hải Đô A Lăng, giờ gặp báo đốm, nàng không sợ hãi như trước nữa.

Báo đốm đứng thẳng người, lắc lắc đuôi, ung dung dạo vòng quanh hai người, dáng vẻ rất lười biếng như đang tuần tra trên lãnh địa của mình.

Dao Anh cụp mắt không nhìn nó. Báo đốm nhìn nàng, không biết có phải thấy nàng quen mắt, bỗng thò người ra móng vuốt chụp lấy mép váy nàng, cái đầu xù lông cọ cọ vào váy nàng.

Duyên Giác thở nhẹ, hai tay nắm lại, khẩn trương nhìn báo đốm, cạnh trán mấy giọt mồ hôi lăn xuống.

Dao Anh cứng đờ người, nín thở, không dám cử động.

Gió khô thổi qua, tóc mai rơi xuống một cọng phất qua phất lại trên mặt, có chút ngứa. Duyên Giác nhìn Dao Anh lắc đầu: Công chúa, đừng nhúc nhích.

Báo đốm đến càng gần, gần đến mức nghe được hơi thở của nó,

Dao Anh chợt rùng mình, răng cắn chặt, mặc cho báo đốm tiến đến trước chân. Ngay lúc nàng sắp không kiên trì nổi, đột nhiên toàn thân báo đốm run lên, quay đầu nhìn quanh, hít một hơi, nhẹ nhàng vọt lên tường đất

Dây leo lung lay vang động, bóng con báo lộng lẫy biến mất trong bóng râm.

Dao Anh đứng yên thêm một lúc, xác định báo đốm không quay lại, thở phào thật dài.

Duyên Giác nhận lỗi: "Không ngờ A Ly trốn ở đó, làm công chúa sợ hãi."

Dao Anh cười cười, ra hiệu không sao. Duyên Giác đưa nàng về, đưa mắt nhìn bóng lưng của nàng đi xa, lập tức quay người, bước nhanh qua hành lang.

Phía trước ánh vàng chớp động, báo đốm nện bước chân ưu nhã giữa vườn, nhẹ nhàng bò lên hành lang ngoắc đuôi đi tới một người, ngóc đầu cọ sát vào chân người.

Người ấy cúi đầu, một đôi mắt xanh biếc thăm thẳm. Báo đốm ngẩng đầu, mong đợi nhìn chàng chăm chú. Chàng cúi người, mở bàn tay, trên cổ tay quấn mấy vòng cầm châu.

Báo đốm cọ xát lòng bàn tay chàng, phát ra tiếng ư ử nũng nịu thỏa mãn nằm nghiêng dưới chân chàng, bắt đầu liếm láp móng vuốt.

Duyên Giác theo vào sân, quỳ một chân: "Vương, Văn Chiêu công chúa vừa đến."

Đàm Ma La Già ngước mắt ừ một tiếng, một thân áo tăng màu xám nhạt, nổi bật lên dáng người rất cao. "Sao A Ly ở đây?"

Duyên Giác nói: "Thuộc hạ không biết, chắc do người canh giữ lười biếng trong giây lát để nó lén chạy ra."

Đàm Ma La Già mặt bình tĩnh, nói: "Đưa nó về vườn thú, đừng để nó dọa người."

Duyên Giác biết vừa rồi Đàm Ma La Già đã thấy dáng vẻ báo đốm chọc Văn Chiêu công chúa, cung kính vâng dạ.

Đàm Ma La Già đưa tay, cầm châu khẽ động, ra hiệu. "A Ly, đi."

Báo đốm ngoan ngoãn đứng dậy, đi theo Duyên Giác xuống hành lang.

Duyên Giác dẫn báo đốm, nhẹ chân nhẹ tay ra khỏi sân, sau lưng đột nhiên nghe tiếng Đàm Ma La Già. "Văn Chiêu công chúa đến có việc gì?"

Duyên Giác khẽ giật mình, xoay người nói: "Văn Chiêu công chúa nói... Đêm đó lúc Nhiếp Chính Vương cứu nàng hình như bị thương, không biết đã lành thương chưa, nàng luôn ghi nhớ, nếu Vu y thấy thuốc nàng tặng hữu dụng nàng lại gửi thêm."

Đàm Ma La Già nhẹ cau mày: "Thuốc gì?"

Duyên Giác nhỏ giọng nói: "Công chúa lo lắng cho thương thế của Nhiếp Chính Vương mới nhờ Tướng quân A Sử Na đưa ít thuốc... chắc ngài ấy quên mất."

Đàm Ma La Già không lên tiếng, khuôn mặt trầm tĩnh lạnh nhạt.

Duyên Giác đợi một lúc không thấy Đàm Ma La Già dặn dò gì, đang chuẩn bị chào đi thì, Đàm Ma La Già gọi lại: "Nói với công chúa, không cần gửi thuốc nữa, đều đã nhờ ý tốt của nàng."

"Vâng ạ." Duyên Giác dẫn báo đốm rời khỏi đình viện.

Đi hết hành lang, đột nhiên cậu dừng trước bức tường hoa, quay lại nhìn bức tường dây leo bò rậm rịt, khẽ cau mày.

Lúc Văn Chiêu công chúa và Bát Nhã nói chuyện, có phải Vương vẫn đứng ở sau đấy không? Vương nghe được mấy lời vừa rồi của Văn Chiêu công chúa không nhỉ?

Văn Chiêu công chúa nói các vị sư trong chùa không hiểu Vương, ai hiểu Vương đây?

Duyên Giác ngây ngẩn một lát, báo đốm không kiên nhẫn chụp hờ cậu một trảo, cậu cười mắng: "Hôm nay ngươi lại hù công chúa rồi!"

Một người một báo theo con đường nhỏ ít ai lui tới ra khỏi Phật Tự, thẳng đến vườn thú.

...

Từ khi Dao Anh dạy Bát Nhã cách cãi lại mấy sư, cậu thay đổi thái độ trước đó đối với nàng, thỉnh thoảng tới xin góp ý.

Cậu rất hứng thú với tiếng Hán, nhất là khi từ chỗ Dao Anh cậu học mấy câu mắng chửi mà không thấy thô tục xong, càng muốn học như khát nước. Ban đầu Dao Anh còn kiên nhẫn dạy, sau thấy phiền quá, hễ Bát Nhã đến, nàng đuổi thân binh ra dạy cậu ta mắng chửi người thế nào.

Bát Nhã khó thở, ưỡn ngực nói: "Không phải công chúa định học tiếng Phạn à? Tôi dạy người tiếng Phạn! Công chúa dạy tôi cách mắng chửi Trung Nguyên, chúng ta giao dịch công bằng! Tôi chắc chắn sẽ chỉ bảo rất tốt."

Dao Anh suy tính mãi thấy cũng không tệ, đồng ý tiếp tục dạy Bát Nhã. Hai người là sư đồ qua lại, học được mấy ngày, Bát Nhã học xong vài câu tiếng Hán đơn giản, Dao Anh cũng học được vài câu mắng người tiếng Phạn.

Đến ngày dân Vương Đình hái xong nho chuẩn bị đem phơi nắng, vệ binh ở Sa Thành gửi về một tin: Tất Sa đi sứ Bắc Nhung đã về, là đi xe ngựa về.

Dao Anh lập tức kiểm tra hành lý, bổ sung ít vật dụng, chỉ chờ Tất Sa về liền xuất phát.

Hôm Tất Sa trở về, Duyên Giác ra ngoài thành đón, mãi đêm mới về Phật Tự. Cậu đem về một tin xấu: Tất Sa bị thương ở chân nên mới ngồi xe ngựa về nước.

Dao Anh nhíu mày: chuyến đi Cao Xương dời lại nữa à?

Nàng còn chưa kịp bàn với Tất Sa thì Duyên Giác đã đưa tới vài con ngựa tốt để nàng và thân binh chọn. "Công chúa, mấy hôm nay người hãy kiểm kê kỹ người ngựa, hành lý, ba ngày sau xuất phát."

Dao Anh kinh ngạc hỏi: "Tướng quân A Sử Na lành lại rồi à?"

Duyên Giác lắc đầu: "Tướng quân A Sử Na bị thương ở đùi, trong vòng một tháng không thể cưỡi ngựa... Vương nói việc này không nên chậm trễ, ngài phái Nhiếp Chính Vương đi cùng công chúa."

Tô Đan Cổ?

Dao Anh giật mình, gật gật đầu, Tô Đan Cổ từng đi Cao Xương, quen thuộc đường xá, có hắn cùng đi không còn gì bằng.

Dù Tô Đan Cổ hung thần ác sát, nhưng nàng không hề thấy sợ hắn.

Hắn không phải người độc ác.

Hôm sau, Tất Sa nghe nói ngày mốt Dao Anh sẽ cùng Tô Đan Cổ đi sứ Cao Xương, kiên quyết phản đối: "Ta không đồng ý!" Anh càng nghĩ càng thấy bất an, giãy dụa đứng xuống đất. "Ta muốn gặp Vương!"

Bọn thị nữ nhìn nhau, không dám ngăn cản.

Rèm cửa khua nhẹ, công chúa Xích Mã bưng một mâm trái cây tươi vào, thấy thế, tiện tay thả lên bàn bên cạnh, vọt tới trước giường đỡ Tất Sa, cả giận nói: "Ngươi điên rồi? Ngươi đang bị thương, đi gặp La Già thế nào?"

Tất Sa cắn răng nói: "Ta nhất định phải gặp Vương, giờ thời tiết nóng bức, không nên xuất hành, qua tháng sau vừa vặn mát mẻ, vết thương ta cũng tốt hơn, công chúa có thể chờ một tháng nữa!"

Công chúa Xích Mã đỡ anh ta về giường, cười lạnh: "Ngươi quan tâm ả công chúa Hán đó à?"

Tất Sa khẽ cau mày: "Xích Mã, đi sứ Cao Xương là chuyện lớn trong triều, người đừng nhạy cảm."

Công chúa Xích Mã nheo mắt, trong đôi mắt màu nâu nhạt lướt qua một tia khinh thường: "Chỉ bằng một cô gái Hán như ả, Cao Xương đồng ý kết minh à?"

Tất Sa liếc cô ta, cười khổ lắc đầu. Thật ra kết minh chỉ là phụ... Anh kéo công chúa Xích Mã ra, cất giọng gọi cận vệ bảo dìu mình lên xe ngựa đi Phật Tự. Công chúa Xích Mã cản không được, giận điên, đứng trước sân nhìn bóng anh tập tễnh leo lên xe ngựa, suýt nữa nghiến bể răng ngà.

Tất Sa đón xe đến Phật Tự, tùy tùng vào thông bẩm, chỉ chốc lát vòng trở lại. "Tướng quân, đêm qua Vương đã bế quan tu hành, chuyên tâm thiền định, không gặp bất kỳ ai. Chủ chùa nói, lần này Vương sẽ bế quan mấy tháng ạ."

Tất Sa nắm chặt hai tay, nhắm mắt. "Đi vườn thú."

Người hầu vâng lời, đánh xe ngựa ra Phật Tự, vòng qua tường biên phía Bắc đi vào một tòa viện lạc rất lớn, thấp thoáng tùng bách phía trước.

Trong viện phòng ốc lầu các xây cao thấp bám theo sườn núi, thưa thớt tinh tế, khắp nơi râm mát, một dòng nước chảy uốn lượn vòng quanh đình viện, cạnh bờ sông cây lớn rậm rạp tươi tốt.

Tùy tùng đỡ Tất Sa xuống xe ngựa. Tất Sa lòng nóng như lửa đốt, đẩy người hầu ra, không để ý mình bị thương, ba chân bốn cẳng vội vàng lết lên thềm đá.

Đột nhiên vang tiếng bước chân, cận vệ phòng thủ rút đao tiến lên đón.

Tất Sa lấy ra lệnh bài đồng mặt quỷ, nói: "Ta muốn gặp Nhiếp Chính Vương!"

Cận vệ nhìn thấy lệnh bài, cẩn thận phân biệt không sai, lập tức tra đao vào vỏ, nhường đường.

Trong hành lang mơ hồ có tiếng bước chân thả nhẹ hết sức, tất cả ám vệ im ắng lui về chỗ cũ.

Tất Sa cất kỹ lệnh bài, xuyên qua đường hẻm giữa hai hàng bạch dương, đình viện dây leo bò đầy, vòng qua cửa hiên âm u thật dài, đi vào trước một cánh cửa ẩn mình.

Anh ta đẩy cửa, sờ soạng đi xuống cầu thang chật chội, đi vào một địa lao kín không kẽ hở, thâm trầm âm u.

Lao thất yên tĩnh, không đốt đèn, tối đến mức không thấy được năm ngón tay, giống như một con thú lớn há mồm thật rộng, nằm chờ trong chỗ tối chờ nuốt trọng con mồi.

Tất Sa từ nhỏ đã sợ căn lao thất này, càng tiến vào càng sợ hãi, không khỏi rùng mình.

Trong góc hẻo lánh ánh lên một bóng sáng vàng, con báo đốm từ trong bóng tối phóng ra, đôi mắt lấp loé lân quang.

Tất Sa giật mình kêu một tiếng, lùi lại tránh, chợt khẽ động vết thương, đau đến trợn mắt. Báo đốm khinh miệt liếc anh quay người chạy đi.

Tất Sa không để ý tới cơn đau, đuổi theo báo đốm, xuyên qua con đường chật hẹp quanh co rất dài, lách qua một khe đá chật hẹp, phía trước mở ra một ánh sáng trong treo vẽ lên lờ mờ hình dáng một căn phòng kín, ánh nắng ẩn hiện, bệ đá bên cạnh lờ mờ, hơi sương mịt mờ.

Sương mù lượn lờ quanh quẩn, một bóng người cao lớn đưa lưng về phía Tất Sa đứng sừng sững ở đó, dưới bộ đồ đen là một vóc người cao lớn thon dài, cân xứng rắn chắc.

Tất Sa thở dài, quỳ một chân xuống đất. "Vương, ngài thật sự muốn đích thân hộ tống Văn Chiêu công chúa đi Cao Xương ạ?"

Người ấy quay đầu lại, trên mặt vết sẹo xấu xí bò đầy, đôi mắt xanh thẫm xuyên lớp sương mù nhìn tới, như ao nước tam sinh, cao cao trong lạnh.

"Ý ta đã quyết." Chàng khẽ nói.

Mỗi một chữ đều rất ôn hòa, lại như cả dãy núi đồ sộ đè xuống, mang theo khí thế sấm sét của vạn quân.

Mọi lời thuyết phục của Tất Sa đều kẹt lại trong cổ họng, lặng thinh hồi lâu, mới dập đầu nói: "Thần đã rõ."

...

Sắp tới đầu thu, ngày vẫn nóng bức, đêm chợt lạnh xuống đột ngột, một đêm gió lớn gào thét, lá mấy dây nho trong viện rụng phủ đầy bậc thềm.

Sáng hôm sau, Dao Anh phát hiện trên mặt đất kết một lớp sương lạnh mỏng manh.

Sáng sớm thân binh dậy luyện võ lớp sương vây quanh, ai cũng kinh ngạc không thôi.

Người hầu Vương Đình thấy thế, cười giải thích: "Đừng thấy ngày nóng kinh mà lầm, khi lạnh trong đêm cũng sẽ kết sương. Đến chừng có gió, không chừng phải mặc áo da đó! Hàng năm lá trên cây còn chưa rụng hết đã bắt đầu có tuyết rơi, ai cũng nói Vương Đình không có mùa thu, sau hè đã đến đông."

Nói xong, gã hưng phấn xoa xoa tay, "Nhiếp Chính Vương đã ban chính lệnh, mấy ngày nữa sẽ cử hành Lễ khất hàn, năm nay thắng trận, hẳn Lễ khất hàn sẽ càng long trọng náo nhiệt hơn năm ngoái!"

Dao Anh giật mình: "Lễ khất hàn sắp đến rồi à?"

Vương Đình là quốc gia nằm cạnh ốc đảo, mùa hè khô ráo ít mưa, ròng rã một tháng không mưa là chuyện thường, nguồn nước tưới tiêu đồng ruộng, tu bổ đất đai chủ yếu là từ con sông hình thành từ băng tuyết Thiên Sơn tan ra, nên trước khi vào đông họ sẽ có hoạt động ăn mừng lớn, cầu xin mùa đông càng rét lạnh, rơi càng nhiều tuyết, đảm bảo sang năm nguồn nước dồi dào.

Dao Anh có nghe Tất Sa nói, Lễ khất hàn là một trong những ngày lễ hoành tráng quan trọng nhất ở Vương Đình, Tô Đan Cổ cũng là người Vương Đình, sao không chờ xong lễ mới đi?

Người hầu đang hứng chí bừng bừng gật đầu: "Hè năm nay còn dài hơn mọi năm, ai cũng chờ rất lâu!"

Dao Anh cười khẽ.

Không trách gã kích động thế, Lễ khất hàn liên tiếp bảy ngày, không chỉ có biểu diễn vũ nhạc rất hoành tráng còn có nghi thức cầu phúc tránh tai ương, đến lúc đó dân chúng cả thành đều ra mặt, vừa múa vừa hát, hết sức náo nhiệt. Đến ngày cuối cùng, nam nữ già trẻ mặt đồ đẹp, đeo mặt nạ, hắt nước cầu phúc cho nhau, chơi vừa vui vừa có ý cầu mau mắn.

Nàng hỏi tùy tùng: "Năm ngoái Nhiếp Chính Vương có mặt Lễ khất hàn không?"

Người hầu nhớ lại, lắc đầu.

Dao Anh hỏi tiếp: "Còn Phật Tử?"

Gã cười: "Công chúa có chỗ không biết, Phật Tử là người xuất gia, người xuất gia xa rời vũ giới, không thể xem ca múa, Phật Tử chưa từng có mặt trong Lễ khất hàn."

Dao Anh ra vẻ suy nghĩ. Lễ hành tượng là ngày lễ Phật giáo, Đàm Ma La Già tổ chức Pháp hội, Lễ khất hàn là lễ của trần tục, ngài chưa từng có mặt... sao Tô Đan Cổ cũng không tham gia Lễ khất hàn?

Chả nhẽ hắn giống Duyên Giác, Bát Nhã, cũng là đệ tử tục gia?

Buổi chiều Tạ Bằng từ ngoại thành về, nói, trong thành đúng là đang chuẩn bị cho Lễ khất hàn, các nha thự lớn đang lau chùi, lắp đài cao biểu diễn vũ nhạc, vũ nữ ca kỹ nhạc kỹ Quy Tư mà nhóm dân buôn người Hồ thuê cũng đã đến, mấy nhà nghỉ gần ngoại thành đều đầy kín người đến tham gia Lễ khất hàn.

Dao Anh cất nghi hoặc vào lòng, trước khi đi một ngày đi thăm A Sử Na Tất Sa, thử thăm dò: "Ta nghe nói sắp đến Lễ khất hàn, Nhiếp Chính Vương là người Vương Đình, hẳn cũng vui vẻ đoàn tụ với người nhà hay bạn bè, hay chờ lại mấy hôm, chờ qua Lễ khất hàn mới đi."

Tất Sa sửng người, cười khổ lắc đầu: "Theo ý tôi... nên để tôi hầu công chúa đi Cao Xương, dời lại một tháng là tốt nhất."

Đáng tiếc Đàm Ma La Già không đồng ý.

Anh ta phiền muộn, ngẩn ra một lúc, đôi mắt lấp lánh màu xanh biếc dụ hoặc, mãi mới lấy lại tinh thần, cười cười, nói: "Nhiếp Chính Vương không có người thân, cũng không có bạn, xưa nay ngài ấy không tham gia Lễ khất hàn, thời gian lên đường đã định, công chúa không cần khó xử."

Dao Anh nhớ tới dáng vẻ run lẩy bẩy của người hầu khi nhắc đến Tô Đan Cổ. Với gã, hung thần ác sát Nhiếp Chính Vương không có mặt ở Lễ khất hàn, dân chúng trong thành mới thỏa thích mừng lễ.

Tô Đan Cổ không lộ diện ở lễ vui có lẽ vì không muốn dọa người chăng?

Dao Anh nghĩ một hồi, tạm thời bỏ qua, ánh mắt rơi xuống đùi Tất Sa, hỏi: "Là Hải Đô A Lăng ra tay à?"

Tất Sa bị thương quay về, trực tiếp được công chúa Xích Mã đưa vào phủ công chúa tự mình chăm sóc. Nàng biết công chúa Xích Mã không thích mình, trước đó luôn không tìm được cơ hội hỏi thăm Tất Sa, mãi đến hôm nay Tất Sa chuyển về phủ mình ở.

"Không phải y." Tất Sa mặt lạnh lẽo, "Là thân binh của y."

Anh dựa trên giường, chậm rãi nói: "Sau khi tôi đến Bắc Nhung, thấy Hải Đô A Lăng mỗi ngày nằm trong nha trướng vờ vịt, khuyến khích mấy Vương tử đi nghiệm thương, Tiểu Vương tử vừa thấy miệng vết thương của y, oẹ một tiếng nôn thốc, Nhị Vương tử cầm chủy thủ cạo xuống chỗ thối rữa của vết thương, từng đao từng đao đều thấy xương cốt, mí mắt y đều không nháy."

Dao Anh nhíu mày: "Chả nhẽ thương thế của y là thật sao?"

Tất Sa lắc đầu: "Không, chỉ là vết thương nhỏ."

Dao Anh hít vào một ngụm khí lạnh. Vết thương của Hải Đô A Lăng chỉ là vết thương nhỏ, y cố ý điều trị chậm trễ, bỏ mặc nhiễm trùng hôi thối sinh giòi, khiến người khác cho là cả chân đã hỏng, Nhị Vương tử cầm đao cạo cũng không chút phản ứng —— chỉ là thủ đoạn mê hoặc mấy vị Vương tử!

Người đàn ông này thật sự tâm cơ thâm trầm, có thể nhẫn tâm với chính mình như thế, thảo nào Ngõa Hãn Khả Hãn và mấy con trai đều bị y lừa.

Tất Sa cảm thán: "Hải Đô A Lăng không hổ là dũng sĩ đệ nhất Bắc Nhung, có thể chịu đựng thứ người thường không thể chịu, nếu không phải người đã nhắc nhở, tôi còn tin chân y hỏng thật! Tôi nhớ lời người căn dặn, theo dõi lều y ngày đêm, phát hiện được ít dấu vết, đang định làm theo lời người cho y 'từ giả hoá thật', không ngờ y có phòng bị từ trước, tôi tấn công không được, nóng lòng thoát thân, bị thân binh y chém một đao."

Nói đến đây, khóe miệng anh móc lên, giương mày nhìn Dao Anh "Có điều tôi cũng không để Hải Đô A Lăng đắc ý quá lâu, tôi và Nhị Vương tử nội ứng ngoại hợp, giương Đông kích Tây, cố ý công kích lều y, Nhị Vương tử xuống tay rất độc ác, muốn đẩy y vào chỗ chết, lúc đầu y không muốn bại lộ, sau thấy thích khách chiêu chiêu đều ra tay sát thủ, gấp gáp, sống chết trước mắt nhảy xuống, vừa vặn bị Nhị Vương tử nhìn thấy."

Dao Anh ngầm hiểu, cùng Tất Sa nhìn nhau cười. Nhị Vương tử đã có lòng nghi ngờ Hải Đô A Lăng, kế hoạch của y xem như thất bại.

Tất Sa vỗ vỗ chân mình, dương dương đắc ý nói: "Hải Đô A Lăng không thể không chịu một trận tội, một đao kia tôi không khổ sở uổng công!"

Dao Anh cong mày, chắp tay chào anh ta, cười nói: "Tướng quân lập công lớn, Dao Anh vô cùng khâm phục!"

Nàng chuẩn bị lên đường, thay trang phục đi đường nhẹ nhàng, áo cẩm bào cổ bẻ tay nhỏ hoa văn đoàn khoa liên châu hình hươu, áo choàng, thắt bím, thắt lưng gấm, dáng người linh lung, da thịt mềm mại trắng mịn, một đôi mắt mỉm cười nhìn anh ta, khóe mắt hơi vểnh, xinh đẹp chiếu thẳng vào người.

Tất Sa chợt cảm giác trên mặt khô nóng, dời mắt, nhìn qua quầng sáng rực rỡ chiếu vào bệ cửa sổ, nói: "Công chúa... Nhiếp Chính Vương tính tình cổ quái, không thích gần phụ nữ, lúc người đi cùng anh ta, thông cảm ngài ấy chút."

Dao Anh gật đầu: "Ta sẽ không quấy rầy Nhiếp Chính Vương."

Tất Sa ừ.

Ngày thứ ba, đội ngũ xuất phát.

Đêm hôm trước, Dao Anh do dự không biết có nên chào từ biệt Đàm Ma La Già hay không, các sư nói La Già bế quan, ai cũng không gặp, nàng đành thôi.

Chân trời mây ngũ sắc trôi lững lờ, ánh bình minh vừa hé rạng, Dao Anh, thân binh và Duyên Giác cùng rời Phật Tự, dọc theo con đường lần đầu vào thành mà rời thành.

Lập tức trước vách núi, tiếng người huyên náo truyền đến, sắp đến Lễ Khất hàn, trong phạm vi vài trăm dặm dân du mục đều chạy về hướng Thánh Thành, giữa phố chợ người người nhốn nháo.

Dao Anh hỏi Duyên Giác: "Không cần chờ Nhiếp Chính Vương sao?"

Duyên Giác nói: "Nhiếp Chính Vương không ở trong thành, chúng ta trực tiếp đi Sa Thành gặp ngài."

Thời tiết dần mát mẻ, ban ngày không nóng bức như giữa hè nữa, sáng sớm họ đi, lúc giữa trưa nóng nhất dừng lại hạ trại nghỉ ngơi, đến xế chiều tiếp tục hành trình, đi mấy ngày đường, cuối cùng đã đến Sa thành.

Đoàn người dừng lại trước dịch quán bổ sung nước uống, trên đỉnh đầu bỗng nhiên nghe thấy ưng kêu vài tiếng.

Dao Anh ngẩng đầu, mạng che mặt phất phơ theo gió. Một con ưng to từ đỉnh đầu họ lướt qua, giang rộng hai cánh, bay về phía cồn cát xa xa.

Duyên Giác nhìn quanh, thấp giọng nói: "Nhiếp Chính Vương tới."

Dao Anh nhìn theo ngón tay cậu chỉ, mặt trời chiều ngả về Tây, một người một ngựa đứng trên sườn núi, áo khoác ngắn tay mỏng, bóng người cao lớn, ngược sáng không nhìn rõ, nhưng cả người khí thế hùng hồn như tên đã lên cung, không còn nghi ngờ chắc chắn là Tô Đan Cổ.

Nàng vốn định lên đón, nhớ tới Tất Sa nhắc nhở, không làm gì.

Mấy người rót đầy túi nước, cưỡi ngựa về phía Tô Đan Cổ.

Đến gần, ánh mắt Dao Anh dừng trên mặt Tô Đan Cổ, phát hiện trên khuôn mặt dữ tợn kia có đeo chiếc mặt nạ quỷ.

Khi xuất hành, khuôn mặt kia cũng nên che đi để tránh quá làm người khác chú ý. Nhưng sao hắn lại chọn mặt nạ quỷ? So với mặt hắn, tấm mặt nạ này còn dọa người hơn...

Dao Anh hơi ngẩn người, lực tay thả lỏng, đột nhiên con ngựa tăng tốc lao vụt ra trước, tung đầy cát.

Đám người đi mấy ngày đường, sức cùng lực kiệt, còn chưa kịp phản ứng, Dao Anh đã như tên rời cung bay loạn.

Tiếng gió vù vù bên tai, sau lưng nghe tiếng gọi khẩn trương, Dao Anh rất gấp gáp, cố lấy tinh thần, đè người xuống ôm lấy lưng ngựa, cầm dây cương, đưa tay vỗ nhẹ cổ ngựa trấn an.

Con ngựa đen phun ra mấy tiếng phì phì, giảm tốc.

Dao Anh thở phào, chậm rãi ngồi dậy, nhẹ nhàng ghìm chặt dây cương.

Một ánh mắt lạnh trong suốt rơi xuống người nàng.

Dao Anh ngẩng lên, chột dạ liếc Tô Đan Cổ, trên áo bào đen của hắn vấy đầy cát, là tọa kỵ của mình lúc chấn kinh xông lên vẩy lên người hắn.

Ban ngày nóng thế này, ai cũng thay bào trắng, mà hắn luôn mặc một cây áo đen, không sợ nóng à?

Dao Anh không khỏi mỉm cười, cười nói: "Nhiếp Chính Vương lâu rồi không gặp, ngài vẫn khoẻ chứ?"

Tô Đan Cổ không lên tiếng.

Dao Anh nhìn cặp mắt xanh biếc mặt nạ không che kín, nói: "Lần trước được Nhiếp Chính Vương cứu, còn chưa gặp mặt cảm tạ, vết thương ngài đã lành chưa?"

Thiếu nữ ngữ khí chân thành, mềm mại, không một tia sợ hãi.

Tô Đan Cổ không nói gì, ruổi ngựa tiến lên nửa thân ngựa, vươn tay qua Dao Anh.

Dao Anh ngẩn người.

Tô Đan Cổ xoay cúi người, ngón tay thon dài móc sợi thừng quàng lên ngựa của nàng, tháo một chuỗi lá vàng quấn lại một chỗ. Dưới ánh mặt trời, trên lưng ngựa có một vết trầy nhẹ.

Dao Anh kịp phản ứng: Thì ra vừa rồi tọa kỵ bị lá vàng đâm nhói đau mới bị hoảng sợ.

Nàng nhìn mặt bên Tô Đan Cổ, thấy mặt nạ quỷ trên mặt hắn không tới mức khó coi, nói khẽ: "Đa tạ Nhiếp Chính Vương."

Tô Đan Cổ cụp mắt, thả sợi tơ quấn trang trí xuống.

Vó ngựa lộc cộc, đám Duyên Giác đuổi theo.

Tô Đan Cổ thúc ngựa quay người, phóng lên sườn núi, bóng lưng như ngưng tụ ánh sáng đầy trời.

Một đoàn người yên lặng đi theo.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#truyện