Chương 15

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 15

Trời ở miền quê khi tối thì xụp xuống cái rụp , mới còn nhá nhem đó mà giờ đã tối thui . Tiếng con vạt sành rên rỉ đâu đây , thanh âm nỉ non đơn điệu sao nghe buồn thê thảm , thê thảm như hoàn cảnh éo le của đôi tình nhân trẻ Chim và Địa trong hiện tại . Hai đứa đứng đối mặt tay trong tay với nhau nơi chái bếp sau nhà , mái lá thấp lè tè lại bị bò hóng đóng đen thui khiến cho cái thân hình cao liêu nghiêu của Ba Địa lúc nào cũng phải khòm xuống . Hồi nãy nó rạo rực háo hức bấy nhiêu thì bây giờ lại thấy lòng mình chán nản lạnh ngắt bấy nhiêu . Đứng lặng người bên người yêu đang khóc thúc thít , thỉnh thoảng nàng lại nấc lên tiếng nấc nghẹn ngào , rung động cả đôi vai mềm làm Ba Địa nhủn chí anh hùng hết sức . Là một tay trùm du côn , nổi tiếng là hung dữ cả làng điều sợ mà bây giờ đành phải bó tay . Bó tay khi thấy mình quá bất lực trước hoàn cảnh , chỉ biết đau đớn đứng nhìn người yêu đi lấy chồng .

Mới hồi chiều này , giấc mơ một mái nhà tranh hai quả tim vàng và một đàn con nít còn đong đầy trong đôi mắt hai trẻ , nhưng bây giờ trong đôi mắt ấy lại tràn đầy những giọt thương đau tức tưởi , tức tưởi cho một mối tình đầu đời mới vừa chớm nỡ lại phải tàn nhanh .

Khóc lóc chút xíu như giải tỏa được phần nào những u uẩn trong lòng , Chim mới gục đầu vào vai Địa thỏ thẻ :

- Anh Ba , tại dượng Tư biểu má bắt gả tui chớ tui đâu có muốn . Thằng cha Long nào đó nói thiệt tui đâu có biết ổng ra mần sao đâu mà biểu tui ưng thằng chả chớ .

Ba Địa gật gật cái đầu ra chiều thông cảm rồi hỏi bâng quơ :

- Ừ , anh biết . Lỗi này hổng phải tại Chim đâu . Mà Hai Long là ai vậy ta ?

Chim thổn thức trả lời :

- Ổng là cháu của dượng Tư , nghe nói nhà ở đâu tuốt trong khúc kinh cùng ,  gần cái miễu ông Tà .

Ba Địa hiểu ra , hoãng hồn nói :

- Chim ơi , thằng Long là Việt cộng mà . Nó bỏ xóm trốn theo mấy ổng lâu lắm rồi . Theo Việt cộng rồi thì mần sao mà cưới vợ được chớ . Hổng lẽ Chim lại phải xách gói trốn nhà theo nó luôn sao ?

Con Chim thành thật nói :

- Em đâu có biết cái gì đâu nà , nghe má với dượng Tư nói là thằng chả sắp về nhà rồi .

Ba Địa nghe qua ngạc nhiên hết sức , cái thằng bỏ theo Việt cộng mấy năm mà bây giờ nó lại sắp về nhà cưới vợ . Cái điệu này một là nó ra hồi chánh , hai là mấy ổng sắp đánh tới đây . Mà nó theo Việt cộng trốn biệt mấy năm thì làm sao thầy Tư biết nó ở đâu để mai mối chớ . Hổng lẽ thằng cha thầy Tư này có liên lạc thường xuyên với nó sao ? Nếu vậy thì lão thầy Tư chém chết cũng là Việt cộng nằm vùng rồi . Cái đầu của Ba Địa đâm ra nghĩ ngợi lung tung , càng nghĩ nó càng thấy mình mẩy mọc óc khi nhớ tới lời của lão thầy Tư hăm dọa Bảy Tôn Tẩn và cái nháy mắt cảnh cáo của bà Năm Thìn hồi ban chiều . Thôi , chết rồi . Họ là Việt cộng nằm vùng ở đây là cái chắc . Bây giờ thì nó tin chắc chẳng những lão thầy Tư mà luôn cả bà Năm Thìn cũng là Việt cộng . Chỉ có Việt cộng mới chịu gã con gái mình cho Việt cộng thôi . Nghĩ tới đây thì máu nóng của Ba Địa phừng phừng bốc lên ngùn ngụt . Nó khòm xuống sát mặt con Chim , xẳng giọng nói lớn :

- À , thì ra má của em mê Việt cộng nên mới chịu gã em cho thằng Hai Long . Thôi , đủ rồi . Ba Địa này biết hết mấy người rồi .

Hai tiếng Việt cộng tuy không quá xa lạ đối với một thằng nhóc chăn trâu như Ba Địa , hồi nào tới giờ nó chỉ nghe người ta nhắc tới hoài nhưng chưa hề tận mắt nhìn thấy mấy ông Việt cộng coi ra làm sao . Đối với nó thì Quốc gia hay Việt cộng , hay bất cứ một đảng phái nào đó thì cũng ăn nhầm gì tới nó . Còn quá trẻ , đầu óc còn quá nông cạn để tìm hiểu chuyện người lớn , chuyện quốc gia đại sự . Vã lại xưa nay mãi cứ lo chăn trâu đánh lộn ngoài đồng tối ngày thì nó tìm hiểu để làm gì . Trong đầu óc đơn giản của Ba Địa chỉ biết hình ảnh của mấy ông Việt cộng qua những tờ giấy truyền đơn nhỏ xíu do máy bay rãi xuống , trong ấy có in hình mấy ổng , nó thấy ông nào ông nấy ốm nhách trơ xương , ba bốn ông đeo tàu chuối còn chưa gãy . Lại còn nghe người ta hay nhắc đi nhắc lại cái câu bất hủ mà ông Tổng thống Thiệu đã nói “Đừng nghe những gì Cộng sản nói mà hãy nhìn vào những gì Cộng sản đã và đang làm” . Đó là khái niệm mơ hồ của những thằng thanh niên mới lớn như Ba Địa về Việt cộng : ốm nhom ốm nhách và láo liếu tổ cha . Nó chỉ biết có vậy , và vốn không thân thiết mà cũng chẳng có oán hận gì với mấy ổng nhưng gần đây , tình thế có chút đổi thay khiến cho đầu óc thằng bé có lối suy nghĩ mất thiện cảm với những người trong bóng tối này . Thứ nhất , cũng vì mấy ổng mà cậu Hai Vinh , chủ của nó dọn nhà về thành khiến cho nó thất nghiệp . Và gần đây nhất , cũng vì mấy ổng mà nó mất con Chim , người yêu đầu đời của mình . Hừm , thì ra là mấy ổng đang ở chung quanh đây từ lâu mà mình không biết . Ba Địa gật gù với sự nhận xét nhất thời vừa ghi nhận được : Lão thầy Tư , bà Năm Thìn và có lẽ mai mốt đây lại thêm con Chim , người đang đứng cắn móng tay đối diện với mình , điều là những người thân thiết hoặc có móc nối với phe bên kia cả .

Con Chim buồn hiu không biết trả lời như thế nào cho nên nó đứng chết trân gục đầu và cắn móng tay . Ba Địa nói xong nở một nụ cười méo xẹo , nụ cười của một người bại trận . Chắc mẽm là thằng du côn vườn này đã tới hồi mạc vận . Đúng rồi , đúng là tới thời mạc vận nên đụng đâu bại đó . Chốn đấu trường , đấu võ thì bị Hai Tiến cho nằm thẳng cẳng còn chốn tình trường , vừa mới biết yêu đương hôn hít thì lại vừa chuẩn bị khóc tiển người yêu đi lấy chồng . Tưởng nàng lấy ai cao sang quyền quí gì thì cũng cam nhưng đàng lại lại gả cho thằng Hai Long , một thằng nhóc chẳng ra gì thì thiệt là đau đớn nhục nhả cho nó lắm . Đấu võ thua Hai Tiến thì Ba Địa không tức không buồn chút xíu nào hết vì nó cũng tự biết mình giỏi thì cũng có người giỏi hơn , còn mất người yêu trong tay Hai Long thì Địa tự nhiên thấy căm tức lắm , nó chẳng đành lòng chút nào khi so sánh giữa mình và Hai Long , một tên lưu manh vặt đã bỏ nhà theo Việt cộng mấy năm nay .

Ba Địa càng nghĩ càng thấy tức khí dâng trào . Mất con Chim thì coi như nó đã mất rồi , là một thằng thuộc loại bắt dễ nhưng buông cũng dễ , Địa biết mình rồi sẽ quên được con Chim thôi nhưng nỗi nhục thua thiệt một thằng chẳng ra gì này chắc không tài nào chịu được . Tất cả cũng chỉ vì lão thầy Tư nhiều chuyện . Hừm , Tư Hàng Xóm rồi đây ông sẽ biết tay tôi . Địa sôi gan thầm nhủ và thề với lòng là nhất quyết bằng mọi cách phải phá cho lão ta thất điên bát đảo mới nghe . Nó trợn mắt nhìn con Chim trong bóng tối mù mờ mà nói :

- Hừm , cũng tại lão thầy Tư hết thảy . Tui thề nếu tui không phá cho lão ta te tua thì tui hông phải là Ba Địa nữa .

Thốt xong Địa nắm lấy tay Chim vuốt vuốt , nó nói bằng một giọng xót xa chua chát :

- Đừng có khóc nữa Chim ơi . Chắc tại ông trời ổng hổng thương nên mới khiến xuôi như vậy . Tui muốn nói nhiều với Chim lắm nhưng ngặt cái bụng nó muốn nói mà cái miệng của tui nó nói hổng được . Thôi , tui … tui đi dìa nghen Chim .

Lời nói chia tay ngắn ngủn không chút gì để gọi là luyến lưu xao xuyến , nhưng con Chim tất nhiên là hiểu được . Hiểu cái bụng của anh Ba mình đang muốn nói cái gì , nàng rưng rưng nhớ lại cái đoạn chia tay trong một vở cải lương nào đó có một câu nghe hay hay nên mới buột miệng nói :

- Anh Ba nè , mặc dù mai mốt em đi lấy chồng nhưng trái tim của em đã thuộc về của anh rồi . Em sẽ nhớ anh hoài , nhớ mãi anh Ba ơi .

Ba Địa vốn là một gã thô tục không ưa và cũng chẳng biết ăn nói màu mè vòng vo chán lắm . Nó thực tế hơn , trước phút chia tay vĩnh biệt người mình thương , chẳng cần văn hoa chi ráo , lắc đầu chán nãn vừa quay lưng bước đi vừa nói :

- Thôi đi Chim ơi ! Cho tui trái tim để làm mắm à ? Mai mốt Chim lấy chồng , rồi con cái cả đống , lo mần ăn hụt hơi hổng lo còn ở đó mà nhớ tới ai chớ .

Con Chim buồn so đứng cắn móng tay nhìn theo cái bóng cao liêu nghiêu của người nó thương thất thỉu bước ra từ cửa sau . Nó thở dài đưa tay áo lau khô hai dòng lệ đang ướt đẫm gò má để trở vô phòng , tiếp tục thiêu cho xong cái khăn còn dang dỡ .

Ba Địa mất người yêu dĩ nhiên là buồn lắm . Càng buồn bực bao nhiêu thì nó càng thấy ấm ức lão thầy Tư cùng bà Năm Thìn bấy nhiêu . Cả hai mới chính là thủ phạm đã gây nên sự đau khổ tột cùng cho hai đứa .

Nó bước dọc theo bên hông nhà để ra trước sân mà nương theo con lộ đất để đi về . Khi băng ngang cây cầu mà bà Năm Thìn ngồi tắm lúc nãy , nghe im ru hổng còn tiếng xối nước ào ào nữa thì nó biết bà đã xong cái màn xối nước kỳ cọ rồi . Đương nhiên là bà đã tắm xong đâu từ nẳm , vì nãy giờ hai đứa gặp nhau cũng đã lâu bộn rồi . Ủa , nhưng tắm xong nãy giờ sao bả hổng vô nhà vậy kìa . Thằng Địa tự hỏi rồi lần mò bước ra ngay bờ con rạch , nhướng nhướng cặp mắt dòm ra đầu cầu , nơi bà Năm Thìn ngồi tắm khi nãy .

À , thì ra bà ta đã tắm xong bây giờ tới cái màn ngồi xổm giặt quần áo đây . Con rạch nhờ nước rong tháng chạp nên mực nước lên cao gần ngập luôn cả cây cầu . Trong bóng tối om om , dù đứng ngay mé rạch nhưng Ba Địa chỉ thấy cái bóng trăng trắng lay động nhịp nhàng theo tiếng xột xoạt vò vắt giặt giũ của bà .

Nhìn thấy bà Năm ngồi lù lù một đống , mối hận lòng phút chốc bốc lên ngùn ngụt . Một ý nghĩ trả hận chợt lóe lên trong đầu thằng du côn . Nó cười một nụ cười nửa miệng như ra vẻ đắc ý rồi bước nhẹ lên cây cầu , tiến lại sau lưng bà Năm Thìn . Khi còn cách bà khoảng tầm tay với thì nó phát cười lên ngạo mạng . Tiếng cười vang lên trong đêm vắng , thanh âm nghe chỏi tai hết sức khiến cho bà Năm Thìn đang say sưa vò cái áo chợt giật mình đứng xổng dậy dòm dáo dát . Bà nhận biết tiếng cười ấy phát ra từ phía sau lưng mình nhưng vì đang ở trần tồng ngồng nên dù chết điếng vì giật mình cũng chẳng dám quay lại để nhận diện kẻ ấy là ai . Bỗng tiếng của thằng Ba Địa lại vang lên . Lần này thì nó không cười mà lại ngâm nga . Nó ngâm như vầy :

-     Bà già ơi hỡi bà già

-     Có con không gã , cho bà xuống sông !

Tiếng “xuống sông” vừa dứt thì nó thẳng tay xô bà xuống cầu nghe một cái ầm . Bà Năm Thìn đâu có biết ất giáp gì đâu , tự dưng đang ngồi giặt đồ , tâm trí đang để đâu đâu bổng nghe tiếng cười quái đản ngay phía sau lưng rồi kế tiếp lại nghe giọng vịt đực của cái thằng quỉ dịch nào đó ngâm nga . Còn chưa kịp lên tiếng tru tréo cái thằng chết bầm nào dám cả gan mò ra coi lén mình tắm thì bị nó xô một cái chới với té nhào . May là bà biết bơi nên chỉ một cái tít tắc sau thì lóp ngóp bò được lên cầu . Bà hậm hực đưa hai tay che lấy cặp ngực đồ sộ của mình rồi dòm dáo dát tìm coi thủ phạm ở đâu . Khi định tỉnh tinh thần , nhớ lại hai câu ngâm nga khi nãy thì bà biết chắc mẽm là cái thằng ôn dịch Ba Địa chớ hổng có ai vô đây . Vì ngoài cái thằng du côn đó ra cả làng này có đứa nào dám hổn láo với bà như thế . Nghĩ tới Ba Địa , nhớ lại hồi chiều nó hùng hổ mổ mổ cây búa như muốn chẻ đôi mình , bà Năm Thìn chợt nghe sóng lưng lành lạnh . Bà chẳng biết cái cảm giác lành lạnh này là do gió đêm lao xao thổi hay là mình cũng đang ớn thằng Ba Địa . Mà chắc bà Năm ớn nó thiệt . Vì ớn nó cho nên dù là loại đàn bà dữ dằn như bà mà bị xô xuống sông cũng chẳng nghe lên tiếng tru tréo chửi rủa chi cả . Không chửi rủa nhưng trong lòng hậm hực và tiếc hùi hụi bộ đồ mới may của bà . Bộ đồ hồi chiều mặc đi với ông thầy Tư , bộ đồ mà bà đang giặt lúc bị Ba Địa xô xuống cầu . Lúc chới với bà quăng chúng ra xa lắc rồi bị dòng chảy của con nước cuốn đi nhận chìm đâu mất tiêu , vì trời tối đen nên không tài nào tìm lại được .

…………………………………

Chiều nay , cũng vẫn một buổi chiều êm ả như mọi buổi chiều . Ráng vàng ửng đỏ cuối trời đông , báo hiệu một ngày sắp sửa ra đi để nhường lại cho cái thế giới về đêm âm u , tịch lặng giữa chốn ruộng đồng .

Cái chuồng vịt của Hai Tiến chiều nay cũng im lặng hơn mọi khi . Lẽ vì đàn vịt đã đủ tháng , đến lúc phải bán cho nên ông Tám đã kêu người tới coi và ngã giá đâu đó xong xuôi . Tư Xinh , cô lái vịt là người tới mua mảo hết bầy vịt . Cô ta chỉ chiếc xuồng nhỏ xíu rồi cười ngỏn ngoẽn nói với Tiến :

- Tiến thấy đó , cái xuồng nó nhỏ xíu như vầy mà tui phải chèo lên tới tận Cần Thơ cho nên đâu có dám chở hết một lần . Mình phải chịu khó chở vài lần mới được .

Cô ta cũng điệu nghệ hết sức , mới đi được một chuyến đầu sang chuyến thứ nhì , khi trở lại Xinh mua cho Tiến mấy gói thuốc thơm và cái hộp quẹt máy mới toanh . Dù trong bụng muốn tống khứ bầy vịt nợ đời này càng sớm chừng nào tốt chừng nấy . Bởi vì theo anh ta nghĩ , bao giờ không còn vịt để giữ thì ông Tám sẽ kêu mình trở lại ngôi nhà ngói đỏ có cô Út Hiền thân thương . Nghĩ tới Út Hiền là lòng Hai Tiến nóng rang chỉ muốn trở về để sống lại cái không khí yên vui của những ngày xưa thân ái . Nhưng trong bụng tuy nôn thì có nôn thiệt ngặt vì cái miệng dẽo đeo và món quà lỉnh khỉnh của Xinh khiến cho anh ta rất vui lòng ngồi chờ cô ta tới lần nữa để chở hết mớ vịt nợ đời còn lại .

Với Út Hiền , kể từ ngày nàng mang thức ăn ra rồi chưa chi đã bị Hai Thiên và Ba Địa phá đám cho đến giờ kể cũng lâu rồi Tiến chưa có dịp nào gặp lại , nhớ Hiền dĩ nhiên là nhớ lắm nhưng kẻ trong ấy người ngoài này , tuy không xa xôi gì lắm ngặt ông Tám khó quá , cứ giữ chằn chằn như giữ của quí thì làm sao hai đứa gặp mặt nhau được . Chức Nữ Ngưu Lang mỗi năm còn có vài ngày vào mùa mưa Ngâu tháng Bảy để gặp nhau còn Tiến và Hiền thì kể như thiên thu biền biệt .

Ông Ba Bụng là một ông già hiểu đời hiểu người hơn ai hết , dù trong bụng không muốn thằng Tiến vương vấn Út Hiền vì ông đoan chắc cuộc tình của hai đứa rốt cuộc chẳng đi đến đâu cả , nhưng ông không thể nào mở miệng để khuyên Tiến quên Hiền được . Thấy dạo này Tiến không còn thả vịt đi ăn rong ngoài đồng nữa nên tối ngày nhàn rổi chẳng có chuyện để làm . Nhàn cư vi bất thiện , sợ hắn nhàn rổi quá rồi tâm trí thả lỏng , nghĩ ngợi vu vơ đến những điều không tốt khiến mụ mẩn cả trí óc thằng nhỏ . Vì sợ hờ như vậy cho nên ông cũng chịu khó , ôm ra cho Tiến cả chồng sách báo để đọc , trước là để cho hắn bận bịu đầu óc sau là mở mang thêm kiến thức . Con mọt sách Hai Tiến đã lâu , kể từ ngày vô làm cho nhà của ông Tám , chỉ thỉnh thoảng tối tối ngồi chong đèn đọc mấy bộ truyện Tàu cho ông bà Tám nghe , ngoài ra thì anh có thời gian đâu để nhàn nhả mà ngồi đọc những loại sách mình ưa thích . Được ông Ba Bụng mang ra cho đống sách thì Tiến mừng như người nghèo vừa vớ được của quí , đọc thôi quên sáng quên chiều , bất biết cả trời mưa giăng hay nắng cháy .

Hôm nay , trời mới vừa chạng vạng thì ông Ba Bụng và Bảy Tôn Tẩn đã có mặt ở ngoài chòi của Hai Tiến rồi . Cũng vẫn với bộ ba nhâm nhi chén trà , phì phà điếu thuốc chuyện kể râm rang .

Gió chiều lồng lộng thổi , mang theo tiếng nhạc xập xình của Tiếng Ve Sầu từ ngoài đình vào . Bầu trời đêm trong vắt , sao sáng nhấp nháy đầy trời , gió chướng từng cơn mang theo cái se se lạnh của buổi giao mùa , cộng thêm tiếng nhạc văng vẳng nên cả ba nổi hứng kéo chiếc đệm lát ra tận bờ kênh , trải ra giữa hai hàng cây so đũa trĩu bông mà ngồi uống trà tán dóc .

Mỗi năm hễ lúc gió Chướng trở về là mùa bông so đũa nở rộ , không những so đũa ở trên cao trổ bông mà lục bình ở dưới sông , đậu rồng trên bờ rồi đến lau sậy ở ngoài đồng cũng đua nhau trổ bông khắp chốn . Những chùm bông cô đơn mộc mạc , lạc lỏng giữa chốn hoang vu này tuy không tỏa ra hương thơm gì đặc biệt nhưng có lẽ nhiệm vụ của chúng là báo hiệu cho nhân gian biết rằng trời đất đang lúc chuyển mùa , sắp Tết .

Theo như ông Ba Bụng có lần giải thích cho Tiến hiểu tại sao lại có cái tên là gió chướng là vì loại gió đông bắc này đến khoảng thời gian trước Tết và chấm dứt sau Tết . Ở vùng sông Tiền và sông Hậu chịu ảnh hưởng loại gió nầy nhiều nhất , vì nó thổi mạnh đẩy nước biển vào sâu trong nội địa gây hư hại mùa màng cho bà con nông dân . Chướng ở đây tức là ngược , gió thổi ngược hướng với dòng nước của sông đổ ra biển . Bởi vì hướng thổi ngược ngạo lại mang theo hơi lạnh căm căm cho nên bà con vùng sông nước không có thiện cảm , đặt tên cho nó là gió Chướng .

Ông còn giải thích thêm những tên gọi của nhiều loại gió khác nhau . Chẳng hạn như gió Nồm . Gió nồm là gió từ hướng đông nam thổi tới . Hướng đông tức là biển , mà gió biển thì hễ Nồm là mát rượi . Nguyên nhân làm sao mà người ta không gọi là gió Nam mà gọi là gió Nồm thì chẳng ai biết chắc nhưng căn cứ theo sách vở giải thích thì có hơi “mong manh” một chút . Họ bảo Nồm là do chữ Nam mà ra , vì chữ Nam hay tiếng Nam thì tục nước ta quen kêu bằng chữ Nôm hay tiếng Nôm . Do chữ Nôm ấy mà gió Nam chuyển ra gió Nồm . Có lẽ đó là người ta đi theo cái luật chuyển âm trong tiếng Việt . Chẳng hạn có nhiều tiếng bị chuyển âm như : miệng là cái miệng thì chuyển ra miếng nghĩa là vật gì vừa một miếng để bỏ vô miệng . Như chữ mang , là mang vật gì thì chuyển ra máng , tức máng đồ lên . Vì có lẽ theo cái cách chuyển âm này nên gió bắc đổi thành gió Bấc . Chỉ riêng có gió Tây thì gọi là Heo may , chữ Heo ở đây theo nghĩa cỗ là ít ỏi , thưa thớt , chẳng hạn heo hút , leo heo v.v . Nó còn có một chữ song lập thể nữa là Hiu , đìu hiu hiu hắt hoặc ở dạng láy là hiu hiu . Còn chữ May có nghĩa là ít là nhỏ , nó đồng nghĩa với chữ Vi . Chữ Heo và chữ May , cả hai điều có nghĩa là nhỏ là ít , vì vậy thuở xưa người ta hay gọi là Gió Heo hoặc Gió May , ngày nay họ lại gom hai chữ ấy lại mà gọi chung là gió Heo may , chắc để cho dễ nghe hơn chớ nghĩa chính thì vẫn là gió thổi nhẹ , loại gió dịu hiu hiu dễ chịu . Còn gió Chướng thì dễ hiểu hơn . Gió đông nhưng lại gán cho cái tên là gió chướng , là vì khi gió ấy thổi tới làm cho nước các sông Tiền và Hậu bị cản lại , bị chướng tắc lâu rót ra biển , ngược lại còn bị nước biển mặn lấn sâu vào cho nên gọi là gió Chướng .

Lúc ngồi uống trà , anh Bảy Tôn Tẩn đem câu chuyện gặp gở Ba Địa hồi chiều ra kể cho ông Ba Bụng và Hai Tiến nghe . Kể xong , anh gật gù nhận xét :

- Cái thằng du côn này , nếu hổng biết rõ nó thì cứ tưởng nó là đứa hung dữ hắc ám như những đứa trẻ bụi đời ở thành phố . Nhưng khi hiểu cái bụng của nó rồi thì tôi thấy nó là thằng dễ thương , người lớn nói nó biết nghe lời đó ông già . Chắc nó học nghề võ của thằng cha Tư Sáng rồi bị nhiễm nặng luôn cái tánh khí ngang tàng của chả cho nên chẳng coi ai ra gì cả . Ông già coi , má của con Chim mà nó còn xách búa định bổ bả , tôi mà hổng can chắc giờ đã có án mạng . Thằng này thuộc loại ngang tàng nhưng một khi nó phục ai rồi thì người đó nói cái gì nó cũng nghe theo răm rắp hết .

Ông Ba Bụng vổ bụng cười hềnh hệch :

- Cái thằng thiệt là tình , thương con gái mà vác búa tính bửa bà già . Thuở đời tao mới nghe một chuyện trật đời như vậy à nghen .

Anh Bảy bào chữa cho Ba Địa :

- Cũng tại con mẻ cái miệng ong ỏng cứ xắng xả mắng thằng nhỏ là con hoang chết chủ gì gì đó . Thêm cái thằng cha Tư Hàng Xóm , ông cậu vợ hổng nên thân của tôi xía vô nữa . Ông già coi mần sao mà nó hổng nổi nóng xách búa rượt chớ .

Nghe nhắc tới tên Tư Hàng Xóm ông Ba Bụng nhăn mặt , lắc đầu nói :

- Cha chả , gặp phải cái lão Thầy Tư đó mà thằng Địa nó cũng hổng ớn . Cái thằng gan lớn thiệt bằng trời à nghen .

Hai Tiến nghe vậy thì lấy làm lạ nên mới lên tiếng hỏi :

- Ủa , ông thầy Tư bộ dữ dằn lắm sao bác Ba ?

Ba Bụng trả lời một cách bí mật :

- Hổng dữ dằn gì nhưng ở Cái Trăm này ai dữ hơn ổng là hổng được .

Hai Tiến càng ngạc nhiên hơn nên mới lắc đầu thò lỏ cặp mắt dòm ông Ba Bụng hỏi :

- Tui nghe người ta nói ông Tư là ông Thầy tướng số kiêm luôn thầy bùa có phép thần thông thôi chớ đâu có ngờ ổng cũng là trùm du côn , còn dữ hơn thằng Ba Địa nữa . Bộ thiệt tình là vậy hả Bác Ba ?

Ông Ba Bụng cười ngất :

- Già Tư hổng phải là thầy bùa , thầy tướng số mà cũng chẳng phải là trùm du côn du kiết gì ráo . Lão ta là loại thầy gì thì chính tao ở đây mấy chục năm cũng chịu thua hổng biết gọi bằng cái gì luôn chớ nói gì tới thằng rễ mầy .

Cả Bảy Tôn Tẩn và Hai Tiến đồng cười ồ . Quả thật như ông Ba Bụng đã nói , không những chỉ một mình ông không biết thầy Tư là loại thầy gì , mà ngay cái tên thật của thầy cũng không ai biết được . Người ta chỉ biết thầy thứ Tư rồi quen miệng gọi là Thầy Tư luôn . Hai tiếng thầy Tư này mọi người chỉ dùng để gọi trước mặt thầy cho ra vẻ kính nễ , chớ thiệt tình thì sau lưng lão , người người điều gọi là ông Tư Hàng Xóm .

Cái biệt danh Tư Hàng Xóm kể ra thì cũng có chút lạ đời , lạ đời ở chỗ là ông ta chuyện nhà của mình thì chẳng biết mà chuyện của thiên hạ , chuyện hàng xóm ông lại rành sáu câu . Ông là em thứ Tư của bà già chị Hảo , vợ anh Bảy Tôn Tẩn . Vợ ông mất sớm để lại hai thằng con trai nhưng vừa lớn lên chưa kịp cưới vợ cho chúng thì cả hai đã bỏ nhà đi theo Việt công , còn lại một mình nên lão buồn đời cứ dạo quanh xóm , hễ nhà ai có động dao động thớt , giỗ quải hay thôi nôi đầy tháng , dù không được mời nhưng ông cũng tới dự . Bà con quanh vùng riết rồi biết quá nên cũng coi như chuyện bình thường , có đám có tiệc mà vắng bóng Tư Hàng xóm thì mới là chuyện lạ , đáng ngạc nhiên .

Ở đất Cái Trăm này , người ta kính nễ ông Ba Bụng bao nhiêu thì lại e sợ Tư Hàng Xóm bấy nhiêu . Nễ Ba Bụng dĩ nhiên cũng vì cái kiến thức uyên bác cộng thêm bản tánh hề hà dễ thân thiện của ông , còn đối với Tư Hàng Xóm thì có lẽ một phần là người ta e dè cái bản tính nhỏ nhen ích kỷ , một phần nữa cũng vì chung quanh cuộc đời huyền bí của ông còn có nhiều giai thoại ma quái rùng rợn khiến cho mọi người ai ai cũng phải sợ .

Vợ mất , con bỏ nhà đi nhưng hàng xóm chung quanh chẳng nghe ông nói đến chuyện tục huyền để mai này già yếu có người hủ hỉ hoặc cạo gió đấm lưng mỗi khi trái gió trở trời . Hỏi ông thì ông bảo rằng ông chỉ thích sống cô đơn để luyện một thứ bùa ngãi chi đó . Chẳng biết ông có luyện thành công phép tắt bùa ngãi gì hay không mà sau một thời gian dài đóng cửa cài then , theo từ ngữ của ông dùng là “bế quan tu đạo” thì người ta lại thấy ông xuất hiện . Ông trở lại cái cố tật la cà khắp xóm như trước , nhưng lần này thì lại tỏ ra đạo mạo , vận toàn đồ màu trắng , để tóc để râu lại xưng mình chính là con nhà Trời xuống thế gian để cứu độ chúng sanh . Ông còn bật mí cho bà con làng xóm biết là ông phải trở lại đóng cửa tư gia một lần nữa để luyện thêm phép tàng hình , tức là biết hô hiện hô biến , như Thần Tiên thứ thiệt . Ông còn tuyên bố chắc như bắp là đến khi nào phép tắc viên mãn thì sẽ vân du thiên hạ mà cứu nhân độ thế .

Nghe ông Tư tuyên bố rùm trời như vậy , cộng thêm cái dáng vẻ ốm ốm cao cao , tóc để dài bới một cục đàng sau như cái củ tỏi lại thêm chòm râu dê lưa thưa dưới cằm , tiên phong đạo cốt quá rồi còn gì . Thế là hàng xóm xa gần mà đa số điều là những người còn trầm mê trong hủ tục lỗi thời có đâu từ ngàn đời còn tồn lại là dị đoan mê tín , họ lại tỏ ra khiếp sợ coi ông ta như người của cõi trên . Ông là thầy Pháp hay thầy phù thủy hoặc thầy bùa ? Chẳng biết ông là loại thầy nào cho nên người ta cứ gọi chung chung là thầy Tư cho gọn , ai muốn hiểu là thầy gì cũng được . Miễng sao thầy có phép thần thông chỉ vẽ một lá bùa ngoằn ngoèo mang về đốt ra tro pha với nước uống vô là trị tiêu bá bệnh , kể cả thất tình !

Trong làng chỉ riêng có ông Ba Bụng là chẳng tin vào những thứ thần thánh gạt người này cho nên ông không coi Tư Hàng Xóm vào đâu cả , ông cho rằng cái thằng cha này chết vợ , ở không lâu quá rồi đâm ra ba trợn nói năng khoát loát . Bằng chứng mà ông có được là một thời gian dài bỏ công để theo dõi thầy Tư , để coi ông ta học những thứ phù phép gì mà to mồm lớn mép , tuyên bố rùm trời như vậy . Tuy biết rõ cái tẩy của thầy Tư nhưng vì tình nghĩa lối xóm , cộng thêm chuyện làm thầy của ổng chẳng có dính dáng gì tới mình cho nên Ba Bụng biết mà vẫn làm thinh . Làm thinh để coi thầy Tư làm sao mà cứu nhân độ thế với cái vốn liếng tu tập tạp nham ba mớ gần như trống rỗng của ông .

Cho nên bửa nay nghe Bảy Tôn Tẩn kể là Ba Địa nổi dóa xách búa hùng hổ như muốn chém bà Năm Thìn , chém luôn cả thằng cha Thầy Tư nữa thì ông Ba Bụng khoái quá cười run cả cái đầu tóc bạc phơ . Cái thằng thiệt là ngang tàng hết chỗ nói , cả làng này ai cũng coi thầy Tư như người tới từ cõi trên vậy mà nó dám xúc phạm tới thầy . Tội báng bổ thánh thần này chắc truyền ra cả làng thiên hạ ai nấy điều lắc đầu le lưỡi mà sợ dùm cho nó . Nhưng ai lắc đầu thì lắc đầu , ai le lưỡi thì le lưỡi chớ trong đầu của Ba Bụng thì khoái chí lắm . Phải có những thằng ngang tàng không sợ trời sợ đất như Ba Địa thì cái thằng thầy Tư đó mới có ngày lộ nguyên chân tướng giả mạo của mình . Tự dưng Ba Bụng lại đâm ra khoái cái thằng du côn ngang ngược mang tên Ba Địa này .

Tiếng của Bảy Tôn Tẩn như kể lể :

- Nghe vợ của tôi kể lại thì hình như ông ta luyện được một loại phù phép bàng môn tả đạo nào đó , cái gì là Thiên linh cái thiên linh đực chi đó hổng biết . Mà ba cái này nghe nói mất âm đức lắm có phải hông ông già ?

Ba Bụng lắc lắc cái đầu trả lời :

- Theo như tao biết thì thằng chả có luyện một pháp môn , cái đó gọi là Thiên linh chuối !

Bảy Tôn Tẩn và Hai Tiến đồng cười ngất . Anh Bảy hỏi :

- Thiên linh chuối là cái giống gì hả ông già ?

Ba Bụng một tay mân mê tờ giấy quyến một tay cho vào bọc xé xé mớ thuốc gò rồi nhúm một nhúm cho vào tờ giấy . Ông vừa se se điếu thuốc vừa cắt nghĩa :

- Thiên linh cái thì luyện bằng cái thai nhi hoặc rùng rợn hơn là cái đầu của một trinh nữ mới chết . Luyện ba thứ này công phu đòi hỏi rất phức tạp , cỡ tay mơ như thằng cha Tư Hàng xóm mần sao mà luyện nổi . Thẳng chỉ luyện thiên linh chuối thôi . Chuối ở đây tức là cây chuối hột mà tụi bây thường thấy người ta hay trồng ở mấy bờ ranh vườn đó .

Hai Tiến ngạc nhiên đến độ cái miệng há hốc , hắn mới hỏi :

-     Cây chuối hột rồi mần sao mà luyện phép hả Bác Ba ? Mà thiên linh chuối nếu luyện được thì để làm cái gì chớ .

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro