Chương 61 - 70

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Cao Xương ở khoảng giữa của con đường tơ lụa, thông suốt các hướng, liên thông bốn phía, phía Tây đến Yên Kỳ, Quy Tư, Sơ Siết, phía Đông đến Y Châu, xuyên qua sa mạc Mạc Hạ duyên thích tám trăm dặm hoang vu, là đến Ngọc Môn quan, đi tiếp về Đông, là Qua Châu, Sa Châu.

Trước mắt, Hà Tây nằm dưới khống chế của Bắc Nhung, đường đi cách trở trùng điệp, mua bán ở Cao Xương cũng suy yếu theo. Lúc trước, nơi đây có khách điếm, dịch quán xây san sát nhau dọc theo ốc đảo, người đông chen chúc, có dân buôn các nước, nhạc kỹ nữ kỹ người Hồ giỏi múa hát. Bây giờ, trên con đường giao thương rất hiếm thấy các đội lạc đà đến từ Trung Nguyên đi Tây Vực, đại đa số đội buôn đều xuất phát từ các vùng Cao Xương, Y Châu, trực tiếp đi về phía Tây.

Thời tiết dần lạnh, là lúc các thương đội bắt đầu xuất phát.

Để tránh tai mắt người Bắc Nhung, đoàn của Dao Anh ngụy trang thành đội buôn bán tơ lụa, mấy xe ngựa chứa đầy hàng hóa. Mớ hàng hóa này không chỉ dùng để che giấu thân phận mà sau khi đến Cao Xương sẽ trực tiếp bán ở đó, đổi lấy vàng bạc vừa vặn đút lót cho Vương công quý tộc Cao Xương.

Lão Tề đi theo Dao Anh, ông lưu lạc ngoại vực nhiều năm, biết nói tiếng Hồ mấy vùng, tin tức nhạy bén. Trên đường Dao Anh hỏi ông về giá cả hàng tơ lụa, châu báu ngọc thạch Cao Xương, ông từng làm quản sự, gì cũng biết một ít, trả lời rõ ràng.

Tô Đan Cổ đi cùng im lặng ít nói, hành tung quỷ bí, gần như chỉ chịu trách nhiệm để ý canh gác, còn lại đều do Duyên Giác trông nom.

Dao Anh thấy Tất Sa nói không sai, tính tình Tô Đan Cổ đúng là kỳ lạ, gần như không trò chuyện với ai, cũng chưa từng gỡ tấm mặt nạ. Cận vệ không dám quấy rầy hắn, có chuyện cần bẩm báo đều trực tiếp nói với Duyên Giác để Duyên Giác chuyển lời.

Con ưng mạnh mẽ luôn theo đoàn, đôi cánh to lớn thỉnh thoảng lướt qua đỉnh đầu họ, phủ lên bóng đen.

Từ Vương Đình đến Cao Xương, Tây Bắc cao, Đông Nam thấp, đoạn đầu họ qua một gò núi cao thấp chập trùng, đường gập ghềnh khó đi, dần dà địa thế bằng phẳng hơn, dọc theo chân núi đi mấy ngày, phía trước xuất hiện một mảnh đất bằng phẳng mênh mông vô bờ, ốc đảo to to nhỏ nhỏ rải rác như chấm nhỏ giữa sa mạc tung hoành.

Đúng như người hầu ở Vương Đình nói, trời mới vừa chuyển lạnh chưa đến mấy ngày, đã sớm có dấu hiệu tuyết rơi, gió mạnh thổi ngược, trời âm u, mây đen bao phủ, đi giữa đồng hoang mênh mông, bên tai chỉ có tiếng quỷ khóc sói gào thê lương, một mảnh hoang vu đìu hiu giữa trời đất, chỉ đến lúc đến ốc đảo mới thấy bóng dáng của đội lạc đà khác.

Dao Anh mừng vì trước khi lên đường đã chuẩn bị đủ áo da, thân binh cũng nghe lời nàng mang theo đủ quần áo mùa đông. Họ đến từ Trung Nguyên chịu không nổi giá lạnh, mỗi ngày quấn quần áo từng tầng từng lớp như cái bánh chưng.

Chưa đến mấy ngày, nhiệt độ chợt hạ, hạt tuyết lẫn trong gió lốc đập vào mặt, tất cả mang mặt nạ thông khí chống tuyết, gian nan tiến lên trong gió tuyết.

Lúc thấy một khách xá chuyên để dân buôn dừng chân cơm nước xuất hiện giữa sa mạc mênh mông, đoàn người nhịn không được reo hò thành tiếng, thúc ngựa đi nhanh.

Dao Anh quay đầu nhìn lướt qua, Tô Đan Cổ đi ở đội sau cùng, một người một ngựa, bóng người cô tuyệt. Dọc đường hắn hoặc đi trước dò đường, hoặc im lặng rớt xuống sau cùng, cùng đi hơn mười ngày, Dao Anh không hề nói chuyện với hắn.

Trong gió rít lên vài tiếng trong trẻo, một con ưng đáp xuống, quanh quẩn Tô Đan Cổ. Hắn nâng cánh tay, lập tức nó đậu xuống cánh tay trái hắn.

Dao Anh nhíu mày, mấy hôm nay nhiều lần nàng thấy ưng đáp lên tay Tô Đan Cổ.

Khách xá xây trong Sa Châu, vô cùng đơn sơ, chỉ có phòng đất thô để ở, cũng may quét dọn rất sạch sẽ. Chủ khách xá là một người Hồ tóc nâu mắt nâu, nghe một tràng vó ngựa đã ân cần ra đón trước, thấy đoàn Dao Anh đều cưỡi ngựa tốt, càng thêm nhiệt tình, tự dọn lên canh nóng nước nóng.

Gian chính đốt lò lửa, lòng lò đỏ rừng rực, đám người đuổi chủ quán ra ngoài, gỡ mặt nạ, ngồi vây quanh lò lửa sưởi ấm, hai cận vệ đứng canh ngay cửa.

Dao Anh uống bát canh nóng, tay chân ấm áp chút, nhìn quanh một vòng.

Không biết Tô Đan Cổ đi đâu. Trừ Duyên Giác, những người khác rất sợ hắn, chỉ cần hắn ở đây, Tạ Xung hoạt bát hiếu động nhất cũng không dám lớn tiếng nói chuyện. Chắc biết cả đám sợ mình nên hắn luôn ở một mình.

Dao Anh hỏi Duyên Giác: "Mấy hôm nay ta thấy một con ưng, là ưng của Phật Tử phải không nhỉ? Sao nó lại đi theo chúng ta?"

Duyên Giác khẽ giật mình, cười đáp: "Vương đang bế quan, ưng đi theo chúng ta nếu Nhiếp Chính Vương có chuyện quan trọng cần báo về thì nó có thể truyền tin. Chỉ cần huấn luyện thật tốt, ưng cũng có thể làm trinh sát."

Dao Anh gật gật đầu, hỏi tiếp: "Ưng là Phật Tử nuôi luyện à?"

A Bố được Hải Đô A Lăng lúc nhỏ tự mình bắt giữ nuôi lớn, ở Bắc Nhung, thiếu niên mười mấy tuổi có thể thuần dưỡng một con ưng là chuyện rất đáng gờm, y rất tự phụ, luôn nói A Bố ngàn dặm có một, là Thần Ưng.

Duyên Giác nói: "Lúc nhỏ Vương một mình ở trong Phật Tự, con ưng này bị thương rơi xuống cạnh sườn núi, vừa lúc được Vương cứu, Vương sai người đưa nó về tổ ưng... Mấy người đó không những không đưa, còn suýt nữa bóp chết con ưng, Vương mới giữ nó lại bên cạnh chăm sóc, nhịn bớt thức ăn nuôi nó, sau này nó trở thành ưng của Vương."

Dao Anh nghe được thổn thức không thôi.

Ngày ấy Đàm Ma La Già ra đời Thánh Thành xuất hiện hiện tượng lạ, mây ngũ sắc đầy trời. Chàng là con trai còn trong bụng mẹ của Quân chủ đời trước của Vương Đình, vừa ra đời đã trở thành Quân chủ mới, mỗi một thời đại Quân chủ Vương Đình ra đời đều có truyền thuyết gắn liền, lúc ấy vừa vặn có người dâng hiến hoa Ưu Đàm Bà La trong truyền thuyết đến Vương Đình ngụ ý Phật xuất thế, cộng thêm lời tiên đoán của Pháp sư, thuyết pháp cho rằng chàng là A Nan chuyển thế gây xôn xao.

Lúc ấy vương công quý tộc nắm giữ triều chính, không muốn Đàm Ma La Già nhận được lòng kính yêu của dân chúng mới đưa chàng vừa ra đời đến giam cầm trong Phật Tự. Thân bị giam cầm còn khó đảm bảo, vậy mà còn nhịn ăn nuôi một con ưng, quả là lòng từ bi.

Duyên Giác kể lại, có chút cảm khái, chỉ mấy cận vệ bên cạnh, cười nói: "Tôi, Bàn Nhược với mấy người đó, lúc đầu đều là cô nhi không nơi nương tựa, bị bán cho quý nhân làm nô lệ, lúc hầu hạ quý nhân không cẩn thận phạm sai lầm, quý nhân nổi khùng kéo bọn tôi ra quảng trường quất trước chúng, xém bị đánh chết, là Vương đã cứu bọn tôi, cho chúng tôi thân phận bình thường, tên bọn tôi đều do Vương đặt! Cận vệ Trung quân phần lớn xuất thân con cháu quý tộc giống Tướng quân A Sử Na, chỉ có bọn tôi đến từ dân gian." Vẻ mặt cậu tươi cười, giọng không giấu vẻ kiêu ngạo và sùng bái.

Mấy cận vệ gần đó cũng nhếch miệng cười cười, ngươi một câu ta một câu, mặt mày hớn hở, lao nhao kể chuyện Đàm Ma La Già cứu giúp dân chúng. Đám Tạ Xung, Tạ Bằng nghe hiểu chút ít tiếng Hồ, nghe say sưa, không ngừng hỏi tới.

Cả đoàn cùng đi hơn mười ngày, dần dần quen thuộc, nói đến Đàm Ma La Già, bầu không khí càng thêm hòa hợp, cười cười nói nói, vô cùng náo nhiệt.

Dao Anh bỗng nhẹ giật mình.

Mâu thuẫn lớn nhất giữa Đàm Ma La Già và đám đại thần ở ngay trong lòng ngài, không phân biệt giàu nghèo, xem mỗi người dân là con dân của mình. Thế nhưng Vương Đình không giống Trung Nguyên, không có nho gia giáo hóa, không có quan niệm quân thần trung thành thâm căn cố đế, quý tộc có thể mua bán nô lệ, mỗi đại quý tộc có đất riêng và có tất cả miệng ăn trên miếng đất, ngang với lãnh chúa, trong mắt quý tộc, người dân là nô lệ của họ.

Cho nên khi Bắc Nhung khí thế xâm lược, nỗi lo lắng nhất của vương công quý tộc không phải sống chết của dân, mà là có giữ được của cải gia tài của gia tộc không. cũng tương tự như Trung Nguyên khi phân loạn, vài thế gia vì lợi ích gia tộc mà không tiếc kích động chiến tranh, cấu kết kẻ địch bên ngoài. Mười năm trước, đại quân Bắc Nhung vào biên giới, vương công quý tộc quả quyết bỏ thành chạy, nếu không có Đàm Ma La Già trấn giữ, bốn đại quân tuyệt đối sẽ không quay lại bảo vệ Thánh Thành.

Hẳn đâu đó cũng là nguyên nhân Đàm Ma La Già triền miên trên giường bệnh, ngài không chỉ phải trấn áp kẻ thù rất mạnh, còn phải phòng bị kẻ tặc trong triều.

Đến cuối cùng, tâm huyết sấy khô, nến cháy thành tro.

Dao Anh ngẩn một lúc, mang mạng che mặt, múc một chén nước canh, cầm vài miếng bánh mì đã nướng thơm mềm ra khỏi phòng, ánh mắt quét một vòng, đúng là kịp thấy bóng người mạnh mẽ rắn rỏi ngồi ở hành lang trên lầu.

Dọc đường, mỗi lần họ dừng lại nghỉ ngơi, Tô Đan Cổ đều dừng ở chỗ có tầm nhìn quan sát rộng để canh chừng.

Hắn giết người như ngóe, lệ khí khắp người, toát ra vẻ hung hãn không ai dám tới gần, thế nhưng Dao Anh lại có cảm giác đi cùng hắn rất an tâm..

Nàng bưng chén canh lên lầu hai. Qua chỗ ngoặt, đột nhiên một tiếng rít nhọn, con ưng từ cao bổ xuống, đánh tới nàng. Đôi cánh khổng lồ cuốn lấy gió tanh, thẳng quét về phía khuôn mặt nàng.

Dao Anh vội vàng che chở chén canh lùi lại, mất đà lảo đảo, ngã ra phía sau.

Một bóng đen xuất hiện duỗi tay chụp lấy bờ vai nàng, giúp nàng lấy thăng bằng, cách lớp áo da thật dày, cánh tay dính sát rất kiên cố có lực, cái ôm lạnh như băng không chút hơi ấm.

Dao Anh một tay bưng chén canh, cả người thuận thế đổ ra sau lọt vào lòng Tô Đan Cổ, quay lại nhìn cầu thang dưới chân, lòng còn sợ hãi, nhẹ nhàng thở hắt.

Nếu bị té từ lầu hai xuống, gãy tay gãy chân, làm sao đi Cao Xương nữa?

Cho là đã nàng đứng vững, Tô Đan Cổ nhanh chóng buông tay.

Dao Anh nhìn cầu thang dưới chân, chưa kịp lấy lại tinh thần, bỗng mất thăng bằng, cơ thể quớ quàng theo quán tính, không khỏi nhẹ hô lên.

Tô Đan Cổ dừng lại, lại giang cánh tay.

Dao Anh sợ rớt chén canh, đổ về trong ngực hắn, cảm thấy người hắn căng cứng, hơi xấu hổ, xoay lại đối mặt với hắn nhanh chóng đứng vững, lần này đứng vững vững vàng vàng, trong tay còn bưng chén canh.

Nàng bưng chén, ngẩng đầu, hấp háy mắt, lấp lánh dưới đôi mi dài rậm: "Tô tướng quân, ăn một chút gì nhé?"

Tô Đan Cổ thu cánh tay về, cặp mắt xanh sâu thẳm dưới mặt nạ quét qua chén canh trong tay nàng.

Dao Anh vẫn luôn dùng tay áo che chén canh, canh vẫn còn nóng hổi, hơi nóng lượn lờ quanh quẩn, nước canh trắng tuyết, bánh mì xé nhỏ bỏ vào canh dê, trắng noãn óng ánh.

Tô Đan Cổ không lên tiếng, cũng không có ý định nhận chén canh.

Hai tay Dao Anh đưa ra trước: "Canh này ấm bụng trừ hàn, tướng quân dùng chút đi, đoạn đường sắp tới không biết lúc nào mới gặp khách xá."

Ánh mắt Tô Đan Cổ rơi xuống ngón tay nàng, nàng sợ canh dê nguội lạnh, nhân lúc còn nóng bưng tới, ngón tay mềm mại và lòng bàn tay bị nóng đến đỏ bừng.

Hắn yên lặng nhận cái chén.

Dao Anh đưa mấy miếng bánh mì tròn cho hắn, đống bánh mì này nàng bảo Tạ Thanh bọc theo, hơ lửa nướng lại sẽ xốp giòn, bên trong tươi non, vừa rồi mấy người Duyên Giác đều khen ngon.

Tô Đan Cổ nhận chén canh và bánh mì, quay người đi thẳng.

Dao Anh không khỏi bật cười, nhìn về phía đài cao, con ưng đang cụp cánh đứng đầu gió, con mắt sắc bén lạnh lùng nhìn nàng chằm chằm.

Vừa rồi còn dọa nàng thét lớn!

Nàng nhẹ giọng hỏi Tô Đan Cổ: "Tô Tướng quân, ta có thể cho nó ăn chút thịt khô không?"

Nàng từng thấy Duyên Giác, Tô Đan Cổ và thân binh khác cho ưng ăn, con ưng dù cao ngạo nhưng không tùy tiện cào bị thương người.

Tô Đan Cổ quay sang liếc nhìn nàng, không biết dưới lớp mặt nạ có cảm xúc gì.

Dao Anh móc một khối thịt khô nhỏ từ tay áo, đứng trước mặt con ưng, vẻ kích động, đôi mắt đen nhánh tỏa sáng. Thật giống như mới hù nàng không phải con ưng này.

Tô Đan Cổ nói: "Nó suýt khiến công chúa té đó."

Dao Anh cười cười: "Nó đang canh gác cho Tướng quân, ta không mời mà tới, nó chỉ muốn cảnh cáo nên mới hù ta."

Tô Đan Cổ nhìn nàng mãi lâu, nhẹ gật đầu.

Dao Anh tươi cười rạng rỡ, đi tới trước mấy bước, mở bàn tay chìa về con ưng, nhẹ giọng hỏi: "Ngươi thích ăn món này nhỉ?"

Con ưng ngạo nghễ nhìn nàng vẻ rất khinh thường.

Dao Anh kiên nhẫn mềm giọng dỗ nó: "Ta còn chưa kịp cám ơn ngươi đấy, so với A Bố của Hải Đô A Lăng ngươi còn mạnh mẽ oai hơn nhiều."

Con ưng có vẻ hiểu nàng nói, ngạo mạn vỗ cánh, mỏ nhọn nhẹ mổ tay nàng mấy lần, hơi nhói nhói. Dao Anh không né, bàn tay vẫn chìa ra. Ưng quặp đi miếng thịt khô trong lòng bàn tay nàng.

Dao Anh nhìn con ưng thầm nghĩ: Bắc Nhung và Vương Đình đều thuần dưỡng ưng đưa thư, ở đây, ưng là bá chủ bầu trời, bồ câu đưa tin gặp ưng đưa thư, hẳn sẽ bị săn giết, nếu nàng cũng có một con ưng đưa thư thì tốt biết mấy.

Không biết dân buôn người Hồ thần thông quảng đại có thể giúp nàng mua mấy con ưng đưa thư không.

Nàng dựa vào trước đài, vừa suy nghĩ trong lòng, vừa chơi với con ưng. Con ưng rất cao ngạo không thèm để ý nàng, đến khi ăn xong thịt khô mới không kiên nhẫn khoèo khoèo tay áo nàng, giục nàng lấy thêm.

Dao Anh không dám cho nó ăn nhiều, thả tay ra hiệu hết rồi. Con ưng thả móng vuốt rời đi. Dao Anh bật cười, quay đầu nhìn Tô Đan Cổ.

Hắn đưa lưng về phía nàng ăn canh, không một tiếng động, thân binh cận vệ đều khen món canh, hắn lại uống thật lạnh nhạt như đang uống nước.

Dao Anh nhìn bóng lưng hắn mãi lâu, từ xa chợt nghe tiếng gì như mưa rơi.

Giống như tiếng vó ngựa.

Nàng nhìn ra chỗ phát ra tiếng động, ở phía Đông bụi đất tung bay, tiếng chân lộc cộc, mười mấy con khoái mã đang chạy nhanh đến khách xá, người cưỡi đều mặc áo da rất dày, trên mặt che kín, nhìn không ra là ai.

Tô Đan Cổ vô cùng cảnh giác, lập tức buông bát, đứng trước đài nhìn ra xa. "Là người Bắc Nhung."

Mí mắt Dao Anh bỗng nhảy: "Sao Tướng quân biết chúng là người Bắc Nhung?"

Tô Đan Cổ khàn khàn hạ giọng: "Ngựa chúng cưỡi là ngựa chinh chiến phương Bắc."

Dao Anh chùng xuống.

Bắc Nhung chiếm cứ một mảng thảo nguyên cây cỏ phong phú, có mấy vùng vốn là chuồng ngựa lớn nhất Bắc Mạc, thuần dưỡng ngựa to khỏe, cung cấp chiến mã cho kỵ binh Bắc Nhung. Tô Đan Cổ đã khẳng định, hẳn không nhận lầm.

Tô Đan Cổ ra hiệu với cận vệ phòng thủ bên dưới lầu, cận vệ hiểu ý, nhanh chóng chạy vào phòng nhắc cả đoàn bịt khăn che mặt, chuẩn bị lên đường.

Mọi người đã ăn uống no đủ, lưu loát đứng dậy dọn hành lý rời khách xá.

Người Bắc Nhung chạy rất nhanh, trong nháy mắt đã đến trước khách xá.

Người cầm đầu tháo khăn che mặt, phun phì phì nhổ mấy ngụm cát trong miệng. Thân thể gã tráng kiện, khỏe mạnh như trâu, tóc quăn áo choàng, đôi mắt màu nâu nhạt, người mặc áo lông, chân đi ủng da, vừa tung người xuống ngựa, vừa mắng chửi luôn miệng phàn nàn về thời tiết.

Dịch trạm không có cửa sau, Dao Anh và mấy người Tô Đan Cổ cúi đầu chỉnh lại hành trang riêng của mình, người Bắc Nhung cho bọn họ là dân buôn bán bình thường, hơi dò xét mấy lần rồi lướt qua bên cạnh, một người không kiên nhẫn thúc giục chủ quán: "Có món gì ăn không? Chỉ cần nóng hổi, tranh thủ dọn ra đi!"

Chủ quán đáp lời một tràng.

Dao Anh đạp lên yên ngựa, ánh mắt kịp lia qua gã đàn ông khoẻ mạnh kia, biến sắc, lập tức thu tầm mắt.

Nàng không lộ vẻ gì, ruổi ngựa đi đến cạnh Tô Đan Cổ, nhỏ giọng nói: "Tô Tướng quân, đó là Tiểu Vương tử Bắc Nhung."

Tô Đan Cổ liếc nhìn nàng.

Dao Anh hạ giọng: "Cậu ta là con út được Ngoả Hãn Khả Hãn cưng nhất, luôn để lại nha đình, có lẽ Tướng quân chưa gặp qua, ta có thể chắc chắn không nhận lầm người."

Tô Đan Cổ ừ đáp.

Đoàn người yên lặng rời khách xá, bóng dáng tan vào trong gió tuyết mênh mông. Trong lòng Dao Anh thấy nặng nề. Sao Tiểu Vương tử lại xuất hiện ở đây? Mọi việc có liên quan gì Hải Đô A Lăng không nhỉ?

...

Lúc Dao Anh và Tô Đan Cổ từ Sa Thành xuất phát đi Cao Xương, ở ngoài ngàn dặm, sa mạc mênh mông vô ngần, một đội khác xuất phát đi Y Châu.

Xe ngựa đi trong đường núi gập ghềnh, cô gái trong xe không chịu nổi dằn xóc, vén rèm xe, nói với hộ vệ đi cùng: "Mấy ngày nữa mới đến Y Châu?"

Hộ vệ ôm quyền nói: "Công chúa, ngài chịu khó mấy hôm, cũng nhanh đến Y Châu, ngài lập tức gặp được Trưởng công chúa Nghĩa Khánh."

Trên mặt cô gái lộ mấy phần mong chờ, hạ rèm xe, lùi về trong toa. Cô sắp gặp được cô mình.

Hộ vệ đi chậm lại, cố ý lùi về sau vài bước.

Sau lưng một gã hộ vệ ruổi ngựa tới, song song với gã.

Hộ vệ dùng tiếng địa phương nhỏ giọng nói: "Ngươi tìm cơ hội truyền tin về, Phúc Khang công chúa sắp đến Y Châu, bọn ta đã lấy được tín nhiệm của Phúc Khang công chúa, đợi đến Y Châu, sẽ nghĩ cách thám thính tung tích của Văn Chiêu công chúa."

Tên hộ vệ khác sắc mặt khó xử: "Giờ khắp nơi đều bị phong tỏa, mấy quan ải thủ như hòm sắt, không biết làm cách nào mới truyền đươc tin Văn Chiêu công chúa có thể còn sống về Trường An đây?"

Hộ vệ bật cười: "Ngươi đúng là đầu gỗ! Người Bắc Nhung và Phúc Khang công chúa âm thầm thông tin bằng cách nào? Thì chúng ta dùng người đó truyền tin thôi!"

Tên kia bừng tỉnh, gật đầu.

Trường An, Đông Cung.

Ngày hè chói chang, trầm lý phù dưa*, cung Thái Cực ở vùng đất trũng năm nay phá lệ ẩm ướt oi bức, bậc thềm trước hành lang đầy rêu loang lổ, trên nền gạch lát hoa văn Ma yết đọng một lớp hơi nước mỏng, phản xạ ánh sáng.

*ý nói uống nước lạnh ăn mận ăn dưa giải nhiệt.

Trong tiếng ve ồn ã, nội thị dẫn một thanh niên mặc quan bào xanh phong trần mệt mỏi xuyên qua hành lang quanh co, đi vào trước Thư các.

Đã có thái giám chờ trước cửa, nghe thấy tiếng bước chân, vẻ mặt tươi cười ra đón.

"Đỗ Xá nhân, Thái tử Điện hạ chờ đã lâu."

Đỗ Tư Nam không hề liếc nhìn thái giám, nhẹ gật đầu, cất bước vào trong, thái độ ngạo mạn. Nụ cười trên mặt thái giám vẫn không đổi.

Hơn một năm qua, Đỗ Tư Nam vị sĩ tử Nam Sở xuất thân nghèo hèn này nhiều lần lập đại công, giữ vững Kim Thành, giết toàn bộ mật thám Bắc Nhung, đi sứ Nam Sở, Tây Thục, bằng miệng lưỡi ba tấc không nát và hiểu biết về triều đình các nước đã thúc đẩy Nam Sở lập minh ước với Đại Ngụy, giải mối lo sau này cho Đại Ngụy, do đó nhiều lần được Lý Đức triệu kiến. Mỗi lần triệu kiến y đều đối đáp trôi chảy, Long nhan cực kỳ vui mừng, nhiều lần đặc biệt đề bạt, y một bước lên mây, trong nháy mắt đã từ một thư sinh áo trắng bá vơ trở thành Trung Thư Xá nhân, tham gia biểu chương, phác thảo chiếu chỉ, nghiễm nhiên trở thành tâm phúc tín nhiệm nhất của Hoàng đế Lý Đức.

Nghe nói Đỗ Tư Nam còn chưa lập gia đình, các đại tộc thế gia trong kinh tranh nhau thuê bà mối tới cửa cầu thân, muốn nạp rể hiền, ngay cả Tể tướng Trịnh Tướng công cũng từng lộ ý muốn đích thân mai mối cho y, người người trong triều hâm mộ, nhưng Đỗ Tư Nam từ chối tất cả, nói mình là môn đệ nhà nghèo, không dám trèo cao đến thế gia.

Thái giám không hiểu mạch nước ngầm mãnh liệt trong triều nhưng dù sao đi theo Lý Huyền Trinh nhiều năm, xem lời nói hành động của cả hai cha con, hiển nhiên họ nể trọng quan viên xuất thân hàn môn, hiện Đỗ Tư Nam được lòng Đế chọn, rất được trọng dụng, dù y lạnh lùng kiêu ngạo thế nào thái giám cũng sẽ không đắc tội.

Đối với đám hoạn quan ti tiện như họ, lúc nào nên bợ đỡ ai, lúc nào nên vắng vẻ ai, chỉ nhìn thái độ Hoàng đế và Thái tử, thứ khác không liên quan.

Phía trước cửa sổ trồng vài nhánh lựu tươi tốt, tán cây rộng che hết nửa sân đình, trước song cửa một mảnh râm mát xanh mướt, ánh sáng trong phòng mờ ảo.

Đỗ Tư Nam đi thẳng vào trong, qua mấy tấm bình phong khảm nạm đá Vân Mẫu, đi vào đàn thất.

Hương trà lượn lờ, hơi nước mờ mịt, một người hầu quỳ một bên kéo cái bễ nhỏ, ánh lửa thập thò phun ra nuốt vào trong lò.

Lý Huyền Trinh tựa ngồi cạnh giường, sắc mặt trầm tĩnh, đôi mắt u tối, mặc đồ thường phục của Hoàng Thái tử, cổ tròn bào phẳng, thắt lưng gấm, phác hoạ ra đường cong gầy, so với lúc mới gặp Đỗ Tư Nam gầy đi không ít.

Một năm qua, Thái tử thay đổi rất nhiều.

Lúc trước hắn luôn có vẻ mặt ôn hòa đối với bộ hạ, trên chiến trận xung phong đi đầu, chưa từng bỏ rơi một quân sĩ, ôn hòa tha thứ, chiêu hiền đãi sĩ, nhưng không thể che hết u ám thực bụng, luôn có ý gia hại Thất công chúa, Nhị hoàng tử, hơn nữa anh hùng khó qua ải mỹ nhân, thường làm chuyện khó tưởng tượng vì Phúc Khang công chúa, thậm chí không để ý đến tính mạng, làm đại thần trong triều gai mắt. Giờ đây, Phúc Khang công chúa không còn bóng dáng, Thất công chúa chết ở tái ngoại, Nhị hoàng tử mất đi tất cả, rời kinh đi tái ngoại xa xôi, Tạ hoàng hậu một mình điên điên ngốc ngốc ở Ly cung, Tam hoàng tử, Tứ hoàng tử bị Lý Đức kết tội cấu kết ngoại địch giam cầm, Thái tử thù đã báo, ý trung nhân rời đi, vị trí Thái tử vững chắc, như bắt đầu trở nên trầm ổn, không còn thay đổi thất thường, cũng không còn hận người Tạ gia.

Đại thần trong triều vui mừng không thôi.

Ánh mắt Đỗ Tư Nam khẽ quét qua khuôn mặt tuấn lãng của Lý Huyền Trinh, trong lòng cười lạnh: một bình nước đã đun đến sôi sùng sục, reo ùng ục, hết đun, tiếng reo sẽ dịu xuống, Thái tử cũng không phải là thay đổi thành ôn hòa thật.

Y cúi đầu hành lễ với Lý Huyền Trinh. Lý Huyền Trinh ra vẻ đứng dậy, không nhận lễ.

Đỗ Tư Nam ngồi xuống, thầm nghĩ, Thái tử chiêu hiền đãi sĩ không phải nói ngoa, có điều Thái tử tâm ngoan thủ lạt cũng không phải tin đồn, lúc trước Thái tử tưởng lầm y là người của Nhị hoàng tử Lý Trọng Kiền lập tức lệnh giết, quyết đoán như vậy tuyệt không phải một người nhân từ biết nương tay.

Lý Huyền Trinh đang ngồi đối diện với một quan viên trẻ mặt mũi thanh tú, cũng mặc quan bào màu xanh không khác Đỗ Tư Nam mấy, là Trịnh Cảnh con của Tể tướng. Kinh Nam vừa phát sinh lũ lụt, hai người vừa mới đang thương lượng việc khắc phục thiên tai.

Trịnh Cảnh gật đầu thăm hỏi Đỗ Tư Nam: "Đỗ xá nhân, Nam Sở lại đổi Trữ à?"

Đỗ Tư Nam lấy lại tinh thần, nói: "Thái tử Nam Sở phóng ngựa đả thương người, bị triều thần nắm được cán, Thái tử vì giữ thanh danh đã giết người diệt khẩu, mưu hại đại thần trong triều, Nam Sở bàn tán ầm ĩ, quần thần quỳ ngoài cửa cung khóc lóc không ngừng, Hoàng đế Nam Sở bất đắc dĩ, đành đổi trữ."

Trịnh Cảnh mỉm cười. Cuộc đổi Trữ ở Nam Sở này, do một tay cậu và Đỗ Tư Nam bày kế.

Cũng vì lấy đạo của người trả lại cho người, sau khi họ bắt được mật thám Nam Sở, lợi dụng chúng thăm dò mạng lưới tình báo Nam Sở, thả tin giả mê hoặc Nam Sở, để Nam Sở tin rằng Đại Ngụy không dám cử binh xuôi Nam, muốn cùng Nam Sở phân ranh mà trị.

Rồi lại thả tin đồn, bảo sở dĩ mấy vị Đại tướng Nam Sở chủ chiến là do họ vốn là người phương Bắc.

Nam Sở giàu có, đại bộ phận quan viên xuất thân Nam Sở thoả mãn an phận một góc, sống mơ màng xa hoa lãng phí, không muốn khai chiến với Đại Ngụy, quả nhiên trúng kế, dâng sớ vạch tội phái chủ chiến trong triều, bảo họ quyến luyến quê cũ, vì lòng riêng mà không để ý sống chết của mấy vạn tướng sĩ Nam Sở, bất trung bất hiếu, rắn chuột hai đầu.

Phái chủ chiến thế đơn lực bạc, Hoàng đế bất đắc dĩ, đành bác đi mấy vị Đại tướng, trấn an lòng người.

Để Nam Sở tự hỏng lực lượng, Đỗ Tư Nam lại ra tay châm ngòi quan hệ giữa Thái Tử Nam Sở và các vị hoàng tử khác, tăng mâu thuẫn giữa triều thần và Thái tử, châm ngòi thổi gió, tận dụng mọi thứ, ngắn ngủi hai tháng, vị Thái tử mới được sắc lập không lâu cũng bị phế đi.

Đỗ Tư Nam không phải võ tướng, y không quan tâm thủ đoạn mình ngoan độc âm hiểm cỡ nào, chỉ cần làm suy yếu Nam Sở y có thể dùng bất cứ thủ đoạn nào.

Dùng binh không đánh mà thắng chính là cách dùng binh tốt nhất.

Lò lửa nhỏ đỏ than lép bép tiếng than hồng.

Đỗ Tư Nam nói tiếp: "Thế gia Nam Sở như nấm, nhà ngoại tổ của các vị Hoàng tử trong triều đều là gia tộc quyền thế, trước giờ mấy vị hoàng tử đồng mặt không đồng lòng, hai năm nay vị trí Trữ nhiều lần biến động, đại thần trong triều khó tránh bị cuốn vào, mấy đại thế gia Nam Sở thông hôn nhiều thế hệ, rắc rối khó gỡ, rút dây động rừng, không ai có thể đặt mình ra ngoài."

"Chúng ta đã bố trí cọc ngầm thỏa đáng, đến lúc đó nội ứng ngoại hợp, Đỗ mỗ khẳng định, trong vòng hai năm, triều đình Nam Sở sẽ có động!" Giọng lạnh như băng của y quanh quẩn trong đàn thất.

Trịnh Cảnh tiếp lời: "Vua tôi Nam Sở tự cho rằng Trường Giang là nơi hiểm yếu, có lòng coi thường Đại Ngụy, trong triều phân tranh không ngừng, mâu thuẫn giữa người Nam kẻ Bắc trùng điệp, Hoàng đế Nam Sở để trấn an người phía Nam, tự chặt cánh tay, người Bắc vô tội chịu oan, chúng ta vừa vặn có thể cho người thuyết phục họ cải tà quy chính."

Dù người Bắc có đồng ý đầu hàng Đại Ngụy hay không, chỉ cần thả ra tin tức họ lui tới mật thiết với Đại Ngụy, sau này Nam Sở chắc chắn sẽ không trọng dụng họ nữa.

Lý Huyền Trinh nghe cả hai nói xong, gật đầu hỏi: "Nếu Tây Thục và Nam Sở kết minh thì sao?"

Đỗ Tư Nam cười lạnh: "Mạnh thị Tây Thục thiển cận nhát gan, không có thực lực tranh bá nhưng lại có lòng tranh bá, Mạnh thị từng giao chiến với Nam Sở, hai nước bất hòa đã lâu, dù có kết minh cũng không duy trì được mấy tháng. Trước đó, chúng ta có thể đánh động với Nam Sở liên thủ với ta cùng tiến đánh Tây Thục, chỉ cần hứa các vùng Kiềm Trung, phía Tây Sơn Nam, tất nhiên Nam Sở sẽ động tâm. Sau đó lại âm thầm thuyết phục Tây Thục, bảo liên thủ với ta tiến đánh Nam Sở, ước định chia phía Tây Giang Nam cho Tây Thục, ắt Tây Thục sẽ do dự."

"Đến chừng đó, ta cố ý thả ra tin tức, để Tây Thục, Nam Sở cho là họ đã đạt thành hiệp nghị với ta, thì họ sẽ dám kết minh với đối phương không?"

Trịnh Cảnh nghe xong tê rần da đầu, suy tư một trận, gật đầu phụ họa: "Chờ tấn công xong Tây Thục, nội loạn Nam Sở chưa kết thúc, ngược lại sẽ ngày càng nghiêm trọng, lưỡng bại câu thương, chúng ta vừa vặn ngư ông đắc lợi."

Đỗ Tư Nam nghĩ tới một chuyện, chần chừ chút rồi nói: "Sở dĩ Đỗ mỗ dám chắc chắn như vậy, cũng là bởi vì một người."

Lý Huyền Trinh ngước mắt: "Vị cao nhân nào?"

Đỗ Tư Nam từng chữ nói: "Văn Chiêu công chúa."

Ùng ục ùng ục, trong trà cụ nước sôi sùng sục, bọt nước như trân châu lăn lộn lên xuống.

Cả ba đồng thời rũ mắt, nhìn bọt nước hóa hơi trong trà cụ.

Sau một lát, Lý Huyền Trinh phá vỡ yên lặng: "Sao cậu nói vậy?" Giọng hạ trầm thấp như đang đè nén gì.

Đỗ Tư Nam chậm rãi nói: "Văn Chiêu công chúa truyền tin về, không chỉ nhắc nhở tôi đề phòng Bắc Nhung, Nam Sở, Tây Thục, còn chỉ ra mâu thuẫn trùng điệp giữa Nam Sở và Tây Thục, chỉ cần lấy Kiềm Trung làm mồi nhử có thể làm hai nước trở mặt, mặt khác gợi lên phân tranh trong triều của Nam Sở, lần này Nam Sở đổi Trữ, chính vì tôi dùng kế sách của Văn Chiêu công chúa."

"Có vẻ như Văn Chiêu công chúa đối với Nam Sở, Tây Thục rõ như lòng bàn tay, phản ứng của hai nước với trong thư cô ấy viết không khác mấy. Cô ấy nói Nam Sở, Tây Thục đồng minh không kiên cố, chỉ cần châm ngòi chút đã đánh tan được quan hệ hai nước, Đỗ mỗ cho rằng Văn Chiêu công chúa liệu sự như thần."

Lần này, Lý Huyền Trinh lặng thinh càng lâu, hơi nước lượn lờ cứ như lồng lên tầng mây đen trên khuôn mặt tuấn tú của hắn.

Trịnh Cảnh xen vào: "Văn Chiêu công chúa từ nhỏ lớn lên ở Kinh Nam, Kinh Nam gần Nam Sở, Tây Thục, Tạ gia kinh doanh ở Kinh Nam nhiều năm, Văn Chiêu công chúa hiểu rõ Nam Sở, Tây Thục như vậy, cũng không lạ."

Lý Huyền Trinh ừ lạnh nhạt, ngồi ngơ ngẩn, ánh mắt trống rỗng.

Đỗ Tư Nam nhịn không được hỏi: "Điện hạ thấy kế này thế nào?"

Lý Huyền Trinh lấy lại tinh thần, trầm ngâm nửa ngày, yên lặng nhấm nuốt chuyện vừa rồi. Nếu kế hoạch thuận lợi, trong thời gian ngắn nhất, tiêu hao ít nhất Đại Ngụy có thể đạt được việc vĩ đại nhất thống thiên hạ.

Như vậy, khi Đại Ngụy bình định thiên hạ, cử binh đánh Tây, sẽ có binh lực mạnh mẽ đối địch với Bắc Nhung.

Trong lòng hắn ra quyết định, nói với Đỗ Tư Nam: "Đỗ Xá nhân không hổ là Trương Lương* của Thánh thượng, bày mưu tính kế, quyết thắng ngoài ngàn dặm."

*chính trị gia, mưu thần khai quốc công thần triều Tây Hán

Đỗ Tư Nam nói: "Điện hạ quá khen." Giọng thì khiêm tốn, còn vẻ mặt lại có nét lãnh ngạo.

Trịnh Cảnh âm thầm lắc đầu.

Lý Huyền Trinh vào cung diện thánh, thương thảo với Lý Đức kế hoạch cụ thể, hai người cáo từ đi ra, Trịnh Cảnh nhắc nhở Đỗ Tư Nam: "Gần đây Đỗ Xá nhân rất nổi tiếng, mộc tú vu lâm* nên cẩn thận."

*người quá xuất chúng.

Đỗ Tư Nam cười lạnh nói: "Ta với Trịnh Thị lang khác biệt, ngài là con cháu danh môn, vừa ra làm quan đã là cận thần của Thiên tử, Đỗ Tư Nam ta xuất thân nghèo hèn, mười năm gian khổ học tập, cần cù chăm chỉ cả đời cũng chỉ là người may áo cưới* cho Trịnh Thị lang thôi, bây giờ Thánh nhân không theo lệ thường coi trọng ta, ta nào có thể bỏ qua cơ hội này? Có giết được thỏ, mổ chó săn, Đỗ Tư Nam ta cũng phải trở thành nhân thượng nhân, hoàn thành khát vọng, lập công lao cái thế."

*tác giá y thường: ám chỉ vất vả cho người vui, bản thân không được gì.

Trịnh Cảnh không phản bác được. Đỗ Tư Nam là cây đao trong tay Lý Đức, một thanh đao rèn sắc bén, muốn chém vào thế gia. Thế gia nhạy bén biết ý đồ của Lý Đức, muốn thu mua Đỗ Tư Nam, kéo vào giữa thế gia, nên không tiếc bỏ đi thận trọng mà muốn thông hôn với y, những tưởng y nghèo hèn sẽ mừng rỡ, không ngờ y cự tuyệt không chút nghĩ ngợi. Trịnh Cảnh con cháu Trịnh gia, gần đây nghe không ít lời đồn đại, nếu Đỗ Tư Nam khư khư cố chấp, thế gia tuyệt sẽ không nương tay.

"Đỗ Xá nhân đã quyết định rồi? Thánh nhân và Thái tử bảo đảm được cậu một thời, không bảo vệ được cậu cả đời, chưa nói giết được thỏ mổ chó săn, các triều đại đổi thay, có mấy thần tử như Đỗ Xá nhân có được kết thúc yên lành?"

Khóe miệng Đỗ Tư Nam khẽ nhếch, hồ đồ không thèm để ý: "Thương Ưởng* dù ngũ mã phanh thây chết thảm, cuối cùng vẫn cải cách thành công, tên lưu sử sách, Trịnh Thị lang, ngươi ta sở cầu khác biệt, Tử làm sao biết cá có vui*?"

*Chính trị gia, cải cách gia, nhà tư tưởng, quân sự gia, thời Chiến quốc, phụ tá Tần Hiếu công, tích cực thi hành cải cách, sau khi Tần Hiếu công chết, ông bị công tử Kiền vu là mưu phản, xác bị đem đến Hàm Dương ngũ xa phanh thây.

**"Trang Tử không phải cá, làm sao biết cá có vui" – đừng dùng cái nhìn của mình áp cho người khác.

(minh: 2 ông thần văn nói chữ phải tra qua lại mới hiểu, dốt văn thật khổ)

Trịnh Cảnh cười cười, yên lặng một hồi, chợt hỏi: "Đỗ Xá nhân không muốn cưới con gái thế gia là có liên quan đến Thất công chúa à?"

Đỗ Tư Nam cứng đờ.

Trịnh Cảnh cười nói: "Đỗ Xá nhân tự phụ tài hoa, khư khư bảo mình xuất thân hàn tộc. Lúc ở Nam Sở từng trước mặt đám đông lập lời thề, không phải con gái thế gia không cưới, nên mới nóng nóng vội vội, thề phải nổi bật, thế gia trong kinh muốn đem đích nữ gả cho, sao cậu lại cự tuyệt?"

Đỗ Tư Nam xụ mặt, lạnh lùng liếc Trịnh Cảnh, chế giễu lại: "Trịnh Thị lang là con cái danh môn, xuất thân cao quý, tiền đồ vô lượng, đến nay vẫn chưa lấy vợ, trong phủ chỉ có thiếp hầu, bếp núc còn do mẹ và chị gái trông nom, sao Trịnh Thị lang cũng chưa cưới vợ?"

Nụ cười trên mặt Trịnh Cảnh từ từ từ từ tháo hết.

Hai người nhìn nhau không nói.

Trịnh Cảnh xoay người, nhìn cây lựu xanh um tươi tốt trước sảnh, đứng khoanh tay khẽ nói: "Ta từng gặp được nữ lang như Thất công chúa, lại tự mình đưa nàng gả đi xa..." Nàng một thân hoa sai lễ y, trước mắt văn võ quần thần leo lên xe ngựa. Cả đời này, Trịnh Cảnh sẽ không quên được bóng lưng mảnh mai ấy.

Cậu không nhớ rõ mình thích Thất công chúa tự bao giờ, cũng không đến mức khắc cốt minh tâm, chỉ là ái mộ thiếu niên. Đến khi Thất công chúa gả xa, cậu xem như phần tình cảm này theo năm tháng sẽ từ từ phai nhạt, ai dè ngược lại, tiếc nuối không chỉ không phai mà còn khắc sâu vào lòng, để lại vết sẹo, trong phút lơ là sẽ chợt đau. Giống như rượu cũ cất trong hầm, tuổi càng lớn, càng thuần đậm.

Trịnh Cảnh chỉ nói một nửa, nhưng Đỗ Tư Nam có thể hiểu lời cậu.

"Đỗ mỗ ta xuất thân nghèo hèn... Không xứng với nữ lang thế gia." Đỗ Tư Nam lặng thinh mãi, mới ung dung nói.

Hai người trong phút chốc chẳng nói gì nữa.

Đứng một lúc, Trịnh Cảnh xuống bậc cấp, nhìn trái phải hạ giọng: "Không còn thấy Ngụy Minh."

Mí mắt Đỗ Tư Nam giật giật.

Trịnh Cảnh bình tĩnh nói: "Người hạ thủ là Vệ Quốc Công."

"Lý Trọng Kiền? Không phải ngài ấy đã đi Hà Lũng sao?"

Trịnh Cảnh nói: "Vệ Quốc Công biết Đông cung tăng cường đề phòng, lúc hồi kinh không ra tay ngay, chỉ gần đây mới không thấy người nữa, kẻ ra tay là người Vệ Quốc Công để lại."

Đỗ Tư Nam ra vẻ suy nghĩ, nói: "Giờ Vệ Quốc Công chỉ muốn nhanh tìm về Thất công chúa, không để nàng chôn xương tha hương... đợi Vệ Quốc Công về..."

Lý Trọng Kiền sẽ đích thân giết Ngụy Minh. Sau đó thì sao?

Người ngài muốn giết tuyệt đối không chỉ một Ngụy Minh.

Hai người sóng vai đi ra hành lang, bầu không khí có phần đông cứng lại, Trịnh Cảnh chợt đổi chủ đề: "Sau này Đỗ Xá nhân sẽ đầu nhập Đông cung nhỉ?"

Con ngươi Đỗ Tư Nam hơi co rút, ngẩng lên căm tức nhìn Trịnh Cảnh.

Trịnh Cảnh vẫn không đổi sắc.

Hai người nhìn nhau một lát, Đỗ Tư Nam câu môi cười lạnh: "Ta từng bị Thái tử nghi ngờ, tên Ngụy Minh kia nhiều lần gia hại ta, giữa ta với Đông cung đã có vết nứt."

Trịnh Cảnh híp mắt.

Đỗ Tư Nam hừ lạnh, nói: "Trịnh Thị lang đã biết tiếng thơm của ta rồi, vì muốn nổi bật ta không từ thủ đoạn, đợi khi trong triều ta đứng vững gót chân, mới có lực đàm phán với người."

Hai người trao đổi một ánh mắt, ngầm hiểu lẫn nhau. Họ đều là loại người lợi ích trên hết, lý trí tỉnh táo, mọi việc làm lúc này cũng vì leo đến đỉnh cao quyền lực. Vì thế, dù có phẫn nộ Lý Đức để Thất công chúa hòa thân, họ vẫn vì quyền thế bước ra triều đình, bôn ba vì công danh lợi lộc.

Thất công chúa gả xa làm họ càng hiểu, chỉ có nắm giữ quyền hành, mới bảo vệ được người mình để ý. Cho đến khi đó, họ không quan tâm sẽ trung thành với ai, hợp tác với người xuất thân thế nào.

Về phần hai người họ có thành kẻ địch hay không, đó là chuyện sau này. Chí ít, trước khi Lý Trọng Kiền trở về, lợi ích của họ là một.

...

Lý Huyền Trinh gặp Lý Đức bẩm báo kế sách của Đỗ Tư Nam, thật ra những kế hoạch này đã âm thầm áp dụng trước, giờ họ cần ra quyết định: Có tiến đánh Tây Thục hay không?

Lý Đức sợ Bắc Nhung quay đầu Nam chinh, cho rằng có thể chờ lại.

Lý Huyền Trinh nói: "Lúc Hải Đô A Lăng công lâu không được quả quyết lui binh, cũng là bởi vì binh lực chủ yếu của chúng tập trung ở Bắc Tây Vực, lương thảo quân bị không đủ, lúc này Nam Sở vừa mới đổi Trữ, còn biếm mấy vị Đại tướng, trong phút chốc không cách nào điều binh khiển tướng, chúng ta hứa hẹn chỗ tốt, chắc chắn họ sẽ khoanh tay đứng nhìn, giờ đây đúng là thời cơ tốt để chúng ta tiến đánh Tây Thục, nếu kéo dài mãi, chờ Bắc Nhung quay đầu Đông chinh, chúng ta hai mặt chịu địch, làm sao chống cự?"

Lý Đức vẫn do dự.

Lý Huyền Trinh đứng lên, nói: "Thần nguyện lập quân lệnh trạng, trong vòng ba tháng nếu không thể đánh chiếm phủ Thành Đô, mặc cho Thánh thượng xử lý."

Lý Đức nhíu mày, ngước mắt, ánh mắt rơi xuống mặt Lý Huyền Trinh.

Tháng qua hắn luôn chinh chiến bên ngoài, về Trường An vì chuyện đánh Tây Thục rong ruổi khắp nơi, gầy đi rất nhiều, nhìn có phần tiều tụy, nhưng đôi mắt phượng lại sáng rực, như hai ngọn lửa cháy hừng hực.

Lý Đức thở dài.

Chu Lục Vân không thấy tăm hơi, nó điên thành thế này sao? Đứa con trai này mình xem nó lớn lên... Lý Đức cân nhắc mãi, ra hiệu Thái giám bày giấy mực, viết chiếu thư phát binh.

Ông không ngăn nổi con trai.

Trong triều bắt đầu vì chuyện xuất chinh mà khua chiêng gõ trống chuẩn bị, Đỗ Tư Nam đi sứ Nam Sở lần nữa, khuyên Nam Sở liên thủ với Đại Ngụy chia cắt Tây Thục, đồng thời thả ra tin đồn rằng Tây Thục chuẩn bị liên thủ với Đại Ngụy chia cắt Nam Sở, kéo dài thời gian, ngăn cản Nam Sở Tây Thục kết minh.

Lý Huyền Trinh tự xin làm tiền phong, lãnh đội phi kỵ xuất phát trước.

Trịnh Bích Ngọc tiễn hắn xuất chinh, tâm tình nặng nề.

Đêm qua, Lý Huyền Trinh dặn dò nàng: "Nếu có tin Hà Lũng truyền về, phải phái khoái mã đưa đi tiền tuyến, dù lớn hay nhỏ, không được trì hoãn."

Ngực Trịnh Bích Ngọc chợt nhói: "Tin từ Hà Lũng ạ?"

Lý Huyền Trinh liếc nàng: "Ta phái người đi theo Lý Trọng Kiền, cách mấy ngày một lần bọn hắn sẽ gửi tin về."

Hai tay Trịnh Bích Ngọc nhẹ run: "Sao Điện hạ lại phái người đi theo Vệ Quốc Công?"

Mắt phượng hẹp dài của Lý Huyền Trinh như vũng nước đọng, không một tia gợn sóng. "Ta muốn biết hắn có tìm được không."

Trịnh Bích Ngọc nhìn gương mặt bình tĩnh đến gần như quỷ dị của chồng, không dám hỏi tới.

Lý Huyền Trinh đã thay đổi.

Chàng giống như rất nóng nảy vì chuyện trước mắt, một lòng chỉ muốn mau mau đánh tan Tây Thục, không hề để ý chuyện khác, Chu Lục Vân biến mất đã lâu vậy mà chàng không hỏi một câu.

Một dự cảm bất thường quanh quẩn nơi đầu tim của Trịnh Bích Ngọc, nàng trằn trọc, không dám yên giấc, mỗi ngày phái người nghe ngóng tin tiền tuyến, sợ Lý Huyền Trinh xảy ra bất trắc.

Chừng nửa tháng, ba tuyến đại quân tuần tự xuất phát, chia ba nhánh tấn công Tây Thục.

Vua tôi Nam Sở quả nhiên thiển cận, đồng ý liên thủ với Đại Ngụy liên thủ đánh Tây Thục, nhanh phái hai đại quân đi đường thủy tiến đánh thị trấn quan trọng nhất phía Nam Tây Thục.

Hai nước đột nhiên tấn công, Tây Thục vội vàng đối phó, Mạnh thị không thể không chia binh nghênh địch.

Lý Huyền Trinh xung phong đi đầu, dẫn ba vạn đại quân tấn công quan ải phía Bắc Tây Thục, thế như chẻ tre, thế trận dũng mãnh, trong một tháng liên tiếp phá hơn mười tòa thành trì, phủ Thành Đô báo nguy, vương công quý tộc trong thành nhao nhao gom của cải trốn đi, trong Tây Thục rất nhanh phát sinh nội loạn.

Sau nửa tháng, binh sắp sửa hạ thành, trong tuyệt vọng Thục vương chém chết cơ thiếp, một mồi lửa đốt đi hoàng cung tự mình chủ trì xây dựng, lấy thân đền nợ nước.

Lý Huyền Trinh tắm trong biển máu hứng chiến, dẫn đầu đội phi kỵ chặn ngang cắt đứt phòng tuyến cuối cùng của quân Thục, xông lên vách núi, hoành đao lập mã, một người nhung trang dính máu, áo giáp rách nát, trên mặt trầy trụa, ngóng nhìn lửa lớn trong thành cháy rực tận trời, trong mắt phượng như có hai ngọn lửa lạnh như băng chập chờn.

Đám Tần Phi một đường chém giết, đi tới phía sau hắn, theo ánh mắt hắn nhìn, trong lòng chợt nổi trống.

Thái tử sợ lửa, đây là bí mật các tướng lĩnh ngầm hiểu.

Mấy người nhìn nhau, Tần Phi cười cười, giục ngựa tiến lên nửa thân ngựa, nói: "Điện hạ, trời sắp tối rồi, các tướng sĩ chém giết mấy ngày mấy đêm, hay chỉnh đốn tại chỗ trước? Sáng sớm mai mới vào thành."

Lý Huyền Trinh cúi đầu, trường đao quét lên tay áo, xóa đi vết máu đặc. "Truyền lệnh xuống, lập tức vào thành."

Tần Phi sững sờ, không dám hỏi nhiều, quay qua mấy người kia nháy mắt.

Hai ngày sau, tuyên bố thắng trận truyền về Trường An, Lý Đức cực kỳ vui mừng, ngợi khen tam quân, văn võ cả triều sơn hô vạn tuế.

Khắp nơi vui mừng.

Nửa tháng sau, Lý Huyền Trinh hồi triều. Dân chúng Trường An tươi cười, đắm chìm trong niềm vui đại quân chiến thắng, ngóng trông đội phi kỵ sớm ngày trở về.

Lý Huyền Trinh mặc một bộ trang phục quân sĩ bình thường, xuyên qua đám người chen chúc, xuất hiện trước cửa cung.

Cấm vệ nhận ra hắn, giật nảy mình. Lý Huyền Trinh ra hiệu cấm vệ đừng kinh động những người khác, thẳng về Đông cung.

Trịnh Bích Ngọc đang đưa Thái tôn đá xúc cúc trong đình viện.

Lý Huyền Trinh đi xuống hành lang, cung nữ, thái giám nhìn thấy hắn, định cúi người hành lễ, hắn khoát tay, đám người không dám lên tiếng, lặng yên lui ra.

Thái tôn đứng đá xúc cúc dưới hiên, còn chưa đá chuẩn, quả bóng lăn tròn một vòng lớn, vừa vặn lăn đến dưới chân Lý Huyền Trinh.

Lý Huyền Trinh nhìn xúc cúc dưới chân, vẻ hơi hoảng hốt.

Trịnh Bích Ngọc cười ngẩng đầu, nhìn thấy Lý Huyền Trinh, khẽ giật mình. Lý Huyền Trinh nhặt xúc cúc, đi đến trước mặt con trai, sờ đầu nó.

Con trai với hắn không gần gũi mấy, mấy tháng không gặp, hắn còn mặc y phục tướng sĩ, trong phút chốc có phần không dám nhận, sợ hãi lùi hai bước, trốn ra sau lưng Trịnh Bích Ngọc.

Lý Huyền Trinh lắc đầu bật cười.

Lòng Trịnh Bích Ngọc như đã cảm giác, chấn động cả người, nhắm mắt nhận xúc cúc chồng đưa đến.

Lý Huyền Trinh nhìn nàng, môi rung rung mấy lần, không biết nên nói gì, khóe miệng kéo: "Ngọc Nương, bảo trọng."

Hốc mắt Trịnh Bích Ngọc thoáng chốc đỏ lên, cười cười: "Đại Lang, bảo trọng."

Vợ chồng mấy năm, giữa họ không có yêu thương, nhưng trên đời này có lẽ không ai hiểu đối phương bằng chính họ.

Trịnh Bích Ngọc đã nhìn ra dự định của Lý Huyền Trinh từ lâu, chỉ không muốn tin thôi, giờ Lý Huyền Trinh đánh xong Tây Thục, đảo loạn Nam Sở, đề bạt một nhóm dũng tướng, tiến cử mấy chục con cháu nhà hàn môn, an bài xong cho con trai, chàng đã hết sức vì trách nhiệm của mình, đến lúc sống cho chính mình.

Nàng trăm mối cảm xúc ngổn ngang, có thiên ngôn vạn ngữ muốn nói, cuối cùng một chữ đều nói không ra miệng.

Lý Huyền Trinh cười cười với nàng, quay đi.

Nụ cười này, từ khi quen biết nhau, lần đầu Trịnh Bích Ngọc mới thấy chàng bật cười thật tình.

Nàng nhìn bóng lưng của hắn, nước mắt ào ào.

Trường An, cung Thái Cực.

Đã gần xế chiều, ánh sáng lờ mờ, thái giám cầm một đoạn nến ngắn thắp từng cây đèn nến mạ vàng, tới trước ngự án, từ lư hương toan nghê phun ra từng luồng uất kim hương thanh nhạt.

Lý Đức cúi đầu phê duyệt tấu chương, khi thấy thư xin hàng của Mạnh thị Tây Thục dâng lên, rèm châu khẽ động, ngoài bình phong có tiếng bước chân dồn dập.

"Bệ hạ!" Thái giám mặt trắng bệch, đầu đầy mồ hôi, chạy vội vào nội thất, đầu gối mềm nhũn, trượt quỳ trước ngự án. "Thái tử điện hạ trở về!"

Lý Đức khẽ giật mình, nhẹ cau mày, buông thư xin hàng xuống: "Sao nó về tới rồi?"

Thái giám run rẩy cả người, lắp bắp: "Bệ hạ... Hữu vệ của Kim Ngô Vệ nói xin ngài tạm lánh đến hậu đường, Thái tử điện hạ... Điện hạ..."

Lý Đức sầm mặt: "Thái tử thế nào?"

Mặt Thái giám không còn giọt máu, quỳ sát đất, cẩn thận lựa lời, giọng hơi run: "Bệ hạ, Thái tử điện hạ không có chiếu đã vào cung, Kim Ngô Vệ không dám để ngài vào điện, Thái tử điện hạ vẫn cố xông vào!"

Lý Đức cứng đờ, trầm mặt đứng dậy, thái giám bước lên đỡ ông ra hậu đường, bị ông hất ra. Thái giám té xuống đất, không dám lên tiếng, lồm cồm đứng dậy thất thểu đuổi theo Lý Đức.

Ánh nến chập chờn, trước cửa điện bóng người xao động, tiếng la hét ầm ĩ, Kim Ngô Vệ tay cầm trường đao, canh giữ trước bậc, lớn tiếng cản đường, tiếng bước chân rối loạn.

Lý Đức ra khỏi phòng, Kim Ngô Vệ canh giữ ở trước cửa vô cùng hoảng sợ, quỳ xuống nói: "Bệ hạ, xin ngài tạm lánh..." Còn chưa nói xong, Lý Đức đã đi qua mặt họ.

Kim Ngô Vệ khiếp vía, đầu đầy mồ hôi lạnh, liếc nhau, bất đắc dĩ đuổi theo.

Lý Đức đứng ở tiền sảnh, khoanh tay. Dưới thềm, một bóng người cao lớn đi ngược dòng người từng bước một đạp lên nguyệt đài, một thân áo đen lạnh lẽo như đao, trong tay cầm kiếm.

Chỉ thoáng chốc, Lý Đức đã nhận ra bóng dáng con mình.

Lý Huyền Trinh một mình đến đây, tuy mạo phạm nhưng tội không đáng chết, Kim Ngô Vệ biết Lý Đức coi trọng ngài ấy nên không dám ra tay làm bị thương, chỉ đành bao vây trùng điệp phòng hờ ngài ấy nổi điên đánh người.

Kim Ngô Vệ khổ khuyên Lý Đức: "Bệ hạ, hình như Thái tử điện hạ có vẻ điên cuồng, mời bệ hạ tạm lánh ạ!"

Lý Đức ánh mắt âm trầm. "Bắt lấy nó, không được đả thương."

Kim Ngô Vệ được lệnh, tăng thêm sức mạnh, ôm quyền vâng lời, bỏ đao kiếm, đổi trường thương, bay nào tới định đánh văng trường kiếm trong tay Lý Huyền Trinh.

Lý Huyền Trinh rất bình tĩnh, mắt phượng nhìn Lý Đức sau đám người, huơ kiếm chặt đứt trường thương, tiếp tục bước tới. Ánh kiếm lấp lóe, hắn không đánh bị thương ai nhưng thế thủ như tường đồng vách sắt, mưa gió không lọt, từng bước một đến gần hành lang.

Kim Ngô Vệ bất đắc dĩ, đành thủ thế, cận vệ bọc hậu trước điện nghe lệnh, cắn răng xông lên trước, như thủy triều tuôn tới Lý Huyền Trinh, trong ánh kiếm như bạc, mười mấy cánh tay như quạt hương bồ chụp tay chân hắn. Lý Huyền Trinh không thể động đậy, loảng xoảng, trường kiếm rơi xuống đất.

Kim Ngô Vệ mừng rỡ nhanh chóng đá văng trường kiếm, vặn chặt cánh tay hắn.

Lý Huyền Trinh vẫn dửng dưng, đứng dưới thềm, nhìn Lý Đức trong hành lang.

"Bệ hạ..." Trung Lang Tướng dè dặt hỏi, "Thái tử Điện hạ mất kiểm soát, xử lý sao ạ?"

Trên mặt Lý Đức mây đen giăng đầy, quay người vào điện: "Dẫn nó vào đây!"

Đám người nhìn nhau, không dám hó hé.

Vẻ mặt Lý Huyền Trinh rất khác thường, mắt tràn đầy lệ khí hung ác, Kim Ngô Vệ lo lắng bất an, sợ có biến cố, trói hay tay hắn ra sau lưng, cẩn thận rà soát không có vũ khí khác trên người rồi mới đưa vào trong điện. Lý Đức đứng trước ngự án, mặt đầy giận dữ, phất tay ra hiệu tất cả lui ra.

Trung Lang Tướng không ngừng thầm kêu khổ, ôm quyền lui ra.

Chờ tiếng bước chân đi xa, Lý Đức đi đến trước mặt Lý Huyền Trinh, bốp, một cái tát nặng nề vung tới thằng con trai. Ông là người luyện võ, bạt tai này không hề nhẹ, Lý Huyền Trinh bị đánh đến cả người té ngửa trên gạch vàng, môi tràn ra tơ máu.

"Ngươi học ai không học? Học Lý Trọng Kiền à?"

Giọng Lý Đức lạnh băng, "Trẫm là Hoàng đế, trong cung cấm vệ nghiêm ngặt, một mình ngươi mà muốn xông tới giết trẫm? Nếu Trẫm không ra ngăn đám Kim Ngô Vệ thì chúng có thể ra tay giết ngươi đó! Ngươi thân là Thái tử một nước, trước mặt mọi người rút kiếm xông vào cung, chuyện này truyền ra ngoài sau này phục chúng thế nào! Đàn áp đại thần thế nào! Trẫm có thể sắc lập ngươi, cũng có thể phế bỏ ngươi đó!"

"Mưu lược ẩn nhẫn bình thường của ngươi đi đâu rồi?" Lý Đức biết Lý Huyền Trinh muốn giết mình nhưng ông không nghĩ đứa con sẽ lỗ mãng, xúc động bậc này! Cánh chim còn chưa đủ lông đã mưu toan đơn thương độc mã xông vào cung!

Ông lạnh lùng thốt: "Chương nô, ngươi thật muốn giết trẫm thì phải nên ẩn nhẫn ẩn núp, triệu tập đội ngũ, thu mua lòng người, coi như dù không thể không có chỗ hở, thì chí ít phải làm trẫm không có lực phản kích, để đại thần trong triều không dám lắm miệng, để hoàng tử khác không nắm được đằng chuôi của ngươi!"

"Hành động của ngươi hôm nay, ngu xuẩn biết chừng nào!"

Lý Huyền Trinh ngửa mặt lên, vết máu đỏ bên môi như điên cuồng: "Tôi đúng là ngu xuẩn, nếu tôi học Lý Trọng Kiền được một chút, đâu biến thành như ngày hôm nay?"

Lý Đức nhìn hắn sưng đỏ mặt, đè cơn giận, giọng nhẹ nhàng hơn: "Chương Nô, con là con trai cha thương yêu nhất. Lý Trọng Kiền châm ngòi cha con chúng ta, con để trúng kế vậy sao?"

Lý Huyền Trinh không phản ứng, ánh mắt nhìn Lý Đức chỉ chán ghét hơn. "Cha con ta đâu cần ai châm ngòi nhỉ?"

"Lý Đức, tôi nên giết ông từ lâu... Từ lúc mẹ chết, tôi nên ra tay rồi."

Lý Đức là Đại tướng quân quận Ngụy, là thống lĩnh đại quân cả ngày có hổ tướng đầy rẫy bên cạnh, Trung Nguyên chia năm xẻ bảy, thời cuộc bất ổn, hắn không nắm chắc giết được Lý Đức, cũng biết giết Lý Đức rồi nhất định thiên hạ sẽ đại loạn, hắn không có sức thu thập tàn cuộc, sẽ chỉ làm đa phần dân chúng sống không yên ổn, nên hắn tiếp tục diễn cùng Lý Đức phụ từ tử hiếu, hắn dẫn Ngụy quân xông pha chiến đấu, bình định phân loạn, phụ tá Lý Đức thành lập Đại Ngụy.

Đợi ngày thiên hạ thống nhất, là lúc chính tay hắn hạ đao với Lý Đức. Giây giây phút phút hắn đều nhớ rõ lời dặn lúc Đường thị lâm chung, đời này vì báo thù mà sống, hắn có thể đợi.

Nhưng bây giờ hắn không đợi được nữa.

Hắn mệt mỏi, muốn cầu một sự giải thoát.

"Mẹ bảo tôi giết ông, giết người Tạ gia, mẹ nói gì, tôi nghe nấy... Tôi có lỗi với mẹ..." Lý Huyền Trinh rướm nước mắt.

Lý Đức nhìn thằng con, thở dài, mệt mỏi phất tay. "Chuyện hôm nay trẫm sẽ xử lý tốt, ngươi về tỉnh táo hối lỗi trước đi."

Lý Huyền Trinh cười lạnh: "Thánh thượng định xử lý thế nào?"

Lý Đức vuốt mi tâm, "Trẫm sẽ che đậy cho ngươi."

Lý Trọng Kiền bướng bỉnh không thuần, thanh danh đã sớm hủy, hắn đau xót mất đi em gái, hành thích vua trước chúng, đại thần trong triều không ngoài suy đoán, người xin tha cho hắn không ít.

Lý Huyền Trinh không giống, hắn là Thái tử một nước, chuyện hôm nay tuyệt đối không thể truyền ra ngoài!

Trong góc hẻo lánh mấy tên thái giám run lẩy bẩy, hơi lạnh xông lên từ lòng bàn chân, bò khắp.

Thái tử xông thẳng vào cung trước chúng, không nể mặt Thánh thượng, hôm nay ở đây có kẻ nào tính kẻ nấy, trốn không thoát!

Thái giám tổng quản tuyệt vọng nhắm hai mắt, gần vua như gần cọp mà.

Trong yên lặng nghẹt thở, vang lên vài tiếng cười trào phúng, Lý Huyền Trinh câu khóe môi: "Thánh thượng không cần tốn lòng vì tôi, chuyện giữa hai chúng ta, không cần liên lụy những người khác."

Hắn có thể triệu tập binh mã tiến đánh cung Thái Cực, nhưng thời cơ chưa chín, hắn chưa đủ thực lực chống lại Lý Đức, tùy tiện bức thoái vị sẽ chỉ liên luỵ càng nhiều người vô tội.

Hắn không muốn chờ.

Mi tâm Lý Đức chợt nhảy: "Ngươi đã làm gì?"

Lý Huyền Trinh cười lạnh: "Làm chuyện tôi nên làm từ lâu."

Vừa dứt lời, ngoài màn có tiếng thái giám hoảng sợ run run đến chói tai: "Bệ hạ! Thế tử Hàn Vương đến!"

Lý Đức sửng sốt, thấy rèm châu kịch liệt dao động, một bóng người thất tha thất thểu xông vào đại điện, ngã nhào xuống đất, khắp người run rẩy, khóc rống. Mùi máu tươi nồng đậm đập vào mặt.

Lý Đức cúi đầu, Thế tử Hàn Vương là cháu trai ông, cha y theo ông Nam chinh Bắc chiến, sắc phong làm Hàn Vương.

Thế tử Hàn Vương quỳ sát dưới chân ông, tóc tai bù xù, run rẩy, khóc đầy nước mũi nước mắt, áo bào trên người lộn xộn, tỏa mùi hôi thối, máu tươi theo ống tay áo vạt áo nhỏ đầy đất, trên gạch vàng kéo vết máu thật dài.

Lý Đức nhìn Lý Huyền Trinh: "Ngươi đã làm gì?"

Không đợi Lý Huyền Trinh mở miệng, Thế tử Hàn Vương đã hu hu khóc lớn hơn, đầu đập đất vang bình bịch. "Bệ hạ! Thái tử điên rồi! Thái tử giết cha thần! Giết Tam thúc, Tứ thúc của thần... Sáu người, sáu người sống đó! Tất cả đều chết dưới kiếm của Thái tử! Tất cả tân khách trong phủ đều tận mắt nhìn thấy! Chắc chắn Thái tử điên mất rồi! Tay ngài ấy chém thân tộc, đến chú ruột mình cũng ra tay!"

"Bệ hạ! Cha thần theo bệ hạ chinh chiến, trước bảo an sau bọc hậu, trung thành tuyệt đối, có công với xã tắc, vốn nên được sống đến trăm tuổi, không ngờ chết thảm dưới kiếm Thái tử, oan uổng quá!"

"Thái tử điên cuồng bạo ngược, tàn nhẫn ngoan độc, giết sạch chú mình, nguy hiểm như thế, sao đáng là Thái tử?! Chất nhi thân là con của người, quyết không thể ngồi nhìn cha ruột vô tội chết thảm mà nén giận im lặng, nếu bệ hạ không cho chất nhi và người Lý thị một công đạo, chất nhi có liều chết cũng phải xin cho gia phụ!"

Trong điện vắng vẻ, không ai lên tiếng, chỉ có tiếng khóc lớn của Thế tử Hàn Vương quanh quẩn góc vắng nội điện.

Qua tường thuật đứt quãng, mọi người hiểu được ngọn nguồn. Hôm nay trong buổi đại yến ở phủ Hàn Vương phủ, dòng họ Lý thị đang ngồi, rượu vào tai nóng, Lý Huyền Trinh chợt xuất hiện, họ vừa mừng vừa sợ, đang định hỏi chuyện chiến sự tiền tuyến, bỗng hắn rút kiếm, một kiếm giết Hàn Vương.

Lập tức náo loạn, người ngã ngựa đổ.

Vệ binh Vương phủ lập tức rút đao nghênh đón, nhưng không phải đổi thủ của Lý Huyền Trinh, hắn một người một kiếm, giết từ đại sảnh đến nội viện, tự tay giết sáu người nhà Lý thị, đầy người đẫm máu, hai mắt đỏ rực như ác quỷ bò ra từ lòng đất. Vương phủ ngập trong tiếng khóc, mẹ của Thế tử khóc đến hôn mê.

Da mặt già nua của Lý Đức co quắp mấy lần, nhìn Lý Huyền Trinh, run người lặng thinh mãi, bỗng rên một tiếng, té bật ngửa.

"Bệ hạ!"

"Thánh nhân!"

Bọn thái giám cùng tiến lên đỡ Lý Đức. Lý Đức đẩy ra, ụa một búng máu tươi, ngón tay chỉ thẳng vào Lý Huyền Trinh: "Nghiệt chướng! Nghiệt chướng!"

Trước chúng hắn chính tay đâm ruột thịt, chuyện hẳn đã đồn khắp Trường An, thu dọn làm sao đây?

Mắt phượng hẹp dài của Lý Huyền Trinh móc lên, quét qua Thế tử Hàn Vương đang còn rấm rứt, đáy mắt lướt qua vẻ lệ khí hung tợn. Thế tử tận mắt nhìn sáu người nhà bị giết, đã bị dọa mất mật, đến giờ nhìn bộ dáng như hung thần ác sát ngay trước mặt Lý Đức, chợt rùng mình, bò ra ngoài: "Thái tử muốn giết người diệt khẩu!"

Lý Huyền Trinh không thèm để ý, thừa dịp mọi người chú ý vào Thế tử Hàn Vương, chợt nhảy vọt đến ngự án, keng một tiếng, rút bảo kiếm bên cạnh ngự án, mũi kiếm chỉ thẳng vào Lý Đức.

Đám người quá sợ hãi, cuống quít xông lên ngăn cản. Lý Huyền Trinh một chưởng hất tay thái giám nhào lên, mũi kiếm từng tấc từng tấc đâm vào vai phải Lý Đức.

Lý Đức không có trốn tránh.

Chân đám người run lẩy bẩy: Họ có thể không chút do dự bắn chết Lý Trọng Kiền, nhưng người hành thích hiện giờ là Thái tử, Lý Đức không lên tiếng, ai dám ra tay với Lý Huyền Trinh chứ?

Lý Huyền Trinh khóa bả vai Lý Đức, trong tay tiếp tục dùng sức: "Phụ thân, ngài biết tại sao tôi muốn giết người của Lý thị không?"

Lý Đức giận tím mặt, đánh ra một chưởng hùng hậu. Bảo kiếm tuột khỏi tay Lý Huyền Trinh, như không muốn sống hắn tiếp tục nhào đến.

Lý Đức kinh hãi, sợ làm bị thương thằng con, cắn răng thu lại song chưởng, cổ tay khẽ đảo, lật mu bàn tay chụp về phía Lý Huyền Trinh, Lý Huyền Trinh ngã sấp xuống trước ngự án.

Thái giám run rẩy tiến lên định xử lý vết thương cho Lý Đức, Lý Đức đẩy ra, rút bảo kiếm trên vai.

Rèm châu lắc lư, Kim Ngô Vệ chạy tới.

Lý Đức nghiêm nghị nói: "Tất cả lui ra!"

Kim Ngô Vệ nhìn nhau, cười khổ lùi ra ngoài bình phong.

Lý Đức ném bảo kiếm, "Sao lại muốn giết chú ngươi chứ?"

Lý Huyền Trinh nhìn ông cười lạnh: "Năm đó loạn quân đánh vào quận Ngụy... Tất cả đã chạy ra ngoài, chỉ có Mẹ tôi và tôi bị vây ở trong thành nội, ngài cho đấy là trùng hợp sao?"

Con ngươi Lý Đức trợn lớn. Lý Huyền Trinh bò dậy, nói tiếp: "Loạn quân là bị chúng cố ý thả vào thành, vì chúng muốn để mẹ và tôi chết chung một chỗ. Khi đó, có phải ngài đã bắt đầu nói chuyện cưới xin với thế gia khác không?"

Mặt Lý Đức cứng đờ. Lý Huyền Trinh lạnh lùng nhìn cha mình: "Ngài là Đại tướng quân, người người đều nói sau này ngài sẽ trở thành chúa tể một phương, mẹ không xứng với ngài, chúng mới muốn đem một chủ mẫu giúp ích cho Lý gia về, lúc ấy Hàn vương lãnh binh giữ quận Ngụy, biết rất rõ ràng Mẹ với tôi lâm nguy, cố ý thấy chết không cứu, chậm chạp không phái cứu binh..."

Hắn nhắm cặp mắt. "Đêm đó cửa chính đã bị chúng khóa ngoài, còn quăng đuốc muốn thiêu chết mẹ con tôi. Mẹ với tôi chạy đi, khắp nơi đều là loạn binh, tôi sợ khóc lớn, mẹ an ủi tôi rằng, cha tôi là đại anh hùng, chỉ cần tìm thấy cha sẽ tốt, không ai dám khi dễ bọn tôi nữa."

Hắn mở to mắt, trong mắt phượng hoàn toàn vắng lặng. "Lý Đức, khắp nơi rối loạn, Mẹ chỉ là một phụ nữ tay trói gà không chặt, còn dẫn theo một đứa bé, ngài có biết bà gặp chuyện gì không?"

Lý Đức bỗng nhiên trừng to mắt, hai tay run rẩy. Lý Huyền Trinh không lộ chút cảm xúc.

Lý Đức tiến lên một bước, siết chặt cổ áo Lý Huyền Trinh, khuôn mặt già nua vặn vẹo dữ tợn, không còn bình tĩnh thư thái như thường. "Ngươi điên rồi, dám bôi nhọ mẹ ngươi!"

Lý Huyền Trinh nhìn ông: "Ngài vĩnh viễn không biết Mẹ với tôi chịu bao nhiêu đau khổ."

Sắc mặt Lý Đức xanh trắng gần như lệ quỷ, răng nghiến ken két, buông tay lảo đảo lùi ra sau.

Lý Huyền Trinh đứng thẳng nhìn ông: "Mẹ trải qua nhiều khổ sở vậy, luôn nghĩ chỉ cần tìm được ngài sẽ ổn, rồi sao, khi bọn tôi tìm được ngài... Ngài đang cưới con gái Tạ gia, ngài trước mặt Mẹ tôi nói với con gái Tạ gia, vĩnh viễn không tướng phụ."

Vĩnh viễn không tướng phụ, chính là lời thề mà Lý Đức chính miệng lập trong đêm thành thân với Đường Doanh.

Lý Đức không đứng vững, rầm một tiếng ngã ngồi trước ngự án, đổ cả lư hương Toan Nghê, khuôn mặt méo mó: "Sao nàng không nói cho ta? Vì sao?!"

"Nói cho ngài?" ánh mắt Lý Huyền Trinh lạnh băng, "Tại lúc ngài cưới kẻ khác nói với ngài, rồi lại bị ngài vứt bỏ à?"

Đường Doanh không còn tin Lý Đức, bà chịu ở lại bên cạnh chỉ bởi vì đã nhận rõ hiện thực. Cho nên, khi bà và người nhà Lý thị, tỳ nữ Tạ gia cãi nhau, nghe thấy người nhà Lý thị ngấm ngầm bảo bà không xứng là phu nhân, vừa sợ vừa giận, sợ người Tạ gia biết trên đường bà chạy nạn gặp phải chuyện gì.

Lý Huyền Trinh từng chữ nói: "Mẹ chỉ là một người đàn bà bình thường không có kiến thức, bà thực sự quá sợ hãi, kết quả động thai khí đẻ non, đứa bé sinh ra đã không có hơi thở."

Lý Đức mặt trắng bệch, môi run run, không nói ra chữ. Doanh nương đã sinh non?

"Lúc ấy mẹ đã lo liệu xong, mẹ cho người chôn đứa nhỏ. Sau này nhũ mẫu nói với tôi, nếu ai cũng biết mẹ đẻ non, sẽ chỉ cho là bà thương tâm ấm ức mới tự vẫn, vậy thì sao ngài không quên được bà cả đời được? Cho nên bà bảo nhũ mẫu giấu diếm giùm bà, ngay khi ngài về nhà sẽ một đuốc mà đốt viện tử, chỉ làm vậy mới khiến ngài minh tâm khắc cốt, áy náy cả đời."

Bà chết, bảo toàn thanh danh, tranh thủ vị Thế tử cho Lý Huyền Trinh. Lý Đức cả đời không quên được bà.

Lý Huyền Trinh nhặt bảo kiếm trên đất: "Mẹ đã đạt được thứ bà muốn... Nhưng mà Mẹ chưa từng hỏi tôi, tôi có muốn làm Thế tử không?"

Trong thời loạn hắn không cầu gì khác, chỉ muốn cùng mẹ sống tốt, hắn khuyên Đường Doanh đừng tranh chấp với Tạ thị, tâm nguyện duy nhất là loạn thế sớm kết thúc, ai ai đều yên ổn.

Khi biết mẹ mang thai, hắn mừng như điên. Hắn là anh trai, hắn sẽ bảo vệ em trai, em gái hắn thật tốt, vì họ mà chống đỡ một mảng trời, cho họ vô ưu vô lự lớn lên.

Em gái vừa ra đời đã chết, không kịp lớn lên. Mẹ cũng đã chết, lúc chết còn điên điên khùng khùng, bảo hắn báo thù cho bà.

Lý Huyền Trinh quỳ gối trước mặt Mẹ, rưng rưng lập lời thề. Hắn hận Lý Đức, hận cuộc đời loạn lạc này, hận tất cả mọi người, hắn muốn tất cả chôn cùng mẹ hắn. Áy náy vì mẹ đã làm hắn mất lý trí, thay đổi thất thường.

Hắn biết rõ Lý Dao Anh vô tội, lần lượt mềm lòng, lại lần lượt nhớ tới mẹ mà trở nên cứng rắn.

"Tôi đã tra rõ, người đêm đó sai kẻ hầu khóa lại cửa sân đã chết dưới kiếm của tôi, lúc ngài cưới con gái Tạ gia, người ngăn mẹ và tôi đi dự lễ không phải người Tạ gia, là người của dòng họ Lý thị."

"Ta giết cả rồi."

"Tôi không thể hoàn thành tất cả nguyện vọng của mẹ, tôi có lỗi với mẹ, đợi xuống dưới cửu tuyền, tôi sẽ nhận tội với mẹ." Lý Huyền Trinh quay người, đi qua ngự án, chém xuống một kiếm.

"Thái tử dừng tay!"

Một tiếng xé gió mà tới, mưa tên xé rách không khí, hung hăng đáp trên vai Lý Huyền Trinh. Lý Huyền Trinh không chút lung lay, trường kiếm trong tay vẫn chém tới Lý Đức.

Kim Ngô Vệ muốn rách mí mắt, bay tới, ngăn lực chém như ngàn quân, ôm Lý Đức lộn mấy vòng. Đám khác tiếp tục bắn tên.

Vẻ mặt Lý Huyền Trinh chết lặng, lại giơ lên bảo kiếm. Hàng đêm hắn gặp ác mộng, người không ra người, quỷ không ra quỷ, chỉ có một đoạn thời gian ngắn ngủi an bình ở Xích Bích kia không bị ác mộng quấn quanh.

A Nguyệt mang đến an bình một thoáng, bị hắn tự tay đưa đến đường cùng.

Hắn tự làm tự chịu. Mặt Lý Huyền Trinh nặn lên một nụ cười nhạt nhẽo.

Mũi tên như mạng nhện, bao phủ bay về phía hắn. Môi hắn vẫn mang nụ cười, ngã xuống.

"Không!"

Lý Đức đẩy Kim Ngô Vệ ra, bò dậy: "Dừng tay hết cho trẫm!"

Kim Ngô Vệ vội vàng thu cung tên.

Lý Đức bước qua tên loạn đầy đất, vọt tới trước Lý Huyền Trinh, đỡ hắn dậy. Lý Huyền Trinh máu me khắp người, giãy dụa sờ lấy một mũi tên, đâm về Lý Đức.

Lý Đức đẩy tay hắn ra: "Chương Nô, con điên rồi!" Nó không nên ép mình hạ lệnh Kim Ngô Vệ giết nó? Nó là Thái tử, là Hoàng đế sau này, toàn bộ thiên hạ mình đều để lại cho nó, vì thứ gì mà nó chẳng thèm ngó ngàng?

Lý Huyền Trinh nhếch môi, hàm răng bị máu tươi nhiễm đỏ: "Lý Đức, ngài không chết, thì tôi vong..."

Chỉ thế hắn mới có thể giải thoát. Hắn muốn làm Trường Sinh nô của mẹ, không muốn dùng mạng của mẹ đổi lấy vị trí Thế tử đâu!

Lý Đức muốn rách cả mí mắt.

...

Sau nửa canh giờ, cung Thái Cực truyền ra một tin, Thái tử Lý Huyền Trinh say rượu phát cuồng, ngộ sát mấy người Hàn Vương, Lý Đức nổi giận, hạ lệnh giam ngài vào địa lao.

Tất cả chấn kinh.

Dòng họ Lý thị vô cùng bất mãn, mấy vị Vương phi đốt giấy để tang, quỳ trước cửa cung khóc rống, đại thần trong triều dâng sớ vạch tội, đều bị Lý Đức lấy thủ đoạn lôi đình trấn áp. Vài ngày sau, Đại Lý Tự tra ra Hàn vương xem mạng người như cỏ rác, cướp bóc lương dân, thu hối lộ, chiếm ruộng tốt mấy chục tội trạng, Hàn Vương thế tử cũng bị liên luỵ, mang tội phải vào tù.

Lý Đức chém một nhóm quý thích, chưa xong việc mà thu tay, vẫn tiếp tục tra rõ tôn thất, người người bất an, ông thừa cơ lưu đày mấy vị thân Vương, ra tay tàn nhẫn, không hề lưu tình, đại thần trong triều câm như hến. Trong khi đó, Lý Đức không ngừng cho người thuyết phục Lý Huyền Trinh, Lý Huyền Trinh vẫn không nói gì.

Vài hôm sau, Thái tử phi Trịnh Bích Ngọc vào cung, gặp chồng trong địa lao.

"Đại Lang..." Nàng đưa một cuộn da cừu niêm phong sáp, "Này từ Y Châu gửi về."

Lý Huyền Trinh không nhúc nhích. Trịnh Bích Ngọc nói khẽ: "Văn Chiêu công chúa còn sống."

Lý Huyền Trinh cứng đờ người, mở choàng mắt. "Nàng nói gì?" Hắn khàn giọng hỏi.

Trịnh Bích Ngọc nói: "Người chàng sắp xếp đưa Chu Lục Vân đi Y Châu, trong lúc vô tình họ nghe ngóng được, Văn Chiêu công chúa còn sống, em ấy bị Hải Đô A Lăng bắt đi."

Chu Lục Vân vô cớ biến mất, Lý Huyền Trinh không nghe không hỏi tới, Trịnh Bích Ngọc chẳng hiểu thế nào, mãi đến khi Đỗ Tư Nam gửi đến cuộn da cừu. Thì ra người là do Lý Huyền Trinh đưa tiễn, Chu Lục Vân muốn đoàn tụ với người cô, hắn thành toàn, thuận tiện phái thân binh ẩn mình bên cạnh, tra rõ tai mắt Bắc Nhung cài vào Đại Ngụy. Trước đó hắn làm bộ không biết, chỉ để che mắt người Bắc Nhung.

Người này an bài vì mọi người hết rồi. Chàng đã chuẩn bị chờ chết.

Trịnh Bích Ngọc nhìn ánh mắt Lý Huyền Trinh, thỏ thẻ: "Đại Lang, giờ chàng không giết được Thánh thượng... Trong lòng chàng vẫn còn vướng bận, Văn Chiêu công chúa là ràng buộc của chàng, em ấy vẫn còn sống, chàng đi tìm đi, là chàng đã đưa em đi, thì cũng nên là chàng đón về."

"Đây là chàng đã mắc nợ em ấy."

Lý Huyền Trinh cúi đầu, nắm chặt cuộn da dê, mu bàn tay nổi gân xanh.

Nước chảy róc rách, bóng hòe xanh rì, liễu rũ nhẹ phẩy theo gió.

Xe ngựa chạy tới trước cây cầu dài vượt sông, dừng trước bờ sông, hộ vệ tùy tùng lui xuống, Trịnh Bích Ngọc vén rèm, ánh mắt đảo một vòng, ra hiệu Lý Huyền Trinh có thể xuống xe.

Lý Huyền Trinh đầu chít khỏa bình*, mặc áo bào vải không mới không cũ, nhảy xuống xe ngựa, thân binh dắt ngựa đến, yên ngựa trang bị vật dụng, túi đựng tên, bao khỏa...

Trịnh Bích Ngọc không xuống xe, ngồi trong xe nhẹ nhàng nói: "Điện hạ, chỉ đưa được chàng đến đây."

Lý Huyền Trinh quay đầu nhìn nàng: "Ngọc Nương, tạ ơn nàng."

Trịnh Bích Ngọc cười: "Điện hạ không cần tạ ơn ta, chỉ vì ta còn thiếu ân tình điện hạ năm đó."

Lý Huyền Trinh nhớ tới nam tử kia, giật mình.

Cạnh cầu gió lớn, Trịnh Bích Ngọc đưa tay vén sợi tóc mai bị gió thổi loạn: "Đại Lang, năm đó chàng không giết Trịnh Võ, ta rất cảm kích chàng."

...

Trịnh Võ là người hầu của Trịnh gia, sau trở thành hộ vệ của Trịnh Bích Ngọc, khi nàng lấy chồng lần đầu, Trịnh Võ đưa nàng xuất các, nhìn nàng cùng chồng bước vào thanh lư, động phòng hoa chúc.

Trịnh Bích Ngọc chưa từng nhìn Trịnh Võ hơn một cái, nàng là đích nữ thế gia, xuất thân cao quý, danh tiếng hiền huệ truyền xa, hẳn sẽ gả vào vọng tộc làm chủ mẫu, đâu thể thiếu tự trọng, để ý nô bộc trong nhà?

Ngay hôm sau ngày nàng thành thân, Trịnh Võ rời đi.

Hắn ra chiến trận, theo Trịnh công tử chinh chiến sa trường, bắt đầu từ sĩ tốt nhỏ nhất, từng chút từng chút góp nhặt quân công. Hắn anh dũng giết địch, lên chức rất nhanh, nhưng trong thời loạn người như hắn thực sự nhiều lắm, dù gì hắn cũng chỉ là thế bộc của Tạ gia, mặc hắn liều mạng cỡ nào cuối cùng cũng chỉ là Tiểu giáo úy cạnh Trịnh công tử.

Ngày chồng đầu của Trịnh Bích Ngọc chết trên tay Lý gia, trước mấy ngày thành phá, Trịnh Võ tìm đến nàng.

"Nữ lang... Triệu gia không phải đối thủ của Lý gia... vài ngày nữa quân Ngụy sẽ tấn công vào thành." Hắn cầm đao đứng dưới thềm, cả người đầy máu, vẻ thiếu tự nhiên, ánh mắt đen láy thẳng tắp nhìn Trịnh Bích Ngọc.

Cuối cùng, hắn lấy dũng khí nói ra: "Đi theo ta đi, ta dẫn nữ lang rời đi, sau này đối xử tốt với nữ lang cả đời."

Trịnh Bích Ngọc từ nhỏ thuộc lòng nữ huấn, gò bó khuôn phép, chưa hề làm qua chuyện gì khác người. Đêm đó, không biết từ đâu nàng có được quyết tâm, xách mép váy từng bước bước xuống thềm đá, đi đến trước mặt Trịnh Võ.

Trịnh Võ mở cờ trong lòng.

Họ đều không nói gì, nhìn nhau trong chốc lát.

Ngay lúc Trịnh Võ định mở miệng, chợt vang tiếng bước chân, người Trịnh gia phái tới trà trộn vào Triệu phủ tìm tới, quỳ dưới chân Trịnh Bích Ngọc: "Nữ lang, một chi xa của họ chúng ta đang ở dưới trướng đại tướng quận Ngụy, rất được tin tưởng, lang quân phái bộc đến báo cho nữ lang, Ngụy quân thế như chẻ tre, khí số của Triệu gia đã hết, dặn nữ lang đừng kinh hoàng, Lý đại tướng quân quận Ngụy đã truyền chỉ lệnh, Ngụy quân sẽ không mạo phạm nữ lang."

Thoảng như có cơn gió thổi qua, ngọn lửa mới dấy lên ở đầu quả tim Trịnh Bích Ngọc lập tức dập tắt.

Nàng ở lại Triệu gia, chờ người trong họ đến đón nàng. Trịnh Võ không nói không rằng, quay đi.

Không lâu sau, Triệu gia hủy diệt, Lý gia phái người đến cửa, Trịnh Bích Ngọc gả cho Lý Huyền Trinh.

Đêm thành hôn, nàng ngồi trong thanh lư, đoan trang dịu dàng, Lý Huyền Trinh ngồi cạnh nàng, tuấn lãng trầm tĩnh, hai người đều bình thản đến gần như lạnh lùng, không lộ vẻ gì vui mừng, bà chúc hỉ không khỏi ngượng mặt, không dám thốt ra lời ghẹo.

Lúc nửa đêm, nến đỏ treo cao, tân khách đều rời đi, Trịnh Bích Ngọc nhìn ánh nến chập chờn không biết vì sao bỗng nhiên đỏ mắt.

Lý Huyền Trinh nhìn nàng, đứng dậy, nói: "Nàng nghỉ ngơi trước đi."

Trịnh Bích Ngọc sững sờ.

Lúc này, ở tường sau vườn nghe tiếng đánh nhau ầm ĩ, có người cao giọng hét lên có thích khách. Lý Huyền Trinh vén rèm ra ngoài.

Không bao lâu, Trịnh Võ bị trói gô đưa đến trước mặt Lý Huyền Trinh, hộ vệ gặng hỏi, hắn không nói một lời.

Lý Huyền Trinh giơ đao lên.

Trong trướng Trịnh Bích Ngọc có linh cảm, lần ra ngoài, nhận ra Trịnh Võ, hơi thở đông cứng. Trịnh Võ thấy nàng, con mắt chăm chú nhìn nàng. Cả người Trịnh Bích Ngọc cứng ngắc, nhưng không mở miệng ngăn cản Lý Huyền Trinh.

Trường đao rơi xuống, nàng cắn chặt răng, không thốt một tiếng.

Trịnh Võ cũng không lên tiếng.

Hắn không chết, một đao kia chỉ gọt vài cọng tóc.

Trịnh Bích Ngọc chảy nước mắt.

Lý Huyền Trinh ra hiệu những người khác lui ra, cởi trói cho Trịnh Võ, quay nhìn Trịnh Bích Ngọc. "Các ngươi đi đi."

Hai mắt Trịnh Bích Ngọc rưng rưng, từng bước đi đến trước mặt Lý Huyền Trinh, cúi lạy. "Còn Thế tử phải làm sao?"

Lý Huyền Trinh xách đao, mặt không phẫn nộ cũng không căm hận, bình tĩnh nói: "Vợ của ta chỉ cần là đích nữ Trịnh thị là đủ. Ngọc Nương, ta không phải người chồng tốt, nếu Ngọc Nương chỉ cầu làm Thế tử phu nhân tôn vinh, ta cam đoan sẽ tôn kính nàng, đối xử tốt với nàng, còn cái khác, ta không cho được. Ngọc Nương lòng đã có nơi yêu thương, đừng uất ức chính mình, ta sẽ xử lý tốt mấy chuyện sau này, cha nàng sẽ không phái người truy sát các người đâu."

"Ta sẽ bảo Tần Phi hộ tống các người rời đi, trước tiên các người có thể đi Nam Sở tránh đầu gió, mai sau ta lại cưới một cô con gái khác của Trịnh thị, dòng dõi Trịnh gia vẫn hưng vượng."

Trịnh Bích Ngọc hạ giọng cảm ơn nước mắt ròng ròng, Trịnh Võ mừng rỡ, kéo tay nàng, dẫn nàng rời đi.

Không có nỗi lo về sau, không bị đuổi theo, không cần áy náy liên lụy gia tộc... mọi lo lắng của Trịnh Bích Ngọc đều sẽ không có, nàng có thể buông tất cả gánh nặng, theo Trịnh Võ rời đi.

Nhưng một khắc bước ra cửa sân, nàng lại dừng bước.

Trịnh Võ dừng lại, cúi nhìn nàng, vẻ mặt từ vô cùng vui mừng, nghi hoặc, ngớ người, chấn kinh, phẫn nộ, thất vọng, cuối cùng là lòng như tro nguội.

Hắn hiểu rất rõ Trịnh Bích Ngọc, nàng sinh ra là một nữ tử tính tình lạnh lùng, lý trí mà khắc chế.

Nàng là con gái thế gia, vứt bỏ thân phận cùng hắn rời đi, hai người sau này làm gì để sống qua ngày? Làm sao đối mặt với đàm tiếu của người đời?

Gả cho Lý Huyền Trinh, nàng chính là phu nhân của Thế tử Lý gia, sau này còn có thể trở thành Thái Tử Phi, thậm chí là thê bằng phu quý trở thành Mẫu nghi một nước, sao cam tâm vì một thế bộc thân phận hèn mọn từ bỏ mọi thứ?

Trịnh Võ cười tự giễu, nhẹ nhàng buông tay Trịnh Bích Ngọc. "Tôn ti có thứ tự, không thể vượt giới hạn. Bộc si tâm vọng tưởng, xin Thế tử và Thế tử phu nhân thứ tội."

Trịnh Bích Ngọc đưa mắt nhìn bóng lưng hắn biến mất trong bóng đêm đen kịt, phủi nhẹ nước mắt bờ mi, trở lại thanh lư, ngồi trơ suốt đêm.

Mấy năm sau, trong lúc vô tình Trịnh Bích Ngọc nghe được một tin dữ, Trịnh Võ chết rồi.

Trịnh Bích Ngọc không hề lộ cảm xúc, hờ hững ừm rồi tiếp tục cười nói với đám phụ nữ trong bữa tiệc, trở về nội viện, ôm con dỗ nó ăn canh nóng, trên mặt vẫn treo nụ cười.

Nàng cười cả ngày, thẳng đến nửa đêm, bỗng từ trong mộng bừng tỉnh, gọi tên Trịnh Võ.

Một tấm khăn đưa tới trước mặt nàng, Lý Huyền Trinh nhìn nàng, trong mắt phượng không hề có vẻ cười nhạo khinh thị, nói: "Ngọc Nương, nén bi thương."

Trịnh Bích Ngọc lã chã rơi lệ.

...

Trước cây cầu dài, yên liễu đưa tình.

Lý Huyền Trinh đứng cạnh tuấn mã, hỏi: "Ngọc Nương, nàng có từng hối hận không?"

Trịnh Bích Ngọc lắc đầu: "Điện hạ, thiếp chưa hề hối hận." Nàng hiểu mình, có làm lại lần nữa, nàng vẫn chọn như vậy. "Đại Lang, thiếp không hối hận... Nhưng mỗi lần nhớ đến Trịnh Võ, trong lòng đều thấy trống rỗng một khoảng, dù bù đắp cách nào cũng không thể lấp chỗ trống."

Trịnh Bích Ngọc nhìn Lý Huyền Trinh, chân thành nói: "Thiếp đã không có cơ hội bù đắp, cho nên trước kia dù chàng và Chu Lục Vân loạn thế nào, thiếp cũng hy vọng chàng có thể cùng người mình yêu song túc song tê*."

*chỉ loài chim trống mái gắn bó, tình cảm nam nữ sâu sắc như hình với bóng.

Mấy năm qua Lý Huyền Trinh đối với nàng không tệ, nàng là gái hai đời chồng, đêm tân hôn còn suýt rời đi cùng một người đàn ông khác, chàng biết toàn bộ, cũng hiểu sở cầu của nàng là vinh hoa, chưa hề giễu cợt khinh miệt nàng.

Nàng cảm kích chàng, thương hại chàng, nàng thanh tỉnh lý trí, lòng đã già nua từ lâu, chỉ cần gia đình yên ổn, hoàn toàn không quan tâm oanh oanh yến yến cạnh chàng. Chàng vẫn còn có cơ hội giày vò vì tình, tốt biết bao!

"Đại Lang, Văn Chiêu công chúa còn sống, chàng còn cơ hội chuộc tội, nhận rõ lòng mình, đừng vì thù hận che mắt chàng, người chết không thể sống lại, đừng để mình tiếc nuối."

Lý Huyền Trinh ngơ một lát, trở mình lên ngựa. "Ngọc Nương, mấy năm nay ta không chịu buông tha Lý Trọng Kiền, cuối cùng còn ép A Nguyệt hòa thân, vì đâu nàng ấy còn muốn liều chết cho thân binh cảnh báo ta?"

Trịnh Bích Ngọc hất cằm: "Điện hạ cho là Thất công chúa ghi hận trong lòng với chàng và toàn bộ triều đình, ngồi nhìn Bắc Nhung đánh lén Đại Ngụy, muốn Đại Ngụy và mấy triệu bách tính chôn cùng theo mình ư?"

Nàng cười một tiếng. "Điện hạ, chàng quá coi thường người."

Lý Huyền Trinh kéo cương: "Đúng, ta quá coi thường người. Ta luôn tự nhủ, Lý Đức là thiên tử, ông có chỗ bất đắc dĩ của mình, thiên hạ còn chưa nhất thống, ta không thể vì thù riêng mà giết ông, nên ta để Lý Trọng Kiền ra tay, vị trí Thế tử là mẹ dùng mạng đổi lấy, không ai có thể cướp đi."

Hắn lặng thinh thật lâu, những năm qua đang lướt lên trong đầu. "A Nguyệt đã cho ta cơ hội... Nếu khi đó ta bình thản ôn hòa nhận thiện ý của nàng, sẽ không phát sinh những việc thế này."

Hắn quá bướng bỉnh. "Ta có gì khác Lý Đức chứ?"

Gặp thời loạn, nam nhi tốt, không nghĩ tới cứu giúp núi sông, bình định loạn thế, giải cứu vạn dân trong nước lửa, vì ước nguyện của mẹ không phân biệt thị phi, vô tri vô giác. A Nguyệt bị dồn vào đường cùng, vẫn giữa thù riêng và đại nghĩa quả quyết lựa chọn đại nghĩa, hắn có khát vọng chấm dứt thời loạn, lòng lại hẹp hòi, dung túng thuộc hạ tính toán trung lương.

Một phòng không quét, quét làm sao được thiên hạ?

Hắn bị tâm ma vây khốn, căn bản không xứng là Thái tử một nước.

"Ngọc Nương, nàng là một người mẹ tốt." Lý Huyền Trinh thúc nhẹ bụng ngựa, "Dạy con chúng ta cho tốt, đừng để nó lớn lên giống như ta."

Trịnh Bích Ngọc gật đầu: "Chàng yên tâm."

Tuấn mã tung vó, dần đi xa.

Nhưng đúng lúc này, tiếng vó ngựa từ cổng thành truyền đến như sấm, bụi mù tung kín, mấy chục khoái mã lao vụt mà tới.

"Thái tử điện hạ —— " Bùi Đô đốc dẫn đầu la to: "Dừng bước!"

Lý Huyền Trinh không quay lại.

Bùi Đô đốc gầm lên: "Điện hạ, Thánh thượng có lệnh, Điện hạ đi tiếp một bước, bọn ta sẽ bắn tên!"

Lý Huyền Trinh vẫn không quay đầu.

Khoái mã xông lên đầu cầu, Bùi đô đốc cắn răng, trầm giọng: "Bắn tên!"

Kim Ngô Vệ hô vâng, giương cung buông dây, một tiếng bén nhọn xé gió, mưa tên như châu chấu chụp về Lý Huyền Trinh.

Lý Huyền Trinh giục ngựa về hướng Tây, bóng lưng kiên định đơn độc. A Nguyệt còn sống, hắn còn có cơ hội xin tội, dù nàng có tha thứ hắn không, hắn vẫn muốn đi cứu nàng.

Lý Huyền Trinh trước kia đã chết.

Bùi Đô đốc đến cùng không dám hạ sát thủ, đành đưa mắt nhìn theo bóng Lý Huyền Trinh biến mất trong yên liễu khói sương, hồi cung nghe lệnh.

"Thánh thượng, Thái tử Điện hạ đã đi."

Vết thương kiếm đâm trên vai Lý Đức còn chưa tốt, nghe vậy, ụa ra một búng máu.

Vị trí Thái tử mà Đường Doanh dùng mạng đổi lấy, Lý Huyền Trinh nói không cần là không cần.

Tâm huyết nửa đời người của ông, cứ vậy bỏ đi!

Cô gia quả nhân... Cô gia quả nhân...

Lý Đức nhìn vết máu đỏ tươi trên tấu chương, hai tay run rẩy. Đứa con trai ông thương yêu trân trọng nhất cũng vứt bỏ ông mà đi.

Hương khói lượn lờ trước ngự án.

...

Lý Huyền Trinh rời Trường An, ra roi thúc ngựa, ăn uống trên lưng ngựa, bằng tốc độ nhanh nhất đuổi tới Lương Châu. Quan viên Lương Châu giật cả mình, Lý Huyền Trinh gọi tướng thủ thành đến, bố trí từng việc, chúng tướng tuân lệnh.

Hắn đổi con ngựa tốt, châm đầy túi nước, mang theo mấy con ngựa không ai ngồi dự bị, lên đường về phía Tây.

Cuối cùng dãy Kỳ Liên Sơn nguy nga đã xuất hiện nơi chân trời, hắn đội mũ mềm, thay áo da dày, không dừng lại ngủ đêm, tiếp tục đi đường.

Cảnh giới Bắc Nhung rất nghiêm ngặt, nghiêm cấm người Hán nhập quan, cũng may trước khi hắn xuất phát nhận được tuyến báo của thân binh, trên đường đi tránh các trạm gác của đối phương, hữu kinh vô hiểm tiến vào địa phận sông Lũng, ngẫu nhiên gặp được một đội binh tuần tra Bắc Nhung, bị nghi vấn, hắn không nói không rằng trực tiếp chém giết, cướp ngựa, sau đó nhanh chóng đổi hướng đi tiếp.

Khắp nơi mênh mông vô ngần, tiếng gió rít gào, giữa trời đất không thấy bất cứ gì khác, dường như chỉ có một mình hắn.

Hôm ấy, hắn đã ba ngày chưa ăn, vừa mệt vừa đói vừa lạnh vừa khát, vượt qua núi non trùng điệp tuyết trắng bao phủ, đột nhiên nghe được một tiếng bén nhọn.

Một mũi tên sắt phá gió tuyết, bắn ra.

Lý Huyền Trinh ngửa người ra sau, né mũi tên, té xuống lưng ngựa. Tuấn mã chấn kinh, nâng vó trước, hí lên cao vút.

Mấy bóng đen từ dưới đất tuyết trồi lên, bổ vào trước đường núi, ghìm chặt con ngựa đang chấn kinh, một người đi đến trước mặt Lý Huyền Trinh, một đao chém xuống, khí thế ác liệt.

Gió lạnh thấu xương thổi rối bời tóc hắn, lộ ra đôi mắt phượng âm u.

Lý Huyền Trinh lộn một cái né tránh trường đao, tháo mặt nạ. Đối phương nhận ra hắn, run run, lập tức, trong mắt phượng dâng lên hừng hực lửa giận, nhấc cánh tay giơ đao, khuôn mặt dữ tợn.

Lý Huyền Trinh nhìn đối phương, không đánh trả: "Lý Trọng Kiền, Minh Nguyệt Nô còn sống."

Hắn luôn phái người đi theo Lý Trọng Kiền, biết hắn tìm kiếm xác Lý Dao Anh khu vực này, đến Hà Lũng là để báo tin cho Lý Trọng Kiền.

Nghe thấy tên em gái, Lý Trọng Kiền chấn động cả người, cứng rắn dừng trường đao trong tay, mắt phượng mở lớn, tiến lên một bước, túm cổ áo Lý Huyền Trinh: "Ngươi nói cái gì?"

Giọng khàn đặc, đôi mắt đỏ như máu, ánh mắt âm trầm như muốn ăn tươi nuốt sống người kia.

"Ta không lừa ngươi." Lý Huyền Trinh từng chữ nói, "ta lấy mạng ra thề, em ấy còn sống, lúc Diệp Lỗ bị diệt em ấy bị Hải Đô A Lăng bắt đi, tin từ Bắc Nhung đưa về, vô cùng chính xác."

Lý Trọng Kiền không nói, con mắt đỏ như nhỏ ra máu, cánh tay siết chặt cổ áo Lý Huyền Trinh run rẩy từng đợt. Hắn nhìn thân binh bên cạnh, động tác quỷ dị.

Thân binh quỳ rạp xuống đất, giọng run run, gật đầu: "Lang quân, không phải ngài đang nằm mơ! Ngài không có điên! Thất công chúa còn sống!"

Con mắt đỏ ngầu của Lý Trọng Kiền thoáng hiện vài tia sáng, "Minh Nguyệt nô còn sống..."

Mấy ngày qua hắn luôn mơ thấy Tiểu Thất, mơ thấy con bé gối đầu lên đầu gối hắn nũng nịu, mơ thấy con bé vô cùng vui sướng dạng chân tập đi, mơ thấy con bé tỉnh từ cơn hôn mê, nhìn thấy mặt hắn, hai mắt tỏa sáng: "Anh, anh còn sống!"

Hắn mơ thấy con bé một mình trơ trọi ngồi trong lều khóc, chung quanh đều là người Diệp Lỗ thô lỗ, con bé khóc gọi tên hắn, gọi hắn cứu mình. Hắn muốn cứu con bé nhưng cơ thể không thể động đậy, đành trơ mắt nhìn em chịu khổ.

Mỗi lần bừng tỉnh từ cơn ác mộng, trước mắt chỉ có một mảnh xám mênh mông hoang dã.

Đôi khi hắn mơ thấy mình tìm rồi lại tìm, tìm rất lâu không tìm được em mình, bỗng có người vỗ vỗ vai hắn, cười khanh khách: "Thất công chúa còn sống nha? Ngươi đang tìm cái gì?"

Trong mơ Lý Trọng Kiền mừng phát điên, đúng, hắn ngốc quá, Tiểu Thất còn sống mà! Sau khi tỉnh lại, hắn ngơ ngác ngồi dựa vào sơn động, hiểu ra vừa rồi chỉ là giấc mộng..

Cảnh trong mơ tươi đẹp đến chừng nào, vừa thức tỉnh có chừng ấy tê tim liệt phổi.

Ở ngoài ngàn dặm đột nhiên Lý Huyền Trinh xuất hiện ở trước mắt, hẳn đây cũng chỉ là một giấc mơ ly kỳ. Thân binh quỳ dưới chân hắn, nói đây không phải mộng. Tiểu Thất còn sống.

Lý Trọng Kiền quay đầu nhìn thẳng Lý Huyền Trinh, mắt phượng lóe ra ánh sáng lạnh lẽo hung ác như băng, sắc bạc lóe lên trường đao chém xuống.

Lý Huyền Trinh bay ra sau, né phát đao tàn nhẫn này. "Minh Nguyệt nô đang ở Bắc Nhung, Lý Trọng Kiền, bằng mấy người các ngươi, làm sao cứu em ấy đây? Cho là các ngươi cứu em ấy ra khỏi Bắc Nhung đi. Làm sao các ngươi về được Trung Nguyên?"

Hắn đứng trong đống tuyết, khuôn mặt trầm tĩnh. "Không có người dẫn đường, không có chỉ dẫn, bao lâu ngươi mới tìm được em ấy? Một năm? Hai năm?"

"Lý Trọng Kiền, giờ người của ta đang ở Nha trướng Bắc Nhung, ta có cách trong vòng hai tháng đến Y Châu, ngươi giết ta, ai dẫn ngươi đi cứu Minh Nguyệt nô?"

Lý Trọng Kiền hé mắt.

Lý Huyền Trinh nói: "Món nợ giữa ngươi ta, sau sẽ tự có một ngày tính toán rõ ràng. Ngay lúc này, ta chỉ muốn cứu Minh Nguyệt nô trước."

Lý Trọng Kiền thu trường đao.

Không gì quan trọng bằng sự an nguy của Tiểu Thất.

Tiểu Thất, đừng sợ, chờ anh, anh tới cứu em.

Mười ngày sau, đoàn Lý Trọng Kiền, Lý Huyền Trinh đến Sa Châu.

Bắc Nhung ban bố lệnh cấm biên, bảo vệ cực kỳ nghiêm ngặt, đội buôn hay người đi đường qua lại phải qua kiểm tra cẩn thận.

Lý Huyền Trinh đã chuẩn bị từ trước, lúc xuất phát ở Lương Châu đã bố trí, lợi dụng mật thám của Trưởng công chúa Nghĩa Khánh bị bắt lúc trước, giả giấy tờ, ngụy trang thành thám tử Bắc Nhung, lấy danh nghĩa "dâng quà chúc thọ cho Trưởng công chúa Nghĩa Khánh" để thông qua kiểm tra của quân canh giữ Bắc Nhung, thuận lợi qua quan ải, còn nghênh ngang vào ở dịch trạm của Bắc Nhung, đi nhanh nói nhanh, yêu cầu ngựa tốt nhất nhanh nhất.

Trong lúc đó tình cờ có vị tướng thủ biên hoài nghi thân phận họ, mật thám kia liền nổi giận, quát lớn, vênh mặt hất hàm sai khiến, lên cơn ngang ngược, uy hiếp rằng đến nha đình Y Châu sẽ mời Trưởng công chúa Nghĩa Khánh làm chủ cho gã, đuổi đám tướng thủ này đến Tát Mạt Kiện cuối ngọn gió Tây Bắc đi.

Sarmakand so với Toái Diệp, Khanh Quốc*, Sử Quốc, các vùng xa hơn nữa, sản vật phong phú, thương nhân tụ hợp, vừa vặn nằm trong con đường tơ lụa thông với Ba Tư, vô số đội buôn đi dọc đường, vận chuyển tơ lụa, đồ sứ, trà Trung Nguyên về phía Tây, vị trí địa lý hiểm yếu. Mấy năm gần đây Bắc Nhung rất nhanh mở rộng, Ngỏa Hãn Khả Hãn đối với những vùng đất phía Bắc Lĩnh Nam màu mỡ thèm nhỏ dãi đã lâu, trước đó từng phái một đội viễn chinh tiến xa nhất đến Sarmakand, sau đó không còn tin tức. Nội bộ của giai cấp Bắc Nhung rất nghiêm, đại bộ phận quân sĩ xuất thân bình dân đều sợ bị đày đi Sarmakand chịu chết. Tướng thủ biên đang nửa tin nửa ngờ, gặp thái độ thân binh phách lối, không dám đắc tội, lập tức cho đi.

*Trung Á Uzbekistan ngày nay.

Mật thám nói cho nhóm Lý Huyền Trinh, sau khi Trưởng công chúa Nghĩa Khánh hòa thân ở Đột Quyết, lần lượt gả cho ba cha con Lão Khả Hãn, sau này họ thần phục Bắc Nhung, Trưởng công chúa Nghĩa Khánh rơi vào tay của quý tộc Bắc Nhung, là lão sư của Hải Đô A Lăng.

Tiếng Hán của Hải Đô A Lăng chính là do Trưởng công chúa Nghĩa Khánh dạy, sở dĩ y nắm rõ phong thổ, triều đình các nước Trung Nguyên như lòng bàn tay đều nhờ vào Trưởng công chúa Nghĩa Khánh hết mình truyền đạt.

Cả nhóm bôn ba cả ngày lẫn đêm, thời tiết ngày càng lạnh, khắp nơi mênh mông, đi suốt mấy ngày không gặp bóng dáng một ốc đảo, khắp nơi chỉ thấy cát và lẫn trong cát là xương ngựa, xương lạc đà, thậm chí là xương người.

Thỉnh thoảng gặp được thành nhỏ xây cạnh ốc đảo, bọn hắn chui vào thăm dò tin tức từ dân thường, không thu hoạch được gì, đa số người dân vẻ mặt xanh xao chết lặng, không dám trò chuyện với người lạ. Sợ hỏi nhiều gây nghi ngờ, đành thôi.

Lý Huyền Trinh sầm mặt. Càng đi về Tây Bắc, hắn càng phát hiện con dân còn muốn khổ hơn hắn từng tưởng tượng.

Sa Châu, Qua Châu giờ đã thất thủ trước Bắc Nhung. Càng đi, bọn họ càng thấy người dân bất kể là người Hồ hay người Hán, tất cả đều phải thắt bím mặc áo chéo vạt trái giống như người Bắc Nhung, nói tiếng Hồ, dự lễ người Hồ. Bắc Nhung phân biệt cao quý bần tiện, dân chúng ở tầng lớp dưới cùng được xem như súc vật, cảnh ngộ bi thảm. Mỗi khi có binh sĩ Bắc Nhung đi ngang, dân thường phải né vào ven đường, cung kính hành lễ, không được nhìn thẳng. Ai dám cao giọng nói chuyện hay giương mắt nhìn binh sĩ, đều bị coi là bất kính, nhẹ bị quất roi trước chúng, nặng bị bẻ tay móc mắt, kết quả rất thê thảm.

Lý Huyền Trinh sợ bại lộ thân phận, trên đường gặp được lính Bắc Nhung ức hiếp dân lành không thể tiến lên ngăn cản, đành yên lặng cắn răng.

Có lần, họ nhìn thấy lính Bắc Nhung xua đuổi một nhóm người già quần áo lam lũ, tóc trắng xoá, gầy trơ xương ra khỏi thành, rất nhiều trai gái khóc đuổi theo sau, nước mắt như mưa, gào khóc chia tay, bị lính Bắc Nhung đuổi về. Nhóm người già nước mắt tuôn đầy, quay nhìn thân nhân trong thành một chút rồi chùi nước mắt ra đi.

Trước cửa thành tiếng khóc động trời.

Lý Huyền Trinh nắm chặt hai đấm, hỏi mật thám: "Họ phạm tội gì thế? Bị đẩy đi đâu?"

Mật thám nhỏ giọng trả lời: "Người Bắc Nhung chuộng vũ lực, khỏe quý yếu khinh, cứ đến mỗi mùa đông, ra lệnh cưỡng chế các lão giã các bộ tộc từ sáu mươi trở lên, không còn khả năng trồng trọt săn bắt dời ra khỏi thành... khỏi lãng phí lương thực. Ai dám không theo, bắt buộc nộp thuế theo quy định, mỗi miệng ăn năm lượng vàng, mười đầu dê, hoặc một con ngựa, ba thạch lương*, hai mươi tấm lông cừu..."

*1 thạch = 100litre

Với dân chúng bình thường, trời mùa đông giá lạnh, mỗi nhà còn chưa đủ ăn, lấy đâu nộp thuế nặng để lấy lòng người Bắc Nhung, đào ở đâu mà để giành đủ năm lượng vàng đổi người nhà? Mấy người già phần lớn không muốn liên lụy người nhà, đành chịu xua đuổi đến vùng đất đói lạnh nghèo nàn chờ chết.

Từ biệt ở cửa thành chính là vĩnh biệt sinh tử.

Đám người Trung Nguyên nghe đến đó, lòng đầy căm phẫn. Thiên hạ còn có chuyện táng tận lương tâm thế sao!

Lý Trọng Kiền đưa mắt ra hiệu thân binh tạm thời ở yên đừng nóng nảy, họ đến tìm người, tốt nhất đừng gây thêm phức tạp. Hắn chỉ muốn cứu Minh Nguyệt nô về, sống chết kẻ khác không liên quan.

Rời Sa Châu, qua Ngũ Phong, xuyên qua sa mạc tám trăm dặm hoang tàn mênh mông, cách Y Châu ngày càng gần.

Hôm đó, mọi người dừng lại nghỉ ngơi ở một gò đất bị gió bấc ăn mòn mấp mô, Lý Huyền Trinh phái mấy thân binh chia ra đi Cao Xương, Quy Tư.

Lý Trọng Kiền cảnh giác hỏi: "Sao lại phái chúng đi Cao Xương?"

Lý Huyền Trinh dùng tay vẽ lên các mấy tuyến đường chính: "Đây là Y Châu, đây là Cao Xương, Yên Kỳ, Quy Tư, khu này là phía Bắc con đường tơ lụa, ngày xưa Vương triều ổn định, ở các nơi đều có Châu huyện, có binh đóng giữ, đường mua bán được yên ổn, người ở đông đúc, sau này Trung Nguyên đại loạn, Tây Vực thất thủ, con đường buôn bán bị cắt đứt, bây giờ những địa phương này phần lớn đã thần phục Bắc Nhung."

"Bắc Nhung còn man di, lấy thủ đoạn sắt để trấn áp từng bộ tộc, dung túng binh sĩ vơ vét cướp đội buôn, có lẽ vì tình thế bắt buộc, những nước nhỏ này đành trung thành với Bắc Nhung nhưng luôn vẫn có lòng người còn hướng về Vương triều Trung Nguyên, dù sao đại bộ phận vương công quý tộc vốn đều là danh môn vọng tộc một vùng Hà Tây sau này."

"Chúng ta muốn đi nha đình Bắc Nhung cứu người, không bằng phái người đi các nơi này thám thính tình hình thực tế, xem có thể thuyết phục họ nội ứng ngoại hợp với ta, sau này chung sức chống lại Bắc Nhung."

Lý Trọng Kiền gật gù, đã rõ dự định của Lý Huyền Trinh.

Bọn hắn xâm nhập Tây Vực, tứ cố vô thân, trước tiên phải thử tìm mấy người trợ giúp. Thứ nhất, nếu sau này bị người Bắc Nhung phát hiện, có thể bỏ chạy trước đến mấy chỗ này. Thứ hai, có họ tương trợ, khả năng bình an về Trung Nguyên sẽ lớn hơn. Thứ ba, dĩ nhiên là kế vì thiên hạ, vì triều đình thu phục đất cũ.

Lý Trọng Kiền không quan tâm đến điểm thứ ba, cứu Lý Dao Anh được rồi hắn sẽ lập tức mang nàng về Trung Nguyên.

"Còn một chỗ, ta cần tự mình đi một chuyến." Ngón tay Lý Huyền Trinh chỉ vào một điểm tận cùng phía Bắc. "Ở đây có một Phật Quốc khiến thế lực Bắc Nhung không cách nào tiến sâu vào, Khả Hãn Bắc Nhung từng bại dưới tay Quân chủ Phật Quốc, các nước Tây Vực hẳn đều ôm tâm tư."

Mày rậm Lý Trọng Kiền nhẹ vặn: "Phật Quốc à?"

Lý Huyền Trinh mấp máy đôi môi đã bong da: "Vương Đình sùng Phật, Quân chủ của họ cũng là cao tăng, khoảng mười một năm trước, hắn dẫn binh đánh lui Khả Hãn Bắc Nhung, tên tuổi vang dội toàn Tây Vực."

Hai năm trước, Lý Huyền Trinh, Lý Đức và nhóm phụ tá từng bàn về khả năng thu phục Tây Vực. Lúc ấy họ đều nhận định, Trung Nguyên muốn thu phục Tây Vực, cũng giống như đoạt mồi trong miệng mãnh hổ là Bắc Nhung ngày càng lớn mạnh.

Ngoài ra, phía Bắc Tây Vực còn có một quốc gia giàu có cũng không thể khinh thường, Quân chủ của họ tiếng tốt lan xa, được dân rất kính yêu, lệnh một tiếng trên dưới cả nước đều có thể theo hắn lao ra chiến trận.

Lý Huyền Trinh cảm thán: "Mười một năm trước, Khả Hãn Bắc Nhung đang tuổi sung mãn không kẻ bì kịp, đánh đâu thắng đó, lại đại bại dưới tay Phật Tử, vị Quân chủ này anh tài ngút trời, nếu có lòng muốn lớn mạnh chắc chắn là một kình địch rất lớn... Cũng may hắn ta là cao tăng đắc đạo, một lòng bảo vệ Phật quốc, không có dấu hiệu mở rộng ra ngoài."

"Hải Đô A Lăng quỷ kế đa đoan, không biết chúng ta có thể thuận lợi cứu Minh Nguyệt nô ra không. Ta phái người dọc theo con đường Cao Xương nghe ngóng tin tức trước, nếu cần, ta tự mình đi sứ Phật Quốc, thể hiện thân phận ra chỗ Phật Tử, xin hắn viện thủ, mâu thuẫn Phật quốc và Bắc Nhung trùng điệp, ta dùng minh ước thuyết phục thì có thể hắn sẽ kết minh với chúng ta."

"Sau khi đến Y Châu, nếu có biến, chúng ta theo các đường đã vạch, nếu bình an chạy đến Bắc Nhung, gặp nhau ở Phật quốc."

Mấy năm liền Lý Trọng Kiền lãnh binh đánh trận, trong người tự có tính toán trước, dù không am hiểu nhiều về Tây Vực, nhưng bỏ công suy tư có thể nhìn rõ cục diện, tính toán thật nhanh, cân nhắc lợi hại, gật gù.

Dọc đường Lý Huyền Trinh rất an phận, trước khi cứu Minh Nguyệt Nô ra an toàn, hắn có thể nhẫn nại tạm thời không giết Lý Huyền Trinh. Chờ cứu em rồi, hắn lại ra tay vậy.

...

Trong lúc mấy người Lý Trọng Kiền xuyên qua sa mạc tám trăm dặm thẳng tới Y Châu, Dao Anh đang đi về phía Nam.

Để né đoàn người của Tiểu Vương tử Bắc Nhung, họ chạy liên tục mấy ngày đường.

Trời đông giá rét, đóng băng ngàn dặm, trong phạm vi mắt nhìn được khắp nơi óng ánh trắng muốt, núi tuyết liên miên chân trời, mây che đỉnh núi mù sương, thi thoảng lộ ra vài góc đá lởm chởm, tươi đẹp tráng lệ.

Con ưng của Đàm Ma La Già luôn đi theo họ trở thành trinh sát, tuần tra canh chừng. Dù trời trong hay trời tuyết, Dao Anh thường xuyên trông thấy bóng nó bay lượn trên không.

Hôm ấy, nàng thấy con ưng đáp xuống, đậu trên vai Tô Đan Cổ, nhớ tới những chuyện bữa giờ, gọi Tề Niên tới hỏi ông có thấy chỗ mấy Hồ thương bán ưng đưa thư không.

Tề Niên cố nhớ lại, lắc đầu: "Người bán ưng không ít, nhưng bán ưng để đưa thư thì chưa từng nghe. Công chúa muốn nuôi ưng ạ? Bộc có thể hỏi thăm một chút cho người."

Dao Anh lắc đầu, bỏ ý định.

Thuần dưỡng ưng trung thành để đưa thư chỉ có thể gặp mà không thể cầu, ưng của Đàm Ma La Già và Hải Đô A Lăng đều thuần dưỡng bắt đầu từ ưng con, hơn nữa, ưng đưa thư phải quen thuộc hoàn cảnh mới phát huy tác dụng, cho rằng nàng mua được ưng đưa thư thì ngay lập tức cũng không thể dùng được.

Nàng giương mắt chằm chằm nhìn con ưng đến ngây người, con ưng đứng trên đầu vai của Tô Đan Cổ, con mắt sắc bén liếc nàng.

Dao Anh cười khẽ, móc ra thịt khô. Ưng vẫn liếc.

Dao Anh xoay đi không nhìn nó, lòng bàn tay vẫn hướng lên trên. Chỉ sau chốc lát, trong lòng bàn tay hơi nhói, ưng đã mổ thịt khô trong tay.

Một người một ưng đang chơi đùa, đội ngũ chợt ngừng lại, Duyên Giác đi đầu lao vụt về, "Là cướp đường!"

Đám người thất kinh, lật đật cảnh giác, hộ vệ rút trường đao, bày ra chiến trận, bảo vệ Lý Dao Anh vào chính giữa, đám Tề Niên nhanh chóng trèo vào xe ngựa.

Tô Đan Cổ quay lại, đôi mắt xanh dưới mặt nạ bình tĩnh không lay động, ra hiệu cho Duyên Giác.

Duyên Giác vâng lời, dẫn người lùi về cạnh Dao Anh, ra hiệu họ tránh sang một bên gò núi.

Tất cả rút lui đến gò núi, Dao Anh nhìn ra xa, đúng là có một đám người ngựa tay cầm gậy gộc đao kiếm chạy nhanh về phía bọn họ, khí thế hùng hổ, ánh đao lấp lóe.

Nhóm cướp đường này rất giảo hoạt, biết mượn nhờ địa hình che dấu vết, che tiếng vó ngựa, lại mặc áo khoác ngắn tay mỏng màu trắng, giữa vùng đất tuyết, ưng rất khó phát hiện chúng.

Tiếng hò hét của đám cướp đến gần, trong chớp mắt đã nhào vào trước mặt họ.

Tạ Thanh rút đao, đá bụng ngựa định tiến lên, thân binh Vương Đình đưa tay ngăn lại, nhìn Tô Đan Cổ, nín thở tập trung.

Dao Anh nhìn theo.

Tô Đan Cổ để tất cả lui lại, một mình tiến lên, đánh ngựa leo lên một chỗ địa thế tương đối cao, ung dung không vội, khí thế ngưng tụ.

Lòng Dao Anh rất gấp, thầm nghĩ: Không phải ngài muốn một mình giết sạch hết cướp chứ?

Duyên Giác đánh ngựa đi theo sau lưng Tô Đan Cổ, dâng lên một cây cung sừng trâu và mấy mũi tên sắt. Tô Đan Cổ cởi áo khoác đen bên ngoài, cầm lấy trường cung, gài tên, giương cung căng đầy, tay vượn giãn ra.

Trong nháy mắt, tất cả khí thế lạnh thấu xương của con đường tuyết gập ghềnh này đều tụ về người hắn.

Tên cướp đầu sỏ nhìn thấy Tô Đan Cổ, cười gằn tiếp tục chạy đến, người bình thường bắn hơn một trăm mười bước đã gọi là cao thủ, cách xa thế này, giữa gió tuyết tràn ngập, bắn tên được cái thá gì? Chỉ là thủ đoạn dọa người thôi!

Tô Đan Cổ tập trung lên cung tên, đầu mũi tên chĩa về xa xa, không nhúc nhích. Thấy đạo phỉ càng lúc càng gần, hắn vẫn không bắn.

Mấy người Tạ Xung, Tạ Bằng muốn kìm không nổi, không bày ra trận phòng thủ sẵn, đợi chúng công tới, họ sẽ không có đường lui!

Dao Anh quay sang lắc đầu, ra hiệu chờ một chút.

Tiếng cướp cười to phách lối theo gió truyền đến, đúng lúc này, chỉ nghe dây cung mấy tiếng nhẹ vang, tiếng mũi tên đáp lại vụt ra, như cầu vồng xuyên mặt trời, xé gió tuyết lao thẳng về phía đám cướp.

Khoảng cách quá xa, tên cầm đầu cũng không rối, đưa đao ngang lên chặn, vừa nâng, đã nghe tiếng rít bên tai, mũi tên sắt nhanh như sét đánh, thẳng về phía trước ngực gã!

Tên cầm đầu ngây người, vẻ mặt đầy dữ tợn, mắt trợn muốn rớt ra ngoài, chửi một tiếng, đưa tay định gạt tên, lại phát hiện tên này nhìn như rất bình thường nhưng vô cùng có lực, xa hơn hai trăm bước, trực tiếp xuyên thủng áo giáp gã!

Mấy tên người Hồ nhìn rõ gã bị thương, rất ngạc nhiên lo sợ. Gã cầm đầu cắn răng: "Tiếp tục xông đến!" Gã thúc ngựa tiếp tục tiến lên.

Ngựa Tô Đan Cổ trụ trên gò tuyết, nhìn xuống đám cướp đằng xa, như quan sát đàn kiến hôi, lại giương cung, vèo vèo vèo, mũi thứ hai, thứ ba, thứ tư liên tiếp bắn ra, thế như gió đuổi.

Mấy tiếng rơi bịch bịch, gã cầm đầu người Hồ rơi xuống lưng ngựa, miệng há lớn, chết không nhắm mắt, trước ngực cắm đầy tên sắt.

Mỗi một tên đều không sai không lệch bắn lên một mình người gã, khí thế vạn quân, vẫn mang ung dung như ngắt hoa trong nháy mắt.

Thấy tên cầm đầu đã chết, đám còn lại hoảng hốt, không dám thúc ngựa tiến lên tiếp, cả xác của tên cầm đầu cũng bất chấp, lập tức quay đầu ngựa, chạy tứ tán.

Tô Đan Cổ không tiếp tục bắn.

Mấy người Tạ Xung thấy mà than thở, nhỏ giọng: "Tài bắn tên của Nhiếp Chính Vương thật điêu luyện."

Đám cướp đã chạy trốn, hẳn không còn dám tới, cả đám xuống gò núi, tiếp tục đi. Mấy người Tạ Xung không dám lơ là, hễ nghe tiếng vó ngựa tới gần liền tranh thủ rút đao canh chừng.

Duyên Giác cười trấn an: "Mọi người yên tâm, mấy đám cướp Cao Xương lúc này hoặc là dân trôi dạt khắp nơi, hoặc là lưu dân làm thuê cho quý tộc, phần lớn không phải người cùng hung cực ác, một đám ô hợp thôi, Nhiếp Chính Vương đã giết tên cầm đầu, đám còn lại tự nhiên tan thôi. Từ đây đến Cao Xương sẽ không còn ai cản đường."

Tạ Xung không tin, vẫn giữ cảnh giác, nhưng thật sự như lời Duyên Giác nói, hành trình sau đó quả nhiên bình an vô sự, không còn giặc cỏ dám cản đường cướp bóc.

Hai ngày sau, họ bình an đến Cao Xương.

Cao Xương nằm sâu trong lục địa, địa thế thuận lợi, khống chế từ Nam đến Bắc Thiên Sơn, pha trộn người nhiều bộ tộc.

Là một tiểu quốc giữa ốc đảo, nó từng lệ thuộc vào các chính quyền khác nhau cát cứ, sinh tồn chật vật giữa kẽ hở của nhiều thế lực lớn mạnh. Lúc Vương triều Trung Nguyên còn giàu mạnh, nó luôn tìm cách phụ thuộc vào Vương triều Trung Nguyên, từng nhập vào bản đồ của Vương triều thời Đường, trở thành trạm gác quan trọng thời Đường, các phong tục lễ nghi, chính sách Pháp lệnh, văn tự quan phủ, ngôn ngữ sử dụng đều giống Trung Nguyên.

Trung Nguyên đại loạn, giữa chiến loạn phân ly, Hà Lũng thất thủ, các Châu ở Tây Vực bị cô lập, Tây Châu lại trở thành Cao Xương, rất nhiều vọng tộc ở Hà Tây, Lũng Tây và dân thường rối rít đến Cao Xương tị nạn, người Hán, người Đột Quyết, người Túc Đặc, người Thiết Lặc và rất nhiều bộ tộc định cư nơi đây, trong đó người Hán chiếm đa số.

Uất Trì thị vốn là vọng tộc Lũng Tây, sau khi dời đến Cao Xương liên hôn với Vương tộc bản địa, cuối cùng đổi vị thành Quốc chủ. Quốc chủ tại vị là Uất Trì Đạt Ma, từng cưới con gái của vọng tộc Trương thị, mấy năm trước đại quân Bắc Nhung trấn áp, Cao Xương thần phục Bắc Nhung, Uất Trì Đạt Ma cưới cháu gái Ngỏa Hãn Khả Hãn, xưng thần với Bắc Nhung.

Vương thành Cao Xương xây dựa vào con sông, địa thế hiểm yếu, mấy chục dặm ngoại thành hoàn toàn là vùng đất hoang lương, càng tới gần thành quách, người càng dày đặc, đón gió Bấc khô lạnh, từng đội buôn từ các thành bang khác nhau lui tới như cát chảy, tiếng lục lạc du dương quanh quẩn từng đợt, đội buôn lạc đà xếp hàng chờ vào thành nối đuôi lòi ra thật dài.

Đoàn Dao Anh lục tục xuống ngựa chờ vào thành. Họ đã chuẩn bị sẵn giấy qua cửa từ sớm, không lo bị kiểm tra, chỉ sợ lộ thân phận.

Nhân lúc xếp hàng, Duyên Giác nhỏ giọng trò chuyện với Dao Anh, cậu là một trong rất ít người trong đội biết mục đích thật của chuyến đi này.

Cậu nhìn Tô Đan Cổ đứng đầu đoàn, gãi gãi đầu, nhỏ giọng hỏi: "Công chúa, có một việc tôi nghĩ mãi không rõ. Uất Trì Quốc chủ tên là Đạt Ma, hẳn Vương thất Cao Xương là người tin Phật, phần lớn người Cao Xương tin Phật, dân chúng vô cùng tôn kính Vương, hàng năm đều có rất nhiều người đi Thánh Thành nghe Vương tuyên giảng, Vương công quý tộc tranh nhau cúng dường. Không phải chỉ cần chúng ta nêu danh của Vương họ sẽ đồng ý kết minh ngay sao? Sao công chúa phải tự mình đến Cao Xương?"

Dao Anh cười cười, nói: "Vương thất Uất Trì gốc Hà Tây, chịu ảnh hưởng Nho giáo rất sâu, phong tục ở đây hơi khác Vương Đình, ta tự mình đến càng có thành ý."

Mặt Duyên Giác không tin tưởng lắm. Dao Anh cũng không giải thích nhiều.

Cao Xương sùng Phật, Quốc chủ Uất Trì mỗi năm đều tiến cống rượu nho đến Vương Đình, nhưng nặng về Vương quyền hơn. Đây từng là Châu huyện theo Vương quyền của Vương triều Trung Nguyên, người Hán chiếm đa số, người học làm quan đều học hành nghiên cứu Nho gia kinh điển, Ngũ kinh, chư sử, dù mấy năm qua dưới tình thế ép buộc không được học theo, mà đổi sang phong tục người Hồ, nói tiếng Hồ giống các tiểu quốc thần phục Bắc Nhung khác, nhưng ảnh hưởng Trung Nguyên rất nhiều năm qua vẫn còn sâu tận gốc rễ.

Năm đó sau khi Pháp sư Huyền Trang thỉnh kinh về Trung Nguyên, được cha con Lý Thế Dân, Lý Trị dùng lễ đãi ngộ, hoàng thất lui tới tấp nập, ngài là một vị sư thông minh, hiểu rằng phải dựa vào hoàng thất mới phát dương quang đại Phật đạo. Ngài từng đưa ra hai thỉnh cầu với Lý Trị: Xếp Phật giáo trước Đạo giáo, huỷ bỏ Pháp lệnh tăng ni phạm pháp cũng chịu tội giống dân thường, cho các sư đặc quyền nhất định. Lý Trị mặc dù rất tôn sùng Pháp sư Huyền Trang vẫn quả quyết bác bỏ thỉnh cầu đó. Ở Trung Nguyên, sa môn xuất thế hay nhập thế đều luôn phục tùng dưới Vương quyền. Làm một Hoàng đế, Lý Trị không ngốc mà đồng ý lời thỉnh cầu của Pháp sư Huyền Trang.

Tương tự, Uất Trì Đạt Ma dù tôn kính Đàm Ma La Già đến đâu, nhắc đến việc kết minh ông ta vẫn phải cân nhắc lợi hại vì lợi ích cho Cao Xương, không xử lý theo cảm tính.

Duyên Giác và các thân binh từ nhỏ lớn lên ở Vương Đình, cuồng nhiệt sùng bái Đàm Ma La Già, nghĩ vương công quý tộc thần phục Phật Tử là chuyện đương nhiên, Dao Anh giải thích nhiều hơn cũng vô ích.

Mấy năm qua Đàm Ma La Già có thể làm yêu ma quỷ quái kinh sợ, không đơn thuần chỉ dựa vào Phật pháp đâu!

Tâm tư Dao Anh chợt động. Xét từ biểu hiện của Duyên Giác, có thể suy ra thái độ của sứ giả Vương Đình đi sứ sẽ ngạo mạn bậc nào, vậy nên lần trước Tô Đan Cổ đi sứ Cao Xương mới thất bại phải không nhỉ?

Nàng nhìn Tô Đan Cổ, lắc đầu bật cười. Tô Đan Cổ đúng là lệ khí đầy người nhưng cũng chẳng phải loại người cao ngạo đến thất lễ, có điều hắn ít nói, tuyệt không phải người thích hợp đi sứ, sao khi Đàm Ma La Già bệnh nặng cứ phải đuổi hắn đi sứ Cao Xương nhỉ?

Rõ ràng A Sử Na Tất Sa mới là người đi sứ hợp lý nhất...

Một tràng tỳ bà cắt mạch suy nghĩ của Dao Anh, phía trước người người nhốn nháo, đến phiên họ vào thành.

Cả đoàn tiến vào thành, tiếng gió lập tức nhỏ đi rất nhiều, một luồng hơi nóng hầm hập đập vào mặt đầy mùi vị khói lửa nhân gian hỗn tạp.

Dao Anh mang mạng che, luôn để ý quan sát người qua lại, lông mày nhẹ chau. Cả đoạn đường dù nam nữ già trẻ, không ai phục sức theo Trung Nguyên. Đàn ông phụ nữ đều mặc áo tay hẹp, tóc tết bím rủ xuống lưng, đàn ông hông đeo chủy thủ, phụ nữ trang trí bím tóc bằng châu ngọc.

Đây vốn là đất cũ của Trung Nguyên.

Dao Anh vừa đi vừa ngạc nhiên nhìn đến ngây người, không để ý phía trước có người đột ngột dừng bước, quay lại nhìn nàng, bị va vào. Nàng không kịp phản ứng, hơi lảo đảo còn đối phương kiên cố như bức tường, không nhúc nhích.

Duyên Giác kế bên mở to hai mắt nhìn.

Dao Anh xoa trán, ngửa mặt lên, đối diện với đôi mắt xanh sâu thẳm của Tô Đan Cổ. Nàng cười cười với hắn, đôi mắt đẹp chớp chớp, khuôn mặt che dưới tấm mạng không thấy rõ biểu lộ, đôi mắt lộ ra vẻ quyến rũ phá lệ.

Mặt Duyên Giác đầy kỳ lạ.

Đợi Dao Anh đứng vững lại, Tô Đan Cổ nói: "Ba ngày sau, Uất Trì Đạt Ma sẽ đi Vương Tự lễ Phật."

Dao Anh hiểu ý, gật gù, sẽ là thời gian họ gặp Uất Trì Đạt Ma.

"Tô Tướng quân, vậy mấy hôm nay ta muốn đi dạo phố chợ tí." Dao Anh nghĩ nghĩ, bổ sung một câu, "Ta muốn nghe chút tin tức, lúc đàm phán với Uất Trì Đạt Ma có thêm phần thắng."

Tô Đan Cổ ừ.

Dao Anh thở phào, đừng thấy Tô Đan Cổ hung thần ác sát, thật ra rất dễ nói chuyện, cả đường đi hễ nàng cần thương lượng gì, chỉ cần nói lý do hắn đều nghiêm túc cân nhắc.

Họ tìm một dịch xá trọ lại, chưởng quỹ nhiệt tình đón tiếp: "Khách quan đi đường mệt mỏi, mời vào tiền đường nghỉ ngơi một chút."

Trong tiền đường đốt lò sưởi, cả đoàn vừa mệt vừa đói, ngồi vây quanh dùng canh sưởi ấm.

Dao Anh mỏi mệt không chịu nổi, uống bát canh nóng ăn mấy miếng bánh Hồ rồi về phòng nghỉ ngơi. Tiểu nhị mang thùng tắm nước nóng đến, nàng lập tức tỉnh táo lại, cởi bộ đồ đầy bụi đất tuyết bùn, ngâm mình vào trong nước thơm ấm áp, thoải mái đến chẳng muốn động một ngón tay.

Đi cùng một đám đàn ông, nàng không muốn trở thành vướng bận, luôn cắn răng đi nhanh, đói ăn lương khô cứng lạnh lẽo, lạnh mặc thêm mấy lớp áo, mệt mỏi để nguyên áo quần mà nằm. Đừng nói tắm rửa, ngay cả dùng nước nóng lau người còn là hy vọng xa vời. May là giờ này mùa đông, nàng còn chịu được.

Ngâm trong nước nóng một hồi, tứ chi cứng ngắc từ từ thả lỏng, vừa mỏi nhừ vừa đau, Dao Anh thấy buồn ngủ, dưới lầu chợt nghe tiếng người ngựa ồn ào, có người cao giọng quát tiểu nhị, ngựa hí cao vút.

Nghe tiếng bước chân lên cầu thang. Dao Anh lập tức đứng dậy, vội vàng lau khô tóc dài ướt đẫm, nhanh tay vấn tạm búi tóc, mặc y phục.

Có tiếng gõ cửa, giọng Tạ Thanh. "Tiểu Vương tử Bắc Nhung theo đến."

Dao Anh hơi hồi hộp, "Hắn phát hiện chúng ta à?"

Tạ Thanh lắc đầu: "Chúng không biết chúng ta nhưng trùng hợp cũng ở dịch xá này, tất cả mười tám người, đang chặn ở viện dưới lầu. Duyên Giác xin chỉ thị Nhiếp Chính Vương, Nhiếp Chính Vương bảo lấy bất biến ứng vạn biến."

Dao Anh nhíu mày. Oan gia ngõ hẹp một lần là đủ, cứ nghĩ đã cắt đuôi được Tiểu Vương tử Bắc Nhung, không ngờ họ vừa chân trước vào ở, chúng chân sau đã thò vào.

Nàng trầm ngâm một lát: "Nhiếp Chính Vương nói rất đúng, lấy bất biến ứng vạn biến. Chúng ta mới vừa vào ở, vô duyên vô cớ đổi dịch xá sẽ bị người Bắc Nhung hoài nghi, chi bằng cứ ở tiếp. Chúng ta biết thân phận chúng, vừa vặn mượn cơ hội tìm hiểu mục đích chúng đến Cao Xương."

Dịch xá này vốn là một cứ điểm của Vương Đình ở Cao Xương, nếu không bọn Tô Đan Cổ sẽ không vào ở, ánh mắt Tiểu Vương tử tốt thật, chọn đại trúng chỗ nguy hiểm nhất.

Tạ Thanh vâng lệnh, ra dặn đám Tạ Xung làm việc cẩn thận, không có việc gì tốt nhất đừng ra ngoài. Họ là người Hán, quá chói mắt.

Đoàn Tiểu Vương tử ngang ngạnh hống hách, vừa vào phòng đã bắt đầu cao giọng sai bảo tiểu nhị, đuổi các lữ khách khác, chiếm lấy lò sưởi, gọi một nhóm Hồ nữ hát rong hát ở tiền sảnh mua vui, tiếng tỳ bà lúc sục sôi, lúc u oán, thỉnh thoảng vang lên tiếng mấy cô gái Hồ nũng nịu rồi mắng yêu.

Dân buôn bán vào dịch xá vào Nam ra Bắc đã thấu sự đời, thấy cách ăn mặc của bọn chúng biết chúng không phú thì quý, giận mà không dám nói gì.

Đám Dao Anh đã sức cùng lực kiệt, về phòng ngủ lại từ lâu, không ra khỏi cửa.

Huyên náo đến mãi nửa đêm còn chưa có dấu hiệu dừng lại. Giọng Tiểu Vương tử vừa lớn vừa vang, làm Dao Anh lăn lộn ngủ không được, mãi sau nửa đêm Tiểu Vương tử yên tĩnh bớt, nàng mới mơ màng thiếp đi, bỗng nhiên bừng tỉnh từ trong mộng, ngẩn người, xuống đất rót cho mình chén nước lạnh.

Trước cửa sổ có một bóng đen đứng đó không nhúc nhích, quỷ mị.

Dao Anh giật nảy mình, làm rơi chén sành trong tay.

Nghe tiếng vỡ, bóng đen bỗng nhúc nhích, đẩy cửa sổ, một gương mặt nạ Dạ Xoa xuất hiện trong bóng tối.

Cánh tay Dao Anh nổi đầy da gà, cứng người, mồ hôi lạnh chảy ròng ròng, đến khi ánh mắt đối diện với cặp mắt xanh của đối phương, giật mình, dở khóc dở cười: "Tô Tướng quân?"

Tô Đan Cổ nhìn mặt nàng, không nói gì, ánh mắt chậm rãi lia xuống quét mắt một vòng chỗ chén vỡ.

Dao Anh nhỏ giọng: "Ta khát nước, uống nước, không cẩn thận đánh rơi."

Tô Đan Cổ ừm, không nói gì, quay đi.

Dao Anh đưa mắt nhìn hắn đi xa, lấy cái chén khác rót chén nước, uống vào mấy ngụm, ngồi lại giường, ngây một lúc rồi nằm xuống ngủ tiếp.

Chỉ sau chốc lát, ngoài cửa sổ lại có tiếng bước chân cố hết sức nhẹ bước.

Dao Anh lập tức mở to mắt, cặp mắt sáng rực trong bóng đêm, đảo quanh một vòng, rất cẩn thận ngồi dậy, xuống giường, rón rén đi đến cửa sổ, đẩy cửa ra.

Bóng đen đứng trước cửa, một đôi mắt xanh dưới tấm mặt nạ bình tĩnh chăm chú nhìn nàng.

Dao Anh không khỏi ngượng ngùng, xem ra hắn biết nàng không ngủ được.

Mặt nạ Dạ Xoa dữ tợn hung ác, cặp mắt trừng trừng, trong ánh sáng lờ mờ càng thấy nanh ác, giống lệ quỷ bò ra từ lòng đất tới lấy mạng.

Nửa đêm bừng tỉnh, chợt phát hiện có một người đứng lặng trước cửa sổ thế này, nếu nhát gan đã bị dọa mất nửa mạng. Xem như Dao Anh còn trấn định, chỉ làm rơi một chén sành, không thét lên.

Bởi ngay tức khắc nhìn thấy mặt nạ Dạ Xoa nàng đoán chắc phần lớn người ấy là Tô Đan Cổ.

Đây không phải lần đầu.

...

Trên đường đi Cao Xương, mỗi đêm nghỉ ở dịch xá lữ điếm, phòng của Tô Đan Cổ luôn rất gần phòng Dao Anh.

Hắn đóng cửa không ra, không một tiếng động, nàng hầu như chẳng phát hiện sự tồn tại của hắn, mãi đến một hôm nàng đi vệ sinh vô ý đụng ngã lò sưởi trong phòng phát ra tiếng động, chỉ sau chốc lát Tạ Thanh chạy tới, hai người dọn dẹp lộn xộn trong phòng, nàng mở cửa cho thoáng mùi, vô tình liếc qua hành lang thấy trong góc khuất có một bóng người cao ngất.

Dao Anh không phản ứng gì. Suốt hành trình sau đó nàng để ý quan sát Tô Đan Cổ.

Đôi lúc họ không thể không ngủ ngoài hoang mạc, nàng nằm cạnh đống lửa và quần áo, một mình Tô Đan Cổ cách xa đoàn, lúc nàng mơ mơ tỉnh tỉnh, phát hiện xa xa hắn không nghỉ ngơi, luôn canh chừng. Có mấy đêm, Dao Anh bị lạnh đông cứng đến tỉnh, không muốn đánh thức Tạ Thanh, khoanh tay run lập cập, nghe tiếng gió lớn gào thét, nghĩ cảnh mình xa Trung Nguyên, không biết anh trai thế nào rồi, khó tránh xót xa, bóng Tô Đan Cổ một mình ngồi cách đoàn người rơi vào mắt, lòng nàng dần bình tĩnh lại.

Biển sao mênh mông, khắp nơi hoang vu, núi tuyết tráng lệ, cốc sâu thăm thẳm, giữa trời đất mênh mông người đàn ông này một mình ngồi đó, như một ngọn núi lồng lộng đứng sừng sững.

Hắn một vai chống đỡ mọi gian khó, có hắn ở đây, cả đoàn sẽ bình an trở về Vương Đình. Cảm giác khiến người cảm thấy vô cùng an ổn, yên tâm này, ở một người khác, Dao Anh cũng từng cảm nhận qua.

Khi đó lá cờ tuyết trắng thêu chỉ vàng phần phật bay trong gió, Đàm Ma La Già thân cưỡi ngựa trắng, dẫn vạn quân xuất hiện ở nơi sa mạc cát bay đầy trời.

Nên Dao Anh không sợ Tô Đan Cổ.

Đàm Ma La Già dù lạnh lùng thanh cao, nhưng ôn hòa.

Tô Đan Cổ hung thần ác sát, giữa chiêu chiêu thức thức lại luôn lộ một lòng từ bi mạnh mẽ, chỉ là nó quá lặng lẽ, là từ bi che giấu bởi vẻ lạnh lùng.

...

Hôm nay họ vào trọ ở dịch xá, Tô Đan Cổ ở ngay cạnh Dao Anh. Vừa rồi nàng gặp ác mộng có lẽ đã kêu thành tiếng, Tô Đan Cổ nghe tiếng động cho là nàng xảy ra chuyện, chạy tới xem xét tình huống.

Hẳn hắn sẽ thức cả đêm nay.

Dao Anh đoán bóng người là Tô Đan Cổ, rất nhanh tỉnh táo lại, chỉ không ngờ hắn đã đi còn quay lại, sợ chui ra dọa hắn giật mình, lại bị hắn tóm gọn, ngượng ngùng cười cười.

Tô Đan Cổ không nói gì chỉ nhìn nàng, không một câu giải thích.

Dao Anh không bị ánh mắt lạnh lùng hờ hững của hắn dọa lùi, nhô nửa người ra khỏi cửa sổ, tóc đen rối thả xuống, mi cong cong, mắt sáng như sao, nhỏ giọng hỏi: "Tô Tướng quân, Pháp sư cho ngài hộ tống bọn tôi tới Cao Xương, là bởi vì tôi à?"

Bóng Tô Đan Cổ không nhúc nhích.

Dao Anh nhìn thẳng cặp mắt xanh của hắn tự nói tiếp: "Vốn là Tướng quân A Sử Na sẽ theo hỗ trợ tôi đi sứ Cao Xương, đáng tiếc anh ấy bị thương, có phải Pháp sư lo Hải Đô A Lăng lại đột nhiên xuất hiện không?"

Tất Sa không thể làm Hải Đô A Lăng biến khéo thành vụng, mình lại bị thương, Đàm Ma La Già cho Tô Đan Cổ từng thất bại thay Tất Sa đi sứ lần nữa, hẳn để đề phòng Hải Đô A Lăng. Hải Đô A Lăng võ công cao cường, mấy hộ vệ này đều không phải là đối thủ của hắn.

Dao Anh nghĩ đến một khả năng: Con ưng của Đàm Ma La Già sở dĩ luôn theo đoàn, mục đích chính yếu nhất không phải truyền tin như Duyên Giác nói, mà là tìm kiếm con ưng trắng kia của Hải Đô A Lăng.

Đàm Ma La Già đã chiêu cáo thiên hạ, lúc này Hải Đô A Lăng không dám xuống tay với nàng, nhưng chuyến này họ không thể bại lộ thân phận, ngộ nhỡ Hải Đô A Lăng biết được hành trình của họ thừa cơ đoạt người thì sao?

Tiểu Vương tử Bắc Nhung Kim Bột đột nhiên xuất hiện ở Cao Xương, nói không chừng Hải Đô A Lăng đang ở đâu gần đây. Cho nên Tô Đan Cổ không dám lơ là.

Dao Anh không chớp mắt chăm chú nhìn Tô Đan Cổ, gặng hỏi: "Tô tướng quân, có phải Hải Đô A Lăng đã theo đến không? Tướng quân sợ tôi bị dọa nên mới giấu tôi?"

Đôi mắt xanh sâu thẳm của Tô Đan Cổ cuối cùng có phản ứng, một tia kinh ngạc thoáng qua.

Dao Anh thở dài, nói: "Tướng quân cứ nói thật cho tôi, có Tướng quân ở đây, tôi không sợ." Nàng dựa vào trước cửa sổ, tóc xanh dày mượt phủ đầy vai đen nhánh, càng tôn làn da tuyết trắng, đôi mắt sáng trong.

Tiểu Vương tử ầm ĩ cả ngày đã ngủ, trong dịch xá vắng vẻ như nước. Phòng họ ở trong cùng, thân binh phía ngoài đều đang ngủ say, yên tĩnh đến tiếng kim rơi cũng nghe được.

Tô Đan Cổ lặng thinh mãi lâu, rồi một giọng khàn khàn vang lên: "Kim Bột đã tới Cao Xương, có thể Hải Đô A Lăng cũng sẽ xuất hiện, có điều tạm thời ta chưa phát hiện tung tích của y."

Dao Anh cười cười: "Cả đoạn đường này Tướng quân vất vả rồi." Quả nhiên, hắn luôn âm thầm bảo vệ nàng.

Tô Đan Cổ dời mắt, nói: "Công chúa ngủ ngon đi." Nói xong, không đợi Dao Anh mở miệng, đôi tay mang găng da màu đen đã nhẹ khép cửa sổ.

Trước mắt nàng chỉ còn song cửa sổ bám bụi bẩn.

Dao Anh lắc đầu bật cười, lại kéo mở cửa sổ. "Tô Tướng quân." Nàng nhẹ giọng gọi hắn, "Ta muốn hỏi ngài một việc."

Tô Đan Cổ cúi đầu nhìn nàng.

Dao Anh cười híp mắt hỏi: "Tô Tướng quân từng đi sứ Cao Xương, chắc biết rõ mấy phố chợ ở Cao Xương, mai ta dẫn đám lão Tề đem mớ hàng hóa đi bán, Tướng quân có biết chỗ ô phố nào buôn bán hợp lý nhất không?"

Tô Đan Cổ không chần chừ, thản nhiên nói: "Cao Xương chỉ có một chỗ phố chợ Hồ thương tụ tập, ngày mai Duyên Giác sẽ dẫn đường cho người."

Dao Anh gục gặc, ánh mắt dừng thật lâu trên tấm mặt nạ kinh khủng kia. Từ phản ứng của hắn mà xem, có vẻ như hắn từng đi Cao Xương thật...

Tô Đan Cổ lại khép cửa.

Khóe miệng Dao Anh nhẹ kéo..

Nghe có tiếng sột soạt ngay cửa trước, Tạ Thanh đẩy cửa vào, vẻ cảnh giác, thấy Dao Anh đứng trước cửa sổ, nhướng mày. Mấy ngày liền bôn ba, Dao Anh sợ nàng mệt nên đêm nay không cho phép nàng gác đêm, nàng ngủ sát vách, nghe bên này như có tiếng nói chuyện, sợ Dao Anh xảy ra chuyện, vội mò mẫm qua kiểm tra.

"A Thanh, ta không sao, chỉ uống miếng nước." Dao Anh đuổi Tạ Thanh, ngáp nằm xuống ngủ tiếp. Đêm nay nàng không còn bị ác mộng, dù nàng biết Hải Đô A Lăng có lẽ ở rất gần.

Hôm sau, Dao Anh dậy thật sớm, cùng với mấy người thân binh, Duyên Giác đi dạo phố chợ náo nhiệt nhất Cao Xương.

Tiểu vương tử Kim Bột còn đang ngủ, Duyên Giác để lại mấy người tìm hiểu mục đích hắn đến Cao Xương, một vài người chia ra tìm hiểu tin tức các nơi.

Lúc Dao Anh đi ngang phòng của Tô Đan Cổ nghiêng tai lắng nghe chốc lát, không thấy tiếng động, nghĩ thầm: Trên mặt hắn vết sẹo rất lớn, phải dùng mặt nạ che lại khiến người khác đừng quá chú ý, ban ngày không tiện hành động, hơn nữa không biết đêm qua hắn gác đến chừng nào, chắc bây giờ đang nghỉ ngơi. Nàng căn dặn thân binh ở lại canh dịch xá đừng quấy rầy Tô Đan Cổ, tất cả vâng dạ.

Duyên Giác nghe Dao Anh căn dặn, ánh mắt lấp lánh mấy lần. Dao Anh quét mắt nhìn qua, cậu lập tức ra vẻ điềm nhiên thu tầm mắt như không có việc gì.

Nhóm người ra dịch xá từ cửa bên, bọn Tề Niên kéo xe ngựa xa xa phía sau.

Phố chợ duy nhất ở Cao Xương là một con phố dài rộng chừng hai chiếc xe ngựa song song, nhỏ hơn Vương Đình rất nhiều, nhưng mật độ người dày đặc, vô cùng náo nhiệt, cửa hàng san sát, người người nhốn nháo, tiếng rao hàng đủ loại ngôn ngữ hỗn tạp pha trộn, vang tận mây xanh.

Trên đường đi Duyên Giác giới thiệu cho Dao Anh từng cửa hàng mua bán, Dao Anh chăm chú nghe, thỉnh thoảng chỉ vào vật lạ hiếm thấy hỏi thăm, Duyên Giác kiên nhẫn giải thích.

Ven đường còn có quầy bánh Hồ nướng, cả đám dừng lại, chờ đợt bánh ra lò tiếp theo.

Dao Anh bỗng bất thình lình hỏi: "Nhiếp Chính Vương cũng giống cậu, là đệ tử tục gia à?"

Nàng quan sát đã nhiều ngày.

Duyên Giác ngớ ra. Dao Anh cười híp mắt nhìn cậu: "Xưa nay không thấy Nhiếp Chính Vương ăn cơm với mọi người, đồ ăn thức uống đều do cậu đưa qua, ta thấy như ngài ấy giữ giới."

Mặt Duyên Giác cứng đờ, lấy lại bình tĩnh, cười nói: "Cận vệ cạnh Vương nếu không phải võ tăng thì là đệ tử tục gia, Nhiếp Chính Vương cũng vậy."

Dao Anh lại hỏi: "Thế Nhiếp Chính Vương là võ tăng hay đệ tử tục gia?"

Duyên Giác nói: "Là đệ tử tục gia."

Dao Anh tiếp tục hỏi: "Nhiếp Chính Vương võ nghệ cao cường, ngài học ai thế? Tướng quân A Sử Na bảo họ là sư huynh đệ, hẳn là cùng một sư phụ nhỉ? Sao chiêu thức của Nhiếp Chính Vương chẳng giống Tướng quân A Sử Na? Họ không học cùng một công phu à? Nhiếp Chính Vương bắt đầu học võ lúc nào thế?"

Trán Duyên Giác bắt đầu rịn mồ hôi, nói: "Sư phụ của Nhiếp Chính Vương là vị cao nhân, nghe nói từng đảm nhiệm chức Thủ lĩnh cấm vệ trong Vương cung, bọn tôi đều chưa từng gặp, tuy Tướng quân A Sử Na và Nhiếp Chính Vương là sư huynh đệ nhưng công pháp học ban đầu không giống, nên chiêu thức khác nhau. Cả hai đều tập võ từ nhỏ..."

Bánh Hồ ra lò, mùi mè thơm nức mũi bay ra, người bán bánh mũi cao sâu rao bán thật lớn.

Duyên Giác không để ý giải thích cho Dao Anh nữa, xông tới sợ không giành kịp bánh với mấy người Hồ. Dao Anh nhìn bóng lưng cậu, như nghĩ điều gì.

Tề Niên đánh xe ngựa, đi tới thị thự trước nộp tiền thuế, rồi quay lại phố chợ giao dịch với mấy người buôn hàng. Dao Anh không quản lý việc bán hàng, nàng mang thân binh đi dạo một vòng, cố ý dừng lại quan sát các cửa hàng đang bán tơ, châu báu ngọc thạch thật lâu, nghe ngóng các mẫu mã mà mấy phu nhân Cao Xương yêu thích nhất, loại trang điểm nào đang thịnh hành trong cung, Uất Trì Đạt Ma và công chúa Đột Quyết có hòa thuận không.

Trước lúc mặt trời lặn, nàng và mấy người Duyên Giác về lại dịch xá. Thân binh báo cáo, Tiểu Vương tử Kim Bột dù ngang ngược nhưng không nghênh ngang tiến cung, mà có vẻ đang che giấu tung tích, cả ngày hôm nay không ra ngoài, chỉ gọi ca cơ người Hồ tới uống rượu mua vui.

"Lạ nhỉ, hắn quen sống an nhàn sung sướng sao lại không vào Vương cung ở?" Giờ đây Cao Xương đang xưng thần với Bắc Nhung, chỉ cần lộ thân phận, Uất Trì Đạt Ma cũng phải kính Kim Bột, hơn nữa hắn và công chúa Đột Quyết còn là anh chị em họ.

Duyên Giác nhỏ giọng: "Chắc chắn Tiểu vương tử có mục đích không thể để lộ!"

Lòng Dao Anh hơi động, gõ cửa phòng Tô Đan Cổ. "Tô Tướng quân, là ta."

Trong phòng rất nhanh có tiếng bước chân, Tô Đan Cổ mở cửa, ánh mắt rơi xuống mặt Dao Anh, sửng sốt.

Dao Anh đứng trước mặt hắn, người mặc y phục người Hồ, áo phiêu sắc, váy đỏ thạch lựu, tóc tết bím điểm xuyết đầy trân châu ngọc thạch rũ xuống đầu vai, trên tay cầm chiếc mặt nạ, che trước khuôn mặt nhỏ.

Một chiếc mặt nạ lão ông mặt mũi hiền lành, bên xanh bên đỏ, giống như hai gương mặt.

Tô Đan Cổ thật lâu không nói.

Dao Anh gỡ mặt nạ, lúm đồng tiền trên gò má động đậy, trực tiếp chui dưới cánh tay hắn mà vào phòng, hạ giọng hỏi: "Tô tướng quân, ngài có thể nhắn với Pháp sư một câu giúp tôi không?"

Tô Đan Cổ không đuổi nàng ra ngoài, lạnh nhạt hỏi: "Nhắn thế nào?"

Giọng Dao Anh đè càng thấp: "Kim Bột đến Cao Xương, Hải Đô A Lăng cũng đến, e là Bắc Nhung đã loạn, họ cùng chung mục đích với chúng ta, đều tìm đến Uất Trì Đạt Ma."

Người Tô Đan Cổ khẽ động, lát sau nói: "Đêm nay chúng ta vào Phật tự của Vương cung gặp Uất Trì Đạt Ma."

Dao Anh gật gật đầu, ngước mắt nhìn chăm chú mặt nạ trên mặt của Tô Đan Cổ.

Hắn phản ứng nhanh và quyết đoán như thế... sau khi Đàm Ma La Già chết bệnh, vì đâu mà hắn vô duyên vô cớ biến mất nhỉ?

Vào lúc mặt trời lặn phố chợ đã sớm đóng cửa, phố dài dần vắng vẻ hẳn.

Cảnh tượng trong dịch xá ngược lại ca múa náo nhiệt, Tiểu Vương tử Kim Bột chiếm đoạt phòng khách, vừa uống rượu ngon thả cửa vừa xem Hồ cơ ca múa. Trời mùa đông khắc nghiệt, nước đóng thành băng, Hồ cơ vẫn áo mỏng lộ ra chút da thịt tuyết trắng, đạp chân uốn éo lắc lư, váy dài bay cao, dáng múa tỏa sáng.

Trong Vương thành Cao Xương cấm đi lại ban đêm, các thương nhân trong dịch xá không thể ra ngoài, ngồi trong góc xa thưởng thức dáng người uyển chuyển của Hồ cơ, thỉnh thoảng la rầm khen ngợi, người có tâm tư linh hoạt chủ động tiến đến nịnh nọt Kim Bột, vô cùng a dua.

Kim Bột uống đến say khướt, mặt chữ điền đỏ bừng, dương dương tự đắc, không xua đuổi ai, hào phóng mời họ cùng uống rượu.

Phòng khách rất huyên náo.

Dao Anh người mặc một bộ cẩm bào nửa tay áo, tóc dài thắt bím, chân mang ủng da như nam tử, đứng ở góc nhỏ, nhìn sảnh dưới lầu, nói với đám Tạ Thanh bên cạnh: "Các ngươi để ý theo dõi Tiểu Vương tử, nếu có biến cố hãy bảo đảm mạng hắn, tuyệt đối đừng để hắn chết."

Cả đám thưa vâng, Tạ Thanh hỏi: "Ai muốn giết Tiểu Vương tử chứ? Uất Trì Đạt Ma ạ?"

Dao Anh lắc đầu: "Người Bắc Nhung."

...

Trước đây, vì Dao Anh từng mấy lần nhắc nhở, Ngõa Hãn Khả Hãn đã dấy lên lòng nghi ngờ Hải Đô A Lăng, mấy vị Tiểu Vương tử khác cũng bắt đầu cảnh giác Hải Đô A Lăng, mâu thuẫn nội bộ Vương thất Bắc Nhung sớm bộc phát.

Kim Bột là đứa con trai được Ngõa Hãn Khả Hãn yêu chiều nhất trong tất cả Vương tử, bất hạnh thay cũng là kẻ xúc động lỗ mãng nhất, chí lớn nhưng tài mọn, hắn luôn bất mãn Hải Đô A Lăng năm mười lăm tuổi đoạt danh tiếng của hắn tại Lễ Tế thần, nhiều lần đối nghịch với Hải Đô A Lăng, nhiều lần ăn nói châm ngòi trước mặt Ngõa Hãn Khả Hãn.

Khổ nhục kế của Hải Đô A Lăng bị bại lộ, Vương thất Bắc Nhung chắc chắn giương cung bạt kiếm, dòng nước ngầm chảy mãnh liệt.

Kim Bột ghi hận Hải Đô A Lăng nhiều năm, muốn trừ khử cho sướng tay, lúc này không ở cùng các anh em khác ở Nha đình đánh chó mù đường, mà che dấu thân phận Bắc tiến Cao Xương, mục đích không khó đoán —— hắn muốn mượn binh từ Uất Trì Đạt Ma và công chúa Đột Quyết công chúa Hina giết Hải Đô A Lăng.

Ngõa Hãn Khả Hãn lúc trẻ chí lớn mạnh mẽ ngút ngàn, dẫn đầu bộ lạc quét ngang thảo nguyên, quật khởi lớn mạnh vô cùng nhanh. Tuổi càng lớn, tác phong ông càng cẩn thận bảo thủ, nhất là sau khi đại bại trong tay Đàm Ma La già, đa phần vì trong lòng có vết, làm việc có phần sợ đầu sợ đuôi, không còn quả quyết. Dù biết Hải Đô A Lăng là tai hoạ ngầm, ông vẫn không thể trong mấy tháng ngắn ngủi quyết định giết đứa con nuôi tình như cha con.

Thứ nhất, Ngõa Hãn Khả Hãn tự khoe là hậu nhân của Thần Sói, kiêu ngạo tự phụ, cho rằng trong bộ lạc chuyện dũng sĩ khiêu chiến thủ lĩnh là thiên kinh địa nghĩa, cá lớn nuốt cá bé, kẻ mạnh làm vua, bản thân là thủ lĩnh, ông không thể vì nghi ngờ vô căn cứ của mình mà giết bộ hạ.

Thứ hai, dù Hải Đô A Lăng không phải con ruột ông, nhưng mấy năm nay Nam chinh Bắc chiến nhiều lần lập chiến công, chí lớn bừng bừng, dũng mãnh hơn người, danh vọng vượt hẳn các Vương tử khác. Cho đến giờ A Lăng luôn cung kính với ông, chưa từng thể hiện ra ý đồ không tốt, nếu ép người quá đáng, A Lăng giơ cao tay hô hào chắc chắn người đi theo như mây, đến lúc đó ai thắng ai thua vẫn còn chưa định. Không bằng cứ lấy tĩnh chế động, tìm cơ hội tốt.

Thứ ba, một khi Vương thất Bắc Nhung có nội loạn chắc chắn sụp đổ, các bộ tộc bị ép thần phục thừa cơ khởi sự, đến lúc đó bốn phía bất ổn, mấy Vương tử tự giết nhau, những mảnh đất dũng sĩ Bắc Nhung chém giết nhiều năm chinh phục phải chắp tay nhường người.

Hiểu con không ai khác ngoài cha, Ngõa Hãn Khả Hãn biết mấy đứa con trai ruột mình không phải là đối thủ của Hải Đô A Lăng, càng không có khả năng dẫn dắt bộ tộc khai cương thác thổ. Ông muốn bảo vệ con mình, nhưng ông cũng là Khả Hãn Bắc Nhung, nếu chỉ được chọn một giữa bộ tộc huy hoàng, ổn định, phồn vinh và tính mệnh nhi tử, ông sẽ chọn thứ đầu.

Vậy nên dù nghi ngờ Hải Đô A Lăng, cuối cùng Ngõa Hãn Khả Hãn vẫn không thể quyết định giết y.

Đám con trai của Ngõa Hãn thì khác, họ ghét hận Hải Đô A Lăng đã lâu, hận không thể ăn sống hắn. Ngõa Hãn Khả Hãn chậm chạp không ra tay chứ họ kiềm chế không được.

Kim Bột đúng là đến Cao Xương mượn binh.

Dao Anh có được kết luận thế này, một là căn cứ vào hiểu biết rõ ràng với Vương thất Bắc Nhung, hai là nàng biết lý do Hải Đô A Lăng chính tay đâm cha con Ngõa Hãn Khả Hãn là vì mấy vị Vương tử khác bố trí cạm bẫy hãm hại y. Kỵ binh Bắc Nhung tinh nhuệ trung thành với Khả Hãn, bình thường sẽ không tham dự vào cuộc nội đấu giữa các Vương tử, chắc chắn họ phải tìm kiếm ngoại viện, mà mối quan hệ của Hina công chúa và Kim Bột xưa nay thân thiết.

Nàng chưa giải thích cho Tô Đan Cổ, Tô Đan Cổ lập tức hiểu ý, quyết định sớm đi gặp Uất Trì Đạt Ma.

Kim Bột một mặt che giấu thân phận, một mặt dung túng thân binh vênh váo, cả đoạn đường kiêu căng ngang ngược, vô cùng phô trương, nói không chừng dấu tích hắn đã bị Hải Đô A Lăng dò đến từ sớm, Hải Đô A Lăng tâm ngoan thủ lạt, ngoài thô trong tinh, cuộc loạn động của Vương thất Bắc Nhung rất có thể đã như tên lắp trên cung, thế lực các phe sớm hãm sâu trong đó, chỉ chờ bắn ra.

Trước khi Kim Bột vào cung họ phải thăm dò ý của Uất Trì Đạt Ma, còn phải bảo vệ mạng sống của Kim Bột, không thể để hắn chết trong tay Hải Đô A Lăng.

...

Dao Anh nhìn Kim Bột trong phòng khách trái ôm phải ấp, âm thầm lắc đầu.

Thảo nào Hải Đô A Lăng có thể lấy ít thắng nhiều, chỉ một trận loại trừ toàn bộ đối thủ. Kim Bột và mấy anh em từng ra tay giết y, biết y giấu tài, giả sa vào tửu sắc, mà còn lơ là như thế, sợ không ai biết hắn đến Cao Xương sao.

Mặt khác hẳn mấy vị Vương tử đã chia nhau đi các nơi khác nhau cầu ngoại viện, nếu họ cũng giống Kim Bột không biết thu liễm, e Hải Đô A Lăng đã sớm nhìn thấu kế hoạch của họ. Nói cho cùng, là trong mắt họ không có ai, xem thường Hải Đô A Lăng, cho là y vốn cô nhi không cha không mẹ, không xứng kế thừa vị Khả Hãn, vốn không thể đánh đồng với họ. Không biết rằng, người Bắc Nhung trung thành tuyệt đối với Ngõa Hãn Khả Hãn không có nghĩa cũng sẽ như vậy với con trai ông ta.

Tiếng tì bà dưới lầu du dương vui vẻ, Dao Anh thu tầm mắt, quay về phòng.

Tạ Thanh cùng đi sau lưng nàng, nhỏ giọng nói: "Tôi đưa công chúa đi Vương Tự."

Dao Anh lắc đầu: "Trong thành có giới nghiêm, đi đông ngược lại không an toàn, Duyên Giác quen thuộc đường trong thành, có cậu ấy hộ tống ta sẽ không sao. Cô ở lại tiếp ứng ở dịch xá."

Họ bí mật gặp Uất Trì Đạt Ma, muốn tránh tai mắt, càng ít người càng tốt.

Tạ Thanh nhíu mày, thấy Dao Anh kiên quyết, trầm giọng vâng lời.

Đã đến giờ xuất phát, Dao Anh chuẩn bị xong đồ tùy thân, mang mặt nạ che hết khuôn mặt chỉ lộ ra một đôi mắt, theo Duyên Giác từ cửa sổ lầu hai rời dịch xá.

Dao Anh không biết công phu, lúc sắp nhảy xuống đất lòng bàn chân bị trượt nhẹ, Duyên Giác giật nảy mình, đưa tay kéo nàng không kịp, một bóng người hiện dưới ánh trăng bạc, cánh tay dài mở ra, tiếp được Dao Anh, ôm nàng nhanh chóng nhảy xuống đài đất dốc đứng.

Là Tô Đan Cổ.

Tiếng gió vù vù bên tai, Dao Anh dựa vào lồng ngực kiên cố của Tô Đan Cổ, mượn ánh trăng trong lạnh dò xét hình dáng cái cằm rõ ràng lộ dưới đáy mặt nạ. Mấy hôm nay nàng phát hiện, lúc ban đầu mỗi lần vô tình tới gần hắn, hắn có hơi cứng nhắc —— không phải xấu hổ không tự nhiên, đơn thuần chỉ là chưa thích ứng, vẻ như hắn chưa từng chạm tới nữ tử, càng về sau dọc đường nàng trượt chân suýt ngã, hắn đưa tay đỡ, động tác tự nhiên hơn nhiều.

Hình như trong mắt hắn, nàng không có gì khác biệt mấy thân binh khác.

Trên người hắn có mùi thuốc nhàn nhạt. Dao Anh nhịn không được hít thử, không nghe ra là thuốc gì.

Nàng còn đang thất thần, hai chân đã vững vàng đạp trên tuyết nghe kít nhỏ một tiếng, Tô Đan Cổ buông nàng xuống, xoay người đi dẫn ngựa, động tác lưu loát dứt khoát.

Dao Anh trong lòng có quỷ, người chao đảo, suýt cắm đầu vào trong đống tuyết. Tô Đan Cổ quay sang nhìn nàng, dưới bóng đêm, ánh mắt xanh biếc như hai dòng nước trong vắt rơi trên mặt nàng như mang theo mấy phần lực.

Dao Anh chợt chột dạ, tim đập nhanh hơn, hai gò má nóng lên.

Duyên Giác đứng dưới tường viện, nhìn Tô Đan Cổ, lại nhìn Dao Anh, vẻ mặt mờ mịt.

Dao Anh bị ánh mắt Tô Đan Cổ chiếu tê cả da đầu, tranh thủ lấy thăng bằng, một đường lướt nhẹ như không, mấy bước đi đến cạnh tuấn mã đạp lên yên ngựa, động tác quá nhanh, thấy đầu hơi choáng váng, vội vàng giật gấp dây cương.

Sau mấy hơi, nàng cảm giác được ánh mắt Tô Đan Cổ dời khỏi người mình.

Tranh thủ bóng đêm ba người cưỡi ngựa ra phố dài, sau đó đi bộ. Dao Anh không biết đường, theo thật sát sau lưng Duyên Giác, sau bảy lần tám lượt rẽ ngoặt rất lâu, địa thế hình như càng lúc càng thấp. Sau nửa canh giờ, cuối cùng cũng đi vào một ngõ sâu chật hẹp, Duyên Giác gõ vang cửa, có người ra mở, hai người thấp giọng trao đổi ám hiệu bằng tiếng Phạn, cửa từ bên trong kéo ra.

Duyên Giác dẫn Dao Anh đi vào, nàng nhìn lại, phát hiện không thấy Tô Đan Cổ nữa.

Người này luôn luôn xuất quỷ nhập thần.

Nàng nén nghi hoặc, theo Duyên Giác vào chùa. Điện vũ của Vương Tự rộng lớn, nền lát đá xanh, ánh đèn rực rỡ đổ bóng thăm thẳm, trong đêm tối, các bích họa trên tường lộ ra vẻ mặt dữ tợn.

Dao Anh phát hiện bố cục của Vương Tự rất giống với Trung Nguyên.

Hai người đi theo người dẫn đường qua hành lang và vài toà đình viện trống, vào một thiền phòng âm u yên lặng, người dẫn đường khom người đưa tay mời, nhỏ giọng nói với Duyên Giác: "Quốc chủ nói khách của Phật Tử chính là khách của ngài, mời hai vị chờ một lát, Quốc chủ lập tức đến ạ."

Duyên Giác và Dao Anh cất bước vào trong, vừa mới đạp lên bậc thềm đá, chợt lỗ tai Duyên Giác giật giật, dừng bước, kéo cánh tay Dao Anh lại.

Đúng lúc này, đột ngột vang lên tiếng thét chói tai dồn dập, như nước lạnh rớt vào chảo dầu, đánh vỡ bóng đêm yên tĩnh như mặt nước.

Không khí đọng lại chốc lát.

Ngay sau đó, cả ngôi chùa như tỉnh giấc, chim đêm giật mình sải cánh bay lên không trung, tiếng thét nổi lên bốn phía, khắp nơi đầy tiếng bước chân hỗn tạp, hộ vệ, tăng binh rối rít xông ra cửa phòng, nhào về hướng tiếng động, đuốc lốm đốm như mấy đầu cự long, rất nhanh bao vây viện tử.

Duyên Giác giận dữ, bắt lấy người dẫn đường, siết chặt cổ họng gã: "Có mai phục?"

Người dẫn đường lấy lại tinh thần, cuống quít phủ nhận: "Trước giờ Quốc chủ luôn tôn kính Phật Tử, sứ giả của Phật Tử đến Quốc chủ vui mừng không kịp, sao làm chuyện hèn hạ thế chứ? Trong đêm chùa có giới nghiêm, tôi cũng không biết đã xảy ra chuyện gì!"

Duyên Giác không tin, ép người dẫn đường nhanh chóng rời đình viện.

Hai người nhanh chóng rời khỏi viện tử, phía trước có tiếng bước chân rất nhỏ, một bóng người bay vụt tới họ, nghe như cao thủ, thấy bóng người ngày càng gần, Duyên Giác đổ mồ hôi lạnh chặn trước mặt Dao Anh, định dùng người dẫn đường làm con tin, người kia đã nhảy xuống hành lang, ánh trăng trải trên mặt hắn, là tấm mặt nạ Dạ xoa.

Duyên Giác thở phào, thấy tim về chỗ cũ, nhỏ giọng nói vài câu tiếng Phạn. Tô Đan Cổ trả lời một câu, trực tiếp kéo Dao Anh.

Dao Anh biết chuyện khẩn cấp, không nói tiếng nào đuổi theo.

Duyên Giác nắm người dẫn đường, hỏi hắn: "Tướng quân, xử lý hắn thế nào ạ?"

Người dẫn đường run lẩy bẩy xin tha: "Tôi thề trước Phật! Quốc chủ chúng tôi tuyệt đối không bố trí cạm bẫy! Các ngài là sứ giả của Phật Tử sao Quốc chủ chúng tôi dám hãm hại? Chư vị hảo hán tha mạng! Phật Tử lòng dạ từ bi, các ngươi giết lầm người tốt, sau Phật Tử biết được, nhất định sẽ trách tội các ngài đó!"

Sau lưng có tiếng bước chân, hô to "Bên kia có người" rồi đuổi theo, ánh đao lấp lóe.

Tô Đan Cổ ôm lấy Dao Anh, nói: "Dẫn theo."

Duyên Giác gật đầu, bắt lấy người dẫn đường phóng lên trên tường viện, biến mất trong màn đêm.

Phía bên kia, Tô Đan Cổ ôm Dao Anh lướt qua từng dãy nóc nhà, lưu loát thoát khỏi truy binh, nhảy xuống một ngõ hẹp yên tĩnh, không còn nghe tiếng la giết, bên giếng có một con ngựa buộc, hắn đỡ Dao Anh lên ngựa, hai người cùng cưỡi một ngựa vượt qua mấy đường tắt tĩnh mịch, ngừng lại ở một góc đường.

Cách đó không xa tiếng người huyên náo, ánh lửa ngút trời.

Dao Anh nhìn theo hướng nhìn của Tô Đan Cổ, tay chân lạnh buốt: Là hướng dịch xá!

Lửa lớn cháy hừng hực, khói đặc cuồn cuộn. Xem tình thế, hẳn toàn bộ dịch xá đã bị thiêu đến không còn hình, có tiếng người gào thét trong lửa, thảm thiết thê lương, cuồng loạn.

Dao Anh nhớ Tạ Thanh và thân binh đều ở dịch xá, đầu váng mắt hoa, trên lưng rịn một lớp mồ hôi lạnh. Gió đêm thổi qua, người nàng run nhè nhẹ.

Bên tai vang lên một giọng nói: "Người dịch xá đã ra khỏi thành, phóng hỏa là để cảnh báo cho chúng ta, có người tập kích ban đêm." Lạnh nhạt không hề mang chút ấm áp lại đầy trấn an lòng người.

Tim Dao Anh thả lỏng, chầm chậm thở ra. Nàng tin tưởng Tô Đan Cổ, hắn không nói nhiều, đã nói hẳn đã có bảy tám phần nắm chắc. Giữa hắn với đám thân binh chắc có ám hiệu định trước.

Dao Anh từ từ lấy lại tinh thần, "Người tập kích muốn đánh vào chúng ta ư? Uất Trì Đạt Ma để lộ tin tức chăng?"

Tô Đan Cổ lắc đầu.

Một tia chớp sáng như tuyết lóe trong đầu, Dao Anh chấn động, "Là vì Kim Bột! Hẳn Hải Đô A Lăng đã tới Cao Xương?"

Uất Trì Đạt Ma chỉ biết họ là sứ giả Đàm Ma La Già phái tới chứ nào biết rõ thân phận, ông ta là người khéo đưa đẩy, co được dãn được, mỗi năm gửi quốc thư đến Vương Đình từ ngữ khiêm tốn, sẽ không vô duyên vô cớ đắc tội Đàm Ma La Già, chí ít sẽ xuống tay giết họ trước buổi hop mặt bí mật, tập kích ban đêm này chắc hẳn là kẻ khác làm chủ.

Dao Anh chỉ có thể nghĩ đến Hải Đô A Lăng.

Tô Đan Cổ nói: "Chưa chắc y tự ra tay."

Dao Anh gật đầu, nhớ đến mấy hộ vệ ngổ ngáo cạnh Kim Bột, chợt lóe một ý tưởng, nói: "Nói không chừng lúc Kim Bột xuất phát, Hải Đô A Lăng đã sắp xếp sát thủ cạnh hắn rồi, đợi đến khi Kim Bột đến Cao Xương sát thủ lập tức ra tay, Hải Đô A Lăng đang ở Bắc Nhung, không những xóa khỏi hiềm nghi mà còn giá họa được cho Uất Trì Đạt Ma."

Ngõa Hãn Khả Hãn coi trọng danh dự con cháu Lang tộc, không đánh sau lưng, Hải Đô A Lăng thì không, huống chi đám anh em Kim Bột từng mấy lần bố trí cạm bẫy hại đến tính mạng y, nếu y không mưu dũng hơn người, e đã sớm chết trong tay họ.

Trong mắt Dao Anh lướt qua một tia kinh hãi, lẩm bẩm: "Nếu Hải Đô A Lăng bố trí sát thủ cạnh mỗi Vương tử thì..."

Mấy Vương tử giấu Ngõa Hãn Khả Hãn mượn viện binh diệt trừ Hải Đô A Lăng, Hải Đô A Lăng tương kế tựu kế, ở lại Bắc Nhung, âm thầm phái sát thủ phục sẵn cạnh họ. Cứ như vậy, hắn không chỉ thần không biết quỷ không hay trừ được đối thủ, còn có thể nhờ Uất Trì Đạt Ma tình thế cấp bách bất đắc dĩ liên thủ với hắn, đến khi Ngõa Hãn Khả Hãn kịp phản ứng đã không còn cách cứu vãn.

Dao Anh càng nghĩ càng thấy hãi.

Hải Đô A Lăng dã tâm bừng bừng, một khi thay thế Ngõa Hãn trở thành Khả Hãn mới của Bắc Nhung tất nhiên sẽ chỉ huy san bằng Trung Nguyên. Mong Tạ Thanh nhớ kỹ lời nàng, cứu Kim Bột, dù Kim Bột ngốc nghếch nhưng cũng là con ruột của Ngõa Hãn, nói không chừng sẽ có chỗ dùng.

Tô Đan Cổ quay đầu ngựa, chở Dao Anh xuyên mấy đường tắt trống, hắn phản ứng linh hoạt luôn tránh được cấm vệ tuần sát.

Hướng dịch xá không ngừng phát ra tiếng lửa cháy to lớn, ngọn lửa khổng lồ chiếu sáng nửa bầu trời, ảnh lên vùng tuyết đọng trên mái một vầng đỏ đồng, Dao Anh như cảm nhận được hơi nóng tạt đến từ nơi xa, gương mặt phát nóng.

Nàng vừa lo lắng an nguy của Tạ Thanh, vừa suy nghĩ về Hải Đô A Lăng còn có âm mưu quỷ kế nào nữa không, tinh thần hoảng hốt, không biết qua bao lâu, tiếng vó ngựa bỗng nhiên ngừng lại.

Họ dừng trước một trạch viện yên tĩnh, trước cửa hiên treo hai ngọn đèn.

Ánh đèn chập chờn, chụp xuống bóng người bên trong đang đứng, nghe thấy vó ngựa lộc cộc, có người nhanh chóng ra đón, là một trong các thân binh ở lại canh dịch xá.

Thân binh cung kính hành lễ xong nhỏ giọng mấy câu bằng tiếng Phạn.

Tô Đan Cổ đáp lời, xuống ngựa.

Dao Anh cưỡi chung con ngựa với hắn, hắn khẽ động, sau lưng nàng bỗng trống rỗng, cả người lung lay, ngã quỵ xuống.

Thân binh rớt miệng.

Dao Anh mê man, người nhũn ra, muốn giãy dụa lấy lại thăng bằng thì người đã rơi xuống, trong lòng mơ mơ màng màng nghĩ: Chỗ này tuyết dày ghê, té cũng không biết đau?

Cánh tay đột nhiên căng ra, một đôi tay mang bao da nắm chặt bờ vai nàng, đỡ nàng tránh ngã xuống.

Dao Anh cảm giác được ngón tay gầy khỏe của Tô Đan Cổ ôm vai mình, cằm gác lên đỉnh đầu mình, trên người hắn có mùi thuốc nhè nhẹ.

Sau một khắc, nàng té nhào vào ngực hắn.

Tô Đan Cổ tưởng nàng trượt chân mới dìu nàng đứng vững rồi lập tức thu tay, nàng theo động tác của hắn ngã luôn về trước, cả người mềm mại rơi hẳn vào ngực hắn, giãy dụa muốn gượng dậy nhưng không có lực, mềm oặt không xương.

Lông mày Tô Đan Cổ nhẹ vặn, cúi nhìn Dao Anh, bắt gặp đôi mắt đỏ của nàng. Hai gò má ửng đỏ, ánh mắt mơ màng, hai vai khẽ run, như nhánh hoa lê dính mưa xuân, nhìn rất đáng yêu.

Thân binh quan sát Dao Anh, trợn mắt: "Nhiếp Chính Vương... Văn Chiêu công chúa cô ấy..."

Tô Đan Cổ ôm ngang Dao Anh lên, quay người đi vào đình viện.

"Nàng bệnh rồi." Hắn còn tưởng đây cũng chỉ là một lần thăm dò.

Thân binh ngây ra, Tô Đan Cổ đã ôm Dao Anh vội vàng vào vườn. Thân binh nhanh chóng tỉnh táo lại, dắt ngựa theo vào cửa hiên, cài cửa, theo vào nhà chính, nghĩ nghĩ, không theo vào phòng, khoanh tay đứng chờ ngoài bình phong.

Tô Đan Cổ bước nhanh vào trong căn phòng phía Nam, đặt Dao Anh xuống, rủ mắt, nhẹ vén ống tay áo trên cổ tay nàng, ngón tay đặt lên cổ tay lộ ra trắng như tuyết.

Người Dao Anh chợt nóng chợt lạnh, nhẹ run lẩy bẩy.

Tô Đan Cổ nhìn trán nàng rịn một lớp mồ hôi mỏng, thu ngón tay lại, đứng dậy, vòng qua bình phong ra gian ngoài, hỏi thân binh: "Tất cả mọi người đã ra khỏi thành rồi à?"

Thân binh ôm quyền trả lời: "Bẩm Nhiếp Chính Vương, vừa nãy trong dịch xá, hộ vệ của Tiểu Vương tử Kim Bột và vũ cơ đột nhiên ám sát Tiểu Vương tử, Bách phu trưởng theo chỉ thị của Tướng quân, che chở Tiểu Vương tử trốn thoát, vì sợ trong thành còn sát thủ nên ra khỏi thành trước, chỉ còn thuộc hạ cùng A Lan Nhược theo lệnh chờ Nhiếp Chính Vương ở đây."

...

Trước khi vào thành, Tô Đan Cổ đã căn dặn, nếu có biến, tất cả mọi người rút lui khỏi Vương thành Cao Xương, nếu trong thành giới nghiêm không còn chỗ để đi thì tập hợp ở sân vườn, A Lan Nhược là người trông coi đình viện này.

Đêm nay sau khi mấy người Tô Đan Cổ rời đi, trong tiền đường dịch xá vũ cơ đang nhẹ nhàng nhảy múa đột nhiên lắc đôi tay một cái, một thanh chủy thủ sáng như tuyết trong tay áo trượt ra, nhào đến Kim Bột đang uống say khướt. Hộ vệ của Kim Bột kịp phản ứng rút đao đón lấy, lập tức máu tươi văng khắp nơi, cả trận lóe đầy đao kiếm, mấy gã buôn người Hồ đang xem ca múa chạy trối chết, la hét mắng chửi sợ hãi lộn xộn.

Nhìn thấy Kim Bột sắp chết thảm dưới kiếm của Hồ cơ, Tạ Thanh lập tức rút bội đao xông thẳng ra ngoài cứu Kim Bột, còn Tạ Xung và mấy hộ vệ khác hỗ trợ khống chế đám Hồ cơ.

Kim Bột suýt thì đổ máu tươi tại chỗ, còn đang sợ hãi mà chưa tỉnh rượu, túm lấy tay Tạ Thanh không thả, kêu to: "Đa tạ vị tráng sĩ này ra tay cứu giúp!"

Tạ Thanh trầm mặt hất tên Kim Bột ra, mấy tên hộ vệ bên cạnh cười ha hả. Đúng lúc này lại sinh biến cố, hộ vệ Kim Bột một đao chém chủ nhân mình!

Cả đám đang trong trận rất ngạc nhiên, lại thấy mấy hộ vệ Bắc Nhung khác nổi loạn, thừa lúc một khắc cả đám sững người, giơ tay chém xuống, giết người kế bên, vô cùng rối loạn.

Kim Bột bị chặt một đao, máu tươi phun ra ngoài, lúc này mới tỉnh hẳn, rống oa oa.

Lúc này, phía ngoài dịch xá đầy tiếng vó ngựa, dây cung chấn động. Nhóm thương nhân người Hồ co cẳng chạy tứ tán. Mấy người Tạ Thanh nhìn nhau, nghi ngờ đám cận vệ cạnh Kim Bột phản bội hắn, hơn nữa chúng còn có trợ giúp, dịch xá không phải nơi ở lâu, không chần chừ, trực tiếp chộp lấy Kim Bột xông ra ngoài.

Thân binh còn lại, nhắc đoàn người Vương Đình bên này chạy khỏi thành rồi một mồi lửa đốt dịch xá, cảnh báo với Tô Đan Cổ tránh bị rơi vào bẫy đối thủ khi quay lại.

...

Nhà chính chỉ châm một ngọn đèn dầu, ánh đèn lờ mờ, không rõ nhìn rõ hình vẽ trên bức bình phong.

Tô Đan Cổ nghe thuật lại sơ chuyện, hỏi: "Trong viện có thị nữ không?"

Thân binh sững ra, lắc đầu nói: "Chỉ có mỗi A Lan Nhược trông coi, ngoại trừ cậu ta cũng chỉ có mấy con ngựa, hai con lạc đà, không ai nữa."

Tô Đan Cổ lặng thinh một lát, "Mang ít nước nóng đến đây." Nói xong, vòng qua bình phong, đi vào phòng

Thân binh mới kịp hiểu: Văn Chiêu công chúa bệnh, cần người chăm sóc nhưng người của cô ấy đều ra khỏi thành hết nên Nhiếp Chính Vương mới hỏi đến thị nữ.

Hắn đi tìm A Lan Nhược lấy một bình nước nóng đưa đến nhà chính.

"Nhiếp Chính Vương... Thuộc hạ vừa mới hỏi A Lan Nhược, lửa dịch xá đã được dập tắt, phía Vương cung không rõ thế nào, vừa rồi có cấm vệ đến từng nhà thông báo, trong thành bây giờ ban bố lệnh giới nghiêm, hễ ai ra ngoài đi lại sẽ bị bắt giam ạ."

Nói cách khác, Lý Dao Anh nhất định phải sống qua đêm nay, đêm hôm khuya khoắt, đừng nói ra ngoài mời lang trung hay tìm thị nữ, chỉ cần có tiếng mở cửa thì có thể cấm vệ đến ngay.

Tô Đan Cổ ừm một tiếng, cầm lấy bình đồng: "Tìm một bộ đồ sạch sẽ đi."

Thân binh: "Nhiếp Chính Vương, y phục sẵn trong phủ đều của nam tử."

Tô Đan Cổ đã quay người vào phòng, giọng khàn khàn truyền qua bức bình phong: "Lấy đi."

Thân binh vâng lời, tìm vài món quần áo sạch sẽ, chăn đệm khăn sạch, nấu mấy thùng nước nóng lớn cùng A Lan Nhược bưng đến nhà chính, đem vào phòng.

Sau tấm bình phong, ngọn đèn nhỏ sáng như sau nhẹ nhàng lay động.

Tô Đan Cổ đứng trước giường, bóng người cao lớn thon gầy. Màn buông dầy, không nhìn rõ tình hình Văn Chiêu công chúa trên giường, chỉ mơ hồ thấy dáng người con gái yểu điệu mảnh mai, tiếng thở dốc đứt quãng truyền ra.

A Lan Nhược nhịn không được ngẩng đầu nhìn qua, một ánh mắt lạnh như băng quét đến. Tô Đan Cổ liếc hắn.

Giống như có chậu nước tuyết dội vào đầu, A Lan Nhược chợt không rét mà run, vội vùi đầu lui ra cùng thân binh khép cửa.

Trong phòng, Tô Đan Cổ quay mặt sang chiếc giường, đưa tay vén màn lên.

Trong ánh đèn mờ ảo, Dao Anh nghiêng người nằm trên gối, ôm chặt hai tay cuộn mình thành một cục tròn nho nhỏ, cổ áo xộc xệch lộ ra một phần da thịt, lớp áo trong cùng đã ướt đẫm mồ hôi, ẩn hiện làn da trắng, tóc mai cũng đẫm mồ hôi, sợi tóc dính trên mặt, ươn ướt phát sáng.

Nàng ý thức mơ hồ, cảm giác được ánh sáng, mở mắt, mi dày run run yếu ớt nói: "Chuốc thêm phiền cho Tô Tướng quân rồi... Là bệnh cũ, không có gì đáng ngại." lúc này giọng nàng vẫn mềm mại ôn hòa, đoan trang tỉnh táo.

"Công chúa quên uống thuốc hay sao?" Tô Đan Cổ hỏi.

Dao Anh lắc đầu, "Còn chưa tới lúc... Tôi đã tính..." Nàng sinh thiếu tháng, mỗi tháng đều phải uống Ngưng lộ hoàn, lần uống thuốc trước nàng nhớ rất kỹ, là trên đường đi Cao Xương, mới được mười ngày. Đêm nay nàng thấy chóng mặt, hơi nóng, còn tưởng mình cảm giác lầm, ai ngờ đúng là bệnh cũ.

Tô Đan Cổ hỏi tiếp: "Trên người công chúa có thuốc sẵn không?"

Dao Anh ôm thật chặt hai tay, run lẩy bẩy không nói. Tô Đan Cổ cúi người ngồi trước giường, nói: "Xưa nay công chúa cẩn thận, chắc hẳn có mang sẵn thuốc viên trên người."

Dao Anh không lên tiếng.

Tô Đan Cổ hỏi: "Hay công chúa sợ trong lúc thuốc tan không ai trông chừng?"

Đáy lòng Dao Anh run lên, nhướng mi nhìn Tô Đan Cổ.

Bốn mắt đụng vào nhau, đôi mắt hắn tĩnh mịch, ánh mắt trầm tĩnh như từ đám mây quan sát nàng, như nhìn thấu hết tâm tư của nàng. Trên khuôn mặt tái nhợt của Dao Anh nhẹ vẽ ra nụ cười trong vắt, nói khẽ: "Không sao, tôi ngủ một giấc sẽ ổn... qua đêm nay sẽ không sao."

Tô Đan Cổ nhìn nàng: "Ta có biết chút y lý, công chúa không cần che giấu."

Dao Anh khẽ giật mình.

Tô Đan Cổ bình tĩnh nói: "Tuy nói nam nữ khác biệt, nhưng với ta thì công chúa chỉ là một bệnh nhân, ta là đệ tử cửa Phật, có thể trông chừng công chúa, công chúa không cần khó xử, uống thuốc đi."

Âm điệu hắn vắng lạnh, mỗi chữ mỗi câu từ trong miệng hắn như dòng suối tĩnh lặng chảy qua bãi đá, vừa lạnh vừa trong. Lại mang phần uy lực như có như không, ôn hòa vẫn mạnh như ngàn quân, khiến người có phần không thở nổi.

Cả người Dao Anh rất khó chịu, mắt mỏi nhừ, vẫn ôm chặt cánh tay, ừm trầm thấp.

Tô Đan Cổ hỏi: "Thuốc viên đâu?"

Dao Anh buông tay, run rẩy lục khắp người ra một chiếc bình ngọc nhỏ tinh xảo. Tô Đan Cổ nhận bình ngọc từ giữa ngón tay nàng, đổ ra một viên thuốc, ngón tay nâng cằm nàng, đút thuốc.

Thuốc xuống bụng, người Dao Anh dần nóng lên. Người nàng đã ướt đẫm, nhất định phải thay bộ khác khô mát, vùng vẫy cố đứng dậy: "Tướng quân, nhờ ngài chịu cực dìu tôi chút..."

Tô Đan Cổ dìu nàng đứng dậy đến cạnh thùng gỗ, để nàng dựa vững vào rồi quay người lui ra. Sau mấy bước chân, hắn dừng lại, đứng trước cửa, đưa lưng về phía bình phong, dáng người thẳng tắp.

Dao Anh không nhìn thấy bên ngoài, đành bất chấp nỗi ngượng ngùng, cởi quần áo, cố sức giặt khăn lau người.

Trong phòng đốt một lò than, nàng chóng mặt, đầu nặng chịch, người mềm nhũn, chỉ mấy động tác đã thở hồng hộc. Lúc này không có Tạ Thanh, Tô Đan Cổ là đàn ông... Nàng cắn đầu lưỡi ép mình phải tỉnh táo, vội vàng mặc quần áo treo cạnh bình phong, quay người trở về.

Vừa bước ra, chân nhũn đi, cả người ngã xuống đất.

Rầm một tiếng nặng nề, Tô Đan Cổ đứng cạnh cửa lập tức xoay người đến cạnh tấm bình phong dừng bước chân, "Công chúa?"

Dao Anh ngã xuống đất, đau khắp người, khẽ cắn môi, định gượng tự đứng dậy, mới chống tay xuống đất đã thấy trước mắt trời đất quay cuồng, trong bụng buồn nôn, bất đắc dĩ, đành phải nhẹ giọng đáp lại.

Bước chân nhẹ vang, bóng người trước tấm bình phong nhẹ lay, đôi ủng da từng chút từng chút tiến gần nàng. Tô Đan Cổ cúi người ôm Dao Anh đưa lên giường.

Dao Anh sức cùng lực kiệt, thấp giọng cảm ơn, đầu vừa chạm gối mắt đã nhíu chặt, mi run rẩy.

Tô Đan Cổ buông nàng xuống, ánh mắt khẽ quét qua vạt áo tán loạn trên người nàng, kéo chăn đắp lên, kéo tay nàng nhẹ nhàng vén tay áo lên, đặt ngón tay bắt mạch.

Nàng đã uống thuốc, mạch ổn định hơn nhưng còn phải sống qua đêm thuốc tan này. Người nhiều năm phải uống thuốc như nàng, lúc thuốc tan cả người chợt nóng chợt lạnh, phải nằm trên giường nghỉ ngơi đợi dược tính tan đi sẽ khỏe hơn.

Tô Đan Cổ buông tay Dao Anh ra.

Lòng bàn tay nàng nóng lên, hơi rịn mồ hôi, ngón tay lại lạnh buốt, đốt ngón tay như búp hành, mềm mại nhỏ nhắn, từng ngón như ngọc.

Tô Đan Cổ dừng một chút, nắm tay Dao Anh đặt dưới đệm, kéo mền gấm đắp kín sợ gió lọt vào, ngón tay đè lên góc chăn.

Hắn đứng dậy, buông màn.

Có tiếng gõ cửa, thân binh đưa tới hai bát bánh canh* nóng hổi, nói: "Nhiếp Chính Vương, trong phủ chỉ có sẵn vài thứ thuốc trị thương, không có thuốc khác." Vừa nói vừa kiễng chân đi đến nhìn quanh.

*tên gọi chung cho các món dùng bột mì kéo sợi, cán dẹp nấu với nước dùng

Bình phong che khuất, không nhìn thấy gì.

Thân binh lặng thinh mãi, ảo não nói: "Nhiếp Chính Vương... Tôi chưa hề nghe thấy công chúa có bệnh trong người... Một lần cũng không..."

Từ lúc Văn Chiêu công đến Vương Đình, hắn phụ trách bảo vệ công chúa, từ Vương cung đến Phật tự, hắn luôn theo hầu công chúa, công chúa luôn phấn chấn lạc quan, xinh đẹp động lòng người, chỉ hai hôm nay mới tiều tụy đi chút, cứ nghĩ do nàng mệt nhọc, không ngờ là ngã bệnh.

Tô Đan Cổ nhận bánh canh, không nói gì.

Cận vệ Vương Đình đương nhiên sẽ không biết Lý Dao Anh có bệnh, thậm chí thân binh của nàng cũng vậy. Người duy nhất biết nàng phải uống thuốc hằng tháng có thể chỉ có một mình Tạ Thanh.

Xinh đẹp và yếu đuối có thể chiếm được thương yêu cưng chiều, nhưng không đổi được lòng tôn kính.

Ở vùng ngoại vực cách xa Trung Nguyên này, danh hào công chúa Đại Ngụy giống như bọt biển hư ảo mờ mịt, cuối cùng rồi trút bỏ vầng sáng rực rỡ hư vô, nếu Lý Dao Anh mềm yếu sợ hãi, một thân binh nhỏ sẽ có thể không chút do dự phản bội nàng.

Nên nàng ấy không thể hèn nhát. Nàng nhất định phải vĩnh viễn lý trí tỉnh táo, vĩnh viễn ý chí kiên định, vĩnh viễn mục tiêu rõ ràng, như thế mới chân chính thu phục thuộc hạ, thu được lòng trung thành của bọn họ. Giờ đây, thân binh của nàng, đội buôn mới thành lập không lâu kia, tất cả đều trung với Lý Dao Anh nàng, không phải công chúa Ngụy quốc.

Nàng từng bước một bước tới, đầy vất vả.

Chưa tới nửa đêm, cả người Dao Anh nóng như lửa đốt, nước không uống nổi nói gì bát bánh canh.

Nàng cảm giác mình được ai đó nhẹ nhàng đỡ lên, đưa chén canh bên môi, mùi thức ăn thanh đạm xông vào mũi nhưng nàng thấy buồn nôn, giơ cánh tay đẩy bát ra.

Nước bắn tung tóe, bát lập tức dời.

Trong chăn ấm áp dễ chịu, như giấu lò lửa than sáng rực, cả người Dao Anh khô nóng khó nhịn, tốc chăn đang đè trên người ra. Vừa đẩy ra, chăn lại đắp lên lại, nàng lại đẩy ra, chỉ chốc lát sau, chăn nhẹ nhàng trở về chỗ cũ, nàng mang bệnh đến gắt gỏng, miệng hừ hừ bất mãn, hai chân ra sức đá văng chiếc chăn ra, một cước lại một cước đạp đạp chiếc chăn.

Hệt như con mèo cáu kỉnh.

Bóng người bên giường ngừng lại trong tích tắc.

Hơi nóng tản đi, Dao Anh thấy dễ chịu hơn chút, thả lỏng tay chân trở mình, gối lên cánh tay mình, cuộn tròn nằm ngủ, tóc dài đen nhánh chảy đầy đầu vai, bàn chân ngọc tinh xảo lộ ra, mu bàn chân hơi kéo căng, đáng thương nhỏ bé, so với dáng vẻ cáu kỉnh ban nãy tưởng như hai người.

Lát sau, chăn lại đắp lên người nàng.

Một bàn tay khớp xương rõ ràng nhẹ đè chèn góc chăn.

Dao Anh bỗng mở mắt, giương mắt nhìn, mi dài ướt sũng.

Động tác này cho nàng cảm giác rất quen thuộc, rất yên tâm.

...

Lúc nhỏ, Dao Anh uống thuốc mỗi ngày, cả đêm ngủ không được. Nhất là năm vừa mới tập đi, hai chân đau đớn khó nhịn, cô bé nằm trên giường lăn lộn, đổi tư thế nào cũng đau. Cô bé không muốn khóc vì nhịn đau không nổi nhưng nước mắt vẫn cứ rơi, ướt gối.

Lý Trọng Kiền nghe tiếng, cầm đèn vào phòng soi lên mặt cô bé: "Tiểu Thất?"

Dao Anh biết anh mình nóng nảy, sợ anh lo lắng, lập tức ngừng thở, không nhúc nhích, giả vờ ngủ. Lý Trọng Kiền cúi người, kéo cái chăn bị trượt xuống dưới bả vai đắp lên, nhẹ nhàng ấn dém góc đáy chăn hai lần, đứng cạnh giường một lúc mới đi ra.

Chân Dao Anh vẫn còn rất đau, nhưng lòng yên hơn rất nhiều, trở mình ngủ tiếp.

...

Trải qua nhiều năm, từ lâu Dao Anh đã quên mất những đêm trắng đêm khó ngủ, chỉ còn nhớ rõ bàn tay dịu dàng vụng về dém góc chăn của anh mình.

Ánh đèn ảm đạm mờ nhạt.

Dao Anh chăm chú nhìn cánh tay thon dài bên giường, ánh mắt từ từ lướt lên, nhìn thấy một chiếc mặt nạ dạ xoa dữ tợn.

Nàng giật mình, mơ mơ màng màng nghĩ, giấc mơ này có phần kinh khủng rồi.

Ánh mắt tiếp tục đi lên, một đôi mắt sâu màu xanh thẫm lẳng lặng nhìn nàng, ánh mắt trong suốt hờ hững.

Hốc mắt Dao Anh hơi nóng. Ấm ức đọng lại tận dưới đáy lòng, sợ hãi, bất lực, cô độc như sóng lớn cuồn cuộn, đột nhiên dâng lên trào ra từng đợt.

"Anh à..."

Thốt lên hai chữ, mũi chua chua, nước mắt ngân ngấn, túm lấy cánh tay đang định rút đi kia.

"Anh, em khó chịu quá." Biết là giấc mơ, nên không cần giấu diếm, có thể thỏa thích mè nheo kể lể.

Bàn tay nóng hổi bắt lấy bàn tay hơi lạnh, như có dòng điện lướt qua.

Lòng bàn tay giãy nhè nhẹ.

Dao Anh nắm thật chặt, giống như lúc bé đã nắm chặt đôi tay vô số lần dìu dắt nàng, dạy nàng từng học theo bước một, khuôn mặt nhỏ áp lên, ỷ lại cọ xát, im lặng làm nũng.

Bàn tay bị nàng siết chặt bất động, mặc cho nàng dán khuôn mặt nhỏ nóng hổi lên, lớp da dưới áo hơi lạnh, rất dễ chịu.

"Anh à..." Dao Anh ngửa mặt lên, mềm giọng mè nheo, "Đừng mang mặt nạ được không? Mặt quỷ doạ người quá."

Người ấy cúi nhìn nàng.

Khuôn mặt Dao Anh bị nóng đốt đỏ bừng, cặp mắt như say rượu, xuân sắc quyến rũ, yên lặng chăm chú nhìn hắn, nhận lầm người, phá lệ thẳng thừng, vừa ngọt vừa ngang ngược.

"Anh." Nàng thúc giục, giọng nhỏ yếu ớt, lông mày nhíu chặt như cố nén đau.

Người ấy không lên tiếng, chậm rãi tháo mặt nạ xuống. Dưới lớp mặt nạ Dạ xoa là một khuôn mặt đầy những sẹo.

Hắn cầm mặt nạ, chuẩn bị đeo lên lại.

Dao Anh đè lại cánh tay hắn, mày hơi cong, nhìn hắn ngòn ngọt cười, khóe mắt đuôi mày đều là ý cười yêu kiều, như hoàn toàn không để ý vết sẹo trên mặt hắn.

"Tốt hơn nhiều á." Dao Anh khẽ nói, lần này thấy yên lòng, ôm cánh tay hắn, nhắm mắt ngủ thiếp.

Người kia run nhẹ.

Đến sau nửa đêm, Dao Anh bắt đầu phát lạnh.

Từng tia từng sợi ý lạnh chui vào từ trong xương, vọt ra khắp người, tay chân nàng lạnh buốt, ôm chặt lấy mình co rút lại.

Bàn tay bị nàng luôn siết chặt rút ra.

Đầu vai nặng hơn, có người đắp thêm một lớp chăn cho nàng, cũng vẫn nhẹ nhàng dém góc chăn hai lần.

Dao Anh run lẩy bẩy, nói khẽ: "Anh, em lạnh."

Bóng người bên giường rời đi một lát, đem thêm chăn đắp lên rồi dém chặt. Lò than được kéo đến cạnh giường, phát ra tiếng ken két nhỏ.

Dao Anh vẫn thấy lạnh, răng đánh lập cập.

Bóng người mạnh mẽ rắn rỏi lại ngồi vào cạnh giường vén lên một góc chăn, một bàn tay mò vào, ngón tay đặt trên cổ tay nàng.

Lòng bàn tay có lớp chai sần mỏng cạ qua mu bàn tay nàng, nàng run lên, ngay sau đó, một dòng nước ấm lan ra từ ngón tay chạm đến.

Chỗ lòng bàn tay dán vào thật ấm áp, Dao Anh thấy dễ chịu đôi chút, vô thức sán lại nằm thật gần, chậm rãi, toàn bộ thân thể mềm mại dán vào.

Bóng người không nhúc nhích, như một pho tượng.

Giày vò một đêm, đèn cháy hết, tản ra từng sợi khói xanh. Dao Anh lúc nóng lúc lạnh, nửa mê nửa tỉnh, mở mắt.

Trước giường lờ mờ, một chùm ánh trăng lạnh lùng tràn qua khung cửa sổ chiếu vào phòng, rơi trên người đàn ông cạnh giường, ánh trăng cắt qua khuôn mặt hắn làm nhạt nhoà vết sẹo, phác hoạ ra đường cong sắc sảo ưu nhã, mi mắt chụp xuống một hố đen nhạt, nổi bật cặp mắt xanh càng thêm thanh tĩnh.

Hắn rủ mắt, bờ môi dày nhẹ nhàng mấp máy, miệng niệm thành tiếng đọc kinh văn.

Dao Anh sẽ chỉ biết vài câu tiếng Phạn đơn giản, không hiểu hắn đang đọc gì, chỉ lõm bõm nghe thấy vài từ: Giải trừ ốm đau, không còn nỗi khổ.

Tô Đan Cổ quả nhiên là đệ tử cửa Phật, khi hạ đồ đao cũng sẽ niệm kinh.

Giọng hắn niệm kinh uyển chuyển trong lạnh, Dao Anh không hiểu một câu, chỉ hiểu hắn đang cầu chúc cho mình, trong lòng như có dòng nước ấm trào lên, yên ổn thuận theo, cơ thể dần dần không còn quá khó chịu, mí mắt sụp xuống, ngủ thật say.

Lần này, Dao Anh ngủ rất ngon. Đến khi lại mở mắt ra đã là sáng hôm sau.

Ánh ban mai nghiêng chiếu xuống mảnh tuyết đọng, trước cửa sổ một mảnh trời xanh nhạt trôi lững lờ.

Thuốc đã tan, Dao Anh lúc lắc cánh tay, người vẫn bủn rủn vô lực, quét mắt quanh phòng, sửng sốt.

Tô Đan Cổ ngồi dựa vào trước giường, hai mắt nhắm nghiền, như đang ngủ thiếp đi.

Hắn trông nàng một đêm thật ư?

Dao Anh ngẩn người nhớ lại đủ loại chật vật đêm qua, sợ đánh thức Tô Đan Cổ, không dám đứng dậy, hai chân lúc lắc dưới đáy chăn.

Tay chân từ từ khôi phục sức lực, người nàng khô mát thoải mái dễ chịu, tinh thần dồi dào, lại có thể nhảy nhót rồi. Dao Anh nhẹ nhàng vặn mình trong chăn từ từ chuyển qua một bên khác trên giường, ánh mắt quay lại trên người Tô Đan Cổ.

Hắn ngồi dựa, vẫn là tư thế lúc tụng kinh, vai căng cứng, quanh vành mắt như có quầng xanh nhẹ.

Người đàn ông giết người không chớp mắt này lại biết quan tâm chăm sóc người.

Dao Anh ngắm nhìn Tô Đan Cổ, kinh ngạc đến ngơ ngẩn.

...

Nàng thiên sinh lệ chất, thiếu niên lang ái mộ sắc đẹp nàng không đếm hết, chỉ cần nàng chịu cười một nụ với họ, thì họ có thể liều mạng vì nàng. Nhưng lòng ái mộ hừng hực như lửa ấy chẳng qua chỉ là nhiệt huyết nhất thời thiếu niên, họ ngưỡng mộ đó là công chúa xinh đẹp như hoa, cao cao tại thượng, là đệ nhất mỹ nhân, nàng không thể coi là thật.

Dao Anh biết, Trịnh Cảnh thích nàng, Tiết Ngũ thích nàng, Lang quân Bùi gia thích nàng. Lòng yêu thích đó không giả, song khi tính mạng của nàng và tiền đồ của họ không thể song toàn, có mấy ai vì nàng mà buông tay đánh cược một lần?

Như Trịnh Cảnh coi như chân tâm thật ý ái mộ nàng, cũng chỉ xúc động nhất thời mới mở miệng muốn nàng đi với cậu.

Dao Anh thậm chí chắc chắn rằng: Nếu Lý Đức hoặc Lý Huyền Trinh giết nàng trước chúng, đám thiếu niên lang trong kinh kia sẽ phẫn nộ Lý Đức vô tình, sẽ tiếc hận cho nàng, sẽ rơi lệ vì nàng, sẽ vì nàng rút kiếm, sau đó thì sao? Tỉnh táo lại họ vẫn sẽ tiếp tục trung thành với cha con Lý Đức, như chưa từng có gì xảy ra. Rồi một ngày, đám thiếu niên lang đó dần dần già đi, con cháu đầy đàn, thê thiếp thành đàn, có thể sẽ nhớ tới nàng hương tiêu ngọc vẫn, chán chường đôi chút.

Cũng không phải đám thiếu niên lang vô tình vô nghĩa, Dao Anh đối với họ ngay cả nói cũng chưa đến mấy câu, không yêu cầu xa vời. Ở trên đời này, khi nàng lâm vào tuyệt cảnh, người có thể không chấp xa ngàn dặm, một mực tới cứu nàng, vĩnh viễn chỉ có Nhị ca Lý Trọng Kiền.

Người liều lĩnh báo thù cho nàng, cũng chỉ có Lý Trọng Kiền.

Cho nên, lúc Dao Anh chạy đôn chạy đáo lo cho Lý Trọng Kiền, không khóc lóc tìm Trịnh Cảnh hỗ trợ, mà dùng gia tài của Tạ gia trao đổi với Trịnh gia. Còn liên lạc với Đỗ Tư Nam, nàng đem địa vị danh vọng mà y khát vọng nhất ra làm mồi nhử, liệt ra từng tiền cảnh đủ để y động tâm.

Đến chừng bị Hải Đô A Lăng bức đến tuyệt cảnh không đường trốn, mới không thể không xin Đàm Ma La Già giúp đỡ, Dao Anh tính toán rất nhanh, từng chữ từng câu đều có ám chỉ, dùng lợi ích đả động Đàm Ma La Già.

Đàm Ma La Già cứu nàng.

Không phải do nàng hứa hẹn thứ gì tốt, cũng không phải muốn kết minh với Đại Ngụy. Khi đó nàng không thể cam đoan bất kỳ việc gì, ngài vốn không xem là thật.

Về sau Dao Anh từng suy nghĩ rất kỹ, sở dĩ Đàm Ma La Già che chở nàng, cũng không phải vì nàng từng giúp Đề Bà Mông Đạt, gặp duyên gửi đến Thủy mãn thảo.

Ngài cứu nàng, chỉ vì ngài có thể cứu nàng.

Dù Đàm Ma La Già không còn nhiều thời gian, cũng sẽ thuận tay cứu người xa lạ là nàng.

Ngài hứa che chở nàng, thật sự chiêu cáo thiên hạ, để nàng lấy danh nghĩa theo chân cô gái Ma Đăng Già dừng chân nơi Phật Tự, thoát khỏi khao khát của Hải Đô A Lăng. Lúc này lại phái Tô Đan Cổ hộ tống nàng đến Cao Xương, giúp nàng nhanh đến ngày hồi triều.

Từ đầu đến cuối, ngài không cần nàng cảm kích, cũng không cần nàng lấy gì trao đổi.

...

Dao Anh ngồi dậy, nhớ buổi tảo khóa hôm ấy, Đàm Ma La Già ngồi ngay ngắn trên Phật điện, ánh mắt nhìn mình.

Ánh mắt của ngài mát lạnh xuất trần.

Dao Anh cười cười, thấy mặt mình hơi nóng.

Tô Đan Cổ hành tung quỷ bí, A Sử Na Tất Sa kỳ lạ, tín nhiệm của Đàm Ma La Già với Tô Đan Cổ cũng làm người mở mắt.

Trực giác nàng nhạy bén, vết sẹo rộng lớn trên mặt Tô Đan Cổ không phù hợp với ánh mắt ấy. Nàng hoài nghi thân phận của Tô Đan Cổ, mấy hôm nay nhiều lần cố gắng thăm dò. Hẳn hắn cũng đã biết, tuy vậy vẫn đối xử nàng như trước. Đàm Ma La Già phái hắn bảo vệ nàng, hắn trông coi nàng rất tốt.

Dao Anh chầm chậm ho ra một ngụm khó chịu.

Kệ cho giữa các sư huynh đệ Đàm Ma La Già, Tô Đan Cổ, Tất Sa đến cùng che giấu thứ gì, Tô Đan Cổ đến cùng là thân phận gì, đều là chuyện của họ, nàng không nên vạch bí ẩn của họ.

Quân lấy thành thật đối đãi, nàng cũng nên lấy thành thật để đáp lại.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#truyện